vi
stringlengths
846
10.5k
en
stringlengths
799
10.5k
Hướng dẫn TRƯỜNG THPT CHUYÊNLÊ KHIẾT ĐỀ THI ĐỀ XUẤT NĂM HỌC 2017 – 2018 ĐỀ THI MÔN: NGỮ VĂN LỚP 10 Thời gian 180 phút (không kể thời gian giao đề) Ngày thi: 14/04/2018 Câu 1 (8,0 điểm): Sống là biết làm những điều để mình không bao giờ chết. Anh/chị suy nghĩ gì về điều này? Câu 2 (12,0 điểm): M.Gorki cho rằng: “Văn học hiểu được bản thân mình, nâng cao niềm tin vào bản thân mình và làm nảy nở ở con người khát vọng hướng tới chân lý”. Bằng trải nghiệm văn học, qua một số tác phẩm Văn học trung đại Việt Nam trong chương trình Ngữ văn 10, anh/chị hãy lý giải. —————-HẾT—————- (Thí sinh không được sử dụng tài liệu. Cán bộ coi thi không giải thích gì thêm) Họ tên học sinh………………………..………..Số báo danh………………………….. GV ra đề: Trần Thu Hà. TRƯỜNG THPT CHUYÊNLÊ KHIẾT ĐỀ THI ĐỀ XUẤT DUYÊN HẢI VÀ ĐỒNG BẰNG BẮC BỘ NĂM HỌC 2017 – 2018 ĐÁP ÁN MÔN: NGỮ VĂN LỚP 10 (Đáp án có 03 trang) Câu 1 (8.0 điểm): Kỹ năng – Nắm chắc kỹ năng làm bài văn nghị luận xã hội. – Biết vận dụng kiến thức thực tế hoặc sách vở phù hợp với nội dung nghị luận. – Bố cục rõ ràng, mạch lạc, lập luận chặt chẽ, dẫn chứng phong phú, văn phong có cảm xúc. Kiến thức – Vấn đề được nêu ra trong đề bài mang tính chất gợi mở, học sinh có thể chọn trình bày suy nghĩ theo cách riêng của mình. – Khuyến khích sự sáng tạo, cá tính của học sinh dựa trên lập luận xác thực, có tính thuyết phục. Giải thích – “Sống”: hiểu theo nghĩa hẹp chỉ đơn thuần là sự tồn tại về vật chất; hiểu theo nghĩa rộng thì ngoài sự tồn vật chất ấy, sống phải có ý nghĩa tích cực đối với sự phát triển chung của xã hội. – “Chết”: nghĩa hẹp là không còn khả năng sống; nghĩa rộng là dù còn hay không còn khả năng sống đều không có ý nghĩa. – “Biết làm những điều để mình không bao giờ chết”: có ý thức hướng đến việc những làm điều tốt đẹp, hữu ích cho con người, cho cuộc đời để được sống mãi trong kí ức của người khác và được xã hội tôn vinh kể cả khi không còn sống. Vậy, “không bao giờ chết” là tạo ra một đời sống khác – đời sống tinh thần bất tử trong lòng người. – Vấn đề đặt ra ở đây là đời sống thực sự của mỗi người trong cuộc đời ngắn hay dài tùy thuộc vào những việc mà ta chọn làm khi còn sống. – Nếu hiểu một cách đơn giản “sống” chỉ là để tồn tại hoặc làm mọi cách chỉ để đạt được mục đích cá nhân thì con người đã “chết” ngay khi đang sống. Bởi lẽ, đó là quan niệm sống tiêu cực, ích kỉ, vô nghĩa, vô hình trung kéo lùi sự phát triển của xã hội. – Sự sống của mỗi người chỉ thực sự có ý nghĩa khi vừa biết làm đẹp cho cuộc sống cá nhân, vừa biết hướng đến những việc làm thiết thực mang lại lợi ích cho cộng đồng, xã hội. Nói cách khác, để mình “không bao giờ chết”, con người cần phải ý thức được trách nhiệm và sự cống hiến của bản thân trước cuộc đời. – Tuy nhiên “biết làm những điều để mình không bao giờ chết” là một thách thức không nhỏ đối với mỗi người. Vì vậy, chúng ta cần trau dồi tri thức, kỹ năng sống, xác định rõ mục tiêu sống, kiên định với lý tưởng của mình và dám hi sinh để thực hiện mục tiêu, lý tưởng đó. – Thực tế cho thấy, vẫn có những kẻ tưởng như “không bao giờ chết” vì những hành động điên rồ, tội lỗi đi ngược lại lợi ích chung của nhân loại. Nhưng đó là “sự sống” tai tiếng bị người đời phỉ nhổ, lên án còn kinh khủng hơn cả cái chết. Đây chắc chắn không phải là “sự sống” sau cái chết sinh học mà con người hướng đến, mong muốn. – Học sinh có thể lấy dẫn chứng phù hợp từ thực tế hoặc sách vở để bảo vệ suy nghĩ và lập luận của mình khi bàn luận vấn đề. – Không chấp nhận và lên án lối sống thụ động, ích kỉ, thủ đoạn để thỏa mãn nhu cầu cá nhân, dẫm đạp lên các giá trị đạo đức và đi ngược lại với lợi ích chung của cộng đồng, xã hội. – Suy nghĩ tích cực về trách nhiệm với bản thân với cộng đồng, xã hội bằng những việc làm cụ thể, có ý nghĩa; biết dấn thân và cống hiến khi có thể để làm cho cuộc sống ngày càng đáng yêu hơn, xã hội ngày càng phát triển tốt đẹp hơn. III. Biểu điểm – Điểm 7 – 8: Bài viết nắm chắc vấn đề, đáp ứng tốt những yêu cầu của kiểu bài nghị luận xã hội, có ý kiến sắc sảo, có kiến thức xã hội phong phú. – Điểm 5 – 6: Bài viết hiểu vấn đề, biết làm bài nghị luận xã hội, dẫn chứng sinh động, không mắc lỗi. – Điểm 3 – 4: Hiểu vấn đề nhưng lập luận chưa chặt chẽ, ý vẫn chưa sáng, còn vài lỗi về diễn đạt. – Điểm 1 – 2: Hiểu vấn đề lơ mơ, chưa làm rõ quan niệm, chưa chú ý minh hoạ bằng dẫn chứng cụ thể, diễn đạt còn nhiều lỗi. – Điểm 0: Không viết gì, hoặc lạc đề. Câu 2 (12.0 điểm): Yêu cầu về kĩ năng – Nắm vững kỹ năng làm bài nghị luận văn học. – Diễn đạt trong sáng, bố cục rõ ràng, kết cấu chặt chẽ. Yêu cầu về kiến thức Học sinh có thể trình bày theo những cách khác nhau. Về cơ bản, cần nêu được các ý sau: Giải thích, bàn luận – Văn học là một loại hình sáng tác tái hiện những vấn đề của cuộc sống, xã hội và con người bằng ngôn từ nghệ thuật và hình tượng nghệ thuật. Văn học chính là kết quả lao động sáng tạo nghệ thuật của nhà văn trong quá trình cảm nhận và phản ánh cuộc sống, xã hội, con người. Văn học luôn đòi hỏi nhà văn phải tìm tòi, sáng tạo nhưng không được phép thoát ly khỏi đời sống và mỗi một sáng tác phải là “tấm gương phản ánh hiện thực” bằng cái tâm trong sáng của người cầm bút. – “Văn học hiểu được bản thân mình, nâng cao niềm tin vào bản thân mình và làm nảy nở ở con người khát vọng hướng tới chân lý”: “văn học” xác định được vai trò và ý nghĩa sự có mặt của mình trước cuộc đời. Nói cách khác, nhà văn hiểu rõ mục đích sáng tác của mình là gì? Vì cái gì? Có ý nghĩa như thế nào? Sử dụng ngôn ngữ và xây dựng hình tượng nghệ thuật ra sao?… Chính điều đó làm cho những giá trị của văn học được khẳng định, được đón nhận và giúp con người hướng khát vọng của mình đến “chân lý” tức là hướng khát vọng của con người đến với những điều tốt đẹp nhất của cuộc sống. Tóm lại, văn học phải hướng đến cái đích cuối cùng của “Chân – Thiện – Mĩ”. – Phát biểu của M. Gorki muốn khẳng định rằng trong sáng tác văn học, nhà văn phải hiểu được mục đích sáng tác của mình, phải ngày càng tin tưởng hơn vào những giá trị mà mình mang lại và có khả năng khơi dậy mạnh mẽ khát vọng sống đẹp đẽ của con người thông qua tác phẩm. – Đúng như chính M. Gorki đã nói: “Văn học là nhân học”. Có thể hiểu, văn học trước hết phải là con người, hướng về con người và đến với văn học là đến với những giá trị nhân bản đích thực thuộc về con người, giúp con người hoàn thiện mình hơn. Muốn thế, nhà văn phải hiểu mình, phải đề cao sự sáng tạo của mình và tin rằng có thể làm thay đổi con người, thay đổi thế giới bằng những tác phẩm có tính nhân văn sâu sắc. – Học sinh chọn một số văn bản Văn học trung đại Việt Nam trong chương trình Ngữ văn 10 và biết cách khai thác phù hợp với nội dung vấn đề nghị luận. Đặc biệt, đánh giá cao những học sinh chọn được dẫn chứng đậm tính nhân văn tác động mạnh mẽ đến suy nghĩ, tình cảm của người đọc. – Ngoài ra, học sinh có thể sử dụng thêm dẫn chứng ngoài chương trình một cách hợp lý, có chiều sâu. – Phát biểu của M.Gorki ngắn gọn, súc tích nhưng đã đề cập được đến bản chất, đặc trưng, vai trò, mục đích… của văn học và ý thức, trách nhiệm, tâm huyết của nhà văn trong quá trình sáng tác văn học. – M. Gorki giúp người đọc biết trân trọng, nâng niu những tác phẩm văn học có giá trị thúc đẩy con người luôn “khát vọng hướng tới chân lý” của cuộc sống. III. Biểu điểm – Điểm 11 – 12: đáp ứng đầy đủ các yêu cầu trên, bài viết sâu sắc độc đáo, diễn đạt lưu loát, câu văn giàu hình ảnh, cảm xúc. – Điểm 8 – 10: Nội dung đầy đủ, có thể còn thiếu một vài ý nhỏ, bố cục rõ ràng, diễn đạt trôi chảy, câu văn có hình ảnh, cảm xúc. – Điểm 5 – 7: Bài làm còn thiếu ý. Văn chưa hay nhưng rõ ý. Mắc không quá 7 lỗi chính tả, dùng từ, viết câu. – Điểm 3 – 4: Trình bày ý còn sơ sài, kết cấu không rõ ràng, còn nhiều lỗi diễn đạt (quá 7 lỗi chính tả, từ, câu). – Điểm 1 – 2: Không hiểu đề, không có kĩ năng nghị luận, quá nhiều lỗi diễn đạt. – Điểm 0: Không viết gì, hoặc lạc đề.
Hướng dẫn TRƯỜNG THPT CHUYÊNLÊ KHIẾT ĐỀ THI ĐỀ XUẤT NĂM HỌC 2017 – 2018 ĐỀ THI MÔN: NGỮ VĂN LỚP 10 Thời gian 180 phút (không kể thời gian giao đề) Ngày thi: 14/04/2018 Câu 1 (8,0 điểm): Sống là biết làm những điều để mình không bao giờ chết. Anh/chị suy nghĩ gì về điều này? Câu 2 (12,0 điểm): M.Gorki cho rằng: “Văn học hiểu được bản thân mình, nâng cao niềm tin vào bản thân mình và làm nảy nở ở con người khát vọng hướng tới chân lý”. Bằng trải nghiệm văn học, qua một số tác phẩm Văn học trung đại Việt Nam trong chương trình Ngữ văn 10, anh/chị hãy lý giải. —————-HẾT—————- (Thí sinh không được sử dụng tài liệu. Cán bộ coi thi không giải thích gì thêm) Họ tên học sinh………………………..………..Số báo danh………………………….. GV ra đề: Trần Thu Hà. TRƯỜNG THPT CHUYÊNLÊ KHIẾT ĐỀ THI ĐỀ XUẤT DUYÊN HẢI VÀ ĐỒNG BẰNG BẮC BỘ NĂM HỌC 2017 – 2018 ĐÁP ÁN MÔN: NGỮ VĂN LỚP 10 (Đáp án có 03 trang) Câu 1 (8.0 điểm): Kỹ năng – Nắm chắc kỹ năng làm bài văn nghị luận xã hội. – Biết vận dụng kiến thức thực tế hoặc sách vở phù hợp với nội dung nghị luận. – Bố cục rõ ràng, mạch lạc, lập luận chặt chẽ, dẫn chứng phong phú, văn phong có cảm xúc. Kiến thức – Vấn đề được nêu ra trong đề bài mang tính chất gợi mở, học sinh có thể chọn trình bày suy nghĩ theo cách riêng của mình. – Khuyến khích sự sáng tạo, cá tính của học sinh dựa trên lập luận xác thực, có tính thuyết phục. Giải thích – “Sống”: hiểu theo nghĩa hẹp chỉ đơn thuần là sự tồn tại về vật chất; hiểu theo nghĩa rộng thì ngoài sự tồn vật chất ấy, sống phải có ý nghĩa tích cực đối với sự phát triển chung của xã hội. – “Chết”: nghĩa hẹp là không còn khả năng sống; nghĩa rộng là dù còn hay không còn khả năng sống đều không có ý nghĩa. – “Biết làm những điều để mình không bao giờ chết”: có ý thức hướng đến việc những làm điều tốt đẹp, hữu ích cho con người, cho cuộc đời để được sống mãi trong kí ức của người khác và được xã hội tôn vinh kể cả khi không còn sống. Vậy, “không bao giờ chết” là tạo ra một đời sống khác – đời sống tinh thần bất tử trong lòng người. – Vấn đề đặt ra ở đây là đời sống thực sự của mỗi người trong cuộc đời ngắn hay dài tùy thuộc vào những việc mà ta chọn làm khi còn sống. – Nếu hiểu một cách đơn giản “sống” chỉ là để tồn tại hoặc làm mọi cách chỉ để đạt được mục đích cá nhân thì con người đã “chết” ngay khi đang sống. Bởi lẽ, đó là quan niệm sống tiêu cực, ích kỉ, vô nghĩa, vô hình trung kéo lùi sự phát triển của xã hội. – Sự sống của mỗi người chỉ thực sự có ý nghĩa khi vừa biết làm đẹp cho cuộc sống cá nhân, vừa biết hướng đến những việc làm thiết thực mang lại lợi ích cho cộng đồng, xã hội. Nói cách khác, để mình “không bao giờ chết”, con người cần phải ý thức được trách nhiệm và sự cống hiến của bản thân trước cuộc đời. – Tuy nhiên “biết làm những điều để mình không bao giờ chết” là một thách thức không nhỏ đối với mỗi người. Vì vậy, chúng ta cần trau dồi tri thức, kỹ năng sống, xác định rõ mục tiêu sống, kiên định với lý tưởng của mình và dám hi sinh để thực hiện mục tiêu, lý tưởng đó. – Thực tế cho thấy, vẫn có những kẻ tưởng như “không bao giờ chết” vì những hành động điên rồ, tội lỗi đi ngược lại lợi ích chung của nhân loại. Nhưng đó là “sự sống” tai tiếng bị người đời phỉ nhổ, lên án còn kinh khủng hơn cả cái chết. Đây chắc chắn không phải là “sự sống” sau cái chết sinh học mà con người hướng đến, mong muốn. – Học sinh có thể lấy dẫn chứng phù hợp từ thực tế hoặc sách vở để bảo vệ suy nghĩ và lập luận của mình khi bàn luận vấn đề. – Không chấp nhận và lên án lối sống thụ động, ích kỉ, thủ đoạn để thỏa mãn nhu cầu cá nhân, dẫm đạp lên các giá trị đạo đức và đi ngược lại với lợi ích chung của cộng đồng, xã hội. – Suy nghĩ tích cực về trách nhiệm với bản thân với cộng đồng, xã hội bằng những việc làm cụ thể, có ý nghĩa; biết dấn thân và cống hiến khi có thể để làm cho cuộc sống ngày càng đáng yêu hơn, xã hội ngày càng phát triển tốt đẹp hơn. III. Biểu điểm – Điểm 7 – 8: Bài viết nắm chắc vấn đề, đáp ứng tốt những yêu cầu của kiểu bài nghị luận xã hội, có ý kiến sắc sảo, có kiến thức xã hội phong phú. – Điểm 5 – 6: Bài viết hiểu vấn đề, biết làm bài nghị luận xã hội, dẫn chứng sinh động, không mắc lỗi. – Điểm 3 – 4: Hiểu vấn đề nhưng lập luận chưa chặt chẽ, ý vẫn chưa sáng, còn vài lỗi về diễn đạt. – Điểm 1 – 2: Hiểu vấn đề lơ mơ, chưa làm rõ quan niệm, chưa chú ý minh hoạ bằng dẫn chứng cụ thể, diễn đạt còn nhiều lỗi. – Điểm 0: Không viết gì, hoặc lạc đề. Câu 2 (12.0 điểm): Yêu cầu về kĩ năng – Nắm vững kỹ năng làm bài nghị luận văn học. – Diễn đạt trong sáng, bố cục rõ ràng, kết cấu chặt chẽ. Yêu cầu về kiến thức Học sinh có thể trình bày theo những cách khác nhau. Về cơ bản, cần nêu được các ý sau: Giải thích, bàn luận – Văn học là một loại hình sáng tác tái hiện những vấn đề của cuộc sống, xã hội và con người bằng ngôn từ nghệ thuật và hình tượng nghệ thuật. Văn học chính là kết quả lao động sáng tạo nghệ thuật của nhà văn trong quá trình cảm nhận và phản ánh cuộc sống, xã hội, con người. Văn học luôn đòi hỏi nhà văn phải tìm tòi, sáng tạo nhưng không được phép thoát ly khỏi đời sống và mỗi một sáng tác phải là “tấm gương phản ánh hiện thực” bằng cái tâm trong sáng của người cầm bút. – “Văn học hiểu được bản thân mình, nâng cao niềm tin vào bản thân mình và làm nảy nở ở con người khát vọng hướng tới chân lý”: “văn học” xác định được vai trò và ý nghĩa sự có mặt của mình trước cuộc đời. Nói cách khác, nhà văn hiểu rõ mục đích sáng tác của mình là gì? Vì cái gì? Có ý nghĩa như thế nào? Sử dụng ngôn ngữ và xây dựng hình tượng nghệ thuật ra sao?… Chính điều đó làm cho những giá trị của văn học được khẳng định, được đón nhận và giúp con người hướng khát vọng của mình đến “chân lý” tức là hướng khát vọng của con người đến với những điều tốt đẹp nhất của cuộc sống. Tóm lại, văn học phải hướng đến cái đích cuối cùng của “Chân – Thiện – Mĩ”. – Phát biểu của M. Gorki muốn khẳng định rằng trong sáng tác văn học, nhà văn phải hiểu được mục đích sáng tác của mình, phải ngày càng tin tưởng hơn vào những giá trị mà mình mang lại và có khả năng khơi dậy mạnh mẽ khát vọng sống đẹp đẽ của con người thông qua tác phẩm. – Đúng như chính M. Gorki đã nói: “Văn học là nhân học”. Có thể hiểu, văn học trước hết phải là con người, hướng về con người và đến với văn học là đến với những giá trị nhân bản đích thực thuộc về con người, giúp con người hoàn thiện mình hơn. Muốn thế, nhà văn phải hiểu mình, phải đề cao sự sáng tạo của mình và tin rằng có thể làm thay đổi con người, thay đổi thế giới bằng những tác phẩm có tính nhân văn sâu sắc. – Học sinh chọn một số văn bản Văn học trung đại Việt Nam trong chương trình Ngữ văn 10 và biết cách khai thác phù hợp với nội dung vấn đề nghị luận. Đặc biệt, đánh giá cao những học sinh chọn được dẫn chứng đậm tính nhân văn tác động mạnh mẽ đến suy nghĩ, tình cảm của người đọc. – Ngoài ra, học sinh có thể sử dụng thêm dẫn chứng ngoài chương trình một cách hợp lý, có chiều sâu. – Phát biểu của M.Gorki ngắn gọn, súc tích nhưng đã đề cập được đến bản chất, đặc trưng, vai trò, mục đích… của văn học và ý thức, trách nhiệm, tâm huyết của nhà văn trong quá trình sáng tác văn học. – M. Gorki giúp người đọc biết trân trọng, nâng niu những tác phẩm văn học có giá trị thúc đẩy con người luôn “khát vọng hướng tới chân lý” của cuộc sống. III. Biểu điểm – Điểm 11 – 12: đáp ứng đầy đủ các yêu cầu trên, bài viết sâu sắc độc đáo, diễn đạt lưu loát, câu văn giàu hình ảnh, cảm xúc. – Điểm 8 – 10: Nội dung đầy đủ, có thể còn thiếu một vài ý nhỏ, bố cục rõ ràng, diễn đạt trôi chảy, câu văn có hình ảnh, cảm xúc. – Điểm 5 – 7: Bài làm còn thiếu ý. Văn chưa hay nhưng rõ ý. Mắc không quá 7 lỗi chính tả, dùng từ, viết câu. – Điểm 3 – 4: Trình bày ý còn sơ sài, kết cấu không rõ ràng, còn nhiều lỗi diễn đạt (quá 7 lỗi chính tả, từ, câu). – Điểm 1 – 2: Không hiểu đề, không có kĩ năng nghị luận, quá nhiều lỗi diễn đạt. – Điểm 0: Không viết gì, hoặc lạc đề.
Hướng dẫn (Đề thi gồm 01 trang) ĐỒNG BẰNG BẮC BỘ LẦN THỨ XI, NĂM HỌC 2017 – 2018 ĐỀ THI MÔN: NGỮ VĂN 10 Thời gian: 180 phút (Không kể thời gian giao đề) Ngày thi: 14/4/2018 Câu 1(8 điểm) Người lạc quan thấy cái bánh tròn, kẻ bi quan thấy cái lỗ (Oscar Wilde) Suy nghĩ của anh/chị về ý kiến trên. Câu 2(12 điểm) Nguyễn Du- nghệ sĩ suốt đời băn khoăn, day dứt về số phận con người. ————– HẾT ————– Thí sinh không được sử dụng tài liệu. Cán bộ coi thi không giải thích gì thêm Họ và tên thí sinh: …..……………………. Số báo danh:.…………………… HƯỚNG DẪN CHẤM MÔN: NGỮ VĂN 10 (8 đ) 1. Nêu được vấn đề cần nghị luận 1.0 – Câu nói đề cập đến hai cách nhìn khác nhau sẽ có những kết quả khác nhau + Người lạc quan là người có thái độ sống điềm tĩnh, an nhiên trước những tình huống, sự việc; luôn thấy niềm vui, nhẹ nhàng trong cuộc sống qua hình ảnh cái bánh tròn. + Người bi quan: là người có xu hướng tiêu cực, không tự tin vào bản thân, dễ bị động, luôn thấy khó khăn sợ gặp trở ngại, khó thành công, … – Cùng một vấn đề (cùng một sự vật, hiện tượng) nhưng có cách nhìn, đánh giá khác nhau thì kết quả sẽ khác nhau. Người lạc quan sẽ luôn đơn giản hóa vấn đề, luôn tin tưởng kết quả tốt đẹp ở phía trước. Còn với người bi quan thì mọi sự vật, hiện tượng đều không trở nên tốt đẹp, hấp dẫn, nhìn mọi sự việc trên đời như một màu đen tối. Trong cuộc sống, con người cần có thái độ lạc quan. – Sống lạc quan, suy nghĩ tích cực không để bi quan, yếm thế “điều hành” cuộc sồng của mình,… (12 đ) 1. Giải thích: – Về số phận con người: + Con người là đối tượng trung tâm để nhà văn khám phá, thể hiện của văn học mọi thời đại, Nguyễn Du cũng như vậy- ngòi bút của ông cũng tập trung vào con người nhất là con người tài hoa bạc mệnh. + Con người trong tác phẩm văn học được miêu tả sinh động, toàn vẹn ở nhiều phương diện: ngoại hình, hành động, ngôn ngữ, tính cách…trong đó đặc biệt là số phận. Số phận con người luôn là mối quan tâm hàng đầu của những người cầm bút. + Số phận là giới hạn dành cho con người, cái kết thúc của nhân vật. Số phận phần lớn do con người quyết định (tính tất yếu), song còn vô vàn những ngẫu nhiên, bất ngờ đầy nghịch lý. Số phận vì vậy luôn là những bí ẩn, trở thành nguồn cảm hứng trong sáng tạo nghệ thuật. Trong sáng tác của Nguyễn Du, số phận con người nhuốm màu sắc định mệnh. – Tại sao Nguyễn Du luôn băn khoăn, day dứt về số phận con người: + Xã hội, thời đại của Nguyễn Du đầy rẫy những bất công ngang trái, với “Những điều trông thấy” (con người nói chung) và bản thân Nguyễn Du cũng là một điển hình cho số phận: từ cuộc sống trong nhung lụa rơi xuống địa vị bất hạnh nhất. + Điều này thể hiện qua sáng tác đầu tay đến sáng tác cuối cùng, qua tác phẩm bằng chữ Hán và chữ Nôm, viết về “Những điều trông thấy” trên đất nước mình hay trên đất khách. + Quan tâm đến số phận con người là thiên chức của nghệ sĩ nói chung và của nghệ sĩ hàng đầu như Nguyễn Du, nếu không vì điều này nghệ sĩ sinh ra để làm gì? + Số phận con người là vấn đề muôn thuở và nan giải; băn khoăn, day dứt nhưng lại bế tắc vì vậy suốt đời Nguyễn Du luôn đặt ra rất nhiều câu hỏi, nỗ lực để tìm câu trả lời. 2. Chứng minh: dẫn chứng minh họa thí sinh có thể linh hoạt lựa chọn cho tiêu biểu và phù hợp (Có thể kết hợp vừa giải thích vừa chứng minh). 3. Bàn luận: + Đây là một trong những lý do để Nguyễn Du được vinh danh là danh nhân văn hóa nhân loại. + Nghệ sĩ chân chính luôn sống gần gũi với nhân dân, đứng về những người bất hạnh. + Băn khoăn, day dứt về số phận con người là cốt lõi tạo nên giá trị nhân văn của tác phẩm. 1.0 1.0 1.0 1.0 1.0 1.0 1.0
Instruct (Exam includes 01 page) NORTHERN DELTA ELEVENTH TIME, SCHOOL YEAR 2017 - 2018 EXAM SUBJECT: LANGUAGE 10 Time: 180 minutes (Excluding exam time) Exam date: April 14, 2018 Question 1 (8 points) The optimist sees a round cake, the pessimist sees a hole (Oscar Wilde) What are your thoughts on the above opinion? Question 2 (12 points) Nguyen Du - an artist who spent his whole life wondering and tormenting about human fate. ----- RUN OUT OF ----- Candidates may not use the document. The exam invigilator did not explain further Candidate's full name: …..……………………. Identification number:.…………………… MARKING INSTRUCTIONS SUBJECT: LANGUAGE 10 (8 pts) 1. State the issue that needs to be discussed 1.0 – The saying refers to two different perspectives that will have different results + An optimist is someone who has a calm and peaceful attitude toward situations and events; Always see joy and lightness in life through the image of a round cake. + Pessimistic person: is a person who has negative tendencies, is not confident in himself, is easily passive, always sees difficulties and is afraid of encountering obstacles, has difficulty succeeding,... – The same problem (same thing, phenomenon) but with different views and assessments, the results will be different. Optimists will always simplify problems and always believe in good results ahead. As for pessimists, all things and phenomena do not become good or attractive, seeing everything in the world as dark. In life, people need to have an optimistic attitude. – Live optimistically, think positively, don't let pessimism or cynicism "run" your life,... (12 pt) 1. Explanation: – About human fate: + People are the central object for writers to explore and express in literature of all times, Nguyen Du is the same - his pen also focuses on people, especially talented and ill-fated people. + People in literary works are described vividly and completely in many aspects: appearance, actions, language, personality... especially fate. Human fate is always the top concern of writers. + Fate is the limit for humans, the end of the character. Fate is largely determined by humans (inevitability), but there are also countless paradoxical coincidences and surprises. Fate is therefore always a mystery, becoming a source of inspiration in artistic creation. In Nguyen Du's works, human fate is tinged with destiny. – Why is Nguyen Du always worried and tormented about human fate: + Society and Nguyen Du's era were full of unfair injustices, with "Sightings" (people in general) and Nguyen Du himself also being a typical example of fate: from a life of luxury and luxury. fell into the most unfortunate position. + This is shown through the first and last compositions, through works in Chinese and Nom, written about "Things seen" in one's own country or in foreign lands. + Caring about human destiny is the vocation of artists in general and of leading artists like Nguyen Du. If not for this, what are artists born for? + Human fate is an eternal and difficult problem; worried, tormented but stuck, so throughout his life Nguyen Du always asked many questions and tried to find answers. 2. Proof: illustrative evidence candidates can flexibly choose to be typical and appropriate (Can combine both explanation and proof). 3. Discussion: + This is one of the reasons why Nguyen Du was honored as a human cultural celebrity. + True artists always live close to the people, standing on the side of the unfortunate. + Concern and torment about human fate are the core of creating the humanistic value of the work. 1.0 1.0 1.0 1.0 1.0 1.0 1.0
Hướng dẫn TRƯỜNG THPT CHUYÊN ĐHSP ĐỀ NGUỒN DUYÊN HẢI ĐỒNG BẰNG BẮC BỘ 2018 Môn: NGỮ VĂN LỚP 10 Thời gian: 180 phút (không kể thời gian giao đề) Câu 1. (8 điểm) Bàn tay người quét rác Con trai người quét rác đỗ thủ khoa trong kì thi tuyển sinh vào đại học. Phóng viên truyền hình tìm đến phỏng vấn người mẹ về bí quyết nuôi dạy con. Chị công nhân quét rác trả lời ngắn gọn: “Bí quyết của tôi là mỗi ngày nắm tay con ít nhất một lần”. Nói rồi chị chìa bàn tay phồng rộp về phía ống kính máy ghi hình. (Truyện ngắn Nguyễn Bích Lan – Tuổi trẻ online) Từ câu chuyện trên hãy viết một bài văn bàn về ý nghĩa của cái nắm tay trong cuộc sống Câu 2. (12 điểm) “Không có một thứ nghề nào mà kết quả công việc lại có thể cắt nghĩa rõ rệt chân giá trị của người làm ra nó như nghề viết văn”. (Nguyễn Minh Châu) Bình luận ý kiến trên. Giáo viên ra đề Nguyễn Bích Thảo TRƯỜNG THPT CHUYÊN KHU VỰC DHBB NĂM 2018 MÔN NGỮ VĂN – KHỐI 10 Câu 1: (8 điểm) Yêu cầu chung: – Câu này kiểm tra năng lực viết bài nghị luận xã hội của học sinh, đòi hỏi học sinh phải huy động những kiến thức về đời sống xã hội và khả năng bày tỏ suy nghĩ của mình để làm bài. – Học sinh có thể làm bài theo nhiều cách khác nhau, nhưng phải có lí lẽ và căn cứ xác đáng; được tự do bày tỏ suy nghĩ, quan điểm, thái độ của mình. Yêu cầu cụ thể: – Thay lời yêu thương – Thay lời tin tưởng – Thay lời động viên, an ủi khi buồn, ngã lòng, thất bại – Thay lời tiếp sức, truyền thêm sức mạnh … Hãy cảm nhận những điều vô giá từ những cái nắm tay Hãy nắm tay người bạn yêu thương mỗi ngày Câu 2:(12 điểm) Yêu cầu về kĩ năng: – Hiểu yêu cầu của đề, trên cơ sở những kiến thức về lý luận văn học và tác phẩm, biết cách làm bài văn nghị luận bàn về một ý kiến văn học. Biết cách giải thích, chứng minh, đánh giá, khái quát làm rõ ý kiến văn học; có năng lực cảm thụ phân tích bài thơ theo yêu cầu. – Bố cục rõ ràng, lập luận chặt chẽ, hành văn trôi chảy. Văn viết có cảm xúc, không mắc các lỗi diễn đạt, dùng từ, ngữ pháp, chính tả. Yêu cầu về kiến thức: Cơ sở của quan niệm này là một mệnh đề lí luận cơ bản: “Văn học là nhân học” – Tấm lòng đối với con người, cái tâm đối với cuộc đời. – Tài năng của một người cầm bút trước thử thách của công việc lao động chữ nghĩa đầy nhọc nhằn, gian truân. – Bản lĩnh trước áp lực bẻ cong ngòi bút
Instruct HIGH SCHOOL FOR SPECIALIZED pedagogical university SOURCE TITLE NORTHERN DELTA COAST 2018 Subject: GRADE 10 LANGUAGE Time: 180 minutes (excluding exam time) Question 1. (8 points) Sweeper's hand The son of a garbage man was valedictorian in the university entrance exam. A television reporter came to interview the mother about her secret to raising children. The garbage worker answered briefly: "My secret is to hold my child's hand at least once a day." After saying that, she held out her blistered hand towards the camera lens. (Nguyen Bich Lan's short story - Youth online) From the above story, write an essay discussing the meaning of holding hands in life Question 2. (12 points) "There is no profession whose work results can clearly explain the true value of the person who does it like writing." (Nguyen Minh Chau) Comment on the above comments. The teacher sets the topic Nguyen Bich Thao SPECIALIZED HIGH SCHOOL DHBB AREA IN 2018 LANGUAGE SUBJECT – GRADE 10 Question 1: (8 points) General requirements: – This question tests students' ability to write social argumentative essays, requiring students to mobilize knowledge about social life and the ability to express their thoughts to write the essay. – Students can do the test in many different ways, but there must be reasonable arguments and grounds; be free to express your thoughts, opinions, and attitudes. Specific requirements: – Instead of words of love – Change words of trust – Replace words of encouragement and comfort when sad, discouraged, or defeated – Instead of giving words of support and giving more strength … Feel the priceless things from holding hands Hold the hand of the person you love every day Question 2: (12 points) Skill requirements: – Understand the requirements of the topic, based on knowledge of literary theory and works, know how to write an essay discussing a literary opinion. Know how to explain, prove, evaluate, generalize and clarify literary opinions; Have the ability to perceive and analyze poems as required. – Clear layout, strong arguments, fluent writing. The writing is emotional, without errors in expression, word usage, grammar, or spelling. Knowledge requirements: The basis of this concept is a basic theoretical proposition: "Literature is anthropology" – Heart towards people, mind towards life. – The talent of a writer facing the challenge of hard and arduous literary work. – Bravery under pressure to bend pen nibs
Hướng dẫn TRƯỜNG THPT CHUYÊN VĨNH PHÚC KHỐI 10- MÔN NGỮ VĂN NĂM HỌC 2017 – 2018 Câu 1: (8,0 điểm) Chuyện nàng Violet Trong vườn nọ, có một bông hoa Viiolet xinh xắn, luôn tỏa ngát hương thơm. Nàng sống hạnh phúc cùng với những người bạn láng giềng. Một ngày nọ, ngắm nhìn chị Hoa Hồng kiêu sa với sắc đẹp rực rỡ làm sáng cả khu vườn, nàng Violet chợt nhận thấy mình thật nhỏ bé. Nàng than thở: “So với chị Hoa Hồng may mắn kia, mình chẳng là gì cả. Giá như mình được làm Hoa Hồng một lần trong đời nhỉ, một lần thôi để không phải nằm sát mặt đất thế này, mình cũng mãn nguyện lắm rồi”. Có một bà tiên tình cờ biết được sự tình bèn hỏi bông hoa bé nhỏ: – Chuyện gì xảy ra với con vậy? Nàng Violet cất giọng tha thiết: – Con biết bà luôn nhân từ và đầy lòng yêu thương. Con cầu xin bà hãy biến con thành Hoa Hồng! Bà tiên chăm chú nhìn bông hoa: – Con có biết đang đòi hỏi điều gì không? Một ngày nào đó con sẽ hối hận đấy! Nhưng Violet vẫn một mực nài nỉ. Động lòng trước khao khát của nàng, cuối cùng bà tiên đồng ý. Bà chạm ngón tay thần kì của mình vào thân Violet và ngay lập tức Violet biến thành một cây hoa hồng xinh tươi, kiêu hãnh, vươn cao với những bông hoa đỏ rực trên cành. Một hôm, Giông Bão đi qua khu vườn, giật gãy các nhánh cây, làm bật gốc cả những cây cao to. Cả khu vườn bị vùi dập tơi tả trong gió bão, trừ những loài hoa nhỏ bé nằm sát mặt đất như Violet. Bão tan, bầu trời lại trong xanh. Các nàng Violet vẫy cành hoa tím, vui đùa bên nhau. Một nàng nhìn Hoa Hồng – là Violet ngày nào – thương xót: – Các bạn nhìn kìa, cô ấy đang phải trả giá cho mong muốn nhất thời của mình đấy! […] (Trích “Những câu chuyện hay và ý nghĩa về cuộc sống” – CongsonArena) Anh/chị suy nghĩ như thế nào về sự lựa chọn của bông hoa Violet? Câu 2: (12,0 điểm) “Thơ ra đời cốt để nói những điều tinh vi nhất, sâu kín nhất, mong manh nhất, mơ hồ nhất của tâm hồn con người” (Nguyễn Đăng Mạnh). Anh/chị hiểu như thế nào về nhận định trên? Hãy phân tích một vài bài thơ trong chương trình Ngữ văn 10 nâng cao để làm sáng tỏ. ——–Hết——– Thí sinh không được sử dụng tài liệu. Cán bộ coi thi không giải thích gì thêm. Họ và tên thí sinh:……………………………………. Số báo danh:………………………………… HƯỚNG DẪN CHẤM (04 trang) YÊU CẦU CHUNG – Giám khảo cần nắm được nội dung trình bày trong bài làm của thí sinh, tránh đếm ý cho điểm. Vận dụng linh hoạt hướng dẫn chấm, sử dụng nhiều mức điểm một cách hợp lí, khuyến khích những bài viết có cảm xúc, sáng tạo. – Học sinh có thể làm bài theo nhiều cách nhưng nếu đáp ứng những yêu cầu cơ bản của đề, diễn đạt tốt vẫn cho điểm tối đa. – Điểm bài thi làm tròn đến 0,25 điểm. YÊU CẦU CỤ THỂ Câu 1 (8,0 điểm) – Biết cách làm bài văn nghị luận xã hội, bố cục rõ ràng, lập luận chặt chẽ, vận dụng tốt các thao tác lập luận, dẫn chứng tiêu biểu, chọn lọc. – Bài viết trong sáng, mạch lạc, không mắc lỗi chính tả, dùng từ, ngữ pháp. – Học sinh có thể bày tỏ những suy nghĩ khác nhau, nhưng cần đảm bảo các ý cơ bản sau: – Bông hoa Violet đã ao ước được làm Hoa Hồng một lần trong đời, kiêu hãnh, rực rỡ để không phải nằm sát mặt đất, sống nhỏ bé, âm thầm. – Đây là sự lựa chọn dũng cảm vì Violet đã chấp nhận đánh đổi cuộc sống yên ổn hiện tại để có những khoảnh khắc tỏa sáng rực rỡ, sống với mơ ước, khát vọng mãnh liệt nhất của bản thân, cho dù chấp nhận phải trả giá. * Nội dung, ý nghĩa của câu chuyện: Câu chuyện nhắn nhủ tới chúng ta một thông điệp sâu sắc về cách sống: Hãy sống thật cháy sáng, thật mãnh liệt với tất cả mơ ước, khát vọng của mình. 0,5 0,5 0,5 – Khi dám vượt ra khỏi cuộc sống tẻ nhạt, tầm thường để theo đuổi đam mê, khát vọng của bản thân, mỗi con người sẽ có được những trải nghiệm thú vị, sẽ thấy cuộc đời mình phong phú đáng sống, sẽ cảm thấy mỗi giây phút mà mình sống thật có ý nghĩa và thật quý giá. Từ đó chúng ta có thể đóng góp thật nhiều cho cuộc đời.. – Sống đẹp, sống có ý nghĩa, sống cháy sáng thì dù chỉ sống trong một thời gian ngắn còn đáng quý hơn ngàn lần cuộc sống “buồn le lói suốt trăm năm”. 1,0 0,5 – Lựa chọn sống tỏa sáng đòi hỏi mỗi con người phải không ngừng rèn luyện, sáng tạo, nung nấu ý chí, hoài bão, nhiệt huyết và lòng dũng cảm. – Không chấp nhận lối sống nhàn nhạt “lờ mờ, lẹt đẹt, luộm thuộm” (chữ của Nguyễn Tuân) vô nghĩa trong suốt đời người, chính là thái độ sống đẹp của con người có khát vọng lớn lao. – Phê phán lối sống gấp, vị kỉ hưởng lạc chỉ biết ngày nay mà không biết ngày mai… 0,5 0,5 0,5 Câu 2 (12,0 điểm) YÊU CẦU CHUNG Học sinh có thể diễn đạt, trình bày theo những cách khác nhau, song cần thể hiện được những nội dung chính sau. – Cách nói: “thơ ra đời cốt” nhằm nhấn mạnh, coi trọng nhiệm vụ trước tiên, sứ mệnh riêng của thơ ca. Thơ ca không chỉ phản ánh hiện thực cuộc sống bề ngoài như tác phẩm kịch, tự sự mà còn hướng vào khám phá, diễn tả tất cả những cung bậc, sắc thái phức tạp, bí ẩn mà cũng rất kỳ diệu của thế giới tâm hồn con người. – Cụm từ: “những điều tinh vi nhất, sâu kín nhất, mong manh nhất, mơ hồ nhất của tâm hồn con người” đóng vai trò xác định cụ thể sứ mệnh riêng, đặc thù đó của thơ ca. Tâm hồn con người là “một vũ trụ chứa đầy bí mật”, có những cung bặc, sắc thái tình cảm, tâm hồn dễ dàng nắm bắt, diễn tả và cũng có những cung bặc, sắc thái tâm sự, nỗi niềm có thực nhưng lai vô cùng tinh vi, sâu kín, mong manh, mơ hồ, rất khó nắm bắt cũng như diễn tả.Thơ ra đời là để khám phá hiện thực tâm hồn bí ẩn đó. => Như thế, nhận định đã đề cập đến đặc trưng, nhiệm vụ có tính đặc thù, riêng có của thơ ca. 2. Bàn luận – Sở dĩ vậy bởi xuất phát từ đặc trưng văn học: Văn học phản ánh hiện thực đời sống con người nhưng đối tượng phản ánh đặc thù của văn học lại là con người trong những mối quan hệ xã hội phức tạp, đa dạng, văn học chú trọng khám phá hiện thực số phận con người và đào sâu thế giới nội tâm phong phú, bí ẩn của con người, thế giới nội tâm ấy gồm những sắc thái tâm lý phức tạp, những biến thái tâm hồn tinh vi, tinh tế. – Đặc trưng, nhiệm vụ ấy của thơ còn có nguyên do từ đặc trưng của thơ với tư cách tác phẩm trữ tình: mọi hiện thực đời sống hay tâm hồn con người được phản ánh trong thơ qua rung động, cảm xúc mãnh liệt của người viết được biểu hiện bằng hệ thống nghệ thuật riêng: ngôn từ, hình ảnh, thanh, vần, nhịp, giọng,… – Người làm thơ là người có phẩm chất, tố chất riêng: đó là trái tim đa cảm, nhạy cảm, tâm hồn tinh tế giúp “lắng nghe và thấu hiểu” mọi rung động tinh vi, tinh tế, mong manh nhất của thế giới tâm hồn con người, tạo vật; có trí tưởng tượng bay bổng, có kho từ vựng dồi dào,…để diễn tả chân xác, tài tình mọi trạng thái tình cảm, tâm hồn con người. 3,0 điểm – Học sinh cần bao quát dẫn chứng trong phạm vi từ thơ ca dân gian đến thơ ca của nền văn học viết, thơ ca dân tộc và thơ ca nước ngoài nhưng vẫn đảm bảo trọng tâm. – Học sinh chọn được những câu thơ thể hiện khả năng khám phá, diễn tả những điều tinh tế nhất, sâu kín nhất, mong manh nhất, mơ hồ nhất trên các pương diện: Rung động trước tạo vật; rung động tâm hồn trong tình yêu,;xúc cảm tinh nhạy với những biến động cuộc đời,… (chiều sâu nỗi buồn, niềm vui, khổ đau, hạnh phúc, nhớ thương,…) – Trong mỗi dẫn chứng cần làm rõ: Người viết đã khám phá, diễn tả được những sắc thái tâm hồn, tình cảm nào và biểu đạt nó bằng những phương tiện nghệ thuật độc đáo nào? 5,0 điểm – Chỉ ra đặc trưng, nhiệm vụ riêng của thơ ca, GS. Nguyễn Đăng Mạnh đồng thời đã xác định đúng lý do, cắt nghĩa thuyết phục sự tồn tại của thơ trong đời sống tinh thần nhân loại. – Nhờ những vần thơ, trang thơ như thế, thơ ca và nhà thơ đã góp phần nuôi dưỡng, bồi đắp tâm hồn con người, làm cho thế giới nội tâm con người trở nên phong phú, giàu có, nhạy cảm hơn, tinh tế hơn. – Cần thấy, khi nói “Thơ ra đời cốt để nói những điều tinh vi nhất, sâu kín nhất, mong manh nhất, mơ hồ nhất của tâm hồn con người” là đã chạm đến chiều sâu cần thiết của hiện thực đời sống, hướng đến đích cuối cùng của mọi tác phẩm nghệ thuật chân chính. – Phê phán quan niệm quá coi trọng yêu cầu, nhiệm vụ phản ánh hiện thực bề ngoài của thơ, biến thơ thành công cụ minh họa cho đường lối, chính sách một thời “Thơ là hiện thực, thơ là cuộc đời, thơ còn là thơ nữa”. + “ nói những điều tinh vi nhất, sâu kín nhất, mong manh nhất, mơ hồ nhất của tâm hồn con người” không chỉ đặt ra yêu cầu: người làm thơ phải luôn “mở hồn ra mà đón lấy tất cả những vang động của đời” trong đó có âm vang của hồn người, có khả năng sống sâu với đời, với người mà còn đòi hỏi nhà thơ phải biết lựa chọn những yếu tố hình thức, phương tiện nghệ thuật phù hợp, đắc địa, độc đáo để thể hiện. + Người đọc thơ, muốn tiếp nhận cái hay, vẻ đẹp riêng của thơ ca, phải có tâm hồn nhay cảm, trái tim đa cảm “hứng thú, đắm say”.
Hướng dẫn TRƯỜNG THPT CHUYÊN VĨNH PHÚC KHỐI 10- MÔN NGỮ VĂN NĂM HỌC 2017 – 2018 Câu 1: (8,0 điểm) Chuyện nàng Violet Trong vườn nọ, có một bông hoa Viiolet xinh xắn, luôn tỏa ngát hương thơm. Nàng sống hạnh phúc cùng với những người bạn láng giềng. Một ngày nọ, ngắm nhìn chị Hoa Hồng kiêu sa với sắc đẹp rực rỡ làm sáng cả khu vườn, nàng Violet chợt nhận thấy mình thật nhỏ bé. Nàng than thở: “So với chị Hoa Hồng may mắn kia, mình chẳng là gì cả. Giá như mình được làm Hoa Hồng một lần trong đời nhỉ, một lần thôi để không phải nằm sát mặt đất thế này, mình cũng mãn nguyện lắm rồi”. Có một bà tiên tình cờ biết được sự tình bèn hỏi bông hoa bé nhỏ: – Chuyện gì xảy ra với con vậy? Nàng Violet cất giọng tha thiết: – Con biết bà luôn nhân từ và đầy lòng yêu thương. Con cầu xin bà hãy biến con thành Hoa Hồng! Bà tiên chăm chú nhìn bông hoa: – Con có biết đang đòi hỏi điều gì không? Một ngày nào đó con sẽ hối hận đấy! Nhưng Violet vẫn một mực nài nỉ. Động lòng trước khao khát của nàng, cuối cùng bà tiên đồng ý. Bà chạm ngón tay thần kì của mình vào thân Violet và ngay lập tức Violet biến thành một cây hoa hồng xinh tươi, kiêu hãnh, vươn cao với những bông hoa đỏ rực trên cành. Một hôm, Giông Bão đi qua khu vườn, giật gãy các nhánh cây, làm bật gốc cả những cây cao to. Cả khu vườn bị vùi dập tơi tả trong gió bão, trừ những loài hoa nhỏ bé nằm sát mặt đất như Violet. Bão tan, bầu trời lại trong xanh. Các nàng Violet vẫy cành hoa tím, vui đùa bên nhau. Một nàng nhìn Hoa Hồng – là Violet ngày nào – thương xót: – Các bạn nhìn kìa, cô ấy đang phải trả giá cho mong muốn nhất thời của mình đấy! […] (Trích “Những câu chuyện hay và ý nghĩa về cuộc sống” – CongsonArena) Anh/chị suy nghĩ như thế nào về sự lựa chọn của bông hoa Violet? Câu 2: (12,0 điểm) “Thơ ra đời cốt để nói những điều tinh vi nhất, sâu kín nhất, mong manh nhất, mơ hồ nhất của tâm hồn con người” (Nguyễn Đăng Mạnh). Anh/chị hiểu như thế nào về nhận định trên? Hãy phân tích một vài bài thơ trong chương trình Ngữ văn 10 nâng cao để làm sáng tỏ. ——–Hết——– Thí sinh không được sử dụng tài liệu. Cán bộ coi thi không giải thích gì thêm. Họ và tên thí sinh:……………………………………. Số báo danh:………………………………… HƯỚNG DẪN CHẤM (04 trang) YÊU CẦU CHUNG – Giám khảo cần nắm được nội dung trình bày trong bài làm của thí sinh, tránh đếm ý cho điểm. Vận dụng linh hoạt hướng dẫn chấm, sử dụng nhiều mức điểm một cách hợp lí, khuyến khích những bài viết có cảm xúc, sáng tạo. – Học sinh có thể làm bài theo nhiều cách nhưng nếu đáp ứng những yêu cầu cơ bản của đề, diễn đạt tốt vẫn cho điểm tối đa. – Điểm bài thi làm tròn đến 0,25 điểm. YÊU CẦU CỤ THỂ Câu 1 (8,0 điểm) – Biết cách làm bài văn nghị luận xã hội, bố cục rõ ràng, lập luận chặt chẽ, vận dụng tốt các thao tác lập luận, dẫn chứng tiêu biểu, chọn lọc. – Bài viết trong sáng, mạch lạc, không mắc lỗi chính tả, dùng từ, ngữ pháp. – Học sinh có thể bày tỏ những suy nghĩ khác nhau, nhưng cần đảm bảo các ý cơ bản sau: – Bông hoa Violet đã ao ước được làm Hoa Hồng một lần trong đời, kiêu hãnh, rực rỡ để không phải nằm sát mặt đất, sống nhỏ bé, âm thầm. – Đây là sự lựa chọn dũng cảm vì Violet đã chấp nhận đánh đổi cuộc sống yên ổn hiện tại để có những khoảnh khắc tỏa sáng rực rỡ, sống với mơ ước, khát vọng mãnh liệt nhất của bản thân, cho dù chấp nhận phải trả giá. * Nội dung, ý nghĩa của câu chuyện: Câu chuyện nhắn nhủ tới chúng ta một thông điệp sâu sắc về cách sống: Hãy sống thật cháy sáng, thật mãnh liệt với tất cả mơ ước, khát vọng của mình. 0,5 0,5 0,5 – Khi dám vượt ra khỏi cuộc sống tẻ nhạt, tầm thường để theo đuổi đam mê, khát vọng của bản thân, mỗi con người sẽ có được những trải nghiệm thú vị, sẽ thấy cuộc đời mình phong phú đáng sống, sẽ cảm thấy mỗi giây phút mà mình sống thật có ý nghĩa và thật quý giá. Từ đó chúng ta có thể đóng góp thật nhiều cho cuộc đời.. – Sống đẹp, sống có ý nghĩa, sống cháy sáng thì dù chỉ sống trong một thời gian ngắn còn đáng quý hơn ngàn lần cuộc sống “buồn le lói suốt trăm năm”. 1,0 0,5 – Lựa chọn sống tỏa sáng đòi hỏi mỗi con người phải không ngừng rèn luyện, sáng tạo, nung nấu ý chí, hoài bão, nhiệt huyết và lòng dũng cảm. – Không chấp nhận lối sống nhàn nhạt “lờ mờ, lẹt đẹt, luộm thuộm” (chữ của Nguyễn Tuân) vô nghĩa trong suốt đời người, chính là thái độ sống đẹp của con người có khát vọng lớn lao. – Phê phán lối sống gấp, vị kỉ hưởng lạc chỉ biết ngày nay mà không biết ngày mai… 0,5 0,5 0,5 Câu 2 (12,0 điểm) YÊU CẦU CHUNG Học sinh có thể diễn đạt, trình bày theo những cách khác nhau, song cần thể hiện được những nội dung chính sau. – Cách nói: “thơ ra đời cốt” nhằm nhấn mạnh, coi trọng nhiệm vụ trước tiên, sứ mệnh riêng của thơ ca. Thơ ca không chỉ phản ánh hiện thực cuộc sống bề ngoài như tác phẩm kịch, tự sự mà còn hướng vào khám phá, diễn tả tất cả những cung bậc, sắc thái phức tạp, bí ẩn mà cũng rất kỳ diệu của thế giới tâm hồn con người. – Cụm từ: “những điều tinh vi nhất, sâu kín nhất, mong manh nhất, mơ hồ nhất của tâm hồn con người” đóng vai trò xác định cụ thể sứ mệnh riêng, đặc thù đó của thơ ca. Tâm hồn con người là “một vũ trụ chứa đầy bí mật”, có những cung bặc, sắc thái tình cảm, tâm hồn dễ dàng nắm bắt, diễn tả và cũng có những cung bặc, sắc thái tâm sự, nỗi niềm có thực nhưng lai vô cùng tinh vi, sâu kín, mong manh, mơ hồ, rất khó nắm bắt cũng như diễn tả.Thơ ra đời là để khám phá hiện thực tâm hồn bí ẩn đó. => Như thế, nhận định đã đề cập đến đặc trưng, nhiệm vụ có tính đặc thù, riêng có của thơ ca. 2. Bàn luận – Sở dĩ vậy bởi xuất phát từ đặc trưng văn học: Văn học phản ánh hiện thực đời sống con người nhưng đối tượng phản ánh đặc thù của văn học lại là con người trong những mối quan hệ xã hội phức tạp, đa dạng, văn học chú trọng khám phá hiện thực số phận con người và đào sâu thế giới nội tâm phong phú, bí ẩn của con người, thế giới nội tâm ấy gồm những sắc thái tâm lý phức tạp, những biến thái tâm hồn tinh vi, tinh tế. – Đặc trưng, nhiệm vụ ấy của thơ còn có nguyên do từ đặc trưng của thơ với tư cách tác phẩm trữ tình: mọi hiện thực đời sống hay tâm hồn con người được phản ánh trong thơ qua rung động, cảm xúc mãnh liệt của người viết được biểu hiện bằng hệ thống nghệ thuật riêng: ngôn từ, hình ảnh, thanh, vần, nhịp, giọng,… – Người làm thơ là người có phẩm chất, tố chất riêng: đó là trái tim đa cảm, nhạy cảm, tâm hồn tinh tế giúp “lắng nghe và thấu hiểu” mọi rung động tinh vi, tinh tế, mong manh nhất của thế giới tâm hồn con người, tạo vật; có trí tưởng tượng bay bổng, có kho từ vựng dồi dào,…để diễn tả chân xác, tài tình mọi trạng thái tình cảm, tâm hồn con người. 3,0 điểm – Học sinh cần bao quát dẫn chứng trong phạm vi từ thơ ca dân gian đến thơ ca của nền văn học viết, thơ ca dân tộc và thơ ca nước ngoài nhưng vẫn đảm bảo trọng tâm. – Học sinh chọn được những câu thơ thể hiện khả năng khám phá, diễn tả những điều tinh tế nhất, sâu kín nhất, mong manh nhất, mơ hồ nhất trên các pương diện: Rung động trước tạo vật; rung động tâm hồn trong tình yêu,;xúc cảm tinh nhạy với những biến động cuộc đời,… (chiều sâu nỗi buồn, niềm vui, khổ đau, hạnh phúc, nhớ thương,…) – Trong mỗi dẫn chứng cần làm rõ: Người viết đã khám phá, diễn tả được những sắc thái tâm hồn, tình cảm nào và biểu đạt nó bằng những phương tiện nghệ thuật độc đáo nào? 5,0 điểm – Chỉ ra đặc trưng, nhiệm vụ riêng của thơ ca, GS. Nguyễn Đăng Mạnh đồng thời đã xác định đúng lý do, cắt nghĩa thuyết phục sự tồn tại của thơ trong đời sống tinh thần nhân loại. – Nhờ những vần thơ, trang thơ như thế, thơ ca và nhà thơ đã góp phần nuôi dưỡng, bồi đắp tâm hồn con người, làm cho thế giới nội tâm con người trở nên phong phú, giàu có, nhạy cảm hơn, tinh tế hơn. – Cần thấy, khi nói “Thơ ra đời cốt để nói những điều tinh vi nhất, sâu kín nhất, mong manh nhất, mơ hồ nhất của tâm hồn con người” là đã chạm đến chiều sâu cần thiết của hiện thực đời sống, hướng đến đích cuối cùng của mọi tác phẩm nghệ thuật chân chính. – Phê phán quan niệm quá coi trọng yêu cầu, nhiệm vụ phản ánh hiện thực bề ngoài của thơ, biến thơ thành công cụ minh họa cho đường lối, chính sách một thời “Thơ là hiện thực, thơ là cuộc đời, thơ còn là thơ nữa”. + “ nói những điều tinh vi nhất, sâu kín nhất, mong manh nhất, mơ hồ nhất của tâm hồn con người” không chỉ đặt ra yêu cầu: người làm thơ phải luôn “mở hồn ra mà đón lấy tất cả những vang động của đời” trong đó có âm vang của hồn người, có khả năng sống sâu với đời, với người mà còn đòi hỏi nhà thơ phải biết lựa chọn những yếu tố hình thức, phương tiện nghệ thuật phù hợp, đắc địa, độc đáo để thể hiện. + Người đọc thơ, muốn tiếp nhận cái hay, vẻ đẹp riêng của thơ ca, phải có tâm hồn nhay cảm, trái tim đa cảm “hứng thú, đắm say”.
Hướng dẫn TUYÊN QUANG ——– ĐỀ THI ĐỀ XUẤT Đề thi có 01 trang CÁC TRƯỜNG THPT CHUYÊN KHU VỰC DUYÊN HẢI VÀ ĐỒNG BẰNG BẮC BỘ NĂM 2018 Môn: NGỮ VĂN- LỚP 10 (Thời gian: 180 phút – không kể thời gian giao đề) Câu 1 (8 điểm): “Dù bạn là ai hoặc bạn bao nhiêu tuổi, nếu muốn thành đạt thì động lực cho sự thành đạt đó nhất thiết phải xuất phát từ chính bên trong con người bạn.” (Paul J.Mayer) Anh/chị hãy trình bày suy nghĩ của mình về ý kiến trên. Câu 2 (12 điểm): Nghệ thuật bao giờ cũng là tiếng nói của tình cảm con người, là sự tự giãi bày và gửi gắm tâm tư.( Lê Ngọc Trà) Anh/chị hiểu ý kiến trên như thế nào? Hãy làm sáng tỏ ý kiến qua các bài thơ: Cảnh ngày hè của Nguyễn Trãi và Độc Tiểu Thanh kí của Nguyễn Du. – Hết – Người ra đề: Nguyễn Thị Thanh Hải HƯỚNG DẪN CHẤM THI MÔN: NGỮ VĂN – LỚP 10 1/ CÂU HỎI 1 1/ Yêu cầu về kĩ năng – Nắm bắt và vận dụng nhuần nhuyễn phương pháp làm bài nghị luận xã hội. – Bố cục rõ ràng, lập luận chặt chẽ, không mắc các lỗi chính tả và diễn đạt. – Trình bày bài sạch, đẹp, khoa học. 2/ Yêu cầu về kiến thức a/ Giải thích – Động lực: là cái đến từ bên trong mỗi cá nhân, thúc đẩy ta hành động. Nói cách khác, mọi hành động của chúng ta đều có động cơ, có lí do. Chúng xuất phát từ những nhu cầu sâu xa bên trong. => Câu nói khẳng định tự tạo động lực chính là phẩm chất tạo khác biệt lớn nhất giữa người thành công và người thất bại, không phân biệt danh tính hay tuổi tác. b/ Phân tích, chứng minh * Sự thành đạt nhất thiết phải xuất phát từ chính động lực bên trong mỗi người: – Động lực xuất phát từ nhu cầu tự bên trong, xuất phát từ những suy tư, trăn trở, khác với sự hô hào, lên gân từ bên ngoài. – Những yếu tố để tạo động lực thực sự là: + Khát vọng: là hạt giống mà từ đó thành công nảy nở và phát triển. Chính khát vọng tạo nên điều kiện để người bình thường đạt được những điều phi thường. + Niềm tin: không nản chí khi theo đuổi con đường đã chọn dù gặp phải những trở ngại tưởng chừng không thể vượt qua. Cơ hội dẫn đến thành công luôn được đo bởi chính niềm tin của mỗi người. + Biết tưởng tượng, hình dung ra trước kết quả: khi hình dung, hành động của chúng ta càng rõ ràng và càng thường xuyên bao nhiêu thì khả năng thực hiện càng nhiều bấy nhiêu. ….. (Dẫn chứng, phân tích). * Động lực thúc đẩy con người vượt qua khó khăn, thử thách, đánh thức tài năng trong con người (dẫn chứng, phân tích). c/ Bình luận, đánh giá – Con đường đi đến thành công ngắn nhất là phải tự tạo động lực cho chính mình. Đừng trông chờ, ỷ lại, dựa dẫm vào những yếu tố bên ngoài. – Nếu không có động lực chân chính, con người không thể đạt được thành công trong cuộc sống. – Phê phán những người chỉ biết chờ đợi vào người khác, thụ động thay vì tự thân vận động. 3/ Biểu điểm – Điểm 7 – 8: Đáp ứng tốt những yêu cầu nêu trên. Bài viết giàu sức thuyết phục bởi bố cục hợp lí, nội dung phong phú, lập luận chặt chẽ, sắc sảo, dẫn chứng sinh động, tiêu biểu. Có nhiều ý sáng tạo. Diễn đạt trong sáng, trôi chảy, có thể mắc một vài lỗi nhỏ về chính tả, dùng từ – Điểm 5 – 6: Đáp ứng được đa số các yêu cầu của đề bài. Bố cục nội dung tương đối hợp lí. Lập luận có sức thuyết phục, dẫn chứng đa dạng, chọn lọc. Diễn đạt tương đối tốt. Có thể mắc một vài lỗi chính tả và diễn đạt. – Điểm 3 – 4: Hiểu đúng ý nghĩa câu nói nhưng còn lúng túng trong bàn luận, diễn đạt chưa chặt chẽ, thuyết phục – Điểm 1 – 2: Hiểu nội dung ý kiến nhưng còn nông, bài viết sơ sài, lan man, lập luận lộn xộn, dẫn chứng nghèo nàn, mắc nhiều lỗi chính tả và diễn đạt. – Điểm 0: Không hiểu đề, sai lạc về nội dung, phương pháp hoặc bỏ giấy trắng (Khuyến khích những bài viết sáng tạo, có thể có thêm những suy nghĩ khác nhưng phải đảm bảo tư tưởng đúng đắn, tiến bộ, hành văn mạch lạc, lập luận logic, giàu sức thuyết phục) 2/ CÂU HỎI 2 1/ Yêu cầu về kĩ năng – Cần xác định đây là kiểu bài nghị luận văn học có nhiệm vụ làm sáng tỏ vấn đề lí luận văn học qua phâm tích một số tác phẩm văn học cụ thể – Vận dụng nhuần nhuyễn các thao tác nghị luận. – Bố cục rõ ràng, lập luận chặt chẽ, không mắc các lỗi chính tả và diễn đạt. – Trình bày bài sạch, đẹp, khoa học. 2/ Yêu cầu về kiến thức Học sinh có thể triển khai theo nhiều cách khác nhau song cần đảm bảo một số nội dung sau: a/ Giải thích: – Nghệ thuật: Nghệ thuật là một lĩnh vực của cuộc sống khác các lĩnh vực khoa học. Nghệ thuật mà Lê Ngọc trà đặc biệt nhấn mạnh ở đây là văn học – những tác phẩmnghệ thuật ngôn từ có hình tượng. – Bao giờ: luôn luôn. – Là tiếng nói tình cảm con người: Tình cảm của con người được thể hiện trong tác phẩm và tình cảm của chủ thể sáng tạo – nhà văn – người nghệ sĩ. – Là sự tự giãi bày và gửi gắm tâm tư: những tình cảm ấy được nói ra, được viết ra xuất phát từ nhu cầu: . Được giãi bày: được bày tỏ, chia sẻ những gì chất chứa ở trong lòng để có thể nhân đôi những niềm vui và vơi bớt những nỗi buồn. . Gửi gắm những tâm tư: muốn kí thác vào tác phẩm những lời nhắn nhủ, những bức thông điệp, những tư tưởng, tình cảm của nhà văn…. => Ý kiến đề cập đến đặc trưng của văn học: Văn học là tiếng nói của tình con người, những tình cảm được nói ra, viết ra từ nhu cầu được bày tỏ, chia sẻ, gửi gắm vào tác phẩm những tình cảm, tư tưởng của nhà văn. Ý kiến đồng thời đưa ra tiêu chí để đánh giá một tác phẩm chân chính phải chứa đựng những tình cảm đẹp, những tư tưởng tiến bộ làm đẹp cho tâm hồn con người. b/ Lí giải, chứng minh: * Tại sao “Nghệ thuật bao giờ cũng là tiếng nói của tình cảm con người, là sự tự giãi bày và gửi gắm tâm tư”? -.Văn học nghệ thuật ra đời trong những phút giây thăng hoa của tình cảm, cảm xúc của người nghệ sĩ trước con người và cuộc sống. – Văn học đi sâu khám phá chiều sâu không cùng của tâm hồn, tình cảm của con người – Văn học khi viết về tình cảm của con người không tách rời với việc phản ánh tâm tư, tình cảm ước mơ, khát vọng và những suy nghĩ, nhận thức, tư tưởng của nhà văn về con người và cuộc sống. – Sự phản ánh và biểu hiện bao giờ cũng được thực hiện thông qua việc xây dựng thế giới hình tượng nghệ thuật. * Chứng minh qua hai bài thơ: – Cảnh ngày hè của Nguyễn Trãi: là tiếng lòng thiết tha với thiên nhiên, cuộc sống con người, là tư tưởng nhân nghĩa cao đẹp ở nhà thơ: Thông qua hệ thống hình ảnh về thiên nhiên (hoè lục, tán rợp giương, thạch lựu phun thức đỏ, hồng liên trì tịn mùi hương, cầm ve…) và cuộc sống (lao xao chợ cá..), Nguyễn Trãi đã dựng lên bức tranh ngày hè sống động, giàu sức sống, cuộc sống nhân dân bình yên, no đủ. Từ đó thấy được tình yêu thiên nhiên, cuộc sống, khát vọng đất nước được thái bình, nhân dân khắp chốn được giàu đủ của tác giả. Đằng sau mỗi hình ảnh là cảm xúc dạt dào, bay bổng trước thiên nhiên và cuộc sống, là nỗi lòng canh cánh về trách nhiệm đối với nước với dân chưa hoàn thành. Đó là sự biểu hiện vẻ đẹp nhân cách đáng trọng của nhà thơ. – Độc Tiểu Thanh kí của Nguyễn Du: là tiếng nói nhân đạo của nhà thơ: Thông qua những hình ảnh giàu sức khái quát: son phấn, văn chương tác giả khắc hoạ tài năng, tâm hồn, trí tuệ của nàng Tiểu Thanh – con người có vẻ đẹp hoàn thiện nhưng lại phải chịu số phận đau thương. Từ đó nhà thơ ngợi ca, xót thương cho những con người tài sắc mà bạc mệnh, trân trọng cái đẹp ở đời, đồng thời tỏ rõ sự bất bình trước những ngang trái ở đời, tố cáo những lực lượng đã chà đạp lên con người. Không chỉ thể hiện sâu sắc nỗi thương người và nhà thơ còn kí thác những nỗi niềm tâm sự riêng qua việc tự nhận mình là người cùng hội cùng thuyền với Tiểu Thanh. Đó chính là những tư tưởng nhân đạo, nhân văn sâu sắc của tác phẩm chống lại mạnh mẽ quan điểm vô ngã, phi ngã trong văn thơ trung đại. c/ Bài học, mở rộng – Tiếng nói tình cảm, tư tưởng trong văn học gắn liền với những hình thức nghệ thuật đặc sắc là cơ sở để tạo nên giá trị và sức sống lâu bền cho tác phẩm văn học. – Đối với người tiếp nhận: ý kiến giúp hiểu sâu hơn về trưng cơ bản của văn học và tiêu chí để đánh giá một tác phẩm văn học có giá trị. Khi đến với tác phẩm văn học luôn chú ý khám phá cái hay cái đẹp của tác phẩm trong đó có những thông điệp tình cảm, tư tưởng sâu sắc mà tác giả chia sẻ và gửi gắm trong tác phẩm. – Đối với người sáng tác: trước con người và cuộc sống không thể thờ ơ, vô cảm luôn mở rộng lòng mình để cảm hiểu, chia sẻ mới có được những tác phẩm thực sự, tình cảm nhân văn, nhân đạo kết hợp với cảm quan hiện thực sắc sảo của nhà văn là yếu tố quyết định sự sống còn của một tác phẩm văn học. 3/ Biểu điểm – Điểm 11 – 12: Đáp ứng tốt những yêu cầu nêu trên. Bài viết giàu sức thuyết phục bởi bố cục hợp lí, nội dung chính xác, phong phú, lập luận chặt chẽ, khúc chiết, phân tích sắc sảo. Có nhiều ý sáng tạo. Diễn đạt trong sáng, trôi chảy, giàu chất văn, có thể mắc một vài lỗi nhỏ về chính tả, dùng từ – Điểm 9 – 10: Đáp ứng được đa số các yêu cầu của đề bài. Bố cục nội dung tương đối hợp lí. Lập luận có sức thuyết phục, phân tích khá sắc sảo. Diễn đạt tương đối tốt, có thể mắc một vài lỗi chính tả và diễn đạt. – Điểm 7 – 8: Hiểu đề, lập luận khá chặt chẽ nhưng cảm nhận và phân tích chưa sâu sắc, một số câu văn diễn đạt chưa rõ ý, phần mở rộng, nâng cao thực hiện chưa thật tốt – Điểm 5 – 6: Hiểu đề song phân tích còn nông, bài viết sơ sài – Điểm 3 – 4: Hiểu chưa đúng trọng tâm đề, bài viết lan man, lập luận lộn xộn,
Hướng dẫn TUYÊN QUANG ——– ĐỀ THI ĐỀ XUẤT Đề thi có 01 trang CÁC TRƯỜNG THPT CHUYÊN KHU VỰC DUYÊN HẢI VÀ ĐỒNG BẰNG BẮC BỘ NĂM 2018 Môn: NGỮ VĂN- LỚP 10 (Thời gian: 180 phút – không kể thời gian giao đề) Câu 1 (8 điểm): “Dù bạn là ai hoặc bạn bao nhiêu tuổi, nếu muốn thành đạt thì động lực cho sự thành đạt đó nhất thiết phải xuất phát từ chính bên trong con người bạn.” (Paul J.Mayer) Anh/chị hãy trình bày suy nghĩ của mình về ý kiến trên. Câu 2 (12 điểm): Nghệ thuật bao giờ cũng là tiếng nói của tình cảm con người, là sự tự giãi bày và gửi gắm tâm tư.( Lê Ngọc Trà) Anh/chị hiểu ý kiến trên như thế nào? Hãy làm sáng tỏ ý kiến qua các bài thơ: Cảnh ngày hè của Nguyễn Trãi và Độc Tiểu Thanh kí của Nguyễn Du. – Hết – Người ra đề: Nguyễn Thị Thanh Hải HƯỚNG DẪN CHẤM THI MÔN: NGỮ VĂN – LỚP 10 1/ CÂU HỎI 1 1/ Yêu cầu về kĩ năng – Nắm bắt và vận dụng nhuần nhuyễn phương pháp làm bài nghị luận xã hội. – Bố cục rõ ràng, lập luận chặt chẽ, không mắc các lỗi chính tả và diễn đạt. – Trình bày bài sạch, đẹp, khoa học. 2/ Yêu cầu về kiến thức a/ Giải thích – Động lực: là cái đến từ bên trong mỗi cá nhân, thúc đẩy ta hành động. Nói cách khác, mọi hành động của chúng ta đều có động cơ, có lí do. Chúng xuất phát từ những nhu cầu sâu xa bên trong. => Câu nói khẳng định tự tạo động lực chính là phẩm chất tạo khác biệt lớn nhất giữa người thành công và người thất bại, không phân biệt danh tính hay tuổi tác. b/ Phân tích, chứng minh * Sự thành đạt nhất thiết phải xuất phát từ chính động lực bên trong mỗi người: – Động lực xuất phát từ nhu cầu tự bên trong, xuất phát từ những suy tư, trăn trở, khác với sự hô hào, lên gân từ bên ngoài. – Những yếu tố để tạo động lực thực sự là: + Khát vọng: là hạt giống mà từ đó thành công nảy nở và phát triển. Chính khát vọng tạo nên điều kiện để người bình thường đạt được những điều phi thường. + Niềm tin: không nản chí khi theo đuổi con đường đã chọn dù gặp phải những trở ngại tưởng chừng không thể vượt qua. Cơ hội dẫn đến thành công luôn được đo bởi chính niềm tin của mỗi người. + Biết tưởng tượng, hình dung ra trước kết quả: khi hình dung, hành động của chúng ta càng rõ ràng và càng thường xuyên bao nhiêu thì khả năng thực hiện càng nhiều bấy nhiêu. ….. (Dẫn chứng, phân tích). * Động lực thúc đẩy con người vượt qua khó khăn, thử thách, đánh thức tài năng trong con người (dẫn chứng, phân tích). c/ Bình luận, đánh giá – Con đường đi đến thành công ngắn nhất là phải tự tạo động lực cho chính mình. Đừng trông chờ, ỷ lại, dựa dẫm vào những yếu tố bên ngoài. – Nếu không có động lực chân chính, con người không thể đạt được thành công trong cuộc sống. – Phê phán những người chỉ biết chờ đợi vào người khác, thụ động thay vì tự thân vận động. 3/ Biểu điểm – Điểm 7 – 8: Đáp ứng tốt những yêu cầu nêu trên. Bài viết giàu sức thuyết phục bởi bố cục hợp lí, nội dung phong phú, lập luận chặt chẽ, sắc sảo, dẫn chứng sinh động, tiêu biểu. Có nhiều ý sáng tạo. Diễn đạt trong sáng, trôi chảy, có thể mắc một vài lỗi nhỏ về chính tả, dùng từ – Điểm 5 – 6: Đáp ứng được đa số các yêu cầu của đề bài. Bố cục nội dung tương đối hợp lí. Lập luận có sức thuyết phục, dẫn chứng đa dạng, chọn lọc. Diễn đạt tương đối tốt. Có thể mắc một vài lỗi chính tả và diễn đạt. – Điểm 3 – 4: Hiểu đúng ý nghĩa câu nói nhưng còn lúng túng trong bàn luận, diễn đạt chưa chặt chẽ, thuyết phục – Điểm 1 – 2: Hiểu nội dung ý kiến nhưng còn nông, bài viết sơ sài, lan man, lập luận lộn xộn, dẫn chứng nghèo nàn, mắc nhiều lỗi chính tả và diễn đạt. – Điểm 0: Không hiểu đề, sai lạc về nội dung, phương pháp hoặc bỏ giấy trắng (Khuyến khích những bài viết sáng tạo, có thể có thêm những suy nghĩ khác nhưng phải đảm bảo tư tưởng đúng đắn, tiến bộ, hành văn mạch lạc, lập luận logic, giàu sức thuyết phục) 2/ CÂU HỎI 2 1/ Yêu cầu về kĩ năng – Cần xác định đây là kiểu bài nghị luận văn học có nhiệm vụ làm sáng tỏ vấn đề lí luận văn học qua phâm tích một số tác phẩm văn học cụ thể – Vận dụng nhuần nhuyễn các thao tác nghị luận. – Bố cục rõ ràng, lập luận chặt chẽ, không mắc các lỗi chính tả và diễn đạt. – Trình bày bài sạch, đẹp, khoa học. 2/ Yêu cầu về kiến thức Học sinh có thể triển khai theo nhiều cách khác nhau song cần đảm bảo một số nội dung sau: a/ Giải thích: – Nghệ thuật: Nghệ thuật là một lĩnh vực của cuộc sống khác các lĩnh vực khoa học. Nghệ thuật mà Lê Ngọc trà đặc biệt nhấn mạnh ở đây là văn học – những tác phẩmnghệ thuật ngôn từ có hình tượng. – Bao giờ: luôn luôn. – Là tiếng nói tình cảm con người: Tình cảm của con người được thể hiện trong tác phẩm và tình cảm của chủ thể sáng tạo – nhà văn – người nghệ sĩ. – Là sự tự giãi bày và gửi gắm tâm tư: những tình cảm ấy được nói ra, được viết ra xuất phát từ nhu cầu: . Được giãi bày: được bày tỏ, chia sẻ những gì chất chứa ở trong lòng để có thể nhân đôi những niềm vui và vơi bớt những nỗi buồn. . Gửi gắm những tâm tư: muốn kí thác vào tác phẩm những lời nhắn nhủ, những bức thông điệp, những tư tưởng, tình cảm của nhà văn…. => Ý kiến đề cập đến đặc trưng của văn học: Văn học là tiếng nói của tình con người, những tình cảm được nói ra, viết ra từ nhu cầu được bày tỏ, chia sẻ, gửi gắm vào tác phẩm những tình cảm, tư tưởng của nhà văn. Ý kiến đồng thời đưa ra tiêu chí để đánh giá một tác phẩm chân chính phải chứa đựng những tình cảm đẹp, những tư tưởng tiến bộ làm đẹp cho tâm hồn con người. b/ Lí giải, chứng minh: * Tại sao “Nghệ thuật bao giờ cũng là tiếng nói của tình cảm con người, là sự tự giãi bày và gửi gắm tâm tư”? -.Văn học nghệ thuật ra đời trong những phút giây thăng hoa của tình cảm, cảm xúc của người nghệ sĩ trước con người và cuộc sống. – Văn học đi sâu khám phá chiều sâu không cùng của tâm hồn, tình cảm của con người – Văn học khi viết về tình cảm của con người không tách rời với việc phản ánh tâm tư, tình cảm ước mơ, khát vọng và những suy nghĩ, nhận thức, tư tưởng của nhà văn về con người và cuộc sống. – Sự phản ánh và biểu hiện bao giờ cũng được thực hiện thông qua việc xây dựng thế giới hình tượng nghệ thuật. * Chứng minh qua hai bài thơ: – Cảnh ngày hè của Nguyễn Trãi: là tiếng lòng thiết tha với thiên nhiên, cuộc sống con người, là tư tưởng nhân nghĩa cao đẹp ở nhà thơ: Thông qua hệ thống hình ảnh về thiên nhiên (hoè lục, tán rợp giương, thạch lựu phun thức đỏ, hồng liên trì tịn mùi hương, cầm ve…) và cuộc sống (lao xao chợ cá..), Nguyễn Trãi đã dựng lên bức tranh ngày hè sống động, giàu sức sống, cuộc sống nhân dân bình yên, no đủ. Từ đó thấy được tình yêu thiên nhiên, cuộc sống, khát vọng đất nước được thái bình, nhân dân khắp chốn được giàu đủ của tác giả. Đằng sau mỗi hình ảnh là cảm xúc dạt dào, bay bổng trước thiên nhiên và cuộc sống, là nỗi lòng canh cánh về trách nhiệm đối với nước với dân chưa hoàn thành. Đó là sự biểu hiện vẻ đẹp nhân cách đáng trọng của nhà thơ. – Độc Tiểu Thanh kí của Nguyễn Du: là tiếng nói nhân đạo của nhà thơ: Thông qua những hình ảnh giàu sức khái quát: son phấn, văn chương tác giả khắc hoạ tài năng, tâm hồn, trí tuệ của nàng Tiểu Thanh – con người có vẻ đẹp hoàn thiện nhưng lại phải chịu số phận đau thương. Từ đó nhà thơ ngợi ca, xót thương cho những con người tài sắc mà bạc mệnh, trân trọng cái đẹp ở đời, đồng thời tỏ rõ sự bất bình trước những ngang trái ở đời, tố cáo những lực lượng đã chà đạp lên con người. Không chỉ thể hiện sâu sắc nỗi thương người và nhà thơ còn kí thác những nỗi niềm tâm sự riêng qua việc tự nhận mình là người cùng hội cùng thuyền với Tiểu Thanh. Đó chính là những tư tưởng nhân đạo, nhân văn sâu sắc của tác phẩm chống lại mạnh mẽ quan điểm vô ngã, phi ngã trong văn thơ trung đại. c/ Bài học, mở rộng – Tiếng nói tình cảm, tư tưởng trong văn học gắn liền với những hình thức nghệ thuật đặc sắc là cơ sở để tạo nên giá trị và sức sống lâu bền cho tác phẩm văn học. – Đối với người tiếp nhận: ý kiến giúp hiểu sâu hơn về trưng cơ bản của văn học và tiêu chí để đánh giá một tác phẩm văn học có giá trị. Khi đến với tác phẩm văn học luôn chú ý khám phá cái hay cái đẹp của tác phẩm trong đó có những thông điệp tình cảm, tư tưởng sâu sắc mà tác giả chia sẻ và gửi gắm trong tác phẩm. – Đối với người sáng tác: trước con người và cuộc sống không thể thờ ơ, vô cảm luôn mở rộng lòng mình để cảm hiểu, chia sẻ mới có được những tác phẩm thực sự, tình cảm nhân văn, nhân đạo kết hợp với cảm quan hiện thực sắc sảo của nhà văn là yếu tố quyết định sự sống còn của một tác phẩm văn học. 3/ Biểu điểm – Điểm 11 – 12: Đáp ứng tốt những yêu cầu nêu trên. Bài viết giàu sức thuyết phục bởi bố cục hợp lí, nội dung chính xác, phong phú, lập luận chặt chẽ, khúc chiết, phân tích sắc sảo. Có nhiều ý sáng tạo. Diễn đạt trong sáng, trôi chảy, giàu chất văn, có thể mắc một vài lỗi nhỏ về chính tả, dùng từ – Điểm 9 – 10: Đáp ứng được đa số các yêu cầu của đề bài. Bố cục nội dung tương đối hợp lí. Lập luận có sức thuyết phục, phân tích khá sắc sảo. Diễn đạt tương đối tốt, có thể mắc một vài lỗi chính tả và diễn đạt. – Điểm 7 – 8: Hiểu đề, lập luận khá chặt chẽ nhưng cảm nhận và phân tích chưa sâu sắc, một số câu văn diễn đạt chưa rõ ý, phần mở rộng, nâng cao thực hiện chưa thật tốt – Điểm 5 – 6: Hiểu đề song phân tích còn nông, bài viết sơ sài – Điểm 3 – 4: Hiểu chưa đúng trọng tâm đề, bài viết lan man, lập luận lộn xộn,
Hướng dẫn TRƯỜNG THPT CHUYÊN TRẦN PHÚ KHỐI TRƯỜNG THPT CHUYÊN DHBB NĂM HỌC: 2017 – 2018 MÔN NGỮ VĂN – LỚP 10 Thời gian làm bài: 180 phút (Không kể giao đề) ————————***———————— Câu 1 (8,0 điểm) Nhà thơ Mĩ Robert Frost viết: Trong rừng có nhiều lối đi Và tôi chọn lối đi chưa có dấu chân người. Anh/ chị suy nghĩ gì về ý tưởng được gợi lên từ hai câu thơ trên? Câu 2 (12,0 điểm) Bàn về thơ, Nguyễn Dữ viết: “Thơ của người xưa lấy hùng hồn làm gốc, bình đạm làm khéo, câu tuy ngắn nhưng ý thì dài, lời tuy gần nhưng nghĩa lại xa.” (theo Từ trong di sản, Nxb Văn học, 1999, trang 42) Anh/chị hiểu ý kiến trên như thế nào? Lựa chọn những tác phẩm tiêu biểu trong văn học từ thế kỉ X đến thế kỉ XV để chứng minh. ===HẾT=== Người ra đề: Ân Thị Vân Chi TRƯỜNG THPT CHUYÊN TRẦN PHÚ KHỐI TRƯỜNG THPT CHUYÊN DHBB NĂM HỌC: 2017– 2018 MÔN NGỮ VĂN – LỚP 10 Thời gian làm bài: 180 phút (Không kể giao đề) ————————***———————— Câu 1(8.0 điểm) – HS biết cách làm bài nghị luận xã hội về một tư tưởng đạo lý. Biết vận dụng các thao tác giải thích, phân tích, chứng minh, bình luận…Đưa ra được ý kiến riêng khi giải quyết vấn đề. – Bài viết có bố cục mạch lạc, hệ thống luận điểm, luận cứ rõ ràng, dẫn chứng phong phú thuyết phục. – Bài viết có chất văn, trình bày sạch sẽ,khoa học. HS có thể có nhiều cách sắp xếp,tổ chức bài làm theo nhiều hướng khác nhau, nhưng cần đáp ứng những kiến thức cơ bản sau: – Trong rừng có nhiều lối đi:trong cuộc đời có nhiều con đường, nhiều cách thức, nhiều sự lựa chọn…nhiều lối sống khác nhau. – Tôi chọn: thể hiện sự chủ động, tích cực lựa chọn, dám dấn thân trong cuộc sống của tôi. – Lối đi không có dấu chân người: lối đi mới đi mới,có nhiều điều thú vị, nhưng cũng có thể đầy hiểm nguy, thách thức. Con người cần lựa chọn lối đi riêng mới mẻ, vì: HS liên hệ với bản thân để rút ra bài học nhận thức và hành động đúng. Câu 2(12.0 điểm) I.VỀ KĨ NĂNG Biết làm bài văn nghị luận văn học: kết cấu sáng rõ, lập luận chặt chẽ, diễn đạt lưu loát, văn viết giàu cảm xúc, có kiến thức lí luận và cảm thụ tốt. II.VỀ KIẾN THỨC HS có thể làm bài theo nhiều cách khác nhau, song về cơ bản cần đảm bảo những nội dung sau: – Thơ của người xưa: thơ ca từ TK XV trở về trước, với Nguyễn Dữ là thơ của các bậc tiền bối của ông. – Lấy hùng hồn làm gốc: trong quan niệm của Nguyễn Dữ cái gốc, điểm căn cốt của thơ xưa là chất hùng hồn: từ đề tài, cảm hứng đến tứ thơ,điệu thơ, ngôn ngữ hình ảnh …đều mạnh mẽ, hào sảng, hùng hồn( HS cần lí giải vì sao: từ hoàn cảnh thời đại chiến tranh vệ quốc, quan niệm Thi dĩ ngôn chí..) – Lấy bình đạm làm khéo: tài thể hiện cuộc sống cũng như bản thân nhà thơ một cách vừa bình dị thanh cao, vừa khéo léo tinh tế,rất sâu sắc và giàu sức gợi. – Câu tuy ngắn nhưng ý thì dài, lời tuy gần nhưng nghĩa lại xa: tính hàm súc,cô đọng, sức gợi trong thơ, khả năng ý tại ngôn ngoại của thơ xưa. HS chọn các tác phẩm để chứng minh,phải là các tác phẩm tiêu biểu, khai thác nổi bật chất anh hùng ca, ý tứ sâu xa; vẻ đẹp bình đạm, khéo léo ; câu ngắn- ý dài,lời gần- nghĩa xa( thể thơ, nhãn tự, thần tự, tứ thơ,giọng điệu…)từ những bài thơ đã chọn như: Nam quốc sơn hà,Thuật hoài, Tụng giá hoàn kinh sư, Ngư nhàn,Cáo tật thị chúng, Cảnh ngày hè, Cây chuối… của các tác giả Lí Thường Kiệt, Phạm Ngũ Lão, Trần Quang Khải, Không Lộ thiền sư, Mãn Giác thiền sư, Nguyễn Trãi… – Lời bàn của Nguyễn Dữ có khả năng khái quát cho những tác phẩm hay của thơ xưa về vẻ đẹp cả nội dung và hình thức. – Lời bàn không chỉ thể hiện khả năng cảm thụ, bình giá thơ ca tinh tường của Nguyễn Dữ, mà còn thái độ trân trọng,nâng niu, ngợi ca của nhà văn đối với những tác phẩm ngôn từ của ông cha. Đó là thái độ,tình cảm cần thiết từ độc giả đối với người nghệ sĩ, bởi Văn chương muôn đời sống được là nhờ tấc lòng tri kỉ. – Lời bàn của Nguyễn Dữ về vẻ đẹp của thơ xưa, cũng là tiêu chí cho vẻ đẹp mà thơ ca nói riêng và văn chương muôn đời cần hướng tới.
Instruct TRAN PHU SPECIALIZED HIGH SCHOOL DHBB SPECIALIZED HIGH SCHOOL BLOCK SCHOOL YEAR: 2017 – 2018 LANGUAGE SUBJECT – GRADE 10 Exam time: 180 minutes (Excluding assignments) ————————***———————— Question 1 (8.0 points) American poet Robert Frost wrote: There are many paths in the forest And I chose the path without any human footprints. What do you think about the ideas evoked by the two verses above? Question 2 (12.0 points) Discussing poetry, Nguyen Du wrote: "The poetry of the ancients uses eloquence as the basis, calmness and cleverness, although the sentences are short but the meaning is long, the words are close but the meaning is far away." (according to Words in Heritage, Literature Publishing House, 1999, page 42) How do you understand the above opinion? Select typical works in literature from the 10th to 15th centuries to demonstrate. ===END=== Author: An Thi Van Chi TRAN PHU SPECIALIZED HIGH SCHOOL DHBB SPECIALIZED HIGH SCHOOL BLOCK SCHOOL YEAR: 2017– 2018 LANGUAGE SUBJECT – GRADE 10 Exam time: 180 minutes (Excluding assignments) ————————***———————— Question 1 (8.0 points) – Students know how to write a social commentary about a moral ideology. Know how to apply the operations of explaining, analyzing, proving, commenting... Give your own opinion when solving problems. – The article has a coherent layout, a clear system of points and arguments, and rich and convincing evidence. – The article has good writing quality, clean and scientific presentation. Students can have many ways of arranging and organizing their work in many different directions, but they need to meet the following basic knowledge: – In the forest there are many paths: in life there are many paths, many ways, many choices... many different lifestyles. – I choose: show initiative, actively choose, dare to engage in my life. – The path has no footprints: the new path is new, has many interesting things, but can also be full of dangers and challenges. People need to choose their own new path because: Students contact themselves to learn lessons and take correct actions. Question 2 (12.0 points) I. ABOUT SKILLS Know how to write a literary essay: clear structure, tight arguments, fluent expression, emotional writing, good theoretical knowledge and perception. II. ABOUT KNOWLEDGE Students can do the test in many different ways, but basically need to ensure the following contents: – Poetry of the ancients: poetry from the 15th century onwards, with Nguyen Du being the poetry of his predecessors. – Take eloquence as the root: in Nguyen Du's conception, the root, the core point of ancient poetry is eloquence: from topic, inspiration to quatrains, poetic rhythm, visual language... all are strong and proud. Loud and eloquent (Students need to explain why: from the context of the Patriotic War era, the concept of poetic language...) – Using a modest vase to do it skillfully: the talent to express life as well as the poet himself in a way that is both simple and noble, skillful and sophisticated, very profound and evocative. - Although the sentence is short but the meaning is long, the words are close but the meaning is far away: the conciseness, conciseness, evocative power in poetry, the ability to express meaning in foreign language of ancient poetry. Students choose works to demonstrate, which must be typical works, prominently exploiting epic qualities and profound meanings; calm, skillful beauty; short sentences - long ideas, near words - far meanings (poetic form, label words, divine words, quatrains, tone...) from selected poems such as: Nam Quoc Son Ha, Thuat Hoai, Chanting Gia Hoan Kinh Su, Idle Fisherman, Fox to the Public, Summer Scene, Banana Tree... by authors Ly Thuong Kiet, Pham Ngu Lao, Tran Quang Khai, Khong Lo Zen Master, Man Giac Zen Master, Nguyen Trai... – Nguyen Du's comment has the ability to generalize good works of ancient poetry in terms of beauty in both content and form. – The discussion not only demonstrates Nguyen Du's keen ability to perceive and evaluate poetry, but also the writer's respectful, nurturing, and praising attitude towards the verbal works of his ancestors. That is the necessary attitude and feeling from the reader towards the artist, because Literature can live forever thanks to the kindness of soulmates. – Nguyen Du's discussion about the beauty of ancient poetry is also the criterion for the beauty that poetry in particular and eternal literature should aim for.
Hướng dẫn TRƯỜNG THPT CHUYÊN THÁI NGUYÊN (Đề đề xuất) MÔN NGỮ VĂN – LỚP 10 Thời gian làm bài: 180 phút Câu 1(8 điểm): Phải chăng “Sai lầm là những thông tin phản hồi chúng ta nhận được và cần phải học hỏi từ chúng. Kẻ chiến thắng là kẻ đã từng phạm sai lầm nhiều hơn kẻ thất bại. Đó là lý do họ chiến thắng ”? ( Mathews, 365 danh ngôn cho cuộc sống hàng ngày, NXB Thanh niên, 2008) Câu 2 (12 điểm): Trong cuốn “Quốc văn cụ thể”, Bùi Kỷ đã nhận xét: “Văn chương bởi tình cảm mà sinh, văn tức là một bức tả chân của tình cảm vậy” Qua tác phẩm “Độc Tiểu Thanh kí” của Nguyễn Du và trích đoạn “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ”, anh/chị hãy làm sáng tỏ ý kiến trên. ———————-Hết ————————- HƯỚNG DẪN CHẤM ĐÊ CHỌN HỌC SINH GIỎI DUYÊN HẢI VÀ ĐỒNG BẰNG BẮC BỘ MÔN NGỮ VĂN – LỚP 10 Câu 1: Sai lầm: là những việc làm trái với lẽ phải, dẫn đến những hậu quả khôn lường Sai lầm là những thông tin phản hồi chúng ta nhận được và cần phải học hỏi từ chúng: những sai lầm cho ta kiến thức, kinh nghiệm, những bài học thực tế vô cùng ý nghĩa. – Kẻ chiến thắng là kẻ đã từng phạm sai lầm nhiều hơn kẻ thất bại. Đó là lý do họ chiến thắng: Người chiến thắng là người là người đã trải qua thử thách, nếm trải nhiều thất bại, rút ra cho mình những cách hành xử đúng để đi đến thành công. Kẻ thất bại là người không dám đối diện sai lầm, sợ những vấp váp nên không quyết tâm hành động. => Sai lầm là một thử thách giúp chúng ta nỗ lực để đạt được thành công. Nhưng đó phải là một sai lầm có ý nghĩa trên bước đường đến với thành công. – Mọi thành công không bao giờ đạt được khi chúng ta bước trên con đường trải đầy hoa hồng. Cuộc sống không bao giờ là một mạt hồ phẳng lặng. để chiến thắng chúng ta phải đối mặt với nhiều biến cố, nhiều sai lầm. – Chúng ta học hỏi được nhiều điều hơn khi chúng ta thất bại. Bởi lúc đó chúng ta phân tích tình hình, rút kinh nghiệm và đưa ra một chiến lược mới. Lời chúc tụng tưng bừng trong chiến thắng đôi lúc làm chúng ta tự mãn. Dám hành động là dám chấp nhận những sai lầm như một phần tất yếu để học hỏi. Thành công không có chỗ cho sự lười nhác. – Tuy nhiên không phải cứ chấp nhận sai lầm là thành công và chiến thắng. Bởi có những người cứ hành động mà không suy xét, không đánh giá đúng thực lực, tiềm năng của bản thân mà hành xử liều lĩnh bất chấp kết quả xảy ra thì không thể tìm được những bài học bổ ích có ý nghĩa từ những sai lầm. – Nhìn vào sai lầm của một người chúng ta có được những đánh giá xác đáng về ý chí, nghị lực, khả năng, bản lĩnh, sự sáng tạo…. của một con người. – Nhận thức đúng về những sai lầm trong cuộc đời sẽ giúp chúng ta có động lực vượt qua tất cả và tỏa sáng. Học sinh có thể lấy một số dẫn chứng để làm sáng tỏ vấn đề: Edison, Chủ tịch Hồ Chí Minh… Đây là một ý kiến buộc chúng ta phải suy ngẫm thấu đáo. Xác định được ý nghĩa tích cực của sai lầm là chúng ta đã chạm tay gần hơn đến thành công. Còn nếu suy nghĩa phiếm diện chúng ta sẽ không lường được những thất bại đang chờ mình. Câu 2: – Văn chương: là những sáng tạo nghệ thuật của người nghệ sĩ, dùng chất liệu ngôn từ để xây dựng, hình tượng, phản ánh đời sống qua đó gửi gắm tư tưởng tình cảm của người nghệ sĩ. – Văn chương bởi tình cảm mà sinh: Văn chương nảy sinh từ xúc cảm của người nghệ sĩ trước cuộc đời.. đó là những “ rung động tận đáy tâm hồn với những lo âu, bức bội, tủi hổ và những ước mong tha thiết của loài người” – văn tức là một bức tả chân của tình cảm vậy: Đến với một tác phẩm văn chương là chúng ta sống với một thế giới tâm hồn hồn chân thật và cao đẹp => Ý kiến của Bùi Kỉ khẳng định: Văn chương xuất phát từ tình cảm của người nghệ sĩ, đến với một sáng tạo nghệ thuật chúng ta phải khám được thế giới tâm hồn giàu xúc cảm đó để bồi dưỡng tinh thần. * Văn học phản ánh hiện thực đời sống và đối tượng chính là cuộc sống con người trong các mối quan hệ xã hội phức tạp, đa dạng. Văn học chú trọng đào sâu thế giới nội tâm phong phú, bí ẩn của con người – một thế giới tâm lý phức tạp mà tinh tế. Cuộc sống là mảnh đất màu mỡ nuôi duôi dưỡng văn học, còn tình cảm của người nghệ sĩ chắp cho văn học đôi cánh bay bổng, làm cho hiện thực có sức sống, có sức hấp dẫn. Nếu nhà trước thuật “có đủ cái học uyên thâm” thì nhà văn nhà thơ lại “có nguồn cảm hứng bay bổng”. + Lỗ Tấn: “Gặp những cái gì hay và đáng yêu thì họ ôm chầm lấy, nếu gặp điều trái đáng giận thì học sẽ bác bỏ.. Phải kịch liệt công kích cái sai như đã từng nhiệt liệt chủ trương cái đúng” + Ngô Thì Nhậm “Tình cảm dồi dào thì thơ nảy sinh. Hoặc là tình nam nữ thương nhau, hoặc là tình chống vợ nhớ nhau….” + “Nghệ thuật bao giờ cũng là tiếng nói ”cuả tình cảm con người, là sự tự giãi bày và gửi gắm tâm tư” (Lê Ngọc Trà) + L. Tôn x tôi: “Một tác phẩm nghệ thuật là kết quả của tình yêu. Tình yêu con người và ước mơ cháy bỏng vì một xã hội công bằng, bình đẳng bác ái luôn nhà văn viết, sống vắt kiệt những dòng suy nghĩ, hiến dâng bầu máu nóng của mình cho nhân loại” => Tình cảm làm cho nghệ thuật thăng hoa và có sức sống mãnh liệt. Từ muôn xưa Việt Nam đã dùng văn chương để nói lên những nỗi vui, buồn, mừng giận, lo, mong, những ước mong, những oán thù thầm kín trong lòng mình. Tình cảm giữ một vị trí trọng yếu trong cảm hứng của người làm thơ. * Những tình cảm chân thành, cao đẹp của người nghệ sĩ trong sáng tạo nghệ thuật luôn có sức lay động và cảm hóa lòng người, khiến con người có thể “di dưỡng tính tình”, bồi đắp cảm xúc, thanh lọc tâm hồn, chắp cánh cho những ước mơ và tưởng tượng, giúp con người phân biệt được lẽ đúng sai, hướng con người đến chân thiện mĩ.. Tình cảm, cảm xúc làm nên giá trị nhân đạo sâu sắc của tác phẩm nghệ thuật,, đó là tấm lòng nhân đạo từ trong cốt tủy của người nghệ sĩ sáng tạo. * Đến với một sáng tác văn chương người đọc chúng ta không chỉ khám phá cuộc sống đa dạng phong phú được phản ánh trong tác phẩm, mỗi chúng ta phải tìm đến được cội nguồn cảm xúc sáng tạo. * Tác phẩm “Độc Tiểu Thanh kí” của Nguyễn Du: – Nội dung: Văn chương là câu chuyện của tâm hồn và tình cảm là sinh mệnh của thơ: Tác phẩm “Độc Tiểu Thanh kí” là những rung động, cảm thông sâu sắc của Nguyễn Du với số phận tài hoa bất hạnh của Tiểu Thanh. Qua số phận Tiểu Thanh, nhà thơ cũng bọc lộ những trăn trở về cuộc đời nhiều long đong lận đận của mình. – Nghệ thuật: Hình ảnh giàu giá trị biểu cảm, nghệ thuật đối, câu hỏi tu từ… * Trích đoạn “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ”: – Nội dung: Đoạn trích là sự thấu hiểu cảm thông sâu sắc của tác giả với nỗi cô đơn, lẻ loi, sầu muộn của người chinh phụ khi chồng đi chiến, đồng thời đó cũng là sự trân trọng đối với khát vọng hạnh phúc chính đáng của người phụ nữ. Thái độ câm phẫn chiến tranh phi nghĩa vì thế mà toát lên trong từng hình ảnh thơ
Hướng dẫn TRƯỜNG THPT CHUYÊN THÁI NGUYÊN (Đề đề xuất) MÔN NGỮ VĂN – LỚP 10 Thời gian làm bài: 180 phút Câu 1(8 điểm): Phải chăng “Sai lầm là những thông tin phản hồi chúng ta nhận được và cần phải học hỏi từ chúng. Kẻ chiến thắng là kẻ đã từng phạm sai lầm nhiều hơn kẻ thất bại. Đó là lý do họ chiến thắng ”? ( Mathews, 365 danh ngôn cho cuộc sống hàng ngày, NXB Thanh niên, 2008) Câu 2 (12 điểm): Trong cuốn “Quốc văn cụ thể”, Bùi Kỷ đã nhận xét: “Văn chương bởi tình cảm mà sinh, văn tức là một bức tả chân của tình cảm vậy” Qua tác phẩm “Độc Tiểu Thanh kí” của Nguyễn Du và trích đoạn “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ”, anh/chị hãy làm sáng tỏ ý kiến trên. ———————-Hết ————————- HƯỚNG DẪN CHẤM ĐÊ CHỌN HỌC SINH GIỎI DUYÊN HẢI VÀ ĐỒNG BẰNG BẮC BỘ MÔN NGỮ VĂN – LỚP 10 Câu 1: Sai lầm: là những việc làm trái với lẽ phải, dẫn đến những hậu quả khôn lường Sai lầm là những thông tin phản hồi chúng ta nhận được và cần phải học hỏi từ chúng: những sai lầm cho ta kiến thức, kinh nghiệm, những bài học thực tế vô cùng ý nghĩa. – Kẻ chiến thắng là kẻ đã từng phạm sai lầm nhiều hơn kẻ thất bại. Đó là lý do họ chiến thắng: Người chiến thắng là người là người đã trải qua thử thách, nếm trải nhiều thất bại, rút ra cho mình những cách hành xử đúng để đi đến thành công. Kẻ thất bại là người không dám đối diện sai lầm, sợ những vấp váp nên không quyết tâm hành động. => Sai lầm là một thử thách giúp chúng ta nỗ lực để đạt được thành công. Nhưng đó phải là một sai lầm có ý nghĩa trên bước đường đến với thành công. – Mọi thành công không bao giờ đạt được khi chúng ta bước trên con đường trải đầy hoa hồng. Cuộc sống không bao giờ là một mạt hồ phẳng lặng. để chiến thắng chúng ta phải đối mặt với nhiều biến cố, nhiều sai lầm. – Chúng ta học hỏi được nhiều điều hơn khi chúng ta thất bại. Bởi lúc đó chúng ta phân tích tình hình, rút kinh nghiệm và đưa ra một chiến lược mới. Lời chúc tụng tưng bừng trong chiến thắng đôi lúc làm chúng ta tự mãn. Dám hành động là dám chấp nhận những sai lầm như một phần tất yếu để học hỏi. Thành công không có chỗ cho sự lười nhác. – Tuy nhiên không phải cứ chấp nhận sai lầm là thành công và chiến thắng. Bởi có những người cứ hành động mà không suy xét, không đánh giá đúng thực lực, tiềm năng của bản thân mà hành xử liều lĩnh bất chấp kết quả xảy ra thì không thể tìm được những bài học bổ ích có ý nghĩa từ những sai lầm. – Nhìn vào sai lầm của một người chúng ta có được những đánh giá xác đáng về ý chí, nghị lực, khả năng, bản lĩnh, sự sáng tạo…. của một con người. – Nhận thức đúng về những sai lầm trong cuộc đời sẽ giúp chúng ta có động lực vượt qua tất cả và tỏa sáng. Học sinh có thể lấy một số dẫn chứng để làm sáng tỏ vấn đề: Edison, Chủ tịch Hồ Chí Minh… Đây là một ý kiến buộc chúng ta phải suy ngẫm thấu đáo. Xác định được ý nghĩa tích cực của sai lầm là chúng ta đã chạm tay gần hơn đến thành công. Còn nếu suy nghĩa phiếm diện chúng ta sẽ không lường được những thất bại đang chờ mình. Câu 2: – Văn chương: là những sáng tạo nghệ thuật của người nghệ sĩ, dùng chất liệu ngôn từ để xây dựng, hình tượng, phản ánh đời sống qua đó gửi gắm tư tưởng tình cảm của người nghệ sĩ. – Văn chương bởi tình cảm mà sinh: Văn chương nảy sinh từ xúc cảm của người nghệ sĩ trước cuộc đời.. đó là những “ rung động tận đáy tâm hồn với những lo âu, bức bội, tủi hổ và những ước mong tha thiết của loài người” – văn tức là một bức tả chân của tình cảm vậy: Đến với một tác phẩm văn chương là chúng ta sống với một thế giới tâm hồn hồn chân thật và cao đẹp => Ý kiến của Bùi Kỉ khẳng định: Văn chương xuất phát từ tình cảm của người nghệ sĩ, đến với một sáng tạo nghệ thuật chúng ta phải khám được thế giới tâm hồn giàu xúc cảm đó để bồi dưỡng tinh thần. * Văn học phản ánh hiện thực đời sống và đối tượng chính là cuộc sống con người trong các mối quan hệ xã hội phức tạp, đa dạng. Văn học chú trọng đào sâu thế giới nội tâm phong phú, bí ẩn của con người – một thế giới tâm lý phức tạp mà tinh tế. Cuộc sống là mảnh đất màu mỡ nuôi duôi dưỡng văn học, còn tình cảm của người nghệ sĩ chắp cho văn học đôi cánh bay bổng, làm cho hiện thực có sức sống, có sức hấp dẫn. Nếu nhà trước thuật “có đủ cái học uyên thâm” thì nhà văn nhà thơ lại “có nguồn cảm hứng bay bổng”. + Lỗ Tấn: “Gặp những cái gì hay và đáng yêu thì họ ôm chầm lấy, nếu gặp điều trái đáng giận thì học sẽ bác bỏ.. Phải kịch liệt công kích cái sai như đã từng nhiệt liệt chủ trương cái đúng” + Ngô Thì Nhậm “Tình cảm dồi dào thì thơ nảy sinh. Hoặc là tình nam nữ thương nhau, hoặc là tình chống vợ nhớ nhau….” + “Nghệ thuật bao giờ cũng là tiếng nói ”cuả tình cảm con người, là sự tự giãi bày và gửi gắm tâm tư” (Lê Ngọc Trà) + L. Tôn x tôi: “Một tác phẩm nghệ thuật là kết quả của tình yêu. Tình yêu con người và ước mơ cháy bỏng vì một xã hội công bằng, bình đẳng bác ái luôn nhà văn viết, sống vắt kiệt những dòng suy nghĩ, hiến dâng bầu máu nóng của mình cho nhân loại” => Tình cảm làm cho nghệ thuật thăng hoa và có sức sống mãnh liệt. Từ muôn xưa Việt Nam đã dùng văn chương để nói lên những nỗi vui, buồn, mừng giận, lo, mong, những ước mong, những oán thù thầm kín trong lòng mình. Tình cảm giữ một vị trí trọng yếu trong cảm hứng của người làm thơ. * Những tình cảm chân thành, cao đẹp của người nghệ sĩ trong sáng tạo nghệ thuật luôn có sức lay động và cảm hóa lòng người, khiến con người có thể “di dưỡng tính tình”, bồi đắp cảm xúc, thanh lọc tâm hồn, chắp cánh cho những ước mơ và tưởng tượng, giúp con người phân biệt được lẽ đúng sai, hướng con người đến chân thiện mĩ.. Tình cảm, cảm xúc làm nên giá trị nhân đạo sâu sắc của tác phẩm nghệ thuật,, đó là tấm lòng nhân đạo từ trong cốt tủy của người nghệ sĩ sáng tạo. * Đến với một sáng tác văn chương người đọc chúng ta không chỉ khám phá cuộc sống đa dạng phong phú được phản ánh trong tác phẩm, mỗi chúng ta phải tìm đến được cội nguồn cảm xúc sáng tạo. * Tác phẩm “Độc Tiểu Thanh kí” của Nguyễn Du: – Nội dung: Văn chương là câu chuyện của tâm hồn và tình cảm là sinh mệnh của thơ: Tác phẩm “Độc Tiểu Thanh kí” là những rung động, cảm thông sâu sắc của Nguyễn Du với số phận tài hoa bất hạnh của Tiểu Thanh. Qua số phận Tiểu Thanh, nhà thơ cũng bọc lộ những trăn trở về cuộc đời nhiều long đong lận đận của mình. – Nghệ thuật: Hình ảnh giàu giá trị biểu cảm, nghệ thuật đối, câu hỏi tu từ… * Trích đoạn “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ”: – Nội dung: Đoạn trích là sự thấu hiểu cảm thông sâu sắc của tác giả với nỗi cô đơn, lẻ loi, sầu muộn của người chinh phụ khi chồng đi chiến, đồng thời đó cũng là sự trân trọng đối với khát vọng hạnh phúc chính đáng của người phụ nữ. Thái độ câm phẫn chiến tranh phi nghĩa vì thế mà toát lên trong từng hình ảnh thơ
Hướng dẫn VÙNG DUYÊN HẢI VÀ ĐỒNG BẰNG BẮC BỘ TRƯỜNG THPT CHUYÊN THÁI BÌNH ĐỀ THI ĐỀ XUẤT NĂM 2018 Thời gian làm bài: 180 phút ( Đề thi gồm 02 trang) Câu 1(8,0 điểm) NGỤ NGÔN CỦA MỖI NGÀY Ngồi cùng trang giấy nhỏ Tôi đi học mỗi ngày Tôi học cây xương rồng Trời xanh cùng nắng, bão Tôi học trong nụ hồng Màu hoa chừng rỏ máu Tôi học lời ngọn gió Chẳng bao giờ vu vơ Tôi học lời của biển Đừng hạn hẹp bến bờ Tôi học lời con trẻ Về thế giới sạch trong Tôi học lời già cả Về cuộc sống vô cùng Tôi học lời chim chóc Đang nói về bình minh Và trong bia mộ đá Lời răn dạy đời mình. (Theo Internet, Đỗ Trung Quân) Từ bài thơ trên, anh/ chị có suy nghĩ gì về việc học trong cuộc sống? Câu 2(12,0 điểm) “ Nghĩ về thơ, nghĩ về thơ”, tác giả Chế Lan Viên viết: …Câu thơ ư, là cách truyền lửa qua muôn đời Ai hơi đâu truyền đuốc tắt mà chơi” Bằng cảm nhận về một số tác phẩm thơ trong chương trình lớp 10, anh/ chị hãy làm sáng tỏ ý kiến trên. ——– HẾT ——– Người ra đề: Lê Nga HƯỚNG DẪN CHẤM THI MÔN NGỮ VĂN 10 Câu 1.(8,0 điểm) Thí sinh biết cách vận dụng kĩ năng làm bài nghị luận xã hội về một tư tưởng đạo lý để tạo lập văn bản. Bài viết có bố cục rõ ràng, các luận điểm, luận cứ xác đáng, vận dụng linh hoạt các thao tác lập luận như giải thích, phân tích, chứng minh, bình luận, bác bỏ…, diễn đạt trôi chảy, không mắc lỗi chính tả, dùng từ, ngữ pháp. 1.Nêu vấn đề nghị luận: Từ quan niệm của nhà thơ Đỗ Trung Quân, bày tỏ suy nghĩ của mình về việc học mỗi ngày từ cuộc sống – Học ( học tập, học hành, học hỏi) là quá trình tiếp xúc và tiếp thu kiến thức mới hoặc bổ sung, trau dồi các kiến thức nâng cao, các kỹ năng, kinh nghiệm, giá trị, nhận thức hoặc sở thích và có liên quan đến việc tổng hợp các thông tin khác nhau. – Bài thơ đã thể hiện một quan niệm đúng đắn, tốt đẹp của tác giả Đỗ Trung Quân về việc học: học không phải chỉ là ở trường, lớp mà học còn là một cuộc hành trình tìm kiếm – khám phá – lĩnh hội từ những điều bình dị trong cuộc sống. Trong suốt cuộc đời, con người luôn luôn có thể học tập thêm kiến thức, bồi dưỡng cho tâm hồn mình giàu có và phong phú hơn. Cuộc sống chính là một trường học lớn giúp ta trải nghiệm mỗi ngày để thêm yêu đời và sống tốt đẹp hơn. – Những bài học hữu ích có thể đến từ chính những điều bình dị quanh mình + Học được từ thiên nhiên, cỏ cây vạn vật: sự thích nghi để tồn tại của cây xương rồng trong hoàn cảnh khắc nghiệt, luôn chắt chiu nhựa sống giữa trời xanh và nắng bão); sự tận hiến kiệt cùng của nụ hồng dâng sắc tỏa hương điểm tô cho đời màu hoa chừng rỏ máu; sự phóng khoáng, tự do nhưng không vu vơ của gió; sự rộng lượng, bao dung không hạn hẹp bến bờ của biển; sự vui vẻ, lạc quan, yêu đời của những con chim líu lo hót chào bình minh… + Học được từ con người: sự hồn nhiên, sạch trong từ lời của trẻ thơ; sự từng trải, kinh nghiệm quý giá của người già về cuộc sống vô cùng; ngay cả “bia mộ đá” trên nấm mồ hoang lạnh cũng mang đến “ lời răn dạy”, nhắc nhở ta về cuộc đời hữu hạn, hãy yêu và trân trọng sự sống, cuộc sống quý giá này. – Những bài học cuộc sống sẽ giúp tâm hồn ta thêm phong phú, rộng mở, hoàn thiện nhân cách, hướng tới lối sống tích cực, hữu ích – Học phải chọn lọc những điều hay, loại trừ những điều không tốt. 4.Bài học trong nhận thức và hành động – Học đi với hành, để kiến thức trở thành văn hóa trong mỗi hành vi ứng xử. – Học một cách bền bỉ trong suốt quá trình sống: từ nhỏ đến khi trưởng thành, cho đến suốt cuộc đời. III. Cách cho điểm: 7 – 8 điểm: Đảm bảo được đầy đủ các yêu cầu, nghị luận có sức thuyết phục, diễn đạt có cảm xúc, có thể mắc một vài lỗi nhỏ. 5 – 6 điểm: Đáp ứng khá đầy đủ yêu cầu ; nghị luận tương đối có sức thuyết phục, không có sai sót lớn về diễn đạt. 3 – 4 điểm: Tỏ ra hiểu vấn đề; biết cách làm bài nghị luận xã hội, tuy vậy bài viết còn sơ sài về nội dung hoặc mắc nhiều lỗi. 1 – 2 điểm: Chưa hiểu rõ vấn đề hoặc không biết cách lập luận, mắc quá nhiều lỗi 0 điểm: Lạc đề hoàn toàn hoặc không viết bài Câu 2. (12,0 điểm) – Học sinh biết cách làm bài bình luận ý kiến về một vấn đề lí luận văn học. Bài viết phải vừa có sắc thái lý luận, vừa thể hiện rõ những cảm nhận tinh tế về tác giả, tác phẩm – Biết xác định đúng luận đề, luận điểm sáng rõ, lập luận chặt chẽ, kết cấu rõ ràng. – Diễn đạt mạch lạc, trong sáng, giàu chất văn. – Hành văn trong sáng, giàu cảm xúc; không mắc lỗi chính tả, dùng từ, đặt câu. Yêu cầu về kiến thức: Học sinh có thể trình bày theo nhiều cách khác nhau, trên cơ sở cảm nhận ý thơ của Chế Lan Viên, vận dụng kiến thức lý luận văn học và cảm thụ một số tác phẩm thơ trong chương trình lớp 10, tổng hợp các thao tác của bài nghị luận để bày tỏ ý kiến của mình, Giải thích (2 điểm) – Lửa là nhiệt, là ánh sáng, tượng trưng cho tinh thần, tình cảm sôi sục, mạnh mẽ. Người viết câu thơ như đốt lên ngọn đuốc để truyền lửa qua muôn đời, thắp lửa trong trái tim người đọc. -> Câu thơ thể hiện suy ngẫm của tác giả về vai trò, sứ mệnh của người nghệ sĩ trong sáng tạo thơ ca và vai trò, chức năng của văn học nói chung, thơ ca nói riêng. Thiên chức cao đẹp của người nghệ sĩ trong sáng tạo với cuộc hành trình truyền lửa qua muôn đời, tạo sự kết nối trong quá trình tiếp nhận lĩnh hội văn bản: tác giả- tác phẩm- độc giả. – Văn học là một hình thái ý thức xã hội và là một bộ môn nghệ thuật dùng chất liệu ngôn từ để tái hiện cuộc sống, truyền tải tư tưởng, tình cảm thẩm mỹ thông qua hình tượng nghệ thuật, tác động tới tâm hồn người đọc. – Thơ là thể loại nảy sinh sớm nhất trong đời sống nhân loại. Bản chất của thơ là trữ tình, là tiếng nói của cảm xúc, qua đó biểu hiện những tư tưởng, đúc kết những quy luật của đời sống, cảm xúc được thể hiện một cách mãnh liệt nhất, sôi sục nhất, dâng trào nhất, thăng hoa nhất. Thơ là tiếng hát tâm hồn con người với khát vọng sống, khát vọng sáng tạo, sự thăng hoa cảm xúc, là sự diễn đạt cái đẹp của ý của tình trong cái đẹp của lời của tiếng để hòa điệu trong trái tim mọi người – Một tác phẩm chân chính, có giá trị đích thực sẽ là những ngọn lửa sáng tạo được đốt lên từ trái tim cháy bỏng của người nghệ sĩ, bùng lên thành ngọn đuốc để truyền lại cho muôn đời, tác động đến tư tưởng, tình cảm, đạo đức, lối sống của con người thông qua thế giới hình tượng nghệ thuật. Văn chương nói chung, thơ ca nói riêng không giáo dục một cách trực tiếp, tức thì mà giáo dục một cách lâu dài. – Tác động của thơ đối với người đọc bằng con đường tình cảm. Nhà thơ phải tạo được những cảm xúc mang tính nhân đạo, tính thẩm mỹ để khơi dậy trong tâm hồn người đọc những tình cảm tốt đẹp, hướng thiện, làm thanh lọc và bồi đắp tâm hồn người đọc thêm trong sạch và phong phú hơn – Chất liệu để đốt lên ngọn lửa truyền qua muôn đời là thế giới hình tượng trong tác phẩm. Chất liệu ấy sẽ nhen nhóm những rung động đầu tiên với những thiện cảm, thích thú, yêu mến trong người đọc rồi ngấm dần và vun đắp thành những suy tư, chiêm nghiệm về sự sống, cuộc sống và con người, thấm sâu và trở thành máu thịt, thành nhân cách và lẽ sống của con người. 3. Đánh giá, mở rộng vấn đề ( 2 điểm) – Khẳng định, nhấn mạnh chức năng và vai trò tiếp nhận văn học trong thưởng thức nghệ thuật. – Đề cao vai trò, trách nhiệm của người cầm bút: phải dấn thân, phải cháy hết mình trong mỗi câu thơ, để thơ trở thành ngọn đuốc với ánh sáng Chân- Thiện-Mỹ. *Học sinh chọn dẫn chứng phù hợp, tiêu biểu trong chương trình lớp 10 để chứng minh III. Cách cho điểm: – Điểm 10-12: Bài viết đáp ứng tốt các yêu cầu. Diễn đạt giàu chất văn, lập luận rõ ràng, dẫn chứng thuyết phục, phân tích sâu sắc. Khuyến khích các bài văn có tính sáng tạo – Điểm 7-9: Bài viết đáp ứng được những ý cơ bản, hầu như không mắc lỗi về kĩ năng và diễn đạt. – Điểm 4-6: Bài viết chỉ trình bày được một nửa yêu cầu về kiến thức, hoặc liệt kê dẫn chứng đơn thuần. Còn mắc lỗi về kĩ năng và diễn đạt. – Điểm 1-3: Bài viết chưa hiểu rõ về vấn đề, chủ yếu thuật kể dẫn chứng. Diễn đạt và kĩ năng viết văn nghị luận yếu. – Điểm 0: Bài viết lạc đề hoàn toàn hoặc học sinh không viết bài.
Hướng dẫn VÙNG DUYÊN HẢI VÀ ĐỒNG BẰNG BẮC BỘ TRƯỜNG THPT CHUYÊN THÁI BÌNH ĐỀ THI ĐỀ XUẤT NĂM 2018 Thời gian làm bài: 180 phút ( Đề thi gồm 02 trang) Câu 1(8,0 điểm) NGỤ NGÔN CỦA MỖI NGÀY Ngồi cùng trang giấy nhỏ Tôi đi học mỗi ngày Tôi học cây xương rồng Trời xanh cùng nắng, bão Tôi học trong nụ hồng Màu hoa chừng rỏ máu Tôi học lời ngọn gió Chẳng bao giờ vu vơ Tôi học lời của biển Đừng hạn hẹp bến bờ Tôi học lời con trẻ Về thế giới sạch trong Tôi học lời già cả Về cuộc sống vô cùng Tôi học lời chim chóc Đang nói về bình minh Và trong bia mộ đá Lời răn dạy đời mình. (Theo Internet, Đỗ Trung Quân) Từ bài thơ trên, anh/ chị có suy nghĩ gì về việc học trong cuộc sống? Câu 2(12,0 điểm) “ Nghĩ về thơ, nghĩ về thơ”, tác giả Chế Lan Viên viết: …Câu thơ ư, là cách truyền lửa qua muôn đời Ai hơi đâu truyền đuốc tắt mà chơi” Bằng cảm nhận về một số tác phẩm thơ trong chương trình lớp 10, anh/ chị hãy làm sáng tỏ ý kiến trên. ——– HẾT ——– Người ra đề: Lê Nga HƯỚNG DẪN CHẤM THI MÔN NGỮ VĂN 10 Câu 1.(8,0 điểm) Thí sinh biết cách vận dụng kĩ năng làm bài nghị luận xã hội về một tư tưởng đạo lý để tạo lập văn bản. Bài viết có bố cục rõ ràng, các luận điểm, luận cứ xác đáng, vận dụng linh hoạt các thao tác lập luận như giải thích, phân tích, chứng minh, bình luận, bác bỏ…, diễn đạt trôi chảy, không mắc lỗi chính tả, dùng từ, ngữ pháp. 1.Nêu vấn đề nghị luận: Từ quan niệm của nhà thơ Đỗ Trung Quân, bày tỏ suy nghĩ của mình về việc học mỗi ngày từ cuộc sống – Học ( học tập, học hành, học hỏi) là quá trình tiếp xúc và tiếp thu kiến thức mới hoặc bổ sung, trau dồi các kiến thức nâng cao, các kỹ năng, kinh nghiệm, giá trị, nhận thức hoặc sở thích và có liên quan đến việc tổng hợp các thông tin khác nhau. – Bài thơ đã thể hiện một quan niệm đúng đắn, tốt đẹp của tác giả Đỗ Trung Quân về việc học: học không phải chỉ là ở trường, lớp mà học còn là một cuộc hành trình tìm kiếm – khám phá – lĩnh hội từ những điều bình dị trong cuộc sống. Trong suốt cuộc đời, con người luôn luôn có thể học tập thêm kiến thức, bồi dưỡng cho tâm hồn mình giàu có và phong phú hơn. Cuộc sống chính là một trường học lớn giúp ta trải nghiệm mỗi ngày để thêm yêu đời và sống tốt đẹp hơn. – Những bài học hữu ích có thể đến từ chính những điều bình dị quanh mình + Học được từ thiên nhiên, cỏ cây vạn vật: sự thích nghi để tồn tại của cây xương rồng trong hoàn cảnh khắc nghiệt, luôn chắt chiu nhựa sống giữa trời xanh và nắng bão); sự tận hiến kiệt cùng của nụ hồng dâng sắc tỏa hương điểm tô cho đời màu hoa chừng rỏ máu; sự phóng khoáng, tự do nhưng không vu vơ của gió; sự rộng lượng, bao dung không hạn hẹp bến bờ của biển; sự vui vẻ, lạc quan, yêu đời của những con chim líu lo hót chào bình minh… + Học được từ con người: sự hồn nhiên, sạch trong từ lời của trẻ thơ; sự từng trải, kinh nghiệm quý giá của người già về cuộc sống vô cùng; ngay cả “bia mộ đá” trên nấm mồ hoang lạnh cũng mang đến “ lời răn dạy”, nhắc nhở ta về cuộc đời hữu hạn, hãy yêu và trân trọng sự sống, cuộc sống quý giá này. – Những bài học cuộc sống sẽ giúp tâm hồn ta thêm phong phú, rộng mở, hoàn thiện nhân cách, hướng tới lối sống tích cực, hữu ích – Học phải chọn lọc những điều hay, loại trừ những điều không tốt. 4.Bài học trong nhận thức và hành động – Học đi với hành, để kiến thức trở thành văn hóa trong mỗi hành vi ứng xử. – Học một cách bền bỉ trong suốt quá trình sống: từ nhỏ đến khi trưởng thành, cho đến suốt cuộc đời. III. Cách cho điểm: 7 – 8 điểm: Đảm bảo được đầy đủ các yêu cầu, nghị luận có sức thuyết phục, diễn đạt có cảm xúc, có thể mắc một vài lỗi nhỏ. 5 – 6 điểm: Đáp ứng khá đầy đủ yêu cầu ; nghị luận tương đối có sức thuyết phục, không có sai sót lớn về diễn đạt. 3 – 4 điểm: Tỏ ra hiểu vấn đề; biết cách làm bài nghị luận xã hội, tuy vậy bài viết còn sơ sài về nội dung hoặc mắc nhiều lỗi. 1 – 2 điểm: Chưa hiểu rõ vấn đề hoặc không biết cách lập luận, mắc quá nhiều lỗi 0 điểm: Lạc đề hoàn toàn hoặc không viết bài Câu 2. (12,0 điểm) – Học sinh biết cách làm bài bình luận ý kiến về một vấn đề lí luận văn học. Bài viết phải vừa có sắc thái lý luận, vừa thể hiện rõ những cảm nhận tinh tế về tác giả, tác phẩm – Biết xác định đúng luận đề, luận điểm sáng rõ, lập luận chặt chẽ, kết cấu rõ ràng. – Diễn đạt mạch lạc, trong sáng, giàu chất văn. – Hành văn trong sáng, giàu cảm xúc; không mắc lỗi chính tả, dùng từ, đặt câu. Yêu cầu về kiến thức: Học sinh có thể trình bày theo nhiều cách khác nhau, trên cơ sở cảm nhận ý thơ của Chế Lan Viên, vận dụng kiến thức lý luận văn học và cảm thụ một số tác phẩm thơ trong chương trình lớp 10, tổng hợp các thao tác của bài nghị luận để bày tỏ ý kiến của mình, Giải thích (2 điểm) – Lửa là nhiệt, là ánh sáng, tượng trưng cho tinh thần, tình cảm sôi sục, mạnh mẽ. Người viết câu thơ như đốt lên ngọn đuốc để truyền lửa qua muôn đời, thắp lửa trong trái tim người đọc. -> Câu thơ thể hiện suy ngẫm của tác giả về vai trò, sứ mệnh của người nghệ sĩ trong sáng tạo thơ ca và vai trò, chức năng của văn học nói chung, thơ ca nói riêng. Thiên chức cao đẹp của người nghệ sĩ trong sáng tạo với cuộc hành trình truyền lửa qua muôn đời, tạo sự kết nối trong quá trình tiếp nhận lĩnh hội văn bản: tác giả- tác phẩm- độc giả. – Văn học là một hình thái ý thức xã hội và là một bộ môn nghệ thuật dùng chất liệu ngôn từ để tái hiện cuộc sống, truyền tải tư tưởng, tình cảm thẩm mỹ thông qua hình tượng nghệ thuật, tác động tới tâm hồn người đọc. – Thơ là thể loại nảy sinh sớm nhất trong đời sống nhân loại. Bản chất của thơ là trữ tình, là tiếng nói của cảm xúc, qua đó biểu hiện những tư tưởng, đúc kết những quy luật của đời sống, cảm xúc được thể hiện một cách mãnh liệt nhất, sôi sục nhất, dâng trào nhất, thăng hoa nhất. Thơ là tiếng hát tâm hồn con người với khát vọng sống, khát vọng sáng tạo, sự thăng hoa cảm xúc, là sự diễn đạt cái đẹp của ý của tình trong cái đẹp của lời của tiếng để hòa điệu trong trái tim mọi người – Một tác phẩm chân chính, có giá trị đích thực sẽ là những ngọn lửa sáng tạo được đốt lên từ trái tim cháy bỏng của người nghệ sĩ, bùng lên thành ngọn đuốc để truyền lại cho muôn đời, tác động đến tư tưởng, tình cảm, đạo đức, lối sống của con người thông qua thế giới hình tượng nghệ thuật. Văn chương nói chung, thơ ca nói riêng không giáo dục một cách trực tiếp, tức thì mà giáo dục một cách lâu dài. – Tác động của thơ đối với người đọc bằng con đường tình cảm. Nhà thơ phải tạo được những cảm xúc mang tính nhân đạo, tính thẩm mỹ để khơi dậy trong tâm hồn người đọc những tình cảm tốt đẹp, hướng thiện, làm thanh lọc và bồi đắp tâm hồn người đọc thêm trong sạch và phong phú hơn – Chất liệu để đốt lên ngọn lửa truyền qua muôn đời là thế giới hình tượng trong tác phẩm. Chất liệu ấy sẽ nhen nhóm những rung động đầu tiên với những thiện cảm, thích thú, yêu mến trong người đọc rồi ngấm dần và vun đắp thành những suy tư, chiêm nghiệm về sự sống, cuộc sống và con người, thấm sâu và trở thành máu thịt, thành nhân cách và lẽ sống của con người. 3. Đánh giá, mở rộng vấn đề ( 2 điểm) – Khẳng định, nhấn mạnh chức năng và vai trò tiếp nhận văn học trong thưởng thức nghệ thuật. – Đề cao vai trò, trách nhiệm của người cầm bút: phải dấn thân, phải cháy hết mình trong mỗi câu thơ, để thơ trở thành ngọn đuốc với ánh sáng Chân- Thiện-Mỹ. *Học sinh chọn dẫn chứng phù hợp, tiêu biểu trong chương trình lớp 10 để chứng minh III. Cách cho điểm: – Điểm 10-12: Bài viết đáp ứng tốt các yêu cầu. Diễn đạt giàu chất văn, lập luận rõ ràng, dẫn chứng thuyết phục, phân tích sâu sắc. Khuyến khích các bài văn có tính sáng tạo – Điểm 7-9: Bài viết đáp ứng được những ý cơ bản, hầu như không mắc lỗi về kĩ năng và diễn đạt. – Điểm 4-6: Bài viết chỉ trình bày được một nửa yêu cầu về kiến thức, hoặc liệt kê dẫn chứng đơn thuần. Còn mắc lỗi về kĩ năng và diễn đạt. – Điểm 1-3: Bài viết chưa hiểu rõ về vấn đề, chủ yếu thuật kể dẫn chứng. Diễn đạt và kĩ năng viết văn nghị luận yếu. – Điểm 0: Bài viết lạc đề hoàn toàn hoặc học sinh không viết bài.
