vi
stringlengths 846
10.5k
| en
stringlengths 799
10.5k
|
---|---|
Nguyễn Ngọc Tư
Người mẹ vườn cau
Đề bài làm văn chỉ hai chữ "Người mẹ". Cô Hương bảo "Bình luân, chứng minh, hay miêu tả cách nào cũng được" Tôi cắn bút, nghĩ mãi bắt đầu như thế nào nhỉ? Ba tôi có rất nhiều mẹ, tôi cũng có lắm bà Nội ở nhà cùng chú út. Nội ở Phố Đông, Nội ở vườn cau, Nội nào cũng già như nhau. Tôi nhớ khi còn nhỏ, ba dẫn về thăm Nội vườn cau. Hôm đó, mưa nhiều, con đường từ dưới bến lên nhà, đất bùn lẹp nhẹp, tôi ngã oàng oạch. Nhà Nội nhỏ xíu, mái lá đột tong tong. Đón ba, Nội gầy gò, cười phô cả lợi. - Má tưởng con không về được, mưa gió tối trời vầy khéo cảm. Bà vuốt đầu tôi. - Tiên tổ mầy, sao mà giống cha quá vậy? Hôm ấy bà giỗ chú Sơn. Trên cái bàn thờ con con thấp lè tè kia đến ba chiếc lư đồng, cái nào cũng nghi ngút khói. Bữa giỗ chỉ vài ba bác canh chua cá rô đồng, mắm kho, bông súng. Chưa bao giờ tôi được ăn lại nghe ngon như thế. Ba gắp thức ăn cho bà, bà gắp thức ăn cho tôi, hôn hậu bảo. - Ăn cho mau lớn, con. Tạnh mưa, mọi người lục đục đến, họ kéo gàu xối ào ào ngoài hiên nước. Ai cũng gọi nôi bằng Má, "Má Tư". "Má Tư" ơi ới. Tôi hỏi: - Ba ơi, sao nôi đông con quá vậy? Ba cười bảo: - Tối, ba kể con nghe. Một chú quần vo tới gối, tay cầm lông vỗ vai ba cười ha hả. - Toa biết chú mày về nên đem thịt rắn qua đây, tui mình lai rai.
Mục lục
Người mẹ vườn cau
Người mẹ vườn cau
Nguyễn Ngọc TưChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.
Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: bạn: mickey đưa lên vào ngày: 9 tháng 4 năm 2004
|
Nguyen Ngoc Tu
Areca garden mother
The essay topic has only two words "Mother". Ms. Huong said, "Binh Luan, prove it, or describe it in any way." I bit my pen, thinking about how to start? My father has many mothers, and I also have many grandmothers at home with my youngest uncle. My grandmother lives in Pho Dong, my grandmother lives in an areca garden, all of my grandmothers are the same old. I remember when I was young, my father took me to visit the Areca Garden. That day, it rained a lot, the road from the wharf to the house was muddy, I fell down. Noi's house is tiny, with a broken thatched roof. Welcoming Dad, Noi was skinny and smiled with all his gums. - Mom thought I wouldn't be able to come home, it's so cold and rainy and dark. She stroked my head. - Your ancestors, why do you look so much like your father? That day she celebrated Uncle Son's death. On that short altar were three bronze urns, each of which was steaming with smoke. The death anniversary meal consisted of just a few bowls of sour soup with perch, braised fish sauce, and water lily. I have never eaten food that tastes so good. Dad picked up food for her, she picked up food for me, and kissed me afterwards. - Eat to grow quickly, child. When the rain stopped, everyone came, they pulled buckets loudly outside the porch. Everyone calls the cradle by Ma, "Ma Tu". "Mom Tu" oh my god. I asked: - Dad, why is the crib so crowded? Dad smiled and said: - Tonight, I'll tell you. A little boy wrapped his pants up to his knees, holding a fur in his hand and patting his father's shoulder, laughing hysterically. - Toa knew your uncle was coming back so he brought snake meat over here, I'm the one who came here.
Table of contents
Areca garden mother
Areca garden mother
Nguyen Ngoc TuWelcome to read the first books from the book project for mobile devices. Source: editor: Nguyen Kim Vy.
Final words: Thank you for reading the entire story. Source: editor: Nguyen Kim Vy. Source: friend: mickey posted on: April 9, 2004
|
Agatha Christie
Người phá tổ ong
Vào một buổi chiều đẹp trời tại ngôi làng xinh đẹp vùng ngoại ô, thanh tra Poirot thong thả đếm bước trên con đường cát mịn dẫn đến ngôi biệt thự nên thơ có vườn hồng bao quanh.Đứng trước cánh cổng gỗ sơn trắng, Poirot đưa tay bấm chuông. Chính chủ nhân - John Harisson - ra mở cửa cho ông. Đó là một người đàn ông trung niên, cao lớn, khá bảnh trai, tuy nhiên nước da không được tốt, mai mái xanh như người có bệnh. Ông ta vui mừng khi nhận ra Poirot:- Ôi anh Poirot, ngọn gió nào đưa rồng đến nhà tôm vậy?- Tôm đến nhà rồng thì đúng hơn. Vườn hồng của anh đẹp quá.Harisson chỉ vào bộ bàn ghế mây đặt dưới giàn hoa thiên lý:- Anh ngồi chơi để tôi vào trong tìm cái gì uống cho vui.- Anh cho tôi một ly sô đa không whisky.Harisson trở ra ngay:- Hôm nay anh rảnh rỗi để đi du ngoạn đấy à? Anh làm tôi ngạc nhiên quá.- Không đâu, tôi đang trên đường đi điều tra một vụ án.Harisson nhìn Poirot:- Có nghiêm trọng lắm không?- Hết sức nghiêm trọng, vì đây là một vụ giết người.- Trong vùng này ư?Poirot gật đầu. Harisson nhún vai:- Vậy thì anh lầm rồi. Suốt tuần nay tôi ở nhà nhưng không nghe một tin tức gì về vụ án cả.- Đúng. Vì vụ giết người chưa xảy ra và bổn phận của tôi là ngăn chận tội ác đó.Một vài con ong vò vẽ bay lảng đãng trên những cành hồng. Poirot nhìn về phía chạc cây gần hàng hiên:- Tổ ong khá lớn đấy, phải phá đi thôi.Câu chuyện đột ngột xoay sang hướng khác. Harisson gật đầu:- Tôi cũng có ý định như vậy nên đã nhờ Linston làm việc này. Anh nhớ Linston chứ, anh chàng đã từng có mặt trong bữa ăn dạo chúng ta vừa mới quen nhau đó. - Tôi nhớ rồi. Vậy anh định diệt tổ ong bằng cách nào? Có dùng Cyanur Kali không?- Không, đó là loại thuốc độc giết người rất nguy hiểm. Linston chỉ cần phun xăng vào tổ ong là đủ.- Anh có tin là Linston sẽ dùng xăng để diệt tổ ong không?- Sao anh lại nói thế?- Vừa rồi tôi có ghé cửa hàng bán thuốc, tình cờ thấy trong sổ có ghi tên Linston mua một lượng Cyanur đáng kể. - Ủa, chính anh ta cam đoan với tôi là không bao giờ dùng chất độc để diệt tổ ong cơ mà.Poirot im lặng nhìn ngắm những cánh hồng lung linh trong gió. Một lát, ông quay sang Harisson, nhìn chăm chú:- Anh có cảm tình với Linston không?- Tôi... sao anh lại hỏi kỳ cục vậy?- Xin lỗi anh, tôi muốn nói với anh một sự thật. Anh nên đề phòng, Linston có thể giết anh đấy. Anh là tình địch của anh ta kia mà. Có đúng thế không?- Đúng nhưng mà... không. Molly yêu tôi và đồng ý lấy tôi mà.- Nhưng cô ấy trước kia là người yêu của Linston.- Poirot, tôi cam đoan là anh đã lầm. Linston là người quân tử. Dù biết Molly bỏ rơi anh ta để lấy tôi, anh ta vẫn bình tĩnh giữ hòa khí giữa chúng tôi.- Một con người kín đáo thường nuôi lòng thù hận sâu sắc, chờ cho đến lúc thuận tiện... Harisson lắc đầu mỉm cười:- Không có đâu!Thanh tra Poirot chợt nổi nóng:- Người Anh các anh thật là kỳ cục. Các anh tưởng mình có khả năng lừa thiên hạ thì luôn luôn tốt bụng không hề biết trả đũa là gì. Các anh ngây ngô quá, coi chừng uổng mạng vô ích đấy.- Nghĩa là anh muốn tôi cảnh giác, đề phòng Linston? Cảm ơn anh, nhưng người Anh chúng tôi không phải lúc nào cũng muốn cắm dao vào lưng tình địch của mình. Anh hoàn toàn không hiểu Linston, anh ta không bao giờ hạ thấp nhân phẩm của mình bằng cách đầu độc kẻ khác. Anh ta lại hiền lành, một con ruồi cũng không muốn đập nữa là.- Nhưng Linston sắp giết chết hàng ngàn con ong. Tôi xin hỏi anh một câu, mấy giờ anh ta đến đây để diệt tổ ong?- Đúng chín giờ tối nay, nhưng anh Poirot à... - Thôi, tôi có việc phải đi ngaỵ Linston có dùng Cyanur hay không thì mặc xác anh tạ Tối nay tôi sẽ đến, tôi rất thích xem diệt tổ ong. Chắc đó là một môn thể thao mới của người Anh.Không đợi bạn trả lời, Poirot đứng dậy, nhanh nhẹn đi ra cổng. Trăng non vừa lên sau rặng cây xạ Trời trong và mát. Poirot tiếp tục đi về phía cuối làng, không khí ở đây thật trong lành. Ông đưa tay xem đồng hồ. Còn sớm quá. Ông bước vào một quán nhỏ gọi một chén xúp nhẹ.Vài phút trước chín giờ, Poirot đã có mặt trước ngôi biệt thự của Harisson. Ông thấy một thanh niên đẩy cánh cổng sơn trắng bước ra ngoài, đó là Linston. Anh ta cũng vừa nhận ra Poirot:- Chào ông. Ông đi đâu thế này?- Chào anh bạn trẻ. Tôi đến xem anh diệt tổ ong đây. Sao, anh diệt xong rồi à?- Diệt cái gì? Ông nói tôi chả hiểu gì cả. Ông Harisson nhắn tôi đến có chút việc, thế thôi. Chào ông nhé.Linston vội vã đi ngaỵ Poirot nhìn theo chép miệng:- Anh ta đẹp trai nhưng có vẻ nhu nhược.Poirot bước vào, băng qua những khóm hồng và bắt gặp Harisson đang ngồi im như pho tượng, cạnh chiếc bàn dưới mái hiên. Ông chả thèm nhìn lại khi Poirot đến gần:- Anh vẫn bình yên chứ?Không nghe trả lời Poirot hỏi tiếp:- Anh không cảm thấy khó chịu chứ?Harisson gắt:- Anh nói vớ vẩn gì thế? Sao lại khó chịu? Khó chịu vì cái gì?Poirot chậm rãi:- Khó chịu vì gói carbonat mà tôi đã nhét vào túi áo anh lúc nãy đó. Harisson đứng bật lên:- Anh nói sao? Anh chơi trò gì với tôi thế?Nhìn nét mặt bàng hoàng của Harisson, Poirot từ tốn:- Anh biết không, vì ơn nghĩa, một tên móc túi chuyên nghiệp đã dạy cho tôi thành thạo một món nghề. Đó là biệt tài thọc tay vào túi bất cứ ai mà người đó không hề hay biết. Tôi có thể lấy đồ vật trong túi người đối diện rồi thay vào đó một thứ khác rất dễ dàng.Poirot lấy ra khỏi túi mình gói nylon chứa một ít tinh thể trắng, ngắm nhìn và lẩm bẩm:- Rõ ràng, mang Cyanur theo cách này là thiếu khôn ngoan.Ông lại lấy trong túi ra một chai nước nhỏ, hòa một ít Cyanur vào rồi lắc mạnh, xong tiến về phía chạc cây có tổ ong vò vẽ, đổ nước vào tổ rồi lùi lại chờ kết quả. Vài con ong trở về, vừa chạm đến tổ, bỗng co giật và lăn quay ra chết. Poirot lắc đầu rồi quay trở lại, nói với Harisson:- Chết nhanh thật. Như vừa qua cơn choáng, Harisson hét lên:- Hãy nói đi, anh đã biết được điều gì?- Như tôi đã nói, tôi thấy tên của Linston trong sổ ghi chất độc ở cửa hàng. Nhưng có điều tôi không nói với anh là sau đó tôi đã gặp Linston, Linston nói chính anh đã nhờ anh ta mua Cyanur để diệt ong. Tôi hơi ngạc nhiên vì tôi biết anh luôn phản đối việc dùng Cyanur, vì chất này quá nguy hiểm. Khi đó, tôi cũng đã được chứng kiến cảnh âu yếm giữa Molly và Linston, chứng tỏ họ đã làm lành với nhau. Có thể Molly nhận lời lấy anh trong một cơn bốc đồng vì giận Linston mà thôi.Ngừng một lát, Poirot nói tiếp:- Tôi còn biết một điều nữa, căn bệnh nan y của anh... bác sỹ đã bó tay rồi, phải không?- Vâng, tôi chỉ còn sống hai tháng nữa.- Harisson, tôi đã đọc được trong mắt anh sự hận thù. Hôm nay, đi qua vùng này, tình cờ tôi thấy tên Linston trong sổ hiệu thuốc, tôi đã tìm gặp anh ta trước khi đến thăm anh. Tôi đã lập mưu lừa anh, anh chối là không bảo Linston mua Cyanur, nói đúng ra là anh giả bộ ngạc nhiên. Đầu tiên, việc tôi đến thăm làm anh mất phương hướng, sau đó anh lợi dụng tôi để phục vụ ý đồ của anh. Tôi lại biết qua Linston rằng, anh nhắn anh ta đến lúc tám rưỡi, vậy mà anh lại nói với tôi là chín giờ. Anh hy vọng khi tôi đến thì âm mưu đã hoàn thành rồi, phải không?- Âm mưu gì?- Anh tự tử bằng chính Cyanur anh để trong túi áo. Cái chết của anh nhanh và dễ nhưng cái chết mà anh định dành cho Linston là cái chết khổ nhục trong tù. Anh ta có tên trong sổ mua thuốc độc, đến thăm anh, và sau đó anh chết đột ngột, ly nước anh uống có Cyanur, thế là Linston đền mạng, hạnh phúc tan vỡ, phải chăng đó là kế hoạch của anh?Harisson nói như khóc:- Hãy để cho tôi chết, tại sao anh lại đánh tráo gói Cyanur của tôi?- Đó là trách nhiệm, là lương tâm nghề nghiệp của tôi. Ngoài ra, còn một lý do nữa. Tôi rất quý mến anh. Hãy nghe tôi. Bệnh anh không thể qua khỏi, người con gái anh yêu cũng từ bỏ anh, nhưng vì lòng hờn ghen ích kỷ mà hại người lương thiện. Bản chất anh không ác như thế. Nói đi anh, anh thấy nhẹ nhõm hay lấy làm tiếc khi tôi có mặt lúc này?Im lặng một lát, Harisson nắm chặt bàn tay Poirot, đôi mắt sáng lên ánh tự hào vì đã chiến thắng được lòng ghen tị nhỏ nhen của mình:- Poirot ơi, anh đến thật đúng lúc! Hết
Mục lục
Người phá tổ ong
Người phá tổ ong
Agatha ChristieChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.
Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: mây4phươngĐược bạn: Thành Viên VNthuquan đưa lên vào ngày: 27 tháng 12 năm 2003
|
Agatha Christie
Người phá tổ ong
Vào một buổi chiều đẹp trời tại ngôi làng xinh đẹp vùng ngoại ô, thanh tra Poirot thong thả đếm bước trên con đường cát mịn dẫn đến ngôi biệt thự nên thơ có vườn hồng bao quanh.Đứng trước cánh cổng gỗ sơn trắng, Poirot đưa tay bấm chuông. Chính chủ nhân - John Harisson - ra mở cửa cho ông. Đó là một người đàn ông trung niên, cao lớn, khá bảnh trai, tuy nhiên nước da không được tốt, mai mái xanh như người có bệnh. Ông ta vui mừng khi nhận ra Poirot:- Ôi anh Poirot, ngọn gió nào đưa rồng đến nhà tôm vậy?- Tôm đến nhà rồng thì đúng hơn. Vườn hồng của anh đẹp quá.Harisson chỉ vào bộ bàn ghế mây đặt dưới giàn hoa thiên lý:- Anh ngồi chơi để tôi vào trong tìm cái gì uống cho vui.- Anh cho tôi một ly sô đa không whisky.Harisson trở ra ngay:- Hôm nay anh rảnh rỗi để đi du ngoạn đấy à? Anh làm tôi ngạc nhiên quá.- Không đâu, tôi đang trên đường đi điều tra một vụ án.Harisson nhìn Poirot:- Có nghiêm trọng lắm không?- Hết sức nghiêm trọng, vì đây là một vụ giết người.- Trong vùng này ư?Poirot gật đầu. Harisson nhún vai:- Vậy thì anh lầm rồi. Suốt tuần nay tôi ở nhà nhưng không nghe một tin tức gì về vụ án cả.- Đúng. Vì vụ giết người chưa xảy ra và bổn phận của tôi là ngăn chận tội ác đó.Một vài con ong vò vẽ bay lảng đãng trên những cành hồng. Poirot nhìn về phía chạc cây gần hàng hiên:- Tổ ong khá lớn đấy, phải phá đi thôi.Câu chuyện đột ngột xoay sang hướng khác. Harisson gật đầu:- Tôi cũng có ý định như vậy nên đã nhờ Linston làm việc này. Anh nhớ Linston chứ, anh chàng đã từng có mặt trong bữa ăn dạo chúng ta vừa mới quen nhau đó. - Tôi nhớ rồi. Vậy anh định diệt tổ ong bằng cách nào? Có dùng Cyanur Kali không?- Không, đó là loại thuốc độc giết người rất nguy hiểm. Linston chỉ cần phun xăng vào tổ ong là đủ.- Anh có tin là Linston sẽ dùng xăng để diệt tổ ong không?- Sao anh lại nói thế?- Vừa rồi tôi có ghé cửa hàng bán thuốc, tình cờ thấy trong sổ có ghi tên Linston mua một lượng Cyanur đáng kể. - Ủa, chính anh ta cam đoan với tôi là không bao giờ dùng chất độc để diệt tổ ong cơ mà.Poirot im lặng nhìn ngắm những cánh hồng lung linh trong gió. Một lát, ông quay sang Harisson, nhìn chăm chú:- Anh có cảm tình với Linston không?- Tôi... sao anh lại hỏi kỳ cục vậy?- Xin lỗi anh, tôi muốn nói với anh một sự thật. Anh nên đề phòng, Linston có thể giết anh đấy. Anh là tình địch của anh ta kia mà. Có đúng thế không?- Đúng nhưng mà... không. Molly yêu tôi và đồng ý lấy tôi mà.- Nhưng cô ấy trước kia là người yêu của Linston.- Poirot, tôi cam đoan là anh đã lầm. Linston là người quân tử. Dù biết Molly bỏ rơi anh ta để lấy tôi, anh ta vẫn bình tĩnh giữ hòa khí giữa chúng tôi.- Một con người kín đáo thường nuôi lòng thù hận sâu sắc, chờ cho đến lúc thuận tiện... Harisson lắc đầu mỉm cười:- Không có đâu!Thanh tra Poirot chợt nổi nóng:- Người Anh các anh thật là kỳ cục. Các anh tưởng mình có khả năng lừa thiên hạ thì luôn luôn tốt bụng không hề biết trả đũa là gì. Các anh ngây ngô quá, coi chừng uổng mạng vô ích đấy.- Nghĩa là anh muốn tôi cảnh giác, đề phòng Linston? Cảm ơn anh, nhưng người Anh chúng tôi không phải lúc nào cũng muốn cắm dao vào lưng tình địch của mình. Anh hoàn toàn không hiểu Linston, anh ta không bao giờ hạ thấp nhân phẩm của mình bằng cách đầu độc kẻ khác. Anh ta lại hiền lành, một con ruồi cũng không muốn đập nữa là.- Nhưng Linston sắp giết chết hàng ngàn con ong. Tôi xin hỏi anh một câu, mấy giờ anh ta đến đây để diệt tổ ong?- Đúng chín giờ tối nay, nhưng anh Poirot à... - Thôi, tôi có việc phải đi ngaỵ Linston có dùng Cyanur hay không thì mặc xác anh tạ Tối nay tôi sẽ đến, tôi rất thích xem diệt tổ ong. Chắc đó là một môn thể thao mới của người Anh.Không đợi bạn trả lời, Poirot đứng dậy, nhanh nhẹn đi ra cổng. Trăng non vừa lên sau rặng cây xạ Trời trong và mát. Poirot tiếp tục đi về phía cuối làng, không khí ở đây thật trong lành. Ông đưa tay xem đồng hồ. Còn sớm quá. Ông bước vào một quán nhỏ gọi một chén xúp nhẹ.Vài phút trước chín giờ, Poirot đã có mặt trước ngôi biệt thự của Harisson. Ông thấy một thanh niên đẩy cánh cổng sơn trắng bước ra ngoài, đó là Linston. Anh ta cũng vừa nhận ra Poirot:- Chào ông. Ông đi đâu thế này?- Chào anh bạn trẻ. Tôi đến xem anh diệt tổ ong đây. Sao, anh diệt xong rồi à?- Diệt cái gì? Ông nói tôi chả hiểu gì cả. Ông Harisson nhắn tôi đến có chút việc, thế thôi. Chào ông nhé.Linston vội vã đi ngaỵ Poirot nhìn theo chép miệng:- Anh ta đẹp trai nhưng có vẻ nhu nhược.Poirot bước vào, băng qua những khóm hồng và bắt gặp Harisson đang ngồi im như pho tượng, cạnh chiếc bàn dưới mái hiên. Ông chả thèm nhìn lại khi Poirot đến gần:- Anh vẫn bình yên chứ?Không nghe trả lời Poirot hỏi tiếp:- Anh không cảm thấy khó chịu chứ?Harisson gắt:- Anh nói vớ vẩn gì thế? Sao lại khó chịu? Khó chịu vì cái gì?Poirot chậm rãi:- Khó chịu vì gói carbonat mà tôi đã nhét vào túi áo anh lúc nãy đó. Harisson đứng bật lên:- Anh nói sao? Anh chơi trò gì với tôi thế?Nhìn nét mặt bàng hoàng của Harisson, Poirot từ tốn:- Anh biết không, vì ơn nghĩa, một tên móc túi chuyên nghiệp đã dạy cho tôi thành thạo một món nghề. Đó là biệt tài thọc tay vào túi bất cứ ai mà người đó không hề hay biết. Tôi có thể lấy đồ vật trong túi người đối diện rồi thay vào đó một thứ khác rất dễ dàng.Poirot lấy ra khỏi túi mình gói nylon chứa một ít tinh thể trắng, ngắm nhìn và lẩm bẩm:- Rõ ràng, mang Cyanur theo cách này là thiếu khôn ngoan.Ông lại lấy trong túi ra một chai nước nhỏ, hòa một ít Cyanur vào rồi lắc mạnh, xong tiến về phía chạc cây có tổ ong vò vẽ, đổ nước vào tổ rồi lùi lại chờ kết quả. Vài con ong trở về, vừa chạm đến tổ, bỗng co giật và lăn quay ra chết. Poirot lắc đầu rồi quay trở lại, nói với Harisson:- Chết nhanh thật. Như vừa qua cơn choáng, Harisson hét lên:- Hãy nói đi, anh đã biết được điều gì?- Như tôi đã nói, tôi thấy tên của Linston trong sổ ghi chất độc ở cửa hàng. Nhưng có điều tôi không nói với anh là sau đó tôi đã gặp Linston, Linston nói chính anh đã nhờ anh ta mua Cyanur để diệt ong. Tôi hơi ngạc nhiên vì tôi biết anh luôn phản đối việc dùng Cyanur, vì chất này quá nguy hiểm. Khi đó, tôi cũng đã được chứng kiến cảnh âu yếm giữa Molly và Linston, chứng tỏ họ đã làm lành với nhau. Có thể Molly nhận lời lấy anh trong một cơn bốc đồng vì giận Linston mà thôi.Ngừng một lát, Poirot nói tiếp:- Tôi còn biết một điều nữa, căn bệnh nan y của anh... bác sỹ đã bó tay rồi, phải không?- Vâng, tôi chỉ còn sống hai tháng nữa.- Harisson, tôi đã đọc được trong mắt anh sự hận thù. Hôm nay, đi qua vùng này, tình cờ tôi thấy tên Linston trong sổ hiệu thuốc, tôi đã tìm gặp anh ta trước khi đến thăm anh. Tôi đã lập mưu lừa anh, anh chối là không bảo Linston mua Cyanur, nói đúng ra là anh giả bộ ngạc nhiên. Đầu tiên, việc tôi đến thăm làm anh mất phương hướng, sau đó anh lợi dụng tôi để phục vụ ý đồ của anh. Tôi lại biết qua Linston rằng, anh nhắn anh ta đến lúc tám rưỡi, vậy mà anh lại nói với tôi là chín giờ. Anh hy vọng khi tôi đến thì âm mưu đã hoàn thành rồi, phải không?- Âm mưu gì?- Anh tự tử bằng chính Cyanur anh để trong túi áo. Cái chết của anh nhanh và dễ nhưng cái chết mà anh định dành cho Linston là cái chết khổ nhục trong tù. Anh ta có tên trong sổ mua thuốc độc, đến thăm anh, và sau đó anh chết đột ngột, ly nước anh uống có Cyanur, thế là Linston đền mạng, hạnh phúc tan vỡ, phải chăng đó là kế hoạch của anh?Harisson nói như khóc:- Hãy để cho tôi chết, tại sao anh lại đánh tráo gói Cyanur của tôi?- Đó là trách nhiệm, là lương tâm nghề nghiệp của tôi. Ngoài ra, còn một lý do nữa. Tôi rất quý mến anh. Hãy nghe tôi. Bệnh anh không thể qua khỏi, người con gái anh yêu cũng từ bỏ anh, nhưng vì lòng hờn ghen ích kỷ mà hại người lương thiện. Bản chất anh không ác như thế. Nói đi anh, anh thấy nhẹ nhõm hay lấy làm tiếc khi tôi có mặt lúc này?Im lặng một lát, Harisson nắm chặt bàn tay Poirot, đôi mắt sáng lên ánh tự hào vì đã chiến thắng được lòng ghen tị nhỏ nhen của mình:- Poirot ơi, anh đến thật đúng lúc! Hết
Mục lục
Người phá tổ ong
Người phá tổ ong
Agatha ChristieChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.
Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: mây4phươngĐược bạn: Thành Viên VNthuquan đưa lên vào ngày: 27 tháng 12 năm 2003
|
Nhất Linh
Người quay tơ
Tử Nương là một người con gái thôn quê làm nghề chăn tằm, ươm tơ, ở làng Xuân Nghi huyện Hồng Lạc. Nhà nghèo, cha mẹ đã già, làm lụng để nuôi hai thân. Cô trông xinh lắm, người thanh thanh vừa tầm, hai con mắt êm đẹp, mỗi khi trời nắng, gió lạnh, cô ra sân hai tay ngọc xe sợi tơ vàng dệt lụa là cho người trong làng mặc. Một hôm, đương ngồi quay tơ ngoài sân thời có một người học trò nho đi qua, thấy nàng đẹp quá mê đứt đi, ngày nào cũng hai lần trèo qua cái đồi cao, sang để gặp mặt nàng như thế, được gần một năm. Về sau nàng biết mà cảm thương, đem lòng mến. Mùa đông gió trên đồi thổi mạnh, lắm hôm rét quá mà nàng cũng chịu khó ra ngồi quay tơ ngoài sân cho người học trò được trông thấy mặt.Tin đi mối lại rồi hai người lấy nhau, lúc ấy nàng mới có mười sáu tuổi. Nhà chồng nghèo nàng vẫn giữ nghề cũ nuôi chồng đi học, năm sau đỗ tú tài. Hai vợ chồng hòa hợp thương yêu nhau lắm, lấy nhau được trên hai năm cũng chưa có con cái gì. Một hôm ông tú gọi nàng đến, khóc và dặn rằng:- Tôi đi phen này chưa biết bao giờ về, mà tôi cũng không mong đâu trở về nữa, không biết có còn thấy được mặt nhau nữa không?Nàng nói:- Thôi tôi hiểu cả rồi, việc cửa nhà tôi xin thay, chàng cứ yên tâm mà đi. Việc gì phải khóc lóc thế. Làm tài trai trong nước mà không được như người con gái quê mùa này ư?Nhưng nàng nói thế rồi nàng cũng khóc theo. Ông tú lên Hà Nội, rồi đi đâu mất, họ đồn là theo bọn văn thân. Mấy tháng sau có mật thám về bắt bà cụ chánh là bà mẹ ông tú và từ đường lên tra hỏi. Lúc mới đến, nàng biết ngay, mặt tái ngắt, song gượng lại ngay mà nói:- Các bác cứ để yên tự khắc bà tôi và tôi sẽ lên, chúng tôi không việc gì mà phải trốn, không cần phải xích tay, xích chân gì cả.Các bác kia thấy người con gái nhà quê mà ăn nói cứng cáp, khẳng khái, bằng lòng để cho hai mẹ con được tự do.Ông tú phải đi đầy Côn Lôn chung thân: nàng lại đem bà Huấn về quê giữ cái guồng tơ khung củi để lấy tiền phụng dưỡng thay chồng. Như thế được bốn năm trời: từ mẹ chồng cho đến người trong họ ai ai cũng cho phép nàng cải giá, nàng nhất định không lấy ai cả, quyết giữ lời thề với người cũ. Ông tú ở Côn Lôn cũng mấy bận viết thư về khuyên nàng, bắt nàng lấy người khác, lời lẽ thảm thiết thương. Nàng xem thư chỉ khóc rồi có khi nào nhớ chồng, lên tít trên đỉnh đồi cao mà đứng trông, có khi về nhà bố mẹ đẻ ra ngồi quay tơ ngoài sân, tưởng tượng đến lúc gặp gỡ, người thư sinh từ mấy năm về trước; những lúc ấy thời nàng lại đẹp lên bội phần, ai cũng thương mà ai cũng yêu, trong làng nhiều người rắp ranh bắn sẻ: một ông giáo có quen ông tú, góa vợ đã lâu cũng đem bụng yêu nàng, cho mỗi sang hỏi. Lúc mối sang, nàng biết ngay, than rằng: - Ai ngờ bác giáo mà cũng đến như thế ư!Nói xong mắng mối đuổi ra. Ai cũng giận mà ai cũng mến nàng hơn trước. Bà cụ Huấn mất, nàng làm ma chay cho chu đáo, rồi lên tỉnh xin phép đi theo chồng. Xin mãi mới được phép, Nhà nước lại cho cả tiền tầu nữa.Nàng về quê thu xếp, rồi một thân một mình ra đi, đất lạ quê người. Nàng ở bên ấy với chồng khổ sở trong ba năm, sinh được một đứa con trai thời ông tú bảo nàng về:- Như tôi chiếc thân đầy đoạn đã đành chứ vợ con tôi thời có tội tình gì, nay đã được đứa con để nối dõi thời mợ đem con về nước, cố mà nuôi cho nên người khí khái, chứ ở đây với tôi mãi, thời chỉ thêm phí hai đời người nữa mà thôi. Còn tôi... tôi cũng không định sống lâu đâu, xin đừng tơ tưởng đến tôi nữa!Nói xong, nắm tay vợ khóc mà từ biệt.Hôm nghe tin nàng đem con về, cả làng Xuân Nghi ai ai cũng rủ nhau ra quán đón mừng. Lúc nàng bế con ở trên xe xuống hai con mắt ngơ ngẩn đưa nhìn khắp hết người làng, trông nàng có cái vẻ thần tiên: nàng có vẻ cảm động quá ứa nước mắt mà khóc, người làng cũng nhiều người khóc theo.Nàng thấy ai cũng có bụng kính mến, nên vui lòng mà làm ăn, tậu được cái nhà con ở chân đồi ngày ngày đi buôn hàng tấm. Một hôm nàng đang ngồi chơi với con thời có giấy về báo tin rằng ông tú tự tử mất đã được hơn một tháng rồi. Nàng ôm con vào lòng rồi ngã xuống ngất người đi. Mấy ngày hôm sau mới nhận được bức thư ông tú gởi về từ biệt.Nàng cũng khuây dần: có lẽ nàng nghĩ mình đã có con cũng đủ, và một đằng sống một đằng chết, sống mà cũng như chết, thời thà chết còn hơn, linh hồn mới có thể về cùng vợ cùng con được.Năm sau những người phải tội đi đầy chung thân với ông tú được tha cả. Nàng cũng biết tin ấy, thế có ai oán không? Đứa con nàng tự nhiên phải bệnh chết, nàng hóa điên từ đấy; bây giờ cứ đi lang thang, hát nghêu ngao, nhưng thường thường nàng hay về nhà bố mẹ đẻ, lấy cái guồng năm xưa ra quay tơ, quay cả ngày mà không biết mỏi, thỉnh thoảng có hát lên mấy câu.Mới đầu cũng thương hại, song nghĩ cho kỹ thời thế lại hay cho nàng đấy, có lẽ thế mà lại xong, thật đấy nàng là người sung sướng nhất đời còn chúng mình đây không được như nàng phải đầy đọa chung thân. ừ, thử nghĩ xem sống mà đeo cái đau khổ suốt đời, cái đau khổ không bao giờ khuây được chỉ có một cách là tự diệt mình mới thoát ly, thời cái điên là chẳng nên ước lắm sao? Nàng không biết mình là khổ thời nàng là người tiên rồi. Ôi! Nhưng bây giờ Tử Nương còn biết gì nữa, nàng có nhớ đến chồng con nàng nữa đâu, ai đã yêu nàng, nàng có nhớ đâu mà nàng còn yêu ai nữa, nàng chỉ ngày ngày thơ thẩn một mình lên tít đỉnh đồi cao mà đứng trông... Nhưng nàng trông ai bây giờ?Đường trần mới đến nửa chừng,Mà guồng tơ cũ đã ngừng bánh xưa.Rút từ tập truyện ngắn Người quay tơ, Nxb. Đời nay, Hà Nội, 1927
Mục lục
Người quay tơ
Người quay tơ
Nhất LinhChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.
Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: HùngĐược bạn: Thành Viên VNthuquan đưa lên vào ngày: 27 tháng 12 năm 2003
|
Nhat Linh
Spinner
Tu Nuong is a rural girl who works as a silkworm herder and silk reeler in Xuan Nghi village, Hong Lac district. The family is poor, parents are old, working hard to support two families. She looked very pretty, her body was slender, her eyes were beautiful, every time it was sunny or cold wind, she went out to the yard with her hands to spin yellow silk thread and weave silk for the people in the village to wear. One day, while sitting in the yard spinning silk, a scholar passed by. Seeing her beauty, he was so captivated that he climbed over the high hill twice a day to meet her like that, for nearly a year. . Later, she learned that she felt sorry for him and fell in love. In the winter, the wind on the hill blew strongly, and many days it was so cold that she took the trouble to sit and spin silk in the yard so that her student could see her face. The relationship was mutual and the two got married, and at that time she was only sixteen years old. . Her husband's family was poor, so she still kept her old job and sent her husband to school. The following year, he passed the baccalaureate. The couple is compatible and loves each other very much. They have been married for more than two years and do not have any children. One day, the man called her to come, crying and saying: - I'm going this far and don't know when I'll be back, and I don't expect to come back anymore, I don't know if we'll ever see each other again? She said: - Okay. I understand everything, I'll take care of the house, you can rest assured. What's the point of crying? Being a talented man in the country, you can't be like this country girl? But when she said that, she also cried. He went to Hanoi, then disappeared, rumored to have followed the literati. A few months later, a secret agent came to arrest the old lady, who was actually the mother of the monk, and came from the street to interrogate her. When she first arrived, she knew right away, her face turned pale, but she quickly regained her composure and said: - You guys, just leave it alone and my grandmother and I will come up, we have nothing to hide, no need to chain our hands or chains. They had no legs at all. The other men saw the girl from the countryside, spoke firmly and firmly, and were willing to let the mother and daughter be free. The uncle had to go to Kunlun for life: she brought Mrs. Huan back to the countryside. keep the silk reel and firewood frame to get money to support her husband. It's been like that for four years: from her mother-in-law to her family members, everyone allowed her to remarry. She was determined not to marry anyone, determined to keep her vow to her ex. The uncle in Kunlun also wrote many letters to advise her, forcing her to marry someone else, his words were pitiful and pitiful. She only cried when she read the letters, but sometimes she missed her husband. She went up to the top of a high hill and stood there watching. Sometimes she returned to her parents' house and sat spinning silk in the yard, imagining that when she met her, the scholar from a few years ago would return. before; At those times, she became even more beautiful, everyone loved her and everyone loved her. In the village, many people were ready to shoot spies: a teacher who knew him and had been a widower for a long time also fell in love with her and let him come over every time to ask her. . When the termites arrived, she immediately knew and complained: - Who would have thought that the teacher would also come like that! After saying that, she scolded the termites and chased them out. Everyone was angry but everyone loved her more than before. When Mrs. Huan passed away, she arranged her funeral carefully, then went to the province to ask for permission to follow her husband. After asking for permission, the State even gave her money for the train. She returned to her hometown to make arrangements, then left alone, in a strange land. She lived there with her husband and suffered for three years, giving birth to a son. When her husband told her to return: - Like me, my body was completely broken, what sin did my wife and children have, now they have a child to leave. To continue my legacy, I brought my child back to the country and tried to raise him to be a virtuous person, but staying here with me forever would only waste two more lives. As for me... I don't intend to live long, please don't think about me anymore! Having finished speaking, he held his wife's hand and cried goodbye. The day he heard that she was bringing her child back, everyone in Xuan Nghi village invited each other to come out. welcoming restaurant. When she carried her child from the car down, her two bewildered eyes looked around at all the villagers, she looked like a fairy: she seemed so moved that she cried, many of the villagers also cried. She saw Everyone was respectful, so they were happy to do business and bought a house at the foot of the hill to sell broken goods every day. One day, while she was playing with her children, a letter came home informing her that her grandfather had committed suicide more than a month ago. She held her child in her arms and fell down, fainting. A few days later, she received a letter from him saying goodbye. She was also gradually relieved: perhaps she thought that having a child was enough, and that one way was to live and the other to die. More importantly, the soul can return to his wife and children. Next year, those who have committed the crime of living with him will be forgiven. She also knows the news, so is there any resentment? Her child suddenly fell ill and died, from then on she went crazy; Now she just wanders around and sings, but usually she goes back to her parents' house, takes out her old reel and spins silk, spinning all day without getting tired, sometimes singing a few lines. At first it was okay. pity, but if you think carefully, the times will be good for her, maybe that's the end of it, really she is the happiest person in the world and we are not like her and must be condemned to death. Yes, think about living with suffering all your life, suffering that can never be relieved, the only way is to destroy yourself to escape, then wouldn't it be too much to wish for madness? She didn't know she was miserable when she was a fairy. Oh! But now Tu Nuong knows nothing more, she doesn't remember her husband and children anymore, who loved her, she doesn't remember who she loves anymore, she just wanders alone every day to the top of the high hill. standing and looking... But who is she looking for now? The road has only reached the halfway point, but the old silk reel has stopped spinning. Extracted from the short story collection The Spinner, Publishing House. Today, Hanoi, 1927
Table of contents
Spinner
Spinner
Nhat LinhWelcome to read books from the book project for mobile devices. Source: author: Nguyen Kim Vy.
Final words: Thank you for reading the entire story. Source: editor: Nguyen Kim Vy. Source: Hung Posted by friend: Member VNthuquan on: December 27, 2003
|
Thái Bá Tân
Người rách bóng
Dạo ấy tôi trẻ và còn hăng lắm. Chưa vấp váp, chưa khổ đau, cứ ngẩng cao đầu bước đi giữa phố. Những bước đi tự tin không biết sợ, và thường được nhấn thêm bằng đế đôi giày da bóng lộn.Một hôm tôi chững chạc bước như thế trong công viên thành phố, còn thích thú di di gót giày sau mỗi bước đi. Lúc ấy là xế chiều một ngày đầu đông nắng đẹp. Công viên ít người, gió từ hồ Bẩy Mẫu thổi nhẹ, các luống hoa mới được tưới tươi rói, không tỏa mùi hương, mà mùi đất hăng nồng. Vâng, tôi bước đi như thế với cảm giác lâng lâng, yêu đời và yêu mình. Ối! Bỗng ai đó kêu lên đau đớn.Tôi giật mình đứng lại. Trên ghế đá ngay bên cạnh có người đang ôm mặt nhăn nhó. Ðó là một ông già khoảng sáu mươi lăm, bảy mươi tuổi, tóc bạc gần hết, đeo kính mắt tròn gọng kim loại, mặc bộ vét màu lông chuột đã cũ nhưng khá tươm tất, tuy hơi rộng so với thân hình gầy yếu của ông. Chiếc cà vạt rất ngay ngắn trên cổ nhưng hơi nhàu. Chiếc mũ phớt dạ bóp lõm phía trước đã sờn bóng ở các mép gờ. Chiếc ba-toong tựa bên ghế, hơi ngắn vì dùng nhiều đã mòn, tay cầm cong cong khảm bạc. Tóm lại, vẻ ngoài của ông toát ra cái gì đấy cổ kính một cách lạc lõng, một trí thức cũ không muốn hoặc không thể hòa nhập với cuộc sống mới.Tôi nhìn đôi mắt sáng ươn ướt chắc vì đau của ông già: Thưa bác, có chuyện gì thế ạ? Ông già ngước nhìn lên. Một khuôn mặt nhân hậu đầy nếp nhăn và những nốt đồi mồi. Anh đang dẫm lên bóng tôi, anh bạn trẻ ạ. - Ông nói bằng tiếng Pháp. - Xin làm ơn bước sang bên! Dẫm lên bóng? - Tôi ngạc nhiên thầm nghĩ. - Dẫm lên bóng mà lại đau, đến mức phải ôm mặt? Chỉ lúc ấy tôi mới để ý thấy chiếc bóng ông dưới chân mình. Mặt trời đã ngả về tây, không bị mây che nên sáng rực, chiếc bóng vì vậy khá dài, dù ông ngồi trên ghế. Tôi dẫm đúng vào vai chiếc bóng ấy. Vâng, xin làm ơn đứng xê ra hộ. Nhanh lên! Tôi vội lùi lại. Thật kỳ lạ. Chiếc bóng của ông bị kéo rê theo gót giày tôi, như thể nó dính vào đấy. Trong khi đó, ông già cúi xuống, nhẹ nhàng làm động tác luồn hai tay nâng chiếc bóng lên, kéo về phía mình. Rồi ông nhỏm dậy bảo tôi giơ chân để ông gỡ một góc chiếc bóng khỏi đế giày. Thì ra nó bị vướng một chiếc đinh. Thời đó, để gót giày không bị mòn vẹt, người ta thường đóng một lớp cao su bên dưới. Lớp cao su của tôi bị sứt một góc, để lộ mấy chiếc đinh. Chắc vì thế nó mới làm ông già đau. Anh xem này, nó bị thủng mấy chỗ! - ông già nói rồi giơ ngón tay chỉ, nhưng tôi không thấy gì.Tôi nhìn ông nâng niu đỡ chiếc bóng trên tay, ngạc nhiên đến mức không thốt nên lời. Trông nó như tấm vải phíp thật mịn, mỏng và nhẹ, màu xanh thẫm chứ không hoàn toàn đen như thoạt tưởng. Lần sau xin anh nhẹ chân và cẩn thận nhìn xuống lúc đi đường . Ông già khẽ nói, vẫn bằng tiếng Pháp, thứ tiếng Pháp của những năm bốn mươi thế kỷ trước.Ông thận trọng trải chiếc bóng xuống đất vào vị trí cũ.Không phải không thoáng lo sợ, tôi ấp úng xin lỗi rồi vội bỏ đi, vẫn chưa hết bàng hoàng với những gì mới xẩy ra.Nửa tháng sau tôi lại đi dạo trong công viên, lại thấy ông già ấy ngồi sưởi nắng trên chiếc ghế đá quen thuộc. Dưới chân ông là chiếc bóng đang lặng lẽ nằm yên. Tôi bước nhẹ chân, cố không dẫm lên nó. Cảm ơn , ông già nói khi nhận ra tôi, mỉm cưòi yếu ớt.Cảm ơn vì tôi đã tránh không dẫm lên chiếc bóng! Thấy ông thân thiện, tôi nhìn xuống nửa ghế trống ra ý muốn ngồi cùng. Ông gật đầu. Thực ra tôi chẳng hào hứng gì khi tiếp xúc với một người kỳ dị như ông, nhưng sự tò mò không cho phép cưỡng lại.Trông ông có vẻ ốm yếu hơn trước, như người đang bệnh, lưng hơi còng, đôi mắt sáng có phần đờ đẫn. Không ngờ cú dẫm của anh hôm nọ làm tôi đau đến thế. - Ông nói. - Nhưng tôi không trách, vì anh chỉ vô tình. Người trẻ thường hay vô tình . Cháu xin lỗi, - tôi đáp. - Thế... Thế cái bóng của bác lành lại chưa ạ? Chưa. Tồi tệ hơn, vết thương còn lây sang chỗ khác. Nên tôi mới thế này .Tôi do dự một chốc rồi rụt rè hỏi điều cứ làm tôi băn khoăn mãi: Thú thật với bác, cháu không hiểu vì sao ai đó có thể thấy đau khi bóng mình bị người khác dẫm lên . Ðơn giản vì anh bạn còn trẻ. Khi người ta già, từng trải, nếm hết mọi cái vui, cái buồn của đời, người ta sẽ trở nên nhạy cảm hơn với nỗi đau của mình và của người khác. Vì trẻ, anh chưa thấy đau, thậm chí chưa bao giờ nghĩ nghiêm túc rằng cái bóng là một bộ phận không thể tách rời của anh. Tôi dám chắc nhiều khi anh chẳng chút băn khoăn để bóng anh rơi xuống chỗ bẩn? Tôi gật đầu một cách thành thật. * Lần sau vào công viên, từ xa tôi thấy ông già đang ôm ngực, cúi người trên ghế đá. Chiếc bóng dưới chân không còn dài, màu cũng trở nên nhợt nhạt hơn. Nghĩa là bệnh ông nặng hơn. Vết rách trên chiếc bóng chắc rộng lắm, có thể đã lan khắp nơi. Hoặc sưng tấy, mưng mủ mà tôi không thấy. Tôi ái ngại nhìn ông, lòng bứt rứt và không dám lại gần.Lần sau nữa thì chẳng thấy ông đâu. Có lẽ ông đã chết. Chết vì vết thương tôi vô ý gây nên.Từ ấy đến nay đã nhiều năm trôi qua, nhiều đến mức bản thân tôi cũng trở thành một ông già, thỉnh thoảng cũng ra công viên ngồi sưởi nắng. Tôi vẫn thường nghĩ tới ông già có chiếc bóng rách ấy với mặc cảm day dứt của người có lỗi.Thỉnh thoảng cũng có người vô ý dẫm lên bóng tôi, nhưng tôi chưa bao giờ thấy đau. Việc này, thú thật, có làm tôi hơi buồn. Chẳng cắt nghĩa nổi vì sao, nhưng cứ buồn. Tôi không là người mê tín, không tin vào phép lạ và các chuyện ma quỉ. Ðến bây giờ tôi vẫn không hoàn toàn tin chuyện đã xẩy ra với ông già kia mà tôi có phần can dự. Nhưng cũng không hoàn toàn phủ nhận.Chí ít thì sau cái chết của ông, bao giờ tôi cũng nhắc mình cẩn thận không để bóng rơi vào chỗ bẩn thỉu, không dẫm lên bóng người khác và cũng không để người khác dẫm lên bóng mình.Hà Nội, 2003
Mục lục
Người rách bóng
Người rách bóng
Thái Bá TânChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.
Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: Thái Bá TânĐược bạn: Ct.Ly đưa lên vào ngày: 25 tháng 7 năm 2007
|
Thai Ba Tan
The person torn the ball
At that time I was young and still very enthusiastic. No stumbles, no suffering, just walk with your head held high in the middle of the street. The steps are confident and fearless, and are often accentuated by the soles of shiny leather shoes. One day I walked maturely like that in the city park, and enjoyed moving my heels with each step. It was late afternoon on a beautiful sunny early winter day. There are few people in the park, the wind from Bay Mau Lake blows gently, the newly watered flower beds are fresh, not emitting scent, but a strong earthy smell. Yes, I walk like that with a feeling of lightness, love for life and love for myself. Ouch! Suddenly someone cried out in pain. I was startled and stopped. On the stone bench right next to someone was clutching his face and grimacing. It was an old man about sixty-five or seventy years old, with mostly white hair, wearing round metal-rimmed glasses, and an old mouse-colored suit, but quite decent, although a bit loose compared to his thin body. grandfather. The tie is very neat on the neck but slightly wrinkled. The felt felt hat has a concave front and is frayed at the edges. The cane leans next to the chair, a bit short because it has been used a lot and is worn out, with a curved handle inlaid with silver. In short, his appearance exuded something ancient and out of place, an old intellectual who did not want or could not integrate into the new life. I looked at the old man's bright, wet eyes probably from pain: Dear Uncle, what's going on? The old man looked up. A kind face full of wrinkles and age spots. You're stepping on my shadow, young man. - He spoke in French. - Please step aside! Step on the ball? - I thought to myself in surprise. - Stepping on the ball hurts so much that you have to cover your face? Only then did I notice his shadow under my feet. The sun was leaning towards the west, not covered by clouds, so it was bright, so the shadow was quite long, even though he was sitting in a chair. I stepped right on that shadow's shoulder. Yes, please stand aside. Hurry up! I quickly backed away. Strange. His shadow dragged along the heel of my shoe, as if it were stuck there. Meanwhile, the old man bent down and gently used both hands to lift the ball and pull it towards him. Then he stood up and told me to raise my foot so he could remove a corner of the ball from the sole of his shoe. It turned out it had a nail stuck in it. At that time, to prevent shoe heels from wearing out, people often put a layer of rubber underneath. My rubber layer chipped off at one corner, revealing a few nails. That's probably why it hurt the old man. Look, it's got holes in it! - the old man said and raised his finger to point, but I couldn't see anything. I looked at him cradling the ball in his hand, so surprised that I couldn't speak. It looks like a very smooth fabric, thin and light, dark blue, not completely black as first thought. Next time, please be gentle and look down carefully when walking. The old man spoke softly, still in French, the French of the forties of the last century. He carefully spread the shadow on the ground in its original position. Not without a moment of fear, I faltered and apologized and quickly left. I left, still in shock at what had just happened. Half a month later, I walked in the park again and saw that old man sitting in the sun on a familiar stone bench. At his feet was a shadow lying quietly. I walked lightly, trying not to step on it. Thank you, the old man said when he recognized me, smiling weakly. Thank you for avoiding stepping on the shadow! Seeing that he was friendly, I looked down at the half-empty seat and wanted to sit with him. He nodded. Actually, I'm not excited about meeting a strange person like him, but my curiosity doesn't allow me to resist. He looks weaker than before, like someone who is sick, his back is slightly hunched, his eyes are bright and red. dull part. I didn't expect the step you stepped on the other day to hurt me so much. - He said. - But I don't blame you, because you were just unintentional. Young people are often unintentional. I'm sorry, - I replied. - So... Has your shadow healed yet? Not yet. Worse, the wound spreads to other places. That's why I'm like this. I hesitated for a moment and then timidly asked something that kept bothering me: To be honest, I don't understand why someone can feel pain when their shadow is stepped on by someone else. Simply because you are young. When people are old, experienced, and have tasted all the joys and sorrows of life, they will become more sensitive to their own pain and that of others. Because he was young, he never felt pain, and never even seriously thought that the shadow was an inseparable part of him. I'm sure there are times when you don't even worry about letting your shadow fall into the dirt? I nodded honestly. * The next time I entered the park, from afar I saw an old man holding his chest and bending over a bench. The shadow under my feet was no longer long, and the color also became paler. That means his illness is more serious. The tear in the shadow must have been very large and could have spread everywhere. Or swelling or pus that I don't see. I looked at him shyly, feeling uneasy and not daring to come closer. The next time I didn't see him anywhere. Maybe he's dead. Died from the wound I unintentionally caused. Since then, many years have passed, so much so that I myself have become an old man, sometimes going to the park to sit in the sun. I often think of the old man with the tattered shadow and the tormenting guilt of someone at fault. Occasionally someone accidentally steps on my shadow, but I have never felt pain. This, to be honest, makes me a little sad. I can't explain why, but I'm still sad. I'm not a superstitious person, I don't believe in miracles or ghost stories. Until now I still don't completely believe what happened to that old man in which I had a part to play. But I don't completely deny it. At least after his death, I always remind myself to be careful not to let the ball fall into the dirt, not to step on other people's shadows and also not to let others step on my own shadow. .Hanoi, 2003
Table of contents
The person torn the ball
The person torn the ball
Thai Ba TanWelcome to read books from the book project for mobile devices. Source: author: Nguyen Kim Vy.
Final words: Thank you for reading the entire story. Source: editor: Nguyen Kim Vy. Source: Thai Ba Tan Posted by friend: Ct.Ly on: July 25, 2007
|
Hà Đình Nguyên
Người Thế Vai
Mười giờ sáng chủ nhật, and đến. Chính xác như đã hẹn trong thư. Tim tôi đập thình thịch khi mở cửa đón anh. Anh nhìn sững tôi một lúc, rồi nhoẻn miệng cười: - Yên phải không? Tôi hơi lúng túng: - Vâng! Còn anh là Thành? - Đích thị! Anh cười sảng khoái. Tôi mời anh ngồi vào chiếc ghế đã dự định và xin phép vào trong lấy nước. Sau bức ngăn có trổ cửa sổ kéo rèm - ba ly nước cam vắt đã sẵn sàng. Tôi đặt hai ly vào khay, bưng lên ..... - Nhà có dễ kiếm không, anh Thành? - Dễ chứ! Vậy mà bấy lâu nay Yên cứ giấu mãi. Nếu như .... chắc gì Yên đã cho anh biết nhà. "Nếu như" thế nào - tôi chưa hình dung nổi, nhưng vẫn thở dài: - Anh hiểu cho ... Em là con gái, lại quen biết qua thư từ nên .... ít nhiều gì cũng phải "ý tứ" đôi chút - Nhưng .... từ hôm nay anh đã biết nhà của Yên rồi. Vậy Yên có cho phép anh thỉnh thoảng tới thăm Yên được không? Tôi lập lờ: - Yên nghĩ người trả lời câu hỏi này phải la anh mới đúng. Thành nhìn sâu vào mắt tôi: - Quen biết đã hơn một năm nay. Yên vẫn chưa tin anh sao? Tôi lại lửng lơ: - Lòng tin cũnng là một khái niệm mơ hồ, anh Thành à! Vậy đó, "quen biết" hơn một năm. Mới gặp lần đầu mà chưa chi Thànn và tôi - Không, Thành và Yên chứ - đã có chiều hướng ... xung khắc rồi. Thành móc ví lấy ra tấm ảnh chân dung. Anh rút bút ghi vào mặt sau: "Gửi Yên với tất cả lòng Tin-Yêu". Tưởng gì, việc này tôi củng đã dự kiến. Nhận tấm ảnh của Thành xong, Tôi vào phòng trong lấy ra cuốn Calendar đưa ra: - Em cũng có chút này tặng anh! Thành nhận cuốn lịch. Anh lật vài tờ rồi cười: - Còn thiếu lời đề tặng Yên à! Tôi đón lấy cây bút của anh. Nắn nót ghi vào trang lót. "Ghi tặng anh, đánh dấu ngày anh em mình gặp gỡ". Tôi chưa kịp đưa, Thành đã chồm người quay giựt phăng cuốn lịch trên tay tôi: - Em .... cô .... không phải là Yên! Đúng không? Tôi hụt hẫng, chới với: - Em ... tôi ..... - Đừng chối! Cô nên biết rằng nét chữ của Yên đã rất quen thuột đối với tôi. Nét chữ của cô thì khác hẳn. Yên là ai? Ở đâu? Đúng là vấn đề "So sánh tự dạng" nằm ngoài sự tiên liệu của tôi. Tôi thật sự bối rối, chưa kịp nghĩ ra cách nào để đối phó. Thành buông người xuống ghế. Cặp mắt của anh dại hẳn đi. - Yên là ai? .... Ở đâu ? ... Mà thôi, cũng chẳng có gì để tìm hiểu. Nhờ cô nói lại với Yên rằng: Đừng bao giờ đem tình cảm chân thành của người khác ra làm trò cười. Thôi, chào cô! Bức rèm lay động. Có tiếng loảng xoảng của đồ vật rơi. Thôi rồi .... Tôi nắm tay Thành níu lại: - Anh Thành! Anh muốn biết Yên là ai phải không? Mời anh theo tôi. Sau bức rèm - dưới nền nhà là những mảnh vỡ của ly cam vắt - xế qua một chút là Yên... Yên đang úp mặt vào đôi bàn tay khóc nức nở. Chiếc xe lăn - Yên đang ngồi run lên bần bật. Một thoáng thảng thốt trong mắt Thành. Nhưng rồi anh mỉm cười, bước tới .... - Chẳng có gì quan trọn đâu Yên. Thôi nào .... đừng khóc .... Những ngón tay của Thành khẽ vuốt nhẹ lên mái tóc Yên. Yên vẫn khóc ... Những ngón tay lại luồn hẳn vào mái tóc mềm dại và từng lọn tóc cứ nương theo năm kẽ tay anh ... chảy dài. - Yên! Thôi nào, đừng khóc ... Đừng nghĩ ngợi gì nửa nghe Yên .... Thành đây mà. Nhịp gõ trong lồng ngực tôi bỗng dịu hẵng ra và tôi ngượng nghịu nhận ra: lúc này mình là... người thừa! Hà Ðình Nguyên
Mục lục
Người Thế Vai
Người Thế Vai
Hà Đình NguyênChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.
Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: Thời áo trắngĐược bạn: Thành Viên VNthuquan đưa lên vào ngày: 27 tháng 12 năm 2003
|
Ha Dinh Nguyen
The Role Person
Ten o'clock Sunday morning, and arrived. Exactly as promised in the letter. My heart was pounding when I opened the door to welcome him. He stared at me for a moment, then grinned: - Quiet, right? I was a bit confused: - Yes! And you are Thanh? - Destination marketing! He laughed cheerfully. I invited him to sit on the planned chair and asked permission to go inside to get some water. Behind the partition there is a window with drawn curtains - three glasses of squeezed orange juice are ready. I put two glasses on the tray, brought them up..... - Is the house easy to find, Mr. Thanh? - It's easy! Yet for a long time Yen kept hiding it. If.... surely Yen would have told him the house. "What if" - I couldn't imagine, but still sighed: - I understand... You're a girl, and we met through letters, so... more or less you have to be "considerate". a little - But.... from today I already know Yen's house. So can Yen allow me to visit Yen occasionally? I equivocated: - Rest assured, the person answering this question should be yelling at you. Thanh looked deeply into my eyes: - We've known each other for more than a year now. Yen still doesn't believe me? I hesitated again: - Trust is also a vague concept, Mr. Thanh! That's it, "knowing each other" for more than a year. We just met for the first time, but already Thann and I - No, Thanh and Yen - were already on... conflict. Thanh took out his wallet and took out a portrait photo. He took out a pen and wrote on the back: "Send Yen with all the Faith and Love". No matter what, I expected this. After receiving Thanh's photo, I went into the inner room and took out the Calendar and handed it out: - I also have something to give you! Thanh received the calendar. He flipped through a few pages and smiled: - There's still a dedication to Yen missing! I took his pen. Neatly write on the lining page. "Written for you, marking the day we met." Before I could hand it over, Thanh leaned over and snatched the calendar from my hand: - You... you... are not Yen! Right? I was disappointed and confused: - You... I..... - Don't deny it! You should know that Yen's handwriting is very familiar to me. Her handwriting is completely different. Who is Yen? Where? It's true that the "Comparing Similarities" issue was beyond my expectations. I was really confused and couldn't think of a way to deal with it. Thanh dropped down on the chair. His eyes went completely wild. - Who is Yen? .... Where ? ... Well, there's nothing to learn. Ask her to tell Yen again: Never make fun of other people's sincere feelings. Well, hello! The curtain moved. There was the clatter of falling objects. Okay.... I held Thanh's hand and held him back: - Mr. Thanh! You want to know who Yen is, right? Please follow me. Behind the curtain - on the floor were broken pieces of orange juice - a little drive away was Yen... Yen was weeping with her face in her hands. The wheelchair - Yen was sitting in was shaking. A moment of surprise appeared in Thanh's eyes. But then he smiled, walked forward.... - Nothing is important, Yen. Come on.... don't cry.... Thanh's fingers gently stroked Yen's hair. Yen was still crying... His fingers were completely tangled in his soft hair and each strand of hair continued to flow through his fingers... flowing down. - Yen! Come on, don't cry... Don't even think about anything. Yen... This is the city. The beating in my chest suddenly calmed down and I awkwardly realized: right now I am... redundant! Ha Dinh Nguyen
Table of contents
The Role Person
The Role Person
Ha Dinh NguyenWelcome to read the first books from the book project for mobile devices. Source: author: Nguyen Kim Vy.