Hướng dẫn TRƯỜNG THPT CHUYÊN NGUYỄN TRÃI TỈNH HẢI DƯƠNG ĐỀ THI ĐỀ XUẤT NĂM 2018 Thời gian làm bài:180 phút (Đề thi gồm: 01 trang, 2 câu) Câu 1 (8,0 điểm) LỪA VÀ NGỰA. Có chú lừa đi cùng một con ngựa trông sang trọng bảnh bao lắm. Trên lưng ngựa chỉ có bộ yên thồ hàng, còn trên lưng lừa lại chồng chất hàng hóa nặng đến mức nó không chịu nổi. Lừa cầu xin ngựa chia sẻ giúp nó một chút gánh nặng nếu không nó sẽ chết gục trước khi tới được thành phố. Nó nói: – Cầu xin anh giúp tôi vơi một nửa gánh nặng này, đối với anh cũng chỉ như trò đùa thôi. Ngựa ta nghe xong từ chối thẳng thừng, thậm chí còn phì một tràng hơi vào mặt anh bạn đồng hành. Lừa không chịu thêm được gánh nặng trên vai, nó đã gục ngã. Sau đó, con ngựa đã phải chở toàn bộ số hàng, và còn thêm cả bộ da lừa nữa. ( Ngụ ngôn Laphôngten) Suy nghĩ của anh (chị) từ ý nghĩa của câu chuyện trên? Câu 2 (12,0 điểm). “Có thể xem quá trình sáng tạo là quá trình luyện ngọc. Tác phẩm được hình thành, hình tượng được tạo ra lung linh ánh sáng của ngọc quý. Nhưng nếu tinh ý, ta có thể nhìn thấy máu, thấy nước mắt, thấy niềm vui và nỗi đau của người thợ kì tài” (Nguyễn Khải). Hãy bày tỏ suy nghĩ của anh (chị) ý kiến trên, làm sáng tỏ vấn đề qua một vài tác phẩm trong chương trình Ngữ văn 10 Nâng cao …………..Hết…………. Họ tên: Đinh Thị Ngọc Vân ĐÁP ÁN + BIỂU ĐIỂM CHẤM MÔN NGỮ VĂN KHỐI 10 YÊU CẦU CHUNG – Giám khảo phải nắm được nội dung trình bày trong bài làm của thí sinh, tránh đếm ý cho điểm. Vận dụng linh hoạt Hướng dẫn chấm, sử dụng nhiều mức điểm một cách hợp lí, khuyến khích những bài viết có cảm xúc, sáng tạo. – Học sinh có thể làm bài theo nhiều cách nhưng nếu đáp ứng những yêu cầu cơ bản của đề, diễn đạt tốt vẫn cho đủ điểm. – Điểm bài thi có thể cho lẻ đến 0,25 điểm và không làm tròn. YÊU CẦU CỤ THỂ Câu 1 (8,0 điểm) Về kĩ năng: – Biết cách làm bài văn nghị luận về một tư tưởng đạo lí, bố cục rõ ràng, lập luận chặt chẽ, vận dụng tốt các thao tác lập luận, dẫn chứng tiêu biểu, chọn lọc. – Bài viết trong sáng, mạch lạc, không mắc lỗi chính tả, dùng từ, ngữ pháp. – Học sinh có thể trình bày bài viết dưới nhiều hình thức khác nhau b.Về kiến thức: Học sinh có thể trình bày theo nhiều cách khác nhau nhưng cần đảm bảo các ý cơ bản sau: – Cắt nghĩa những hình ảnh biểu tượng: + Lừa và ngựa đi cùng nhau: những người đồng hành kề vai sát cánh với nhau trong hành trình cuộc đời. + Con ngựa sang trọng bảnh bao: con người có cuộc sống nhàn nhã, thảnh thơi. + Trên lưng ngựa chỉ có một bộ yên thồ hàng: không phải gánh vác trách nhiệm +Con lừa với gánh nặng trên lưng: con người với những gánh nặng cần phải gánh vác trong hành trình cuộc đời. + Sự chênh lệch giữa hai gánh nặng: trách nhiệm không tương đồng + Lời cầu xin của lừa: Mong muốn được chia sẻ gánh nặng để có thể tới đích mà không gục ngã, mong chờ sự giúp đỡ và cũng là phuơng án cuối cùng để vượt qua khó khăn + Lời từ chối của ngựa: sự ích kỉ đến lạnh lùng tàn nhẫn, không quan tâm đến an nguy, sống còn của nguời khác. – Ý nghĩa: Không nên ích kỉ từ chối sự chia sẻ với người khác gánh nặng trên hành trình cuộc đời. Biết chan hòa, yêu thương chia sẻ. 1.5 0,5 – Mỗi con người có những giới hạn nhất định về khả năng chịu đựng, khi đẩy họ đến tận cùng của giới hạn họ sẽ rời bỏ ta, không coi ta là người đồng hành, ta là nguời thừa. – Phải chịu hậu qủa thích đáng là sự xa lánh của người khác, khi gặp khó khăn không ai ra tay cứu giúp thậm chí phải chịu gánh nặng của cả mình và nguời khác để lại và phải sống trong day dứt khổ đau. – Không chia sẻ là biểu hiện của vô cảm ích kỉ, tàn nhẫn. Biết chia sẻ là người sống biết mình, biết người, vun đắp cho lòng nhân đạo. – Phê phán: Sự ích kỉ, thiếu tinh thành trách nhiệm trong gánh vác công việc chung. – Không nên cam chịu đến mức gục ngã một mình trước những gánh nặng cuộc đời 0,5 0,5 Cần biết chia sẻ trong công việc và cuộc sống, đây cũng là xu thế chung của xã hội hôm nay. Câu 2 (12,0 điểm) Về kĩ năng: – Biết cách làm bài văn nghị luận về một vấn đề lí luận văn học, bố cục rõ ràng, vận dụng tốt các thao tác lập luận. – Biết cách chọn và phân tích dẫn chứng một cách xác đáng để làm sáng tỏ vấn đề nghị luận. – Bài viết mạch lạc, trong sáng, có cảm xúc, không mắc lỗi chính tả, dùng từ, ngữ pháp. Về kiến thức: Học sinh có thể trình bày theo nhiều cách khác nhau nhưng cần đảm bảo các ý cơ bản sau: – Quá trình luyện ngọc: là quá trình làm ra tác phẩm. – Tác phẩm, hình tượng được tạo ra lung linh ánh sáng của ngọc quý: vẻ đẹp sức hấp dẫn của tác phẩm nghệ thuật. – Máu: chất làm nên sự sống còn- toàn bộ sự hiểu biết, sự sống của người nghệ sĩ – Nước mắt, nỗi đau, niềm vui: Những cung bậc cảm xúc phong phú. – Ý nghĩa: Quá trình sáng tạo nghệ thuật là quá trình công phu khó nhọc, chỉ khi người nghệ sĩ đem toàn bộ sự hiểu biết và tâm hồn mình vào tác phẩm thì mới tạo ra được những tác phẩm nghệ thuật có sức hấp dẫn. Tác phẩm kết tinh tư tưởng và tình cảm của người nghệ sĩ về con người và cuộc đời. – Lao dộng nghệ thuật có tính chất cá thể. Không ai có thể thay thế người nghệ sĩ trong quá trình làm ra tác phẩm. Khi người nghệ sĩ có cảm hứng hình thành ý đồ thì tác phẩm mới chỉ hình thành ở dạng thai nghén. Để viết được người nghệ sĩ phải huy động vốn sống và sự hiểu biết và thể hiện ra bằng những hình tượng và diễn đạt ra bằng ngôn từ. Người nghệ sĩ là “người phu chữ”. – Chỉ khi đem toàn bộ sự hiểu biết vào tác phẩm thì mới tạo ra được những hình tượng có ý nghĩa, có sức truyền cảm mãnh liệt khi ấy tác phẩm mới có khả năng tác động to lớn đến con người và cuộc đời. – Khi nghệ sĩ đem sự sống và tâm hồn mình vào tác phẩm, tác phẩm không chỉ là tấm gương phản chiếu cuộc sống mà còn là tấm gương phản chiếu tâm hồn nghệ sĩ. – Những hình tượng nghệ thuật được khắc họa bằng sự hiểu biết, tình cảm thôi thúc mãnh liệt, thể hiện sự tài hoa của người nghệ sĩ và đạt đến độ độc đáo. – Sự hiểu biết của tác giả về hiện thực. – Tư tưởng và những cung bậc tình cảm của người cầm bút.
Instruct NGUYEN TRAI HIGH SCHOOL FOR THE SPECIALIZED HAI DUONG PROVINCE SUGGESTED EXAM YEAR 2018 Duration 180 minutes post (Test includes: 01 page, 2 questions) Question 1 (8.0 points) DONKEY AND HORSE. There was a donkey with a horse that looked very luxurious and elegant. On the horse's back there was only a saddle to carry the goods, but on the donkey's back the goods were so heavy that it could not bear it. The donkey begged the horse to share some of his burden or he would die before reaching the city. It says: – Please help me relieve half of this burden, it's just a joke to you. After hearing this, my horse flatly refused, even puffing in his companion's face. The donkey could not bear the extra burden on his shoulders, he collapsed. After that, the horse had to carry the entire load, and also the donkey skin. (Laphonten's Fable) What are your thoughts on the meaning of the above story? Question 2 (12.0 points). “The creative process can be seen as the process of refining jade. The work is formed, the image is created shimmering with the light of precious gems. But if we are observant, we can see the blood, tears, joy and pain of the talented craftsman" (Nguyen Khai). Please express your thoughts and opinions on the above, clarifying the issue through a few works in the Advanced 10 Literature program. …………..Run out of…………. Full name: Dinh Thi Ngoc Van ANSWERS + GRADE SCHEDULE FOR LANGUAGE AND LITERATURE GRADE 10 GENERAL REQUIREMENTS – The examiner must understand the content presented in the candidate's work, avoid counting points to score. Flexibly apply the Grading Instructions, use multiple scoring levels appropriately, and encourage emotional and creative writing. – Students can do the test in many ways, but if they meet the basic requirements of the test and express themselves well, they will still get enough points. – Test scores can be given in increments of up to 0.25 points and are not rounded. SPECIFIC REQUIREMENTS Question 1 (8.0 points) About skills: – Know how to write an argumentative essay about a moral ideology, with clear layout, tight arguments, good use of argumentative operations, typical and selective evidence. – The article is clear, coherent, without errors in spelling, vocabulary, or grammar. – Students can present their writing in many different forms b.About knowledge: Students can present in many different ways but need to ensure the following basic ideas: – Interpretation of symbolic images: + Donkey and horse walking together: companions standing side by side on life's journey. + Luxurious and dashing horse: people have a leisurely and carefree life. + On horseback there is only one saddle to carry goods: no responsibility +Donkey with a burden on its back: a person with burdens that need to be shouldered in life's journey. + The difference between two burdens: responsibilities are not similar + The donkey's plea: The desire to share the burden so that you can reach your destination without falling, looking forward to help and also the last resort to overcome difficulties + The horse's refusal: selfishness to the point of being cold and cruel, not caring about the safety or survival of others. – Meaning: Don't be selfish and refuse to share with others the burden on life's journey. Knowing harmony, love and sharing. 1.5 0.5 – Each person has certain limits of their ability to endure. When pushed to the end of the limit, they will leave us, not consider us as companions, we are redundant. - Having to suffer the appropriate consequences of being shunned by others, when encountering difficulties, having no one to help, even having to bear the burdens left behind by both oneself and others and having to live in torment and suffering. – Not sharing is a sign of selfish indifference and cruelty. Knowing how to share is a person who knows himself, knows others, and cultivates humanity. – Criticism: Selfishness, lack of responsibility in shouldering common work. – Don't be so resigned that you fall alone before the burdens of life 0.5 0.5 Need to know how to share in work and life, this is also the general trend of today's society. Question 2 (12.0 points) About skills: – Know how to write an argumentative essay on a literary theory issue, with a clear layout and good use of argumentative operations. – Know how to select and analyze evidence appropriately to clarify discussion issues. – The article is coherent, clear, emotional, without errors in spelling, vocabulary, or grammar. About knowledge: Students can present in many different ways but need to ensure the following basic ideas: – Jade refining process: is the process of making works. – The created works and images shimmer with the light of precious gems: the beauty and appeal of works of art. – Blood: the substance that makes up the artist's entire understanding and life – Tears, pain, joy: Rich emotions. – Meaning: The process of creating art is a painstaking process. Only when the artist brings all his knowledge and soul into his work can he create attractive works of art. . The work crystallizes the artist's thoughts and feelings about people and life. – Artistic work is individual in nature. No one can replace the artist in the process of creating work. When an artist is inspired to form an idea, the work is only in its gestational form. To be able to write, the artist must mobilize his life and understanding and express it through images and express it through words. The artist is a "wordsmith". – Only when you bring all your understanding into the work can you create images that are meaningful and have strong inspirational power, then the work has the ability to have a great impact on people and life. – When an artist brings his life and soul into his work, the work is not only a mirror reflecting life but also a mirror reflecting the artist's soul. – Artistic images are portrayed with understanding and strong emotions, demonstrating the artist's talent and reaching uniqueness. – The author's understanding of reality. – The thoughts and emotions of the writer.
Hướng dẫn (Đề thi gồm 01 trang) LẦN THỨ XI, NĂM HỌC 2017 – 2018 ĐỀ THI MÔN: NGỮ VĂN LỚP 10 Thời gian: 180 phút (Không kể thời gian giao đề) Câu 1 (8,0 điểm) Trình bày suy nghĩ về ý nghĩa anh/ chị cảm nhận được từ bức hình sau: Câu 2 (12,0 điểm) Nhân trình bày với vua Lê Thái Tông về một nền âm nhạc chân chính, Nguyễn Trãi đưa ra ý kiến sau: “Thời loạn thì dụng võ, thời bình thì dụng văn. Ngày nay định ra lễ nhạc chính là phải thời lắm. Song không có gốc không thể đứng vững, không có văn không thể lưu hành. Hòa bình là gốc của nhạc, thanh âm là văn của nhạc. Dám mong bệ hạ rủ lòng yêu thương và chăn nuôi muôn dân, khiến cho thôn cùng xóm vắng không còn một tiếng hờn giận oán sầu, đó tức là giữ được cái gốc của nhạc vậy.” Bằng hiểu biết về thơ văn Nguyễn Trãi, anh/chị hãy làm rõ quan niệm về nguồn gốc của văn nghệ trong ý kiến trên. ——————Hết——————– Người ra đề Lê Thị Thu Huyền Thời gian: 180 phút (Không kể thời gian giao đề) Câu 1(8 điểm) – Đảm bảo cấu trúc bài văn nghị luận xã hội: Bố cục rõ ràng: Mở bài, Thân bài, Kết bài. Diễn đạt trong sáng, lưu loát, dùng từ đặt câu đúng. Trình bày sạch sẽ, khoa học. Học sinh có thể trình bày nhiều cách khác nhau nhưng đảm bảo nội dung sau: Thân bài Thí sinh có thể tìm thấy nhiều ý nghĩa khác nhau, VD như: – Thay đổi góc nhìn thay đổi suy nghĩ. – Không có đúng cũng không có sai mà chỉ là cách nhìn khác nhau của bạn về sự vật hiện tượng mà thôi. – Hãy luôn đặt mình vào vị trí của người khác để có cái nhìn toàn diện. – Cần giữ vững lập trường, quan điểm trước những ý kiến khác. + … => Bức tranh gợi cho ta suy nghĩ về cách ứng xử trước những quan niệm khác nhau đối với sự vật, hiện tượng xung quanh. – Cuộc sống vốn đa chiều, nhận thức của con người có giới hạn nên dễ dẫn đến cái nhìn phiến diện, chủ quan, thậm chí lệch lạc. – Mỗi người với năng lực, trạng thái, lứa tuổi, giới tính, nghề nghiệp… khác nhau sẽ nhận thức khác nhau về cùng một sự vật, hiện tượng. Đừng đem nhận thức chủ quan của mình áp đặt cho người khác. Đặt mình vào vị trí người khác (thấu hiểu, đồng cảm) mới thấy rõ hơn bản chất của vấn đề. – Tuy nhiên, cũng cần phải có lập trường, bản lĩnh vững vàng trước những quan điểm khác, nhất là quan điểm đối lập. Thuyết phục đối phương bằng năng lực, sự hiểu biết để bảo vệ quan điểm đúng đắn của mình, tránh ba phải, “gió chiều nào che chiều ấy”. – Đôi khi trong cuộc sống cũng nên thay đổi góc nhìn, cách nhìn sẽ thấy cuộc đời mới mẻ, bớt nhàm chán hơn. – Phê phán lối sống bảo thủ, ích kỉ… Câu 2 (12điểm) – Học sinh biết cách làm bài văn nghị luận văn học; vận dụng khả năng phân tích, cảm nhận để làm rõ một ý kiến bàn về văn nghệ; kết cấu chặt chẽ, diễn đạt lưu loát, không mắc lỗi chính tả, dùng từ, ngữ pháp…Bố cục bài viết rõ ràng. – Trên cơ sở nắm vững những kiến thức về lí luận văn học, con người và thơ văn Nguyễn Trãi, thí sinh có thể triển khai bài làm bằng nhiều cách khác nhau, song cần nêu được những vấn đề cơ bản sau: – Gốc – nội dung cơ bản của văn nghệ và văn – hình thức biểu đạt của văn nghệ có mối quan hệ mật thiết, trong đó nội dung quyết định hình thức. – Xây dựng âm nhạc không phải chủ yếu quan tâm đến văn, đến hình thức, đến kĩ thuật, kĩ xảo mà trước hết phải quan tâm đến gốc, đến nội dung, đến hòa bình, tức là sự hài hòa của tâm hồn, sự bình yên của cuộc sống. – Văn nghệ có gốc ở cuộc sống, trước hết là cuộc sống của muôn dân. Muốn văn nghệ phát triển phải chăm lo đến cuộc sống của quảng đại quần chúng. – Nhà văn hóa – văn nghệ trước hết phải biết hành động vì cuộc sống, vì nhân dân, vì con người. Chỉ có trong quá trình lao động ấy, người nghệ sĩ mới sáng tạo tác phẩm hay, có giá trị lâu bền. => Ý kiến của Nguyễn Trãi muốn khẳng định cơ sở của văn nghệ nói chung và văn học nói riêng là phải xuất phát từ cuộc sống bình yên của nhân dân và phải vì nhân dân. – Mục đích lớn nhất trong cuộc đời Nguyễn Trãi là “an dân” (Nhân nghĩa chi cử yếu tại an dân) nên hơn ai hết, ông ý thức rất rõ về mối liên hệ mật thiết giữa văn chương và cuộc sống, sự gắn bó giữa nhà văn và người chiến sĩ đấu tranh vì tổ quốc, vì nhân dân, vì con người. Văn chương gắn liền với hành động trừ độc, trừ tham, trừ bạo ngược; gắn liền với phẩm chất nhân, trí, anh hùng (Bảo kính cảnh giới 5). – Dùng văn chương để chiến đấu vì chính nghĩa, tập hợp lực lượng, tấn công kẻ bạo tàn; trổ hết tài năng để dẹp yên giặc Bắc, xây dựng cuộc sống an cư lạc nghiệp, thần tiên cho nhân dân (Bảo kính cảnh giới 56). – Dùng kế tâm công, dùng sức mạnh của văn nghị luận dụ giặc ra hàng, để quân dân không phải tốn một hòn tên mũi đạn. – Những lúc thảnh thơi nhất, nhà thơ cũng mong ước nếu có cây đàn của vua Nghiêu, vua Thuấn để gảy khúc Nam phong, ngợi ca cuộc sống giàu đủ của nhân dân muôn phương (Cảnh ngày hè). – Trong toàn bộ tác phẩm của mình, Nguyễn Trãi luôn có ý thức chăm lo cho quyền lợi của nhân dân, các từ “manh lệ”, “xích tử”, “lê dân”, “thương sinh”, “sinh linh”, “dân”,… trở đi trở lại nhiều lần trong tác phẩm của ông. – Nguyễn Trãi không phủ nhận vai trò của hình thức nghệ thuật nhưng đặt hình thức ở hàng thứ yếu, sau nội dung. Sáng tác của Nguyễn Trãi cũng là những minh chứng tiêu biểu cho sự độc đáo của nghệ thuật ngôn từ, nhất là tập thơ Nôm Quốc âm thi tập. 7,0 – Quan điểm sâu sắc và tiến bộ của Nguyễn Trãi: Văn chương trước hết phải là thứ vũ khí đấu tranh vì tổ quốc, vì nhân dân; cái gốc của văn nghệ là đời sống của nhân dân; người nghệ sĩ phải dốc hết tài trí, tinh lực vào lao động sáng tạo. – Nhận thức: + Đối với người nghệ sĩ. + Đối với độc giả. – Vị trí của thơ văn và con người Nguyễn Trãi trong sự nghiệp văn học dân tộc.
Instruct (Exam includes 01 page) ELEVENTH TIME, SCHOOL YEAR 2017 - 2018 SUBJECT EXAM: GRADE 10 LANGUAGE Time: 180 minutes (Excluding exam time) Question 1 (8.0 points) Express your thoughts about the meaning you feel from the following picture: Question 2 (12.0 points) When presenting to King Le Thai Tong about a genuine music, Nguyen Trai gave the following opinion: "In times of chaos, use martial arts, in times of peace, use literature. Nowadays, it is very timely to decide on musical ceremonies. But without roots it cannot stand, without literature it cannot circulate. Peace is the root of music, sound is the text of music. I dare to hope that Your Majesty will love and care for all people, leaving empty villages and hamlets without a single sound of anger or sadness. That means preserving the roots of music." With your understanding of Nguyen Trai's poetry, please clarify the concept of the origin of literature and art in the above opinion. ------Run out of------- The person who sets the topic Le Thi Thu Huyen Time: 180 minutes (Excluding exam time) Question 1 (8 points) – Ensure the structure of the social argument essay: Clear layout: Introduction, Body, Conclusion. Express yourself clearly and fluently, using correct words and sentences. Presented cleanly and scientifically. Students can present in many different ways but ensure the following content: Body of the article Candidates can find many different meanings, for example: – Change your perspective and change your thinking. – There is no right or wrong, it's just your different perspective on things and phenomena. – Always put yourself in other people's shoes to have a comprehensive view. – Need to maintain stance and viewpoint before other opinions. + … => The picture makes us think about how to deal with different concepts towards surrounding things and phenomena. – Life is inherently multi-dimensional, human perception is limited, so it can easily lead to a one-sided, subjective, and even misleading view. – Each person with different abilities, status, age, gender, occupation... will perceive the same thing or phenomenon differently. Don't impose your subjective perception on others. Putting yourself in someone else's position (understanding and sympathizing) will help you see more clearly the nature of the problem. – However, it is also necessary to have a strong stance and courage in the face of other viewpoints, especially opposing viewpoints. Convince the other side with your ability and understanding to protect your correct point of view, avoid the three musts, "the wind covers every direction". – Sometimes in life you should change your perspective to see life in a new, less boring way. – Criticizing conservative, selfish lifestyles... Question 2 (12 points) – Students know how to write literary essays; Apply analytical and perceptive abilities to clarify an opinion about art; Tight structure, fluent expression, no errors in spelling, vocabulary, grammar... The article layout is clear. – On the basis of mastering the knowledge of literary theory, people and Nguyen Trai's poetry, candidates can develop the assignment in many different ways, but need to raise the following basic issues: – Origin – the basic content of literature and arts – the form of expression of literature and arts have a close relationship, in which the content determines the form. – Building music is not primarily concerned with literature, form, technique, or technique, but first of all we must pay attention to the origin, the content, and peace, that is, the harmony of the soul. the peace of life. – Literature and art have their roots in life, first of all the life of all people. If we want the arts to develop, we must take care of the lives of the masses. – Cultural and artistic artists must first know how to act for life, for the people, for humanity. Only during that labor process can an artist create good works of lasting value. => Nguyen Trai's opinion wants to affirm that the basis of arts in general and literature in particular must come from the peaceful life of the people and must be for the people. – The biggest goal in Nguyen Trai's life is "to comfort the people" (Humanity is the key to protecting the people), so more than anyone else, he is very aware of the close connection between literature and life, the connection between literature and life. The bond between the writer and the soldier fighting for the fatherland, for the people, for humanity. Literature is associated with the action of eliminating poison, eliminating greed, and eliminating tyranny; associated with human, wise, and heroic qualities (Precious Realm 5). – Use literature to fight for justice, gather forces, and attack tyrants; Use all your talents to quell the Northern invaders and build a peaceful, magical life for the people (Bao Kinh realm 56). – Use clever tactics, use the power of literary discourse to lure the enemy into surrender, so that the soldiers and people do not have to waste a single arrow or bullet. – In his most leisurely moments, the poet also wished that if he had the guitars of King Nghieu and King Thuan to play the Nam Phong song, praising the rich life of people everywhere (Summer Day Scene). – In all of his works, Nguyen Trai is always conscious of taking care of the people's rights, the words "manh le", "xich tu", "le people", "mercy", "living beings" , “people”,… come back again and again in his works. – Nguyen Trai does not deny the role of artistic form but puts form in a secondary position, after content. Nguyen Trai's works are also typical examples of the uniqueness of verbal art, especially the Nom poem collection Quoc Am thi tap. 7.0 – Nguyen Trai's profound and progressive viewpoint: Literature must first be a weapon to fight for the fatherland and for the people; The root of literature is the people's life; Artists must devote all their intelligence and energy to creative work. - Awareness: + For artists. + For readers. – The position of Nguyen Trai's poetry and person in the national literature career.
Hướng dẫn TRƯỜNG THPT CHUYÊN LƯƠNG VĂN TỤY ĐỀ ĐỀ XUẤT KHU VỰCDUYÊN HẢI VÀ ĐỒNG BẰNG BẮC BỘ NĂM HỌC 2017-2018 Môn: NGỮ VĂN 10 Thời gian làm bài: 180 phút (Không kể giao đề) (Đề thi gồm 02 câu trong01trang) Câu 1 (8,0 điểm) Bill Gates từng nói: “ Cuộc sống vốn không công bằng, hãy tập quen dần với điều đó”. Suy nghĩ của anh (chị) về vấn đề đặt ra từ câu nói trên. Câu 2 (12,0 điểm) “ Tất cả những gì gây xúc động với niềm vui, nỗi buồn, thú say mê, sự đau khổ …kết lại và tạo nên thơ.” ( Bi-ê-lin-x-ki). Anh(chị) hiểu ý kiến trên như thế nào? Hãy bình luận và chứng minh qua một tác phẩm mà anh (chị) tâm đắc nhất trong chương trình Ngữ văn 10 nâng cao. ……………………………………Hết……………………………………. TRƯỜNG THPT CHUYÊN LƯƠNG VĂN TỤY ĐỀ ĐỀ XUẤT KHUVỰCDUYÊN HẢI ĐỒNG BẰNG BẮC BỘ NĂM HỌC 2017-2018 Môn: NGỮ VĂN 10 (Đáp án gồm 4trang) Câu 1 ( 8,0 điểm) Thí sinh biết cách làm bài nghị luận xã hội, bài viết có bố cục rõ ràng, các luận điểm, luận cứ xác đáng, vận dụng linh hoạt các thao tác lập luận như giải thích, phân tích, chứng minh, bình luận, bác bỏ…, diễn đạt trôi chảy, không mắc lỗi chính tả, dùng từ, ngữ pháp. Thí sinh có thể trình bày theo nhiều cách nhưng bài làm cần đạt được những ý cơ bản sau: 1.Giải thích: – Câu nói của Bill Gates gồm hai vế, vế một đưa ra hiện trạng, vế hai đưa ra giải pháp. – Vế 1: Hiện trạng cuộc sống vốn không công bằngà Cuộc sống luôn luôn tồn tại những điều không hợp lí, không đúng với lẽ phải, những điều bất công, ngang trái. – Vế 2: Giải pháp hãy tập quen dần với điều đóà Những bất công trong cuộc sống không phải dễ dàng chấp nhận. Để chấp nhận thực tế con người phải “ tập dần”, phải nhìn nhận nó như một điều tất yếu của cuộc sống. àCâunói của Bill Gates đã đưa ra một lời khuyên bổ ích về cách sống: Cuộc sống luôn tồn tại những trái ngang, những bất công, nhưng con người phải biết chấp nhận, biết thích nghi, biết đương đầu với nó để cuộc sống ngày càng tốt đẹp hơn. 2.Bình luận, chứng minh. * Tại sao cuộc sống vốn không công bằng? + Xét từ phương diện triết học: Tất cả các sự vật hiện tượng đều được tạo nên từ các mặt đối lập,cuộc sống cũng vậy. Công bằng và không công bằng chính là hai mặt đối lập của cuộc sống, luôn tồn tại song song và sẽ mãi là bản chất của thế giới. + Xét từ phương diện xã hội: Cuộc sống được tạo nên từ muôn vàn con người, từ muôn vàn mối quan hệ khác nhau. Mỗi người có một hoàn cảnh sống, một khả năng, một trí tuệ, một sở thích, một vị thế khác nhau ( người giàu, kẻ nghèo; người hạnh phúc, kẻ khổ đau; người thông minh, kẻ đần độn; người xinh đẹp, kẻ xấu xí…). Những điều nói trên không phải chỉ do con người tạo ra mà đôi khi nó nằm ngoài khả năng quyết định của con người. *Tại sao phải tập quen dần với điều đó? + Nếu không tập quen, không xem sự bất hợp lí của cuộc sống như một điều vốn có, tất yếu thì con người sẽ trở nên buồn chán, suy nghĩ tiêu cực, sẽ tự loại mình ra khỏi xã hội, ra khỏi cuộc sống cộng đồng. + Quá trình sống luôn là một quá trình thích nghi vì thế để có thể tồn tại con người phải tập cho mình những thói quen cần thiết. Một trong số đó là phải biết chấp nhận những điều khiếm quyết, những điều không công bằng, những điều bất hợp lí của xã hội, của người khác và của chính mình. *Nói Cuộc sống vốn không công bằng, hãy tập quen dần với điều đó không có nghĩa là thấy bất công mà ta bàng quan, nhẫn nhịn. Con người luôn phải nỗ lực, cố gắng đấu tranh để cuộc sống ngày càng công bằng hơn, tốt đẹp hơn. ( Học sinh có thể sử dụng kiến thức thực tế để chứng minh vấn đề). *Phản đề có thể hướng tới ba đối tượng: + Những người nhìn đời toàn màu hồng, toàn điều tốt đẹpà viển vông, phi thực tế. + Những người nhìn cuộc đời toàn bất công, ngang trái à sống bi quan, chán nản. + Những người vừa thấy bất công đã lùi bước, không biết vươn lên. 3.Bài học nhận thức, hành động. – Nếu coi không công bằng là chuyện vốn có của cuộc sống thì mỗi người phải luôn tạo cho mình một tâm thế sống linh hoạt, tích cực, sáng tạo để cải thiện tốt nhất những bất hợp lí của cuộc sống. Phải biết tìm sự công bằng trong chính sự không công bằng để bản thân không rơi vào trang thái sợ hãi, chán nản. – Những người trẻ tuổi không nên ngồi một chỗ để oán trách sự bất công, ngang trái mà phải suy nghĩ xem mình có thể giải quyết được vấn đề gì cho tương lai của cá nhân và xã hội để đẩy lùi ngày càng nhiều hơn những “ không công bằng” của cuộc sống. III. Cách cho điểm: –Điểm 7 – 8: Đảm bảo được đầy đủ các yêu cầu, nghị luận có sức thuyết phục, diễn đạt có cảm xúc, có thể mắc một vài lỗi nhỏ. – Điểm 5 – 6: Đáp ứng khá đầy đủ yêu cầu ; nghị luận tương đối có sức thuyết phục, không có sai sót lớn về diễn đạt. – Điểm 3 – 4: Tỏ ra hiểu vấn đề; biết cách làm bài nghị luận xã hội, tuy vậy bài viết còn sơ sài về nội dung hoặc mắc nhiều lỗi. – Điểm 1 – 2: Hiểu vấn đề lơ mơ; mắc quá nhiều lỗi. Câu 2 ( 12,0 điểm). Yêu cầu về kĩ năng: – Thí sinh biết cách làm bài nghị luận về một vấn đề văn học. Thí sinh cần phát huy năng lực cảm thụ tác phẩm kết hợp các thao tác giải thích, chứng minh, so sánh, tổng hợp, vận dụng kiến thức lí luận văn học về đặc trưng thơđể giải quyết vấn đề. – Bài làm có bố cục rõ ràng chặt chẽ, diễn đạt có chất văn; không mắc lỗi chính tả, dùng từ và ngữ pháp. Yêu cầu về kiến thức: Thí sinh có thể trình bày theo nhiều cách nhưng bài làm cần đạt được những ý cơ bản sau: 1.Giải thích: – Những gì gây xúc động: Tác động tâm lí để tạo nên cảm hứng sáng tạo của người nghệ sĩ. – Niềm vui, nỗi buồn, thú say mê, sự đau khổ: Những cung bậc cảm xúc của con người. àBêlinxki khẳng định: Cội nguồn của cảm hứng thi ca chính là tình cảm, cảm xúc của người nghệ sĩ. Các cung bậc cảm xúc là yếu tố quan trọng để kết lại và tạo nên thơ. Ý kiến của nhà phê bình đã đề cập tới vai trò của tình cảm trong thơ, một trong những vấn đềcơ bản nhất của đặc trưng thơ. – Tại sao cảm xúc lại có vai trò quan trọng như vậy? + Thơ là thể loại tiêu biểu nhất của phương thức nghệ thuật trữ tình. Tính trữ tình chính là đặc trưng nổi bật nhất của thơ. Vấn đề mà các thể loại trữ tình quan tâm không phải là nhân vật, sự kiện, cốt truyện mà là thế giới nội tâm sâu kín của con người. Thế giói nội tâm ấy lại là sự kết tạo của vô vàn cảm xúc. + Bất kì một thi phẩm nào cũng phải được khơi nguồn từ những xúc cảm. Xúc cảm là yếu tố đầu tiên tạo nên thi hứng, kích thích nhà thơ sáng tạo. Xúc cảm cũng là nhân tố trực tiếp xây dựng nên hình tượng thơ. Người làm thơ khi sáng tạo nếu thiếu đi cảm xúc thì chỉ là “ người thợ làm những câu có vần chứ không làm được nhà thơ”. Thiếu cảm xúc tác phẩm sẽ trở nên gượng ép, vô vị. àTình cảm chính là điểm cốt lõi, là sinh mệnh của thơ. -Thiếu đi tình cảm sẽ không thể có thơ hay nhưng thơ không phải là sự bộc lộ tình cảm một cách bản năng. Tình cảm trong thơ phải là thứ tình cảm đã được ý thức, được siêu thăng, được lắng lọc qua cảm xúc thẩm mĩ. Nó thường là những tình cảm cao đẹp, thấm nhuần bản chất nhân văn. 3.Chứng minh. Học sinh có thể lựa chọn bất kì bào thơ nào trong chương trình Ngữ văn 10 nâng cao để phân tích, chứng minh. Khi phân tích phải tập trung làm nổi bật các vấn đề: -Thi hứng của bài thơ được nảy sinh từ cảm xúc nào? -Những cung bậc cảm xúc tác giả thể hiện qua thi phẩm? – Ý kiến của Bêlinxki đã đề cập tới vấn đề cơ bản nhất của thơ. Tuy nhiên để tạo nên một thi phẩm hay không chỉ cần có cảm xúc mà còn cần nhiều yếu tố khác nữa: ngôn từ, kết cấu, việc vận dụng các thủ pháp tu từ… – Khẳng định vai trò của tình cảm trong thơ có rất nhiều ý kiến tương đồng ý kiến của Bêlinxki. “ Thơ là người thư kí trung thành của những trái tim” ( Đuy -bơ -lây); “ Thơ là sự sung mãn của tình cảm mãnh liệt” ( Ban – dắc); “ Thơ là tiếng hát của trái tim, là nơi dừng chân của tinh thần” ( Phương Lựu)… – Bài học cho người sáng tạo và người tiếp nhận. III. Cách cho điểm: – Điểm 10 – 12: Đáp ứng đầy đủ các yêu cầu; văn viết có cảm xúc; có thể còn mắc một vài lỗi nhỏ. (Khuyến khích những sáng tạo của học sinh) – Điểm 7 – 9: Trình bày đủ ý; diễn đạt trôi chảy, không mắc sai sót lớn về kiến thức và diễn đạt. – Điểm 4 – 6: Tỏ ra hiểu vấn đề; biết cách nghị luận, diễn đạt được. – Điểm 1 – 3 điểm: Còn lúng túng về phương pháp nghị luận; viết chung chung sơ sài. – Điểm 0: Lạc đề hoàn toàn.
Hướng dẫn TRƯỜNG THPT CHUYÊN LƯƠNG VĂN TỤY ĐỀ ĐỀ XUẤT KHU VỰCDUYÊN HẢI VÀ ĐỒNG BẰNG BẮC BỘ NĂM HỌC 2017-2018 Môn: NGỮ VĂN 10 Thời gian làm bài: 180 phút (Không kể giao đề) (Đề thi gồm 02 câu trong01trang) Câu 1 (8,0 điểm) Bill Gates từng nói: “ Cuộc sống vốn không công bằng, hãy tập quen dần với điều đó”. Suy nghĩ của anh (chị) về vấn đề đặt ra từ câu nói trên. Câu 2 (12,0 điểm) “ Tất cả những gì gây xúc động với niềm vui, nỗi buồn, thú say mê, sự đau khổ …kết lại và tạo nên thơ.” ( Bi-ê-lin-x-ki). Anh(chị) hiểu ý kiến trên như thế nào? Hãy bình luận và chứng minh qua một tác phẩm mà anh (chị) tâm đắc nhất trong chương trình Ngữ văn 10 nâng cao. ……………………………………Hết……………………………………. TRƯỜNG THPT CHUYÊN LƯƠNG VĂN TỤY ĐỀ ĐỀ XUẤT KHUVỰCDUYÊN HẢI ĐỒNG BẰNG BẮC BỘ NĂM HỌC 2017-2018 Môn: NGỮ VĂN 10 (Đáp án gồm 4trang) Câu 1 ( 8,0 điểm) Thí sinh biết cách làm bài nghị luận xã hội, bài viết có bố cục rõ ràng, các luận điểm, luận cứ xác đáng, vận dụng linh hoạt các thao tác lập luận như giải thích, phân tích, chứng minh, bình luận, bác bỏ…, diễn đạt trôi chảy, không mắc lỗi chính tả, dùng từ, ngữ pháp. Thí sinh có thể trình bày theo nhiều cách nhưng bài làm cần đạt được những ý cơ bản sau: 1.Giải thích: – Câu nói của Bill Gates gồm hai vế, vế một đưa ra hiện trạng, vế hai đưa ra giải pháp. – Vế 1: Hiện trạng cuộc sống vốn không công bằngà Cuộc sống luôn luôn tồn tại những điều không hợp lí, không đúng với lẽ phải, những điều bất công, ngang trái. – Vế 2: Giải pháp hãy tập quen dần với điều đóà Những bất công trong cuộc sống không phải dễ dàng chấp nhận. Để chấp nhận thực tế con người phải “ tập dần”, phải nhìn nhận nó như một điều tất yếu của cuộc sống. àCâunói của Bill Gates đã đưa ra một lời khuyên bổ ích về cách sống: Cuộc sống luôn tồn tại những trái ngang, những bất công, nhưng con người phải biết chấp nhận, biết thích nghi, biết đương đầu với nó để cuộc sống ngày càng tốt đẹp hơn. 2.Bình luận, chứng minh. * Tại sao cuộc sống vốn không công bằng? + Xét từ phương diện triết học: Tất cả các sự vật hiện tượng đều được tạo nên từ các mặt đối lập,cuộc sống cũng vậy. Công bằng và không công bằng chính là hai mặt đối lập của cuộc sống, luôn tồn tại song song và sẽ mãi là bản chất của thế giới. + Xét từ phương diện xã hội: Cuộc sống được tạo nên từ muôn vàn con người, từ muôn vàn mối quan hệ khác nhau. Mỗi người có một hoàn cảnh sống, một khả năng, một trí tuệ, một sở thích, một vị thế khác nhau ( người giàu, kẻ nghèo; người hạnh phúc, kẻ khổ đau; người thông minh, kẻ đần độn; người xinh đẹp, kẻ xấu xí…). Những điều nói trên không phải chỉ do con người tạo ra mà đôi khi nó nằm ngoài khả năng quyết định của con người. *Tại sao phải tập quen dần với điều đó? + Nếu không tập quen, không xem sự bất hợp lí của cuộc sống như một điều vốn có, tất yếu thì con người sẽ trở nên buồn chán, suy nghĩ tiêu cực, sẽ tự loại mình ra khỏi xã hội, ra khỏi cuộc sống cộng đồng. + Quá trình sống luôn là một quá trình thích nghi vì thế để có thể tồn tại con người phải tập cho mình những thói quen cần thiết. Một trong số đó là phải biết chấp nhận những điều khiếm quyết, những điều không công bằng, những điều bất hợp lí của xã hội, của người khác và của chính mình. *Nói Cuộc sống vốn không công bằng, hãy tập quen dần với điều đó không có nghĩa là thấy bất công mà ta bàng quan, nhẫn nhịn. Con người luôn phải nỗ lực, cố gắng đấu tranh để cuộc sống ngày càng công bằng hơn, tốt đẹp hơn. ( Học sinh có thể sử dụng kiến thức thực tế để chứng minh vấn đề). *Phản đề có thể hướng tới ba đối tượng: + Những người nhìn đời toàn màu hồng, toàn điều tốt đẹpà viển vông, phi thực tế. + Những người nhìn cuộc đời toàn bất công, ngang trái à sống bi quan, chán nản. + Những người vừa thấy bất công đã lùi bước, không biết vươn lên. 3.Bài học nhận thức, hành động. – Nếu coi không công bằng là chuyện vốn có của cuộc sống thì mỗi người phải luôn tạo cho mình một tâm thế sống linh hoạt, tích cực, sáng tạo để cải thiện tốt nhất những bất hợp lí của cuộc sống. Phải biết tìm sự công bằng trong chính sự không công bằng để bản thân không rơi vào trang thái sợ hãi, chán nản. – Những người trẻ tuổi không nên ngồi một chỗ để oán trách sự bất công, ngang trái mà phải suy nghĩ xem mình có thể giải quyết được vấn đề gì cho tương lai của cá nhân và xã hội để đẩy lùi ngày càng nhiều hơn những “ không công bằng” của cuộc sống. III. Cách cho điểm: –Điểm 7 – 8: Đảm bảo được đầy đủ các yêu cầu, nghị luận có sức thuyết phục, diễn đạt có cảm xúc, có thể mắc một vài lỗi nhỏ. – Điểm 5 – 6: Đáp ứng khá đầy đủ yêu cầu ; nghị luận tương đối có sức thuyết phục, không có sai sót lớn về diễn đạt. – Điểm 3 – 4: Tỏ ra hiểu vấn đề; biết cách làm bài nghị luận xã hội, tuy vậy bài viết còn sơ sài về nội dung hoặc mắc nhiều lỗi. – Điểm 1 – 2: Hiểu vấn đề lơ mơ; mắc quá nhiều lỗi. Câu 2 ( 12,0 điểm). Yêu cầu về kĩ năng: – Thí sinh biết cách làm bài nghị luận về một vấn đề văn học. Thí sinh cần phát huy năng lực cảm thụ tác phẩm kết hợp các thao tác giải thích, chứng minh, so sánh, tổng hợp, vận dụng kiến thức lí luận văn học về đặc trưng thơđể giải quyết vấn đề. – Bài làm có bố cục rõ ràng chặt chẽ, diễn đạt có chất văn; không mắc lỗi chính tả, dùng từ và ngữ pháp. Yêu cầu về kiến thức: Thí sinh có thể trình bày theo nhiều cách nhưng bài làm cần đạt được những ý cơ bản sau: 1.Giải thích: – Những gì gây xúc động: Tác động tâm lí để tạo nên cảm hứng sáng tạo của người nghệ sĩ. – Niềm vui, nỗi buồn, thú say mê, sự đau khổ: Những cung bậc cảm xúc của con người. àBêlinxki khẳng định: Cội nguồn của cảm hứng thi ca chính là tình cảm, cảm xúc của người nghệ sĩ. Các cung bậc cảm xúc là yếu tố quan trọng để kết lại và tạo nên thơ. Ý kiến của nhà phê bình đã đề cập tới vai trò của tình cảm trong thơ, một trong những vấn đềcơ bản nhất của đặc trưng thơ. – Tại sao cảm xúc lại có vai trò quan trọng như vậy? + Thơ là thể loại tiêu biểu nhất của phương thức nghệ thuật trữ tình. Tính trữ tình chính là đặc trưng nổi bật nhất của thơ. Vấn đề mà các thể loại trữ tình quan tâm không phải là nhân vật, sự kiện, cốt truyện mà là thế giới nội tâm sâu kín của con người. Thế giói nội tâm ấy lại là sự kết tạo của vô vàn cảm xúc. + Bất kì một thi phẩm nào cũng phải được khơi nguồn từ những xúc cảm. Xúc cảm là yếu tố đầu tiên tạo nên thi hứng, kích thích nhà thơ sáng tạo. Xúc cảm cũng là nhân tố trực tiếp xây dựng nên hình tượng thơ. Người làm thơ khi sáng tạo nếu thiếu đi cảm xúc thì chỉ là “ người thợ làm những câu có vần chứ không làm được nhà thơ”. Thiếu cảm xúc tác phẩm sẽ trở nên gượng ép, vô vị. àTình cảm chính là điểm cốt lõi, là sinh mệnh của thơ. -Thiếu đi tình cảm sẽ không thể có thơ hay nhưng thơ không phải là sự bộc lộ tình cảm một cách bản năng. Tình cảm trong thơ phải là thứ tình cảm đã được ý thức, được siêu thăng, được lắng lọc qua cảm xúc thẩm mĩ. Nó thường là những tình cảm cao đẹp, thấm nhuần bản chất nhân văn. 3.Chứng minh. Học sinh có thể lựa chọn bất kì bào thơ nào trong chương trình Ngữ văn 10 nâng cao để phân tích, chứng minh. Khi phân tích phải tập trung làm nổi bật các vấn đề: -Thi hứng của bài thơ được nảy sinh từ cảm xúc nào? -Những cung bậc cảm xúc tác giả thể hiện qua thi phẩm? – Ý kiến của Bêlinxki đã đề cập tới vấn đề cơ bản nhất của thơ. Tuy nhiên để tạo nên một thi phẩm hay không chỉ cần có cảm xúc mà còn cần nhiều yếu tố khác nữa: ngôn từ, kết cấu, việc vận dụng các thủ pháp tu từ… – Khẳng định vai trò của tình cảm trong thơ có rất nhiều ý kiến tương đồng ý kiến của Bêlinxki. “ Thơ là người thư kí trung thành của những trái tim” ( Đuy -bơ -lây); “ Thơ là sự sung mãn của tình cảm mãnh liệt” ( Ban – dắc); “ Thơ là tiếng hát của trái tim, là nơi dừng chân của tinh thần” ( Phương Lựu)… – Bài học cho người sáng tạo và người tiếp nhận. III. Cách cho điểm: – Điểm 10 – 12: Đáp ứng đầy đủ các yêu cầu; văn viết có cảm xúc; có thể còn mắc một vài lỗi nhỏ. (Khuyến khích những sáng tạo của học sinh) – Điểm 7 – 9: Trình bày đủ ý; diễn đạt trôi chảy, không mắc sai sót lớn về kiến thức và diễn đạt. – Điểm 4 – 6: Tỏ ra hiểu vấn đề; biết cách nghị luận, diễn đạt được. – Điểm 1 – 3 điểm: Còn lúng túng về phương pháp nghị luận; viết chung chung sơ sài. – Điểm 0: Lạc đề hoàn toàn.
Hướng dẫn MÔN NGỮ VĂN – KHỐI 10 Thời gian làm bài: 180 phút (Đề này có 02 câu; gồm 01 trang) Câu 1 (08 điểm): – Hãy ra khỏi tổ các con! – Không, ngoài kia chắc lạnh lắm! – Hãy bay, đợi đến khi nào nữa? – Không, chúng con sẽ rơi mất! – Dũng cảm lên! Đừng sợ! – Có sao không hả cha? Những chú chim bé bỏng Run rẩy trèo lên tổ Chim bố cười xô xuống Và chim non biết bay. ( Thơ Apolinaire – dẫn theo Khám phá sức mạnh bản thân, NXB Tổng Hợp TP HCM, 2007) Từ ý thơ trên, anh (chị) hãy viết một bài văn nghị luận với chủ đề: Sự thử thách. Câu 2 (12 điểm): Trong cuốn Đaghettxtan của tôi, nhà thơ Nga Rasul Gamzatov viết: “Những chiếc bình đẹp nhất Nặn từ đất bình thường Như câu thơ đẹp nhất Từ những chữ bình thường.” Còn nhà thơ Lê Đạt trong Từ tình U70 chia sẻ:“Tôi trọng những nhà thơ sinh sự với văn phạm để tạo ra sự sinh của ngôn ngữ.” Từ những ý kiến trên, anh (chị) có suy nghĩ gì về vẻ đẹp của ngôn ngữ thơ ca? Hãy làm sáng tỏ qua tác phẩm (đoạn trích) trong chương trình Ngữ văn 10. ——— HẾT ———- HƯỚNG DẪN CHẤM Môn: Ngữ văn (Khối 10) (Hướng dẫn chấm gồm 05 trang) – Học sinh biết cách làm bài văn nghị luận xã hội với vấn đề nghị luận được rút ra qua một câu chuyện, biết vận dụng linh hoạt các thao tác lập luận, đưa ra ý kiến riêng khi giải quyết vấn đề. – Bài viết có bố cục mạch lạc; hệ thống luận điểm, luận cứ rõ ràng; dẫn chứng thuyết phục; hành văn trong sáng, giàu cảm xúc; không mắc lỗi chính tả, dùng từ, đặt câu. II. Yêu cầu về kiến thức: Học sinh có thể trình bày theo nhiều cách khác nhau nhưng cần đáp ứng được những ý cơ bản sau: – Câu chuyện chim bố dạy chim con tập bay đem lại cho người đọc nhiều ý nghĩa nhân sinh sâu sắc, trong đó có thông điệp về sự thử thách đối với quá trình trưởng thành của con người. – Thử thách là điều rất cần thiết trong cuộc sống con người, nó khiến chúng ta trưởng thành, khám phá được sức mạnh của chính mình, giúp chúng ta tồn tại và phát triển. – Thử thách đòi hỏi con người ta phải có sức mạnh thể chất lẫn tinh thần, có nghị lực, lòng dũng cảm để vượt qua. – Mọi thử thách chứa trong đó sự hiểm nguy. Con người dám chấp nhận thử thách cũng đồng thời cũng phải dám chấp nhận thất bại; song sự tỉnh táo, hiểu biết sẽ giúp con người ta làm chủ được thử thách của mình. Đối diện với thử thách không phải bằng sự liều lĩnh, mà phải bằng bản lĩnh và trí tuệ. – Có khi, những sự tin tưởng, động viên, khích lệ từ người khác sẽ tạo động lực và sức mạnh giúp con người ta vượt qua thử thách. (HS bàn về sự thử thách từ ý nghĩa của bài thơ, có thể phân tích kết hợp cùng bình luận. Đi cùng những lí lẽ, HS lấy dẫn chứng phù hợp để chứng minh) – Rèn luyện cho mình bản lĩnh, nghị lực, niềm tin….trước những thử thách. – Học sinh biết cách làm bài nghị luận về một ý kiến bàn về văn học, biết vận dụng linh hoạt các thao tác lập luận, biết lựa chọn tác phẩm tiêu biểu, biết phân tích, cảm thụ để làm sáng tỏ vấn đề. – Bố cục rõ ràng, mạch lạc; lập luận chặt chẽ, thuyết phục. – Hành văn trong sáng, giàu cảm xúc; không mắc lỗi chính tả, dùng từ, đặt câu. II. Yêu cầu về kiến thức: Học sinh có thể trình bày theo nhiều cách khác nhau nhưng cần đảm bảo các ý cơ bản sau: – Ý kiến của Lê Đạt: Đề cao những nhà thơ đã dám có những sáng tạo, đổi mới, cách tân, phá bỏ những tính quy phạm của ngôn ngữ (sinh sự với văn phạm), để tạo ra “sự sinh của ngôn ngữ”, tức là những ngôn ngữ sống động, mới mẻ, hấp dẫn. Ý kiến nhấn mạnh vào vẻ đẹp mới lạ, độc đáo của ngôn ngữ thơ ca. Hai nhà thơ đưa ra hai quan điểm khác nhau về đặc trưng vẻ đẹp ngôn ngữ thơ ca. Hai quan điểm trái ngược, song chúng không phủ định nhau, mà bổ sung cho nhau, giúp người đọc có cái nhìn đa diện về vẻ đẹp của ngôn ngữ thơ ca cũng như sự phong phú trong quan điểm sáng tác của những người nghệ sĩ. – Ngôn ngữ là yếu tố đầu tiên của văn học, của thơ ca. – Ngôn ngữ thơ ca là ngôn ngữ đời sống, đó là lời ăn tiếng nói hàng ngày được lựa chọn, được gọt giũa để biểu hiện cảm xúc của chủ thể trữ tình. Bởi thế, ngôn ngữ thơ ca không nằm ngoài đời sống, tự nó chứa đựng nét tự nhiên, gần gũi của ngôn ngữ hàng ngày (trong từ ngữ, cách diễn đạt…). Nhiều nhà thơ quan niệm: làm cho ngôn ngữ thơ mộc mạc giản dị cũng là cả một quá trình lao động nghệ thuật. Cái gần gũi, “bình thường” ở đây không có nghĩa là ngôn ngữ thơ ca rơi vào chủ nghĩa tự nhiên mà nó là một phương diện của cái đẹp. – Trong văn học, ngôn ngữ thơ ca có đặc trưng riêng: được trau chuốt và trở thành thứ ngôn từ có cấu tạo đặc biệt. Với những nhà thơ có tài năng, phong cách, họ thường cố gắng đem cách diễn đạt mới lạ, sáng tạo ngôn từ độc đáo cho thơ ca bằng các thủ pháp nghệ thuật, lạ hóa ngôn từ… tạo nên hiệu quả thẩm mĩ, tác động vào nhận thức độc giả. – Vẻ đẹp của ngôn ngữ tạo nên giá trị nghệ thuật cho tác phẩm; việc lựa chọn, sáng tạo ngôn từ là một phương diện biểu hiện phong cách nghệ thuật của người nghệ sĩ. HS chứng minh qua một (hoặc một vài) tác phẩm, đoạn trích thơ ca trong chương trình Ngữ văn 10. Yêu cầu cơ bản: – Giới thiệu tác giả – tác phẩm (đoạn trích) – Phân tích vẻ đẹp của ngôn ngữ thơ ca trong tác phẩm (đoạn trích) (Chú ý bao quát cả hai phương diện theo yêu cầu của đề, gắn với quan điểm cá nhân của HS) – Rút ra những nhận xét, đánh giá phù hợp – Bài học với người sáng tác: Việc sáng tác đòi hỏi cả tài năng và tâm huyết của tác giả. Mỗi nhà thơ, nhà văn phải là người nghệ sĩ ngôn từ. – Bài học với người tiếp nhận: Trân trọng vẻ đẹp của văn chương, vẻ đẹp của ngôn ngữ, trân trọng tài năng và quá trình lao động sáng tạo của người nghệ sĩ… Lưu ý: – Giám khảo cần nắm được nội dung trình bày trong bài làm của thí sinh, tránh đếm ý cho điểm. Vận dụng linh hoạt hướng dẫn chấm, sử dụng nhiều mức điểm một cách hợp lí, khuyến khích những bài viết có cảm xúc, sáng tạo, có quan điểm cá nhân và chứng minh thuyết phục. – Học sinh có thể làm bài theo nhiều cách nhưng nếu đáp ứng những yêu cầu cơ bản của đề, diễn đạt tốt vẫn cho điểm tối đa. – Điểm bài thi là tổng điểm của 02 câu.
Instruct LANGUAGE SUBJECT – GRADE 10 Duration 180 minutes post (This topic has 02 questions; includes 01 page) Question 1 (08 points): – Get out of your nest! – No, it must be cold out there! – Let's fly, how long will we wait? – No, we will fall! - Be brave! Do not be afraid! – Are you okay, dad? Little birds Trembling, he climbed up the nest The father bird laughed and rushed down And baby birds can fly. (Poetry Apolinaire - adapted from Discovering personal strength, Ho Chi Minh City General Publishing House, 2007) From the above poetic idea, please write an argumentative essay with the topic: Challenge. Question 2 (12 points): In my book Daghettstan, Russian poet Rasul Gamzatov writes: “The most beautiful vases Mold from normal soil Like the most beautiful poem From ordinary words.” And poet Le Dat in Tu Tinh U70 shared: "I respect poets who work with grammar to create the birth of language." From the above opinions, what do you think about the beauty of poetic language? Let's clarify through the work (excerpt) in the Literature 10 program. --- RUN OUT OF ---- MARKING INSTRUCTIONS Subject: Literature (Block 10) (Marking instructions include 05 pages) – Students know how to write a social argument essay with an argumentative problem drawn through a story, flexibly apply reasoning operations, and give their own opinions when solving problems. – The article has a coherent layout; clear system of arguments and arguments; convincing evidence; The writing is clear and rich in emotion; Do not make mistakes in spelling, word usage, or sentence formation. II. Knowledge requirements: Students can present in many different ways but need to meet the following basic ideas: – The story of a father bird teaching his baby birds to fly gives readers many profound human meanings, including a message about the challenges of human maturity. – Challenge is very necessary in human life, it makes us grow, discover our own strength, helps us survive and develop. – Challenges require people to have physical and mental strength, determination, and courage to overcome them. – Every challenge contains danger. People who dare to accept challenges must also dare to accept failure; However, alertness and understanding will help people master their challenges. Face challenges not with recklessness, but with courage and intelligence. – Sometimes, the trust, encouragement, and encouragement from others will create motivation and strength to help people overcome challenges. (Students discuss the challenge from the meaning of the poem, can analyze and comment. Along with the arguments, students use appropriate evidence to prove) – Train yourself in bravery, energy, faith... in the face of challenges. – Students know how to write an essay about an opinion on literature, know how to flexibly apply reasoning operations, know how to choose typical works, and know how to analyze and perceive to clarify the problem. – Clear and coherent layout; Strong and convincing arguments. – The writing is clear and rich in emotion; Do not make mistakes in spelling, word usage, or sentence formation. II. Knowledge requirements: Students can present in many different ways but need to ensure the following basic ideas: – Le Dat's opinion: Appreciate poets who have dared to be creative, innovative, innovative, and break the normalities of language (struggle with grammar), to create "the birth of language". languages", that is, languages ​​that are lively, new, and attractive. The opinion emphasizes the new and unique beauty of poetic language. The two poets give two different perspectives on the characteristics of poetic language beauty. The two views are opposite, but they do not negate each other, but complement each other, helping readers have a multi-faceted view of the beauty of poetic language as well as the richness of the artists' creative perspectives. . – Language is the first element of literature and poetry. – Poetic language is the language of life, it is daily speech chosen and honed to express the emotions of the lyrical subject. Therefore, poetic language is not outside of life, it contains the natural and close features of everyday language (in words, expressions...). Many poets believe that making poetic language simple is also a process of artistic labor. The closeness and "normality" here does not mean that poetic language falls into naturalism, but it is an aspect of beauty. – In literature, poetic language has its own characteristics: it is refined and becomes a language with a special structure. For poets with talent and style, they often try to bring new expressions, create unique words for poetry using artistic methods, strange language... creating aesthetic effects, impact on readers' perception. – The beauty of language creates artistic value for the work; Choosing and creating words is an aspect of expressing the artist's artistic style. Students demonstrate through one (or several) works or poetic excerpts in the Literature 10 program. Basic requirements: – Introducing the author – work (excerpt) – Analyze the beauty of poetic language in the work (excerpt) (Pay attention to covering both aspects according to the requirements of the topic, associated with the student's personal perspective) – Draw appropriate comments and assessments – Lesson for the composer: Composing requires both the author's talent and dedication. Every poet and writer must be an artist of words. – Lesson for the recipient: Appreciate the beauty of literature, the beauty of language, appreciate the artist's talent and creative labor process... Note: – The examiner needs to understand the content presented in the candidate's work, avoid counting points to score. Flexibly apply scoring guidelines, use multiple scoring levels appropriately, and encourage writing that is emotional, creative, has a personal perspective, and has convincing evidence. – Students can do the test in many ways, but if they meet the basic requirements of the test and express themselves well, they will still receive maximum points. – The test score is the total score of 02 questions.
Hướng dẫn KHU VỰC DUYÊN HẢI VÀ ĐỒNG BẰNG BẮC BỘ LẦN THỨ XI, NĂM 2018 ĐỀ THI MÔN: Ngữ văn LỚP: 10 Thời gian làm bài: 180 phút (Đề thi gồm 02 câu, 01 trang) Câu 1 (8,0 điểm) Bảy kì quan mới Một nhóm học sinh đang học cách viết luận về chủ đề bảy kì quan thế giới. Cuối giờ mỗi em phải liệt kê được bảy kì quan theo suy nghĩ của riêng mình. Học sinh ngồi ríu rít bàn bạc rằng những công trình nào nên là kì quan của thế giới. Tháp nghiêng Pisa, Kim tự tháp Ai Cập… đều được lựa chọn. Cuối giờ khi thu bài, một em bé vẫn băn khoăn cầm bài viết để trắng. Cô bé giải thích: – Em vẫn chưa liệt kê xong vì có nhiều kì quan quá ạ! – Em hãy thử kể những kì quan theo ý em để các bạn và cô nghe xem có thể giúp em được không? – Cô giáo nhiệt tình hướng dẫn. Cô bé do dự: – Em nghĩ bảy kì quan trên thế giới nên là: xúc giác, thị giác, thính giác, khả năng đi lại được, nụ cười và sự yêu thương. (Nói bởi trái tim, NXB Kim Đồng, tr.44) Anh/chị có đồng ý với cô bé trong câu chuyện trên rằng: nụ cười và sự yêu thương là những kì quan mà chúng ta cần yêu quý và trân trọng? Câu 2 (12,0 điểm) Nhận xét về cái đẹp trong nghệ thuật, có ý kiến cho rằng: Cái đẹp trong nghệ thuật là cái đẹp trong chính người nghệ sĩ. Anh/chị suy nghĩ như thế nào về ý kiến trên? Qua một số tác phẩm trong chương trình Ngữ văn 10 hãy làm sáng tỏ vấn đề. —————– Hết —————– Họ và tên người ra đề: Nguyễn Thị Bích Hằng Nguyễn Thị Thanh Nhàn KHU VỰC DUYÊN HẢI VÀ ĐỒNG BẰNG BẮC BỘ LẦN THỨ XI, NĂM 2018 HƯỚNG DẪN CHẤM MÔN: Ngữ văn LỚP: 10 Câu 1 (8,0 điểm) Trên cơ sở hiểu được ý nghĩa của câu chuyện, biết cách làm bài văn nghị luận xã hội về một tư tưởng đạo lý đặt ra trong một tác phẩm văn học, học sinh có thể trình bày bài viết theo nhiều cách khác nhau nhưng cơ bản cần đảm bảo những ý sau: Giới thiệu câu chuyện và vấn đề nghị luận (0,5 điểm) Bình luận vấn đề nghị luận Giải thích (1,0 điểm) – Phân tích ngắn gọn nội dung câu chuyện để thấy được những suy nghĩ khác nhau của nhóm học sinh về bảy kì quan thế giới. – Chú ý đến suy nghĩ của cô bé cho rằng bảy kì quan trên thế giới nên là: xúc giác, thị giác, thính giác, khả năng đi lại được, nụ cười và sự yêu thương. – Trong đó: + Nụ cười: là một cử chỉ thể hiện niềm vui, niềm hạnh phúc mà con người luôn hướng tới. + Sự yêu thương: là tình cảm gắn bó, chia sẻ, đồng điệu… giữa con người với con người trong mọi mối quan hệ của cuộc sống. Bình luận (3,0 điểm) – Khẳng định: Suy nghĩ của cô bé trong chuyện là hoàn toàn đúng. – Lý lẽ: + Thật vậy, chúng ta vẫn có thể sống vui nếu không có tháp nghiêng Pisa, không có tháp Eiffel và Kim tự tháp Ai Cập… Nhưng chúng ta sẽ khó khăn biết bao nếu thiếu một trong bảy kì quan mà cô bạn này đã kể, đặc biệt là thiếu nụ cười và tình yêu thương. + Hơn nữa, nhiều tỉ người trên Trái đất mới có một kì quan kiểu như Kim tự tháp, trong khi mỗi người chúng ta lại có cho riêng mình những bảy kì quan. Chúng ta thật giàu có biết bao. Đó mới là những kì quan mà chúng ta cần yêu quý và trân trọng nhất. + Khicuộc sống của chúng ta có nụ cười và tình yêu thương thì cuộc sống ấy sẽ trở nên tốt đẹp, ý nghĩa bởi mỗi con người luôn cần những niềm vui và bởi người với người sống để yêu nhau (Tố Hữu). Trái lại, nếu cuộc sống không có nụ cười và tình yêu thương thì cuộc sống ấy sẽ khô khan, đơn điệu, mất đi những ý nghĩa tốt đẹp. + Nụ cười và tình yêu thương là động lực tinh thần giúp con người sống vui vẻ, yêu đời, giúp con người vượt qua những khó khăn của cuộc sống để tìm đến những chân trời thành công và hạnh phúc. + Người luôn có nụ cười và tình yêu thương luôn được mọi người xung quang yêu quý, trân trọng, ngợi ca. – Dẫn chứng (Học sinh đưa ra những dẫn chứng cụ thể và phân tích để làm sáng rõ vấn đề) Mở rộng (2,0 điểm) – Nụ cười và tình yêu thương sẽ giúp con người hình thành thêm nhiều tình cảm tốt đẹp: tinh thần lạc quan, yêu đời; trái tim nhân hậu, vị tha; nghị lực vượt khó… Nhờ đó, mỗi con người sẽ ngày một hoàn thiện mình. – Nụ cười và tình yêu thương là những kì quan đẹp mà mỗi con người đều có. Bởi vậy, mỗi con người đều cần xây đắp, gìn giữ nó để những kì quan ấy luôn đẹp và bền vững. – Phê phán những con người + Sống bi quan, chán chường, không có nụ cười. + Sống vô cảm, lạnh lùng, không có tình yêu thương. Liên hệ bản thân (1,0 điểm) Khái quát lại vẫn đề nghị luận (0,5 điểm) Câu 2 (12,0 điểm) Kĩ năng: Đáp ứng đúng yêu cầu một bài văn nghị luận văn học bàn về một ý kiến; bố cục rõ ràng, hợp lí; lập luận chặt chẽ, giàu sức thuyết phục; dẫn chứng phù hợp làm nổi bật được vấn đề; khuyến khích những bài viết sáng tạo. Kiến thức: Trên cơ sở hiểu đúng vấn đề, biết cách làm bài nghị luận về một vấn đề lí luận văn học, học sinh có thể trình bày, diễn đạt theo nhiều cách khác nhau song về cơ bản cần có những ý sau: Mở bài: dẫn dắt giới thiệu và trích dẫn nguyên văn ý kiến (0,25) Thân bài Giải thích ý kiến ( 1,5 điểm) – Cái đẹp là một phạm trù mĩ học, chỉ những giá trị tích cực có khả năng bồi dưỡng, nâng cao tâm hồn, nhận thức, trí tuệ và hành động con người. – Cái đẹp trong chính người nghệ sĩ: những giá trị thuộc về tư tưởng, tâm hồn, nhận thức, thái độ và tài năng nghệ thuật. ->Ý kiến trên đề cập đến nguồn gốc tạo nên cái đẹp trong nghệ thuật: Vai trò có tính quyết định của người nghệ sĩ trong việc sáng tạo cái đẹp ở tác phẩm nghệ thuật, thực hiện sứ mệnh cao cả của nhà văn. b.2. Cơ sở lí luận (1,5 điểm) – Văn học lấy con người và cuộc sống làm đối tượng phản ánh theo quy luật của cái đẹp, nhằm thỏa mãn những tình cảm thẩm mĩ của con người. Bản thân cuộc sống con người đã là đối tượng thẩm mỹ của nghệ thuật muôn đời. – Quá trình sáng tạo là quá trình mang tính cá nhân, cá thể, chủ quan cao độ. Đời sống khi được khúc xạ qua lăng kính chủ quan nghệ sĩ dù hiện lên thế này hay thế kia, bằng cách này hay cách khác, người ta đều có thể trực tiếp hoặc gián tiếp thấy được chân dung tinh thần người sáng tạo. Bởi thế, điều quan trọng và trực tiếp hơn cả của cái đẹp trong nghệ thuật là cái đẹp trong chính người nghệ sĩ. – Đối với người nghệ sĩ nói chung và nhàn văn nói riêng, phẩm chất quan trọng hàng đầu là phải có một trực giác nhạy bén, một tâm hồn giàu xúc. Chính những rung cảm này mang đến cái đẹp cho tác phẩm và nguồn mĩ cảm cho người đọc. b.3. Làm sáng tỏ vấn đề(7,0 điểm) Yêu cầu: Trúng vấn đề, làm nổi bật được vấn đề…
Instruct THE NORTHERN COAST AND DELTA AREA ELEVENTH TIME, 2018 EXAM SUBJECT: Literature GRADE: 10 Duration 180 minutes post (Test includes 02 questions, 01 page) Question 1 (8.0 points) New Seven Wonders A group of students are learning how to write essays on the topic of the seven wonders of the world. At the end of the hour, each child must list seven wonders according to their own thoughts. Students sat and chattered and discussed which works should be wonders of the world. The Leaning Tower of Pisa, the Egyptian Pyramids... are all options. At the end of the lesson, when collecting the papers, a child was still hesitantly holding the blank paper. The girl explained: – I haven't finished listing it yet because there are so many wonders! – Please try telling the wonders as you like so that my friends and I can listen and see if they can help you? – The teacher enthusiastically guides. The girl hesitated: – I think the seven wonders of the world should be: touch, sight, hearing, ability to walk, smile and love. (Speaking from the heart, Kim Dong Publishing House, p.44) Do you agree with the girl in the story above that: smiles and love are wonders that we need to love and cherish? Question 2 (12.0 points) Commenting on beauty in art, there is an opinion that: Beauty in art is the beauty in the artist himself. What do you think about the above opinion? Through some works in the Literature 10 program, let's clarify the issue. ------ Run out of ------ Full name of person submitting the question: Nguyen Thi Bich Hang Nguyen Thi Thanh Nhan THE NORTHERN COAST AND DELTA AREA ELEVENTH TIME, 2018 GRADING INSTRUCTIONS: Literature GRADE: 10 Question 1 (8.0 points) On the basis of understanding the meaning of the story and knowing how to write a social essay about a moral idea set forth in a literary work, students can present the article in many different ways but the basic You need to ensure the following points: Introducing the story and discussion issues (0.5 points) Comment on the discussion issue Explanation (1.0 points) – Briefly analyze the content of the story to see the different thoughts of the group of students about the seven wonders of the world. – Pay attention to the girl's thoughts that the seven wonders of the world should be: touch, sight, hearing, ability to walk, smile and love. - In there: + Smile: is a gesture expressing joy and happiness that people always aim for. + Love: is the feeling of attachment, sharing, harmony... between people in all relationships of life. Comment (3.0 points) – Affirmation: The girl's thoughts in the story are completely correct. - Arguments: + Indeed, we can still live happily without the Leaning Tower of Pisa, without the Eiffel Tower and the Egyptian Pyramids... But how difficult would it be for us if we lacked one of the seven wonders that this girl told us about? , especially the lack of smiles and love. + Furthermore, only many billions of people on Earth have a wonder like the Pyramid, while each of us has our own seven wonders. How rich we are. Those are the wonders that we need to love and appreciate the most. + When our lives have smiles and love, our lives will become good and meaningful because each person always needs joy and because people live to love each other (To Huu). On the contrary, if life does not have smiles and love, life will be dry, monotonous, and lose its good meanings. + Smile and love are spiritual motivations that help people live happily and love life, helping people overcome life's difficulties to find horizons of success and happiness. + People who always have a smile and love are always loved, respected, and praised by everyone around them. – Evidence (Students give specific evidence and analysis to clarify the problem) Expand (2.0 points) – Smiles and love will help people form more good feelings: optimism, love of life; a kind, altruistic heart; the strength to overcome difficulties... Thanks to that, each person will improve themselves day by day. – Smile and love are beautiful wonders that every human being has. Therefore, every person needs to build and preserve it so that those wonders are always beautiful and sustainable. – Criticize people + Live pessimistic, depressed, without a smile. + Living emotionlessly, coldly, without love. Contact yourself (1.0 points) Overall, still recommend discussion (0.5 points) Question 2 (12.0 points) Skill: Correctly meets the requirements of a literary essay discussing an opinion; Clear and reasonable layout; Strong, convincing arguments; Appropriate evidence highlights the issue; Encourage creative writing. Knowledge: On the basis of correctly understanding the problem and knowing how to write an essay on a literary theory issue, students can present and express in many different ways but basically need to have the following ideas: Introduction: lead introduction and quote verbatim opinions (0.25) Body of the article Explain your opinion (1.5 points) – Beauty is an aesthetic category, referring to positive values ​​that have the ability to foster and enhance human soul, perception, intelligence and action. – Beauty within the artist: values ​​belonging to thought, soul, perception, attitude and artistic talent. ->The above opinion refers to the origin of creating beauty in art: The decisive role of the artist in creating beauty in works of art, fulfilling the noble mission of the writer. b.2. Theoretical basis (1.5 points) – Literature takes people and life as objects of reflection according to the laws of beauty, aiming to satisfy people's aesthetic feelings. Human life itself is an aesthetic object of eternal art. – The creative process is a highly personal, individual, and subjective process. When life is refracted through the artist's subjective lens, whether it appears like this or that, in one way or another, people can directly or indirectly see the portrait of the creator's spirit. Therefore, the most important and direct thing about beauty in art is the beauty in the artist himself. – For artists in general and writers in particular, the most important quality is to have a sharp intuition and a rich soul. It is these vibes that bring beauty to the work and source of aesthetics for the reader. b.3. Clarifying the problem (7.0 points) Requirements: Hit the problem, highlight the problem...
Hướng dẫn CỤM TRƯỜNG THPT VĨNH BẢO (Đề thi gồm 02 trang) NĂM HỌC: 2017 -2018 MÔN: NGỮ VĂN Thời gian: 180 phút (không kể thời gian giao đề) Ngày thi: 29/03 /2018 ĐỌC HIỂU (3,0 điểm) Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu: “Sẽ dối lòng nếu không thừa nhận trái tim tan vỡ, nhưng…” “Sẽ là dối lòng mình nếu nói rằng không mong chờ một chiến thắng. Sẽ là dối lòng mình nếu không thừa nhận cảm thấy trái tim tan vỡ khi đội tuyển chịu thất bại ở những giây cuối cùng. Nhưng tôi nghĩ kết quả như vậy thậm chí còn tuyệt vời hơn về lâu dài. Kết quả trận chung kết này tốt ở chỗ nó nhắc nhở tất cả chúng ta công việc còn ngổn ngang những thứ phải làm. Một chiến thắng dễ đưa chúng ta đến với sự ngạo mạn nguy hiểm. Kết quả này cũng dạy cho chúng ta cách yêu những điều không hoàn hảo.Yêu cả trong những lúc đau lòng.Trân trọng và nhìn nhận sự cống hiến, chứ không đặt điều kiện tình yêu của mình vào sự tuyệt đối – một thứ quá mong manh. Kết quả này cũng dạy cho chúng ta phải học cách vui với những gì mình đạt được, dù không thật sự tuyệt đối.Niềm vui dựa vào chiến thắng cũng giống như một chất nghiện, nó liên tục cần những thứ lớn hơn, to tát hơn để tiếp tục vui.Nếu không biết kiểm soát nó, nó biến chúng ta thành những người đòi hỏi vô lý. Nó cũng làm chúng ta quên lý do nên vui. Cuối cùng, điều to lớn nhất chúng ta học được ở U23 Việt Nam lần này là với những nỗ lực đến kiệt cùng, với kỷ luật sắt đá, với niềm tin tuyệt đối, và cái tôi của từng cá nhân gạt qua một bên nhường cho tinh thần đồng đội mãnh liệt, họ đã làm được điều kỳ diệu đến không tưởng. Bao nhiêu người thấm được điều này?Tôi hy vọng là nhiều, rất nhiều.Và biến nó thành động lực cho chính mình để đặt cho mình một mục tiêu khó hơn, thách thức hơn, và có quyết tâm cao hơn để vượt qua. Tôi mong mỏi có những cuộc tập hợp, những cuộc xuống đường trong lòng mỗi người người.Và mong rằng nó kéo dài mãi.Nó biến sự hân hoan và ngưỡng mộ thành năng lượng để chúng ta tự chiến thắng trong trận chiến của riêng mình. (Trần Vinh Dự – Newzing.vn 27/01/2018) Câu 1 (1,0 điểm): Nhận xét vì sao tiến sĩ Trần Vinh Dự lại khẳng định: “kết quả như vậy còn tuyệt vời hơn về lâu dài”. Câu 2 (2,0 điểm): Viết đoạn văn 200 chữ trình bày quan điểm của anh (chị) về nội dung được gợi ra từ phần đọc hiểu và hình ảnh U 23 Việt Nam được đón chào giữa rừng hoa và biển người trong ngày trở về Tổ Quốc 28 tháng 1 năm 2018. LÀM VĂN (7,0 điểm) Câu 1 (3,0 điểm) Trong bài thơ Những điều bí ẩn, nhà thơ Nga, Eptusenko, có viết: Bí ẩn đơn sơ nhưng vẫn cần bí ẩn, Dù ít, dù nhiều, xin trả lại cho ta… Bí ẩn rất lặng yên, rụt rè và nhút nhát, Bí ẩn đi chân trần, mảnh dẻ, đã bay xa! (Thơ Eptusenko, Bằng Việt dịch, NXB Tác phẩm mới, 1982, Dẫn theo nguồn Internet) Hãy trình bày suy nghĩ của anh (chị) về ý kiến: “Bí ẩn rất đơn sơ nhưng vẫn cần bí ẩn”. Câu 2 (4,0 điểm) Nhà văn là “ngườivẫn còn mang vết thương đã lại đi chữa lành vết thương cho người khác”. (Theo Sỏi đá buồn tênh – Nguyễn Ngọc Tư) Bằng một vài tác phẩn văn học trong chương trình Ngữ Văn 10, anh /chị hãy làm sáng tỏ ý kiến trên. ————–HẾT————– Thí sinh không sử dụng tài liệu. Cán bộ coi thi không giải thích gì thêm. Họ và tên thí sinh:……………………………….. Số báo danh:……………………………….. Cán bộ coi thi 1: Cán bộ coi thi 2: CỤM TRƯỜNG THPT VĨNH BẢO (Đáp án gồm 04 trang) NĂM HỌC: 2017 -2018 MÔN: NGỮ VĂN 10 ĐỌC HIỂU 1 -Kết quả này nhắc nhở tất cả chúng ta công việc còn ngồn ngang những thứ chưa làm được. -Kết quả này dạy chúng ta biết cách yêu những điều không hoàn hảo. – Kết quả này dạy chúng ta phải học cách vui với những gì mình đạt được, dù không thực sự tuyệt đối. – Kết quả này là động lực để chúng ta phấn đấu. 0,25 0,25 0,25 0,25 *Đảm bảo đúng hình thức đoạn văn và dung lượng, diễn đạt lưu loát, giàu cảm xúc. *Học sinh có thể đưa ra những suy nghĩ, quan điểm riêng của cá nhân nhưng phải đưa ra lí lẽ thuyết phục, hợp lí, không đi trái lại với đạo đức, pháp luật. Một vài gợi ý: – Nội dung phần đọc hiểu không chỉ là thái độ, tâm trạng của tác giả về sự kiện thi đấu của đội U23 Việt Nam vừa qua mà còn là suy ngẫm về thay đổi của mỗi cá nhân để đóng góp cho xã hội. Hình ảnh rừng người và cờ hoa chào đón đội tuyển ngày trở về không chỉ thể hiện tấm lòng của người hâm mộ mà còn là biểu hiện của tinh thần dân tộc, sự đoàn kết và niềm tự hào. – Bài học cuộc sống: + Bài học về cách sống cống hiến, sống hết mình, ý chí vượt qua khó khăn, thử thách và làm nên những thành công, rạng danh dân tộc. Sống để có thể ngẩng cao đầu và được chào đón huy hoàng, để ghi dấu trong lòng người khác. + Chúng ta chỉ có thể được cộng đồng đón nhận khi biết hài hòa giữa lợi ích cá nhân và lợi ích tập thể, biết sống yêu thươn, kỉ luật, trách nhiệm, đoàn kết. + Phê phán lối sống ích kỉ, cá nhân; sự suy đồi xuống cấp về đạo đức, lối sống (tham ô, tham nhũng), đánh mất danh dự, đánh mất chính mình, làm tồn hại đến quốc gia, dân tộc. Trong quá trình lập luận, cần lấy dẫn chứng liên hệ ( đặc biệt là với bản thân đã lựa chọn cách sống như thế nào? Rèn luyện những điều gì? Đã có những hành động cụ thể với tư cách một công dân trẻ…) 0,25 1,75 0,25 0,5 0,5 0,5 Bí ẩn đơn sơ nhưng vẫn cần bí ẩn, Dù ít, dù nhiều, xin trả lại cho ta… Bí ẩn rất lặng yên, rụt rè và nhút nhát, Bí ẩn đi chân trần, mảnh dẻ, đã bay xa! (Thơ Eptusenko, Bằng Việt dịch, NXB Tác phẩm mới, 1982, Dẫn theo nguồn Internet) Hãy trình bày suy nghĩ của anh (chị) về ý kiến: “Bí ẩn rất đơn sơ nhưng vẫn cần bí ẩn”. * Ý nghĩa của khổ thơ, câu thơ của Eptusenko -Bí ấn là gì? + (Bên trong) có chứa đựng điều gì kín đáo, khó hiểu (Theo: Vi.wiktionary.org); + Trong khổ thơ của Eptusenko ý nói: “lặng yên, rụt rè, ít nói” và rất dễ “đi chân trần, mảnh dẻ, bay xa”. à Eptusenko khẳng định: cần giữ niềm đam mê, khám phá những bí ẩn trong đời sống. *Bàn luận: Học sinh đưa ra quan điểm và lựa chọn riêng của bản thân miễn có sức thuyết phục. Một vài gợi ý: – Cuộc sống luôn chứa đựng những điều bí ẩn, kì diều ngay trong chính sự hiện diện của nó, rất đơn sơ. – Con người cần giữ niềm đam mê khám phá những bí ẩn của vũ trụ, cuộc sống, con người. – Cần giữ sự bí ẩn, đam mê khám phá sự bí ẩn của trái tim, tuổi trẻ. *Bài học nhận thức và hành động: -Bồi đắp tâm hồn, bồi đắp giá trị cá nhân dồi dào, phong phú. – Bồi đắp niềm say mê, khát khao, khám phá. … 0,5 0,5 0,5 Có nhiều cách diễn đạt độc đáo và sáng tạo thể hiện được quan điểm và thái độ riêng, sâu sắc nhưng không trái với chuẩn mực đạo đức và pháp luật. Diễn đạt trong sáng, giàu sức biểu cảm; không mắc lỗi chính tả, dùng từ, đặt câu. 2 (Theo Sỏi đá buồn tênh – Nguyễn Ngọc Tư) Bằng một vài tác phẩn văn học trong chương trình Ngữ Văn 10, anh /chị hãy làm sáng tỏ ý kiến trên. a. Giải thích nhận định: – Nhà văn là người mang vết thương: nhàn văn là người mang những nỗi đau, bi kịch của chính mình, nhà văn là người “chữa vết thương cho người khác”: qua sáng tác, nhà văn mong muốn chia sẻ, đồng cảm với những nỗi đau của con người, từ đó giúp họ vượt lên những nỗi đau. – Câu nói khẳng định: “sứ mệnh” đặc biệt của nhà văn: luôn thấu hiểu và “chữa lành vết thương” cho người khác từ nỗi đau của chính mình. b. Bàn luận – Vốn là người có tâm hồn nhạy cảm, nhà văn dễ tồn thương trước những giông bão của cuộc đời. Sống trong thời đại nhiều bất công, ngang trái, họ cũng là người mang nỗi đau lớn của thời đại mình. -Từ trải nghiệm nỗi đay, sự bất hạnh của mình, nhà văn dễ thấu hiểu nỗi đau, sự bất hạnh của người. Trái tim nhân ái và tâm hồn rộn mở khiến họ chưa kịp chữa lành vết thương cho mình, đã lại mong muốn chữa lành vết thương cho người khác. -Học sinh chứng minh qua một vài tác phẩm, sau đây là ví dụ: + Độc Tiểu Thanh kí: Nguyễn Du từ nỗi đau thân phận (tài hoa mà bất hạnh) thấu hiểu, xót thương cho số phận Tiểu Thanh. + Truyện Kiều: Nguyễn Du từ nỗi đau thời đại (bất lực khi chứng kiến cảnh nhiễu nhương, sự tàn ác, bất công…của xã hội đương thời) mà xót thương cho số phận bất hạnh của nàng Kiều và mong ước nàng có một cuộc đời tốt đẹp hơn. +…. c. Đánh giá, bàn luận: – Khi nhà văn biết từ nỗi đau của mình xoa dịu nỗi đau của người, tác phẩm của họ sẽ mang giá trị nhân đạo, nhân văn sâu sắc. – Nhà văn không chỉ cần tấm lòng yêu thương, rộng mở mà còn cần vốn sống sâu rộng, tài sử dụng và sáng tạo ngôn từ. – Giá trị của văn học không chỉ là chữa những vết thương, nâng đỡ con người trong hoàn cảnh bất hạnh mà còn là đồng điệu với hạnh phúc, niềm vui…khát vọng của con người. 0,5 0,25 0,25 1,5 0,5 0,5 0,5 0,5 – Bộc lộ sự sáng tạo trong cách trình bày luận điểm, luận cứ, luận chứng; trong diễn đạt, tư duy. – Có quan điểm, thái độ riêng, sâu sắc, phù hợp với chuẩn mực đạo đức và pháp luật. Diễn đạt trong sáng, giàu sức biểu cảm; không mắc lỗi chính tả, dùng từ, đặt câu. ……………………..HẾT…………………….
Hướng dẫn CỤM TRƯỜNG THPT VĨNH BẢO (Đề thi gồm 02 trang) NĂM HỌC: 2017 -2018 MÔN: NGỮ VĂN Thời gian: 180 phút (không kể thời gian giao đề) Ngày thi: 29/03 /2018 ĐỌC HIỂU (3,0 điểm) Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu: “Sẽ dối lòng nếu không thừa nhận trái tim tan vỡ, nhưng…” “Sẽ là dối lòng mình nếu nói rằng không mong chờ một chiến thắng. Sẽ là dối lòng mình nếu không thừa nhận cảm thấy trái tim tan vỡ khi đội tuyển chịu thất bại ở những giây cuối cùng. Nhưng tôi nghĩ kết quả như vậy thậm chí còn tuyệt vời hơn về lâu dài. Kết quả trận chung kết này tốt ở chỗ nó nhắc nhở tất cả chúng ta công việc còn ngổn ngang những thứ phải làm. Một chiến thắng dễ đưa chúng ta đến với sự ngạo mạn nguy hiểm. Kết quả này cũng dạy cho chúng ta cách yêu những điều không hoàn hảo.Yêu cả trong những lúc đau lòng.Trân trọng và nhìn nhận sự cống hiến, chứ không đặt điều kiện tình yêu của mình vào sự tuyệt đối – một thứ quá mong manh. Kết quả này cũng dạy cho chúng ta phải học cách vui với những gì mình đạt được, dù không thật sự tuyệt đối.Niềm vui dựa vào chiến thắng cũng giống như một chất nghiện, nó liên tục cần những thứ lớn hơn, to tát hơn để tiếp tục vui.Nếu không biết kiểm soát nó, nó biến chúng ta thành những người đòi hỏi vô lý. Nó cũng làm chúng ta quên lý do nên vui. Cuối cùng, điều to lớn nhất chúng ta học được ở U23 Việt Nam lần này là với những nỗ lực đến kiệt cùng, với kỷ luật sắt đá, với niềm tin tuyệt đối, và cái tôi của từng cá nhân gạt qua một bên nhường cho tinh thần đồng đội mãnh liệt, họ đã làm được điều kỳ diệu đến không tưởng. Bao nhiêu người thấm được điều này?Tôi hy vọng là nhiều, rất nhiều.Và biến nó thành động lực cho chính mình để đặt cho mình một mục tiêu khó hơn, thách thức hơn, và có quyết tâm cao hơn để vượt qua. Tôi mong mỏi có những cuộc tập hợp, những cuộc xuống đường trong lòng mỗi người người.Và mong rằng nó kéo dài mãi.Nó biến sự hân hoan và ngưỡng mộ thành năng lượng để chúng ta tự chiến thắng trong trận chiến của riêng mình. (Trần Vinh Dự – Newzing.vn 27/01/2018) Câu 1 (1,0 điểm): Nhận xét vì sao tiến sĩ Trần Vinh Dự lại khẳng định: “kết quả như vậy còn tuyệt vời hơn về lâu dài”. Câu 2 (2,0 điểm): Viết đoạn văn 200 chữ trình bày quan điểm của anh (chị) về nội dung được gợi ra từ phần đọc hiểu và hình ảnh U 23 Việt Nam được đón chào giữa rừng hoa và biển người trong ngày trở về Tổ Quốc 28 tháng 1 năm 2018. LÀM VĂN (7,0 điểm) Câu 1 (3,0 điểm) Trong bài thơ Những điều bí ẩn, nhà thơ Nga, Eptusenko, có viết: Bí ẩn đơn sơ nhưng vẫn cần bí ẩn, Dù ít, dù nhiều, xin trả lại cho ta… Bí ẩn rất lặng yên, rụt rè và nhút nhát, Bí ẩn đi chân trần, mảnh dẻ, đã bay xa! (Thơ Eptusenko, Bằng Việt dịch, NXB Tác phẩm mới, 1982, Dẫn theo nguồn Internet) Hãy trình bày suy nghĩ của anh (chị) về ý kiến: “Bí ẩn rất đơn sơ nhưng vẫn cần bí ẩn”. Câu 2 (4,0 điểm) Nhà văn là “ngườivẫn còn mang vết thương đã lại đi chữa lành vết thương cho người khác”. (Theo Sỏi đá buồn tênh – Nguyễn Ngọc Tư) Bằng một vài tác phẩn văn học trong chương trình Ngữ Văn 10, anh /chị hãy làm sáng tỏ ý kiến trên. ————–HẾT————– Thí sinh không sử dụng tài liệu. Cán bộ coi thi không giải thích gì thêm. Họ và tên thí sinh:……………………………….. Số báo danh:……………………………….. Cán bộ coi thi 1: Cán bộ coi thi 2: CỤM TRƯỜNG THPT VĨNH BẢO (Đáp án gồm 04 trang) NĂM HỌC: 2017 -2018 MÔN: NGỮ VĂN 10 ĐỌC HIỂU 1 -Kết quả này nhắc nhở tất cả chúng ta công việc còn ngồn ngang những thứ chưa làm được. -Kết quả này dạy chúng ta biết cách yêu những điều không hoàn hảo. – Kết quả này dạy chúng ta phải học cách vui với những gì mình đạt được, dù không thực sự tuyệt đối. – Kết quả này là động lực để chúng ta phấn đấu. 0,25 0,25 0,25 0,25 *Đảm bảo đúng hình thức đoạn văn và dung lượng, diễn đạt lưu loát, giàu cảm xúc. *Học sinh có thể đưa ra những suy nghĩ, quan điểm riêng của cá nhân nhưng phải đưa ra lí lẽ thuyết phục, hợp lí, không đi trái lại với đạo đức, pháp luật. Một vài gợi ý: – Nội dung phần đọc hiểu không chỉ là thái độ, tâm trạng của tác giả về sự kiện thi đấu của đội U23 Việt Nam vừa qua mà còn là suy ngẫm về thay đổi của mỗi cá nhân để đóng góp cho xã hội. Hình ảnh rừng người và cờ hoa chào đón đội tuyển ngày trở về không chỉ thể hiện tấm lòng của người hâm mộ mà còn là biểu hiện của tinh thần dân tộc, sự đoàn kết và niềm tự hào. – Bài học cuộc sống: + Bài học về cách sống cống hiến, sống hết mình, ý chí vượt qua khó khăn, thử thách và làm nên những thành công, rạng danh dân tộc. Sống để có thể ngẩng cao đầu và được chào đón huy hoàng, để ghi dấu trong lòng người khác. + Chúng ta chỉ có thể được cộng đồng đón nhận khi biết hài hòa giữa lợi ích cá nhân và lợi ích tập thể, biết sống yêu thươn, kỉ luật, trách nhiệm, đoàn kết. + Phê phán lối sống ích kỉ, cá nhân; sự suy đồi xuống cấp về đạo đức, lối sống (tham ô, tham nhũng), đánh mất danh dự, đánh mất chính mình, làm tồn hại đến quốc gia, dân tộc. Trong quá trình lập luận, cần lấy dẫn chứng liên hệ ( đặc biệt là với bản thân đã lựa chọn cách sống như thế nào? Rèn luyện những điều gì? Đã có những hành động cụ thể với tư cách một công dân trẻ…) 0,25 1,75 0,25 0,5 0,5 0,5 Bí ẩn đơn sơ nhưng vẫn cần bí ẩn, Dù ít, dù nhiều, xin trả lại cho ta… Bí ẩn rất lặng yên, rụt rè và nhút nhát, Bí ẩn đi chân trần, mảnh dẻ, đã bay xa! (Thơ Eptusenko, Bằng Việt dịch, NXB Tác phẩm mới, 1982, Dẫn theo nguồn Internet) Hãy trình bày suy nghĩ của anh (chị) về ý kiến: “Bí ẩn rất đơn sơ nhưng vẫn cần bí ẩn”. * Ý nghĩa của khổ thơ, câu thơ của Eptusenko -Bí ấn là gì? + (Bên trong) có chứa đựng điều gì kín đáo, khó hiểu (Theo: Vi.wiktionary.org); + Trong khổ thơ của Eptusenko ý nói: “lặng yên, rụt rè, ít nói” và rất dễ “đi chân trần, mảnh dẻ, bay xa”. à Eptusenko khẳng định: cần giữ niềm đam mê, khám phá những bí ẩn trong đời sống. *Bàn luận: Học sinh đưa ra quan điểm và lựa chọn riêng của bản thân miễn có sức thuyết phục. Một vài gợi ý: – Cuộc sống luôn chứa đựng những điều bí ẩn, kì diều ngay trong chính sự hiện diện của nó, rất đơn sơ. – Con người cần giữ niềm đam mê khám phá những bí ẩn của vũ trụ, cuộc sống, con người. – Cần giữ sự bí ẩn, đam mê khám phá sự bí ẩn của trái tim, tuổi trẻ. *Bài học nhận thức và hành động: -Bồi đắp tâm hồn, bồi đắp giá trị cá nhân dồi dào, phong phú. – Bồi đắp niềm say mê, khát khao, khám phá. … 0,5 0,5 0,5 Có nhiều cách diễn đạt độc đáo và sáng tạo thể hiện được quan điểm và thái độ riêng, sâu sắc nhưng không trái với chuẩn mực đạo đức và pháp luật. Diễn đạt trong sáng, giàu sức biểu cảm; không mắc lỗi chính tả, dùng từ, đặt câu. 2 (Theo Sỏi đá buồn tênh – Nguyễn Ngọc Tư) Bằng một vài tác phẩn văn học trong chương trình Ngữ Văn 10, anh /chị hãy làm sáng tỏ ý kiến trên. a. Giải thích nhận định: – Nhà văn là người mang vết thương: nhàn văn là người mang những nỗi đau, bi kịch của chính mình, nhà văn là người “chữa vết thương cho người khác”: qua sáng tác, nhà văn mong muốn chia sẻ, đồng cảm với những nỗi đau của con người, từ đó giúp họ vượt lên những nỗi đau. – Câu nói khẳng định: “sứ mệnh” đặc biệt của nhà văn: luôn thấu hiểu và “chữa lành vết thương” cho người khác từ nỗi đau của chính mình. b. Bàn luận – Vốn là người có tâm hồn nhạy cảm, nhà văn dễ tồn thương trước những giông bão của cuộc đời. Sống trong thời đại nhiều bất công, ngang trái, họ cũng là người mang nỗi đau lớn của thời đại mình. -Từ trải nghiệm nỗi đay, sự bất hạnh của mình, nhà văn dễ thấu hiểu nỗi đau, sự bất hạnh của người. Trái tim nhân ái và tâm hồn rộn mở khiến họ chưa kịp chữa lành vết thương cho mình, đã lại mong muốn chữa lành vết thương cho người khác. -Học sinh chứng minh qua một vài tác phẩm, sau đây là ví dụ: + Độc Tiểu Thanh kí: Nguyễn Du từ nỗi đau thân phận (tài hoa mà bất hạnh) thấu hiểu, xót thương cho số phận Tiểu Thanh. + Truyện Kiều: Nguyễn Du từ nỗi đau thời đại (bất lực khi chứng kiến cảnh nhiễu nhương, sự tàn ác, bất công…của xã hội đương thời) mà xót thương cho số phận bất hạnh của nàng Kiều và mong ước nàng có một cuộc đời tốt đẹp hơn. +…. c. Đánh giá, bàn luận: – Khi nhà văn biết từ nỗi đau của mình xoa dịu nỗi đau của người, tác phẩm của họ sẽ mang giá trị nhân đạo, nhân văn sâu sắc. – Nhà văn không chỉ cần tấm lòng yêu thương, rộng mở mà còn cần vốn sống sâu rộng, tài sử dụng và sáng tạo ngôn từ. – Giá trị của văn học không chỉ là chữa những vết thương, nâng đỡ con người trong hoàn cảnh bất hạnh mà còn là đồng điệu với hạnh phúc, niềm vui…khát vọng của con người. 0,5 0,25 0,25 1,5 0,5 0,5 0,5 0,5 – Bộc lộ sự sáng tạo trong cách trình bày luận điểm, luận cứ, luận chứng; trong diễn đạt, tư duy. – Có quan điểm, thái độ riêng, sâu sắc, phù hợp với chuẩn mực đạo đức và pháp luật. Diễn đạt trong sáng, giàu sức biểu cảm; không mắc lỗi chính tả, dùng từ, đặt câu. ……………………..HẾT…………………….
Hướng dẫn TRƯỜNG THPT CHUYÊN BẢO LỘC Môn:Ngữ văn – Khối 10 Thời gian làm bài: 180 phút PHẦN 1. ĐỀ THI Câu hỏi 1. (8,0 điểm) Nêu suy nghĩ của anh (chị) về ý kiến của Voltaire: “Thiên đường được tạo ra cho những trái tim dịu dàng; địa ngục, cho những trái tim không biết yêu thương.” Câu hỏi 2. (12,0 điểm) Viết về vai trò của sự cách tân thơ ca, nhà nghiên cứu văn học người Chăm, Inrasara cho rằng: “Trên nền hiện thực mới, xuất phát từ cảm thức khác, nhà thơ có lối nghĩ khác, cách thể hiện và cách nói khác, và dĩ nhiên – cần đến ngôn ngữ khác. Ngôn ngữ là vốn chung của dân tộc, mỗi nhà thơ – bằng tài năng sáng tạo của mình – làm khác bằng cách ghi dấu ấn của mình lên thứ ngôn ngữ chung đó. Chính sự khác này làm giàu sang ngôn ngữ dân tộc, và nền văn học dân tộc” (Inrasara, Từ ảo tưởng của nhà thơ đến thất thố của người làm phê bình, om.vn – Nhân dân cuối tuần, Thứ hai, 13/05/2013) Suy nghĩ của anh (chị) về ý kiến trên. Làm sáng tỏ quan điểm của mình qua “Truyện Kiều” của Nguyễn Du, “Mời trầu” của Hồ Xuân Hương. …………HẾT…………… PHẦN 2. ĐÁP ÁN VÀ HƯỚNG DẪN CHẤM Câu 1. Nghị luận xã hội (8,0 điểm) – Đáp ứng yêu cầu của bài văn nghị luận xã hội. – Bố cục sáng rõ, lập luận chặt chẽ, diễn đạt lưu loát, chữ viết rõ ràng, không mắc lỗi chính tả, dùng từ, ngữ pháp … Học sinh có thể làm bài theo nhiều cách khác nhau tuy nhiên cần đảm bảo các ý chính sau – Thiên đường: nơi linh hồn những người được coi là đã rửa sạch tội lỗi, được hưởng sự cực lạc sau khi chết, theo quan niệm của một số tôn giáo; cũng dùng để chỉ thế giới tưởng tượng đầy hạnh phúc; đối lập với địa ngục. – Địa ngục: nơi đầy ải linh hồn những người phạm tội ác trên trần gian, người độc ác khi chết bị đày xuống địa ngục. – Trái tim dịu dàng: trái tim biết yêu thương, chia sẻ, đồng cảm; đối lập với trái tim không biết yêu thương, vô cảm. → Ý nghĩa câu nói: người sống biết chia sẻ, quan tâm, yêu thương mọi người sẽ nhận được hạnh phúc, cuộc sống của họ được ví như đang ở thiên đường. Ngược lại những người sống vô cảm không quan tâm đến mọi người chỉ nhận được sự xa lánh, không đồng cảm từ những người xung quanh, cuộc sống của họ ví như địa ngục trần gian. – Tại sao: “Thiên đường được tạo ra cho những trái tim dịu dàng”? + Trái tim dịu dàng là trái tim rộng mở với những điều diễn ra trong cuộc sống, trái tim ấm áp ấy luôn hướng đến những người xung quanh, tràn ngập tình cảm chân thành của một con người. + Người có trái tim dịu dàng sẽ có những hành động nhân ái, đem niềm vui cho mọi người. Khi họ cho yêu thương thì sẽ nhận lại yêu thương và cuộc sống của họ sẽ tựa như thiên đường. + Người có trái tim dịu dàng sẽ đem lại hạnh phúc cho người khác, có thể nói họ là những người gieo hạt giống yêu thương, cuộc sống của họ sẽ trở nên hạnh phúc bởi “Bàn tay tặng hoa hồng còn phảng phất mùi hương”. + Chỉ có trái tim dịu dàng mới biết hướng đến mọi người, mở rộng trái tim yêu thương thì mới gieo được hạnh phúc thực sự. Sống biết quan tâm, chia sẻ niềm vui nỗi buồn với mọi người họ sẽ nhận được sự đồng cảm, chia sẻ từ mọi người khi họ gặp khó khăn, trắc trở… – Tại sao: “địa ngục, cho những trái tim không biết yêu thương”? + Sống không có tình thương, sống vô tâm thì chắc chắn cũng không được sự quan tâm, chia sẻ từ người khác, đôi khi ta phải hối tiếc ân hận cả đời. + Có thể chính bạn là nạn nhân của sự sống vô cảm. Khi đó, cuộc sống của bạn chẳng khác gì địa ngục trần gian. – Liên hệ từ thực tế lối sống yêu thương và lối sống vô cảm. – Câu nói của Voltaire hoàn toàn chính xác. Cần phê phán những người sống vô cảm, sống vì cá nhân, bản thân, nghĩ đến cái tôi quá nhiều mà quên đi những người xung quanh. Câu 2. Nghị luận văn học (12,0 điểm) – Đáp ứng yêu cầu của bài văn nghị luận văn học (bàn về vấn đề lí luận, sử dụng tác phẩm để chứng minh) – Bố cục sáng rõ, lập luận chặt chẽ, diễn đạt lưu loát, chữ viết rõ ràng, không mắc lỗi chính tả, dùng từ, ngữ pháp … Học sinh có thể làm bài theo nhiều cách khác nhau tuy nhiên cần đảm bảo các ý chính sau: – Sự sáng tạo về ngôn ngữ nghệ thuật thơ ca của người nghệ sĩ lớn là cả một cuộc cách mạng, cuộc cách mạng đã giúp bảo tồn và phát triển, làm giàu đẹp ngôn ngữ dân tộc và văn chương. – Nhà nghiên cứu khái quát thành một hệ thống các bình diện đơn lẻ của cá tính sáng tạo nghệ thuật thơ ca một cách toàn diện, trong mối quan hệ nhân quả, soi chiếu (Từ hiện thực của thời đại đến đời sống tư tưởng tình cảm của con người, đến thi pháp và ngôn ngữ… trong sự vận động và phát triển) – Nhận định nhấn mạnh đến sự sáng tạo ngôn ngữ cá nhân (cá tính sáng tạo) theo quy tắc: trên nền ngôn ngữ chung, đặt dấu ấn cá nhân, làm khác bằng sự sáng tạo (một cách nghệ thuật hơn là một phát minh…), nói cách khác là sự cách tân, sự mở rộng trên nền truyền thống. – Giá trị của cá tính sáng tạo đó là: làm giàu có, sang trọng cho ngôn ngữ dân tộc và văn chương dân tộc. – Đây là ý kiến đúng đắn, toàn diện và tiếp cận lí luận văn học hiện đại về nguồn gốc, bản chất và giá trị của cá tính sáng tạo, của những tài năng thơ ca trên lĩnh vực thơ ca. – Hiện thực thay đổi (hiện thực mới), nhà thơ phải có cảm thức mới. Nhà thơ phải là tiếng nói của thời đại mình. Đó là cái gốc của giá trị thơ ca. Điều này đúng với quy luật triết học về nội dung và hình thức. – Để sáng tạo một thi phẩm “thể hiện con người và thời đại một cách cao đẹp”, theo quy luật của cái đẹp, nhà thơ phải cách tân toàn diện hình thức biểu đạt, phải sáng tạo thi pháp cho riêng mình. – Nhưng vấn đề trung tâm của thơ ca là tài năng sử dụng chất liệu ngôn ngữ dân tộc và sáng tạo nó. Đáp ứng cùng lúc yêu cầu: bảo lưu hồn cốt, đến được với con người của thời đại (văn hóa, thị hiếu, nhu cầu…), và hội nhập, quảng bá với văn học đương đại. Nhưng căn bản nhất, độc đáo (khác) là sinh mệnh của sáng tạo thơ ca, nghệ thuật. Để khác với một hệ thống các đòi hỏi, các yêu cầu, các sứ mệnh, làm thơ là định mệnh, nhà thơ phải vượt qua định mệnh ấy bằng yêu nó và giải nó. Sáng tạo là yêu để giải. Nhà thơ tài năng phải lao động nghệ thuật với một đam mê, một đau đớn, một nghị lực, một tài hoa phi thường. HS có thể có nhiều cách để trình bày, song về cơ bản cần làm sáng tỏ: – Truyện Kiều: Trên nền hiện thực đầy biến động của xã hội Việt Nam cuối thời trung đại, Truyện Kiều là bức tranh hiện thực và những biến động ấy và tiếng nói nhân đạo về con người và quyền sống. Để thể hiện được nội dung cảm hứng lớn trên, Nguyễn Du đã sáng tạo tác phẩm truyện Nôm bằng thể lục bát với những cách tân thiên tài: + Nhân vật của ông có tính cách điển hình, có nội tâm, có ngôn ngữ riêng. + Thể thơ lục bát dân gian vừa kể linh hoạt, vừa trữ tình sâu sắc tinh tế. + Đặc biệt là sự sáng tạo ngôn ngữ của Nguyễn Du, khiến ngôn ngữ dân tộc, ngôn ngữ thơ ca trở nên sinh động, phong phú, đầy hơi thở đời sống, đủ năng lực diễn tả đời sống, tâm hồn, tình cảm phức tạp của con người. (Minh chứng) – Mời trầu: Là tiếng nói đầy cá tính của cái tôi phụ nữ đòi quyền sống, đấu tranh để giải phóng cá tính. Về hình thức: Sự cách tân thơ Đường luật khiến thể thơ đạo mạo này trở thành gần gũi. Chất liệu dân gian, lời ăn tiêng nói dân gian… đã được vận dụng khai thác để làm khác – Khẳng định tính đúng đắn của ý kiến trên. – Bài học đối với người sáng tác và tiếp nhận: + Đối với người sáng tác: không ngừng tìm tòi, khám phá, sáng tạo ngôn ngữ. + Đối với người đọc: cảm thụ tác phẩm trên cơ sở ngôn từ và hình tượng nghệ thuật.
Hướng dẫn TRƯỜNG THPT CHUYÊN BẢO LỘC Môn:Ngữ văn – Khối 10 Thời gian làm bài: 180 phút PHẦN 1. ĐỀ THI Câu hỏi 1. (8,0 điểm) Nêu suy nghĩ của anh (chị) về ý kiến của Voltaire: “Thiên đường được tạo ra cho những trái tim dịu dàng; địa ngục, cho những trái tim không biết yêu thương.” Câu hỏi 2. (12,0 điểm) Viết về vai trò của sự cách tân thơ ca, nhà nghiên cứu văn học người Chăm, Inrasara cho rằng: “Trên nền hiện thực mới, xuất phát từ cảm thức khác, nhà thơ có lối nghĩ khác, cách thể hiện và cách nói khác, và dĩ nhiên – cần đến ngôn ngữ khác. Ngôn ngữ là vốn chung của dân tộc, mỗi nhà thơ – bằng tài năng sáng tạo của mình – làm khác bằng cách ghi dấu ấn của mình lên thứ ngôn ngữ chung đó. Chính sự khác này làm giàu sang ngôn ngữ dân tộc, và nền văn học dân tộc” (Inrasara, Từ ảo tưởng của nhà thơ đến thất thố của người làm phê bình, om.vn – Nhân dân cuối tuần, Thứ hai, 13/05/2013) Suy nghĩ của anh (chị) về ý kiến trên. Làm sáng tỏ quan điểm của mình qua “Truyện Kiều” của Nguyễn Du, “Mời trầu” của Hồ Xuân Hương. …………HẾT…………… PHẦN 2. ĐÁP ÁN VÀ HƯỚNG DẪN CHẤM Câu 1. Nghị luận xã hội (8,0 điểm) – Đáp ứng yêu cầu của bài văn nghị luận xã hội. – Bố cục sáng rõ, lập luận chặt chẽ, diễn đạt lưu loát, chữ viết rõ ràng, không mắc lỗi chính tả, dùng từ, ngữ pháp … Học sinh có thể làm bài theo nhiều cách khác nhau tuy nhiên cần đảm bảo các ý chính sau – Thiên đường: nơi linh hồn những người được coi là đã rửa sạch tội lỗi, được hưởng sự cực lạc sau khi chết, theo quan niệm của một số tôn giáo; cũng dùng để chỉ thế giới tưởng tượng đầy hạnh phúc; đối lập với địa ngục. – Địa ngục: nơi đầy ải linh hồn những người phạm tội ác trên trần gian, người độc ác khi chết bị đày xuống địa ngục. – Trái tim dịu dàng: trái tim biết yêu thương, chia sẻ, đồng cảm; đối lập với trái tim không biết yêu thương, vô cảm. → Ý nghĩa câu nói: người sống biết chia sẻ, quan tâm, yêu thương mọi người sẽ nhận được hạnh phúc, cuộc sống của họ được ví như đang ở thiên đường. Ngược lại những người sống vô cảm không quan tâm đến mọi người chỉ nhận được sự xa lánh, không đồng cảm từ những người xung quanh, cuộc sống của họ ví như địa ngục trần gian. – Tại sao: “Thiên đường được tạo ra cho những trái tim dịu dàng”? + Trái tim dịu dàng là trái tim rộng mở với những điều diễn ra trong cuộc sống, trái tim ấm áp ấy luôn hướng đến những người xung quanh, tràn ngập tình cảm chân thành của một con người. + Người có trái tim dịu dàng sẽ có những hành động nhân ái, đem niềm vui cho mọi người. Khi họ cho yêu thương thì sẽ nhận lại yêu thương và cuộc sống của họ sẽ tựa như thiên đường. + Người có trái tim dịu dàng sẽ đem lại hạnh phúc cho người khác, có thể nói họ là những người gieo hạt giống yêu thương, cuộc sống của họ sẽ trở nên hạnh phúc bởi “Bàn tay tặng hoa hồng còn phảng phất mùi hương”. + Chỉ có trái tim dịu dàng mới biết hướng đến mọi người, mở rộng trái tim yêu thương thì mới gieo được hạnh phúc thực sự. Sống biết quan tâm, chia sẻ niềm vui nỗi buồn với mọi người họ sẽ nhận được sự đồng cảm, chia sẻ từ mọi người khi họ gặp khó khăn, trắc trở… – Tại sao: “địa ngục, cho những trái tim không biết yêu thương”? + Sống không có tình thương, sống vô tâm thì chắc chắn cũng không được sự quan tâm, chia sẻ từ người khác, đôi khi ta phải hối tiếc ân hận cả đời. + Có thể chính bạn là nạn nhân của sự sống vô cảm. Khi đó, cuộc sống của bạn chẳng khác gì địa ngục trần gian. – Liên hệ từ thực tế lối sống yêu thương và lối sống vô cảm. – Câu nói của Voltaire hoàn toàn chính xác. Cần phê phán những người sống vô cảm, sống vì cá nhân, bản thân, nghĩ đến cái tôi quá nhiều mà quên đi những người xung quanh. Câu 2. Nghị luận văn học (12,0 điểm) – Đáp ứng yêu cầu của bài văn nghị luận văn học (bàn về vấn đề lí luận, sử dụng tác phẩm để chứng minh) – Bố cục sáng rõ, lập luận chặt chẽ, diễn đạt lưu loát, chữ viết rõ ràng, không mắc lỗi chính tả, dùng từ, ngữ pháp … Học sinh có thể làm bài theo nhiều cách khác nhau tuy nhiên cần đảm bảo các ý chính sau: – Sự sáng tạo về ngôn ngữ nghệ thuật thơ ca của người nghệ sĩ lớn là cả một cuộc cách mạng, cuộc cách mạng đã giúp bảo tồn và phát triển, làm giàu đẹp ngôn ngữ dân tộc và văn chương. – Nhà nghiên cứu khái quát thành một hệ thống các bình diện đơn lẻ của cá tính sáng tạo nghệ thuật thơ ca một cách toàn diện, trong mối quan hệ nhân quả, soi chiếu (Từ hiện thực của thời đại đến đời sống tư tưởng tình cảm của con người, đến thi pháp và ngôn ngữ… trong sự vận động và phát triển) – Nhận định nhấn mạnh đến sự sáng tạo ngôn ngữ cá nhân (cá tính sáng tạo) theo quy tắc: trên nền ngôn ngữ chung, đặt dấu ấn cá nhân, làm khác bằng sự sáng tạo (một cách nghệ thuật hơn là một phát minh…), nói cách khác là sự cách tân, sự mở rộng trên nền truyền thống. – Giá trị của cá tính sáng tạo đó là: làm giàu có, sang trọng cho ngôn ngữ dân tộc và văn chương dân tộc. – Đây là ý kiến đúng đắn, toàn diện và tiếp cận lí luận văn học hiện đại về nguồn gốc, bản chất và giá trị của cá tính sáng tạo, của những tài năng thơ ca trên lĩnh vực thơ ca. – Hiện thực thay đổi (hiện thực mới), nhà thơ phải có cảm thức mới. Nhà thơ phải là tiếng nói của thời đại mình. Đó là cái gốc của giá trị thơ ca. Điều này đúng với quy luật triết học về nội dung và hình thức. – Để sáng tạo một thi phẩm “thể hiện con người và thời đại một cách cao đẹp”, theo quy luật của cái đẹp, nhà thơ phải cách tân toàn diện hình thức biểu đạt, phải sáng tạo thi pháp cho riêng mình. – Nhưng vấn đề trung tâm của thơ ca là tài năng sử dụng chất liệu ngôn ngữ dân tộc và sáng tạo nó. Đáp ứng cùng lúc yêu cầu: bảo lưu hồn cốt, đến được với con người của thời đại (văn hóa, thị hiếu, nhu cầu…), và hội nhập, quảng bá với văn học đương đại. Nhưng căn bản nhất, độc đáo (khác) là sinh mệnh của sáng tạo thơ ca, nghệ thuật. Để khác với một hệ thống các đòi hỏi, các yêu cầu, các sứ mệnh, làm thơ là định mệnh, nhà thơ phải vượt qua định mệnh ấy bằng yêu nó và giải nó. Sáng tạo là yêu để giải. Nhà thơ tài năng phải lao động nghệ thuật với một đam mê, một đau đớn, một nghị lực, một tài hoa phi thường. HS có thể có nhiều cách để trình bày, song về cơ bản cần làm sáng tỏ: – Truyện Kiều: Trên nền hiện thực đầy biến động của xã hội Việt Nam cuối thời trung đại, Truyện Kiều là bức tranh hiện thực và những biến động ấy và tiếng nói nhân đạo về con người và quyền sống. Để thể hiện được nội dung cảm hứng lớn trên, Nguyễn Du đã sáng tạo tác phẩm truyện Nôm bằng thể lục bát với những cách tân thiên tài: + Nhân vật của ông có tính cách điển hình, có nội tâm, có ngôn ngữ riêng. + Thể thơ lục bát dân gian vừa kể linh hoạt, vừa trữ tình sâu sắc tinh tế. + Đặc biệt là sự sáng tạo ngôn ngữ của Nguyễn Du, khiến ngôn ngữ dân tộc, ngôn ngữ thơ ca trở nên sinh động, phong phú, đầy hơi thở đời sống, đủ năng lực diễn tả đời sống, tâm hồn, tình cảm phức tạp của con người. (Minh chứng) – Mời trầu: Là tiếng nói đầy cá tính của cái tôi phụ nữ đòi quyền sống, đấu tranh để giải phóng cá tính. Về hình thức: Sự cách tân thơ Đường luật khiến thể thơ đạo mạo này trở thành gần gũi. Chất liệu dân gian, lời ăn tiêng nói dân gian… đã được vận dụng khai thác để làm khác – Khẳng định tính đúng đắn của ý kiến trên. – Bài học đối với người sáng tác và tiếp nhận: + Đối với người sáng tác: không ngừng tìm tòi, khám phá, sáng tạo ngôn ngữ. + Đối với người đọc: cảm thụ tác phẩm trên cơ sở ngôn từ và hình tượng nghệ thuật.
Hướng dẫn TRƯỜNG THPT CHUYÊN ĐỀ ÔN LUYỆN HUỲNH MẪN ĐẠT DÀNH CHO HỌC SINH GIỎI MÔN NGỮ VĂN, KHỐI 10 Câu 1: Dân gian Việt Nam có câu: Không có mợ thì chợ vẫn đông, Mợ đi lấy chồng thì chợ vẫn vui. Nhà thơ Nga Evtushenkô lại viết: Chẳng có ai tẻ nhạt mãi trên đời Mỗi số phận chứa một phần lịch sử Mỗi số phận riêng, dù rất nhỏ Chẳng hành tinh nào sánh nổi được đâu. (Chẳng có ai tẻ nhạt mãi trên đời– Bằng Việt dịch). Trình bày suy nghĩ của anh (chị) về vấn đề đặt ra trong hai trích dẫn trên. Câu 2: “Tác phẩm nghệ thuật nào cũng xây dựng bằng những vật liệu mượn ở thực tại. Nhưng nghệ sĩ không những ghi lại cái đã có rồi mà còn muốn nói một điều gì mới mẻ.’’ (Nguyễn Đình Thi, Tiếng nói văn nghệ) Anh/chị hiểu ý kiến trên như thế nào? Bằng những hiểu biết của mình về những tác phẩm đã học trong chương trình lớp 10, hãy làm sáng tỏ ý kiến. HƯỚNG DẪN CHẤM Câu 1: – Không có mợ… vẫn vui: mỗi cá nhân chỉ là một phần tử bé nhỏ của tập thể, của cộng đồng, xã hội, không có cá nhân ấy thì xã hội vẫn tồn tại, hoạt động bình thường. – Chẳng có ai tẻ nhạt… sánh nổi đâu: mỗi cá nhân là duy nhất, mang trong nó một phần đặc tính, lịch sử phát triển của cả cộng đồng. Mỗi cá nhân dù nhỏ bé nhưng là một giá trị riêng góp phần làm nên sự đa dạng, thúc đẩy xã hội phát triển. à Tác giả dân gian Việt Nam và nhà thơ Nga Evtushenkô đã đặt ra vấn đề mang ý nghĩa triết học về sự tồn tại của mỗi cá nhân con người, mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội. – Hai quan niệm tưởng mâu thuẫn nhưng thực ra lại phản ánh hai mặt của một vấn đề: mỗi cá nhân con người là vô cùng nhỏ bé, thiếu một cá nhân thì xã hội vẫn tồn tại và phát triển bình thường nhưng chính mỗi con người bé nhỏ lại góp phần tạo nên sự phong phú đa dạng, thúc đẩy sự phát triển của xã hội. Bởi vì: + Xã hội hợp thành từ hàng triệu triệu con người, thiếu đi một cá thể thì sẽ có người khác điền vào vị trí thiếu hụt đó, xã hội vẫn hoạt động, phát triển bình thường; sự tác động của mỗi cá nhân đến đời sống xã hội là rất nhỏ. + Mỗi con người là một cá thể độc đáo, không lặp lại, mỗi cá nhân có nhân cách độc lập duy nhất không thể thay thế, là một thế giới bí ẩn chứa đựng những giá trị người to lớn với hiểu biết, trí tuệ, tài năng, tâm hồn… Cá nhân gia nhập vào tập thể xã hội như là bộ phận của cái toàn thể, thể hiện bản sắc của mình thông qua hoạt động tập thể, trong các mối quan hệ xã hội nhưng không “hoà tan” vào tập thể. – Mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội là mối quan hệ biện chứng, tác động lẫn nhau: + Xã hội là điều kiện, là môi trường, là phương thức để lợi ích cá nhân được thực hiện. Cá nhân chỉ được hình thành, phát triển, giá trị được khẳng định trong các mối quan hệ xã hội, trong tập thể (gia đình, giai cấp, dân tộc, nhân loại…). + Cá nhân không chỉ là sản phẩm của xã hội mà còn là chủ thể của sự phát triển xã hội. Mỗi cá nhân là vô cùng nhỏ bé nhưng đều góp sức vào sự phát triển chung của xã hội, không có cá nhân thì không thể có xã hội, không có lịch sử phát triển của xã hội. (Thí sinh đưa dẫn chứng cụ thể để minh hoạ) – Cộng đồng xã hội, việc quốc gia đại sự rất quan trọng nhưng số phận cá nhân cũng không phải không quan trọng. – Quan tâm đến số phận cá nhân, tôn trọng giá trị, bản sắc, cá tính của mỗi con người, tăng cường tinh thần đoàn kết, hoà nhập gắn bó với cộng đồng, nỗ lực đóng góp vào sự phát triển chung của xã hội. – Tránh lối sống cá nhân ích kỉ, thiếu hoà nhập cộng đồng, bệnh “ngôi sao”… Biểu điểm – Điểm 7-8: Bài viết đáp ứng tốt các yêu cầu trên. Hành văn có cảm xúc, lập luận thuyết phục. – Điểm 5-6: Bài viết đáp ứng được những ý cơ bản, hầu như không mắc lỗi về kĩ năng và diễn đạt. (chấp nhận suy nghĩ khác nhưng phải hợp lí, sáng tạo và không đi ngược với chuẩn mực, đạo đức xã hội) – Điểm 3-4: Bài viết chỉ trình bày được khoảng một nửa yêu cầu về kiến thức, mắc ít lỗi về kĩ năng và diễn đạt. – Điểm 1-2: Bài viết chưa hiểu rõ về vấn đề hoặc không biết cách lập luận, mắc lỗi nhiều về kĩ năng và diễn đạt. – Điểm 0: Bài viết lạc đề hoàn toàn hoặc học sinh không viết bài Câu 2: – Giải thích từ ngữ: + Tác phẩm nghệ thuật nào cũng xây dựng bằng những vật liệu mượn ở thực tại: đặc trưng riêng của tác phẩm nghệ thuật trong phương thức phản ánh đời sống. Người nghệ sĩ nào khi sáng tác cũng cũng lấy vật liệu mượn ở thực tại – hiện thực khách quan về cuộc sống, con người, xã hội, để xây dựng nên tác phẩm của mình. Có như vậy, tác phẩm của họ mới được công chúng đón nhận, mới đi vào cuộc sống. + Nhưng nghệ sĩ không những ghi lại cái đã có rồi mà còn muốn nói một điều gì mới mẻ: tác phẩm không chỉ phản ánh cuộc sống thực tại khách quan (ghi lại cái đã có rồi) mà còn là nơi thể hiện những suy nghĩ chủ quan, hay nói cách khác là tâm tư tình cảm, là tư tưởng của người nghệ sĩ. Đây chính là một điều gì mới mẻ luôn xuất hiện trong sáng tác của họ. – Rút ra nội dung nhận định: ý kiến của Nguyễn Đình Thi đề cập đến nội dung phản ánh, thể hiện của văn nghệ: tác phẩm nghệ thuật bao giờ cũng phản ánh thực tại và là nơi nhà văn nhắn gửi, thể hiện thế giới tình cảm cũng như tư tưởng, quan điểm nhân sinh của mình. Đây cũng là đặc trưng của các tác phẩm văn chương, tạo nên sức cuốn hút, sự lay động tâm hồn, là Tiếng nói của văn nghệ. Học sinh có thể chọn một số tác phẩm tiêu biểu như: Truyện Kiều ( Nguyễn Du); Độc Tiểu Thanh kí ( Nguyễn Du ); Cảnh ngày hè ( Nguyễn Trãi ); Đoạn trích “ Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ” ( Đặng Trần Côn- Đoàn Thị Điểm); Đoạn trích “ Nỗi sầu oán của người cung nữ” ( Nguyễn Gia Thiều ) để qua đó chứng minh hai vấn đề chính: – Tác phẩm văn học phản ánh thực tại đời sống (ghi lại cái đã có rồi): hiện thực cuộc sống luôn được thể hiện rõ nét + Xã hội phong kiến Việt Nam thế kỷ XVIII – nửa đầu thế kỷ XIX hiện lên với những mặt trái của nó – xã hội vô nhân đạo với những thế lực tàn ác chà đạp con người, số phận bi thảm của người phụ nữ như Thúy Kiều trong Truyện Kiều của Nguyễn Du, nàng Tiểu Thanh trong Độc Tiểu Thanh kí ( Nguyễn Du ); nỗi đau khổ mất mát của con người đặc biệt là người phụ nữ, người vợ của người lính trong chiến tranh như người chinh phụ trong“ Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ” ( Đặng Trần Côn- Đoàn Thị Điểm); đời sống bi thảm của các cung nữ trong cung cấm trong “ Nỗi sầu oán của người cung nữ” ( Nguyễn Gia Thiều ). + Ghi lại chân thực vẻ đẹp rực rỡ của bức tranh thiên nhiên và vẻ đẹp bình bị của bức tranh đời sống con người trong Cảnh ngày hè ( Nguyễn Trãi ). – Tác phẩm văn học là nơi nhà văn nhắn gửi, thể hiện tình cảm cũng như tư tưởng, quan điểm nhân sinh của mình (muốn nói một điều gì mới mẻ): + Truyện Kiều; Độc Tiểu Thanh kí của Nguyễn Du thể hiện rõ nét sự bất bình, căm ghét đối với xã hội phong kiến, thái độ xót thương vô hạn của nhà văn đối với những người phụ nữ tài sắc mà bạc mệnh. + Đoạn trích “ Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ” ( Đặng Trần Côn- Đoàn Thị Điểm); Đoạn trích “ Nỗi sầu oán của người cung nữ” ( Nguyễn Gia Thiều ) đều nhằm tố cáo xã hội, đấu tranh đòi quyền sống, quyền hạnh phúc của con người, khát khao tình yêu hạnh phúc. + Cảnh ngày hè( Nguyễn Trãi ) Niềm khát khao cao đẹp. Đắm mình trong cảnh ngày hè, nhà thơ ước có cây đàn của vua Thuấn, gảy khúc Nam phong cầu mưa thuận gió hòa để “ Dân giàu đủ khắp đòi phương”. Lấy Nghiêu,Thuấn làm “gương báu răn mình”, Nguyễn Trãi bộc lộ chí hướng cao cả: khao khát đem tài trí để thực hành tư tưởng nhân nghĩa yêu nước thương dân. (Lưu ý: học sinh cần chú ý đến tính toàn diện, tiêu biểu của dẫn chứng). – Ý kiến của Nguyễn Đình Thi đề cập đến nội dung có tính chất đặc trưng của tác phẩm văn nghệ nói chung, tác phẩm văn học nói riêng, gợi cho người đọc có phương pháp tiếp cận tác phẩm đúng đắn và sâu sắc. – Để có một nội dung sâu sắc, hấp dẫn, nhà văn chẳng những phải có vốn sống phong phú mà còn phải có tài năng nghệ thuật, và quan trọng nhất là tình cảm chân thành, tư tưởng đúng đắn. Biểu điểm – Điểm 11 – 12: Đáp ứng đầy đủ các yêu cầu trên, bài viết sâu sắc, độc đáo; diễn đạt lưu loát, câu văn giàu hình ảnh, cảm xúc; có thể mắc một vài lỗi nhỏ về chính tả và dùng từ. – Điểm 9 – 10: Bài viết có nội dung tương đối đầy đủ (có thể còn thiếu một vài ý nhỏ); bố cục rõ ràng; diễn đạt trôi chảy, câu văn có hình ảnh, cảm xúc. Mắc một số lỗi nhỏ về chính tả, dùng từ, viết câu. – Điểm 7 – 8: Bài viết đáp ứng khoảng 2/3 nội dung cơ bản của đáp án. Văn có thể chưa hay nhưng rõ ý. Mắc một số lỗi chính tả, dùng từ, viết câu. – Điểm 5 – 6: Bài viết đáp ứng khoảng 1/2 nội dung cơ bản của đáp án. Mắc nhiều lỗi hành văn, chính tả. – Điểm 3 – 4: Hiểu và trình bày vấn đề còn sơ sài, kết cấu không rõ ràng, còn mắc nhiều lỗi diễn đạt.
Hướng dẫn TRƯỜNG THPT CHUYÊN ĐỀ ÔN LUYỆN HUỲNH MẪN ĐẠT DÀNH CHO HỌC SINH GIỎI MÔN NGỮ VĂN, KHỐI 10 Câu 1: Dân gian Việt Nam có câu: Không có mợ thì chợ vẫn đông, Mợ đi lấy chồng thì chợ vẫn vui. Nhà thơ Nga Evtushenkô lại viết: Chẳng có ai tẻ nhạt mãi trên đời Mỗi số phận chứa một phần lịch sử Mỗi số phận riêng, dù rất nhỏ Chẳng hành tinh nào sánh nổi được đâu. (Chẳng có ai tẻ nhạt mãi trên đời– Bằng Việt dịch). Trình bày suy nghĩ của anh (chị) về vấn đề đặt ra trong hai trích dẫn trên. Câu 2: “Tác phẩm nghệ thuật nào cũng xây dựng bằng những vật liệu mượn ở thực tại. Nhưng nghệ sĩ không những ghi lại cái đã có rồi mà còn muốn nói một điều gì mới mẻ.’’ (Nguyễn Đình Thi, Tiếng nói văn nghệ) Anh/chị hiểu ý kiến trên như thế nào? Bằng những hiểu biết của mình về những tác phẩm đã học trong chương trình lớp 10, hãy làm sáng tỏ ý kiến. HƯỚNG DẪN CHẤM Câu 1: – Không có mợ… vẫn vui: mỗi cá nhân chỉ là một phần tử bé nhỏ của tập thể, của cộng đồng, xã hội, không có cá nhân ấy thì xã hội vẫn tồn tại, hoạt động bình thường. – Chẳng có ai tẻ nhạt… sánh nổi đâu: mỗi cá nhân là duy nhất, mang trong nó một phần đặc tính, lịch sử phát triển của cả cộng đồng. Mỗi cá nhân dù nhỏ bé nhưng là một giá trị riêng góp phần làm nên sự đa dạng, thúc đẩy xã hội phát triển. à Tác giả dân gian Việt Nam và nhà thơ Nga Evtushenkô đã đặt ra vấn đề mang ý nghĩa triết học về sự tồn tại của mỗi cá nhân con người, mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội. – Hai quan niệm tưởng mâu thuẫn nhưng thực ra lại phản ánh hai mặt của một vấn đề: mỗi cá nhân con người là vô cùng nhỏ bé, thiếu một cá nhân thì xã hội vẫn tồn tại và phát triển bình thường nhưng chính mỗi con người bé nhỏ lại góp phần tạo nên sự phong phú đa dạng, thúc đẩy sự phát triển của xã hội. Bởi vì: + Xã hội hợp thành từ hàng triệu triệu con người, thiếu đi một cá thể thì sẽ có người khác điền vào vị trí thiếu hụt đó, xã hội vẫn hoạt động, phát triển bình thường; sự tác động của mỗi cá nhân đến đời sống xã hội là rất nhỏ. + Mỗi con người là một cá thể độc đáo, không lặp lại, mỗi cá nhân có nhân cách độc lập duy nhất không thể thay thế, là một thế giới bí ẩn chứa đựng những giá trị người to lớn với hiểu biết, trí tuệ, tài năng, tâm hồn… Cá nhân gia nhập vào tập thể xã hội như là bộ phận của cái toàn thể, thể hiện bản sắc của mình thông qua hoạt động tập thể, trong các mối quan hệ xã hội nhưng không “hoà tan” vào tập thể. – Mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội là mối quan hệ biện chứng, tác động lẫn nhau: + Xã hội là điều kiện, là môi trường, là phương thức để lợi ích cá nhân được thực hiện. Cá nhân chỉ được hình thành, phát triển, giá trị được khẳng định trong các mối quan hệ xã hội, trong tập thể (gia đình, giai cấp, dân tộc, nhân loại…). + Cá nhân không chỉ là sản phẩm của xã hội mà còn là chủ thể của sự phát triển xã hội. Mỗi cá nhân là vô cùng nhỏ bé nhưng đều góp sức vào sự phát triển chung của xã hội, không có cá nhân thì không thể có xã hội, không có lịch sử phát triển của xã hội. (Thí sinh đưa dẫn chứng cụ thể để minh hoạ) – Cộng đồng xã hội, việc quốc gia đại sự rất quan trọng nhưng số phận cá nhân cũng không phải không quan trọng. – Quan tâm đến số phận cá nhân, tôn trọng giá trị, bản sắc, cá tính của mỗi con người, tăng cường tinh thần đoàn kết, hoà nhập gắn bó với cộng đồng, nỗ lực đóng góp vào sự phát triển chung của xã hội. – Tránh lối sống cá nhân ích kỉ, thiếu hoà nhập cộng đồng, bệnh “ngôi sao”… Biểu điểm – Điểm 7-8: Bài viết đáp ứng tốt các yêu cầu trên. Hành văn có cảm xúc, lập luận thuyết phục. – Điểm 5-6: Bài viết đáp ứng được những ý cơ bản, hầu như không mắc lỗi về kĩ năng và diễn đạt. (chấp nhận suy nghĩ khác nhưng phải hợp lí, sáng tạo và không đi ngược với chuẩn mực, đạo đức xã hội) – Điểm 3-4: Bài viết chỉ trình bày được khoảng một nửa yêu cầu về kiến thức, mắc ít lỗi về kĩ năng và diễn đạt. – Điểm 1-2: Bài viết chưa hiểu rõ về vấn đề hoặc không biết cách lập luận, mắc lỗi nhiều về kĩ năng và diễn đạt. – Điểm 0: Bài viết lạc đề hoàn toàn hoặc học sinh không viết bài Câu 2: – Giải thích từ ngữ: + Tác phẩm nghệ thuật nào cũng xây dựng bằng những vật liệu mượn ở thực tại: đặc trưng riêng của tác phẩm nghệ thuật trong phương thức phản ánh đời sống. Người nghệ sĩ nào khi sáng tác cũng cũng lấy vật liệu mượn ở thực tại – hiện thực khách quan về cuộc sống, con người, xã hội, để xây dựng nên tác phẩm của mình. Có như vậy, tác phẩm của họ mới được công chúng đón nhận, mới đi vào cuộc sống. + Nhưng nghệ sĩ không những ghi lại cái đã có rồi mà còn muốn nói một điều gì mới mẻ: tác phẩm không chỉ phản ánh cuộc sống thực tại khách quan (ghi lại cái đã có rồi) mà còn là nơi thể hiện những suy nghĩ chủ quan, hay nói cách khác là tâm tư tình cảm, là tư tưởng của người nghệ sĩ. Đây chính là một điều gì mới mẻ luôn xuất hiện trong sáng tác của họ. – Rút ra nội dung nhận định: ý kiến của Nguyễn Đình Thi đề cập đến nội dung phản ánh, thể hiện của văn nghệ: tác phẩm nghệ thuật bao giờ cũng phản ánh thực tại và là nơi nhà văn nhắn gửi, thể hiện thế giới tình cảm cũng như tư tưởng, quan điểm nhân sinh của mình. Đây cũng là đặc trưng của các tác phẩm văn chương, tạo nên sức cuốn hút, sự lay động tâm hồn, là Tiếng nói của văn nghệ. Học sinh có thể chọn một số tác phẩm tiêu biểu như: Truyện Kiều ( Nguyễn Du); Độc Tiểu Thanh kí ( Nguyễn Du ); Cảnh ngày hè ( Nguyễn Trãi ); Đoạn trích “ Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ” ( Đặng Trần Côn- Đoàn Thị Điểm); Đoạn trích “ Nỗi sầu oán của người cung nữ” ( Nguyễn Gia Thiều ) để qua đó chứng minh hai vấn đề chính: – Tác phẩm văn học phản ánh thực tại đời sống (ghi lại cái đã có rồi): hiện thực cuộc sống luôn được thể hiện rõ nét + Xã hội phong kiến Việt Nam thế kỷ XVIII – nửa đầu thế kỷ XIX hiện lên với những mặt trái của nó – xã hội vô nhân đạo với những thế lực tàn ác chà đạp con người, số phận bi thảm của người phụ nữ như Thúy Kiều trong Truyện Kiều của Nguyễn Du, nàng Tiểu Thanh trong Độc Tiểu Thanh kí ( Nguyễn Du ); nỗi đau khổ mất mát của con người đặc biệt là người phụ nữ, người vợ của người lính trong chiến tranh như người chinh phụ trong“ Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ” ( Đặng Trần Côn- Đoàn Thị Điểm); đời sống bi thảm của các cung nữ trong cung cấm trong “ Nỗi sầu oán của người cung nữ” ( Nguyễn Gia Thiều ). + Ghi lại chân thực vẻ đẹp rực rỡ của bức tranh thiên nhiên và vẻ đẹp bình bị của bức tranh đời sống con người trong Cảnh ngày hè ( Nguyễn Trãi ). – Tác phẩm văn học là nơi nhà văn nhắn gửi, thể hiện tình cảm cũng như tư tưởng, quan điểm nhân sinh của mình (muốn nói một điều gì mới mẻ): + Truyện Kiều; Độc Tiểu Thanh kí của Nguyễn Du thể hiện rõ nét sự bất bình, căm ghét đối với xã hội phong kiến, thái độ xót thương vô hạn của nhà văn đối với những người phụ nữ tài sắc mà bạc mệnh. + Đoạn trích “ Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ” ( Đặng Trần Côn- Đoàn Thị Điểm); Đoạn trích “ Nỗi sầu oán của người cung nữ” ( Nguyễn Gia Thiều ) đều nhằm tố cáo xã hội, đấu tranh đòi quyền sống, quyền hạnh phúc của con người, khát khao tình yêu hạnh phúc. + Cảnh ngày hè( Nguyễn Trãi ) Niềm khát khao cao đẹp. Đắm mình trong cảnh ngày hè, nhà thơ ước có cây đàn của vua Thuấn, gảy khúc Nam phong cầu mưa thuận gió hòa để “ Dân giàu đủ khắp đòi phương”. Lấy Nghiêu,Thuấn làm “gương báu răn mình”, Nguyễn Trãi bộc lộ chí hướng cao cả: khao khát đem tài trí để thực hành tư tưởng nhân nghĩa yêu nước thương dân. (Lưu ý: học sinh cần chú ý đến tính toàn diện, tiêu biểu của dẫn chứng). – Ý kiến của Nguyễn Đình Thi đề cập đến nội dung có tính chất đặc trưng của tác phẩm văn nghệ nói chung, tác phẩm văn học nói riêng, gợi cho người đọc có phương pháp tiếp cận tác phẩm đúng đắn và sâu sắc. – Để có một nội dung sâu sắc, hấp dẫn, nhà văn chẳng những phải có vốn sống phong phú mà còn phải có tài năng nghệ thuật, và quan trọng nhất là tình cảm chân thành, tư tưởng đúng đắn. Biểu điểm – Điểm 11 – 12: Đáp ứng đầy đủ các yêu cầu trên, bài viết sâu sắc, độc đáo; diễn đạt lưu loát, câu văn giàu hình ảnh, cảm xúc; có thể mắc một vài lỗi nhỏ về chính tả và dùng từ. – Điểm 9 – 10: Bài viết có nội dung tương đối đầy đủ (có thể còn thiếu một vài ý nhỏ); bố cục rõ ràng; diễn đạt trôi chảy, câu văn có hình ảnh, cảm xúc. Mắc một số lỗi nhỏ về chính tả, dùng từ, viết câu. – Điểm 7 – 8: Bài viết đáp ứng khoảng 2/3 nội dung cơ bản của đáp án. Văn có thể chưa hay nhưng rõ ý. Mắc một số lỗi chính tả, dùng từ, viết câu. – Điểm 5 – 6: Bài viết đáp ứng khoảng 1/2 nội dung cơ bản của đáp án. Mắc nhiều lỗi hành văn, chính tả. – Điểm 3 – 4: Hiểu và trình bày vấn đề còn sơ sài, kết cấu không rõ ràng, còn mắc nhiều lỗi diễn đạt.
Hướng dẫn Anh chị hãy chứng minh ca dao là tiếng hát tâm hồn của người dân lao động Việt Nam. Bài văn mẫu Ca dao là tiếng hát tâm hồn của nhân dân lao động, mang hơi thở của làng quê, đồng ruộng, đất đai thấm đẫm mồ hôi và những giọt nước mắt. Ca dao là tấm gương trung thực về cuộc sống muôn màu, muôn vẻ, về nhiều khía cạnh như gia đình, xã hội, anh em, bạn bè. Ca dao nhận được sự đồng cảm của nhiều người, nhiều thế hệ. Cho đến ngày hôm nay ca dao đã trở thành một phần không thể thiếu của cuộc sống, bồi đắp cho tâm hồn thêm phong phú hơn. Ca dao là tiếng hát than thân, là nỗi niềm chua xót đắng cay của người bình dân khi nghĩ về số phận, cảnh ngộ của mình, đó là lời than về số phận hẩm hiu, bất hạnh, hạnh phúc bị phụ thuộc của người phụ nữ. “Thân em như tấm lụa đào Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai”. Với mô típ quen thuộc “thân em” là bài ca dao đã được ấn tượng cho người đọc khi nhìn vào tác phẩm, tác giả dân gian sử dụng hình ảnh so sánh, “tấm lụa đào”, chứng tỏ cô gái đã ý thức được về sắc đẹp và tuổi thanh xuân của mình. Nhưng sống trong xã hội ấy các cô không được làm chủ số phận của mình, luôn phải tuân theo luật lệ hà khắc của xã hội. “Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phụ tử tòng tử”. Sống trong nhà người phụ nữ phải nghe theo lời của cha mẹ, khi xuất gia phải nghe theo chồng, khi chồng qua đời phải nghe theo lời con trưởng. Tương, lai số phận của họ chẳng khác nào “tấm lụa đào phất phơ giữa chợ biết vào tay ai”, từ láy “phất phơ” càng tô đậm thêm cho số phận cuộc đời, dự báo đầy rủi ro của người phụ nữ giữa chợ, chốn đông đúc, đủ loại người, xấu có, tốt có. Nếu may mắn tấm vải sẽ vào tay người tốt, cũng giống như tấm vải, nếu may mắn được phụ nữ sẽ gặp được người đàn ông tốt, một tấm chồng tử tế. Ở bài ca dao này nỗi đau xót của nhân vật trữ tình được thể hiện ở chỗ khi mới bước vào tuổi xuân đẹp nhất hạnh phúc nhất cũng là lúc họ nhận ra tương lai bấp bênh số phận không có gì đảm bảo của mình. Sống trong xã hội phong kiến người phụ nữ gặp biết bao nỗi bất hạnh họ bị hắt hủi, khinh rẻ, đến nỗi phải cất lên tiếng lòng chua xót đau đớn. “Chàng ơi phụ thiếp làm chi Thiếp như cơm nguội đỡ khi đói lòng” “Chàng ơi phụ tiếp làm chi”, câu nói cất lên đầy ai oán. Người phụ nữ tự nhận thức được thân phận thấp kém của mình, qua thủ pháp so sánh “Thiếp như cơm nguội”, đủ để thấy được sự đau khổ vì đã hắt hủi của người phụ nữ. Họ chỉ như cơm thừa canh cặn, chẳng được ai để ý quan tâm, thế nhưng họ lại vẫn cố cam chịu số phận là bến đỗ đón đợi chồng trở về sau những cuộc vui kéo dài đằng đẵng từ ngày này qua ngày khác, năm này qua năm khác, thậm chí là suốt cả đời. Hòa và những lời than của phụ nữ bị hắt hủi phụ thuộc, là lời than não lòng của những người phụ nữ có số phận hẩm hiu, dang dở. “Phận em sao lắm dở dang Cầm tiêu, tiêu gẫy, cầm đàn, đàn đứt dây”. Mở đầu bài ca dao là lời than thân, trách phận của chính người phụ nữ, trách sao thân phận dở dang, đời lắm ngang trái, “cầm tiêu, tiêu gẫy, cầm đàn, đàn đứt dây” “Lênh đênh chiếc bách giữa dòng Thương thân goá bụa phòng không lỡ thì”. Không biết tương lai sau này của họ sẽ ra sao sẽ đi đâu, về đâu khi bên cạnh không có người đàn ông dẫn lối, rồi đây họ sẽ phải sống héo mòn giết chết tuổi xuân trong cảnh góa bụa. Trong xã hội phong kiến đương thời, trọng nam, khinh nữ, người phụ nữ phải sống trong cảnh “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy”, họ bị ép duyên gả bán đến những nhà cao sang, quyền quý, không có tình yêu, “Mẹ em tham gạo, tham gà Bắt em để bán cho nhà cao sang Chồng em thì thấp 1 gang Vắt mũi chưa sạch ra đường đánh nhau”. Chỉ vì lòng tham của cha, mẹ và người phụ nữ bị bán vào những nhà cao sang như một món hàng, “bắt em để bán”, cô gái phải thốt lên một cách chua xót trước sự thật quá tàn nhẫn này. Trước kia mọi người kết hôn với nhau chỉ qua lời mai mối, bởi vậy chỉ khi về đến nhà chồng mới biết mặt của tân lang. Tiếp đến là những bài ca dao về lời than của những người bình dân về số phận cuộc đời nghèo khổ, đầy cay đắng. “Tháng giêng tháng hai tháng ba tháng bốn, tháng khốn, tháng nạn”. “Tháng giêng, tháng hai, tháng ba, tháng bốn, tháng khốn, tháng nạn”, hai câu thơ đều là bài ca dao được nhấn mạnh đủ để thấy sự khốn khó, vất vả đến nhường nào với mong muốn cuộc sống đi lên khấm phá hơn người nông dân đã “đi vay”, “đi dạm” được một quan tiền để mua con gà mái về nuôi, nhưng mọi chuyện đã không thuận lợi, con gà mái chỉ để được có 10 cái trứng mà đã ung mất 7, nở ra 3 con thì lại bị quạ tha, diều bắt, con mắt cắt xơi. Nhưng đứng trước hoàn cảnh ấy họ vẫn lạc quan tin vào một ngày mai tươi sáng “Chớ than phận khó ai ơi Còn da lông mọc, còn chồi nảy cây”. Cuộc sống vất vả nghèo khổ còn được thể hiện rõ qua bài: “Từ ngày Tự Đức lên ngôi Cơm chẳng đầy nồi, trẻ khóc như mưa”. Tác giả dân gian đã phản ánh chân thực cuộc sống lúc bấy giờ, vua Tự Đức chỉ lo ham vui, hưởng lạc, xây dựng cung điện, đền đài mà chẳng buồn quan tâm đến người dân, mùa màng thất bát, cơm không đủ no, áo không đủ mặt, đâu đâu cũng than phiền kêu khóc. “Hai năm thì hỏng bốn mùa Lấy gì cơm áo mà lo cho lành”. Ca dao còn là sự phản kháng để đối lại sự tự do, “Bao giờ Tự Đức chết đi Thiên hạ bình, thì lại dễ làm ăn”. Như ở trên đã cần dưới thời Tự Đức, dân phải chịu trăm ngàn cực khổ. Bởi vậy nhân dân lao động đã đứng lên “bao giờ Tự Đức chết đi”, khi đó thiên hạ mới Thái Bình thịnh trị. Ca dao là tiếng hát yêu thương tình nghĩa, nhân dân ta vốn nặng tình yêu thương nhau, tình yêu thương con người, với con người. Vốn là cốt lõi của tình cảm, tình yêu quê hương, làng xóm được nhân dân ta thể hiện ở niềm tự hào về những danh lam, thắng cảnh như. “Đường vô xứ nghệ quanh quanh Non xanh nước biếc như tranh họa đồ”. Đó còn là tình cảm chân thành tình bạn bè khăng khít, không gì có thể sánh nổi. “Sống trong bể ngọc kim cương, Không gì bằng sống giữa tình thương bạn bè”. Tiếng hát tâm tình của dân lao động, còn thể hiện ở trong những bài ca dao tình cảm gia đình cụ thể. “Công cha như núi Thái Sơn Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra Một lòng thờ mẹ kính cha Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con”.
Instruct Please prove that folk songs are the soul song of Vietnamese working people. Sample essay Folk songs are the soul songs of working people, carrying the breath of villages, fields, and land soaked in sweat and tears. Folk songs are an honest mirror of the colorful and diverse life, in many aspects such as family, society, brothers, and friends. Folk songs receive the sympathy of many people and generations. Until today, folk songs have become an indispensable part of life, enriching the soul. Folk songs are songs of self-pity, the bitter feelings of ordinary people when thinking about their fate and plight, it is a lament about the miserable fate, misfortune, and dependent happiness of people. women. “My body is like peach silk Floating in the middle of the market, who knows whose hands it belongs to? With the familiar motif "your body" as a folk song that has impressed readers when looking at the work, the folk author uses the comparative image, "peach silk", proving that the girl is aware about your beauty and youth. But living in that society, girls are not in control of their fate and must always obey society's harsh rules. "At home, follow the father, when married, follow the husband, father and son follow the son." Living at home, a woman must listen to her parents, when she becomes a monk, she must listen to her husband, and when her husband dies, she must listen to her eldest son. In the future, their fate is like "a piece of peach silk fluttering in the market, who knows whose hands it will be in", the word "flutter" further emphasizes the fate of life, the risky prediction of women in the middle of the world. Markets, crowded places, all kinds of people, some bad, some good. If you are lucky, the cloth will fall into the hands of a good person. Just like the cloth, if you are lucky, a woman will meet a good man and a kind husband. In this folk song, the sadness of the lyrical character is expressed in the fact that when they first enter their most beautiful and happiest youth, they realize that their future is uncertain and their fate is not guaranteed. Living in a feudal society, women encounter so many misfortunes that they are rejected and despised, to the point of having to speak out their bitter and painful hearts. “My lord, why are you helping me? I'm like cold rice to help when I'm hungry." "My dear, why are you helping me?", the sentence was filled with resentment. The woman is self-aware of her low status, through the comparison tactic "I am like cold rice", enough to see the woman's suffering from being rejected. They are just like leftover rice and soup, no one cares about them, but they still try to accept their fate as a place to wait for their husbands to return after long fun days, day after day, year after year. year after year, even for a lifetime. Peace and the complaints of women who are spurned and dependent are the heart-wrenching complaints of women with sad and unfinished fates. “My fate is so unfinished Holding the pepper, the pepper broke, holding the guitar, the string broke." The beginning of the folk song is a self-pity and blame for the woman's own fate, blaming her for her unfinished fate and her life being so unfair. “Moving the cypress in the middle of the stream I feel sorry for the widow, just in case it doesn't happen." Not knowing what their future will be like, where they will go or where they will go when there is no man around to guide them, they will eventually have to wither and kill their youth in widowhood. In contemporary feudal society, where men are respected and women are despised, women have to live in a situation where "the parents put the children there", they are forced to marry and sell to noble and noble houses, without love. , “My mother is greedy for rice and chicken Capture her to sell to a high-class house My husband is 1 gang short Squeeze your nose and not clean it out into the street to fight." Just because of the greed of her father, mother and the woman who was sold into luxury houses as a commodity, "catching her sister to sell", the girl had to cry out bitterly at this cruel truth. In the past, people got married only through matchmaking, so only when they got home did the husband know the groom's face. Next are folk songs about the complaints of ordinary people about the fate of a poor, bitter life. "January, February, March, April, the month of misfortune, the month of misfortune." "January, February, March, April, the month of misfortune, the month of misfortune", the two verses are both folk songs with enough emphasis to show how miserable and hard it is with the desire for life to improve. To make a better discovery, the farmer "borrowed" and "went on a walk" to get a yuan of money to buy a hen to raise, but things did not go well, the hen only had 10 eggs and was lost. 7, when three chicks hatched, they were captured by crows, caught by kites, and had their eyes cut out. But facing that situation, they are still optimistic and believe in a bright tomorrow “Don't complain about anyone's difficult fate The skin and hair grow, and the buds sprout." The hard life of poverty is also clearly shown in the article: “From the day Tu Duc ascended the throne The rice pot doesn't fill the pot, the children cry like rain." The folk author truly reflected life at that time, King Tu Duc only worried about having fun, enjoying himself, building palaces and temples without caring about the people, crops failed, and rice was not enough. I'm full, I don't have enough clothes, I'm complaining and crying everywhere. “In two years, four seasons are lost How can I get food and clothes to take care of myself?" Folk songs are also a protest against freedom, “When will Tu Duc die? When the world is peaceful, it is easy to do business." As mentioned above, under Tu Duc, the people had to endure hundreds of thousands of hardships. Therefore, the working people stood up "when Tu Duc dies", then the world will be prosperous. Folk songs are songs of love and gratitude. Our people have a strong love for each other, for people, for people. It is the core of affection and love for the homeland and villages that our people express in their pride in famous places and landscapes such as. “The road to the land of turmeric is all around Green non specifically Graphic picturesque". It is also a sincere feeling of close friendship, nothing can compare. “Living in a pool of diamonds, There's nothing like living among the love of friends." The heartfelt singing of working people is also expressed in specific family sentimental folk songs. "The father as a mountain Motherhood is like water flowing from a source One Heart Worship Mother Glass Father Fulfilling filial piety is the way of life."
Hướng dẫn Phân tích bài thơ Tỏ lòng của Phạm Ngũ Lão Trần Thái Tông từng nói: “Văn chương phải là thế trận đuổi nghìn quân giặc”. Trong thời kì đất nước loạn lạc, nhiễu nhương bị nước ngoài lâm le xâm chiếm thì con người ta phải phát huy một cách tốt nhất tinh thần sắc son, ý chí đứng lên bảo vệ Tổ quốc, dân tộc. Phạm Ngũ Lão đã viết nên bài thơ “Tỏ lòng” thể hiện một tinh thần yêu nước hồn hậu, quyết tâm đứng lên chống lại giặc bạo hung tàn. Có lẽ vậy mà có ý kiến cho rằng: “Chủ nghĩa yêu nước là nội dung lớn, xuyên suốt quá trình tồn tại và phát triển của văn học trung đại Việt Nam” thật sâu sắc và đầy ý vị: “Hoành sóc giang sơn tháp kỉ thu Tam quân tì hổ khí thôn ngưu Nam nhi vị liễu công danh trái Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu”. Bài thơ “Tỏ lòng” ra đời trong một hoàn cảnh đầy biến động, nhân dân toàn quốc đang ra sức đứng lên chống giặc ngoại xâm đánh tan quân Mông Nguyên đi đến thắng lợi vẻ vang. Nhắc đến Phạm Ngũ Lão là phải nhắc đến một người nông dân chất phác “Ngồi đan sọt mà lo việc nước”. Ông đã góp một phần công lao không nhỏ cho chiến tích của đất nước, con người. Phạm Ngũ Lão là một con người văn võ song toàn. Không chỉ giỏi về binh thư mà ông còn có một tâm hồn phong phú lãng mạn đậm chất thi ca. Bằng tài năng, phong cách của bản thân mình, ông đã viết nên những bài thơ bất hủ kêu gọi tinh thần yêu nước thương dân của con người. Xuất thân từ tầng lớp bình dân, nông dân nên ông thấu hiểu tâm tư, tình cảm của con người, quân đội mình- đa phần là tầng lớp tri thức nghèo, nông nô vứt quốc bỏ ruộng đứng lên kháng chiến. Bài thơ “Tỏ lòng” vừa cô trúc lại trầm lắng như lời tâm sự thì thầm của bậc hiền tài. “Thơ như đôi cánh tôi bay Thơ là vũ khí trong trận đánh” (Raxum- Ganzaxop) Sức mạnh của ý chí, tinh thần kiên cường, bất khuất là một thứ vũ khí sắc bén có thể nhấn chìm tất cả các bè lũ bán nước hại nước. Nhưng tinh thần ấy đã đi sâu vào trong thi ca trong các tác phẩm văn học qua ngòi bút của các nhà văn thiên tài. Trong chiến tranh là phải có hi sinh, mất mát mà không chỉ dựa vào sức mạnh của bản thân con người mà phải dựa vào cơ sở của văn chương tinh thần. Cũng như vậy ngay từ đầu bài thơ, tác giả đã ngụ ý khi đặt nhan đề là “Thuật hoài”. “Thuật” có nghĩa là bày tỏ, “hoài” là mang trong lòng. Nhìn chung lại chỉ bằng hai từ mà diễn đạt được cả hoài bão lớn lao trong lòng tác giả. Mà ở đây là một vị tướng tài nắm giữ một chức vụ quan trọng nơi biên cương đang mong mỏi ở quân đội mình một tinh thần ý chí sắt đá đứng lên đánh tan quân thù giữ vững nền độc lập của đất nước xinh đẹp này. Nguyễn Việt Chiến từng đưa ra quan điểm của mình rằng: “Hồn dân tộc ngàn năm không chịu khuất Đẩy con thuyền hướng mãi ra khơi”. Dân tộc ta, con người ta dù bất cứ ở đâu trên mọi miền đất nước luôn hướng về Tổ quốc mình- nơi ông cha ta, máu thịt ta sinh thành. Phạm Ngũ Lão đã bắt đầu câu thơ với hình ảnh con người oai phong lẫm liệt thể hiện một cái hồn hào khí sát thái Đông A: “Hoành sóc giang sơn tháp kỉ thu” “Hoành sóc” ở đây có nghĩa là múa giáo. Người chiến sĩ, trang nam nhi hòa kiệt đang cầm trên tay mình một ngọn giáo sắc nhọn cảnh báo quân thù một cái kết không đáng có khi xâm phạm bờ cõi đất Việt. Cả một không gian, thời gian hiện lên trước mắt độc giả với giang sơn hùng vĩ, thời gian thăm thẳm. Con người ấy vẫn hiên ngang kiêu hãnh trước bão táp phong ba của cuộc đời. Sừng sững vững vàng ở đây như không có gì có thể lay chuyển được. Trải qua mấy mùa thu- mấy mùa lá rụng con người ấy không nhớ nhà chăng- có! Dĩ nhiên là nhớ nhưng vì mong ước một tương lai no đủ cho gia đình và toàn xã hội. Ánh mắt ấy luôn xa xăm về một ngày bình yên không bóng quân thù. Hình ảnh người tráng sĩ làm nên thời đại đã đẹp hình ảnh: “Tam quân tì hổ khí thôn ngưu” Còn hùng vĩ và oai vệ hơn. Cả một bức tranh cổ trang hiện lên trong tâm trí ta gồm ba đội quân “tiền quân”, “trung quân”, và “hậu quân” với hàng nghìn con người mang trên mình gậy gộc vũ khí bước đi vững vàng trước tiếng hò gieo của quân dân, quần chúng. Hình ảnh “Ba quân khí mạnh nuốt trơi trâu” như một lần nửa khẳng định chủ quyền dân tộc. Lời cảnh báo một cái kết đắng cho kẻ mưu mô xâm lược. Nó như có thể nuốt trôi tất cả những gì ngăn cản hay cản trở nó. (Át cả sao ngưu). Hình ảnh so sánh vừa có tác dụng cụ thể hóa sức mạnh vật chất lại khái quát hóa sức mạnh tinh thần tạo vẻ hùng hậu cho câu thơ. Thể hiện hào khí Đông A của quân đội nhà Trần một lòng vì dân vì nước vì hạnh phúc độc lập không xa, ta như từng bắt gặp hình ảnh này trong thơ: “Thuyền bè muôn đới Tinh kì phấp phới Tì hổ ba quân giáo gươm sáng chói” Cũng nói đến tinh thần sức mạnh của quân đội ta. Tinh thần yêu nước một lòng sắc son với dân tộc không chỉ thể hiện qua sức mạnh vật chất mà còn thấm đượm tâm tư nổi lòng của kẻ làm trai: “Đã mang tiếng ở trong trời đất Phải có danh gì với núi sông” Tư tưởng ấy không phải của riêng Nguyễn Công Trứ mà nó đã xuyên suốt một quá trình lịch sử ảnh hưởng ít nhiều đến tư tưởng đạo lí của con người. Tư tưởng ấy cũng hòa nhịp cùng Phạm Ngũ Lão về cái chí làm trai của con người thời đại bấy giờ. Nó thể hiện ở nỗi thẹn. Thẹn vì một nỗi dân chưa giàu, nước chưa mạnh. Xuyên suốt hai câu thơ sau như lời giãi bày tâm sự của tác giả: “Nam nhi vị liễu công danh trái Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu” Làm đấng nam nhi mà chưa chả xong nợ công danh thì thật luống thẹn khi nghe người đời kể chuyện Vũ Hầu. Tác giả thật tài tình khi sử dụng hình ảnh Vũ Hầu tên thật là Vũ Lượng Hầu tức Gia Cát Lượng- một quân sư tài giỏi đời Hán giúp nhà vua khôi phục đất nước thịnh trị. Nỗi thẹn ấy thường là nỗi thẹn của người có nhân cách cao cả. Nguyễn Khuyến trong bài “Thu vịnh” cũng từng bày tỏ nỗi thẹn với Đào Tiềm- một danh sĩ cao khiết lại vừa có tâm. Tác giả hổ thẹn vì chưa có tài mưu lược như Vũ Hầu, thẹn vì nước chưa bình an, yên ổn. Đặt trong hoàn cảnh này, nỗi thẹn có tác dụng thôi thúc con người. Từ đây, ta càng một lần nữa khẳng định được chủ nghĩa yêu nước là nội dung lớn, xuyên suốt quá trình tồn tại và phát triển của văn học trung đại.
Instruct Analysis of the poem Expressing Your Heart by Pham Ngu Lao Tran Thai Tong once said: "Literature must be a battlefield to chase away thousands of enemy soldiers." In a time of chaos and chaos when the country is invaded by foreign countries, people must best promote their spirit and will to stand up to protect the Fatherland and the nation. Pham Ngu Lao wrote the poem "Confessing Your Heart" expressing a spirit of patriotism and determination to stand up against the brutal enemy. Perhaps that is why there is an opinion that: "Patriotism is a major content throughout the existence and development of Vietnamese medieval literature" which is profound and interesting: “Hoang Soc Giang Son Thap Ky Thu Tam Quan, Pi Tiger, Village Niuu Qi Men's willow merit and reputation left Cultivating the false listener to Vu Hau's theory. The poem "Confessing Your Heart" was born in a turbulent situation, the people of the whole country were trying their best to stand up against foreign invaders, defeating the Mongol army and achieving glorious victory. When mentioning Pham Ngu Lao, one must mention a simple farmer who "sitting and weaving baskets while taking care of the country's affairs". He contributed a significant part to the achievements of the country and its people. Pham Ngu Lao is a man of martial arts and literature. Not only was he good at military literature, but he also had a rich, romantic and poetic soul. With his own talent and style, he wrote immortal poems calling for the human spirit of patriotism and love for the people. Coming from a commoner, peasant class, he understood the thoughts and feelings of the people and his army - mostly the poor intellectual class, the serfs who left the country and abandoned their fields to stand up and fight. The poem "Confessing Your Heart" is both poetic and quiet, like the whispered confessions of a wise man. “Poetry is like my wings to fly Poetry is a weapon in battle." (Raxum- Ganzaxop) The power of will, a resilient and indomitable spirit is a sharp weapon that can drown all gangs that sell and harm the country. But that spirit has penetrated deeply into poetry and literary works through the pens of genius writers. In war, there must be sacrifices and losses that do not only rely on one's own strength but must also rely on the basis of spiritual literature. Likewise, right from the beginning of the poem, the author implied when he titled it "Thuat Hoai". “Thuat” means to express, “hoai” means to carry in the heart. Overall, with just two words, the author's great ambition can be expressed. But here is a talented general holding an important position on the border who is looking forward to his army having an iron will to stand up and defeat the enemy to maintain the independence of this beautiful country. Nguyen Viet Chien once expressed his opinion that: “The soul of the nation will not yield for thousands of years Push the boat forever out to sea." Our nation, our people, wherever they are in all parts of the country, always look towards their Fatherland - the place where our ancestors, our flesh and blood were born. Pham Ngu Lao began the poem with the image of a majestic man expressing a heroic and murderous soul of Dong A: “Hoang Soc Giang Son Thap Ky Thu” “Hoang Soc” here means spear dancing. The soldier, handsome and handsome, is holding a sharp spear in his hand, warning the enemy of an unfortunate end when they violate Vietnamese territory. An entire space and time appears before the readers' eyes with majestic mountains and deep time. That person still stands tall and proud in the face of life's storms. Standing here firmly as if nothing could shake it. After several autumns - seasons of falling leaves, does that person not miss home - yes! Of course I remember, but because I wish for a prosperous future for my family and the whole society. Those eyes were always far away, looking at a peaceful day without any enemies. The image of the brave man who created the era is beautiful: "Three armies, tigers, village ox" Even more majestic and majestic. An entire ancient picture appears in our minds, consisting of three armies "front army", "middle army", and "rear army" with thousands of people carrying sticks and weapons walking steadily before the cheers. sown by the army, people, and the masses. The image of "Three strong military weapons swallowing buffalo" once again affirms national sovereignty. A warning of a bitter end for those who scheme to invade. It seems like it can swallow everything that prevents or hinders it. (Ace the Ox star). The comparative image has the effect of both concretizing material strength and generalizing spiritual strength, creating a powerful look for the poem. Expressing the Dong A spirit of the Tran Dynasty's army, wholeheartedly serving the people, the country, and the happiness of independence not far away, we seem to have come across this image in poetry: “Boats and rafts are everywhere The spirit flutters Three tigers, three armies, spears and shining swords" It also talks about the spirit of strength of our army. The spirit of patriotism and devotion to the nation is not only expressed through material strength but also imbued with the hearts and minds of men: “It has earned a reputation in heaven and earth What must have a list with the mountains and rivers" That thought is not only Nguyen Cong Tru's, but it has gone through a historical process that has more or less influenced people's moral thoughts. That thought was also in harmony with Pham Ngu Lao's about the will to be a man of people at that time. It shows in shame. Shame because the people are not yet rich and the country is not strong. Throughout the following two verses, it is like the author's confession: "A man's position will be as good as his reputation Cultivating the false listener of Vu Hau" Being a man and not being able to pay off your debt to fame and reputation is embarrassing when you hear people tell the story of Marquis Vu. The author is very clever in using the image of Vu Hau, whose real name is Vu Luong Hau, also known as Zhuge Liang - a talented strategist of the Han Dynasty who helped the king restore the country to prosperity. That shame is often the shame of people with noble personalities. Nguyen Khuyen in the article "Thu Vinh" also expressed his shame towards Dao Tiem - a noble and sincere famous scholar. The author is ashamed because he does not have the same strategic talent as Marquis Vu, ashamed because the country is not yet peaceful and stable. Placed in this situation, shame has the effect of motivating people. From here, we can once again affirm that patriotism is a major content throughout the existence and development of medieval literature.
Bài làm Nếu như những ngọn núi hùng vĩ cao lớn được ví như vóc dáng người cha thì những dòng sông dịu dàng lại dạt dào như tấm lòng người mẹ. Dòng sông là món quà dành tặng cho những người con xa quê hồi tưởng lại ký ức tươi đẹp về quê hương, gia đình. “Bên kia sông Đuống” cũng vậy, đây chính là dòng sông yêu thương mà nhà thơ Hoàng Cầm đã gửi gắm tình quê, hồn quê dạt dào vào từng câu thơ. “Em ơi buồn làm chi Anh đưa em về sông Đuống Ngày xưa cát trắng phẳng lì”. Mở đầu bài thơ là lời an ủi vỗ về, đồng thời cũng là lời mời gọi trở về của ký ức tuổi thơ với dòng sông quê hương. Từng câu thơ chứa đựng nỗi lòng, tâm tư của tác giả với niềm nhung nhớ vô bờ. Hai tiếng “em ơi” cất lên vừa thân thuộc vừa gần gũi mộc mạc như tiếng gọi đời thường ta vẫn hay bắt gặp. Xuôi dòng thời gian, Hoàng Cầm đưa bạn đọc về với một miền quê cát trắng, một dòng sông đậm nét trong tâm thức nhà thơ: “Ngày xưa cát trắng phẳng lì”. Vâng, cát mịn màng một màu trắng xám, câu từ bình dị giản đơn đến thân thuộc mà sao tha thiết mặn nồng đến vậy! “Sông Đuống trôi đi Một dòng lấp lánh Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kì” Câu thơ chứa đựng một bến bờ hoài niệm hoen vàng vì thời gian qua mau. Dòng sông là bến nhớ mong chờ mang vẻ đẹp giản đơn dân dã theo góc quay của ký ức hiện về. Ở đây dòng sông “lấp lánh” với những ánh sáng lung linh tuyệt đẹp, mang sắc thái mỹ miều của sự tinh khôi, thuần tuý. Ánh sáng không đến mức chói loá, cũng chẳng hề mờ mờ ảo ảnh, năng lượng luồng sang toả ra vừa đủ, để đạt đến độ lung linh rực rỡ. Ta cảm nhận được vẻ đẹp tuyệt vời của cảnh sắc dòng sông Đuống thân thương qua từng lời thơ tác giả viết. Qua thời gian, dòng sông êm trôi nằm nghiêng mình suốt những tháng năm kháng chiến đằng đẵng, chứng kiến dòng chảy của lịch sử nước nhà với niềm tự hào và tin yêu mãnh liệt. Từ láy tạo hình “nghiêng nghiêng” lột tả chân thực nét uyển chuyển mềm mại của dòng sông, uốn mình như mang trong đó sự bí ẩn diệu kỳ. “Xanh xanh bãi mía bờ dâu Ngô khoai biêng biếc Đứng bên này sông sao nhớ tiếc Sao xót xa như rụng bàn tay Bên kia sông Đuống Quê hương ta lúa nếp thơm nồng Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp Quê hương ta từ ngày khủng khiếp Giặc kéo lên ngùn ngụt lửa hung tàn” Xem thêm: Phân tích bài ca dao Khăn thương nhớ ai lớp 10 Khung cảnh dòng sông lúc này được mở rộng ra bởi bãi mía, bờ dâu, cánh đồng và làng xóm thôn quê. Màu xanh là gam màu chủ đạo của đoạn thơ, không gian bên bờ sông rộng thoáng, màu sắc nhe nhàng như sự bình yên vốn có nơi quê nhà. Bãi mía, bờ dâu, ngô khoai… là những hình ảnh quen thuộc của tuổi thơ trong tâm trí nhà thơ. Những màu xanh nối tiếp nhau vẽ lên một bức tranh hoàn hảo về sông nước cỏ cây. Thế nhưng từ khi lũ giặc xuất hiện, chúng chiếm đóng và chia cắt đôi bờ đôi ngả dòng sông, tàn phá xóm làng. Bên này và bên kia là ranh giới phân chia, là khoảng cách đôi bờ chỉ nhìn được mà không thể đặt chân sang được suốt một dòng sông Đuống thân thương. Từ “sao” cất lên nghe đau xót, tê tái đến xé lòng! Sự đau đớn nhen nhóm, nhức nhối như phần thừa trong xương thịt cứa vào từng chút, từng chút, khiến nhà thơ rỉ máu. “Như rụng bàn tay” là hình ảnh so sánh lột tả chân thực nhất nỗi đau thể xác và tâm hồn của người nghệ sĩ khi chứng kiến đôi bờ chia cách. Cánh đồng ngào ngạt hương lúa nếp với làng tranh Đông Hồ bao đời cần cù sinh sống và lưu giữ linh hồn Việt, nay bị xâm lăng, loạn lạc, đoạ đày bởi tội ác quân thù. Chúng kéo tới hung hang tàn sát dân ta, dồn dân ta đến bước đường đau thương, chia lìa đôi ngả: “Ruộng ta khô Nhà ta cháy Chó ngộ một đàn Lưỡi dài lê sắc máu Kiệt cùng ngõ thẳm bờ hoang Mẹ con đàn lợn âm dương Chia lìa đôi ngả Đám cưới chuột tưng bừng rộn rã Bây giờ tan tác về đâu?” Sự khốc liệt của chiến tranh biến cánh đồng thơm hương lúa thành ruộng hoang khô héo, biến mái nhà ấm êm thành tro tàn, biến mọi thứ tan tác muôn nẻo đớn đau vô cùng. Tranh Đông Hồ là dòng tranh mang linh hồn dân tộc, là sản phẩm truyền thống được trân trọng giữ gìn bởi hồn thiêng sông núi với lợn, gà, chim, chuột, con người…nay đều xé lìa chia cách âm dương. Còn nỗi đau nào lớn hơn nỗi đau của dân tộc? Từng câu thơ vạch trần tội ác của kẻ thù, đồng thời dậy lên niềm căm phẫn đớn đau của nhà thơ khi chứng kiến mọi thứ. Những hình ảnh sinh động được nhà thơ liệt kê, ẩn dụ cho sự mất mát chia lìa của con người, của đôi bờ dòng sông yêu dấu thật sự mang một cảm xúc hết sức mạnh mẽ, lan toả. Những dòng ký ức vẫn hiện về như cuốn phim quay chậm cùng lời nhắn nhủ thiết tha: Xem thêm: Soạn bài Hiền tài là nguyên khí của quốc gia lớp 10 hay đầy đủ nhất “Ai về Bên kia sông Đuống Cho ta gửi tấm the đen Mấy trăm năm thấp thoáng mộng bình yên Những hội hè đình đám Trên núi Thiên Thơi Trong chùa Bút Tháp Giữa huyện Lang Tài Gửi về may áo cho ai Chuông chùa văng vẳng nay người ở đâu”. Đây chính là những phong tục tập quán của những con người dân quê chất phác thật thà. Tấm áo the là biểu trưng cho sự bình dị giản đơn, sự mộc mạc vô cùng của người dân Kinh Bắc. Hội hè nơi chùa Bút Tháp, núi Thiên Thơi, Lang Tài được nói đến gợi niềm tự hào về văn hoá quê hương, những nét rất riêng và quý giá của người con đất Kinh Bắc. “Những nàng môi cắn chỉ quết trầu Những cụ già phơ phơ tóc trắng Những em sột soạt quần nâu Bây giờ đi đâu? Về đâu? “Ai về bên kia sông Đuống Có nhớ từng khuôn mặt búp sen Những cô hàng xén răng đen Cười như mùa thu toả nắng Chợ Hồ, chợ Sủi người đua chen Bãi Trầm Chỉ người giăng tơ nghẽn lối Những nàng dệt sợi Đi bán lụa mầu Những người thợ nhuộm Đồng Tỉnh, Huê Cầu Bây giờ đi đâu? Về đâu?” Tác giả gợi nhớ lại một nét văn hoá truyền thống rất đẹp của quê hương, đó là tập tục ăn trầu. Những cô gái têm trầu cánh phượng khéo léo, duyên dáng; những cụ già ân từ với mái tóc phong sương phủ trắng bụi cuộc đời, những em nhỏ quần nâu chân đất… tất cả là sự thân thuộc gần gũi diễn ra hàng ngày hang giờ trong quá khứ. Tác giả viết về họ với niềm yêu quý vô bờ, sự trân trọng họ đến từng nụ cười “toả nắng”. Nhưng tất cả họ “bây giờ đi đâu? Về đâu?”. Câu hỏi ngắn mà đau đớn, đầy xót xa của tác giả về sự thật phũ phàng của hiện tại. “Bên kia sông Đuống Mẹ già nua còm cõi gánh hàng rong”. Trong dòng ký ức ấy còn có sự xuất hiện của người mẹ tần tảo còm cõi gánh gồng. Sự vất vả nhọc nhằn của mẹ hằn in trên đôi vai nhỏ bé, trên sập hang nhỏ nhoi vụn vặt. Ấy nhưng “lũ quỷ mắt xanh” cũng chẳng tha chẳng từ, chúng “trừng trợn” khua khoắng cướp bóc đến tan tác, điêu tàn. Bóng mẹ lại lầm lũi với gánh hàng theo bờ tre dài khắc khoải. Hàng loạt những từ láy được tác giả sử dụng, miêu tả trần trụi sự thật đau đớn và nỗi cơ cực của người mẹ khó nhọc. Xem thêm: Phát biểu cảm nghĩ bài "Cảnh khuya" của Hồ Chí Minh lớp 7 Bên kia dòng sông còn là hình ảnh những đứa con thơ dại, lẽ ra được sống trong bình an hạnh phúc, tận hưởng ấu thơ tươi vui. Nhưng không, chúng đáng thương giật mình thon thót, kinh hãi sợ sệt không nổi một giấc ngủ no tròn. Tội ác của lũ giặc làm long dân căm phẫn, đất trời không dung. Cũng chính vì nỗi căm hờn đó, mà tình yêu quê hươg đất nước, yêu dòng song thân thương không còn là tình yêu trong im lặng chịu đựng, nó biến thành hành động cụ thể, đứng lên vì những đau thương đã là quá sức người. “Để con đi giết giặc Lấy máu nó rửa thù này Lấy súng nó cầm chắc tay”. Từng câu thơ kéo dài vùng vẫy như tinh thần nổi dậy quật khởi tiến về phía kẻ thù. “Bao giờ về bên kia sông Đuống Anh lại tìm em Em mặc yếm thắm Em thắt lụa hồng Em đi trảy hội non sông Cười mê ánh sáng muôn lòng xuân xanh”. Khép lại bài thơ là những hình ảnh tươi đẹp, là khát khao hoà bình giải phóng của nhà thơ. Ngày đoàn viên, “em” sẽ là người con gái đẹp nhất, mặc yếm đỏ lụa hồng cùng anh trẩy hội, cùng ngắm dòng sông quê nhà. Đó là khi tất cả cùng về bên kia sông, nơi hai bờ nhưng lại là một, là dòng sông Đuống muôn đời tôn vinh ước nguyện hoà bình và tình yêu cho đất nước non sông.
Bài làm Nếu như những ngọn núi hùng vĩ cao lớn được ví như vóc dáng người cha thì những dòng sông dịu dàng lại dạt dào như tấm lòng người mẹ. Dòng sông là món quà dành tặng cho những người con xa quê hồi tưởng lại ký ức tươi đẹp về quê hương, gia đình. “Bên kia sông Đuống” cũng vậy, đây chính là dòng sông yêu thương mà nhà thơ Hoàng Cầm đã gửi gắm tình quê, hồn quê dạt dào vào từng câu thơ. “Em ơi buồn làm chi Anh đưa em về sông Đuống Ngày xưa cát trắng phẳng lì”. Mở đầu bài thơ là lời an ủi vỗ về, đồng thời cũng là lời mời gọi trở về của ký ức tuổi thơ với dòng sông quê hương. Từng câu thơ chứa đựng nỗi lòng, tâm tư của tác giả với niềm nhung nhớ vô bờ. Hai tiếng “em ơi” cất lên vừa thân thuộc vừa gần gũi mộc mạc như tiếng gọi đời thường ta vẫn hay bắt gặp. Xuôi dòng thời gian, Hoàng Cầm đưa bạn đọc về với một miền quê cát trắng, một dòng sông đậm nét trong tâm thức nhà thơ: “Ngày xưa cát trắng phẳng lì”. Vâng, cát mịn màng một màu trắng xám, câu từ bình dị giản đơn đến thân thuộc mà sao tha thiết mặn nồng đến vậy! “Sông Đuống trôi đi Một dòng lấp lánh Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kì” Câu thơ chứa đựng một bến bờ hoài niệm hoen vàng vì thời gian qua mau. Dòng sông là bến nhớ mong chờ mang vẻ đẹp giản đơn dân dã theo góc quay của ký ức hiện về. Ở đây dòng sông “lấp lánh” với những ánh sáng lung linh tuyệt đẹp, mang sắc thái mỹ miều của sự tinh khôi, thuần tuý. Ánh sáng không đến mức chói loá, cũng chẳng hề mờ mờ ảo ảnh, năng lượng luồng sang toả ra vừa đủ, để đạt đến độ lung linh rực rỡ. Ta cảm nhận được vẻ đẹp tuyệt vời của cảnh sắc dòng sông Đuống thân thương qua từng lời thơ tác giả viết. Qua thời gian, dòng sông êm trôi nằm nghiêng mình suốt những tháng năm kháng chiến đằng đẵng, chứng kiến dòng chảy của lịch sử nước nhà với niềm tự hào và tin yêu mãnh liệt. Từ láy tạo hình “nghiêng nghiêng” lột tả chân thực nét uyển chuyển mềm mại của dòng sông, uốn mình như mang trong đó sự bí ẩn diệu kỳ. “Xanh xanh bãi mía bờ dâu Ngô khoai biêng biếc Đứng bên này sông sao nhớ tiếc Sao xót xa như rụng bàn tay Bên kia sông Đuống Quê hương ta lúa nếp thơm nồng Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp Quê hương ta từ ngày khủng khiếp Giặc kéo lên ngùn ngụt lửa hung tàn” Xem thêm: Phân tích bài ca dao Khăn thương nhớ ai lớp 10 Khung cảnh dòng sông lúc này được mở rộng ra bởi bãi mía, bờ dâu, cánh đồng và làng xóm thôn quê. Màu xanh là gam màu chủ đạo của đoạn thơ, không gian bên bờ sông rộng thoáng, màu sắc nhe nhàng như sự bình yên vốn có nơi quê nhà. Bãi mía, bờ dâu, ngô khoai… là những hình ảnh quen thuộc của tuổi thơ trong tâm trí nhà thơ. Những màu xanh nối tiếp nhau vẽ lên một bức tranh hoàn hảo về sông nước cỏ cây. Thế nhưng từ khi lũ giặc xuất hiện, chúng chiếm đóng và chia cắt đôi bờ đôi ngả dòng sông, tàn phá xóm làng. Bên này và bên kia là ranh giới phân chia, là khoảng cách đôi bờ chỉ nhìn được mà không thể đặt chân sang được suốt một dòng sông Đuống thân thương. Từ “sao” cất lên nghe đau xót, tê tái đến xé lòng! Sự đau đớn nhen nhóm, nhức nhối như phần thừa trong xương thịt cứa vào từng chút, từng chút, khiến nhà thơ rỉ máu. “Như rụng bàn tay” là hình ảnh so sánh lột tả chân thực nhất nỗi đau thể xác và tâm hồn của người nghệ sĩ khi chứng kiến đôi bờ chia cách. Cánh đồng ngào ngạt hương lúa nếp với làng tranh Đông Hồ bao đời cần cù sinh sống và lưu giữ linh hồn Việt, nay bị xâm lăng, loạn lạc, đoạ đày bởi tội ác quân thù. Chúng kéo tới hung hang tàn sát dân ta, dồn dân ta đến bước đường đau thương, chia lìa đôi ngả: “Ruộng ta khô Nhà ta cháy Chó ngộ một đàn Lưỡi dài lê sắc máu Kiệt cùng ngõ thẳm bờ hoang Mẹ con đàn lợn âm dương Chia lìa đôi ngả Đám cưới chuột tưng bừng rộn rã Bây giờ tan tác về đâu?” Sự khốc liệt của chiến tranh biến cánh đồng thơm hương lúa thành ruộng hoang khô héo, biến mái nhà ấm êm thành tro tàn, biến mọi thứ tan tác muôn nẻo đớn đau vô cùng. Tranh Đông Hồ là dòng tranh mang linh hồn dân tộc, là sản phẩm truyền thống được trân trọng giữ gìn bởi hồn thiêng sông núi với lợn, gà, chim, chuột, con người…nay đều xé lìa chia cách âm dương. Còn nỗi đau nào lớn hơn nỗi đau của dân tộc? Từng câu thơ vạch trần tội ác của kẻ thù, đồng thời dậy lên niềm căm phẫn đớn đau của nhà thơ khi chứng kiến mọi thứ. Những hình ảnh sinh động được nhà thơ liệt kê, ẩn dụ cho sự mất mát chia lìa của con người, của đôi bờ dòng sông yêu dấu thật sự mang một cảm xúc hết sức mạnh mẽ, lan toả. Những dòng ký ức vẫn hiện về như cuốn phim quay chậm cùng lời nhắn nhủ thiết tha: Xem thêm: Soạn bài Hiền tài là nguyên khí của quốc gia lớp 10 hay đầy đủ nhất “Ai về Bên kia sông Đuống Cho ta gửi tấm the đen Mấy trăm năm thấp thoáng mộng bình yên Những hội hè đình đám Trên núi Thiên Thơi Trong chùa Bút Tháp Giữa huyện Lang Tài Gửi về may áo cho ai Chuông chùa văng vẳng nay người ở đâu”. Đây chính là những phong tục tập quán của những con người dân quê chất phác thật thà. Tấm áo the là biểu trưng cho sự bình dị giản đơn, sự mộc mạc vô cùng của người dân Kinh Bắc. Hội hè nơi chùa Bút Tháp, núi Thiên Thơi, Lang Tài được nói đến gợi niềm tự hào về văn hoá quê hương, những nét rất riêng và quý giá của người con đất Kinh Bắc. “Những nàng môi cắn chỉ quết trầu Những cụ già phơ phơ tóc trắng Những em sột soạt quần nâu Bây giờ đi đâu? Về đâu? “Ai về bên kia sông Đuống Có nhớ từng khuôn mặt búp sen Những cô hàng xén răng đen Cười như mùa thu toả nắng Chợ Hồ, chợ Sủi người đua chen Bãi Trầm Chỉ người giăng tơ nghẽn lối Những nàng dệt sợi Đi bán lụa mầu Những người thợ nhuộm Đồng Tỉnh, Huê Cầu Bây giờ đi đâu? Về đâu?” Tác giả gợi nhớ lại một nét văn hoá truyền thống rất đẹp của quê hương, đó là tập tục ăn trầu. Những cô gái têm trầu cánh phượng khéo léo, duyên dáng; những cụ già ân từ với mái tóc phong sương phủ trắng bụi cuộc đời, những em nhỏ quần nâu chân đất… tất cả là sự thân thuộc gần gũi diễn ra hàng ngày hang giờ trong quá khứ. Tác giả viết về họ với niềm yêu quý vô bờ, sự trân trọng họ đến từng nụ cười “toả nắng”. Nhưng tất cả họ “bây giờ đi đâu? Về đâu?”. Câu hỏi ngắn mà đau đớn, đầy xót xa của tác giả về sự thật phũ phàng của hiện tại. “Bên kia sông Đuống Mẹ già nua còm cõi gánh hàng rong”. Trong dòng ký ức ấy còn có sự xuất hiện của người mẹ tần tảo còm cõi gánh gồng. Sự vất vả nhọc nhằn của mẹ hằn in trên đôi vai nhỏ bé, trên sập hang nhỏ nhoi vụn vặt. Ấy nhưng “lũ quỷ mắt xanh” cũng chẳng tha chẳng từ, chúng “trừng trợn” khua khoắng cướp bóc đến tan tác, điêu tàn. Bóng mẹ lại lầm lũi với gánh hàng theo bờ tre dài khắc khoải. Hàng loạt những từ láy được tác giả sử dụng, miêu tả trần trụi sự thật đau đớn và nỗi cơ cực của người mẹ khó nhọc. Xem thêm: Phát biểu cảm nghĩ bài "Cảnh khuya" của Hồ Chí Minh lớp 7 Bên kia dòng sông còn là hình ảnh những đứa con thơ dại, lẽ ra được sống trong bình an hạnh phúc, tận hưởng ấu thơ tươi vui. Nhưng không, chúng đáng thương giật mình thon thót, kinh hãi sợ sệt không nổi một giấc ngủ no tròn. Tội ác của lũ giặc làm long dân căm phẫn, đất trời không dung. Cũng chính vì nỗi căm hờn đó, mà tình yêu quê hươg đất nước, yêu dòng song thân thương không còn là tình yêu trong im lặng chịu đựng, nó biến thành hành động cụ thể, đứng lên vì những đau thương đã là quá sức người. “Để con đi giết giặc Lấy máu nó rửa thù này Lấy súng nó cầm chắc tay”. Từng câu thơ kéo dài vùng vẫy như tinh thần nổi dậy quật khởi tiến về phía kẻ thù. “Bao giờ về bên kia sông Đuống Anh lại tìm em Em mặc yếm thắm Em thắt lụa hồng Em đi trảy hội non sông Cười mê ánh sáng muôn lòng xuân xanh”. Khép lại bài thơ là những hình ảnh tươi đẹp, là khát khao hoà bình giải phóng của nhà thơ. Ngày đoàn viên, “em” sẽ là người con gái đẹp nhất, mặc yếm đỏ lụa hồng cùng anh trẩy hội, cùng ngắm dòng sông quê nhà. Đó là khi tất cả cùng về bên kia sông, nơi hai bờ nhưng lại là một, là dòng sông Đuống muôn đời tôn vinh ước nguyện hoà bình và tình yêu cho đất nước non sông.
Bài làm Khác với khung cảnh rạo rực, vui tươi vào buổi sớm của tiết thanh minh, buổi chiều Cảnh Ngày Xuân lại được Nguyễn Du khắc họa nhuốm một màu mang mác, trầm lắng. 6 câu thơ cuối trong bài Cảnh ngày xuân vẽ lên một nỗi niềm ưu tư, một nghệ thuật tả cảnh ngụ tình đầy dụng ý bậc cao của tác giả: “ Tà tà bóng ngả về Tây Chị em thở thẩn giang tay ra về Bước dần theo ngọn tiểu khê Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh Nao nao dòng nước uốn quanh Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang.” Không còn những nô nức, hồ hởi như ở đoạn đầu, đến đây giọng thơ lắng xuống, chậm dãi từng khắc như kéo dài ra một nỗi buồn da diết mênh mang, lênh láng đến xót lòng. Trong cái bức tranh buổi chiều man mác ấy có sự đan xen hài hòa của 3 màu sắc hữu tình: đó là thời gian là cảnh vật và không thể thiếu đó là con người. Nguyễn Du thật khéo léo, tài tình khi mở ra khung cảnh hoàng hôn trữ tình, xuyến xao thật nhẹ nhàng, thật tự nhiên: “Tà tà bóng ngả về Tây” “Tà Tà” gợi ra những ánh nắng nhè nhẹ đang lả lướt buông về phía cuối phương trời xa. Một chút chậm rãi, một chút chùng chình như muốn níu lại những khoảnh khắc tươi đẹp cuối cùng còn sót lại của cảnh ngày xuân. Cái nhịp sống chậm rãi, vô tình, đỏng đảnh ấy khiến cho buổi chiều hiện về không mang màu sắc thê lương, buồn tủi, đớn đau quen thuộc như trong văn học cổ. Những ánh nắng xế chiều buông xuống, khoác lên cảnh vật chiếc áo bảng lảng nỗi buồn: “Bước dần theo ngọn tiểu khê Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh Nao nao dòng nước uốn quanh Tác giả đã vận dụng linh hoạt các cảnh vật: ngọn tiểu khê; dòng nước; dịp cầu, ghềnh nước để tô vẽ nên bức tranh cảnh trời chiều. Đây là những cảnh vật đặc sắc, có thể khắc họa được rõ nét nhất dòng chuyển dịch chậm rãi của thời gian. “Ngọn tiểu khê” đang in những bóng dài lên cung đường; dòng nước quẩn quanh uốn khúc, róc rách; dịp cầu cuối ghềnh bắc ngang,…tất cả như đang ánh lên một nỗi bâng khâng, nuối tiếc, tiếng nấc rủ rỉ, trơ trọi, vướng mắc đến nao lòng. Hàng loạt các từ láy được đặc tả như: “nao nao; thanh thanh; nho nhỏ” làm dịu lại khung cảnh chiều tà; không đìu hiu; héo hắt mà vẫn thanh tao, lãng mạn. Dù nhỏ bé, cô quạnh, lững lờ nhưng vẫn đẹp, vẫn dịu nhẹ đến nao lòng người. Một nét vẽ với gam màu ấm lững lờ làm nức lòng bao lữ khách thanh minh. Các cảnh vật được soi chiếu dưới ống kính từ gần đến xa, từ nhỏ bé đến to lớn. Một vài nét khắc họa lại vẽ được trọn vẹn một bức tranh xế chiều tuyệt đẹp đến thế. Thật huyền diệu và uyên bác biết chừng nào. Một bức tranh muốn đẹp, muốn có hồn, muốn đậm sâu trong lòng độc giả thi không thể không có nhưng dáng dấp nhỏ bé của con người. Nguyễn Du sâu sắc vô cùng khi vận dụng khéo léo quy luật tả cảnh ngụ tình trong thơ văn xưa cổ: “ Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu / Người buồn người có vui đâu bao giờ.” Cảnh vật thời gian như nhuốm màu tâm trạng của lòng người tơ vương: “ Chị em thơ thẩn dang day ra về Bước dần theo ngọn tiểu khê …. Nhìn xem phong cảnh có bề thanh thanh.” Nếu như vào tiết trời sáng thanh minh tươi đẹp, dịu mát, căng tràn nhựa sống thì đến đây trời đã về cái cuối chiều, bữa tiệc vui nào cũng đến hồi kết. Con người trở về với cái chốn bình yên, với cái nhịp sống chậm rãi cuối ngày tàn. Những từ láy không chỉ miêu tả tâm trạng mà còn gợi nên lòng người. Hai chữ “thơ thẩn” bộc lộ trạng thái bần thần, nuối tiếc, lạc lõng, bơ vơ của chị em Kiều khi ra về. Hàng loạt các từ láy được đặt liên tiếp cuối mỗi câu thơ: “nao nao; thanh thanh; nho nhỏ” như một điệp khúc láy lại, xoáy sâu vào nỗi vô thức của dòng cảm xúc sâu lắng ấy. Một nuỗi buồn da diết, miên man, kéo dài man mác. Cảnh vật tĩnh lặng nhưng lòng người lại chẳng bình yên. Cụm từ “dang tay” được đăt chen ngang giữa dòng thơ như đang cố níu lại, cố tận hương nốt những dư vị ngọt ngào, đẹp đẽ cuối cùng còn sót lại của tiết thanh minh Tháng 3. Và phải chăng “dang tay” như cái ôm sẻ chia, cái ôm đồng cảm với nỗi niềm dạt dào của 2 chị em Kiều. Cảnh và người như giao hòa vào nhau, nâng đỡ nhau, tô điểm nhau làm nên một bức tranh cuối ngày thật đẹp, thật hòa quyện, khe khẽ sầu cay.
Assignment Different from the vibrant and joyful scene in the early morning of the Qingming period, the afternoon of Spring Day is portrayed by Nguyen Du as tinged with a gloomy, quiet color. The last 6 verses of the poem Scenes of a Spring Day depict a feeling of concern, an art of describing a love scene full of high-level intention of the author: “The evil shadow leans towards the West The sisters breathlessly spread their arms and left Step by step along the top of Tieu Khe Views landscape with bar bar surface The water flows around me Last occasion a small bridge crossing rapids." There is no longer the excitement and excitement like in the first part, here the poetic voice calms down, slowly each moment seems to prolong an immense, heartbreaking sadness. In that melancholy afternoon painting, there is a harmonious interweaving of three charming colors: time, landscape and, indispensable, people. Nguyen Du is very skillful and ingenious when opening up the lyrical, fluttering sunset scene so gently and naturally: "Evil shadows lean towards the West" “Ta Ta” evokes gentle sunlight drifting towards the far end of the sky. A little slow, a little slack as if wanting to hold on to the last remaining beautiful moments of spring. That slow, careless, and haughty pace of life makes the afternoon appear without the familiar colors of sadness, sadness, and pain like in ancient literature. The late afternoon sunlight falls, covering the landscape with a cloak of sadness: “Step gradually along the small Khe hill Views landscape with bar bar surface The water flows around me The author has flexibly used landscapes: Tieu Khe peak; water line; Bridges and rapids to paint a picture of the afternoon sky. These are unique scenes that can most clearly depict the slow movement of time. "Tieu Khe peak" is casting long shadows on the road; The water stream meandered and gurgled; At the last bridge across the rapids,... everything seemed to reflect a feeling of uncertainty, regret, sobbing, loneliness, and heart-wrenching entanglement. A series of false words are described such as: “nao ngu; bar bar; small" softens the sunset scene; not sad; Withered but still elegant and romantic. Even though it's small, lonely, and indifferent, it's still beautiful and gentle enough to touch people's hearts. A drawing with warm colors warms the hearts of many clear-minded travelers. Scenes are illuminated under the lens from near to far, from small to large. A few strokes can completely paint such a beautiful picture of late afternoon. How magical and erudite it is. If a painting wants to be beautiful, soulful, and deep in the hearts of readers, it cannot do without the small appearance of a human being. Nguyen Du is extremely profound when skillfully applying the rule of describing love scenes in ancient poetry: "Every scene is filled with sadness / People are sad, others are never happy." The landscape of time seems to be tinged with the mood of people's hearts: “The sisters wandered out to go home Step by step along the top of Tieu Khe …. Look at the peaceful landscape.” If the morning weather is bright, beautiful, cool, and full of life, then by now it's late afternoon, and every happy party has come to an end. People return to a peaceful place, to a slow pace of life at the end of the day. Stupid words not only describe moods but also evoke people's hearts. The two words "wandering" express the state of confusion, regret, loss, and helplessness that Kieu sisters felt when they left. A series of mixed words are placed consecutively at the end of each verse: “noo nay; bar bar; little" like a recurring chorus, delving deep into the unconsciousness of that deep emotional stream. A deep, constant, long-lasting sadness. The scenery is quiet but people's hearts are not peaceful. The phrase "stretch out your arms" is placed in the middle of the poem as if trying to hold on, trying to enjoy the last remaining sweet and beautiful aftertaste of the Qingming period in March. And is it true that "stretch out your arms" like a sharing hug, a hug that empathizes with the overwhelming feelings of the two Kieu sisters. Scenes and people seem to blend together, support each other, and embellish each other, creating a picture at the end of the day that is so beautiful, so harmonious, with a gentle sadness.
Bài thuyết minh về thịt kho tàu Ngày Tết có vô số những món ăn, bánh kẹo trái cây rất ngon. Đối với những món mặn em rất thích thịt kho tàu đậm đà hương vị miền Nam trong những ngày tết nguyên đán. Tên gọi thịt kho tàu hay còn gọi là thịt kho hột vịt có nguồn gốc từ Trung Quốc thường được nhiều gia đình miền Nam chế biến trong bữa cơm gia đình, ưu điểm là thịt giữ được lâu dùng trong nhiều ngày. Nguyên liệu chuẩn bị thực hiện món ăn này rất dễ kiếm, đó là thịt ba rọi, phèn chua, trứng gà hoặc vịt, nước dừa, gia vị cơ bản. Chuẩn bị thịt ba rọi rửa sạch bằng nước có pha muối. Thái thịt từng khúc tầm 4 cm, đổ thịt vào nước sôi trụng cho thịt chín, trong nước sôi có pha thêm phèn chua giúp thịt săn chắc hơn, sau khi vớt thịt ra nhớ rửa lại nhiều lần với nước sạch để tẩy đi phèn chua nhé. Sau khi hoàn thành sơ chế thịt hãy ướp thịt với gia vị như muối, đường, tỏi, hành tím, ớt, nước mắm… chờ trong 15 phút để gia vị ngấm đều vào thịt mới ngon. Trứng vịt cho vào nồi nước luộc chín, bỏ vỏ. Chuẩn bị một cái nồi, cho nồi lên bếp, đổ dầu ăn vào làm nóng, thịt cho vào nồi xào nhẹ, thêm một ít nước màu và nước mắm vào giúp tạo độ mặn mà cho món thịt kho tàu, đợi khi nào nước sôi lên hãy cho nước dừa rồi trộn đều. Lúc này để ngọn lửa vừa và quan sát khi thịt mềm cho trứng vịt vào nồi, vặn nhỏ lửa và đợi trong khoảng 1- 2 tiếng thịt sẽ chín hoàn toàn. Món thịt kho tàu thường có trong mâm cơm ngày Tết của người miền Nam, với món thịt kho tàu dùng kèm cơm với dưa kiệu ăn nhiều mà không có cảm giác ngán. Thịt kho tàu chắc chắn là món ăn ngon ngày Tết của nhiều gia đình Việt. Bài thuyết minh về món củ kiệu muối Đối với những người Việt Nam Tết là thời gian quý báu để quay về với những giá trị gia đình và truyền thống, ẩm thực cũng vậy, củ kiệu là món ăn truyền thống ngày Tết của nhiều thế hệ gia đình Việt. Thấy củ kiệu là thấy Tết đang về.
Presentation on braised meat During Tet, there are countless delicious dishes, candies and fruits. For savory dishes, I really like braised pork with a rich Southern flavor during Lunar New Year. The name braised pork, also known as braised duck meat, originates from China and is often prepared by many Southern families during family meals. The advantage is that the meat can be kept for many days. The ingredients to prepare this dish are very easy to find: pork belly, alum, chicken or duck eggs, coconut water, and basic spices. Prepare the pork belly and wash it with water mixed with salt. Cut the meat into pieces about 4 cm long, pour the meat into boiling water until the meat is cooked. In the boiling water, add alum to help firm the meat. After taking the meat out, remember to rinse it several times with clean water to remove the alum. Please. After completing the meat preparation, marinate the meat with spices such as salt, sugar, garlic, purple onions, chili, fish sauce... wait for 15 minutes for the spices to absorb evenly into the meat to make it delicious. Place duck eggs in a pot of water and boil until cooked, remove the shell. Prepare a pot, put the pot on the stove, pour in cooking oil to heat, put the meat in the pot and stir-fry lightly, add a little water and fish sauce to help create a salty taste for the braised pork dish, wait until the water boils. Add coconut water and mix well. Now turn the heat to medium and watch when the meat softens. Put the duck eggs in the pot, turn down the heat and wait for about 1-2 hours until the meat is completely cooked. Braised pork dish is often included in the Tet tray of Southern people, with braised pork served with rice and melon eaten a lot without feeling bored. Braised pork is definitely a delicious Tet dish for many Vietnamese families. Presentation on salted gourd For Vietnamese people, Tet is a precious time to return to family values ​​and traditions. The same goes for cuisine. Yam is a traditional Tet dish for many generations of Vietnamese families. Seeing palanquin tubers means Tet is coming.
Bài làm 1 Mtao-Mxây tù trưởng vì ganh ghét với Đăm Săn có vợ đẹp nên quyết tâm bắt Hơ Nhị. Hắn dò la thông tin và biết được Đăm Săn đã đi vắng bèn cải trang thành khách đến nhà Đăm Săn, khi trở về Mtao-Mxây già vờ để quên con dao và bảo Hơ Nhị cầm dùm ra ngoài và thế là Mtao-Mxây bát vợ Đăm Săn một cách dễ dàng. Nghe tin vợ bị bắt, Đăm Săn nổi giận và kéo theo lực lượng đến đánh nhau với Mtao-Mxây, một cuộc chiến nảy lửa đã diễn ra tại nhà của Mtao-Mxay. Trước kia Mtao Grư từng cướp vợ của Đăm Săn và bị giết nên Mtao-Mxây khá e dè trước Đăm Săn, hắn mặc áo giáp, cầm khiên phòng thủ. Đăm Săn dọa phá nhà hắn mới dám giao chiến. Cả hai tù trưởng giao chiến, khi múa khiên Mtao mxay múa yếu ớt và tỏ vẻ kém cỏi. Còn Đăm Săn múa khiên tài giỏi mạnh mẽ khiến ai cũng phải nể sợ. Mtao mxay chạy trốn liền bị mũi lao Đăm Săn cắm vào đùi, vào bụng Mtao mxay tuy nhiên do được bảo vệ bằng giáp hắn không sao. Đăm săn trải qua trận chiến dài trở nên mệt mỏi, chàng bỗng trở nên mơ màng thấy ông trời bày cách tiêu diệt kẻ ác. Đăm Săn lấy chày mòn ném trúng vành tai, áo giáp rơi ra và ngay lập tức Đăm Săn kết thúc cuộc đời của kẻ thù nhanh chóng. Tù trưởng Mtao mxay xin Đăm Săn tha mạng, những người anh hùng Đăm Săn kiên quyết phải trừng trị kẻ ác, một kẻ cướp vợ người khác một cách hèn hạ. Chàng chiến thắng vẻ vang danh tiếng nổi đình nổi đám. Bài làm 2 Đoạn trích Chiến thắng Mtao-Mxây thuộc thể loại sử thi kể về hành trình đòi lại vợ của người anh hùng Đăm Săn trước tù trưởng Mtao-Mxay. Nghe tin Đăm Săn rời bản cùng thuộc hạ, Mtao-Mxây nghĩ cách cướp vợ của Đăm Săn đó là Hơ Nhị và hắn đã thành công. Biết vợ bị bắt, Đăm Săn đùng đùng kéo đến nhà Mtao-Mxay để đòi lại người vợ tuy nhiên Mtao-Mxay vẫn thích đùa giỡn mà không chịu giao chiến, tuy nhiên trước lời đe dọa phá nhà hắn phải tham gia cuộc chiến. Trận chiến quyết liệt của hai tù trưởng diễn ra. Mtao-Mxây múa khiên trước nhưng thật yếu ớt và kém cỏi còn Đăm Săn vẫn điềm tĩnh, đến lượt Đăm Săn tài giỏi và bản lĩnh, Mtao-Mxây chỉ còn biết chạy trốn. Trong hiệp thứ 2 Đăm Săn múa khiên sức mạnh như gió bão khiến Mtao-Mxây hoảng sợ phải trốn chạy. Đăm Săn tấn công và đâm trúng Mtao-Mxây nhưng vì mặc áo giáp nên hắn không sao cả. Đăm Săn đuối sức và phải nhờ đến sự trợ giúp của ông trời chàng đã đánh rơi áo giáp và cắt được đâu Mtao-Mxây. Đăm Săn không chỉ cứu võ thành công mà còn thu phục cả những thuộc hạ trước kia của Mtao-Mxây. Bài làm 3 Mtao-Mxay là tù trưởng “cái gì cũng có’ nhưng lại đố kị bởi Đăm Săn có vợ đẹp. Hắn nghĩ cách lợi dụng Đăm Săn đi lên rừng chiếm đoạt Hơ Nhị. Hắn đến làng Đăm Săn phá phách và cưỡng ép Hơ Nhi làm vợ.
Exercise 1 Chief Mtao-Mxay was jealous of Dam San's beautiful wife, so he was determined to capture Ho Nhi. He searched for information and found out that Dam San was away, so he disguised himself as a guest at Dam San's house. When he returned, Mtao-Mxay pretended to forget the knife and told Ho Nhi to take it out for him, and that was Mtao-Mxay's death. Dam San's wife easily. Hearing that his wife was arrested, Dam San became angry and brought forces to fight with Mtao-Mxay. A fierce battle took place at Mtao-Mxay's house. Previously, Mtao Gru had robbed Dam San's wife and was killed, so Mtao-Mxay was quite shy in front of Dam San. He wore armor and held a shield for defense. Dam San threatened to destroy his house before he dared to fight. Both chiefs fought, and when they danced with their shields, Mtao danced weakly and looked incompetent. And Dam San's skillful and strong shield dancing makes everyone fear him. Mtao mxay ran away and was immediately stabbed by a Dam San spear in his thigh and stomach. However, because he was protected by armor, he was okay. Hunting after a long battle became tiring, he suddenly became dreamy and saw God planning a way to destroy the evil people. Dam San took the worn pestle and threw it at his ear, the armor fell off and Dam San immediately ended his enemy's life quickly. Chief Mtao mxay asked Dam San to spare his life. Dam San's heroes were determined to punish the evil man, a man who cowardly stole another man's wife. He won gloriously and became famous. Exercise 2 The Mtao-Mxay Victory excerpt belongs to the epic genre about the hero Dam San's journey to reclaim his wife before chief Mtao-Mxay. Hearing that Dam San left the village with his subordinates, Mtao-Mxay thought of a way to steal Dam San's wife, Ho Nhi, and he succeeded. Knowing that his wife was captured, Dam San rushed to Mtao-Mxay's house to reclaim his wife. However, Mtao-Mxay still liked to joke around and refused to fight. However, under the threat of destroying the house, he had to join the fight. A fierce battle between the two chiefs took place. Mtao-Mxay waved his shield first but was weak and incompetent while Dam San remained calm. Dam San's turn was talented and brave, Mtao-Mxay could only run away. In the second round, Dam San danced his shield with power like a storm, causing Mtao-Mxay to panic and have to run away. Dam San attacked and stabbed Mtao-Mxay, but because he was wearing armor, he was okay. Dam Hunt was exhausted and had to ask for help from heaven. He dropped his armor and was unable to cut Mtao-Mxay. Dam San not only successfully saved the martial arts but also conquered Mtao-Mxay's former subordinates. Exercise 3 Mtao-Mxay is a chief who "has everything" but is jealous because Dam San has a beautiful wife. He thought of a way to take advantage of Dam San to go to the forest to take over Ho Nhi. He went to Dam San village to destroy and force Ho Nhi to be his wife.
Dàn ý I. Mở bài – Giới thiệu tác giả, tác phẩm • Sử thi anh hùng: “Đăm Săn” + Sử thi Ê- đê + Đây là loại hình tự sự dân gian + Nội dung chính: kể về cuộc đời người anh hùng Đăm Săn.( tóm tắt 2-3 dòng) – Giới thiệu đoạn trích: Chiến thắng Mtao Mxay + Vị trí: nằm ở chương 3 4 trong bộ sử thi Đăm Săn + Đoạn trích kể về chiến thắng lẫy lừng đăm săn vs Mtao Mxay, cứu được vợ Hơ Nhị và nô lệ trở về hợp nhất với buôn làng của mình – Giới thiệu nhân vật: Hiện lên qua đoạn trích là Đăm Săn- 1 tù trưởng dũng mãnh, quyết liệt, là biểu tượng đẹp đẽ cho sức mạnh cộng đồng, dân tộc. II. Thân bài: => Hướng dẫn: Nhân vật Đăm Săn xuất hiện xuyên suốt tác phẩm. Vì thế để phân tích hình tượng nhân vật Đăm Săn ta sẽ đi phân tích nhân vậy chạy dọc theo diễn biến thời gian, bố cục tác phẩm để khắc họa đầy đủ, toàn diện nhất. Cảnh 1: Trong trận đấu vs Mtao Mxay a. Trước khi trận đấu bắt đầu • Hành động của Đăm Săn: đến chân cầu thang để khiêu chiến, dọa dẫm: “ Ơ diêng, Ơ diêng, xuống đây. Ta thách nhà ngươi xuống đấy; Xuống…” • Lời nói: + Hừng hực, dục dã kè theo động từ thách thức: “Thách; Xuống; Ta sẽ lấy cái sàn hiên nhà ngươi; ta sẽ lấy cái cầu thang nhà ngươi chẻ ra kéo lửa; ta hun cái nhà ngươi cho mà xem” + Trước lời đề phòng, sợ sệt của Mtao Mxay Đăm Săn khảng khái khẳng định: “ Sao ta lại đâm ngươi khi ngươi đang đi xuống nhỉ? Đến con lợn nái nhà ngươi ta còn không thèm đâm nữa là” => Hình ảnh Đăm Săn hiện lên đầy ngạo nghễ, tràn đầy khí thế hào hùng. Hình ảnh người anh hùng dân tộc hiện lên chủ động; dũng mãnh; nhiệt huyết khí thế thượng võ với dáng dấp hiên ngang đoàng hoàng choáng ngợp đối lập hoàn toàn với dáng vẻ hèn nhát, yếu đuối, sợ sệt MtaoMxay b. Diễn biến cuộc chiến: • Hiệp 1: + Mtao Mxay bước ra với bộ mã đẹp đẽ: “ Gươm hắn óng ánh như cái cầu vồng; bô mặt dữ tợn; khổ sọc gấp bỏ múi;” +Đăm săn yêu cầu MtaoMxay múa trước => Đăm Săn không muốn mình mang tiếng là kẻ mạnh ăn hiếp kẻ yếu thế nên đã nhường cho Mtao Mxay ra các món đòn trước. Điều này càng thể hiện vẻ đẹp cao cả của người anh hùng. + Trước cái dáng vẻ bò ngựa, khoe khoang, hống hách của Mtao Mxay Đăm săn nhận xét MtaoMxay múa lạch xạch như quả mướp => Đăm Săn tỏ ra đầy khinh bỉ, coi thường và kèm theo những lời nói sỉ nhục cho cái thói ngạo mạn của Mtao Mxay: “Miếng múa ấy. Ngươi học ở đâu? Ngươi múa chơi đấy phải không? Vậy ngươi hãy xem ta đây” => Mtao Mxay cố tỏ ra hoành tráng, ngạo nghễ, dũng mãnh, dở các chiêu trò nhưng Đăm săn vẫn giữ nguyên dáng vẻ bình tĩnh, thản nhiên, uy nghi, hiên ngang. • Hiệp 2: – Sau khi để cho kẻ yếu đuối “trình diễn” Đăm Săn bắt đầu rung khiên múa. Màn biểu diễn của anh được tái hiện lại chi tiết và vô cùng đẹp mắt: “Một lần xốc tới chàng vượt một đồi chanh; Một lần xốc tới nữa, chàng vượt một đồi lồ ô.Chàng chạy vun vút qua phía Đông rồi lại chạy qua phía tây..” => Đăm Săn múa khiên thật đẹp, thật tráng lệ. Những hành động được đặc tả nhanh thoăn thoắt, điệu nghệ mà căng tràn dũng mãnh, sức mạnh. – Những hành động Đăm Săn khiến đối thủ thất thểu, hoảng loạn: “ chạy bước cao bước thấp, hết chạy bãi Tây sang bãi Đông”; Mtao Mxay tung dao chém nhưng chẳng thể trúng và bị Đăm săn nhạo báng: “Sao ngươi lại chém chão cột trâu? Con Khoeo chân ta, ngươi dành làm gì?” => Đăm Săn mạnh mẽ, tài giỏi, phi thường, là ngọn lửa cháy rừng rực dập tắt cái dáng vẻ đạo ngạo của Mtao Mxay. • Hiệp 3: – Đăm Săn tiếp được miếng trầu Hơ nhị vứt cho, sức mạnh tăng lên gấp bội. Cái sức mạnh vốn có nay lại được tiếp thêm năng lượng tràn trề ra, bung tỏa ra: “Đăm Săn lại múa. Chàng múa trên cao, gió như bão; Chàng múa dưới thấp, gió như lốc. Chòi lẫm đổ lăn lóc. Cây cối chết rụi. …quả núi ba lần dạn nứt…ba đồi tranh bật rễ bay tung” => Đến thiên nhiên cũng như thán phục, lay chuyển trước sức mạnh, khí thế ngút trời của người tủ trưởng anh hùng – Đăm Săn phóng ngọn giáo trúng nhưng đâm không thủng Mtao Mxay vì hắn có bộ giáp sắt. Đăm săn chán nản, mỏi mệt. Trong giấc mộng chàng được ông trời chỉ giúp điểm yếu Mtao Mxay. => Đăm săn hiện lên dũng mãnh, cứng cỏi, tài năng khí thế hừng hực, vùn vụt, lấn át thiên nhiên hùng vĩ => Được sự ủng hộ từ thế lực thần linh, sức mạnh thiên nhiên kỳ vĩ. c. Kết thúc cuộc chiến: – Được sự giúp đỡ ông trời Đăm Săn lấy cái chày mòn, ném trúng vành tai kẻ địch. Rồi cắt đầu kẻ thù đem bêu ngoài đường => Hình tượng Đăm Săn hiện lên oai phong, lẫm liệt. Cảnh 2: Hô hào dân làng Sau khi giết chết kẻ thù, Đăm săn hô hào nô lệ Mtao Mxay di theo mình bằng những lời nói trân trọng, đồng cảm: “ Ơ ngàn chim sẻ, Ơ vạn chim ngói, Ơ tất cả tôi tơ vùng này, chúng ta ra về nào” => Đăm Săn hiện lên thật giản dị; gần gũi, tốt bụng Cảnh 3: Liên hoan mừng chiến thắng Đăm Săn vừa chiến thắng được kẻ thù lại vừa hiệu triệu được lòng dân. Nên lễ ăn mừng diễn ra hoành tráng, rực rỡ và vì thế lại càng tôn lên vẻ đẹp kì vĩ của người anh hùng Đăm Săn: + Tóc thả trên sàn, hứng tóc là cái nong hoa + Thịt ăn không ngớt +Uống không biết say, ăn không biết no + Đầu đội khăn nhiễu, vai mang nải hoa => Tù trưởng tài ba, dũng cảm, giàu có, tài đức vẹn toàn => Ẩn ý cho sự sung túc, phát triển giàu mạnh của buôn làng • Nghệ thuật: + Nghệ thuật so sánh đòn bẩy: Hình tượng Mtao Mxay luông đi kèm xen kẽ với những lời nói, hành động của Đăm Săn => từ đó làm nổi bật hình tượng vượt trội người anh hùng + Những câu văn biền ngẫu sóng đôi nhịp nhàng + Lối nói phóng đại, sử dụng các hình ảnh thiên nhiên, vũ trụ + Ngôn ngữ trang trọng, giàu hình ảnh => Sức mạnh chính nghĩa => Tô vẽ vị trí trung tâm con người, làm bật vị thế người anh hùng giữa trời đất mênh mông
Outline I. Introduction - Introducing the author and his work • Heroic epic: “Dam San” + Ede epic + This is a type of folk narrative + Main content: tells about the life of the hero Dam San. (summary 2-3 lines) – Introducing excerpt: Victory over Mtao Mxay + Location: located in chapters 3 4 of the Dam San epic + The excerpt tells about the glorious victory of hunting against Mtao Mxay, saving Ho Nhi's wife and the slaves returning to merge with their village. – Character introduction: Appearing through the excerpt is Dam San - a brave and fierce chief, a beautiful symbol of the strength of the community and nation. II. Body of the article: => Instructions: The character Dam San appears throughout the work. Therefore, to analyze the image of the character Dam San, we will analyze the characters running along the course of time and the composition of the work to portray it most fully and comprehensively. Scene 1: During the match vs Mtao Mxay a. Before the match starts • Dam San's actions: went to the foot of the stairs to challenge and threaten: "O Dieng, O Dieng, come down here." I challenge you to go down there; Down…" • Speech: + Passionate, lustful following the verb challenge: “Challenge; Down; I will take the floor of your porch; I will take your stairs and cut them into pieces to make the fire; I'll smoke your house for you to see." + Faced with Mtao Mxay Dam San's words of caution and fear, he confidently affirmed: "Why did I stab you when you were going down?" I don't even want to stab your sow." => The image of Dam San appears full of arrogance, full of heroic spirit. The image of the national hero appears proactively; strong; martial enthusiasm with a proud and majestic appearance in complete contrast to MtaoMxay's cowardly, weak, and fearful appearance. b. Progress of the war: • 1st half: + Mtao Mxay stepped out with a beautiful outfit: “His sword shines like a rainbow; fierce face; striped size, folded and removed;” +Hunting and asking MtaoMxay to dance first => Dam San did not want to be known as a strong person bullying the weak, so he let Mtao Mxay take the first blows. This further demonstrates the hero's noble beauty. + Faced with Mtao Mxay's arrogant, boastful, and overbearing appearance, Mtao Mxay stared and commented that Mtao Mxay danced like a melon. => Dam San expressed contempt, disdain and insults for Mtao Mxay's arrogance: "That dance. Where do you study? Are you dancing? So look at me.” => Mtao Mxay tried to appear majestic, arrogant, brave, and bad at tricks, but Dam Hunt still maintained his calm, calm, majestic, and proud appearance. • Round 2: – After letting the weak person "perform", Dam San began shaking his shield and dancing. His performance is recreated in detail and extremely beautifully: "One time, he crossed a hill of lemons; One more push, he crossed a giant hill. He ran quickly to the East and then ran to the West again..” => Dam San's shield dance is so beautiful and magnificent. The actions are described as quick, skillful, and filled with courage and strength. – Dam San's actions made opponents lost and panicked: "running high and low, running from the West beach to the East beach"; Mtao Mxay threw his knife but couldn't hit him and was mocked by Dam Hunt: "Why are you cutting ropes and tying buffaloes? My Hamster, what are you doing?" => Dam San is strong, talented, and extraordinary, a blazing fire that extinguishes Mtao Mxay's arrogant appearance. • Round 3: - Dam San received the betel piece that Ho II threw and his strength increased many times. The inherent strength is now filled with more energy, spreading out: "Dam San dances again. He danced on high, the wind was like a storm; He danced low, the wind was like a whirlwind. The hut collapsed. Trees died. ...the mountain cracked three times...the three thatched hills were uprooted and scattered." => Visiting nature also makes you admire and be moved by the mighty power and spirit of the heroic leader. – Dam San threw a spear, but it did not penetrate Mtao Mxay because he had iron armor. Hunting is boring and tiring. In his dream, God showed him Mtao Mxay's weakness. => Hunting shows bravery, toughness, talent, fiery spirit, rushing, overwhelming the majestic nature => Supported by divine forces and majestic natural power. c. End of the fight: – With the help of God, Dam San took a worn pestle and threw it, hitting the enemy's ear. Then cut off the enemy's head and display it on the street => The image of Dam San appears majestic and majestic. Scene 2: Cheering the villagers After killing the enemy, Dam Hunt exhorted the slave Mtao Mxay to follow him with words of respect and sympathy: "O thousand sparrows, O ten thousand tiled birds, O all the slaves of this region, let us come out." let's go home" => Dam San appears very simply; close, kind Scene 3: Victory celebration Dam San both defeated the enemy and won the hearts of the people. So the celebration took place grandly and brilliantly, and thus further enhanced the majestic beauty of the hero Dam San: + Hair falls on the floor, catching the hair is a flower pot + Meat is eaten incessantly +Drink without feeling drunk, eat without feeling full + Wearing a turban on his head and carrying a bunch of flowers on his shoulders => The chief is talented, brave, rich, and full of virtue => Meaning for prosperity and strong development of the village • Art: + Leverage comparison art: The image of Mtao Mxay Luong accompanies the words and actions of Dam San => thereby highlighting the hero's superior image + Rhythmic parallel sentences + Exaggerated speaking style, using images of nature and the universe + Formal language, rich in images => Righteous power => Painting the central position of the human being, highlighting the hero's position in the vastness of heaven and earth
Bài làm Trong cuộc sống ngày nay, con người ngày càng phát triển, đời sống vật chất của con người ngày càng đòi hỏi cao, khoa học kĩ thuật ngày càng phát triển. Nhưng chúng ta cũng đã làm tác động đến “người bạn” mà trời đất đã ban cho chúng ta- đó chính là “thiên nhiên”. Thiên nhiên rất gần gũi với chúng ta trong cuộc sống và có vai trò rất quan trọng đối với đời sống con người của chúng ta. Vì vậy, em xin trình bày ý kiến của mình về vai trò của thiên nhiên đối với đời sống con người. Vậy theo chúng ta hiểu “thiên nhiên” là gì? “Thiên nhiên” là nguồn tài nguyên quý báu của các quốc gia và là mối đe dọa cuộc sống của con người nhung nó cũng tránh được mọi tác hại của tự nhiên làm ảnh hưởng đến chúng ta hay nói một cách khác “thiên nhiên” là một nơi mà con người và động vật đều có thể dựa vào nó mà sống sót. Bởi thế thiên nhiên có vai trò quan trọng đối với đời sống của mỗi chúng ta. Như chúng ta đã biết, thiên nhiên đóng một vai trò quan trọng nhất đối với chúng ta mà không thể nhắc đến đó chính là không khí để ta có thể hô hấp hằng ngày nhờ vào các cây xanh khi chúng quang hợp sẽ cho ta khí Oxi và chúng lại hấp thụ lại khí CO2 mà ta đã thải ra. Thiên nhiên cũng chính là nguồn tài nguyên cho mỗi quốc gia trong sản xuất, kinh doanh,… và nó cũng là một phần quyết định đến sự phát triển của quốc gia đó trên con đường hội nhập quốc tế. Thiên nhiên cũng đóng góp một phần rất quan trọng trong nền kinh tế nước ta, nước Việt Nam ta là một nước nông nghiệp vì thế ta cần phài nhờ vào thời tiết để có thể có một mùa vụ thật tốt để xuất khẩu trong nước và cả quốc tế. nhờ vậy, Việt Nam trở thành nước xuất khẩu gạo đứng thứ hai trên thế giới (sau Thái Lan).
Assignment In today's life, people are increasingly developing, people's material lives are increasingly demanding, and science and technology are increasingly developing. But we have also affected the "friend" that heaven and earth have given us - that is "nature". Nature is very close to us in life and plays a very important role in our human lives. Therefore, I would like to present my opinion about the role of nature in human life. So what do we understand by "nature"? “Nature” is a valuable resource for nations and a threat to human life, but it also avoids all harmful effects of nature that affect us, or in other words, “nature” is a place where humans and animals can rely on it to survive. Therefore, nature plays an important role in each of our lives. As we know, nature plays the most important role for us that cannot be mentioned, which is the air we can breathe every day thanks to green plants, when they photosynthesize, they give us air. Oxygen and they absorb the CO2 we have emitted. Nature is also a resource for each country in production, business,... and it is also a decisive part of that country's development on the path of international integration. Nature also plays a very important part in our country's economy. Vietnam is an agricultural country so we need to rely on the weather to be able to have a very good crop for domestic and international export. both internationally. Thanks to that, Vietnam became the second largest rice exporter in the world (after Thailand).
Bài làm Trong xã hội hiện nay, ta thấy thật khó để tìm kiếm một người có ích cho xã hội. Họ phải là một con người có tài đức vẹn toàn, nhưng hầu hết những người có tài thì không có đức và ngược lại. Vậy “tài và đức” là gì? Tài chính là tài năng, là kiến thức, là hiểu biết, là kĩ năng, kĩ xảo, là kinh nghiệm sống để con người có thể hoàn thành công việc của mình một cách tốt nhất, đặc biệt là trong những hoàn cảnh khó khăn, những tình huống phức tạp. Tài được biểu hiện trong lao động chân tay và lao động trí óc. Đức chính là đạo đức, phẩm chất đạo đức, nhân cách một con người.Người có đức biết tôn trọng và bảo vệ chân lí, dám đấu tranh với sai lầm, sẵn sàng hi sinh quyền lợi cá nhân vì quyền lợi của tập thể. Tài và đức là những phẩm chất khác nhau nhưng luôn luôn gắn bó mật thiết không thể tách rời. Có tài mà không có đức là người vô dụng, bởi tài năng đó không phục vụ cho nhân dân mà chỉ mưu cầu lợi ích cho cá nhân thì cũng trở nên vô giá trị.Họ sẽ không trở thành những con người trọn vẹn. Bởi vì họ có thể được nhiều người nể phục nhưng dễ trở nên kiêu căng, ngạo mạn, độc ác, dễ trở thành kẻ xấu xa, nguy hiểm cho gia đình, xã hội, con người. Và họ không những là con người vô giá trị mà còn là con người có tội.
Assignment In today's society, we find it difficult to find someone who is useful to society. They must be a person of perfect talent and virtue, but most talented people do not have virtue and vice versa. So what are "talent and virtue"? Finance is talent, knowledge, understanding, skills, techniques, and life experience so that people can complete their work in the best way, especially in difficult circumstances. , complex situations. Talent is expressed in manual labor and mental labor. Virtue is morality, moral qualities, and a person's personality. Virtuous people know how to respect and protect the truth, dare to fight with mistakes, and are willing to sacrifice personal interests for the interests of the collective. . Talent and virtue are different qualities but are always closely linked and inseparable. Having talent without virtue is a useless person, because that talent does not serve the people but only seeks personal benefit and becomes worthless. They will not become complete human beings. Because they can be admired by many people but easily become arrogant, arrogant, cruel, easily become evil people, dangerous to family, society, and people. And they are not only worthless human beings but also sinful human beings.
Bài làm Môi trường học đường là một thế giới rất kì diệu đối với mỗi người. Nơi đây chúng ta được học tập biết bao điều bổ ích, được gặp gỡ và chia sẻ những sở thích, niềm vui, nỗi buồn. Môi trường học đường ấy cần phải có một kỉ luật. Là một học sinh, chúng ta có suy nghĩ gì về kỉ luật học đường? Đầu tiên chúng ta phải hiểu kỉ luật học đường là gì? Đó là những nguyên tắc, nội quy, luật lệ mà nhà trường đưa ra yêu cầu tất cả học sinh phải tuân thủ, chấp hành nghiêm túc. Kỉ luật học đường là ý thức giữ gìn nề nếp kỉ luật của học sinh trong trường học. Chính vì thế khi bước vào một ngôi trường mới, bước vào một năm học mới, nhà trường luôn giáo dục cho học sinh ý thức về nội quy nhà trường, học tập thật kĩ về kỉ luật trước khi học tập về chuyên môn. Hiểu được thế nào là kỉ luật học đường thì người học sinh còn phải tìm hiểu tại sao phải tuân thủ kỉ luật này? Gia đình là một tập thể nhỏ gồm ông bà, cha mẹ, con cái. Tập thể ấy dù chỉ gồm vài thành viên nhưng cũng phải có tôn ti trật tự và gia phong là nề nếp kỉ luật bắt buộc các thành viên trong gia đình phải thực hiện. Ngoài xã hội cũng vậy, mỗi công dân phải chấp hành trật tự, kỉ cương. Môi trường học đường cũng là một cộng đồng gồm nhiều thành viên cùng sinh hoạt. Vì thế, là một cá nhân trong môi trường ấy, chúng ta phải biết giữ kỉ luật và nề nếp. Có ý thức giữ gìn kỉ luật học đường, đạo đức của người học sinh được đánh giá tốt. Người học sinh có kỉ luật luôn lễ phép, vâng lời thầy cô, không gây gỗ đánh nhau, thực hiện đầy đủ nội quy nhà trường sẽ được mọi người kính trọng và chính mình cũng đã tôn trọng danh dự của mình. Vì thế, kỉ luật học đường là một trong những yếu tố và là nền tảng để hoàn thiện nhân cách của người học sinh. Kỉ luật học đường được mỗi cá nhân thực hiện tốt thì môi trường ấy sẽ được phát triển tốt. Học sinh sẽ được giáo dục trở thành những thành viên tốt giúp cho xã hội.
Assignment The school environment is a very magical world for each person. Here we can learn many useful things, meet and share interests, joys, and sorrows. That school environment needs to have discipline. As a student, what do we think about school discipline? First we must understand what school discipline is? These are the principles, rules, and regulations that the school requires that all students must adhere to and strictly comply with. School discipline is the awareness of maintaining student discipline in school. That's why when entering a new school, entering a new school year, the school always educates students to be aware of school rules, learn carefully about discipline before studying professionally. Understanding what school discipline is, students must also find out why they must comply with this discipline? Family is a small group consisting of grandparents, parents, and children. Even though that group only consists of a few members, it must still have hierarchy and order, and family style is a discipline that family members must follow. In society, too, every citizen must observe order and discipline. The school environment is also a community of many members living together. Therefore, as an individual in that environment, we must know how to keep discipline and order. Having a sense of maintaining school discipline and student ethics is evaluated well. A disciplined student who is always polite, obeys teachers, does not cause fights, and fully implements school rules will be respected by everyone and will also respect his honor. Therefore, school discipline is one of the factors and the foundation to perfect a student's personality. If school discipline is implemented well by each individual, that environment will develop well. Students will be educated to become good members of society.
Bài làm Nguyễn Dữ là một nhà nho sống vào khoảng thế kỉ XVI, xuất thân từ gia đình có truyền thống khoa bảng,ông để lại cho đời tác phẩm nổi tiếng là “Truyền kì mạn lục”.Chuyện chức phán sự ở đền Tàn Viên là một trong những chuyện hay, tiêu biểu của Truyền kỳ mạn lục. Câu chuyện đã phê phán hiện thực xã hội và đề cao phẩm chất kẽ sĩ, đồng thời phản ánh khá rõ tinh thần dân tộc của tác giả, mà nhân vật chính là Ngô Tử Văn một con người tính tình khảng kháng, trung trực. Nhân vật Tử Văn được tác giả giới thiệu theo phương pháp truyền thống trong văn học cổ bao gồm tên tuổi quê quán, tính tình: Ngô Văn Tử tên là Soạn, người huyện Yên Dũng đất Lạng Giang.Chàng được biết đến là người có tính tình bộc trực,khảng khái,thấy gian tà thì không thể chịu được.Lời giới thiệu mang giọng ngợi khen có tác dụng định hướng cho người đọc về hành động kiên quyết của nhân vật. Trước hết ta nhận thấy Ngô Tử Văn là người khảng khái, cương trực.Minh chứng rõ ràng cho tính cách bộc trực,dũng cảm của Ngô Tử Văn là hành động đốt đền tà của chàng.Tử Văn đã chuẩn bị kĩ càng:”tắm gội sạch sẽ” tẩy trần làm việc thiêng.Trong khi mọi người đầu lắc đầu, lè lưỡi lo sợ thay cho chàng thì Tử Văn đưa tay không cần gì,cương quyết khấn trời rồi chăm lửa đốt hủy ngôi đền.Đó không phải là hành động liều lĩnh nhất thời mà điều đó xuất phát từ lòng mong muốn diệt trừ yêu ma, trừ hại cho dân..Chàng đã đốt đền khiến cho hồn ma tên tướng giặc không còn chỗ trú ẩn để hoành hoành, nhũng nhiễu.Hành động của chàng là hành động tiêu diệt kẻ gian tà, trừ hại cho dân xứng đáng với tính cách cứng cỏi của một bậc chính nhân quân tử. Điều đặc biệt là kẻ ác kia không phải là một con người bằng xương bằng thịt mà là một hồn ma vô hình, vô ảnh nhưng rất đáng sợ vì nó thuộc thế giới thần linh, chỗ dựa của giai cấp thống trị từ xưa đến nay. Việc đốt đền thể hiện niềm tin vào chính nghĩa của Ngô Tử Văn, chứng tỏ cốt cách khảng khái của kẻ sĩ Xuyên suốt tác phẩm ta càng nhận thấy Tử Văn là một con người cứng cỏi,yêu công lí,bênh vực lẽ phải. Hồn ma tên tướng giặc tỏ ra gian trá xảo quyệt”tự xưng mình là kẻ cư sĩ”,buông lời mắng mỏ,uy hiếp Tử Văn,dung tà khiến cho chàng bị một cơn sốt nóng,sốt rét.Trước sự ngang ngược và quyền phép đáng sợ của tên tướng giặc “Tử Văn mặc kệ,ngất ngưởng tự nhiên.Hành động đó của Tử Văn trước lời đe dọa của tướng giặc không phải là hành động bất cẩn của kẻ liều mà là hành động tự tin của người nắm được chính nghĩa trong tay Tử Văn gặp Thổ Công,được cung cấp chứng cứ,biết đươc sự thật. Câu hỏi của Tử Văn với Thổ Công:”Hắn có thực là tay hung hãn có thể gieo vạ cho tôi không?” không phải là câu hỏi của kẻ hoang mang lo sợ mà là câu hỏi của người muốn “biết địch biết ta” để giành lấy thắng lợi. Trong khi đó cuộc đấu tranh của chàng ngày càng gay go quyết liệt. khi đối chất cùng tướng giặc, Tử Văn hoàn toàn tin vào bản thân, tin vào chính nghĩa mà chàng có thêm sức mạnh.Điều đó thể hiện khí phách cứng cỏi của một người anh hung trừ gian diệt bạo cho nhân dân,luôn tỏ ra điềm tĩnh dù đứng trước thế lực hung tàn. Tính tình kiên định chính nghĩa của Tử Văn lại được thể hiện rõ ràng qua sự việc diễn ra dưới âm ti.Tình thế của Tử Văn ngày càng nguy hiểm.Hồn ma tên tướng giặc áp giải chàng xuống âm phủ,hắn quyết bẻ gãy ý chí của chàng trước mặt Diêm Vương để giành phần thắng về mình.Đường xuống địa phủ rung rợn với quỷ sứ hung ác,con song đầy gió tanh song xám.Tử Văn bị quỷ sứ lôi đi rất nhanh,bị phán xét lạnh lung là kẻ”tội sâu ác nặng,không được liệt vào hang khoan giảm”,bị kết tội oan nhưng chàng chẳng hề run sợ,một mực kêu oan,đòi phải được phán xét công khai,minh bạch..Ở chốn công đường,do chỉ nghe 1 bên nguyên, Diêm Vương – vị quan tòa xử kiện, người cầm cán cân công lý cũng đã có lúc tỏ ra hồ đồ. Chính khi đứng trước pháp luật tử Văn càng tỏ rõ chàng là người có khí phách. Chàng không chỉ “kêu to”, khẳng định “ngô Soạn này là kẻ ngay thẳng ở trần gian”, chàng còn dũng cảm vạch mặt tên bạo tướng gian tàn với lời lẽ rất “cứng cỏi, không chịu nhún nhường chút nào”. Giữa chốn công đường nơi âm phủ,chàng chiến đấu đến cùng vì lẽ phải. Cú từng bước, Ngô Tử Văn đã đánh lui tất cả sự phản công, kháng cự của kẻ thù, đánh gục hoàn toàn tên tướng giặc gian manh xảo trá.
Assignment Nguyen Du was a Confucian scholar who lived around the 16th century. He came from a family with an academic tradition. He left behind a famous work called "The Legend of Man Luc". The story of the judge position at Tan Vien temple is One of the best and typical stories of Legend of Man Luc. The story criticized social reality and promoted the qualities of scholars, and at the same time clearly reflected the author's national spirit, with the main character being Ngo Tu Van, a man of resistance and integrity. The character Tu Van was introduced by the author according to the traditional method in ancient literature, including the name of his hometown and personality: Ngo Van Tu's name is Soan, from Yen Dung district, Lang Giang province. He is known as a talented person. His personality is straightforward and open-minded, and he cannot stand seeing evil. The introduction with a praising tone has the effect of orienting the reader about the character's resolute actions. First of all, we see that Ngo Tu Van is a clear and straightforward person. A clear demonstration of Ngo Tu Van's straightforward and courageous personality is his act of burning evil temples. Tu Van was carefully prepared: " "Bath and clean" to purify and do sacred work. While everyone shook their heads and stuck out their tongues in fear for him, Tu Van raised his hands without needing anything, resolutely prayed to heaven, then burned the temple down with fire. That was not true. It was a momentary reckless act that stemmed from the desire to eliminate demons and harm the people. He burned down the temple, leaving the enemy general's ghost with no place to hide to rampage and harass. His action is the action of destroying evil people and eliminating harm to the people, worthy of the tough character of a gentleman. The special thing is that the evil person is not a flesh and blood person but an invisible ghost, imageless but very scary because it belongs to the spirit world, the support of the ruling class from past to present. . The burning of the temple demonstrated Ngo Tu Van's belief in the cause of justice, proving the noble character of the scholar Throughout the work, we realize more and more that Tu Van is a tough person, loves justice, and defends the right. The ghost of the enemy general was deceitful and cunning, "claiming to be a layman", scolding and threatening Tu Van, causing him to suffer from a hot fever and malaria. Faced with his stubbornness and The terrifying power of the enemy general "Tu Van ignored it and naturally fainted. Tu Van's action in response to the enemy general's threat was not the careless action of a reckless person but the confident action of a person." Holding justice in his hands, Tu Van met Tho Cong, was provided with evidence, and learned the truth. Tu Van's question to Tho Cong: "Is he really an aggressive person who can bring harm to me?" It is not a question of someone who is confused and afraid, but a question of someone who wants to "know the enemy and know ourselves" to win. Meanwhile, his struggle became increasingly fierce. When confronting the enemy general, Tu Van completely believed in himself, believed in the justice that gave him more strength. This shows the tough spirit of a hero who eliminates evil and destroys violence for the people, always showing off his strength. stay calm even in the face of brutal forces. Tu Van's steadfast and righteous personality is clearly shown through the events taking place in the underworld. Tu Van's situation is increasingly dangerous. The enemy general's ghost escorts him to the underworld, he is determined to break the law. His will in front of the King of Hell to win for himself. The road to the underworld was trembling with cruel demons, the river was full of gray and fishy winds. Tu Van was dragged away by demons very quickly, and was coldly judged. He is a person who "has committed a serious crime and cannot be listed in the cave of remission". Due to only listening to one side of the prosecution, Diem Vuong - the judge handling the case, the person holding the scales of justice, also appeared confused at times. It was when Tu Van stood before the law that it became clear that he was a man of mettle. Not only did he "cry loudly", affirming that "this Ngo Soan is an upright person in the world", he also bravely exposed the cruel tyrant with very "tough, unyielding" words. In the middle of the public square and the underworld, he fought to the end for the right cause. Step by step, Ngo Tu Van repelled all counterattacks and resistance of the enemy, completely defeating the treacherous enemy general.
Bài làm “Thời gian trôi qua mau, chỉ còn lại những kỉ niệm. Kỉ niệm thân yêu ơi sẽ còn nhớ mãi ngôi trường xưa,…”. Một câu hát đầy cảm xúc được thể hiện trong bài hát “Mong ước kỉ niệm xưa” có lẽ sẽ không khỏi khiến những cô cậu học trò như chúng em trong khoảnh khắc phải chạnh lòng! Chạnh lòng vì thời gian sao trôi mau quá, chạnh lòng vì nhớ về ngôi trường cũ ấy, chạnh lòng vì giờ đây chúng em nào khác những cô cậu nhỏ tuổi phải bỡ ngỡ chập chững bước vào một môi trường mới đó chính là ngôi trường trung học phổ thổng Võ Thị Sáu. Bốn năm dài ròng rã trôi qua, tự hỏi tháng năm đi qua nhanh đến lạ thường? Mùa hè năm nay khác với mùa hè của những năm trước. Mùa hè năm nay bắt đầu với những căng thẳng áp lực của kì thi tuyển sinh, chúng em phải trăn trở phải cố gắng cho chính tương lai của mình. Mùa hè năm nay chúng em phải chia tay với chiếc khăn quàng đỏ, với ngôi trường trung học cơ sở đầy thương mến, với những thầy cô giáo mến yêu, với những đứa bạn thân không biết bao giờ được gặp lại. Mùa hè năm nay rất ngắn. Mùa hè năm nay với em ban đầu chắc có lẽ chỉ toàn sự chia ly! Thế rồi, quả thật thời gian trôi một cách vô tình, những tháng ngày căng thẳng buồn bã chia ly đó cũng đã qua đi. Vai tuần cuối của mùa hè, thời khắc giao mùa giữa hạ và thu ấy cũng chính là lúc cảm giác bồi hồi ùa về trong em. Ngưỡng cửa trung học phổ thông thật sự đã đến thật sự khi em biết mình đã đỗ vào ngôi trường trung học phổ thông Võ Thị Sáu. Tháng tám, tháng của những chùm hoa phượng vĩ chỉ còn sót lại vài nhánh nở muộn, và cũng là những ngày em bước vào ngôi trường mới với những bài học đầu tiên. Hoàn thành mọi thứ chuẩn bị cần thiết cho việc nhập học. Ngày nhập học cũng đến, buổi đầu tiên, khoác trên mình bộ đồng phục trông chững chạc so với thời trung học cơ sở. Ấy vậy mà, sau những tháng ngày chia ly hay ôn luyện, cánh cửa đã mở ra với đúng nguyện vọng của bản thân, em vẫn như đứa trẻ mới vào lớp một, vẫn như một cô nhóc ngày đầu học lớp sáu, vẫn đầy những lo lắng và sợt sệt. Mọi thứ quả thật đều rất mới từ quang cảnh, ngôi trường, thầy cô và bạn bè. Lúc ấy, với em mọi thứ hoàn toàn là xa lạ. Dù lo lắng, dù sợ sệt nhưng niềm háo hức về những điều thú vị em muốn khám phá về ngôi trường Võ Thị Sáu này đã lấn át tất cả vì em biết đây sẽ là ngôi nhà mới, ngôi nhà thứ hai mà em sẽ “trú” lại tận ba năm. Trong những năm học trước, cứ hết hè em lại quay lại với mái trường thân quen với những hàng cây, ghế đá,… in đậm bao kỉ niệm những lần nghịch ngợm pha trò. Còn năm nay, một chân trời hoàn toàn khác lạ, ngôi trường với những hàng cây, ghế đá có lẽ khang trang hơn, một không gian mới hơn và những dãy hành lang cũng uy nghi hơn, nào là cột cờ, là tượng nữ anh hùng Võ Thị Sáu, là sảnh, là căn tin, mọi thứ thu vào tầm mắt khiến em không khỏi thích thú và xao xuyến với những kí ức của buổi đầu vào trường mới. Lớp em được phân công học ở phòng tám khu C gần căn tin ở phía sân trong của trường. Cô chủ nhiệm mới, bạn bè mới, bỗng lòng em đã thầm ước “mình được quay lại học cùng với bạn cũ” nhưng rồi em cũng phải tự an ủi rằng: “Dần dẫn cũng sẽ quen với các bạn ấy thôi”. Cô chủ nhiệm mới của em cực kì dễ thương, có lẽ chính cô cũng đã khiến chúng em bớt đi phần nào sự lo lắng không nên có. Trước đây, khi chưa được mặc đồng phục của trường, em đã ước mơ và khao khát biết bao. Và giờ đây, khi ngày nào cũng được khoác trên mình bộ đồng phục trước đây luôn hằng mơ ước, ngồi gần những người bạn mới mà em chưa từng quen và học những thầy cô mà em chưa từng một lần trước đó được biết đến. Khi niềm khao khát bé nhỏ đã thực hiện được, bỗng chốc em thật sung sướng và chính từ lúc đó, em đã thả bản thân mình để hòa nhập vào môi trường mới này. Sau khi tuần đầu học tại trường, giờ đây em đã hoàn toàn bằng lòng với chính nguyện vọng của mình. Mọi thứ với em đều rất tốt, em cảm thấy dường như mình đã lớn, đã trưởng thành hơn cái thời ngô nghê của lứa tuổi trung học cơ sở. Ai ai cũng bảo thời gian này chính là khoảng thời gian đẹp nhất trong cuộc đời mỗi người. Những trang vở đầu tiên tiếp tục cuộc hành trình học vấn của mình. Thầy cô tại ngôi trường mới này như thấu hiểu sự bỡ ngỡ của chúng em, thầy cô ân cần chỉ dạy, dặn dò những điều cơ bản cần thiết giúp chúng em hiểu rõ hơn về nội qui của trường. Hai tuần với những tiết học mở đầu đầy hăng say, mọi thứ cứ thế mà nhẹ nhàng lướt qua theo thời gian. Cũng lắm lúc nhìn mọi vật xung quanh, chợt nỗi nhớ mông lung về những hình ảnh của ngôi trường trung học cơ sở xưa cũ. Em vẫn nhớ thầy, nhớ cô, vẫn nhớ hàng cây, vẫn nhớ cái ghế đá, cái bàn học hay cái bảng lớp chỉ là bây giờ phải cất những kỉ niệm ấy sang một bên và đón nhận những kỉ niệm tuyệt vời khác. Ấn tượng đầu tiên của em về ngôi trường cấp ba này, chắc có lẽ chính là những xúc động khó tả khó quên vào ngày Khai giảng chào đón Tân học sinh. Buổi sáng đẹp trời với đầy nắng ấm của tiết trời đầu thu. Với tà áo dài trắng thướt tha, em thật sự đã như một nàng thiếu nữ mười lăm tuổi đầu? Những hồi hợp, những ngỡ ngàng vì đây chính là lần đầu tiên em mặc tà áo dài đi học. Người ta nói, những thứ về lần đầu tiên bao giờ cũng đọng lại trong ta những cảm xúc khó quên. Vả thật như thế, chắc hẳn em sẽ chẳng bao giờ quên được, dù với vẻ ngoài như nàng thiếu nử đứng đắn, tâm trí em lúc ấy vẫn còn như đứa trẻ mới bước vào lớp một. Ngày khởi đầu đầy phấn khởi, chúng em được hân hoan chào đón với tư cách là những Tân học sinh của nhà trường. Ba hồi trống giục giã của Thầy Hiệu trưởng báo hiệu năm học mới bắt đầu, cũng là ba hồi trống ấy nhưng cảm xúc trong em lúc bấy giờ đã khác. Cảnh khác, vật khác nên lòng người cũng thay đổi theo. Giây phút đó, em nhận ra mình đã có một “gia đình mới”. Cây lá xung quanh khẽ “vươn mình” rơi nhẹ vài chiếc lá như cũng muốn nói lời chào “Tân học sinh”. Cũng chính giây phút đó, em biết mình cần ấp ủ những ước mơ rộng hơn nữa, không còn là những khao khát nhỏ bé được khoác lên người bộ đồng phục của ngôi trường cấp ba mong muốn. Thay vào đó là những hoài bão, là những dự định cho tương lai mà ngôi trường Võ Thị Sáu sẽ là bàn đạp, sẽ là “gia đình nhỏ” ở phía sau đốt lên ngọn lửa cho lòng nhiệt huyết, là ánh sáng mới cho tương lai, là nơi sẽ chuẩn bị cho em hành trang để em có thể tự tin mà bước vào cuộc đời. Khâu cuối cùng sẽ là khâu quan trọng nhất, là khâu cuối để hoàn thành một “sản phẩm” tốt và dĩ nhiên trường trung học phổ thông Võ Thị Sáu sẽ là khâu cuối cùng ấy. Nhìn những anh chị lớp lớn đi trước, những “anh chị cả” trong “gia đình nhỏ” đầy tình thương, em chỉ mong có thể mau mau được giống anh chị, rồi chúng em cũng sẽ là những anh chị chào đón lớp “Tân học sinh” mới cho năm sau. Nhưng rồi lại phút chốc lòng nhói lên đến nghẹn ngào, dù biết là mới vô, dù biết mình còn được nghe ba hồi trống giục giã ấy thêm hai lần nữa nhưng thời gian định sẵn là trôi nhanh đến vô tình. Càng được yêu thương, càng được nồng nhiệt chào đón, rồi mai đây khi xa, không được che chở bao bọc dưới những “người lái đò” tận tâm cho sự nghiệp trồng người, viễn cảnh ấy quả thật em chẳng dám nghĩ đến, chỉ có thể mỉm cười và nói thầm trong lòng: “Chắc lúc ấy sẽ buồn lắm!”. Mặc kệ thời gian vì đời người có bao lần thanh xuân, càng nghẹn ngào lòng em càng quyết tâm để lại cho mình một thanh xuân thật đẹp. Có lẽ, ngay chính từ bây giờ, tại “ngôi nhà” Võ Thị Sáu này, em phải thật cố gắn cống hiến, thật cố gắng học tập, thật cố gắng tích cóp cho mình những vốn sống, những kiến thức và cả những kỉ niệm tuyệt vời nhất để mai đây, dù có ngày buồn đó khi em đã rời xa, ngoảnh đầu lại nhìn vẫn có thể gượng mỉm cười. Mỉm cười vì tháng năm đó đã cháy hết mình, đã sống hết mình với cái thời học trò cùng với bảng lớp và phấn trắng. Hai tuần đầu tiên, em đã được học, được tiếp xúc với những thầy cô giáo cũng chính là cựu học sinh của trường. Chắc có lẽ, thầy cô không thể được những ngày tháng được bao bọc chở che dưới “mái nhà ấy”, vẫn muốn trở lại để cống hiến cho mái trường thân yêu, đâu đó vô tình bắt gặp hình ảnh của chính mình rồi nhẹ chạnh lòng vì lưu luyến năm tháng thanh xuân ấy. Thấu hiểu nỗi buồn đó rồi đôi khi, chỉ muốn đến cạnh thầy cô mà nhỏ nhẽ rằng thầy cô hãy yên tâm vì chúng em sẽ cháy nốt cái thanh xuân ấy với những điều mà đã hứa với thầy cô sẽ cố gắng học thật tốt, cố gắng hoàn thiện bản thân hơn nữa. Dẫu rằng chuyến đò nào rồi cũng phải cập bờ để sang sông nhưng chuyến đò cuối cùng này sẽ là chuyến đò mà em không muốn dừng chân nhất. Sẽ là chuyến đò mà nếu có ước mơ, em sẽ ước mơ cả ngàn cái thanh xuân để được quay trở lại.
Bài làm “Thời gian trôi qua mau, chỉ còn lại những kỉ niệm. Kỉ niệm thân yêu ơi sẽ còn nhớ mãi ngôi trường xưa,…”. Một câu hát đầy cảm xúc được thể hiện trong bài hát “Mong ước kỉ niệm xưa” có lẽ sẽ không khỏi khiến những cô cậu học trò như chúng em trong khoảnh khắc phải chạnh lòng! Chạnh lòng vì thời gian sao trôi mau quá, chạnh lòng vì nhớ về ngôi trường cũ ấy, chạnh lòng vì giờ đây chúng em nào khác những cô cậu nhỏ tuổi phải bỡ ngỡ chập chững bước vào một môi trường mới đó chính là ngôi trường trung học phổ thổng Võ Thị Sáu. Bốn năm dài ròng rã trôi qua, tự hỏi tháng năm đi qua nhanh đến lạ thường? Mùa hè năm nay khác với mùa hè của những năm trước. Mùa hè năm nay bắt đầu với những căng thẳng áp lực của kì thi tuyển sinh, chúng em phải trăn trở phải cố gắng cho chính tương lai của mình. Mùa hè năm nay chúng em phải chia tay với chiếc khăn quàng đỏ, với ngôi trường trung học cơ sở đầy thương mến, với những thầy cô giáo mến yêu, với những đứa bạn thân không biết bao giờ được gặp lại. Mùa hè năm nay rất ngắn. Mùa hè năm nay với em ban đầu chắc có lẽ chỉ toàn sự chia ly! Thế rồi, quả thật thời gian trôi một cách vô tình, những tháng ngày căng thẳng buồn bã chia ly đó cũng đã qua đi. Vai tuần cuối của mùa hè, thời khắc giao mùa giữa hạ và thu ấy cũng chính là lúc cảm giác bồi hồi ùa về trong em. Ngưỡng cửa trung học phổ thông thật sự đã đến thật sự khi em biết mình đã đỗ vào ngôi trường trung học phổ thông Võ Thị Sáu. Tháng tám, tháng của những chùm hoa phượng vĩ chỉ còn sót lại vài nhánh nở muộn, và cũng là những ngày em bước vào ngôi trường mới với những bài học đầu tiên. Hoàn thành mọi thứ chuẩn bị cần thiết cho việc nhập học. Ngày nhập học cũng đến, buổi đầu tiên, khoác trên mình bộ đồng phục trông chững chạc so với thời trung học cơ sở. Ấy vậy mà, sau những tháng ngày chia ly hay ôn luyện, cánh cửa đã mở ra với đúng nguyện vọng của bản thân, em vẫn như đứa trẻ mới vào lớp một, vẫn như một cô nhóc ngày đầu học lớp sáu, vẫn đầy những lo lắng và sợt sệt. Mọi thứ quả thật đều rất mới từ quang cảnh, ngôi trường, thầy cô và bạn bè. Lúc ấy, với em mọi thứ hoàn toàn là xa lạ. Dù lo lắng, dù sợ sệt nhưng niềm háo hức về những điều thú vị em muốn khám phá về ngôi trường Võ Thị Sáu này đã lấn át tất cả vì em biết đây sẽ là ngôi nhà mới, ngôi nhà thứ hai mà em sẽ “trú” lại tận ba năm. Trong những năm học trước, cứ hết hè em lại quay lại với mái trường thân quen với những hàng cây, ghế đá,… in đậm bao kỉ niệm những lần nghịch ngợm pha trò. Còn năm nay, một chân trời hoàn toàn khác lạ, ngôi trường với những hàng cây, ghế đá có lẽ khang trang hơn, một không gian mới hơn và những dãy hành lang cũng uy nghi hơn, nào là cột cờ, là tượng nữ anh hùng Võ Thị Sáu, là sảnh, là căn tin, mọi thứ thu vào tầm mắt khiến em không khỏi thích thú và xao xuyến với những kí ức của buổi đầu vào trường mới. Lớp em được phân công học ở phòng tám khu C gần căn tin ở phía sân trong của trường. Cô chủ nhiệm mới, bạn bè mới, bỗng lòng em đã thầm ước “mình được quay lại học cùng với bạn cũ” nhưng rồi em cũng phải tự an ủi rằng: “Dần dẫn cũng sẽ quen với các bạn ấy thôi”. Cô chủ nhiệm mới của em cực kì dễ thương, có lẽ chính cô cũng đã khiến chúng em bớt đi phần nào sự lo lắng không nên có. Trước đây, khi chưa được mặc đồng phục của trường, em đã ước mơ và khao khát biết bao. Và giờ đây, khi ngày nào cũng được khoác trên mình bộ đồng phục trước đây luôn hằng mơ ước, ngồi gần những người bạn mới mà em chưa từng quen và học những thầy cô mà em chưa từng một lần trước đó được biết đến. Khi niềm khao khát bé nhỏ đã thực hiện được, bỗng chốc em thật sung sướng và chính từ lúc đó, em đã thả bản thân mình để hòa nhập vào môi trường mới này. Sau khi tuần đầu học tại trường, giờ đây em đã hoàn toàn bằng lòng với chính nguyện vọng của mình. Mọi thứ với em đều rất tốt, em cảm thấy dường như mình đã lớn, đã trưởng thành hơn cái thời ngô nghê của lứa tuổi trung học cơ sở. Ai ai cũng bảo thời gian này chính là khoảng thời gian đẹp nhất trong cuộc đời mỗi người. Những trang vở đầu tiên tiếp tục cuộc hành trình học vấn của mình. Thầy cô tại ngôi trường mới này như thấu hiểu sự bỡ ngỡ của chúng em, thầy cô ân cần chỉ dạy, dặn dò những điều cơ bản cần thiết giúp chúng em hiểu rõ hơn về nội qui của trường. Hai tuần với những tiết học mở đầu đầy hăng say, mọi thứ cứ thế mà nhẹ nhàng lướt qua theo thời gian. Cũng lắm lúc nhìn mọi vật xung quanh, chợt nỗi nhớ mông lung về những hình ảnh của ngôi trường trung học cơ sở xưa cũ. Em vẫn nhớ thầy, nhớ cô, vẫn nhớ hàng cây, vẫn nhớ cái ghế đá, cái bàn học hay cái bảng lớp chỉ là bây giờ phải cất những kỉ niệm ấy sang một bên và đón nhận những kỉ niệm tuyệt vời khác. Ấn tượng đầu tiên của em về ngôi trường cấp ba này, chắc có lẽ chính là những xúc động khó tả khó quên vào ngày Khai giảng chào đón Tân học sinh. Buổi sáng đẹp trời với đầy nắng ấm của tiết trời đầu thu. Với tà áo dài trắng thướt tha, em thật sự đã như một nàng thiếu nữ mười lăm tuổi đầu? Những hồi hợp, những ngỡ ngàng vì đây chính là lần đầu tiên em mặc tà áo dài đi học. Người ta nói, những thứ về lần đầu tiên bao giờ cũng đọng lại trong ta những cảm xúc khó quên. Vả thật như thế, chắc hẳn em sẽ chẳng bao giờ quên được, dù với vẻ ngoài như nàng thiếu nử đứng đắn, tâm trí em lúc ấy vẫn còn như đứa trẻ mới bước vào lớp một. Ngày khởi đầu đầy phấn khởi, chúng em được hân hoan chào đón với tư cách là những Tân học sinh của nhà trường. Ba hồi trống giục giã của Thầy Hiệu trưởng báo hiệu năm học mới bắt đầu, cũng là ba hồi trống ấy nhưng cảm xúc trong em lúc bấy giờ đã khác. Cảnh khác, vật khác nên lòng người cũng thay đổi theo. Giây phút đó, em nhận ra mình đã có một “gia đình mới”. Cây lá xung quanh khẽ “vươn mình” rơi nhẹ vài chiếc lá như cũng muốn nói lời chào “Tân học sinh”. Cũng chính giây phút đó, em biết mình cần ấp ủ những ước mơ rộng hơn nữa, không còn là những khao khát nhỏ bé được khoác lên người bộ đồng phục của ngôi trường cấp ba mong muốn. Thay vào đó là những hoài bão, là những dự định cho tương lai mà ngôi trường Võ Thị Sáu sẽ là bàn đạp, sẽ là “gia đình nhỏ” ở phía sau đốt lên ngọn lửa cho lòng nhiệt huyết, là ánh sáng mới cho tương lai, là nơi sẽ chuẩn bị cho em hành trang để em có thể tự tin mà bước vào cuộc đời. Khâu cuối cùng sẽ là khâu quan trọng nhất, là khâu cuối để hoàn thành một “sản phẩm” tốt và dĩ nhiên trường trung học phổ thông Võ Thị Sáu sẽ là khâu cuối cùng ấy. Nhìn những anh chị lớp lớn đi trước, những “anh chị cả” trong “gia đình nhỏ” đầy tình thương, em chỉ mong có thể mau mau được giống anh chị, rồi chúng em cũng sẽ là những anh chị chào đón lớp “Tân học sinh” mới cho năm sau. Nhưng rồi lại phút chốc lòng nhói lên đến nghẹn ngào, dù biết là mới vô, dù biết mình còn được nghe ba hồi trống giục giã ấy thêm hai lần nữa nhưng thời gian định sẵn là trôi nhanh đến vô tình. Càng được yêu thương, càng được nồng nhiệt chào đón, rồi mai đây khi xa, không được che chở bao bọc dưới những “người lái đò” tận tâm cho sự nghiệp trồng người, viễn cảnh ấy quả thật em chẳng dám nghĩ đến, chỉ có thể mỉm cười và nói thầm trong lòng: “Chắc lúc ấy sẽ buồn lắm!”. Mặc kệ thời gian vì đời người có bao lần thanh xuân, càng nghẹn ngào lòng em càng quyết tâm để lại cho mình một thanh xuân thật đẹp. Có lẽ, ngay chính từ bây giờ, tại “ngôi nhà” Võ Thị Sáu này, em phải thật cố gắn cống hiến, thật cố gắng học tập, thật cố gắng tích cóp cho mình những vốn sống, những kiến thức và cả những kỉ niệm tuyệt vời nhất để mai đây, dù có ngày buồn đó khi em đã rời xa, ngoảnh đầu lại nhìn vẫn có thể gượng mỉm cười. Mỉm cười vì tháng năm đó đã cháy hết mình, đã sống hết mình với cái thời học trò cùng với bảng lớp và phấn trắng. Hai tuần đầu tiên, em đã được học, được tiếp xúc với những thầy cô giáo cũng chính là cựu học sinh của trường. Chắc có lẽ, thầy cô không thể được những ngày tháng được bao bọc chở che dưới “mái nhà ấy”, vẫn muốn trở lại để cống hiến cho mái trường thân yêu, đâu đó vô tình bắt gặp hình ảnh của chính mình rồi nhẹ chạnh lòng vì lưu luyến năm tháng thanh xuân ấy. Thấu hiểu nỗi buồn đó rồi đôi khi, chỉ muốn đến cạnh thầy cô mà nhỏ nhẽ rằng thầy cô hãy yên tâm vì chúng em sẽ cháy nốt cái thanh xuân ấy với những điều mà đã hứa với thầy cô sẽ cố gắng học thật tốt, cố gắng hoàn thiện bản thân hơn nữa. Dẫu rằng chuyến đò nào rồi cũng phải cập bờ để sang sông nhưng chuyến đò cuối cùng này sẽ là chuyến đò mà em không muốn dừng chân nhất. Sẽ là chuyến đò mà nếu có ước mơ, em sẽ ước mơ cả ngàn cái thanh xuân để được quay trở lại.