Final words: Thank you for reading the entire story. Source: editor: Nguyen Kim Vy. Source: White shirt period Posted by: Member VNthuquan on: December 27, 2003
|
Nhật Tuấn
Người thứ ba
9/9/1994Tôi bấm Of Power. Màn hình máy vi tính rút lại và tắt lịm như một con mắt nhắm. Thôi mà, rút cuộc cái máy vô tri này cũng chẳng thể là nơi cho ta ẩn náu mỗi khi ta muốn chạy trốn chính ta. Tôi đẩy ghế, đứng dậy, trong mỗi bước chân lê vào nhà trong, tôi cảm thấy cả dáng đi uyển chuyển của cô ta. Giờ này lẽ ra tôi phải đang trên đường tới nhà anh để làm một việc vô cùng hệ trọng là ra mắt mẹ mới dưới quê lên! Mẹ anh nóng ruột lắm, anh nói thế, mẹ anh chỉ được bế cháu, mai kia có nhắm mắt xuôi tay cũng vui lòng. Thế nào em cũng tới nhé, ăn mặc giản dị thôi. Cụ dưới quê lên mà!... Tôi đã mở tủ và đứng sững trước cả dãy áo quần dài ngắn, mặc đi làm hoặc mặc dạ hội, à la mode hoặc demode... Tôi đã ướm thử lên người tới hàng chục cái nhưng chẳng ưng ý cái nào. "Thôi mà". Cô ta vật nài, "Tới đó làm gì, Spagetti đi, cô không thấy đói bụng sao?". O.K, người ta có thổ dồn nén mọi thứ stress trong đầu xuống dạ dày được lắm chứ, ở đó nó sẽ được tiêu hóa cùng với thức ăn. Tôi trần mỳ thật kỹ, cái gói mì ý này do anh mang tới trong một sáng chủ nhật đẹp trời anh đánh chiếc Honda ACCORD tới đưa tôi đi chơi ngoài thành phố. Một tay giữ vô lăng, một tay quàng sang tôi, làm tôi ngạt thở bởi những chiếc hôn sặc mùi táo. Xa đậu bên hồ nước xung quanh có những chiếc nhà rông nho nhỏ sẵn sàng cho thuê làm nơi tình tự cho các cặp từ choai choai mới lớn cho tới các cặp "ông nọ bà kia" đi lén vợ trốn chồng. Tôi và anh chẳng còn choai choai nữa, cũng chẳng phải trốn lén ai, nhưng có lẽ khung cảnh hồ nước bát ngát mênh mông dễ say lòng người, ly rượu Brandy anh nài tôi uống trong bữa đặc sản ở nhà hàng thủy tạ, tôi bằng lòng để anh dẫn vào một căn nhà rông như thế. Lúc đó anh là người đàn ông tuyệt nhất trần gian. Anh là giáo sư, tiến sĩ, giám đốc một công ty máy vi tính, là chủ những bất động sản dễ dàng làm đỏ mặt những cô gái rất có thể giành vương miện trong các cuộc thi hoa hậu. Dĩ nhiên, lọt được vào đôi mắt anh, tôi chẳng thua kém gì các cô đó. Bảy ăm đèn sách ở nước ngoài, vắt vai một mảnh bằng Phó tiến sĩ, gương mặt rất khả ái, đặc biệt ở đôi mắt đen láy sâu thăm thẳm theo văn mô tả của các chàng trai vây quanh, và quan trọng hơn cả là một thân hình tuyệt mỹ, kết quả của bao nhiêu năm ròng rã khổ luyện thể dục, tôi dễ dàng chinh phục cả trái tim lẫn khối óc anh ta chỉ trong vài lần gặp gỡ. Cuộc tình của chúng tôi bắt đầu từ bên chiếc máy vi tính anh cho người mang tới lắp đặt tặng tôi. Thật là một món quà tuyệt vời, từ khi còn học ở nước ngoài, tôi đã mơ một cái loại mới nhất như vậy, nó sẽ là vật bất ly thân, là người bạn chung thủy nhất, người bạn cuối cùng khi tất cả các người bạn đã bỏ tôi mà đi. Chính vì vậy nhìn thấy chiếc máy mới tinh, ngự trên chiếc bà formica trắng toát, tôi lẳng lặng ngồi xuống thao tác máy, mê mẩn với những tín hiệu nhấp nháy trên màn hình, chạy thử hết chương trình này sang chương trình khác, cảm giác lạc vào một thế giới kỳ diệu, tin cậy và đầy quyền năng. Tôi quên khuấy mất anh đang đứng sau lưng và rồi như hết kiên nhẫn, anh nắm lấy tay tôi, nhấn nút "dừng máy". Tôi bừng tỉnh nhận ra rằng anh chính là người mang lại niềm vui lớn lao này cho tôi. Tôi nhảy lên ôm lấy cổ anh hôn thắm thiết.Anh không phải là người tình đầu tiên của tôi, tôi cũng chẳng còn nguyên vẹn khi gặp anh, nhưng quan trọng chuyện gì đó, cái chính là ngay buổi tối hôm đó, trong phòng ngủ của tôi, tôi đã hào phóng ban phát cho anh theo cái cách mà kể từ lúc đó anh sẵn sàng biến thành một con chó, liếm chân tôi nếu như tôi muốn. Những ngày sau đó anh đánh xe đời mới đưa tôi đi các nhà hàng sang trọng nhất, các khu du lịch nổi tiếng nhất, các Shop thời trang đắt tiền nhất. Theo chân anh, tôi bước vào một cuộc phiêu lưu tuyệt vời mà cái đích nhắm tới đương nhiên là một tiệc cưới ở một nhà hàng sa hoa nhất thành phố. Mọi chuyện đều diễn ra theo một kịch bản hết sức ngọt ngào và êm ái cho tới cái buổi chiều tuyệt diệu anh đưa tôi vào nhà rông ven hồ kia. Có lẽ vì sự chật chội của căn buồng chỉ vừa đủ một cái nệm mền. Có lẽ vì cái mái quá thấp tạo cảm giác như đang bị đè nén, và cũng có lẽ chẳng phải những cái đó mà do từ một sự trục trặc nào đó mãi từ vủ trụ phóng về khi anh như một con thú đói mồi vồ chụp lấy tôi ngấu nghiến, tôi bổng thấy người nhón đau khủng khiếp, toàn thân vã mồ hôi và bằng một sức mạnh từ đâu chẳng biết tôi đạp bắn anh ra, đầu đập vào vách tường và rồi hình như chính điều đó làm anh say máu, nhảy xổ vào tôi, bằng sức lực của một gã đàn ông vạm vỡ, anh khóa chân tay buộc tôi phải nhận cái phần đang điên cuồng nhất trong thân thể anh. Tôi vùng vẫy, cào cấu và hình như tôi càng phản kháng lại càng làm anh say máu, sau cùng tôi đành nhắm mắt buông xuôi với cảm giác khủng khiếp của người bị cưỡng hiếp. Đúng vào lúc đó, tôi nghe tiếng nói của cô ta. "Đáng đời con đĩ...", Trong lúc anh ta vẫn hùng hổ thao tác trên người tôi, tôi vùng ra chỉ để bịt chặt hai tai khỏi nghe tiếng nói kia. Không, không, tôi hoàn toàn không phải con đĩ, tôi không trao đổi thân thể tôi lấy những cái anh đã mang tới. Tôi tới với anh bằng tình yêu và những thứ anh tặng tôi cũng do tình yêu. Mọi thứ đau đớn, ê chề sau cùng cũng chấm dứt, tôi nằm tấm tức khóc, cạnh đó anh quỳ xuống van xin tôi tha lỗi cho anh chỉ vì anh yêu tôi quá cuồng nhiệt. Tôi không nói gì hết, có thể những cái vừa xảy ra chỉ là một cơn ác mộng, tôi sẵn sàng quên đi, sẵn sàng tha thứ cho anh, tuy nhiên, kể từ lúc đó, cô ta vĩnh viễn ở trong tôi. Đã bao nhiêu lần tôi chìm đắm vào cái máy tính thân thuộc cố quên cô ta đi, nhưng tôi hoàn toàn bất lực. Mỗi ngày cô ta càng rõ nét trong tôi, cũng đôi mắt đen lay láy, cũng cái miệng xinh xinh hình trái tim, cũng thân hình thon thả, uyển chuyển, rõ ràng tới mức hình ảnh cô ta ngày càng át đi hình ảnh của chính anh, người tôi đã từng yêu say đắm, đã từng theo chân anh bước vào những tháng ngày tuyệt diệu của tình yêu. Tuy nhiên, mọi chuyện đã khác đi rồi kể từ lúc tôi bước ra khỏi cái nhà rông oan nghiệt kia, không hé nửa lời, suốt dọc đng về như cô gái câm ngồi bên anh. Phải nói rằng anh làm lành với tôi rất giỏi, suốt cả tuần lễ liền anh chỉ tới ngồi lặng lẽ bên tôi không nói năng gì, cứ tđể mặc tôi hoặc ngồi thẫn thờ hoặc chìm đắm trong màn hình xanh xanh của chiếc máy tính. Khi cơn giận giữ của tôi đã gần nguôi ngoai đi, anh mói chỉ dám cầm nhẹ bàn tay tôi, thủ thỉ những lời xin lỗi. Anh chưa dám ôm lấy tôi, chỉ thề thốt rằng không bao giờ, không đời nào xảy ra cái cảnh như ở nhà rông bên hồ nữa. Anh bảo rằng đó là cơn điên đầu tiên, cơn điên cuối cùng chẳng bao giờ lặp lại nữa. Anh nói rằng tình yêu giữa anh và tôi đã có gốc rễ bền chặt tới độ nếu chưa xuất hiện "người thứ ba" hoặc của tôi hoặc của anh thì chưa thể có sự chia tay. Những lời thủ thỉ của anh như một dòng nước ngọt ngào ngấm dần ngấm dần làm tắt đi sự giận giữ, xóa đi những đớn đau anh đã gây ra cho tôi. Tôi lại vui vẻ với anh, lại theo anh đi nhà hàng, mua sắm, trò chuyện, hôn hít, yêu nhau trên giường, tuy nhiên trong tất cả những giờ phút đó, cô ta đều chen vào và buông ra những lời trêu chọc, can ngăn nhiều lúc dung tục tới hỗn xược.Đĩa spagetti với những sợi mì trắng muốt trên nền cà chua đỏ au, rưới lên một thứ nước sốt thơm phức đã được làm xong đặt trước mặt tôi. Đúng vào lúc tôi thưởng thức đó, ngoài cửa có tiếng rồ máy xe, tiếng chân chạy gấp gáp lên cầu thang và khuôn mặt giận giữ của anh hiện ra ngpài cửa buồng: "sao thế? Em sao thế? Sao để mẹ và anh chờ hoài vậy?". Tôi nhìn anh không biết nói làm sao. Mặc lệ, cứ ăn đi đã, cô ta lại lên tiếng trong tôi, "cho anh ta về với mẹ cho rồi". Tôi cúi mặt xuống và bỗng lạnh toát cả người khi nghĩ rằng chính cô ta là người thứ ba đã xen vào giữa anh và tôi. Lạy chúa, không phải thế đâu, tôi vẫn yêu anh, một ngày nào đó, cô ta sẽ biến khỏi tôi, tôi sẽ cùng anh về tận dưới quê thăm bà mẹ tội nghiệp lúc này đang đau đáu chờ. Tôi biết tôi không thể làm khác. Lúc này đối với tôi, quan trọng hơn cả vẫn là đĩa mì spagetti thơm phức và đầy hấp dẫn.
Mục lục
Người thứ ba
Người thứ ba
Nhật TuấnChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.
Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: bạn: Thái Nhi đưa lên vào ngày: 1 tháng 11 năm 2004
|
Nhật Tuấn
Người thứ ba
9/9/1994Tôi bấm Of Power. Màn hình máy vi tính rút lại và tắt lịm như một con mắt nhắm. Thôi mà, rút cuộc cái máy vô tri này cũng chẳng thể là nơi cho ta ẩn náu mỗi khi ta muốn chạy trốn chính ta. Tôi đẩy ghế, đứng dậy, trong mỗi bước chân lê vào nhà trong, tôi cảm thấy cả dáng đi uyển chuyển của cô ta. Giờ này lẽ ra tôi phải đang trên đường tới nhà anh để làm một việc vô cùng hệ trọng là ra mắt mẹ mới dưới quê lên! Mẹ anh nóng ruột lắm, anh nói thế, mẹ anh chỉ được bế cháu, mai kia có nhắm mắt xuôi tay cũng vui lòng. Thế nào em cũng tới nhé, ăn mặc giản dị thôi. Cụ dưới quê lên mà!... Tôi đã mở tủ và đứng sững trước cả dãy áo quần dài ngắn, mặc đi làm hoặc mặc dạ hội, à la mode hoặc demode... Tôi đã ướm thử lên người tới hàng chục cái nhưng chẳng ưng ý cái nào. "Thôi mà". Cô ta vật nài, "Tới đó làm gì, Spagetti đi, cô không thấy đói bụng sao?". O.K, người ta có thổ dồn nén mọi thứ stress trong đầu xuống dạ dày được lắm chứ, ở đó nó sẽ được tiêu hóa cùng với thức ăn. Tôi trần mỳ thật kỹ, cái gói mì ý này do anh mang tới trong một sáng chủ nhật đẹp trời anh đánh chiếc Honda ACCORD tới đưa tôi đi chơi ngoài thành phố. Một tay giữ vô lăng, một tay quàng sang tôi, làm tôi ngạt thở bởi những chiếc hôn sặc mùi táo. Xa đậu bên hồ nước xung quanh có những chiếc nhà rông nho nhỏ sẵn sàng cho thuê làm nơi tình tự cho các cặp từ choai choai mới lớn cho tới các cặp "ông nọ bà kia" đi lén vợ trốn chồng. Tôi và anh chẳng còn choai choai nữa, cũng chẳng phải trốn lén ai, nhưng có lẽ khung cảnh hồ nước bát ngát mênh mông dễ say lòng người, ly rượu Brandy anh nài tôi uống trong bữa đặc sản ở nhà hàng thủy tạ, tôi bằng lòng để anh dẫn vào một căn nhà rông như thế. Lúc đó anh là người đàn ông tuyệt nhất trần gian. Anh là giáo sư, tiến sĩ, giám đốc một công ty máy vi tính, là chủ những bất động sản dễ dàng làm đỏ mặt những cô gái rất có thể giành vương miện trong các cuộc thi hoa hậu. Dĩ nhiên, lọt được vào đôi mắt anh, tôi chẳng thua kém gì các cô đó. Bảy ăm đèn sách ở nước ngoài, vắt vai một mảnh bằng Phó tiến sĩ, gương mặt rất khả ái, đặc biệt ở đôi mắt đen láy sâu thăm thẳm theo văn mô tả của các chàng trai vây quanh, và quan trọng hơn cả là một thân hình tuyệt mỹ, kết quả của bao nhiêu năm ròng rã khổ luyện thể dục, tôi dễ dàng chinh phục cả trái tim lẫn khối óc anh ta chỉ trong vài lần gặp gỡ. Cuộc tình của chúng tôi bắt đầu từ bên chiếc máy vi tính anh cho người mang tới lắp đặt tặng tôi. Thật là một món quà tuyệt vời, từ khi còn học ở nước ngoài, tôi đã mơ một cái loại mới nhất như vậy, nó sẽ là vật bất ly thân, là người bạn chung thủy nhất, người bạn cuối cùng khi tất cả các người bạn đã bỏ tôi mà đi. Chính vì vậy nhìn thấy chiếc máy mới tinh, ngự trên chiếc bà formica trắng toát, tôi lẳng lặng ngồi xuống thao tác máy, mê mẩn với những tín hiệu nhấp nháy trên màn hình, chạy thử hết chương trình này sang chương trình khác, cảm giác lạc vào một thế giới kỳ diệu, tin cậy và đầy quyền năng. Tôi quên khuấy mất anh đang đứng sau lưng và rồi như hết kiên nhẫn, anh nắm lấy tay tôi, nhấn nút "dừng máy". Tôi bừng tỉnh nhận ra rằng anh chính là người mang lại niềm vui lớn lao này cho tôi. Tôi nhảy lên ôm lấy cổ anh hôn thắm thiết.Anh không phải là người tình đầu tiên của tôi, tôi cũng chẳng còn nguyên vẹn khi gặp anh, nhưng quan trọng chuyện gì đó, cái chính là ngay buổi tối hôm đó, trong phòng ngủ của tôi, tôi đã hào phóng ban phát cho anh theo cái cách mà kể từ lúc đó anh sẵn sàng biến thành một con chó, liếm chân tôi nếu như tôi muốn. Những ngày sau đó anh đánh xe đời mới đưa tôi đi các nhà hàng sang trọng nhất, các khu du lịch nổi tiếng nhất, các Shop thời trang đắt tiền nhất. Theo chân anh, tôi bước vào một cuộc phiêu lưu tuyệt vời mà cái đích nhắm tới đương nhiên là một tiệc cưới ở một nhà hàng sa hoa nhất thành phố. Mọi chuyện đều diễn ra theo một kịch bản hết sức ngọt ngào và êm ái cho tới cái buổi chiều tuyệt diệu anh đưa tôi vào nhà rông ven hồ kia. Có lẽ vì sự chật chội của căn buồng chỉ vừa đủ một cái nệm mền. Có lẽ vì cái mái quá thấp tạo cảm giác như đang bị đè nén, và cũng có lẽ chẳng phải những cái đó mà do từ một sự trục trặc nào đó mãi từ vủ trụ phóng về khi anh như một con thú đói mồi vồ chụp lấy tôi ngấu nghiến, tôi bổng thấy người nhón đau khủng khiếp, toàn thân vã mồ hôi và bằng một sức mạnh từ đâu chẳng biết tôi đạp bắn anh ra, đầu đập vào vách tường và rồi hình như chính điều đó làm anh say máu, nhảy xổ vào tôi, bằng sức lực của một gã đàn ông vạm vỡ, anh khóa chân tay buộc tôi phải nhận cái phần đang điên cuồng nhất trong thân thể anh. Tôi vùng vẫy, cào cấu và hình như tôi càng phản kháng lại càng làm anh say máu, sau cùng tôi đành nhắm mắt buông xuôi với cảm giác khủng khiếp của người bị cưỡng hiếp. Đúng vào lúc đó, tôi nghe tiếng nói của cô ta. "Đáng đời con đĩ...", Trong lúc anh ta vẫn hùng hổ thao tác trên người tôi, tôi vùng ra chỉ để bịt chặt hai tai khỏi nghe tiếng nói kia. Không, không, tôi hoàn toàn không phải con đĩ, tôi không trao đổi thân thể tôi lấy những cái anh đã mang tới. Tôi tới với anh bằng tình yêu và những thứ anh tặng tôi cũng do tình yêu. Mọi thứ đau đớn, ê chề sau cùng cũng chấm dứt, tôi nằm tấm tức khóc, cạnh đó anh quỳ xuống van xin tôi tha lỗi cho anh chỉ vì anh yêu tôi quá cuồng nhiệt. Tôi không nói gì hết, có thể những cái vừa xảy ra chỉ là một cơn ác mộng, tôi sẵn sàng quên đi, sẵn sàng tha thứ cho anh, tuy nhiên, kể từ lúc đó, cô ta vĩnh viễn ở trong tôi. Đã bao nhiêu lần tôi chìm đắm vào cái máy tính thân thuộc cố quên cô ta đi, nhưng tôi hoàn toàn bất lực. Mỗi ngày cô ta càng rõ nét trong tôi, cũng đôi mắt đen lay láy, cũng cái miệng xinh xinh hình trái tim, cũng thân hình thon thả, uyển chuyển, rõ ràng tới mức hình ảnh cô ta ngày càng át đi hình ảnh của chính anh, người tôi đã từng yêu say đắm, đã từng theo chân anh bước vào những tháng ngày tuyệt diệu của tình yêu. Tuy nhiên, mọi chuyện đã khác đi rồi kể từ lúc tôi bước ra khỏi cái nhà rông oan nghiệt kia, không hé nửa lời, suốt dọc đng về như cô gái câm ngồi bên anh. Phải nói rằng anh làm lành với tôi rất giỏi, suốt cả tuần lễ liền anh chỉ tới ngồi lặng lẽ bên tôi không nói năng gì, cứ tđể mặc tôi hoặc ngồi thẫn thờ hoặc chìm đắm trong màn hình xanh xanh của chiếc máy tính. Khi cơn giận giữ của tôi đã gần nguôi ngoai đi, anh mói chỉ dám cầm nhẹ bàn tay tôi, thủ thỉ những lời xin lỗi. Anh chưa dám ôm lấy tôi, chỉ thề thốt rằng không bao giờ, không đời nào xảy ra cái cảnh như ở nhà rông bên hồ nữa. Anh bảo rằng đó là cơn điên đầu tiên, cơn điên cuối cùng chẳng bao giờ lặp lại nữa. Anh nói rằng tình yêu giữa anh và tôi đã có gốc rễ bền chặt tới độ nếu chưa xuất hiện "người thứ ba" hoặc của tôi hoặc của anh thì chưa thể có sự chia tay. Những lời thủ thỉ của anh như một dòng nước ngọt ngào ngấm dần ngấm dần làm tắt đi sự giận giữ, xóa đi những đớn đau anh đã gây ra cho tôi. Tôi lại vui vẻ với anh, lại theo anh đi nhà hàng, mua sắm, trò chuyện, hôn hít, yêu nhau trên giường, tuy nhiên trong tất cả những giờ phút đó, cô ta đều chen vào và buông ra những lời trêu chọc, can ngăn nhiều lúc dung tục tới hỗn xược.Đĩa spagetti với những sợi mì trắng muốt trên nền cà chua đỏ au, rưới lên một thứ nước sốt thơm phức đã được làm xong đặt trước mặt tôi. Đúng vào lúc tôi thưởng thức đó, ngoài cửa có tiếng rồ máy xe, tiếng chân chạy gấp gáp lên cầu thang và khuôn mặt giận giữ của anh hiện ra ngpài cửa buồng: "sao thế? Em sao thế? Sao để mẹ và anh chờ hoài vậy?". Tôi nhìn anh không biết nói làm sao. Mặc lệ, cứ ăn đi đã, cô ta lại lên tiếng trong tôi, "cho anh ta về với mẹ cho rồi". Tôi cúi mặt xuống và bỗng lạnh toát cả người khi nghĩ rằng chính cô ta là người thứ ba đã xen vào giữa anh và tôi. Lạy chúa, không phải thế đâu, tôi vẫn yêu anh, một ngày nào đó, cô ta sẽ biến khỏi tôi, tôi sẽ cùng anh về tận dưới quê thăm bà mẹ tội nghiệp lúc này đang đau đáu chờ. Tôi biết tôi không thể làm khác. Lúc này đối với tôi, quan trọng hơn cả vẫn là đĩa mì spagetti thơm phức và đầy hấp dẫn.
Mục lục
Người thứ ba
Người thứ ba
Nhật TuấnChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.
Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: bạn: Thái Nhi đưa lên vào ngày: 1 tháng 11 năm 2004
|
Khuyết Danh
Người Tiều Phu Hóa Nai
Ngày xưa, ở đất Cao Bằng, có một người tiều phu mộc mạc hiền lành và hiếu thảo. Anh có một bà mẹ già hay đau ốm. Thầy thuốc bảo là cần có sữa nai tẩm bổ, mới mong chữa lành bệnh cho mẹ. Anh không quản ngại khó khăn, mỗi ngày vào rừng quyết tâm đi tìm kiếm sữa nai về cho mẹ. Nhưng rất khó. Vừa thấy bóng người, nai đã bỏ chạy mất rồi. Không lấy được sữa nai, người tiều phu buồn bực, không dám về nhà. Anh ngồi giữa rừng ôm mặt khóc. Bỗng nhiên, thấy có một ông lão chống gậy đến bảo rằng: "Nếu con muốn có sữa nai thì phải mang lốt nai, mới đến gần loài nai được". Rồi ông lão trao cho anh tiều phu một bộ da nai khoác vào người. Quả nhiên, sau đó, anh lại gần được các con nai cái, vắt được nhiều sữa đem về nhà chữa bệnh cho mẹ già. Một hôm, ông lão lại hiện ra, ngỏ lời khen lòng hiếu thảo của anh, rồi truyền cho anh các phép đạo thần tiên. Anh học thuộc lòng, không nói cho ai hay biết. Sau khi mẹ già qua đời, anh liền bỏ đi lên núi biền biệt, không trở về nhà nữa. Sau đó khá lâu, một hôm, có một người con của ông tiều phu vào núi lấy củi. Anh bỗng gặp một con nai nói được tiếng người. Nai bảo:- "Cha đây. Cha đã hoá thành nai rồi, không thể trở lại lốt người được nữa. Cha cho con cái gạc (sừng) đây, con hãy buộc dây mà kéo về. Đến chỗ nào mà gạc vướng, không đi được nữa, thì con hãy lấy chỗ đất ấy mà khai khẩn làm ăn, về sau sẽ khá". Nói xong, con nai húc đầu vào thân cây cho rụng gạc ra. Rồi nai biến mất vào rừng sâu. Người con trai vâng lời, làm theo nai dặn. Quả nhiên, về sau được sung túc. Người đời khi biết chuyện, đã gọi người tiều phu hoá nai là Lộc Giác Chân Nhân, cho rằng ông đã tu luyện được thành tiên.
Mục lục
Người Tiều Phu Hóa Nai
Người Tiều Phu Hóa Nai
Khuyết DanhChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.
Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: Thư viện truyện Cổ TíchĐược bạn: Ct.Ly đưa lên vào ngày: 28 tháng 11 năm 2005
|
Noname
Hoa Nai Woodcutter
Once upon a time, in Cao Bang, there was a gentle and filial woodcutter. I have an old mother always gets sick. The doctor told her that she needed deer milk to cure her mother's illness. He was not afraid of difficulties, every day he went into the forest determined to find deer milk for his mother. But so hard. As soon as they saw the human silhouette, the deer ran away. Not being able to get deer milk, the woodcutter was sad and did not dare to go home. He sat in the middle of the forest, holding his face and crying. Suddenly, an old man with a cane came and said: "If you want deer milk, you have to wear deer clothes to get close to deer." Then the old man gave the woodcutter a deer skin to wear. Sure enough, after that, he got close to the doe, milked a lot of milk and brought it home to treat his old mother. One day, the old man appeared again, praised his filial piety, and then taught him magical magic. He learned it by heart and didn't tell anyone. After his old mother passed away, he immediately left for the mountains and never returned home. A long time later, one day, a woodcutter's son went into the mountain to get firewood. He suddenly met a deer that could speak human language. The deer said: "It's me, Dad. I've turned into a deer, I can't return to human form anymore. Dad, give me this antler (horn), tie a rope and pull it back. Wherever the antlers get stuck, there's no way." If you can go any further, take that land and start a business, and you will be better off in the future." Having finished speaking, the deer butted its head against the tree trunk to make its antlers fall off. Then the deer disappeared into the deep forest. The son obeyed and did as the deer told him. Sure enough, later on he was prosperous. When people learned about the story, they called the woodcutter who turned into a deer Loc Giac Chan Nhan, thinking that he had cultivated to become an immortal.
Table of contents
Hoa Nai Woodcutter
Hoa Nai Woodcutter
AnonymousWelcome to read books from the book project for mobile devices. Source: author: Nguyen Kim Vy.