Bài làm An toàn giao thông đang là vấn đề rất lớn và cần thiết trong đời sống của mỗi người dân. “Giảm tai nạn và ùn tắc giao thông là trách nhiệm của mỗi con người chúng ta”. Thông điệp của Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng trong dịp đầu năm mới làm dấy lên hồi chuông báo động về việc thiếu ý thức khi tham gia giao thông trên đường của mọi người. Từ xưa đến nay, việc lưu thông trên đường dường như đã là một thói quen ăn sâu vào tiềm thức của mỗi con người Việt Nam chúng ta. Nhưng dường như vẫn còn nhiều người chưa hiểu được việc thực hiện an toàn giao thông là như thế nào. Đơn giản thôi. Thực hiện an toàn giao thông là các hành vi văn hóa khi tham gia giao thông bao gồm việc chấp hành luật giao thông, phải có ý thức khi tham gia giao thông. An toàn giao thông còn là sự an toàn đối với người tham gia lưu thông trên các phương tiện đường bộ, hàng hải, hàng không, là sự chấp hành tốt các luật lệ về giao thông, cư xử phù hợp khi lưu thông trên các phương tiện giao thông. Việc thực hiện an toàn giao thông không phải là chuyện quá khó khăn, bất kì người nào tham gia giao thông cũng có thể thực hiện được. Nhưng với việc tai nạn giao thông trung bình cướp đi sinh mạng của 30 người trong một ngày và làm bị thương hơn hàng chục người thì việc thực hiện an toàn giao thông trở thành một trong những vấn đề “nóng” luôn được sự quan tâm của xã hội. Tổn thất này đã trở thành gánh nặng cho nhiều gia đình, người thân và xã hội Việt Nam, gây ra mất mát về người và của, làm cho con bỗng nhiên không cha, không mẹ, gia đình thì mất đi một niềm vui, mất đi một chỗ dựa tinh thần cho mọi thành viên trong gia đình. Không những thế, tai nạn giao thông còn làm thay đổi gia cảnh sống, đẩy một gia đình khá giả xuống bờ vực của sự nghèo khó, đang rất cần được sự giúp đỡ. Từ nhiều năm nay, dù chính quyền đã triển khai nhiều giải pháp bảo đảm trật tự an toàn giao thông, giảm thiểu ùn tắc giao thông nhưng hiện tượng trên vẫn không thuyên giảm mà còn tăng lên một cách đáng sợ. Với sự thiệt hại ngày càng nghiêm trọng, tai nạn giao thông bây giờ đã trở thành một mối đe dọa đối với chúng ta. Tại sao hàng ngày các phương tiện thông tin vẫn nêu ra các vụ tai nạn giao thông trầm trọng, những con số người chết và bị thương vong rất cao nhưng sao con số người bị tai nạn vẫn không thuyên giảm? Phải chăng con người chúng ta dần vô cảm trước vấn đề này, vì nó xảy ra quá nhiều mà chỉ có người trong cuộc mới thấm thía được nỗi đau về hậu quả? Có rất nhiều lý do để bàn cãi. Lý do mà chúng ta thường hay gặp nhất đó là sự thiếu ý thức chấp hành luật lệ giao thông của mọi người. Ý thức lưu thông xe của người dân chưa cao đôi khi tự mình gây khó cho mình. Họ chấp nhận lách luật, vi phạm luật giao thông vì mục đích của chính mình. Bằng chứng là khi đang kẹt xe nhưng người ta cứ vô tư lấn đường xe hơi và lấn qua phần đường ngược chiều. Khi lấn đường như thế đã làm kẹt xe hàng loạt phía sau và phía đối diện và cả hai chiều cùng kẹt thì không ai thoát ra được. Hay việc các công ty vì muốn tăng doanh thu nên những chiếc xe tải tỉ trọng lớn của công ty họ ban ngày vẫn lưu thông trên đường với tốc độ rất nhanh trên đường cho dù chúng chỉ được lưu thông vào ban đêm. Hay điển hình là ở trong giới học sinh chúng ta hiện nay, vì muốn thể hiện mình, muốn chứng tỏ mình là một người lớn, một người có phong cách mà bất chấp cả tính mạng của mình và mọi người, đánh võng, đua xe, vượt tốc độ, lạng lách,……..làm náo loạn cả đường phố. Nhưng các bạn ấy không biết rằng sự mạo hiểm ấy không phải là một cách để chứng tỏ mình mà đó là một hành động hết sức ngu ngốc. Các bạn ấy không biết rằng sự hạnh phúc, hăng hái sau chiến thắng là những sự đau đớn, buồn bã, tức giận của những con người, những gia đình có thân nhân của mình bị tai nạn do chính các bạn ấy gây ra. Sự căm hận của họ có thể đi theo, dằn vặt, ảm ảnh các bạn ấy trong suốt cả cuộc đời của chính bạn.
Assignment Traffic safety is a huge and necessary issue in every person's life. "Reducing accidents and traffic congestion is the responsibility of each of us." Prime Minister Nguyen Tan Dung's message at the beginning of the new year raised alarm bells about people's lack of awareness when participating in traffic on the road. From ancient times until now, traveling on the road seems to have been a habit deeply ingrained in the subconscious of each of us Vietnamese people. But it seems that many people still do not understand what traffic safety is. It's simple. Implementing traffic safety is cultural behavior when participating in traffic, including obeying traffic laws and being conscious when participating in traffic. Traffic safety is also the safety of people participating in traffic on road, sea, and air vehicles, good compliance with traffic laws, and appropriate behavior when traveling on roads. mean of transportation. Implementing traffic safety is not too difficult, anyone participating in traffic can do it. But with the average traffic accident claiming the lives of 30 people a day and injuring dozens more, traffic safety has become one of the "hot" issues that always receives attention. of society. This loss has become a burden for many families, relatives and Vietnamese society, causing loss of life and property, causing children to suddenly have no father or mother, and the family to lose a sense of joy. Loss of spiritual support for all family members. Not only that, traffic accidents also change family living conditions, pushing a well-off family to the brink of poverty, in dire need of help. For many years, although the government has implemented many solutions to ensure traffic order and safety and reduce traffic congestion, the above phenomenon has not improved but has increased in a frightening way. With increasingly serious damage, traffic accidents have now become a threat to us. Why do the media still report serious traffic accidents every day, with very high numbers of deaths and injuries, but why is the number of people involved in accidents still not decreasing? Are we humans gradually becoming insensitive to this problem, because it happens so much that only those involved can understand the pain of the consequences? There are many reasons to discuss. The most common reason we encounter is people's lack of awareness of obeying traffic rules. People's awareness of vehicle traffic is not high, sometimes causing difficulties for themselves. They accept to circumvent and violate traffic laws for their own purposes. The proof is that when people are stuck in traffic, they carelessly encroach on cars and cross the road in the opposite direction. When encroaching on the road like that, there was a mass traffic jam behind and on the opposite side, and in both directions, no one could escape. Or the fact that companies want to increase revenue, so their company's large trucks still travel on the road at very fast speeds during the day even though they only circulate at night. Or typically, in our student community today, because we want to express ourselves, we want to prove that we are an adult, a person with style, and regardless of our lives and those of others, swing and race. vehicles, speeding, swerving,…….. causing chaos on the street. But they don't know that taking that risk is not a way to prove themselves, but it is a very stupid action. They do not know that the happiness and enthusiasm after victory are the pain, sadness, and anger of the people and families whose relatives suffered accidents caused by them. Their hatred can follow, torment, and haunt them throughout your entire life.
Bài làm “Nhất tự vi sư, bán tự vi sư” Đã từ lâu, vai trò của người thầy trong xã hội vô cùng quan trọng. Ông cha ta cũng để lại nhiều lời giáo huấn bổ ích cho lớp trẻ chúng ta ngày nay. Qua câu nói trên ta cũng thấy được tầm quan trọng của thầy cô trong việc truyền thụ kiến thức cho học sinh. Thầy là người dạy chữ nghĩa, truyền đạt kiến thức khoa học, nhân văn hay kĩ thuật cho chúng ta. Thầy không chỉ dạy văn, dạy toán hay nhất thiết phải dạy những môn học quan trọng như sử, địa, sinh,lí,hóa … Thậm chí những môn như nhạc hay thể dục chúng ta cũng cần phải có thầy. Vì chính nhờ thầy, những đam mê, năng khiếu tìm ẩn đâu đó trong ta mới được khơi dậy. Thầy giáo trước tiên phải là người có đạo đức thật tốt để các em học sinh noi gương theo. Một người thầy không chỉ đơn thuần là người dạy chữ nghĩa, truyền đạt kiến thức mà còn phải là người thấu tình đạt lí, biết dung trái tim và lòng bao dung để uốn nắn những mầm non khôn lớn. Bởi thế cho nên người ta nói: “Nghề giáo thiêng liêng nhất, khó khăn nhất và cũng đáng quí nhất.” Trong nhà trường người trực tiếp truyền thụ kiến thức là thầy cô giáo. Họ đều là những người được đào tạo trong các trường Sư Phạm. Họ không những có trình độ tay nghề mà còn có lương tâm, đạo đức nghề nghiệp. Do vậy họ luôn có ý thức nâng cao chuyên môn nghiệp vụ, cập nhật thông tin để nâng chất lượng giờ dạy đem đến cho học sinh những hiểu biết chuẩn mực. Trong việc truyền thụ kiến thức văn hóa, ngoài vai trò quan trọng của người thầy, học sinh cũng cần phải có thái độ tích cực chủ động. Cha ông ta từ xa xưa đã rất coi trọng vai trò của nhà trường trong việc mở mang truyền bá kiến thức. Văn Miếu Quốc Tử Giám đã được xây dựng từ những thế kỉ đầu của quốc gia phong kiến Đại Việt. Các nước tiên tiến trên thế giới sở dĩ phát triển nhanh, mạnh vì coi trọng vai trò của giáo dục, trong đó trường học chiếm vị trí hàng đầu. Trong thời đại thông tin hiện nay, có rất nhiều nguồn cung cấp tri thức thì vai trò truyền bá kiến thức từ nhà trường càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết. Thầy giáo luôn là người uy nghiêm và có những khuôn mẫu phẩm chất tuyệt vời. Người thầy với kiến thức bao la và lòng tận tụy, là người ươm mầm cho những tài năng tỏa sáng. Nhắc tới thầy, người ta nghĩ đến hình ảnh người “gõ đầu trẻ”. Đúng vậy, chính nhờ những roi vọt thuở ấu thơ ấy mà ta mới thành người. Nhưng ngày hôm nay, thầy giáo hiền hơn, gần gũi với học trò nhiều hơn. Thầy không dùng roi, không dùng vỏ mít bắt trò quỳ. Thầy chỉ cần nói nhẹ nhàng, chỉ cần khuyên bảo là học trò sẽ ngoan. Công ơn thầy bao la như trời bể, có thể ví thầy như người cha thứ hai trong đời người. Có được một người thầy tốt là niềm hạnh phúc, tương lai rực sáng ngày mai. Bởi “không thầy đố mày làm nên”. Cái nghề giáo, đâu phải ai cũng làm được. Để được là một người thầy tài cao đức rộng, phải trải qua bao nhiêu gian khổ. Những buổi dãi nắng dầm mưa để cho học trò con chữ, bao tối thâu đêm bên giáo án mệt nhọc. Rồi những lần mệt mỏi đến lả người vì đám học trò tiểu yêu quậy phá, vậy mà thầy vẫn chẳng bao giờ bỏ cuộc. Thầy dạy là dạy bằng tình yêu thương, dạy bằng ánh mắt trách móc mỗi khi ta phạm sai lầm. Những khi thầy đánh, la mắng thì cũng cốt để ta hiểu được tầm quan trọng của việc học tập, tạm thời quên đi những trò vui trẻ thơ. Đánh như thế, dẫu khuôn mặt cương nghị và kiên quyết, thì lòng thầy cũng xót xa lắm thôi!
Assignment "Most self-monk, the monk semiautomatic" For a long time, the role of teachers in society has been extremely important. Our ancestors also left many useful teachings for our young people today. Through the above statement, we can also see the importance of teachers in imparting knowledge to students. The teacher is the one who teaches letters and imparts scientific, humanistic or technical knowledge to us. Teachers don't just teach literature, math, or necessarily teach important subjects like history, geography, biology, physics, chemistry... We even need a teacher for subjects like music or physical education. Because it is thanks to the teacher that the passions and talents hidden somewhere within us are awakened. Teachers must first be people with good morals for students to follow. A teacher is not simply someone who teaches words and imparts knowledge, but must also be someone who understands reason and knows how to use heart and tolerance to shape young children. That's why people say: "The teaching profession is the most sacred, the most difficult and also the most precious." In school, the person who directly imparts knowledge is the teacher. They are all trained in Pedagogical schools. They not only have professional qualifications but also have conscience and professional ethics. Therefore, they are always conscious of improving their professional expertise and updating information to improve the quality of teaching hours, giving students standard understanding. In imparting cultural knowledge, in addition to the important role of teachers, students also need to have a positive and proactive attitude. Since ancient times, our ancestors have attached great importance to the role of schools in expanding and spreading knowledge. The Temple of Literature was built in the early centuries of the feudal nation of Dai Viet. Advanced countries in the world develop rapidly and strongly because they attach importance to the role of education, in which schools occupy the top position. In today's information age, where there are many sources of knowledge, the role of spreading knowledge from schools becomes more important than ever. Teachers are always dignified and have great qualities. A teacher with immense knowledge and dedication is the one who nurtures shining talents. When talking about teachers, people think of the image of someone who "knocks children's heads". That's right, it is thanks to those childhood whips that we become human. But today, teachers are gentler and closer to students. The teacher did not use a whip or jackfruit peel to force the students to kneel. The teacher just needs to speak gently and advise and the students will be obedient. The teacher's gratitude is as vast as the sky, he can be compared to a second father in a person's life. Having a good teacher is happiness, a bright future tomorrow. Because "no teacher challenges you to do it". Not everyone can do the teaching profession. To be a talented and virtuous teacher, one must go through many hardships. Days spent in the sun and rain to teach students to read, many nights with tiring lesson plans. Then, there were times when he was so tired that he fainted because of his mischievous little students, but he still never gave up. The teacher teaches with love, teaches with reproachful eyes every time we make a mistake. When the teacher hits and scolds, it's just to help us understand the importance of studying and temporarily forget about childhood fun. Fighting like that, even though his face was firm and determined, the teacher's heart still felt very sad!
Bài làm Người xưa có câu:”Bất học bất tri lý”. Quả đúng như vậy, việc tiếp thu kiến thu kiến thức vô cùng quan trọng đối với mỗi người và xã hội ngày nay. Khi khoa hoc thế giới ngày càng phát triển vượt bậc thì bản thân mỗi chúng ta cần phải ra sức học tập, tiếp thu kiến thức để xây dựng quê hương,đất nước mình ngày càng phát triển. “Tiếp thu” là một quá trình học tập những tinh túy của sách vở, thầy cô,học hỏi từ bạn bè và thế giới xung quanh.” Kiến thức” là sự hiếu biết về mốt vấn đề, hiện tượng nào đó qua một quá trình nghiên cứu,tìm hiểu và học tập.Tóm lại,”tiếp thu kiến thức” là việc học hỏi những điều hay, lẽ phải trong cuộc sống để phát triển nó ngày càng tốt hơn. Vì sao mỗi người chúng ta luôn phải tiếp thu những kiến thức mới trong xã hội? Đó là vì nếu chúng ta không chịu học tập.tiếp thuc cái mới,luôn sống và làm việc theo những phương pháp cũ thì ta sẽ bị lạc hậu, trở thành người vô ích cho xã hội. Những người biết phấn đấu học tập,rèn luyện,tiếp thu cái mới sẽ thành công trong công việc và là một người công dân có ích cho xã hội, đất nước.Vì thế,con người có vai trò vô cùng quan trọng trong việc tiếp thu kiến thức và phát triển tri thức thế giới ngày càng phong phú và đa dạng. Mục đích của việc tiếp thu là nhằm phục vụ cho mọi công việc đạt hiệu quả cao. Nếu ta đơn thuần làm việc theo thói quen hoặc kinh nghiệm có sẵn thì công việc sẽ tiến triển chậm và chất lượng không tốt. Cách làm như trên chỉ thích hợp với các công việc giản đơn, không cần nhiều đến trí tuệ. Còn đối với những công việc phức tạp liên quan đến khoa học kĩ thuật thì cung cách làm việc ấy là lạc hậu, lỗi thời. Muốn đạt hiệu quả tốt trong mọi lĩnh vực, chúng ta bắt buộc phải học, phải được đào tạo chính quy theo từng chuyên ngành và trong suốt quá trình làm việc vẫn phải học tập, không ngừng tiếp thu khoa học kỹ thuật bằng mọi hình thức khác nhau. Từ xưa đến nay,dân tộc ta đã có biết bao anh tài,ra sức học tập và tiếp thu tinh hoa thế giới để xây dựng đất nước ngày càng vững mạnh.Điển hình chính là Chủ Tịch Hồ Chí Minh- Người cha già kính yêu của dân tộc. Người đã không ngại gian lao và khổ cực, bôn ba thế giới hơn ba mưới năm,tiếp thu tinh hoa của hàng loạt các cường quốc để tìm ra con đường cứu nước,giải phóng dân tộc thoát khỏi ách đô hộ của đế quốc thực dân và soi sáng cho tương lai của Việt Nam.Việc làm đáng quý đó của Bác đã giúp ta có được cuộc sống ngày hôm nay,đất nước Việt Nam giành được độc lập.Không chỉ thế,trên thế giới còn biết bao tấm gương sang về việc tiếp thu và tìm ra nhiều điều bí ẩn trên trái đất này. Nhà toán học Ac-si-méc ra sức nghiên cứu tìm tòi ra được câu trả lời cho việc vì sao vật có thể nổi trên mặt nước,còn Niu-tơn thì đã ra được định luật vạn vật hấp dẫn,giúp cho con người biết được tác dụng của lực hut trái đất.
Assignment There is an ancient saying: "No education, no knowledge". That's right, acquiring knowledge is extremely important for each person and society today. As world science is increasingly developing, each of us needs to work hard to study and absorb knowledge to build our homeland and country to increasingly develop. “Acquiring” is a process of learning the essence of books, teachers, learning from friends and the world around. "Knowledge" is understanding about a certain problem or phenomenon through a process of research, investigation and learning. In short, "acquiring knowledge" is learning good and right things in life. Live to develop it better and better. Why do each of us always have to absorb new knowledge in society? That's because if we refuse to learn and absorb new things and always live and work according to old methods, we will become outdated and become useless to society. People who strive to learn, practice, and absorb new things will be successful at work and be useful citizens for society and the country. Therefore, people have an extremely important role in Acquire knowledge and develop increasingly rich and diverse world knowledge. The purpose of acquisition is to serve all work with high efficiency. If we simply work according to existing habits or experience, the work will progress slowly and the quality will not be good. The above method is only suitable for simple tasks that do not require much intelligence. As for complex jobs related to science and technology, that way of working is outdated and outdated. To achieve good results in all fields, we are required to study, receive formal training in each major, and throughout the working process, we must continue to study and constantly absorb science and technology in all forms. different consciousness. From past to present, our nation has had countless talented people, trying their best to study and absorb the best of the world to build an increasingly stronger country. A typical example is President Ho Chi Minh - our beloved old father. love of the nation. He was not afraid of hardship and suffering, traveling around the world for more than thirty years, absorbing the essence of a series of great powers to find a way to save the country and liberate the nation from the yoke of real imperialism. people and shine light on the future of Vietnam. Uncle Ho's precious work has helped us have a life today, the country of Vietnam gained independence. Not only that, there are many examples in the world. about absorbing and finding many mysteries on this earth. The mathematician Archimedes worked hard to find the answer to why objects can float on water, and Newton came up with the law of universal gravitation, helping humans. Know the effect of the earth's gravitational force.
Bài làm Trong cuộc sống hiện đại ngày nay, dường như ai cũng bận rộn với việc này việc kia mà không còn quan tâm đến những người xung quanh mình mà chỉ lo cho mình. Nhưng trong cuộc sống này, không một ai trong chúng ta có thể sống một mình. Giống như câu nói của Tố Hữu: “Sống là cho đâu chỉ nhận riêng mình”. Và đúng vậy, chúng ta cần phải biết sống và suy nghĩ cho người khác không chỉ riêng mình. Vậy câu “Sống là cho đâu chỉ nhận riêng mình” có nghĩa là gì? Đầu tiên ta có thể thấy được cặp từ trái nghĩa với nhau “cho-nhận”. “Cho” có nghĩa là cho đi,chia sẻ, tặng của mình cho người khác. Còn “nhận” là nhận lại những thứ xứng đáng với mình. Khi sống chúng ta phải biết cho đi mà không cần biết rằng là sau đó ta có nhận lại được hay không. Còn nếu chúng ta không biết cho đi mà “chỉ giữ riêng mình” thì sẽ không bao giờ nhận được bất cứ thứ gì. Đó là những gì Tố Hữu muốn nói cho mọi nguời biết qua câu: “Sống là cho đâu chỉ nhận riêng mình”. Nếu vậy thì tại sao chúng ta phải biết “sống là cho” mà không nên “giữ riêng mình”? Vì những người sống mà biết cho đi sẽ được mọi người yêu quý, kính trọng, tôn trọng mình. Ngoài ra, nếu chúng ta biết cho đi thì đến một ngày ta sẽ được nhận lại. Hơn nữa, việc cho đi sẽ giúp ta rèn luyện đạo đức và hoàn thiện bản thân hơn. Không những thế, nhờ việc đó ta có thể kết nối được mọi người thân thiết với nhau hơn. Ngược lại nếu chúng ta sống mà không biết cho đi mà chỉ giữ cho riêng mình, không biết chia sẻ với mọi người thì ta sẽ không được mọi người yêu mến, tôn trọng. Và tất nhiên những người không biết cho đi sẽ không được nhận lại bất cứ thứ gì hay điều gì. Những người biết cho đi, chia sẻ với mọi người luôn là là những người tốt bụng, thân thiện với mọi người. Họ lúc nào cũng được đối xử tốt, được mọi người tôn trọng. Họ luôn đi giúp đỡ, chia sẻ với mọi người. Giống như những anh chị tình nguyện viên “Mùa hè xanh” luôn giúp đỡ những em bé bất hạnh, những cụ già neo đơn và giúp đỡ những người nghèo khổ trong cuộc sống khó khăn này. Anh chị mang trái tim đầy yêu thương và nhiệt huyết để sưởi ấm những mảnh đời bất hạnh. Và điều đó cũng mang đến cho anh chị nhiều niềm vui và hạnh phúc, bởi “cái cho đi là cái còn ở lại”. Cũng như trên lớp, thầy cô cho chúng ta những kiến thức bài học hay, những kinh nghiệm cuộc sống giúp cho ta sau này được trưởng thành, nhận được nhiều thành quả trong cuộc sống. Tuy nhiên, ba mẹ của chúng ta là người cho đi nhiều nhất. Họ cho ta tất cả những điều chúng ta cần, cho ta tình yêu thương, một mái ấm, cho chúng ta những điều tốt nhất. Đó là những tấm gương mà ta nên noi theo, ta nên biết cho đi giống như họ. Tuy vậy, trong cuộc sống vẫn có những con người sống ích kỉ, không biết quan tâm, chia sẻ với mọi người. Họ chỉ biết sống cho mình mà không nghĩ đến những người xung quanh họ. Khi có người gặp khó khăn, họ không giúp đỡ, không cho họ sự an ủi mà còn trốn tránh, giả như không biết chuyện gì, họ thờ ơ với những thứ xung quanh quanh mình. Giống như các doanh nghiệp hiện nay chỉ quan tâm đến lợi nhuận mà không quan tâm đến chất lượng làm cho người tiêu dùng bị ngộ độc, bị nhiễm những hóa chất không tốt trong các sản phẩm làm cho cuộc sống của họ không bình thường như trước. Chính những con người đó chỉ giữ “cho riêng mình” lợi nhuận mà không “cho đi” những sản phẩm an toàn chất lượng cho người tiêu dùng. Những kẻ đó thật đó thật đáng phê phán.
Assignment In today's modern life, it seems that everyone is so busy with this and that that they no longer care about the people around them and only care about themselves. But in this life, none of us can live alone. Like To Huu's saying: "Living is about giving, not only receiving yourself." And yes, we need to know how to live and think for others, not just ourselves. So what does the phrase "Living is not about giving but only about receiving for yourself" mean? First we can see the pair of antonyms "give-receive". “Giving” means giving away, sharing, giving of oneself to others. And "receive" means to receive things that are worthy of you. When living, we must know how to give without knowing whether we will receive it back or not. If we don't know how to give and "just keep it to ourselves", we will never receive anything. That is what To Huu wants to tell everyone through the sentence: "Living is not about giving but only about yourself." If so, why do we have to know "to live is to give" and not "keep to ourselves"? Because those who live and know how to give will be loved, respected, and respected by everyone. In addition, if we know how to give, one day we will receive it back. Furthermore, giving will help us practice morality and improve ourselves. Not only that, thanks to that we can connect people more closely with each other. On the contrary, if we live without knowing how to give and just keep it for ourselves and do not know how to share with others, we will not be loved and respected by everyone. And of course those who do not know how to give will not receive anything or anything in return. People who know how to give and share with everyone are always kind and friendly to everyone. They are always treated well and respected by everyone. They always help and share with everyone. Like the "Green Summer" volunteers who always help unfortunate children, lonely elderly people and the poor in this difficult life. You have a heart full of love and enthusiasm to warm the lives of unfortunate people. And that also brings you a lot of joy and happiness, because "what you give is what remains." Just like in class, teachers give us good knowledge, lessons, and life experiences that help us grow up later and receive many achievements in life. However, our parents are the most giving people. They give us everything we need, give us love, a home, give us the best. Those are the examples that we should follow, we should know how to give like them. However, in life there are still people who are selfish and do not know how to care or share with others. They only know how to live for themselves without thinking about the people around them. When someone is in trouble, they don't help, don't give them comfort, but hide, pretend they don't know what's going on, and are indifferent to the things around them. Just like today's businesses only care about profits and don't care about quality, consumers are poisoned and contaminated with bad chemicals in their products, making their lives not as normal as they should be. before. Those people only keep profits "for themselves" without "giving away" safe and quality products to consumers. Those people are truly worthy of criticism.
Bài làm Cuôc sống luôn tồn tại hai mặt: tốt và xấu, đúng và sai, thiện và ác … Chúng không ngừng đối lập nhau, đấu tranh lẫn nhau. Thường thì cái tốt sẽ chiến thắng cái xấu, cái thiện sẽ chiến thắng cái ác. Trong nhiều quy luật đời sống, quy luật nhân quả bao trùm tất cả mọi quy luật. Quy luật này chi phối mọi hoạt động đời sống, có nhân ắt có quả. Trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam, điều đó đã được thể hiện qua nhiều tác phẩm, đặc biệt là truyện cổ tích “Tấm Cám”. Truyện không chỉ đem đến cho người đọc câu chuyện về những mâu thuẫn gia đình mà còn là mối quan hệ nhân – quả sâu sắc khiến chúng ta phải suy ngẫm. Vậy “nhân, quả” là gì? “Nhân” là nguyên nhân, cái gốc, cái cơ sở ban đầu, trước tiên. Hiểu rộng hơn, đó là cái mà người ta làm nên, gây ra. “Quả” là kết quả, cái đến sau, là hậu quả, là cái nhận được của những việc làm mà con người đã thực hiện. « Nhân quả » là mối quan hệ của nguyên nhân đưa đến kết quả tương ứng. Nếu « nhân » là hạt giống thì « quả » là mầm cây. Nếu « nhân » là mầm cây thì « quả » là sự đơm hoa kết trái. Nhân – quả là hai phạm trù có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, không thể tách rời nhau trong cuộc sống. Nếu ta gieo nhân lành ắt được quả lành, bằng ngược lại ta gieo nhân xấu, bất thiện tất phải nhận lấy kết quả bất hạnh khổ đau. Ngày xưa, mối quan hệ nhân – quả đã thể hiện rất rõ. Không biết từ bao giờ, con người Việt Nam, dân tộc Việt Nam đã biết đến tính chất nhân quả như một nếp sống đạo đức từ bên trong gia đình cho đến ngoài xã hội. Vả lại, giáo lý nhân quả lại rất phù hợp với bản chất con người Việt Nam, dân tộc Việt Nam, một dân tộc vốn hiền hòa dễ mến. Ông bà ta đã đúc kết thành những câu nói rất có giá trị để răn dạy con cháu như:”Ở hiền gặp lành”, “Ác giả ác báo”, “ Gieo gió gặt bão”v.v… Đúng như vậy, những người ở hiền sẽ gặp những điều may mắn, tốt đẹp. Cuộc sống của họ dù có phải trải qua sóng gió nhưng rồi sẽ bình an, hạnh phúc. Sự đáp đền dành cho họ thật xứng đáng. Còn ai ăn ở thất đức sẽ phải lãnh hậu quả khôn lường. Cái hạnh phúc mà họ chiếm được từ người khác thật mong manh như làn sương mỏng, sẽ mau tan loãng theo ánh mặt trời lên. Trong truyện “Tấm Cám”, Tấm là người hiền lành, chăm chỉ, tốt bụng, thật thà, biết yêu thương gia đình, lại còn rất hiếu thảo với Cha. Tuy phải trải qua thật nhiều cay đắng do mẹ con Cám gây ra nhưng cuối cùng, Tấm đã được đón nhận hạnh phúc trọn vẹn với nhà vua. Còn Cám và người Dì ghẻ kia, vì quá độc ác, tham lam, luôn đối xử tàn nhẫn với Tấm nên phải lãnh một cái chết bi thảm. Phải chăng kết thúc ấy gửi gắm thái độ, khát vọng của người bình dân xưa về luật nhân quả! Ngày nay, mối quan hệ giữa nhân – quả vẫn không thay đổi so với lúc trước. Tuy nhiên, cuộc sống con người đang bị cuốn hút bởi những dòng thác vật chất, của tiến bộ về khoa học kĩ thuật, sự phát triển không ngừng của công nghệ thông tin, sự chi phối quá lớn của đồng tiến, con người ta càng tỏ ra không mấy quan tâm đến qui luật này. Trong xã hội lúc này xuất hiện những quan điểm cho rằng con người có thể cải tạo thiên nhiên và buộc thiên nhiên quay lại phục vụ cho những nhu cầu của con người. Trước những quan điểm ấy, sự ảnh hưởng của triết lý nhân quả cũng vì thế mà giảm dần. Nhưng trên phương diện luân lý đạo đức của xã hội, luật nhân quả vẫn mãi là một quy tắc chuẩn mực mà con người không thể trốn chạy hay vượt qua. Dù con người có thành công đến đâu đi nữa thì vẫn không sao tránh khỏi những tác động âm thầm từ tính chất nhân quả. Bởi lẽ, chúng ta phải hiểu rằng tính nhân quả là một quy luật tất yếu trong vũ trụ. Có những người đâu biết rằng nếu họ ở ác, chỉ biết kiếm lợi cho mình mà bất chấp thủ đoạn hoặc sẵn sàng làm điều mình thích mặc cho người khác đau khổ, họ sẽ bị “quả báo nhãn tiền”. Bởi vì “tức nước vỡ bờ”, họ sẽ lãnh hậu quả là sự phản ứng của đối phương ngay sau đó là điều tất yếu. Vì họ mạnh có người khác mạnh hơn. Sau đó, ít nhiều họ bị cắn rứt lương tâm, bị mọi người xa lánh, chê cười. Cuộc sống của họ còn có nghĩa gì khi họ không mang lại cho người khác tiếng cười vui hạnh phúc mà chỉ là bất hạnh, khổ đau. Nặng hơn, họ bị pháp luật trừng trị. Tương lai họ rồi sẽ ra sao? Ngược lại, những người sống tốt sẽ được tin yêu, kính trọng, gặt hái được nhiều thành công trong cuộc sống. Thật đúng như câu nói “Cho đi là nhận lại”. Chắc hẳn ai cũng biết đến tấm gương yêu nước thương dân Nguyễn Đình Chiểu. Dù bị mù đôi mắt, cụ Đồ Chiểu vẫn hết lòng dạy học, bốc thuốc chữa bệnh cho nhân dân Nam Kỳ. Ngoài ra, cụ còn cùng với các sĩ phu bàn mưu tính kế đánh giặc. Nhân cách của cụ đẹp tựa trăng rằm. Vì thế cụ được nhân dân Nam Kỳ hết lòng kính yêu, ngưỡng mộ và còn lập nhà thờ riêng cho cụ ở Ba Tri – Bến Tre. Xã hội ngày một đi lên không đồng nghĩa với việc đạo đức của con người cũng đi lên. Cách đây vài năm, cả nước ta hoang mang, chấn động trước một vụ án kinh hoàng do Lê Văn Luyện gây ra. Tên tội phạm đã sát hại một gia đình rồi bỏ trốn. Hậu quả là hắn đã bị bắt và phải chịu sự trừng trị nghiêm minh của pháp luật, phải chôn vùi tuổi trẻ và tương lai của mình trong nhà tù với những tháng ngày dài đăng đẳng. Nói đến đây ta đã thấy luật nhân quả thật quá công bằng.
Assignment Life always has two sides: good and bad, right and wrong, good and evil... They are constantly opposing and fighting each other. Usually the good will overcome the bad, the good will overcome the evil. Among the many laws of life, the law of cause and effect covers all laws. This law governs all life activities, if there is a cause, there will be an effect. In the treasury of Vietnamese folk literature, that has been shown through many works, especially the fairy tale "Tam Cam". The story not only gives readers a story about family conflicts but also a profound cause-and-effect relationship that makes us ponder. So what is "cause and effect"? “Cause” is the cause, the root, the initial, first basis. More broadly, it is what people create and cause. "Result" is the result, what comes later, is the consequence, is what is received from the actions that people have performed. "Cause and effect" is the relationship of cause leading to corresponding result. If the "cause" is the seed, then the "fruit" is the sprout. If the "cause" is the sprout, then the "fruit" is the flowering. Cause and effect are two categories that are closely related to each other and cannot be separated in life. If we sow good causes, we will surely reap good results; otherwise, if we sow bad and unwholesome causes, we will surely receive unfortunate and painful results. In the past, the cause-and-effect relationship was shown very clearly. I don't know when, Vietnamese people and the Vietnamese people have known the nature of cause and effect as a moral way of life from within the family to outside society. Furthermore, the doctrine of cause and effect is very consistent with the nature of the Vietnamese people, the Vietnamese people, a gentle and lovable people. Our grandparents have compiled valuable sayings to teach their children and grandchildren such as: "Good will bring good", "Evil will be rewarded with evil", "Sow the wind and reap the storm", etc. That's right, the people in The gentle person will encounter lucky and good things. Even though their lives will go through turmoil, they will eventually be peaceful and happy. The reward for them is truly worthy. Anyone who acts impolitely will suffer unpredictable consequences. The happiness they gain from others is as fragile as a thin mist, and will quickly dissolve with the rising sun. In the story "Tam Cam", Tam is gentle, hardworking, kind, honest, knows how to love his family, and is also very filial to his Father. Although she had to go through a lot of bitterness caused by Cam and her children, in the end, Tam received complete happiness with the king. As for Cam and the other Stepmother, because they were too cruel, greedy, and always treated Tam cruelly, they had to suffer a tragic death. Does that ending convey the attitudes and aspirations of ancient common people about the law of cause and effect! Today, the relationship between cause and effect remains unchanged compared to before. However, human life is being attracted by material flows, scientific and technical progress, the continuous development of information technology, and the overwhelming influence of progress and people. showed little interest in this rule. In society at this time, there are views that people can improve nature and force nature to return to serve human needs. Faced with these views, the influence of the philosophy of cause and effect also gradually decreases. But in terms of the morality and ethics of society, the law of cause and effect is still a standard rule that people cannot escape or overcome. No matter how successful a person is, it is still impossible to avoid the silent effects of cause and effect. Because, we must understand that cause and effect is an inevitable law in the universe. There are people who do not know that if they are evil, only knowing how to profit for themselves but regardless of tricks or are willing to do what they like despite the suffering of others, they will suffer "retributions that can be seen". Because "when the water breaks the bank", they will suffer the consequences and the opponent's reaction immediately afterward is inevitable. Because they are strong, there are others who are stronger. After that, they more or less had a guilty conscience, were shunned and laughed at by everyone. What meaning does their life have when they don't bring others laughter and happiness but only unhappiness and suffering? More seriously, they are punished by the law. What will their future be like? On the contrary, people who live well will be trusted, loved, respected, and achieve many successes in life. It is true as the saying goes, "If you give, you will receive in return". Surely everyone knows the example of patriotism and love for the people of Nguyen Dinh Chieu. Even though he was blind, Mr. Do Chieu still devoted himself to teaching and giving medicine to the people of Cochinchina. In addition, he and the scholars also discussed plans to fight the enemy. His personality is as beautiful as the full moon. Therefore, he was deeply loved and admired by the people of Cochinchina and even built a separate church for him in Ba Tri - Ben Tre. Society's progress does not mean that people's morality is also improving. A few years ago, our whole country was confused and shocked by a horrifying case committed by Le Van Luyen. The criminal murdered a family and then fled. As a result, he was arrested and subjected to strict punishment by the law, having to bury his youth and future in prison for many long days. Having said this, we have seen that the law of cause and effect is very fair.
Bài làm Truyện An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thủy được trích từ truyện “Rùa Vàng” ra đời vào cuối thế kỉ XV. Truyện được truyền qua lời kể của nhiều thế hệ. Tuy là truyền thuyết nhưng cũng đã thể hiện lên tâm lòng, tinh thần yêu nước của dân tộc ta. “Truyện An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thủy” là một trong những truyền thuyết thấm đượm tinh thần nhân văn, thể hiện sâu sắc tấm lòng nhân đạo của các tác giả dân gian. Nhưng vào đoạn cuối của của truyện, vua An Dương Vương đã tự rút gươm chém đầu con gái duy nhất của mình vì dám phản nước, đặt trái tim lên đầu. Vậy vì sao nhân dân ta lại xây dựng am thờ 2 cha con ngay cạnh nhau?==>1.0 Vua An Dương Vương xây thành ở đất Việt Thường nhưng xây đến đâu thì lở đến đó. Nhờ sự giúp đỡ của Rùa Thần nên không bao lâu thành xây xong. Trước khi ra về Rùa Thần đã thào vuốt đưa cho nhà vua để làm nỏ thần bảo vệ Loa Thành và đất nước. Không lâu sau thì quân Đà kéo sang xâm chiếm nhưng thất bại rất nặng nề. Sau chiến thắng, quân Đà đầu hàng và làm hòa với vua An Dương Vương nhằm cho hoàng tử của nước Triệu Đà tức Trọng Thủy lấy công chúa Mị Châu. Vì quá tin tưởng chồng nên đã làm mất nỏ thần dẫn đến mất nước, vua An Dương Vương đã tự tay chém đầu con gái mình rồi cùng Thần Rùa xuống biển.(1.0/1.5) Tấm lòng nhân đạo của dân tộc ta trong câu chuyện được thể hiện qua phản ánh lịch sử thông qua những hình tượng nghệ thuật đặc sắc, nhiều chi tiết thần kì mà vẫn thấm đẫm cảm xúc đời thường. Truyền thuyết truyện An Dương Vương và Mị Châu-Trọng Thủy chỉ xoay quanh có ba nhân vật chính là vua An Dương Vương, cô con gái Mị Châu và Trọng Thủy là chồng cô nhưng mỗi hành động cử chỉ của mỗi nhân vật cũng đã xây và hình thành một cốt truyện hết sức độc đáo. Đối với nhân dân ta, vua An Dương Vương là một vị anh hùng, là một trong những vị vua có công đầu trong việc xây dựng và bảo vệ đất nước. Tác giả đã đưa vào truyện những thế lực kì ảo để nhằm đề cao tính chất đúng đắn của việc xây thành đắp lũy. Như ta đã thấy, hành động xây thành của nhà vua luôn được nhân dân và các yếu tố kì ảo đó chấp nhận và đồng tình ủng hộ cho thấy vua An Dương Vương là người có công xây dựng nước nhà và sự cảm thông của nhân dân cả nước đối với ông. Cho nên ADV vẫn được lập đền thờ để ghi nhận công lao của ADV đã xây thành, chế nỏ, giữ nước. ==> 2.0/2.5
Assignment The story of An Duong Vuong and My Chau - Trong Thuy is taken from the story "Golden Turtle" published at the end of the 15th century. The story is passed down through many generations. Although it is a legend, it also represents the heart and patriotic spirit of our nation. "The Tale of An Duong Vuong and My Chau - Trong Thuy" is one of the legends imbued with the spirit of humanity, deeply expressing the humanity of folk authors. But at the end of the story, King An Duong Vuong drew his sword and beheaded his only daughter for daring to betray the country and put her heart before her head. So why did our people build a shrine to worship father and son right next to each other?==>1.0 King An Duong Vuong built a citadel in Viet Thuong land, but wherever he built it, it collapsed. Thanks to the help of the Turtle God, the citadel was soon completed. Before leaving, the Turtle God whispered and gave it to the king to make a magic crossbow to protect Loa Thanh and the country. Not long after, the Da army invaded but failed very severely. After the victory, the Da army surrendered and made peace with King An Duong Vuong so that the prince of Trieu Da, Trong Thuy, could marry Princess My Chau. Because he trusted his husband too much, he lost his magic crossbow, leading to the loss of his country. King An Duong Vuong personally beheaded his daughter and then went into the sea with the Turtle God.(1.0/1.5) The humanitarian heart of our nation in the story is expressed through historical reflection through unique artistic images, with many magical details while still imbued with everyday emotions. The legend of the story An Duong Vuong and My Chau-Trhong Thuy only revolves around three main characters, King An Duong Vuong, her daughter Mi Chau and Trong Thuy, her husband, but each action and gesture of each character also builds a story. and formed a very unique plot. For our people, King An Duong Vuong is a hero, one of the kings with the first contributions in building and protecting the country. The author has introduced magical forces into the story to highlight the correct nature of building ramparts. As we have seen, the king's action of building the citadel was always accepted and supported by the people, and those magical elements showed that King An Duong Vuong was instrumental in building the country and had the sympathy of the people. people of the whole country towards him. Therefore, ADV still had a temple built to recognize ADV's merits in building citadels, making crossbows, and defending the country. ==> 2.0/2.5
Bài làm Mỗi con người chúng ta muốn trở nên thành đạt, muốn làm một công dân tốt đi xây dựng đất nước thì ta phải có một nền tảng kiến thức, nhưng trước khi tiếp thu những tinh hoa đó thì điều đầu tiên ta cần chính là một tư chất tốt. Và để có được tư chất đó, chúng ta cần phải tự rèn luyện đạo đức của bản thân và đó cũng chính là bài học ông cha đã để lại cho chúng ta “Tiên học lễ, hậu học văn”. Câu tục ngữ là một bài học đạo lí làm người mà người xưa muốn giáo dục chúng ta. “Tiên” là ưu tiên, điều quan trọng nhất. “Lễ” ở đây là lễ nghĩa, là những phép tắc, quy định, những bài học đạo đức chuẩn mực trong việc đối nhân xử thế. “Hậu” là sau cùng, điều ít quan trọng hơn. Còn “Văn” là những bài học kiến thức, kinh nghiệm mà chúng ta tích lũy được nhờ sách vở, thầy cô, bạn bè. Từ đó, điều mà ông cha ta muốn truyền đạt chính là con người phải biết rèn luyện tư cách đạo đức trước khi rèn luyện kiến thức, kĩ năng sống.
Assignment Each of us wants to become successful, want to be a good citizen and build the country, we must have a foundation of knowledge, but before absorbing those quintessence, the first thing we need is a good character. And to have that quality, we need to practice our own morality and that is also the lesson our ancestors left us: "First learn etiquette, then learn literature". The proverb is a moral lesson that the ancients wanted to educate us. “Fairy” is the priority, the most important thing. "Etiquette" here is decency, rules, regulations, and standard moral lessons in dealing with people. “After” is the last thing, the less important thing. "Literature" is the lessons of knowledge and experience that we accumulate thanks to books, teachers, and friends. From there, what our ancestors wanted to convey is that people must practice their moral character before practicing knowledge and life skills.
Bài làm Nguyễn Trãi từ lâu cũng đã được biết đến chính là một bậc thi ca của văn học Việt Nam. Có thể nhận thấy được cuộc đời ông sống giao cảm với thơ với cuộc sống thiên nhiên và cả con người nữa. Cuộc sống quan trường làm cho ông nghẹt thở bởi ở đó có biết bao nhiêu toan tính và sự chèn ép cho nên ông quyết định về ở ẩn. Sống hòa hợp với thiên nhiên và trong lúc đó ông sáng tác ra bài thơ “Cảnh ngày hè”. Không khó để có thể nhận ra được trước hết là câu thơ đầu thể hiện tâm trạng của nhà thơ Nguyễn Trãi chính trong những ngày hè, nhưng ngày về cáo quan ở ẩn đó là câu thơ: Rồi hóng mát thuở ngày trường Sử dụng ngay ở trong câu thơ đầu có từ “Rồi” dường như đã lại thể hiện một tâm trạng rảnh rỗi của nhà thơ Nguyễn Trãi khi ông về ở ẩn. Nơi thôn quê cũng chính là một nơi không có sự bon chen đố kị cũng lại chẳng có những sự chèn ép của những ninh thần. Độc giả như thắc mắc được tại sao Nguyễn Trãi lại không nói là rỗi mà lại là “rồi”? Bởi chúng ta cũng biết được rằng chính vì từ rỗi là sau này mới có, tất cả dường như lại mang tính chất hiện đại hơn rất nhiều và đây cũng chính là lý do mà tác giả dùng từ “Rồi’. Nguyễn Trãi cũng đã lại cáo quan về với thiên nhiên làng cảnh Việt nam và trong lúc này đây nhà thơ dường như cũng đã cảm nhận thấy được một sự thoải mái và được thanh lọc về tâm hồn. Không dừng lại ở đó thì tác giả Nguyễn Trãi cũng đã lại có thời gian để hóng mát cả ngày. Người đọc cũng có thể nhận thấy được những câu thơ tiếp theo nhà thơ vẽ lên một bức tranh cảnh ngày hè trông mới tươi tắn và vô cùng rực rỡ. Chính cái bức tranh thiên nhiên của mùa hè ấy cũng không chỉ có thiên nhiên mà còn có cả con người nữa. Hòe lục đùn đùn tán rợp giương. Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ, Hồng liên trì đã tiễn mùi hương. Hình ảnh thiên nhiên đó mới đẹp làm sao, đó chính là cây hoa hòe tán rộng tỏa bóng mát ra khắp đầu tường trông cũng thật nổi bật. Không dừng lại ở đó mà nhà thơ cũng đã như phác họa và vẽ thêm những bông hoa thạch lựu như đứng trước hiên nhà lại có được một màu đỏ rực rỡ như các ánh nắng chói chang của mùa hạ. Khi cứ nhắc đến quê hương thì ta nhận thấy được ở hồ sen như cũng mang được cả hương, cả sắc nữa. Tất cả đã tạo lên một sự tuyệt vời biết bao nhiêu. Phân tích bài thơ Cảnh Ngày Hè của Nguyễn Trãi lớp 10 Cảnh vật như còn vô cùng đó chính là cây hoa hòe dường như “đùn đùn”, cây thạch lựu thì lại phun ra sắc đỏ, loài hoa sen lại tiễn mùi hương. Thực sự ta nhận thấy được chính mùa hạ quả đúng là mùa của sinh trưởng cho những loại cây cối. Ta nhận thấy được cũng chính sức sống ấy dường mạnh mẽ khi Nguyễn Trãi cũng đã sử dụng các động từ mạnh kia để nói lên được sức sống của mùa hè thật mãnh liệt và luôn giàu sức sống. Trên nền của bức tranh ấy còn có cả những cuộc sống sinh hoạt của con người thôn quê. Thật vậy, ta nhận thấy được bức tranh thiên nhiên vốn cũng đã đẹp thế nhưng nó lại vô cùng đẹp hơn khi xuất hiện được những hoạt động sống của con người: Lao xao chợ cá làng ngư phủ, Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương. Dễ dàng nhận thấy được chính từ láy “lao xao” được Nguyễn Trãi thể hiện trong câu thơ khiến cho độc giả chúng ta nhận thấy được những điều vui tươi, nhân dân vô cùng no đủ bởi khi nhìn thấy được các buổi chợ đông đúc. Có thể cảm nhận thấy được chính cái âm thanh ấy dường như cũng đã cứ tác động đến tâm hồn người nghệ sĩ. Mùa hè có cả những tiếng vê vang vang và người dân quê thì có cuộc sống đông đúc vui tươi còn chốn lầu son gác tía cũng không hề tịch mịch lắm mà được đánh thức bởi tiếng ve kêu inh ỏi. Khi mà đứng trước những thiên nhiên cảnh vật mùa hè thì lúc này đây con người nhà thơ Nguyễn Trãi dường như cũng đã được thể hiện những ước nguyện của mình. Nhà thơ thật và như giãi bày ra cái tấm lòng của mình: Rẽ có Ngu cầm đàn một tiếng, Dân giàu đủ khắp đòi phương
Assignment Nguyen Trai has long been known as a poet of Vietnamese literature. It can be seen that his life was in harmony with poetry, natural life and human life. Official life made him suffocate because there were so many calculations and oppression, so he decided to go into hiding. Lived in harmony with nature and during that time he composed the poem "Summer Day Scene". It is not difficult to recognize that first of all, the first verse expresses the mood of poet Nguyen Trai during the summer days, but on the day he returned to the mandarin in hiding, it is the verse: Then enjoy the fresh air of school days Using the word "Then" right in the first verse seems to show the free mood of poet Nguyen Trai when he went into hiding. The countryside is also a place where there is no jostling and jealousy nor the oppression of security forces. Readers seem to wonder why Nguyen Trai did not say free but "already"? Because we also know that because the word idle was a later creation, everything seems to be much more modern and this is also the reason why the author used the word 'Then'. Nguyen Trai also returned to the nature of the Vietnamese village and at this time the poet also seemed to feel a sense of comfort and spiritual purification. Not stopping there, author Nguyen Trai also had time to enjoy the cool air all day. Readers can also see that in the next verses the poet paints a picture of a summer day that looks fresh and extremely brilliant. The natural picture of that summer includes not only nature but also people. Green flowers spread out and spread out. Pomegranate jelly still sprays red, Red lotus has sent away the scent. That image of nature is so beautiful, that is the spreading flowering tree that spreads shade all over the wall and looks really outstanding. Not stopping there, the poet also sketched and painted pomegranate flowers as if they were standing on the front porch and had a brilliant red color like the bright sunlight of summer. When we talk about our homeland, we realize that the lotus pond also carries fragrance and color. What a wonderful thing it all created. Analyze the poem Summer Day Scene by Nguyen Trai, grade 10 The landscape seems to be infinite, the flower tree seems to be "extruding", the pomegranate tree is spraying red color, the lotus flower is sending off its scent. In fact, we realize that summer is truly the season of growth for plants. We can see that the same vitality seems strong when Nguyen Trai also used those strong verbs to express that the vitality of summer is strong and always rich in vitality. In the background of that picture there are also the daily lives of rural people. Indeed, we realize that the picture of nature is inherently beautiful, but it is infinitely more beautiful when human activities appear: The bustling fish market in the fishermen's village, Carefully holding the cicadas on the floor of the Yangtze floor. It is easy to see that it is the word "stirring" expressed by Nguyen Trai in the poem that makes our readers realize the joyful things, the people are extremely full because when they see the crowded markets. . It can be felt that the sound itself seems to have had an impact on the artist's soul. In the summer there are resounding sounds of cicadas and the countryside people have a crowded and cheerful life, while the high-rise buildings are not very lonely but are awakened by the loud sound of cicadas. When standing in front of the natural landscapes of summer, at this time the poet Nguyen Trai seems to have expressed his wishes. The poet truly and seemingly confides his heart: At the turn, Ngu played the guitar for a while, Rich people everywhere demand direction
Bài làm Thi phẩm đặc sắc “Cảnh ngày hè” được biết đến trước hết là một cảnh tượng thiên nhiên mùa hè vô cùng rực rỡ và rộn rã. Và nếu ta như nhận thấy được rằng đây là một bức tranh được vẽ bằng ngôn từ vô cùng độc đáo và tươi đẹp biết bao nhiêu của Nguyễn Trãi. Không chỉ thế thì bức tranh thiên nhiên mùa hè cũng đã lại mang được bao nhiêu nỗi lòng, tâm trạng của thi nhân. Ngay từ đầu bài thơ ta nhận ra được chính với hai câu đề, với những nét bút đầu tiên của tác giả Nguyễn Trãi dường như cũng đã đưa ngay cái không khí hè đến với người đọc khiến cũng thật rạo rực đúng với không khí của mùa hè. Rồi hóng mát thuở ngày trường Hòe lục đùn đùn tán rợp giương Người đọc cũng nhận thấy được cảnh ngày hè mà tác giả Nguyễn Trãi như tô vẽ lên, thể hiện ra với một tâm thế với một thời gian, một không gian tưởng chừng như ăn nhập với nhau. Sử dụng ngôn từ giàu sức mở đó chính là “Rồi hóng mát” dường như cũng đã gợi ra hình ảnh đó chính là bóng dáng một ức Trai trong dịp nhàn rỗi đang hóng mát ngày hè. Nhưng đâu đó ta thấy được ẩn lấp trong câu thơ dường như lại không phải chỉ nói chuyện thời gian mà nó lại mang được một chiều sâu tâm lý nếu như ta đạt tác phẩm trong hoàn cảnh sáng tác cũng như nhân vật trữ tình ở đây. Nguyễn Trãi là một người làm quan luôn lo lắng vận mệnh đất nước mà nay lại về ngày rỗi hẳn một ngày trường sao? Chúng ta cùng nhau đi tiếp câu thơ tiếp Hòe lục đùn đùn tán rợp giương Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ Hồng liên tri đã tiễn mùi hương Các câu thơ gợi ra được bức tranh mùa hè đầy màu sắc vô cùng tươi tắn biết bao nhiêu được nhìn quan lăng kính độc đáo của tác giả Nguyễn Trãi. Ta có thể nhận thấy được trật tự không gian trải từ cao xuống thấp, đó chính là phần điểm nhìn của thi sĩ lúc này đây dường như cũng đã lại di chuyển từ tầng không qua hiên nhà rồi xuống ao sen. Và cho dù là ở tầng nào của thiên nhiên đi chăng nữa người đọc cũng nhận thấy được thiên nhiên luôn luôn căng tràn sức sống đến mãnh liệt biết bao nhiêu. Thiên nhiên như xao động, ta nhận thấy được màu xanh lục lá hòe thì “đùn đùn” đã được cuộn lên từng khôi biếc thông qua các hình ảnh như tán hòe thì “rợp giương” trông không khác gì chiếc lọng vậy. Đã thế hoa lựu cũng đỏ nổi bật một góc trời trông như một đốm lửa vậy. Ngoài ao sen xanh thì cũng đã có nhưng bông hoa thơm ngát lan tỏa. Tất cả như khiến cho bức tranh thiên nhiên cảnh ngày hè thêm sống động hơn rất nhiều. Phân tích bài thơ Cảnh Ngày Hè của nhà thơ Nguyễn Trãi Nguyễn Trãi cũng thật tài tình biết bao nhiêu khi miêu tả rất ăn nhập với thiên nhiên rực rỡ của mùa hè thì lại là một đời sống rộn rã. Người đọc cũng nhận thấy bức tranh ngày hè toàn thịnh bản thân nó cũng đã đầy màu sắc giờ lại tràn ngập cả âm thanh: Lao xao chợ cá làng ngư phủ Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương Không thể phủ nhận được hình ảnh của chợ là một hình ảnh vô cùng điển hình của cuộc sống này. Nếu như chợ đông đúc chính là báo hiệu của một cuộc sống no đủ và ngược lại. Mùa hè đến có tiếng ve kêu nhưng ta lại nhận thấy được cái không khí “lao xao” của chợ cá kia đã bị xua tan bởi nhạc ve inh ỏi. Ta thấy được từ làng ngư phủ của dân nghèo cho đến lầu son gác tía của người lớp trên thì đâu đâu cũng vui tươi hết và tác giả ước mong: Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng Dân giàu đủ khắp đòi phương
Assignment The unique poem "Summer Day Scene" is known first and foremost as an extremely brilliant and bustling summer natural scene. And if we realize that this is a picture painted with extremely unique and beautiful words by Nguyen Trai. Not only that, the picture of summer nature also brought back many of the poet's feelings and moods. Right from the beginning of the poem, we realize that with the two sentences, the first strokes of author Nguyen Trai's pen seem to have immediately brought the summer atmosphere to the reader, making it very exciting, exactly like the atmosphere of the poem. summer. Then enjoy the fresh air of school days Green flowers spread out and spread out Readers can also see the summer day scene that author Nguyen Trai seems to paint, expressing with a mind and a time and a space that seem to fit together. Using the powerful language "Then take a breather" also seems to suggest the image of a million Trai in their leisure time enjoying the cool summer day. But somewhere we see that hidden in the poem, it seems that it is not just about time, but it also carries a psychological depth if we consider the work in the context of its composition as well as the lyrical character here. . Nguyen Trai is a mandarin who always worries about the fate of the country, but now he has a free day? Let's continue the next verse together Green flowers spread out and spread out Pomegranate jelly still sprays red Red lotus tri has sent away the scent The verses evoke an extremely bright, colorful picture of summer seen through the unique lens of author Nguyen Trai. We can see the spatial order stretching from high to low, which is the poet's point of view which now seems to have moved from the ground floor to the porch and down to the lotus pond. And no matter what level of nature, readers can see how nature is always full of vitality. Nature seems to be agitated, we notice that the green color of the "extrusion" leaves has been rolled up in layers through images such as the "roaming" canopy, looking no different from a parasol. Moreover, pomegranate flowers also stand out in a corner of the sky, looking like a spot of fire. In addition to the green lotus pond, there are also fragrant flowers spreading. It all seems to make the natural picture of a summer day much more vivid. Analysis of the poem Summer Day Scene by poet Nguyen Trai Nguyen Trai is also very talented in describing what is a bustling life in harmony with the brilliant nature of summer. Readers also notice that the picture of a prosperous summer day, which itself is already full of color, is now filled with sound: Bustling the fish market in the fishermen's village Carefully holding the cicadas on the floor of the Yangtze floor It cannot be denied that the image of the market is an extremely typical image of this life. If the market is crowded, it is a sign of a full life and vice versa. When summer comes, there is the sound of cicadas chirping, but we realize that the "chaotic" atmosphere of the fish market has been dispelled by the loud music of cicadas. We can see that from the fishermen's village of the poor to the purple mansions of the upper class, everywhere is cheerful and the author wishes: There will be Ngu playing the guitar for a while Rich people everywhere demand direction
Bài làm Trong đoạn trích Chiến thắng Mtao – Mxây thì hình ảnh của nhân vật Đăm Săn hiện lên với sự tài năng, sự dũng cảm và sức mạnh phi thường, vô địch đã là một trong những đoạn trích hay nhất của Sử thi Đăm – Săn. Đoạn trích đã nói lên được vẻ đẹp, sự phí phách của những người anh hùng Đăm Săn trong chiến thắng được biết bao nhiêu kẻ thù hung hãn nhất. Lý do để xảy ra cuộc chiến với Mtao – Mxây đó chính là Mtao- Mxây đã cướp Hơ-nhí – vợ của Đam Săn. Bởi người Ê-Đê thì họ lại theo chế độ mẫu hệ, chính vì thế mà việc bị kẻ thù cướp mất vợ là một nỗi sỉ nhục lớn nhất của cả cộng đồng. Chiến thắng Mtao – Mxây chính là lần thứ hai Đam Săn liên tiếp phải chiến đấu với kẻ thù để giành lại người vợ của mình. Thông qua đoạn trích người đọc cũng đã nhận thấy được rằng Đăm – Săn có được một sự hùng mạnh của người anh hùng Đăm Săn. Đó chính là lúc mà chàng phải đối mặt với kẻ thù hung bạo và đồng thời cũng lại có được một sức mạnh phi thường không kém ai cả. Thế rồi cũng có hàng loạt những hình ảnh so sánh trong đoạn trích này như cũng đã chỉ rõ một sự tương phản, đối lập giữa Đam Săn với kẻ thù. Trong đoạn trích cũng đã làm nổi bật lên sự hào hùng của chàng, đồng thời cũng đã làm nổi bật sự thảm hại của Mtao – Mxây. Có thể nói rằng đây là đoạn trích mà đã khéo léo tôn vinh vẻ đẹp người anh hùng Đăm Săn. Người đọc cũng có thể phát hiện được vẻ đẹp của Đăm Săn hiện rõ ngay từ khi chàng bước chân vào chính lãnh địa của Mtao – Mxây. Hình ảnh người tù trưởng Sắt cũng thật hung bạo, cho dù là kiêu căng ngạo mạn cũng luôn phải dè chừng sự hiện diện của Đăm Săn. Lúc này đây thì hình ảnh Đam Săn cùng những bạn bè đồng minh của chàng lại được hiện lên dưới mắt kẻ thù thật dũng mãnh, sức mạnh vô địch. Không những vậy hình ảnh của Đăm Săn và những người bạn đồng minh hiện ra với khố màu sặc sỡ, đầu đội khăn đẹp hơn hết cũng chính là có được một khí thế hừng hực mà trong sử thi cũng nêu ra và gợi tả “Gươm sáng như mặt trời. Thân mình ở trần như quả dưa, ở thế chờ sẵn như con sóc. Mắt sáng gấp đôi gấp ba mắt thường”. Qủa thực, chính hình ảnh so sánh thật tiêu biểu và cũng thật đặc trưng đã làm đậm nét phi thường của người anh hùng người Ê – đê. Người đọc nhận thấy được cũng chính tư thế ấy lại gắn liền hành động thách thức chặt ống tre thành ba khúc, tất cả như cứ xô đổ hàng rào hàm chứa sức mạnh tuyệt luân của chàng. Thế rồi cho đến khi giáp chiến cùng Đăm Săn thì cũng cứ tỏ ra được một sức mạnh khiến kẻ thù phải khiếp sợ. Không dừng lại ở đó người ta nhận thấy được chính lời nói của chàng dường như cũng đã lại bộc lộ ra được một sự hèn nhát và có phần sợ hãi “đừng đâm ta lúc ta đang xuống nhé”. Khi đáp lại Đăm Săn đã bộc lộ sự khinh bỉ tên kẻ thù bằng chính một tư thế đàng hoàng của mình mà trả lời thẳng thừng rằng: “Tao không thèm đâm mày trước lúc mày xuống! Ngay con heo nái nhà mày tao cũng có thèm chém đâu!”. Phân tích nhân vật Đăm Săn trong Chiến thắng Mtao – Mxây Người đọc cũng có thể cảm nhận thấy được muộc đối đầu của Đam Săn Mtao – Mxây được diễn ra giữa hai tù trưởng dũng mãnh nhất. Thông qua đây thì phẩm chất anh hùng cũng như bộc lộ theo cách nhìn sử thi là ở sự chiến thắng bằng sức mạnh và sự can đảm nhất của người thủ lĩnh. Có lẽ rằng cũng chính một cuộc đối đầu sinh tử ấy dường như cũng không bao giờ có chỗ dung thân cho kẻ nào hèn nhát hơn. Thực sự cũng có thể nhận thấy được chính trong tình cảm tôn vinh người anh hùng của buôn làng, thì mọi cử chỉ, ngôn ngữ, hành động của người anh hùng Đăm Săn đều nổi bật hơn hết, dũng mãnh hơn và luôn vượt trội hơn kẻ thù. Có thể nhận thấy được sức mạnh Đăm Săn có được còn nhờ sự trợ lực của người vợ thân yêu của mình là Hơ-nhí khi nàng cũng nhanh chóng ném trầu và thuốc cho chàng để sức lực tăng lên gấp bội để có thể chiến thắng kẻ thù. Xây dựng lên nhân vật người anh hùng không hề đơn độc trong cuộc chiến vì danh dự này. Bởi vì chính nghĩa thuộc về Đăm Săn khi các tù trưởng bạn hùng mạnh giúp cho chàng giành lại người vợ của mình. Đăm săn lại còn nhận được sự trợ giúp cho ông trời, của các thế lực siêu nhiên để giúp cho chàng có được chiến thắng tuyệt đối khiến cho người ta phải nể phục. Nhân vật Đăm săn luôn được nhìn nhận với quy mô sử thi chính vì thế mà chàng luôn hiện thân là một người anh hùng quyền uy và nhận được sự giúp đỡ của mọi người của siêu nhiên nữa.
Assignment In the excerpt of the Mtao – Mxay Victory, the image of the character Dam San appears with talent, courage and extraordinary, invincible strength, which is one of the best excerpts of the Dam – Hunt epic. The excerpt conveys the beauty and wastefulness of the Dam San heroes in defeating so many of the most ferocious enemies. The reason for the war with Mtao - Mxay was that Mtao - Mxay stole Ho-nh - Dam San's wife. Because the Ede people follow a matrilineal system, that's why having one's wife stolen by an enemy is the biggest humiliation for the whole community. The Mtao – Mxay victory was the second time Dam San continuously had to fight the enemy to regain his wife. Through the excerpt, the reader also realized that Dam - Hunt has the power of the hero Dam San. That was when he had to face a violent enemy and at the same time had an extraordinary power no less than anyone else. Then there are also a series of comparative images in this excerpt that also clearly show a contrast and opposition between Dam San and the enemy. The excerpt also highlights his heroism, while also highlighting the patheticness of Mtao - Mxay. It can be said that this is an excerpt that cleverly honors the beauty of the hero Dam San. Readers can also discover that the beauty of Dam San is evident from the moment he steps into the territory of Mtao - Mxay. The image of the Iron Chief is also very violent, even if he is arrogant and arrogant, he must always be wary of Dam San's presence. At this time, the image of Dam San and his friends and allies appeared before the eyes of the enemy with great courage and invincible strength. Not only that, the image of Dam San and his allies appearing with colorful loincloths and beautiful head scarves is also a sign of a fiery spirit that the epic also states and describes as "Sword". bright like the sun. My body is naked like a melon, waiting like a squirrel. The eyes are twice as bright as normal eyes." Indeed, it is the typical and unique comparison image that highlights the extraordinary features of the Ede hero. The reader realizes that the same pose is associated with the act of defiantly cutting the bamboo pipe into three pieces, all of which seem to knock down the fence containing his absolute strength. Then, even when he fought with Dam San, he continued to show a strength that made the enemy afraid. Not stopping there, people noticed that his own words seemed to reveal his cowardice and fear, "don't stab me while I'm down." When responding to Dam San, he expressed his contempt for the enemy with his own dignified posture and answered bluntly: "I don't want to stab you before you get down!" I don't even want to cut your sow!" Analysis of the character Dam San in the Mtao – Mxay Victory Readers can also feel the confrontation of Dam San Mtao – Mxay taking place between the two most powerful chiefs. Through this, heroic qualities are also revealed in an epic perspective in the leader's victory with the greatest strength and courage. Perhaps that same life-and-death confrontation never seems to have room for anyone who is more cowardly. In fact, it can be seen that in the village's feelings of honoring the hero, every gesture, language, and action of the hero Dam San is the most outstanding, braver, and always superior. than the enemy. It can be seen that Dam San's strength is also thanks to the support of his beloved wife Ho-nhi when she also quickly threw betel and medicine to him to increase his strength to be able to win. enemy. Build the character of a hero who is not alone in this fight for honor. Because justice belonged to Dam San when his powerful chiefs helped him regain his wife. He hunted and received help from God and supernatural forces to help him achieve an absolute victory that made people admire him. The character Dam Hunt is always seen on an epic scale, that's why he always appears as a powerful hero and receives help from supernatural people.
Bài làm Truyện cổ tích Tấm Cám là một trong những truyện cổ tích quen thuộc đối với mỗi người dân Việt Nam ta từ thuở trong nôi. Trong truyện thì hình ảnh cô Tấm được xây dựng lên là một nhân vật chịu nhiều thiệt thòi và có biết bao nhiêu bất hạnh thế nhưng cô lại luôn gặp được sự giúp đỡ và cô Tấm cũng đã đấu tranh không khoan nhượng để có thể dành được hạnh phúc về cho mình. Người đọc cũng có thể nhận thấy được nhân vật Tấm dường như cũng đã hiện lên với nhiều phẩm chất tốt đẹp khiến ai ai cũng yêu thương cô. Đầu tiên Tấm được nhắc đến là một cô gái thật chăm chỉ, thảo hiền, Tấm cũng đã mồ côi cả cha và mẹ, từ nhỏ chính anh cũng đã thiếu thốn tình yêu thương của cha và mẹ. Tác giả dân gian cũng đã xây dựng nhân vật Tấm là cô gái chăm chỉ, hiền lành tất cả mọi việc trong nhà đều một tay cô làm hết và làm cũng đâu vào đó. Các công việc như “hết chăn trâu gánh nước, đến thái khoai, vớt bèo đã thế đêm đêm lại còn xay lúa giã gạo”. Dì ghẻ nói cho Tấm và Cám đi bắt tép, ai bắt được đầy giỏ thì cũng sẽ tặng cho người đó một cái yếm đó. Cuộc mâu thuẫn có lẽ bắt đầu từ chính một sự trao giải thưởng khá công bằng này. Tấm vì chăm chỉ cho nên cô nhanh chóng bắt được đây giỏ tép, còn Cám ham chơi nên đã lừa Tấm để đổ hết phần tép của Tấm sang giỏ của mình và về nhận yếm đỏ. Cô Tấm hiền lành cũng chỉ biết khóc mà thôi. Có bụt hiện lên và giúp Tấm, Tấm nghe lời bụt lấy con cá bống ở trong giỏ còn sót lại về nuôi. Nhưng bống cũng bị mẹ con Cám bắt mất, đã thế muốn đi hội cũng phải nhặt phân loại đỗ và gạo ra với nhau. Khi đã thành hoàng hậu thì cô cũng không quên ngày giỗ cha và leo lên cây cau hái,… mẹ con Cám hai Tấm hết lần này đến lần khác thế những Tấm chỉ biết cam chịu mà thôi. Phân tích nhân vật Tấm trong truyện cổ tích Tấm Cám Hình ảnh cô Tấm cũng chính là người mang trong mình những phẩm chất tốt đẹp, chính vì thế nên khi gặp những khó khăn, Tấm luôn luôn được Bụt hiện lên và được nhận những giúp đỡ của Bụt. Cái lần đầu chính là đền bù phần thưởng bằng chú cá bống. Tiếp theo bụt cũng chính là người mà giúp Tấm có quần áo đẹp đi hội. Nhân vật Tấm cũng thật hiền lành biết bao nhiêu bởi là người hiền lành, nên nhất định Tấm sẽ có kết cục hạnh phúc. Có lẽ chính bởi vậy khi đi qua chỗ lội nàng đánh rơi giày xuống nước mà nhà vua nhặt được chiếc giày xinh xắn, ban lệnh ướm thử thì cô Tấm thử vừa như in và trở thành hoàng hậu. Tấm cho dù có bất hạnh như thế nào đi chăng nữa, bao nhiêu thế lực hãm hại như vậy thì cô cũng cứ luốn luôn cố gắng vươn lên và nhận được những kết cục vô cùng tốt đẹp. Nhân vật Tấm tuy đã là hoàng hậu nhưng vẫn là một cô gái hiếu thảo vì thông qua chi tiết khi nàng trở thành hoàng hậu rồi mà cũng vẫn về nhà và leo lên cây cau hái cau để thắp hương cho cha.
Assignment The fairy tale Tam Cam is one of the familiar fairy tales to every Vietnamese person since the cradle. In the story, the image of Ms. Tam is built up as a character who suffers many disadvantages and has many misfortunes, but she always finds help and Ms. Tam also fights uncompromisingly to be able to win. be happy for yourself. Readers can also see that the character Tam also seems to have many good qualities that make everyone love her. First, Tam is mentioned as a very hard-working, gentle girl. Tam is also an orphan and has lacked the love of his father and mother since he was young. The folk author also built the character Tam as a hard-working, gentle girl who does everything in the house single-handedly and does it well. Jobs such as "herding buffaloes and carrying water, chopping potatoes, scooping water hyacinths, and grinding rice every night." Stepmother told Tam and Cam to go catch shrimp, and whoever caught a full basket would give that person a bib. The conflict probably started with this fairly fair award. Because Tam was diligent, she quickly caught a basket of shrimp, and Cam was so playful that he tricked Tam into dumping all of Tam's shrimp into his basket and went to receive the red bib. The gentle Miss Tam could only cry. A Buddha appeared and helped Tam. Tam listened to the Buddha and took the remaining goby fish from the basket to raise. But he was also taken away by Cam and his mother, so if he wanted to go to the festival, he would have to sort the beans and rice together. When she became queen, she did not forget the anniversary of her father's death and climbed up the areca tree to pick... mother and daughter Cam and Tam tried again and again, but Tam could only endure it. Analyze the character Tam in the fairy tale Tam Cam The image of Ms. Tam is also a person with good qualities, that is why when facing difficulties, Tam is always shown by the Buddha and receives the Buddha's help. The first time was to compensate for the reward with a goby fish. Next, the Buddha is also the person who helps Tam have beautiful clothes to go to the festival. Tam's character is also very gentle because he is a gentle person, so Tam will definitely have a happy ending. Perhaps that's why when she passed by the ford, she dropped her shoe into the water. The king picked up the lovely shoe and ordered it to be tried on. Miss Tam tried it on and became queen. No matter how unfortunate Tam is, how many harmful forces she has, she always tries to rise up and receive extremely good results. Even though the character Tam is a queen, she is still a filial girl because through details, when she became a queen, she still came home and climbed an areca tree to pick areca nuts to burn incense for her father.
Bài làm Hình ảnh của những kẻ sĩ, những người tri thức luôn luôn chiếm mộ vị trí quan trọng trong thơ văn. Tác giả Nguyễn Dữ cũng đã góp thêm nét vẽ chân dung người trí thức đương thời độc đáo và vô cùng đặc sắc thông qua hình ảnh nhân vật Ngô Tử Văn trong “Chuyện chức phán sự đền Tản Viên” được trích trong áng thiên cổ kì bút nổi tiếng mang tên “Truyền kì mạn lục”. Thông qua tác phẩm thì nhân vật Ngô Tử Văn khảng khái, luôn luôn cương trực quyết tâm chống lại cái xấu, cái ác mang những phẩm chất của một kẻ sĩ hiện lên thật rõ nét cho người đọc càng thêm yêu mến nhân vật này. Ngô Tử Văn được tác giả Nguyễn Dữ miêu tả xuất hiện bằng những lời giới thiệu rất ngắn gọn nhưng lại đủ đầy được thông tin của nhân vật, không chỉ vậy mà tác giả còn thêm vào đó đôi nét về việc miêu tả tính cách của nhân vật đó chính là “Chàng khảng khái, nóng nảy, thấy gian tà thì không thể chịu được”. Không hề là một lời nhận xét chủ quan mà bằng nghệ thuật ngôn ngữ của mình Nguyễn Dữ như mang đến cho người đọc cảm nhận thấy đây là một nhận xét mang tính khách quan. Và khi đọc xong tác phẩm với những diễn biến và hành động cụ thể thì người ta càng khẳng định được ở Tử Văn là một người có tính cách vô cùng tố đẹp. Phân tích nhân vật Ngô Tử Văn Nhân vật Ngô Tử Văn như cũng đã hiện lên được qua cuộc chiến đấu quyết liệt với tên Bách hộ họ Thôi, nhân vật Ngô Tử Văn như “vàng đã qua thử lửa” sáng lên tinh thần dũng cảm, ở Tử Văn thì tinh thần tỉ ra vô cùng cương quyết trước gian tà. Ngô Tử Văn cũng đã thực hiện đúng trách nhiệm của một người có học thức nhận biết được cái xấu, cái ác. Khi mà Tử Văn cũng chỉ nghe tin ngôi đền trong làng bị yêu quái hị Thôi quấy nhiễu và với tính tình nóng nảy và bộc trực đã được giới thiệu ngay từ đầu thì cũng không thể nào có thể đứng chịu đứng nhìn cái ác đang hoành hành. Khi đó Tử Văn cũng vô cùng rất tức giận, một hôm tắm gội sạch sẽ, khấn trời rồi châm lửa đốt đền. Hành động đốt đền thực sự phải nói được rằng đó cũng chính là một hành động mà không phải ai cũng dám làm. Bởi đầu tiên ai cũng biết được đền miếu là những nơi của tín ngưỡng, linh thiêng cho nên ai cũng lo sợ thay cho Tử Văn. Nhưng vì bộc trực muốn trừ hại cho nhân dân mà chẳng không chút sợ hãi nào cả. Chàng cũng đã tắm rửa sạch sẽ và vái lạy trời đất công khai và đàng hoàng rồi mới châm lửa đốt. Thông qua hành động này thì người trí thức Ngô Tử Văn như hiện lên là một người hiểu được sự linh thiêng của thần thánh, trời đất và là hành động đẹp chứ không phải là hành động làm càn của một kẻ không học. Thông qua đây còn lại chứng tỏ được một bản lĩnh dám đương đầu với những khó khăn, để có thể giành lại bình yêu cho cuộc sống người dân, không thể chịu được trước sự tắc quai tắc quái của tướng giặc.
Assignment Images of scholars and intellectuals always occupy an important position in poetry. Author Nguyen Du has also contributed a unique and extremely unique portrait of a contemporary intellectual through the image of the character Ngo Tu Van in "The Story of the Judge of Tan Vien Temple" quoted in the ancient story. famous pen called "The Legend of Man Luc". Through the work, the character Ngo Tu Van is brave, always steadfast and determined to fight evil and evil, bringing the qualities of a scholar to the surface clearly, making readers love this character even more. Ngo Tu Van is described by author Nguyen Du through very brief introductions but with enough information about the character. Not only that, but the author also added a few details about describing his personality. That character is "He is arrogant, hot-tempered, and when he sees evil, he cannot stand it." By no means is it a subjective comment, but with his artistic language, Nguyen Du seems to give readers the feeling that this is an objective comment. And after reading the work with its specific developments and actions, people are even more convinced that Tu Van is a person with an extremely beautiful personality. Analysis of character Ngo Tu Van The character of Ngo Tu Van also appeared through the fierce battle with the Bach Ho named Thoi. The character of Ngo Tu Van was like "gold tested by fire" shining with a courageous spirit. In Tu Van, the spirit She is extremely determined in the face of evil. Ngo Tu Van also fulfilled the responsibility of an educated person who recognizes the bad and the evil. When Tu Van only heard the news that the temple in the village was being harassed by the monster Hi Thoi, and with the hot-tempered and outspoken personality that was introduced from the beginning, it was impossible for him to stand by and watch the evil raging. onion. At that time, Tu Van was also extremely angry, one day he bathed, prayed to heaven, and then set fire to the temple. The act of burning the temple really must say that it is also an action that not everyone dares to do. Because first of all, everyone knows that temples are places of belief and sacredness, so everyone is afraid for Tu Van. But because he openly wanted to eliminate harm to the people, he was not afraid at all. He also took a bath and bowed publicly and properly to heaven and earth before lighting the fire. Through this action, the intellectual Ngo Tu Van appears to be a person who understands the sacredness of gods, heaven and earth, and is a beautiful action, not a brash action of an uneducated person. Through this, he demonstrated his bravery to cope with difficulties, to be able to regain peace and love for people's lives, not being able to withstand the enemy general's tyranny.
Bài Làm Nguyễn Du, một đại thi hào của dân tộc Việt Nam, ông sinh năm 1766 mất năm 1820, tên chữ là Tố Như. Quê ông ở Hà Tĩnh, ông được sinh ra trông một gia đình phong kiến quý tộc. Sống trong giai đoạn đồng tiền làm băng hoài đạo đức, đầy biến động, Nguyễn Du chứng kiến được rất nhiều cảnh đời bất công, cũng như sự thối nát của xã hội bấy giờ. Và ông có sự cảm thông sâu sắc đối với người phụ nữ bất hạnh. Nguyễn Du đã viết ra nhiều tác phẩm văn học để nói thay cho tấm lòng đầy ai oán, cho số phận bạc mệnh đáng thương của người phụ nữ. Trong đó có bài “Trao Duyên”, là một bài thơ trong tuyệt tác “Truyện Kiều”, một bài thơ bi cảm được thể hiện qua từng câu, từng chữ, nó mang đến một nổi xúc động khôn nguôi cho người đọc. “Trao Duyên” nói về một bi kịch dan dở trong tình yêu của Thúy Kiều và Kim Trọng. Bài thơ đã khắc họa một nổi đau mà khó ai có thể thấu hiểu cua Thúy Kiều, qua bài thơ chúng ta cũng thấy được một giá trị nhân văn sâu sắc, thể hiện một niệm khát khao có được hạnh phúc của con người. Nổi bật nhất trong bài thơ Trao Duyên chính là đoạn thơ: “Cậy em, em có chịu lời, Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa. Giữa đường đứt gánh tương tư, Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em. Kể từ khi gặp chàng Kim, Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề. Sự đâu sòng gió bất kỳ, Hiều tình khôn lẽ hai bề vẹn hai? Ngày xuân em hãy còn dài, Xót tình máu mủ, thay lời nước non. Chị dù thịt nát xương mòn, Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây.” Đọc nhan đề bài thơ là Trao Duyên nhưng tại sao mở đầu bài thơ lại khiến khó hiểu như vậy. “Cậy em, em có chịu lời”, đây giống như một lời nhờ cậy, một lời gửi duyên phận của mình cho người khác, nhờ họ thay mình tiếp tục một mỗi duyên dang dở. Nguyễn Du đã sử dụng từ “cậy” để cho chúng ta thấy rằng, Thúy Kiều đã nhờ bằng tất cả niềm hi vọng và tin tưởng, đồng thời dùng tự “chịu” để thể hiện cho việc phải đồng ý, phải bắt buộc nhận lời, không thể từ chối.Qua đó có thể thấy được tình yêu sâu sắc, chân thành của Thúy Kiều dành cho Kim Trọng. Và càng thấy cái nghĩa cái tình của của Thúy Kiều và Kim Trọng nó lớn biết nhường nào. Em ơi, ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa. Câu thơ như xé tâm can người con gái. Vừa cảm thấy có lỗi với người em gái, vừa cảm thấy xót xa cho số phận của mình. Kiều đã dùng lễ nghi lạy trước thưa sau, thay đổi ngôi của hai người để ràng buộc Thúy Vân. Để cái tình của mình trao lại cho em. Sau đó, Thúy Kiều bắt đầu giải bày lí do cho những hành động trước đó. “ Giữa đường đứt gánh tương tư/ Keo loan chấp nối tơ thừa mặc em”. Câu thơ là sự giải bày cho em biết là cuộc tình của chị bây giờ đành dang dở “đứt gánh tương tư”. Cuộc tình của Kiều vừa mới chớm nở nhưng không thể đơm hoa kết trái bởi sóng gió đang ập đến. Kiều đau khổ, sót xa nhưng không thể làm khác được, đành trao lại mối duyên này cho em. Nàng đã mượn điển tích “keo loan” để nói lên ý định muốn Thúy Vân thay mình kết duyên với Kim Trọng. Nàng cảm thấy có lỗi, cảm thấy ray rứt vô cùng đối với em, vì cảm thấy như mình ép duyên, buộc em phải nhận, nhưng vẫn giao phó “ tơ thừa” để “mặc” Thúy Vân quyết định. Mặc dù đã trao duyên cho em, nhưng dường như mối tơ duyên vẫn đè nặng trong lòng Thúy Kiều. Những kỉ niệm ngọt ngào như ùa về trong lòng, nàng đành bày tỏ tâm sự cùng em. “Kể từ khi gặp chàng Kim Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề.” Câu thơ đã liệt kê ra những kỉ niệm của Thúy Kiều và Kim Trọng, kỉ niệm cùng quạt ước, cùng nâng chén rượu thề nguyện, chúng ta dễ dàng nhìn thấy một cảnh tượng vô cùng sống động đang diễn ra của đôi uyên ương. Đẹp biết mấy. Từ “khi” được lập lại ba lần gợi cho ta cảm nhận một tình cảm sâu nặng, nhưng xót xa và dày xé tâm can nàng cũng như người đọc. Nguyên nhân tại đâu mà dẫn đến cơ sự này. “Sự đâu song gió bất kì, Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai.” Quá khứ tươi đẹp là thế, nhưng hiện tại của nàng, từ khi chàng Kim về chịu tang, bao sóng gió ập đến, đứng giữa chữ hiếu và tình nàng phải làm sao đây. Hoàn cảnh trái ngang, cha và em mắc oan bị bắt, nàng phải bán thân mình mới cứu được họ, nhưng người nàng yêu, một lòng vì nàng, lời thề nguyện mới hôm nào chưa kịp nguội. Cả một con tim đang chảy máu, đau đớn, day dứt, quằn quại. Nhìn cảnh cha và em bị tra tấn, đòn roi, là một người con có hiếu, nàng đành hi sinh tình yêu để làm trọn phận con, để báo đáp công ơn. Nàng nói cho em hiểu nổi đau của mình, mong em hiểu và chấp nhận lời yêu cầu ngang trái đó. Nàng sợ em mình không đồng ý, đã cố gắng dùng mọi lí lẻ để thuyết phục em. Ngày xuân em hãy còn dài, Xót tình máu mủ thay lời nước non. Chị dù thịt nát xương mòn Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây.
Assignment Nguyen Du, a great poet of the Vietnamese people, was born in 1766 and died in 1820, his name is To Nhu. His hometown is Ha Tinh, he was born into an aristocratic feudal family. Living in a period when money corrupted morality and was full of upheaval, Nguyen Du witnessed many unfair scenes in life, as well as the corruption of society at that time. And he had deep sympathy for the unfortunate woman. Nguyen Du has written many literary works to speak for the sorrowful heart and pitiful fate of women. Among them is the song "Trao Duyen", a poem in the masterpiece "The Story of Kieu", a tragic poem expressed through each sentence and each word, it brings an indelible emotion to the reader. “Trao Duyen” is about an unfinished tragedy in the love of Thuy Kieu and Kim Trong. The poem portrays a pain that is difficult for anyone to understand of Thuy Kieu. Through the poem, we also see a profound human value, expressing a human desire for happiness. The most prominent part of the poem "Giving Duyen" is the verse: “Thank you, I agree, Sit up so I can bow and then speak. In the middle of the broken road, burdened with love, Glue loan pieced together the excess thread and left me alone. Since meeting Kim, When day fanning, when night swearing. Any trouble, Is it true that understanding love is perfect in both ways? My spring days are still long, Merciful love of immature blood instead of words. Even though my flesh is broken and my bones are worn out, Smiling until the stream is still fragrant." Reading the title of the poem is Giving Duyen but why is the beginning of the poem so difficult to understand? "I trust you, I will accept your request", this is like a word of trust, a word of sending one's fate to others, asking them to continue an unfinished fate on their behalf. Nguyen Du used the word "trust" to show us that Thuy Kieu asked with all her hope and trust, and at the same time used the word "bear" to express that she had to agree, had to accept. words, impossible to refuse. Through this, we can see Thuy Kieu's deep and sincere love for Kim Trong. And the more I see how great the love between Thuy Kieu and Kim Trong is. Honey, sit up so I can bow and then speak. The poem seems to tear the girl's heart. I feel sorry for my sister and feel sorry for my fate. Kieu used the ritual of bowing first and then speaking later, changing the positions of the two people to bind Thuy Van. Let me give my love back to you. After that, Thuy Kieu began to explain the reasons for her previous actions. "In the middle of the road, the burden of love is broken / The glue that clings to the thread leaves you alone." The poem is an explanation for you that your love affair is now unfinished, "broken from the burden of love". Kieu's love affair has just begun to blossom but cannot bear fruit because of the storms that are coming. Kieu was heartbroken and missed, but she couldn't do anything else, so she had to give this relationship back to her brother. She borrowed the classic "glue loan" to express her intention of wanting Thuy Van to marry Kim Trong on her behalf. She felt guilty, felt extremely uneasy towards her, because she felt like she forced fate, forcing her to accept, but still entrusted the "leftover thread" to "let" Thuy Van decide. Even though she gave her love, it seems like the relationship still weighs heavily in Thuy Kieu's heart. Sweet memories seemed to rush back into her heart, so she had to confide in her brother. “Since meeting Mr. Kim When the day is fanning and wishing, when the night is swearing." The poem lists the memories of Thuy Kieu and Kim Trong, memories of making wishes, raising a cup of wine and vowing, we can easily see an extremely vivid scene taking place between the lovebirds. How beautiful. The word "when" repeated three times makes us feel a deep, yet painful and painful feeling that tears at her heart as well as the reader's. What is the reason that led to this incident? “Whatever happens, whatever the wind, Filial piety is wise in both ways." Such was the beautiful past, but in her present, since Mr. Kim returned to mourn, many storms have come, standing between filial piety and love, what should she do. Circumstances were contradictory, her father and younger brother were unjustly arrested, she had to sell her body to save them, but the person she loved, wholeheartedly devoted to her, had not yet cooled the vow. The whole heart is bleeding, painful, tormented, writhing. Seeing her father and younger brother being tortured and whipped, as a filial daughter, she had to sacrifice her love to fulfill her filial duty, to repay the favor. She told me to understand her pain, hoping that I would understand and accept that unfair request. She was afraid that her brother would not agree, so she tried every reason to convince him. My spring days are still long, Merciful love of immature blood instead of words. Even though her flesh is broken and her bones are worn out Smiling until the stream is still fragrant.
Bài làm Cuộc chiến tranh nào cũng có sự hi sinh, đổ máu, nước mắt và đi vào lòng của người dân. Những anh hùng, người lính vô danh đã hi sinh, nhưng văn học với sứ mệnh cao cả đã khắc họa rõ nét người chiến sĩ cách mạng đấu tranh chống giặc ngoại xâm. Ở trong thơ Quang Dũng cũng tôn lên một bức tranh bất tử của người chiến sĩ yêu nước ngã xuống vì dân tộc. Tây Tiến của Quang Dũng là chuỗi hồi ức về nổi nhớ đồng đội của nhà thơ. Người lính với tay cầm sung chiến đấu nơi biên cương miền Tây Tổ quốc, đã được khắc nét bằng bút pháp khác thường làm nổi bật lên một vẻ đẹp hào hùng của người lính đã mang lại nhiều cảm xúc nghẹn ngào cho người đọc. Bài thơ ra đời năm 1948, hai năm sau cuộc kháng chiến chống Pháp bùng nổ. Trong thơ, hình ảnh người lính xuất hiện giữa núi rừng hoang sơ, kì vĩ với vực thẳm, dốc đá, thác gầm,…cồn mây heo hút, sương lấp, cọp trêu người. Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm Heo hút cồn mây, súng ngửi trời Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi “Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm”, cả câu văn đã giúp ta thấy được một hình ảnh đầy khó khăn gian khổ đang ở phía trước,Quang Dũng đã sử dụng các động từ rất mạnh “khúc khuỷu”, “thăm thẳm” để làm toát lên vẻ đẹp hào hùng của núi rừng nhưng các chiến sĩ vẫn mãi không lùi bước. “Súng ngủi trời” chỉ một độ cao vời vợi cùng với sự “lên cao, xuống thấp”của địa hình, sự nguy hiểm được tăng lên gấp bội đang vây quanh cuộc đấu tranh. Nhưng xa xa ở trên kia, ngôi nhà đang dần hiện ra trong cơn mưa xa “Nhà ai Pha Luông”” một địa danh vô cùng xa lạ, mờ mịt với người chiến sĩ, làm tăng thêm vẻ xa lạ, hoang sơ, mịt mù, bí ẩn của núi rừng, nhưng đó sẽ là điểm đến, là chỗ dừng chân, là khát vọng của các chiến sĩ. Trên khung cảnh thiên nhiên, dáng vẻ người lính xuất hiện thật oai liệt, luôn xung phong đương đầu mọi thử thách. Nhưng vẫn luôn yêu đời và lạc quan. Rải rác biên cương mồ viễn xứ Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh Hai câu thơ trên gợi sự bi thảm, người lính đó đã chiến đấu hết mình, bỏ mặc tuổi thanh xuân, bỏ mặc nổi sợ hãi cái chết, bỏ mặc mọi thứ, chỉ quyết một điều, phải chiến đấu để quyết giữ hòa bình, độc lập cho dân tộc. Và họ đã hi sinh, ra đi ở nơi biên cương, không ai biết danh tính, không ai biết mặt, họ ra đi mà không để lại lời trăn trối gì, chỉ mong rằng anh em chiến sĩ đang ở lại, hãy viết nên bài hùng ca chiến trường, bài ca của người lính. Ôi sao thấy sót xa! Tây tiến đoàn binh không mọc tóc Quân xanh màu lá dữ oai hùm Rừng núi hiểm trở, đâu đâu cũng có nguy hiểm đang rình rập, không ai chiều lòng người lính trẻ đang thiếu thốn mọi mặ từ thức ăn, đến mền, chiếu, thuốc thang,…đều không có đủ. Khí hậu lạnh, dịch sốt rét hoành hành, các chiến sĩ của chúng ta không có đủ phương tiện gì để chống lại, làm tóc tai rụng, biến thành những đội quân không mọc tóc. Nhìn làn da xanh ngắt vì thiếu ăn, vì ốm, họ trở thành những quân xanh oai hùm nhưng không khiến ta cảm thấy sợ hãi, mà trong lòng luôn thấy xót thương làm sao. Và nhiều người đã hi sinh, không một mảnh chiếu để chôn cất, tấm áo mỏng manh thay thế cho tấm chiếu, họ được chôn cất tuy sơ sài, nhưng sâu trong lòng những người ở lại, họ vẫn mãi sống. Áo bào thay chiếu, anh về đất Sông Mã gầm lên khúc độc hành Hình ảnh “Sông Mã” như một điệp khúc tiễn đưa người chiến sĩ về với đất mẹ vĩnh hằng, giống như đang ru ngủ, chở che các chiến sĩ, đây là một tình cảm thiêng liêng dành cho các chiến sĩ. Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa Kìa em xiêm áo tự bao giờ Khèn lên man điệu nàng e ấp Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ Người đi Châu Mộc chiều sương ấy Có thấy hồn lau nẻo bến bờ Có nhớ dáng người trên độc mộc Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa
Assignment Every war has sacrifices, bloodshed, tears and goes into the hearts of the people. Anonymous heroes and soldiers sacrificed their lives, but literature with a noble mission clearly portrayed the revolutionary soldiers fighting against foreign invaders. In Quang Dung's poetry, he also portrays an immortal picture of a patriotic soldier who died for the nation. Tay Tien by Quang Dung is a series of memories about the poet's longing for his comrades. The soldier with a gun in hand, fighting on the western border of the Fatherland, has been engraved with unusual penmanship, highlighting the heroic beauty of the soldier, bringing many choking emotions to the reader. The poem was published in 1948, two years after the outbreak of the resistance war against the French. In the poem, the image of a soldier appears in the midst of wild, majestic mountains and forests with abysses, rocky slopes, roaring waterfalls, ... desolate clouds, dense fog, and taunting tigers. Uphill, winding and steep Pigs smell the clouds, guns smell the sky A thousand meters up, a thousand meters down Whose house is Pha Luong, the rain is far away from the sea "The slope is winding, the slope is deep", the whole sentence helps us see an image full of difficulties and hardships that lie ahead. Quang Dung used very strong verbs "tortuous", "deep". ” to exude the heroic beauty of the mountains and forests, but the soldiers still do not retreat. "Guns are shooting in the sky" refers to a great height and with the "up and down" of the terrain, the danger is doubled surrounding the struggle. But far away up there, the house is gradually appearing in the distant rain "Pha Luong's house" a place that is extremely strange and obscure to the soldiers, adding to the strange, wild, and obscure look. blind and mysterious in the mountains and forests, but that will be the destination, the stopping place, and the aspiration of the soldiers. In the natural landscape, the soldier's appearance appears majestic, always volunteering to face all challenges. But always love life and be optimistic. Scattered across the border, graves are far away Going to the battlefield does not regret the green life The two verses above evoke tragedy, that soldier fought with all his might, abandoned his youth, abandoned the fear of death, abandoned everything, determined only one thing, to fight to keep peace. , independence for the nation. And they sacrificed, left on the border, no one knew their identities, no one knew their faces, they left without leaving any last words, only hoping that the soldiers who were staying behind, would write. battlefield epic, soldier's song. Oh how I missed it! The army marching to the West did not grow any hair The green army has a fierce green color The mountains and forests are dangerous, there are dangers lurking everywhere, no one pleases the young soldier who lacks everything from food, to blankets, mats, medicine,... all of which are not enough. The cold climate and malaria epidemic raged, our soldiers did not have enough means to fight back, causing their hair to fall out, turning into armies that did not grow hair. Looking at their pale skin due to lack of food and illness, they become majestic green soldiers but it does not make us feel afraid, but in our hearts we always feel pity. And many people sacrificed, without a mat to bury, a thin shirt replaced the mat, they were buried poorly, but deep in the hearts of those who stayed, they still live forever. His robe changed to his mat, and he returned to the land Ma River roars its solo song The image of "Ma River" is like a chorus sending the soldiers back to their eternal motherland, as if lulling and protecting the soldiers. This is a sacred sentiment for the soldiers. The barracks lit up with a festival of torches and flowers Look how long I've been wearing clothes He sang her shy melody Music about Vientiane builds poetic soul People go to Chau Moc on that foggy afternoon I can see the soul wiping away the shore Do you remember the figure on the dugout? Flowing in a flood of swaying flowers
Bài làm Truyện cổ tích Tấm Cám kể rằng,.. Tấm sớm mồ côi cả mẹ và cha,và phải sống chung với Dì ghẻ và đứa em cùng cha khác mẹ tên là Cám. Từ đó, cuộc đời cô vô cùng cực khổ, làm việc vất vả suốt ngày, gánh vác tất cả các công việc trong nhà, trong khi mẹ con Cám chỉ lo rong chơi. Tấm bị mẹ con Cám bắt nạt và bị đối xử tệ bạc. Một hôm, Gì ghẻ giao cho Tấm và Cám hai cái giỏ bảo đi hớt tép, ai hớt được nhiều hơn sẽ được tặng yếm đó. Tấm nghe lời, cố gắng hớt được đầy giở tép, còn Cám mãi rong chơi nên không hớt được con nào. Vì thế Cám đã lừa trút hết giỏ tép của Tấm. Tấm khóc, thì ông Bụt hiện lên tặng Tấm một chú cá bống. Tấm đưa cá về nuôi trong giếng, hằng ngày đều mang cơm cho cá ăn. Mẹ con Cám biết được liền âm mưu cho Tấm đi xa để ở nhà giết cá bống. Tấm về chỉ thấy còn lại những mẫu xương cá, Tấm khóc, Bụt lại hiện lên và bảo Tấm chôn xương cá vào bốn cái lọ đem chôn dưới chân giường của nàng.
Assignment The fairy tale Tam Cam tells that, Tam soon lost both his mother and father, and had to live with his stepmother and half-brother named Cam. From then on, her life was extremely miserable, working hard all day, taking on all the housework, while Cam and her mother only worried about playing around. Tam was bullied by Cam and his mother and treated poorly. One day, Gai gave Tam and Cam two baskets and told them to go pick shrimps. Whoever picked up the most would get that bib as a gift. Tam listened and tried to scoop up a bunch of shrimp, while Cam was always wandering around so he couldn't scoop any shrimp. So Cam tricked Tam into emptying all the shrimp baskets. Tam cried, then Mr. Buddha appeared and gave Tam a goby fish. Tam took the fish home to raise in the well, and every day brought rice for the fish to eat. When Cam and his mother found out, they immediately plotted to send Tam away so he could stay home and kill goby fish. When Tam returned, he saw only fish bones left. Tam cried. Buddha appeared again and told Tam to bury the fish bones in four jars and bury them at the foot of her bed.
Truyện Kiều kể về câu chuyện cuộc đời của nàng Kiều. Hai chị em gái Thúy Kiều, Thúy Vân đều có nhan sắc hoa ghen nguyệt thẹn. Vào dịp du xuân, Thúy Kiều gặp Kim Trọng, hai người đã yêu nhau và thề nguyện thủy chung. Nhưng trong lúc Kim Trọng về chịu tang chú thì ở đây, gia đình nàng Kiều gặp tai họa, bị thằng bán tơ vu oan. Cha và em Kiều bị bắt và tra tấn giã man. Để cứu cha và em, Kiều đã bán thân mình cho Mã Giám Sinh. Đau lòng vì phải cắt đứt tình duyên với Kim Trọng, Thúy Kiều bèn trao duyên lại cho Thúy Vân. Kiều theo Mã Giám Sinh về Lâm Tri. Không lâu sau, nàng biết được mình bị bán vào lầu xanh, nàng đã rút dao tự tử nhưng không chết. Mụ Tú Bà bèn nhốt Kiều ở Lầu Ngưng Bích, mụ âm mưu cho tên Sở Khanh lừ Kiều đi trốn, và bắt lại để ép nàng phải sống trong cuộc đời ô nhục. Tại Lầu xanh một lần nữa nàng lại gặp người không ra gì đó là Thúc Sinh, hắn chuộc Kiều khỏi lầu xanh và cho làm vợ lẽ thì Hoạn Thư vợ cả của Thúc Sinh lại tìm cách đánh ghen ở Vô tích.
The Tale of Kieu tells the life story of Kieu. The two sisters, Thuy Kieu and Thuy Van, both have jealous and shy beauty. On spring vacation, Thuy Kieu met Kim Trong, the two fell in love and vowed to be faithful. But while Kim Trong returned to mourn his uncle, here, Kieu's family met with disaster, being falsely accused by the silk seller. Kieu's father and younger brother were arrested and brutally tortured. To save her father and younger brother, Kieu sold herself to Ma Giam Sinh. Heartbroken because she had to end her relationship with Kim Trong, Thuy Kieu gave her relationship back to Thuy Van. Kieu followed Ma Giam Sinh back to Lam Tri. Not long after, she learned that she was being sold to a brothel. She pulled out a knife and committed suicide but did not die. Mu Tu Ba then locked Kieu in Lau Ngung Bich. She plotted to let So Khanh lure Kieu into hiding, and then capture her to force her to live a life of disgrace. At the Green House, she once again met a worthless person, Thuc Sinh. He ransomed Kieu from the Green House and made her his concubine, while Hoan Thu, Thuc Sinh's first wife, tried to provoke jealousy in Vo Xi.
Đề bài: Em hãy nêu cảm nhận của em về bài Phú sông Bạch Đằng Bài làm Truơng Hán Siêu tên thật là Thăng Phủ, quê ở làng Phúc Am, phủ Yên Khánh, nay thuộc Phúc Thành, xã Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình. Ông làm quan trong suốt bốn đời vua Trần. Vì tính tình ông cuơng trực và học vấn uyên thâm nên đuợc các vua thời Trần rất tin cậy và kính trọng. Vào thời kì nhà Trần suy yếu, các vua hậu Trần chỉ lo ăn chơi, huởng thụ mà quên trách nhiệm trấn hung đất nuớc. Trong dịp du ngoạn sông Bạch Đằng, một nhánh sông Kinh Thầy nơi quân ta hai lần đánh tan quân xâm lược Mông-Nguyên, Truơng Hán Siêu nhớ đến các bậc anh hùng xưa, vừa tự hào vừa viết nên bài phú sông Bạch Đằng. Ở thời trung đại, bài phú này đuợc đánh giá là hay bậc nhất. Chưa có thông tin chính xác Trương Hán Siêu viết “Bạch Đằng giang phú”vào năm nào, nhưng qua giọng văn “Thương nỗi anh hùng đâu vắng tá-Tiếc thay dấu vết luống còn lưu”, ta có thể nhận định được, bài phú này ra đời sau khi Trần Quốc Tuấn đã mất. Mở đầu bài phú là ba chữ “Khách có kẻ”, nhân vật khách xuất hiện nơi nhánh sông này, chính là Truơng Hán Siêu, đây là nhân vật trữ tình. Mặc dù ông là nguời cuơng trực, học vấn uyên thâm nhưng con nguời ông phóng khóang và cũng luôn hết mình vì thiên nhiên. Từ khách mang cái thú vui thưởng ngoạn, ngao du trên thuyền ngắm nhìn, thăm thú những cảnh đẹp hòa cùng đất trời. Biết bao vùng miền lữ khách đã đặt chân đến. Sự phóng khoáng ấy còn đuợc thể hiện rõ hơn trong câu thơ “Giương buồm giong gió chơi vơi”, khách là một tao nhân khoáng đạt chơi vơi với cánh buồm, làm bạn với gió trăng qua mọi miền sông nuớc, sống hết mình với thiên nhiên. Vị khách này là nguời đã đi nhiều nơi, đến nhiều chỗ, nhưng những hình ảnh ở đây chỉ mang tính tuợng trưng để làm nổi bật lên cá tính, làm nổi bật lên con nguời yêu thiên nhiên, yêu đất nuớc lấy việc du ngoạn làm thú vui ở đời, tự hào về thói giang hồ của mình. Đêm thì mải miết chơi với ánh trắng kia, ngày sớm gõ thuyền chừ Nguyên Tương; chiều thăm chừ Vũ Huyệt. “Nơi có nguời ở- Đâu mà chẳng biết” chứng tỏ một điều rằng ông là nguời đi nhiều nơi, biết nhiều chỗ, nhưng ở đây chỉ là hình ảnh tuợng trưng nói lên tâm hồn nguời thi sĩ, một cá tính, yêu thiên nhiên thiết tha, lấy việc đi du ngoạn bốn phuơng là niềm vui thú. Các địa danh: Nguyên Tuơng, Ngũ Hồ… đều trên đất Trung Hoa không chỉ đẹp, mà gợi ra một không gian bao la, rộng lớn, chỉ những nguời có tâm hồn phóng khoáng, trí nơi bốn phuơng. Hòa cùng với tâm hồn nguời thi sĩ hình ảnh “bờ lau san sát- bến lách đìu hiu- Sông chìm giáo gãy- Gò đầy xương khô”, sông Bạch Đằng để lại rất nhiều những dấu tích lịch sử. Đó là những dấu mốc oai hùng của lịch sử chống giặc ngoại xâm mang niềm tự hào hào khí của dân tộc, Trương Hán Siêu bày tỏ nỗi tiếc thương những anh hùng đã hi sinh vì đất nước. Tâm trạng buồn, thương tiếc, cảm xúc đứng lặng giờ lâu của khách biểu lộ niềm xúc động, lòng tiếc thương và biết ơn vô hạn đối với anh hùng liệt sĩ đã hi sinh xương máu bảo vệ dòng sông cùng sự tồn vong của dân tộ, đây cũng chính tình nghĩa thuỷ chung “uống nước nhớ nguồn” đuợc thể hiện qua câu thơ: Buồn vì cảnh thảm Đứng lặng giờ lâu Thương nỗi anh hùng đâu vắng tá Tiếc thay dấu vết luống còn lưu Thuyền bè muôn đội, tinh kì phấp phới, Hùng hổ sáu quân, giáo gươm sáng chói, Trận đánh được thua chửa phân, Chiến lũy bắc nam chống đối. Không những vậy, những năm tháng một thời oanh liệt theo cứ lớp sau xô lớp trước mà trở về. Các trận đánh tái hiện từ thời Ngô Quyền đến thời Trần Hưng Đạo. Điều này cho thấy thời đó dân tộc ta phải đương đầu với quân xâm lược phương Bắc và vận nước luôn trong tình trạng lâm nguy, ngàn cân treo sợi tóc. Nghe các bậc tiền bối kể lại diễn biến từng trận đánh. Ban đầu, quân ta và quân địch đều tập trung binh lực hùng hậu cho một trận đánh quyết tử. Đây là sự đối đầu không riêng về lực lượng mà còn là đối đầu về ý chí: quân ta với lòng yêu nước và sức mạnh chính nghĩa, quân địch thế cường bạo với bao mưu mô xảo quyệt. Chính vì vậy mà trận chiến diễn ra ác liệt: “Ánh nhật nguyệt chừ phải mờ- bầu trời đất chừ sắp đổi” Nhà thơ từ miêu tả, tự sự rồi suy ngẫm về sự vinh phục, về sự thắng bại trong lịch sử ta. Tổ quốc bền vững là nhờ hai nhân tố quan trọng: đất hiểm và nhân tài. Tác giả đã nêu lên bài học lịch sử vô giá. Bạch Đằng, Chi Lăng… là đất hiểm. Ngô Quyền, Lê Lợi, Quang Trung…đều là nhân tài. Điện an là sự nghiệp bảo vệ nền độc lập, hoà bình, yên vui cho đất nước. Tác giả sử dụng lối so sánh, nhắc đến vai trò to lớn của lã Vọng, Hàn Tín để lại võ công lừng lẫy, tác giả ngợi ca Hưng đạo Vương vĩ đại thuở bình Nguyên oanh liệt. Đoạn văn miêu tả dòng sông, kể lại trận thuỷ chiến là đặc sắc nhất, màu sắc tráng lệ, hình ảnh kì vĩ. Phép đối được vận dụng rất tài tình biểu lộ niềm tự hào dân tộc – sức mạnh nhân nghĩa Việt Nam. Tác giả đã bày tỏ quan niệm về đất hiểm và nhân tài, về cái vinh và cái nhục, cái tiêu vong và cái vĩnh hằng. Tư tưởng cao đẹp ấy được diễn tả thật tráng lệ nên thơ tạo nên vẻ đẹp văn chương trong Bạch Đằng giang phú. Kết thúc bài phú, tác giả đã ca ngợi hai vị vua Trần, Sông Bạch Đằng hùng vĩ một dải dài, mồ chôn lũ xâm lăng. Máu giặc như nhuộm đỏ cả dòng sông. Một cách nói hào hùng, giặc bất nghĩa nhất định sẽ bị tiêu vong: Anh minh hai vị thánh quân,
Topic: Please give your feelings about the article Phu Bach Dang River Assignment Truong Han Sieu's real name is Thang Phu, he is from Phuc Am village, Yen Khanh district, now belongs to Phuc Thanh, Ninh Binh commune, Ninh Binh province. He served as a mandarin during the four reigns of King Tran. Because of his upright character and profound education, he was highly trusted and respected by the kings of the Tran dynasty. During the period of the weakened Tran Dynasty, the post-Tran kings only worried about entertainment and enjoyment but forgot their responsibility to protect the country. During a trip to the Bach Dang River, a branch of the Kinh Thay River where our army twice defeated the Mongol-Nguyen invaders, Truong Han Sieu remembered the heroes of the past, was proud and wrote a poem on the Bach Dang River. In the Middle Ages, this poem was considered the best. There is no exact information about what year Truong Han Sieu wrote "Bach Dang Giang Phu", but through the tone of the poem "Pitying for heroes is not absent - Unfortunately, traces of the furrow remain", we can determine that the article This billionaire was born after Tran Quoc Tuan passed away. The poem begins with the three words "There are guests", the guest character appearing in this branch of the river is Truong Han Sieu, this is a lyrical character. Although he is a straightforward person with profound education, he is generous and always devoted to nature. From guests, they bring the pleasure of enjoying, traveling on boats to see and visit the beautiful scenes that blend with heaven and earth. There are so many regions that travelers have visited. That liberality is also expressed more clearly in the poem "Sail to the wind to play with", the guest is a generous person who plays with the sail, makes friends with the wind and moon across all regions of the country, living to the fullest with nature. This guest is a person who has traveled to many places, to many places, but the images here are only symbolic to highlight his personality, highlight the person who loves nature, loves the country for traveling. Do fun things in life, be proud of your wanderlust. At night, I was busy playing with that white light, and early in the day, I was knocking on boats for Nguyen Tuong; In the afternoon, visit Vu Huyet. "Where people live - I don't know where" proves that he is a person who has traveled to many places and knows many places, but here is only a symbolic image that represents the poet's soul, a personality, a lover of nature. Of course, I am passionate and take traveling to the four directions as a joy. Place names: Nguyen Tuong, Five Lakes... all in China are not only beautiful, but suggest a vast, vast space, indicating people with a liberal soul and intelligence in the four directions. Along with the poet's soul, the image of "close banks of reeds - desolate wharves - River sinking with broken spears - Mounds full of dry bones", Bach Dang River leaves many historical traces. These are heroic milestones in the history of fighting against foreign invaders, bringing the pride of the nation. Truong Han Sieu expressed his condolences to the heroes who sacrificed their lives for the country. The sad mood, mourning, and feeling of standing still for a long time of the guests expressed their emotions, regrets, and infinite gratitude to the heroic martyrs who sacrificed their lives to protect the river and the survival of the people. Sin, this is also the faithful love "drinking water, remember the source" expressed through the verse: Sad because of the tragic scene Standing silently for a long time I feel sorry for the heroes who are absent Unfortunately, traces of the furrow remain Ships and rafts abound, stars flutter, Majestic six armies, spears and swords shining brightly, The battle is won or lost, The northern and southern barricades oppose. Not only that, the once glorious years followed each class pushing the previous class back. Battles reappear from the reign of Ngo Quyen to the reign of Tran Hung Dao. This shows that at that time our nation had to confront the Northern invaders and the country's fortunes were always in danger, hanging by a thread. Listen to your predecessors recount the events of each battle. Initially, our army and the enemy both gathered powerful forces for a decisive battle. This is not only a confrontation of force but also a confrontation of will: our army with patriotism and righteous strength, the enemy army with a violent and cunning plan. That's why the battle was fierce: "The sun and moon are about to dim - the sky and earth are about to change." The poet describes and narrates and then reflects on the triumphs and victories and defeats in our history. The country's sustainability depends on two important factors: dangerous land and talented people. The author has raised invaluable historical lessons. Bach Dang, Chi Lang... are dangerous lands. Ngo Quyen, Le Loi, Quang Trung... are all talented. Dien An is the cause of protecting independence, peace, and joy for the country. The author uses a comparison, mentioning the great role of La Vong and Han Tin, who left behind their illustrious martial arts skills. The author praises the great Hung Dao Vuong, who was heroic during the peaceful Nguyen period. The passage describing the river and recounting the naval battle is the most unique, with magnificent colors and majestic images. The parallelism is used very skillfully to express national pride - the strength of Vietnamese humanity. The author expressed the concept of dangerous land and talented people, of honor and dishonor, of destruction and eternity. That noble thought is expressed magnificently and poetically, creating literary beauty in Bach Dang Giang Phu. At the end of the poem, the author praised the two Tran kings, the majestic Bach Dang River, the grave of the invaders. The enemy's blood seemed to dye the whole river red. In a heroic way, the unjust enemy will definitely perish: Honor the two holy soldiers,
Bài làm Trong nền văn học Việt Nam từ thời xa xưa cho đến nay, cũng như rất nhiều thể loại từ: ca dao, tục ngữ, thơ ca… cho đến văn xuôi đều có vô vàn những đề tài thú vị, nó gợi lên rất nhiều cảm xúc ngọt ngào, tâm tư tình cảm của ông cha ta, những con nguời sống bình dị với tình yêu quê huơng đất nuớc, tình cảm giữa nguời với nguời, với những hình ảnh đặc trưng cho những nguời nông dân. Đặc biệt hơn, tình yêu đôi lứa là đề tài muôn thuở, những bài thơ, ca dao mang đậm âm huởng tình yêu đôi lứa của nguời xưa nhưng luôn gắn liền với đất nuớc, với gia đình. Bài thơ “Khăn thuơng nhớ ai” cũng vậy, nói đến tình yêu, niềm thuơng nhớ của cô gái, nhớ đến da diết cồn cào mà không dễ dàng bộc lộ phải gửi gắm niềm nhớ ấy vào chiếc khăn, những câu hỏi như nén chặt nỗi thuơng nhớ vào trong. Không phải tự nhiên bài ca dao này được người ta nhớ đến với tên gọi “Khăn thương nhớ ai”. Hình ảnh chiếc khăn ấy không chỉ là biểu tượng khởi nguồn cho nỗi nhớ thuơng của cô gái mà còn là hình ảnh được lặp lại nhiều nhất với nhiều tình huống khác nhau. Mở đầu bài ca dao, tác giả đã nói đến nỗi nhớ thương ai đó của cô gái Khăn thương nhớ ai? Khăn rơi xuống đất Khăn thương nhớ ai Khăn vắt lên vai Khăn thương nhớ ai? Khăn chùi nước mắt Trong xã hội phong kiến, phụ nữ luôn là tầng lớp duới, thấp cổ bé họng, kêu không ai nghe, than cũng không ai thấu. Bởi vậy họ chỉ biết gửi những dòng tâm sự, nỗi lòng ấy qua từng lời ca như xé ruột. Dễ cho chúng ta thấy, khăn là vật dụng rất quen thuộc đối với con người, nhất là đối với nguời phụ nữ. Trong những câu thơ trên, hình ảnh chiếc khăn lại được lặp đi lặp lại nhiều lần như điệp khúc nhớ thương triền miên, da diết. Đối với những đôi lứa yêu nhau, khăn là vật gần gũi, là vật trao duyên giữa đôi trai gái. Ở đây, chiếc khăn là hình ảnh được nhân hóa, từ vật thể vô hồn trở nên có tâm trạng, biết đau, biết nhớ, biết vui, biết buồn và là đối tuợng để cô gái có thể thể hiện được tình cảm, cảm xúc của mình. Ba lần hỏi “khăn thương nhớ ai” mỗi lần nỗi nhớ lại càng dâng trào, ngổn ngang trăm mối, bao trùm khắp không gian: rơi xuống đất, vắt lên vai. Nguời xưa có câu “người buồn cảnh có vui đâu bao giờ” và với cao độ là khi chiếc khăn giúp cô gái dấu đi những giọt nước mắt thầm khóc. Sáu dòng thơ đuợc tác giả sử dụng với đa số thanh bằng gợi nỗi niềm bâng khuâng da diết đậm màu sắc nữ tính, đầy kín đáo nỗi nhớ thương. Sau khi mượn hình ảnh khăn để nói lên nỗi niềm ấy, cô gái lại tiếp tục thể hiện nỗi niềm qua hai thứ quen thuộc gắn liền với khuôn mặt: Đèn thương nhớ ai Mà đèn không tắt Mắt thương nhớ ai Mắt ngủ không yên Tác giả vẫn sử dụng biện pháp nhân hoá nhưng ở hình ảnh cây đèn này nỗi nhớ được trải dài theo thời gian. Hình ảnh đèn không tắt chính là hình ảnh ngọn lửa thương nhớ luôn đang cháy rực trong tim. Người con gái đang trằn trọc trong đêm nhớ thương đằng đẳng. Hình ảnh cuối cùng đuợc nhắc đến lại trở thành biểu tượng gần gũi nhất nói lên nỗi niềm tâm trạng cô gái là đôi mắt. Dù những câu hỏi đặt ra với chiếc khăn, ngọn đèn là sự phân thân trong tâm trạng cô gái nhưng đó vẫn chỉ là cách gián tiếp nhưng nỗi nhớ thì cứ da diết, cứ bồn chồn và đến lúc không thể kìm nén. Cô gái đã hỏi mình, trực tiếp bộc lộ nỗi lòng qua đôi mắt. “Mắt ngủ không yên” tạo nên sự đối xứng đẹp với “đèn không tắt” ở trên, hình ảnh đã gợi lên khung cảnh rất thực: một cô gái giữa đêm khuya đối diện với ngọn đèn mà nhớ đến người thương. Vì “mắt ngủ không yên” nên “đèn không tắt”. Nói đến đèn cũng chỉ nhắc đến người thương ấy mà thôi. Ngọn đèn chiếu vào đôi mắt, càng thấy nỗi thương nhớ vời vợi khôn nguôi. Mười câu thơ cùng năm câu hỏi không lời đáp. Điệp khúc thương nhớ ai trở đi trở lại như xoáy vào nỗi niềm da diết. Năm lần thương nhớ và năm lần từ “ai” xuất hiện. Từ “ai” mang ý phiếm chỉ, gợi lên 1 nỗi nhớ thương sâu thẳm không giới hạn. Từ “ai” không xác định cụ thể đối tượng, nhưng người nghe hiểu được “ai” là ai. Hỏi không có câu trả lời, nhưng thực câu trả lời đã nằm trong giọng điệu câu ca kia. Không cần nói rõ, không quá cầu kì nhưng nỗi nhớ đã được bộc lộ 1 cách kín đáo, gợi cảm, sâu sắc, mãnh liệt. Kết thúc bài ca dao là hai câu thơ: Đêm qua em những lo phiền
Assignment In Vietnamese literature from ancient times until now, as well as many genres from: folk songs, proverbs, poetry... to prose, there are countless interesting topics, it evokes a lot of stories. The sweet feelings and sentiments of our ancestors, the people who lived simply with love for their homeland, the affection between people, and the typical images of farmers. More specifically, love between couples is an eternal topic, poems and folk songs carry strong echoes of ancient people's love between couples but are always connected to the country and family. The poem "Scarf I miss someone" is the same, it talks about the love and longing of a girl, she misses someone so deeply that she can't easily express it, she has to put that nostalgia in the scarf, the questions are like pressing. Tighten your grief inside. It is not for nothing that this folk song is remembered by people with the name "Scarring to miss someone". The image of that scarf is not only a symbol of the girl's longing, but also the most repeated image in many different situations. At the beginning of the folk song, the author mentioned the girl's longing for someone Who do you miss? The towel fell to the ground I miss someone Towel draped over shoulder Who do you miss? Towel to wipe away tears In feudal society, women were always the lower class, had a small voice, cried no one heard, complained no one understood. Therefore, they only know how to send their thoughts and feelings through each gut-wrenching song. It's easy to see that scarves are very familiar items to people, especially to women. In the above verses, the image of the scarf is repeated many times like a chorus of constant, painful nostalgia. For couples in love, scarves are a close object, an object of love between a couple. Here, the scarf is an anthropomorphized image, from an inanimate object to having a mood, knowing pain, remembering, knowing joy, knowing sadness and is an object for the girl to express her feelings and emotions. your emotions. Three times asking "Who does the scarf miss?" Each time the nostalgia surged, hundreds of tangles, covering the entire space: falling to the ground, hanging on the shoulder. There is an old saying that "sad people are never happy" and it is especially true when a scarf helps a girl hide her secretly crying tears. The author uses six lines of poetry with mostly clear tones, evoking a feeling of deep sadness, rich in feminine colors, full of secret nostalgia. After borrowing the image of a scarf to express that feeling, the girl continued to express her feelings through two familiar things associated with her face: The lamp misses someone But the light doesn't turn off Eyes miss someone Eyes sleep restlessly The author still uses personification, but in this image of a lamp, the nostalgia is spread over time. The image of a light that does not go out is the image of the fire of longing that is always burning brightly in the heart. The girl is tossing and turning in the night, longing for her endlessly. The last image mentioned becomes the closest symbol expressing the girl's feelings and emotions: her eyes. Although the questions asked about the scarf and the lamp are a reflection of the girl's mood, it is still only an indirect way, but the nostalgia is still intense, restless, and at the point it cannot be suppressed. The girl asked me, directly expressing her feelings through her eyes. "Eye restlessly sleeping" creates a beautiful symmetry with "light not turned off" above, the image evokes a very real scene: a girl in the middle of the night facing a lamp, remembering her lover. Because "my eyes don't sleep well" the "lights don't turn off". When talking about lights, we only mention that loved one. The light shines on his eyes, making him feel even more pain and longing. Ten verses and five unanswered questions. The chorus of missing someone comes back again and again as if swirling in deep sadness. Five times I miss you and five times the word "who" appears. The word "who" has a trivial meaning, evoking a deep, unlimited nostalgia. The word “who” does not specifically identify the subject, but the listener understands who “who” is. The question has no answer, but the answer is actually in the tone of the song. No need to say it clearly, not too fussy, but the nostalgia is revealed in a discreet, sexy, profound, and intense way. The folk song ends with two verses: Last night I was worried
Bài làm Ngày 2-9-1945, tại quảng trường Ba Đình, Hà Nội, Bác Hồ đọc bản tuyên ngôn độc lập khẳng định quyền làm chủ của dân tộc ta, nước ta hoàn toàn độc lập, hòa bình. Tuyên ngôn độc lập mang nhiều ý nghĩa cách mạng, vững bền ý chí của các bậc anh hùng. Nhìn lại những dấu ấn lịch sử của Việt Nam qua giai đoạn năm 1919-1930 ta sẽ thấy được sự thống khổ của nhân dân và ý chí sức mạnh không thể nào tiếp tục cam chịu sự nô lệ, sự áp bức của thức dân Pháp. Các tầng lớp nhân dân từ trí thức, tiểu tư sản, công nhân….đều đồng lòng đứng lên kêu gọi một phong trào yêu nước đã lôi cuốn đông đảo quần chúng nhân dan tham gia. Những người lãnh đạo đã tìm ra được một đường đi đúng đắn, tiếp thu được những lý luận giải phóng theo tư tưởng vô sản, tư tưởng của Mác-Lê Nin, để hệ quả của nó chính là thành lập ra được Đảng Cộng sản Việt Nam vào ngày 03/02/1930. Dưới sự lãnh đạo của Đảng đã mở ra những cao trào cách mạng lớn và đỉnh cao là sự xuất hiện và tồn tại của các Xô viết ở Nghệ An, Hà Tĩnh và nhiều phong trào khác với quy mô ngày càng lớn, đông đảo quần chúng nhân dân tham gia đứng lên tạo một sức mạnh quật cường khiến bọn thực dân phải nhượng bộ và đáp ứng nhiều yêu sách của ta về dân sinh, dân chủ. Làm nền tảng cho sự ra đời của Mặt trận Việt Minh- Mặt trận đoàn kết dân tộc Việt Nam
Assignment On September 2, 1945, at Ba Dinh Square, Hanoi, Uncle Ho read the declaration of independence affirming the sovereignty of our people, our country is completely independent and peaceful. The Declaration of Independence carries many revolutionary meanings, strengthening the will of heroes. Looking back at the historical marks of Vietnam through the period 1919-1930, we will see the suffering of the people and the will and strength that cannot continue to endure the slavery and oppression of the French people. . All classes of people from intellectuals, petty bourgeoisie, workers... all unanimously stood up to call for a patriotic movement that attracted a large number of people to participate. The leaders have found the right path, absorbing liberation theories according to proletarian ideology and Marxist-Leninist ideology, so that its consequence is the establishment of the Communist Party. Vietnam on February 3, 1930. Under the Party's leadership, great revolutionary movements were opened, culminating in the appearance and existence of the Soviets in Nghe An, Ha Tinh and many other movements with increasingly large scale and large numbers of people. The people participated and stood up to create a strong force that forced the colonialists to give in and meet many of our demands for people's livelihood and democracy. Laying the foundation for the birth of the Viet Minh Front - Vietnamese National Solidarity Front
Bài làm Phạm Ngũ Lão là một danh tướng giỏi, tuy vậy ông cũng thích đọc sách viết thơ, tuy ít nhưng đều mang đậm chất lòng yêu nước, tiêu biểu là bài thơ thuật hoài.Thuật Hoài là nỗi lòng của nhà thơ, thể hiện khí phách của những anh yêu nước thời trần. Thuật hoài được viết theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt, được chia làm hai phần. Hai câu đầu khắc họa rõ hình tượng con người và hình thượng người quân đội thời Trần với vẻ đẹp hào hung và đầy nhuệ khí, hai câu sau chính là nổi lòng, sự lo lắng của tác giả. “Hoành sóc giang sơn cáp kỷ thu, Tam quân tỳ hổ khí thôn Ngưu. ” Đọc hai câu thơ đầu lên, ta có thể thấy rõ hai hình tượng được hiện ra đó là hình tượng tráng sĩ-chính là hình ảnh con người thời Trần và hình ảnh ba quân-đó là quân đội thời Trần. Hai câu thơ như một bản hùng ca nói lên khí phách hào hùng, sảng khoái của các chiến sĩ, đầu đội trời chân đạp đất..Hai chữ “hoành sóc” là sự hiên ngang.”. Không những thế mà hình ảnh người anh hùng hiên ngang ấy lại còn cầm ngọn giáo ấy trong tay trải qua biết bao nhiêu thời gian để đánh giặc, tô lên vẻ đẹp của anh hùng. Đó chính là dáng đứng bất khuất, hiên ngang tượng trung cho chính con người dân tộc ta thời Trần. Nếu câu thơ đầu là hình ảnh người tráng sĩ, thì câu thơ thứ hai lại chính là sức mạnh đoàn kết của quân đội. “Tam quân tì hổ khí thôn ngưu” là khí mạnh của ba quân nuốt trôi một con trâu, như một con hỗ gầm thét có thể nuốt hết tất cả quân giặc. Tác giả đã sử dụng biện pháp so sánh để làm rõ nét hình ảnh cũng như hình tượng hóa sức mạnh vật chất và tinh thần. Hai câu thơ tuy ngắn gọn, nhưng chứa đựng trong đó là một hình tượng lớn. Với các bút pháp nghệ thuật, so sánh, miêu tả, phóng đại,…một hào khí sức mạnh lớn lao được toát lên vô cùng hùng hồn, táo bạo, từ đó gây ấn tượng mạnh cho người đọc từ hình tượng khách quan đến chủ quan, mở ra một không gian vô cùng rộng lớn, chân thực nhưng cũng không kém phần lãng mạn. Nếu ở hai câu đầu là một giọng thơ vô cùng sôi động thì đến hai câu tiếp theo ta lại thấy như lắng xuống. Đây là hai câu thơ nói ra tâm sự, bộc bạch nổi lòng của nhà thơ. “Nam nhi vị liễu công danh trái, Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu. ” Qua 2 câu này,tạm dịch là (Công danh nam tử còn vương nợ, Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu). Đối với ông, việc ông làm cho đất nước rất ít, chưa xứng đáng với công danh nam tử hán,ông nợ nước nhà, nợ vua.
Assignment Pham Ngu Lao is a famous general. However, he also likes to read books and write poetry. Although there are few of them, they are all filled with patriotism, typically the poem "Thuat Hoai". Thuat Hoai is the poet's feelings, expressing his spirit. the spirit of the patriots of this world. Thuat Hoai is written in a four-line, four-line verse form, divided into two parts. The first two sentences clearly portray the image of people and soldiers of the Tran Dynasty with heroic beauty and full of spirit. The last two sentences express the author's heart and anxiety. “Hoang Soc Giang Son welcomes the autumn period, Tam Quan, Pi, Tiger, Niu village. ” Reading the first two verses, we can clearly see two images appearing: the image of a warrior - the image of the people of the Tran dynasty and the image of three armies - the army of the Tran dynasty. The two verses are like an epic poem expressing the heroic and cheerful spirit of the soldiers, with their heads in the sky and their feet on the ground... The two words "hoong soc" stand for bravery.". Not only that, but the image of that brave hero also held that spear in his hand and spent countless hours fighting the enemy, highlighting the hero's beauty. That is the indomitable and proud stance that symbolizes the people of our nation during the Tran Dynasty. If the first verse is the image of a soldier, the second verse is the united strength of the army. "Three armies, tigers, and oxen" is the powerful energy of three armies that can swallow a buffalo, like a roaring tiger that can swallow all the enemy troops. The author used comparison to clarify the image as well as visualize material and spiritual strength. Although the two verses are short, they contain a great image. With artistic writing techniques, comparisons, descriptions, exaggerations, etc., a great aura of power is exuded extremely eloquently and boldly, thereby making a strong impression on the reader from the objective image to the subjective, opening up an extremely large, realistic but equally romantic space. If the first two verses have an extremely vibrant poetic voice, then in the next two verses we feel it calm down. These are two verses that express the poet's feelings and emotions. “The son of the willow will be famous and fruitful, Cultivation of the listener lies in the theory of Marquis Vu. ” Through these two sentences, it can be roughly translated as (A man's reputation still lingers, but his ears are embarrassed to listen to Vu Hau's story). For him, the work he did for the country was very little, not worthy of his reputation as a man. He owed his country and the king.
Bài làm Mỗi đất nước trên thế giới đều có một món ăn riêng mang đậm bản sắc của dân tộc mình. Việt Nam- quê hương thân yêu của tôi cũng vậy! Cũng có một nền ẩm thực vô cùng độc đáo, mang đậm tinh hoa văn hóa truyền thống Lạc Hồng. Không thể thiếu trong đó chính là món bánh chưng được sử dụng vào những dịp lễ tết. Bánh chưng có từ rất lâu rồi, vào thời của vua Hùng thứ mười tám, đây là món lễ vật do Liêu Lang dâng lên cho vua cha để bày tỏ sự hiếu thảo, sự thành kính của mình. Và cũng nhờ món bánh chưng này, chàng hoàng tử út nghèo khổ đã được nhường ngôi, trở thành vị vua của dân tộc. Từ rất lâu rồi, dân gian ta vẫn truyền rằng, bánh chưng chính là biểu tượng cho sự vuông đầy của đất mẹ, nên hình dáng của bánh chưng chính là hình vuông vức đều nhau. Nguyên liệu để làm nên một chiếc bánh chưng khá đơn giản, gần gũi với dân tộc ta, bao gồm: thịt heo thường là loại thịt ba chỉ, đậu xanh, nếp, và có thể thêm một số gia vị khác tùy khẩu vị của mỗi nhà. Thịt heo được thái lát vừa phải, không quá to, không quá nhỏ, được nêm thêm gia vị như hạt tiêu, hành tím, một chút muối và bột ngọt, được ướp trong thời gian 30 phút. Để gia vị được ngấm đều vào từng miếng thịt, tạo nên vị béo ngậy, đậm đà khi thưởng thức. Người dân ta thường rất cẩn thận trong việc chọn đậu xanh và nếp. Đậu xanh thường được chọn là những hạt đậu chắc nẩy, chúng ta sẽ bóc lớp vỏ bên ngoài, giữ lớp thịt ở vàng ở trong, được ngâm trong nước ấm từ một đến hai tiếng để hạt đậu mềm hơn, đến khi luộc bánh hạt đậu sẽ nhanh chín hơn. Đây chính là hai nguyên liệu làm lớp nhân bên trong của bánh. Còn lớp vỏ bánh bên ngoài chính là gạo nếp. Chúng ta cần ngâm gạo nếp vào nước lạnh từ bốn đến năm tiếng để hạt gạo mềm và chín kĩ hơn. Các nguyên liệu từ vỏ bánh cho đến phần nhân đã chuẩn bị xong xuôi thì các bạn cũng không được quên đến lớp lá gói bên ngoài. Đó chính là lá dong.Chúng ta cần chọn những lá không bị rách, xanh, sau đó rửa sạch và lau thật khô để tránh khi nấu bánh, bánh sẽ bị nhão.
Assignment Every country in the world has its own dish imbued with its national identity. Vietnam - my beloved homeland is the same! There is also an extremely unique cuisine, imbued with the quintessence of Lac Hong traditional culture. Indispensable among them is banh chung used on holidays. Banh chung has existed for a long time, during the time of the eighteenth Hung King, this was an offering given by Lieu Lang to his father to express his filial piety and devotion. And thanks to this banh chung, the poor youngest prince was given the throne and became the king of the nation. For a long time, our people have been saying that banh chung is a symbol of the squareness of mother earth, so the shape of banh chung is evenly square. The ingredients to make banh chung are quite simple, close to our people, including: pork, usually pork belly, green beans, sticky rice, and some other spices can be added depending on the person's taste. every house. The pork is sliced ​​moderately, not too big, not too small, seasoned with spices such as pepper, purple onion, a little salt and MSG, and marinated for 30 minutes. Let the spices penetrate evenly into each piece of meat, creating a rich, rich taste when enjoying. Our people are often very careful in choosing green beans and sticky rice. Green beans are often chosen as firm beans. We will peel the outer layer, keep the golden flesh inside, soak in warm water for one to two hours to make the beans softer, until the seed cake is boiled. The beans will cook faster. These are the two ingredients that make the inner layer of the cake. The outer crust of the cake is sticky rice. We need to soak the sticky rice in cold water for four to five hours to make the rice softer and more thoroughly cooked. Once the ingredients from the crust to the filling are prepared, you must not forget the outer layer of wrapping leaves. That is the dong leaf. We need to choose green leaves that are not torn, then wash and dry thoroughly to avoid making the cake become mushy when cooking.
Trương Hán Siêu sinh năm (?-1354). Tự là Thăng Phủ, người làng Phúc An, huyện Yên Ninh (nay thuộc thành phố Ninh Bình). Ông vốn là môn khách của Trần Hưng Đạo, là một danh sĩ thời Trần. Năm 1351 ông được thăng tham tri chính sự. Khi mất ông được vua tặng tước Thái Bảo,Thái phó và được thở ở Văn Miếu (Hà Nội). Trương Hán Siêu được người đời nhận xét là một người có tình tình cương trực, hào phóng có tâm hồn lãng mạn, thích đi du ngoạn và tìm cho mình một phong cảnh tuyệt vời. Và ông đã tìm đến Phú sông Bạch Đằng để ngắm cảnh thiên nhiên ở đây. Như ta đã biết, Phú sông Bạch Đằng là một nhánh sông đổ ra biển Đông nằm giữa Quảng Ninh và Hải Phòng nơi ghi dấu những chiến công lịch sử của dân tộc, đáng nhớ nhất là chiến thắng năm 938 của Ngô Quyền phá tan quân Nam Hán và năm 1288 của Trần Quốc Tuấn đánh tan quân Mông- Nguyên. Tác phẩm Phú sông Bạch Đằng được viết bằng chữ Hán, Bùi Văn Nguyên đã dịch khá thành công áng văn này. Phú là một thể văn cổ dung để tả cảnh vật, phong tục, hoặc tính tình. Mỗi bài phú thường bao gồm bốn phần. Ở bài Phú sông Bạch Đằng cũng không ngoại lệ, phần một của bài phú này từ đầu cho đến tiếc thay dấu vết luống còn lưu, phần này giới thiệu về nhân vật khách khi du ngoại ở sông Bạch Đằng. Với câu thơ “Khách” có kẻ trong bài phú là nơi nhà cao ghế tựa, trưa mùa hạ nắng nóng, áo trong ngắn, làn nước biếc. “Khách” ở đây Mạch Đình Chi đã biểu lộ tấm lòng thanh cao, chí khí, hoài bão của kẻ sĩ ở đời. Trương Hán Siêu là một danh sĩ nổi tiếng, với chín câu đầu cho ta thấy Trương Hán Siêu có tâm hồn hiểu biết rộng, có chí khí lớn, ham thích với cuộc sống phong ba cùng thiên nhiên mây gió, thích thú tiêu dao và tâm hồn tự do. Đêm thì “chơi trăng” ngày thì “sớm gõ thuyền chờ Vũ Nguyệt”. Các danh lam thắng cảnh trong bài phú như: Nguyên Tương, Cửu Giang, Ngũ Hổ, Tam Ngô, Bách Việt…. đều ở trên đất nước Trung Hoa mênh mông, ở đây chỉ mang ý nghĩa tượng trưng nói lên một cá tính, một tâm hồn yêu thiên nhiên tha thiết lấy việc du ngoạn làm niềm lạc thú ở đời, tự hào về thói “Giang hồ” của mình, bên cạnh đó với đoạn thơ: Đầm vân mộng chứa vài trăm dạ cũng nhiều Bát ngát song kình muôn dặm
Truong Han Sieu was born in (?-1354). His name is Thang Phu, from Phuc An village, Yen Ninh district (now Ninh Binh city). He was originally a guest of Tran Hung Dao, a famous scholar of the Tran dynasty. In 1351 he was promoted to political advisor. When he died, the king gave him the title Thai Bao, Deputy Thai and lived at the Temple of Literature (Hanoi). Truong Han Sieu is considered by people to be a person with a strong love, a generous heart, a romantic soul, who likes to travel and find wonderful scenery. And he went to Phu Bach Dang River to admire the natural scenery here. As we know, Phu Bach Dang River is a branch of the river flowing into the East Sea between Quang Ninh and Hai Phong, where the nation's historical victories are marked, the most memorable being Ngo Quyen's victory in 938 to defeat the army. Southern Han and Tran Quoc Tuan in 1288 defeated the Mongol-Yuan army. The work Phu Bach Dang River is written in Chinese characters, Bui Van Nguyen has translated this text quite successfully. Phu is an ancient literary form used to describe scenery, customs, or personalities. Each lesson usually includes four parts. In the article Phu Bach Dang River is no exception, part one of this article from the beginning until unfortunately the remaining traces of the bed, this part introduces the guest character when traveling abroad in Bach Dang River. With the verse "Guest" there is a person in the poem who is in a high house with reclining chairs, hot summer noon, short underwear, blue water. The "guest" here, Mach Dinh Chi, has shown the noble heart, spirit, and ambition of a scholar in life. Truong Han Sieu is a famous artist, with the first nine sentences showing us that Truong Han Sieu has a wide-minded soul, has great will, enjoys the windy life and nature, enjoys spending time and money. free soul. At night, "play with the moon" and during the day, "early knock on the boat and wait for Vu Nguyet". The scenic spots in the article are: Nguyen Tuong, Cuu Giang, Ngu Ho, Tam Ngo, Bach Viet.... are all in the vast land of China, here only has a symbolic meaning to express a personality, a soul that loves nature passionately, taking traveling as a pleasure in life, proud of the "Gypsy" habit. ", besides with the verse: Van Mong lagoon contains a few hundred hearts, which is also a lot The vast ocean is thousands of miles apart
Bài làm Để phân tích bài thơ Thuật Hoài của Phạm Ngũ Lão thì bạn cần phải biết đây là bài thơ thất ngôn tứ tuyệt được chia thành hai phần, ở hai câu đầu tiên đó chính là hình tượng con người và hình tượng quân đội thời Trần tiếp đến hai câu thơ sau chính là nỗi lòng của tác giả gửi gắm vào bài thơ. Bài thơ Thuật Hoài được sáng táng trong bối cảnh ất đặc biệt, khi đó triều đại nhà Trần có những chiến công lừng lẫy và đẩy được quân xâm lược Mông Nguyên. Mở đầu bài thơ chính là hình ảnh tráng lệ có âm hưởng hào hùng và sảng khoái: “Hoàng sóc giang san kháp kỉ thu Tam quân tì hổ khí thôn ngưu”. Hài câu thơ này thể hiện hình ảnh tráng sĩ con người thời Trần và hình ảnh của ba quân thời Trần và thời đại, dân tộc. Hình ảnh tráng sĩ hiện ra trong hành động cắp ngang ngọn giáo có mục đích nhằm giữ gín non sống đã mấy thu một hình ảnh hiên ngang lẫm liệt, vững chải của con người trai thời Trần. Câu thơ này được dựng lên hình ảnh con người cầm ngang ngọn giáo trấn giữ đất nước. Đó chính là dáng đứng của con người Việt thời Trần. “ Nam nhi vị liễu công danh trái Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu” Trong câu thơ Thuật Hoài thấm nhuần tư tưởng yêu nước từ sớm, tác giả Phạm Ngũ Lão từ lâu đã ý thức được tinh thần dân tộc lớn lao cũng như lòn tự hòa dân tộc cũng như lí tưởng sống của đạo Nho – Trung quân ái quốc. Ông đã ý thức được về trách nghiệm của mỗi người trước sự an nguy và vận mệnh của đất nước. Thuật Hoài cũng được ra đời trong hoàn cảnh ấy và đây cũng là bài thơ được viết bằng chữ Hàn, có âm hiệu hòa hùng và gắn với hình tượng kì vĩ. Trong hai câu đầu tác giả khắc họa lên vẻ đẹp lẫm liệt và tràn đầy sức sống của những trang nam nhi đã xả thân vì đất nước vad thể hiện được rất rõ hào khí Đông Á.
Assignment To analyze the poem Thuat Hoai by Pham Ngu Lao, you need to know that this is a four-word poem divided into two parts, in the first two lines are the human image and the military image of the Tran Dynasty. The following two verses are the author's feelings expressed in the poem. The poem Thuat Hoai was composed in a special land context, when the Tran dynasty had glorious victories and repelled the Mongol invaders. The poem begins with a magnificent image that has a heroic and refreshing sound: “Hoang Soc Giang San is enjoying the autumn period Tam Quan, Thirteen, Thirteen, Village Niuu". This comedy of verses represents the image of the heroic men of the Tran Dynasty and the images of the three armies of the Tran Dynasty and the era and people. The image of a brave man appearing in the act of carrying a spear with the purpose of keeping the mountain alive has for many years been an image of bravery and steadfastness of men in the Tran Dynasty. This verse creates an image of a man holding a spear to defend the country. That is the standing posture of Vietnamese people during the Tran Dynasty. “A man's name is willow and his name is left Cultivating a false listener tells the story of Marquis Vu" In the poem Thuat Hoai, imbued with patriotic thoughts from an early age, author Pham Ngu Lao has long been aware of the great national spirit as well as national self-harmony as well as the living ideal of Confucianism - Chinese love. country. He was aware of each person's responsibility for the safety and destiny of the country. Thuat Hoai was also born in that situation and this is also a poem written in Korean, with a heroic sound and associated with a majestic image. In the first two sentences, the author portrays the fierce beauty and vitality of the men who sacrificed their lives for their country and clearly shows the East Asian spirit.
Bài làm Vậy là mọi chuyện đã qua. Từ một cô Tấm nghèo khổ, thiếu thốn, trải qua bao nhiêu gập ghềnh sóng gió, nay tôi cũng đã được thỏa lòng với ngôi vị Hoàng Hậu bên cạnh nhà vua đầy uy quyền, lộng lẫy. Mẹ tôi mất sớm, cha lấy dì ghẻ về. Những tưởng dì sẽ thay mẹ yêu thương chăm sóc cho tôi nhưng ngược lại, bà ấy dành cho tôi tất cả những gì ác độc nhất. Ngày qua ngày, tôi sống trong buồn tủi, khổ sở. Bà chỉ quan tâm, yêu thương một mình Cám thôi. Thân phận làm chị nên cái gì tôi cũng nhường cho em. Thế nhưng, em cũng đâu có yêu thương gì tôi. Ngày dì sai hai chị em ra đồng bắt cá, Cám mải chơi đã lừa tôi lấy hết cá của tôi. Lúc ấy, tôi rất buồn. Trong lòng nhớ mẹ vô cùng, chỉ mong sao mẹ vẫn còn sống, vẫn có thể dỗ dành mỗi khi tôi khóc. Tôi biết điều đó là không thể vì mẹ đã ra đi vĩnh viễn rồi. Nhưng đúng lúc tuyệt vọng nhất, Bụt đã hiện ra giúp đỡ tôi. Người bảo tôi xem còn lại gì trong giỏ không. Quả thật, còn lại một con cái bống. Bụt lại bảo hãy đem về nuôi, ngày ngày mang cơm cho bống ăn, gọi bống bằng những câu hát “Bống bống bang bang Lên ăn cơm vàng cơm bạc nhà ta Chớ ăn cơm hẩm cháo hoa nhà người” Tôi làm theo lời Bụt dạy. Nhưng rồi vào một ngày đẹp trời. Tôi hát đi hát lại mấy lần mà không thấy Bống lên ăn như mọi khi. Thiết nghĩ có điều chẳng lành đã xảy ra. Quả đúng như vậy, một cục máu nổi lên từ dưới giếng. Tôi giật mình phát hiện ra Bống đã chết. Hóa ra, mẹ con Cám đã ở nhà ngấm ngầm theo dõi tôi, nhân lúc tôi đi vắng bắt Bống lên làm thịt. Quá buồn tủi, tôi chỉ biết khóc thôi. Bụt lại hiện lên bảo tôi hãy lấy xương bống chôn vào bốn chân giường. Tôi không biết chôn để làm gì nhưng cứ làm theo lời bụt bảo. Vì tôi tin rằng những điều Bụt dặn chắc chắn có ý nghĩa quan trọng. Một năm nọ, nhà vua mở tiệc kén vợ. Tôi vui lắm. Dù biết thân phận mình nghèo hèn đói rách, sao có thể xứng với bữa tiệc này. Nhưng nhà vua đã có lệnh tất cả con gái trong vùng đều phải đến. Nhưng lại một lần nữa, mẹ con nhà Cám chèn ép tôi. Quần áo đẹp dì lấy cho Cám mặc hết. Đã vậy còn bắt tôi ở nhặt hết cả thúng gạo và thóc rồi mới được đi. Phận làm con, làm sao tôi có thể chống cự lại được. Trong lúc buồn tủi, Bụt lại hiện lên. Ngài như một vị cứu tinh của đời tôi vậy. Bụt gọi đàn chim sẻ đến giúp đỡ. Chỉ trong nháy mắt, chúng đã nhặt hết cả thúng thóc. Nhưng tôi không có quần áo đi dự tiệc, Bụt lại bảo hãy đào bốn lọ xương bống ở chân giường lên. Lạ thay, tất cả những thứ trong đó là quần áo lụa là, đẹp lỗng lẫy, có cả ngựa nữa. Tôi sung sướng tắm rửa thay quần áo rồi cưỡi ngựa đi. Nhưng khi phóng qua một cây cầu đá, chẳng may tôi đánh rơi mất một chiếc hài. Khi đoàn xa giá chở vua đi qua cầu, thật kỳ lạ, con ngựa bỗng dừng lại nhất định không chịu đi. Có lẽ, nhà vua linh tính được điều gì nên đã sai quân lính nhảy xuống mò. Lính mò lên được một chiếc hài xinh xắn. Vua ngắm nghía chiếc hài hồi lâu rồi hạ lệnh cho rao mời tất cả đám đàn bà con gái xem hội ướm thử, hễ ai đi vừa chiếc giầy thì vua sẽ lấy làm vợ. Con gái cả vùng ai ai cũng nô nức lần lượt đến thử nhưng chẳng ai đi vừa. Mẹ con Cám cũng thử nhưng không vừa. Tôi không dám trực tiếp nhận chiếc hài đó của mình vì không có bằng chứng gì. Tôi cũng đến thử như bao người khác. Tôi biết mẹ con Cám sẽ dè bỉu, chê bai tôi. Nhưng dù sao đó cũng là lệnh của nhà vua. Và tất nhiên tôi đi vừa chiếc hài vì nó là của tôi. Lập tức, tôi được nhà vua rước về cung làm Hoàng Hậu. Cuộc đời tôi thay đổi từ đây. Trong cung, không thiếu một thứ gì nhưng hình ảnh khổ cực của người cha tôi vẫn chưa bao giờ quên. Ngày giỗ cha, tôi xin phép nhà vua cho về nhà một hôm. Tôi vâng lời dì trèo lên cây cau để xé cau xuống làm lễ cúng cha. Nhưng nào ngờ, mẹ con Cám ở dưới bảo nhau chặt gốc cau khiến tôi ngã lộn xuống ao. Tôi chết nhưng những gì diễn ra sau đó, Bụt đã dùng phép nhiệm màu hóa tôi thành chim Vàng Anh nên tôi biết hết mọi chuyện. Mẹ con Cám vội vàng lấy quần áo của tôi cho Cám mặc để vào cung thay tôi làm Hoàng Hậu. Tôi biết nhà vua ngày đêm thương nhớ mình nhưng tôi không thể làm gì khác được. Nhìn Cám giặt quần áo cho vua, tôi chỉ có thể cất tiếng hót “Phơi áo chồng tao, phơi lao phơi sào, chớ phơi bờ rào, rách áo chồng tao”. Tôi bay đến bên cửa sổ. Nhìn nhà vua ngày đêm nhung nhớ mình, tôi cũng xót thương lắm. Dường như, ngài cũng cảm nhận được nên khi nhìn thấy tôi, ngài bảo “Vàng ảnh vàng anh, có phải vợ anh chui vào tay áo”. Tôi sung sướng bay ngay vào tay áo vua. Từ đó, hai vợ chồng ngày nào cũng quấn quýt bên nhau. Nhà vua còn sai quân lính làm riêng cho tôi một chiếc lồng chim nhỏ nhắn bằng vàng. Tôi ở bên cạnh vua, hót cho vua nghe. Vui rất vui. Nhưng ngược lại, Cám thấy vậy thì tức giận về mách với mẹ. Hai mẹ con lại bàn nhau hãm hại giết tôi một lần nữa. Biến thành chim thì bị giết, Bụt lại cho tôi hóa thành hai cây xoan đào, mọc ở đúng chỗ Cám vứt lông chim. Ngày ngày nhà vua mắc võng nằm dưới gốc cây hóng gió, thư giãn. Tôi chỉ biết xòe những tán lá của mình xuống che mát cho vua. Chỉ mong vua có thể hiểu được tấm lòng của tôi. Nhưng làm sao vua có thể hiểu được cây chứ. Vua thấy cây mát thì ngày ngày ra nằm. Cám lại tức giận sai người chặt cây làm khung cửi. Lần này, trực tiếp Cám ngồi dệt nên tôi không có cơ hội gần vua nữa. Trong lúc dệt vải, tôi lên tiếng dạo cám: “Cót ca cót két Lấy tranh chồng chị Chị khoét mắt ra”
Assignment So it's all over. From being a poor, needy Miss Tam, having gone through many ups and downs, I am now satisfied with the position of Queen next to the powerful and splendid King. My mother passed away early, and my father married my stepmother. I thought my aunt would replace my mother with love and care, but on the contrary, she gave me all the cruelest things. Day after day, I live in sadness and misery. She only cares and loves Cam alone. Because of my identity as an older sister, I give everything to you. However, you don't love me at all. The day my aunt sent two sisters out to the fields to catch fish, Cam was busy playing and tricked me into taking all my fish. At that time, I was very sad. I miss my mother so much, I just hope she's still alive and can still comfort me every time I cry. I know it's impossible because my mother is gone forever. But at the most desperate moment, the Buddha appeared to help me. The person told me to see if there was anything left in the basket. Indeed, there was one goby left. The Buddha told him to bring him home to raise him, bring him rice every day to feed him, and call him songs “Bang bang bang bang Come eat gold rice and silver rice at our house Don't eat rice mixed with flower porridge at other people's houses." I follow the Buddha's teachings. But then one beautiful day. I sang it over and over again several times but didn't see Bong coming up to eat like usual. I think something bad has happened. Sure enough, a clot of blood emerged from the well. I was startled to discover that Bong was dead. It turned out that Cam and her mother were at home secretly watching me, taking advantage of the time I was away to capture Bong and kill him. So sad, I just cry. The Buddha appeared again and told me to take my rib bone and bury it in the four legs of the bed. I don't know what to do with the burial, but I just do as the Buddha tells me. Because I believe that what the Buddha said is definitely important. One year, the king held a party to choose a wife. I'm so happy. Even though I know my status is poor and hungry, how can I be worthy of this party? But the king ordered all the daughters in the area to come. But once again, Cam and her family oppressed me. Auntie brought all the beautiful clothes for Cam to wear. Even so, they forced me to pick up all the baskets of rice and paddy before I could leave. As a child, how can I resist? In times of sadness, the Buddha appeared again. He is like a savior of my life. The Buddha called the sparrows to help. In just a blink of an eye, they picked up the entire basket of rice. But I didn't have any clothes to go to the party, so Buddha told me to dig up four jars of goby bones at the foot of the bed. Strangely enough, all the things in there were beautiful silk clothes, including horses. I happily showered, changed my clothes, and went horseback riding. But when I jumped over a stone bridge, I unfortunately lost a shoe. When the caravan carrying the king passed the bridge, strangely enough, the horse suddenly stopped and refused to go. Perhaps, the king had a premonition of something so he ordered his soldiers to jump down and search. The soldiers dug up a lovely shoe. The king looked at the shoe for a long time and then ordered all the women and girls to be invited to watch the trial. Whoever fit the shoe would be the king's wife. All the girls in the area were excited to try it out, but no one could go. Cam and her mother also tried but it didn't fit. I don't dare directly accept that shoe as mine because there is no proof. I also came to try like everyone else. I know Cam and her mother will mock and criticize me. But after all, it was the king's order. And of course I fit the shoe because it's mine. Immediately, the king took me back to the palace to become Queen. My life changed from here. In the palace, there was not a single thing missing, but the image of my father's suffering has never been forgotten. On the anniversary of my father's death, I asked the king for permission to go home one day. I obeyed my aunt and climbed up the areca tree to tear down the areca tree to worship my father. But unexpectedly, Cam and her mother below told each other to cut down the areca tree, causing me to fall into the pond. I died, but what happened after that, the Buddha miraculously transformed me into an Oriole bird, so I know everything. Cam and her mother quickly took my clothes for Cam to wear to enter the palace to replace me as Queen. I know the king misses me day and night, but I can't do anything else. Watching Cam wash the king's clothes, I could only sing, "Dry my husband's clothes, hang them on the pole, don't dry them on the fence, you'll tear my husband's clothes." I flew to the window. Seeing the king miss me day and night, I feel so sorry for him. It seemed that he also felt it, so when he saw me, he said, "Your photo is yellow, is it your wife hiding in your sleeve?" I happily flew right into the king's sleeve. Since then, the couple has been together every day. The king even ordered his soldiers to make a small golden birdcage for me. I am next to the king, singing for him. Very fun. But on the contrary, Cam felt angry and told his mother. Mother and son discussed again to harm and kill me. When I turned into a bird, I was killed. The Buddha let me turn into two peach trees, growing in the exact place where Cam left the bird's feathers. Every day the king hung a hammock and lay under a tree to enjoy the wind and relax. I can only spread my leaves down to shade the king. I just hope the king can understand my heart. But how can the king understand the tree? The king saw that the tree was cool and went out to lie down every day. Cam got angry and ordered someone to cut down a tree to make a loom. This time, Cam was weaving directly, so I didn't have the chance to be close to the king anymore. While weaving, I spoke loudly: “Creak creak creak Take my husband's picture She gouged out her eyes.”
Bài làm Truyện Tấm Cám là một trong những câu chuyện ý nghĩa về của kho tàng văn học dân gian Việt Nam. Truyện vừa hấp dẫn người đọc bởi những tình tiết ly kỳ hấp dẫn vừa đi sâu vào tiềm thức bao thế hệ học sinh qua bài học ở hiền gặp lành, ở ác gặp ác của những nhân vật trong truyện. Truyện kể về cuộc đời truân chuyên của cô Tấm hiền lành, nết na bị mụ dì ghẻ và người em cùng cha khác mẹ là Cám chèn ép hết lần này đến lần khác. Mẹ con họ luôn đối xử bạc đãi với Cám. Một ngày nọ, mẹ sai hai chị em đi bắt cá, Cám vốn tính ham chơi lại gian xảo nên đã lừa trút hết cá của Tấm. Khi Tấm buồn tủi khóc, Bụt hiện lên và chỉ cho Tấm biết vẫn còn một con cá Bống trong giỏ. Tấm nghe theo lời Bụt mang cá về nuôi dưới giếng, hàng ngày cho Bống ăn. Nhưng mẹ con nhà Cám đã lừa tấm để giết thịt Bống. Khi Tấm phát hiện Bống chết, cô chỉ biết khóc, Bụt lại xuất hiện bảo Tấm lấy xương Bống chôn xuống bốn chân giường. Đến ngày nhà vua mở hội chọn vợ, mẹ con Cám bắt Tấm phải nhặt hết một thúng thóc và gạo rồi mới được đi. Tấm không chống cự lại được mà chỉ biết khóc. Bụt lại hiện lên giúp đỡ Tấm. Nhặt xong, Tấm không có quần áo đẹp đi dự tiệc, Bụt bảo hãy đào bốn cái lọ ở chân giường lên. Lạ thay, trong đó toàn thứ Tấm đang cần: Quần áo đẹp, hài đẹp, có cả ngựa để Tấm đi nữa. Nhưng khi đi ngang qua cầu, Tấm vô tình làm rơi chiếc hài xuống sông. Nhà vua sau khi nhặt được chiếc hài liền ra lệnh ai đi vừa sẽ cưới làm vợ. Mọi người trong làng, cả mẹ con Cám đến thử hài nhưng không ai vừa. Dĩ nhiên, chỉ có Tấm đi vừa, cô được vua rước về làm Hoàng Hậu. Ngày giỗ cha, cô xin về nhà làm lễ cúng cha. Mẹ con Cám đã lừa Tấm trèo cây cau hái quả rồi giết chết Tấm để Cám vào cung làm vợ vua thay chị. Tấm chết hóa thành chim vàng anh nhưng lại bị mẹ con Cám giết. Chỗ Cám vứt lông chim mọc lên hai cây xoan đào xanh tốt. Thấy nhà vua ngày ngày ra đó mắc võng nằm, Cám lại chặt cây làm khung cửi. Trong lúc dệt vải, Cám lại nghe thấy tiếng chị nên sợ quá đốt khung cửi đi rồi đem tro đổ ra một nơi thật xa. Tại đó, mọc lên cây thị nhưng chỉ có duy nhất một quả chím vàng thơm lừng. Có bà cụ đi qua xin thị về nhà để ngửi. Sau khi bị phát hiện Tấm chui từ quả thị ra, bà cụ đã xé vụn vỏ thị. Từ đó, hai bà cháu sống vui vẻ với nhau. Một hôm nhà vua đi ngang qua ghé vào nghỉ chân. Vua đã nhận ra vợ mình khi thấy cánh trầu được têm theo kiểu mà chỉ có Tấm mới biết têm. Vua đón Tấm về. Từ đó, hai người sống hạnh phúc bên nhau, không còn sóng gió nữa. Câu chuyện kết thúc và dành phần thắng cho cái thiện như một quy luật tự nhiên. Những lần chết đi sống lại của Tấm càng khẳng định thêm sự đúng đắn của đạo lý nhân văn: cái thiện nhất định sẽ chiến thắng cái ác, cái thiện luôn là sự vĩnh hằng. Những tình tiết li kỳ, hấp dẫn trong truyện đã khiến người đọc bị cuốn hút và dễ dàng ghi nhớ ý nghĩa sâu sắc mà dân gian đã gửi gắm vào. Nhân vật Tấm được xây dựng với tính cách yếu đuối, hiền lành, sống chỉ biết vâng lời và nhịn nhục. Nhưng mỗi lần Tấm bị ức hiếp, buồn tủi đều có Bụt xuất hiện giúp đỡ. Bụt là một hình ảnh đẹp với tính cách nhân từ được dân gian tạo dựng lên từ trí tưởng tưởng, từ lòng hướng thiện của mình. Ngược lại, mẹ con Cám gian ác, tham lam là đại diện cho những kẻ bạo tàn, lòng lang dạ sói trong xã hội, giết người không ghê tay. Họ đã hết lần này đến lần khác hãm hại Tấm nhưng sau cùng, dù họ có ác đến mấy cũng không bao giờ có thể chống lại được luật nhân quả ở đời. Cô Tấm hiền lành trải qua nhiều lần chết đi sống lại, sau cùng vẫn được hưởng hạnh phúc trọn. Còn mẹ con Cám với những tội ác mình gây ra đã phải nhận lấy kết cục xứng đáng. Qua đó, dân gian muốn lên án những kẻ gian ác bạo hành trong xã hội.
Assignment The story Tam Cam is one of the meaningful stories in the treasure of Vietnamese folk literature. The story not only attracts readers with its exciting and thrilling details but also penetrates deep into the subconscious of many generations of students through the lessons of the characters in the story, from good to good, from evil to evil. The story is about the troubled life of the gentle and modest Ms. Tam who was oppressed over and over again by her stepmother and her half-sister, Cam. Their mother and son always treated Cam cruelly. One day, her mother sent her two sisters to catch fish. Cam, who was playful and cunning, tricked Tam into giving away all of her fish. When Tam was sad and crying, Buddha appeared and showed Tam that there was still a Goby fish in the basket. Tam followed Buddha's advice and brought fish to the well to feed and feed Bong every day. But Cam's mother and son tricked her into killing Bong. When Tam discovered Bong died, she could only cry, but Buddha appeared again and told Tam to take Bong's bones and bury them at the four legs of the bed. On the day the king held a festival to choose a wife, Cam and his mother forced Tam to pick up a basket of grain and rice before they could leave. Tam couldn't resist and could only cry. Buddha appeared again to help Tam. After picking up, Tam didn't have nice clothes to go to the party, Buddha said to dig up four jars at the foot of the bed. Strangely enough, it contained everything Tam needed: beautiful clothes, beautiful shoes, and even a horse for Tam to ride. But when passing the bridge, Tam accidentally dropped the shoe into the river. After the king picked up the coffin, he immediately ordered that whoever walked away would marry him. Everyone in the village, including Cam's mother and daughter, came to try on the comedy, but no one fit. Of course, only Tam could go, and she was taken back by the king to become Queen. On the anniversary of her father's death, she asked to go home to worship him. Cam and her mother tricked Tam into climbing an areca tree to pick fruit and then killed Tam so that Cam could enter the palace to become the king's wife in her place. Tam died and turned into an oriole but was killed by Cam and his mother. Where Cam threw down his feathers, two lush green peach trees grew. Seeing the king go out there every day to hang a hammock, Cam cut down trees to make a loom. While weaving, Cam heard her voice again, so he was so scared that he burned the loom and dumped the ashes somewhere far away. There, a tree grows, but there is only one fragrant yellow bird fruit. An old lady passed by and asked her to come home to smell it. After Tam crawled out of the fruit, the old lady tore the skin into pieces. Since then, the two of them lived happily together. One day the king passed by and stopped to rest. The king recognized his wife when he saw betel wings being seasoned in a way that only Tam knew how to season. The king welcomed Tam back. From then on, the two lived happily together, no more troubles. The story ends and gives victory to good as a natural law. Tam's deaths and resurrections further affirm the correctness of humanistic ethics: good will definitely overcome evil, good is always eternal. The thrilling and fascinating details in the story have captivated readers and easily remembered the profound meaning that the people have conveyed. Tam's character is built with a weak, gentle personality, living only by obedience and patience. But every time Tam was bullied or sad, Buddha appeared to help. The Buddha is a beautiful image with a benevolent personality created by people from their imagination and kindness. On the contrary, the evil and greedy Cam mother and daughter represent the sadistic, wolf-hearted people in society who kill without hesitation. They have harmed Tam time and time again, but in the end, no matter how evil they are, they can never resist the law of cause and effect in life. The gentle Tam went through many deaths and rebirths, but in the end she still enjoyed complete happiness. As for Cam and his mother, for the crimes they committed, they had to receive a worthy outcome. Through that, people want to condemn evil and violent people in society.
Bài làm Tấm và Cám là hai chị em cùng cha khác mẹ. Mẹ Tấm mất sớm, cha lấy thêm dì ghẻ nhưng không lâu sau cha cũng mất. Mẹ con Cám luôn đối xử bạc đãi với Cám. Một ngày nọ, mẹ sai hai chị em đi bắt cá, Cám vốn tính ham chơi lại gian xảo nên đã lừa trút hết cá của Tấm. Khi Tấm buồn tủi khóc, Bụt hiện lên và chỉ cho Tấm biết vẫn còn một con cá Bống trong giỏ. Tấm nghe theo lời Bụt mang cá về nuôi dưới giếng, hàng ngày cho Bống ăn. Nhưng mẹ con nhà Cám đã lừa tấm để giết thịt Bống. Khi Tấm phát hiện Bống chết, cô chỉ biết khóc, Bụt lại xuất hiện bảo Tấm lấy xương Bống chôn xuống bốn chân giường. Đến ngày nhà vua mở hội chọn vợ, mẹ con Cám bắt Tấm phải nhặt hết một thúng thóc và gạo rồi mới được đi. Tấm không chống cự lại được mà chỉ biết khóc. Bụt lại hiện lên giúp đỡ Tấm. Nhặt xong, Tấm không có quần áo đẹp đi dự tiệc, Bụt bảo hãy đào bốn cái lọ ở chân giường lên.
Assignment Tam and Cam are two sisters with different fathers. Tam's mother passed away early, and his father married a stepmother, but not long after, his father also passed away. Cam and her mother always treated Cam cruelly. One day, her mother sent her two sisters to catch fish. Cam, who was playful and cunning, tricked Tam into giving away all of her fish. When Tam was sad and crying, Buddha appeared and showed Tam that there was still a Goby fish in the basket. Tam followed Buddha's advice and brought fish to the well to feed and feed Bong every day. But Cam's mother and son tricked her into killing Bong. When Tam discovered Bong died, she could only cry, but Buddha appeared again and told Tam to take Bong's bones and bury them at the four legs of the bed. On the day the king held a festival to choose a wife, Cam and his mother forced Tam to pick up a basket of grain and rice before they could leave. Tam couldn't resist and could only cry. Buddha appeared again to help Tam. After picking up, Tam didn't have nice clothes to go to the party, Buddha said to dig up four jars at the foot of the bed.
Bài làm Mị Châu – Trọng Thủy, một mối tình có lẽ gây nhiều sự chú ý và tranh cãi nhất trong truyền thuyết Việt Nam. Vì yêu, vì hiếu nên họ đã mắc phải những sai lầm to lớn khiến mình phải đi vào con đường chết. Mị Châu chết hóa thành ngọc trai, còn Trọng Thủy vì thương vợ nên cũng chết trong giếng gần nơi táng Mị Châu. Ngọc trai càng rửa nước giếng này càng trong. Kết cục này vừa cảm động vừa ẩn chứa nhiều ý nghĩa sâu xa. Theo truyền thuyết, thời Âu Lạc, vua An Dương Vương được Rùa Vàng tặng cho một chiếc vuốt làm nỏ thần để đánh giặc. Cứ lấy nỏ bắn là giặc sẽ thua. Lần đầu tiên, quân Đà sang đánh, vua An Dương Vương ứng nghiệm chiếc nỏ thần. Quả thật, quân Đà thua to. Ít lâu sau, con trai Đà sang cầu hôn với công chúa. Vua không để ý nên đã vô tình gả con gái cho kẻ đã bị mình đánh bại. Đúng như âm mưu trước đó, Trọng Thủy đã dỗ Mị Châu cho xem trộm chiếc nỏ thần rồi ngầm làm một cái khác thay thế vào đó. Trong lúc chia ly, Mị Châu dặn Trọng Thủy nếu sau này hai đất nước loạn lạc, Mị Châu đi đâu sẽ rắc lông ngỗng đến đó để làm dấu cho Trọng Thủy tìm cứu nàng. Mất nỏ, vua An Dương Vương không hề biết nên khi quân Đà sang khiêu chiến, vua đã chủ quan và để mất nước Âu Lạc. Vua dẫn con gái chạy theo phí bờ biển. Mị Châu ngồi sau cha rắc lông ngỗng làm dấu cho Trọng Thủy đúng như lời ước hẹn. Đến bờ biển, vua cha kêu sứ Thanh Giang, rùa vàng nổi lên vào bảo quân giặc ngay phía sau lưng. Ngay lập tức, vua tuốt gươm chém chết Mị Châu. Mị Châu chưa hiểu rõ vì sao lại bị cha chết, nàng khấn rằng: “Thiếp là phận gái, nếu có lòng phản nghịch mưu hại cha, chết đi sẽ biến thành cát bụi. Nếu một lòng trung hiếu mà bị người lừa dối thì chết sẽ biến thành châu ngọc để rửa sạch mối nhục thù”. Mị Châu chết ở bờ biển, máu chảy xuống nước, trai sò ăn phải đề biến thành hạt châu. Khi Trọng Thủy đến chỉ còn lại xác Mị Châu. Trọng Thủy ôm xác Mị Châu đem về táng ở Loa Thành, xác biến thành ngọc thạch. Trọng Thủy thương tiếc khôn cùng, khi đi tắm tưởng như thấy bóng dáng Mị Châu, bèn lao đầu xuống giếng mà chết. Như vậy, sau những sai lầm tai hại, cả hai đã cùng chết bên nhau. Đặc biệt, ngọc trai khi mang rửa ở giếng nước nơi Trọng Thủy chết, càng rửa ngọc càng sáng. Có nhiều ý kiến trái chiều nhau về cái chết của Mị Châu. Có người cho rằng: Mị Châu đã ngheo theo lời Trọng Thủy cho xem trộm chiếc nỏ thần chỉ là việc thuận theo tình cảm vợ chồng mà bỏ quên nghĩa vụ với đất nước. Lại có kiến nói Mị Châu làm theo ý chồng là lẽ tự nhiên, hợp đạo lý. Vậy ý kiến nào đúng, ý kiến nào sai? Xét về việc cho Trọng Thủy xem trộm nỏ thần, Mị Châu làm việc này hoàn toàn không hề có âm mưu gì, nàng cũng không biết được ý định của Trọng Thủy đánh cắp chiếc nỏ thần và thay thế chiếc khác. Chính sự khờ khạo này của Mị Châu là nguyên nhân đầu tiên khiến nước Âu Lạc bị mất. Nhưng nói đi cũng phải nói lại. Tại sao vua cha lại bị mất nỏ thần mà không hề hay biết? Và khi quân địch đến, vua cha còn thản nhiên ngồi đánh cờ, đến lúc dùng đến nỏ thần vua mới phát hiện ra đã bị mất. Lẽ ra một vật báu quan trọng như thế, liên quan đến sự sống còn của đất nước như thế, vua phải giữ gìn cẩn thận, thường xuyên kiểm tra. Nhưng vua An Dương Vương đã không làm điều đó. Còn Mị Châu thì vô tình bị Trọng Thủy dụ dỗ. Nhưng nàng cũng chỉ nghĩ rằng cho Trọng Thủy xem thôi rồi lại cất đi sẽ không ảnh hưởng gì. Như vậy Mị Châu vừa làm vui lòng chồng lại không làm nguy hại đến cha. Nhưng sự thật lại diễn ra hoàn toàn trái ngược với suy nghĩ ngây thơ của nàng. Chưa hết, khi cùng vua cha chạy trốn, nàng còn dứt lông ngỗng trên áo làm dấu cho Trọng Thủy đuổi theo với mong muốn chồng sẽ cứu mình đúng như lời ước hẹn trước đó. Nhưng lại một lần nữa, Mị Châu tiếp tay cho giặc mà không hề hay biết. Trong suy nghĩ của nàng, việc làm này hoàn toàn đúng đắn và nên làm, vì “thiếp phận nữ nhi, nếu gặp cảnh biệt li thì đau đớn khôn xiết”. Nếu như Trọng Thủy không phải con trai Đà, không phải kẻ địch của Âu Lạc thì có lẽ những gì Mị Châu làm hoàn toàn xứng đáng và hợp tình hợp lý. Nhưng thật éo le vì những việc làm mang ý nghĩa tình cảm vợ chồng sâu nặng của Mị Châu lại làm cho đất nước rơi vào tay kẻ địch. Giây phút cuối cùng của cuộc đời khi bị vua cha kết án là giặc, Mị Châu mới chợt nhận ra mình bị lừa. Nhưng tất cả đã quá muộn. Nàng không chối, cũng không kêu oan mà chỉ khấn sẽ thành cát bụi nếu mình là kẻ phản nghịch, ngược lại nếu lòng nàng trong sáng, chết đi sẽ biến thành châu ngọc để rửa sạch mối nhục thù. Quả nhiên, khi Mị Châu chết, máu của nàng chảy xuống biển, trai sò ăn phải đều biến thành hạt châu. Như vậy, nỗi oan của Mị Châu đã được giải. Chỉ tiếc rằng nàng đã chết, chết một cách bất ngờ đầy tiếc thương. Cái chết của Mị Châu vừa chứng minh được tấm lòng trong sạch của nàng, vừa thể hiện hai phẩm chất đạo đức tốt đẹp trong nàng: thứ nhất, Mị Châu là một người vợ chung thủy, nặng nghĩa tình. Thứ hai, nàng là một người con gái hiếu thảo, có tấm lòng trong sáng rất đáng trân trọng. Đồng thời, Mị Châu chết một phần lớn vì sự chủ quan của vua cha. Lẽ ra khi gả con gái, vua phải xem xét kỹ lưỡng xuất thân của con rể. Mặt khác, nỏ thần là vật báu quý hiếm, vua phải kiểm tra thường xuyên và cất giữ thật cẩn thận. Nhưng vua An Dương Vương đã không làm điều đó. Cho đến giây phút cuối cùng, ông phải đành lòng chém chết đứa con gái yêu dấu khi nghe Rùa Vàng kết án chính kẻ ngồi sau là giặc.
Assignment Mi Chau – Trong Thuy, a love affair that probably causes the most attention and controversy in Vietnamese legend. Because of love and filial piety, they made huge mistakes that put them on the path to death. Mi Chau died and turned into a pearl, and Trong Thuy, because he loved his wife, also died in a well near the place where Mi Chau was buried. The more pearls are washed, the clearer the water from this well becomes. This outcome is both touching and contains many profound meanings. According to legend, during the Au Lac period, King An Duong Vuong was given a claw by the Golden Turtle to make a magic crossbow to fight the enemy. Just shoot with a crossbow and the enemy will lose. For the first time, the Da army came to attack, and King An Duong Vuong fulfilled the magic crossbow. Indeed, the Da army lost big. Not long after, Da's son came to propose to the princess. The king didn't pay attention so he accidentally married his daughter to the man he defeated. Just like the previous plot, Trong Thuy coaxed Mi Chau to peek at the magic crossbow and then secretly made another one to replace it. During the separation, Mi Chau told Trong Thuy that if the two countries were in chaos in the future, wherever Mi Chau went, she would sprinkle goose feathers there as a sign for Trong Thuy to find and save her. King An Duong Vuong did not know about losing his crossbow, so when the Da army came to challenge, the king was subjective and lost Au Lac country. The king took his daughter along the coast. Mi Chau sat behind her father and sprinkled goose feathers as a sign for Trong Thuy as promised. Arriving at the beach, the king called the Thanh Giang envoy, and the golden turtle emerged to warn the enemy army right behind him. Immediately, the king drew his sword and slashed Mi Chau to death. Mi Chau did not understand clearly why her father died, so she prayed: "I am a daughter, if I have a rebellious heart and plot to harm my father, if I die, I will turn into dust. If you are deceived by someone who is loyal to you, then death will turn into pearls to wash away your hatred." Mi Chau died on the beach, her blood flowed into the water, and the oysters she ate turned into pearls. When Trong Thuy arrived, only Mi Chau's body remained. Trong Thuy hugged Mi Chau's body and brought it back to be buried in Loa Thanh, the body turned into jade. Trong Thuy felt so sorry. When he went to take a bath, he thought he saw My Chau's shadow, so he plunged into the well and died. Thus, after disastrous mistakes, the two died together. In particular, when pearls are washed in the well where Trong Thuy died, the more they are washed, the brighter they become. There are many conflicting opinions about Mi Chau's death. Some people believe that: My Chau followed Trong Thuy's advice to secretly see the magic crossbow, just following the couple's feelings and forgetting her duty to the country. Some people say that it is natural and ethical for Mi Chau to follow her husband's wishes. So which opinion is right, which opinion is wrong? Regarding letting Trong Thuy peek at the magic crossbow, Mi Chau did this completely without any conspiracy, nor did she know Trong Thuy's intention to steal the magic crossbow and replace it with another one. It was this foolishness of Mi Chau that was the first reason why Au Lac was lost. But it must be said again and again. Why did the king's father lose his magic crossbow without even realizing it? And when the enemy arrived, his father calmly sat and played chess. It was only when he used his magic crossbow that he discovered it had been lost. The king should have kept such an important treasure, related to the country's survival, carefully and regularly checked it. But King An Duong Vuong did not do that. As for Mi Chau, she was accidentally seduced by Trong Thuy. But she just thought that showing Trong Thuy and then taking it away would have no effect. Thus, Mi Chau both pleases her husband and does not harm her father. But the truth turned out to be completely opposite to her naive thoughts. And yet, when fleeing with her father, she even took off the goose feathers on her shirt as a sign for Trong Thuy to chase her with the hope that her husband would save her as promised. But once again, Mi Chau supported the enemy without even knowing it. In her mind, this is completely right and should be done, because "as a woman, if you encounter a separation, it will be extremely painful." If Trong Thuy was not Da's son or Au Lac's enemy, perhaps what Mi Chau did was completely worthy and reasonable. But it was unfortunate because My Chau's actions that meant a deep love between husband and wife caused the country to fall into the hands of the enemy. In the last moments of her life, when her father condemned her as an enemy, Mi Chau suddenly realized she had been deceived. But everything was too late. She did not deny it, nor did she complain, but only vowed that she would turn into dust if she was a traitor. On the contrary, if her heart was pure, when she died, she would turn into pearls to wash away her hatred. Sure enough, when Mi Chau died, her blood flowed into the sea, and the oysters she ate turned into pearls. Thus, Mi Chau's injustice has been resolved. I'm just sorry that she died, died unexpectedly and sadly. Mi Chau's death both proves her purity of heart and shows two good moral qualities in her: first, Mi Chau is a loyal and devoted wife. Second, she is a filial girl, with a pure heart that is very respectable. At the same time, Mi Chau died in large part because of her father's subjectivity. When marrying his daughter, the king should have carefully considered the background of his son-in-law. On the other hand, the magic crossbow is a rare treasure, the king must check it regularly and store it carefully. But King An Duong Vuong did not do that. Until the last moment, he had to bear to kill his beloved daughter when he heard the Golden Turtle condemn the person behind him as an enemy.
Bài làm Thơ ca vốn là một trong những nơi để người ta trút bầu tâm sự. Nhất là những nỗi niềm, những tình cảm riêng tư, người ta vẫn thường mượn thơ để trải hết lòng mình. Ví như bài “khăn thương nhớ ai” cũng vậy, cô gái – chủ thể tâm tư của bài thơ đã gửi gắm hết tất cả những gì mình muốn nói vào từng vần thơ đằm thắm, thiết tha. Tuy chỉ là thơ thôi nhưng trong đó, từng câu, từng chữ chứa đựng bao lời muốn nói của cõi lòng người đang yêu. “Khăn thương nhớ ai, Khăn rơi xuống đất. Khăn thương nhớ ai, Khăn vắt lên vai. Khăn thương nhớ ai, Khăn chùi nước mắt. Đèn thương nhớ ai, Mà đèn không tắt, Mắt thương nhớ ai, Mắt ngủ không yên. Đêm qua em những lo phiền, Lo vì một nỗi không yên một bề…” Có thể giờ này, dưới ánh đèn khuya hiu hắt, có một cô gái đang ngồi thần thờ trong đêm thương nhớ về người mình yêu. Cô nhớ, nhớ lắm nhưng không thể nào làm gì khác được. Cô chỉ biết ngồi nhìn lại chiếc khăn kỷ niệm ngày nào. Chiếc khăn vốn chỉ là vật vô tri vô giác nhưng chính nó là kỷ vật tình yêu của một con gái trong sáng, thủy chung. Thế nên, cô đã liên tục hỏi “Khăn thương nhớ ai”, “khăn thương nhớ ai”… Những câu hỏi đưa ra không mong nhận lại được câu trả lời nhưng chính lòng cô đã hiểu rõ hơn ai hết về người mà mình đang thương nhớ. Câu hỏi được đưa ra là vì lòng cô không biết dãi bày cùng ai. Một nỗi nhớ cồn cào, da diết. Một nỗi nhớ bồi hồi xúc động. Một nỗi nhớ hóa thành nước mắt tuôn rơi. Những giọt nước mắt ngậm ngùi thương nhớ. Đến ngay cả chiếc đèn trong đêm cũng thấm đẫm tình cảm của người con gái đang yêu. “Đèn thương nhớ ai Mà đèn không tắt” Rõ ràng đèn có tắt hay không là do hành động của con người hoặc chỉ khi cháy hết dầu đèn mới tắt. Ấy vậy mà cô gái lại gạt nỗi nhớ của mình cho ánh đèn. Chứng tỏ rằng nỗi nhớ ấy rất da diết, rất cồn cào, cũng giống như ngọn đèn kia, lúc le lói, lúc bập bùng giữa đêm khuya. Dường như lúc này chỉ còn cô với ánh đèn và chiếc khăn kỷ niệm ngày nào. Cô nhớ đến nỗi không thể nào ngủ yên. Những vật thể vô tri vô giác vốn vô hồn vô cảm nhưng nay được nhìn bằng nỗi nhớ của một người con gái đang yêu say đắm, những thứ ấy bỗng trở nên có linh hồn, có hành động và tình cảm như một con người. Cho đến cuối bài thơ, cô gái mới trực tiếp bộc bạch: “Đêm qua em những lo phiền Lo vì một nỗi không yên một bề…”
Assignment Poetry is one of the places for people to vent their feelings. Especially personal feelings and emotions, people often borrow poetry to express their hearts. For example, the song "Missing Someone" is the same, the girl - the subject of the poem's thoughts - has put everything she wants to say into each loving, passionate poem. Even though it's just poetry, each sentence and each word contains so many words that the lover's heart wants to say. “I miss someone so much, The towel fell to the ground. I miss someone so much, Towel draped over shoulder. I miss someone so much, Towel to wipe away tears. The lamp misses someone, But the lights don't turn off, Eyes miss someone, Eyes sleep restlessly. Last night I was worried, Worrying about an uneasy feeling..." Maybe right now, under the dim light of the night, there is a girl sitting in worship at night, remembering the person she loves. She missed it, missed it so much but couldn't do anything else. She could only sit and look back at the souvenir scarf. The scarf is just an inanimate object, but it is a souvenir of the love of a pure, faithful girl. Therefore, she continuously asked "Who does the scarf miss", "Who does the scarf miss"... These questions were asked without expecting to receive an answer, but in her heart she understood better than anyone else about the person she was caring for. miss you. The question was asked because she didn't know who to confide in. A searing, painful nostalgia. An emotional nostalgia. A nostalgia turned into tears. Tears of sadness and longing. Even the lamp at night is imbued with the feelings of a girl in love. “The light misses someone But the light doesn't turn off." It is clear whether the light goes out or not due to human actions or only when the oil is burned out does the light go out. Yet the girl put aside her nostalgia for the light. It proves that that nostalgia is very strong, very strong, just like that light, sometimes flickering, sometimes flickering in the middle of the night. It seemed that now she was the only one left with the light and the souvenir scarf. She missed it so much that she couldn't sleep peacefully. Inanimate objects were originally lifeless and emotionless, but now seen with the nostalgia of a girl in passionate love, those things suddenly become soulful, have actions and emotions like a human being. Until the end of the poem, the girl directly confides: “Last night I was worried Worrying about an uneasy feeling..."
Bài làm Nguyễn Trãi là một đại thi hào dân tộc Việt Nam. Ông thật xứng danh là một nhân vật lịch sử vĩ đại cho hàng ngàn thế hê sau học hỏi và noi theo. Người anh hùng ấy vừa gây dựng nên bao công lao to lớn cho đất nước vừa để lại cho nền văn học nước nhà một khối lượng lớn các tác phẩm vô cùng giá trị với tư tưởng nhân văn, nhân nghĩa sâu sắc. Trong đó, không thể không kể đến tác phẩm “Bình ngô đại cáo”. Đây được coi như bản Tuyên ngôn độc lập thứ hai của đất nước. Mà ở đó ông đã khẳng định độc lập chủ quyền dân tộc, đã đưa ra những chân lý hết sức xác thực và đanh thép, rằng kẻ ác kẻ hung tàn dù có mạnh đến mấy cũng không bao giờ giành chiến thắng, rằng ranh giới bờ cõi đất Việt đã chia rõ ràng, không có kẻ nào có thể xâm chiếm được. Cùng với đó là tư tưởng nhân nghĩa – một thứ tư tưởng không thể tách rời với vận mệnh của đất nước, của nhân dân. “Nhân” là người, “nghĩa” là nghĩa tình, nghĩa lý. Nhân nghĩa là sự đối nhân xử thế giữa người với người sao cho có ý nghĩa, có tình có lý. Trong “Đại cáo bình ngô” Nguyễn Trãi đã thể hiện tư tưởng nhân nghĩa rất rõ ràng và chí lý. Ngay trong những câu thơ mở đầu, ông đã viết: “Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”. Trong hai câu thơ này, Nguyễn Trãi đã khẳng định luôn việc nhân nghĩa cốt ở yên dân. Tức nhân dân làm chủ, người lãnh đạo phải luôn luôn đặt lợi ích của dân lên làm đầu, chớ có vì lợi ích riêng mà hãm hại dân lành. Ông cũng nhắc đến tấm gương của Thang, của Vũ đã vì dân mà đánh kẻ có tội là Kiệt, là Trụ. Họ đã thẳng thắn, không bao che cho nhau. Như thế mới là nhân nghĩa. Như vậy, việc nhân nghĩa không hề là một khái niệm trừu tượng, mà ở đây, Nguyễn Trãi đã giải thích rất rõ ràng nhân nghĩa chính là những việc làm cụ thể, xứng đáng, là những việc mà người lãnh đạo, người cầm quyền làm cho nhân dân. Nguyễn Trãi còn đưa ra nhiều chứng cứ xác thực: “Như nước Đại Việt ta từ trước Vốn xưng nền văn hiến đã lâu Núi sông bờ cõi đã chia Phong tục Bắc Nam cũng khác Từ Triệu, Đinh, Lý Trần bao đời gây nền độc lập Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyễn mỗi bên xứng đế một phương Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau Song hào kiệt đời nào cũng có”. Nguyễn Trãi đã liệt kê ra một loạt những nhân chứng của lịch sử nước nhà cho sự nhân nghĩa. Chính vì nhân nghĩa nên đất nước dẫu có lúc Bắc Nam hai miền hai phong tục, hay có khi mạnh khi yếu, song đời nào cũng vẫn có những vị anh hùng hào kiệt đáng ngợi ca. Nhân nghĩa không chỉ là cách ứng xử riêng tư giữa một hai người với nhau, mà hơn thế, nhân nghĩa còn là một tư tưởng lớn của dân tộc. Cũng chính vì lòng nhân nghĩa, nên Nguyễn Trãi đã thấu hiểu hơn ai hết những nỗi đau tột cùng mà bọn giặc Minh đã gây ra cho nhân dân. Bằng nỗi căm hờn khinh ghét, Nguyễn Trãi đã thẳng tay tố cáo tội ác của bọn chúng: “Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ”. Tội ác này chúng sẽ không bao giờ gột rửa được. Câu thơ bất động mà như tanh mùi máu bởi những từ ngữ gợi hình gợi cảm cùng giọng điệu ai oán xót xa mà Nguyễn Trãi đã khéo léo sử dụng. Bọn chúng còn đưa ra đủ các thứ thuế bắt nhân dân phải nộp hàng tháng, hàng năm. “Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc ngán thay cá mập, thuồng luồng Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu, nước độc”. Chúng bắt dân ta phải phục tùng, phải lao động khổ sai ở những nơi nguy hiểm, tính mạng có thể mất bất cứ lúc nào. Chúng càn quét, vơ vét hết sản vật, chim trả, hươu đen… Tội ác của chúng khiến ngòi bút văn chương của ông phải ghê rợn: “Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội, Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi Lẽ nào trời đất dung tha Ai bảo thần nhân chịu được?” Tội ác tày trời của giặc Minh không thể kết xiết được. Thù này nhất định phải trả. Như vậy, một lần nữa, lòng nhân nghĩa được Nguyễn Trãi chỉ ra bằng hành động cụ thể: nhìn nhận chính xác kẻ thù, vùng dậy đấu tranh bằng lòng quả cảm, quyết liệt, dù có phải đổ máu cũng không tiếc chi. Từ tinh thần ấy, cuộc khởi nghĩa Lam Sơn được nổi lên. Dù ban đầu, phía quân ta thiếu thốn đủ đường: thiếu nhân lực, thiếu lương thực, thiếu vũ khí… Nhưng, đổi lại, ta lại có những mặt lợi thế: “Nhân dân bốn cõi một nhà, dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới Tướng sĩ một lòng phụ tử, hòa nước sông, chén rượu ngọt ngào. Thế trận xuất kỳ, lấy yếu chống mạnh; Dùng quân mai phục, lấy ít địch nhiều Trọn hay: Đem đại nghĩa để thắng hung tàn Lấy chí nhân để thay cường bạo”. Lòng nhân nghĩa đang được Nguyễn Trãi thể hiện bằng những hành động, những chiến lược quân sự cụ thể. Một lực lượng non yếu, thiếu thốn không cân sức khó mà chiến thắng được, nhưng với thế trận xuất kỳ, với các mai phục thông minh, nhất định ta sẽ giành thắng lợi. Biết mình, biết ta, trăm trận trăm thắng. Có lẽ Nguyễn Trãi cũng thấu hiểu điều đó nên đã ngày đêm tìm hiểu, nghiên cứu để tìm ra thế trận chống lại đội quân hung ác của giặc. Và đúng như những gì mong muốn, quân ta đã giành thắng lợi vẻ vang. Lũ giặc Minh gian ác đã phải trả giá với những gì mình đã gây ra cho dân Việt: “Trần Trí, Sơn Thọ nghe hơi mà mất vía, Lí An, Phương Chính nín thở cầu thoát thân…” Bằng sự quyết tâm và ý chí chiến đấu quyết liệt theo đúng tư tưởng nhân nghĩa mà Nguyễn Trãi đã đưa ra ngay từ đầu, nhân dân ta đã toàn thắng một cách rất hào hùng, oanh liệt. Ông đã liệt kê rất nhiều kỳ tích vang dội của nhân dân: “Đánh một trận sạch không kình ngạc Đánh hai trận, tan tác chim muông” Từ lòng nhân nghĩa, thương dân cùng với sự tương trợ nỗ lực hết mình của tất cả mọi người, cuộc khởi nghĩa đã toàn thắng vẻ vang. Ngược lại, giặc Minh thất bại thảm hại. Đã đến lúc chúng phải đền bù cho những tội ác tày trời mình đã gây ra. “Đô đốc Thôi Tụ lê gối dâng tờ tạ tội Thượng thư Hoàng Phúc trói tay để tự xin hàng Lạng Giang, Lạng Sơn, thây chất đầy đường Xương Giang, Bình Than, máu trôi đỏ nước Ghê gớm thay sắc phong vân phải đổi Thảm đạm thay ánh nhật nguyệt phải mờ”. Những kỳ tích vang dội của quân ta giành được chính là nhờ có lòng nhân nghĩa, có sự đóng góp công sức to lớn của từng người, từng người trong đoàn quân ít ỏi với vô vàn khó khăn, thiếu thốn. Đúng như lúc đầu Nguyễn Trãi đã nói “Đem đại nghĩa để thắng hung tàn, Lấy chí nhân để thay cường bạo”. Đến giờ phút này tất cả đã được minh chứng bằng hành động cụ thể, bằng chiến thắng vang dội của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Sau bao gian lao vất vả, hòa bình đã lập lại, non sông Việt Nam lại đi vào công cuộc xây dựng đổi mới đất nước. Lúc này, lòng nhân nghĩa chính cũng chính là niềm tự hào, tự tôn dân tộc. “Xã tắc từ nay vững bền Giang sơn từ đây đổi mới Kiều khôn bĩ rồi lại thái Nhật nguyệt hối rồi lại minh Muôn thuở đều thái bình vững chắc Ngàn thu vết nhục nhã sạch làu Âu cũng nhờ trời đất tổ tông khôn thiêng ngầm giúp đỡ mới được như vậy Thân ôi! Một cỗ nhung y chiến thắng, nên công oanh liệt ngàn năm Bốn phương biển cả thanh bình, ban chiếu duy tân khắp chốn Xa gần bá cáo Ai nấy đều hay.” Niềm vui chiến thắng hòa lẫn với hào hứng bắt tay vào công cuộc mới, công cuộc xây dựng đất nước thời bình. Nguyễn Trãi cũng không quên ghi nhớ công lao của những thế hệ trước đã ngầm giúp đỡ. Như vậy, tư tưởng nhân nghĩa đã xuyên suốt tác phẩm, được minh chứng cụ thể bằng sự chiến thắng vẻ vang oanh liệt của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Trong cuộc khởi nghĩa ấy, một bên ngang tàng ngang sức, ác độc với lực lượng quân đội rất đông và mạnh, vũ khí tối tân hiện đại, còn một bên thiếu thốn trăm bề từ lực lượng đến lương thực… nhưng sau cùng, “đại nghĩa” đã thắng “hung tàn”. Đó cũng là một quy luật tất yếu của tự nhiên. Cái thiện luôn luôn chiến thắng cái ác.
Bài làm Nguyễn Trãi là một đại thi hào dân tộc Việt Nam. Ông thật xứng danh là một nhân vật lịch sử vĩ đại cho hàng ngàn thế hê sau học hỏi và noi theo. Người anh hùng ấy vừa gây dựng nên bao công lao to lớn cho đất nước vừa để lại cho nền văn học nước nhà một khối lượng lớn các tác phẩm vô cùng giá trị với tư tưởng nhân văn, nhân nghĩa sâu sắc. Trong đó, không thể không kể đến tác phẩm “Bình ngô đại cáo”. Đây được coi như bản Tuyên ngôn độc lập thứ hai của đất nước. Mà ở đó ông đã khẳng định độc lập chủ quyền dân tộc, đã đưa ra những chân lý hết sức xác thực và đanh thép, rằng kẻ ác kẻ hung tàn dù có mạnh đến mấy cũng không bao giờ giành chiến thắng, rằng ranh giới bờ cõi đất Việt đã chia rõ ràng, không có kẻ nào có thể xâm chiếm được. Cùng với đó là tư tưởng nhân nghĩa – một thứ tư tưởng không thể tách rời với vận mệnh của đất nước, của nhân dân. “Nhân” là người, “nghĩa” là nghĩa tình, nghĩa lý. Nhân nghĩa là sự đối nhân xử thế giữa người với người sao cho có ý nghĩa, có tình có lý. Trong “Đại cáo bình ngô” Nguyễn Trãi đã thể hiện tư tưởng nhân nghĩa rất rõ ràng và chí lý. Ngay trong những câu thơ mở đầu, ông đã viết: “Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”. Trong hai câu thơ này, Nguyễn Trãi đã khẳng định luôn việc nhân nghĩa cốt ở yên dân. Tức nhân dân làm chủ, người lãnh đạo phải luôn luôn đặt lợi ích của dân lên làm đầu, chớ có vì lợi ích riêng mà hãm hại dân lành. Ông cũng nhắc đến tấm gương của Thang, của Vũ đã vì dân mà đánh kẻ có tội là Kiệt, là Trụ. Họ đã thẳng thắn, không bao che cho nhau. Như thế mới là nhân nghĩa. Như vậy, việc nhân nghĩa không hề là một khái niệm trừu tượng, mà ở đây, Nguyễn Trãi đã giải thích rất rõ ràng nhân nghĩa chính là những việc làm cụ thể, xứng đáng, là những việc mà người lãnh đạo, người cầm quyền làm cho nhân dân. Nguyễn Trãi còn đưa ra nhiều chứng cứ xác thực: “Như nước Đại Việt ta từ trước Vốn xưng nền văn hiến đã lâu Núi sông bờ cõi đã chia Phong tục Bắc Nam cũng khác Từ Triệu, Đinh, Lý Trần bao đời gây nền độc lập Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyễn mỗi bên xứng đế một phương Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau Song hào kiệt đời nào cũng có”. Nguyễn Trãi đã liệt kê ra một loạt những nhân chứng của lịch sử nước nhà cho sự nhân nghĩa. Chính vì nhân nghĩa nên đất nước dẫu có lúc Bắc Nam hai miền hai phong tục, hay có khi mạnh khi yếu, song đời nào cũng vẫn có những vị anh hùng hào kiệt đáng ngợi ca. Nhân nghĩa không chỉ là cách ứng xử riêng tư giữa một hai người với nhau, mà hơn thế, nhân nghĩa còn là một tư tưởng lớn của dân tộc. Cũng chính vì lòng nhân nghĩa, nên Nguyễn Trãi đã thấu hiểu hơn ai hết những nỗi đau tột cùng mà bọn giặc Minh đã gây ra cho nhân dân. Bằng nỗi căm hờn khinh ghét, Nguyễn Trãi đã thẳng tay tố cáo tội ác của bọn chúng: “Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ”. Tội ác này chúng sẽ không bao giờ gột rửa được. Câu thơ bất động mà như tanh mùi máu bởi những từ ngữ gợi hình gợi cảm cùng giọng điệu ai oán xót xa mà Nguyễn Trãi đã khéo léo sử dụng. Bọn chúng còn đưa ra đủ các thứ thuế bắt nhân dân phải nộp hàng tháng, hàng năm. “Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc ngán thay cá mập, thuồng luồng Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu, nước độc”. Chúng bắt dân ta phải phục tùng, phải lao động khổ sai ở những nơi nguy hiểm, tính mạng có thể mất bất cứ lúc nào. Chúng càn quét, vơ vét hết sản vật, chim trả, hươu đen… Tội ác của chúng khiến ngòi bút văn chương của ông phải ghê rợn: “Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội, Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi Lẽ nào trời đất dung tha Ai bảo thần nhân chịu được?” Tội ác tày trời của giặc Minh không thể kết xiết được. Thù này nhất định phải trả. Như vậy, một lần nữa, lòng nhân nghĩa được Nguyễn Trãi chỉ ra bằng hành động cụ thể: nhìn nhận chính xác kẻ thù, vùng dậy đấu tranh bằng lòng quả cảm, quyết liệt, dù có phải đổ máu cũng không tiếc chi. Từ tinh thần ấy, cuộc khởi nghĩa Lam Sơn được nổi lên. Dù ban đầu, phía quân ta thiếu thốn đủ đường: thiếu nhân lực, thiếu lương thực, thiếu vũ khí… Nhưng, đổi lại, ta lại có những mặt lợi thế: “Nhân dân bốn cõi một nhà, dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới Tướng sĩ một lòng phụ tử, hòa nước sông, chén rượu ngọt ngào. Thế trận xuất kỳ, lấy yếu chống mạnh; Dùng quân mai phục, lấy ít địch nhiều Trọn hay: Đem đại nghĩa để thắng hung tàn Lấy chí nhân để thay cường bạo”. Lòng nhân nghĩa đang được Nguyễn Trãi thể hiện bằng những hành động, những chiến lược quân sự cụ thể. Một lực lượng non yếu, thiếu thốn không cân sức khó mà chiến thắng được, nhưng với thế trận xuất kỳ, với các mai phục thông minh, nhất định ta sẽ giành thắng lợi. Biết mình, biết ta, trăm trận trăm thắng. Có lẽ Nguyễn Trãi cũng thấu hiểu điều đó nên đã ngày đêm tìm hiểu, nghiên cứu để tìm ra thế trận chống lại đội quân hung ác của giặc. Và đúng như những gì mong muốn, quân ta đã giành thắng lợi vẻ vang. Lũ giặc Minh gian ác đã phải trả giá với những gì mình đã gây ra cho dân Việt: “Trần Trí, Sơn Thọ nghe hơi mà mất vía, Lí An, Phương Chính nín thở cầu thoát thân…” Bằng sự quyết tâm và ý chí chiến đấu quyết liệt theo đúng tư tưởng nhân nghĩa mà Nguyễn Trãi đã đưa ra ngay từ đầu, nhân dân ta đã toàn thắng một cách rất hào hùng, oanh liệt. Ông đã liệt kê rất nhiều kỳ tích vang dội của nhân dân: “Đánh một trận sạch không kình ngạc Đánh hai trận, tan tác chim muông” Từ lòng nhân nghĩa, thương dân cùng với sự tương trợ nỗ lực hết mình của tất cả mọi người, cuộc khởi nghĩa đã toàn thắng vẻ vang. Ngược lại, giặc Minh thất bại thảm hại. Đã đến lúc chúng phải đền bù cho những tội ác tày trời mình đã gây ra. “Đô đốc Thôi Tụ lê gối dâng tờ tạ tội Thượng thư Hoàng Phúc trói tay để tự xin hàng Lạng Giang, Lạng Sơn, thây chất đầy đường Xương Giang, Bình Than, máu trôi đỏ nước Ghê gớm thay sắc phong vân phải đổi Thảm đạm thay ánh nhật nguyệt phải mờ”. Những kỳ tích vang dội của quân ta giành được chính là nhờ có lòng nhân nghĩa, có sự đóng góp công sức to lớn của từng người, từng người trong đoàn quân ít ỏi với vô vàn khó khăn, thiếu thốn. Đúng như lúc đầu Nguyễn Trãi đã nói “Đem đại nghĩa để thắng hung tàn, Lấy chí nhân để thay cường bạo”. Đến giờ phút này tất cả đã được minh chứng bằng hành động cụ thể, bằng chiến thắng vang dội của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Sau bao gian lao vất vả, hòa bình đã lập lại, non sông Việt Nam lại đi vào công cuộc xây dựng đổi mới đất nước. Lúc này, lòng nhân nghĩa chính cũng chính là niềm tự hào, tự tôn dân tộc. “Xã tắc từ nay vững bền Giang sơn từ đây đổi mới Kiều khôn bĩ rồi lại thái Nhật nguyệt hối rồi lại minh Muôn thuở đều thái bình vững chắc Ngàn thu vết nhục nhã sạch làu Âu cũng nhờ trời đất tổ tông khôn thiêng ngầm giúp đỡ mới được như vậy Thân ôi! Một cỗ nhung y chiến thắng, nên công oanh liệt ngàn năm Bốn phương biển cả thanh bình, ban chiếu duy tân khắp chốn Xa gần bá cáo Ai nấy đều hay.” Niềm vui chiến thắng hòa lẫn với hào hứng bắt tay vào công cuộc mới, công cuộc xây dựng đất nước thời bình. Nguyễn Trãi cũng không quên ghi nhớ công lao của những thế hệ trước đã ngầm giúp đỡ. Như vậy, tư tưởng nhân nghĩa đã xuyên suốt tác phẩm, được minh chứng cụ thể bằng sự chiến thắng vẻ vang oanh liệt của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Trong cuộc khởi nghĩa ấy, một bên ngang tàng ngang sức, ác độc với lực lượng quân đội rất đông và mạnh, vũ khí tối tân hiện đại, còn một bên thiếu thốn trăm bề từ lực lượng đến lương thực… nhưng sau cùng, “đại nghĩa” đã thắng “hung tàn”. Đó cũng là một quy luật tất yếu của tự nhiên. Cái thiện luôn luôn chiến thắng cái ác.
Bài làm Một lần khi đang online facebook, tôi vô tình xem được một video kéo dài 2:55s, đoạn video là hình ảnh một người đàn ông đang dùng một chiếc ghế nhưa đập liên tiếp vào người phụ nữ, trong tay cô là đứa bé chừng một, hai tuổi em và một em chừng 6,7 tuổi đang gắng sức ngăn cản người đàn ông,miệng không ngừng van xin:” bố ơi, con xin bố, bố đừng đánh mẹ nữa! “ Bất giác, sống mũi tôi cay lên, tôi thấy thương người mẹ và hai em nhỏ đó. Trong chốc lát, tôi có cảm giác đứa bé đó là hình ảnh của tôi ngày bé, ngày mà tôi cũng đang gào khóc xin bố mẹ đừng đánh nhau nữa. Nỗi ám ảnh đó chắc chắn không phải là của riêng tôi mà còn là của hàng ngàn đứa trẻ khác đang ngày ngày chứng kiến cảnh bạo lực gia đình diễn ra ngay trong gia đình mình. Trước tiên, ta cùng tìm hiểu bạo lực gia đình là gì? Bạo lực gia đình là hành vi cố ý sử dụng vũ lực hoặc lời nói của các thành viên trong gia đình gây tổn hại hoặc đe doạ tổn hại đến các thành viên khác trong gia đình. Bạo lực gia đình được chia làm hai loại: bạo hành thể xác và bạo hành tinh thần. Nạn nhân của những vụ bạo hành gia đình chủ yếu là phụ nữ và trẻ em. Bạo hành gia đình luôn có cả bạo lực thể xác và tinh thần cụ thể thông qua các hành vi bạo hành sử dụng vũ lực, bao gồm đánh đập, gây thương tích hoặc những lời chửi mắng, hạ nhục với những lời lẽ thô thiển, nặng nề xâm phạm đến nhân phẩm và danh dự. Hiện trạng này diễn ra rất phổ biến ở Việt Nam, theo số liệu ngày 25/10/2010 của Tổng cục Thống kê có 32% phụ nữ từng kết hôn cho biết trải qua bạo lực thể chất trong đời, 6% đã trải qua bạo lực thể chất trong vòng 12 tháng. 54% bạo lực tinh thần trong cuộc đời, 25% bạo lực tinh thần trong12 tháng. Bạo lực bắt nguồn từ nhiều yếu tố, trong đó, đặc biệt là tính cách của người đàn ông – trụ cột của gia đình. Người con trai là con trưởng trong gia đình mắc thói “ gia trưởng “, những người này có tính cách ngang ngược, bảo thủ, nóng tính, luôn cho rằng mình là đúng nhất, là người quyết định tất cả công việc trong nhà, tiếng nói của người phụ nữ là bằng không, bạo lực có thể xảy ra khi bất đồng về quan điểm giữa hai vợ chồng. Ngoài ra sự suy thoái về đạo đức, cũng gây bạo lực gia đình. Gia đình gặp khó khăn kinh tế, nghiện ngập, cờ bạc thua lỗ, ghentuông, và nhằm giải quyết vấn đề tâm lý, người đàn ông sẵn sàng sử dụng vũ lực với vợ con mình. Những người gây ra bạo lực gia đình thường là không nhận thức được trách nhiệm và bổn phận của mình đối với các thành viên khác trong gia đình. Trầm trọng hơn, có những trường hợp bạo lực là do sự vô nhân tính, thiếu lương tâm của thủ phạm gây ra bạo lực. Họ không còn nghĩ đến tình thương, trách nhiệm, sự sẻ chia đối với những người đã sinh ra họ, những người đã cùng họ chia ngọt, sẻ bùi, hay những người do họ đã sinh ra. Chính họ đã làm cho gia đình không còn là mái ấm, mà trở thành địa ngục đối với những nạn nhân của bạo hành gia đình. Hậu quả của vấn nạn này trước tiên phải kể đến là tâm lý, thể chất của người bị bạo hành, người phụ nữ khi bị bạo hành sẽ rơi vào trạng thái sợ hãi, hoảng loạn và tổn thương tâm lý sau bạo hành, việc chăm sóc, giáo dục con cái không được đảm bảo, nạn nhân phải chịu những tổn thương thể chất, trong nhiều trường hợp là thương tật suốt đời, thậm chí là tử vong. Ly hôn là cách giải quyết tối ưu nhất trong trường hợp này nhưng hệ lụy của vấn đề vẫn chưa dừng lại, hạnh phúc gia đình tan vỡ ảnh hưởng rất nhiều đến tâm lý con cái, thiếu đi sự quan tâm của bố mẹ, con trẻ sẽ bỏ bê việc học hành, con trai dễ sa vào những tệ nạn xã hội, con gái khả năng tham gia các hoạt động mại dâm là rất cao. Các em nhỏ khi chứng kiến bạo lực hoặc bị bạo lực, bé gái khi lớn lên mang theo một nỗi sợ, nỗi hoài nghi với những người khác giới, bé trai khi tiếp xúc với bạo lực sẽ có khuynh hướng sử dụng bạo lực với người khác để giải quyết vấn đề.
Assignment One time while online on Facebook, I accidentally watched a video lasting 2:55 seconds. The video was an image of a man using a plastic chair to repeatedly hit a woman, in her arms was a baby about One or two year old children and one child, about 6 or 7 years old, were trying their best to stop the man, constantly begging: "Dad, I beg you, please don't hit me anymore!" “ Suddenly, my nose pricked up, I felt sorry for that mother and two children. For a moment, I felt like that baby was an image of me as a child, the day when I was also crying for my parents to stop fighting. That obsession is certainly not mine alone, but also that of thousands of other children who are witnessing domestic violence taking place right in their families every day. First, let's find out what domestic violence is? Domestic violence is the intentional use of force or words by family members to harm or threaten to harm other family members. Domestic violence is divided into two types: physical abuse and mental abuse. Victims of domestic violence are mainly women and children. Domestic violence always includes both specific physical and mental violence through violent acts using force, including beating, injuring or cursing, humiliating with crude words. , seriously violates dignity and honor. This situation is very common in Vietnam. According to data dated October 25, 2010 of the General Statistics Office, 32% of ever-married women said they had experienced physical violence in their lives, and 6% had experienced it. physical violence within 12 months. 54% of mental violence in life, 25% of mental violence in 12 months. Violence originates from many factors, especially the personality of the man - the breadwinner of the family. The son is the eldest son in a family with "patriarchal" habits, these people have a stubborn, conservative, hot-tempered personality, always think that they are the right one, and are the one who decides all the work in the house. A woman's voice is zero, violence can happen when there are disagreements between husband and wife. In addition, moral degradation also causes domestic violence. The family faces economic difficulties, addiction, gambling losses, jealousy, and in order to solve psychological problems, the man is willing to use force against his wife and children. People who commit domestic violence are often unaware of their responsibilities and obligations towards other family members. More seriously, there are cases where violence is caused by the inhumanity and lack of conscience of the perpetrator. They no longer think about love, responsibility, and sharing with the people who gave birth to them, the people with whom they shared happiness and joy, or the people they gave birth to. It is they who make the family no longer a home, but a hell for victims of domestic violence. The consequences of this problem must first be the psychology and physicality of the person being abused. When the woman is abused, she will fall into a state of fear, panic and psychological trauma after the violence. Children's care and education are not guaranteed, victims suffer physical injuries, in many cases lifelong disabilities, or even death. Divorce is the most optimal solution in this case, but the consequences of the problem have not stopped, broken family happiness greatly affects children's psychology, lack of care from parents and children. Children will neglect their studies, boys will easily fall into social evils, and girls will be more likely to participate in prostitution activities. When young children witness or experience violence, when girls grow up, they carry a fear and suspicion of the opposite sex; when boys are exposed to violence, they tend to use violence against others. others to solve the problem.
Bài làm Nguyễn Du (1766_1820) là “đại thi hào của dân tộc Việt Nam. Ông xuất thân trong một gia đình quan chức lớn. Bản thân ông cũng là mệnh quan triều đình những ông còn là 1 nhà thơ lớn có những đóng góp không nhỏ vào nền thi Việt Nam với những bài thơ văn đặc sắc có sức ảnh hưởng to lớn vào nền thi ca thế giới. Một trong số đó phải kể đến tác phẩm Truyện Kiều kể về cuộc đời của người con gái hồng nhan bạc phận thời phong kiến xinh đẹp: Thúy Kiều. Từ lúc gia đình gặp biến cố, Thúy Kiều bán mình chuộc cha, Kiều đã trải qua biết bao nhiêu sóng gió, bị vùi dập đủ đường, gặp phải biết bao đau đớn, tủi nhục, bị lừa lọc phải vào làm kỹ nữ ở lầu xanh. Những ngày tháng đau khổ ấy đã được Nguyễn Du tài tình miêu tả qua đoạn trích “Nỗi thương mình. Đoạn trích thuộc phần “Gia biến và lưu lạc từ câu 1229 đến câu 1248. “Biết bao bướm lả ong lời Cuộc say đầy tháng trận cười suốt đêm” Nguyễn Du đã sử dụng biện pháp ước lệ tượng trưng kết hợp với hình ảnh ẩn dụ “bướm ong” khái quát một cách trần trụi nhất về khung cảnh ăn chơi ồn ào, nha nhớ ở lầu xanh. Từ “Biết bao” được tác giả bỏ lên đầu câu như một sự nhấn mạnh về mức độ thường xuyên, số lượng nhiều đến mức không thể đếm được của “bướm, ong”. Ở đây, ta có thể hiểu “bướm là các kĩ nữ, “ong” là khách làng chơi. Những cô kĩ nữ đong đưa mời gọi lả lướt đón khách đến rồi lại đong đảnh tiễn khách về sau những cuộc ăn chơi trác táng. Những cuộc vui kín lịch đến “đầy tháng”, đến “suốt đêm”, những từ gợi tả thời gian liên tục, dày đặc được tác giả đưa vào sử dụng. Khung cảnh lầu xanh lộ rõ chân thực nhất là nơi nhậu nhẹt với từ “cuộc say”, ăn uống, vui chơi, đàn đúm của khách làng chơi với từ “trận cười”. “Dập dìu lá gió cành chim Sớm đưa Tống Ngọc, tối tìm Trường Khanh” Tác giả đã kết hợp tài tình, đan xen giữa biện pháp đối xứng “lá gió” với “cành chim”, “sớm đưa” với “tối tìm” cùng với các điển tích điển cố “lá gió cành chim”, “Tống Ngọc Trường Khanh để cho thấy lầu xanh là nơi mà những người đàn ông xa lạ từ bốn phương tám hướng tụ về vui chơi. Những cô kĩ nữ phải tiếp những nguời xa lạ ấy mà không được quyền lựa chọn, than vãn ai. Miễn họ có tiền, họ được quyền làm chủ cuộc chơi. Qua đó, bộc lộ rõ tâm trạng của Kiều đau đớn, bẽ bàng và nhục nhã khôn xiết cho thân phận nghiệt ngã của bản thân mình. Đại thi hào Nguyễn Du khéo léo kết hợp việc tách từ với tiểu đối, đối xứng không chỉ nhằm mục đích tái hiện tình cảnh trớ trêu của Kiều ở lầu xanh mà còn thể hiện cái nhìn cảm thông, trân trọng đối với nhân vật của mình. “Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh Giật mình mình lại thương mình xót xa” Người ta thường nói “kẻ thù lớn nhất của mình chính là chính mình”. Thật vậy, sống trong cảnh lầu xanh nhơ nháp, đầy tủi nhục, những thiếu nữ bị buộc phải mua vui cho cánh đàn ông như Kiều có lẽ sợ nhất là “khi tỉnh rượu, lúc tàn canh” là khi họ đối diện với chính bản thân mình. Họ tỉnh táo nhận thấy rõ mình là ai, đang làm gì và cảm thấy cô đơn, nhục.nhã. Nàng kiều cang ý thức sâu sắc hơn về nhân phẩm của mình. Mới đầu, nàng chợt “giật mình”, bàng hoàng, ngơ ngác vì nghĩ đây là ác mộng nhưng đau đớn thay, ác mộng lại biến thành hiện thực. Kiều đã biến thành con người hoàn toàn khác, con người mà trước đây nàng chưa từng nghĩ tới. Sau khi đã “tỉnh rượu lại càng “thương mình” hơn, “xót xa” và cô đơn hơn. Sự cô đơn đó được tác giả diễn đạt bằng ba từ “mình” trong một câu thơ. Chưa bao giờ, nàng Kiều chua xót đến thế. Nàng ý thức được nhân cách, phẩm giá của bản thân, càng nhận thức rõ ràng hơn quyền tự do, quyền sống của bản thân bị xâm phạm. Đó là lúc giọt nước mắt “xót xa”, tiếng khóc nấc lẫn tiếng thở dài của nỗi đau người kĩ nữ. Nỗi đau đó không thể san sẻ với ai. Tác giả không chỉ sử dụng những từ ngữ chỉ lông gian, thời gian mà còn dùng nhịp thơ để vẽ lên tâm trạng xót xa cho thân phận mình của nàng Kiều. Câu trước nhịp 3/3 là bước đi của thời gian. Câu sau với nhịp thơ 2/4/2 diễn tả sự đứt gãy trong tâm trạng nhân vật. “Khi sao phong gấm rủ là Giờ sao tan tác như hoa giữa đường Mặt sao dày gió dạn sương Thân sao bướm chán ong chừng bất thân” Bằng việc sử dụng biện pháp đối xứng giữa việc hồi tưởng quá khứ với hiện tại như “khi sao” đối lập với “giờ sao”, “phong gấm rủ là” đối lập với “tan tác như hoa giữa đường tô đậm cuộc sống hiện tại đầy tủi nhục, ê chề của nhân vật. Ngày xưa, nàng sống trong êm đều, hạnh phúc, no đủ và bình yên, còn bây giờ nàng chán chường, mệt mỏi và ghê sợ chính bản thân mình. Biện pháp lặp từ “sao” đến bốn lần kết hợp với việc sử dụng thành ngữ biến tấu một cách sáng tạo “dày gió dạn sương”, “bướm chán ong chường” tạo giọng thơ chán ngán, buồn khổ. Qua đây, tác giả đã thể hiện rõ tâm trạng đau đớn, tủi nhục đến tận tim gan của nàng Kiều thi thân thể, nhân phẩm bị vùi dập, chà đạp phũ phàng đến thế. Nàng Kiều.như tự tra vấn, giày vò bản thân, kết án chính mình qua hàng loạt từ để hỏi và cảm thán như “khi sao”, “giờ sao”, “mặt sao”, “thân sao”. Nàng chất vấn, oán trách, căm hận số phận đã thay đổi thân phận, giá trị con người mình. “Mặc người mưa Sở, mây Tần Những mình nào biết có xuân là gì” Từ “mặc” thể hiện sự bất lực, phó mặc mọi việc muốn ra sao cũng được đến mức buông bỏ bản thân vì Kiều chẳng thể thay đổi được gì. Từ “người” đối lập với từ “mình” ở đây chỉ số lượng nhiều của khách làng chơi phải tiếp với số lượng ít là 1 mình Kiều. Đây là tận cùng nỗi đâu thể xác tinh thần của nàng. Sống đời làm vợ thế gian thì không còn “Biết có xuân là gì”, cũng không biết hạnh phúc lứa đôi khi tết đến xuân về. Ngày này qua ngày khác, kể cho người ta “mây sở mưa tầng thì nàng cũng kệ. “Đòi phen gió tựa hoa kề Nửa rèm tuyết ngậm bốn bề trăng thâu Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu Người buồn cảnh có vui đây bao giờ Đòi phen nét vẽ câu thơ Cung cầm trong nguyệt nước cờ dưới hoa Vui là vui gượng kẻo là Ai tri âm đó mặn mà với ai” Mặc dù được ngụy trang khéo léo bằng bức tranh ngoại cảnh thiên nhiên xinh đẹp, tao nhã với phong, hoa, tuyết, nguyệt, đầy đủ cầm kì thi họa nhưng cảnh đẹp nên thơ ấy lại như một sự giễu cợt, mỉa mai chua chát cho cái chốn “buôn thịt bán người” bẩn thỉu, nhơ nháp bên trong, cho số phận hẩm hiu của Kiều. Bởi vậy nên nàng từng muốn thây đổi nắm lấy số phận của mình. Điều đó đựơc biểu hiện qua việc lặp từ “đòi phen”. Đoạn thơ còn vẽ lên hình ảnh tương phản của nàng Kiều. Một mặt, nàng xinh đẹp, vui vẻ giả tạo đón khách. Một mặt, nàng cô đơn, tủi nhục, đau đớn, xót xa mỗi lúc canh tàn. Người buồn thì khi “gió tựa hoa kề”, khi có cung cầm thi họa cũng không làm vui lòng người kĩ nữ ấy được. Nỗi sầu nghẹn ứ trong lòng Kiều lan tỏa sang cảnh vật: “Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ” Câu thơ như lời tuyên bố của tác giả về việc khái quát tâm lý chung của con người thành quy luật, nói lên giữa ngoại cảnh và tâm cảnh. Người ta thường lấy thiên nhiên miêu tả tâm trạng của con người nhưng ở đây, Nguyễn Du đã sử dụng cả hai cách: thiên nhiên hô ứng và Thiên nhiên đối ứng. Hô ứng: cảnh buồn cùng tâm trạng con người. Đối ứng: cảnh đẹp mỉa mai, chế giễu, dằn vặt nhân vật. Dù bằng các cách khác nhau nhưng tất cả các cảnh thiên nhiên ấy đều tập trung lột tả thế giới nội tâm nhân vật. Xung quanh Kiều là những gì đẹp nhất, hoan lạc nhất của thiên nhiên, cuộc sống, những nàng vẫn vô cảm, lạc lõng. Thân xác trở thành hàng hóa, trò chơi thì còn gì là vui sướng. “Ai trI ân đó mặn mà với ai. Thật vậy, sống trong cảnh nhơ nháp, tạp nham chốn lầu xanh là điều bất dĩ đối với Kiều, giữa nơi đồng tiền ngự trị, nàng chỉ đau đớn hơn thôi. Tìm đâu được người tri âm, tri kỷ? Phút giây tia hi vọng le lói trong tâm trí nàng cũng chợt tắt. Sự lẻ loi của nhân vật cũng chính là sự lẻ loi của tác giả. Như lúc đứng trước mộ Tiểu Thanh, Nguyễn Du có câu này:
Bài làm Nguyễn Du (1766_1820) là “đại thi hào của dân tộc Việt Nam. Ông xuất thân trong một gia đình quan chức lớn. Bản thân ông cũng là mệnh quan triều đình những ông còn là 1 nhà thơ lớn có những đóng góp không nhỏ vào nền thi Việt Nam với những bài thơ văn đặc sắc có sức ảnh hưởng to lớn vào nền thi ca thế giới. Một trong số đó phải kể đến tác phẩm Truyện Kiều kể về cuộc đời của người con gái hồng nhan bạc phận thời phong kiến xinh đẹp: Thúy Kiều. Từ lúc gia đình gặp biến cố, Thúy Kiều bán mình chuộc cha, Kiều đã trải qua biết bao nhiêu sóng gió, bị vùi dập đủ đường, gặp phải biết bao đau đớn, tủi nhục, bị lừa lọc phải vào làm kỹ nữ ở lầu xanh. Những ngày tháng đau khổ ấy đã được Nguyễn Du tài tình miêu tả qua đoạn trích “Nỗi thương mình. Đoạn trích thuộc phần “Gia biến và lưu lạc từ câu 1229 đến câu 1248. “Biết bao bướm lả ong lời Cuộc say đầy tháng trận cười suốt đêm” Nguyễn Du đã sử dụng biện pháp ước lệ tượng trưng kết hợp với hình ảnh ẩn dụ “bướm ong” khái quát một cách trần trụi nhất về khung cảnh ăn chơi ồn ào, nha nhớ ở lầu xanh. Từ “Biết bao” được tác giả bỏ lên đầu câu như một sự nhấn mạnh về mức độ thường xuyên, số lượng nhiều đến mức không thể đếm được của “bướm, ong”. Ở đây, ta có thể hiểu “bướm là các kĩ nữ, “ong” là khách làng chơi. Những cô kĩ nữ đong đưa mời gọi lả lướt đón khách đến rồi lại đong đảnh tiễn khách về sau những cuộc ăn chơi trác táng. Những cuộc vui kín lịch đến “đầy tháng”, đến “suốt đêm”, những từ gợi tả thời gian liên tục, dày đặc được tác giả đưa vào sử dụng. Khung cảnh lầu xanh lộ rõ chân thực nhất là nơi nhậu nhẹt với từ “cuộc say”, ăn uống, vui chơi, đàn đúm của khách làng chơi với từ “trận cười”. “Dập dìu lá gió cành chim Sớm đưa Tống Ngọc, tối tìm Trường Khanh” Tác giả đã kết hợp tài tình, đan xen giữa biện pháp đối xứng “lá gió” với “cành chim”, “sớm đưa” với “tối tìm” cùng với các điển tích điển cố “lá gió cành chim”, “Tống Ngọc Trường Khanh để cho thấy lầu xanh là nơi mà những người đàn ông xa lạ từ bốn phương tám hướng tụ về vui chơi. Những cô kĩ nữ phải tiếp những nguời xa lạ ấy mà không được quyền lựa chọn, than vãn ai. Miễn họ có tiền, họ được quyền làm chủ cuộc chơi. Qua đó, bộc lộ rõ tâm trạng của Kiều đau đớn, bẽ bàng và nhục nhã khôn xiết cho thân phận nghiệt ngã của bản thân mình. Đại thi hào Nguyễn Du khéo léo kết hợp việc tách từ với tiểu đối, đối xứng không chỉ nhằm mục đích tái hiện tình cảnh trớ trêu của Kiều ở lầu xanh mà còn thể hiện cái nhìn cảm thông, trân trọng đối với nhân vật của mình. “Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh Giật mình mình lại thương mình xót xa” Người ta thường nói “kẻ thù lớn nhất của mình chính là chính mình”. Thật vậy, sống trong cảnh lầu xanh nhơ nháp, đầy tủi nhục, những thiếu nữ bị buộc phải mua vui cho cánh đàn ông như Kiều có lẽ sợ nhất là “khi tỉnh rượu, lúc tàn canh” là khi họ đối diện với chính bản thân mình. Họ tỉnh táo nhận thấy rõ mình là ai, đang làm gì và cảm thấy cô đơn, nhục.nhã. Nàng kiều cang ý thức sâu sắc hơn về nhân phẩm của mình. Mới đầu, nàng chợt “giật mình”, bàng hoàng, ngơ ngác vì nghĩ đây là ác mộng nhưng đau đớn thay, ác mộng lại biến thành hiện thực. Kiều đã biến thành con người hoàn toàn khác, con người mà trước đây nàng chưa từng nghĩ tới. Sau khi đã “tỉnh rượu lại càng “thương mình” hơn, “xót xa” và cô đơn hơn. Sự cô đơn đó được tác giả diễn đạt bằng ba từ “mình” trong một câu thơ. Chưa bao giờ, nàng Kiều chua xót đến thế. Nàng ý thức được nhân cách, phẩm giá của bản thân, càng nhận thức rõ ràng hơn quyền tự do, quyền sống của bản thân bị xâm phạm. Đó là lúc giọt nước mắt “xót xa”, tiếng khóc nấc lẫn tiếng thở dài của nỗi đau người kĩ nữ. Nỗi đau đó không thể san sẻ với ai. Tác giả không chỉ sử dụng những từ ngữ chỉ lông gian, thời gian mà còn dùng nhịp thơ để vẽ lên tâm trạng xót xa cho thân phận mình của nàng Kiều. Câu trước nhịp 3/3 là bước đi của thời gian. Câu sau với nhịp thơ 2/4/2 diễn tả sự đứt gãy trong tâm trạng nhân vật. “Khi sao phong gấm rủ là Giờ sao tan tác như hoa giữa đường Mặt sao dày gió dạn sương Thân sao bướm chán ong chừng bất thân” Bằng việc sử dụng biện pháp đối xứng giữa việc hồi tưởng quá khứ với hiện tại như “khi sao” đối lập với “giờ sao”, “phong gấm rủ là” đối lập với “tan tác như hoa giữa đường tô đậm cuộc sống hiện tại đầy tủi nhục, ê chề của nhân vật. Ngày xưa, nàng sống trong êm đều, hạnh phúc, no đủ và bình yên, còn bây giờ nàng chán chường, mệt mỏi và ghê sợ chính bản thân mình. Biện pháp lặp từ “sao” đến bốn lần kết hợp với việc sử dụng thành ngữ biến tấu một cách sáng tạo “dày gió dạn sương”, “bướm chán ong chường” tạo giọng thơ chán ngán, buồn khổ. Qua đây, tác giả đã thể hiện rõ tâm trạng đau đớn, tủi nhục đến tận tim gan của nàng Kiều thi thân thể, nhân phẩm bị vùi dập, chà đạp phũ phàng đến thế. Nàng Kiều.như tự tra vấn, giày vò bản thân, kết án chính mình qua hàng loạt từ để hỏi và cảm thán như “khi sao”, “giờ sao”, “mặt sao”, “thân sao”. Nàng chất vấn, oán trách, căm hận số phận đã thay đổi thân phận, giá trị con người mình. “Mặc người mưa Sở, mây Tần Những mình nào biết có xuân là gì” Từ “mặc” thể hiện sự bất lực, phó mặc mọi việc muốn ra sao cũng được đến mức buông bỏ bản thân vì Kiều chẳng thể thay đổi được gì. Từ “người” đối lập với từ “mình” ở đây chỉ số lượng nhiều của khách làng chơi phải tiếp với số lượng ít là 1 mình Kiều. Đây là tận cùng nỗi đâu thể xác tinh thần của nàng. Sống đời làm vợ thế gian thì không còn “Biết có xuân là gì”, cũng không biết hạnh phúc lứa đôi khi tết đến xuân về. Ngày này qua ngày khác, kể cho người ta “mây sở mưa tầng thì nàng cũng kệ. “Đòi phen gió tựa hoa kề Nửa rèm tuyết ngậm bốn bề trăng thâu Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu Người buồn cảnh có vui đây bao giờ Đòi phen nét vẽ câu thơ Cung cầm trong nguyệt nước cờ dưới hoa Vui là vui gượng kẻo là Ai tri âm đó mặn mà với ai” Mặc dù được ngụy trang khéo léo bằng bức tranh ngoại cảnh thiên nhiên xinh đẹp, tao nhã với phong, hoa, tuyết, nguyệt, đầy đủ cầm kì thi họa nhưng cảnh đẹp nên thơ ấy lại như một sự giễu cợt, mỉa mai chua chát cho cái chốn “buôn thịt bán người” bẩn thỉu, nhơ nháp bên trong, cho số phận hẩm hiu của Kiều. Bởi vậy nên nàng từng muốn thây đổi nắm lấy số phận của mình. Điều đó đựơc biểu hiện qua việc lặp từ “đòi phen”. Đoạn thơ còn vẽ lên hình ảnh tương phản của nàng Kiều. Một mặt, nàng xinh đẹp, vui vẻ giả tạo đón khách. Một mặt, nàng cô đơn, tủi nhục, đau đớn, xót xa mỗi lúc canh tàn. Người buồn thì khi “gió tựa hoa kề”, khi có cung cầm thi họa cũng không làm vui lòng người kĩ nữ ấy được. Nỗi sầu nghẹn ứ trong lòng Kiều lan tỏa sang cảnh vật: “Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ” Câu thơ như lời tuyên bố của tác giả về việc khái quát tâm lý chung của con người thành quy luật, nói lên giữa ngoại cảnh và tâm cảnh. Người ta thường lấy thiên nhiên miêu tả tâm trạng của con người nhưng ở đây, Nguyễn Du đã sử dụng cả hai cách: thiên nhiên hô ứng và Thiên nhiên đối ứng. Hô ứng: cảnh buồn cùng tâm trạng con người. Đối ứng: cảnh đẹp mỉa mai, chế giễu, dằn vặt nhân vật. Dù bằng các cách khác nhau nhưng tất cả các cảnh thiên nhiên ấy đều tập trung lột tả thế giới nội tâm nhân vật. Xung quanh Kiều là những gì đẹp nhất, hoan lạc nhất của thiên nhiên, cuộc sống, những nàng vẫn vô cảm, lạc lõng. Thân xác trở thành hàng hóa, trò chơi thì còn gì là vui sướng. “Ai trI ân đó mặn mà với ai. Thật vậy, sống trong cảnh nhơ nháp, tạp nham chốn lầu xanh là điều bất dĩ đối với Kiều, giữa nơi đồng tiền ngự trị, nàng chỉ đau đớn hơn thôi. Tìm đâu được người tri âm, tri kỷ? Phút giây tia hi vọng le lói trong tâm trí nàng cũng chợt tắt. Sự lẻ loi của nhân vật cũng chính là sự lẻ loi của tác giả. Như lúc đứng trước mộ Tiểu Thanh, Nguyễn Du có câu này:
Bài làm Sau tám mươi năm sống với ách đô hộ chế độ thực dân ở Việt Nam, ngày 2 tháng 9 năm 1945, tại quảng trường Ba Đình, Hà Nội, chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản “Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Tuyên ngôn độc lập không chỉ là cột mốc quan trọng trong lịch sử đất nước Việt Nam mà còn mang những giá trị khác vô cùng to lớn cho văn chương cũng như cho đời sống con người Việt Nam và trên toàn thế giới. Đầu tiên, phải nói đến giá trị lịch sử của bản tuyên ngôn độc lập. Tuyên ngôn độc lập là một văn kiện quan trọng đúc kết nguyện vọng của dân tộc Việt Nam về quyền độc lập tự do của dân tộc Việt Nam nói riêng và của các dân tộc đang bị mất quyền tự do, bình đẳng nói chung. Mở đầu bản Tuyên ngôn độc lập là hai câu trích dẫn từ Tuyên ngôn độc lập năm 1776 của nước Mỹ: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy có quyền được sống, quyền tự do và mưu cầu hạnh phúc.” Tiếp theo, là tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền năm 1791 của nước Pháp:” Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi.” Tất cả các quyền ấy được quy tụ về lời khẳng định độc lập của dân tộc Việt Nam:”Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do.” Đây là những quyền cơ bản đầu tiên tự nhiên của dân tộc. Bản tuyên ngôn độc lập là kết quả của quá trình đấu tranh hơn một trăm năm của dân tộc ta chống giặc ngoại xâm. Đằng sau những lời tuyên ngôn độc lập là sự thật lịch sử, là hình ảnh của một đất nước, một dân tộc trong những năm đen tối đau thương dưới ách thống trị của kẻ thù với những lần thất bại, những lần hi sinh để cuối cùng chúng ta đã có được cuộc cách mạng tháng 8 năm 1945. Tuyên ngôn độc lập là kết quả của biết bao nhiêu máu và nước mắt, tính mạng và của cải của những con người anh hùng Việt Nam từ đồng bằng đến vùng núi, miền biển, trên tất cả các mặt trận những con người anh hùng. Độc lập dân tộc bây giờ cũng gắn liền với tự do, hạnh phúc và quyền sống của con người. Đó là những nhu cầu thiết yếu của một con nguời. Quy luật ấy khái quát chung cho toàn thể các dân tộc trên thế giới. Tuyên ngôn độc lập không chỉ tạo ra một kỷ nguyên mới của dân tộc Việt Nam_ kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Sau khi giành độc lập năm 1945, quyền con người, quyền công dân đã được ghi nhận trong Hiến pháp năm 1946 của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Sau đó, ngày càng phát triển và được sửa đổi bổ sung cho phù hợp với từng thời kỳ của đất nước ta. Đó là cơ sở pháp lý vững chãi để thực hiện tốt quyền con người, quyền công dân trong chế độ mới. Không chỉ mang giá trị lịch sử to lớn như thế, Tuyên ngôn độc lập còn mang giá trị tầm cỡ quốc tế về mặt văn chương. Tuyên ngôn độc lập là một áng văn chính luận mẫu mực. Với từ ngữ rất ngắn gọn, súc tích, Bác Hồ của của chúng ta đã cô đọng được những gì cần nói trong một bài văn chính luận bất hủ giàu sức thuyết phục, tác động mạnh mẽ đến người nghe, người đọc.
Assignment After eighty years of living under colonial rule in Vietnam, on September 2, 1945, at Ba Dinh Square, Hanoi, President Ho Chi Minh read the "Declaration of Independence to give birth to the country". Democratic Republic of Vietnam. The Declaration of Independence is not only an important milestone in Vietnam's history but also carries other extremely great values ​​for literature as well as for human life in Vietnam and around the world. First, we must talk about the historical value of the declaration of independence. The Declaration of Independence is an important document summarizing the aspirations of the Vietnamese people for the right to independence and freedom of the Vietnamese people in particular and of peoples who are losing their rights to freedom and equality in general. The Declaration of Independence begins with two quotes from the 1776 American Declaration of Independence: “All men are created equal. The Creator gave them inalienable rights, among those rights are the right to life, liberty and the pursuit of happiness. Next, is the 1791 French declaration of human and civil rights: "Men are born free and have equal rights and must always be free and have equal rights." All those rights are gathered in the affirmation of independence of the Vietnamese people: "All peoples in the world are created equal, all peoples have the right to life, the right to happiness and the right to freedom." .” These are the first basic natural rights of the nation. The Declaration of Independence is the result of our nation's more than one hundred year struggle against foreign invaders. Behind the declarations of independence are historical truths, the image of a country and a people in the dark and painful years under the yoke of the enemy, with many failures and sacrifices to We finally had the revolution of August 1945. The Declaration of Independence was the result of so much blood and tears, the lives and property of heroic Vietnamese people from the plains to the mountains. , coastal region, heroic people on all fronts. National independence is now also associated with freedom, happiness and the right to life of people. Those are the essential needs of a human being. That rule generalizes to all peoples in the world. The Declaration of Independence not only created a new era for the Vietnamese people - an era of national independence associated with socialism. After gaining independence in 1945, human rights and civil rights were recognized in the 1946 Constitution of the Democratic Republic of Vietnam. After that, it increasingly developed and was amended and supplemented to suit each period of our country. That is a solid legal basis for good implementation of human rights and civil rights in the new regime. Not only does it have such great historical value, the Declaration of Independence also has international literary value. The Declaration of Independence is an exemplary political essay. With very short and concise words, our Uncle Ho has condensed what needed to be said into an immortal political essay that is rich in persuasion and has a strong impact on listeners and readers.
Bài làm Nằm trong kho tàng văn học dân gian hay còn gọi là văn học bình dân không cần đến những “khuôn vàng, thước ngọc”, những điển tích, điển cố cầu kì, xa hoa. Ca dao, dân ca, đồng dao chỉ bình dị, giản đơn và gần giũi. Bởi ca dao, dân ca chính là “tấm gương” phản ánh chân thực nhất đời sống vật chất cũng như đời sống tinh thần của ông cha ta “ngày xưa”. Đặc biệt là những bài đồng giao dành cho trẻ nhỏ vui đùa lúc chăn trâu, cắt cỏ. Dễ thuộc, dễ nhớ nhưng vẫn mang đầy đủ vẻ đẹp “muôn hình, vạn trạng” của thiên nhiên, cuộc sống. Nổi bật phải kể đến bài đồng dao “Bao giờ cho đến tháng ba”. Mở đầu bài đồng dao là một câu hỏi “Bao giờ cho đến tháng ba?”. Câu hỏi mang sự mong ngóng đó đã ngay lập tức gây hứng thú đặc biệt cho độc giả. Tại sao? vì sao? tháng ba có gì đặc biệt? có gì thú vị? mà lại khiến nhân dân mong chờ đến vậy? Để giả thích, trả lời câu hỏi đó, ở những câu kế tiếp, bài đồng dao mang đến một loạt những hiện tượng cực kì thú vị, bất ngờ về thế giới tự nhiên cũng như đời sống sinh hoạt của con người. “Ếch cắn cổ rắn tha ra ngoài đồng, Hùm nằm cho lợn liếm lông”, nghe mới lạ lẫm, ngược đời làm sao. Và có lẽ chẳng bao giờ những hiện tượng này xảy ra trong thực tế. Ếch vốn dĩ là một loài động vật hiền lành, không có chất độc, không có móng vuốt, một miếng mồi ngon lành cho những con rắn với răng nanh, nọc độc đáng sợ, loài bò sát nguy hiểm nhất thế giới tự nhiên. Tương tự, lợn cũng vậy hiền lành, miếng mồi béo ngậy cho hùm khỏe mạnh, nguy hiểm được mệnh danh là “chúa tể muôn loài”. Ấy vậy mà ở đây mọi việc lại đảo ngược hoàn toàn ếch có thể “cắn” cổ rắn tha ra ngoài đồng, hùm oai phong, lẫm liệt là thế lại phải nằm im lặng, ngoan ngoãn để lợn “liếm” lông. Thật là những hiện tượng lạ kỳ, có lẽ chỉ xảy ra ở “tháng ba” trong những bài đồng giao thế này. “Tháng ba” trong thế giới động vật ếch có thể trả được mối thù truyền kiếp với rắn, lợn và hùm cũng đã “thay bậc đổi ngôi”. Vậy còn đối với thế giới loài người thì sao? “Một chục quả hồng nuốt lão tám mươi, Năm xôi nuốt trẻ lên mười Con gà be rượu nuốt người lao đao”. Quả hồng nhỏ nhắn, màu đỏ thắm, xinh tươi được coi là món quà quý của con cháu dành tặng ông bà nhân dịp lễ mừng thọ tám mươi, chín mươi với ý nghĩa chúc tụng, thể hiện lòng hiếu thảo, kính yêu. Còn nắm xôi thơm dẻo, ngon lành là thức quà hấp dẫn mọi đứa trẻ. Vẫn sử dụng nghệ thuật chơi chữ nói ngược đầy thú vị, hoán đổi vị trí vốn có của con người. Từ thưởng thức món ngon nay lại bị những “quả hồng”, “nắm xôi” “nuốt” trọn. Đem đến cho người đọc, người nghe những tiếng cười vui vẻ, sảng khoái. Thế nhưng trong cuộc sống đâu chỉ có những điều đẹp đẽ, đâu chỉ có lòng yêu mến, hiếu thảo của con cháu danh cho ông bà, cha mẹ, đâu chỉ có sự hồn nhiên, đáng yêu của trẻ nhỏ mà còn có cả “Con gà be rượu nuốt người lao đao” là đảo ngược những cũng chẳng phải đảo ngược. “Người lao đao” ở đây mà các tác giả dân gian muốn nhắc đến chính là những người khi say rượu, những người bị men rượu làm cho lảo đảo, lao đao, bước đi không vững, tâm trí không thông thì thực sự bị những “be rượu”, “con gà”, mồi nhắm nuốt trọn chứ chẳng phải là người “nuốt” những be rượu, “nuốt” những con gà. Cuộc sống không chỉ tồn tại những điều tốt đẹp, đáng yêu, đáng khen ngợi, học hỏi mà còn rất nhiều điều đáng phê phán, lên án, những thói hư tật xấu. Rượu say “quên đất, quên trời” một thói xấu không chỉ hao tiền, tốn của mà còn gây hại cho sức khỏe của con người. Câu đồng dao đã rất thành công trong việc mỉa mai, châm biếm thói rượu say của một bộ phận người trong xã hội đồng thời vẫn giữ nguyên vẹn tiếng cười giòn giã, sảng khoái vốn có. Những câu thơ cuối, bài đồng dao vẫn giữ nguyên nghệ thuật chơi chữ nói ngược. Không chỉ đem đến tiếng cười mà còn mang lại những kiến thức đầu đời vô cùng bổ ích và thú vị cho trẻ nhỏ: “Lươn nằm cho trúm bò vào, Một đàn cào cào đuổi bắt cá rô. Lúa mạ nhảy lên ăn bò, Cỏ non, cỏ lác rình mò bắt trâu. Gà con đuổi đánh diều hâu, Chim ri đuổi đánh vỡ đàu bồ nông.” Những câu đồng dao, dễ thuộc, dễ nhớ, gây hứng thú cho trẻ thơ và chỉ cần đảo ngược lại vị trí hình ảnh các em đã tự tích lũy cho mình nhiều kiến thức về thế giới tự nhiên, và xã hội loài người vô cùng bổ ích. Các em sẽ biết khi bắt lươn cần dùng trúm; trâu, bò ăn cỏ, ăn lúa; gà con, chim ri là miếng mồi của diều hâu, bồ nông,…Bằng nghệ thuật chơi chữ nói ngược kết hợp nhuần nhuyễn với những hình ảnh thiên nhiên, động vật quen thuộc, những hình thức sinh hoạt, lao động của con người bài đồng dao đã thành công trong nhiệm vụ đem đến tiếng cười hồn nhiên, vui vẻ cùng kiến thức bổ ích, hấp dẫn cho trẻ nhỏ. Bên cạnh tiếng cười hồn nhiên, sảng khoái cũng như mọi thể loại khác nằm trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam ta. Bài đồng dao còn là phương tiện gửi gắm tâm tư, tình cảm của nhân dân lao động trong xã hội phong kiến đầy rẫy những áp bức, bất công. Trong xã hội phong kiến khi xưa với sự phân biệt sâu sắc giữa kẻ giàu và người nghèo, giữa tầng lớp thống trị và bị trị. Trong xã hội ấy nhân dân lao động là thân phận thấp hèn, không chút quyền hành phải chịu sự thống trị tuyệt đối của tầng lớp vua chúa, quý tộc – những kẻ thống trị. Họ là những thân phận nhỏ bé, thấp hèn như con ong, cái kiến, con ếch, con lợn,.. luôn luôn là miếng mồi ngon, luôn luôn bị đè đầu cỡi cổ bởi những con rắn, con hùm, cái trúm,… Chính vì cuộc sống có quá nhiều áp bức, bóc lột, bất công nhân dân đã khao khát, mong chờ “tháng ba”. Nếu như nhân dân mong nghóng: “Bao giờ cho đến tháng mười Ta đem liềm hái ra ngoài ruộng ta Gặt hái ta đem về nhà Phơi khô quạt sạch ấy là xong công”
Assignment Being part of the treasure trove of folk literature, also known as popular literature, does not need "golden molds, jade rulers", elaborate and lavish classics and classics. Folk songs, folk songs, and nursery rhymes are just plain, simple, and close. Because folk songs and folk songs are the "mirror" that most truly reflects the material life as well as the spiritual life of our ancestors "in the past". Especially the rhymes are for children to have fun while herding buffalo and mowing grass. Easy to memorize, easy to remember but still full of the "many shapes and sizes" of nature and life. The highlight is the nursery rhyme "When will it be March?" The rhyme begins with a question: "When will it be March?". The question carrying that expectation immediately caused special interest to readers. Why? Why? What's special about March? What's interesting? But what makes people look forward to it so much? To explain and answer that question, in the following sentences, the nursery rhyme brings up a series of extremely interesting and unexpected phenomena about the natural world as well as human daily life. “The frog bit the snake's neck and carried it out into the field, "The tiger lay down and let the pig lick his fur", which sounds so strange and paradoxical. And perhaps these phenomena never happen in reality. Frogs are inherently a gentle animal, without poison, without claws, a delicious prey for snakes with fangs and terrifying venom, the most dangerous reptiles in the natural world. Similarly, pigs are also gentle, fatty prey for healthy and dangerous lobsters, known as the "lord of all species". Yet here everything is completely reversed. Frogs can "bite" a snake's neck and let it out into the field. The tiger, so majestic and majestic, has to lie quietly and obediently to let the pig "lick" its fur. These are strange phenomena, perhaps only occurring in "March" in rhymes like this. In "March" in the animal world, frogs can avenge their long-standing feud with snakes, pigs and lobsters and have also "changed their status". So what about the human world? “A dozen persimmons swallow eighty, Five years of sticky rice swallowed by a ten-year-old child The drunken chicken swallows the struggling person." The small, crimson, beautiful persimmon is considered a precious gift from children and grandchildren to grandparents on the occasion of the eightieth or ninetieth birthday celebration with the meaning of congratulation, showing filial piety and love. A handful of fragrant, delicious sticky rice is an attractive gift for all children. Still using the interesting art of playing words backwards, exchanging the inherent positions of people. From enjoying delicious dishes, I have now been completely "swallowed" by "persimmons" and "sticky rice balls". Bringing readers and listeners happy and refreshing laughter. But in life there are not only beautiful things, not only the love and filial piety of children and grandchildren for their grandparents and parents, not only the innocence and loveliness of children, but also " "The drunken chicken swallows the struggling person" is a reversal but it is not a reversal. The "suffering people" here that folk authors want to mention are people who are drunk, people who are staggered by alcohol, who stumble, walk unsteadily, and whose mind is not clear, they are really suffering from depression. The "wine bottles" and "chickens" are intended to be swallowed whole, not the people who "swallow" the wine bottles or "swallow" the chickens. Life not only has good, lovely things worth praising and learning from, but also many things worth criticizing, condemning, and bad habits. Being drunk "forgets the earth, forgets the sky" is a bad habit that not only wastes money and property but is also harmful to human health. The rhyme has been very successful in satirizing and satirizing the drunkenness of a part of society while still maintaining its inherent crisp, refreshing laughter. The last verses and rhymes still retain the art of playing words in reverse. Not only does it bring laughter, but it also brings extremely useful and interesting early life knowledge to children: “The eel lies down for the cow to hide in, A flock of locusts chases perch. Rice paddy jumped up to eat cows, Young grass and sedge grass prowl to catch buffalo. The chicks chase and fight the hawk, The bird chased and broke the pelican's head." The rhymes are easy to memorize, easy to remember, interesting to children, and by simply reversing the position of the images, children have accumulated for themselves a lot of knowledge about the natural world, and the infinite human society. same useful. Children will know that when catching eels, they need to use traps; Buffaloes and cows eat grass and rice; Chicks and birds are the prey of hawks, pelicans, etc. Using the art of playing words in reverse, cleverly combining with familiar images of nature, animals, and forms of human activity and labor. The nursery rhyme has succeeded in its mission of bringing innocent, happy laughter and useful, attractive knowledge to children. Besides innocent, refreshing laughter as well as all other genres in the treasure of Vietnamese folk literature. Rhymes are also a means of conveying the thoughts and feelings of working people in a feudal society full of oppression and injustice. In ancient feudal society, there was a deep distinction between the rich and the poor, between the ruling class and the ruled. In that society, the working people had a lowly status, without any power, and were subject to the absolute domination of the class of kings and aristocrats - the rulers. They are small, lowly beings like bees, ants, frogs, pigs, etc., always delicious prey, always oppressed by snakes, lobsters, crabs, etc. ... Because life has so much oppression, exploitation, and injustice, people yearn and look forward to "March". If people expect: “How long until October? I took the sickle out into my field We reap the harvest and bring it home Let the fan dry and clean and the job is done.
Bài làm Quang Dũng được xem như một tiếng thơ đầy tài hoa, phóng khoáng của dân tộc. Ông sáng tác thơ không nhiều nhưng có không ít các tác phẩm ghi lại dấu ấn trong tâm hồn người đọc. Tây Tiến là bài thơ tiêu biểu cho hồn thơ Quang Dũng được in trong tập “ Mây đầu ô” xuất bản năm 1968. Bài thơ được nuôi dưỡng và khơi nguồn cảm hứng từ “ nỗi nhớ” của chính tác giả. Tây Tiến là một hồi tưởng rất đẹp và sống động về hình tượng những người lính mang vẻ đẹp hào hùng, hào hoa, bi tráng giữa núi rừng miền Tây hoang sơ, kỳ vĩ và diễm lệ. Tây Tiến thể hiện sâu sắc, rõ nét phong cách nghệ thuật của nhà thơ. Ngòi bút lãng mạn đầy tài hoa của tác giả đã vẽ nên một bức tranh thiên nhiên, núi rừng miền Tây hiểm trở, nơi đó là địa bàn hoạt động, chiến đấu của những chàng trai trẻ đất Hà thành. Chiến tranh có ai được gì hay chỉ mất? Chiến tranh đồng nghĩa với mất mát, hi sinh. Hiểu rất rõ điều đó, nhưng những người lính trẻ đang sống và chiến đấu trong thiếu thốn về vật chất, khó khăn, gian khổ vẫn luôn dũng cảm, lạc quan, yêu đời. Cũng như những người lính trong “ Đồng chí” của Chính Hữu hay “ Nhớ” của Hồng Nguyên, người lính Tây Tiến ra đi lên đường chiến đấu mang trong tim lời thề “ quyết tử cho tổ quốc quyết sinh”. Chỉ khác một điều ở xuất thân, họ không phải là những người nông dân cầm súng mà những chàng trai đang chiến đấu giữa núi rừng Tây Tiến đều còn rất trẻ. Năm ấy, Quang Dũng cũng trong đoàn quân Tây Tiến nên ông bắt gặp vẻ đẹp hào hoa, lãng mạn giữa khốc liệt của chiến tranh. Người lính Tây Tiến phần đông là học sinh, sinh viên Hà Nội “ xếp bút nghiên lên đường chiến đấu”. Họ mang trong mình lý tưởng của đảng, chút mộng mơ của thời cắp sách đến trường, sức mạnh của tuổi trẻ và chất con người Hà Nội thanh lịch, hào hoa đến với mảnh đất miền Tây bảo vệ biên giới Viêt- Lào. Núi rừng miền Tây hoang sơ và xa lạ đối với những người lính trẻ. Nơi đó có bao nhiêu bí ẩn, bao địa danh mới lạ đối với các chiến sỹ lần đầu đến với nơi chiến trường xa xôi. Xa Tây Tiến, cả một trời nỗi nhớ “ chơi vơi” lại hiện về trong tim nhà thơ. Quang Dũng đã chạm khắc vào lịch sử hình ảnh một đoàn quân phi thường, vượt lên trên hiểm nguy, gian khổ để hoàn thành tốt nhiệm vụ. Tổ quốc bình yên vì có những con người như thế. Nét đặc sắc của Tây Tiến là nói về chiến tranh mà trong thơ không một lần nhắc đến tiếng đạn, bom. Người lính Tây Tiến đối mặt với cái chết không đau đớn, bi thương mà rất giản dị, bình thường hoá: “ Anh bạn dãi dầu không bước nữa Gục trên sung mũ, bỏ quên đời” Người lính phải đối mặt với địa bàn hiểm trở, những cơn sốt rét rừng,bao mệt mỏi trên đường hành quân nhưng họ ra đi thật nhẹ nhàng “ bỏ quên đời” bỏ lại sau lưng những vất vả, khó khăn để trở về với đất mẹ. Cảm hứng lãng mạn, khiến ngòi bút Quang Dũng nhắc nhiều đến nỗi buồn, cái chết chỉ như một chất liệu thẩm mỹ tạo nên sự bi hùng. Núi rừng hoang vu, thiên nhiên khắc nghiệt, thung lũng mù sương cũng không vùi lấp nổi trái tim đầy mộng mơ, lãng mạn, tinh thần và sức trẻ lạc quan, yêu đời. “Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa Kìa em xiêm áo tự bao giờ Khèn lên man điệu nàng e ấp Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ” Cái nền thiên nhiên hùng vĩ, ấp áp và mềm mại cũng khiến tâm hồn những chàng trai trẻ gốc Hà Thành trở nên lâng lâng, bay bổng sau chặng đường hành quân mỏi mệt. Họ đắm mình trong những đêm liên hoan văn nghệ. Thả hồn theo tiếng nhạc và bóng hình của những cô gái quyến rũ, man dại, e ấp giữa hiểm trở núi rừng. Trái tim yêu đời, trẻ trung đầy mơ mộng vẫn luôn cháy bỏng khao khát bình yên. “ Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc Quân xanh màu lá giữ oai hùm Mắt trừng gửi mộng hoa biên giới Đêm mơ Hà Nội dáng Kiều thơm” Trong dòng hồi tưởng của tác giả hình ảnh người lính Tây Tiến hiện lên thật kỳ dị, trần trụi, khác thường. Thực tế nơi chiến trường gian khổ, thiếu thốn về vật chất, những cơn sốt rét rừng có thể cướp đi tính mạng người lính bất cứ lúc nào. Quang Dũng không giấu đi những khó khăn gian khổ nơi rừng thiêng nước độc đến nỗi “tóc không thể mọc, da xanh màu lá” mà phơi bày cho ta thấy thực tế khốc liệt của chiến tranh. Nhưng dưới cái nhìn của người nghệ sỹ tài hoa, lãng mạn, phơi bày thực tế không phải để hình ảnh người lính trở nên bi luỵ mà càng tôn lên sức mạnh phi thường “ giữ oai hùm” giữa thiếu thốn, khó khăn. Vì những người lính còn rất trẻ nên họ cũng đầy mơ mộng. Có người nói người lính mơ về “ dáng Kiều thơm” giữa chốn đạn bom khốc liệt là xa rời tinh thần chiến đấu. Nhưng thực ra người lính chiến đấu vì điều gì nếu không phải vì bảo vệ quê hương, cũng chính là bảo vệ những người họ yêu thương nhất: là làng xóm, là gia đình, là người yêu. Đoàn quân Tây Tiến oai hùng trên chặng đường hành quân, ra đi chiến đấu không hẹn ngày về nhưng sâu thẳm trái tim họ luôn mơ về Hà Nội, mơ về bóng dáng thân yêu. Đó có thể là một con đường, một dãy phố cũng có thể là một người con gái sẽ tiếp thêm sức mạnh, nghị lực cho người lính trên bước đường hành quân. Hà Nội là quê hương, là điểm tựa để người lính chiến đấu giữ vững biên giới. Bảo vệ quê hương cũng chính là bảo vệ những người thân yêu. Đời lính chiến rất lãng mạn, mộng mơ nhưng cũng đầy dũng cảm. Họ có những phút nhớ quê hương, nhớ người yêu và nó trở thành sức mạnh để người lính tiếp tục chiến đấu “ Những đêm dài hành quân nung nấu Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu” ( Đất nước- Nguyễn Đình Thi) “ Ba năm rồi gửi lại quê hương Mái lều tranh Tiếng mõ đêm trường Luống cày đất đỏ Ít nhiều người vợ trẻ Mòn chân bên cối gạo canh khuya” Người lính Tây Tiến sống và chiến đấu trong cái khắc nghiệt của núi rừng, trong oai linh của ghềnh thác, của tiếng “ cọp trêu người”. Ngòi bút của Quang Dũng không run sợ trước cái chết của đồng đội mà “phong trần hoá” cái chết ấy để tạo nên bản ảnh anh hùng ca vì những người lính đã hi sinh tuổi trẻ và sinh mạng cho tổ quốc. “Rải rác biên cương mồ viễn xứ Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh Áo bào thay chiếu anh về đất Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
Assignment Quang Dung is considered a talented and generous poet of the nation. He did not compose much poetry, but there were many works that left an impression on the readers' souls. Tay Tien is a typical poem for the soul of Quang Dung's poetry, printed in the collection "May Dau Umbrella" published in 1968. The poem was nurtured and inspired by the author's own "nostalgia". Tay Tien is a very beautiful and vivid recollection of the image of soldiers with heroic, gallant, and tragic beauty amidst the wild, majestic, and beautiful Western mountains and forests. Tay Tien deeply and clearly shows the poet's artistic style. The author's talented, romantic pen has painted a picture of nature, the mountains and forests of the rugged West, where the young men of Hanoi are active and fighting areas. Does anyone gain anything from war or only lose? War means loss and sacrifice. Understanding that very well, young soldiers who are living and fighting in material deprivation, difficulties, and hardships are always brave, optimistic, and love life. Just like the soldiers in "Comrade" by Chinh Huu or "Remember" by Hong Nguyen, Tay Tien soldiers go out to fight with in their hearts the oath "to die for the country and to live". The only difference is their background, they are not farmers holding guns, but the boys fighting in the mountains and forests of Tay Tien are all very young. That year, Quang Dung was also in the Tay Tien army, so he encountered the glamorous and romantic beauty amid the fierceness of war. Tay Tien soldiers were mostly Hanoi students who "put their pens and pens on the road to battle". They brought with them the ideals of the party, a bit of the dream of their school days, the strength of youth and the elegant and gallant nature of Hanoi people to the Western land protecting the Vietnam-Laos border. The mountains and forests of the West are wild and strange to young soldiers. That place has so many mysteries, so many new places for soldiers coming to the remote battlefield for the first time. Far from Tay Tien, a whole sky of "long lost" nostalgia reappears in the poet's heart. Quang Dung has carved into history the image of an extraordinary army, overcoming dangers and hardships to complete their missions well. The country is peaceful because there are people like that. The unique feature of Tay Tien is that it talks about war without the sound of bullets or bombs being mentioned in the poem. Tay Tien soldiers face death not painfully or tragically but very simply and normalized: “My friend is so tired that he can't walk anymore Falling on his hat, forgetting about life" The soldiers had to face dangerous terrain, wild malaria, and fatigue on the march, but they left quietly, "forgetting life," leaving behind hardships and difficulties to return to their homeland. mother earth. Romantic inspiration makes Quang Dung's pen remind many of sadness and death as just an aesthetic material that creates tragedy. Wild mountains and forests, harsh nature, misty valleys cannot bury a heart full of dreams, romance, spirit and youthful optimism and love of life. “The barracks lit up with a festival of torches and flowers Look how long I've been wearing clothes He sang her shy melody Music about Vientiane builds poetic soul" The majestic, warm and soft natural background also makes the souls of young men from Hanoi become lightheaded and soaring after a tiring march. They immersed themselves in the nights of cultural festivals. Lose yourself to the sound of music and the silhouettes of charming, wild, shy girls amidst the dangerous mountains and forests. A youthful, life-loving heart full of dreams still burns with a burning desire for peace. “The Tay Tien army does not grow hair The green army holds the majestic position Glaring eyes send dream flowers to the border "Dreaming night in Hanoi, Kieu looks fragrant" In the author's recollections, the image of a Tay Tien soldier appears strange, naked, and unusual. In reality, on arduous battlefields, lacking material resources, wild malaria can take a soldier's life at any time. Quang Dung does not hide the hardships and hardships in the sacred forest and the water is so poisonous that "hair cannot grow, skin turns green" but exposes to us the harsh reality of war. But from the perspective of the talented and romantic artist, revealing reality does not make the image of the soldier become tragic, but rather highlights the extraordinary strength of "maintaining dignity" in the midst of deprivation and difficulty. Because the soldiers are very young, they are also full of dreams. Some people say that a soldier who dreams of "Kieu Thom's figure" in the midst of fierce bombs and bullets is far from the fighting spirit. But in reality, what do soldiers fight for if not to protect their homeland, which is also to protect the people they love the most: their village, their family, their lover. The majestic Tay Tien army was on the march, going out to fight with no return date, but deep in their hearts they always dreamed of Hanoi, dreaming of their beloved figure. It could be a road, a street or it could be a girl who will give strength and energy to the soldiers on the march. Hanoi is the homeland, the fulcrum for soldiers fighting to maintain the border. Protecting the homeland is also protecting loved ones. The life of a soldier is very romantic, dreamy but also full of courage. They have moments of missing their homeland and their lovers, and it becomes the strength for the soldiers to continue fighting “Long nights of burning marches "Suddenly restless, I miss my lover's eyes" (Country - Nguyen Dinh Thi) “Three years later, I was sent back to my homeland Thatched tent roof The sound of gongs at night Red soil plow furrow More or less young wife My feet are tired next to the rice mill watching late at night" Tay Tien soldiers live and fight in the harshness of the mountains and forests, in the majesty of rapids and waterfalls, and in the sound of "tiger teasing people". Quang Dung's pen did not tremble in fear before the death of his comrades, but "sanctified" that death to create an epic image for the soldiers who sacrificed their youth and lives for the country. “Scattered across the border, graves are far away Going to the battlefield does not regret the green life His robe replaced his mat and brought him back to earth Ma River roars its solo song.