Final words: Thank you for reading the entire story. Source: editor: Nguyen Kim Vy. Source: Fairy Tale Library Uploaded by friend: Ct.Ly on: November 28, 2005
|
Phan Nguyên
Người trong nước xem ca nhạc hải ngoại
Phan Nguyên (một du học sinh VN)
Là một người khách bất chợt, vô tình xem được chương trình Asia 50 “Anh Không Chết Đâu Anh”/Nhật Trường-Trần Thiện Thanh. Có những điều chợt nghĩ tràn về, cũng như có những điều muốn nói chợt phủ tuôn trên mặt giấy, mà tôi cũng không ngờ.Chìm đắm trong không gian âm nhạc với 25 bài hát của tác giả Trần Thiện Thanh, có lẽ đâu đó, những khán giả đầu tiên của bộ DVD này đều có những tâm trạng khác nhau. Người thì im lặng về quá khứ xuân xanh của đời mình, người thì ứa nước mắt với những kỷ niệm riêng vẫn còn lẩn khuất dày vò mình cho đến tận giờ... và với ai thưởng thức âm nhạc thì vẫn ngộp thở bởi sự bất ngờ mới mẻ đến từ điều hết sức quen thuộc: Không ai nghĩ rằng một tác giả đầy chất bình dị, đại chúng như Trần Thiện Thanh lại đồ sộ, sâu sắc và nhân bản như vậy.Thế giới đã đổi thay lắm rồi. Bên ngoài không còn súng nổ. Không còn những tiếng trực thăng vội vã trên đầu và những lần gói ghém hành trang để ra đi.... nhưng quá khứ vẫn làm người ta nhói tim trước những điều còn dở dang của cuộc đời riêng, của lịch sử chung mỗi khi chạm đến. Và khi đó là sự thật. Sự thật đó là bên ngoài lý thuyết của một cuộc chiến, được đánh giá là một trong những cuộc chiến đẫm máu và khốc liệt nhất của thời cận đại, là những thân phận bị nghịch cảnh biến họ thành những người hùng, những thân phận chỉ muốn sống bình thường, yêu thương đột nhiên trở thành huyền thoại đau thương của một dân tộc. Và đôi khi, nhìn lại, những giọt nước mắt giờ đây rơi xuống dường như không chỉ vì số phận một ai đó mà là những giọt nước mắt dành cho tổ quốc đã quá đỗi điêu linh.Là một người sinh ra ở cuối thập niên 70, cuộc chiến tranh Việt Nam với tôi là một điều xa lạ. Nhưng âm nhạc của Trần Thiện Thanh thì lại rất quen thuộc. Mỗi ngày, giữa thời khốn khó sau chiến cuộc, âm nhạc Trần Thiện Thanh vẫn vang lên ở mọi nhà. Trong những con hẻm sâu khúc khuỷu, chú xích lô nghỉ trưa úp chiếc nón trên mặt nằm nghe Lâu Đài Tình Ái bên chiếc máy cassette con con. Rồi đêm về, giữa canh khuya, trong căn nhà ọp ẹp, đâu đó văng vẳng buồn buồn nghe tiếng nhạc Rừng Lá Thấp thấp thoáng trong giấc mộng đêm hè. Một Trần Thiện Thanh, một Nhật Trường vẫn có sức sống bền bỉ, len lỏi ngụ cư trong dòng đời, không hề bị lãng quên theo năm tháng. Người ta có thể nói Nhật Trường-Trần Thiện Thanh là kẻ cơ hội khi biết lợi dụng những câu chuyện vô danh để biến nó thành những tượng đài của thời cuộc. Rất có thể như vậy. Nào là Mộng Thường, nào là chuyện người đại úy tên Đương... nếu không có những bài hát của ông, có lẽ những người đó cũng lặng lẽ ở cõi riêng của mình như 58.000 cái tên người lính Mỹ lặng câm trên bức tường đá hoa cương tại Washington. Thế nhưng họ đã trở thành những điều mà hàng triệu người Việt thuộc lòng, ghi nhớ qua nhiều thế hệ - và ở đây sự phản biện chỉ có thể bắt nguồn từ trái tim: Nếu Trần Thiện Thanh không thật sự cảm tác nên, thì đó chỉ là những bài hát tâm lý chiến chống Cộng thô thiển, chỉ đủ sức rên rỉ qua một lần xuất hiện. Và giờ đây, nhiều năm nữa, người yêu âm nhạc Việt Nam vẫn tiếp tục lắng nghe những bài hát của ông về cuộc đời, về tình yêu, về thân phận. Chiến tranh đã bộc phát nên những tài năng lớn. Nếu Trịnh Công Sơn đau thương và tượng hình qua tập Ca khúc Da Vàng, Phạm Duy khắc khoải và huyền ảo với những tình ca chiến trường, thì Nhật Trường dịu dàng và mộc mạc chia sẻ qua những nhạc khúc về chiến tranh thông qua những gương mặt người, có thể là một anh lính chiến, có thể đó là một cô gái, có thể đó là chuyện một giấc mộng... Ông chú của bạn tôi, là một chiến binh Bắc Việt, từng nhiều tháng liền tập kích, nằm trong rừng miền Nam có lần kể rằng những đêm nghe trực thăng hay đồn trú của lính Nam Việt phát những bài như Rừng Lá Thấp hay Anh Không Chết Đâu Anh... ông đã ứa nước mắt, giấu mặt khóc vì những bài hát ấy dường như không viết cho riêng ai, mà cho tất cả những người đang đối diện vào một cuộc chiến kỳ quặc, xé nát trái tim một dân tộc. Ai lại không có một người Mẹ già? Ai lại không có một miền quê chờ ngày trở về, và ai lại không mơ một cuộc sống thanh bình như Nhật Trường-Trần Thiện Thanh đã hát?Tôi không muốn nói nhiều về các bài hát. Vì nó đã quá quen thuộc như tiếng chuông nhà thờ mỗi buổi chiều nhưng mỗi khi gióng lên, vẫn làm người nghe xao xuyến. Ở đây, điều tôi nhìn thấy là Trung tâm Asia đã làm được ước mơ của âm nhạc người Việt Nam: Vinh danh, làm huy hoàng và hoàn thiện những gì của một sân khấu ca nhạc mà hơn 20 năm ngay tại quê nhà Việt Nam, trước khi tôi rời khỏi nước du học, vẫn không sao làm được. Tôi không biết mình chống Cộng hay không nhưng tôi hãnh diện vì những gì có được. Thật tráng lệ cho một nhạc sĩ, cho những nhạc khúc của người Việt được vinh danh như vậy. Bên cạnh đó, có lẽ dù không muốn, nhưng Trần Thiện Thanh lại vô tình trở thành một người chép sử đô thị nghiệp dư. Tất cả những người ông viết nên, được chú dẫn một cách cụ thể từ ý nghĩa đến sự kiện. Tôi lắng nghe những gì MC Nam Lộc, Việt Dũng kể lại, thậm chí cả những điều mà nhà văn Phan Nhật Nam nói như chực khóc trong ấn phẩm này. Tôi chia sẻ với quá khứ và kỷ niệm của mỗi người. Như đã nói ở phần trên, cuộc chiến VN với tôi vẫn xa lạ lắm, nhưng tôi trân trọng lịch sử và ký ức của riêng mỗi người, bất luận ở chiến tuyến nào. Như nhà văn Nga Abutaliv có nói: “Nếu bạn bắn vào quá khứ bằng súng lục, tương lai sẽ bắn vào bạn bằng đại bác...”. Tôi chợt nhận ra rằng đã 30 năm rồi, bất chợt từ một chương trình ca nhạc của người Việt hải ngoại, rằng dù không còn chiến tranh, nhưng đất nước tôi, dân tộc tôi vẫn chất chứa một nỗi buồn sâu thẳm của một quá khứ đổ vỡ, phân chia. California, April, 2006 Phan Nguyên
Mục lục
Người trong nước xem ca nhạc hải ngoại
Người trong nước xem ca nhạc hải ngoại
Phan NguyênChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.
Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: thuvientoancauĐược bạn: NHDT đưa lên vào ngày: 11 tháng 7 năm 2007
|
Phan Nguyen
People in the country watch overseas music
Phan Nguyen (a Vietnamese international student)
As a sudden guest, I accidentally saw the Asia 50 program "I'm Not Dead"/Nhat Truong-Tran Thien Thanh. There are things that suddenly come to mind, as well as things that I want to say that suddenly fall onto the paper, but I didn't expect it. Immersed in the music space with 25 songs by author Tran Thien Thanh, perhaps somewhere , the first audiences of this DVD set all had different moods. Some people stay silent about the spring past of their lives, others shed tears with their own memories that still lurk and torment them until now... and those who enjoy music are still suffocated by the sadness. A new surprise comes from something very familiar: No one thought that an author full of simplicity and popularity like Tran Thien Thanh would be so great, profound and human. The world has changed a lot. There were no more guns going off outside. There are no longer the sounds of helicopters rushing overhead and the times of packing up to leave.... but the past still makes people's hearts ache at the unfinished things of their own lives and shared history every time. touch. And then it's true. The truth is that beyond the theory of a war, considered one of the bloodiest and most fierce wars of modern times, are the fates of people whose lives were turned into heroes and heroes by adversity. Just wanting to live normally and love suddenly becomes a painful legend of a nation. And sometimes, looking back, the tears that fall now seem not just because of someone else's fate but are tears for the country that has been so desolate. As a person born at the end of the decade 70, the Vietnam War was a strange thing to me. But Tran Thien Thanh's music is very familiar. Every day, in the midst of hardship after the war, Tran Thien Thanh's music still rang out in every house. In the deep, winding alleys, a cyclo took a lunch break with his hat on his face and listened to Castle of Love next to his small cassette player. Then at night, in the middle of the night watch, in the rickety house, somewhere there was a sad echo of the music of Low Leaves Forest looming in the summer night's dream. A Tran Thien Thanh, a Nhat Truong still have persistent vitality, weaving their way through life, never being forgotten over the years. One can say that Nhat Truong and Tran Thien Thanh are opportunists who know how to take advantage of anonymous stories to turn them into monuments of the times. Very likely so. Which is Mong Thuong, which is the story of the captain named Duong... if it weren't for his songs, perhaps those people would be as quiet in their own world as the 58,000 names of American soldiers silent on the wall. marble in Washington. But they have become things that millions of Vietnamese people know by heart and remember for many generations - and here the criticism can only come from the heart: If Tran Thien Thanh does not truly inspire, then Those are just crude anti-Communist psychological war songs, only enough to moan through one appearance. And now, many years from now, Vietnamese music lovers continue to listen to his songs about life, love, and destiny. The war has revealed great talents. If Trinh Cong Son is painful and symbolic through the collection of Songs of the Golden Skin, Pham Duy is anxious and fanciful with battlefield love songs, then Nhat Truong is gentle and rustic sharing songs about war through his songs. human face, maybe it's a soldier, maybe it's a girl, maybe it's the story of a dream... My friend's uncle, a North Vietnamese soldier, has been on raids for many months. , lying in the southern forest, once said that during the nights when he listened to helicopters or garrisons of South Vietnamese soldiers playing songs like Forest of Low Leaves or I Won't Die, Brother... he had tears in his eyes, hiding his face and crying because of the songs. That song seems to be written not for just anyone, but for everyone who is facing a strange war, tearing the heart of a nation. Who doesn't have an old mother? Who doesn't have a countryside waiting to return, and who doesn't dream of a peaceful life like Nhat Truong-Tran Thien Thanh sang? I don't want to talk much about the songs. Because it is as familiar as the sound of a church bell every afternoon, but every time it rings, it still makes the listener flutter. Here, what I see is that Asia Center has fulfilled the dream of Vietnamese music: Honoring, splendoring and perfecting what a music stage has been like for more than 20 years right in its home country of Vietnam. , before I left the country to study abroad, I still couldn't do it. I don't know if I'm anti-Communist or not, but I'm proud of what I have. It's magnificent for a musician, for Vietnamese music to be honored like that. Besides, perhaps even though he did not want to, Tran Thien Thanh accidentally became an amateur urban historian. All the people he wrote about were specifically cited from meaning to event. I listened to what MC Nam Loc and Viet Dung told me, even what writer Phan Nhat Nam said as if he was about to cry in this publication. I share with each person's past and memories. As mentioned above, the Vietnam War is still very strange to me, but I cherish each person's own history and memories, regardless of the front line. As Russian writer Abutaliv said: "If you shoot at the past with a pistol, the future will shoot at you with a cannon...". I suddenly realized that it has been 30 years, suddenly from a music program of overseas Vietnamese, that even though there is no longer a war, my country and my people still contain a deep sadness of a past. past breakdown and division. California, April, 2006 Phan Nguyen
Table of contents
People in the country watch overseas music
People in the country watch overseas music
Phan NguyenWelcome to read books from the book project for mobile devices. Source: author: Nguyen Kim Vy.
Final words: Thank you for reading the entire story. Source: editor: Nguyen Kim Vy. Source: thuvientoancau Uploaded by friend: NHDT on: July 11, 2007
|
Trần Tiễn Cao Đăng
Người trở về hay Màu của cõi khác
Đã hai tháng liền chàng xuất hiện đều đặn vào nửa đêm ngay ở nhà Thủy tạ trong Lăng Tự Đức. Còn đêm nay, được chàng báo trước, nàng ra Bờ Hồ, quãng đối diện Bưu điện Thành phố để gặp chàng. Ngày trước, khi chàng còn sống, nàng thường vờ không hiểu chàng nói gì. Nàng rất thích thấy chàng giận dỗi như một đứa trẻ, dù biết rõ là chàng cũng vờ đấy thôi. Nàng chỉ thoáng rùng mình - nhưng tự trấn an rằng chàng lại đùa - khi chàng nói một cách tự nhiên và nghiêm chỉnh rằng trong chuyến công tác cuối cùng này chàng sẽ chết. Dường như có một quầng sáng lạ lùng trên Hồ; không hẳn do một cái gì phát quang, mà bởi chính sự trong vắt đến tận cùng của mỗi phân tử không khí, và do đó toàn thể bầu không khí phía trên Hồ trông như một khối pha lê, mặt cắt sắc lẹm khổng lồ của một núi băng, một tảng nước khổng lồ vô hình trên không trung mà ta chỉ có thể cảm thấy hơn là nhìn thấy bởi những tầng mây từ phía Tây đùn tới bỗng như nhân đôi và trở nên sắc nét dến rợn mình như trong ánh chớp giữa cơn giông. - Đó là chàng đang đến, - nàng nghĩ, và gan ruột nàng như thể rúm lại.Bất giác nàng nhìn lên mái tòa Bưu điện thành phố. Có một thứ ánh sáng kỳ dị bắt đầu nảy ra trên những diềm mái, gần như ánh sáng những hòn than cháy trong lò sưởi làm hồng những viên ngói, chẳng mấy chốc chuyển sang xanh tím như lửa cồn, rồi nửa như ngập ngừng, nửa như rình rập khoảnh khắc bất ngờ nhất liền chuyển sang màu tím ngát, tím ngăn ngắt, như rừng sim, và - càng đột ngột hơn – thoắt biến thành đỏ tía, xanh chàm, huyết dụ, đỏ như trái hồng, rượu boócđô, màu đất son, màu phù sa sông Hồng, màu cánh gián, màu xanh rau khúc, màu vàng rơm, màu gỉ đồng, màu vàng chanh, màu vàng nghệ, màu đỏ bầm tiết canh, ánh sáng bắt đầu say, tự cuốn mình vào cơn lốc những màu sắc vụt tắt vụt hiện, hổn hển, trối chết, cật lực, cuồng liệt, dữ dội. Đó là chàng trở về, đó là chàng trở về - đó là chàng trở về !!! Nàng như sắp điên lên, nàng không biết mình đang là gì, đang có hay không, đang ở đâu hay không ở đâu – nàng thấy mình là màu sắc; nàng đỏ, nàng xanh, nàng chàm, nàng xanh lơ, nàng tím, nàng biêng biếc, nàng trắng sữa, nàng xám ngóet, nàng màu da bò, màu đồng thau, nàng phớt hồng, nàng là con sóng thông minh, tinh quái, tỉnh bơ, vĩ đại, vô tận, luồn qua và xâu chuỗi những màu đó, nâng những màu lên, hạ những màu xuống, làm chúng đê mê, khoái tỉ, làm chúng khiếp hãi, làm chúng phân thân, đổi xác cho nhau, làm chúng bùng lên và vỡ ra thêm vô số những màu, làm chúng chao đảo, làm chúng say khướt, làm chúng mệt lử. Và khi nàng cũng mệt, ánh sáng vụt biến. Bóng tối ụp xuống nàng, kín bưng, không lối thoát, khủng khiếp. - Anh ơi, đừng làm em sợ, - nàng nói. Bỗng tim nàng nhói đau: vậy nàng không muốn kẻ từ thế giới khác trở về xuất hiện dưới bất cứ dạng thức nào, với bất cứ màu nào tùy thích? Nàng muốn thấy người trở về xuất hiện với màu đen của bóng tối và màu trắng muôn thuở của hồn ma, nghĩa là muốn cả tinh thần của hắn cũng chết?
Mục lục
Người trở về hay Màu của cõi khác
Người trở về hay Màu của cõi khác
Trần Tiễn Cao ĐăngChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.
Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: evanĐược bạn: Mọt Sách đưa lên vào ngày: 26 tháng 8 năm 2004
|
Tran Tien Cao Dang
The returnee or the Color of another realm
For two consecutive months, he appeared regularly at midnight right at Thuy Ta's house in Tu Duc's Tomb. And tonight, having been informed by him, she went to Bo Ho, opposite the City Post Office to meet him. In the past, when he was still alive, she often pretended not to understand what he said. She really liked seeing him angry like a child, even though she knew he was just pretending. She shivered slightly - but reassured herself that he was joking - when he said naturally and seriously that on this last business trip he would die. There seemed to be a strange halo of light over the Lake; not so much because of something luminescent, but because of the ultimate clarity of every molecule of air, and thus the whole atmosphere above the Lake looked like a mass of crystal, a giant sharp cross-section of a mountain of ice, a giant invisible body of water in the air that we can only feel rather than see because the clouds pouring in from the West suddenly seem to double and become sharp and terrifying as in lightning. in the middle of a storm. - That's him coming, - she thought, and her heart felt like it was shrinking. Suddenly she looked up at the roof of the City Post Office. There was a strange light that began to bounce off the cornices, almost like the light of burning coals in a fireplace making the tiles pink, soon turning blue and purple like alcohol fire, then half hesitantly, Half as if waiting for the most unexpected moment, it suddenly turns purple, deep purple, like a myrtle forest, and - even more suddenly - suddenly turns purple, indigo blue, blood red, red like a persimmon, Bordeaux wine. , ocher color, Red River alluvial color, cockroach wing color, vegetable green color, straw yellow color, copper rust color, lemon yellow color, saffron yellow color, blood pudding red color, the light begins to get drunk, self-rolling I was caught in a whirlwind of colors that suddenly appeared, gasping, dying, hard, fierce, intense. It's him back, it's him back - it's him back!!! She felt like she was going crazy, she didn't know what she was, whether she was or wasn't, where she was or where she wasn't - she saw herself as a color; She's red, she's blue, she's indigo, she's blue, she's purple, she's blue, she's milky white, she's gray, she's buff, she's brassy, she's pink, she's an intelligent, mischievous wave. , calm, great, endless, threading through and stringing those colors, raising the colors, lowering the colors, making them ecstatic, delighted, terrifying them, making them separate, changing bodies for them. each other, making them flare up and burst into countless more colors, making them stagger, making them drunk, making them exhausted. And when she was also tired, the light disappeared. The darkness fell upon her, all-encompassing, with no way out, terrible. - Honey, don't scare me, - she said. Suddenly her heart ached: so she doesn't want people from another world to appear in any form, with any color they like? She wants to see the returnee appear in the black of darkness and the eternal white of a ghost, meaning that she wants his spirit to die too?
Table of contents
The returnee or the Color of another realm
The returnee or the Color of another realm
Tran Tien Cao DangWelcome to read the first books from the book project for mobile devices. Source: executive: Nguyen Kim Vy.
Final words: Thank you for reading the entire story. Source: editor: Nguyen Kim Vy. Source: evan Uploaded by friend: Bookworm on: August 26, 2004
|
La Thị Ánh Hường
Người tốt
T
rời chiều như đang cố níu kéo những tia nắng cuối ngày. Bên vệ đường, vài hạt nắng nhởn nhơ đùa giỡn với khóm hoa. Chúng nhạt màu dần rồi tan mất, chỉ một lát nữa thôi màn đêm sẽ bao trùm lên vạn vật. Bóng tối như một khối đen khổng lồ úp chặt lấy anh, không cho anh vùng vẫy. Từ bao giờ anh sợ nỗi cô đơn đến vậy? Anh sợ cả bóng đêm, cái thời khắc cuối ngày ấy thường kéo anh về lại với quãng thời gian êm đềm của ngày xưa, khi anh còn có chị. Cái “ngày xưa” ấy chỉ mới vỏn vẹn cách đây hơn hai tuần. Mười bốn ngày có thể chôn vùi cuộc tình kéo dài bốn năm của anh với chị sao? Anh không tin. Cứ mỗi chiều anh lại đi ngang nhà chị. Như một thói quen rồi, nhưng anh không còn nhận được nụ cười tươi tắn của chị, hay được chị ân cần hỏi: “Anh có đói bụng không? Nhà còn cơm nguội đấy!” Bằng giọng chân tình, thiết tha đến độ xua tan hết âu lo phiền muộn trong anh. Đã từ lâu anh biết rằng đời anh không thể thiếu chị. Không thể thiếu sự chăm lo kín đáo nhưng hết sức ân cần của chị. Anh cần chị biết bao. Chiều nay anh lại đi ngang nhà chị, chỉ để làm một việc ngớ ngẩn : tô đậm thêm cái kết luận hết sức phũ phàng: vị trí người đàn ông trong lòng chị đã được thay thế! Người đàn ông đó anh đã gặp rồi, hôm cùng chị đưa mẹ vào phòng cấp cứu của bệnh viện Thị Xã. Rồi những lần sau đó vẫn thấy ông ta ngồi cùng chị mỗi khi chị lo lắng đến xanh rớt người. Chị suy sụp hẳn đi khi ông ta kết luận bệnh mẹ chị khó có thể cứu chữa. Anh thương chị. Thương lắm ! Nhưng ngoài tình yêu ra anh còn gì có thể cho chị, ít nhất là trong lúc này ! Ngần ấy năm yêu thương, anh chỉ mong đến ngày được rước chị về nhà sống chung. Khi ấy anh quan tâm đến chị được nhiều hơn. Anh thay chị giặt đồ, rửa chén mỗi khi chị mỏi mệt. Anh sẽ ân cần bón cho chị từng muỗm cháo mỗi lúc chị ốm đau. Rồi cả những giấc ngủ trằn trọc khó đến, anh ru chị trong vòng tay yêu thương của mình. Anh ước ao được như thế, nhưng lại lo ngại,với đồng lương ít ỏi của mình liệu anh có mang lại cuộc sống nhàn hạ hơn cho chị, hay lại khiến chị vất vả hơn cả thời con gái vốn đã quá nhọc nhằn. Anh lo lắng, dằn vặt khôn nguôi. Nhưng bây giờ thì cả những lo lắng, dằn vặt ấy cũng không thuộc về anh nữa. Cho đáng đời mày Khang ạ! Anh thường chửi mình như thế trong cơn say. Nhưng khi tỉnh dậy anh bỗng thấy anh đáng thương nhiều hơn đáng trách. Chẳng lẽ lại trách bản thân anh sao không phải là một bác sĩ, hay trách chị thiếu chung tình? Không, anh vẫn thương chị. Anh ngước nhìn những ánh sao trên bầu trời đêm và nhớ chị đến quay quắt. Chị cũng giống như vì sao trên kia, mãi như những ngọn nến thắp sáng và sưởi ấm tâm hồn anh. Ngọn nến ấy không tắt bao giờ. Rồi một ngày nào đó chị sẽ về với anh, anh tin thế! Chị đi lấy chồng trong một ngày cuối đông. Mùa đông trên cao nguyên được tô đậm thêm bởi những đợt gió hú đến ghê người. Cõi lòng chị cũng dằn xé gào thét theo từng cơn gió. Chị xinh như một đóa hoa rừng trong bộ đồ cưới màu đỏ mà chồng chị đặt may ở một tiệm nổi tiếng trong Thị Xã. Chỉ có đôi mắt chị không sao giấu nổi nỗi buồn. Chị trách cứ mình, chửi rủa mình rồi cuối cùng lại an ủi mình. Tình yêu có là gì đâu kia chứ ! Chị yêu anh? Thì có yêu. Chị thề nguyền chung sống trọn đời trọn kiếp với anh ? Ừ, thì chị đâu có quên. Nhưng để chị có được ngày hôm nay để mà thề thốt, để mà yêu thương thì nhờ ai kia chứ ? Mỗi khi nói đến mẹ chị lại không cầm được nước mắt. Mẹ chị đã hy sinh cho chị quá nhiều. Chị làm sao mà quên được những gánh cải của mẹ trong buổi chợ sớm, đổi lấy cho chị áo trắng guốc cao đến trường. Nhớ có hôm trời mưa, chị trốn học mang áo mưa ra chợ cho mẹ. Vừa nhìn thấy chị lụp xụp dưới lớp áo mưa mỏng, mẹ lao tới quất tới tấp vào mông chị, mắng: “Ai dạy con trốn học như thế hả ? Mẹ khuyên con đến lớp phải chịu khó học cho giỏi kia mà. Con không nghe lời mẹ nữa phải không ? Đồ hư thân, đồ mất nết, đánh cho mày chừa !”. Cứ thế mỗi câu nói của mẹ là một đòn đánh vào mông. Đến khi mẹ mệt lả đi, nhìn lên chị vẫn không khóc. Mẹ nhìn chị hồi lâu rồi quỳ gối ôm chặt chị vào lòng, cả hai mẹ con ướt đẫm trong làn mưa trắng xóa. Trong mưa, chị vẫn nhận ra đâu là nước mắt của mẹ. Mẹ xoa chỗ chị vừa bị đánh nói với chị trong tiếng nấc: “Con phải học giỏi để khỏi phải đi bán cải như mẹ con biết không ?”. Mười ba tuổi chị đã nung nấu trong đầu mình một tương lai, mà ở đó ít nhất là mẹ chị không còn dầm mưa giãi nắng như hôm nay. Chị học xong cấp ba rồi ròng rã suốt bốn năm ở ngôi trường đại học. Những năm đó chị không hề khó khăn chuyện tiền bạc. Nhưng chị hiểu mẹ chị đã vất vả như thế nào để có nó. Rồi chị biết yêu, người con trai cùng quê với chị. Người thường qua sửa cho chị cái bóng đèn, tráng lại mấy ô gạch bị kiến đục vỡ từng mảng nhỏ… Cứ thế, cuộc sống trôi qua những ngày bình yên. Ngày chị tốt nghiệp cũng là ngày mẹ ngã quỵ bởi căn bệnh của tuổi già. Bây giờ thì kể như chị đã thực hiện được những gì chị mơ ước; một cuộc sống tiện nghi đầy đủ cho mẹ chị sống quãng tuổi già còn lại. Chồng chị, vị bác sĩ có uy tín nhất nhì trong Thị xã và yêu thương chị hết lòng. Những lúc rảnh anh xuống bếp giúp chị, phân tích cặn kẽ từng món ăn cần thiết cho sức khỏe của mẹ. Chị thì chẳng giúp gì được cho anh. Cầm tấm bằng sư phạm trên tay, chị thấy tiếc nuối. Anh hiểu cả những điều chị không nói, những khi nhìn chị thẫn thờ như thế, anh choàng tay lên đôi vai gầy xương của chị, anh nói: “Cưới được em anh mừng lắm. Em không cần lo lắng, băn khoăn gì cả, cứ ngoan hiền nết na như tính cách vốn có của em là anh toại nguyện rồi. Anh yêu em nhiều lắm !”. Anh là một người tốt, anh sống bao dung rộng lượng và không trách cứ chị bất cứ điều gì, kể cả mối tình đầu mà cho đến tận bây giờ chị vẫn chẳng thể nguôi ngoai. Anh tôn trọng quá khứ cũng như khoảng riêng của chị. Điều đó với chị cần thiết biết bao Cuộc sống trôi qua như một giấc mơ êm đềm. Cái chết của mẹ chị cũng diễn ra êm đềm như thế ! Ai đó đã nói “ tiền bạc không mua được sức khỏe con ngườI ”. Nhưng chị vẫn thấy biết ơn chồng, người đã tận tụy bên mẹ chị trong suốt những ngày qua. Đêm, chị gối đầu lên cánh tay rắn chắc của chồng, bỗng thấy những yêu thương tràn về, cảm giác mà trước đây chị chưa từng có. Có tiếng gõ cửa giữa đêm khuya, giọng của người nhà bệnh nhân vẻ như cấp thiết lắm, anh gỡ vòng tay mềm mại của chị đặt xuống giường, đắp mền lên đến ngực cho chị rồi lặng lẽ khoác bộ đồng phục trắng lên người, giọng cô y tá gấp gáp “Cô ta đau bụng chuyển dạ, bụng to quá nên có phần nguy hiểm. Bác sĩ ra xem giúp”. Chị cũng choàng dậy, hơn lúc nào hết chị muốn được ở bên chồng, chẳng giúp gì được anh nhưng chị vẫn muốn nhìn anh làm việc. Tiếng khóc thét của đứa trẻ trào đời làm mọi người thở phào nhẹ nhõm, gần hai tiếng đồng hồ cho một ca mổ khá nguy hiểm. Chị cầm sẵn ly sữa trên tay vì biết chắc chồng chị rất mệt. Chị còn biết anh không ra khỏi phòng bệnh ngay như những bác sĩ từng làm, anh bảo anh cần ở lại để thấy cảnh người nhà bệnh nhân vui mừng như thế nào. Để nguyên bộ đồ ngủ như thế, chị bước vô phòng. Người đàn ông ngước lên như một phản xạ tự nhiên, chị ngỡ ngàng thốt lên: “Ôi anh Khang !” “Em …”. Lúc này anh ta mới đưa mắt nhìn vị bác sĩ . Đúng là ông ta rồi, người đã xen và và cướp mất đi cuộc tình tươi đẹp của anh. Dạo đó anh tưởng đâu mình không vượt quan nổi cú sốc quá nặng nề đó. Nhưng như một quy luật tự nhiên, con người sinh là để tồn tại và luôn khát khao tồn tại, cho dù có phải tồn tại song song với những khổ đau. Trời thương nên cho anh gặp Nhung, người giúp anh thoát khỏi những cơn say triền miên. Vị bác sĩ cũng vừa nhận ra anh, ông chìa tay ra niềm nở: “Chúng ta đã gặp nhau rồi phải không ? Hôm nay lại có dịp chúc mừng anh lên chức làm cha!”. Anh xiết chặt tay bác sĩ, hai người đàn ông nhìn nhau, không hận thù oán ghét. “Cảm ơn anh đã giúp vợ chồng tôi, nếu không có bác sĩ …” “Anh khách sáo thế làm sao chúng ta trở thành bạn được đây! Bây giờ anh cứ lo cho chị nhà đúng như lời tôi dặn, khi nào chị nhà khỏe anh em mình làm vài ly để ăn mừng”. Đã hơn mười một giờ. Chưa đầy một tiếng nữa sẽ bước qua một ngày mới. Trong vòng tay yêu thương của chồng, chị chìm vào giấc ngủ thật êm đềm.
Mục lục
Người tốt
Người tốt
La Thị Ánh HườngChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.
Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.Đánh máy: ldlvinhquang Nguồn: ldlvinhquang VNthuquan - Thư viện OnlineĐược bạn: Ct.Ly đưa lên vào ngày: 16 tháng 10 năm 2006
|
La Thị Ánh Hường
Người tốt
T
rời chiều như đang cố níu kéo những tia nắng cuối ngày. Bên vệ đường, vài hạt nắng nhởn nhơ đùa giỡn với khóm hoa. Chúng nhạt màu dần rồi tan mất, chỉ một lát nữa thôi màn đêm sẽ bao trùm lên vạn vật. Bóng tối như một khối đen khổng lồ úp chặt lấy anh, không cho anh vùng vẫy. Từ bao giờ anh sợ nỗi cô đơn đến vậy? Anh sợ cả bóng đêm, cái thời khắc cuối ngày ấy thường kéo anh về lại với quãng thời gian êm đềm của ngày xưa, khi anh còn có chị. Cái “ngày xưa” ấy chỉ mới vỏn vẹn cách đây hơn hai tuần. Mười bốn ngày có thể chôn vùi cuộc tình kéo dài bốn năm của anh với chị sao? Anh không tin. Cứ mỗi chiều anh lại đi ngang nhà chị. Như một thói quen rồi, nhưng anh không còn nhận được nụ cười tươi tắn của chị, hay được chị ân cần hỏi: “Anh có đói bụng không? Nhà còn cơm nguội đấy!” Bằng giọng chân tình, thiết tha đến độ xua tan hết âu lo phiền muộn trong anh. Đã từ lâu anh biết rằng đời anh không thể thiếu chị. Không thể thiếu sự chăm lo kín đáo nhưng hết sức ân cần của chị. Anh cần chị biết bao. Chiều nay anh lại đi ngang nhà chị, chỉ để làm một việc ngớ ngẩn : tô đậm thêm cái kết luận hết sức phũ phàng: vị trí người đàn ông trong lòng chị đã được thay thế! Người đàn ông đó anh đã gặp rồi, hôm cùng chị đưa mẹ vào phòng cấp cứu của bệnh viện Thị Xã. Rồi những lần sau đó vẫn thấy ông ta ngồi cùng chị mỗi khi chị lo lắng đến xanh rớt người. Chị suy sụp hẳn đi khi ông ta kết luận bệnh mẹ chị khó có thể cứu chữa. Anh thương chị. Thương lắm ! Nhưng ngoài tình yêu ra anh còn gì có thể cho chị, ít nhất là trong lúc này ! Ngần ấy năm yêu thương, anh chỉ mong đến ngày được rước chị về nhà sống chung. Khi ấy anh quan tâm đến chị được nhiều hơn. Anh thay chị giặt đồ, rửa chén mỗi khi chị mỏi mệt. Anh sẽ ân cần bón cho chị từng muỗm cháo mỗi lúc chị ốm đau. Rồi cả những giấc ngủ trằn trọc khó đến, anh ru chị trong vòng tay yêu thương của mình. Anh ước ao được như thế, nhưng lại lo ngại,với đồng lương ít ỏi của mình liệu anh có mang lại cuộc sống nhàn hạ hơn cho chị, hay lại khiến chị vất vả hơn cả thời con gái vốn đã quá nhọc nhằn. Anh lo lắng, dằn vặt khôn nguôi. Nhưng bây giờ thì cả những lo lắng, dằn vặt ấy cũng không thuộc về anh nữa. Cho đáng đời mày Khang ạ! Anh thường chửi mình như thế trong cơn say. Nhưng khi tỉnh dậy anh bỗng thấy anh đáng thương nhiều hơn đáng trách. Chẳng lẽ lại trách bản thân anh sao không phải là một bác sĩ, hay trách chị thiếu chung tình? Không, anh vẫn thương chị. Anh ngước nhìn những ánh sao trên bầu trời đêm và nhớ chị đến quay quắt. Chị cũng giống như vì sao trên kia, mãi như những ngọn nến thắp sáng và sưởi ấm tâm hồn anh. Ngọn nến ấy không tắt bao giờ. Rồi một ngày nào đó chị sẽ về với anh, anh tin thế! Chị đi lấy chồng trong một ngày cuối đông. Mùa đông trên cao nguyên được tô đậm thêm bởi những đợt gió hú đến ghê người. Cõi lòng chị cũng dằn xé gào thét theo từng cơn gió. Chị xinh như một đóa hoa rừng trong bộ đồ cưới màu đỏ mà chồng chị đặt may ở một tiệm nổi tiếng trong Thị Xã. Chỉ có đôi mắt chị không sao giấu nổi nỗi buồn. Chị trách cứ mình, chửi rủa mình rồi cuối cùng lại an ủi mình. Tình yêu có là gì đâu kia chứ ! Chị yêu anh? Thì có yêu. Chị thề nguyền chung sống trọn đời trọn kiếp với anh ? Ừ, thì chị đâu có quên. Nhưng để chị có được ngày hôm nay để mà thề thốt, để mà yêu thương thì nhờ ai kia chứ ? Mỗi khi nói đến mẹ chị lại không cầm được nước mắt. Mẹ chị đã hy sinh cho chị quá nhiều. Chị làm sao mà quên được những gánh cải của mẹ trong buổi chợ sớm, đổi lấy cho chị áo trắng guốc cao đến trường. Nhớ có hôm trời mưa, chị trốn học mang áo mưa ra chợ cho mẹ. Vừa nhìn thấy chị lụp xụp dưới lớp áo mưa mỏng, mẹ lao tới quất tới tấp vào mông chị, mắng: “Ai dạy con trốn học như thế hả ? Mẹ khuyên con đến lớp phải chịu khó học cho giỏi kia mà. Con không nghe lời mẹ nữa phải không ? Đồ hư thân, đồ mất nết, đánh cho mày chừa !”. Cứ thế mỗi câu nói của mẹ là một đòn đánh vào mông. Đến khi mẹ mệt lả đi, nhìn lên chị vẫn không khóc. Mẹ nhìn chị hồi lâu rồi quỳ gối ôm chặt chị vào lòng, cả hai mẹ con ướt đẫm trong làn mưa trắng xóa. Trong mưa, chị vẫn nhận ra đâu là nước mắt của mẹ. Mẹ xoa chỗ chị vừa bị đánh nói với chị trong tiếng nấc: “Con phải học giỏi để khỏi phải đi bán cải như mẹ con biết không ?”. Mười ba tuổi chị đã nung nấu trong đầu mình một tương lai, mà ở đó ít nhất là mẹ chị không còn dầm mưa giãi nắng như hôm nay. Chị học xong cấp ba rồi ròng rã suốt bốn năm ở ngôi trường đại học. Những năm đó chị không hề khó khăn chuyện tiền bạc. Nhưng chị hiểu mẹ chị đã vất vả như thế nào để có nó. Rồi chị biết yêu, người con trai cùng quê với chị. Người thường qua sửa cho chị cái bóng đèn, tráng lại mấy ô gạch bị kiến đục vỡ từng mảng nhỏ… Cứ thế, cuộc sống trôi qua những ngày bình yên. Ngày chị tốt nghiệp cũng là ngày mẹ ngã quỵ bởi căn bệnh của tuổi già. Bây giờ thì kể như chị đã thực hiện được những gì chị mơ ước; một cuộc sống tiện nghi đầy đủ cho mẹ chị sống quãng tuổi già còn lại. Chồng chị, vị bác sĩ có uy tín nhất nhì trong Thị xã và yêu thương chị hết lòng. Những lúc rảnh anh xuống bếp giúp chị, phân tích cặn kẽ từng món ăn cần thiết cho sức khỏe của mẹ. Chị thì chẳng giúp gì được cho anh. Cầm tấm bằng sư phạm trên tay, chị thấy tiếc nuối. Anh hiểu cả những điều chị không nói, những khi nhìn chị thẫn thờ như thế, anh choàng tay lên đôi vai gầy xương của chị, anh nói: “Cưới được em anh mừng lắm. Em không cần lo lắng, băn khoăn gì cả, cứ ngoan hiền nết na như tính cách vốn có của em là anh toại nguyện rồi. Anh yêu em nhiều lắm !”. Anh là một người tốt, anh sống bao dung rộng lượng và không trách cứ chị bất cứ điều gì, kể cả mối tình đầu mà cho đến tận bây giờ chị vẫn chẳng thể nguôi ngoai. Anh tôn trọng quá khứ cũng như khoảng riêng của chị. Điều đó với chị cần thiết biết bao Cuộc sống trôi qua như một giấc mơ êm đềm. Cái chết của mẹ chị cũng diễn ra êm đềm như thế ! Ai đó đã nói “ tiền bạc không mua được sức khỏe con ngườI ”. Nhưng chị vẫn thấy biết ơn chồng, người đã tận tụy bên mẹ chị trong suốt những ngày qua. Đêm, chị gối đầu lên cánh tay rắn chắc của chồng, bỗng thấy những yêu thương tràn về, cảm giác mà trước đây chị chưa từng có. Có tiếng gõ cửa giữa đêm khuya, giọng của người nhà bệnh nhân vẻ như cấp thiết lắm, anh gỡ vòng tay mềm mại của chị đặt xuống giường, đắp mền lên đến ngực cho chị rồi lặng lẽ khoác bộ đồng phục trắng lên người, giọng cô y tá gấp gáp “Cô ta đau bụng chuyển dạ, bụng to quá nên có phần nguy hiểm. Bác sĩ ra xem giúp”. Chị cũng choàng dậy, hơn lúc nào hết chị muốn được ở bên chồng, chẳng giúp gì được anh nhưng chị vẫn muốn nhìn anh làm việc. Tiếng khóc thét của đứa trẻ trào đời làm mọi người thở phào nhẹ nhõm, gần hai tiếng đồng hồ cho một ca mổ khá nguy hiểm. Chị cầm sẵn ly sữa trên tay vì biết chắc chồng chị rất mệt. Chị còn biết anh không ra khỏi phòng bệnh ngay như những bác sĩ từng làm, anh bảo anh cần ở lại để thấy cảnh người nhà bệnh nhân vui mừng như thế nào. Để nguyên bộ đồ ngủ như thế, chị bước vô phòng. Người đàn ông ngước lên như một phản xạ tự nhiên, chị ngỡ ngàng thốt lên: “Ôi anh Khang !” “Em …”. Lúc này anh ta mới đưa mắt nhìn vị bác sĩ . Đúng là ông ta rồi, người đã xen và và cướp mất đi cuộc tình tươi đẹp của anh. Dạo đó anh tưởng đâu mình không vượt quan nổi cú sốc quá nặng nề đó. Nhưng như một quy luật tự nhiên, con người sinh là để tồn tại và luôn khát khao tồn tại, cho dù có phải tồn tại song song với những khổ đau. Trời thương nên cho anh gặp Nhung, người giúp anh thoát khỏi những cơn say triền miên. Vị bác sĩ cũng vừa nhận ra anh, ông chìa tay ra niềm nở: “Chúng ta đã gặp nhau rồi phải không ? Hôm nay lại có dịp chúc mừng anh lên chức làm cha!”. Anh xiết chặt tay bác sĩ, hai người đàn ông nhìn nhau, không hận thù oán ghét. “Cảm ơn anh đã giúp vợ chồng tôi, nếu không có bác sĩ …” “Anh khách sáo thế làm sao chúng ta trở thành bạn được đây! Bây giờ anh cứ lo cho chị nhà đúng như lời tôi dặn, khi nào chị nhà khỏe anh em mình làm vài ly để ăn mừng”. Đã hơn mười một giờ. Chưa đầy một tiếng nữa sẽ bước qua một ngày mới. Trong vòng tay yêu thương của chồng, chị chìm vào giấc ngủ thật êm đềm.
Mục lục
Người tốt
Người tốt
La Thị Ánh HườngChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.
Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.Đánh máy: ldlvinhquang Nguồn: ldlvinhquang VNthuquan - Thư viện OnlineĐược bạn: Ct.Ly đưa lên vào ngày: 16 tháng 10 năm 2006
|
Nguyễn nhật Ánh
Người tốt
Nhỏ Diệp vòi mẹ:- Mẹ ơi, ngày mai đi chợ, mẹ nhớ mua cho con một ký đậu trắng nghe mẹ!- Để làm gì thế hở con gái? - đề nghị của nhỏ Diệp làm mẹ ngạc nhiên quá. Mẹ nhớ trước nay nhỏ Diệp chưa bao giờ thích thứ đậu này.Câu trả lời của nhỏ Diệp càng khiến mẹ ngạc nhiên hơn nữa. Nó phụng phịu:- Chuyện này khó nói lắm, mai mốt rồi mẹ sẽ biết!Thái độ của nhỏ Diệp làm mẹ thắc mắc ghê lắm. Nhưng thấy nó không muốn nói, mẹ cũng chẳng gặng hỏi. Mẹ gật đầu:- Được rồi! Mẹ sẽ mua cho con!Thực ra nhỏ Diệp chẳng muốn dấu mẹ. Trước nay nó không dấu mẹ điều gì. Nhưng lần này lại khác. Lần này nó mắc cỡ.Chả là hôm qua ở trên lớp nó nghe thầy Nhãn kể chuyện. Thầy kể cho học trò nghe chuyện đời xưa. Chuyện về một người tu dưỡng tính tình bằng cách sắm hai chiếc lọ. Mỗi khi làm được một điều tốt, ông bỏ vào chiếc lọ thứ nhất một hạt đậu trắng. Còn khi trót làm một điều không tốt, ông bỏ vào chiếc lọ thứ hai một hạt đậu đen.Lúc đầu, lọ đậu đen nhiều hơn lọ đậu trắng. Nhưng sau một thời gian, hai lọ bằng nhau. Sau một thời gian nữa, lọ đậu trắng nhiều hơn lọ đậu đen. Ngày đó, ông không cần phải bỏ đậu vào lọ nữa. Ông đã trở thành một người tốt.Nhỏ Diệp thích câu chuyện này lắm. Nó thích trở thành người tốt biết bao. Nó không thích bị bà rầy: "Sao cháu cứ ăn vặt để đến bữa lại ngồi nhơi cơm cả buổi thế?", bị ba nhắc: "Ngồi vào bàn học bài đi chứ con!", bị anh Quý quạu cọ: "Tao giảng khô cả cổ, sao mắt mũi mày để ở đâu thế?"...Nhỏ Diệp quyết bắt chước nhân vật trong chuyện kể của thầy giáo. Nhưng nó không sắm hai chiếc lọ. Cũng không cần phải có đủ cả đậu trắng lẫn đậu đen.Nhỏ Diệp đặt trên bàn học của mình một chiếc ly. Mỗi khi làm được một điều tốt, nó sẽ bỏ vào đấy một hạt đậu trắng. Lỡ làm điều không tốt, nó lại thò tay vào ly nhặt bớt đi một hạt. Sau mỗi tuần, nó trút đậu trong ly ra và... đếm. Căn cứ vào số đậu nhiều lên hay ít đi, nó sẽ biết mình đang trở thành người tốt hay kẻ xấu.Ngay ngày đầu tiên mẹ đem bịch đậu về, buổi chiều nhỏ Diệp đã bỏ vào ly ba hạt. Chả là sáng đó, nó được điểm 10 môn ngữ pháp, buổi trưa nó giúp mẹ lau nhà, sau đó lại phụ bà lặt rau.Nhỏ Diệp hân hoan ngắm nghía ba hạt đậu trong ly. Tuy chỉ có ba hạt chỏng chơ thôi, nhưng ngày đầu được như thế là mừng lắm rồi. Chả bù với lúc vừa đi học về, đón bịch đậu từ tay mẹ, nó đã phát hoảng khi thấy một ký đậu sao mà nhiều thế. Nó ngỡ như nếu sống đến một trăm tuổi, nó cũng không thể nào làm xong "một ký" điều tốt nổi!Nhưng đến buổi tối thì niềm vui trong lòng nhỏ Diệp đã vơi mất 2/3. Ăn cơm chiều xong, trong lúc ngồi học bài, chả rõ nó hí hoáy thế nào lại đánh gãy mất cây thước mượn của anh Vũ, bị anh Vũ mắng cho một trận. Trước khi đi ngủ, nó còn kịp làm rớt thêm chiếc lọ đựng bột màu của anh Quý xuống đất vỡ tan, bị anh Quý quát tiếp một chặp nữa.Thế là ba hạt đậu hồi chiều rốt cuộc chỉ còn có một. Nhỏ Diệp buồn bã bỏ hai hạt đậu vào lại trong bịch rồi cất lên giá sách, bụng an ủi: "Dù sao cũng còn được một điều tốt!".Nhưng đó là câu chuyện của ngày đầu... tập làm người tốt. Mà ngày đầu tiên, như người ta thường nói, bao giờ cũng khó khăn.Quả nhiên, những ngày tiếp theo số đậu trong ly dần dần nhiều lên từng chút một. Nhỏ Diệp tất nhiên cũng ý tứ hơn từng chút một. Người khác, dù đó là ông bà, ba mẹ hay thầy cô giáo, phán xét mình, dẫu công tâm và nghiêm khắc đến mấy vẫn có lúc thiếu sót. Nhưng nếu chính mình phán xét mình thì không điều gì có thể "qua mắt" mình được. Mình nghĩ gì, mình làm gì, dù bí mật đến mấy thì... mình cũng biết.Nhỏ Diệp hiểu điều đó, vì vậy nó chả dám làm những chuyện mà vì chúng, những hạt đậu ở trong ly có thể bị tước mất bất cứ lúc nào.Đậu trong ly ngày một nhiều. Và những lời khen mà nhỏ Diệp nhận được cũng nhiều không kém.Bà nói:- Cháu Diệp lúc này ngoan ghê! Cháu giúp bà biết bao nhiêu là việc!Mẹ nói:- ừ, tự nhiên giỏi giang hẳn ra!Ba hài lòng:- Điểm 10 trong tập cũng nhiều hơn trước!Anh Vũ và anh Quý đều gật gù:- ừ, thấy nó dạo này là lạ thế nào! Trông chững chạc ra phết!Được cả nhà khen, nhỏ Diệp vừa thinh thích lại vừa ngượng ngập. Nó trốn vào phòng, kéo chiếc ly lại gần và âu yếm ngắm những hạt đậu đang nằm chen chúc bên nhau. Những hạt đậu như cũng đang nhìn lại nó. Những hạt đậu như đang nói: "Chẳng có gì là tự nhiên, phải không bạn Diệp?".Nhỏ Diệp nghe thấy câu nói đó, hoặc cũng có thể do nó tưởng tượng ra trong đầu, và nó vui vẻ trả lời:- Đúng rồi, chẳng có gì là tự nhiên cả! Muốn trở thành người tốt cũng cần phải cố gắng. Như mình đang cố gắng để chiếc ly thật đầy. Đầy đến mức phải sắm thêm những chiếc ly khác nữa!Mơ ước của nhỏ Diệp đẹp đẽ và đáng yêu biết bao! Chỉ tiếc rằng ngoài nó ra, không một ai hay biết. Anh Quý của nó càng không biết.Vì vậy, một hôm nhỏ Diệp vừa chơi nhà bạn về, Quý ròm đã tíu tít khoe:- Lát ăn cơm tối xong, tao sẽ đãi mày món này tuyệt lắm!- Món gì thế? Kẹo dừa phải không?- Kẹo dừa thì nói làm gì? - Quý ròm "xì" một tiếng - Món này hấp dẫn hơn nhiều!Nhỏ Diệp tò mò:- Thế đó là món gì?- Chè.- Chè gì vậy?Quý ròm huơ tay:- Chè đậu trắng.- Tưởng gì! - nhỏ Diệp rùn vai - Em đâu có ăn được chè đậu trắng. Em thích chè đậu xanh cơ!- Mày ngốc quá! - Quý ròm bĩu môi - Chè đậu trắng ngon hơn chè đậu xanh gấp tỷ lần!Bị ông anh chê ngốc, nhỏ Diệp tức lắm. Nhưng nó chưa kịp phản ứng, bỗng nhớ tới một chuyện, mặt liền xanh xám:- Chết rồi! Đậu trắng ở đâu ra vậy?Quý ròm cười hì hì:- ở trong phòng học chứ đâu! Tao thấy mày nhét nguyên một bịch to tướng trên giá sách, lại đựng trong ly nữa, tao liền trút hết ra đem cho bà nấu chè!- Trời đất! Đậu của em sao anh lại đem nấu chè! - miệng nhỏ Diệp mếu xệch, còn mắt thì bắt đầu ngân ngấn nước.- Đậu không dùng nấu chè chứ dùng để làm gì! - Quý ròm hừ mũi - Chẳng lẽ để cho mốc meo hết hay sao?- Không biết! Em không biết! - nhỏ Diệp giãy nảy - Anh muốn ăn chè thì mua đậu về nấu ăn, ai bảo anh lấy đậu của em!Nghĩ đến bao nhiêu công sức bỏ ra những ngày qua giờ trở thành công cốc, bao nhiêu "điều tốt" nâng niu gom góp được cả tháng nay bị ông anh đem trút hết vào nồi chè, nhỏ Diệp nghe ngực tức nghẹn. Nó lắp bắp:- Tại anh hết! Em... em...Nhỏ Diệp hít vào một hơi, chuẩn bị bù lu bù loa bắt đền ông anh nhanh nhẩu đoảng.Nhưng đến phút chót, không hiểu sao nó bỗng nín thinh.Quý ròm sợ nhất trò ăn vạ của nhỏ em. Thấy nhỏ Diệp làm ầm, nó mắt la mày lém, bụng rối như tơ.Nhưng rồi chờ hoài vẫn chưa thấy nhỏ em "khai hỏa", nó lo lắng hỏi:- "Em" sao?- Chả sao cả! - nhỏ Diệp đưa tay quẹt nước mắt, đáp bằng giọng sụt sịt - Em... em chỉ muốn nói nếu anh lỡ nấu chè rồi thì thôi. Em sẽ mua lại bịch đậu khác.Sự thay đổi thái độ đột ngột của nhỏ em khiến Quý ròm ngơ ngác:- Mày nói thật đấy chứ?- Thật.- Mày không bắt đền tao nữa chứ?- Không. Em không bắt đền nữa.Quý ròm thở phào. Rồi tò mò hỏi:- Thế mày cất bịch đậu trong phòng làm gì vậy?Nhỏ Diệp nhoẻn miệng cười:- Chẳng làm gì cả! Chơi vậy thôi!Quý ròm bán tín bán nghi. Nhưng nó không hỏi tới, chỉ nói:- Lạ thật đấy! Chả ai lại chơi với những hạt đậu như mày cả!Dĩ nhiên là Quý ròm nói đúng. Chỉ có điều nó không biết là nó nói đúng thôi. Nhỏ Diệp đâu có dùng những hạt đậu trắng kia làm trò chơi. Nó đang bắt chước nhân vật trong câu chuyện thầy giáo kể. Nó đang tập làm người tốt. Nếu không thế, lúc đang chuẩn bị ăn vạ ông anh, nó đã không ngừng bặt giữa chừng.Chỉ vì lúc đó nó sực nhớ ra một người tốt thì đâu có làm như vậy. Một người tốt bao giờ cũng bao dung, cũng biết tha thứ và biết nói: "Lỡ rồi thì thôi! Em sẽ mua lại bịch đậu khác!".Tất nhiên lần này "người tốt" sẽ cẩn thận hơn, sẽ tìm chỗ kín đáo dấu kỹ bịch đậu, sẽ không để cho "anh của người tốt" đem trút hết vào nồi như trước.
Mục lục
Người tốt
Người tốt
Nguyễn nhật ÁnhChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.
Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: HùngĐược bạn: Thành Viên VNthuquan đưa lên vào ngày: 27 tháng 12 năm 2003
|
Nguyễn nhật Ánh
Người tốt
Nhỏ Diệp vòi mẹ:- Mẹ ơi, ngày mai đi chợ, mẹ nhớ mua cho con một ký đậu trắng nghe mẹ!- Để làm gì thế hở con gái? - đề nghị của nhỏ Diệp làm mẹ ngạc nhiên quá. Mẹ nhớ trước nay nhỏ Diệp chưa bao giờ thích thứ đậu này.Câu trả lời của nhỏ Diệp càng khiến mẹ ngạc nhiên hơn nữa. Nó phụng phịu:- Chuyện này khó nói lắm, mai mốt rồi mẹ sẽ biết!Thái độ của nhỏ Diệp làm mẹ thắc mắc ghê lắm. Nhưng thấy nó không muốn nói, mẹ cũng chẳng gặng hỏi. Mẹ gật đầu:- Được rồi! Mẹ sẽ mua cho con!Thực ra nhỏ Diệp chẳng muốn dấu mẹ. Trước nay nó không dấu mẹ điều gì. Nhưng lần này lại khác. Lần này nó mắc cỡ.Chả là hôm qua ở trên lớp nó nghe thầy Nhãn kể chuyện. Thầy kể cho học trò nghe chuyện đời xưa. Chuyện về một người tu dưỡng tính tình bằng cách sắm hai chiếc lọ. Mỗi khi làm được một điều tốt, ông bỏ vào chiếc lọ thứ nhất một hạt đậu trắng. Còn khi trót làm một điều không tốt, ông bỏ vào chiếc lọ thứ hai một hạt đậu đen.Lúc đầu, lọ đậu đen nhiều hơn lọ đậu trắng. Nhưng sau một thời gian, hai lọ bằng nhau. Sau một thời gian nữa, lọ đậu trắng nhiều hơn lọ đậu đen. Ngày đó, ông không cần phải bỏ đậu vào lọ nữa. Ông đã trở thành một người tốt.Nhỏ Diệp thích câu chuyện này lắm. Nó thích trở thành người tốt biết bao. Nó không thích bị bà rầy: "Sao cháu cứ ăn vặt để đến bữa lại ngồi nhơi cơm cả buổi thế?", bị ba nhắc: "Ngồi vào bàn học bài đi chứ con!", bị anh Quý quạu cọ: "Tao giảng khô cả cổ, sao mắt mũi mày để ở đâu thế?"...Nhỏ Diệp quyết bắt chước nhân vật trong chuyện kể của thầy giáo. Nhưng nó không sắm hai chiếc lọ. Cũng không cần phải có đủ cả đậu trắng lẫn đậu đen.Nhỏ Diệp đặt trên bàn học của mình một chiếc ly. Mỗi khi làm được một điều tốt, nó sẽ bỏ vào đấy một hạt đậu trắng. Lỡ làm điều không tốt, nó lại thò tay vào ly nhặt bớt đi một hạt. Sau mỗi tuần, nó trút đậu trong ly ra và... đếm. Căn cứ vào số đậu nhiều lên hay ít đi, nó sẽ biết mình đang trở thành người tốt hay kẻ xấu.Ngay ngày đầu tiên mẹ đem bịch đậu về, buổi chiều nhỏ Diệp đã bỏ vào ly ba hạt. Chả là sáng đó, nó được điểm 10 môn ngữ pháp, buổi trưa nó giúp mẹ lau nhà, sau đó lại phụ bà lặt rau.Nhỏ Diệp hân hoan ngắm nghía ba hạt đậu trong ly. Tuy chỉ có ba hạt chỏng chơ thôi, nhưng ngày đầu được như thế là mừng lắm rồi. Chả bù với lúc vừa đi học về, đón bịch đậu từ tay mẹ, nó đã phát hoảng khi thấy một ký đậu sao mà nhiều thế. Nó ngỡ như nếu sống đến một trăm tuổi, nó cũng không thể nào làm xong "một ký" điều tốt nổi!Nhưng đến buổi tối thì niềm vui trong lòng nhỏ Diệp đã vơi mất 2/3. Ăn cơm chiều xong, trong lúc ngồi học bài, chả rõ nó hí hoáy thế nào lại đánh gãy mất cây thước mượn của anh Vũ, bị anh Vũ mắng cho một trận. Trước khi đi ngủ, nó còn kịp làm rớt thêm chiếc lọ đựng bột màu của anh Quý xuống đất vỡ tan, bị anh Quý quát tiếp một chặp nữa.Thế là ba hạt đậu hồi chiều rốt cuộc chỉ còn có một. Nhỏ Diệp buồn bã bỏ hai hạt đậu vào lại trong bịch rồi cất lên giá sách, bụng an ủi: "Dù sao cũng còn được một điều tốt!".Nhưng đó là câu chuyện của ngày đầu... tập làm người tốt. Mà ngày đầu tiên, như người ta thường nói, bao giờ cũng khó khăn.Quả nhiên, những ngày tiếp theo số đậu trong ly dần dần nhiều lên từng chút một. Nhỏ Diệp tất nhiên cũng ý tứ hơn từng chút một. Người khác, dù đó là ông bà, ba mẹ hay thầy cô giáo, phán xét mình, dẫu công tâm và nghiêm khắc đến mấy vẫn có lúc thiếu sót. Nhưng nếu chính mình phán xét mình thì không điều gì có thể "qua mắt" mình được. Mình nghĩ gì, mình làm gì, dù bí mật đến mấy thì... mình cũng biết.Nhỏ Diệp hiểu điều đó, vì vậy nó chả dám làm những chuyện mà vì chúng, những hạt đậu ở trong ly có thể bị tước mất bất cứ lúc nào.Đậu trong ly ngày một nhiều. Và những lời khen mà nhỏ Diệp nhận được cũng nhiều không kém.Bà nói:- Cháu Diệp lúc này ngoan ghê! Cháu giúp bà biết bao nhiêu là việc!Mẹ nói:- ừ, tự nhiên giỏi giang hẳn ra!Ba hài lòng:- Điểm 10 trong tập cũng nhiều hơn trước!Anh Vũ và anh Quý đều gật gù:- ừ, thấy nó dạo này là lạ thế nào! Trông chững chạc ra phết!Được cả nhà khen, nhỏ Diệp vừa thinh thích lại vừa ngượng ngập. Nó trốn vào phòng, kéo chiếc ly lại gần và âu yếm ngắm những hạt đậu đang nằm chen chúc bên nhau. Những hạt đậu như cũng đang nhìn lại nó. Những hạt đậu như đang nói: "Chẳng có gì là tự nhiên, phải không bạn Diệp?".Nhỏ Diệp nghe thấy câu nói đó, hoặc cũng có thể do nó tưởng tượng ra trong đầu, và nó vui vẻ trả lời:- Đúng rồi, chẳng có gì là tự nhiên cả! Muốn trở thành người tốt cũng cần phải cố gắng. Như mình đang cố gắng để chiếc ly thật đầy. Đầy đến mức phải sắm thêm những chiếc ly khác nữa!Mơ ước của nhỏ Diệp đẹp đẽ và đáng yêu biết bao! Chỉ tiếc rằng ngoài nó ra, không một ai hay biết. Anh Quý của nó càng không biết.Vì vậy, một hôm nhỏ Diệp vừa chơi nhà bạn về, Quý ròm đã tíu tít khoe:- Lát ăn cơm tối xong, tao sẽ đãi mày món này tuyệt lắm!- Món gì thế? Kẹo dừa phải không?- Kẹo dừa thì nói làm gì? - Quý ròm "xì" một tiếng - Món này hấp dẫn hơn nhiều!Nhỏ Diệp tò mò:- Thế đó là món gì?- Chè.- Chè gì vậy?Quý ròm huơ tay:- Chè đậu trắng.- Tưởng gì! - nhỏ Diệp rùn vai - Em đâu có ăn được chè đậu trắng. Em thích chè đậu xanh cơ!- Mày ngốc quá! - Quý ròm bĩu môi - Chè đậu trắng ngon hơn chè đậu xanh gấp tỷ lần!Bị ông anh chê ngốc, nhỏ Diệp tức lắm. Nhưng nó chưa kịp phản ứng, bỗng nhớ tới một chuyện, mặt liền xanh xám:- Chết rồi! Đậu trắng ở đâu ra vậy?Quý ròm cười hì hì:- ở trong phòng học chứ đâu! Tao thấy mày nhét nguyên một bịch to tướng trên giá sách, lại đựng trong ly nữa, tao liền trút hết ra đem cho bà nấu chè!- Trời đất! Đậu của em sao anh lại đem nấu chè! - miệng nhỏ Diệp mếu xệch, còn mắt thì bắt đầu ngân ngấn nước.- Đậu không dùng nấu chè chứ dùng để làm gì! - Quý ròm hừ mũi - Chẳng lẽ để cho mốc meo hết hay sao?- Không biết! Em không biết! - nhỏ Diệp giãy nảy - Anh muốn ăn chè thì mua đậu về nấu ăn, ai bảo anh lấy đậu của em!Nghĩ đến bao nhiêu công sức bỏ ra những ngày qua giờ trở thành công cốc, bao nhiêu "điều tốt" nâng niu gom góp được cả tháng nay bị ông anh đem trút hết vào nồi chè, nhỏ Diệp nghe ngực tức nghẹn. Nó lắp bắp:- Tại anh hết! Em... em...Nhỏ Diệp hít vào một hơi, chuẩn bị bù lu bù loa bắt đền ông anh nhanh nhẩu đoảng.Nhưng đến phút chót, không hiểu sao nó bỗng nín thinh.Quý ròm sợ nhất trò ăn vạ của nhỏ em. Thấy nhỏ Diệp làm ầm, nó mắt la mày lém, bụng rối như tơ.Nhưng rồi chờ hoài vẫn chưa thấy nhỏ em "khai hỏa", nó lo lắng hỏi:- "Em" sao?- Chả sao cả! - nhỏ Diệp đưa tay quẹt nước mắt, đáp bằng giọng sụt sịt - Em... em chỉ muốn nói nếu anh lỡ nấu chè rồi thì thôi. Em sẽ mua lại bịch đậu khác.Sự thay đổi thái độ đột ngột của nhỏ em khiến Quý ròm ngơ ngác:- Mày nói thật đấy chứ?- Thật.- Mày không bắt đền tao nữa chứ?- Không. Em không bắt đền nữa.Quý ròm thở phào. Rồi tò mò hỏi:- Thế mày cất bịch đậu trong phòng làm gì vậy?Nhỏ Diệp nhoẻn miệng cười:- Chẳng làm gì cả! Chơi vậy thôi!Quý ròm bán tín bán nghi. Nhưng nó không hỏi tới, chỉ nói:- Lạ thật đấy! Chả ai lại chơi với những hạt đậu như mày cả!Dĩ nhiên là Quý ròm nói đúng. Chỉ có điều nó không biết là nó nói đúng thôi. Nhỏ Diệp đâu có dùng những hạt đậu trắng kia làm trò chơi. Nó đang bắt chước nhân vật trong câu chuyện thầy giáo kể. Nó đang tập làm người tốt. Nếu không thế, lúc đang chuẩn bị ăn vạ ông anh, nó đã không ngừng bặt giữa chừng.Chỉ vì lúc đó nó sực nhớ ra một người tốt thì đâu có làm như vậy. Một người tốt bao giờ cũng bao dung, cũng biết tha thứ và biết nói: "Lỡ rồi thì thôi! Em sẽ mua lại bịch đậu khác!".Tất nhiên lần này "người tốt" sẽ cẩn thận hơn, sẽ tìm chỗ kín đáo dấu kỹ bịch đậu, sẽ không để cho "anh của người tốt" đem trút hết vào nồi như trước.