Bài làm Nếu ví văn đàn văn học Việt Nam là vườn hoa rực rỡ hương sắc thì một trong những bông hoa rực rỡ nhất chính là văn học dân gian. Khác với văn học thành văn, văn học bác học, văn học dân gian không cần đến những “Khuôn vàng thước ngọc”, những điển tích, điển cố cầu kì, xa hoa mà chỉ giản dị, gần gũi như chính những tác giả dân gian, những người nông dân lao động sáng tạo nên chúng. Thể hiện đầy đủ nhất thế giới quan, nhân sinh quan của ông cha ta “ngày xưa” chính là thể loại truyện cổ tích. Thuộc thể loại tự sự dân gian truyện cổ tích phản ánh đầy đủ đời sống vật chất cũng như đời sống tinh thần của ông cha ta “ngày xưa”. Đặc biệt là ước mơ cháy bỏng về một thế giới công bằng, văn minh cùng triết lí “ở hiền gặp hiền, ác giả ác báo”. Thể hiện nổi bật nhất suy nghĩ về cái thiện, cái ác của nhân dân lao động chính là truyện Tấm Cám. Truyện cổ tích Tấm Cám thuộc vào loại truyện đời sống sinh hoạt vẫn mang dấu ấn của những yếu tố hoang đường, kỳ ảo nhưng không còn đậm nét mà đi sâu, tập trung phản ánh đời sống sinh hoạt hằng ngày, những tâm tư, suy nghĩ của nhân dân lao động Việt xưa. Nằm trong motip “mẻ ghẻ, con chồng”, câu chuyện gia đình cô Tấm, cô Cám chính là câu chuyện thu nhỏ của xã hội phong kiến đương thời. Là suy nghĩ sâu sắc của ông cha ta về “cái thiện”, “cái ác”, về những mâu thuẫn tồn tại lâu đời trong xã hội. Truyện kể rằng: Ngày xưa, ở một ngôi làng nọ có gia đình hai cha con, người con tên là Tấm, mẹ Tấm mất sớm, người cha liền cưới một bà vợ hai sinh ra đứa con gái đặt tên là Cám, ít lâu sau thì cha Tấm cũng mất Tấm một mình sống chung với mẹ con Cám”. Từ đây, cuộc sống của Tấm là một chuỗi khó khăn, vất vả, bị áp bức, chịu bất công. Tấm thì vất vả ngày đêm làm hết những công việc trong nhà từ lau nhà, nấu cơm đến chăn trâu, cắt cỏ,… ngược lại Cám thì cả ngày chỉ lo ăn diện, quần áo là lượt, hái hoa, bắt bướm rong chơi. Làm việc vất vả là thế chẳng những không được khen ngợi Tấm còn thường xuyên bị dì ghẻ mắng chửi, đánh đập. Trong gia đình Tấm là người con chồng không được yêu thương, không có quyền hành, bị đánh, bị mắng. Tấm chính là hiện thân của người nông dân lao động xưa, hiền lành, chịu thương, chịu khó, không có quyền hành trong xã hội. Còn mẹ con Cám là đại diện của tầng lớp thống trị, có địa vị, có quyền hành, mưu mô, độc ác, áp bức những con người nhỏ bé, lương thiện. Hay nói cách khác Tấm chính là hiện thân của “cái thiện”, mẹ con Cám là đại diện của “cái ác”. Tấm là một cô gái không chỉ đẹp người mà còn đẹp nết, chăm chỉ, lương thiện, ăn nói nhẹ nhàng, lễ phép được nhân dân trong làng quý mến. Ngược lại, Cám không chỉ xấu người mà xấu cả nết, vừa lười làm, lại ham chơi. Tấm xinh đẹp, khéo léo bao nhiêu, Cám lại xấu xí, hậu đậu bấy nhiêu. Như vậy, chỉ cần qua việc miêu tả ngoại hình, tính cách của Tấm và Cám cũng có thể thấy rõ suy nghĩ ưu ái, yêu thương đối lập mà nhân dân lao động dành cho cái thiện và cái ác. Các tác giả dân gian ưu ái cô Tấm bao nhiêu thì ghé bỏ cô Cám bấy nhiêu. Sống chung với mẹ con Cám trong gia đình Tấm không chỉ chịu vất vả, thiệt thòi mà còn bị tước đoạt công sức, hạnh phúc. Bằng những mưu mô, nham hiểm của mình dì ghẻ và Cám đã hết lần này đến lần khác bóc lột, cướp đoạt hạnh phúc niền vui của Tấm. Cướp đi tấm yếm đỏ mà đáng nhẽ ra phải thuộc về cô Tấm chăm chỉ. “Một hôm dì ghẻ đưa cho Tấm và Cám mỗi đứa một cái giỏi sai đi bắt tôm, bắt tép, đứa nào bắt được nhiều hơn thì thưởng cho một chiếc yếm đào”. Chiếc yếm đào, đỏ thắm, xinh xắn, cô gái nào cũng yêu, cũng thích, cũng mong muốn có được Tấm và Cám cũng vậy. Một phần thích chiếc yếm đào, nhưng phần nhiều vốn tính chăm chỉ, chịu thương, chịu khó và sợ dì mắng Tấm chăm chỉ bắt tôm, bắt tép cuối ngày cũng đã đầy giỏ. Lòng nàng vui tươi, háo hức nghĩ về phần thưởng đẹp đẽ “chiếc yếm đào” nhưng bỗng nhiên nghe Cám nói: “Chị Tấm ơi chị Tấm Đầu chị lấm Chị hụp cho sâu Kẻo về mẹ mắng”, vốn nhẹ dạ, cả tin và sợ dì Tấm vội vã đi gội đầu theo lời Cám mách. Nàng đâu biết, Cám mải ham vui, chẳng bắt nổi một con tôm, con tép nhưng lại tham lam tấm yếm đào đã lừa chị, cướp đi thành quả lao động, cướp đi phần thưởng vốn dĩ thuộc về Tấm. Trước sự việc như thế Tấm chỉ khóc bởi nàng biết dù có giải thích bao nhiêu, như thế nào thì dì ghẻ cũng không nghe và tấm yếm đào vẫn thuộc về Cám. Thật vậy, trong xã hội phong kiến, với tư tưởng phân biệt giàu, nghèo, phân chia giai cấp sâu sắc. Trong xã hội giai cấp vua chúa, quan lại, quý tộc là những “thiên tử”, những đứa con trời muốn gì được nấy thì việc chúng tước đoạt công sức, thành quả lao động của nhân dân là một chuyện hết sức bình thường, không có gì lạ lẫm. Đối diện với sự bất công đó Tấm – người dân lao động chỉ có thể bấu víu, cầu mong sự giúp đỡ của những “bà tiên”, “ông bụt” tầng lớp siêu nhiên với những phép mầu kỳ diệu giúp đỡ, thay đổi số phận của mình, thay đổi những áp bức, bất công trong xã hội đương thời. Ước mơ cháy bỏng thay đổi số phận, thay đổi cuộc sống các tác giả dân gian đã để “ông bụt” trao vào tay Tấm một “phần thưởng” xứng đáng. Một cuộc hôn nhân thay đổi số phận, cuộc hôn nhân giữa người giàu với người nghèo, giữa tầng lớp thống trị với bị trị. Vì không muốn cho Tấm đi dự hội “Dì ghẻ trộn một đấu gạo với một đấu thóc bắt ở nhà nhặt cho xong mới được đi xem hội”. Nhờ Bụt giúp đỡ Tấm không những được đi hội mà còn có quần áo đẹp và chiến thắng trong cuộc “thử giày kém vợ” của nhà vua. Từ một người con riêng chịu nhiều áp bức, bóc lột, bất công Tấm đã thy đổi số phận trở thành bậc “mẫu nghi thiên hạ”, được hưởng giàu sang, hạnh phúc tột đỉnh. Từ thân phận của một người bị trị thành thân phận của một người thống trị. Đấy cũng có lẽ là ước mơ cháy bỏng của nhân dân lao động về một ngày được thay đổi số phận, được hưởng vui vẻ, hạnh phúc trọn vẹn. Những tưởng từ đây Tấm sẽ bình yên sống cuộc sống vui vẻ, hạnh phúc nhưng sự đố kị, ghen ghét, độc ác một lần nữa mẹ con Cám lại tước đoạt hạnh phúc của Tấm. Nhân cơ hội Tấm từ hoàng cung về giỗ cha, dì ghẻ ngon ngọt “con trèo cây cau, hái cau cúng cha”. Nào ngờ Tấm vừa trèo lên cây cau thì ngay lập tức dì ghẻ phía dưới lấy dao chặt cây làm Tấm ngã chết rồi đưa Cám vào cung thay Tấm làm hoàng hậu. Tưởng rằng Tấm sẽ tiếp tục khóc lóc, cầu xin sự giúp đỡ của Bụt nhưng không “con giun xéo lắm cũng quằn”, từ đây các tác giả dân gian đã để Tấm tự đứng dậy, tự đấu tranh giành lại hạnh phúc, giành lại những thứ vốn thuộc về mình bằng sự “hóa thân” đầy thú vị, kỳ diệu. Để giành lại hạnh phúc của mình Tấm đã hóa thân bốn lần. Lần đầu tiên thành chim vàng anh ngày ngày bầu bạn vui đùa cùng nhà vua, cám thấy vua cả ngày chỉ vui đùa, bầu bạn với chim thì ngay lập tức giết vàng anh đổ lông ra góc vườn. Từ đống lông chim lại mọc lên hai cây xoan đào tươi tốt, Cám chặt cây làm khung cửu. Chỉ muốn làm niền vui nhỏ, làm bóng mát bên cạnh người chồng yêu quý nhưng “năm lần, bảy lượt” bị mẹ con Cám hãm hại Tấm dường như đã trở nên mạnh mẽ hơn, dứt khoát hơn “lúc ngồi dệt vải Cám nghe khung cửu kêu: Cót ca cót két/ Lấy tranh chồng chị/ Chị khoét mắt ra”. Sợ hãi Cám vội đốt khung cửu đổ tro ra xa hoàng cung. Từ đống tro mọc lên một cây thị xanh tốt, chỉ có duy nhất một quả to vàng, thơm ngát. Ngày nọ có bà lão đi qua nhìn thị thấy thích lắm bèn nói: “Thị ơi thị rơi bị bà/ Bà để bà ngửi/ Chứ bà không ăn” quả thị ngay lập tức rơi vào bị bà. Tấm từ trong quả thị bước ra ngày ngày lo cơm nước, nhà cửa sống với bà lão như hai mẹ con. Một ngày nọ, vua đi ngang nhà bà lão thấy trầu têm cánh phượng giống hệt Tấm têm ngày xưa vội vàng xin gặp mặt. Hai vợ chồng đoàn viên trong hạnh phúc. Tấm trở lại cung vua, trở lại vị trí vốn thuộc về mình, trừng trị mẹ con Cám đích đáng. Và hưởng cuộc sống hạnh phúc trọn vẹn. Như vậy, dù phải chịu bao nhiêu khó khăn, thử thách, bị mẹ con Cám hết lần này đến lần khác hãm hãi, giết chết Tấm với tấm lòng lương thiện, hiền lành cuối cũng đã tự mình giành lại được hạnh phúc, sống cuộc sống vui vẻ mãi mãi. Trong xã hội phong kiến, nhân dân lao động luôn luôn phải chịu áp bức, bóc lột, bất công. Sự bóc lột, bất công sâu sắc đó đã khiến “cô Tấm”, khiến những người nhân dân lao động không còn chịu ngồi im mong chờ vào những điều kỳ diệu, những phép màu hư ảo của những “bà tiên”, “ông bụt” mà đã tự mình đứng lên đấu tranh, chống lại áp bức, bóc lột, bất công để giành lấy tự do, hạnh phúc thực sự.
Bài làm Nếu ví văn đàn văn học Việt Nam là vườn hoa rực rỡ hương sắc thì một trong những bông hoa rực rỡ nhất chính là văn học dân gian. Khác với văn học thành văn, văn học bác học, văn học dân gian không cần đến những “Khuôn vàng thước ngọc”, những điển tích, điển cố cầu kì, xa hoa mà chỉ giản dị, gần gũi như chính những tác giả dân gian, những người nông dân lao động sáng tạo nên chúng. Thể hiện đầy đủ nhất thế giới quan, nhân sinh quan của ông cha ta “ngày xưa” chính là thể loại truyện cổ tích. Thuộc thể loại tự sự dân gian truyện cổ tích phản ánh đầy đủ đời sống vật chất cũng như đời sống tinh thần của ông cha ta “ngày xưa”. Đặc biệt là ước mơ cháy bỏng về một thế giới công bằng, văn minh cùng triết lí “ở hiền gặp hiền, ác giả ác báo”. Thể hiện nổi bật nhất suy nghĩ về cái thiện, cái ác của nhân dân lao động chính là truyện Tấm Cám. Truyện cổ tích Tấm Cám thuộc vào loại truyện đời sống sinh hoạt vẫn mang dấu ấn của những yếu tố hoang đường, kỳ ảo nhưng không còn đậm nét mà đi sâu, tập trung phản ánh đời sống sinh hoạt hằng ngày, những tâm tư, suy nghĩ của nhân dân lao động Việt xưa. Nằm trong motip “mẻ ghẻ, con chồng”, câu chuyện gia đình cô Tấm, cô Cám chính là câu chuyện thu nhỏ của xã hội phong kiến đương thời. Là suy nghĩ sâu sắc của ông cha ta về “cái thiện”, “cái ác”, về những mâu thuẫn tồn tại lâu đời trong xã hội. Truyện kể rằng: Ngày xưa, ở một ngôi làng nọ có gia đình hai cha con, người con tên là Tấm, mẹ Tấm mất sớm, người cha liền cưới một bà vợ hai sinh ra đứa con gái đặt tên là Cám, ít lâu sau thì cha Tấm cũng mất Tấm một mình sống chung với mẹ con Cám”. Từ đây, cuộc sống của Tấm là một chuỗi khó khăn, vất vả, bị áp bức, chịu bất công. Tấm thì vất vả ngày đêm làm hết những công việc trong nhà từ lau nhà, nấu cơm đến chăn trâu, cắt cỏ,… ngược lại Cám thì cả ngày chỉ lo ăn diện, quần áo là lượt, hái hoa, bắt bướm rong chơi. Làm việc vất vả là thế chẳng những không được khen ngợi Tấm còn thường xuyên bị dì ghẻ mắng chửi, đánh đập. Trong gia đình Tấm là người con chồng không được yêu thương, không có quyền hành, bị đánh, bị mắng. Tấm chính là hiện thân của người nông dân lao động xưa, hiền lành, chịu thương, chịu khó, không có quyền hành trong xã hội. Còn mẹ con Cám là đại diện của tầng lớp thống trị, có địa vị, có quyền hành, mưu mô, độc ác, áp bức những con người nhỏ bé, lương thiện. Hay nói cách khác Tấm chính là hiện thân của “cái thiện”, mẹ con Cám là đại diện của “cái ác”. Tấm là một cô gái không chỉ đẹp người mà còn đẹp nết, chăm chỉ, lương thiện, ăn nói nhẹ nhàng, lễ phép được nhân dân trong làng quý mến. Ngược lại, Cám không chỉ xấu người mà xấu cả nết, vừa lười làm, lại ham chơi. Tấm xinh đẹp, khéo léo bao nhiêu, Cám lại xấu xí, hậu đậu bấy nhiêu. Như vậy, chỉ cần qua việc miêu tả ngoại hình, tính cách của Tấm và Cám cũng có thể thấy rõ suy nghĩ ưu ái, yêu thương đối lập mà nhân dân lao động dành cho cái thiện và cái ác. Các tác giả dân gian ưu ái cô Tấm bao nhiêu thì ghé bỏ cô Cám bấy nhiêu. Sống chung với mẹ con Cám trong gia đình Tấm không chỉ chịu vất vả, thiệt thòi mà còn bị tước đoạt công sức, hạnh phúc. Bằng những mưu mô, nham hiểm của mình dì ghẻ và Cám đã hết lần này đến lần khác bóc lột, cướp đoạt hạnh phúc niền vui của Tấm. Cướp đi tấm yếm đỏ mà đáng nhẽ ra phải thuộc về cô Tấm chăm chỉ. “Một hôm dì ghẻ đưa cho Tấm và Cám mỗi đứa một cái giỏi sai đi bắt tôm, bắt tép, đứa nào bắt được nhiều hơn thì thưởng cho một chiếc yếm đào”. Chiếc yếm đào, đỏ thắm, xinh xắn, cô gái nào cũng yêu, cũng thích, cũng mong muốn có được Tấm và Cám cũng vậy. Một phần thích chiếc yếm đào, nhưng phần nhiều vốn tính chăm chỉ, chịu thương, chịu khó và sợ dì mắng Tấm chăm chỉ bắt tôm, bắt tép cuối ngày cũng đã đầy giỏ. Lòng nàng vui tươi, háo hức nghĩ về phần thưởng đẹp đẽ “chiếc yếm đào” nhưng bỗng nhiên nghe Cám nói: “Chị Tấm ơi chị Tấm Đầu chị lấm Chị hụp cho sâu Kẻo về mẹ mắng”, vốn nhẹ dạ, cả tin và sợ dì Tấm vội vã đi gội đầu theo lời Cám mách. Nàng đâu biết, Cám mải ham vui, chẳng bắt nổi một con tôm, con tép nhưng lại tham lam tấm yếm đào đã lừa chị, cướp đi thành quả lao động, cướp đi phần thưởng vốn dĩ thuộc về Tấm. Trước sự việc như thế Tấm chỉ khóc bởi nàng biết dù có giải thích bao nhiêu, như thế nào thì dì ghẻ cũng không nghe và tấm yếm đào vẫn thuộc về Cám. Thật vậy, trong xã hội phong kiến, với tư tưởng phân biệt giàu, nghèo, phân chia giai cấp sâu sắc. Trong xã hội giai cấp vua chúa, quan lại, quý tộc là những “thiên tử”, những đứa con trời muốn gì được nấy thì việc chúng tước đoạt công sức, thành quả lao động của nhân dân là một chuyện hết sức bình thường, không có gì lạ lẫm. Đối diện với sự bất công đó Tấm – người dân lao động chỉ có thể bấu víu, cầu mong sự giúp đỡ của những “bà tiên”, “ông bụt” tầng lớp siêu nhiên với những phép mầu kỳ diệu giúp đỡ, thay đổi số phận của mình, thay đổi những áp bức, bất công trong xã hội đương thời. Ước mơ cháy bỏng thay đổi số phận, thay đổi cuộc sống các tác giả dân gian đã để “ông bụt” trao vào tay Tấm một “phần thưởng” xứng đáng. Một cuộc hôn nhân thay đổi số phận, cuộc hôn nhân giữa người giàu với người nghèo, giữa tầng lớp thống trị với bị trị. Vì không muốn cho Tấm đi dự hội “Dì ghẻ trộn một đấu gạo với một đấu thóc bắt ở nhà nhặt cho xong mới được đi xem hội”. Nhờ Bụt giúp đỡ Tấm không những được đi hội mà còn có quần áo đẹp và chiến thắng trong cuộc “thử giày kém vợ” của nhà vua. Từ một người con riêng chịu nhiều áp bức, bóc lột, bất công Tấm đã thy đổi số phận trở thành bậc “mẫu nghi thiên hạ”, được hưởng giàu sang, hạnh phúc tột đỉnh. Từ thân phận của một người bị trị thành thân phận của một người thống trị. Đấy cũng có lẽ là ước mơ cháy bỏng của nhân dân lao động về một ngày được thay đổi số phận, được hưởng vui vẻ, hạnh phúc trọn vẹn. Những tưởng từ đây Tấm sẽ bình yên sống cuộc sống vui vẻ, hạnh phúc nhưng sự đố kị, ghen ghét, độc ác một lần nữa mẹ con Cám lại tước đoạt hạnh phúc của Tấm. Nhân cơ hội Tấm từ hoàng cung về giỗ cha, dì ghẻ ngon ngọt “con trèo cây cau, hái cau cúng cha”. Nào ngờ Tấm vừa trèo lên cây cau thì ngay lập tức dì ghẻ phía dưới lấy dao chặt cây làm Tấm ngã chết rồi đưa Cám vào cung thay Tấm làm hoàng hậu. Tưởng rằng Tấm sẽ tiếp tục khóc lóc, cầu xin sự giúp đỡ của Bụt nhưng không “con giun xéo lắm cũng quằn”, từ đây các tác giả dân gian đã để Tấm tự đứng dậy, tự đấu tranh giành lại hạnh phúc, giành lại những thứ vốn thuộc về mình bằng sự “hóa thân” đầy thú vị, kỳ diệu. Để giành lại hạnh phúc của mình Tấm đã hóa thân bốn lần. Lần đầu tiên thành chim vàng anh ngày ngày bầu bạn vui đùa cùng nhà vua, cám thấy vua cả ngày chỉ vui đùa, bầu bạn với chim thì ngay lập tức giết vàng anh đổ lông ra góc vườn. Từ đống lông chim lại mọc lên hai cây xoan đào tươi tốt, Cám chặt cây làm khung cửu. Chỉ muốn làm niền vui nhỏ, làm bóng mát bên cạnh người chồng yêu quý nhưng “năm lần, bảy lượt” bị mẹ con Cám hãm hại Tấm dường như đã trở nên mạnh mẽ hơn, dứt khoát hơn “lúc ngồi dệt vải Cám nghe khung cửu kêu: Cót ca cót két/ Lấy tranh chồng chị/ Chị khoét mắt ra”. Sợ hãi Cám vội đốt khung cửu đổ tro ra xa hoàng cung. Từ đống tro mọc lên một cây thị xanh tốt, chỉ có duy nhất một quả to vàng, thơm ngát. Ngày nọ có bà lão đi qua nhìn thị thấy thích lắm bèn nói: “Thị ơi thị rơi bị bà/ Bà để bà ngửi/ Chứ bà không ăn” quả thị ngay lập tức rơi vào bị bà. Tấm từ trong quả thị bước ra ngày ngày lo cơm nước, nhà cửa sống với bà lão như hai mẹ con. Một ngày nọ, vua đi ngang nhà bà lão thấy trầu têm cánh phượng giống hệt Tấm têm ngày xưa vội vàng xin gặp mặt. Hai vợ chồng đoàn viên trong hạnh phúc. Tấm trở lại cung vua, trở lại vị trí vốn thuộc về mình, trừng trị mẹ con Cám đích đáng. Và hưởng cuộc sống hạnh phúc trọn vẹn. Như vậy, dù phải chịu bao nhiêu khó khăn, thử thách, bị mẹ con Cám hết lần này đến lần khác hãm hãi, giết chết Tấm với tấm lòng lương thiện, hiền lành cuối cũng đã tự mình giành lại được hạnh phúc, sống cuộc sống vui vẻ mãi mãi. Trong xã hội phong kiến, nhân dân lao động luôn luôn phải chịu áp bức, bóc lột, bất công. Sự bóc lột, bất công sâu sắc đó đã khiến “cô Tấm”, khiến những người nhân dân lao động không còn chịu ngồi im mong chờ vào những điều kỳ diệu, những phép màu hư ảo của những “bà tiên”, “ông bụt” mà đã tự mình đứng lên đấu tranh, chống lại áp bức, bóc lột, bất công để giành lấy tự do, hạnh phúc thực sự.
Hướng dẫn: Đây là dạng đề nghị luận xã hội kết hợp với nghị luận văn học. bài viết sẽ có 2 phần: phần 1 nêu cảm nhận về vẻ đẹp của Từ Hải, phần 2 là những suy ngẫm, bài học rút ra từ phẩm chất của Từ hải. Dàn ý: Mở bài: -Giới thiệu đoạn trích ” chí khí anh hùng” -Giới thiệu vấn đề nghị luận: vẻ đẹp nhân vật Từ Hải Thân bài: +Một người có chí khí, có khát vọng, có hoài bão lớn lao + Có tầm vóc phi thường, có sức mạnh, dũng cảm đương đầu với khó khăn, sóng gió để thực hiện hoài bão, ước mơ của mình +Dám nghĩ dám làm, quyết tâm ra đi vì sự nghiệp lớn Bài viết tham khảo: Trên con đường tạo dựng nghiệp lớn, cuộc hôn nhân bất ngờ giữa chàng với Thúy Kiều chỉ là phút chốc nghỉ ngơi, chứ không phải là điểm âm, tri kỉ và cuộc hôn nhân của họ đang hạnh phúc hơn bao giờ hết. Ấy vậy mà, chỉ mới sáu tháng vui hưởng hạnh phúc bên Thúy Kiều, Từ Hải đã lại động lòng bốn phương, dứt khoát lên đường, tiếp tục sự nghiệp lớn lao đang còn dang dở Trước hết Từ Hải là một tráng sĩ, một người có chí khí mạnh mẽ. Chí là mục đích cao cả hướng tới, khí là nghị lực để đạt tới mục đích, ở con người này, khát khao được vẫy vùng giữa trời cao đất rộng như đâ trở thành một khát vọng bản năng tự nhiên, không có gì có thể kiềm chế nổi. Từ chợt động lòng bốn phương, thế là toàn bộ tâm trí hướng về trời biển mênh mang, và lập tức một minh với thanh gươm yên ngựa, lên đường thẳng rong. Chữ trượng phu trong Truyện Kiểu chỉ xuất hiện một lần dành riêng đã nói về Từ Hải. Điều đó cho thấy Nguyễn Du đã dùng từ Trượng phu với nghĩa Từ Hải là người đàn ông có chí khí lớn. Chữ thoắt thể hiện quyết định nhanh chóng, dứt khoát cùa chàng. Bôn chữ động lòng bốn phương nói lên được cái ý Từ Hải “không phải là người của một nhà, một họ, một xóm, một làng mà là người của trời đất, của bốn phương”. (Hoài Thanh). Con người phi thường như chàng chẳng thể giam hãm mình trong một không gian chật hẹp. Chàng nghĩ rất nhanh, quyết định lại càng nhanh. Một thanh gươm, một con tuấn mã, chàng hối hả lên đường. Ấy là bởi khát vọng tự do luôn sôi sục trong huyết quản của người anh hùng. Hoài Thanh bình luận: Qua câu thơ, hình ảnh của con người “thanh gươm yên ngựa” tưởng như che đầy cả trời đất” Lí tưởng anh hùng của Từ Hải bộc lộ qua ngôn ngữ mang đậm khẩu khi anh hùng. Khi nói lời chia tay với Thúy Kiều chàng không quyến luyến, bịn rịn vì tình chồng vợ mặn nồng mà quên đi mục đích cao cả. Nếu thực sự quyếu luyến, Từ Hải sẽ chấp nhận cho Thúy Kiều đi theo. Không chút vấn vương, bi lụy, không dùng dằng, quyến luyến như trong các cuộc chia tay bình thường khác, Từ Hải có cách chia tay mang đậm dấu ấn anh hùng của riêng mình. Lời chia tay mà cũng là lời hứa chắc như đinh đóng cột; là niềm tin sắt đá vào chiến thắng trong một tương lai rất gần. Hai câu thơ cuối đoạn đã khẳng định thêm quyết tâm ấy Nguyễn Du mượn hình ảnh phim bằng (đại bàng) trong văn chương cổ điển, thường tượng trưng cho khát vọng của những người anh hùng có bản lĩnh phi thường, muốn làm nên sự nghiệp lớn lao để chỉ Từ Hải. Cuộc ra đi đột ngột, không báo trước, thái độ dứt khoát lúc chia tay, niềm tin vào thắng lợi… tất cả đều bộc lộ chí khí anh hùng của Từ Hải. Đã đến lúc chim bằng tung cánh bay lên cùng gió mây chín ngàn dặm trên cao. Nguyễn Du đã thành công trong việc chọn lựa từ ngữ, hình ảnh và biện pháp miêu tả có khuynh hướng lí tưởng hóa để biến Từ Hải thành một hình tượng phi thường với những nét tính cách đẹp đẽ, sinh động. Đoạn trích tuy ngắn nhưng ý nghĩa lại rất lớn. Nó góp phần tô đậm tính cách của người anh hùng Từ Hải – nhân vật lí tưởng, mẫu người đẹp nhất trong kiệt tác Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du. +Đánh giá về nhân vật +Bài học rút ra: Học sinh có thể tự do trình bày cảm nhận cá nhân nhưng phải bám sát chân dung nhân vật Từ Hải. Sau đây là 1 số gợi ý: -Sống có ước mơ, khát vọng, hoài bão vươn lên, khẳng định giá trị, năng lực bản thân. -Dũng cảm, lạc quan, giàu ý chí, nghị lực. -Dám nghĩ dám làm
Instruct: This is a form of social argument combined with literary argument. The article will have 2 parts: part 1 presents feelings about Tu Hai's beauty, part 2 is reflections and lessons learned from Tu Hai's qualities. Outline: Opening: -Introduction to the excerpt "heroic spirit" -Introducing the discussion issue: the beauty of Tu Hai's character Body of the article: +A person with great will, aspirations, and great ambitions + Has extraordinary stature, strength, and courage to cope with difficulties and turbulence to realize his ambitions and dreams + Dare to think and do, determined to go for a great career Reference article: On the path to creating a great career, the unexpected marriage between him and Thuy Kieu was just a moment of rest, not a negative point, their soulmates and marriage are happier than ever. Yet, after only six months of enjoying happiness with Thuy Kieu, Tu Hai has moved his heart again, decisively set out to continue his great unfinished career. First of all, Tu Hai is a brave man, a man with strong will. Will is a noble goal to aim for, spirit is the energy to achieve the goal. In this person, the desire to fly between heaven and earth as wide as this becomes a natural instinctive desire, nothing can. can be restrained. Suddenly, my heart was touched in all four directions, so my whole mind turned to the vast sky and sea, and immediately, alone with my sword and saddle, set out on a straight path. The word macho in The Tale of Kieu only appears once, specifically about Tu Hai. This shows that Nguyen Du used the word Man to mean Tu Hai is a man with great ambition. The word "quick" represents his quick and decisive decision. The words touching the hearts of all four directions express the idea that Tu Hai is "not a person of one family, one family, one hamlet, or one village, but a person of heaven and earth, of the four directions." (Nostalgic). An extraordinary person like him cannot confine himself to a narrow space. He thought quickly and decided even faster. A sword, a handsome horse, he hurriedly set out. That's because the desire for freedom always boils in the hero's veins. Hoai Thanh comments: Through the poem, the image of the "saddle sword" seems to cover the whole world." Tu Hai's heroic ideals are revealed through his heroic language. When saying goodbye to Thuy Kieu, he was not attached, so overwhelmed by the passionate love between husband and wife that he forgot his noble purpose. If truly attached, Tu Hai will accept Thuy Kieu to follow. Without any hesitation, sadness, without hesitation or attachment like in other normal breakups, Tu Hai has his own heroic way of saying goodbye. The farewell is also a promise that is as solid as a nail; is a firm belief in victory in the very near future. The last two verses of the poem further affirm that determination Nguyen Du borrowed the image of the eagle in classical literature, which often symbolizes the aspirations of heroes with extraordinary bravery who want to make a great career to refer to Tu Hai. The sudden, unannounced departure, the decisive attitude at parting, the belief in victory... all revealed Tu Hai's heroic spirit. It's time for the bird to spread its wings and fly away with the wind and clouds nine thousand miles above. Nguyen Du has succeeded in choosing words, images and descriptive methods that tend to be idealized to turn Tu Hai into an extraordinary image with beautiful and vivid personality traits. The excerpt is short but has great meaning. It contributes to highlighting the personality of the hero Tu Hai - the ideal character, the most beautiful model in the masterpiece The Tale of Kieu by great poet Nguyen Du. + Character assessment + Lessons learned: Students can freely express their personal feelings but must stick to Tu Hai's character portrait. Here are some suggestions: -Live with dreams, aspirations, ambitions to rise, affirm your own values ​​and abilities. -Brave, optimistic, rich in will and energy. -Enterprising
Bài làm Ngày 26-3-2016, trường THPT Hoa Lư A – Ninh Bình chúng mình tổ chức cắm trại 26-3 và chuyên đề ngoại khóa cấp tỉnh với nội dung Đoàn viên thanh niên trường THPT Hoa Lư A với kĩ năng công tác đoàn và chủ quyền biển, hải đảo Việt Nam. Qua hoạt động ngoại khóa này, chúng mình được biết thêm nhiều kiến thức bổ ích về vấn đề chủ quyền biển, hải đảo hiện nay cũng như vai trò, trách nhiệm của thanh niên với vấn đề chủ quyền biển, đảo. Sau đây, mình xin giới thiệu với các bạn bài thuyết minh về trại hè 26-3 của lớp mình: 12C – K41- THPT Hoa Lư A – Ninh Bình (Bản quyền thuộc về Thế Anh – 12C – Hoa Lư A) THUYẾT TRÌNH VỀ TRẠI Chi đoàn 12C: Đảo Vân Đồn Kính thưa ban giám khảo, các thầy cô giáo và cùng toàn thể các bạn! Chào mừng hội trại 26/3 Kỉ niệm 85 thành lập đoàn TNCS Hồ Chí Minh của Đoàn trường THPT Hoa Lư A, sau đây là phân thuyết trình về trại của chi đoàn 12C: Cuộc đấu tranh gìn giữ biển đảo quê hương đã để lại những dấu ấn không thể phai mờ trong lòng dân tộc. Nhìn lại chặng đường dài của những trang sử hào hùng ấy, bất chợt em có cảm giác rất lạ: bồi hồi, tiếc thương, cảm động. Và trên hết là kính phục sự quả cảm, anh dũng của các chiến sĩ đang ngày đêm chiến đấu bảo vệ quê hương. Tập thể chi đoàn 12C chúng em trước hết muốn dành tình cảm cho những người lính biển, những người ngày đêm đang vững chắc cây súng trên mình bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ Quốc. Chi đoàn 12C chúng em rất vinh dự khi được mang tên Đảo Vân Đồn (Huyện đảo Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh) một huyện đảo nhỏ nằm ở phía Đông Bắc tỉnh Quảng Ninh. Với diện tích 551,3 km2, Vân Đồn là một quần đảo vòng quanh phía Đông và Đông Bắc vịnh Bái Tử Long, gồm khoảng 600 hòn đảo lớn nhỏ. Đảo lớn nhất là đảo Cái Bầu, diện tích chiếm hơn nửa diện tích đất đai của huyện. Huyện đảo Vân Đồn có vị trí tiếp giáp là: phía Tây Bắc giáp với vùng biển huyện Tiên Yên, đông bắc giáp với vùng biển huyện Đầm Hà, phía tây giáp Thành phố Cẩm Phả, phía Đông giáp vùng biển huyện Cô Tô, phía Tây Nam giáp vịnh Hạ Long, thành phố Hạ Long và vùng biển Cát Bà thuộc thành phố Hải Phòng, phía nam là vùng biển ngoài khơi Vịnh Bắc Bộ. Với vị trí địa lí như vậy, Vân Đồn có vai trò quan trọng trong việc khai thác, phát triển kinh tế biển, chính trị, xã hội. Trại hè thanh niên 12C được thiết kế với chủ đề: “Thanh niên với chủ quyền biển đảo thiêng liêng của Tổ Quốc”. Cao nhất là lá cờ đỏ sao vàng Tổ Quốc tung bay trong gió, luôn nhắc nhở mỗi đoàn viên, thanh niên chúng ta phải đặt Tổ Quốc, quê hương lên trên hết và cần ra sức cố gắng nỗ lực học tập để vươn cao, vươn xa hơn nữa. Song hành cùng lá cờ Tổ Quốc là huy hiệu Đoàn, biểu tượng cho tinh thần thanh niên: xung kính, sáng tạo… Tiếp theo, bên trong trại là hình ảnh cánh buồm, hình ảnh thu nhỏ của Tổ Quốc (chữ S), ngọn hải đăng… Ngọn hải đăng đưa đường chỉ lối cho những con tàu vượt muôn trùng biển khơi. Dù trong phong ba bão táp vẫn hiên ngang, cùng các anh chiến sĩ bảo vệ vùng biển thiêng liêng của Tổ Quốc. Tiếp đến là hình ảnh chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại của chúng ta, hình ảnh mâm ngũ quả. Phía kia là góc sáng tạo trẻ của đoàn viên thanh niên chi đoàn 12C. Góc sáng tạo trẻ này là những sự sáng tạo đổi mới, thể hiện sức trẻ, sự say mê, lòng nhiệt huyết của thanh niên chi đoàn trong công cuộc nghiên cứu, tìm tòi và sáng tạo. Nhà thơ Nguyễn Việt Chiến đã viết: “Nếu Tổ quốc đang bão giông từ biển Có một phần máu thịt ở Hoàng Sa Ngàn năm trước con theo cha xuống biển Mẹ lên rừng thương nhớ mãi Trường Sa…” Chiến tranh đã lùi xa nhưng những phẩm chất tốt đẹp của người lính Cụ Hồ vẫn còn lưu giữ và nối tiếp qua các thế hệ con người Việt Nam. Và ngày hôm nay, những phẩm chất ấy lại sáng ngời khi các chiến sĩ hải quân thân yêu đang mang trọng trách vẻ vang gìn giữ nền hòa bình cho dân tộc, cho Tổ quốc Việt Nam. Nơi Trường Sa sương gió, các chiến sĩ ta đang ngày đêm bảo vệ vùng trời Tổ Quốc. Tôi chưa một lần đến Trường Sa, chỉ biết nơi đó qua sách địa lý, là quần đảo cách đất liền 250 hải lý.Tôi còn biết đến Trường Sa qua những bài hát về Trường Sa thân yêu, hát về biển đảo Tổ quốc, ấn tượng sâu sắc hơn cả là khí phách của các anh lính đảo vượt lên trên tất cả những thiếu thốn về lương thực và nguồn nước ngọt, vượt qua những cơn lốc xoáy và gió giật mạnh, khi thì rét run người với cái lạnh hay cái nóng rám da của vùng biển đảo. Trong tất cả những khó khăn ấy, điều khó khăn nhất là các anh phải vượt qua chính bản thân mình. Giữa mênh mông chông chênh của biển khơi, sự bao la vô hạn của không gian khiến người ta cảm thấy chơi vơi và cô đơn hơn bao giờ hết.Tuy vậy, những người lính ấy đã biến niềm nhớ nhung, niềm yêu thương gia đình thành động lực để hoàn thành tốt nhiệm vụ. Bởi các anh đang ngày đêm đem sự bình yên cho Tổ Quốc, cho cả dân tộc, trong đó có người thân của chính các anh. Hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của mình, những chàng trai không những đem đến niềm tự hào, niềm hạnh phúc cho những người thân yêu mà cả dân tộc cũng hạnh phúc nhờ sự yên bình mà các anh mang lại. Là con dân Việt Nam, mang trong mình dòng máu Việt ấm nồng, hai từ Tổ Quốc trong tim mỗi người vang lên như là điều thiêng liêng, bất hủ nhất. Biển đảo quê hương vẫn ngày đêm vỗ sóng từ nơi xa, như những giai điệu ca ngợi về một đất nước Việt Nam huyền thoại, ca ngợi về tình yêu quê hương đất nước của những chiến sĩ hải quân đang miệt mài canh giữ biển trời quê hương. Dù chiến tranh đã lùi xa nhưng biển Đông vẫn dậy sóng. Biển luôn cần sự nỗ lực của các anh lính biển, luôn cần sự sẻ chia, tiếp sức của mỗi chúng ta.
Assignment On March 26, 2016, Hoa Lu A High School - Ninh Binh organized a camp on March 26 and a provincial-level extracurricular topic with the content of Youth Union members of Hoa Lu A High School with union work skills and sovereignty over Vietnam's seas and islands. Through this extracurricular activity, we learned a lot of useful knowledge about the current issue of sea and island sovereignty as well as the roles and responsibilities of young people with the issue of sea and island sovereignty. Next, I would like to introduce to you the presentation about the March 26 summer camp of my class: 12C - K41 - Hoa Lu A High School - Ninh Binh (Copyright belongs to The Anh - 12C - Hoa Lu A) CAMP PRESENTATION Group 12C: Van Don Island Dear judges, teachers and everyone! To welcome the March 26 camp commemorating the 85th founding anniversary of the Ho Chi Minh Communist Youth Union of the Hoa Lu A High School Youth Union, the following is the presentation about the camp of the 12C Youth Union: The struggle to preserve the homeland's seas and islands has left indelible marks in the hearts of the nation. Looking back at the long journey of those heroic pages of history, I suddenly have a very strange feeling: nostalgia, sadness, and emotion. And above all, we admire the bravery and heroism of the soldiers who are fighting day and night to protect their homeland. Our 12C group first of all wants to give our love to the marine soldiers, who are firmly holding their guns day and night to protect the sovereignty and territorial integrity of the Fatherland. Our 12C Youth Union is very honored to be named Van Don Island (Van Don Island District, Quang Ninh Province) a small island district located in the Northeast of Quang Ninh Province. With an area of ​​551.3 km2, Van Don is an archipelago around the East and Northeast of Bai Tu Long Bay, including about 600 large and small islands. The largest island is Cai Bau island, accounting for more than half of the district's land area. Van Don island district has a contiguous location: the northwest borders the waters of Tien Yen district, the northeast borders the waters of Dam Ha district, the west borders Cam Pha City, the east borders the waters of Co To district, the west borders The southwest borders Ha Long Bay, Ha Long city and Cat Ba beach in Hai Phong city, to the south is the sea off the Gulf of Tonkin. With such a geographical location, Van Don plays an important role in exploiting and developing the marine economy, politics and society. The 12C youth summer camp is designed with the theme: "Youth with the sacred sovereignty of the islands and seas of the Fatherland". The tallest is the red flag with yellow star of the Fatherland flying in the wind, always reminding each union member and young person that we must put the Fatherland and homeland first and try our best to study hard to reach higher heights. reach further. Along with the National flag is the Youth Union badge, symbolizing the youth spirit: respectful, creative... Next, inside the camp is the image of a sail, a miniature image of the Fatherland (letter S), a lighthouse... The lighthouse gives directions to ships crossing countless seas. Even in storms and storms, he still stands tall and protects the sacred waters of the Fatherland with his soldiers. Next is the image of our great President Ho Chi Minh, the image of a tray of five fruits. On the other side is the young creative corner of youth union members of 12C branch. This young creative corner is innovative, demonstrating the youth, passion, and enthusiasm of the Youth Union's youth in research, exploration, and creativity. Poet Nguyen Viet Chien wrote: “If the Fatherland is storming from the sea There is a part of blood and flesh in Hoang Sa Thousands of years ago, I followed my father to the sea Mom went to the forest and missed Truong Sa forever..." The war has receded, but the good qualities of Uncle Ho's soldiers are still preserved and passed on through generations of Vietnamese people. And today, those qualities shine again when our beloved navy soldiers are carrying the glorious responsibility of preserving peace for the nation and the Vietnamese Fatherland. In the foggy Truong Sa, our soldiers are protecting the Fatherland's airspace day and night. I have never been to Truong Sa, I only know that place through geography books, it is an archipelago 250 nautical miles from the mainland. I also know Truong Sa through songs about my beloved Truong Sa, singing about the sea and islands of the Fatherland, The deepest impression is the courage of the island's soldiers to overcome all the shortages of food and fresh water, overcome tornadoes and strong winds, sometimes shivering with the cold. the searing heat of the island waters. Of all these difficulties, the most difficult thing is that you have to overcome yourself. Amidst the vast unsteadiness of the sea, the infinite vastness of space makes people feel more helpless and lonely than ever. However, those soldiers have transformed their nostalgia and love for family. into motivation to complete the task well. Because you are bringing peace day and night to the Fatherland, to the entire nation, including your own relatives. Having successfully completed their duties, the boys not only brought pride and happiness to their loved ones, but the whole nation was also happy thanks to the peace they brought. As a Vietnamese citizen, with warm Vietnamese blood in our bodies, the two words Fatherland in each person's heart resonate as the most sacred and immortal thing. The homeland's sea and islands are still pounding day and night from far away, like melodies praising the legendary country of Vietnam, praising the love for the homeland of the naval soldiers who are diligently guarding the sea and sky. hometown. Even though the war has receded, the East Sea is still churning. The sea always needs the efforts of marine soldiers, always needs the sharing and support of each of us.
( Trích Đăm Săn- sử thi Tây Nguyên ) Nếu người Thái ở tây bắc tự hào về truyện thơ “Tiễn dặn người yêu” của họ bao nhiêu thì đồng bào Ê đê Tây Nguyên cũng tự hào về sử thi Đăm Săn bấy nhiêu. Người Thái cho rằng mỗi lần hát tiễn dặn lên gà ấp phải bỏ ổ, cô gái quên hái rau, anh đi cày quên cày. Người Ê Đê cho rằng người ta thích nghe truyện Đam San, nghe mãi không thôi, nghe kể liền ba bốn lần cũng không biết chán. Để thấy được điều đó chúng ta cùng tìm hiểu sử thi Đam San với đoạn trích “Chiến thắng Mtao Mxây”. I. GIỚI THIỆU CHUNG 1.Khái niệm: Sử thi là những tác phẩm tự sự dân gian có qui mô lớn, sử dụng ngôn ngữ có vần, nhịp, xây dựng những hình tượng nghệ thuật hoành tráng, hào hùng để kể về một hoặc nhiều biến cố lớn lao diễn ra trong đời sống cộng đồng của cư dân thời cổ đại. Sử thi cổ đại là sản phẩm tinh thần – lễ nghi, nghệ thuật của xã hội thị tộc-bộ lạc, một thể loại một đi không trở lại, phản ánh những kì tích của cộng đồng trong công cuộc xây dựng sự phát triển, chinh phục tự nhiên và chiến đấu chiến thắng mọi kẻ thù của bộ tộc. Những bộ sử thi của Việt Nam và thế giới Việt Nam “Đẻ đất đẻ nước” của người Mường, bằng thơ. Bản sưu tầm ở Hoà Bình dài 3887 câu thơ; bản sưu tầm ở Thanh Hóa dài 8503 câu (?) – “Bài ca Đan Sẵn” của người Ê đê. – “Xinh Nhã” của nhiều bộ tộc ở Tây Nguyên, chủ yếu của người Ê đê. – “Y Ban” của nhiều bộ tộc ở Tây Nguyên. – “Đăm Di” của người Ê đê và Giarai. – “Xinh Chơ Niếp” của người Ê đê. – v.v… Thế giới: – “Ramayana” của Ấn Độ gồm có 24.000 câu thơ đôi. – “Mahabharata” của Ấn Độ dài 110.000 câu thơ đôi. – “Ôđixê” của Hi Lạp dài 12.110 câu thơ, tác giả Hômerơ. – “Iliat” của Hi Lạp, dài 15.683 câu thơ, tác giả Hômerơ. – v.v… Những ý kiến về sử thi -“Thời đại thịnh vượng nhất của giai đoạn cao trong thời đại dã man được diễn tả trong những bài thơ của Hômerơ, nhất là tập Iliat. … Bản anh hùng ca của Hômerơ và toàn bộ thần thoại – đó là những di sản chủ yếu mà người Hi Lạp đã đem được từ thời đại dã man sang thời đại văn minh…” (Ăng ghen) – “Chỉ thông qua sức mạnh phi thường của cộng đồng, người ta mới có thể giải thích được vẻ đẹp tuyệt vời và sâu sắc của thần thoại và anh hùng ca, một vẻ đẹp xây dựng trên sự hoà hợp triệt để giữa nội dung và hình thức…” (Gorki) – “Sử thi anh hùng bao hàm một bức tranh hoàn chỉnh của cuộc sống nhân dân dưới hình thức kể truyện anh hùng về quá khứ. Thế giới sử thi lý tưởng và nhân vật dũng sĩ trong sự thống nhất hài hoà của chúng – đó là những nhân tố chủ yếu của một nội dung sử thi anh hùng”. (Mêlêtinxki) 2. Phân loại: Gồm 2 loại Sử thi thần thoại và Sử thi anh hùng. 3. Sử thi Đam san Đam San thuộc loại sử thi anh hùng. Tác phẩm tuy kể về cuộc sống của cá nhân tù trưởng Đam San nhưng qua đó người nghe nhận ra hình ảnh của cả cộng đồng Ê Đê trong một giai đoạn lịch sử đầy biến động ở sư thi anh hùng, số phận của các nhân anh hùng thống nhất cao độ đối với số phận của cả thị tộc. Chiến tranh là đề tài nổi bật nhất của sử thi anh hùng. Văn bản tác phẩm nếu được sưu tầm đầy đủ nhất sẽ có 6 cuộc chiến tranh do tù trưởng Đam San lãnh đạo. Tóm tắt tác phẩm Theo tục “nối dây”, Đam Săn phải lấy hai chị em Hơ Nhí và Hơ Bhí làm vợ. Anh đã chống lại, nhưng bị trời lấy ống điếu gõ vào đầu 7 lần “Đam Săn chết lịm, rồi Trời cho sống lại”. Cuối cùng Đam Săn phải làm theo lời Trời. Đam Săn trở thành tù trưởng giàu mạnh, danh tiếng vang lừng rừng núi, “đầu đội khăn kép, vai mang túi da”. Đam Săn đã cùng bộ tộc đánh thắng hai tù trưởng hùng mạnh khác là Mơtao Grứ và Mơtao Mơxây, bắt được nhiều nô lệ, thu được nhiều tài sản quý báu. Ngang tàn coi thường thần linh, Đam Săn chặt cây thần. Chặt mãi cây mới đổ. Cây đổ quật chết cả hai nàng Hơ Nhí và Hơ Bhí. Anh vác rìu đi lên trời, cầu xin Trời cứu sống vợ anh. Đang sống trong yên vui giàu có, Đam Săn lại lên đường đi bắt Nữ thần Mặt Trời để có “hai vợ lẽ… vợ thật đẹp”. Cuộc cầu hôn thất bại, anh trở lại quê nhà, bị chết lún giữa rừng của bà Sun Y Rít. Đam Săn chết, cháu Đam Săn ra đời, lại theo tục “nối dây” đi tiếp hành trình của cậu chàng, dấn thân vào cuộc chiến đấu mới. 4. Đoạn trích – Vị trí đoạn trích: Đoạn trích thuộc phần giữa của tác phẩm. – Tóm tắt đoạn trích Đam San đột nhập vào nhà và gọi Mtao Mxây xuống đánh. Mtao Mxây múa kiếm trước nhưng vụng về đâm không trúng Đam San. Ông trời bày cho Đam San dùng chày giã gạo đâm vào vành tai của Mtao mxây. Đam San làm theo Mtao Mxây ngã. Đam san cắt đầu Mtao Mxây cắm trên cọc. Dân làng tôi tớ đi theo Đam San mang theo của cải voi ngựa của Mtao Mxây. Lễ cúng thần linh ăn mừng chiến thắng. – Đại ý: Miêu tả cuộc đọ sức giữa Đam San và mtao Mxây đê giành lại vợ, thể hiện niềm tự hào về người anh hùng của dân làng. II. PHÂN TÍCH 1.Cuộc đọ sức và giành chiến thắng của Đam san Đam San thách thức, đến tận nhà của Mtao Mxây: “Ơ diêng!, Ơ diêng! Xuống đây ta thách nhà ngươi đọ sức với ta đấy”. Mtao Mxây ngạo nghễ: “Ta không xuống đâu, diêng ơi! Tay ta còn bận ôm vợ hai của chúng ta ở trên này cơ mà”. a, Diễn biến cuộc chiến * Hiệp một: Mtao Mxây múa khiên trước. Đam san vẫn giữ thái độ bình tĩnh thản nhiên => bản lĩnh một tù trưởng. Mtao Mxây tỏ ra kém cỏi “khiên hắn kêu lạch cạch như quả mướp khô” Đam San múa “một lần xốc tới, chàng vượt một đồi tranh …. Một lần xốc tới nữa chàng vượt một đồi lồ ô. Chàng chạy vun vút qua phái đông qua phía tây”. Trong khi đó Mtao Mxây “ bước thấp bước cao chạt hết bãi tây sáng bãi đông. Hắn vung đao chém phập một cái nhưng chỉ trúng vào một cái chão cột trâu”. Mặc dù đã lộ rõ sự kém cỏi nhưng Mtao Mxây vẫn có những thái độ huyênh hoang. * Hiệp hai: Đam San múa khiên trước, Mtao Mxây hoảng hốt chạy bước thấp bước cao =>vội cầu cứu Hơ Nhị quăng cho miếng trầu. Đam San giành được miếng trầu => sức khoẻ tăng lên => đuổi theo và đâm trúng kẻ thù nhưng cả hai lần đều không thủng =>cầu cứu thần linh. Nhờ có ông trời giúp sức => Đam San chộp ngay một cái chầy mòn ném cúng vào vành tai kẻ thù=>kẻ thù ngã lăn ra đất cầu xin “Ơ diêng! Ơ diêng! Ta làm lễ cầu phúc cho diêng một trâu, một voi”. Đam San cắt đầu Mtao Mxây bêu ngoài đường” => cuộc đọ sức kết thúc. Ông trời là nhân vật phù trợ cũng như ông tiên, Bụt… đó chỉ là phù trợ còn quyết định chiến thắng phải là Đam San. b, Nghệ thuật miêu tả – Cách miêu tả của người Tây nguyên về nhân vật Đam San trong cuộc chiến giành lại vợ: Miêu tả hành động của Đam San bằng cách so sánh và phóng đại Múa trên cao như gió bão Múa dưới thấp như lốc. – Mtao Mxây: khiên hắn tròn như đầu cú, gươm hắn óng ánh như cái cầu vồng. – Dân làng: Đoàn người đông như bầy cà tong, đặc như bầy thiên thần, ùn ùn như kiến như mối, tôi tớ mang của cải về nhiều như ong di chuyển nước, vò vẽ di chuyển hoa. =>Nghệ thuật phóng đại, so sánh cũng là nghệ thuật tiêu biểu của sử thi. 2. Lễ ăn mừng chiến thắng a, Quang cảnh Nhà Đam San đông ngịt khách. Tôi tớ chật ních cả nhà. Đam San: Rất đẹp, oai phong, dũng mãnh mang khí phách của một tù trưởng hùng mạch. Mở tiệc ăn uống linh đình. Lễ ăn mừng sau chiến thắng của Đam San được miêu tả thông qua các chi tiết sau: Chàng nằm trên võng, tóc thả trên sàn, hứng tóc chàng là một cái nong hoa. Chàng uống không biết say, ăn không biết no, chuyện trò không biết chán… Cả miền Ê đê – Ê ga ca ngợi Đam San là một dũng tướng chắc chết mười mươi cũng không lùi bước, ngực quấn chéo một mềm chiến,… 3. Ý nghĩa của cuộc chiến thắng Cuộc chiến đấu của Đam San với mục đích giành lại gia đình, nhưng lại có ý nghĩa cộng đồng.Đòi lại vợ chỉ là cái cớ là nảy sinh mâu thuẫn giữa các bộ tộc dẫn đến chiến tranh mở rộng bờ cõi làm nổi uy dnah của cộng đồng. Vì vậy thắng hay bại của người tù trưởng có ý nghĩa rất quan trọng hơn cả. Cho nên lời của dân làng bên phía Mtao Mxây đều tình nguyện đi theo Đam San => trong sử thi không nói nhiều đến cái chết mà lựa chọn nhiều chi tiết ăn mừng. 4. Ý nghĩa đoạn trích
( Trích Đăm Săn- sử thi Tây Nguyên ) Nếu người Thái ở tây bắc tự hào về truyện thơ “Tiễn dặn người yêu” của họ bao nhiêu thì đồng bào Ê đê Tây Nguyên cũng tự hào về sử thi Đăm Săn bấy nhiêu. Người Thái cho rằng mỗi lần hát tiễn dặn lên gà ấp phải bỏ ổ, cô gái quên hái rau, anh đi cày quên cày. Người Ê Đê cho rằng người ta thích nghe truyện Đam San, nghe mãi không thôi, nghe kể liền ba bốn lần cũng không biết chán. Để thấy được điều đó chúng ta cùng tìm hiểu sử thi Đam San với đoạn trích “Chiến thắng Mtao Mxây”. I. GIỚI THIỆU CHUNG 1.Khái niệm: Sử thi là những tác phẩm tự sự dân gian có qui mô lớn, sử dụng ngôn ngữ có vần, nhịp, xây dựng những hình tượng nghệ thuật hoành tráng, hào hùng để kể về một hoặc nhiều biến cố lớn lao diễn ra trong đời sống cộng đồng của cư dân thời cổ đại. Sử thi cổ đại là sản phẩm tinh thần – lễ nghi, nghệ thuật của xã hội thị tộc-bộ lạc, một thể loại một đi không trở lại, phản ánh những kì tích của cộng đồng trong công cuộc xây dựng sự phát triển, chinh phục tự nhiên và chiến đấu chiến thắng mọi kẻ thù của bộ tộc. Những bộ sử thi của Việt Nam và thế giới Việt Nam “Đẻ đất đẻ nước” của người Mường, bằng thơ. Bản sưu tầm ở Hoà Bình dài 3887 câu thơ; bản sưu tầm ở Thanh Hóa dài 8503 câu (?) – “Bài ca Đan Sẵn” của người Ê đê. – “Xinh Nhã” của nhiều bộ tộc ở Tây Nguyên, chủ yếu của người Ê đê. – “Y Ban” của nhiều bộ tộc ở Tây Nguyên. – “Đăm Di” của người Ê đê và Giarai. – “Xinh Chơ Niếp” của người Ê đê. – v.v… Thế giới: – “Ramayana” của Ấn Độ gồm có 24.000 câu thơ đôi. – “Mahabharata” của Ấn Độ dài 110.000 câu thơ đôi. – “Ôđixê” của Hi Lạp dài 12.110 câu thơ, tác giả Hômerơ. – “Iliat” của Hi Lạp, dài 15.683 câu thơ, tác giả Hômerơ. – v.v… Những ý kiến về sử thi -“Thời đại thịnh vượng nhất của giai đoạn cao trong thời đại dã man được diễn tả trong những bài thơ của Hômerơ, nhất là tập Iliat. … Bản anh hùng ca của Hômerơ và toàn bộ thần thoại – đó là những di sản chủ yếu mà người Hi Lạp đã đem được từ thời đại dã man sang thời đại văn minh…” (Ăng ghen) – “Chỉ thông qua sức mạnh phi thường của cộng đồng, người ta mới có thể giải thích được vẻ đẹp tuyệt vời và sâu sắc của thần thoại và anh hùng ca, một vẻ đẹp xây dựng trên sự hoà hợp triệt để giữa nội dung và hình thức…” (Gorki) – “Sử thi anh hùng bao hàm một bức tranh hoàn chỉnh của cuộc sống nhân dân dưới hình thức kể truyện anh hùng về quá khứ. Thế giới sử thi lý tưởng và nhân vật dũng sĩ trong sự thống nhất hài hoà của chúng – đó là những nhân tố chủ yếu của một nội dung sử thi anh hùng”. (Mêlêtinxki) 2. Phân loại: Gồm 2 loại Sử thi thần thoại và Sử thi anh hùng. 3. Sử thi Đam san Đam San thuộc loại sử thi anh hùng. Tác phẩm tuy kể về cuộc sống của cá nhân tù trưởng Đam San nhưng qua đó người nghe nhận ra hình ảnh của cả cộng đồng Ê Đê trong một giai đoạn lịch sử đầy biến động ở sư thi anh hùng, số phận của các nhân anh hùng thống nhất cao độ đối với số phận của cả thị tộc. Chiến tranh là đề tài nổi bật nhất của sử thi anh hùng. Văn bản tác phẩm nếu được sưu tầm đầy đủ nhất sẽ có 6 cuộc chiến tranh do tù trưởng Đam San lãnh đạo. Tóm tắt tác phẩm Theo tục “nối dây”, Đam Săn phải lấy hai chị em Hơ Nhí và Hơ Bhí làm vợ. Anh đã chống lại, nhưng bị trời lấy ống điếu gõ vào đầu 7 lần “Đam Săn chết lịm, rồi Trời cho sống lại”. Cuối cùng Đam Săn phải làm theo lời Trời. Đam Săn trở thành tù trưởng giàu mạnh, danh tiếng vang lừng rừng núi, “đầu đội khăn kép, vai mang túi da”. Đam Săn đã cùng bộ tộc đánh thắng hai tù trưởng hùng mạnh khác là Mơtao Grứ và Mơtao Mơxây, bắt được nhiều nô lệ, thu được nhiều tài sản quý báu. Ngang tàn coi thường thần linh, Đam Săn chặt cây thần. Chặt mãi cây mới đổ. Cây đổ quật chết cả hai nàng Hơ Nhí và Hơ Bhí. Anh vác rìu đi lên trời, cầu xin Trời cứu sống vợ anh. Đang sống trong yên vui giàu có, Đam Săn lại lên đường đi bắt Nữ thần Mặt Trời để có “hai vợ lẽ… vợ thật đẹp”. Cuộc cầu hôn thất bại, anh trở lại quê nhà, bị chết lún giữa rừng của bà Sun Y Rít. Đam Săn chết, cháu Đam Săn ra đời, lại theo tục “nối dây” đi tiếp hành trình của cậu chàng, dấn thân vào cuộc chiến đấu mới. 4. Đoạn trích – Vị trí đoạn trích: Đoạn trích thuộc phần giữa của tác phẩm. – Tóm tắt đoạn trích Đam San đột nhập vào nhà và gọi Mtao Mxây xuống đánh. Mtao Mxây múa kiếm trước nhưng vụng về đâm không trúng Đam San. Ông trời bày cho Đam San dùng chày giã gạo đâm vào vành tai của Mtao mxây. Đam San làm theo Mtao Mxây ngã. Đam san cắt đầu Mtao Mxây cắm trên cọc. Dân làng tôi tớ đi theo Đam San mang theo của cải voi ngựa của Mtao Mxây. Lễ cúng thần linh ăn mừng chiến thắng. – Đại ý: Miêu tả cuộc đọ sức giữa Đam San và mtao Mxây đê giành lại vợ, thể hiện niềm tự hào về người anh hùng của dân làng. II. PHÂN TÍCH 1.Cuộc đọ sức và giành chiến thắng của Đam san Đam San thách thức, đến tận nhà của Mtao Mxây: “Ơ diêng!, Ơ diêng! Xuống đây ta thách nhà ngươi đọ sức với ta đấy”. Mtao Mxây ngạo nghễ: “Ta không xuống đâu, diêng ơi! Tay ta còn bận ôm vợ hai của chúng ta ở trên này cơ mà”. a, Diễn biến cuộc chiến * Hiệp một: Mtao Mxây múa khiên trước. Đam san vẫn giữ thái độ bình tĩnh thản nhiên => bản lĩnh một tù trưởng. Mtao Mxây tỏ ra kém cỏi “khiên hắn kêu lạch cạch như quả mướp khô” Đam San múa “một lần xốc tới, chàng vượt một đồi tranh …. Một lần xốc tới nữa chàng vượt một đồi lồ ô. Chàng chạy vun vút qua phái đông qua phía tây”. Trong khi đó Mtao Mxây “ bước thấp bước cao chạt hết bãi tây sáng bãi đông. Hắn vung đao chém phập một cái nhưng chỉ trúng vào một cái chão cột trâu”. Mặc dù đã lộ rõ sự kém cỏi nhưng Mtao Mxây vẫn có những thái độ huyênh hoang. * Hiệp hai: Đam San múa khiên trước, Mtao Mxây hoảng hốt chạy bước thấp bước cao =>vội cầu cứu Hơ Nhị quăng cho miếng trầu. Đam San giành được miếng trầu => sức khoẻ tăng lên => đuổi theo và đâm trúng kẻ thù nhưng cả hai lần đều không thủng =>cầu cứu thần linh. Nhờ có ông trời giúp sức => Đam San chộp ngay một cái chầy mòn ném cúng vào vành tai kẻ thù=>kẻ thù ngã lăn ra đất cầu xin “Ơ diêng! Ơ diêng! Ta làm lễ cầu phúc cho diêng một trâu, một voi”. Đam San cắt đầu Mtao Mxây bêu ngoài đường” => cuộc đọ sức kết thúc. Ông trời là nhân vật phù trợ cũng như ông tiên, Bụt… đó chỉ là phù trợ còn quyết định chiến thắng phải là Đam San. b, Nghệ thuật miêu tả – Cách miêu tả của người Tây nguyên về nhân vật Đam San trong cuộc chiến giành lại vợ: Miêu tả hành động của Đam San bằng cách so sánh và phóng đại Múa trên cao như gió bão Múa dưới thấp như lốc. – Mtao Mxây: khiên hắn tròn như đầu cú, gươm hắn óng ánh như cái cầu vồng. – Dân làng: Đoàn người đông như bầy cà tong, đặc như bầy thiên thần, ùn ùn như kiến như mối, tôi tớ mang của cải về nhiều như ong di chuyển nước, vò vẽ di chuyển hoa. =>Nghệ thuật phóng đại, so sánh cũng là nghệ thuật tiêu biểu của sử thi. 2. Lễ ăn mừng chiến thắng a, Quang cảnh Nhà Đam San đông ngịt khách. Tôi tớ chật ních cả nhà. Đam San: Rất đẹp, oai phong, dũng mãnh mang khí phách của một tù trưởng hùng mạch. Mở tiệc ăn uống linh đình. Lễ ăn mừng sau chiến thắng của Đam San được miêu tả thông qua các chi tiết sau: Chàng nằm trên võng, tóc thả trên sàn, hứng tóc chàng là một cái nong hoa. Chàng uống không biết say, ăn không biết no, chuyện trò không biết chán… Cả miền Ê đê – Ê ga ca ngợi Đam San là một dũng tướng chắc chết mười mươi cũng không lùi bước, ngực quấn chéo một mềm chiến,… 3. Ý nghĩa của cuộc chiến thắng Cuộc chiến đấu của Đam San với mục đích giành lại gia đình, nhưng lại có ý nghĩa cộng đồng.Đòi lại vợ chỉ là cái cớ là nảy sinh mâu thuẫn giữa các bộ tộc dẫn đến chiến tranh mở rộng bờ cõi làm nổi uy dnah của cộng đồng. Vì vậy thắng hay bại của người tù trưởng có ý nghĩa rất quan trọng hơn cả. Cho nên lời của dân làng bên phía Mtao Mxây đều tình nguyện đi theo Đam San => trong sử thi không nói nhiều đến cái chết mà lựa chọn nhiều chi tiết ăn mừng. 4. Ý nghĩa đoạn trích
1. Tam đại con gà a )Mâu thuẫn tạo ra tiếng cười: -Thầy đồ dốt >< hay khoe khoang giấu dốt, sĩ diện hão => dám liều lĩnh làm thầy đồ dạy trẻ. – Các tình huống gây cười: * Lần 1: – Gặp chữ “kê” là gà thầy không biết chữ gì, bị học trò hỏi dồn, thầy cuống nói liều “dủ dỉ là con dù dì ” + Trong Hán tự không có chữ “dù dì” và trong thế giới động vật cũng không có con nào là con “dù dì” => thầy dốt đến tận cùng của sự dốt. Thầy không chỉ kém về kiến thức sách vở mà còn kém hiểu biết về kiến thức thực tế. * Lần 2: Thầy sợ sai người ta biết thì cười, cho nên bảo học trò đọc khẽ=> ta cười vì sự giấu dốt rất thận trọng của thầy, cười vì cái tài giấu dốt láu cá => đáng chê trách. * Lần 3: Thầy tìm đến thổ công ( không tìm sách, tìm người để hỏi ). Thầy dốt thổ công cũng dốt luôn (thầy xin ba đài âm dương được cả ba) -> cái dốt dạy cái dốt -> thầy tin chắc nên đắc ý lắm, quát trẻ đọc thật to (dủ dỉ là con dù dì ) => cái dốt được khuếch đại nhân lên bằng âm thanh. * Lần 4: Bị chủ nhà chất vấn, thấy giải thích vòng vo, vô căn cứ: “Dủ dỉ là con dù dì, con dù dì là chị con công, con công là ông con gà” -> cái dốt bị lật tẩy ( KÊ là gà sao dạy các cháu là dù dì? ). NT kể chuyện: Tác giả dân gian đã không nói thẳng vấn đề mà để nv tự bộc lộ và người đọc người nghe tự suy ngẫm. b/. Ý nghĩa của truyện: Tiếng cười trong truyện mang ý nghĩa phê phán, giáo dục cao. + Phê phán hạng người dốt mà còn giấu dốt. + Bài học: nhắc nhở, cảnh tỉnh những kẻ mắc bệnh sĩ diện hão. -> Tiếng cười hóm hỉnh, sâu sắc đậm chất dân gian. 2. Nhưng nó phải bằng hai mày; a. Đối tượng của truyện: – Lý trưởng: quan xử kiện – Cải + Ngô: Những người nông dân lao động đi kiện. b. Nguyên nhân tiếng cười: Do mâu thuẫn của sự việc: thầy lý nổi tiếng xử kiện giỏi >< bản chất bên trong ( chuyên nhận tiền đút lót ) – Dùng tiếng cười và cử chỉ của nhân vật để tiếng cười bật ra. + Khi bị lôi ra đánh đòn: “Cải vội xòe năm ngón tay …. khẻ bẩm lẽ phải thuộc về con cơ mà”-> Cử chỉ, lời nói của Cải nhắc thầy lý món tiền mà anh ta đã lót trước cho thầy lý. + Thầy lý cũng có hành động lời nói tương ứng “thầy xòe năm ngón tay trái úp lên năm ngón tay mặt ” và nói “Mày phải nhưng nó lại phải bằng hai mày”( hình thức chơi chữ. Lẽ phải ở đây thuộc về kẻ nhiều tiền là Ngô ( vì tiền của Ngô gấp 2 lần Cải). – Yếu tố bất ngờ: Hành động xử kiện của thầy lý -> Cải rơi vào tình trạng bi hài: vừa mất tiền vừa bị đánh. 3. Những nét đặc sắc của truyện cười dângian – Truyện cười rất ngắn gọn. Truyện phải gói kín mở nhanh mới tạo sự bất ngờ.
1. Three great chickens a) Conflict creates laughter: -Ignorant teacher >< often brags and hides ignorance, has a false pride => dares to take the risk of being a teacher to teach children. – Funny situations: * First time: - Seeing the word "ke" means that the teacher doesn't know any words. Being pressed by the students, the teacher frantically says, "If you're stubborn, you're a child." + In Chinese characters there is no word "though aunt" and in the animal world there is no animal that is "though aunt" => the teacher is ignorant to the extreme of ignorance. The teacher is not only poor in book knowledge but also poor in understanding practical knowledge. * Second time: The teacher was afraid that if he made a mistake, people would laugh if they found out, so he told the students to read quietly => we laughed because of the teacher's careful hiding of ignorance, laughed because of his cunning talent for hiding ignorance => worthy of criticism. * 3rd time: The teacher found the Earth Kung (not looking for books, looking for people to ask). Teachers who are ignorant of earth kung fu are also ignorant (The teacher asked for three yin and yang stations and got all three) -> the ignorant teach the ignorant -> the teacher believed that so he was very pleased, shouted at the children to read loudly (it's a good idea to be an aunt) => the ignorance is amplified and multiplied. by sound. * 4th time: Questioned by the homeowner, the explanation was roundabout and baseless: "Being stubborn is an aunt, being an aunt is a peacock's sister, a peacock is a chicken" -> the ignorance was exposed (If it's a chicken, why teach your children how to use it?). Storyteller: The folk author did not directly state the issue but let the story reveal itself and the reader and listener ponder for themselves. b/. Meaning of the story: Laughter in the story has high critical and educational meaning. + Criticizes ignorant people who still hide their ignorance. + Lesson: remind and warn those who suffer from false pretenses. -> Humorous, profound laughter with folk characteristics. 2. But it must be equal to two eyebrows; a. Subject of the story: – Chief Justice: the judge who handles lawsuits – Cabbage + Corn: Working farmers sued. b. Cause of laughter: Due to the contradiction of the incident: the lawyer is famous for being good at handling cases >< internal nature (specializes in accepting bribes) – Use the character's laughter and gestures to make the laughter pop out. + When being dragged out for a spanking: “Cai quickly spread his five fingers…. "It should belong to me"-> Cai's gestures and words reminded the teacher of the money he had paid in advance for the teacher. + The logic teacher also has a corresponding speech action "he spreads the five fingers of his left hand over the five fingers of his right hand" and says "You are right but it must be equal to you" (a form of wordplay. Right here belongs to The one with the most money is Ngo (because Ngo's money is twice that of Cai). – Surprising factor: The lawyer's actions -> Cai fell into a tragic situation: he lost money and was beaten. 3. Characteristic features of Gregorian jokes – Jokes are very short. The story must be tightly wrapped and opened quickly to create a surprise.
Bài làm Triều đại nhà Trần (1226-1400) là một mốc son chói lọi trong 4000 năm dựng nước và giữ nước của lịch sử dân tộc ta. Ba lần kháng chiến và đánh thắng quân xâm lược Nguyên – Mông, nhà Trần đã ghi vào pho sử vàng Đại Việt những chiến công Chương Dương, Hàm Tử, Bạch Đằng… bất tử. Khí thế hào hùng, oanh liệt của nhân dân ta và tướng sĩ đời Trần được các sử gia ngợi ca là “Hào khí Đông A”. Thơ văn đời Trần là tiếng nói của những anh hùng – thi sĩ dào dạt cảm hứng yêu nước mãnh liệt. “Hịch tướng sĩ” của Trần Quốc Tuấn, “Thuật hoài” của Phạm Ngũ Lão, “Tụng giá hoàn kinh sư” cảu Trần Quang Khải, “Bạch Đằng giang phú” của Trương Hán Siêu.v.v… là những kiệt tác chứa chan tình yêu nước và niềm tự hào dân tộc. Phạm Ngũ Lão (1255-1320) là một danh tướng đời Trần, trăm trận trăm thắng, văn võ toàn tài. Tác phẩm của ông chỉ còn lại hai bài thơ chữ Hán: “Thuật hoài” và “Vãn Thượng tướng Quốc công Hưng Đạo Đại vương”. Bài thơ “Thuật hoài” thể hiện niềm tự hào về chí nam nhi và khát vọng chiến công của người anh hùng khi Tổ quốc bị xâm lăng. Nó là bức chân dung tự hoạ của danh tướng Phạm Ngũ Lão. Cầm ngang ngọn giáo (hoành sóc) là một tư thế chiến đấu vô cùng hiên ngang dũng mãnh. Câu thơ “Hoàng sóc giang sơn cáp kỷ thụ” là một câu thơ có hình tượng kỳ vĩ, tráng lệ, vừa mang tầm vóc không gian (giang sơn) vừa mang kích thước thời gian chiều dài lịch sử (cáp kỷ thu). Nó thể hiện tư thế người chiến sĩ thuở “bình Nguyên” ra trận hiên ngang, hào hùng như các dũng sĩ trong huyền thoại. Chủ nghĩa yêu nước được biểu hiện qua một vần thơ cổ kính trang nghiêm: cắp ngang ngọn giáo, xông pha trận mạc suốt mấy mùa thu để bảo vệ giang sơn yêu quý. Đội quân “Sát Thái” ra trận vô cùng đông đảo, trùng điệp (ba quân) với sức mạnh phi thường, mạnh như hổ báo (tỳ hổ) quyết đánh tan mọi kẻ thù xâm lược. Khí thế của đội quân “phụ tử chi binh” ấy ào ào ra trận. Không một thế lực nào, kẻ thù nào có thể ngăn cản nổi. “Khí thôn Ngưu” nghĩa là khí thế, tráng chí nuốt sao Ngưu, làm át, làm lu mờ sao Ngưu trên bầu trời. Biện pháp tu từ thậm xưng sáng tạo nên một hình tượng thơ mang tầm vóc hoành tráng, vũ trụ: “Tam quân tì hổ khí thôn Ngưu”. Hình ảnh ẩn dụ so sánh: “Tam quân tì hổ…” trong thơ Phạm Ngũ Lão rất độc đáo, không chỉ có sức biểu hiện sâu sắc sức mạnh vô địch của đội quân “Sát Thát” đánh đâu thắng đấy mà nó còn khơi nguồn cảm hứng thơ ca; tồn tại như một điển tích, một thi liệu sáng giá trong nền văn học dân tộc: -“Thuyền bè muôn đội; Tinh kỳ phấp phới Tỳ hổ ba quân, giáo gươm sáng chói…” (Bạch Đằng giang phú) Giang sơn hoàng sóc, khí thôn Ngưu” (“Vịnh Phạm Ngũ Lão” – Đặng Minh Khiêm) (1456-1522) – “Nghĩa binh tráng khí thôn Ngưu Đẩu.” (“Đăng Sơn”- Hồ Chí Minh) Người chiến sĩ “bình Nguyên” mang theo một ước mơ cháy bỏng: khao khát lập chiến công để đền ơn vua, báo nợ nước. Thời đại anh hùng mới có khát vọng anh hùng! “Phá cường địch, báo hoàng ân” (Trần Quốc Toản) – “Đầu thần chưa rơi xuống đất, xin bệ hạ đừng lo” (Trần Thủ Độ). “…Dẫu cho trăm thân này phơi ngaòi nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng cam lòng” (Trần Quốc Tuấn)… Khát vọng ấy là biểu hiện rực rỡ những tấm lòng trung quân ái quốc của tướng sĩ, khi tầng lớp quý tộc đời Trần trong xu thế đi lên đang gánh vác sứ mệnh lịch sử trọng đại. Họ mơ ước và tự hào về những chiến tích hiển hách, về những võ công oanh liệt của mình có thể sánh ngang tầm sự nghiệp anh hung của Vũ Hầu Gia Cát Lượng thời Tam Quốc. Hai câu cuối sử dụng một điển tích (Vũ Hầu) để nói về nợ công danh của nam nhi thời loạn lạc, giặc giã: “Công danh nam tử còn vương nợ
Assignment The Tran Dynasty (1226-1400) is a brilliant milestone in the 4,000 years of building and defending the country in our nation's history. Three times they resisted and defeated the Yuan-Mongol invaders, the Tran Dynasty recorded in Dai Viet's golden history the immortal victories of Chuong Duong, Ham Tu, Bach Dang... The heroic and heroic spirit of our people and generals of the Tran Dynasty was praised by historians as "The Magnanimity of Dong A". The poetry of the Tran Dynasty is the voice of heroes and poets filled with intense patriotic inspiration. "Hich Tuong Tuan" by Tran Quoc Tuan, "Thuat Hoai" by Pham Ngu Lao, "Chanting Gia Hoan Kinh Su" by Tran Quang Khai, "Bach Dang Giang Phu" by Truong Han Sieu, etc. are masterpieces filled with patriotism and national pride. Pham Ngu Lao (1255-1320) was a famous general of the Tran Dynasty, with hundreds of battles and hundreds of victories, and was talented in literature and martial arts. Only two Chinese poems remain in his works: "Thuat Hoai" and "Van Thuong Tuong Quoc Cong Hung Dao Dai Vuong". The poem "Thuat Hoai" shows the pride of manhood and the hero's desire for victory when the Fatherland is invaded. It is a self-portrait of famous general Pham Ngu Lao. Holding a spear horizontally is an extremely brave and courageous fighting posture. The poem "Hoang Soc Giang Son Cable Ky Thu" is a poem with a majestic and magnificent image, both of spatial dimension (Giang Son) and of time and historical dimension (cap Ky Thu). It represents the posture of soldiers in the "Plain Plains" going into battle proudly and heroically like legendary heroes. Patriotism is expressed through an ancient and solemn poem: holding a spear, rushing into battle throughout the autumn to protect the beloved country. The "Sat Thai" army went into battle extremely large, overlapping (three armies) with extraordinary strength, as strong as a tiger (ti tiger), determined to defeat all invading enemies. The spirit of that army of "fathers and sons" rushed into battle. No force or enemy can stop it. "Nuu village's atmosphere" means the spirit and spirit that swallows the Ox star, overpowering and eclipsing the Ox star in the sky. The rhetorical device even creates a poetic image of epic, cosmic proportions: "The three armies, the tiger, the spirit of Nguu village". The comparative metaphor: "Three armies, tigers..." in Pham Ngu Lao's poem is very unique, not only has the power to deeply express the invincible strength of the "Sat That" army, which fights hard to win, but it also inspires poetic inspiration; exists as a classic, a bright poetic document in national literature: -“There are countless boats and rafts; The star fluttered Three tigers, spears and swords are shining..." (Bach Dang Giang Phu) Yellow mountains and mountains, Nguu village atmosphere" (“Pham Ngu Lao Bay” – Dang Minh Khiem) (1456-1522) – “The brave soldiers of Nguu Dau village.” (“Dang Son” - Ho Chi Minh) The "Binh Nguyen" soldier carries a burning dream: the desire to achieve victories to repay the king's gratitude and repay the country's debt. The new heroic age has heroic aspirations! "Destroy the enemy's strength, show the king's grace" (Tran Quoc Toan) - "My head has not yet fallen to the ground, please don't worry, Your Majesty" (Tran Thu Do). “…Even if these hundred bodies are exposed to the grass, these thousand corpses wrapped in horse skin, I will still be satisfied” (Tran Quoc Tuan)... That aspiration is a brilliant expression of the loyal and patriotic hearts of the generals and soldiers. when the aristocracy of the Tran Dynasty, in its upward trend, was shouldering an important historical mission. They dream and are proud of glorious victories, of their heroic martial arts skills that can compare to the heroic career of Marquis Wu Zhuge Liang during the Three Kingdoms period. The last two sentences use a classic story (Vu Hau) to talk about the debt of men in times of chaos and war: “A man's reputation still has debts
(Trích “Tuỳ Viên thi thoại”) I – GỢI DẪN Thi thoại là loại sách bình luận về thơ, nói chuyện về phép làm thơ, hay ghi lại những câu chuyện về các nhà thơ. Đọc Thi thoại, người đọc sẽ được cung cấp những tri thức rất bổ ích về thơ ca, nâng cao năng lực cảm thụ và thưởng thức văn học. Nền lí luận văn học của Trung Quốc phát triển khá sớm và đã góp phần quan trọng thúc đẩy sự phát triển nền văn học của quốc gia này. Viên Mai (1716 – 1797) là nhà thơ, nhà lí luận phê bình văn học Trung Quốc đời Thanh, tự Tử Tài, hiệu Giản Trai, người Tiền Đường, Hàng Châu. Từng làm tri huyện, sau từ quan về ẩn ở vườn cũ họ Tuỳ, nên người đời gọi là Tuỳ Viên tiên sinh. Trước tác có nhiều lĩnh vực, song nổi tiếng về lí luận phê bình thơ. Ông đứng đầu phái Giang Tả nổi tiếng thời Càn Long. Ông cho rằng thơ là thể hiện tình cảm của con người, ông đưa ra thuyết “tính linh” – thơ phải dựa vào “linh cảm”. Ông phản đối tư tưởng “thần vận” của Vương Sĩ Trinh, ông cho rằng “thần vận” tìm cái hư không, phiêu diêu là thoát li “tính tình thật”. Ông chê thơ đời Thanh có ba bệnh: một là dùng nhiều điển, bài thơ thành đầy tử khí mà lại lấy đó tự khoe là học rộng ; hai là thiếu uẩn súc, cứ nói thẳng ruột ngựa mà lại tự khoe là thành thực ; ba là quá chú trọng thanh điệu, lấy bằng trắc mà định giá trị của thơ. Qua những chủ trương và những phản đối của ông, cũng cho thấy ông đòi hỏi sự giải phóng thơ khỏi những ràng buộc có tính chất hình thức, máy móc ; đòi hỏi sự chú trọng cá tính của nhà thơ. Chính vì vậy mà chủ trương này có tính chất tiến bộ, đổi mới. Trong Tuỳ Viên thi thoại (Chuyện thơ trong vườn họ Tuỳ) ông đã vận dụng những chủ trương của mình để bình phẩm thơ ca kim cổ, trong đó chú ý đến nhiều nhà thơ nữ chưa được người đời biết đến. Thơ ông không hay lắm, song nhìn chung trong sáng, trôi chảy, ít bị ràng buộc bởi cách điệu truyền thống (Theo Trần Lê Bảo: Tác gia tác phẩm văn học nước ngoài trong nhà trường, Sđd). Trong Tuỳ Viên thi thoại, Viên Mai đã đưa ra một số luận điểm rất quan trọng về văn học nghệ thuật, có giá trị nhất là những đoạn văn bàn về thi ca đích thực. Nhà văn đã thể hiện tầm hiểu biết sâu rộng và những suy nghĩ rất sắc sảo về thi ca. Phần trích học gồm hai đoạn: – Đoạn trích thứ nhất viết về lối nói gián tiếp trong thơ. – Đoạn thứ hai nói về việc dùng điển cố trong thơ. Sau khi đọc lướt một lần, đọc các chú thích. Đọc lại lần thứ hai bằng giọng bình luận, chậm rãi, khúc chiết. II – KIẾN THỨC CƠ BẢN 1. Quan niệm của Viên Mai về cong hay chính là lối nói gián tiếp trong thơ Mở đầu đoạn trích, tác giả so sánh: “Hễ làm người thì quý thẳng mà làm thơ văn thì quý cong”. Tại sao “làm thơ văn thì quý cong”? Bởi vì, đặc điểm nổi bật của thơ văn là khả năng khơi gợi – nhất là thơ. Ngôn ngữ thơ thường có tính hàm súc rất cao. “Cong” – lối nói gián tiếp, là một trong những cách thể hiện hàm ý. Trong bài Thăm bạn, Vương Tử Viên nói đến điểm sáng lung linh trên lầu là nói đến sự tĩnh mịch, nói đến cái nhìn hướng lên của người đến thăm bạn và tiếng gõ cửa chưa vang lên kia, tiếng đọc sách đêm vẳng lên kia là để nói cái tĩnh, yên ả của không gian đêm. Cũng như vậy, “cong” thể hiện qua việc vịnh mai mà liên tưởng đến tấm lòng của cây dương liễu và con mắt của chú bé chăn trâu,… “Ý tại ngôn ngoại” là một đặc sắc của thơ. 2. Về việc dùng điển cố trong thơ Dùng điển cố là một nghệ thuật tinh tế. Theo Viên Mai, dùng điển cố “như hoà muối vào trong nước, làm sao chỉ thấy vị muối mà không thấy chất muối”. Trong đoạn trích, bằng hình ảnh so sánh giản dị, Viên Mai chỉ rõ những bất lợi của lối dùng điển cố hiểm hóc. 3. Các đoạn trích Thơ văn quý ở chỗ cong, Dùng điển cố trong thơ cho thấy nghệ thuật lập luận sáng rõ, sắc sảo của tác giả. Chỉ bằng những lời lẽ ngắn gọn, Viên Mai đã chỉ ra được những đặc điểm quan trọng của sáng tạo văn học nói chung, thơ ca nói riêng. Các dẫn liệu phong phú được sử dụng khéo léo có tác dụng thể hiện nổi bật, sinh động quan niệm về đặc điểm gián tiếp của ngôn ngữ thơ ca và tiêu chuẩn của việc dùng điển cố trong thơ. Bên cạnh đó, lối diễn đạt giàu hình ảnh đã tạo ra sức hấp dẫn rõ rệt cho những vấn đề lí luận vốn trừu tượng, khô khan. III – LIÊN HỆ Đọc một số đoạn trích tiêu biểu trong Tuỳ Viên thi thoại của Viên Mai: 1. Dương Thành Trai nói rằng: “Xưa nay những người tài phận thấp kém thường hay nói cách điệu mà không hiểu phong thú. Vì sao vậy? Vì cách điệu là một thứ khung rỗng, có giọng điệu nhất định dễ bắt chước theo ; còn phong thú thì chuyên tả tính linh, nếu không phải người có tài năng thì không thể làm được”. Tôi rất thích câu nói ấy. Phải biết, có tính tình thì sẽ có cách luật, cách luật không nằm ngoài tính tình. Ba trăm bài thơ Kinh Thi, phân nửa đều là câu hát của những người lao khổ, những người đàn bà nhớ thương buột miệng nói lên tình cảm của mình, nào có ai bày cho họ cách thức, điệu luật gì đâu, thế mà những người bàn về cách điệu đời nay có ai vượt ra ngoài phạm vi ấy được? Huống chi điệu ca thời Vũ, Cao không giống với điệu ca của Kinh Thi, thể thơ Quốc phong không giống với thể thơ Nhã, Tụng, cách luật có gì nhất định đâu! Hứa Hồn có câu thơ: Ngâm thi hảo tự thành tiên cốt, Cốt lí vô thi mạc lãng ngâm. (Thơ hay như thể thành tiên cốt, Trong cốt không thơ chớ ngâm bừa) Cho nên thơ có quan hệ ở cốt chứ không phải ở cách. (Quyển I) 2. Tôi từng nói rằng: Thi nhân là người giữ được tâm hồn trẻ thơ. Thẩm Thạch Điền làm thơ về hoa rụng có câu: Hạo kiếp tín vu kim nhật tận, Si tâm nghi hữu biệt gia khai (Hương sắc đến đây là hết kiếp, Ngây thơ nghĩ sẽ nở vườn ai) Thơ Tống có câu: Lão tăng chỉ khủng vân phi khứ, Nhật ngọ tiên giao yểm tự môn. (Sư già chỉ sợ mây bay mất, Sai khép cửa chùa tự giữa trưa) Gần đây Trần Sở Nam đề bức tranh mĩ nhân ngoảnh mặt như sau: Mĩ nhân bối ỷ ngọc lan can, Trù trướng hoa dung nhất kiến nan. Kỉ độ hoán tha, tha bất chuyển, Si tâm dục trạo hoạ đồ khan. (Quay lưng người đẹp dựa lan can, Buồn thấy mặt hoa thật khó khăn. Mấy bận gọi nàng, nàng chẳng ngoảnh, Ngây ngô muốn lật hoạ đồ xem) Cái hay của các câu thơ trên ở chỗ đều như lời nói của trẻ thơ. (Quyển III) 3. Cõi thơ rất rộng lớn. Có những bậc học sĩ đại phu đọc đến muôn quyển sách, cùng đời hết hơi mà vẫn không tìm được bí ẩn của nó. Ngược lại có những người đàn bà con gái quê mùa, ít học, ngẫu nhiên làm được một đôi câu, dẫu Lí Bạch, Đỗ Phủ sống lại cũng phải cúi đầu bái phục. Thơ sở dĩ lớn lao là ở chỗ ấy. Người làm thơ nhất thiết phải biết hai lẽ đó, rồi sau mới có thể tìm đọc thơ ở trong sách và có được thơ ở ngoài sách. (Quyển III) 4. Thơ nên mộc mạc không nên khéo léo, nhưng phải là cái mộc mạc từ trong khéo léo lớn mà ra. Thơ nên nhạt không nên nồng, nhưng phải là cái nhạt sau khi đã nồng. Ví như một ông quan to, công thành danh toại, rồi xoã tóc, cởi dây ấn, thì là danh sĩ phong lưu. Còn nếu bọn thiếu niên con nhà giàu sang cũng vội bắt chước thái độ ấy thì phải đánh đòn. Nhà giàu phải chạm ngọc giát vàng cho có quy mô khác người, rồi sau có dùng ghế tre, giường mây cũng không có bộ mặt nghèo nàn của người thôn dã. (Quyển V) 5. Làm người không nên có cái tôi, có cái tôi thì bệnh tự cao tự đại sẽ rất nặng. Vì thế Khổng Tử không cố chấp, không có cái tôi vậy. Thế nhưng làm thơ thì không thể không có cái tôi, không có cái tôi thì cái tệ sao chép, phô diễn lại ý người khác sẽ rất lớn. Vì thế Hàn Xương Lê nói rằng: “Lời thơ học của người xưa nhưng tất phải tự mình mà ra”. Tổ Oánh người thời Bắc Nguỵ cũng nói: “Làm văn chương nên tự mình đề ra nề nếp, làm thành phong cách riêng một nhà, không thể gửi thân dưới hàng giậu nhà người ta được”. (Quyển VII) Chú thích: – Dương Vạn Lí, nhà thơ, nhà phê bình văn học nổi tiếng thời Tống, tự Đình Tú, hiệu Thành Trai, tác phẩm: Dịch truyện, Thành Trai tập, Thành Trai thi thoại. Về thơ, ông có khuynh hướng yêu cầu thơ phải thể hiện tính chân thực. Ông được Viên Mai đánh giá rất cao. – Tính linh: tính tức tính tình, tình cảm. Linh ý nói đến sự nhạy cảm, linh diệu. Tính linh nói chung tức là tình cảm chân thực, linh diệu nhất của con người. – Vũ: ông vua đầu tiên của nhà Hạ, Cao: bề tôi giỏi của vua Thuấn ; thời Vũ, Cao: chỉ thời thượng cổ của Trung Quốc. – Quốc phong, Nhã, Tụng: ba phần trong Kinh Thi. Quốc phong là ca dao của nhân dân ở các địa phương Trung Quốc, Nhã là những bài ca của quý tộc, Tụng là những bài ca dùng trong tế lễ ở cung đình. – Hứa Hồn: nhà thơ thời Đường, tự Trọng Hối, tác phẩm: Đinh Mão tập. – Thẩm Thạch Điền: tức Thẩm Chu, nhà thơ thời Minh, hiệu Thạch Điền. Thơ ông chịu ảnh hưởng của thơ Bạch Cư Dị, Tô Đông Pha, Lục Du. Tác phẩm có: Thạch Điền tập, Giang Nam xuân từ, Thạch Điền thi sao.
(Trích “Tuỳ Viên thi thoại”) I – GỢI DẪN Thi thoại là loại sách bình luận về thơ, nói chuyện về phép làm thơ, hay ghi lại những câu chuyện về các nhà thơ. Đọc Thi thoại, người đọc sẽ được cung cấp những tri thức rất bổ ích về thơ ca, nâng cao năng lực cảm thụ và thưởng thức văn học. Nền lí luận văn học của Trung Quốc phát triển khá sớm và đã góp phần quan trọng thúc đẩy sự phát triển nền văn học của quốc gia này. Viên Mai (1716 – 1797) là nhà thơ, nhà lí luận phê bình văn học Trung Quốc đời Thanh, tự Tử Tài, hiệu Giản Trai, người Tiền Đường, Hàng Châu. Từng làm tri huyện, sau từ quan về ẩn ở vườn cũ họ Tuỳ, nên người đời gọi là Tuỳ Viên tiên sinh. Trước tác có nhiều lĩnh vực, song nổi tiếng về lí luận phê bình thơ. Ông đứng đầu phái Giang Tả nổi tiếng thời Càn Long. Ông cho rằng thơ là thể hiện tình cảm của con người, ông đưa ra thuyết “tính linh” – thơ phải dựa vào “linh cảm”. Ông phản đối tư tưởng “thần vận” của Vương Sĩ Trinh, ông cho rằng “thần vận” tìm cái hư không, phiêu diêu là thoát li “tính tình thật”. Ông chê thơ đời Thanh có ba bệnh: một là dùng nhiều điển, bài thơ thành đầy tử khí mà lại lấy đó tự khoe là học rộng ; hai là thiếu uẩn súc, cứ nói thẳng ruột ngựa mà lại tự khoe là thành thực ; ba là quá chú trọng thanh điệu, lấy bằng trắc mà định giá trị của thơ. Qua những chủ trương và những phản đối của ông, cũng cho thấy ông đòi hỏi sự giải phóng thơ khỏi những ràng buộc có tính chất hình thức, máy móc ; đòi hỏi sự chú trọng cá tính của nhà thơ. Chính vì vậy mà chủ trương này có tính chất tiến bộ, đổi mới. Trong Tuỳ Viên thi thoại (Chuyện thơ trong vườn họ Tuỳ) ông đã vận dụng những chủ trương của mình để bình phẩm thơ ca kim cổ, trong đó chú ý đến nhiều nhà thơ nữ chưa được người đời biết đến. Thơ ông không hay lắm, song nhìn chung trong sáng, trôi chảy, ít bị ràng buộc bởi cách điệu truyền thống (Theo Trần Lê Bảo: Tác gia tác phẩm văn học nước ngoài trong nhà trường, Sđd). Trong Tuỳ Viên thi thoại, Viên Mai đã đưa ra một số luận điểm rất quan trọng về văn học nghệ thuật, có giá trị nhất là những đoạn văn bàn về thi ca đích thực. Nhà văn đã thể hiện tầm hiểu biết sâu rộng và những suy nghĩ rất sắc sảo về thi ca. Phần trích học gồm hai đoạn: – Đoạn trích thứ nhất viết về lối nói gián tiếp trong thơ. – Đoạn thứ hai nói về việc dùng điển cố trong thơ. Sau khi đọc lướt một lần, đọc các chú thích. Đọc lại lần thứ hai bằng giọng bình luận, chậm rãi, khúc chiết. II – KIẾN THỨC CƠ BẢN 1. Quan niệm của Viên Mai về cong hay chính là lối nói gián tiếp trong thơ Mở đầu đoạn trích, tác giả so sánh: “Hễ làm người thì quý thẳng mà làm thơ văn thì quý cong”. Tại sao “làm thơ văn thì quý cong”? Bởi vì, đặc điểm nổi bật của thơ văn là khả năng khơi gợi – nhất là thơ. Ngôn ngữ thơ thường có tính hàm súc rất cao. “Cong” – lối nói gián tiếp, là một trong những cách thể hiện hàm ý. Trong bài Thăm bạn, Vương Tử Viên nói đến điểm sáng lung linh trên lầu là nói đến sự tĩnh mịch, nói đến cái nhìn hướng lên của người đến thăm bạn và tiếng gõ cửa chưa vang lên kia, tiếng đọc sách đêm vẳng lên kia là để nói cái tĩnh, yên ả của không gian đêm. Cũng như vậy, “cong” thể hiện qua việc vịnh mai mà liên tưởng đến tấm lòng của cây dương liễu và con mắt của chú bé chăn trâu,… “Ý tại ngôn ngoại” là một đặc sắc của thơ. 2. Về việc dùng điển cố trong thơ Dùng điển cố là một nghệ thuật tinh tế. Theo Viên Mai, dùng điển cố “như hoà muối vào trong nước, làm sao chỉ thấy vị muối mà không thấy chất muối”. Trong đoạn trích, bằng hình ảnh so sánh giản dị, Viên Mai chỉ rõ những bất lợi của lối dùng điển cố hiểm hóc. 3. Các đoạn trích Thơ văn quý ở chỗ cong, Dùng điển cố trong thơ cho thấy nghệ thuật lập luận sáng rõ, sắc sảo của tác giả. Chỉ bằng những lời lẽ ngắn gọn, Viên Mai đã chỉ ra được những đặc điểm quan trọng của sáng tạo văn học nói chung, thơ ca nói riêng. Các dẫn liệu phong phú được sử dụng khéo léo có tác dụng thể hiện nổi bật, sinh động quan niệm về đặc điểm gián tiếp của ngôn ngữ thơ ca và tiêu chuẩn của việc dùng điển cố trong thơ. Bên cạnh đó, lối diễn đạt giàu hình ảnh đã tạo ra sức hấp dẫn rõ rệt cho những vấn đề lí luận vốn trừu tượng, khô khan. III – LIÊN HỆ Đọc một số đoạn trích tiêu biểu trong Tuỳ Viên thi thoại của Viên Mai: 1. Dương Thành Trai nói rằng: “Xưa nay những người tài phận thấp kém thường hay nói cách điệu mà không hiểu phong thú. Vì sao vậy? Vì cách điệu là một thứ khung rỗng, có giọng điệu nhất định dễ bắt chước theo ; còn phong thú thì chuyên tả tính linh, nếu không phải người có tài năng thì không thể làm được”. Tôi rất thích câu nói ấy. Phải biết, có tính tình thì sẽ có cách luật, cách luật không nằm ngoài tính tình. Ba trăm bài thơ Kinh Thi, phân nửa đều là câu hát của những người lao khổ, những người đàn bà nhớ thương buột miệng nói lên tình cảm của mình, nào có ai bày cho họ cách thức, điệu luật gì đâu, thế mà những người bàn về cách điệu đời nay có ai vượt ra ngoài phạm vi ấy được? Huống chi điệu ca thời Vũ, Cao không giống với điệu ca của Kinh Thi, thể thơ Quốc phong không giống với thể thơ Nhã, Tụng, cách luật có gì nhất định đâu! Hứa Hồn có câu thơ: Ngâm thi hảo tự thành tiên cốt, Cốt lí vô thi mạc lãng ngâm. (Thơ hay như thể thành tiên cốt, Trong cốt không thơ chớ ngâm bừa) Cho nên thơ có quan hệ ở cốt chứ không phải ở cách. (Quyển I) 2. Tôi từng nói rằng: Thi nhân là người giữ được tâm hồn trẻ thơ. Thẩm Thạch Điền làm thơ về hoa rụng có câu: Hạo kiếp tín vu kim nhật tận, Si tâm nghi hữu biệt gia khai (Hương sắc đến đây là hết kiếp, Ngây thơ nghĩ sẽ nở vườn ai) Thơ Tống có câu: Lão tăng chỉ khủng vân phi khứ, Nhật ngọ tiên giao yểm tự môn. (Sư già chỉ sợ mây bay mất, Sai khép cửa chùa tự giữa trưa) Gần đây Trần Sở Nam đề bức tranh mĩ nhân ngoảnh mặt như sau: Mĩ nhân bối ỷ ngọc lan can, Trù trướng hoa dung nhất kiến nan. Kỉ độ hoán tha, tha bất chuyển, Si tâm dục trạo hoạ đồ khan. (Quay lưng người đẹp dựa lan can, Buồn thấy mặt hoa thật khó khăn. Mấy bận gọi nàng, nàng chẳng ngoảnh, Ngây ngô muốn lật hoạ đồ xem) Cái hay của các câu thơ trên ở chỗ đều như lời nói của trẻ thơ. (Quyển III) 3. Cõi thơ rất rộng lớn. Có những bậc học sĩ đại phu đọc đến muôn quyển sách, cùng đời hết hơi mà vẫn không tìm được bí ẩn của nó. Ngược lại có những người đàn bà con gái quê mùa, ít học, ngẫu nhiên làm được một đôi câu, dẫu Lí Bạch, Đỗ Phủ sống lại cũng phải cúi đầu bái phục. Thơ sở dĩ lớn lao là ở chỗ ấy. Người làm thơ nhất thiết phải biết hai lẽ đó, rồi sau mới có thể tìm đọc thơ ở trong sách và có được thơ ở ngoài sách. (Quyển III) 4. Thơ nên mộc mạc không nên khéo léo, nhưng phải là cái mộc mạc từ trong khéo léo lớn mà ra. Thơ nên nhạt không nên nồng, nhưng phải là cái nhạt sau khi đã nồng. Ví như một ông quan to, công thành danh toại, rồi xoã tóc, cởi dây ấn, thì là danh sĩ phong lưu. Còn nếu bọn thiếu niên con nhà giàu sang cũng vội bắt chước thái độ ấy thì phải đánh đòn. Nhà giàu phải chạm ngọc giát vàng cho có quy mô khác người, rồi sau có dùng ghế tre, giường mây cũng không có bộ mặt nghèo nàn của người thôn dã. (Quyển V) 5. Làm người không nên có cái tôi, có cái tôi thì bệnh tự cao tự đại sẽ rất nặng. Vì thế Khổng Tử không cố chấp, không có cái tôi vậy. Thế nhưng làm thơ thì không thể không có cái tôi, không có cái tôi thì cái tệ sao chép, phô diễn lại ý người khác sẽ rất lớn. Vì thế Hàn Xương Lê nói rằng: “Lời thơ học của người xưa nhưng tất phải tự mình mà ra”. Tổ Oánh người thời Bắc Nguỵ cũng nói: “Làm văn chương nên tự mình đề ra nề nếp, làm thành phong cách riêng một nhà, không thể gửi thân dưới hàng giậu nhà người ta được”. (Quyển VII) Chú thích: – Dương Vạn Lí, nhà thơ, nhà phê bình văn học nổi tiếng thời Tống, tự Đình Tú, hiệu Thành Trai, tác phẩm: Dịch truyện, Thành Trai tập, Thành Trai thi thoại. Về thơ, ông có khuynh hướng yêu cầu thơ phải thể hiện tính chân thực. Ông được Viên Mai đánh giá rất cao. – Tính linh: tính tức tính tình, tình cảm. Linh ý nói đến sự nhạy cảm, linh diệu. Tính linh nói chung tức là tình cảm chân thực, linh diệu nhất của con người. – Vũ: ông vua đầu tiên của nhà Hạ, Cao: bề tôi giỏi của vua Thuấn ; thời Vũ, Cao: chỉ thời thượng cổ của Trung Quốc. – Quốc phong, Nhã, Tụng: ba phần trong Kinh Thi. Quốc phong là ca dao của nhân dân ở các địa phương Trung Quốc, Nhã là những bài ca của quý tộc, Tụng là những bài ca dùng trong tế lễ ở cung đình. – Hứa Hồn: nhà thơ thời Đường, tự Trọng Hối, tác phẩm: Đinh Mão tập. – Thẩm Thạch Điền: tức Thẩm Chu, nhà thơ thời Minh, hiệu Thạch Điền. Thơ ông chịu ảnh hưởng của thơ Bạch Cư Dị, Tô Đông Pha, Lục Du. Tác phẩm có: Thạch Điền tập, Giang Nam xuân từ, Thạch Điền thi sao.
Bài làm Cuộc sống là muôn vàn câu hỏi nhưng đôi khi nó lại không có một câu trả lời cụ thể nào cả, và bạn phải tự trả lời bằng những trải nghiệm, cảm xúc mà bản thân đã đi qua trong chặng đường trưởng thành. Giống như câu hỏi rằng: “Hạnh phúc là gì? “, mỗi chúng ta đều có cảm nhận khác nhau về hai từ Hạnh Phúc tùy vào suy nghĩ và chặng đường mà ta lớn lên. Vậy theo bạn “ Hạnh Phúc là gì?”. Nếu nói theo một cách máy móc thì hạnh phúc là một thứ cảm xúc khiến con người ta cảm thấy hài lòng, thỏa mãn về một nhu cầu nào đó, và ta luôn muốn tận hưởng nó một cách trọn vẹn nhất. Nhưng đó cũng chỉ là một khái niệm khi ta nói về hạnh phúc, để rồi khi đã thật sự cảm nhận được hạnh phúc ta sẽ thấy rằng nó không hề đơn giản như ta vẫn thường nghĩ, mà nó là vô hạn. Ta dễ dàng tìm được nó từ những điều nhỏ nhặt nhất chỉ cần ta an tĩnh mà đón nhận, nhẹ nhàng thường thức hạnh phúc sẽ hiện ra như một con gió dịu dàng xoa dịu đi những nỗi buồn những bộn bề lo toan trong cuộc sống, làn gió thanh trong cuốn đi những căng thẳng mệt mỏi của sự đời, sau đó ta lại tiếp tục đi tìm kiếm một hạnh phúc mới, một làn gió khác, luôn phấn đấu không ngừng để vươn tới sự hoàn hảo,một thứ hạnh phúc cao hơn. Cũng có thể nói hạnh phúc là một loại lý tưởng, mọi mục tiêu, mục đích hướng đến của ta đều là hạnh phúc. Nếu không có lý tưởng hay mục tiêu thì cuộc sống của con người sẽ chỉ là những chuỗi ngày nhàm chán, vô vị, sẽ không thể có được những niềm vui, niềm hạnh phúc chân chính. Khát khao mong muốn có được hạnh phúc và nhìn thấy hạnh phúc luôn là động lực để con người ta tiếp tục chặng đường cuộc sống. Hạnh phúc cũng là tình yêu thương giữa con người với con người, tình yêu đối với bản thân, đối với những điều thiêng liêng nhất đã dành tặng cho mỗi một sinh linh tồn tại trên cõi đời. Để có được hạnh phúc không hề khó, chỉ cần bản thân đừng quá khắt khe với cuộc sống, đừng đòi hỏi quá cao, nó nhất định sẽ đến bên ta. Hạnh phúc đơn giản là một cốc nước khi đang khát, một cái bánh khi đang đói, một lời an ủi khi đang buồn,… Hạnh phúc không phải là thứ xa hoa như có thật nhiều tiền vì hạnh phúc không thể mua được, cũng không phải là trang sức lộng lẫy đắt tiền vì nó có thể sẽ không hợp với bản thân, càng không phải là ngôi nhà trăm gian và nô lệ nghìn người. Con người luôn khao khát được sống hạnh phúc là thế nhưng đôi khi họ lại có những suy nghĩ lệch lạc về nó. Một số người cho rằng, được sống trong lâu đài, được trăm người hầu kẻ hạ, được khoác trên người những thứ quý giá khiến người khác ghen tị đó là hạnh phúc, số khác lại cho rằng chỉ cần có được cuộc sống đơn sơ bên gia đình, mỗi ngày được bữa cơm no, tự bản thân lao động tạo ra thành quả, trang phục đơn giản như vậy là quá đỗi hạnh phúc. Đâu là điều hạnh phúc thật sự? ” Hạnh phúc trong cuộc sống phụ thuộc vào những suy nghĩ và tầm nhìn của bạn.” Marcus Aurelius Antonius Trích câu nói của Marcus Aurelius Antonius ta thấy được rằng hạnh phúc từ đâu mà có đều phụ thuộc vào chúng ta. Bản thân nhận thức như thế nào đều hoàn phụ thuộc vào đấy. Khi bạn có được hàng trăm thứ của cải và bạn ích kỷ chỉ muốn giữ nó cho riêng mình thì bạn sẽ thấy thật đơn độc, bạn được người khác hầu hạ lúc đó bạn chỉ việc ngồi một chỗ và chả thiết làm gì khi ấy bạn sẽ thấy thật nhàm chán, bạn khoác trên người trang phục lộng lẫy đắt tiền nhưng không hề hợp với bản thân dẫu thế xung quanh luôn có những kẻ xu nịnh bảo rằng thật đẹp bạn sẽ thấy xã hội chỉ toàn là giả dối. Hạnh phúc đó bạn có thật sự muốn tiếp tục tận hưởng, bạn đánh đổi nhiều thứ cho hạnh phúc này nhưng nó không hề trọn vẹn ngay từ khi bắt đầu, nó khiến bạn suy nghĩ tiêu cực về xã hội bạn đang sống, hãy thử thay đổi đi hạnh phúc ấy bằng thứ đơn sơ hơn xem. Hãy thử nghĩ xem, nếu mỗi sớm thức dậy bạn được bên gia đình chào đón một ngày mới, sau đó cùng nhau lao động tạo ra những thành quả sản phẩm, đến khi mệt có thể cùng nhau nghỉ ngơi ăn những món đơn sơ, lúc đó bạn sẽ không thấy rằng cuộc sống nhàm chán, bản thân cô đơn, hay xung quanh giả dối mà sẽ có những điều tốt đẹp. Phải làm gì để có được hạnh phúc trọn vẹn? Câu trả lời cho câu hỏi này không quá cầu kì, chỉ cần sống một cách toàn vẹn, không để trong lòng những điều vướng mắc không cần thiết, hài lòng với cuộc sống hiện tại, đừng đòi hỏi quá nhiều những thứ xa xỉ, để cho lòng được bình an yên tĩnh hơn, hãy cho đi quá khứ và chấp nhận hiện tại bạn sẽ nhận được phần thưởng đáng giá. Hạnh phúc cũng không phải là của riêng ai mà nó thuộc về mỗi một con người, một điều hạnh phúc nhỏ khi ta chia sẻ nó với mọi người thì ta sẽ nhận được một hạnh phúc lớn hơn. Và khi ai đó chia sẻ niềm hạnh phúc của họ với bạn hãy vui vẻ mà đón nhận nó và cảm nhận hạnh phúc đó cùng với họ. Giúp đỡ người khác cũng là một việc khiến ta hạnh phúc cho đi thứ ta có thì sẽ được đền bù thích đáng, nhận được giúp đỡ cũng là một hạnh phúc.
Assignment Life is full of questions, but sometimes it doesn't have any specific answer, and you have to answer it yourself with the experiences and emotions you've gone through on your journey to adulthood. Like the question: “What is happiness? “, each of us has a different feeling about the two words Happiness depending on our thoughts and the path we grow up. So according to you, "What is Happiness?". If speaking in a mechanical way, happiness is an emotion that makes people feel satisfied, satisfied with a certain need, and we always want to enjoy it to the fullest. But that is just a concept when we talk about happiness, so when we really feel happiness we will see that it is not as simple as we often think, but it is infinite. We can easily find it from the smallest things, as long as we calmly accept it, gently and gently, happiness will appear like a gentle wind, soothing the sadness and worries in life. , the clear breeze sweeps away the stress and fatigue of life, then we continue to search for a new happiness, a different breeze, always striving endlessly to reach perfection, a kind of happiness. higher happiness. It can also be said that happiness is a kind of ideal, all our goals and objectives are happiness. Without ideals or goals, human life will just be a series of boring, tasteless days, and it will be impossible to have true joy and happiness. The desire to have happiness and see happiness is always the motivation for people to continue their journey in life. Happiness is also love between people, love for oneself, for the most sacred things given to every living being in this world. To be happy is not difficult, just don't be too strict with life, don't demand too much, it will definitely come to you. Happiness is simply a glass of water when you're thirsty, a cake when you're hungry, a word of comfort when you're sad,... Happiness is not a luxury like having a lot of money because happiness cannot be bought, nor is it gorgeous and expensive jewelry because it may not suit you, and it is not even a house with a hundred rooms. and thousands of slaves. People always desire to live happily, but sometimes they have distorted thoughts about it. Some people think that living in a castle, having hundreds of servants, wearing precious things that make others jealous is happiness, others think that just having a simple life Being with my family, having a full meal every day, working to create my own results, wearing such simple clothes is extremely happy. What is true happiness? ”Happiness in life depends on your thoughts and vision.” Marcus Aurelius Antonius Quoting the words of Marcus Aurelius Antonius, we can see that where happiness comes from depends on us. How you perceive yourself depends entirely on it. When you have hundreds of things and you are selfish and just want to keep it for yourself, you will feel very alone. You are served by others, then you just sit around and don't want to do anything. You will find it boring, you wear expensive, gorgeous clothes that don't suit you, but there are always people around you who flatter you and tell you how beautiful you are. You will see that society is full of lies. Do you really want to continue to enjoy that happiness? You trade many things for this happiness, but it is not complete from the start. It makes you think negatively about the society you live in. Try it. Change that happiness with something simpler. Think about it, if every morning you wake up and your family welcomes a new day, then work together to create product results, and when you're tired, you can rest together and eat simple dishes. At that time, you will not find that life is boring, that you are lonely, or that you are surrounded by lies, but there will be good things. What to do to get complete happiness? The answer to this question is not too complicated, just live life to the fullest, don't keep unnecessary things in your heart, be satisfied with your current life, don't ask for too many luxuries, To make your heart more peaceful and quiet, let go of the past and accept the present and you will receive a valuable reward. Happiness is not personal, it belongs to every person, a small happiness when we share it with everyone, we will receive a greater happiness. And when someone shares their happiness with you, happily receive it and feel that happiness with them. Helping others is also something that makes us happy. If we give away what we have, we will be compensated appropriately. Receiving help is also a happiness.
Bài làm Đã bao giờ bạn tự hỏi rằng thành công là gì? Tại sao nhiều người đồng ý đánh đổi nhiều thứ để đạt được thành công? Phải chăng thành công chính là kết quả mà bạn nhận được sao bao cố gắng, nỗ lực không ngừng nghỉ? Thành công với bạn mang một ý nghĩa to lớn như thế nào? Vậy thì bạn hãy dành chút thời gian để suy nghĩ xem thành công là gì nó có phải đích đến của cuộc đời bạn hay không? Thành công được gọi với nhiều ý nghĩa nhiều tên gọi khác nhau và cũng tùy theo mỗi người mà định nghĩa nó. Thành công là quá trình tạo dựng cuộc sống bạn muốn sống, là sự cống hiến cho công việc, là hoàn thành được mục tiêu đã đặt ra, là sự vươn tới đỉnh cao nhất, là sự tìm kiếm, học hỏi từ thất bại,… và thành công cũng sẽ bắt đầu từ những điều đơn giản, mộc mạc. Thành công đôi khi là cả một thành tựu to lớn, đôi khi nó cũng là những điều đơn sơ bé nhỏ nhưng mang lại cho ta, cho gia đình niềm vui và thanh thản. Thành công có được nhờ công sức lao động nghiêm túc và say mê sau bao nhọc nhằn, đến khi ta đạt đến được thành công ta thấy thật vinh quang, thỏa mãn vì đó là công sức lao động của bản thân tạo nên chứ không phải từ bất kì ai. Ví dụ bạn cố gắng phấn đấu làm thật tốt các bài kiểm tra, học thật tốt và làm đầy đủ bài tập trong suốt một năm học, đến cuối học kì bạn đạt được danh hiệu học sinh giỏi bạn sẽ thấy rất tự hào, vì đó là kết quả do chính công sức bạn tạo ra từ những kiên trì, những đêm học bài thật khuya của bạn mà không phải do ai khác tạo ra. Nhưng cuộc sống của mỗi người đều không được định trước, cũng không phải họ có chắc trong tay khả năng thành công trong việc họ làm. Chúng ta vẫn thường xuyên mắc sai lầm trong công việc, cuộc sống, đôi khi ta thất bại trên con đường đời nhưng đừng do đó mà bỏ cuộc, vì trong con đường đi đến thành công bên cạnh cố gắng, ý chí còn có những khó khăn, thử thách và thất bại cũng chỉ là một phần trên con đường đến thành công. Từ những thất bại đó ta rút ra được những kinh nghiệm, những thiếu sót của bản thân sau đó thay đổi và dần hoàn thiện bản thân hơn. Bạn sẽ càng cảm thấy tự hào hơn và hạnh phúc hơn khi trên con đường leo lên đỉnh của thành công của bạn không những là những viên sỏi nhỏ chắn lối mà còn có những tảng đá to chắn lối đi, dẫu vậy bạn vẫn đã vượt qua nó mà đến được đỉnh của thành công. Trong cuộc sống của ta vẫn có vô số tấm gương, với sự kiên trì vượt qua mọi rào cản để đạt được những thành công vinh quang nhất, khiến hàng trăm con người phải ngưỡng mộ. Ta cũng biết đến Niu-tơn là nhà toán học, vật lí học, cơ học, thiên văn học vĩ đại người Anh, khi còn nhỏ ông là một đứa trẻ yếu ớt do sinh ra thiếu tháng, thường phải tránh những trò chơi hiếu động của bạn bè. Do đó ông đã tự tạo ra trò chơi cho mình và trở thành người rất tài năng; hay ta cũng đã từng nghe về Franklin nhà bác học Mĩ đã dũng cảm thực hiện thí nghiệm làm cột thu lôi, mặc dù công việc đó có thể gây ra cho ông cái chết bất cứ lúc nào, sau nhiều năm đương đầu với sấm sét, năm 1752 Franklin đã thành công; và rất nhiều cái tên chỉ cần nghe đến thôi ta cũng phải trầm trồ thán phục.
Assignment Have you ever wondered what success is? Why do many people agree to sacrifice many things to achieve success? Is success the result that you get after all your hard work and endless efforts? What does success mean to you? So take some time to think about what success is, is it the goal of your life or not? Success is called with many different meanings and names, and it depends on each person to define it. Success is the process of creating the life you want to live, it is dedication to work, it is completing set goals, it is reaching the highest peak, it is searching and learning from failure, …and success will also start from simple, rustic things. Success is sometimes a huge achievement, sometimes it is also the small, simple things that bring us and our family joy and peace. Success is achieved through serious and passionate work after many hardships. When we achieve success, we feel glorious and satisfied because it was created by our own hard work, not by our own efforts. from anyone. For example, if you try to do well on tests, study well and complete all assignments throughout the school year, at the end of the semester you will achieve the title of good student and you will feel very proud, because That is the result of your own efforts, your perseverance, your late nights studying, not the result of anyone else. But each person's life is not predetermined, nor are they sure of their ability to succeed in what they do. We often make mistakes in work and life, sometimes we fail on the path of life, but don't give up because of that, because on the path to success, besides effort and will, there are also strengths. Difficulties, challenges and failures are just part of the path to success. From those failures, we learn from our own experiences and shortcomings, then change and gradually improve ourselves. You will feel even more proud and happier when on your way to the top of success there are not only small pebbles blocking the way but also big rocks blocking the path, but you still overcome them. Through it, you can reach the pinnacle of success. In our lives there are still countless examples, with perseverance overcoming all barriers to achieve the most glorious successes, making hundreds of people admire. We also know that Newton was a great British mathematician, physicist, mechanic, and astronomer. When he was young, he was a weak child due to being born prematurely, and often had to avoid filial games. friends' actions. So he created his own game and became very talented; Or we have also heard about Franklin, the American scientist who bravely conducted experiments to make lightning rods, even though that work could have caused his death at any time, after many years of dealing with lightning. , in 1752 Franklin succeeded; And many names make us admire them just by hearing them.
Bài làm Trong lịch sử phát triển của nhân loại suốt mấy ngàn năm qua, ở bất cứ quốc gia nào, dân tộc nào, dù lớn hay nhỏ cũng đều có những tài năng xuất chúng. Những học giả uyên bác đã cống hiến nhiều phát minh sáng kiến, nhiều công trình khoa học đem lại lợi ích to lớn, làm thay đổi bộ mặt thế giới và cuộc sống vật chất, tỉnh thần của loài người. Tài năng của các nhà bác học như Ga-li-lê, Niu-tơn, Men-đê-lê-ép, Anh’ xtanh, Ê-đi-xơn, Đác-uyn, Lô-mô-nô-xốp… được mọi người công nhận và ngưỡng mộ, nhưng liệu mấy ai hiểu rằng để có được những tên tuổi khoa học lớn lao như vậy, họ đã phải học tập và làm việc miệt mài, vất vả đến mức nào. Thực tế cho thấy con người muốn thành công thì phải học tập để tích lũy và nâng cao tri thức. Con đường học tập là con đường gian nan, khổ ải nhưng cuối con đường lại là tương lai đầy ánh sáng. Bàn về vấn để này, ngạn ngữ Hi Lạp có câu: Học vấn có những chùm rễ đắng cay nhưng hoa quả lại ngọt ngào. Trước hết, chúng ta phải hiểu học vấn là gì và học vấn có vai trò quan trọng như thế nào trong đời sống con người. Học vấn thường được hiểu là trình độ hiểu biết của từng cá nhân. Học vấn được nâng cao dần dần qua từng cấp học và quá trình tự học trong suốt cả cuộc đời. Học vấn của một người khồng chỉ hận chế ở một lĩnh vực nào đó mà có thể mở rộng rạ nhiều lĩnh vực khác nhau. Học vấn đem lại niềm vui và hạnh phúc cho con người. Ngạn ngữ cổ có câu: Bộ lông làm đẹp con công, học vấn làm đẹp con người, ông cha ta xưa đã từng giáo huấn con cháu: Bất học bất tri lí (Không học không biết đâu là lẽ phải). Hay: Có học thì như lúa như nếp, không học thì như rơm như cỏ. Có học vấn, con người mới cỏ khả năng làm chủ bản thân, gia đình và xã hội. Trên cơ sở học vấn, đời sống vật chất và tinh thần mới được nâng cao. Học vấn có tầm quan trọng to lớn như vậy và con đường đến với học vấn quả là gian nan, vất vả. Quá trình tích luỹ và nâng cao tri thức không phải là chuyện ngày một ngày hai mà kéo dài suốt cả đời người. Khổng Tử nói: Bể học – không bờ. Lê-nin khuyên thanh niên: Học, học nữa, học mãi. Học ở trường, học trong sảch vở, học lẫn nhau và học ở dân. Giải thích câu nói Học vấn có những chùm rễ đắng cay nhưng hoa quả lại ngọt ngào Muốn có học vấn, chúng ta phải không ngừng rèn luyện và phấn đấu. Hãy nhìn con kiến tha mồi, con ong làm mật. Việc tích lũy kiến thức của con người giống như kiến tha lâu cũng đầy tổ. Nếu cố gắng học hành thì đến một ngày nào đó, chúng ta sẽ có được một trình độ học vấn vững vàng, phong phú. Thực tế cho thấy những người nổi tiếng uyên bác đều trải qua quá trình học tập, nghiên cứu lâu dài, lao tâm khổ trí, nếm trải không ít vị đắng cay của thất bậi; thậm chí cả sự nguy hiểm đối với mạng sống của mình. Nhưng với lòng ham mê khoa học và khát vọng chinh phục, họ đã vượt qua tất cả để đi đến thành công. Trong thực tế, số người cổ đủ điều kiện học tập là rất ít. Phần lớn gặp rất nhiều khổ khăn cả vể vật chất lẫn tinh thần như thiếu tái liệu học tập, bài giảng khó hiểu, bài tập khó giải hay những vấn đề phức tạp trong học tập, nghiên cứu… Rồi gia đinh nghèo túng, bản thân phải vừa học vừa làm thêm để kiếm sống… Tất cả những cái đó ảnh hưởng không nhỏ tới quá trình học tập của mỗi người, đòi hỏi chủng ta phải cố gắng vượt qua. Xưa nay, ở nước ta có rất nhiều gương hiếu học đáng khâm phục. Mạc Đĩnh Chi nhà nghèo đến mức hằng ngày phải kiếm củi đổi gạo nuôi thân. Không có tiền mua dầu thắp sáng, cậu bé phải bắt đom đóm bỏ vào vỏ trứng thay đèn để học bài. Ham học như thế nên sau này ông đã đỗ Trạng nguyên. Lương Thế Vinh từ một trẻ chăn trâu mồ tu chí học hành để rồi trỗ thành nhà toán học nổi tiếng của nước ta. Lê Quý Đôn với sức học, sức nhớ xuất chúng đã trở thành huyển thoại… Đặc biệt, Chủ tịch Hổ Chí Minh kính yêu của dân tộc Việt Nam cũng là một tấm gương tiêu biểu vượt khó trong học tập. Thời trai trẻ, anh thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành đã xác định cho mình một quan điểm sống đúng đắn là phải đi nhiều nơi, phải học nhiều điều hay, điều mới để giúp ích cho đất nước. Từ một anh Ba phụ bếp trên chiếc tàu buôn của Pháp, người thợ ảnh ở ngõ nhỏ Pônggoăng đến người lao công quét tuyết trong công viên Luân Đôn,… Bác đã trải qua những gian nan cùng cực để thử thách, rèn luyện ý chí, mở rộng, nâng cao tầm hiểu biết về văn hoá và lịch sử nhân loại. Từ đó, Bác rút ra những kinh nghiệm bổ ích, thiết thực phục vụ cho phong trào đấu tranh cách mạng, giải phóng dân tộc của nước ta. Những nhà nông học như Lương Định Của, Võ Tòng Xuân… suốt đời cống hiến cho sự nghiệp nghiên cứu khoa học để tai tạo ra các giống lúa có khả năng chống sâu rầy và mang lại năng suất cao để cải thiện đời sống nông dân. Các ông đã góp phần (đưa Việt Nam từ một nước nông nghiệp lạc hậu trở thành nước xuất khẩu gạo đứng hàng thứ ba trôn thế giới.
Assignment In the history of human development over the past several thousand years, any country or nation, no matter how big or small, has outstanding talents. Scholars have contributed many inventions and scientific works that have brought great benefits, changing the face of the world and the material and spiritual life of mankind. The talents of scientists such as Galileo, Newton, Mendeleev, Einstein, Edison, Darwin, Lomonosov... are recognized by everyone. Many people recognize and admire them, but few people understand how hard they had to study and work to have such great scientific names. Reality shows that if people want to be successful, they must study to accumulate and improve knowledge. The path of learning is a difficult and painful one, but at the end of the path is a bright future. Discussing this issue, there is a Greek proverb: Education has bitter roots but its fruits are sweet. First of all, we must understand what education is and what important role education plays in human life. Education is often understood as the level of knowledge of each individual. Education is gradually improved through each level of education and self-study throughout life. A person's education is not limited to just one field but can expand into many different fields. Education brings joy and happiness to people. There is an old proverb: Plumage beautifies the peacock, education beautifies the person. Our ancestors once taught their children: No education, no reason (If you don't learn, you won't know what is right). Or: If you learn, you are like rice and sticky rice, but if you don't, you are like straw and grass. With education, people have the ability to control themselves, their family and society. On the basis of education, material and spiritual life is improved. Education is of such great importance and the path to education is arduous and difficult. The process of accumulating and improving knowledge is not a one-day thing but lasts a lifetime. Confucius said: The pool of learning – without shore. Lenin advised young people: Study, study more, study forever. Learn at school, learn from books, learn from each other and learn from the people. Explain the saying: Education has bitter roots but its fruits are sweet To have an education, we must constantly practice and strive. Look at the ant that retrieves prey, the bee that makes honey. The accumulation of human knowledge is like an ant's nest that takes a long time to fill. If we try to study, one day we will have a solid and rich level of education. Reality shows that famous and erudite people have gone through a long process of studying and researching, working hard, and experiencing many bitter tastes of failure; even the danger to his life. But with their passion for science and desire to conquer, they overcame everything to achieve success. In reality, the number of ancient people qualified to study is very small. Most of them encounter many difficulties both physically and mentally, such as lack of learning materials, hard-to-understand lectures, difficult-to-solve exercises, or complicated problems in studying and researching... Then their families are poor and their families are poor. I have to study and work part-time to make a living... All of these things greatly affect each person's learning process, requiring us to try to overcome them. In the past, in our country there have been many admirable examples of studiousness. Mac Dinh Chi's family is so poor that every day he has to find firewood to exchange for rice to feed himself. Having no money to buy oil for lighting, the boy had to catch fireflies and put them in egg shells to replace lamps to study. He was so eager to learn that he later passed the exam. Luong The Vinh grew from a young buffalo herdsman to study hard and then became a famous mathematician in our country. Le Quy Don with his outstanding learning ability and memory has become legendary... In particular, the beloved President Ho Chi Minh of the Vietnamese people is also a typical example of overcoming difficulties in learning. In his youth, patriotic young man Nguyen Tat Thanh determined for himself a correct life perspective: to go to many places, to learn many good and new things to help the country. From being a kitchen helper on a French merchant ship, a photographer in a small alley in Pongal to a snow sweeper in a London park,... Uncle went through extreme hardships to challenge and train his will. , expanding and improving understanding of human culture and history. From there, Uncle Ho drew useful and practical experiences to serve our country's revolutionary struggle and national liberation movement. Agronomists like Luong Dinh Cua, Vo Tong Xuan... devoted their lives to scientific research to create rice varieties that are resistant to pests and bring high yields to improve farmers' lives. . You have contributed to bringing Vietnam from a backward agricultural country to the third largest rice exporter in the world.
Bài làm Học tập là hoạt động tiếp thu những tri thức của nhân loại đã được đúc kết qua mấy nghìn năm lịch sử. Chúng ta có thể học ở trường qua sự truyền thụ của thầy cô, tự học qua sách vở, học ở bạn bè vá học ở thực tế đời sống. Học để làm giàu tri thức, nâng cao trình độ hiểu biết. Học để làm chủ bản thân, làm chủ công việc của mình để tự nuôi sống mình và góp phần hữu ích vào sự nghiệp chụng của đất nước, dân tộc. Chúng ta phải có phương pháp học tốt thì mới rút ngắn thời gian học tập và đạt kết quả cao. Có nhiều phương pháp học tập nhưng quan trọng nhất chính là phương pháp tự học. Vậy tự học là gì? Chữ “tự” trong “tự học” có nghĩa là mỗi học sinh phải chủ động tìm kiếm kiến thức bằng cách đọc sách, suy ngẫm, khám phá và phát hiện, biến kiến thức tiếp thu được từ sách vở, từ cuộc sống thành kiến thức của mình. Quá trình tự học thực chất là quá trình rèn luyện, cho nên có bao nhiêu hoạt động học tập thì cũng có bấy nhiêu cách tự học. Từ xưa, nhân dân ta đã coi trọng vị trí của người thầy trong xã hội. Có biết bao câu ca dao, tục ngữ thể hiện tinh thần tôn sư trọng đạo; Nhất tự vi sư, bán tự vi sư; Muốn sang thì bắc cầu Kiều, Muốn con hay chữ phải yếu lấy thầy… Trình bày về vấn đề tự học của học sinh Trong nhà trường, vai trò của người thầy vô cùng quan trọng. Thầy đạy cho trò những kiến thức cần thiết thông qua bài giảng trên lớp. Thầy là người dẫn đường chỉ lối, mở rộng, nâng cao tri thức cho học sinh. Đồng thời với việc dạy chữ là dạy nghĩa, người thầy còn dạy bảo những điều hay lẽ phải, quan tâm giáo dục đạo đức cho học sinh, giúp học sinh sống theo đạo lí làm người. Đối với việc trưởng thành và tạo dựng sự nghiệp của học sinh, công lao của người thầy quả là không nhỏ. Nhưng không phải người thầy thay thế được tất cả. Thầy hết lòng giảng dạy, trò phải hết sức nỗ lực trong học tập thì mới mong đạt được kết quả khả quạn. Như vậy, những cố gắng của học sinh cũng góp phần đáng kể. Tự học khi nghe thầy giảng bài thể hiện qua việc thực hiện đồng bộ bốn thao tác: tai nghe, mắt nhìn, óc suy nghĩ và tay ghi bài giảng của thầy. Trong giờ học phải chăm chú nghe lời thầy giảng. Người xưa phân loại ba cách nghe: nghe bằng tai, nghe bằng óc, nghe bằng tim. Nghe bằng tai là cách nghe dửng dưng, vô tình không cần hiểu, không cần nhớ. Nghe bằng óc là vừa nghe vừa suy nghĩ, nhận xét đúng sai trong lời giảng của thầy. Cách nghe bằng tim là lời giảng của thầy đã làm rung động trái tim của trò. Trò nghe một cách say mê, cảm nhận được cái hay, cái đẹp của nội dung, nghệ thuật của tác phẩm văn học hay vẻ đẹp của một bài toán khó. Khi nghe giảng, chúng ta phải chăm chú nhìn lên bảng xem thầy viết những gì, quan sát xem động tác, cử chĩ của thầy giáo ra sao. Nhiều khỉ, hinh ảnh của thầy trong giờ giảng in sâu trong tâm trí học trò suốt cả cuộc đời. Một thao tác quan trọng khác là ghi chép lời giảng của thầy. Người xưa đã từng nói: “Một lần ghi bằng năm lần nghe”, thế mới biết thao tác ghi bài quan trọng vô cùng. Nhưng ghi chép như thế nào thì cần phải cân nhắc, suy nghĩ; không phải thầy nói gì cũng ghi hết. Trước hết, phải ghi đề cương bài giảng, ghi những điều thầy nhấn mạnh khi giảng, ghi những điểu mà mình cảm thấy hay… Tự học theo sách giáo khoa cũng quan trọng không kém. Ví dụ: về môn Văn thì tự học có nghĩa là đọc trước bài văn, bài thơ sẽ học, xem trước các chú thích, soạn kĩ bài trước khi đến lớp. Chuẩn bị một số câu hỏi để hỏi tháy cô… Về môn Toán, tự học cố nghĩa là suy nghĩ, tìm tòi cách giàỉ các bài tập của phần lí thuyết vừa học, đọc trước bài sắp học và tự mình tìm hiểu, nâng cao kiến thức. Tự học khi làm bài tập ià tự mình làm lấy bài tập, không sao chép, không nhờ người khác giải dùm. Tuy nhiên, khỉ gặp bài tập khó, có thể nhờ bố mẹ, thầy cô, bạn bè… chỉ dẫn cách thức hoặc hướng giải của từng bài. Tự học theo sách tham khảo là tìm hiểu thêm những kiến thức mới có liên quan đến bài học, hoặc những phương pháp tiếp cận bài Văn, bài Toán… của những sách tham khảo tốt. Tuyệt đối không nên chép những bài giải sẵn để đốỉ phó với thầy. Tự học còn là rèn luyện cho mình kĩ năng học thuộc lòng những phẩn ghi nhớ, những kiến thức cơ bản và các dạng bài tập… trong sách giáo khoa. Trong quá trình học tập, khối lượng kiến thức cần nhớ rất nhiều. Vì thế, học sinh phải có kĩ năng học thuộc lòng. Bài thơ đầu cổ thể học cả giờ mới thuộc, nhưng đến bài thơ thứ mười thì thời gian học sẽ rút ngắn hơn nhiều. Môn Toán cũng vậy, chúng ta phải học thuộc và hiểu kĩ các định lí, công thức, các dạng Toán… thì lúc làm bài mới giải đúng, giải nhanh. Bên cạnh kĩ năng học thuộc, học sinh còn phải rèn cho mình khả năng nhớ lâu, nhớ chính xác những kiến thức đã học và ý thức tự giác tìm hiểu, bổ sung để không ngừng nâng cao kiến thức.
Assignment Learning is the activity of absorbing human knowledge that has been summarized over thousands of years of history. We can learn at school through the teachings of teachers, self-study through books, learn from friends and learn in real life. Study to enrich knowledge and improve understanding. Learn to master yourself, master your work to support yourself and make a useful contribution to the common cause of the country and people. We must have good study methods to shorten study time and achieve high results. There are many learning methods, but the most important is the self-study method. So what is self-study? The word "self" in "self-study" means that each student must actively seek knowledge by reading books, reflecting, exploring and discovering, turning the knowledge acquired from books and from life into your knowledge. The process of self-study is essentially a process of training, so there are as many learning activities as there are ways to self-study. Since ancient times, our people have valued the position of teachers in society. There are so many folk songs and proverbs that express the spirit of respecting the teacher; Most self-monk, the monk semiautomatic; If you want to be rich, build the Kieu bridge. If you want a good child, you must marry a teacher... Presentation on students' self-study issues In school, the role of the teacher is extremely important. The teacher teaches students the necessary knowledge through lectures in class. The teacher is the one who guides, expands, and enhances knowledge for students. At the same time as teaching literacy and meaning, the teacher also teaches good things, cares about moral education for students, and helps students live according to human ethics. When it comes to growing up and building a student's career, the teacher's contribution is not small. But a teacher cannot replace everything. Teachers dedicate themselves to teaching, students must put in their best efforts in studying to achieve satisfactory results. Thus, students' efforts also contribute significantly. Self-study when listening to a teacher lecture is demonstrated through the synchronous performance of four operations: headphones, eyes, thinking mind and hand writing down the teacher's lecture. During class, you must listen attentively to what the teacher says. The ancients classified three ways of listening: listening with the ears, listening with the brain, listening with the heart. Listening by ear is an indifferent, indifferent way of listening without needing to understand or remember. Listening with the mind means listening while thinking, commenting on the right and wrong of the teacher's teachings. The way to listen with your heart is the teacher's teaching that touches the students' hearts. Students listen passionately, feeling the beauty of the content, the art of a literary work or the beauty of a difficult math problem. When listening to a lecture, we must look attentively at the board to see what the teacher writes, and observe the teacher's movements and gestures. Many monkeys, the image of the teacher during lectures is imprinted in the students' minds for the rest of their lives. Another important step is to take notes of the teacher's lectures. The ancients once said: "One recording is equal to five listenings", so we know that recording is extremely important. But how to take notes requires consideration and thought; Not everything the teacher says is written down. First of all, you must write down the lecture outline, write down the things the teacher emphasized when preaching, write down the things that you find interesting... Self-study according to textbooks is equally important. For example, in Literature, self-study means reading the text or poem to be studied in advance, previewing the notes, and carefully preparing the lesson before going to class. Prepare some questions to ask the teacher... Regarding Math, self-study means thinking, finding ways to solve the exercises of the theoretical part you just learned, reading the lesson you are about to learn in advance and finding out and improving yourself. knowledge. Self-study when doing exercises means doing the exercises yourself, not copying, or asking others to solve them for you. However, if you encounter difficult exercises, you can ask your parents, teachers, friends... to show you how to solve each problem. Self-studying using reference books means learning new knowledge related to the lesson, or methods of approaching Literature, Math... from good reference books. Absolutely do not copy pre-written solutions to deal with the teacher. Self-study also means training yourself in memorizing memorization, basic knowledge and exercises... in textbooks. During the learning process, the amount of knowledge that needs to be remembered is a lot. Therefore, students must have memorization skills. The first poem can take an hour to memorize, but by the tenth poem, the learning time will be much shorter. Math is the same, we have to memorize and thoroughly understand theorems, formulas, types of Math... to solve the problem correctly and quickly when doing the test. In addition to memorization skills, students must also train themselves the ability to remember for a long time, remember accurately the knowledge they have learned and be self-aware of learning and supplementing to continuously improve their knowledge.
Bài làm: Nguyễn Quang Sáng viết truyện Chiếc lược ngà năm 1966, tại chiến trường Nam Bộ trong thời kí chống Mĩ. Là một nhà văn quê ở miền Tây Nam Bộ, hầu như ông chỉ viết, về cuộc sống và con người của quê hương trong chiến tranh và sau hoà bình. Truyện ngắn này ra đời trong hoàn cảnh đạn bom ác liệt nhưng lại tập trung nói về tình người, cụ thể là tình cha con của, người chiến sĩ cách mạng. Anh Sáu xa nhà đi kháng chiến lúc đứa con gái đầu lòng mới một tuổi. Mãi đến khỉ nó lên tám tuổi, anh mới có dịp về thăm nhà. Con bé không nhận anh Sáu là cha vì vết sẹo trên mặt khiến anh không giống trong bức ảnh chụp cùng với vợ mà bé Thu đã được má cho xem. Đến lúc bé Thu nhận ra cha thì cũng là lúc anh Sáu phải ra đi. Tình cha con thiêng liêng trỗi dậy mãnh liệt trong em khiến cho mọi người xúc động. Ở khu căn cứ, người cha dồn hết tình cảm yêu quý, nhớ thương vào việc làm một chiếc lược bằng ngà để tặng cô con gái bé bỏng. Trong một trận càn của giặc, anh Sáu bị thương nặng. Trước lúc nhắm mắt, anh còn kịp trao cây lược ngà cho người bạn, với ý nhờ mang về quê trao tận tay con gái của mình. Tình Cha con sâu sắc được tác giả thể hiện qua hai tình huống đặc biệt: Tình huống thứ nhất là cuộc gặp gỡ của hai cha con sau tám năm xa cách. Bé Thu đối xử với cha như đối với người xa lạ. Đến lúc em nhận ra và ôm riết lấy cha, thể hiện tình cảm mãnh liệt thì anh Sáu lại phải ra đi làm nhiệm Vụ. Tình huống thứ hai là ở khu căn cứ, anh Sáu dồn tất cả tình yêu thương và mong nhớ con vào việc làm cây lược ngà để tặng con, nhưng anh đã hi sinh, không kịp trao món quà ấy cho con gái. Tình huống này thể hiện tình cảm sâu nặng của người cha đối với con. Sau nhiều năm xa cách, anh Sáu chỉ thấy con qua tấm ảnh nhỏ luôn mang bên người. Đến lúc được về thăm nhà, bao nỗi nhớ thương chất chứa từ lâu nên anh Sáu không kìm được niềm vui khi nhìn thấy bé Thu: Cái tình người cha cứ nôn nao trong người anh. Xuồng vào bến, thấy một đứa bé độ tám tuổi tóc cắt ngang vai, mặc quần đen, áo bông đỏ đang chơi nhà chòi dưới bóng cày xoài trước sân nhà, đoán biết là con, không thể chờ xuồng cặp lại bến, anh nhún chân nhảy thót lên, xô chiếc xuồng tạt ra, khiến tôi bị chới với. Anh bước vội vàng với những bước dài, rồi dứng lại kêu to: Thu Ị Con! Nhưng thật trớ trêu, đáp lại tình cảm nồng nàn của người cha, bé Thu lại tỏ ra sợ hãi và ngờ vực. Anh Sáu càng muốn gẩn con để vỗ về yêu thương thì đứa con lại càng tỏ ra lạnh nhạt, xa lánh. Diễn biến tâm lí và tình cảm của bé Thu trong lần gặp cha đầu tiên được tác giả miêu tả ở hai thời điểm trước và sau khi nhận ra cha. Tâm lí và thái độ của bé Thu được tác giả thuật lại rất sinh động qua hàng loạt các chỉ tiết vừa cảm động, vừa buồn cười: Nghe gọi, con bé giật mình, tròn mắt nhìn. Nó ngơ ngác, lạ lùng. Lần đầu tiên nhìn thấy người đàn ông lạ, lại xưng là ba, con bé hết sức ngạc nhiên và sợ hãi, mặt nó bỗng tái đi, rồi vụi chạy và kêu thốt lên: “Má / Má /”. Khi má bảo gọi cha vào ăn cơm, nó nhất quyết không chịu. Má ép quá, bé Thu chỉ gọi trống không: Vô ăn cơm. Kể cả lúc má đi vắng, nó lâm vào thế bí, muốn nhờ anh Sáu chắt bớt nước nổi cơm đang sôi mà cũng vẫn nói trống, nhất định không gọi là cha. Anh Sáu lặng im xem nó làm cách nào. Bé Thu lấy vá (muôi) múc nước ra, vừạ múc vừa lầu bầu tức giận. Bữa cơm, anh Sáu âu yếm gắp cho con cái trứng cá vàng ươm. Bé Thu bất ngờ lấy đũa hất rơi xuống đất. Anh Sáu không nén, được tức giận, đánh con một cái vào mông. Bé vùng vằng bỏ ăn, chèo xuồng về nhà bà ngoại bên kia sông. Lúc cởi dây xuồng, nó còn cổ ý khua dây xích kêu rốn rảng để tỏ ý bất bình. Sự ương ngạnh của bé Thu đúng là tâm lí và tính cách trẻ nhỏ nên không đáng trách. Trong hoàn cảnh chiến tranh, Thu còn quá nhỏ nên không thể hiểu được những tình thế khắc nghiệt, éo le. Phản ứng rất tự nhiên chứng tỏ bé Thu có cá tính mạnh mẽ, tình cảm sâu sắc và chân thật. Bé chỉ yêu khi tin chắc người đố đúng là ba của mình. Trong thái độ cứng đầu của bé ẩn chứa cả sự kiêu hãnh dành cho người cha thân yêu – tức là người đàn ông điển trai trong tấm hình chụp chung với má. Khi đã nhận ra cha, cảm xúc và hành động của bé Thu biểu hiện thật mãnh liệt, khác hẳn lúc trước. Ba ngày nghỉ phép đã hết. Trước lúc lên đường, anh Sáu đang bịn rịn chia tay thì bất chợt bé Thu cất tiếng gọi ba và tiếng kêu như xé, xé sự im lặng và xé cả ruột gan mọi người, nghe thật xót xa. Đó là tiếng “ba” mà nó cố đè nén tròng bao nhiêu năm nay, tiếng “ba” như vỡ tung ra từ đáy lòng nó, nó vừa kêu vừa chạy xồ tới, nhanh như một con sỏc, nó nhảy thót lên và dang hai tay ôm chặt lấy cổ ba nó… Nó hôn ba nó cùng khắp. Nó hồn tóc, hôn cổ, hôn vai và hôn cả vết thẹo dài bên má của ba nó nữa… Hai tay nó siết chặt lấy cổ, chắc nỏ nghĩ hai tay không thể giữ được ba nó, nó dang cả hai chân rổi câu chặt lấy ba nó, và đôi vai nhỏ bé của nó run run. Địều gì đã dẫn đến sự thay đổi đột ngột trong thái độ của bé Thu? Thì ra khi bỏ về nhà bà ngoại, Thu đã được bà giải thích về vết sẹo làm thay đổi vẻ mặt của cha là do giặc Pháp bắn bị thương. Sự nghi ngờ đã được giải toả và bẻ Thu ân hận, hối tiếc về cung cách cư xử lạnh nhạt của mình đối với cha: Nghe bà kể, nó nằm im, lăn lộn và thỉnh thoảng lại thở dài như người lớn. Vì thế, trong phút chia tay, tình yêu và nỗi mong nhớ đối với người cha xa cách bấy lâu đã bùng ra thật mạnh mẽ khiến bé thu bổi rối, cuống quýt… Chứng kiến cảnh ngộ éo le của cha con anh Sáu, nhiều người không cầm được nước mắt. Lòng trắc ẩn, sự thấu hiểu những hi sinh mà bạn mình phải chịu đựng khiến cho bác Ba – tức người kể chuyện – thật sự xúc động. Diễn biến câu chuyện được trần thuật theo lời bác Ba, người bạn thân thiết của anh Sáu. Bác Ba đã chứng kiến tận mắt cảnh ngộ éo le của cha con anh Sáu và trong lòng bác dâng lên một nỗi xót xa. Bác bỗng thấy khó thở như có bàn tay nắm lấy trái tim. Qua việc miêu tả diễn biến tâm lí, ngôn ngữ và hành động của bé Thu, tác gỉa đã làm nổi rõ một số nét trong tính cách nhân vật. Tình cảm cha con của bé Thu thật sâu sắc, mạnh mẽ, nhưng cũng thật dứt khoát, rạch ròi. Cá tính của bé Thu cứng cỏi đến mức ương ngạnh, nhưng thực ra Thu vẫn là một đứa trẻ hổn nhiên, ngây thơ. Tác giả tỏ ra am hiểu và diễn tả rất sinh động những tình cảm trẻ thớ trong sáng. Sức hấp dẫn của truyện Chiếc lược ngà toát ra từ cốt truyện đơn giản nhựng chặt chẽ, cùng những yếu tố bất ngờ, mà hợp lí. Chuyện bé Thu lúc đầu không nhận cha, rồi lại biểu lộ những tình cảm thật nồng nhiệt, đầy xúc động với cha trước lúc chia tay. Sự bất ngờ đã gây được hứng thú cho người đọc, nhất là khi hiểu được diễn biến logic ở bên trong các sự việc, hành động có vẻ mâu thuẫn. Tình cảm cha con sâu nậng đã được tác giả thể hiện phần nào trong chuyến anh Sáu về phép thăm nhà và được miêu tả kĩ lưỡng hơn khi anh Sáu ở căn cứ kháng chiến trong rừng sâu. Sau khi chia tay với gia đình, nỗi day dứt, ân hận ám ảnh anh Sáu suốt nhiều ngày là việc anh đã lỡ tay đánh con. Lời dặn tha thiết của đứa con: Ba về! Ba mua cho con một cảy lược nghe ba! đã thôi thúc anh nghĩ đến việc làm một chiếc lược ngà nhỏ xinh dành tặng con gái. Kiếm được một khúc ngà voi nhỏ, anh Sáu mừng rỡ vô cùng. Anh dành hết tâm trí vào việc làm cây lược: Anh cưa từng chiếc răng lược, thận trọng, tỉ mỉ và cố công như người thợ bạc.Trên sống lưng lược có khắc một hàng chữ nhỏ mà anh đã gò lưng, tẩn mẩn khắc từng nốt:”Yêu nhớ tặng Thu con của ba”. Chiếc lược ngà đã thành một kỉ vật quý giá, thiêng liêng đối với anh Sáu. Nó làm dịu đi nỗi ân hận dằn vặt bấy lâu và ấp ủ bao nhiêu tình cảm nhớ thương, mong đợi của người cha đối với đứa con xa cách: Cây lược ngà ấy chưa chải được mái tóc của con, nhưng nó như gỡ rối được phần nào tâm trạng của anh: Nhưng rồi một tình cảnh đau thương lại đến với cha con anh Sáu. Anh đã hi sinh khi chưa kịp trao tận tay đứa con gái chiếc lược ngà. Những lời kể lại của bác Ba, người trong cuộc, đã làm nổi bật giá trị thiêng liêng bền vững của tình cha con và tình đồng chí của những chiến sĩ cách mạng.
Bài làm: Nguyễn Quang Sáng viết truyện Chiếc lược ngà năm 1966, tại chiến trường Nam Bộ trong thời kí chống Mĩ. Là một nhà văn quê ở miền Tây Nam Bộ, hầu như ông chỉ viết, về cuộc sống và con người của quê hương trong chiến tranh và sau hoà bình. Truyện ngắn này ra đời trong hoàn cảnh đạn bom ác liệt nhưng lại tập trung nói về tình người, cụ thể là tình cha con của, người chiến sĩ cách mạng. Anh Sáu xa nhà đi kháng chiến lúc đứa con gái đầu lòng mới một tuổi. Mãi đến khỉ nó lên tám tuổi, anh mới có dịp về thăm nhà. Con bé không nhận anh Sáu là cha vì vết sẹo trên mặt khiến anh không giống trong bức ảnh chụp cùng với vợ mà bé Thu đã được má cho xem. Đến lúc bé Thu nhận ra cha thì cũng là lúc anh Sáu phải ra đi. Tình cha con thiêng liêng trỗi dậy mãnh liệt trong em khiến cho mọi người xúc động. Ở khu căn cứ, người cha dồn hết tình cảm yêu quý, nhớ thương vào việc làm một chiếc lược bằng ngà để tặng cô con gái bé bỏng. Trong một trận càn của giặc, anh Sáu bị thương nặng. Trước lúc nhắm mắt, anh còn kịp trao cây lược ngà cho người bạn, với ý nhờ mang về quê trao tận tay con gái của mình. Tình Cha con sâu sắc được tác giả thể hiện qua hai tình huống đặc biệt: Tình huống thứ nhất là cuộc gặp gỡ của hai cha con sau tám năm xa cách. Bé Thu đối xử với cha như đối với người xa lạ. Đến lúc em nhận ra và ôm riết lấy cha, thể hiện tình cảm mãnh liệt thì anh Sáu lại phải ra đi làm nhiệm Vụ. Tình huống thứ hai là ở khu căn cứ, anh Sáu dồn tất cả tình yêu thương và mong nhớ con vào việc làm cây lược ngà để tặng con, nhưng anh đã hi sinh, không kịp trao món quà ấy cho con gái. Tình huống này thể hiện tình cảm sâu nặng của người cha đối với con. Sau nhiều năm xa cách, anh Sáu chỉ thấy con qua tấm ảnh nhỏ luôn mang bên người. Đến lúc được về thăm nhà, bao nỗi nhớ thương chất chứa từ lâu nên anh Sáu không kìm được niềm vui khi nhìn thấy bé Thu: Cái tình người cha cứ nôn nao trong người anh. Xuồng vào bến, thấy một đứa bé độ tám tuổi tóc cắt ngang vai, mặc quần đen, áo bông đỏ đang chơi nhà chòi dưới bóng cày xoài trước sân nhà, đoán biết là con, không thể chờ xuồng cặp lại bến, anh nhún chân nhảy thót lên, xô chiếc xuồng tạt ra, khiến tôi bị chới với. Anh bước vội vàng với những bước dài, rồi dứng lại kêu to: Thu Ị Con! Nhưng thật trớ trêu, đáp lại tình cảm nồng nàn của người cha, bé Thu lại tỏ ra sợ hãi và ngờ vực. Anh Sáu càng muốn gẩn con để vỗ về yêu thương thì đứa con lại càng tỏ ra lạnh nhạt, xa lánh. Diễn biến tâm lí và tình cảm của bé Thu trong lần gặp cha đầu tiên được tác giả miêu tả ở hai thời điểm trước và sau khi nhận ra cha. Tâm lí và thái độ của bé Thu được tác giả thuật lại rất sinh động qua hàng loạt các chỉ tiết vừa cảm động, vừa buồn cười: Nghe gọi, con bé giật mình, tròn mắt nhìn. Nó ngơ ngác, lạ lùng. Lần đầu tiên nhìn thấy người đàn ông lạ, lại xưng là ba, con bé hết sức ngạc nhiên và sợ hãi, mặt nó bỗng tái đi, rồi vụi chạy và kêu thốt lên: “Má / Má /”. Khi má bảo gọi cha vào ăn cơm, nó nhất quyết không chịu. Má ép quá, bé Thu chỉ gọi trống không: Vô ăn cơm. Kể cả lúc má đi vắng, nó lâm vào thế bí, muốn nhờ anh Sáu chắt bớt nước nổi cơm đang sôi mà cũng vẫn nói trống, nhất định không gọi là cha. Anh Sáu lặng im xem nó làm cách nào. Bé Thu lấy vá (muôi) múc nước ra, vừạ múc vừa lầu bầu tức giận. Bữa cơm, anh Sáu âu yếm gắp cho con cái trứng cá vàng ươm. Bé Thu bất ngờ lấy đũa hất rơi xuống đất. Anh Sáu không nén, được tức giận, đánh con một cái vào mông. Bé vùng vằng bỏ ăn, chèo xuồng về nhà bà ngoại bên kia sông. Lúc cởi dây xuồng, nó còn cổ ý khua dây xích kêu rốn rảng để tỏ ý bất bình. Sự ương ngạnh của bé Thu đúng là tâm lí và tính cách trẻ nhỏ nên không đáng trách. Trong hoàn cảnh chiến tranh, Thu còn quá nhỏ nên không thể hiểu được những tình thế khắc nghiệt, éo le. Phản ứng rất tự nhiên chứng tỏ bé Thu có cá tính mạnh mẽ, tình cảm sâu sắc và chân thật. Bé chỉ yêu khi tin chắc người đố đúng là ba của mình. Trong thái độ cứng đầu của bé ẩn chứa cả sự kiêu hãnh dành cho người cha thân yêu – tức là người đàn ông điển trai trong tấm hình chụp chung với má. Khi đã nhận ra cha, cảm xúc và hành động của bé Thu biểu hiện thật mãnh liệt, khác hẳn lúc trước. Ba ngày nghỉ phép đã hết. Trước lúc lên đường, anh Sáu đang bịn rịn chia tay thì bất chợt bé Thu cất tiếng gọi ba và tiếng kêu như xé, xé sự im lặng và xé cả ruột gan mọi người, nghe thật xót xa. Đó là tiếng “ba” mà nó cố đè nén tròng bao nhiêu năm nay, tiếng “ba” như vỡ tung ra từ đáy lòng nó, nó vừa kêu vừa chạy xồ tới, nhanh như một con sỏc, nó nhảy thót lên và dang hai tay ôm chặt lấy cổ ba nó… Nó hôn ba nó cùng khắp. Nó hồn tóc, hôn cổ, hôn vai và hôn cả vết thẹo dài bên má của ba nó nữa… Hai tay nó siết chặt lấy cổ, chắc nỏ nghĩ hai tay không thể giữ được ba nó, nó dang cả hai chân rổi câu chặt lấy ba nó, và đôi vai nhỏ bé của nó run run. Địều gì đã dẫn đến sự thay đổi đột ngột trong thái độ của bé Thu? Thì ra khi bỏ về nhà bà ngoại, Thu đã được bà giải thích về vết sẹo làm thay đổi vẻ mặt của cha là do giặc Pháp bắn bị thương. Sự nghi ngờ đã được giải toả và bẻ Thu ân hận, hối tiếc về cung cách cư xử lạnh nhạt của mình đối với cha: Nghe bà kể, nó nằm im, lăn lộn và thỉnh thoảng lại thở dài như người lớn. Vì thế, trong phút chia tay, tình yêu và nỗi mong nhớ đối với người cha xa cách bấy lâu đã bùng ra thật mạnh mẽ khiến bé thu bổi rối, cuống quýt… Chứng kiến cảnh ngộ éo le của cha con anh Sáu, nhiều người không cầm được nước mắt. Lòng trắc ẩn, sự thấu hiểu những hi sinh mà bạn mình phải chịu đựng khiến cho bác Ba – tức người kể chuyện – thật sự xúc động. Diễn biến câu chuyện được trần thuật theo lời bác Ba, người bạn thân thiết của anh Sáu. Bác Ba đã chứng kiến tận mắt cảnh ngộ éo le của cha con anh Sáu và trong lòng bác dâng lên một nỗi xót xa. Bác bỗng thấy khó thở như có bàn tay nắm lấy trái tim. Qua việc miêu tả diễn biến tâm lí, ngôn ngữ và hành động của bé Thu, tác gỉa đã làm nổi rõ một số nét trong tính cách nhân vật. Tình cảm cha con của bé Thu thật sâu sắc, mạnh mẽ, nhưng cũng thật dứt khoát, rạch ròi. Cá tính của bé Thu cứng cỏi đến mức ương ngạnh, nhưng thực ra Thu vẫn là một đứa trẻ hổn nhiên, ngây thơ. Tác giả tỏ ra am hiểu và diễn tả rất sinh động những tình cảm trẻ thớ trong sáng. Sức hấp dẫn của truyện Chiếc lược ngà toát ra từ cốt truyện đơn giản nhựng chặt chẽ, cùng những yếu tố bất ngờ, mà hợp lí. Chuyện bé Thu lúc đầu không nhận cha, rồi lại biểu lộ những tình cảm thật nồng nhiệt, đầy xúc động với cha trước lúc chia tay. Sự bất ngờ đã gây được hứng thú cho người đọc, nhất là khi hiểu được diễn biến logic ở bên trong các sự việc, hành động có vẻ mâu thuẫn. Tình cảm cha con sâu nậng đã được tác giả thể hiện phần nào trong chuyến anh Sáu về phép thăm nhà và được miêu tả kĩ lưỡng hơn khi anh Sáu ở căn cứ kháng chiến trong rừng sâu. Sau khi chia tay với gia đình, nỗi day dứt, ân hận ám ảnh anh Sáu suốt nhiều ngày là việc anh đã lỡ tay đánh con. Lời dặn tha thiết của đứa con: Ba về! Ba mua cho con một cảy lược nghe ba! đã thôi thúc anh nghĩ đến việc làm một chiếc lược ngà nhỏ xinh dành tặng con gái. Kiếm được một khúc ngà voi nhỏ, anh Sáu mừng rỡ vô cùng. Anh dành hết tâm trí vào việc làm cây lược: Anh cưa từng chiếc răng lược, thận trọng, tỉ mỉ và cố công như người thợ bạc.Trên sống lưng lược có khắc một hàng chữ nhỏ mà anh đã gò lưng, tẩn mẩn khắc từng nốt:”Yêu nhớ tặng Thu con của ba”. Chiếc lược ngà đã thành một kỉ vật quý giá, thiêng liêng đối với anh Sáu. Nó làm dịu đi nỗi ân hận dằn vặt bấy lâu và ấp ủ bao nhiêu tình cảm nhớ thương, mong đợi của người cha đối với đứa con xa cách: Cây lược ngà ấy chưa chải được mái tóc của con, nhưng nó như gỡ rối được phần nào tâm trạng của anh: Nhưng rồi một tình cảnh đau thương lại đến với cha con anh Sáu. Anh đã hi sinh khi chưa kịp trao tận tay đứa con gái chiếc lược ngà. Những lời kể lại của bác Ba, người trong cuộc, đã làm nổi bật giá trị thiêng liêng bền vững của tình cha con và tình đồng chí của những chiến sĩ cách mạng.
Trèo lên cắy bưởi hái hoa là một bài ca dao tình yêu độc đáo được lưu truyền rộng rãi từ bao đời nay trong dân gian và có nhiều cách hiểu khác nhau: Cách hiểu thứ nhất cho rằng đây là lời tâm sự giữa đôi trai gái yêu nhau nhưng không lấy được nhau vì nguyên nhân khách quan nào đó. khỉ biết cô gái đã lấy chồng, chàng trai đau khổ tiếc nuối, chĩ biết gặp người thương để thổ lộ nỗi lòng. Cách hiểu thứ hai khẳng định đây là lời tỏ tình của chàng trai nhưng éo le thay, cô gái đã có chồng. Cách hiểu thử ba thiên về ý bài ca dao là lời trách móc, giận hờn của cô gái đối với chàng trai. Vì chàng do dự mà làm cho tình yêu dang dở. Cơ sở của ba cách hiểu trên dựa vào việc xác định nội dung giao tiếp, tức là lời tâm sự, lời tỏ tình giữa các nhân vật trong bài ca dao. Bài viết này đề cập đến cách hiểu thứ nhất và thứ hai. Cách hiểu thứ nhất: Mở đầu bài ca dao, ta như thấy hiển hiện trước mắt một khu vườn mùa xuân đầy hoa: Trèo lên cây bưởi hái hoa, Bước xuống vườn cà, hái nụ tầm xuân. Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc… Trong khu vườn ấy có sự hài hoà tuyệt đẹp giữa màu trắng của hoa bưởi, màu tím của hoa cà, màu xanh biếc của nụ tầm xuân… Quả là một khung cảnh nên thơ, rất hợp với tình yêu đôi lứa. Hình ảnh nụ tầm xuân được nhắc lại hai lần liền nhau ở cuối câu 1 và đầu câu 2 như khơi gợi và làm sống dậy trong kí ức chàng trai những kỉ niệm khó quên của buổi ban đầu gặp gỡ giữa mình và cô gái. Tầm xuân không phải chỉ là tên một loài hoa (thuộc họ hoa hồng) mà nó còn là một tín hiệu báo mùa xuân tới tín hiệu của cái đẹp, cái tốt, của hi vọng tràn đầy. Hồi ức của chàng trai tái hiện những điều thật giản dị cụ thể nhưng cũng hết sức sống động và gợi cảm. Chàng trai không chỉ nhắc đến hoa bưởi, nụ tầm xuân, vườn cà mà còn nhớ như in cả những động tác trèo lên, bước xuống nhí nhảnh, hồn nhiên. Chắc hẳn những cái đó đã gắn chặt với thời niên thiếu và tình yêu của hai người. Chỉ hai câu ca dao mộc mạc mà gợi lên cả một trời thương nhớ, sắc trắng tinh khôi, hương thơm ngan ngát của hoa bưởi ướp trong làn tóc. Nụ tầm xuân bé nhỏ, xỉnh tươi hé nở như nụ cười tình tứ của em trao cho anh. Nhưng những hình ảnh ấy đều chỉ là ẩn dụ tượng trưng cho những kỉ niệm đẹp đã qua. Chàng trai thất tình hồi tưởng lại cảnh cũ người xưa, để rồi chỉ biết thốt lên một câu nghẹn ngào chua xót: Em có chổng rồi, anh tiếc lắm thay! Sau đó là một khoảng lặng, đủ thời gian cho vị chua xót, tiếc nuối thấm vào tim. Cô gái có dịp bày tỏ lòng mình: Ba đồng một mớ trầu cay, Sao anh chẳng hỏi những ngày còn không? Cô gái nhẹ nhàng trách chàng trai vì do dự mà làm lỡ chuyện tình duyên, đồng thời thể hiện nỗi buổn cho cảnh ngộ của mình. Lời trách móc dịu dàng và âu yếm: Sao anh chẳng hỏi những ngày còn không?! (Còn không nghĩa là em còn ở với mẹ cha, chưa đi lấy chổng). Nếu không thật lòng yêu thì cồ gái không thể có những lời chân thành như vậy. Đó cũng là điều an ủi duy nhất đối vối chàng trai lúc này. Chuyện đời vốn đã phức tạp nhưng chuyện tình lại càng phức tạp hơn. Nguyên nhân chàng trai không dám hoặc không thể dạm hỏi cô gái làm vợ đâu chỉ đơn thuần là chuyện đắt rẻ của trầu cau mà có thể do những nguyên nhân khác như: cha mẹ hai bên không ưng thuận hoặc gia cảnh chàng trai quá nghèo chẳng hạn. Câu: Ba đồng một mớ trầu cay giản dị, tự nhiên nhưng bao hàm nhiều ý nghĩa. Ba đồng (số ít) đối lập với một mớ (số nhiều). Trầu càng rẻ thì cái giá phải trả cho tình duyên đã lỡ làng càng đắt, sự tiếc nuối càng tăng. Do vậy mà chàng trai lại càng xót xa, ân hận! Cô gái trách chàng trai vì sao anh không hỏi cô làm vợ đúng lúc, để đến nỗi giờ đây cả hai phải lâm vào cảnh day dứt, khổ tâm?! Duyên tình chúng mình dang dở, lỗi ấy tại ai? Tại ai đi nữa thì bây giờ cũng đã muộn màng: Bấy giờ em đã có chồng, Như chim vào lổng như cá cắn câu. Chim vào lồng, cá cắn câu là những thành ngữ quen thuộc hỏi về hoàn cảnh bị ràng buộc, mất tự do của người con gái đã có chồng. Dù muốn hay không thì cũng đành lòng vậy, cầm lòng vậy! Câu ca dao có âm điệu trầm buồn, thổn thức, giống như tiếng thở dài chua xót cho duyên phận lỡ làng. Người con gái có chổng mà thở than như thế thì rõ ràng là không được sống trong tình yêu và hạnh phúc, muốn thoát ra khỏi cuộc hôn nhân bất như ý ấy nhưng vô vọng. Cô gái giãi bày với bạn tình năm xưa về cảnh ván đã đóng thuyền của mình và cũng hé lộ ra cái ý: Tiếc thay chút nghĩa cũ càng, Dầu lìa ngỏ ý còn vương tơ lòng (Truyện Kiều). Chỉ cần bấy nhiêu thôi cũng đủ vợi bớt nỗi đau đang chất chứa trong cõi lòng tan nát của chàng trai. Cách hiểu thứ hai: Bài ca dao được coi là lời đối đáp tỏ tình của đôi trai gái gặp nhau, biết nhau và cảm nhau muộn màng – vì cô gái đã có chồng. Chàng trai dẫu biết rằng cô gái đã có chồng và không thể tính chuyện trăm năm được nữa nhưng không nén nổi tình cảm của mình, vẫn thốt lên những lời than thở bộc lộ sự nuối tiếc chân thành. Nếu hiểu như vậy, ta sẽ thấy cách tỏ tình của chàng trai hết sức độc đáo và tỉnh tế. Cô gái đã có chống khiến cho chàng trai rơi vào tình trạng chới với thất vọng ngay khi tình yêu vừa chớm nở. Chàng trai dùng lối nói bóng gió xa xôi, thậm chí loanh quanh khổ hiểu: Trèo lên cày bưởi hái hoa, Bước xuống vườn cà hải nụ tầm xuân, Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc, rồi lại nói thẳng đến mức không thể nào giản dị, tự nhiên hơn: Em có chồng rồi, anh tiếc lắm thay. Ba câu đầu kể vổ chuyện hái hoa trong vườn. Từ cách kể đến nội dung được tường thuật, miệu tà đều toát lên một điều gì đó không bình thường trong tâm trạng của người kể chuyện. Căn cứ theo đó thì cái nổi lên ừong câu chtìyện không phải là hoa bưởi hay nụ tầm xuân mà chủ yếu là những động tác trèo lên, bước xuống. Cho nên dù chuyện hái hoa là thực hay hư thì nó cũng phản ánh rất rõ cái trạng thái bối rối, đứng ngồi không yên của chàng trai đang muốn bày tỏ tình yêu tha thiết và nỗi tiếc nuối khôn nguôi của mình trước người con gái anh yêu. Câu đầu nói đến hoa, câu sau nói đến nụ, vừa tạo sự không trùng lặp, vừa phù hợp với vần điệu cụa câu thơ, đổng thời lại tạo được một ý thơ, làm điểm tựa tuyệt vời để chuyển sang câu 3 một cách tự nhiên, hợp lí. Có thể coi câu: Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc là nhịp cầu và bước chuyển tiếp tài tình không thể thiếu giữa hai cách nói, hai hình thức thể hiện tự sự và trữ tình, hư và thực, xa và gần. Tính từ xanh biếc rất phù hợp với ý thơ và vần thơ. Còn màu xanh biếc có đúng với màu hoa tầm xuân trong thực tế hay không thì có lẽ không cần bình luận. Bởi vì trong ca dao có nhiều câu nói đến những mùi vị, màu sắc và những điều không bao giờ có trong thực tế mà chỉ có trong trí tưởng tượng mà thôi. Ví dụ: Hóa cúc vàng nở ra hoa cúc tím, Em đã có chồng, trả yếm cho anh. Trở lại với bài ca dao trên, trong khi chàng trai thất tình não nuột thốt lên lời than thở: Em có chồng rồi, anh tiếc lắm thay thì cô gái lại tỏ ra bình tĩnh và chủ động hơn. Cô nhẹ nhàng hờn trách sự chậm trễ và thiếu chủ động của chàng trai: Ba đồng một mớ trầu cay, Sao anh chẳng hỏi những ngày còn không? Cách trả lời thật khôn khéo, vừa có tình vừa có lí, vừa khiêm nhường vừa tự trọng, không thể bắt bẻ vào đâu được. Lời đáp của cô gái quá ngắn ngọn, đủ ý nhưng chưa đủ tình, cho nên chưa thể làm nguôi ngoai sự tiếc nuối trong lòng chàng trai. Đó cũng là lí do khiến cô gái phải tiếp tục phân trần, than thở để an ủi chàng trai, đồng thời khẳng định một lần nữa hoàn cảnh ván đã đỏng thuyền không thể thay đổi được của mình: Bây giờ em đã có chồng, Như chim vào lồng, như cá cắn câu. Cá cắn câu biết đâu mà gỡ,
Trèo lên cắy bưởi hái hoa là một bài ca dao tình yêu độc đáo được lưu truyền rộng rãi từ bao đời nay trong dân gian và có nhiều cách hiểu khác nhau: Cách hiểu thứ nhất cho rằng đây là lời tâm sự giữa đôi trai gái yêu nhau nhưng không lấy được nhau vì nguyên nhân khách quan nào đó. khỉ biết cô gái đã lấy chồng, chàng trai đau khổ tiếc nuối, chĩ biết gặp người thương để thổ lộ nỗi lòng. Cách hiểu thứ hai khẳng định đây là lời tỏ tình của chàng trai nhưng éo le thay, cô gái đã có chồng. Cách hiểu thử ba thiên về ý bài ca dao là lời trách móc, giận hờn của cô gái đối với chàng trai. Vì chàng do dự mà làm cho tình yêu dang dở. Cơ sở của ba cách hiểu trên dựa vào việc xác định nội dung giao tiếp, tức là lời tâm sự, lời tỏ tình giữa các nhân vật trong bài ca dao. Bài viết này đề cập đến cách hiểu thứ nhất và thứ hai. Cách hiểu thứ nhất: Mở đầu bài ca dao, ta như thấy hiển hiện trước mắt một khu vườn mùa xuân đầy hoa: Trèo lên cây bưởi hái hoa, Bước xuống vườn cà, hái nụ tầm xuân. Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc… Trong khu vườn ấy có sự hài hoà tuyệt đẹp giữa màu trắng của hoa bưởi, màu tím của hoa cà, màu xanh biếc của nụ tầm xuân… Quả là một khung cảnh nên thơ, rất hợp với tình yêu đôi lứa. Hình ảnh nụ tầm xuân được nhắc lại hai lần liền nhau ở cuối câu 1 và đầu câu 2 như khơi gợi và làm sống dậy trong kí ức chàng trai những kỉ niệm khó quên của buổi ban đầu gặp gỡ giữa mình và cô gái. Tầm xuân không phải chỉ là tên một loài hoa (thuộc họ hoa hồng) mà nó còn là một tín hiệu báo mùa xuân tới tín hiệu của cái đẹp, cái tốt, của hi vọng tràn đầy. Hồi ức của chàng trai tái hiện những điều thật giản dị cụ thể nhưng cũng hết sức sống động và gợi cảm. Chàng trai không chỉ nhắc đến hoa bưởi, nụ tầm xuân, vườn cà mà còn nhớ như in cả những động tác trèo lên, bước xuống nhí nhảnh, hồn nhiên. Chắc hẳn những cái đó đã gắn chặt với thời niên thiếu và tình yêu của hai người. Chỉ hai câu ca dao mộc mạc mà gợi lên cả một trời thương nhớ, sắc trắng tinh khôi, hương thơm ngan ngát của hoa bưởi ướp trong làn tóc. Nụ tầm xuân bé nhỏ, xỉnh tươi hé nở như nụ cười tình tứ của em trao cho anh. Nhưng những hình ảnh ấy đều chỉ là ẩn dụ tượng trưng cho những kỉ niệm đẹp đã qua. Chàng trai thất tình hồi tưởng lại cảnh cũ người xưa, để rồi chỉ biết thốt lên một câu nghẹn ngào chua xót: Em có chổng rồi, anh tiếc lắm thay! Sau đó là một khoảng lặng, đủ thời gian cho vị chua xót, tiếc nuối thấm vào tim. Cô gái có dịp bày tỏ lòng mình: Ba đồng một mớ trầu cay, Sao anh chẳng hỏi những ngày còn không? Cô gái nhẹ nhàng trách chàng trai vì do dự mà làm lỡ chuyện tình duyên, đồng thời thể hiện nỗi buổn cho cảnh ngộ của mình. Lời trách móc dịu dàng và âu yếm: Sao anh chẳng hỏi những ngày còn không?! (Còn không nghĩa là em còn ở với mẹ cha, chưa đi lấy chổng). Nếu không thật lòng yêu thì cồ gái không thể có những lời chân thành như vậy. Đó cũng là điều an ủi duy nhất đối vối chàng trai lúc này. Chuyện đời vốn đã phức tạp nhưng chuyện tình lại càng phức tạp hơn. Nguyên nhân chàng trai không dám hoặc không thể dạm hỏi cô gái làm vợ đâu chỉ đơn thuần là chuyện đắt rẻ của trầu cau mà có thể do những nguyên nhân khác như: cha mẹ hai bên không ưng thuận hoặc gia cảnh chàng trai quá nghèo chẳng hạn. Câu: Ba đồng một mớ trầu cay giản dị, tự nhiên nhưng bao hàm nhiều ý nghĩa. Ba đồng (số ít) đối lập với một mớ (số nhiều). Trầu càng rẻ thì cái giá phải trả cho tình duyên đã lỡ làng càng đắt, sự tiếc nuối càng tăng. Do vậy mà chàng trai lại càng xót xa, ân hận! Cô gái trách chàng trai vì sao anh không hỏi cô làm vợ đúng lúc, để đến nỗi giờ đây cả hai phải lâm vào cảnh day dứt, khổ tâm?! Duyên tình chúng mình dang dở, lỗi ấy tại ai? Tại ai đi nữa thì bây giờ cũng đã muộn màng: Bấy giờ em đã có chồng, Như chim vào lổng như cá cắn câu. Chim vào lồng, cá cắn câu là những thành ngữ quen thuộc hỏi về hoàn cảnh bị ràng buộc, mất tự do của người con gái đã có chồng. Dù muốn hay không thì cũng đành lòng vậy, cầm lòng vậy! Câu ca dao có âm điệu trầm buồn, thổn thức, giống như tiếng thở dài chua xót cho duyên phận lỡ làng. Người con gái có chổng mà thở than như thế thì rõ ràng là không được sống trong tình yêu và hạnh phúc, muốn thoát ra khỏi cuộc hôn nhân bất như ý ấy nhưng vô vọng. Cô gái giãi bày với bạn tình năm xưa về cảnh ván đã đóng thuyền của mình và cũng hé lộ ra cái ý: Tiếc thay chút nghĩa cũ càng, Dầu lìa ngỏ ý còn vương tơ lòng (Truyện Kiều). Chỉ cần bấy nhiêu thôi cũng đủ vợi bớt nỗi đau đang chất chứa trong cõi lòng tan nát của chàng trai. Cách hiểu thứ hai: Bài ca dao được coi là lời đối đáp tỏ tình của đôi trai gái gặp nhau, biết nhau và cảm nhau muộn màng – vì cô gái đã có chồng. Chàng trai dẫu biết rằng cô gái đã có chồng và không thể tính chuyện trăm năm được nữa nhưng không nén nổi tình cảm của mình, vẫn thốt lên những lời than thở bộc lộ sự nuối tiếc chân thành. Nếu hiểu như vậy, ta sẽ thấy cách tỏ tình của chàng trai hết sức độc đáo và tỉnh tế. Cô gái đã có chống khiến cho chàng trai rơi vào tình trạng chới với thất vọng ngay khi tình yêu vừa chớm nở. Chàng trai dùng lối nói bóng gió xa xôi, thậm chí loanh quanh khổ hiểu: Trèo lên cày bưởi hái hoa, Bước xuống vườn cà hải nụ tầm xuân, Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc, rồi lại nói thẳng đến mức không thể nào giản dị, tự nhiên hơn: Em có chồng rồi, anh tiếc lắm thay. Ba câu đầu kể vổ chuyện hái hoa trong vườn. Từ cách kể đến nội dung được tường thuật, miệu tà đều toát lên một điều gì đó không bình thường trong tâm trạng của người kể chuyện. Căn cứ theo đó thì cái nổi lên ừong câu chtìyện không phải là hoa bưởi hay nụ tầm xuân mà chủ yếu là những động tác trèo lên, bước xuống. Cho nên dù chuyện hái hoa là thực hay hư thì nó cũng phản ánh rất rõ cái trạng thái bối rối, đứng ngồi không yên của chàng trai đang muốn bày tỏ tình yêu tha thiết và nỗi tiếc nuối khôn nguôi của mình trước người con gái anh yêu. Câu đầu nói đến hoa, câu sau nói đến nụ, vừa tạo sự không trùng lặp, vừa phù hợp với vần điệu cụa câu thơ, đổng thời lại tạo được một ý thơ, làm điểm tựa tuyệt vời để chuyển sang câu 3 một cách tự nhiên, hợp lí. Có thể coi câu: Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc là nhịp cầu và bước chuyển tiếp tài tình không thể thiếu giữa hai cách nói, hai hình thức thể hiện tự sự và trữ tình, hư và thực, xa và gần. Tính từ xanh biếc rất phù hợp với ý thơ và vần thơ. Còn màu xanh biếc có đúng với màu hoa tầm xuân trong thực tế hay không thì có lẽ không cần bình luận. Bởi vì trong ca dao có nhiều câu nói đến những mùi vị, màu sắc và những điều không bao giờ có trong thực tế mà chỉ có trong trí tưởng tượng mà thôi. Ví dụ: Hóa cúc vàng nở ra hoa cúc tím, Em đã có chồng, trả yếm cho anh. Trở lại với bài ca dao trên, trong khi chàng trai thất tình não nuột thốt lên lời than thở: Em có chồng rồi, anh tiếc lắm thay thì cô gái lại tỏ ra bình tĩnh và chủ động hơn. Cô nhẹ nhàng hờn trách sự chậm trễ và thiếu chủ động của chàng trai: Ba đồng một mớ trầu cay, Sao anh chẳng hỏi những ngày còn không? Cách trả lời thật khôn khéo, vừa có tình vừa có lí, vừa khiêm nhường vừa tự trọng, không thể bắt bẻ vào đâu được. Lời đáp của cô gái quá ngắn ngọn, đủ ý nhưng chưa đủ tình, cho nên chưa thể làm nguôi ngoai sự tiếc nuối trong lòng chàng trai. Đó cũng là lí do khiến cô gái phải tiếp tục phân trần, than thở để an ủi chàng trai, đồng thời khẳng định một lần nữa hoàn cảnh ván đã đỏng thuyền không thể thay đổi được của mình: Bây giờ em đã có chồng, Như chim vào lồng, như cá cắn câu. Cá cắn câu biết đâu mà gỡ,
Bài làm Trong đầm gì đẹp bằng sen, Lá xanh bông trắng lại chen nhị vàng. Nhị vàng bông trắng lá xanh, Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn. Không hiểu bài ca dao xuất hiện từ bao giờ nhưng có nhiều y kiến cho rằng đây là bái ca dao mà nghệ thuật tuyệt vời và ý nghĩa triết lí nhân sinh sâụ sắc gắn liền với nhau, tạo nên giá trị muôn đời. Hình ảnh cây sen được miêu tả vừa cụ thể, chân thật vừa mang tính tượng trưng và khái quát rất cao. Ca ngợi vẻ đẹp của hoa sen, tác giả dân gian nhằm phản ánh niềm tự hào của con người Việt Nam là luôn giữ được tâm hổn trong sáng, phẩm chất thanh cao, dù hoàn cảnh sống có nghiệt ngã đến mức nào. Ở câu mở đầu: Trong đầm gì đẹp bằng sen. Tác giả đã khẳng định hoa sen đẹp nhất so với tất cả các loài hoa nở trong đầm bằng một câu hỏi tu từ khéo léo, lôi cuốn người nghe, đặt họ vào vị trí và tâm thế thưởng thức cùng với mình. Để rồi sau khi so sánh, cân nhắc họ sẽ rút ra kết luận không thể khác. Câu thứ hai: Lá xanh bông trắng tạỉ chen nhị vàng. Để chứng minh cho lời khẳng định ở trên là có cơ sở, tác giả tuần tự miêu tả vẻ đẹp của cây sen, từ lá xanh qua bông trắng đến nhị vàng. Trên nền xanh của lá, nổi bật màu trắng tinh khiết của hoa; giữa màu trắng của hoa lại chen chút sắc vàng của nhị. Từ lại được dùng rất tài tình, có tác dụng nhấn mạnh sự đa dạng màu sắc của hoa sen, từ chen nói lên sự kết hợp hài hòa giữa hoa và nhị, tất cả như cùng đua đẹp, đua tươi. Cảnh đầm sen giống như một bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp hiện lên dưới ngòi bút chấm phá thần tinh. Câu thứ ba. Nhị vàng bông trắng lá xanh, Câu này có vị trí đặc biệt trong toàn bài vì nó là câu chuyển (chuyển vần, chuyển nhịp, chuyển ý) để chuẩn bị cho câu kết. Từ câu thứ hai sang câu thứ ba có sự đột ngột, khác thường trong cách gieo vần {ang, anh) nhưng nhiều người không để ý. Sở dĩ như vậy là do sự chuyển vần và sự thay đổi trật tự các từ ngữ và hình ảnh đã được thực hiện một cách khéo léo, tự nhiên, hợp lí về cả nội dung và hình thức. Hai chữ nhị vàng ở cuối câu thứ hai được lặp lại ở đầu câu thứ ba tạo nên tính liên tục trong tư duy, cảm xúc và sự liên kết chặt chẽ giữa nội dung với hình thức trong toàn bài. Câu đầu và câu cuối là nhận định, đánh giá về vẻ đẹp và phẩm chất cao quý của cây sen. Hai câu giữa tả thực đến từng chi tiết: lá xanh, bông trắng, nhị vàng (tả đi); rồi tả lại: Nhị vàng, bông trắng, lá xanh. Tả từ dưới lên trên, từ trên xuống dưới. Dường như người tả đang cố chứng minh bằng được vẻ đẹp của sen: đẹp từ sắc lá đến màu hoa, màu nhị. Sau đó lại nhấn mạnh thêm bằng cách đảo ngược: đẹp từ màu nhị đến màu hoa, sắc lá. Nghệ thuật miêu tả ở đây mới đọc qua tưởng chừng đơn giản, song thực sự đã đạt tới trình độ điêu luyện, tinh vi. Nghệ thuật ấy đã tôn vinh hoa sen lên hàng hoa quý, xứng đáng tượng trưng cho vẻ đẹp của con người chân chính. Đọc mấy câu ca dao trên, chúng ta liên tưởng tới hình dáng thanh tao, kiêu hãnh của hoa sen và trong tâm tưởng cũng bừng nở một đóa sen tuyệt đẹp! Câu thứ tư: Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn. Dù mang tính chất ẩn dụ tượng trưng nhưng trước hết vẫn là tả thực về môi trường sống của cây sen. Sen thường sống ở trong ao, trong đầm lầy, nơi có nhiều bùn. Ấy vậy mà hoa sen lại rất thơm, một mùi thơm thanh khiết lạ lùng! Có thể coi đây là cái nút của toàn bài ca dao. Thiếu câu ca dao này, hình tượng của hoa sen vẫn tồn tại nhưng không có linh hồn và ý nghĩa. Nếu câu ca dao mở đầu là luận để mang ý nghĩa khái quát về hình tượng của hoa sen thì đến câu kết của bài thơ, hình tượng bông sen trong tự nhiên đã chuyển sang hình tượng bông sen trong cuộc đời một cách uyển chuyển, nhẹ nhàng, không có một sự gượng ép nào, do đó mà nghĩa bóng của hoa sen cũng mở rộng không giới hạn. Chính vì vậy mà tính chất tượng trưng, ẩn dụ của hình tượng thơ nổi lên, lấn át hình ảnh thực. Nó tựa hồ như một cánh cửa kì diệu, khép nghĩa đen lại và mở nghĩa bóng ra một cách thần tình.
Assignment In what beautiful dress with lotus, Green leaves, white flowers, and yellow stamens. Yellow stamens, white flowers, green leaves, Nearly mud that does not stink of mud. It is not known when the folk song appeared, but there are many opinions that this is a folk song with great art and a profound philosophical meaning of life linked together, creating eternal value. The image of the lotus tree is described as both specific and realistic, as well as highly symbolic and general. Praising the beauty of the lotus flower, the folk author intended to reflect the pride of Vietnamese people in always maintaining a pure heart and noble qualities, no matter how harsh their life circumstances are. In the opening sentence: In what beautiful dress with lotus. The author affirmed that the lotus is the most beautiful of all the flowers blooming in the lagoon with a skillful rhetorical question, attracting the listener, putting them in a position and mood to enjoy with him. Then, after comparing and considering, they will come to an incontrovertible conclusion. Second sentence: Green leaves with white flowers interspersed with yellow stamens. To prove that the above assertion is well-founded, the author sequentially describes the beauty of the lotus plant, from green leaves to white flowers to yellow stamens. On the green background of the leaves, the pure white color of the flowers stands out; In the middle of the white color of the flower, there is a little yellow color of the stamens. The word is used very cleverly, with the effect of emphasizing the variety of colors of the lotus flower. The word chen speaks of the harmonious combination between flower and stamen, all seem to be beautiful and fresh. The lotus pond scene is like a beautiful natural picture appearing under the pen of a divine star. Third sentence. Yellow stamens, white flowers, green leaves, This sentence has a special position in the whole poem because it is a transition sentence (rhyme change, rhythm change, change of meaning) to prepare for the concluding sentence. From the second sentence to the third sentence, there is a sudden, unusual rhyme scheme {ang, anh) but many people do not notice. This is because the rhyme changes and changes in the order of words and images have been done skillfully, naturally, and reasonably in both content and form. The two golden words at the end of the second sentence are repeated at the beginning of the third sentence, creating continuity in thinking, emotions and a close connection between content and form throughout the article. The first and last sentences are comments and assessments about the beauty and noble qualities of the lotus plant. The two sentences in the middle describe every detail: green leaves, white flowers, yellow stamens (describe); Then describe: Yellow stamens, white flowers, green leaves. Describe from bottom to top, top to bottom. It seems that the narrator is trying to prove the beauty of the lotus: from the color of the leaves to the color of the flowers and stamens. Then further emphasize by reversing: beautiful from stamen color to flower color to leaf color. The art described here seems simple at first glance, but has actually reached a level of skill and sophistication. That art has honored the lotus as a precious flower, worthy of symbolizing the beauty of true humanity. Reading the above folk songs, we think of the elegant and proud shape of the lotus and in our minds a beautiful lotus blossoms! Fourth sentence: Nearly mud that does not stink of mud. Although it is a symbolic metaphor, it is first and foremost a realistic description of the living environment of the lotus plant. Lotuses often live in ponds, swamps, and places with a lot of mud. Yet the lotus flower is very fragrant, a strangely pure scent! This can be considered the button of the entire folk song. Without this folk song, the image of the lotus still exists but without soul and meaning. If the opening verse of the folk song is an essay to convey the general meaning of the image of the lotus, then by the end of the poem, the image of the lotus in nature has gracefully changed to the image of the lotus in life. gently, without any force, therefore the figurative meaning of the lotus also expands without limit. That is why the symbolic and metaphorical nature of poetic images emerges, overwhelming the real images. It seems like a magical door, closing literally and opening figuratively in a magical way.
Bài làm Trào lưu hiện thực phê phán giai đoạn 1930-1945 đã có những đóng góp đáng kể cho nền văn học nước nhà. Chúng ta khó có thể quên các tên tuổi lớn như Nguyên Hồng, Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Nam Cao… và đặc biệt là Ngô Tất Tố – tác giả cuốn tiểu thuyết nổi tiếng Tắt đèn. Lần đầu tiên, ông đã đưa vào văn học hình ảnh một người phụ nữ nông dân Việt Nam với đầy đủ phẩm chất tốt đẹp. Đoạn văn Tức nước vỡ bờ thể hiện chân thực và sinh động vẻ đẹp của nhân vật chị Dậu, một phụ nữ yêu chồng, thương con, giàu đức hi sinh và có tinh thần phản kháng mãnh liệt. Mở đầu đoạn trích là cảnh chị Dậu chăm sóc người chồng ốm yếu vừa bị bọn cường hào đánh đập thừa chết thiếu sống chỉ vì chưa có tiền nộp sưu. Chị Dậu đã cố sức xoay xỏa để cứu chồng ra khỏi cảnh bị cùm trói và hành hạ dã man. Chị tất tả chạy ngược chạy xuôi, vay được nắm gạo nấu nồi cháo loãng. Cảm động thay là cảnh chị Dậu múc cháo ra mấy cái bát cũ kĩ, sứt mẻ và quạt lia quạt lịa cho cháo mau nguội rồi ân cần mời mọc: Thầy em cố dậy húp tí cháo cho đỡ xót ruột. Trong ánh mắt người vợ nghèo khổ ấy toát lên một tình thương yêu chồng tha thiết. Trong cơn quẫn bách của mùa sưu thuế, chị Dậu đã trở thành trụ cột của cái gia đình khốn khổ. Chồng bị bắt, bị gông cùm, đánh đập, một tay chị chèo chống, chạy vạy, phải bán tất cả những gì có thể bán được, kể cả đứa con gái đầu lòng ngoan ngoãn, hiếu thảo mà chị thương đứt ruột để lấy tiền nộp sưu, cứu chồng khỏi vòng tù tội. Chị đã phải đổ bao mồ hôi nước mắt để anh Dậu được trả tự do trong tình trạng tưởng như chỉ còn là một cái xác không hồn. Chính tình yêu thương, lo lắng cho chồng đã dẫn chị đến hành động chống trả quyết liệt lũ tay sai tàn ác khi chúng nhẫn tâm bắt trói anh Dậu một lần nữa. Hành động của chị Dậu không phải diễn ra một cách bất ngờ mà cái mầm mống phản kháng đã ẩn chứa từ lâu dưới vẻ ngoài cam chịu, nhẫn nhục. Sự chịu đựng kéo dài và sự áp bức tột độ đã khiến nó bùng lên dữ dội. Lúc bọn đầu trâu mặt ngựa ập vào định lôi anh Dậu đi nhưng chưa hành hung mà chỉ chửi bới, mỉa mai thì chị Dậu tuy giận nhưng vẫn nhẫn nhục van xin tên cai lệ độc ác: Cháu van ông, nhà cháu vừa mới tỉnh được một lúc, ông tha cho! Cách xưng hô của chị là cách xưng hô của kẻ dưới với người trên, biểu hiện sự nhún mình. Lúc bọn chúng sầm sập chạy đến chỗ anh Dậu, định trói anh một lần nữa, chị Dậu đã xám mặt nhưng vẫn cố chịu đựng, níu tay tên cai lệ, năn nỉ: Cháu xin ông. Những lời nói và hành động ấy của chị chỉ nhằm mục đích bảo vệ chồng. Đến khi giới hạn của sự chịu đựng bị phá vỡ thì tính cách, phẩm chất của chị Dậu mới bộc lộ đầy đủ. Tên cai lệ không thèm nghe chị. Hắn đấm vào ngực chị và cứ sấn đến trói anh Dậu. Chị Dậu đã chống cự lại. Sự bùng nổ tính cách của chị Dậu là kết quả tất yếu của cả một quá trình chịu đựng lâu dài trước áp lực của sự tàn ác, bất công. Nó đúng với quy luật: Có áp bức, có đấu tranh. Người đọc xót thương một chị Dậu phải hạ mình van xin bao nhiêu thì càng đồng tình, nể phục một chị Dậu đáo để, quyết liệt bấy nhiêu. Từ vị thế của kẻ dưới: Cháu van ông…, chị Dậu thoắt nâng mình lên ngang hàng với kẻ xưa nay vẫn đè đầu cưỡi cổ mình: Chồng tôi đau ốm, ông không được phép hành hạ. Câu nói cứng rắn mà vẫn có đủ tình, đủ lí. Nhưng cái ác thường không biết chùn tay. Tên cai lệ cứ sấn tới đánh chị và nhảy vào định lôi anh Dậu. Tức thì, sau lời cảnh cáo đanh thép của kẻ trên đối với kẻ dưới: Mày trói ngay chồng bà đi, bà cho mày xem! là hành động phản kháng dữ dội: Rồi chị túm lấy cổ hắn, ấn dúi ra cửa. Sức lẻo khẻo của anh chàng nghiện chạy không kịp với sức xồ đẩy của người đàn bà lực điền, hắn ngã chỏng queo trên mặt đất… Còn tên người nhà lí trưởng kết cục cũng bị chị Dậu túm tóc, lẳng cho một cái, ngã nhào ra thềm.
Assignment The critical realism movement of the period 1930-1945 made significant contributions to the country's literature. We can hardly forget big names like Nguyen Hong, Nguyen Cong Hoan, Vu Trong Phung, Nam Cao... and especially Ngo Tat To - author of the famous novel Lights Out. For the first time, he introduced into literature the image of a Vietnamese peasant woman with all good qualities. The passage The Water Breaks the Banks realistically and vividly shows the beauty of the character Ms. Dau, a woman who loves her husband, loves her children, is rich in the virtue of sacrifice and has a strong spirit of resistance. The excerpt begins with the scene of Ms. Dau taking care of her sick husband who was just beaten to death by tyrants just because he did not have the money to pay the collection. Ms. Dau tried her best to save her husband from being shackled and brutally tortured. She hurriedly ran back and forth, borrowed a handful of rice to cook a pot of thin porridge. What was so touching was the scene where Ms. Dau scooped porridge out into a few old, chipped bowls and fanned it vigorously to cool the porridge quickly, then kindly invited: My teacher, try to get up and sip some porridge to ease your stomachache. In that poor wife's eyes, there was a passionate love for her husband. During the hardship of tax collection season, Ms. Dau became the breadwinner of the miserable family. Her husband was arrested, shackled, beaten, and she single-handedly struggled and had to sell everything she could sell, including her obedient and filial first daughter, whom she loved so much to marry. collected money, saved her husband from prison. She had to put in a lot of sweat and tears to get Mr. Dau released in a state that seemed like he was just a soulless body. It was her love and concern for her husband that led her to act fiercely against the cruel henchmen when they cruelly tied up Mr. Dau again. Ms. Dau's actions did not happen suddenly, but the seeds of resistance had long been hidden under the surface of resignation and patience. Prolonged suffering and extreme oppression caused it to flare up violently. When the buffalo-headed and horse-faced gang tried to drag Mr. Dau away but did not assault him but only cursed and sarcastically, Ms. Dau was angry but still patiently begged the cruel ruler: I beg you, my family has just woken up. After a while, please forgive me! Her way of addressing her is the way a subordinate addresses a superior, expressing humility. When they suddenly ran to Mr. Dau's place, intending to tie him up again, Ms. Dau's face turned pale but she still tried to endure, holding on to the ruler's hand, begging: I beg you. Her words and actions were only intended to protect her husband. When the limit of tolerance is broken, Ms. Dau's personality and qualities are fully revealed. The ruler did not listen to her. He punched her in the chest and kept trying to tie up Mr. Dau. Ms. Dau resisted. Ms. Dau's personality explosion is the inevitable result of a long process of suffering under the pressure of cruelty and injustice. It is true to the rule: There is oppression, there is struggle. The more the reader feels sorry for a Ms. Dau who has to humble herself and beg, the more she will sympathize and respect a Ms. Dau who is thoughtful and fierce. From the position of the one below: I beg you..., Ms. Dau quickly raised herself to the level of the person who had always oppressed her: My husband is sick, you are not allowed to torture him. The words are tough but still have enough love and reason. But evil often does not know how to hold back. The guard kept coming to beat her and jumped in to try to drag Mr. Dau. Immediately, after the strong warning from the superior to the inferior: You immediately tie up her husband, she will show you! was an act of violent resistance: Then she grabbed his neck and pushed him out the door. The running addict's weak strength could not keep up with the force of the woman's push, he fell to the ground... As for the head of Ly Truong's family, Ms. Dau also grabbed his hair, threw him, and fell. rushed out onto the porch.
Bài làm Từ bao đời nạy, con cò gần gũi, thân thiết với đồng ruộng, với người nông dân đã trở thành hình tượng quen thuộc trong ca dao. Mỗi khi nhắc đến con cò, ta thường liên tưởng đến người phụ nữ Việt Nam chịu thương chịu khó, tận tụy suốt đời vì chồng vì con. Sống trong xã hội phong kiến đầy áp bức bất công, chị em phụ nữ phải đương đầu với rất nhiều khó khăn trở ngại. Nhưng dù cuộc sống có tối tăm đến đâu, dù gặp phải hoàn cảnh ngang trái đến mức độ nào thì họ vẫn giữ được tâm hồn trong sáng và phẩm chất tốt đẹp. Điều đó đã được thể hiện một cách kín đáo qua bài ca dao mang tính ẩn dụ sau đây: Con cò mà đi ăn đêm, Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao. Ông ơi ông vớt tôi nao, Tôi có lòng nào ông hãy xáo măng. Có xáo thì xáo nước trong, Đừng xáo nước đục, đau lòng cò con. Thông qua tâm sự của con cò gặp nạn, bài ca dao khẳng định người dân lao động nghèo khổ xưa kia luôn đề cao quan điểm: Thà chết trong còn hơn sống đục. Trong ca dao xưa, người nông dân thường mượn hình ảnh con cò để diễn tả cuộc đời cực nhọc và thân phận nhỏ bé của họ, bởi vì nó có nhiều nét tương đồng: thân cò gầy guộc; cò chịu khổ, vất vả lặn lội kiếm ăn: Nước non lận đận một mình, Thân cò lên thác xuống ghềnh bấy nay. Ai làm cho bể kia đầy, Cho ao kia cạn, cho gầy cò con. Trời mưa. Quả dưa vẹo vọ. Con ốc nằm co. Con tôm đánh đáo. Con cò kiếm ăn. Trong các loài chim kiếm ăn ở đồng ruộng, chỉ có con cò là gần gũi với người nông dân hơn cả. Những lúc họ cày cuốc, cấy hái… cò cũng ở bên, lầm lũi bắt con tôm, con tép. Cò đứng trên bờ ruộng, thong thả rỉa lông rỉa cánh. Chiều chiều, từng đàn cò chấp chới bay về đậu trắng lũy tre ven làng. Bài ca dao thấm đẫm cảm xúc buồn thương khi kể về cảnh ngộ éo le của một con cò mẹ trong lúc đi kiếm mồi để nuôi con. Nó gợi cho ta liên tưởng tới sự vất vả, cực nhọc của người phụ nữ lao động xưa kia: Con cò mà đi ăn đêm, Đậu phải cành mềm, lộn cổ xuống ao. Tình cảnh của con cò là tình cảnh của người đi kiếm ăn trong hoàn cảnh đặc biệt, không may gặp rủi ro và lâm nạn. Từ hình ảnh cò mọ lặn lội tìm mồi để nuôi đàn cò con bé bỏng nhân dân ta đã ngầm so sánh với sự tần tảo, đảm đang của người phụ nữ. Trước mắt ta như hiện lên hình ảnh những người vợ, người mẹ phải tất tả giữa dòng đời xuôi ngược để lo toan cơm áo cho cả gia đình. Thông thường, cò chỉ kiếm ăn vào ban ngày chứ không phải ban đêm như loài vạc. Kiếm ăn ban đêm là điểu trái với tập tính của loài cò. Vậy tại sao cò mẹ lại phải làm như vậỵ? Cò đi kiếm ăn vào ban đêm tà điều dặc biệt. Các tác phẩm dân gian thường kể và khai thác những điều đặc biệt. Tình cảnh của cò mẹ trong hai câu đầu chỉ là cái nền để thể hiện một cách tinh tế, sâu sắc những điều người xưa muốn nói qua ngôn ngữ trực tiếp của nhân vật trong bốn câu sau. Chỉ tiết này đã đẩy mâu thuẫn lên đến đỉnh điểm, thành một bi kịch thương tâm gợi cảm xúc xót xa trong lòng người đọc. Kiếm ăn ban ngày không đủ, cò mọ phải kiếm ăn cả ban đêm. Vì trời tối, cò đậu phải cành mềm cho nên mới bị lộn cổ xuống ao. Có lẽ cò mẹ không chỉ buồn vì tai nạn và cái chết gần kề mà còn buổn vì sự hiểu lầm tai hại tất sẽ xảy ra. Nội dung lời ca giúp chúng ta hiểu và thông cảm với tâm trạng của cò mẹ: Ông ơi ông vớt tôi nao, Tồi cổ lòng nào, ông hãy xáo măng. Có xáo thì xáo nước trong, Đừng xáo nước đục, đau lòng cò con Phát biểu cảm nghĩ về bài ca dao con cò mà đi ăn đêm Tiếng kêu cứu van xin gấp gáp của cò mẹ cho thấy nó mong được cứu sống biết bao vì đàn con nhỏ đang trông đợi ở nhà. Lời khẩn cầu của cò mẹ hoàn toàn không phải vì muốn bảo toàn tính mạng mà là muốn giãi bày tấm lòng trong sạch của mình: Tôi có lòng nào, ông hãy xáo măng, Lời thanh minh về sự vô tội cũng là lời thề danh dự. Tồi có lòng nào nghĩa là nếu tôi có lòng dạ hoặc ý định xấu xa nào thì ông hãy xáo măng, có nghĩa là ông có xử vào tội chết tôi cũng cam lòng. Cò ngày ngày lặn lội kiếm ăn nay không may gặp rủi ro, hoạn nạn. Lời cò mẹ cũng là lời phân trần chân thật của những người lương thiện chẳng may rơi vào cảnh ngộ éo le. Rõ ràng, cò mẹ sẵn sàng chấp nhận cái chết để chứng minh cho tấm lòng trong sạch, ngay thẳng của mình. Ước muốn cuối cùng của cò mẹ là nếu có bị xáo măng thì xin người hãy xáo nước trong, đừng xáo nước đục mà thêm tủi thân, tủi phận cho cò. Nước trong, nước đục là những hình ảnh mang ý nghĩa ẩn dụ. Tục ngữ có câu: Chết trong hơn sống đục. Trong bài ca dao này, nước trong và nước đục là những cảnh huống trái ngược. Nếu phải chết, cò muốn chết trong danh dự chứ không phải trong tai tiếng và nhục nhã. Cò mẹ không muốn đàn con phải đau lòng trước cái chết đầy uẩn khúc của mẹ. Lời van xin thống thiết cho ta thấy bản chất thật thà, đôn hậu của cò mẹ. Đứng trước tình thế cái chết đã kề bên, chợt nghĩ đến đàn con đói khát của mình đang nóng ruột chờ đợi nên cò mẹ đành cất lời van xin nếu phải chết thì được chết trong sạch.
Assignment For many generations, the stork has been close and intimate with the fields and farmers and has become a familiar image in folk songs. Whenever we mention storks, we often think of Vietnamese women who are hard-working and devoted throughout their lives to their husbands and children. Living in a feudal society full of oppression and injustice, women have to face many difficulties and obstacles. But no matter how dark life is, no matter how harsh the circumstances they encounter, they still maintain a pure soul and good qualities. That was expressed discreetly through the following metaphorical folk song: The stork goes out to eat at night, I landed on a soft branch and flipped my neck into the pond. Sir, please save me, I have no heart, he just shoots disturbance. If there is disturbance, the water is clear, Don't disturb the muddy water, it will hurt the little stork's heart. Through the confession of the stork in distress, the folk song affirms that poor working people in the past always promoted the viewpoint: It is better to die clear than to live opaquely. In ancient folk songs, farmers often borrow the image of a stork to describe their hard life and small status, because it has many similarities: the stork's body is skinny; Storks suffer and struggle to find food: The country struggles alone, The stork's body has been going up waterfalls and rapids all this time. Who filled that tank, Let that pond dry up and let the little storks grow thin. It rains. The melon is crooked. The snail lies curled up. The shrimp hit the spot. Stork looking for food. Among the birds that forage in the fields, only the stork is closest to the farmer. When they plowed, planted, and picked... storks were also there, diligently catching shrimp and prawns. The stork stood on the edge of the field, leisurely preening its feathers and wings. In the afternoon, flocks of storks fly back and forth to perch on white bamboo piles along the village. The folk song is imbued with sad emotions as it tells about the miserable plight of a mother stork while searching for food to feed her young. It reminds us of the hardship and drudgery of ancient working women: The stork goes out to eat at night, Land on a soft branch and flip your neck into the pond. The stork's situation is that of a person looking for food in special circumstances, unfortunately encountering risks and falling into trouble. From the image of storks searching for prey to feed their little flock of storks, our people have implicitly compared it with the diligence and resourcefulness of women. Before our eyes, images of wives and mothers seem to have to rush through the ups and downs of life to take care of food and clothing for the whole family. Normally, storks only forage during the day, not at night like cauldrons. Foraging at night is contrary to the behavior of storks. So why does the mother stork have to do that? Storks go looking for food at night, especially evil things. Folk works often tell and exploit special things. The mother stork's situation in the first two sentences is just a background to delicately and deeply express what the ancients wanted to say through the character's direct language in the following four sentences. This detail has pushed the conflict to its climax, turning into a tragic tragedy that evokes sad emotions in the reader's heart. Finding food during the day is not enough, storks have to search for food at night. Because it was dark, the stork landed on a soft branch and fell upside down into the pond. Perhaps the mother stork is not only sad because of the accident and impending death, but also sad because of the disastrous misunderstanding that will inevitably occur. The song's lyrics help us understand and sympathize with the mother stork's feelings: Sir, please save me, No matter how bad your heart is, you should stir up the bamboo shoots. If there is disturbance, the water is clear, Don't disturb the muddy water, it will hurt the little stork's heart Express your feelings about the stork folk song and go out to eat at night The mother stork's urgent cries for help showed how much she wanted to be saved because her little cubs were waiting at home. The mother stork's plea was not at all because she wanted to preserve her life, but rather because she wanted to express her pure heart: "Whatever heart I have, please let it go. The confession of innocence is also an oath of honor." attend. "I have no evil heart" means that if I have any evil heart or intention, then please do not hesitate. It means that even if you sentence me to death, I will still be willing. The stork who spends his days searching for food now unfortunately encounters misfortune and misfortune. Mother stork's words are also true confessions of honest people who unfortunately fall into difficult situations. Clearly, the mother stork is willing to accept death to prove her pure and upright heart. The mother stork's last wish is that if bamboo shoots are disturbed, please let the water be clear. Don't disturb the cloudy water, which will add to the stork's self-pity and fate. Clear water and cloudy water are images with metaphorical meaning. There is a proverb: A clear death is better than a cloudy life. In this folk song, clear water and cloudy water are opposite situations. If he has to die, he wants to die with honor, not with scandal and humiliation. The mother stork does not want her children to be heartbroken by her tragic death. The agonizing plea shows us the honest and kind nature of the mother stork. Facing the situation where death was so close, she suddenly thought of her starving children waiting impatiently, so the mother stork begged that if she had to die, she would die cleanly.
Bài làm: Đối với ca dao – dân ca, tình yêu nam nữ là đề tài có sức hấp dẫn kì lạ. Ca dao – dân ca khỉ thì ẩn giấu những nỗi niềm sâu xa, lắng đọng, khi thì trào dâng những cảm xúc dạt dào, mạnh mẽ của tình yêu nam nữ. Dường như thách thức của thời gian và mọi trở ngại trên đường đời chỉ làm cho tình yêu thêm phần mãnh liệt, vững bền. Bài ca dao Muối ba năm… đã diễn tả phần nào tình nghĩa vợ chồng thuỷ chung trong xã hội phong kiến ngày xưa: Muối ba năm muối đang còn mặn, Gừng chín tháng gừng hãy còn cay. Đôi ta nghĩa nặng tình đầy, Có xa nhau đi nữa, cũng ba vạn sáu ngàn ngày mới xa. Ban đầu, trai gái yêu nhau thường lấy trăng, hoa, sông, núi… làm cái cớ để tỏ tình, để hứa hẹn, thề thốt. Ở vào thời điểm mơ mộng, huyền diệu ấy, tình yêu hiện ra thật lãng mạn, đẹp đẽ: Tâm lí của những kẻ đang yêu là Nhất nhật bất kiến như tam thu hề, một ngày không gặp nhau dài bằng ba thu, nhưng khi đã nên vợ nên chổng thì tình yêu chuyển thành tình thương, tình nghĩa, tức là đi vào chiều sâu của tình cảm. Ca dao đã mượn các hình ảnh gần gũi, quẹn thuộc để miêu tả tình nghĩa vợ chồng: Muối ba năm muối đang còn mặn, Gừng chín tháng gừng hãy còn cay. Hình tượng thơ không cầu kì, bóng bẩy mà đơn sơ, gần gũi. Muối và gừng là những gia vị thường dùng trong bữa cơm hằng ngày của người bình dân. Hơn thế, muối và gừng còn là những vị thuốc đắc dụng trong lúc ốm đau. Được các tác giả dân gian đưa vào văn chương, muối và gừng đã mang ý nghĩa tượng trưng cho tình nghĩạ vợ chồng đậm đà, sâu nặng. Hai câu đầu của bài ca dao nhấn mạnh bản chất khó thay đổi bởi thời gian của muối và gừng. Những số từ như ba năm, chín tháng không phải là số từ cụ thể mà nó hàm ý chỉ thời gian lâu dài. Mà thời gian lại Chính là thử thách nghiệt ngã nhất, là thước đo chính xác nhất phẩm chất và giá trị của sự vật, của con người. Muối và gừng là những sản phẩm đo chính tay người dân làm ra và gắn bó đời đời kiếp kiếp với họ. Muối là kết tinh của nước biển, màu trắng, hạt nhỏ, có vị mặn. Muối có mặt trong bữa ăn của mọi nhà, mọi người. Cái vị mặn mòi của muối được nhấn mạnh trong cụm từ muối ba năm. Trải qua năm tháng, hạt muối càng mặn mà thêm, cũng giống như thời gian trôi qua càng làm đậm đà hơn tình chồng nghĩa vợ. Gừng là loại cây thường được trồng ở trong vườn, ngoài đồng. Vị cay nồng của gừng làm nóng ran từ miệng vào tới gan ruột, khiến ta có cảm giác tăng thêm nhiệt huyết, sức lực. Độ cay của gừng chín tháng được ngầm so sánh với mức độ thắm thiết của tình cảm vợ chồng. Trong gian nan, vất vả, tình nghĩa vợ chồng càng thêm sâu nặng. Để làm nổi bật hai hình ảnh muối ba năm với gừng chỉn tháng, các tác giả dân gian đã sử dụng nhiều biện pháp tu từ đặc sắc. Sự cân đối nhịp nhàng của hai câu thơ bảy chữ kết hợp với điệp từ muối và gừng được lặp lại hai lần trong câu thơ, có sự bổ trợ của cụm từ chỉ trạng thái đang còn mặn, hãy còn cay, đặc tả tình nghĩa vợ chồng đằm thắm, nồng nàn. Gừng cay, muối mặn tượng trưng cho tình nghĩa của những cặp vợ chổng nghèo cùng nhau chung lưng đấu cật, lên thác xuống ghềnh, lên rừng xuống biển. Chén cơm sẻ nửa, hạt muối chia đôi. Qua gian nan, cơ cực, tình nghĩa vợ chồng gắn bó càng thêm sâu sắc: Đôi ta nghĩa nặng tình đầy Câu thơ sáu chữ cổ âm điệu ngọt ngào, sâu lắng cùng với các từ ngữ đan xen hài hoà, thể hiện sự khăng khít của cặp vợ chồng rất đỗi thương nhau. Từ Đôi ta nói lên sự khăng khít, hoà hợp. Đôi ta khác hai ta vì hai ta chưa thể là một. Để tiếp tục khắc sâu ý nghĩa của từ Đôi ta, tác giả cụ thể hoá bằng hình ảnh nghĩa nặng tình dày. Nghĩa đặt trước tình, quấn quyện vào nhau, không có gì đo lường được tình nghĩa vợ chồng dành cho nhau. Thành ngữ nghĩa nặng tình dày như một hòn đá tảng trong đời sống vợ chồng, không sức mạnh gì xô đẩy, di chuyển được. Nhưng không phải lúc nào tình yêu nam nữ, tình nghĩa vợ chồng cũng thuận buồm xuôi gió. Trong cuộc sống chung, vợ chổng cũng phải “lên thác xuống ghềnh”, “ba chim bảy nổi chín lênh đênh”, nghĩa là bên cạnh cái ngọt ngào của tình yêu, họ cũng gặp nhiều khó khăn trong cuộc sống tình đời thường cần phải vượt qua. Câu thơ: Có xa nhau đi nữâ cũng ba vạn sáu ngàn ngày mởi xa đột ngột kéo dài từ sáu chữ thành mười ba chữ, không phải là không có lí do. Độ dài của câu ca dao phần nàọ bộc lộ sự băn khoăn, bức xúc trong tâm trạng của người vợ hoặc người chồng, ở đỉnh cao của tình cảm vợ chồng, giữa thời điểm hạnh phúc nhất, đôi khi người vợ hoặc người chồng tự nhiên phân vân, lo lắng cho tương lai, cho những ngày tiếp theo liệu có giữ được gừng cay, muối mặn, nghĩa nặng tình dày mãi không? Phân tích bài ca dao muối ba năm muối đang còn mặn … Cụm từ có xa nhau đi nữa diễn tả tâm trạng có thật của một trong hai người, nhưng nó chĩ là một dao động thoáng qua, một sự lo xa cần thiết ở những người vợ, người chồng biết lo lắng, chăm sóc gìn giữ cho hạnh phúc gia đình. Nhân vật trữ tình tự đặt ra giả thiết: Có xa nhau đi nữa và cũng tự trả lời: ba vạn sáu ngàn ngày mới xa. Tại sao họ không nói một trăm năm mà lại là ba vạn sáu ngàn ngày? Cách nói như dằn từng tiếng, nhấn mạnh quyết tâm sắt đá, khắc cốt ghi xương lời thề gìn giữ cuộc sống vợ chồng cho vuông tròn đến đầu bạc răng long. Dẫu không sử dụng một từ so sánh nào nhưng ý so sánh trong bài ca dao vẫn khá rõ. Giống như muối mặn, gừng cay, tình nghĩa đồi ta trải qua năm tháng càng thêm nặng, thêm dày, không gì có thể làm cho phai nhạt. Điều thú vị ở đây là cách nói vòng. Ba vạn sáu ngàn ngày tức là một trăm năm. Lấy vợ lấy chồng, ai cũng ao ước được trăm năm hạnh phúc bên nhau. Vậy thì cái chuyện xa nhau dẫu có thể xảy ra thì cũng phải sau ba vạn sáu ngàn ngày, khi mà cả hai đều đã sống trọn vạn kiếp người. Để ý một chút, ta sẽ thấy cấu trúc ngữ pháp của câu cuối cùng khá lạ. Hai chữ xa đặt ở đầu và cuối câu, ở giữa là thành ngữ chỉ thời gian dài đằng đẵng. Quan hệ ngữ nghĩa là quan hệ giả thiết – kết quả được thể hiện bằng sự kết hợp giữa nhiều thủ pháp nghệ thuật đặc sắc như nói vòng, cường điệu để nhấn mạnh ý cẩn khẳng định. Sức mạnh của tình yêu nam nữ không trở lực nào ngăn cản được. Tình cảm vợ chồng lại càng không có thế lực nào phá vỡ được. Đó là những thông điệp mà bài ca dao trên muốn gửi đến mọi người. Tình nghĩa vợ chồng gắn bó thuỷ chung đã được xây dựng trên nền tảng là cuộc sống lao động vất vả của những người cùng cảnh ngộ:
Assignment: For folk songs, love between men and women is a topic with strange appeal. Folk songs - monkey folk songs sometimes hide deep, condensed feelings, sometimes overflow with abundant, strong emotions of male and female love. It seems that the challenge of time and all the obstacles on the road of life only make love more intense and lasting. The folk song Salt for three years... partly describes the faithful love between husband and wife in ancient feudal society: Three years of salt is still salty, Ginger is still spicy after nine months. We are filled with deep love, No matter how far apart we are, it will still be thirty-six thousand days. Initially, boys and girls in love often used the moon, flowers, rivers, mountains... as an excuse to confess their love, to make promises, and to swear. At that dreamy, magical time, love appears so romantic and beautiful: The psychology of those in love is like a day without seeing each other like a clown, a day without seeing each other is as long as three autumns, but Once we become husband and wife, love turns into love and affection, that is, it goes into the depth of affection. Folk songs have borrowed close and familiar images to describe the love between husband and wife: Three years of salt is still salty, Ginger is still spicy after nine months. The poetic images are not sophisticated or glossy, but simple and close. Salt and ginger are spices commonly used in everyday meals of ordinary people. Moreover, salt and ginger are also useful medicines during illness. Introduced into literature by folk authors, salt and ginger have come to symbolize the rich and deep love between husband and wife. The first two lines of the folk song emphasize the timeless nature of salt and ginger. Words like three years and nine months are not specific words but imply a long period of time. But time is the harshest test, the most accurate measure of the quality and value of things and people. Salt and ginger are products made by the people themselves and are forever attached to them. Salt is a crystallization of sea water, white in color, small particles, and has a salty taste. Salt is present in every home and everyone's meals. The salty taste of salt is emphasized in the phrase three-year salt. As the years pass, the grain of salt becomes more salty, just as the passage of time deepens the love between husband and wife. Ginger is a plant commonly grown in gardens and fields. The pungent taste of ginger causes heat from the mouth to the intestines, making us feel more enthusiastic and energetic. The spiciness of nine-month ginger is implicitly compared to the intensity of husband and wife's love. During hardship and hardship, the love between husband and wife becomes even deeper. To highlight the two images of three-year salt and nine-month ginger, folk authors used many unique rhetorical devices. The rhythmic balance of the two seven-word verses combined with the words salt and ginger are repeated twice in the verse, with the support of the phrase indicating the state of being still salty, still spicy, describing the love. A loving and passionate couple. Spicy ginger and salt symbolize the love of poor couples who work hard together, up waterfalls and rapids, up forests and down to the sea. The bowl of rice is divided in half, the grain of salt is divided in half. Through hardship and hardship, the bond between husband and wife becomes deeper: We are both filled with deep love The ancient six-word poem has a sweet, profound melody and harmoniously interwoven words, expressing the closeness of a couple who loves each other very much. The word "Twin" speaks of closeness and harmony. We are different from the two of us because we cannot yet be one. To further deepen the meaning of the word We, the author concretizes with images the meaning of deep love. Meaning comes before love, entwined together, nothing can measure the love between husband and wife for each other. The heavy meaning of love is like a rock in married life, no force can push or move it. But the love between men and women, and the love between husband and wife, is not always smooth sailing. In their life together, husband and wife also have to "go up waterfalls and down rapids", "floating on three birds and nine, floating on three birds", which means that besides the sweetness of love, they also encounter many difficulties in their daily love life. to pass. The verse: No matter how far apart we are, thirty-six thousand days suddenly extended from six words to thirteen words, not without a reason. The length of the folk song partly reveals the anxiety and frustration in the mood of the wife or husband. At the peak of marital affection, in the midst of the happiest time, the wife or husband sometimes confesses. Suddenly wondering and worrying about the future and the days to come, will I be able to keep the spicy ginger, the salty salt, the deep meaning and love forever? Analyzing the salt folk song after three years, the salt is still salty... The phrase "no matter how far apart" describes the real mood of one of the two people, but it is only a fleeting fluctuation, a necessary concern for wives and husbands who know how to worry and care. for family happiness. The lyrical character poses the hypothesis: No matter how far they are from each other and also answers: thirty-six thousand days to be far away. Why don't they say one hundred years but thirty-six thousand days? The way of speaking is like a strong word, emphasizing the iron determination, engraved in the bones of the oath to keep the married life square and round until the beginning and the end. Even though no words of comparison are used, the meaning of comparison in the folk song is still quite clear. Like salty salt and spicy ginger, our love grows stronger and thicker as the years go by, nothing can make it fade. The interesting thing here is the circumlocution. Thirty-six thousand days is one hundred years. When getting married, everyone wishes to have a hundred years of happiness together. So, even if separation could happen, it would have to be after thirty-six thousand days, when both of them have lived ten thousand human lives. Paying a little attention, we will see that the grammatical structure of the last sentence is quite strange. The two words far are placed at the beginning and end of the sentence, in the middle is an idiom indicating a long time. Semantic relationships are hypothesis-result relationships expressed by a combination of many unique artistic devices such as circumlocutions and exaggerations to emphasize the affirmative idea. The power of love between men and women cannot be stopped by any obstacle. There is no force that can break the love between husband and wife. Those are the messages that the above folk song wants to send to everyone. The faithful bond between husband and wife has been built on the foundation of the hard working life of people in the same situation:
Ai làm chua xót lòng nay, khế ơi! Mặt trăng sánh với mặt trời Sao Hôm sánh với sao Mai chằng chằng Mình ơi có nhớ ta chăng? Ta như sao Vượt chờ trăng giữa trời. Bài làm Bài ca dao này mở đầu bằng lối đưa đẩy gợi cảm hứng: Trèo lên cây khế nửa ngày, gần giống với Trèo lên cây bưởi hái hoa ở một bài ca dao quen thuộc khác. Những bài như thế thường là lời thở than, tiếc nuối cho duyên phận lỡ làng của các chàng trai nghèo ở nông thôn xưa. Câu mở đầu nêu ra một tình huống khá đặc biệt: Trèo lên cây khế nửa ngày. Tuy không có chủ ngữ nhưng người đọc vẫn có thể hình dung ra nhân vật trữ tình là chàng trai đang trong tâm trạng cô đơn, buồn bã. Chuyện tình cảm riêng tư khó bày tỏ với người. Thôi thì chia sẻ với cỏ cây cho vơi sầu, bớt khổ: Ai làm chua xót lòng này, khế ơi! Đại từ phiếm chỉ Ai ờ đây mang ý nghĩa khá rộng. Có thể là con người cụ thể nào đó, mà cũng có thể là những ngăn trở vô hình nhưng rất khó vượt qua như quan niệm môn đăng hộ đối, như định kiến phân biệt sang hèn, giàu nghèo trong xã hội… Nhưng dù là gì chăng nữa thì nó cũng là trở lực đáng sợ đối với những đôi lứa đang yêu, muốn tiến tới hỗn nhân, Nó là nguyên nhân dẫn đến sự dở dang hoặc tan vỡ của những cuộc tình. Hỏi khế mà cũng là tự hỏi mình. Nhân hóa kín đáo qua cách gọi tha thiết khế ơi, khiến cho cây khế cũng mang tâm trạng của một kẻ đồng bệnh tương liên. Câu hỏi tu từ trên như mũi dao vô hình xoáy sâu vào trái tim yêu đang rỉ máu. Nghệ thuật chơi chữ tinh tế ẩn sau câu hỏi ấy. Lòng khế chua chát có nét giống với lòng người chua xót. Cảm giác chua xót, cay đắng tràn ngập cõi lòng chàng trai, nhưng không vì thế mà lụi tàn ngọn lửa hi vọng. Chàng trai mượn quy luật của vũ trụ để khẳng định quy luật của tình yêu: Mặt trăng sánh với mặt trời, Sao Hôm sánh với sao Mai chằng chằng. Vạn vật đều có đôi có lứa, vậy tại sao chúng mình lại phải xa nhau? Ai nhẫn tâm chia cắt tình duyên đôi lứa, để anh thì lặng đi trong chua xót. Còn em, chắc cũng rơi vào tâm trạng đau khổ, giày vò, nếu như em thực lòng yêu thương, gắn bó với anh. Dẫu bị ngăn trở, dẫu phải xa nhau, nhưng anh vẫn nghĩ chúng ta là một cặp khăng khít không thể tách rời; như Mặt trăng sánh với mặt trời, như Sao Hôm sánh với sao Mai, tuy hai mà một. So sánh như thế cũng là một cách khẳng định mạnh mẽ về tình yêu và lòng chung thủy, về khát vọng hạnh phúc chân chính. Nhưng dù mượn đến những sự vật lớn lao, vĩnh hằng trong vũ trụ để bày tỏ lòng mình, chàng trai cảm thấy vẫn chưa đủ, chưa thể hiện hết được những điều muốn nói. Cần phải để trái tim tự nói lên những lời yêu thương chân thành nhất: Mình ơi! Có nhớ ta chăng? Ta như sao Vượt chờ trăng giữa trời.
Who made this heart sour, star fruit! The moon compares with the sun The Evening Star compares closely with the Morning Star Honey, do you remember me? I am like the Surpass star waiting for the moon in the sky. Assignment This folk song opens with an inspirational path: Climb a star fruit tree for half a day, almost similar to Climb a grapefruit tree to pick flowers in another familiar folk song. Such songs are often laments and regrets for the fate of poor boys in ancient rural areas. The opening sentence states a rather special situation: Climbing a star fruit tree for half a day. Although there is no subject, the reader can still imagine the lyrical character as a young man in a lonely and sad mood. Private love affairs are difficult to express to others. Well, let's share with the plants and trees to relieve sadness and suffering: Who made this heart so sour, star fruit! The casual pronoun Ai here has a rather broad meaning. It could be a specific person, or it could also be invisible obstacles that are very difficult to overcome, such as the concept of equality, like the prejudice that distinguishes between rich and poor in society... But even if it is No matter what, it is also a terrifying obstacle for couples in love who want to get closer. It is the cause of unfinished or broken love relationships. Asking about star fruit is also asking about yourself. The discreet personification through the affectionate name "star fruit" makes the star fruit tree also carry the mood of a patient with the same disease. The rhetorical question above is like an invisible knife piercing deep into the bleeding heart of love. The art of subtle wordplay lies behind that question. The sour heart of a star fruit is similar to the sour heart of a person. Feelings of bitterness and bitterness filled the boy's heart, but that did not extinguish the fire of hope. The boy borrowed the laws of the universe to affirm the laws of love: The moon compares with the sun, The Evening Star compares closely with the Morning Star. Everything has a life and death, so why do we have to be apart? Who cruelly separates the couple's love, leaving him silent and bitter. As for you, you will probably also fall into a state of suffering and torment, if you truly love and are attached to me. Even though we are hindered, even though we have to be apart, I still think we are a close, inseparable pair; Like the Moon comparing with the Sun, like the Evening Star comparing with the Morning Star, two but one. Such a comparison is also a strong way to affirm love and loyalty, and the desire for true happiness. But even though he borrowed great, eternal things in the universe to express his feelings, the young man felt that it was still not enough and could not express everything he wanted to say. It is necessary to let the heart speak the most sincere words of love: Oh honey! Do you remember me? I am like the Surpass star waiting for the moon in the sky.
Bài làm Trong xã hội, có người công thành danh toại, có kẻ suốt đời lao đao, lận đận chẳng làm nên chuyện gì đáng kể. Có người sống không hề băn khoăn về mục đích sống, tựa như con tàu ra biển không xác định phương hướng, sống không ai biết, chết chẳng ai hay. Lại có người ý đồ thì rất lớn mà sự nghiệp lại rất nhỏ. Chuyện thành công hay thất bại do rất nhiều nguyên nhân tạo nên, trong đó chủ yếu là do tính mục đích. Nhà văn Pháp nổi tiếng Điđơrô đã nhận xét: Nếu không có mục đích, anh không làm được gì cả. Anh cũng không làm được cái gì vĩ đại nếu như mục đích tầm thường. Câu nói của ông muốn đề cập tới ý hướng đặt ra trong mọi công việc, mọi hoạt động của con người. Con người phải có mục đích sống. Mục đích sống tốt đẹp là nguồn động viên con người phấn đấu để đạt được kết quả tốt đẹp hơn, sống hữu ích hơn trong xã hội. Nhận xét trên của Điđơrô hoàn toàn chính xác. Trong đời sống hằng ngày, trước khi bắt tay làm một việc gì, người ta đều đặt ra mục đích của công việc đó. Vậy mục đích là gì? Mục đích là yêu cầu đặt ra trước khi thực hiện một công việc. Chúng ta có thể hiểu một cách đơn giản rằng mục đích chính là cái mà ta cần phải phấn đấu để đạt được trong quá trình thực hiện công việc, là kết quả cuối cùng phải đạt được mà con người xác định trước khi hành động. Nó sẽ hướng mọi suy nghĩ, hành động, tập trung ý chí, nghị lực của con người để đạt được yêu cầu đã đặt ra. Mục đích là kim chỉ nam trong quá trình tạo dựng sự nghiệp, cho nên con người không thể sống, làm việc mà không có mục đích nào cả. Khác với mọi loài thú sống theo bản năng tự nhiên, con người có trí tuệ soi sáng nên thường đặt ra yêu cầu cụ thể trước mỗi việc làm hay còn gọi là mục tiêu hành động. Loài người thường dùng lí trí để phân biệt đúng sai, nên làm hay không nên làm. Hành động thiếu mục đích thường không có hiệu quả. Trước khi làm một việc gì, con người thường đặt ra mục đích cần phải đạt được rồi tìm mọi cách thực hiện mục đích ấy. Từ trước tới nay, đã có biết bao nhà bác học nghiên cứu, tìm tòi, sáng tạo trên mọi lĩnh vực dể đem lại những kết quả tốt đẹp nhất, nhằm phục vụ đời sống con người. Mục đích sẽ mở ra phương hướng, dẫn dắt mọi suy nghĩ và hành động của con người. Có mục đích, con người mới có động lực thúc đẩy trong công việc, có niềm vui và niềm tin vào việc mình làm. Ngược lại, nếu sống không có mục đích, con người sẽ trở nên thụ động, bạc nhược và vô dụng, cuộc đời mất hết ý nghĩa. Trăm ngàn công việc với trăm ngàn mục đích khác nhau, mục đích có lớn, nhỏ, xấu, tốt, tầm thường. Mỗi người đều có mục đích sống riêng của mình. Tầm quan trọng của mục đích là điều ai cũng phải công nhận nhưng mục đích như thế nào là chuyện cần bàn. Điđơrô rất có lí khi nói: Anh cũng không làm được cái gì vĩ đại nếu như mục đích tầm thường. Thế nào là mục đích tầm thường? Một kẻ chỉ nghĩ đến quyền lợi của cá nhân, làm gì cũng nhằm đạt kết quả cho cá nhân mình, cho gia đình mình mà không nghĩ gì đến quyền lợi của những người xung quanh thì mục đích ấy là mục đích tầm thường, ích kỉ. Cách sống của kẻ ấy không có ích cho toàn thể cộng đồng. Bên cạnh đó không ít người sống với mục đích cao thượng, tốt đẹp. Họ là những con người có ích cho gia đình, xã hội. Suốt đời họ cống hiến cho nhân dân, cho đất nước, khống màng gì đến bản thân, sẵn sàng hi sinh tất cả để đất nước ngày càng giàu đẹp, nhân đân ngày càng no ấm. Động cơ nào thúc đẩy họ làm việc quên mình nếu không phải là mục đỉch đẹp đẽ và cao thượng? Như vậy, mục đích cao thượng chính là ngọn đuốc chỉ đường, là nguổn sức mạnh động viên con người tập trung ý chí, nghị lực và trí tuệ để thực hiện tốt mọỉ công việc. Nhờ có mục đích lớn và tình thần làm vỉệc không mệt mỏi mà các nhà khoa học đã sáng tạo ra bao cống trinh vĩ đại cho nhân loại. Thực tế lịch sử cho thấy những tên tuổi lưu danh muôn đời đều là những người có mục đích sống lớn lao, cao cả.. Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Nguyễn Trãi, Quang Trung, Hồ Chí Minh,… cùng chung một khát vọng: bảo vệ Tổ quốc, đánh đuổi ngoại xâm, giành chủ quyền độc lập, tự do thiêng liêng cho dân tộc. Công lao to lớn của các vị anh hùng đó đời đời được nhân dân ca tụng và ghi nhớ. Trong toàn cảnh đổi mới hiện nay, các vị lãnh đạo Đảng và Nhà nước ta ngày đêm trăn trở, tìm hướng đi đúng đắn nhất để khôi phục và phát triển kinh tế, nâng cao mức sống cho nhân dân, xây dựng một nước Việt Nam giàu mạnh nhự Bác Hồ hằng mong muốn. Đó là mục đích tốt đẹp. Mục đích đó đã tạo ra sức bật mới cho toàn dân tộc. Nhân dân ta bước đầu đã gặt hái được những thành công đáng kể. Trong thời đại mới, sức mạnh của mỗi dân tộc không chỉ ở lòng dũng cảm và quân đội với số lượng đông đảo như trước đây. Ngày nay, sức mạnh của mỗi dân tộc lá sức mạnh của trí tuệ, của khoa học kĩ thuật và kinh tế phồn vinh. Các cường quốc trên thế giới đểu là những nước kinh tế phát triển cao. Đối với nước ta, điều đó chĩ thực hiện được khi chủ nhân của đất nước là những người có trình độ văn hoá, khoa học kĩ thuật cao, có khả năng vươn đền tầm cao của thế giới. Muốn vậy, không có cách nào khác là chúng ta phải ra sức học tập thật tột, học hỏi không ngừng. Mục đích học tập tốt sẽ có tác dụng rất lớn đến việc hình thành và phát triển nhân cách. Nó làm cho con người ngày càng trở nôn hoàn thiện hơn, hữu ích hơn cho gia đình, xã hội.
Assignment In society, there are people who succeed and become famous, while there are people who struggle all their lives and fail to accomplish anything significant. There are people who live without worrying about the purpose of life, like a ship sailing at sea with no direction, no one knows when they live, no one knows when they die. There are people whose intentions are very big but whose career is very small. Success or failure is caused by many reasons, the main one being purpose. The famous French writer Didero commented: If you don't have a purpose, you can't do anything. You can't do anything great if your goals are trivial. His statement refers to the intention set in all work and all human activities. People must have a purpose to live. The purpose of a good life is a source of encouragement for people to strive to achieve better results and live more usefully in society. Didero's above comment is completely accurate. In everyday life, before starting to do something, people set a purpose for that work. So what is the purpose? Purpose is a requirement set before performing a job. We can simply understand that the purpose is what we need to strive to achieve during the work process, the final result that must be achieved that people determine before taking action. It will direct all thoughts, actions, and focus people's will and energy to achieve the set requirements. Purpose is the guideline in the process of building a career, so people cannot live and work without any purpose. Unlike all animals that live according to natural instincts, humans have enlightened intelligence so they often set specific requirements before each job, also known as action goals. Humans often use reason to distinguish right from wrong, what to do or what not to do. Actions without purpose are often ineffective. Before doing anything, people often set a goal to achieve and then find every way to achieve that goal. From past to present, there have been countless scientists who have researched, explored, and created in all fields to bring the best results to serve human life. Purpose will open direction and guide all human thoughts and actions. With purpose, people will be motivated to work, have joy and confidence in what they do. On the contrary, if life has no purpose, people will become passive, weak and useless, and life will lose all meaning. Hundreds of thousands of jobs with hundreds of thousands of different purposes, purposes are big, small, bad, good, or trivial. Each person has their own life purpose. The importance of purpose is something everyone must recognize, but what the purpose is is something that needs to be discussed. Didero is very reasonable when he says: You cannot do anything great if your goals are trivial. What is a trivial purpose? A person who only thinks about personal interests, does everything to achieve results for himself and his family without thinking about the interests of those around him, then that goal is a trivial, useful goal. century. That person's way of life is not beneficial to the entire community. Besides, many people live with noble and good purposes. They are useful people for family and society. They dedicate their whole lives to the people and the country, not caring about themselves, ready to sacrifice everything so that the country becomes more and more prosperous and the people more and more prosperous. What motivates them to work selflessly if not a beautiful and noble goal? Thus, a noble purpose is a guiding light, a source of strength that encourages people to focus their will, energy and intelligence to perform every job well. Thanks to great purpose and tireless working spirit, scientists have created many great contributions to humanity. Historical reality shows that the names that will be remembered forever are people with great and noble life goals. Ba Trung, Ba Trieu, Tran Hung Dao, Le Loi, Nguyen Trai, Quang Trung, Ho Chi Minh,... share the same desire: to protect the Fatherland, expel foreign invaders, and win sovereignty, independence, and sacred freedom for the nation. The great merits of those heroes will forever be praised and remembered by the people. In the current landscape of innovation, the leaders of our Party and State are pondering day and night, looking for the most correct direction to restore and develop the economy, improve people's living standards, and build a Vietnam. A rich and strong man like Uncle Ho always wanted. That's a good purpose. That purpose has created new resilience for the entire nation. Our people have initially achieved remarkable successes. In the new era, the strength of each nation is not only in courage and a large army as before. Today, the strength of each nation depends on the strength of intelligence, science and technology and economic prosperity. The world's great powers are all highly developed economic countries. For our country, that is only possible when the owners of the country are people with high levels of culture, science and technology, capable of reaching world heights. To do so, there is no other way than we must try our best to study and learn continuously. Good learning goals will have a great effect on personality formation and development. It makes people become more and more perfect, more useful to family and society.
Bài làm Để trở thành người có ích cho xã hội, chúng ta cần phải có những phẩm chất nào? Có trí tuệ siêu việt hay là phải có đạo đức tuyệt vời cao cả? Trong một cuộc nói chuyện với học sinh, những người đang ra sức rèn luyện để trở thành công dân có ích cho xã hội, Hồ Chủ tịch đã nói: Có tài mà không có đức là người vô dụng. Cô đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó. Cậu nói của Hồ Chủ tịch đã khẳng định giá trị cơ bản của một con người là tài và đức. Trong ý kiến của Bác, tài chính là tài năng, là kiến thức, là hiểu biết, là kĩ năng kĩ xảo, là kinh nghiệm sống để con người có thể hoàn thành công việc của mình một cách tốt nhất, đặc biệt là trong những hoàn cảnh khó khăn, những tình huống phức tạp. Đức chính là đạo đức, là tư cách tác phong, là lòng nhiệt tình, là những khát vọng chân thiện, mĩ… Người có đức biết tôn trọng và bảo vệ chân lí, dám đấu tranh với sai lầm, sẵn sàng hi sinh quyển lợi cá nhân cho quyền lợi của tập thể. Tài và đức là những phạm trù khác nhau nhưng gắn bó chặt chẽ không thể tách rời. Có tài mà không có đức là người vô dụng, bởi vì tài năng đó không được sử dụng để phục vụ nhân dân mà chỉ để mưu cầu lợi ích cho cá nhân thì cũng trở thành vô ích. Người ta không thể sống một mình, càng không thể tách rời giạ đình, bạn bè, giai cấp, dân tộc và đồng loại. Giá trị của một con người được xem xét trên cơ sở những đóng góp hữu ích đối với cộng đồng. Người ích kỉ là người không quan tâm đến quyền lợi của người khác. Nếu có tài, họ cũng chỉ tìm cách sao cho có lợi cho mình. Người có tài mà phản bội Tổ quốc, đi ngược lại lợi ích của nhân dân thì chẳng những vô dụng mà còn có tội. Người càng có tài mà kém đạo đức thì tác hại gây ra cho gia đình và xã hội càng lớn. Nhưng nếu chỉ có đức mà không có tàj thì làm việc gì cũng khó. Có đức, tức là có khát vọng hành động, cống hiến vì lợi ích của mọi người nhưng kiến thức ít ỏi và năng lực kém thì những ý định dù tốt đến đâu cũng khó trở thành hiện thực. Tài năng giúp cho con người lao động có hiệu quả. Thiếu tài năng, người ta phải làm việc rất vất vả mà chất lượng công việc lại không cao.
Assignment To become useful to society, what qualities do we need to have? Is it necessary to have superior intelligence or to have great and noble morality? In a conversation with students, who are working hard to become useful citizens for society, President Ho Chi Minh said: Having talent without virtue is a useless person. If you are virtuous and have no talent, it will be difficult to do anything. President Ho Chi Minh's speech affirmed that the basic values ​​of a human being are talent and virtue. In Uncle Ho's opinion, finance is talent, knowledge, understanding, technical skills, and life experience so that people can complete their work in the best way, especially in life. difficult circumstances, complicated situations. Virtue is morality, behavior, enthusiasm, and aspirations for truth, goodness, and beauty... Virtuous people know how to respect and protect the truth, dare to fight with mistakes, and are willing to sacrifice their rights. individual interests for collective interests. Talent and virtue are different categories but are inseparably linked. Having talent without virtue is a useless person, because if that talent is not used to serve the people but only to seek personal benefits, it also becomes useless. People cannot live alone, much less separate from family, friends, class, ethnicity and fellow human beings. The value of a person is considered on the basis of useful contributions to the community. A selfish person is someone who does not care about the rights of others. If they are talented, they will only find ways to benefit themselves. A talented person who betrays the Fatherland and goes against the interests of the people is not only useless but also guilty. The more talented a person is but less moral, the greater the harm caused to the family and society. But if there is only virtue and no vice, doing anything will be difficult. Having virtue means having the desire to act and contribute for the benefit of everyone, but with little knowledge and poor ability, no matter how good the intentions are, it is difficult to become reality. Talent helps people work effectively. Lacking talent, people have to work very hard but the quality of their work is not high.
Bài làm Câu tục ngữ Ăn cây nào, rào cây đấy của người xưa không ngờ hôm nay lại trở thành đề tài bình luận sôi nổi của tổ em. Đó có phải là sự thể hiện của một trong nhiều quan niệm sống ở đời? Nhiều bạn cho rằng câu tục ngữ này đúng – ít, sai nhiều, nhưng cũng có bạn lại khẳng định nó hoàn toàn đúng. Ai cũng có dùng lí lẽ để chứng minh cho ý kiến của mình. Theo em, câu tục ngữ trên có mặt đúng và có mặt chưa đúng. Nghĩa chính của câu tục ngữ trên là: Ăn quả cây nào thì phải vun xới, giữ gìn, bảo vệ cây ấy. Nhưng cũng giống như bao câu tục ngữ ngắn gọn và hàm súc khác, ý nghĩa của nó không chỉ dừng ở đó. Sâu xa hơn, câu tục ngữ trên là một lời khuyên nhủ chúng ta phải bảo vệ, gắn bó với môi trường, với nguồn sống. Đặt câu tục ngữ vào hoàn cảnh ra đời của nó cách xa thời đại ngày nay bao thế kỉ, khi mà nền kinh tế tiểu nông của đất nước ta còn thô sơ, lạc hậu theo chế độ tự cung tự cấp thì chúng ta mới thấy được mặt đúng của nó. Lúc bấy giờ, từng người, từng nhà phải hoàn toàn tự lo cho cuộc sống của bản thân, gia đình. Nhu cầu cuộc sống rất thấp, rất đơn giản nên sự trao đổi, ràng buộc giữa người với người chưa phức tạp lắm, Vì vậy phải gắn bó chặt chẽ vả có ý thức bảo vệ những gì thiết yếu đối với mình. Câu tục ngữ trên sẽ đúng khi nó là một lời phê phán lối sống thực dụng, ích kỉ hại nhân, chỉ biết bo bo giữ lấy quyềnlợi vật chất cho riêng mình mà thờ ơ, thậm chí xâm phạm đến quyền lợi của người khác. Lối sống ấy đã bị nhân dân ta nhiều lần đả kích và lên án: Của mình thì giữ bo bo, Của người thì thả cho bò nó ăn. Trình bày ý kiến của em về câu tục ngữ ăn cây nào rào cây đấy Trên đây là mặt đúng của câu tục ngữ. Còn mặt sai của nó ở chỗ nào? Nếu câu tục ngữ trên là phát ngôn của một quan niệm sống mang nặng tính cá nhân thực dụng và ích kỉ thì nó rất đáng cho chúng ta phê phán. Tại sao như vậy? Bởi vì mỗi con người là một thành viên của cộng đồng: gia đình, tập thể, xã hội. Trong cuộc sống hằng ngày, mọi người đều có mối quan hệ đa chiều với nhau, không ai có thể phủ nhận thực tế này. Chúng ta thấy rõ là người nông dân cày cấy trên đồng ruộng, dầu dãi một nắng hai sương, làm ra củ khoai, hạt lúa nuôi đời. Người công nhân trong nhà máy, xí nghiệp sản xuất ra hàng trăm, hàng ngàn mặt hàng phục vụ nhu cầu đời sống. Người thầy đứng trên bục giảng truyền dạy kiến thức cho con em nhân dân. Người chiến sĩ ngày đêm cầm chắc tay súng bảo vệ Tổ quốc… Tất cả, tất cả đều có liên quan chặt chẽ với nhau. Do đó, nếu chỉ khư khư bảo vệ lợi ích của riêng mình mà không biết đến lợi ích toàn diện thì sẽ là một sai lầm lớn.
Assignment The ancient proverb "Eat a tree, fence a tree" of the ancients unexpectedly became a hot topic of comment among my group today. Is it an expression of one of the many concepts of life? Many of you think that this proverb is true - a little, wrong a lot, but there are also people who affirm that it is completely true. Everyone can use arguments to prove their opinions. In my opinion, the above proverb has both correct and incorrect aspects. The main meaning of the above proverb is: If you eat fruit from a tree, you must cultivate, preserve, and protect that tree. But like many other short and concise proverbs, its meaning does not stop there. More deeply, the above proverb is an advice that we must protect and stick with the environment and the source of life. Putting the proverb into the context of its birth many centuries away from today's era, when our country's smallholder economy was still rudimentary and backward following a self-sufficient regime, we can see get its right side. At that time, each person and each family had to completely take care of their own lives and their families. Life's needs are very low and very simple, so exchanges and bonds between people are not very complicated. Therefore, we must stick closely and consciously protect what is essential to us. The above proverb will be true when it is a criticism of a lifestyle that is pragmatic, selfish and harmful to others, only knowing how to protect their own material interests while being indifferent and even infringing on the rights of others. That way of life has been repeatedly attacked and condemned by our people: You keep what's yours, and let the cows eat what's other people's. Present your opinion on the proverb: eat from a tree, fence around a tree The above is the correct side of the proverb. Where is the wrong side of it? If the above proverb is a statement of a concept of life that is strongly individualistic and selfish, then it is worthy of our criticism. Why? Because every person is a member of the community: family, collective, society. In everyday life, everyone has multidimensional relationships with each other, no one can deny this fact. We clearly see that farmers plow the fields, no matter the weather, they produce potatoes and rice seeds to nourish life. Workers in factories and enterprises produce hundreds, thousands of items to serve life's needs. The teacher stands on the podium to teach knowledge to the people's children. The soldier holds his gun firmly to protect the Fatherland day and night... Everything, everything is closely related to each other. Therefore, if you only insist on protecting your own interests without knowing the comprehensive benefits, it will be a big mistake.
Bài làm Nguyễn Bá Học là nhà giáo, nhà văn, nhà báo đầy nhiệt huyết đầu thế kỉ XX. Trong cuộc đời dạy,học và trong văn nghiệp của mình, ông rất quan tâm đến việc giáo dục thế hệ trẻ, ông đã viết tập “Lời khuyên học trò” để trao đổi, bày vẽ, động viên thanh niên rèn luyện thành người có ích cho nước, cho dân. Trong bài “Chỉ mạo hiểm” để khuyến khích việc rèn luyện ý chí, khắc phục Khó khăn, quyết làm nên việc lớn, Nguyễn Bá Học đã viết: Đường đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi mà khó vì lòng người ngại núi e sông. Núi cao, sông sâu luôn luôn là những trô ngại ngăn bước con người. Trong văn chương, núi, sông là hình ảnh tượng trưng cho những thách thức, khó khăn trên đường đời. Vì thế, câu nói của Nguyễn Bá Học chứa đựng nhiều ý nghĩa, ông đã nhắc nhở lớp trên rằng trên con đường ta đi, nhiều khi phải vượt qua núi cao, sông sâu, nghĩa là sẽ gặp nhiều khó khăn, gian khổ, nhưng nếu có bản lĩnh và quyết tâm thì vẫn tới đích. Những trở ngại khó khăn mà ta gặp phải trên đường đời dù cao như núi, dù rộng như sông nhưng cũng không đáng sợ bằng sự ngại khó, ngại khổ, thiếu ý chí, thiếu nghị lực của con người. Anh bộ đội Cụ Hồ trong kháng chiến chín năm chống Pháp đã từng chế ngự núi cao: Rất đẹp hình anh lúc nắng chiều, Bóng dài trên đỉnh dốc cheo leo. Núi không đè nổi vai vươn tới, Lá ngụy trang reo với gió đèo. (Lên Tây Bắc – Tố Hữu) Trong kháng chiến chống Mĩ, thanh niên việt Nam đã làm nên huyền thoại đường mòn Hồ Chí Minh lịch sử trên dãy Trường Sơn với tinh thần yêu nước nồng nàn và quyết tâm sắt đá: Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước, Mà lòng phơi phới dậy tương lai. (Theo chân Bác – Tố Hữu) Ai đã từng một lần đi ngang qua bến phà Nhật Lệ thì sẽ thấy dòng sông rộng biết chừng nào. Chính tại nơi này, dưới bom đạn địch, mẹ Suốt đã chèo đò đưa bộ đội vượt sông đi đánh Mĩ hết chuyến này đến chuyến khác: Một tay lái chiếc đồ ngang, Bến sông Nhật Lệ quân sang đêm ngày. Sợ chi sóng gió tàu bay… Tây kia mình đã thắng, Mĩ này ta chẳng thua. {Mẹ Suốt – Tố Hữu) Điều quan trọng nhất đối với con người là phải có quyết tâm cao, ý chí bền, nghị lực lớn. Câu chuyện của thầy trò Đường Tăng đi thỉnh kinh Phật ở tận Tây Trúc cách đây hàng ngàn năm là một ví dụ điển hình. Hành trình vượt biển tìm vùng đất mới của Cristôp Côlông cách đây hàng mấy trăm năm cũng chứng minh điều đó. Giải thích câu nói Đường đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi mà ngại vì lòng người ngại núi e sông Ngày nay, xung quanh chúng ta có rất nhiểu tấm gương không ngại núi e sông, vượt qua tất cả để đạt mục đích cao đẹp. Anh Nguyễn Ngọc Kí bị tật liệt cả hai tay. Nhìn bè bạn cắp sách đến trường, anh rất thèm được như các bạn, Bằng ý chí, nghị lực và sự kiên trì, anh luyện cho đôi chân không chỉ cầm được bút mà còn điều khiển được cây kéo. Anh cắt chữ, dán khẩu hiệu hoàn toàn bằng chân. Anh đã học xong Tiểu học, Trung học rồi Đại học và trở thành thầy giáo Nguyễn Ngọc Kí. Gần đây, anh đã được nhà nước phong tặng danh hiệu Nhà giáo ưu tú. Anh Đức là người em song sinh dính liền với Việt, được các bác sĩ mổ tách rời vào năm 1987, tuy chỉ có một chân và sức khoẻ yếu nhưng suốt 19 năm qua đã không ngừng học tập, vươn lên chiến thắng số phận bất hạnh của một nạn nhân chất độc màu da cam. Giờ đây, anh Đức đã trở thành một chuyên viên vi tính, công tác ở làng Hoà Bình, bệnh viện Từ Dũ, thành phổ Hổ Chí Minh. Bằng những cố gắng phi thường, anh Đức đã trở thành người hữu ích cho xã hội và hạnh phúc đã mĩm cười với anh. Trong thời đại khoa học phát triển, con người có thể làm được những điểu kì diệu như bay vào vũ trụ, đặt chân lên mặt trăng hoặc lặn sâu xuống đáy đại dương để tìm hiểu, khám phá bí ẩn của thiên nhiên. Vị thuốc cải tử hoàn sinh tuy chưa có nhưng trong thực tế, các thầy thuốc ngày nay đã có thể thay thế từng bộ phận hư hỏng của con người để kéo dài tuổi thọ. Không thể kể hết các thành tựu khoa học tiên tiến là kết quả của ý chí, quyết tâm của con người. Rõ ràng là chỉ khi nào có bản lĩnh vững vàng, kiên định thi con người mới đạt được mục đích đã đặt ra. Hãy cố gắng vượt lên mọi gian nan, thử thách, dù là nghiệt ngã, đó là điều mà nhà giáo, nhà văn Nguyễn Bá Học mong muốn ở thế hệ trẻ Việt Nam với hi vọng họ sẽ làm rạng rỡ non sông. Đó cũng chính là điều mà Hồ Chủ tịch kính yêu đã từng dạy thanh niên: Không có việc gì khó,
Assignment Nguyen Ba Hoc was a passionate teacher, writer, and journalist in the early twentieth century. In his life of teaching, learning and writing, he was very interested in educating the young generation. He wrote the book "Advice to students" to discuss, draw and encourage young people to become good people. useful for the country and the people. In the article "Just taking risks" to encourage the training of will, overcoming difficulties, and determination to do great things, Nguyen Ba Hoc wrote: The road is difficult, not difficult because it separates the river from the mountains, but difficult because people are afraid. mountains and rivers. High mountains and deep rivers are always obstacles that stop people. In literature, mountains and rivers are images that symbolize challenges and difficulties on the road of life. Therefore, Nguyen Ba Hoc's statement contains many meanings, he reminded the upper class that on the path we travel, we often have to cross high mountains and deep rivers, which means we will encounter many difficulties and hardships. But if you have courage and determination, you will still reach your destination. The difficult obstacles that we encounter on the path of life, even though they are as high as mountains or as wide as rivers, are not as scary as people's fear of difficulty, fear of suffering, lack of will, and lack of energy. Uncle Ho's soldiers during the nine-year resistance war against the French once conquered high mountains: Very beautiful in the afternoon sun, Long shadow on top of steep slope. The mountains cannot overcome the reaching shoulders, Camouflage leaves ring with the pass wind. (To the Northwest – To Huu) During the resistance war against America, Vietnamese youth created the legend of the historic Ho Chi Minh trail on the Truong Son range with a passionate patriotic spirit and iron determination: Cutting through Truong Son to save the country, But my heart is excited about the future. (Following Uncle Ho's footsteps - To Huu) Anyone who has ever passed by Nhat Le ferry terminal will see how wide the river is. It was here, under enemy bombs and bullets, that Suot's mother rowed a boat to take soldiers across the river to fight the US one trip after another: One driver steers the cart, Nhat Le river wharf, troops come day and night. I'm afraid of storms and waves... In the West we won, in America we did not lose. {Mother Suot – To Huu) The most important thing for people is to have high determination, strong will, and great willpower. The story of Tang Tang and his disciples going to visit Buddhist scriptures in Tay Truc thousands of years ago is a typical example. Cristop Colon's journey across the sea to find a new land hundreds of years ago also proves that. Explain the saying The road is difficult, not difficult because the river separates the mountain but is difficult because people's hearts are afraid of the mountain and afraid of the river Today, around us there are many examples of people who are not afraid of mountains or rivers, overcoming everything to achieve noble goals. Mr. Nguyen Ngoc Ki is paralyzed in both arms. Watching his friends go to school, he really wanted to be like them. With will, energy and perseverance, he trained his legs to not only hold a pen but also control scissors. He cut words and pasted slogans entirely with his feet. He completed elementary school, high school, then university and became teacher Nguyen Ngoc Ki. Recently, he was awarded the title of Outstanding Teacher by the state. Mr. Duc is Viet's conjoined twin brother, separated by surgery in 1987 by doctors. Although he has only one leg and weak health, over the past 19 years he has continuously studied and risen to overcome his unfortunate fate. conduct of a victim of Agent Orange. Now, Mr. Duc has become a computer expert, working in Hoa Binh village, Tu Du hospital, Ho Chi Minh City. Through extraordinary efforts, Mr. Duc became a useful person to society and happiness smiled at him. In the era of scientific development, people can do miraculous things such as flying into space, setting foot on the moon or diving deep to the bottom of the ocean to learn and discover the mysteries of nature. Although there is no medicine to restore the dead, in reality, doctors today can replace every damaged part of a human being to prolong life. It is impossible to mention all the advanced scientific achievements that are the result of human will and determination. It is clear that only when people have a strong and steadfast spirit can they achieve their set goals. Try to overcome all hardships and challenges, even if they are harsh, that is what teacher and writer Nguyen Ba Hoc wishes for the young generation of Vietnam in the hope that they will brighten the country. That is also what beloved President Ho once taught young people: Nothing is difficult,
Bài làm: Nguyễn Trãi là vị anh hùng tên tuổi lẫy lừng trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc ta. Tài năng kiệt xuất của ông không chĩ được khẳng định trong lĩnh vực chính trị, quân sự, ngoại giao mà còn được khẳng định qua sự nghiệp văn chương đồ sộ với những đóng góp lớn lao cho nền văn học nước nhà. Lí tưởng mà Nguyễn Trãi ôm ấp lá giúp vua làm cho đất nước thái bình, nhân dân thịnh vượng. Lí tưởng cao đẹp ấy là nguồn động viên mạnh mẽ khiến ông vượt qua mọi thử thách, gian nan trên đường đời. Lúc được nhà vua tin dùng cũng như khi thất sủng, nỗi niềm lo nước, thương dân luôn canh cánh bên lòng ông. Giông bão cuộc đời không thể dập tắt nổi ngọn lửa nhiệt tình trong tâm hồn người chí sĩ tài đức vẹn toàn ấy. Bài thơ Cảnh ngày hè được sáng tác vào thời gian Nguyễn Trãi về nghỉ ở Côn Sơn. Ông tạm thời xa lánh chốn kinh đô tấp nập ngựa xe và chốn cửa quyền hiểm hóc để về với thiên nhiên trong trẻo, an lành nơi thôn dã, bầu bạn cùng dân cày cuốc, cùng mây nước, chim muông, hoa cỏ hữu tình. Trong những tháng ngày dài nhàn nhã “bất đắc dĩ ấy, nhà thơ có lúc thấy vui trước cảnh vật mùa hè tưng bừng sức sống và kín đáo gửi vào những vần thơ tả cảnh một thoáng khát vọng mong cho dân giàu, nước mạnh. Bài thơ phản ánh tâm hồn Nguyễn Trãi chan chứa tình yêu thiên nhiên, yêu đời, yêu nhân dân, đất nước. Bài thơ mở đầu bằng câu lục ngôn nêu rõ hoàn cảnh của nhà thơ lúc đó: Rỗi / hóng mát / thuở ngày trường. Lẽ ra câu thơ phải bảy chữ mới đúng là thể thất ngôn bát cú quen thuộc, song Nguyễn Trãi đã lược đi một chữ. Đây cũng là một cách tân táo bạo, mới mẻ trong thơ Nôm nước ta thuở ấy. Nhịp thơ 1/2/3, chậm rãi phản ánh tư thế ung dung, tự tại vốn có của tác giả. Chữ Rỗi tách riêng thành một nhịp thể hiện cảm nhận của tác giả về tình cảnh của mình. Rỗi là từ cổ, cổ nghĩa là nhàn nhã, không vướng bận điều gì. Cuộc đời Nguyễn Trãi thường không mấy lúc được thảnh thơi. Đây là lúc ông được sống ung dung, được thỏa ước nguyện hòa mình với thiên nhiên mà ông hằng yêu mến. Không có việc gì quan trọng, cần kíp để làm cả, chỉ có mỗi “việc” là hóng mát. Ngày trường là ngày dài. Đây là cảm giác tâm lí về thời gian của người đang sống trong cảnh nhàn rỗi, thấy ngày dường như dài ra. Với con người ưa suy nghĩ, hành động như Nguyễn Trãi thì cảm giác ấy càng rõ hơn bao giờ hết. Giữa lúc xây dựng lội non sông sau chiến tranh, việc dân việc nước bời bời mà ông bị bắt buộc phải hóng mát hết ngày này qua ngày khác thì quả là trớ trêu, Bởi vậy, ông rơi vào cảnh thân nhàn mà tâm bất nhàn. Đằng sau câu thơ trên dường như thấp thoáng một nụ cười chua chát của Nguyễn Trãi trước tình cảnh trớ trêu ấy. Chỉ có vẻ đẹp hồn nhiên, vô tư của cảnh vật mới có thể tạm xua đi những áng mây buồn vướng vít trong tâm hồn ông. Ông mở lòng đón nhận thiên nhiên và thấy vui trước cảnh: Hòe lục đùn đùn tản rợp giương. Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ, Hồng liên trì đã tiễn mùi hương. Chi vài nét bút phác họa mà bức tranh quê đã hiện lên tươi khỏe, hài hoà. Cây trước sân, cây trong ao đều ở trạng thái tràn đầy sức sống, đua nhau vươn lên khoe sắc, tỏa hương. Cây hòe với tán lá xanh um xoè rộng, trong khi cây lựu nở đầy những bông hoa đỏ thắm và sen hồng đã nức mùi hương. Sức sống trong cây đang đùn đùn dâng lên cành, lên lá, lên hoa. Cây tỏa bóng rợp xuống mặt sân, tỏa luôn bóng mát vào hồn thi sĩ. Ba câu thơ nổi đến ba loại cây: hòe, lựu, sen nhưng chẳng lẽ tác giả chỉ nói đến cây? Dường như có cả con người lồng trong đó, hết sức kín đáo. Các từ đùn đùn, (dồn dập tuôn ra) giương (toả rộng ra), phun, tiễn (ngát, nức) gợi tả sức sống căng đầy chất chứa bên trong sự vật, tạo nên những hình ảnh mới lạ, ấn tượng. Câu thơ thứ hai ngắt nhịp 4/3. Hai câu thơ tiếp theo đổi nhịp thành 3/4, tạo thêm cho cảnh vật vẻ sinh động, rộn ràng. Giữa cảnh với người có nét tương đồng nào chăng? Đời người anh hùng cũng đã vơi nhưng giống như hàng tùng bách dày dạn tuyết sương nên sức sống vẫn chảy mạnh trong huyết quản. Thức đỏ (màu đỏ) của hoa lựu phải chăng là thức đỏ của tấm lòng sắt son với dân với nước?! Mùi hương thơm ngát của sen có phải là lí tưởng chẳng bao giờ phai nhạt của Nguyễn Trãi suốt đời phấn đấu vì đất nước thanh bình, vì nhân dân hạnh phúc?! Rõ ràng ở đây, cảnh và người có những nét tương đồng và đều đẹp đẽ, hài hòa. Ở bốn câu thơ trên, nhà thơ mới nhắc đến màu sắc, hương thơm, cây cỏ; ở hai câu thơ tiếp theo còn có thêm mùi vị, âm thanh, hình ảnh con người và cảnh vật: Lao xao chợ cá làng ngư phủ, Đắng hỏi cầm ve lầu tịch dương. Từ tượng thanh Lao xao đặt trước hình ảnh chợ cá làm nổi bật không khí nhộn nhịp của làng ngư phủ. Lao xao tiếng trao qua đổi lại, ồn ã tiếng nói tiếng cười. Tất cả đều là hơi hướng của cuộc sống lao động cần cù, chân chất. Những âm thanh lao xao ấy hòa vào tiếng ve kêu dắng đỏi bất thần nổi lên trong chiều tà, báo hiệu chấm dứt một ngày hè nơi thôn dã. Tiếng ve lúc chiều tà thường gợi buồn, nhưng với nhà thợ lúc này, nó trở thành tiếng đàn rộn rã khiến tâm trạng nhà thơ cũng náo nức hẳn lên. Cỏ cậy, hoa lá, con người đẩy sức sống khơi dậy trong lòng nhà thơ cảm xúc nhẹ nhàng, sâu lắng và những suy nghĩ chân thành, tâm huyết nhất. Đó là tình yêu cuộc sống, yêu con người và trách nhiệm đối với dân với nước. Nguyễn Trãi luôn tâm niệm lấy dân làm gốc (dân vi bản, dân vi quý) cho nên trước thiên nhiên tươi xanh, trước những con người cần cù, lam lũ, lòng ông lại dấy lên khát vọng mãnh liệt: Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng, Dân giàu đủ khắp đòi phương. Ông ước gì lúc này có được trong tay cây đàn của vua Thuấn, đàn một tiếng để nổi lên niềm mong mỏi lớn nhất của mình là dân chúng khắp nơi đều được giàu có, no đủ. Ẩn giấu đằng sau lời ước mong ấy là sự trách móc nhẹ nhàng mà nghiêm khắc bọn quyền thần tham bạo ở triều đình đương thời không còn nghĩ đến dân, đến nước. Theo ông, với cảnh nước non tươi đẹp cùng nhân dân chất phác, siêng năng, cuộc sống lẽ ra phải được trở lại ấm no, hạnh phúc từ lâu.