Mục lục
Người tốt
Người tốt
Nguyễn nhật ÁnhChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.
Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: HùngĐược bạn: Thành Viên VNthuquan đưa lên vào ngày: 27 tháng 12 năm 2003
|
Lương Đình Khoa
Người từ trại giam
Hắn quay lại nhìn cánh cổng trại giam với một vẻ nuối tiếc. Vậy là hắn đã được tự do. Nhưng tự do để làm gì kia chứ? Hắn không hề mong đợi điều này. Hắn vẫn muốn được mang danh hiệu một kẻ tù tội mà không được. Chẳng ai hiểu cái mong muốn kia của hắn cả. Ít ra ở đấy còn có người cai quản, giám sát. Và như thế, hắn mới thấy mình được làm người - một con người thật sự. Bây giờ người ta thả hắn ra, hắn biết chẳng bao lâu hắn lại trở về với bản tính của một thằng lưu manh côn đồ như trước. Vậy thì cứ giữ quách hắn lại luôn một thể có hơn không, việc gì phải cho hắn tự do trong phút chốc để mọi người lại phải gánh chịu thói lưu manh côn đồ của hắn kia chứ...Hắn rẽ vào một quán nước bên đường hút điếu thuốc và uống chén rượu. Hắn thấy chân tay mình ngứa ngáy không chịu được. Trời ơi, hắn sắp sửa đập phá - phá tung cái quán nhỏ này lên mất. Hắn vớ lấy một tờ báo bên cạnh định xé tung ra. Nhưng hắn chợt dừng lại. Hắn nhìn hình ảnh một bà già trong tờ báo đang cúi xuống quệt ngang dòng nước mắt. Nước mắt - không hiểu tại sao nhìn thấy nước mắt, hắn dễ mủi lòng đến thế. Thứ nước ấy có sức mạnh kỳ quái gì mà trông thấy nó, hắn như bị thôi miên. Có lẽ hắn nhớ những giọt nước mắt của vợ và con hắn trong quá khứ xa xôi... Những giọt nước mắt và những tiếng gào thét trong ngọn lửa hung tàn khiến hắn sững sờ... Lửa, lửa đã thiêu đốt tất cả, cướp đi của hắn mọi thứ: một cuộc sống bình thường như bao người đàn ông khác, một người vợ, một đứa con ngoan... Và lửa đã khiến hắn chỉ còn một thân một mình bơ vơ, đã trao linh hồn của hắn cho quỉ dữ khi dẫn hắn đến với những băng nhóm...Hắn bắt đầu cúi xuống đọc bài báo. Bài báo viết về một người mẹ thất lạc con mấy chục năm nay, khóc đến lòa cả hai mắt. Giờ cuối đời, bà chỉ mong gặp lại đứa con ấy. Hắn chợt thấy lòng bâng khuâng... Nhưng chút bâng khuâng ấy chỉ thoáng qua. Nó không đủ sức bám trụ lâu trong tâm trí hắn. Cái mảnh vườn rộng của người mẹ kia đã thắng...Hắn đặt tờ báo xuống, trầm ngâm toan tính...***Tin bà cụ Xanh tìm lại được anh con giai thất lạc khiến cả xóm Trại xôn xao... Người ta kéo đến chật nhà kín ngõ xem thực hư thế nào. Bà cụ Xanh mừng mừng tủi tủi đứng giữa mọi người, mắt hoen đỏ đưa tay dụi dụi liên tục và nói: - Ơn giời, nay tôi đã tìm lại được đứa con thất lạc hơn 30 năm. Thật là không còn gì hơn thế nữa. Có con có mẹ sống nốt những ngày cuối đời là tôi mãn nguyện lắm rồi!Mọi con mắt đều nhìn vào hắn. Sao trông khuôn mặt sạm đen của hắn lúc này lại hiền lành đến thế - hiền như khuôn mặt của hắn ngày xưa...Bữa cơm đầu tiên tại nhà bà Xanh có thêm một cái bát và một đôi đũa. Bà cụ vừa nhai móm mém, vừa vui vẻ nói:- Mọi người ở đây thoải mái và dễ gần lắm con ạ! Ai cũng tốt. Họ giúp đỡ mẹ rất nhiều. Gần họ, con khắc sẽ cảm nhận được điều đó, sẽ mến họ nhanh thôi. Cố kiếm lấy một đứa về cho vui cửa vui nhà. Rồi sinh con đẻ cái... Không biết mẹ có sống được đến lúc ấy không nhỉ?Hắn nhìn bà lão, nửa như thân quen, nửa như xa lạ:- Mẹ... Có tiền chứ? - Hắn buông một câu. Bà lão vẫn vồn vã:- Tiền thì không lo. Lâu nay mẹ dành dụm được một số tiền cũng kha khá. Con chỉ cần tu chí làm ăn thì không sợ nghèo đâu!Hắn khẽ rùng mình... Một tiếng “mẹ” đầu tiên hắn vừa thốt ra. Chao ôi, sao mà hắn thấy sống sượng, gượng gạo, khó gọi đến thế...Mới đó mà hắn đã ở nhà bà Xanh gần nửa tháng. Hắn cũng đã bắt đầu quen với mọi thứ nơi đây, quen cả bà lão lúc nào cũng cười nói như trẻ nhỏ kia nữa. Bà nói toàn những chuyện vu vơ không đâu, những chuyện bà nghe được... Chuyện về những người nông dân trong xóm được mùa, về cô Bủng hiếu thảo, về bác Ngô nói được cả tiếng nước ngoài, thi thoảng dịch bài đăng báo... Hắn không buồn quan tâm. Nhưng đêm đến - đêm của một vắng lặng, hắn lại trầm ngâm suy nghĩ... Hắn thấy có một cái gì đó, một cái gì hắn cũng không biết, không gọi được tên cứ dâng lên trong lòng... Và hắn thấy khó chịu, bực bội vì điều ấy.Không đợi được nữa, một đêm trăng, hắn cõng bà Xanh chạy ra cánh đồng. - Con đưa mẹ đi gặp người con sắp lấy làm vợ.- Ừ, nhưng đêm hôm thế này biết con bé nó còn thức không con?Hắn giật nảy mình, đứng sững lại. Hắn không ngờ một bà cụ mù lòa lại xác định thời gian chính xác đến thế. Hắn đang lúng túng không biết nói câu gì thì bà Xanh lại lên tiếng:- Sương xuống lạnh đấy, con có mặc thêm áo không? Đừng cậy mình trai tráng rồi ốm ra đấy thì khổ con ạ!Hắn vẫn im lặng, lủi thủi cõng bà Xanh quay trở lại nhà.Ngày hôm sau, bà Xanh lên cơn sốt. Hắn cuống cuồng chẳng biết phải làm sao... Hắn đã từng sốt như thế, song sức vóc khỏe mạnh, chẳng cần săn sóc, thuốc men gì nó cũng tự khỏi. Nhưng đấy là hắn chứ không phải một người già cả mù lòa đang nằm trên giường kia...Chạy sang nhà bên cạnh, người ta chỉ đường cho hắn tới trạm xá. Hắn cõng bà Xanh chạy như bay trên con đường đất đỏ, mồ hôi hắn vã ra như tắm. Chẳng biết lúc ấy hắn nghĩ gì nữa... Hắn đang mong bà cụ chết để chiếm lấy mảnh vườn kia mà...Tại trạm xá, cô y tá bước ra tươi cười với hắn:- May cho anh đấy! Chỉ chậm một chút nữa thôi là mẹ anh khó mà qua khỏi. Hắn gượng gạo cười, cảm ơn cô y tá và vào gần bà cụ. Hắn quì xuống bên giường bà Xanh và khóc... Nước mắt, lại nước mắt... Hắn sợ trông thấy những giọt nước mắt của người khác, giờ chính hắn lại trông thấy nước mắt của mình... Chao ôi!- Tại sao? Bà biết tôi không phải là con trai của bà mà... Tại sao?Bà cụ Xanh lần lần nắm lấy tay hắn:- Đúng, từ lâu mẹ đã biết con không phải là đứa con trai đã mất tích của mẹ. Nhưng mẹ già rồi, ông giời cho sống được ngày nào thì hay ngày ấy, biết thế nào hả con. Mẹ không chờ được đứa con ấy nữa, mong manh lắm... Mẹ chỉ cần một người ở bên sớm tối, sống vui vẻ nốt những tháng ngày còn lại thôi. Và con đã xuất hiện.- Nhưng... Nhưng mẹ biết con là ai, trước đây như thế nào không? Con ở tù ra, là một kẻ lưu manh côn đồ...- Không, mẹ không quan tâm. Con người ta sinh ra, bản tính vốn là lương thiện mà con. Dù có xấu xa, tàn bạo đến mấy thì một lúc nào đấy, cái phần lương thiện kia sẽ trỗi dậy và đưa đường người ta trở về với bản chất thực của mình...Một đêm, hắn lặng lẽ trở dậy, khép cửa lại đi ra ngõ. Rồi bất ngờ hắn chạy, chạy như ma đuổi trên con đường trải đầy đá dăm. Đá dưới chân hắn như những mũi dao đang dựng lên, đau buốt. Hắn ngã dúi dụi xuống một ruộng lúa bên đường.- Ai? - Một tiếng quát dõng dạc, và ánh đèn pin rọi thẳng vào mặt hắn - Đêm hôm khuya khoắt, làm gì mà chạy như ma đuổi thế? Theo tôi về ủy ban giải quyết.Hắn không nói gì, để mặc cho người bảo vệ dẫn về ủy ban xã. Hôm sau, hắn vừa tỉnh dậy đã thấy bà Xanh và mọi người đến xin cho hắn về.- Con đừng đi, đừng bỏ mẹ mà đi, con ơi! - Bà Xanh vừa nói, vừa đưa hai tay run run quờ quạng tìm hắn.Hắn đưa hai tay ra đỡ bà cụ, rồi cõng bà về lại ngôi nhà yên bình nơi xóm Trại cùng với mọi người trong ánh bình minh ấm áp đang lan dần trên những vạt cỏ xanh...
Mục lục
Người từ trại giam
Người từ trại giam
Lương Đình KhoaChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.
Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: theo tuổi trẻĐược bạn: Ct.Ly đưa lên vào ngày: 27 tháng 8 năm 2007
|
Lương Đình Khoa
Người từ trại giam
Hắn quay lại nhìn cánh cổng trại giam với một vẻ nuối tiếc. Vậy là hắn đã được tự do. Nhưng tự do để làm gì kia chứ? Hắn không hề mong đợi điều này. Hắn vẫn muốn được mang danh hiệu một kẻ tù tội mà không được. Chẳng ai hiểu cái mong muốn kia của hắn cả. Ít ra ở đấy còn có người cai quản, giám sát. Và như thế, hắn mới thấy mình được làm người - một con người thật sự. Bây giờ người ta thả hắn ra, hắn biết chẳng bao lâu hắn lại trở về với bản tính của một thằng lưu manh côn đồ như trước. Vậy thì cứ giữ quách hắn lại luôn một thể có hơn không, việc gì phải cho hắn tự do trong phút chốc để mọi người lại phải gánh chịu thói lưu manh côn đồ của hắn kia chứ...Hắn rẽ vào một quán nước bên đường hút điếu thuốc và uống chén rượu. Hắn thấy chân tay mình ngứa ngáy không chịu được. Trời ơi, hắn sắp sửa đập phá - phá tung cái quán nhỏ này lên mất. Hắn vớ lấy một tờ báo bên cạnh định xé tung ra. Nhưng hắn chợt dừng lại. Hắn nhìn hình ảnh một bà già trong tờ báo đang cúi xuống quệt ngang dòng nước mắt. Nước mắt - không hiểu tại sao nhìn thấy nước mắt, hắn dễ mủi lòng đến thế. Thứ nước ấy có sức mạnh kỳ quái gì mà trông thấy nó, hắn như bị thôi miên. Có lẽ hắn nhớ những giọt nước mắt của vợ và con hắn trong quá khứ xa xôi... Những giọt nước mắt và những tiếng gào thét trong ngọn lửa hung tàn khiến hắn sững sờ... Lửa, lửa đã thiêu đốt tất cả, cướp đi của hắn mọi thứ: một cuộc sống bình thường như bao người đàn ông khác, một người vợ, một đứa con ngoan... Và lửa đã khiến hắn chỉ còn một thân một mình bơ vơ, đã trao linh hồn của hắn cho quỉ dữ khi dẫn hắn đến với những băng nhóm...Hắn bắt đầu cúi xuống đọc bài báo. Bài báo viết về một người mẹ thất lạc con mấy chục năm nay, khóc đến lòa cả hai mắt. Giờ cuối đời, bà chỉ mong gặp lại đứa con ấy. Hắn chợt thấy lòng bâng khuâng... Nhưng chút bâng khuâng ấy chỉ thoáng qua. Nó không đủ sức bám trụ lâu trong tâm trí hắn. Cái mảnh vườn rộng của người mẹ kia đã thắng...Hắn đặt tờ báo xuống, trầm ngâm toan tính...***Tin bà cụ Xanh tìm lại được anh con giai thất lạc khiến cả xóm Trại xôn xao... Người ta kéo đến chật nhà kín ngõ xem thực hư thế nào. Bà cụ Xanh mừng mừng tủi tủi đứng giữa mọi người, mắt hoen đỏ đưa tay dụi dụi liên tục và nói: - Ơn giời, nay tôi đã tìm lại được đứa con thất lạc hơn 30 năm. Thật là không còn gì hơn thế nữa. Có con có mẹ sống nốt những ngày cuối đời là tôi mãn nguyện lắm rồi!Mọi con mắt đều nhìn vào hắn. Sao trông khuôn mặt sạm đen của hắn lúc này lại hiền lành đến thế - hiền như khuôn mặt của hắn ngày xưa...Bữa cơm đầu tiên tại nhà bà Xanh có thêm một cái bát và một đôi đũa. Bà cụ vừa nhai móm mém, vừa vui vẻ nói:- Mọi người ở đây thoải mái và dễ gần lắm con ạ! Ai cũng tốt. Họ giúp đỡ mẹ rất nhiều. Gần họ, con khắc sẽ cảm nhận được điều đó, sẽ mến họ nhanh thôi. Cố kiếm lấy một đứa về cho vui cửa vui nhà. Rồi sinh con đẻ cái... Không biết mẹ có sống được đến lúc ấy không nhỉ?Hắn nhìn bà lão, nửa như thân quen, nửa như xa lạ:- Mẹ... Có tiền chứ? - Hắn buông một câu. Bà lão vẫn vồn vã:- Tiền thì không lo. Lâu nay mẹ dành dụm được một số tiền cũng kha khá. Con chỉ cần tu chí làm ăn thì không sợ nghèo đâu!Hắn khẽ rùng mình... Một tiếng “mẹ” đầu tiên hắn vừa thốt ra. Chao ôi, sao mà hắn thấy sống sượng, gượng gạo, khó gọi đến thế...Mới đó mà hắn đã ở nhà bà Xanh gần nửa tháng. Hắn cũng đã bắt đầu quen với mọi thứ nơi đây, quen cả bà lão lúc nào cũng cười nói như trẻ nhỏ kia nữa. Bà nói toàn những chuyện vu vơ không đâu, những chuyện bà nghe được... Chuyện về những người nông dân trong xóm được mùa, về cô Bủng hiếu thảo, về bác Ngô nói được cả tiếng nước ngoài, thi thoảng dịch bài đăng báo... Hắn không buồn quan tâm. Nhưng đêm đến - đêm của một vắng lặng, hắn lại trầm ngâm suy nghĩ... Hắn thấy có một cái gì đó, một cái gì hắn cũng không biết, không gọi được tên cứ dâng lên trong lòng... Và hắn thấy khó chịu, bực bội vì điều ấy.Không đợi được nữa, một đêm trăng, hắn cõng bà Xanh chạy ra cánh đồng. - Con đưa mẹ đi gặp người con sắp lấy làm vợ.- Ừ, nhưng đêm hôm thế này biết con bé nó còn thức không con?Hắn giật nảy mình, đứng sững lại. Hắn không ngờ một bà cụ mù lòa lại xác định thời gian chính xác đến thế. Hắn đang lúng túng không biết nói câu gì thì bà Xanh lại lên tiếng:- Sương xuống lạnh đấy, con có mặc thêm áo không? Đừng cậy mình trai tráng rồi ốm ra đấy thì khổ con ạ!Hắn vẫn im lặng, lủi thủi cõng bà Xanh quay trở lại nhà.Ngày hôm sau, bà Xanh lên cơn sốt. Hắn cuống cuồng chẳng biết phải làm sao... Hắn đã từng sốt như thế, song sức vóc khỏe mạnh, chẳng cần săn sóc, thuốc men gì nó cũng tự khỏi. Nhưng đấy là hắn chứ không phải một người già cả mù lòa đang nằm trên giường kia...Chạy sang nhà bên cạnh, người ta chỉ đường cho hắn tới trạm xá. Hắn cõng bà Xanh chạy như bay trên con đường đất đỏ, mồ hôi hắn vã ra như tắm. Chẳng biết lúc ấy hắn nghĩ gì nữa... Hắn đang mong bà cụ chết để chiếm lấy mảnh vườn kia mà...Tại trạm xá, cô y tá bước ra tươi cười với hắn:- May cho anh đấy! Chỉ chậm một chút nữa thôi là mẹ anh khó mà qua khỏi. Hắn gượng gạo cười, cảm ơn cô y tá và vào gần bà cụ. Hắn quì xuống bên giường bà Xanh và khóc... Nước mắt, lại nước mắt... Hắn sợ trông thấy những giọt nước mắt của người khác, giờ chính hắn lại trông thấy nước mắt của mình... Chao ôi!- Tại sao? Bà biết tôi không phải là con trai của bà mà... Tại sao?Bà cụ Xanh lần lần nắm lấy tay hắn:- Đúng, từ lâu mẹ đã biết con không phải là đứa con trai đã mất tích của mẹ. Nhưng mẹ già rồi, ông giời cho sống được ngày nào thì hay ngày ấy, biết thế nào hả con. Mẹ không chờ được đứa con ấy nữa, mong manh lắm... Mẹ chỉ cần một người ở bên sớm tối, sống vui vẻ nốt những tháng ngày còn lại thôi. Và con đã xuất hiện.- Nhưng... Nhưng mẹ biết con là ai, trước đây như thế nào không? Con ở tù ra, là một kẻ lưu manh côn đồ...- Không, mẹ không quan tâm. Con người ta sinh ra, bản tính vốn là lương thiện mà con. Dù có xấu xa, tàn bạo đến mấy thì một lúc nào đấy, cái phần lương thiện kia sẽ trỗi dậy và đưa đường người ta trở về với bản chất thực của mình...Một đêm, hắn lặng lẽ trở dậy, khép cửa lại đi ra ngõ. Rồi bất ngờ hắn chạy, chạy như ma đuổi trên con đường trải đầy đá dăm. Đá dưới chân hắn như những mũi dao đang dựng lên, đau buốt. Hắn ngã dúi dụi xuống một ruộng lúa bên đường.- Ai? - Một tiếng quát dõng dạc, và ánh đèn pin rọi thẳng vào mặt hắn - Đêm hôm khuya khoắt, làm gì mà chạy như ma đuổi thế? Theo tôi về ủy ban giải quyết.Hắn không nói gì, để mặc cho người bảo vệ dẫn về ủy ban xã. Hôm sau, hắn vừa tỉnh dậy đã thấy bà Xanh và mọi người đến xin cho hắn về.- Con đừng đi, đừng bỏ mẹ mà đi, con ơi! - Bà Xanh vừa nói, vừa đưa hai tay run run quờ quạng tìm hắn.Hắn đưa hai tay ra đỡ bà cụ, rồi cõng bà về lại ngôi nhà yên bình nơi xóm Trại cùng với mọi người trong ánh bình minh ấm áp đang lan dần trên những vạt cỏ xanh...
Mục lục
Người từ trại giam
Người từ trại giam
Lương Đình KhoaChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.
Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: theo tuổi trẻĐược bạn: Ct.Ly đưa lên vào ngày: 27 tháng 8 năm 2007
|
TRẦN TRUNG SÁNG
Người vác chõng tre
Trong ký ức tôi, miền quê đẹp nhất trong đời có lẽ ở một nơi nào đó thuộc làng Thanh Quít ( Quảng Nam ). Tôi gọi có lẽ, vì thực tình, nếu giờ đây trở lại, tôi khó biết được bằng cách nào định hướng cho chính xác; chỉ nhớ rằng, vào thời điểm ấy, Quỳnh bảo tôi : “ Qua khỏi Vĩnh Điện một khúc, gọi xe dừng lại, tụi mình đi bộ một chặp là đến làng “. Bấy giờ, khoảng cuối thập niên 60, quảng đường này đã là một điểm hoạt động thường xuyên của quân du kích với các vụ bắn tỉa và đánh mìn vào các đoàn xe quân sự khi ngang qua. Vậy mà, cùng với Quỳnh về quê, tôi thấy an tâm và thanh bình lạ. Năm ấy, Quỳnh học đệ ngũ, tôi mới vào đệ thất. Chúng tôi gặp nhau ở một xóm nhỏ trên đường Cửa Đại, Hội An – nơi khá đông những người học trò từ các miền quê đến ở trọ khi bước vào bậc trung học. Quỳnh là cháu họ của bà Hai Thơ nấu xôi, sát hè nhà tôi. Mỗi ngày, Quỳnh thường dậy sớm phụ giúp việc nấu xôi, rồi luôn tiện ới sang đánh thức tôi cùng đi học. Mỗi tối, tôi cũng thường chạy sang ngồi bên ngon đèn dầu của bà Hai Thơ để nhờ Quỳnh chỉ bảo những bài tập Toán, Pháp văn… Quỳnh kể, ở quê Quỳnh người dân rất giỏi nghề đan vót, nên mỗi lần về quê, Qùynh thường dành thời gian làm một chiếc chõng tre, rồi vác chiếc chõng đó xuống phố ban để thêm tiền lo việc học. Tôi hỏi Quỳnh, có biết đan lồng chim không? Quỳnh bảo cái đó dễ nhất (!).Thế là đến kỳ nghĩ hè, tôi cùng theo Quỳnh về quê… Hầu như nơi làng quê Thanh Quýt, nhà nhà đều là người bà con họ hàng của Quỳnh, nên nơi nào tôi cũng gặp gỡ những nụ cười chân chất gọi mời, thăm hỏi. Chúng tôi tha hồ leo treò lên các lùm cây để nghịch phá những quả chín thơm ngon. Hết những trò đùa nghịch, chiều đến, chúng tôi cởi quần áo nhảy xuống vẫy vùng trên một dòng sông xanh ngát vắt ngang qua làng. Tôi quên mất không nhắc đến chuyện lồng chim, nhưng có lần cũng thấy Quỳnh soạn tre ra sân ngồi vót, chẽ… Qùynh nói, mỗi lần ngồi vót tre là Quỳnh cứ bị quên hết mọi thứ , y như câu chuyện Phạm Ngũ Lão ngồi đan sọt . Một lần, trong một cuộc đổ bộ hành quân càn quét của quân đội cộng hoà, hầu hết mọi người trong làng đều lẩn tránh ẩn nấp, Quỳnh vẫn chẳng hay. Những người lính quần áo rằn ri, súng ống lăm lăm đổ ập trước sân nhà Quỳnh. Viên chỉ huy sau một hồi ngạc nhiên, đến ngồi gần Quỳnh nhìn vào bảng tên thêu trên áo hỏi : - Cậu là học sinh dưới Hội An à? Tôi đã đi khắp nhiều làng quê, lần đầu tiên mới thấy một thanh niên mặc đồ học sinh ngồi chẽ tre thế này. Cậu lo mà ra đường đón xe trở lại trường học. Sắp đánh nhau rồi… *Sau mùa hè đó, tôi và Quỳnh trở lại xóm Cửa Đại tiếp tục cuộc sống học trọ như xưa. Lúc này thì cuộc chiến đã ngày một khốc liệt hơn. Chặng đường lộ Hội An –Đà Nẵng có những lúc ách tắt, bởi những cuộc giao tranh, hoặc phải thường xuyên gặp các đoạn tăng- bo để rà mìn. Có lẽ vì vậy, Quỳnh cũng ít về quê hơn xưa. Bỗng một lần, dường như sau Tết âm lịch, Quỳnh lại về quê trở lại và vẫn vác chiếc chõng tre ra chợ bán. Cầm khoản tiền trong tay, Quỳnh rủ tôi đi khắp phố, rồi lại dạo chơi ở bờ sông. Lúc này, thường xuyên mỗi chiều từ bên bờ sông phố Hội nhìn sang những làng mạc không xa xôi lắm đã dễ dàng thấy các chuyến phi cơ ném bom oanh tạc làm bay tung những mái tranh trong làn khói mịt mù… Tự nhiên, tôi thấy Quỳnh cúi mặt buồn hiu. Quỳnh đặt vào tay tôi một cây bút máy nắp mạ vàng, có khắc chữ ký và nói:- Bây giờ làng Quỳnh cũng bị ném bom tan nát hết rồi. Quỳnh phải đi. Tặng Sáng cây bút máy để làm kỷ niệm. Nhớ gắng học nghe... Lúc âý, tôi cảm nhận mơ hồ một điều : Qùynh đi luôn (!) trưởng thành hơn, tôi đoán nghĩ hai giả thiết : Một là Quỳnh về quê, vào chiến khu, có thể ra miền Bắc. Hai là Quỳnh bị bắt lính, có thể trở thành lao công đào binh. Đến nhiều năm sau, bao lần dò hỏi tin tức từ bà Hai Thơ và người quen biết, tôi vẫn không hề biết được Quỳnh đã đi đâu? làm gì ? sống chết ra sao? Từ sau 1975 đến suốt những ngày này, nỗi trăn trở ấy vẫn thường xuyên trở lại cùng tôi mỗi lần gặp một ký ức tình cờ...* Một buổi sáng, ngồi tán gẩu cùng bạn bè ở một quán càphê, bỗng, tôi nhìn thấy trên hè phố một gã đàn ông quê mùa, một tay vác chiếc chõng tre, một tay cầm khăn lau lùa những giọt mồ hôi trên mặt. Dường như gã phân vân tìm hướng giữa ngã tư đường, rồi lại nép vào một hiên nhà bỏ chiếc chõng xuống ngồi nghỉ. Một hình ảnh mộc mạc khá lạ và bất ngờ. Bởi ngày nay, những làng nghề ở các miền quê đã phát triển việc kinh doanh theo hướng công nghiệp, đâu mấy ai chịu lặn lội đến phố phường để bán một chiếc chõng tre. Không kìm được cảm xúc, tôi kể vồ vập những kỷ niệm về Quỳnh với nhóm bạn. Một đứa nói :- Có thể viết thành truyện ngắn đấy (!).Một đứa khác :- Nhưng ông phải hư cấu thêm. Chẳng hạn sau thời gian tìm kiếm, ông đã gặp được một người tên Quỳnh. Người này đang ở một cương vị lãnh đạo rất bận rộn. Nhắc kỷ niệm, người này vẫn không nhớ. Ông đưa ra cây bút mạ vàng có khắc chữ ký tên Quỳnh, người này bảo, chưa từng nhìn thấy...Tôi lắc đầu, không muốn một kết cục “ ác” như thế.Tôi chợt buộc miệng:- Hoặc có khi là...Ngay lúc ấy, gã đàn ông quê mùa cũng vừa đứng dậy vác chiếc chõng tre vội vã băng qua đường.Thoắt chốc, cái dáng lênh đênh của gã biến mất thật nhanh trong dòng người xuôi ngược, trước khi để lại lòng tôi một vệt nhói đau về một cảm giác rất thân quen..../.