Assignment: Nguyen Trai is a famous hero in our nation's history of fighting foreign invaders. His outstanding talent is not only affirmed in the fields of politics, military, and diplomacy but also through his massive literary career with great contributions to the country's literature. The ideal that Nguyen Trai embraced was to help the king make the country peaceful and the people prosperous. That noble ideal was a strong source of encouragement that helped him overcome all challenges and hardships on his life's path. When he was trusted by the king as well as when he fell out of favor, worries about the country and love for the people were always close to his heart. The storms of life could not extinguish the fire of enthusiasm in the soul of that talented and virtuous scholar. The poem Summer Day Scene was composed during the time Nguyen Trai was on vacation in Con Son. He temporarily stayed away from the bustling capital with horses and carriages and dangerous gates to return to the clear, peaceful nature of the countryside, the company of plowing people, clouds, water, birds, and charming flowers. . During those long, leisurely, "reluctant" days, the poet sometimes felt happy at the vibrant summer scene and secretly sent into his poems describing the scene a hint of desire for the people to be rich and the country strong. The poem reflects Nguyen Trai's soul filled with love for nature, love for life, love for the people and country. The poem opens with a six-line sentence clearly stating the poet's situation at that time: Free time / cool air / school days. The poem should have seven words to match the familiar seven-word, eight-phrase form, but Nguyen Trai omitted one word. This is also a bold and new innovation in Nom poetry in our country at that time. The slow rhythm of the poem is 1/2/3, reflecting the author's inherently leisurely and free-spirited posture. The word Roi separates into a beat to express the author's feelings about his situation. Loi is an ancient word, ancient meaning leisurely, not entangled with anything. Nguyen Trai's life is often not relaxing. This is the time for him to live leisurely, to fulfill his wish of being in harmony with the nature he always loves. There is nothing important or urgent to do, the only "work" is to enjoy the cool air. School days are long days. This is the psychological feeling about time of people living in leisure, seeing that the days seem to be longer. For a person who likes to think and act like Nguyen Trai, that feeling is clearer than ever. In the midst of construction and wading through the mountains and rivers after the war, with the country's busy work schedule, he was forced to cool off day after day. It was ironic. Therefore, he fell into a situation where his body was idle but his mind was not idle. . Behind the above verse, there seems to be a bitter smile of Nguyen Trai in front of that ironic situation. Only the innocent, carefree beauty of the scenery can temporarily dispel the sad clouds entangled in his soul. He opened his heart to accept nature and felt happy at the scene: Green flowers spread out and spread out. Pomegranate jelly still sprays red, Red lotus has sent away the scent. With just a few sketching strokes, the picture of the countryside appears fresh and harmonious. The trees in the front yard and the trees in the pond are all in a state of full vitality, racing to show off their beauty and fragrance. The eucalyptus tree has wide spreading green leaves, while the pomegranate tree is filled with crimson flowers and pink lotuses are fragrant. The life force in the tree is extruding up to the branches, leaves, and flowers. The tree casts a shadow over the yard, giving shade to the poet's soul. Three verses mention three types of plants: rose, pomegranate, lotus, but is the author only talking about plants? It seems like there's even a human being nested in there, very discreetly. The words extrude, (rush out), stretch out (spread out), spray, send out (soak, sob) describe the full vitality contained inside things, creating new and impressive images. The second verse has a rhythm of 4/3. The next two verses change the rhythm to 3/4, giving the scene a lively, bustling look. Are there any similarities between the scene and the person? The hero's life has come to an end, but like a row of conifers seasoned with snow and frost, vitality still flows strongly through his veins. Is the red consciousness (red color) of pomegranate flowers the red consciousness of a strong heart towards people and country?! Is the fragrant scent of lotus the never-fading ideal of Nguyen Trai who strived all his life for a peaceful country and for the people's happiness?! Clearly here, the scene and the people have similarities and are both beautiful and harmonious. In the four verses above, the poet mentions colors, scents, and plants; In the next two verses, there are also flavors, sounds, images of people and landscapes: The bustling fish market in the fishermen's village, Bitter asked, holding the cicadas and saying goodbye to the ocean. The onomatopoeia Lao stir placed in front of the image of the fish market highlights the bustling atmosphere of the fishermen's village. There was a lot of back and forth, noisy laughter and talking. All of them are a hint of a life of hard work and honesty. Those rushing sounds mixed with the loud chirping of cicadas that suddenly emerged in the late afternoon, signaling the end of a summer day in the countryside. The sound of cicadas at dusk often evokes sadness, but with the craftsman at this time, it becomes a bustling sound of music, making the poet's mood even more excited. Grass, flowers, and people push the vitality of the poet, arousing in the poet's heart gentle, deep emotions and the most sincere and dedicated thoughts. It is love of life, love of people and responsibility to the people and the country. Nguyen Trai always thought of taking the people as the foundation (the people are important, the people are valuable), so in front of green nature, in front of hard-working and hard-working people, his heart aroused a strong desire: There will be Ngu playing the guitar for a while, Rich people everywhere demand direction. He wished that at this moment, he could have King Thuan's instrument in his hand and play it for one hour to express his greatest wish that people everywhere would be rich and well-off. Hidden behind that wish is a gentle yet stern reproach to the greedy and violent authorities at the royal court at that time who no longer think about the people and the country. According to him, with the beautiful scenery of the country and the simple, diligent people, life should have returned to prosperity and happiness a long time ago.
Bài làm Phạm Ngũ Lão (1255 – 1320), người làng Phù ủng, huyện Đường Hào, nay thuộc huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên, là một danh tướng đời Trần. Tuy xuất thân từ tầng lớp bình dân song chí lớn tài cao nên ông nhanh chóng trở thành tùy tướng số một bên cạnh Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn. Phạm Ngũ Lão từng tham gia hai cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên – Mông, ông cùng những tên tuổi lớn khác của triều đình đã lập nên nhiều chiến công hiển hách, góp phần quan trọng tạo nên hào khí Đông Á của thời đại đó. Phạm Ngũ Lão làm bài Thuật hoài vào cuối nằm 1284, khi cuộc kháng chiến lần thứ hai đã đến rất gần. Bài thơ này là một tác phẩm nổi tiếng, được lưu truyển rộng rãi vì nó bày tỏ khát vọng mãnh liệt của tuổi trẻ trong xã hội phong kiến đương thời: làm trai phải trả cho xong món nợ công danh, có nghĩa là phải thực hiện đến cùng lí tưởng trung quân, ái quốc. Nội dung bài thơ khắc họa nổi bật vẻ đẹp của một con người có sức mạnh, có lí tưởng, nhân cách cao cả cùng khí thế hào hùng của thời đại. Phiên âm chữ Hán: Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu, Tam quân tì hổ khí thôn ngưu. Nam nhi vị liễu công danh trải, Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu. Dịch thơ tiếng Việt: Múa giáo non sông trải mấy thu, Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu. Công danh nam tử còn vương nợ, Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ hầu. (Bùi Văn Nguyên dịch) Bài thơ được Phạm Ngũ Lão sáng tác trong bối cảnh đặc biệt có một không hai của lịch sử nước nhà. Triều đại nhà Trần (1226 – 1400) là một triều đại lẫy lừng với bao chiến công vinh quang, mấy lần quét sạch quân xâm lược Nguyên – Mông hung tàn ra khỏi bờ cõi, giữ vững sơn hà xã tắc, nêu cao truyền thống bất khuất của dân tộc Đại Việt. Phạm Ngũ Lão sinh ra và lớn lên trong thời đại ấy nên ông sớm thấm nhuần tinh thần yêu nước, tự hào, tự tôn dân tộc và nhất là lí tưởng trung quân, ái quốc của đạo Nho. ông nhận thức rất rõ ràng về trách nhiệm công dân trước vận mệnh của đất nước: Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách. Bài thơ có nhan đề chữ Hán là Thuật hoài: Thuật là kể lại, là bày tỏ; hoài là nỗi lòng. Dịch thành Tỏ lòng, nghĩa là bày tỏ khát vọng, hoài bão trong lòng. Chủ thể trữ tình ở đây là vị danh tướng trẻ tuổi đang chỉ huy quân đội làm nhiệm vụ gìn giữ non sông. Nguyên tác Thuật hoài bằng chữ Hán, theo thể thất ngôn tứ tuyệt luật Đường, niêm luật chặt chệ, ý tứ hàm súc, hình tượng kì vĩ, âm điệu hào hùng, ở hai câu thơ đầu, tác giả bày tộ niềm tự hào to lớn về quân đội của triều đình; trong đó có mình – một vị tướng. Nhà thơ đã khắc họa vẻ đẹp gân guốc, lẫm liệt, tràn đầy sức sống của những chiến binh quả cảm. Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thụ. Dịch nghĩa: Cầm ngang ngọn giáo bảo vệ giang sơn đã mấy mùa thu. Dịch thơ: Múa giáo non sông trải mấy thu. So với nguyên văn chữ Hán thì câu thơ dịch chưa lột tả được hết chất oai phong, kiêu hùng trong tư thế của người lính đang chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Hoành sóc là cầm ngang ngọn giáo. Luôn ở tư thế tấn công dũng mãnh, áp đảo quân thù. Tư thế của những con người chính nghĩa lồng lộng trong không gian rộng lớn là giang sơn đất nước suốt một thời gian dài. Có thể nói đây là hình tượng chủ đạo, tượng trưng cho dân tộc Đại Việt quật cường, không một kẻ thù nào khuất phục được. Từ hình tượng ấy, ánh hào quang của chủ nghĩa yêu nước ngời ngời tỏa sáng. Câu thơ thứ hai: Tam quân tì hổ khí thôn ngưu. Dịch nghĩa: Ba quân như hổ báo, khí thế hùng dũng nuốt trôi trâu. Dịch thơ: Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu đặc tả khí thế chiến đấu và chiến thắng không gì ngăn cản nổi của quân dân ta. Hai câu tứ tuyệt chi mười bốn chữ ngắn gọn, cô đúc nhưng đã tạc vào thời gian một bức tượng đài tuyệt đẹp về người lính quả cảm với khí thế dũng mãnh, sẵn sàng xả thân giết giặc cứu nước của đạo quân Sát Thát nổi tiếng đời Trần. Là một thành viên trong đạo quân anh hùng ấy, Phạm Ngũ Lão từ một chiến binh dày dạn đã trở thành một danh tướng khi tuổi còn rất trẻ. Trong con người ông luôn sôi sục khát vọng công danh của đấng nam nhi thời loạn. Mặt tích cực của khát vọng công danh ấy chính là ý muốn được chiến đấu, cống hiến đời mình cho vua, cho nước. Như bao kẻ sĩ cùng thời, Phạm Ngũ Lão tôn thờ lí tưởng trung quân, ái quốc và quan niệm: Làm trai đứng ở trong trời đất, Phải có danh gì với núi sông (Chí làm trai – Nguyễn Công Trứ). Bởi thế cho nên khi chưa trả hết nợ công danh thì bản thân tự lấy làm hổ thẹn: Nam nhi vị liễu công danh trái, Tu thính nhân gian thuyết Vũ hẩu. (Công danh nam tử còn vương nợ, Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ hầu.) Câu thứ ba, thứ tư nói lên khát vọng của Phạm Ngũ Lão là tận tâm phụng sự triều đại nhà Trần cho đến hết đời, lập được công danh sánh ngang với Gia Cát Lượng. Gia Cát Lượng (Khổng Minh) là quân sư số một của LƯU Bị, có mưu trí tuyệt vời. Song điểm làm cho Gia Cát Lượng nổi tiếng lại là lòng tuyệt đối trung thành với chủ. Ông đã từng phát biểu quan điểm của mình là: Cúi mình tận tụy, đến chết mới thôi. Trở lại câu thơ thứ nhất, ta thấy Phạm Ngũ Lão mới phụng sự được có mấy thu (tức là mấy năm), muốn được như Gia Cát Lượng thì ông còn phải phụng sự nhiều lắm, lâu lắm! Câu thơ thứ tư: Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ hầu thực chất là một lời thề suốt đời trung thành với chủ tướng Trần Hưng Đạo của Phạm Ngũ Lão. Hai câu thơ sau âm hưởng khác hẳn hai câu thơ trước. Cảm xúc hào sảng ban đầu dần chuyển sang trữ tình, sâu lắng, như lời mình nói với mình. Như thế ta có thể hiểu vì sao mà Phạm Ngũ Lão lại dùng từ thẹn. Cũng có thể đây là cách nói thể hiện khát vọng, hoài bão của ông là muốn noi gương thần tượng của mình, muốn sánh VỚI Vũ hầu.
Assignment Pham Ngu Lao (1255 - 1320), from Phu Can village, Duong Hao district, now An Thi district, Hung Yen province, was a famous general of the Tran dynasty. Although he came from a commoner background, he was highly motivated and talented, so he quickly became the number one lieutenant next to Hung Dao King Tran Quoc Tuan. Pham Ngu Lao participated in two resistance wars against the Yuan-Mongol invaders. He and other great names of the court achieved many glorious victories, making an important contribution to creating the East Asian spirit of the era. there. Pham Ngu Lao wrote Thuat Hoai at the end of 1284, when the second resistance war was very close. This poem is a famous work, widely circulated because it expresses the strong desire of youth in contemporary feudal society: to be a man, one must pay off one's debt to fame, which means one must fulfill one's duties. present the ideal of loyalty and patriotism. The content of the poem highlights the beauty of a person with strength, ideals, noble personality and the heroic spirit of the era. Transliteration of Chinese characters: Hoanh Soc Giang Son celebrates autumn, Tam Quan, Pi Tiger, Village Niuu Qi. The son of willow is famous and famous, Cultivation of the listener lies in the theory of Marquis Vu. Vietnamese poetry translation: Dancing across the mountains and rivers for several autumns, Three strong military weapons devoured buffaloes. A man's reputation is still in debt, Embarrassed to listen to Marquis Vu's story. (Translated by Bui Van Nguyen) The poem was composed by Pham Ngu Lao in a unique and special context of the country's history. The Tran Dynasty (1226 - 1400) was an illustrious dynasty with many glorious victories, several times wiping out the cruel Yuan-Mongol invaders from the land, maintaining the mountains and rivers, upholding traditions. indomitable of the Dai Viet people. Pham Ngu Lao was born and raised in that era, so he was soon imbued with the spirit of patriotism, pride, national self-respect and especially the Confucian ideal of loyalty and patriotism. He was very clearly aware of civic responsibility before the fate of the country: The nation rises and falls, the husband and wife are responsible. The poem's title in Chinese is Thuat Hoai: Thuat is to tell, to express; Forever is the heart. Translated into Expressing one's heart, it means expressing the desires and ambitions in one's heart. The lyrical subject here is a young famous general who is commanding the army on the mission of preserving the mountains and rivers. The original work Thuat Hoai is written in Chinese characters, in the form of seven words and four absolute rules of the Tang, the rules are tight, the meaning is concise, the images are majestic, the melody is heroic. In the first two verses, the author expresses his pride. greatness in the imperial army; including me - a general. The poet portrayed the sinewy, fierce, and full of vitality beauty of brave warriors. Hoanh Soc Giang Son is quite impressive. Translation: Holding a spear to protect the country for several autumns. Poetry translation: Dancing across the mountains and rivers for several autumns. Compared to the original Chinese text, the translated verse does not fully portray the majesty and heroism in the posture of a soldier fighting to protect the Fatherland. Hoang Soc means holding a spear horizontally. Always be in a fierce attack position, overwhelming the enemy. The posture of righteous people has been standing tall in the vast space of the country for a long time. It can be said that this is the main image, symbolizing the resilient Dai Viet people, which no enemy can conquer. From that image, the halo of patriotism shines brightly. Second verse: Tam Quan, Li, Tiger, Than Nguuu. Translation: The three armies are like tigers and leopards, their mighty spirit swallows buffaloes. Poetry translation: Three strong military weapons that can swallow buffaloes describe the unstoppable fighting spirit and victory of our people. The two quatrains, fourteen words, are concise and concise, but have carved in time a beautiful monument of a brave soldier with a mighty spirit, ready to sacrifice his life to kill the enemy to save the country of the Sat That army. Tran Dynasty language. As a member of that heroic army, Pham Ngu Lao from a seasoned warrior became a famous general at a very young age. In him there was always a seething desire for fame and fortune as a man in a time of chaos. The positive side of that desire for fame is the desire to fight and devote one's life to the king and the country. Like many scholars of his time, Pham Ngu Lao worshiped the ideal of loyalty to the military and patriotism and the concept: Being a man stands in heaven and earth, What name must one have with the mountains and rivers (Chi to be a man - Nguyen Cong Tru). That's why when you haven't paid off all your debts, you feel ashamed of yourself: A man's willow merit and reputation are left, Cultivators listen to the theory of Vu Hau. (A man's reputation still has debts, Embarrassed to listen to Marquis Vu's story.) The third and fourth sentences express Pham Ngu Lao's desire to wholeheartedly serve the Tran dynasty for the rest of his life, establishing a reputation comparable to Zhuge Liang. Zhuge Liang (Khong Ming) was Liu Bei's number one strategist, with great ingenuity. But the thing that made Zhuge Liang famous was his absolute loyalty to his master. He once expressed his opinion: "Bend yourself wholeheartedly until you die." Going back to the first verse, we see that Pham Ngu Lao has only served for a few years (i.e. a few years). If he wants to be like Zhuge Liang, he still has to serve a lot, for a long time! Fourth verse: Pham Ngu Lao's shameful hearing of Marquis Vu's story is actually a lifelong oath of loyalty to his master Tran Hung Dao. The next two verses have a completely different sound than the previous two verses. The initial cheerful feeling gradually turned to lyrical and profound, just like what I said to myself. So we can understand why Pham Ngu Lao used the word shy. It is also possible that this is a way of expressing his desire and ambition to follow the example of his idol, to compare with Marquis Vu.
Bài làm: Kho tàng truyện cười Việt Nam cực kì phong phú về đề tài, được chia làm hai loại là truyện khôi hài và truyện trào phúng. Truyện khôi hài chủ yếu nhằm mục đích giải trí là chính, tuy vậy nó vẫn có ý nghĩa giáo dục nhẹ nhàng. Truyện trào phúng có mục đích đả kích, phê phán, đối tượng phần lớn là các nhân vật thuộc tầng lớp trên trong xã hội phong kiến xưa kia. Cũng có khá nhiều truyện cười phê phán thói hư tật xấu thường thấy trong cuộc sống. Nhưng nó phải bằng hai mày và Tam đại con gà là truyện cười thuộc loại trào phúng, phê phán đám quan lại tham nhũng và những thầy đồ dốt nát. Cốt truyện đơn giản: Hai người hàng xóm đánh nhau rồi mang nhau đi kiện. Tuy vậy, truyện được xây dựng thành một màn hài kịch hoàn hảo với hai yếu tố then chốt dẫn tới sự hình thành và phát triển mâu thuẫn. Đó là lí trưởng nổi tiếng xử kiện giỏi và hai đương sự Ngô, Cải, ai cũng muốn giành phần thắng nên đều đút lót cho lí trưởng. Mâu thuẫn bắt đẩu phát sinh khi lí trưởng đột ngột tuyên bố đánh phạt Cải mười roi. Buồn cười ở chỗ là hai nhân vật một bên thì chủ động, còn bên kia hoàn toàn bị động. Một bên cứ kết án, một bên xin xét lại. Động tác và lời nói của hai người hoàn toàn trái ngược nhau. Màn kịch khép lại bằng câu kết luận chắc nịch của lí trưởng: Tao biết mày phải… nhưng nó lại phải… bằng hai mày. Lời nói ấy đã vạch trần thủ đoạn của viên lí trưởng mà dân gian đã chỉ ra bằng câu thành ngữ: đòn xóc hai đầu. Lí trưởng là người đứng đầu trông coi việc hành chính trong làng. Viên lí trưởng trong truyện nổi tiếng xử kiện giỏi. Song cái tiếng tăm ấy lại hoàn toàn đối lập với thực chất bên trong. Ngô và Cải đều phải lo đút lót trước cho lí trưởng. Sự công bằng, lẽ phải – trái, không có ý nghĩa gì ở chốn công đường Khi lí trưởng xử kiện..Lẽ phải ở đây thuộc về kẻ nhiều tiền, nhiều lễ vật lo lót. Đồng tiền đã ngự trị chốn công đường, bất chấp công lí. Đúng là: Nén bạc đâm toạc tờ giấy và Cải, Ngô là các nhân vật bi hài, vừa đáng trách, đáng cười, vừa đáng thương. Thủ pháp trào lộng của truyện được thể hiện bằng những cử chỉ, hành động, lời nói gây cười của các nhân vật. Cử chỉ, hành động của các nhân vật trong truyện này giống như cử chỉ và hành động của các nhân vật trong kịch câm, chứa đựng nhiều ý nghĩa. Khi bị lí trưởng ra lệnh đánh đòn, Cải vội xòe năm ngón tay, ngẩng mặt nhìn thầy lí, khẽ bẩm. Cử chỉ ấy như muốn nhắc khéo lí trưởng về số tiền mà cải đã lo lót trước và anh ta trông đợi sự “nhớ ra” của lí trưởng về lời cam kết rằng lẽ phải sẽ thuộc về mình. Thầy lí cũng xòe nầm ngón tay trái úp lên trên năm ngón tay mặt, cử chỉ ấy ngầm thông báo với Cải rằng “lẽ phải” của thằng Ngô nhiều gấp đôi, nên đương nhiên phần thắng sẽ thuộc về hắn. Lẽ phải (trừu tượng) được tính bằng năm ngón tay (cụ thể), hai lần lẽ phải được tính bằng mười ngón tay. Điều thú vị mà tác giả dân gian dành cho người đọc là: ngón tay của Cải trở thành ‘‘kí hiệu” của tiền tệ và hai bàn tay úp vào nhau của quân cũng là “kí hiệu” biểu thị cho lượng tiền đút lót của Ngô. Truyện còn dùng hình thức chơi chữ để gây cười. Từ phải trong truyện này đa nghĩa. Nghĩa thứ nhất chỉ lẽ phải, chỉ cái đúng, người đúng, đối lập với cái sai, người sai. Nghĩa thứ hai chỉ điều bắt buộc, nhất thiết phải có, tức là mức tiền lo lót. Lời lí trưởng: Tao biết mày phải… nhưng nó lại phải… bằng hai mày lập lờ cả hai nghĩa ấy. Không phải ngẫu nhiên, vế thứ hai trong lời thầy lí lại được dùng để đặt tên cho truyện này.
Assignment: The treasure trove of Vietnamese jokes is extremely rich in topic, divided into two categories: humorous stories and satirical stories. Humorous stories are mainly intended for entertainment purposes, but they still have a gentle educational meaning. Satire stories have the purpose of attacking and criticizing, and the target audience is mostly upper-class characters in ancient feudal society. There are also quite a few jokes that criticize bad habits commonly found in life. But it must be equal to the two of you and Three Great Chickens is a satirical joke, criticizing corrupt mandarins and ignorant teachers. The plot is simple: Two neighbors fight and then sue each other. However, the story is built into a perfect comedy with two key elements leading to the formation and development of conflict. The chief was famous for being good at handling cases and the two litigants, Ngo and Cai, each wanted to win, so they bribed the chief. Conflicts began to arise when the chief suddenly announced that Cai would be punished ten times. The funny thing is that one side of the two characters is active, while the other side is completely passive. One side keeps condemning, the other side asks for a review. The two people's actions and words were completely opposite to each other. The play ends with the leader's firm conclusion: I know you have to... but it has to be... equal to the two of you. Those words exposed the chief's tricks, which the people pointed out with the idiom: double-headed shock. The chief is the head of the village's administrative affairs. The chief officer in the story is famous for being good at handling cases. But that reputation is completely opposite to the reality inside. Ngo and Cai both had to pay bribes to the chief in advance. Fairness, right and wrong, have no meaning in public places. When the chief judges a case... Right here belongs to those with a lot of money and offerings to pay for bribes. Money has ruled the public square, regardless of justice. It is true: The silver bar punctures the paper and Cai and Ngo are tragic and comedic characters, both blameworthy, laughable, and pitiful. The story's satirical tactics are expressed through the characters' amusing gestures, actions, and words. The gestures and actions of the characters in this story are like the gestures and actions of the characters in a pantomime, containing many meanings. When the leader ordered a spanking, Cai quickly spread his five fingers, looked up at the teacher, and whispered softly. That gesture seemed to remind the leader of the money that he had provided in advance and he looked forward to the leader's "remembering" of his commitment that the right thing would belong to him. The teacher also spread his left finger over the five fingers of his right hand. This gesture implicitly informed Cai that Ngo's "right sense" was twice as great, so of course the victory would belong to him. Reason (abstract) is counted with five fingers (concrete), twice common sense is counted with ten fingers. The interesting thing that the folk author has for the reader is: Cai's finger becomes the "symbol" of currency and Quan's two hands facing each other are also the "symbol" representing the amount of bribe money. by Ngo. The story also uses wordplay to amuse. The word right in this story has multiple meanings. The first meaning refers to reason, the right thing, the right person, as opposed to the wrong thing, the wrong person. The second meaning refers to something that is mandatory, must have, that is, the amount of money to pay for it. The leader's words: I know you have to... but it has to be... by you two confusing both meanings. It is no coincidence that the second part of the teacher's words is used to name this story.
Bài làm: Điều làm nên sức cuốn hút kì diệu của cổ tích chính là yếu tố hoang đường, kì ảo. Trong truyện Tấm Cám, các chi tiết thần kì xuất hiện liên tục trong những tình huống liên quan đến số phận người con gái mồ côi nết na, xinh đẹp. Bắt đầu là chi tiết con cá bống nhỏ còn sót lại trong giỏ của Tấm sau khi cả giỏ tép đã bị đứa em điêu ngoa, xảo trá là Cám trút hết sang giỏ của nó, cốt để giành cho được cái yếm đào – phần thưởng mà mẹ nó (tức dì ghẻ của Tấm) hứa sẽ cho. Bao công lao, cố gắng của Tấm bị cướp sạch trong phút chốc, hỏi làm sao Tấm không hờn, không tủi?! Tìm thấy bống, Tấm mừng rỡ đem thả vào giếng, ngày ngày lén giấu ít cơm trong thùng gánh nước đem ra nuôi Bống. Từ đó, bống trở thành người bạn duy nhất chia sẻ vui buồn vớ cô gái bất hạnh. Bống lớn lên không phải chỉ nhờ mấy hạt Cơm mà là nhờ những câu hát đầy tình nghía yêu thương của Tấm: Bống bống bang bang, lên ăn cơm vàng cơm bạc nhà ta. Chớ ăn cơm hẩm cháo hoa nhà người. Những phút giây ngắn ngủi bên bống khiến Tấm cảm thấy vơi bớt cô đơn. Tấm đâu ngờ con cá bống bé xíu kia lại tạo ra những bước ngoặt lạ lùng trong cuộc đời của mình. Nghi ngờ và rình dập, mẹ con Cám đã phát hiện ra việc làm của Tấm, học thuộc cả câu hát của Tấm. Mụ dì ghẻ ngọt nhạt bảo Tấm: Con ơi, chăn trâu nhớ chân đồng xa, chớ chăn đồng nhà làng bắt mất trâu. vốn thật thà, cả tin, Tấm ngoan ngoãn làm theo. Tức thì, hai mẹ con kẻ ác thực hiện âm mưu tàn độc; giết bống ăn thịt. Chiều tối Tấm về, mang Cơm ra giếng gọi mãi chẳng thấy bống ngoi tên như thường lệ, chỉ có cục máu đỏ tươi nổi trên mặt nước như một lời nguyền. Mất người bạn nhỏ thân yêu, Tấm ôm mặt khóc rưng rức. Nàng lại rơi vào tâm trạng cô đơn, tuyệt vọng. Chính lúc đó, Bụt xuất hiện giữa vầng hào quang, ôn tồn hỏi: “Vì sao cháu khóc? Cháu hãy nói cho ta nghe. Tấm nức nỏ kể lại đầu đuôi câu chuyện. Nghe xong, Bụt bảo nàng hãy tìm xương Bống, bỏ vào bốn chiếc lọ, chôn dưới bốn chân giường. Trong cổ tích, các nhân vật thần kì như Tiên, Bụt là ước mơ công lí, ước mơ chính nghĩa được hình tượng hóa bằng trí tưởng tượng phong phú của người xưa. Tiên, Bụt thường xuất hiện vào hoàn cảnh ngặt nghèo, những kẻ thân cô thế cô bị dồn vào bước đường cùng. Phép màu kì diệu của Tiên, Bụt sẽ hóa giải tất cả. Kẻ xấu, kẻ ác bị trừng phạt; người tốt, người hiền sẽ được hưởng sung sướng, hạnh phúc. Cô Tấm siêng năng, chất phác được Bụt thương, sai gà bới đống tro, tìm giùm xương Bống. Con gà biết kêu thành tiếng người là chi tiết thần kì: Cục ta cục tác, cho ta nắm thóc, ta bới xương cho. Bụt sai đàn chim sẻ giúp Tấm nhặt thóc ra khỏi gạo, phá vỡ âm mưu độc ác của mụ dì ghẻ không muốn cho Tấm đi dự hội xuân cũng là chi tiết thần kì. Tấm tủi thân vì không có váy áo đẹp đi dự hội, Bụt bảo đào bốn chiếc lọ chôn dưới bốn chân giường lên, sẽ có đủ. Đúng như vậy! Tấm không chỉ có váy áo đẹp mà còn có cả đôi hài thêu xinh xắn, sang trọng. Thoáng chốc, cô gái mồ côi nghèo khổ, rách rưới trở thành một thiếu nữ duyên dáng, xinh tươi, khó ai sánh kịp. Dường như duyên trời sắp đặt, nhờ chiếc hài thêu lúc hoảng hốt bỏ chạy đánh rơi mà Tấm được thử hài, rồi được nhà vua chọn làm hoàng hậu. Ngôi vị hoàng hậu cao sang là phần thưởng xứng đáng cho Tấm và cũng là tột đỉnh mơ ước của người xưa. Nhưng để giữ được hạnh phúc lâu bền, điểu đó quả chẳng dễ dàng chút nào. Cái ác không biết chùn tay, ngừng bước. Hai mẹ con mụ dì ghẻ không buông tha Tấm. Chúng tiếp tục bàn mưu tính kế hại Tấm, hòng giành giật cho được ngôi vị hoàng hậu cao sang. Chúng mời Tấm về nhà dự đám giỗ cha. vốn là đứa con hiếu thảo, Tấm vui vẻ về ngay, dẫu đang là hoàng hậu. Dì ghẻ bảo Tấm leo lên cây hái cau để cúng, Tấm cũng leo. Mụ chặt gốc cho cây đổ xuống ao, hòng dìm chốt Tấm. Tấm hỏi, mụ dối trá đáp rằng dì đuổi kiến cho con, Tấm cũng tin. Cũng bởi quá thật thà, quá tin người nên Tấm đã bị hãm hại. Tuy vậy, oan hồn nàng không tha cho lũ bất nhân. Tấm Hên tục hóa thân thành con chim Vàng Anh, thành hai cây xoan đào để được sống gần bên nhà vua, để tim cách vạch trần bản chất tráo trở, tham lam, tàn nhẫn của mẹ con Cám. Sự hóa thân đẫm màu sắc hoang đường nhưng lại mang một ý nghĩa hiện thực sâu sắc: đó Ịà cuộc đấu tranh không ngừng nghĩ của cái thiện chống lại cái ác, để bảo vệ chân lí chính nghĩa trong xã hội phong kiến xưa kia.
Assignment: What makes the magical attraction of fairy tales is the element of myth and fantasy. In the story Tam Cam, magical details appear continuously in situations related to the fate of a beautiful, innocent girl. It starts with the detail of the small goby left in Tam's basket after the whole basket of shrimps was emptied by his cunning younger brother, Cam, into his basket, in order to win the peach bib - the reward. which his mother (Tam's stepmother) promised to give. All of Tam's hard work and efforts were robbed in an instant. How could Tam not be angry or sad?! Finding the goby, Tam happily dropped it into the well. Every day, he secretly hid some rice in the water bucket to feed the Bong. From then on, Bong became the only friend to share the joys and sorrows with the unfortunate girl. Bong grew up not just thanks to a few grains of rice but thanks to Tam's loving songs: Bong bang bang bang, come and eat our golden rice and silver rice. Don't eat rice and flower porridge at other people's houses. These short moments with her parents made Tam feel less lonely. Tam did not expect that tiny goby would create strange turning points in his life. Suspicious and stalking, Cam and her mother discovered Tam's work and memorized all of Tam's songs. The stepmother sweetly told Tam: My child, tending the buffalo, remember the far away fields. Don't take the buffalo away from the village while tending the fields. Since he was honest and gullible, Tam obediently followed. Immediately, the evil mother and son carried out a cruel plot; kill and eat meat. In the evening, when Tam returned, he brought Com to the well and called out over and over again, but no one appeared as usual, only bright red blood floating on the water surface like a curse. Having lost his dear little friend, Tam hugged his face and cried. She fell into a state of loneliness and despair. At that moment, the Buddha appeared in the halo and gently asked: "Why are you crying?" Please tell me. The sheet tells the beginning and end of the story. After listening, the Buddha told her to find Bong bones, put them in four jars, and bury them under the four legs of the bed. In fairy tales, magical characters such as Tien and Buddha are dreams of justice, dreams of righteousness visualized by the rich imagination of the ancients. Fairies and Buddhas often appear in difficult situations, lonely people are forced into a dead end. The miracles of Fairy and Buddha will resolve everything. Bad and evil people are punished; Good people and gentle people will enjoy happiness and joy. The Buddha took pity on Ms. Tam, who was diligent and simple. He sent chickens to dig through the ashes to find Bong's bones. The chicken that can make human noises is a magical detail: I cluck, give me a handful of rice, I'll dig up bones for you. Buddha sent a flock of sparrows to help Tam pick rice out of rice, breaking the evil plot of his stepmother who did not want Tam to go to the spring festival, which is also a magical detail. Feeling sorry for himself because he didn't have a nice dress to attend the festival, the Buddha told him to dig up four jars buried under the four legs of the bed, and he would have enough. Exactly! Tam not only has beautiful dresses but also lovely, luxurious embroidered shoes. In an instant, the poor, ragged orphan girl became a charming, beautiful young woman, hard for anyone to match. It seemed like fate had arranged for her, thanks to the embroidered slipper she dropped when she ran away in panic, Tam was able to try on the slipper, and was then chosen by the king to be his queen. The noble position of queen is a worthy reward for Tam and is also the ultimate dream of the ancients. But to maintain lasting happiness, that is not easy at all. Evil does not know how to falter or stop. The stepmother and mother did not let Tam go. They continued to plot plans to harm Tam, hoping to win the prestigious position of queen. They invited Tam home to attend his father's death anniversary. Being a filial child, Tam happily returned immediately, even though she was a queen. Stepmother told Tam to climb the tree to pick areca nuts to make offerings, and Tam also climbed. She cut down the tree's roots and let them fall into the pond, trying to drown Tam. Tam asked, the woman lied and replied that she chased ants for me, Tam also believed. Because he was too honest and too trusting, Tam was framed. However, her unjust soul did not forgive the inhumane people. Tam Hen continuously transformed into an English bird and two peach trees to live close to the king, to find a way to expose the deceitful, greedy, and cruel nature of Cam and her mother. The incarnation is full of mythical colors but carries a deeply realistic meaning: it is the constant struggle of good against evil, to protect truth and righteousness in ancient feudal society.
Bài làm: Độc Tiểu Thanh kí là một trong những bài thơ chữ Hán hay nhất của Nguyễn Du in trong Thanh Hiên thi tập. Có thể Nguyễn Du sáng tác bài này trước hoặc sau khi được triều đình cử đi sứ sang Trung Quốc. Thắng cảnh Tây Hồ gắn liền với giai thoại về nàng Tiểu Thanh tài sắc vẹn toàn, sống vào đầu đời nhà Minh. Vì hoàn cảnh éo le, nàng phải làm vợ lẽ một thương gia giàu có ở Hàng Châu, tỉnh Chiết Giang. Vợ cả ghen, bắt nàng ở trong ngôi nhà xây biệt lập trên núi Cô Sơn. Nàng có làm một tập thơ ghi lại tâm trạng đau khổ của mình. ít lâu sau, Tiểu Thanh buồn mà chết, giữa lúc tuổi vừa mười tám. Nàng chết rồi, vợ cả vẫn ghen, đem đốt tập thơ của nàng, may còn sót một số bài được người đời chép lại đặt tên là Phần dư (đốt còn sót lại) và thuật luôn câu chuyện bạc phận của nàng. Nguyễn Du đọc những bài thơ ấy, lòng dạt dào thương cảm cô gái tài hoa bạc mệnh, đồng thời ông cũng bày tỏ nỗi băn khoăn, day dứt trước số phận bất hạnh của bao con người tài hoa khác trong xã hội cũ, trong đó có cả bản thân ông. Phiên âm chữ Hán: Tây Hồ hoa uyển tẫn thành khư Độc điếu song tiền nhất chỉ thư. Chi phấn hữu thần liên tử hậu, Văn chương vô mệnh lụy phần dư. Cổ kim hận sự thiên nan vấn; Phong vận kì oan ngã tự cư. Bất tri tam bách dư niên hậu, Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như? Dịch thơ Tiếng Việt: Tây Hồ cảnh đẹp hóa gò hoang, Thổn thức bên song mảnh giấy tàn. Son phấn có thần chôn vẫn hận, Văn chương không mệnh đốt còn vương. Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi, Cái án phong lưu khách tự mang. Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa, Người đời ai khóc Tố Như chăng? Đến với Tiểu Thanh ba trăm năm sau ngày nàng mất, trong lòng nhà thơ Nguyễn Du dậy lên cảm xúc xót xa trước cảnh đời tang thương dâu bể: Tây Hổ hoa uyển tẫn thành khư, (Tây Hồ cảnh đẹp hóa gò hoang,) Câu thơ có sức gợi liên tưởng rất lớn. Cảnh đẹp năm xưa đã thành phế tích, đã bị hủy hoại chẳng còn lại gì. Trên gò hoang ấy chôn vùi nắm xương tàn của nàng Tiểu Thanh xấu số. Nói đến cảnh đẹp Tây Hồ, chắc hẳn tác giả còn ngụ ý nói về con người đã từng sống ở đây, tức Tiểu Thanh. Cuộc đời của người con gái tài sắc này cũng chẳng còn lại gì ngoài những giai thoại về nàng. Cảnh ấy khiến tình này nhân lên gấp bội. Trái tim của nhà thơ thổn thức trước những gì gợi lại một kiếp người bất hạnh: Độc điếu song tiền nhất chi thư. (Thổn thức bên song mảnh giấy tàn.) Tiểu Thanh đã bày tỏ tâm trạng của mình qua những bài thơ đó như thế nào? Chắc chắn là nỗi buồn tủi cho thân phận, nỗi xót xa cho duyên kiếp dở dang và thống thiết hơn cả là nỗi đau nhân tình không người chia sẻ. Tiếng lòng Tiểu Thanh đồng điệu với tiếng lòng Nguyễn Du nên mới gây được xúc động mãnh liệt đến thế. Nhà thơ khóc thương Tiểu Thanh tài hoa bạc mệnh, đồng thời cũng là khóc thương chính mình – kẻ cùng hội cùng thuyền trong giới phong vận. Nguyễn Du cỏ cảm giác là dường như linh hồn Tiểu Thanh vẫn còn vương vấn đâu đây. Nàng chết lúc mới mười tám tuổi trong cô đơn, héo hắt, đau khổ. Oan hồn của nàng làm sao tiêu tan được? Chi phấn hữu thần liên tử hậu, Văn chương vô mệnh lụy phần dư: (Son phấn có thần chôn vẫn hận, Văn chương không mệnh đốt còn vương.) Ba trăm năm đã qua nhưng tất cả những gì gắn bó với nàng vẫn như còn đó. Chi phấn (son phấn) nghĩa bóng chi phụ nữ; tức Tiểu Thanh. Son phấn là vật để trang điểm, song nó cung tượng trưng cho sắc đẹp phụ nữ. Mà sắc đẹp thì có thần (thần chữ Hán cũng có nghĩa như hồn) nó vẫn sống mãi với thời gian như Tây Thi, Dương Quý Phi tên tuổi đời đời còn lưu lại. Nỗi hận của son phấn Cũng là nỗi hận của Tiểu Thanh, của sắc đẹp, của cái Đẹp bị hãm hại, dập vùi. Nó có thể bị đày đọa, bị chôn vùi, nhưng nó vẫn để thương để tiếc cho muôn đời. Văn chương là cái tài của Tiểu Thanh nói riêng và cũng là vẻ đẹp tinh thần của cuộc đời nói chung. Văn chương vô mệnh bởi nó đâu có sống chết như người? Ấy vậy mà ở đây, nó như có linh hồn, cũng biết giận, biết thương, biết cố gắng chống chọi lại bạo lực hủy diệt để tổn tại, để nói với người đời sau những điều tâm huyết. Dụ nó có bị đốt, bị hủy, nhưng những gì còn sót lại vẫn khiến người đời thương cảm, xót xa. Nhà thơ đã thay đổi số phận cho son phấn, văn chương, để chúng được sóng và gắn bó với Tiểu Thanh, thay nàng nói lên nỗi uất hận ngàn đời. Hai câu thơ đầy ý vị ngậm ngùi, cay đắng, như một tiếng khóc thổn thức, nghẹn ngào. Đến hai câu luận: Cổ kim hận sự thiên nan vấn, Phong vận kì oan ngã tự cư. (Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi, Cái án phong lưu khách tự mang.) Phân tích tác phẩm Độc Tiểu Thanh Kí của Nguyễn Du Nhà thơ tiếp tục bày tỏ niềm thương cảm của lòng mình. Câu thơ: cổ kim hận sự thiên nan vấn chứa đựng sự tuyệt vọng. Từ nỗi hận nhỏ là hận riêng cho số phận Tiểu Thanh, Nguyễn Du nâng cao, mở rộng thành nỗi hận truyền kiếp từ xưa tới nay của giới giai nhân tài tử. Tài hoa bạc mệnh, đó có phải là quy luật bất di bất dịch của Tạo hóa? Là định mệnh rõ ràng khắt khe của số phận? Nếu đúng như thế thì nguyên nhân là do đâu? Trải mấy ngàn năm, điều đó đã tích tụ thành nỗi oán hờn to lớn mà không biết hỏi ai. Nỗi oan lạ lùng của những kẻ tài sắc như Tiểu Thanh cũng là nỗi oan của những người tài hoa bạc mệnh rõ ràng là vô lí, bất công, nhưng khó mà hỏi trời vì trời cũng không sao giải thích được (thiên nan vấn). Do đó mà càng thêm hờn, thêm hận. Phong vận ở câu thơ thứ sáu không có nghĩa là sự phong lưu về vật chất mà là sự phong lưu về tinh thần, Nói cách khác là chỉ cái tâm, cái tài của những kẻ tài hoa. Con người tài hoa là tinh túy của trời đất, vậy mà sao số phận họ lại nhiều vất vả, truân chuyên đến vậy? Nguyễn Du đã từng viết: Chữ tài liền với chữ tai một vần. Bởi thế nên phong lưu đã thành cái án chung thân mà khách (kẻ tài hoa) phải mang nặng suốt đời. Oái ăm thay, biết là vậy mà bao thế hệ văn nhân tài tử vẫn tự mang nó vào mình. Nguyễn Du đã nhập thân vào Tiểu Thanh để nói lên những điều bao đời nay vẫn cứ mãi băn khoăn, dằn vặt. Càng ngẫm nghĩ, nhà thơ càng thương tiếc Tiểu Thanh và càng thương thân phận mình. Từ thương người, ông chuyển sang thương thân: Bất tri tam bách dư niên hậu,. Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như? (Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa, Người đời ai khóc Tố Như chăng?) Câu hỏi đậm sắc thái tu từ cho thấy Nguyễn Du vừa băn khoăn vừa mong đợi người đời sau đồng cảm và thương cảm cho số phận của mình. Có thể hiểu ba trăm năm là con số tượng trưng cho một khoảng thời gian rất dài. Ý Nguyễn Du muốn bày tỏ là giờ đây, một mình ta khóc nàng, coi nỗi oan của nàng như của ta. Vậy sau này liệu có còn ai mang nỗi oan như ta nhỏ lệ khóc ta chăng? Câu thơ thể hiện tâm trạng cô đơn của nhà thơ vì chưa tìm thấy người đồng cảm trong hiện tại nên đành gửi hi vọng da diết ấy vào hậu thế. Hậu thế không chi khóc cho riêng Tố Như, mà là khóc cho bao kiếp tài hoa tài tử khác. Nhà thơ thấy giữa mình và Tiểu Thanh có những nét đồng bệnh tương liên. Tiểu Thanh mất đi, ba trăm năm sau có Nguyễn Du thương xót cho số phận nàng. Liệu sau khi Tố Như chết ba trăm năm, có ai nhớ tới ông mà khóc thương chặng?
Bài làm: Độc Tiểu Thanh kí là một trong những bài thơ chữ Hán hay nhất của Nguyễn Du in trong Thanh Hiên thi tập. Có thể Nguyễn Du sáng tác bài này trước hoặc sau khi được triều đình cử đi sứ sang Trung Quốc. Thắng cảnh Tây Hồ gắn liền với giai thoại về nàng Tiểu Thanh tài sắc vẹn toàn, sống vào đầu đời nhà Minh. Vì hoàn cảnh éo le, nàng phải làm vợ lẽ một thương gia giàu có ở Hàng Châu, tỉnh Chiết Giang. Vợ cả ghen, bắt nàng ở trong ngôi nhà xây biệt lập trên núi Cô Sơn. Nàng có làm một tập thơ ghi lại tâm trạng đau khổ của mình. ít lâu sau, Tiểu Thanh buồn mà chết, giữa lúc tuổi vừa mười tám. Nàng chết rồi, vợ cả vẫn ghen, đem đốt tập thơ của nàng, may còn sót một số bài được người đời chép lại đặt tên là Phần dư (đốt còn sót lại) và thuật luôn câu chuyện bạc phận của nàng. Nguyễn Du đọc những bài thơ ấy, lòng dạt dào thương cảm cô gái tài hoa bạc mệnh, đồng thời ông cũng bày tỏ nỗi băn khoăn, day dứt trước số phận bất hạnh của bao con người tài hoa khác trong xã hội cũ, trong đó có cả bản thân ông. Phiên âm chữ Hán: Tây Hồ hoa uyển tẫn thành khư Độc điếu song tiền nhất chỉ thư. Chi phấn hữu thần liên tử hậu, Văn chương vô mệnh lụy phần dư. Cổ kim hận sự thiên nan vấn; Phong vận kì oan ngã tự cư. Bất tri tam bách dư niên hậu, Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như? Dịch thơ Tiếng Việt: Tây Hồ cảnh đẹp hóa gò hoang, Thổn thức bên song mảnh giấy tàn. Son phấn có thần chôn vẫn hận, Văn chương không mệnh đốt còn vương. Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi, Cái án phong lưu khách tự mang. Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa, Người đời ai khóc Tố Như chăng? Đến với Tiểu Thanh ba trăm năm sau ngày nàng mất, trong lòng nhà thơ Nguyễn Du dậy lên cảm xúc xót xa trước cảnh đời tang thương dâu bể: Tây Hổ hoa uyển tẫn thành khư, (Tây Hồ cảnh đẹp hóa gò hoang,) Câu thơ có sức gợi liên tưởng rất lớn. Cảnh đẹp năm xưa đã thành phế tích, đã bị hủy hoại chẳng còn lại gì. Trên gò hoang ấy chôn vùi nắm xương tàn của nàng Tiểu Thanh xấu số. Nói đến cảnh đẹp Tây Hồ, chắc hẳn tác giả còn ngụ ý nói về con người đã từng sống ở đây, tức Tiểu Thanh. Cuộc đời của người con gái tài sắc này cũng chẳng còn lại gì ngoài những giai thoại về nàng. Cảnh ấy khiến tình này nhân lên gấp bội. Trái tim của nhà thơ thổn thức trước những gì gợi lại một kiếp người bất hạnh: Độc điếu song tiền nhất chi thư. (Thổn thức bên song mảnh giấy tàn.) Tiểu Thanh đã bày tỏ tâm trạng của mình qua những bài thơ đó như thế nào? Chắc chắn là nỗi buồn tủi cho thân phận, nỗi xót xa cho duyên kiếp dở dang và thống thiết hơn cả là nỗi đau nhân tình không người chia sẻ. Tiếng lòng Tiểu Thanh đồng điệu với tiếng lòng Nguyễn Du nên mới gây được xúc động mãnh liệt đến thế. Nhà thơ khóc thương Tiểu Thanh tài hoa bạc mệnh, đồng thời cũng là khóc thương chính mình – kẻ cùng hội cùng thuyền trong giới phong vận. Nguyễn Du cỏ cảm giác là dường như linh hồn Tiểu Thanh vẫn còn vương vấn đâu đây. Nàng chết lúc mới mười tám tuổi trong cô đơn, héo hắt, đau khổ. Oan hồn của nàng làm sao tiêu tan được? Chi phấn hữu thần liên tử hậu, Văn chương vô mệnh lụy phần dư: (Son phấn có thần chôn vẫn hận, Văn chương không mệnh đốt còn vương.) Ba trăm năm đã qua nhưng tất cả những gì gắn bó với nàng vẫn như còn đó. Chi phấn (son phấn) nghĩa bóng chi phụ nữ; tức Tiểu Thanh. Son phấn là vật để trang điểm, song nó cung tượng trưng cho sắc đẹp phụ nữ. Mà sắc đẹp thì có thần (thần chữ Hán cũng có nghĩa như hồn) nó vẫn sống mãi với thời gian như Tây Thi, Dương Quý Phi tên tuổi đời đời còn lưu lại. Nỗi hận của son phấn Cũng là nỗi hận của Tiểu Thanh, của sắc đẹp, của cái Đẹp bị hãm hại, dập vùi. Nó có thể bị đày đọa, bị chôn vùi, nhưng nó vẫn để thương để tiếc cho muôn đời. Văn chương là cái tài của Tiểu Thanh nói riêng và cũng là vẻ đẹp tinh thần của cuộc đời nói chung. Văn chương vô mệnh bởi nó đâu có sống chết như người? Ấy vậy mà ở đây, nó như có linh hồn, cũng biết giận, biết thương, biết cố gắng chống chọi lại bạo lực hủy diệt để tổn tại, để nói với người đời sau những điều tâm huyết. Dụ nó có bị đốt, bị hủy, nhưng những gì còn sót lại vẫn khiến người đời thương cảm, xót xa. Nhà thơ đã thay đổi số phận cho son phấn, văn chương, để chúng được sóng và gắn bó với Tiểu Thanh, thay nàng nói lên nỗi uất hận ngàn đời. Hai câu thơ đầy ý vị ngậm ngùi, cay đắng, như một tiếng khóc thổn thức, nghẹn ngào. Đến hai câu luận: Cổ kim hận sự thiên nan vấn, Phong vận kì oan ngã tự cư. (Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi, Cái án phong lưu khách tự mang.) Phân tích tác phẩm Độc Tiểu Thanh Kí của Nguyễn Du Nhà thơ tiếp tục bày tỏ niềm thương cảm của lòng mình. Câu thơ: cổ kim hận sự thiên nan vấn chứa đựng sự tuyệt vọng. Từ nỗi hận nhỏ là hận riêng cho số phận Tiểu Thanh, Nguyễn Du nâng cao, mở rộng thành nỗi hận truyền kiếp từ xưa tới nay của giới giai nhân tài tử. Tài hoa bạc mệnh, đó có phải là quy luật bất di bất dịch của Tạo hóa? Là định mệnh rõ ràng khắt khe của số phận? Nếu đúng như thế thì nguyên nhân là do đâu? Trải mấy ngàn năm, điều đó đã tích tụ thành nỗi oán hờn to lớn mà không biết hỏi ai. Nỗi oan lạ lùng của những kẻ tài sắc như Tiểu Thanh cũng là nỗi oan của những người tài hoa bạc mệnh rõ ràng là vô lí, bất công, nhưng khó mà hỏi trời vì trời cũng không sao giải thích được (thiên nan vấn). Do đó mà càng thêm hờn, thêm hận. Phong vận ở câu thơ thứ sáu không có nghĩa là sự phong lưu về vật chất mà là sự phong lưu về tinh thần, Nói cách khác là chỉ cái tâm, cái tài của những kẻ tài hoa. Con người tài hoa là tinh túy của trời đất, vậy mà sao số phận họ lại nhiều vất vả, truân chuyên đến vậy? Nguyễn Du đã từng viết: Chữ tài liền với chữ tai một vần. Bởi thế nên phong lưu đã thành cái án chung thân mà khách (kẻ tài hoa) phải mang nặng suốt đời. Oái ăm thay, biết là vậy mà bao thế hệ văn nhân tài tử vẫn tự mang nó vào mình. Nguyễn Du đã nhập thân vào Tiểu Thanh để nói lên những điều bao đời nay vẫn cứ mãi băn khoăn, dằn vặt. Càng ngẫm nghĩ, nhà thơ càng thương tiếc Tiểu Thanh và càng thương thân phận mình. Từ thương người, ông chuyển sang thương thân: Bất tri tam bách dư niên hậu,. Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như? (Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa, Người đời ai khóc Tố Như chăng?) Câu hỏi đậm sắc thái tu từ cho thấy Nguyễn Du vừa băn khoăn vừa mong đợi người đời sau đồng cảm và thương cảm cho số phận của mình. Có thể hiểu ba trăm năm là con số tượng trưng cho một khoảng thời gian rất dài. Ý Nguyễn Du muốn bày tỏ là giờ đây, một mình ta khóc nàng, coi nỗi oan của nàng như của ta. Vậy sau này liệu có còn ai mang nỗi oan như ta nhỏ lệ khóc ta chăng? Câu thơ thể hiện tâm trạng cô đơn của nhà thơ vì chưa tìm thấy người đồng cảm trong hiện tại nên đành gửi hi vọng da diết ấy vào hậu thế. Hậu thế không chi khóc cho riêng Tố Như, mà là khóc cho bao kiếp tài hoa tài tử khác. Nhà thơ thấy giữa mình và Tiểu Thanh có những nét đồng bệnh tương liên. Tiểu Thanh mất đi, ba trăm năm sau có Nguyễn Du thương xót cho số phận nàng. Liệu sau khi Tố Như chết ba trăm năm, có ai nhớ tới ông mà khóc thương chặng?
Bài làm: Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 – 1585) quê ở làng Trưng Âm, xã Lí Học, huyện Vĩnh Bảo, ngoại thành Hải Phòng, ông đỗ Trạng nguyên năm 1535 và ra làm quan dưới triều nhà Mạc. Ông đã để lại cho đời tập thơ chữ Hán Bạch Vân am thi tập (khoảng 700 bài) và tập thơ chữ Nôm Bạch Vân quốc ngữ thi (khoảng trên 170 bài). Thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm mang đậm chất triết lí, giáo huấn, ca ngợi ý chí thành cao của kẻ sĩ và biểu dương quan niệm sống nhàn, đồng thời phê phán những điều xấu xa trong xã hội đương thời. Nhàn là bài thơ Nôm nằm trong tập Bạch Vân quốc ngữ thi. Nhan đề bài thơ là do người đời sau đặt. Bài thơ như lời tâm sự thâm trầm, sâu sắc, khẳng định quan niệm sống nhàn là hòa hợp với tự nhiên, giữ được cốt cách thanh cao, khí tiết cương trực, vượt lên trên những danh lợi tầm thường. Hai câu thơ đầu phản ánh cuộc sống nhàn nhã, ung dung của Nguyễn Bỉnh Khiêm: Một mai, một cuốc, một cần câu, Thơ thẩn dầu ai vui thú nào. Quan Trạng về sống giữa chốn thôn quê nay đã giống như một “lão nông tri điền”, hằng ngày làm bạn với những công cụ lao động như mai để đào đất, cuốc để xới đất, cần câu để câu cá,.;., Cách dùng số từ tính đếm rành rọt cho thấy tất cả đã trở nên gần gũi, quen thuộc trong cuộc sống của ông. Câu thơ đưa ta trở về với cuộc sống chất phác đơn sơ của cái thời “tạc tỉnh canh điền ” (đào giếng lấy nước uống, cày ruộng lấy cơm ăn) xa xưa. Quan Trạng đang áo mũ xênh xang, chức lớn, bổng lộc nhiều, ấy vậy mà bỗng dưng rũ bỏ tất cả để trở về với đời sống “tự cung tự cấp” thì cũng đã là: một sự ngông ngạo trước thói đời hám danh, hám lợi. Ngông ngạo mà không ngang tàng, cứ thuần hậu, nguyên thủy, chân chất nông dân: Thơ thẩn dầu ai vui thú nào. Hai chữ Thơ thẩn phản ánh một cách tài tình phong cách ung dung và tâm trạng thảnh thơi của con người tự cho mình là đã xa lánh cõi trần tục đầy tham, sân, si; trong lòng không còn vướng bận những âm mưu, toan tính bon chen. Niềm vui như hiện lên trong từng bước đi thong thả, nhàn nhã. Niềm vui chi phối cả âm điệu bài thơ, cứ nhẹ nhàng, lâng lâng, thanh thản một cách lạ kì. Cụm từ dầu ai vui thú nào còn nói lên lập trường kiên định của nhà thơ trước lối sống đã lựa chọn. Chữ ai vốn là một đại từ phiếm chỉ, được tác giả sử dụng trong câu thơ này với một nghĩa rất rộng, càng suy ngẫm càng thấy thú vị. Nguyên Bỉnh Khiêm cáo quan, trở về quê nhà tức là trở về với thiên nhiên. Sống hòa hợp với thiên nhiên có nghĩa là đã thoát khỏi vòng tranh đua của thói tục, không còn bị cuốn hút bởi tiền tài, địa vị, để tâm hồn được an nhiên, khoáng đạt: Ta dại, ta tìm nơi vắng vè, Người khôn, người đến chốn lao xao. Nhân cách thanh cao Nguyễn Bỉnh Khiêm đối lập với danh lợi như nước với lửa. Vắng vẻ đối lập với lao xao, ta đối lập với người. Tìm nơi vắng vẻ không phải là lánh đời mà là tìm nơi mình thích thú, được sống thoải mái, an nhiên, khác xa chốn quan trường hiểm hóc vinh liền nhục. Nơi vắng vẻ là nơi không có chuyện cầu cạnh, bon chen. Nơi vắng vẻ là nơi thiên nhiên tươi xanh, mang lại sự thảnh thơi cho tâm hồn. Chốn lao xao là chốn cửa quyền trống giong cờ mở, là đường hoạn lộ tấp nập ngựa xe… Đến chốn lao xao là đến chốn chợ lợi đường danh huyên náo, nơi con người chen chúc xô đẩy, giẫm đạp lên nhau để giành giật quyền lợi, để vinh thân phì gia. Đây là nơi có nhiều nguy hiểm khôn tường. Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm là một bậc thức giả có trí tuệ vô cùng sáng suốt. Sáng suốt trong sự chọn lựa: Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ, mặc cho: Người khôn, người đến chốn lao xao. Sáng suốt trong cách nói đùa vui hóm hỉnh, ngược nghĩa: dại mà thực chất là khôn, còn khôn mà hóa dại. Ở một bài thơ khác, Nguyễn Bỉnh Khiêm viết: Khôn mà hiểm độc là khôn dại, Dại vốn hiền lành ấy dại khôn. (Thơ Nôm) Như vậy là quan niệm dại, khôn của Nguyễn Bỉnh Khiêm xuất phát từ trí tuệ, triết lí dân gian: Ở hiền gặp lành; ở ác gặp ác. Phân tích bài thơ Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm ( mẫu 2 ) Cuộc sống của bậc đại nhân ở am Bạch Vân đạm bạc mà thanh cao biết mấy: Thu ăn măng trúc, đông ăn giá, Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao. Hai câu thơ tả cảnh sinh hoạt giản dị mà không kém phần thú vị nơi thôn dã với bốn mùa xuân, hạ, thu, đông. Nhà thơ nói về chuyện sinh hoạt hằng ngày như chuyện ăn, chuyện tắm,… tuy cực kì đơn sơ nhưng thích thú ở chỗ mùa nào cũng sẵn, chẳng phải nhọc công tìm kiếm về mặt tinh thần, cuộc sống giản dị như thế cho phép con người được tự do, tự tại, không cần phải luồn cúi, cầu cạnh kẻ khác, không cần phải theo đuổi công danh, phú quý, không bị gò bó, ràng buộc vào bất cứ khuôn phép nào. Những thức ăn quê mùa, dân dã như măng trúc, giá… đều là cây nhà lá vườn, do mình tự làm ra, là công sức của chính mình. Ăn đã vậy, còn ở, còn sinh hoạt? Quan Trạng giờ đây cũng tắm hồ sen, tắm áo như bao người dân quê khác. Là bậc triết gia với trí tuệ uyên thâm, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã nắm vững lẽ biến dịch, hiểu thấu quy luật của Tạo hóa và của xã hội. Theo ông, cái khôn của bậc chính nhân quân tử là quay lưng lại với danh lợi, tìm sự thư thái cho tâm hồn, sống ung dung hòa hợp với thiên nhiên thuần khiết. Nhãn quan tỏ tường và cái nhìn thông tuệ của nhà thơ thể hiện tập trung nhất ở hai câu thơ cuối. Nhà thơ tìm đến cái “say” là để “tỉnh” và ông tỉnh táo hơn bao giờ hết: Rượu, đến cội cây, ta sẽ uống, Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao. Quan Trạng khẳng định một lần nữa sự lựa chọn lối sống nhàn của mình. Cuộc sống nhàn dật này là kết quả của một nhân cách, một trí tuệ khác thường. Trí tuệ sáng suốt nhận ra rằng công danh, của cải, quyền quý chỉ tựa chiêm bao. Trí tuệ nâng cao nhân cách, làm cho lập trường thêm kiên định để nhà thơ có đủ quyết tâm từ bỏ chốn quan trường lao xao danh lợi, tìm đến nơi thiên nhiên vắng vẻ mà trong sạch, thanh cao để di dưỡng tinh thần, giữ vững hai chữ thiện lương.
Assignment: Nguyen Binh Khiem (1491 - 1585) was from Trung Am village, Ly Hoc commune, Vinh Bao district, suburban Hai Phong. He passed the exam in 1535 and became a mandarin under the Mac dynasty. He left behind the Chinese poetry collection Bach Van am thi tap (about 700 poems) and the Nom poetry collection Bach Van quoc ngu thi (about over 170 poems). Nguyen Binh Khiem's ​​poetry is full of philosophy and teachings, praising the noble will of scholars and praising the concept of leisurely life, while criticizing the evils in contemporary society. Nhan is a Nom poem in the Bach Van Quoc Ngu Poetry collection. The title of the poem was given by later generations. The poem is like a deep and profound confession, affirming the concept of living a leisurely life in harmony with nature, maintaining a noble personality, upright temperament, and rising above ordinary fame and profit. The first two verses reflect Nguyen Binh Khiem's ​​leisurely and leisurely life: One spade, one hoe, one fishing rod, Poetry is fun no matter who it is. Quan Trang, who returned to live in the countryside, is now like an "old farmer", working every day with working tools such as spades to dig the ground, hoes to till the soil, fishing rods to fish, etc.;. , The clear use of counting words shows that everything has become close and familiar in his life. The poem takes us back to the simple life of the ancient times of "digging a well to get water to drink, plowing a field to get food to eat". The mandarin is wearing a fancy hat, has a great position, and has many benefits, but suddenly abandoning everything to return to a life of "self-sufficiency" is also: an arrogance in the face of worldly greed for fame. , avarice. Arrogant but not arrogant, just pure, primitive, true peasant: Poetry is fun no matter who it is. The two words Tho Than skillfully reflect the leisurely style and relaxed mood of a person who considers himself to have distanced himself from the worldly world full of greed, anger, and ignorance; My heart is no longer entangled with plots and attempts to compete. Joy seems to appear in every leisurely and leisurely step. Joy dominates the tone of the poem, strangely gentle, lighthearted, and serene. The phrase no matter who enjoys it also shows the poet's steadfast stance towards his chosen lifestyle. The word ai is inherently a trivial pronoun, used by the author in this verse with a very broad meaning, the more you think about it, the more interesting it becomes. Nguyen Binh Khiem said to the mandarin that returning home means returning to nature. Living in harmony with nature means escaping the cycle of competition and customs, no longer being attracted by money or status, so that the soul can be peaceful and open: I'm foolish, I look for a quiet place, Nguoi khon nguoi den chon lao xao. Nguyen Binh Khiem's ​​noble personality is as opposed to fame and fortune as water and fire. Solitude is the opposite of chaos, we are the opposite of others. Finding a quiet place is not about escaping life but about finding a place that you enjoy, where you can live comfortably and peacefully, away from the dangerous places of officialdom, honor and humiliation. A deserted place is a place where there is no quarreling or jostling. A deserted place is where nature is green, bringing relaxation to the soul. The place of chaos is the place where the doors of power and authority raise flags, the streets are crowded with horses and carriages... Coming to the place of chaos is the place of noisy markets for profit and fame, where people jostle, push, trample on each other to win. rights, to honor the family. This is a place with many unimaginable dangers. Trang Trinh Nguyen Binh Khiem is an intellectual with extremely clear intelligence. Be wise in your choice: We are foolish, we look for a deserted place and let ourselves be: A wise person will go to a chaotic place. Clever in the way of joking and humorous, contradictory meanings: foolish but actually wise, wise but foolish. In another poem, Nguyen Binh Khiem wrote: To be wise and malicious is to be foolish, The inherently gentle fool is wise and foolish. (Nom poetry) Thus, Nguyen Binh Khiem's ​​concept of foolishness and wisdom comes from folk wisdom and philosophy: Where goodness meets goodness; Where evil meets evil. Analysis of the poem Nhan by Nguyen Binh Khiem (sample 2) The life of the great man at Bach Van hermitage is so simple yet noble: In autumn we eat bamboo shoots, in winter we eat bean sprouts. In spring, you bathe in lotus ponds, in summer you bathe in ponds. The two verses describe the simple but no less interesting living scene in the countryside with the four seasons spring, summer, autumn, and winter. The poet talks about daily activities such as eating, bathing, etc., although extremely simple, he enjoys the fact that it is available in every season, without having to work hard to search spiritually, such a simple life for everyone. allows people to be free and independent, without having to bend or beg for others, without having to pursue fame or wealth, without being constrained or bound to any rules. Countryside, rustic foods such as bamboo shoots, bean sprouts... are all homegrown, made by ourselves, and our own efforts. Just eat, still live, still living? Quan Trang now also bathes in the lotus pond and bathes like many other villagers. As a philosopher with profound wisdom, Nguyen Binh Khiem has mastered the principles of change and understood the laws of Creation and society. According to him, the wisdom of a gentleman is to turn his back on fame and fortune, find peace of mind, and live leisurely in harmony with pure nature. The poet's clear vision and intelligent insight are most concentrated in the last two verses. The poet sought to get "drunk" to "stay awake" and he was more alert than ever: Wine, to the tree I will drink, Looking at wealth is like a dream. Quan Trang once again affirmed his choice of a leisurely lifestyle. This leisurely life is the result of an unusual personality and intelligence. A wise mind realizes that fame, wealth, and power are just like a dream. Wisdom enhances one's personality and makes one's stance more steadfast so that the poet has enough determination to give up the hustle and bustle of fame and fortune, to find a quiet, clean, noble place in nature to nourish his spirit. maintain the two words kindness.
Bài làm Sau mùa sưu thuế, tình cảnh giạ đình chị Dậu lại càng thêm khốn khổ. Chị lấy gì để nuôi người chồng ốm đau và đàn con nheo nhóc bây giờ? Suy nghĩ lại, không còn cách nào khác, chị đành nghe theo người dẫn mối, gạt mắt chấp nhận xa chồng con, lên tỉnh đi ở vú. Biết kiểu éo le là chị phải đem dòng sữa của mình để nuôi “cụ cố” (cha của viên quan lớn) đã đến tuổi gần đất xa trời. Nhan sắc mặn mà của người nữ nông dân khỏe mạnh khiến “cụ cố” quên cả địa vị, tuổi tác, rắp tâm xằng bậy với chị Dậu. Chị vùng vẫy chống trả rổi lao ra ngoài. Trời tối đen như mực và như cái tiền đồ của chị. Chị đi suốt đêm, rạng sáng mới về tới làng. Mừng như người chết đi sống lại chị rảo bước đến túp lều xiêu vẹo góc vườn. Mọi vật vẫn chìm trong bóng đêm chưa tan hẳn. Lác đác trong xóm vài tiếng gà gáy sớm. Lách tấm phên tre rách nát thay cho cánh cửa, chị Dậu vào nhà. Hơi người ấm sực làm cho chị bình tâm trở lại. Lần đến chỗ chiếc chõng tre anh Dậu nằm, chị khe khẽ gọi: “Thầy em ơi! Tôi đã về!” Anh Dậu nặng nhọc trở mình, nói trong tiếng rên: “Sao u em lại về… lúc đêm hôm thế này? Có chuyện gì phải không..?” Chị Dậu trấn an chổng rồi nằm xuống cạnh hai đứa con nhỏ. Nhớ đến cái Tí đã bán cho nhà Nghị Quế, không biết nó ăn với ai, ngủ với ai, chị rơi nước mắt. Ngẫm đến cảnh nghèo nàn, cơ cực của gia đình mình và dân làng, đối lập hoàn toàn với cuộc sống giàu sang, sung sướng của đám quan phủ, quan tỉnh, chị Dậu thấy chua xót và căm uất. Không lẽ đời mình, đời con mình cứ phải chịu mãi thế này hay sao? Bất giác, chị nhớ lại vẻ mặt căng thẳng và thái độ lo sợ của đám quan lại hôm chúng tụ tập ăn giỗ ở nhà “cụ cố” khi nhắc đến hai chữ “Việt Minh”. Chị cũng băn khoăn, không biết “Việt Mình” là ai, nhưng nếu đúng là họ bênh vực người nghèo, chống lại lũ cường hào ác bá chuyên bóc lột, ức hiếp dân lành thì chị sẽ theo. Tình hình mỗi lúc một căng thẳng. Sưu cao, thuế nặng, nhiều nhà trong làng đứt bữa đã lâu, rau cháo lay lắt sống qua ngày. Nghe nói bên Đoài, “Việt Minh” đã lập ra hội kín để hoạt động đánh Tây, đuổi Nhật, trừng trị lũ Việt gian bán nước, chị Dậu định bụng đến phiên chợ tới sẽ sang bên ấy thăm dò xem sao. Tan chợ, chị Dậu rẽ xuống dốc đê, ghé thăm người bạn chăn trâu thuở trước, nay làm dâu ở làng Đoài. Qua trò chuyện, chị Dậu được biết tin đổn trên là có thật. Trên đường về, lòng chị nôn nao một cảm giác lạ lùng, khó tả. Làng Đoài cách làng Đông Xá chỉ một con sông. Ít lâu sau, có một người đàn ông cắt tóc dạo thỉnh thoảng xuất hiện trong làng. Tính tình anh ta vui vẻ, dễ gần. Hôm chị Dậu gọi anh ta vào cắt tóc cho bố con thằng Dần, anh ấy chẳng nỡ lấy tiền. Anh kể rằng mình đã đi nhiều nơi, kể cả làm phu đất đỏ mãi tận Nam Kì. Ở đâu dân chúng cũng nghèo khổ, một cổ mấy tròng. Bọn Pháp, Nhật cướp nước thì coi tính mạng dân Nam như cỏ rác. Lũ quan lại phong kiến tay sai phần lớn chẳng nghĩ đến dân tình đang sống trong vòng nô lệ. Chúng chỉ lo làm giàu trên mồ hôi, nước mắt của người nghèo. Mỗi lần tạt vào túp lều rách nát của vợ chồng chị Dậu, anh thợ cắt tóc lại kể ở nơi ấy, nơi nọ, phong trào hoạt động của “Việt Minh” lên mạnh lắm. Dân chúng không còn sợ hãi như trước nữa. Họ hăng hái tham gia các hoạt động của du kích như diệt ác, trừ gian, hoặc biểu tình chống chủ trương tàn bạo nhổ lúa trồng đay của phát-xít Nhật, chống sự đàn áp dã man của thực dân Pháp đối với phong trào yêu nước.
Assignment After the tax collection season, Ms. Dau's family's situation became even more miserable. What do you use to support your sick husband and young children now? Thinking back, she had no other choice, so she had to listen to the matchmaker, turn her eyes away and accept to leave her husband and children, and go to sleep. Knowing how unfortunate it was that she had to use her milk to feed her "great-grandfather" (the father of the great mandarin) who was almost at an age. The charming beauty of the healthy female farmer made the "great-grandmother" forget her status and age, planning to be rude to Ms. Dau. She struggled to fight back and then rushed out. The sky was pitch black and like her future. She walked all night and only arrived at the village in the morning. As happy as a dead person coming back to life, she walked to the ramshackle hut in the corner of the garden. Everything is still immersed in darkness that has not completely disappeared. Occasionally in the neighborhood, a few early roosters crowed. Slipping the tattered bamboo panel in place of the door, Ms. Dau entered the house. The warm breath made her calm down again. Going to the bamboo bed where Mr. Dau was lying, she softly called out: "Teacher! I am home!" Mr. Dau turned over heavily and said in a groan: "Why did you come back... at night like this?" Is there something wrong..?” Ms. Dau reassured her husband and then lay down next to her two small children. Remembering the thing Ti sold to Nghi Que's family, not knowing who he ate with or slept with, she shed tears. Thinking about the poverty and destitution of her family and the villagers, in complete contrast to the rich and happy life of the government and provincial mandarins, Ms. Dau felt bitter and resentful. Should my life and my children's lives continue to suffer like this? Suddenly, she remembered the tense faces and fearful attitudes of the mandarins on the day they gathered to celebrate the death anniversary at her "great-grandfather's" house when the words "Viet Minh" were mentioned. She also wondered who "Viet Minh" was, but if it was true that they defended the poor and fought against evil tyrants who specialized in exploiting and oppressing the good people, then she would follow. The situation is becoming more and more tense. Due to high taxes and heavy taxes, many houses in the village have not had meals for a long time, and vegetables and porridge barely survive the day. Hearing that in Doai, the "Viet Minh" had established a secret association to fight against the West, expel the Japanese, and punish the Vietnamese traitors who sold their country. Ms. Dau planned to go over there to investigate at the next market session. After the market, Ms. Dau turned down the dike slope to visit her old buffalo herding friend, now a bride in Doai village. Through conversation, Ms. Dau learned that the above news was true. On the way home, she felt a strange, indescribable feeling. Doai village is just a river away from Dong Xa village. Not long after, a man with a haircut occasionally appeared in the village. His personality is cheerful and approachable. The day Ms. Dau called him in to cut Dan and his son's hair, he couldn't bear to take the money. He said that he had traveled to many places, including working as a red soil laborer all the way to the South. Everywhere people are poor, with one neck and two eyes. The French and Japanese invaders treat the lives of the Southern people like trash. Most of the feudal mandarins do not think about the people living in slavery. They only care about getting rich from the sweat and tears of the poor. Every time he stopped by the tattered hut of Ms. Dau and her husband, the barber told him that in that place, in that place, the "Viet Minh" movement was very strong. People are no longer afraid like before. They enthusiastically participated in guerrilla activities such as eliminating evil, eliminating fraud, or protesting against the Japanese fascist's brutal policy of uprooting rice to plant jute, and against the French colonialists' brutal repression of the movement. Patriot.
Bài làm Đêm giao thừa, mọi người sum họp dưới mái ấm gia đình để cùng nhau tiễn đưa năm cũ, đón chào năm mới trong không khí thiêng liêng, ngập tràn hạnh phúc. Riêng cô bé mồ côi mẹ, đầu trần, chân đất, váy áo phong phanh, bụng đói meo đang dò dẫm trong bóng tối. Suốt ngày hôm nay, cô bé chẳng bán được bao diêm nào cả. Cô sợ về nhà, người cha tàn nhẫn sẽ đánh đòn. Lúc này, quang cảnh xung quanh đẹp đẽ, ấm áp lạ thường. Cửa sổ mọi nhà đều sáng rực ánh đèn và trong phố sực nức mùi ngỗng quay. Những hình ảnh ấy gợi cho cô bé nhớ lại năm xưa được đón giao thừa cùng bà nội trong căn nhà xinh xắn có đầy dây thường xuân bao quanh. Nhưng rồi những tai họa liên tiếp xảy ra khiến gia đình cô tan nát. Cô bé đói và rét lắm! Giờ đây, cô ngồi nép trong một góc tường, giữa hai ngôi nhà để tránh những cơn gió rét như roi quất vào da thịt. Cô không muốn về nhà, vì ở nhà thì cũng vẫn đói rét như ở ngoài đường. Hai cha con cô bé sống trên căn gác sát mái và mặc dầu đã nhét gỉẻ rách vào các khe hở lớn trên vách, gió vẫn thổi rít vào trong nhà. Giữa đêm cuối năm buốt giá, cô bé lủi thủi một mình với chiếc giỏ đựng diêm vẫn còn nguyên. Đôi bàn tay nhỏ xíu cứng đờ vì lạnh. Cô ao ước được sưởi ấm, dù một chút thôi, bằng những que diêm. Cô rút một que diêm, tôi rơi ra theo, nằm ngay trên mặt giỏ. Cô bé quẹt que diêm vào tường, que diêm bén lửa thật là nhạy. Ngọn lửa lúc đầu xanh lam, dần dần trắng ra, rực hồng lên quanh que gỗ, sáng chói trông đến vui mắt. Ngọn lửa soi tỏ niềm vui sáng ngời trong đôi mắt xanh tuyệt đẹp của cô bé tội nghiệp. Hơ bàn tay trên que diêm cháy sáng rực như than hồng, cô bé tưởng như đang được ngồi trước một lò sưởi bằng sắt có những hình nổi bằng đổng bóng nhoáng, Trong lò, lửa cháy nom đến vui mắt và tỏa ra hơi nóng dịu dàng. Cô bé nghĩ: “Chà! Khỉ tuyết rơi phủ kín mặt đất, gió bấc thổi hun hút, trong đêm đông rét buốt mà được ngồi hàng giờ như thế trước một lò sưởi thì khoái biết bao!”. Nhưng cô bé vừa duỗi chân ra thì ngọn lửa vụt tắt. Que diêm đã tàn hẳn. Hình ảnh lò sưởi cũng biến mất. Cô bé bần thần nhớ ra rằng cha bắt mình đi bán diêm. Vậy mà! Một thoáng sợ hãi vụt qua trong óc cô bé. Những hình ảnh đẹp đẽ do cô tưởng tượng ra khi ngắm nhìn ngọn lửa ở đầu que diêm thứ nhất cháy sáng rực đã lôi cuốn, thúc giục cô bé đốt que diêm thứ hai. Cô muốn được tiếp tục sống trong thế giới kì diệu ấy. Trước ánh lửa bập bùng, bức tường như biến thành một tấm rèm bằng vải màu. Cô bé nhìn thấu vào tận trong nhà. Bàn ăn đã dọn, Khăn trải bàn trắng tinh, trên bàn toàn bát đĩa bằng sứ quý giá và có cả một con ngỗng quay. Những điều kì diệu nhất là ngỗng ta nhảy ra khỏi đĩa và mang cả dao ăn, nĩa cắm trên lưng, tiến về phía cô. Một ngọn gió ào qua, que diêm phụt tắt. Trước mặt cô bé vẫn là bức tường xám xịt và lạnh lẽo. Những ảo ảnh tươi đẹp chỉ hiện ra trong giây lát, còn cái đói, cái rét và bóng tối vẫn vây bủa, hành hạ cô bé đáng thương. Tuy vậy, cô bé vẫn không ngừng ao ước. Cô muốn đêm Giáng Sinh mình cũng có một cây thông Nô-en thật lớn, trang trí lộng lẫy. Cô quẹt que diêm thứ ba. Bỗng nhiên, một cây thông giống y như thế hiện ra trước mắt cô. Hàng ngàn ngọn nến sáng rực, lấp lánh trên cành lá xanh tươi. Rất nhiều bức tranh màu sắc rực rỡ như những bức tranh bày trong các tủ kính cũng hiện ra, đẹp tuyệt vời! Que diêm vụt tắt. Xung quanh cô bé vẫn là những bức tường lạnh lẽo và đêm tối. Cô chợt nghĩ đến người bà hiền hậu rất yêu thương cô. Nhưng? bà đã mất rồi! Cô muốn được gặp bà biết bao! Cô bé tiếp tục bật que diêm thứ tư. Người bà kính yêu hiện ra trong ánh lửa lung linh với nụ cười hiền hậu. Cô bé tha thiết năn nỉ: “Bà ơi! Bà cho cháu đỉ theo với! Cháu biết que diêm này mà tắt thì bà cũng sẽ biến mất như lò sưởi, ngỗng quay và cây thông Nô-en lúc nãy; nhưng xin bà đừng bỏ cháu ở nơi này! Trước đây, lúc bà chưa về với Thượng đế chí nhân, bà cháu ta đã từng sung sướng biết bao! Dạo ấy, bà đã từng nhủ cháu rằng nếu ngoan ngoãn, cháu sẽ được gặp lại bà. Bà ơi! Cháu van bà, bà xin Thượng đế chí nhân cho cháu được về với bà. Chắc Người không từ chối đâu!”.
Assignment On New Year's Eve, everyone gathers under the family roof to say goodbye to the old year and welcome the new year in a sacred atmosphere, filled with happiness. As for the motherless girl, her head is bare, her feet are bare, her clothes are loose, her stomach is hungry, she is groping in the dark. All day today, she couldn't sell any matchboxes. She was afraid that when she went home, her cruel father would beat her. At this time, the surrounding scenery is unusually beautiful and warm. The windows of every house were brightly lit and the street was filled with the smell of roasted goose. Those images reminded her of the past year when she celebrated New Year's Eve with her grandmother in a lovely house surrounded by ivy. But then disasters continued to happen, leaving her family devastated. The girl is hungry and cold! Now, she sits nestled in a corner, between two houses to avoid the cold wind that whips her skin. She didn't want to go home, because at home she was still as hungry and cold as on the street. The girl and her father lived in the attic and even though they stuffed rags into the large gaps in the wall, the wind still whistled into the house. In the middle of a cold night at the end of the year, the girl wandered alone with her match basket still intact. Her tiny hands were stiff from the cold. She wished to be warmed, even just a little, by matches. She pulled out a match, and I fell out, right on top of the basket. The girl struck the match against the wall, and the match caught fire very sensitively. The flame was blue at first, but gradually became white and glowed pink around the wooden stick, bright and cheerful. The fire illuminated the bright joy in the poor girl's beautiful blue eyes. Holding her hand over a match that burned brightly like embers, the girl felt like she was sitting in front of an iron fireplace with shiny copper embossed images. In the fireplace, the fire burned happily and radiated gentle heat. easy. The little girl thought: “Wow! Snow covered the ground, the north wind blew, how nice it was to sit for hours like that in front of a fireplace on a cold winter night! But as soon as the girl stretched her legs, the fire went out. The match was completely extinguished. The fireplace image also disappeared. The little girl suddenly remembered that her father forced her to sell matches. So that! A moment of fear flashed through her mind. The beautiful images she imagined while watching the flame at the tip of the first match burn brightly attracted and urged her to light the second match. She wants to continue living in that magical world. In front of the flickering firelight, the wall seemed to turn into a curtain of colored fabric. The girl saw right into the house. The dining table was set, the tablecloth was pure white, the table was full of precious porcelain dishes and there was even a roast goose. The most miraculous things were the goose jumping out of the plate and carrying a knife and fork stuck on its back, moving towards her. A gust of wind blew past and the match went out. In front of her was still a gray and cold wall. The beautiful illusions only appeared for a moment, while hunger, cold and darkness still surrounded and tormented the poor girl. However, the girl still did not stop wishing. She wanted to have a large, ornately decorated Christmas tree on Christmas Eve. She struck the third match. Suddenly, an identical pine tree appeared before her eyes. Thousands of bright candles, sparkling on fresh green branches. Many brightly colored paintings like those displayed in glass cabinets also appeared, amazingly beautiful! The match went out. Around her were still cold walls and dark night. She suddenly thought of her gentle grandmother who loved her very much. But? she is gone! How she wanted to meet her! The girl continued to light the fourth match. The beloved grandmother appeared in the shimmering firelight with a gentle smile. The little girl earnestly begged: “Grandma! Let me take you with me! I know that if this match goes out, she will disappear like the fireplace, roast goose and Christmas tree just now; But please don't leave me here! Before, when she had not yet returned to God, how happy we were! At that time, she told me that if I was obedient, I would see her again. Grandma! I beg you, please God let me return to you. Surely He will not refuse!”.
Bài làm Sau hai mươi năm trời ròng rã xa quê hương, phải chịu bao gian nan, thử thách, giờ thì cha tôi đã trở về nhà. Chỉ có điều là cha giấu mình trong bộ dạng của một kẻ ăn xin rách rưới, Cha làm như vậy là để thử xem người vợ hiền yêu dấu có nhận ra được mình hay không. Trong thời gian dài cha tôi vắng nhà, mẹ tôi phải thường xuyên đối phó với 108 gã đàn ông quyền quý trong vùng tranh nhau đến cầu hôn. Chúng xảo quyệt, hung hãn, quấy rối suốt ngày này qua tháng khác để rắp tâm ép buộc mẹ tôi và chiếm đoạt tài sản của gia đình tôi. Pê-nê-lốp, người đàn bà thông minh, xinh đẹp là mẹ của tôi, luôn phải nghĩ ra trăm phương ngàn kế để kéo dài thời gian, hỉ vọng cha tôi sẽ trở về. Vì nóỉ là có biết một số điều về Uy-lit-xơ nên gã hành khất – tức là cha tôi đã được mẹ tôi cho phép vào nhà và ở lại để kể cho mẹ tôi nghe những điều về người chồng yêu quý mà mẹ đang mòn mỏi đợi trông. Hôm sau, mẹ tôi tổ chức cuộc thi bắn cung và ra điều kiện nếu ai giương được cây cung của Uy- lít-xơ thì sẽ lấy làm chổng. Hàng trăm kẻ quý tộc không kẻ nào nâng nổi. Gã hành khất xỉn tham dự và đã chiến thắng. Tôi nhận ra cha. Với cây cung trong tay, cha con tôi đánh đuổi, tiêu diệt những tên cầu hôn quấy nhiễu và lũ đầy tớ phản chủ. Bà nhũ mẫu ơ-ri-clê lên gác báo tin là Uy-lit-xơ đã trở về nhưng mẹ tôi không tin mà bảo rằng bà chớ vội vui mừng vì có lẽ người đánh tan lũ cầu hôn láo xược là một vị thần nào đó. Còn Uy-lít-xơ chổng mình thì không còn hi vọng trở về, vì chàng đã chết. Nhũ mẫu vẫn một mực khẳng định là cha tôi đang ở dưới nhà và giục mẹ tôi hãy mau mau xuống đón mừng. Bà còn nói rõ cả dấu hiệu khó quên là cái sẹo ở chân cha tôi, dấu vết một lần ông đi săn bị nanh trắng của con lợn lòi húc vào. Mẹ tôi vẫn chưa tin, quay sang bảo nhũ mẫu hãy cùng xuống nhà để xem xác chết của bọn cầu hôn và người giết chúng. Xuống đến nơi, mẹ tôi bước qua ngưỡng cửa bằng đá rổi đến ngồi trước mặt cha tôi, trong khi ông tựa lưng vào cái cột; mắt nhìn xuống đất, hổi hộp xem người vợ cao quý sẽ nói gì khỉ nhận ra chổng mình. Mẹ tôi vẫn ngồi lặng thỉnh, vẻ mặt sửng sốt, lúc thì đăm đăm nhìn chổng, lúc lại như là không nhận ra người chổng yêu quý trong bộ quần áo rách mướp của kẻ ăn xin. Không nén nổi tức giận, tôi buột miệng trách sao mẹ lại tàn nhẫn như thế. Mẹ không hỏi han, cũng chẳng đến bên cha tôi vốn vã chuyện trò. Tỏi thầm nghĩ chắc trên thế gian này chẳng có người vợ nào sắt đá đến nỗi chổng đi xa biền biệt hai mươi năm, trải qua bao nỗi gian lao, bây giờ mới trở về xứ sở, mà lại có thể ngồi cách xa chồng như vậy. Mẹ tôi không giận mà dịu dàng đáp: “ Tê-lê-mác con ơi, lòng mẹ kinh ngạc quá chừng! Mẹ không sao nói được một lời, mẹ cũng không thể hỏi han, không thể nhìn thẳng vào mặt người ấy. Nếu quả thực đây chính là Uy-lít-xơ, bây giờ mới trở về, thì con có thể tin chắc rằng thế nào cha con và mẹ cũng sẽ nhận được ra nhau một cách dễ dàng, vì cha mẹ có những bí mật riêng, chỉ hai người biết với nhau, còn người ngoài không ai biết hết”. Nghe mẹ tôi nói vậy, cha tôi nhẫn nại mỉm cười và nói với tôi: “Tê-lê-mác con! Đừng làm rầy mẹ, mẹ còn muốn thử thách cha ở tại nhà này. Thế nào rồi mẹ con cũng nhận ra cha, chắc chắn như vậy. Hiện giờ, cha còn bẩn thỉu, rách rưới nên mẹ con khinh cha, chưa nói: “Đích thị là chàng rồi!”. Nhưng về phần cha con ta, ta hãy bàn xem nên xử trí việc này thế nào cho ổn thỏa. Từ trước tới nay, nếu có ai đó giết chết một người trong xứ sở, chỉ một người thôi và dù kẻ bị giết chẳng có ai báo thù cho nữa, thì người ấy cũng phải rời bỏ cha mẹ, quê hương mà trốn đi. Huống hồ chúng ta đây, chúng ta đã hạ cả thành lũy bảo vệ đô thị này, giết hàng trăm chàng trai của các gia đình quyền quý nhất. Tình huống ấy, cha khuyên con nên suy nghĩ”. Tôi kính cẩn thưa rằng mọi việc xin cha cứ định liệu, vì xưa nay, cha vốn là người sáng suốt. Tôi cũng hứa là sẽ hết lòng phụ tá cha tôi. Sau đó, cha bảo mọi người đi tắm rồi mặc quần áo đẹp vào, nhảy múa, ca hát để người ngoài lầm tưởng là nhà có đám cưới và dặn tất cả hãy giữ kín mọi chuyện cho đến khi hai cha con tôi về đến trang trại của ông nội. Sắp đặt xong, cha cũng đi tắm. Lát sau, từ phòng tắm bước ra, trông cha uy nghỉ, đẹp đẽ như một vị thần.Trở về chỗ cũ, cha nói với mẹ rằng: “Khốn khổ! Hẳn là các vị thần linh trên núi Ơ-lem-pơ đã ban cho nàng một trái tim sắt đá hơn ai hết trong đám đàn bà yếu đuối. Vì một người khác chắc không bao giờ có gan ngồi cách xa chồng như thế, khi chồng đi biền biệt hai mươi năm trời, trải qua bao nỗi gian truân, nay mới trở về xứ sở!”. Rồi cha tôi bảo nhũ mẫu hãy kể cho ông một chiếc giường để ông ngủ một mình như bấy lâu nay, vì trái tim trong ngực vợ ông là làm bằng sắt. Mẹ tôi thận trọng đáp: “Khốn khổ! Tôi không cố ý coi thường, coi khinh ngài, cũng không ngạc nhiên đến rối trí đâu! Tôi biết rất rõ ngài như thế nào khi ngài từ giã I-tác ra đi trên chiếc thuyền có mái chèo dài. Vậy thì, Ơ-ri-clê! Tê-lê-mác kể lại cảnh người cha của mình là Uy-lít-xơ trở về Già hãy cho khênh chiếc giường chắc chắn ra khỏi gian phòng vách tường kiên cố do chính tay Uy-lít-xơ xây nên, rồi lấy da cừu, chăn và vải đẹp trải lên giường!”. Mẹ tôi nói vậy là để thử cha tôi. Quả nhiên, cha tôi bỗng giật mình hỏi ngay: “Nàng ơi, nàng vừa nói một điều làm cho tôi chột dạ. Ai đã xê dịch giường của tôi đi chỗ khác vậy? Nếu không có thần linh giúp đỡ thì dù là người tài giỏi nhất cũng khó lòng làm được việc này”. Rồi cha tôi kể chi tiết, tỉ mỉ về đặc điểm của chiếc giường khác thường ấy. Bí mật này, ngoài cha và mẹ tôi ra, chỉ có một thị tì của mẹ được biết. Nghe vậy, mẹ tôi bủn rủn cả chân tay vì cha tôi đã ta đúng mười mươi sự thật. Mẹ bèn chạy ngay lại, nước mắt chan hòa, ôm lấy cổ và hôn lên trán người chồng yêu quý mà nói rằng:
Assignment After twenty years of being away from home, having to endure many hardships and challenges, my father has now returned home. The only thing is that my father hid himself in the form of a ragged beggar. He did so to test whether his beloved wife would recognize him or not. During the long periods of time my father was away from home, my mother had to constantly deal with 108 noble men in the area competing to propose marriage. They were cunning, aggressive, and harassed day after month to try to coerce my mother and usurp my family's property. Pelelov, the intelligent, beautiful woman who is my mother, always had to think of hundreds of ways to buy time, hoping that my father would return. Because he said he knew a few things about Uy-Litz, the beggar - that is, my father - was allowed by my mother to enter the house and stay to tell my mother things about the beloved husband she was living with. tired of waiting. The next day, my mother organized an archery contest and set a condition that whoever could draw Uy-List's bow would be her husband. Hundreds of nobles, no one can lift them. The drunken beggar participated and won. I recognized my father. With bows in hand, my father and I chased away and destroyed the harassing suitors and traitorous servants. Nurse Euricle went upstairs to announce that Uylits had returned, but my mother didn't believe it and told her not to be too happy because perhaps the one who defeated the insolent suitors was some kind of god. there. As for Uy-Litz, my husband has no hope of returning, because he is dead. The nanny still insisted that my father was downstairs and urged my mother to come down quickly to welcome him. She also clearly mentioned the unforgettable sign of the scar on my father's leg, the mark of the time he was hunting when he was gored by the white fangs of a boar. My mother still didn't believe it, so she turned to the nanny and told her to go downstairs to see the corpses of the suitors and their killers. Once down, my mother walked over the stone threshold and sat in front of my father, while he leaned his back against the pillar; She looked down at the ground, anxious to see what the noble wife would say when she recognized her husband. My mother still sat quietly, with a stunned look on her face, sometimes staring blankly, sometimes as if she didn't recognize her beloved husband in the tattered clothes of a beggar. Unable to contain my anger, I blurted out why my mother was so cruel. Mother did not ask questions, nor did she come to my father's side to chat. I secretly thought that there is no wife in this world who is so strong-willed that her husband has been away for twenty years, gone through so many hardships, and has only now returned to her country, and can sit so far away from her husband. So. My mother was not angry but gently replied: "Telemak, my child, I am so amazed! I couldn't say a word, I couldn't ask questions, I couldn't look him straight in the face. If this is indeed Uy-Litz, who has just returned, then you can be sure that your father and I will recognize each other easily, because we have our own secrets. , only the two of them know each other, and no one outside knows." Hearing what my mother said, my father patiently smiled and said to me: "Telemac! Don't bother mom, she still wants to challenge dad to stay at home. Your mother will recognize your father, that's for sure. Right now, my father is still dirty and ragged, so my mother looks down on him, not saying: "It's definitely you!". But as for us, let's discuss how to handle this matter properly. Until now, if someone killed one person in the country, just one person, and even if the murdered person had no one to avenge, that person had to leave their parents and homeland and flee. Moreover, here we are, we have taken down the entire citadel that protects this city, killing hundreds of young men from the most noble families. In that situation, I advise you to think about it." I respectfully say that I ask you to decide everything, because you have always been a wise person. I also promise that I will wholeheartedly assist my father. After that, my father told everyone to take a bath, put on nice clothes, dance, and sing so that outsiders would mistakenly think there was a wedding at home, and told everyone to keep everything a secret until my father and I returned to the village. grandfather's camp. After setting up, dad also went to take a shower. Later, coming out of the bathroom, his father looked majestic and beautiful like a god. Returning to his original place, his father told his mother: "Woe! Surely the gods on Mount Eulempe had given her a heart more stony than anyone else among the group of weak women. Because another person would never have the courage to sit so far away from her husband, when her husband has been away for twenty years, gone through so many hardships, and has only just returned to the country! Then my father told the nanny to give him a bed so he could sleep alone like he had for so long, because the heart in his wife's chest was made of iron. My mother cautiously replied: “Woe! I didn't mean to belittle or despise you, nor was I surprised or confused! I know very well what he was like when he left I-tach and set out on a long rowboat. Well then, Euricle! Telemac recounted the return of his father, Uylitz Old man, please have the sturdy bed carried out of the solid walled room that Uy-Litz built with his own hands, then use sheep skins, blankets and beautiful fabrics to spread on the bed! My mother said that to test my father. Sure enough, my father was suddenly startled and asked: "Miss, you just said something that made me feel guilty. Who moved my bed somewhere else? Without the help of the gods, even the most talented person would be unable to do this." Then my father told me in detail and meticulously about the characteristics of that unusual bed. This secret, besides my father and mother, was known to only one of my mother's nieces. Hearing that, my mother felt weak in the knees because my father was right about 10 truths. Mother immediately ran back with tears in her eyes, hugged her beloved husband's neck and kissed his forehead and said:
Bài làm Sau khi chiến thắng Mtao Mxây, kẻ đã cướp vợ mình, Đăm Săn trở về nhà. Hàng ngàn tôi tớ và dân làng của Mtao Mxây đi theo chàng. Họ mang theo của cải nhiều như ong đi chuyển nước, như vò vẽ đi chuyển hoa, như bầy trai gái đi giếng làng cõng nước. Đăm Săn hào hứng hô to: “ Ơ các con, hãy đi lấy rượu, bắt trâu! Rượu năm ché, trâu dâng một con để cúng thần linh, cáo tổ tiên, cầu sức khỏe cho ta mới iỉ đánh kẻ thù, bắt tù binh, xéo nát đất đai một tù trưởng nhà giàu về. Rượu bảy ché, trâu bảy con, lợn thiến bảy con để dâng thần, cầu cho ta bình yên vô sự, nạn khỏi tai qua, lớn lên như sông nước, cao lên như cây rừng, không ai bì kịp! Hỡi anh em trong nhà, bà con trong làng, xin mời tất cả đến với ta! Chúng ta sẽ mở tiệc ăn mừng năm mới, chúng ta sẽ ăn lợn ăn trâu, đánh lên các chiêng trống to, đánh lên các cổng hlong hòa nhịp cùng chũm chọe xoa sao cho kêu lên rộn rã, để voi đực voi cái ra vào sàn hiên không ngớt, dây cồng dây chiêng không lúc nào vắng bớt trên giá treo chiêng, các chuỗi thịt trâu thịt bò treo đen nhà, chậu thau, âu đổng nhiều không còn chỗ để”. Đám tôi tớ kính cẩn hỏi chàng nên đánh chiêng nào, Đăm Săn bảo hãy đánh các chiêng cỏ tiếng âm vang, những chiêng có tiếng đồng, tiếng bạc. Bà con kéo đến xem, nhà Đăm Săn đông nghịt khách khứa. Các tù trưởng ở phương xa cũng kéo đến chúc mừng.
Assignment After defeating Mtao Mxay, the man who stole his wife, Dam San returned home. Thousands of Mtao Mxay's servants and villagers followed him. They carry as much wealth as bees carrying water, bumblebees carrying flowers, and boys and girls going to village wells to carry water. Dam San excitedly shouted: "Hey kids, let's go get wine and catch buffalo!" Five jars of wine, one buffalo offered to worship the gods, ancestors, and pray for good health before I fought the enemy, captured prisoners, and destroyed the land of a rich chief. Seven jars of wine, seven buffaloes, seven castrated pigs to offer to the gods, pray for me to be safe and unharmed, to avoid disasters, to grow like a river, to grow tall like a forest tree, no one can match me! Brothers in the house, relatives in the village, please all come to me! We will hold a party to celebrate the New Year, we will eat pigs and buffalos, play the big gongs and drums, play the hlong gates in harmony with the cymbals to make loud noises, letting the male and female elephants enter and exit. The porch floor is endless, gong strings and gong strings are never absent from the gong rack, strings of buffalo and beef meat hang black in the house, brass pots, and copper bowls are so numerous that there is no place to put them." The servants respectfully asked him which gong he should play. Dam San told him to play the grass gongs with resonant sounds, the gongs with bronze and silver sounds. Relatives came to see, Dam San's house was crowded with guests. The chiefs from far away also came to congratulate him.
Bài làm: Truyện An Dương Vương và Mị Châu, Trọng Thủy thuộc chủ đề giữ nước, một trong những chủ đề nổi bật của truyền thuyết Việt Nam. Nội dung truyện kể về quá trình xây thành, chế nỏ giữ nước của An Dương vương và bi kịch tình yêu giữa Mị Châu – Trọng Thủy, gắn liền với sự thất bại của nước Âu Lạc. Thái độ mất cảnh giác, chủ quan khinh địch, sự nhẹ dạ cả tin của cha con An Dương Vượng đã dẫn đến thảm cảnh nhà tan, nước mất. Xung quanh nhân vật Mị Châu từ xưa đến nay có rất nhiều ý kiến nhận xét, đánh giá khác nhau, thậm chí trái ngược. Dưới thời phong kiến, có một số nhà Nho cho rằng Mị Châu là một người vợ hiền, việc nàng một lòng làm theo lời chồng là không có tội. Vậy ý kiến trên có phải là lời giải oan đúng đắn cho Mị Châu hay không? Nếu chúng ta lấy đạo lí của Nho giáo phong kiến làm cơ sở để bình luận cái đúng, cái sai của nhận xét nêu trên thì quả là Mị Châu vô tội. Đối với người phụ nữ, luật lệ xưa quy định rồi: Tại gia tòng phụ, Xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử (Tam tòng), có nghĩa lá lúc còn ở nhà thì theo cha, lúc lấy chồng thì theo chồng, chồng chết thì theo con. Như vậy, rõ ràng người phụ nữ bị ràng buộc trong mọi hoàn cảnh, không có được một chút tự do nào. Việc Mị Châu trở thành vợ Trọng Thủy là do sự cố tình sắp đặt của Triệu Đà trong âm mưu thâm hiểm hòng cướp bằng được nước Âu Lạc. Trọng Thủy – con trai hắn cũng bị hắn biến thành quân cờ trên bàn cờ chiến lược, thành công cụ, phương tiện đắc lực để giúp hắn thực hiện âm mưu thôn tính. Vừa có thành cao, hào sâu, vừa có nỏ thần bắn một phát giết hàng vạn giặc, An Dương Vương cho rằng như vậy là đủ để yên tâm vui hưởng thái bình. Có lẽ niềm tin ấy quá lớn khiến An Dương Vương đâm ra mất cảnh giác, chủ quan khinh địch. An Dương Vương cho rằng Triệu Đà đã một lần nếm mùi thất bại, hay phải xuống giọng xin được cầu thân, hẳn là đã thực lòng hòa hiếu. Với uy thế của người chiến thắng, cộng với vũ khí hiệu nghiệm là chiếc nỏ thần trong tay, An Dương vương vui vẻ chấp thuận lời đề nghị kết tình thông gia hữu hảo của kẻ cựu thù. Đó chính là điểm sơ hở chết người của ông vua đứng đầu đất nước Âu Lạc. Đã thế, An Dương Vương còn cho phép Trọng Thủy được ở rể trong Loa Thành. Hành động ấy có khác chỉ “nuôi ong tay áo, nuôi cáo dòm nhà”?! Còn Mị Châu lúc đó chỉ là cô gái đang tuổi trăng tròn, ngây thơ, trong trắng. Vua cha gả chổng thì thuận theo ý cha, lúc làm vợ thì hết lòng thương yêu chồng. Như thế là phải đạo. Việc Mị Châu nghe theo Trọng Thủy, cho chồng vào tận nơi vua cha cất giấu nỏ thần và chỉ rõ bí mật của nỏ thần, theo suy nghĩ của nàng đơn thuần chỉ là để làm vui lòng chồng. Bi kịch nảy sinh từ chỗ người thì vô tình, kẻ thì cố ý. Trong những ngày sống trên đất Âu Lạc, bên cạnh người vợ hiền trẻ trung, xinh đẹp, Trọng Thủy đã nảy sinh tình yêu thực sự với Mị Châu. Tuy vậy, chàng vẫn không quên nhiệm vụ do thám mà cha là Triệu Đà giao phó: chiếm bằng được lẫy thần.
Assignment: The story of An Duong Vuong and My Chau and Trong Thuy belongs to the theme of defending the country, one of the prominent themes of Vietnamese legends. The content of the story is about the process of building the citadel, making crossbows to defend the country of King An Duong and the tragic love between Mi Chau - Trong Thuy, associated with the failure of Au Lac country. The lack of vigilance, subjective contempt for the enemy, and the gullibility of An Duong Vuong and his son led to the tragedy of the family being destroyed and the country lost. Around the character My Chau from past to present, there are many different, even contradictory comments and assessments. During feudal times, some Confucians believed that Mi Chau was a good wife and that it was not a crime for her to wholeheartedly follow her husband's orders. So is the above opinion a correct explanation for Mi Chau? If we take the morality of feudal Confucianism as the basis to comment on the right and wrong of the above comment, then Mi Chau is indeed innocent. For women, the ancient law stipulated: At home, obey the father, at home, obey the husband, and the son obeys the children (Three Obedience), which means when she is at home, she follows her father, when she gets married, she follows her husband. When her husband dies, she follows her children. Thus, it is clear that women are bound in all circumstances, not having any freedom. The fact that Mi Chau became Trong Thuy's wife was deliberately arranged by Trieu Da in a sinister plot to rob Au Lac country. Trong Thuy - his son was also turned into a chess piece on the strategic chessboard, an effective tool and means to help him carry out the takeover plot. Having both a high citadel, a deep moat, and a magical crossbow that could kill tens of thousands of enemies in one shot, An Duong Vuong thought that this was enough to enjoy peace of mind. Perhaps that belief was so great that An Duong Vuong was caught off guard and subjectively disregarded his enemy. An Duong Vuong believes that Trieu Da once tasted failure, or had to lower his voice to ask for forgiveness, and must have been truly filial. With the prestige of a winner, plus the effective weapon of a magic crossbow in his hand, King An Duong happily accepted his former enemy's offer of friendship. That was the fatal flaw of the head king of Au Lac country. Furthermore, An Duong Vuong also allowed Trong Thuy to live with his son-in-law in Loa Thanh. Is that action different from just "raising bees in sleeves, raising foxes to spy on houses"?! And Mi Chau at that time was just a girl in her full moon years, innocent and pure. When the king marries, he obeys his father's wishes. When he becomes a wife, she loves her husband with all her heart. That is the right way. The fact that Mi Chau listened to Trong Thuy, let her husband go to the place where her father hid the magic crossbow and pointed out the secret of the magic crossbow, in her opinion was simply to please her husband. Tragedy arises from people being unintentional, others being intentional. During the days living on Au Lac land, next to his young and beautiful wife, Trong Thuy developed true love for Mi Chau. However, he still did not forget the reconnaissance mission assigned by his father, Trieu Da: to capture the god.
Bài làm Ca dao – dân ca phản ánh sinh động đời sống tình cảm phong phú của nhân dân lao động. Họ đã gửi gắm vào đó tiếng nói tâm tình chân thành tha thiết, với đủ mọi cung bậc buồn vui. Nhiều câu ca dao về hình thức và nội dung có những nét giống nhau nhưng mỗi câu lại mang một vẻ đẹp riêng, phù hợp với từng hoàn cảnh và tâm trạng nhân vật khác nhau. Ví dụ một số câu mở đầu bằng cụm từ Thân em và nội dung cũng đề cập đến phẩm chất tốt đẹp, cao quý cùng số phận hẩm hiu, bất hạnh của người phụ nữ trong xã hội phong kiến ngày xưa. Hình ảnh hạt mưa sa lại gợi lên một sắc thái khác. Người phụ nữ cảm thấy thân phận mình quá nhỏ bé, gần như vô nghĩa. Có bao nhiêu hạt mưa từ trời cao rơi xuống trong một cơn mưa?! Mọi hạt mưa đều trong trẻo, mát lành như nhau nhưng chỗ rơi xuống – tức số phận của từng hạt mưa lại không giống nhau. Phân tích bài ca dao “Thân em như hạt mưa rào, Hạt rơi xuống giếng hạt vào vườn hoa”
Assignment Folk songs and folk songs vividly reflect the rich emotional life of working people. They have expressed their sincere and heartfelt feelings, with all levels of joy and sadness. Many folk songs have similarities in form and content, but each verse has its own beauty, suitable for each different situation and character's mood. For example, some sentences begin with the phrase My Dear and the content also mentions the good and noble qualities and the sad and unfortunate fate of women in ancient feudal society. The image of falling raindrops evokes another nuance. The woman feels her status is too small, almost meaningless. How many raindrops fall from the sky in one rain?! All raindrops are equally clear and cool, but the place they fall - that is, the fate of each raindrop - is not the same. Analysis of the folk song "My body is like raindrops, Seeds falling into the well, seeds into the flower garden"
Bài làm Sáng qua, trong bản tin thời sự VTV1 của Đài truyền hình Việt Nam có mục “Người tốt, việc tốt” giới thiệu ông Đinh Thép, một người dân bình thường ở xã Tư, huyện Đông Giang, tỉnh Quảng Nam, đã tự nguyện làm một công việc đem lại lợi ích thiết thực cho bà con ở địa phương. Câu chuyện như sau: Con đường cũ dẫn từ huyện về xã vốn nhỏ hẹp và gập ghềnh, lổn nhổn đất đá. Ngày ngày, ông Đinh Thép nhìn thấy cảnh các cháu học sinh đi học vấp đá té chảy cả máu chân. Nhất là sau mỗi cơn mưa, đường lại càng khó đi. Đất đỏ dính bết vào bánh xe, không ít người ngã, thậm chí có người bị thương rất nặng. Ông Đinh Thép băn khoăn, day dứt, nghĩ hoài về con đường để rồi đi đến quyết định: “Mình sẽ tự tay làm lại cho con đường đẹp đẽ, phẳng phiu, để bà con đi đỡ cực”. Nghĩ là làm, ông bất chấp cái tuổi đã ngoài sáu mươi, bất chấp thời tiết nắng mưa khắc nghiệt của vùng rừng núi. Một mình với chiếc cuốc chim, ông cặm cụi bầy đá rồi san phẳng, đầm thật kĩ để khi xe qua lại nền đường không bị bật lên. Công việc chẳng dễ dàng chút nào. Hai bàn tay ông cầm cuốc tóe máu rồi chai sần lên, Hai cánh tay lắm lúc rã rời, nhưng nghĩ đến mục đích tốt đẹp của công việc, ông lại đứng lên, tiếp tục làm. Một số kẻ nông cạn cho rằng ông điên, bỏ bê việc nhà để đi làm việc không công cho thiên hạ. Ông chỉ cười, nụ cười hiền hậu, chất phác lạ lùng, ông bảo ông chỉ có cái tâm và công sức để đóng góp cho quê hương, còn ai hiểu sao thì hiểu, ông chẳng bận lòng. Ngày lại ngày qua, con đường dưới bàn tay ông Đinh Thép đã rộng rãi, bằng phẳng hẳn ra. Trẻ con đi học ríu rít chào ông, người qua kẻ lại cũng chào ông bằng cái gật đầu, bằng nụ cười động viên chân thành, ông Đinh Thép vui lắm, nụ cười thật tươi toả sáng trên gương mặt đen đúa ướt đẫm mồ hôi.
Assignment Yesterday morning, in the news bulletin VTV1 of Vietnam Television, there was a section "Good people, good deeds" introducing Mr. Dinh Thep, an ordinary person in Tu commune, Dong Giang district, Quang Nam province, who volunteered to Do a job that brings practical benefits to local people. The story is as follows: The old road leading from the district to the commune is narrow and bumpy, full of rocks and soil. Every day, Mr. Dinh Thep sees students walking to school tripping over rocks and falling, bleeding from their feet. Especially after every rain, the road becomes more difficult to travel. Red soil stuck to the wheels, many people fell, and some were even seriously injured. Mr. Dinh Thep wondered, tormented, thought about the road over and over and then decided: "I will redo the road myself to make it beautiful and smooth, so that people can travel less hard." Thinking is doing, he disregarded his age of over sixty, despite the harsh weather of the mountains and forests. Alone with a pickaxe, he diligently dug up rocks, leveled them, and compacted them thoroughly so that when vehicles passed by, the road surface would not bounce up. The job is not easy at all. His hands holding the hoe were bloody and calloused. His arms were tired at times, but thinking of the good purpose of the work, he stood up and continued working. Some shallow people thought he was crazy and neglected his housework to work for people for free. He just smiled, a gentle smile, strangely simple, he said he only had the heart and effort to contribute to his homeland, and anyone who understood it would understand, he didn't care. Day after day, the road under Mr. Dinh Thep's hands became wider and smoother. Children going to school chirped to greet him, passersby also greeted him with nods and sincere encouraging smiles. Mr. Dinh Thep was very happy, his bright smile shone on his dark, sweaty face. .
Bài làm Lớp 10 B của mình có một bạn được mọi người phong cho biệt danh là “vua nổ” vì cậu ta có thể “nổ” về mọi vấn đề, ở mọi lúc mọi nơi. Dường như không nhận ra được hàm ý mỉa mai, giễu cợt trong cái biệt danh ấy nên Thiên “nổ” không ngớt. Vì thế mới xảy ra một chuyện buồn cười mà tôi sẽ kể cho các bạn nghe. Chuyện là thế này: Sau khi khai giảng được độ hai tháng thì cô chủ nhiệm tổ chức đi tham quan ở Củ Chi để các thành viên trong lớp có dịp làm quen và gắn bó với nhau hơn. Hôm đó là chủ nhật nên khách tham quan khá đông, có cả mấy tốp du khách nước ngoài. Nhìn các anh chị hướng dẫn viên giới thiệu bằng tiếng Anh về lịch sử của vùng vành đai thép Củ Chỉ với hệ thống địa đạo nổi tiếng, chúng mình thích lắm và mình ao ước giá như có được khả năng nói tiếng Anh lưu loát như vậy thì tốt biết bao! Đương nhiên chỉ là ao ước mà thôi vì trình độ nói và nghe của mình còn ở mức lõrn bõm, tiếng được tiếng chăng. Chẳng hiểu Thiên nghĩ sao mà tách khỏi lớp, đi theo tốp du khách Anh, trong đó có một cô gái khá xinh. Thiên làm quen bằng mấy câu xã giao thông thường và được cô gái kia vui vẻ đáp lại. Được đà, cậu ta phấn chấn và bắt đầu huyên thuyên, miệng nói, tay quơ ra dấu minh họa. Lạ ở chỗ là Thiên càng nói thì cô bạn gái người Anh kia càng nhún vai, lắc đầu và cứ nhắc đi nhắc lại một câu: “I don’t undarstand!” (Tôi không hiểu!)..Rồi cô gái ấy rảo chân bước theo đoàn lúc đó đã đến gần khu địa đạo. Giá như Thiên im lặng, nhưng quen thói ba hoa, cậu ta “nổ” vung lên rằng: “Minh giới thiệu địa đạo Củ Chi với du khách người Anh hẳn hoi nhé!”. Tùng “ lém” nổi tiếng nói thẳng nói thật và cũng giỏi tiếng Anh nhất lớp bèn hỏi: “What did you tell her about it?” (Bạn đã nói những gì về địa đạo với cô ta?). Thiên lúng túng hồi lâu, mặt và tai đỏ như ớt chín vì không trả lời được cảu hỏi ấy. Mấy tiếng cười “chọc quê” bật ra nhưng Tùng đã đưa tay lên môi ra hiệu im lặng để Thiên đỡ mắc cỡ. Mình và các bạn nữ cũng ái ngại cho cậu ta. Chắc bữa nay, “vua nổ” được bài học nhớ đời.
Assignment My class 10 B has a student who is nicknamed the "king of explosions" because he can "explode" about any issue, anytime, anywhere. Seemingly unable to realize the ironic and mocking implications of that nickname, Thien "exploded" incessantly. That's why a funny thing happened that I'll tell you about. This is what happened: About two months after school started, the homeroom teacher organized a sightseeing trip to Cu Chi so that class members had the opportunity to get to know and bond with each other better. It was Sunday so there were quite a few visitors, including several groups of foreign tourists. Watching the tour guides introduce in English the history of the Cu Chi steel belt area with its famous tunnel system, we really enjoyed it and wished we could speak English as fluently as that. How good then! Of course it's just a wish because my speaking and listening skills are still at a mediocre level. I don't understand what Thien was thinking, so he left the class and followed a group of British tourists, including a pretty girl. Thien got acquainted with a few common social sentences and the other girl happily responded. Gaining momentum, he got excited and began to chatter, talking and waving his hands to illustrate. The strange thing is that the more Thien talked, the more the English girlfriend shrugged her shoulders, shook her head and kept repeating the same sentence over and over again: "I don't undarstand!" (I don't understand!)...Then the girl followed the group as they approached the tunnel area. If only Thien had remained silent, but was used to blabbing, he would "explode" and say: "Let me introduce the Cu Chi Tunnels to British tourists!". Tung, who is famous for telling the truth and is also the best at English in the class, asked: "What did you tell her about it?" (What did you say about the tunnels to her?). Thien was confused for a long time, his face and ears were as red as ripe chili peppers because he couldn't answer that question. A few "ironic" laughter burst out, but Tung raised his hand to his lips to signal silence so that Thien would not be embarrassed. My girlfriends and I are also worried about him. Perhaps today, the "king of explosions" learned a life-long lesson.
Bài làm: Mấy hôm nay, tiết trời địu hẳn. Cái không khí oi bức, ngột ngạt của mùa hạ đã bị ngọn gió mát lạnh buổi đầu thu xua đi. Tiếng ve ngân ra rả trong các vòm cây giờ đây cũng đã im bặt. sắc đỏ nồng nàn của hoa phượng chỉ còn đọng lại trong nỗi nhớ. Trong đầm sen đã tàn, nhường chỗ cho những bông súng tím, những bông trang hổng dập dờn trên mặt nước xanh. Thoảng trong làn gió heo may se se là hương ổi chín – một mùi hương đặc biệt gắn liền với tuổi thơ nơi thôn dã, gợi lên bao kỉ niệm thân thương, sương lam như làn khói mỏng manh vấn vít la đà quanh những rặng cây, lũy tre đầu ngõ. Không khí yên tĩnh lạ lủng. Chỉ có tiếng gió lao xao se sẽ trong vòm lá. Tôi hít căng lồng ngực hương vị quen thuộc của quê hương và trong kí ức sống dậy bao kỉ niệm đẹp đẽ của thời thơ ấu. Lòng tôi chợt dậy lên cảm xúc bổi hồi, xạo xuyến: Hình như thu đã về! Ngoài xa kia, sông Hồng sau mùa lũ không còn sục sôi sóng đỏ, cuồn cuộn chảy như trong những ngày mưa lũ. Màu nước trong hơn, mặt sông êm ả, lấp lánh ánh nắng mai. Dòng sông đã trở nên hiền hòa, thong thả trôi xuôi. Những chuyến đò chở đầy khách chậm chạp sang ngang. Tiếng cười, tiếng nói xôn xao hòa cùng tiếng sóng nhè nhẹ róc rách vỗ bờ, tạo nên âm thanh quen thuộc của cuộc sống bình yên. Tôi ngước mắt nhìn lên bầu trời trong xanh, cao vời vợi, mây trắng lãng đãng trôi về tận phương nào. Những cánh chim nhỏ nhoi dường như cũng vội vã hơn trong cuộc hành trình vạn dặm. Bất chợt, tôi có cảm giác là có đám mây mùa hạ. Vắt nửa mình sang thu. Bao phủ lên khung cảnh thiên nhiên là không khí êm đềm, thơ mộng.
Assignment: These past few days, the weather has been miserable. The hot, stuffy air of summer was blown away by the cool breeze of early autumn. The sound of cicadas chirping in the trees has now quieted down. The passionate red color of the poinciana flower only remains in nostalgia. In the lotus pond, the lotus has withered, giving way to purple water lilies and empty flowers fluttering on the blue water surface. Fading in the brisk breeze is the scent of ripe guava - a special scent associated with childhood in the countryside, evoking many dear memories, blue mist like thin smoke swirling around the trees. , bamboo basket at the beginning of the alley. The atmosphere was strangely quiet. There is only the sound of the wind rustling in the canopy of leaves. I filled my chest with the familiar flavors of my hometown and in my memories revived many beautiful memories of my childhood. My heart suddenly woke up with a fluttering feeling: It seems like autumn has come! Far away, the Red River after the flood season no longer seethes with red waves and flows like it does on rainy days. The water color is clearer, the river surface is calm, sparkling with the morning sunlight. The river has become gentle, flowing slowly. Boats filled with passengers slowly passed by. Laughter and bustling voices mixed with the gentle sound of waves lapping against the shore, creating the familiar sounds of peaceful life. I raised my eyes to look up at the clear blue sky, so high, the white clouds drifted in some direction. The little birds also seem to be in a hurry on their journey of thousands of miles. Suddenly, I had the feeling that there were summer clouds. Squeeze half of yourself into autumn. Covering the natural scenery is a peaceful, poetic atmosphere.
Bài làm: Quê tôi ở xã Trường Bình, huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An, nơi có ngôi chùa Tôn Thạnh nổi tiếng gắn liền với tên tuổi của nhà thơ mù yêu nước Nguyễn Đình Chiểu. Tuổi thơ tôi trôi qua khá êm đềm, suôn sẻ bên cạnh người thân, thầy cô, bè bạn. Năm nay, tôi mười sáu tuổi và đã trở thành một nữ sỉnh lớp 10 của trường Trung học phổ thông thị trấn. Những ngày đầu tiên đi học, tâm hồn tôi xốn xang những cảm giác lạ lùng. Trước hết là cảm giác bỡ ngỡ trước ngôi trường quá lớn so với ngôi trường làng. Bởi vậy nên tôi thấy mình mới nhỏ bé làm sao! Học sinh lớp 9A cũ giờ đây chỉ còn gần chục bạn cùng lớp với tôi mà thôi. Chúng tôi gắn bó với nhau hơn trong học tập, vui chơi và sinh hoạt hằng ngày. Có một tiếng nói mơ hồ cứ văng vẳng bên tai tôi như nhắc nhở: “ Mình đã lớn rồi!”. Trước khi đi học, tôi soi gương cẩn thận xem quần áo đã ngay ngắn chưa? Đầu tóc đã gọn gàng chưa? Quan trọng hơn cả là tôi đã có ý thức tự giác học tập, chẳng đợi cha mẹ phải nhắc nhở như trước nữa.
Assignment: My hometown is Truong Binh commune, Can Giuoc district, Long An province, where there is the famous Ton Thanh pagoda associated with the name of blind patriotic poet Nguyen Dinh Chieu. My childhood passed quite peacefully and smoothly with relatives, teachers, and friends. This year, I am sixteen years old and have become a 10th grade student at the town's High School. During the first days of school, my soul was filled with strange feelings. First of all is the feeling of surprise at a school that is too big compared to the village school. That's why I feel so small! The old class 9A student now only has nearly a dozen classmates left with me. We are closer to each other in studying, playing and daily activities. There was a vague voice that kept ringing in my ears as if reminding me: "I have grown up!". Before going to school, I look carefully in the mirror to see if my clothes are neat. Is your hair neat yet? The most important thing is that I have learned voluntarily, no longer waiting for my parents to remind me like before.