Mục lục
Người vác chõng tre
Người vác chõng tre
TRẦN TRUNG SÁNGChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.
Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: Vantuyen.netĐược bạn: Thanh Vân đưa lên vào ngày: 10 tháng 12 năm 2009
|
TRAN TRUNG SANG
People carrying bamboo mats
In my memory, the most beautiful countryside in my life is probably somewhere in Thanh Quit village (Quang Nam). I call perhaps, because honestly, if I go back now, it's hard for me to know how to navigate correctly; I just remember that, at that time, Quynh told me: "Let's go past Vinh Dien, call the car to stop, we'll walk a bit to reach the village." At that time, around the late 60s, this street was a regular activity point for guerrillas with snipers and mines targeting military convoys passing by. Yet, returning home with Quynh, I felt strangely secure and peaceful. That year, Quynh was in fifth grade, I was in seventh grade. We met in a small hamlet on Cua Dai Street, Hoi An - where quite a large number of students from the countryside came to stay when entering high school. Quynh is the cousin of Ms. Hai Tho, who cooks sticky rice, next door to my house. Every day, Quynh often wakes up early to help cook sticky rice, then always comes over to wake me up to go to school. Every night, I often run to sit next to Mrs. Hai Tho's oil lamp to ask Quynh for advice on Math and French exercises... Quynh said, in Quynh's hometown, people are very good at weaving, so every time I go home, Quynh often spends time making a bamboo bed, then carries that bed down the street to earn extra money for her studies. I asked Quynh, do you know how to weave bird cages? Quynh said it was the easiest (!). So during the summer vacation, I followed Quynh back to my hometown... Almost in Thanh Quyt's village, everyone was Quynh's relative, so I met them everywhere. The sincere smiles of invitation and visitation. We freely climbed up the groves to play with the delicious ripe fruits. After all the fun, when afternoon came, we took off our clothes and jumped down to splash in a green river running through the village. I forgot to mention the bird cage, but one time I saw Quynh sitting in the yard preparing bamboo to sharpen and chop it... Quynh said, every time she sat sharpening bamboo, Quynh kept forgetting everything, just like the story of Pham Ngu Lao sitting basket weaving. One time, during a sweeping operation by the republican army, most people in the village hid, but Quynh still didn't know. Soldiers dressed in camouflage clothes and guns ready poured down in front of Quynh's yard. After a moment of surprise, the commander came and sat near Quynh, looked at the embroidered name tag on his shirt and asked: - Are you a student in Hoi An? I have traveled to many villages, and this is the first time I have seen a young man wearing a school uniform sitting on bamboo like this. He worriedly went out to catch the bus back to school. We're about to fight... *After that summer, Quynh and I returned to Cua Dai village to continue our boarding school life as before. At this time, the war became more and more fierce. The Hoi An - Da Nang route has times when it's short-circuited, due to skirmishes, or having to frequently encounter tank sections to clear mines. Maybe that's why Quynh returns home less than before. Suddenly, it seemed like after the Lunar New Year, Quynh returned to her hometown and still carried her bamboo mat to the market to sell. Holding the money in hand, Quynh invited me to go around the street, then hang out at the riverbank. At this time, often every afternoon from the banks of the Hoi An river, looking at the not-so-distant villages, I could easily see the bombing planes blowing away thatched roofs in a cloud of smoke... Naturally, I Seeing Quynh look down sadly. Quynh put a gold-plated fountain pen in my hand, with her signature engraved, and said: - Now Quynh's village has been bombed and destroyed. Quynh has to go. Give Sang a fountain pen as a souvenir. Remember to try to learn... At that time, I vaguely felt one thing: Quynh went away (!) to become more mature, I guessed thinking of two hypotheses: One was that Quynh returned to her hometown, to the war zone, maybe to the North. . Second, Quynh was drafted and could become a deserter. Many years later, no matter how many times I asked for news from Mrs. Hai Tho and her acquaintances, I still had no idea where Quynh had gone? What ? How to live and die? From after 1975 until these days, that concern often returns to me every time I encounter a random memory...* One morning, sitting and chatting with friends at a cafe, suddenly, I I saw a rustic man on the street, carrying a bamboo bed in one hand and a towel in the other hand wiping the sweat from his face. It seemed like he was confused about finding a direction in the middle of the intersection, then he ducked onto a porch and put down his cot to rest. A rather strange and unexpected rustic image. Because today, craft villages in the countryside have developed their businesses in an industrial direction, few people are willing to go to the streets to sell a bamboo bed. Unable to contain my emotions, I recounted my memories of Quynh to my group of friends. One kid said:- It could be written into a short story (!).Another kid said:- But you have to make it more fictional. For example, after a period of searching, he met a person named Quynh. This person is in a very busy leadership position. Reminding me of memories, this person still doesn't remember. He held out a gold-plated pen with Quynh's signature engraved on it. This person said he had never seen it before... I shook my head, not wanting such an "evil" ending. I suddenly forced myself to say: - Or maybe it was ...At that moment, the rustic man also stood up, carrying a bamboo mat and hurriedly crossed the street. In an instant, his floating figure disappeared quickly in the stream of people going up and down, before leaving behind his heart. I felt a pang of pain about a very familiar feeling..../.
Table of contents
People carrying bamboo mats
People carrying bamboo mats
TRAN TRUNG SANGWelcome to read the first book from the book project for mobile devices. Source: editor: Nguyen Kim Vy.
Final words: Thank you for reading the entire story. Source: editor: Nguyen Kim Vy. Source: Vantuyen.net Posted by friend: Thanh Van on: December 10, 2009
|
Huyền Nguyên
Người Về
Người ta vẫn thấy nàng-con-gái-nhỏ đứng tần ngần dưới vòm hoa sứ. ……………………… Những say sưa hốt nhiên trẻ dại thuở đôi tám nàng gửi lại cho Trần và cái nắm tay thẹn thò trong một chiều mưa giắng nắng đổ ở quê nhà. Hai năm sau nàng gặp Phan. Cũng tại Đà Nẵng. Khi ấy nàng vừa đậu Đại Học. Nhiều ước vọng. Nhiệt thành. Không lâu sau Phan ra đi. Xoáy lốc như lúc đến. Nàng bỏ mặc những cảm xúc yêu thương. Yên vui sách vở, cơm nước và quanh quẩn với anh em gia đình. Tưởng rằng đã yên. Giáng sinh năm ấy, nàng-con-gái-nhỏ nhận được phong thư ngào ngạt hương và cành lan trắng muốt của chàng-trai-trẻ, người đã từ bỏ giảng đường phiêu du đâu đó trong một thời gian khá dài. Một năm. Chàng-trai-trẻ lại khoác áo lên đường vì những nguyên do mà chỉ có chàng mới biết. ……………………………………………………. Chiều vàng. Nàng hẹn chàng trai trẻ bên cầu nước xuôi. Nước trong êm, rồi bất chợt xanh lên một màu lịm ngát trống trải như mênh mông. Rong trôi hàng nối hàng, khẽ chạm nhau, rồi tan mau, chạy theo những bờ lối phiêu du bất định. Chàng-trai-trẻ không đến. Nàng soi đôi mắt buồn thiên thu vào ánh nước hoàng hôn. Lặng lẽ quay về. Gío thổi rối tung mái tóc êm. Tà áo mỏng vợi bay trong chiều… Chàng-trai-trẻ là bậc anh tài của Trời Đất. Biết vậy nên nàng dù rất muốn, cũng không đành níu giữ. Chàng-trai-trẻ lại là người ưa bay nhảy, sống tự do đến mức không giới hạn. Nàng nghĩ cách sống ấy không thích hợp cho một gia đình, dẫu rằng đã có lần nàng cùng chàng nuôi ước mộng tròn đôi. Hơn nữa, nàng chỉ như cánh đồng hoa dại bát ngát tròn hương, mở tay ngời đón chàng trong một buổi sớm mai rất dịu nhẹ trong vời, mang đến cho người chút hạnh phúc ấm êm và những cảm hứng bất thần ngắn ngủi. Nàng phải để cho chàng trai trẻ đi tìm những hứng khởi khác biệt cho tài hoa của mình. Có những loài chim quý không thể giữ mãi trong lồng, một phần trong ta vui mừng để nó bay đi. Nàng âm thầm đau đớn tiễn cánh chim lồng lộng đang trở lại với suối biếc rừng già và nội đồng xanh tươi. Dẫu gì đó cũng là một cánh chim, phải làm tròn chức phận với trời xanh. Thuở hai người bên nhau, nàng viết rất say sưa. Truyện, thơ của nàng dịu dàng hiền lành như hoa dại, ảnh hưỏng chút sắc khí ngông ngạo của chàng. Nàng mang tặng chàng. Chàng-trai-trẻ đọc rồi cười thoảng nhẹ, mắt nhìn vào những khoảng lặng im lìm trong không gian. Đôi mắt đẹp se sắt. Nhưng lâu nay nàng không viết gì, vì sợ đụng chạm đến nỗi đau. Nàng hay viết về nỗi đau. Nỗi đau như một lẽ tất yếu của hạnh phúc vuông tròn. Nàng yêu hạnh phúc. Mà cũng si mê niềm đau. Những kẻ biết nàng vừa đơn côi liền tìm tới. Nàng chỉ cười, để tâm hồn họ mặc sức lạc bay và hồ nghi tơ tưởng. Khí huyết linh hồn nàng đã vắt cạn cho cuộc tương giao với chàng-trai-trẻ, thì đâu còn muốn tơ vương tới điều chi? Không có chàng-trai-trẻ ở bên nữa, nàng dồn đam mê mãnh liệt vào vẽ Tranh. Cái nào cũng là tình yêu, như nhau cả thôi. Nhưng tình yêu với Tranh hiền hoà đẹp êm hơn nhiều. Đó là một người yêu phẳng lặng như hồ thu, ân cần nhẫn nại mà nàng có thể hạnh ngộ ngay lúc nào, sẽ sàng trao nhau cái nhìn đắm đuối cuồng điên. Không bão lũ, oán than. Không dữ dằn thô bạo. Không hoang đàng phù phiếm. Tranh đối với nàng như một sự cứu rỗi. Sự cứu rỗi cho một linh hồn bơ vơ và yếu đuối. Nàng vẽ nhiều, không theo trường lớp, sách vở, kiểu cách nào. Nét vẽ vụng nhưng thăm thẳm hồn nhiên. Nàng thường vẽ chiếc cổng nhà có giàn tigôn che phủ. Nàng vẽ lan, cây hoa chàng đã mang đến cho nàng trong một buổi trưa nồng tháng tư. Nàng vẽ chàng trai trẻ. Sự hình dung về khuôn mặt chàng trong kí ức của nàng còn rất rõ. Vậy mà chẳng hiểu sao, không có khi nào nàng vẽ chàng giống với chàng-trai-trẻ. Đôi khi nàng vẽ chàng đẹp và hào hoa như một hoàng tử trong truyện cổ tích, dũng mãnh trên lưng ngựa giữa cánh đồng vàng hoa dại. Đôi khi chàng lại xuất hiện trong một bộ mặt kì dị lạ lẫm, và đôi mắt dữ tợn tung hoành. Không ai tin đó là chàng trai trẻ. Nhưng nàng tin. Một bữa nọ, trong lúc vẽ chàng trai trẻ với khuôn mặt kì dị, nàng cười. Đầu tiên tiếng cười trong như pha lê. Sau thánh thót như ngọc vỡ. Rồi hoang dại. Sự hoang dại không rõ hình, hơi đáng sợ. Từ đó nàng con gái nhỏ không còn nói lời nào nữa. Và cũng từ đó, người ta hay thấy nàng quanh quẩn bên cội sứ già, gần như mỗi chiều. Cạnh cội sứ ấy có một vũng nước nhỏ, thường đọng lại vào những ngày mưa. Nàng thường nghiêng soi bóng dáng nhỏ nhắn âm thầm của mình vào đó, hoa sứ rung rinh trên đầu. Màu trắng của váy áo nàng, của hoa sứ thấp thoáng trong vũng lầy. Nàng cũng thơ thẩn nhặt lá vàng rơi ở góc đường Tôn Đức Thắng. Nơi này nàng cũng đã cùng từng chàng trốn học để lang thang. Ly càfe góc phố buổi ấy sao ngây thơ say đắm. Và cũng vội vã cuống cuồng. Bao kỉ niệm trở về dày xéo tâm linh bất ổn của nàng. Kí ức về mẹ, về quê hương. Nỗi nhớ những ngày mùa hạ bên gió biển. Lưu luyến những chiều mùa đông bên đường Trưng Nữ Vương. Trong vạn ngàn suy tưởng của nàng luôn ẩn hiện những suy nghĩ về chàng trai trẻ như một bản nhạc nền dâu bể. Nàng thấy chàng nắm tay mình thiết tha chạy bạt ngàn hoa nội đồng li ti toả ngát. Thấy ước mộng vàng son đọng lại trên bờ suối đã thành, vang mấy lời du dương ngọt lành như diệu ballad. Nang ứa nước mắt. Tâm trí nàng vần vũ như muốn đuổi xua kỉ niệm. Hai tay nàng ôm đầu, rối bất thần quờ quạng. Cái ly thuỷ tinh trên đầu giường rơi xuống nền gạch. Vỡ toang. Nàng ngồi dậy. Hỗn loạn nhận ra trong đám mảnh vỡ ấy khuôn mặt dằn dữ của chàng mỗi lúc trào sôi giận dữ. Những lần ấy cả hai người không còn là nàng-con-gái-nhỏ và chàng-trai-trẻ nữa. Tranh cãi bạo liệt cho tới khi nàng nhận một cái tát phũ phàng của chàng rồi lặng lẽ quay đi trong dòng lệ không ngăn được. Nàng thảng thốt nhận diện chàng trong từng khuôn mảnh vỡ còn lại. Nàng đã từng khó hiểu vô cùng cái khoảng lặng vời vợi khi gặp chàng. Chợt hiểu chàng có cách sống quá ư cách biệt với nàng - lý do xem chừng đơn giản. Nàng hiền ngoan như huơu non, mong manh như sương sớm, và thuần khiết như hoa lan. Nàng nguyên tắc đến mức cực đoan, nhưng thường để cảm xúc bung nổ. Nhiều lần bung nổ như thế, tình yêu bỗng vỡ oà. Qúa nguyên sơ và dễ xúc động. Trái tim nhỏ bé gần nhu nát vụn khi chàng trai trẻ dứt áo ra đi. Tình yêu của nàng như một đường tơ giữa nắng trời, chỉ cần một va chạm nhẹ, cũng đủ làm nó bứt tung. Nàng-con-gái-nhỏ không đủ sức lực để nâng giữ vô vọng đường tơ long lanh ấy nữa. Nàng còn muốn níu lại một đường tơ, nên đã tiễn cuộc tình đi với một vòng hoa trắng buồn u uẩn. Không ai hiểu vì sao nàng trở nên lặng lẽ. Vì sao mọi tác động của đời sống không mảy may làm nàng để mắt tới. Nàng đã như thế từ bao lâu? Từ lúc nào? Người ta chỉ thấy nàng thẩn thơ bên cội sứ già thường xuyên hơn. Những ngày mẹ nàng ngoài quê vào thăm, nàng gần như quên hẳn cây sứ và vũng nước bên cạnh. Nàng hay vùi đầu vào lòng mẹ, để mẹ vuốt mái tóc dày đen mượt cho nàng. Người mẹ thơm nồng mùi cau trầu dung dị, lại thoang thoảng hương chanh, hương bưởi quê nhà. Thi thoảng nàng cảm nhận một thứ nước ấm nóng, xót xa rớt trên da thịt nàng. Nàng-con-gái-nhỏ ngước đôi mắt ngây buồn nhìn đôi mắt thăm thẳm trũng sâu của mẹ. Hai dòng nước ấm từ nơi ấy ứa tuôn… ……………………………………….. Người lữ khách vừa trở về thành phố sau bao ngày rong ruổi buồn phiền mỏi mệt. Chang đã rời bỏ nơi này ra đi gần mười năm. Chàng thay đổi nhiều. Gương mặt rắn rỏi và cương nghị đã hằn mấy vết rạn cuối đuôi mắt. Không hiểu nét ngông cuồng kiêu ngạo mười năm trước đã biến bay đâu rồi? Có lẽ đã rơi trên những tháng ngày dặm trường mê mải… Lữ khách xốc lại chiếc áo gió, cầm chắc cái túi da đen đựng hành lý, rồi tiếp tục bước ra khỏi đường tàu. Hờ hững bỏ qua những lời chèo kéo của hàng rong và xe ôm, chàng đi trong miên man, nửa như kiếm tìm, nửa muốn bỏ quên. Mười năm. Người lữ khách đã bỏ quên quá nhiều thứ ở thành phố tráng lệ này. Thuở xưa, nghe lời thiên thu gọi, chàng khoác áo phong sương lên đường, để sau lưng một đôi mắt buồn trong ánh nước. Lênh đênh trên những vùng miền, gặp gỡ và quen biết thêm nhiều cô gái, chàng vẫn thấy họ thiếu điều gì đó. Chàng không rõ. Hôm nay chàng trở lại đây để tìm nhặt điều mà chàng luôn thấy thiếu khi ở bên những người con gái…. …………………………………………… Giáng Sinh. Người vùng này có thông lệ đón Giáng Sinh như một lễ hội lớn. Màu sắc không gian có khác thường. Điều khác thường ấy bắt nguồn từ cảm thức của một người đi xa quá lâu ngày chăng? Hay đơn giản chỉ vì hôm nay là Noel, như cái mùa chàng từng tặng nhành hoa lan cho người con gái nhỏ? Trời không lạnh lắm, nhưng gió thì khô rốc. Chút khí vị thu còn sót lại ngập ngừng rũ ra trên mấy cành cây đã gần như trụi trơ. Lá khô cuống quít đuổi nhau trên đường. Vài đôi nam nữ choàng khăn ấm ríu rít dắt tay nhau… Người lữ khách dừng lại bên cành sứ già, bàng hoàng nhìn màu áo trắng lẫn vào màu hoa sứ ngan ngát. Bóng áo trắng chợt xoay người về phía chàng, mở mấy ngón tay xinh đón lấy bông sứ nuột nà vừa xoay xoay trong gió. Người con gái lặng im. Đôi mắt đẹp se sắt vừa bắt gặp cái nhìn buồn thiên thu… Khoảng lặng… ………………………………………………. Và hôm nay, ta vỡ trời yêu thương…Giáng Sinh 2005.
Mục lục
Người Về
Người Về
Huyền NguyênChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.
Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.Đánh máy: Huyền Nguyên Nguồn: bạn: TTL đưa lên vào ngày: 24 tháng 4 năm 2006
|
Huyền Nguyên
Người Về
Người ta vẫn thấy nàng-con-gái-nhỏ đứng tần ngần dưới vòm hoa sứ. ……………………… Những say sưa hốt nhiên trẻ dại thuở đôi tám nàng gửi lại cho Trần và cái nắm tay thẹn thò trong một chiều mưa giắng nắng đổ ở quê nhà. Hai năm sau nàng gặp Phan. Cũng tại Đà Nẵng. Khi ấy nàng vừa đậu Đại Học. Nhiều ước vọng. Nhiệt thành. Không lâu sau Phan ra đi. Xoáy lốc như lúc đến. Nàng bỏ mặc những cảm xúc yêu thương. Yên vui sách vở, cơm nước và quanh quẩn với anh em gia đình. Tưởng rằng đã yên. Giáng sinh năm ấy, nàng-con-gái-nhỏ nhận được phong thư ngào ngạt hương và cành lan trắng muốt của chàng-trai-trẻ, người đã từ bỏ giảng đường phiêu du đâu đó trong một thời gian khá dài. Một năm. Chàng-trai-trẻ lại khoác áo lên đường vì những nguyên do mà chỉ có chàng mới biết. ……………………………………………………. Chiều vàng. Nàng hẹn chàng trai trẻ bên cầu nước xuôi. Nước trong êm, rồi bất chợt xanh lên một màu lịm ngát trống trải như mênh mông. Rong trôi hàng nối hàng, khẽ chạm nhau, rồi tan mau, chạy theo những bờ lối phiêu du bất định. Chàng-trai-trẻ không đến. Nàng soi đôi mắt buồn thiên thu vào ánh nước hoàng hôn. Lặng lẽ quay về. Gío thổi rối tung mái tóc êm. Tà áo mỏng vợi bay trong chiều… Chàng-trai-trẻ là bậc anh tài của Trời Đất. Biết vậy nên nàng dù rất muốn, cũng không đành níu giữ. Chàng-trai-trẻ lại là người ưa bay nhảy, sống tự do đến mức không giới hạn. Nàng nghĩ cách sống ấy không thích hợp cho một gia đình, dẫu rằng đã có lần nàng cùng chàng nuôi ước mộng tròn đôi. Hơn nữa, nàng chỉ như cánh đồng hoa dại bát ngát tròn hương, mở tay ngời đón chàng trong một buổi sớm mai rất dịu nhẹ trong vời, mang đến cho người chút hạnh phúc ấm êm và những cảm hứng bất thần ngắn ngủi. Nàng phải để cho chàng trai trẻ đi tìm những hứng khởi khác biệt cho tài hoa của mình. Có những loài chim quý không thể giữ mãi trong lồng, một phần trong ta vui mừng để nó bay đi. Nàng âm thầm đau đớn tiễn cánh chim lồng lộng đang trở lại với suối biếc rừng già và nội đồng xanh tươi. Dẫu gì đó cũng là một cánh chim, phải làm tròn chức phận với trời xanh. Thuở hai người bên nhau, nàng viết rất say sưa. Truyện, thơ của nàng dịu dàng hiền lành như hoa dại, ảnh hưỏng chút sắc khí ngông ngạo của chàng. Nàng mang tặng chàng. Chàng-trai-trẻ đọc rồi cười thoảng nhẹ, mắt nhìn vào những khoảng lặng im lìm trong không gian. Đôi mắt đẹp se sắt. Nhưng lâu nay nàng không viết gì, vì sợ đụng chạm đến nỗi đau. Nàng hay viết về nỗi đau. Nỗi đau như một lẽ tất yếu của hạnh phúc vuông tròn. Nàng yêu hạnh phúc. Mà cũng si mê niềm đau. Những kẻ biết nàng vừa đơn côi liền tìm tới. Nàng chỉ cười, để tâm hồn họ mặc sức lạc bay và hồ nghi tơ tưởng. Khí huyết linh hồn nàng đã vắt cạn cho cuộc tương giao với chàng-trai-trẻ, thì đâu còn muốn tơ vương tới điều chi? Không có chàng-trai-trẻ ở bên nữa, nàng dồn đam mê mãnh liệt vào vẽ Tranh. Cái nào cũng là tình yêu, như nhau cả thôi. Nhưng tình yêu với Tranh hiền hoà đẹp êm hơn nhiều. Đó là một người yêu phẳng lặng như hồ thu, ân cần nhẫn nại mà nàng có thể hạnh ngộ ngay lúc nào, sẽ sàng trao nhau cái nhìn đắm đuối cuồng điên. Không bão lũ, oán than. Không dữ dằn thô bạo. Không hoang đàng phù phiếm. Tranh đối với nàng như một sự cứu rỗi. Sự cứu rỗi cho một linh hồn bơ vơ và yếu đuối. Nàng vẽ nhiều, không theo trường lớp, sách vở, kiểu cách nào. Nét vẽ vụng nhưng thăm thẳm hồn nhiên. Nàng thường vẽ chiếc cổng nhà có giàn tigôn che phủ. Nàng vẽ lan, cây hoa chàng đã mang đến cho nàng trong một buổi trưa nồng tháng tư. Nàng vẽ chàng trai trẻ. Sự hình dung về khuôn mặt chàng trong kí ức của nàng còn rất rõ. Vậy mà chẳng hiểu sao, không có khi nào nàng vẽ chàng giống với chàng-trai-trẻ. Đôi khi nàng vẽ chàng đẹp và hào hoa như một hoàng tử trong truyện cổ tích, dũng mãnh trên lưng ngựa giữa cánh đồng vàng hoa dại. Đôi khi chàng lại xuất hiện trong một bộ mặt kì dị lạ lẫm, và đôi mắt dữ tợn tung hoành. Không ai tin đó là chàng trai trẻ. Nhưng nàng tin. Một bữa nọ, trong lúc vẽ chàng trai trẻ với khuôn mặt kì dị, nàng cười. Đầu tiên tiếng cười trong như pha lê. Sau thánh thót như ngọc vỡ. Rồi hoang dại. Sự hoang dại không rõ hình, hơi đáng sợ. Từ đó nàng con gái nhỏ không còn nói lời nào nữa. Và cũng từ đó, người ta hay thấy nàng quanh quẩn bên cội sứ già, gần như mỗi chiều. Cạnh cội sứ ấy có một vũng nước nhỏ, thường đọng lại vào những ngày mưa. Nàng thường nghiêng soi bóng dáng nhỏ nhắn âm thầm của mình vào đó, hoa sứ rung rinh trên đầu. Màu trắng của váy áo nàng, của hoa sứ thấp thoáng trong vũng lầy. Nàng cũng thơ thẩn nhặt lá vàng rơi ở góc đường Tôn Đức Thắng. Nơi này nàng cũng đã cùng từng chàng trốn học để lang thang. Ly càfe góc phố buổi ấy sao ngây thơ say đắm. Và cũng vội vã cuống cuồng. Bao kỉ niệm trở về dày xéo tâm linh bất ổn của nàng. Kí ức về mẹ, về quê hương. Nỗi nhớ những ngày mùa hạ bên gió biển. Lưu luyến những chiều mùa đông bên đường Trưng Nữ Vương. Trong vạn ngàn suy tưởng của nàng luôn ẩn hiện những suy nghĩ về chàng trai trẻ như một bản nhạc nền dâu bể. Nàng thấy chàng nắm tay mình thiết tha chạy bạt ngàn hoa nội đồng li ti toả ngát. Thấy ước mộng vàng son đọng lại trên bờ suối đã thành, vang mấy lời du dương ngọt lành như diệu ballad. Nang ứa nước mắt. Tâm trí nàng vần vũ như muốn đuổi xua kỉ niệm. Hai tay nàng ôm đầu, rối bất thần quờ quạng. Cái ly thuỷ tinh trên đầu giường rơi xuống nền gạch. Vỡ toang. Nàng ngồi dậy. Hỗn loạn nhận ra trong đám mảnh vỡ ấy khuôn mặt dằn dữ của chàng mỗi lúc trào sôi giận dữ. Những lần ấy cả hai người không còn là nàng-con-gái-nhỏ và chàng-trai-trẻ nữa. Tranh cãi bạo liệt cho tới khi nàng nhận một cái tát phũ phàng của chàng rồi lặng lẽ quay đi trong dòng lệ không ngăn được. Nàng thảng thốt nhận diện chàng trong từng khuôn mảnh vỡ còn lại. Nàng đã từng khó hiểu vô cùng cái khoảng lặng vời vợi khi gặp chàng. Chợt hiểu chàng có cách sống quá ư cách biệt với nàng - lý do xem chừng đơn giản. Nàng hiền ngoan như huơu non, mong manh như sương sớm, và thuần khiết như hoa lan. Nàng nguyên tắc đến mức cực đoan, nhưng thường để cảm xúc bung nổ. Nhiều lần bung nổ như thế, tình yêu bỗng vỡ oà. Qúa nguyên sơ và dễ xúc động. Trái tim nhỏ bé gần nhu nát vụn khi chàng trai trẻ dứt áo ra đi. Tình yêu của nàng như một đường tơ giữa nắng trời, chỉ cần một va chạm nhẹ, cũng đủ làm nó bứt tung. Nàng-con-gái-nhỏ không đủ sức lực để nâng giữ vô vọng đường tơ long lanh ấy nữa. Nàng còn muốn níu lại một đường tơ, nên đã tiễn cuộc tình đi với một vòng hoa trắng buồn u uẩn. Không ai hiểu vì sao nàng trở nên lặng lẽ. Vì sao mọi tác động của đời sống không mảy may làm nàng để mắt tới. Nàng đã như thế từ bao lâu? Từ lúc nào? Người ta chỉ thấy nàng thẩn thơ bên cội sứ già thường xuyên hơn. Những ngày mẹ nàng ngoài quê vào thăm, nàng gần như quên hẳn cây sứ và vũng nước bên cạnh. Nàng hay vùi đầu vào lòng mẹ, để mẹ vuốt mái tóc dày đen mượt cho nàng. Người mẹ thơm nồng mùi cau trầu dung dị, lại thoang thoảng hương chanh, hương bưởi quê nhà. Thi thoảng nàng cảm nhận một thứ nước ấm nóng, xót xa rớt trên da thịt nàng. Nàng-con-gái-nhỏ ngước đôi mắt ngây buồn nhìn đôi mắt thăm thẳm trũng sâu của mẹ. Hai dòng nước ấm từ nơi ấy ứa tuôn… ……………………………………….. Người lữ khách vừa trở về thành phố sau bao ngày rong ruổi buồn phiền mỏi mệt. Chang đã rời bỏ nơi này ra đi gần mười năm. Chàng thay đổi nhiều. Gương mặt rắn rỏi và cương nghị đã hằn mấy vết rạn cuối đuôi mắt. Không hiểu nét ngông cuồng kiêu ngạo mười năm trước đã biến bay đâu rồi? Có lẽ đã rơi trên những tháng ngày dặm trường mê mải… Lữ khách xốc lại chiếc áo gió, cầm chắc cái túi da đen đựng hành lý, rồi tiếp tục bước ra khỏi đường tàu. Hờ hững bỏ qua những lời chèo kéo của hàng rong và xe ôm, chàng đi trong miên man, nửa như kiếm tìm, nửa muốn bỏ quên. Mười năm. Người lữ khách đã bỏ quên quá nhiều thứ ở thành phố tráng lệ này. Thuở xưa, nghe lời thiên thu gọi, chàng khoác áo phong sương lên đường, để sau lưng một đôi mắt buồn trong ánh nước. Lênh đênh trên những vùng miền, gặp gỡ và quen biết thêm nhiều cô gái, chàng vẫn thấy họ thiếu điều gì đó. Chàng không rõ. Hôm nay chàng trở lại đây để tìm nhặt điều mà chàng luôn thấy thiếu khi ở bên những người con gái…. …………………………………………… Giáng Sinh. Người vùng này có thông lệ đón Giáng Sinh như một lễ hội lớn. Màu sắc không gian có khác thường. Điều khác thường ấy bắt nguồn từ cảm thức của một người đi xa quá lâu ngày chăng? Hay đơn giản chỉ vì hôm nay là Noel, như cái mùa chàng từng tặng nhành hoa lan cho người con gái nhỏ? Trời không lạnh lắm, nhưng gió thì khô rốc. Chút khí vị thu còn sót lại ngập ngừng rũ ra trên mấy cành cây đã gần như trụi trơ. Lá khô cuống quít đuổi nhau trên đường. Vài đôi nam nữ choàng khăn ấm ríu rít dắt tay nhau… Người lữ khách dừng lại bên cành sứ già, bàng hoàng nhìn màu áo trắng lẫn vào màu hoa sứ ngan ngát. Bóng áo trắng chợt xoay người về phía chàng, mở mấy ngón tay xinh đón lấy bông sứ nuột nà vừa xoay xoay trong gió. Người con gái lặng im. Đôi mắt đẹp se sắt vừa bắt gặp cái nhìn buồn thiên thu… Khoảng lặng… ………………………………………………. Và hôm nay, ta vỡ trời yêu thương…Giáng Sinh 2005.
Mục lục
Người Về
Người Về
Huyền NguyênChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.
Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.Đánh máy: Huyền Nguyên Nguồn: bạn: TTL đưa lên vào ngày: 24 tháng 4 năm 2006
|
Khái Hưng
Người vợ mù
Tôi được biết vợ chồng người ấy cũng là nhờ ở một sự ngẫu nhiên: họ dùng cửa nhà tôi làm nơi hội họp. Hồi đó, tôi ở Ninh Giang, một phủ lỵ khá lớn. Một bến tàu thủy khá sầm uất trên con sông Chanh, cách tiêu khiển của tôi là chiều tôi ra bờ sông xem tàu tới, tàu đi, giữa một cảnh náo nhiệt và những tiếng ồn ào gào thét của bọn bán bánh giò và bọn mời khách trọ, với những lời đe dọa hách dịch của mấy chú tuần canh, lính thương chính đến hỏi thẻ và khám soát hành lý. Nhưng từ ngày tôi để ý đến vợ chồng người mù, thì ở Ninh Giang, đối với tôi, không còn sự tiêu khiển nào thú hơn là được ngắm đôi uyên ương ấy chuyện trò với nhau: một cảnh tượng cảm động, thân mật và rất nên thơ.Tôi không rõ cửa nhà tôi được họ chọn làm nơi hò hẹn từ bao giờ, và vì sao họ lại chọn cửa nhà tôi. Nhưng một buổi sáng mùa đông dậy sớm, ra hiên gác tì tay lan can nhìn xuống, tôi thấy hai bóng đen đen đang đứng trên hè đường, dưới làn mưa phùn giá rét. Một lát sau, người đàn ông bảo người đàn bà:- Mười hai giờ bà chờ tôi ở đây nhé!Lời nói dõng dạc trang nghiêm như giọng hạng người sống trong những xã hội cao quý. Rồi mỗi người đi một ngả. Văng vẳng tôi nghe rao câu rất quen tai:- Ai muối mua!Và tôi nhớ ngay ra ông lão bán muối mà tôi vẫn thường gặp lang thang trong các phố. Mười hai giờ trưa khi chuyến ô-tô hàng chạy Hải Dương bắt đầu mở máy, quả nhiên một người đàn bà già và mù, áo xống gọn gàng và sạch sẽ, tay cầm cái rá, rờ lần các cửa xe, rời rạc xin tiền. Tôi nghĩ thầm: “Không phải ăn mày lành nghề”. Xe đi khỏi thì người bán muối buổi sáng cũng vừa đến nơi. Và tôi hiểu vì sao họ chọn giờ ấy làm giờ họp mặt: giờ ô-tô. Luôn một tuần lư như thế, hôm nào cũng đủ sáu giờ sáng và mười hai giờ trưa là hai vợ chồng người mù tới cửa nhà tôi đứng nói chuyện. Họ không hề sai hẹn. Và tôi tò mò lưu ý đến họ, để tai lắng nghe những câu chuyện của họ, vì họ nói rất to, như chẳng cần gì ai, hơn nữa, như coi nơi hè đường là chốn phòng riêng của họ. Họ có nhà riêng hay không, và nếu có thì nhà riêng họ ở đâu, tôi không rõ. Nhưng nghe chuyện họ, tôi biết rằng gia đình họ chỉ có hai vợ chồng: chồng làm nghề bán muối, vợ theo nghề ăn xin. Gặp nhau, họ vui vẻ mỉm cười hỏi thăm tin tức nhau như hai người bạn thân xa vắng lâu ngày, và mong nhớ nhau từng phút từng giây. Lần nào người chồng cũng bắt đầu:- Bà đấy à? Thế nào, bà làm ăn có khá không?Người vợ trả lời chẳng qua mấy câu này: “Cũng khá ông ạ” hay “Hôm nay làm ăn chẳng ra gì”. Rồi bà lão ngồi thuật cho chồng nghe hệt những việc đã xảy ra trong mấy giờ đồng hồ đi “làm ăn”. Bà ta kể chuyện rất vui vẻ, thỉnh thoảng lại chêm một câu bình phẩm, một câu khôi hài, khiến người chồng khúc khích cười, chừng cốt để làm đẹp lòng vợ. - Ông ạ, con mẹ Phúc Hòa Ðường nó lại nhiếc tôi sao không kiếm việc mà làm, đi ăn mày thế này không biết nhục à?- Con mẹ Phúc Hòa Ðường ở phố Ninh Lãng có phải không bà?- Phải đấy ông ạ. Nó thử mù như tôi xem ông nhỉ?- Thế nó có cho bà đồng nào không?- Nó cho mà nó nhiếc thì đã cam. - Nó giàu nhất phố đấy, bà ạ. - Giàu thế thì giàu làm gì? Giàu mà không biết thương kẻ đói khó, mù lòa. Cũng chả bền được đâu, ông nhỉ?- Phải, bền thế nào được.- Giá giời cho vợ chồng mình giàu như họ thì mình ăn ở ra người giàu, có phải không ông? - Phải, mình để của làm gì? Ðể của cho con nó phá nhé? Bà có biết không, thằng con nhà ấy nó phá chẳng mấy nỗi mà hết cơ nghiệp. Thôi thì đủ, bà ạ, cờ bạc, bợm đĩ, hút sách. - Thế à ông?Câu chuyện cứ thế kéo dài, âu yếm như chuyện hai vợ chồng trẻ, đứng đắn như chuyện hai người có giáo dục, một điều ông ạ, hai điều bà nhỉ, và có tính cách thông tin tức như một tờ báo hàng ngày.- Ông ạ, tôi nghe người nhà bà thông Ðoan nói chuyện xe Ninh Thái bị bắt thuốc phiện, đâu những bốn, năm cân nữa. Chắc bị phạt khá tiền đấy nhỉ? Hay đi đêm, thế nào chả có ngày gặp ma ông nhỉ?Tiếp chuyện bắt thuốc phiện, bà lão kể đến chuyện gia đình nhà ông đội Nhất: Vợ chồng ông đội chẳng ngày nào là không cãi nhau. Bà lão nhắc lại từng câu mắng nhiếc chửi rủa tục tằn của hai người, rồi bình phẩm:- Cứ nghèo như vợ chồng mình lại êm thấm, nhỉ ông nhỉ?Ông lão bán muối cười rất có duyên, và có vẻ tự phụ nữa. Hôm nào người vợ phàn nàn không xin được một trinh nhỏ, thì người chồng tìm hết lời an ủi:- Thôi, bà ạ, cần gì. Hôm nay tôi làm ăn nhờ giời khá lắm. Chúng mình chỉ mong kiếm đủ ăn, chứ có cần để dành tiền như họ đâu. Vậy bà về nhà mà nghỉ nhá. Tôi đã đong một hào gạo, mua một xu rau muống, một xu tương rồi đấy. Bà về thổi cơm, tôi bán hết chỗ này cũng về ngay đây. Họ từ biệt nhau, cho tới sáu giờ sáng hôm sau lại vui mừng cùng nhau nói chuyện. Nửa năm ròng, tôi tò mò đi sâu mãi vào cái đời đường hoàng và thân mật của cặp vợ chống khốn khó. Có hôm tôi đã cố theo họ xem họ trú ngụ nơi đâu, nhưng họ như đôi chuồn chuồn sống nhởn nhơ không tổ trên mặt nước ao tù. --------------------------------------------------------------------------------Một dạo tôi thấy vắng bóng đôi uyên ương già ở trước cửa nhà tôi. Tôi đoán chừng họ đã chọn một phố khác yên tĩnh hơn làm nơi góp chuyện hàng ngày. Nhưng một buổi chiều đi chơi mát, tôi rẽ vào xem đền Chanh thì gặp ông lão lòa đương lom khom quét lá khô ở sân. Tôi vui mừng hỏi:- Kìa ông bán muối. Hàng họ có khá không? Sao độ rầy tôi không gặp ông?Người kia đứng thẳng lên, hấp háy cố nhìn tôi bằng cặp mắt gần tàn ánh sáng như ngọn đèn cạn dầu bập bùng chực tắt. Tôi hỏi luôn:- Còn bà lão, vợ ông, lâu nay đi đâu?Hai hàng lệ chảy giàn giụa trên đôi gò má răn reo. Tôi hiểu ngay rằng ông lão già khốn nạn đương mang nặng trong lòng một nỗi thống khổ lớn lao. Và tôi nghĩ ngay đến sự tử biệt... - Ông buồn lắm phải không?-Vâng, tôi không thiết sống nữa, thầy ạ. Bà lão nhà tôi, bà ấy bỏ tôi bà ấy đi rồi... Tôi kinh ngạc:- Bà ấy bỏ ông?- Vâng, bà ấy chết rồi, còn đâu!Người ấy cúi xuống quét sân, nói tiếp:- Hơn bốn mươi năm giời ăn ở với nhau, chả có điều tiếng gì... bây giờ bà ấy bỏ bà ấy đi một mình. Lúc từ biệt, tôi đãi ông lão khổ sở một hào nhưng ông ta lắc đầu xua tay:- Tôi lấy tiền làm gì nữa. Ngày có vợ có chồng, tôi mới phải vất vả làm ăn. Chứ bây giờ còn một thân một mình, thì tôi chỉ nhờ cửa thánh ngày hai bữa cơm thừa canh cặn đủ no... để chờ ngày được gặp mặt bà lão tôi ở nơi suối vàng. Dù cảm động đến đâu tôi cũng không thể giấu nổi cái mỉm cười: tôi nhận thấy ngôn ngữ ông lão bán muối vẫn còn đứng đắn và kiểu cách như xưa, khi ngồi trò chuyện với người vợ mù ở trước cửa nhà tôi. Khái Hưng (1944)
Mục lục
Người vợ mù
Người vợ mù
Khái HưngChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.
Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: HùngĐược bạn: Thành Viên VNthuquan đưa lên vào ngày: 27 tháng 12 năm 2003
|
Khái Hưng
Người vợ mù
Tôi được biết vợ chồng người ấy cũng là nhờ ở một sự ngẫu nhiên: họ dùng cửa nhà tôi làm nơi hội họp. Hồi đó, tôi ở Ninh Giang, một phủ lỵ khá lớn. Một bến tàu thủy khá sầm uất trên con sông Chanh, cách tiêu khiển của tôi là chiều tôi ra bờ sông xem tàu tới, tàu đi, giữa một cảnh náo nhiệt và những tiếng ồn ào gào thét của bọn bán bánh giò và bọn mời khách trọ, với những lời đe dọa hách dịch của mấy chú tuần canh, lính thương chính đến hỏi thẻ và khám soát hành lý. Nhưng từ ngày tôi để ý đến vợ chồng người mù, thì ở Ninh Giang, đối với tôi, không còn sự tiêu khiển nào thú hơn là được ngắm đôi uyên ương ấy chuyện trò với nhau: một cảnh tượng cảm động, thân mật và rất nên thơ.Tôi không rõ cửa nhà tôi được họ chọn làm nơi hò hẹn từ bao giờ, và vì sao họ lại chọn cửa nhà tôi. Nhưng một buổi sáng mùa đông dậy sớm, ra hiên gác tì tay lan can nhìn xuống, tôi thấy hai bóng đen đen đang đứng trên hè đường, dưới làn mưa phùn giá rét. Một lát sau, người đàn ông bảo người đàn bà:- Mười hai giờ bà chờ tôi ở đây nhé!Lời nói dõng dạc trang nghiêm như giọng hạng người sống trong những xã hội cao quý. Rồi mỗi người đi một ngả. Văng vẳng tôi nghe rao câu rất quen tai:- Ai muối mua!Và tôi nhớ ngay ra ông lão bán muối mà tôi vẫn thường gặp lang thang trong các phố. Mười hai giờ trưa khi chuyến ô-tô hàng chạy Hải Dương bắt đầu mở máy, quả nhiên một người đàn bà già và mù, áo xống gọn gàng và sạch sẽ, tay cầm cái rá, rờ lần các cửa xe, rời rạc xin tiền. Tôi nghĩ thầm: “Không phải ăn mày lành nghề”. Xe đi khỏi thì người bán muối buổi sáng cũng vừa đến nơi. Và tôi hiểu vì sao họ chọn giờ ấy làm giờ họp mặt: giờ ô-tô. Luôn một tuần lư như thế, hôm nào cũng đủ sáu giờ sáng và mười hai giờ trưa là hai vợ chồng người mù tới cửa nhà tôi đứng nói chuyện. Họ không hề sai hẹn. Và tôi tò mò lưu ý đến họ, để tai lắng nghe những câu chuyện của họ, vì họ nói rất to, như chẳng cần gì ai, hơn nữa, như coi nơi hè đường là chốn phòng riêng của họ. Họ có nhà riêng hay không, và nếu có thì nhà riêng họ ở đâu, tôi không rõ. Nhưng nghe chuyện họ, tôi biết rằng gia đình họ chỉ có hai vợ chồng: chồng làm nghề bán muối, vợ theo nghề ăn xin. Gặp nhau, họ vui vẻ mỉm cười hỏi thăm tin tức nhau như hai người bạn thân xa vắng lâu ngày, và mong nhớ nhau từng phút từng giây. Lần nào người chồng cũng bắt đầu:- Bà đấy à? Thế nào, bà làm ăn có khá không?Người vợ trả lời chẳng qua mấy câu này: “Cũng khá ông ạ” hay “Hôm nay làm ăn chẳng ra gì”. Rồi bà lão ngồi thuật cho chồng nghe hệt những việc đã xảy ra trong mấy giờ đồng hồ đi “làm ăn”. Bà ta kể chuyện rất vui vẻ, thỉnh thoảng lại chêm một câu bình phẩm, một câu khôi hài, khiến người chồng khúc khích cười, chừng cốt để làm đẹp lòng vợ. - Ông ạ, con mẹ Phúc Hòa Ðường nó lại nhiếc tôi sao không kiếm việc mà làm, đi ăn mày thế này không biết nhục à?- Con mẹ Phúc Hòa Ðường ở phố Ninh Lãng có phải không bà?- Phải đấy ông ạ. Nó thử mù như tôi xem ông nhỉ?- Thế nó có cho bà đồng nào không?- Nó cho mà nó nhiếc thì đã cam. - Nó giàu nhất phố đấy, bà ạ. - Giàu thế thì giàu làm gì? Giàu mà không biết thương kẻ đói khó, mù lòa. Cũng chả bền được đâu, ông nhỉ?- Phải, bền thế nào được.- Giá giời cho vợ chồng mình giàu như họ thì mình ăn ở ra người giàu, có phải không ông? - Phải, mình để của làm gì? Ðể của cho con nó phá nhé? Bà có biết không, thằng con nhà ấy nó phá chẳng mấy nỗi mà hết cơ nghiệp. Thôi thì đủ, bà ạ, cờ bạc, bợm đĩ, hút sách. - Thế à ông?Câu chuyện cứ thế kéo dài, âu yếm như chuyện hai vợ chồng trẻ, đứng đắn như chuyện hai người có giáo dục, một điều ông ạ, hai điều bà nhỉ, và có tính cách thông tin tức như một tờ báo hàng ngày.- Ông ạ, tôi nghe người nhà bà thông Ðoan nói chuyện xe Ninh Thái bị bắt thuốc phiện, đâu những bốn, năm cân nữa. Chắc bị phạt khá tiền đấy nhỉ? Hay đi đêm, thế nào chả có ngày gặp ma ông nhỉ?Tiếp chuyện bắt thuốc phiện, bà lão kể đến chuyện gia đình nhà ông đội Nhất: Vợ chồng ông đội chẳng ngày nào là không cãi nhau. Bà lão nhắc lại từng câu mắng nhiếc chửi rủa tục tằn của hai người, rồi bình phẩm:- Cứ nghèo như vợ chồng mình lại êm thấm, nhỉ ông nhỉ?Ông lão bán muối cười rất có duyên, và có vẻ tự phụ nữa. Hôm nào người vợ phàn nàn không xin được một trinh nhỏ, thì người chồng tìm hết lời an ủi:- Thôi, bà ạ, cần gì. Hôm nay tôi làm ăn nhờ giời khá lắm. Chúng mình chỉ mong kiếm đủ ăn, chứ có cần để dành tiền như họ đâu. Vậy bà về nhà mà nghỉ nhá. Tôi đã đong một hào gạo, mua một xu rau muống, một xu tương rồi đấy. Bà về thổi cơm, tôi bán hết chỗ này cũng về ngay đây. Họ từ biệt nhau, cho tới sáu giờ sáng hôm sau lại vui mừng cùng nhau nói chuyện. Nửa năm ròng, tôi tò mò đi sâu mãi vào cái đời đường hoàng và thân mật của cặp vợ chống khốn khó. Có hôm tôi đã cố theo họ xem họ trú ngụ nơi đâu, nhưng họ như đôi chuồn chuồn sống nhởn nhơ không tổ trên mặt nước ao tù. --------------------------------------------------------------------------------Một dạo tôi thấy vắng bóng đôi uyên ương già ở trước cửa nhà tôi. Tôi đoán chừng họ đã chọn một phố khác yên tĩnh hơn làm nơi góp chuyện hàng ngày. Nhưng một buổi chiều đi chơi mát, tôi rẽ vào xem đền Chanh thì gặp ông lão lòa đương lom khom quét lá khô ở sân. Tôi vui mừng hỏi:- Kìa ông bán muối. Hàng họ có khá không? Sao độ rầy tôi không gặp ông?Người kia đứng thẳng lên, hấp háy cố nhìn tôi bằng cặp mắt gần tàn ánh sáng như ngọn đèn cạn dầu bập bùng chực tắt. Tôi hỏi luôn:- Còn bà lão, vợ ông, lâu nay đi đâu?Hai hàng lệ chảy giàn giụa trên đôi gò má răn reo. Tôi hiểu ngay rằng ông lão già khốn nạn đương mang nặng trong lòng một nỗi thống khổ lớn lao. Và tôi nghĩ ngay đến sự tử biệt... - Ông buồn lắm phải không?-Vâng, tôi không thiết sống nữa, thầy ạ. Bà lão nhà tôi, bà ấy bỏ tôi bà ấy đi rồi... Tôi kinh ngạc:- Bà ấy bỏ ông?- Vâng, bà ấy chết rồi, còn đâu!Người ấy cúi xuống quét sân, nói tiếp:- Hơn bốn mươi năm giời ăn ở với nhau, chả có điều tiếng gì... bây giờ bà ấy bỏ bà ấy đi một mình. Lúc từ biệt, tôi đãi ông lão khổ sở một hào nhưng ông ta lắc đầu xua tay:- Tôi lấy tiền làm gì nữa. Ngày có vợ có chồng, tôi mới phải vất vả làm ăn. Chứ bây giờ còn một thân một mình, thì tôi chỉ nhờ cửa thánh ngày hai bữa cơm thừa canh cặn đủ no... để chờ ngày được gặp mặt bà lão tôi ở nơi suối vàng. Dù cảm động đến đâu tôi cũng không thể giấu nổi cái mỉm cười: tôi nhận thấy ngôn ngữ ông lão bán muối vẫn còn đứng đắn và kiểu cách như xưa, khi ngồi trò chuyện với người vợ mù ở trước cửa nhà tôi. Khái Hưng (1944)
Mục lục
Người vợ mù
Người vợ mù
Khái HưngChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.
Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: HùngĐược bạn: Thành Viên VNthuquan đưa lên vào ngày: 27 tháng 12 năm 2003
|
Phó Ái Mao
Người Vợ Tào Khang
Phạm Tú Châu dịch
truyện ngắn Trung Quốc
T rương Bân sinh ra ở vùng núi Dự Tây, gia cảnh vô cùng bần hàn. Sau khi tốt nghiệp trường sư phạm và trở thành thầy giáo, tình hình mới hơi khá lên được một chút, nhưng cũng mới chỉ lo được việc cơm no áo ấm mà thôi, còn về bản chất, anh vẫn là dân vô sản chính hiệu. Vì duyên cớ này mà chuyện hôn nhân vẫn chưa định được đám nào, bất giác anh dần dần trở thành "hộ lớn tuổi có khó khăn". Sau đó, có người giới thiệu cho anh một cô gái tên là Bình, cũng học trường sư phạm, lại tốt nghiệp trường đại học chuyên ngành, bằng tốt nghiệp còn cao hơn Trương Bân một bậc. Bình là cô gái rất tốt, vừa dịu dàng vừa hiền hậu, biết chăm sóc chồng.Nhưng nói thế nào nhỉ? Chỉ có điều Bình hơi xấu gái, người không thon thả, mặt cũng chẳng xinh. Còn Trương Bân thì tuy nghèo thật đấy nhưng lại bảnh trai, có tài, nhất là chữ viết thì cực đẹp. Hai người đứng với nhau liền cho người ta cảm giác "mâm son đũa mốc". Vì chuyện này mà Trương Bân buồn bực, nhưng nghĩ đến gia cảnh của mình và tuổi đã lớn nên đành dằn lòng gật đầu. Gật đầu một cái là thành hôn ngay. Cưới chưa được một năm, Bình đã sinh cho chồng một thằng cu trắng trẻo, tròn trĩnh, ai trông thấy cũng thích. Đến lúc này, nỗi buồn bực của Trương Bân mới nguôi ngoai.Một điều bất ngờ là sau khi có thằng cu, số của Trương Bân đỏ lên trông thấy. Đầu tiên anh được điều về cơ quan huyện làm thư ký, sau được điều làm chủ nhiệm ban viết sử của huyện. Chưa được mấy năm, anh được điều lên làm phó ban tuyên huấn huyện uỷ. Quan tuy không to, nhưng cũng gọi là mở mày mở mặt. Trước hết, chiếc xe đạp hai bánh đổi thành xe hơi bốn bánh, sau nữa căn nhà mái bằng ở đã lâu năm đổi thành nhà lầu xinh đẹp.- Tiếp theo, cậu phải cải tổ "nội các", đổi chỗ cả phu nhân đi nữa chứ? - Khi bạn bè tụ họp với nhau, họ thường trêu Trương Bân như vậy.Trương Bân đáp: - Trương này không phải là loại người đó. Những việc thất đức như thế, một đời Trương này cũng không bao giờ làm.Trương Bân nói như vậy và lứa chút nào. Là phụ nữ, Bình hiểu điều này rõ lắm, vì thế chị cố tránh đi cùng chồng trong những buổi giao tiếp, ngại làm mất thể diện chồng trước mặt bạn bè.Nhưng không đi không phải chị quyết định mà được. Lần nào Trương Bân cũng nhất định đem chị cùng đi, cố chấp đến mức không thông cảm nổi nhau. Mỗi lần đến nơi tiệc tùng, Trương Bân đều trịnh trọng nâng quên bạn bè lúc hàn vi, bỏ vợ lúc còn ăn tấm mẳn (ý nói lúc nghèo hèn) thì Trương Bân này tuyệt đối không bao giờ làm.Lần đầu khi nghe chồng nói thế, Bình cảm động đến rơi nước mắt. Sau đó, những lần chồng nói như thế ngày một nhiều. Khi anh tuyên bố như vậy, mọi người vừa khen ngợi anh, vừa tập trung ánh mắt ở khuôn mặt chị. Nét mặt của mọi người rất phức tạp, không biết nói như thế nào cho phải. Có mấy phần là mừng cho chị; cũng có mấy phần vui cho chị gặp may; cũng còn mấy phần là gì nữa chị nghĩ không rành, chỉ cảm thấy là lạ thế nào... Mỗi khi như thế, tim chị lại co thắt, cứ như chị làm điều gì không phải, hoặc như là chị cho tôi được kính phu nhân tôi là Bình chén rượu đầu tiên...Tiếp theo đó tất nhiên lại là câu "bần tiện chi giao bất khả vong, tao khang chi thê bất hạ đường". Bạn bè và bạn học lại nhiệt liệt vỗ tay tán thưởng một hồi. Bình đã quen với những lần như thế, nhưng lần này chị không đỏ mặt im lặng như mọi lần mà mạnh dạn đỡ lấy chén rượu, thong thả đứng lên nói:- Xin chào các vị. Tôi là Bình, mọi người đều thấy cả, tôi cũng chỉ bình thường, bất tài, không nhan sắc. Nhiều năm nay, may được Trương Bân không chê, tôi cảm kích không nói sao cho xiết. Nay có đông đủ các vị, tôi cũng xin kính Trương Bân một chén. Uống cạn chén này thì duyên phận vợ chồng chúng tôi đến đây cũng hết.Chị nói xong, rút trong ví sách tay một lá đơn xin ly hôn đã viết sẵn, đề nghị Trương Bân ký vào.Trong một lúc, Trương Bân thật sự không dám tin sự thực ngay trước mắt. Một người đàn bà bình thường như cải trắng, được ngồi xe hơi, được ở nhà lầu, chẳng phải làm gì mà được hưởng đãi ngộ của một phu nhân, thế mà lại chủ động đề xuất ly hôn? Cô ta nếu không phải ăn lắm rửng mỡ thì óc cũng là cháo loãng! Mọi người ngớ cả ra, đều nói: - Chị Trương ơi, sao lại nói như thế? Anh Trương có điểm nào là không phải với chị đâu?Chị bình tĩnh đáp: - Tôi sở dĩ đề nghị Trương Bân ký vào đơn ly hôn trước mặt tất cả các vị là vì muốn nói cho các vị biết rằng anh ấy không có gì không phải với tôi, cũng không có tâm địa xấu bỏ rơi tôi, Trương Bân không phải người thất đức như thế. Chỉ vì tôi không muốn sống cùng với anh ấy nữa mà thôi.Mọi người nhao nhao: - Đang yên đang lành, làm sao chị lại đột nhiên không muốn sống cùng anh ấy nữa?Chị trầm lặng một lúc lâu rồi nhẹ nhàng nói:- Chẳng vì cái gì cả mà chỉ vì loài người trên thế giới còn biết đến một điều, đó là: Lòng tự trọng!
Mục lục
Người Vợ Tào Khang
Người Vợ Tào Khang
Phó Ái MaoChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.
Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: DacTrungĐược bạn: Thành Viên VNthuquan đưa lên vào ngày: 27 tháng 12 năm 2003
|
Fu Ai Mao
Cao Kang's Wife
Translated by Pham Tu Chau
Chinese short stories
T Chu Ban was born in the Du Tay mountains, his family background was extremely poor. After graduating from pedagogical school and becoming a teacher, his situation improved a bit, but he could only take care of having enough food and warm clothes, and in essence, he was still a genuine proletarian. . Because of this reason, the marriage has not yet been decided, and suddenly he gradually became "an older family with difficulties". Then, someone introduced him to a girl named Binh, who also studied at a pedagogical school and graduated from a specialized university with a diploma one level higher than Truong Ban's. Binh is a very good girl, both gentle and kind, knowing how to take care of her husband. But how should I say it? The only thing is that Binh is a bit ugly, her body is not slim, her face is not pretty. As for Truong Ban, although he is really poor, he is handsome, talented, and especially his handwriting is extremely beautiful. Two people standing together immediately give people the feeling of "moldy lipstick and chopsticks". Because of this, Truong Ban was upset, but thinking about his family situation and his old age, he could not help but nod. Nod your head and you'll get married right away. After less than a year of marriage, Binh gave birth to her husband a white, plump boy that everyone who saw him liked. At this point, Truong Ban's sadness subsided. One surprising thing is that after having a boy, Truong Ban's fate turned red. First, he was assigned to the district office as a secretary, then assigned to be the head of the district's history writing committee. Within a few years, he was promoted to deputy head of the district Party Committee's propaganda department. Even though the official is not big, it is still called opening the eyebrows and opening the face. First of all, the two-wheeled bicycle was changed to a four-wheeled car, and then the flat-roofed house that had been lived in for many years was changed to a beautiful mansion. - Next, you had to reshuffle the "cabinet", changing places including the wife. go again? - When friends get together, they often tease Truong Ban like that. Truong Ban replied: - This Truong is not that type of person. Truong would never do such unvirtuous things in his life. Truong Ban said it in a wrong way. As a woman, Binh understands this very well, so she tries to avoid going with her husband in social meetings, afraid of embarrassing him in front of friends. But not going is not her decision. Every time Truong Ban insisted on taking his sister with him, he was so stubborn that he couldn't understand each other. Every time he goes to a party, Truong Ban solemnly forgets his friends when he's busy, leaving his wife when she's still eating rice (meaning when she's poor), this Truong Bin will absolutely never do. For the first time, when she heard her husband Saying that, Binh was moved to tears. After that, the times my husband said that became more and more frequent. When he announced that, everyone praised him and focused their eyes on her face. Everyone's facial expressions were so complicated, they didn't know what to say. Some parts are happy for her; There are also some happy parts for her luck; I don't know what the other parts are, I just feel it's strange... Every time that happens, my heart constricts, as if I did something wrong, or like I'm giving me respect. My wife is the first bottle of wine... Next, of course, is the sentence "If you are poor, you cannot perish, if you are a good wife, you cannot be defeated". Friends and classmates applauded enthusiastically for a while. Binh was used to times like that, but this time she didn't blush and stay silent like always, but boldly took the cup of wine, slowly stood up and said: - Hello everyone. I'm Binh, everyone sees it, I'm just ordinary, talentless, not beautiful. For many years, fortunately Truong Ban did not criticize me, I am grateful beyond words. Now that there are so many of you, I would also like to pay my respects to Truong Ban. After finishing this cup, our fate as husband and wife here will end. After she finished speaking, she pulled out a pre-written divorce application from her purse and asked Truong Ban to sign it. For a moment, Truong Bin really Don't dare believe the truth right in front of your eyes. A woman as ordinary as a white cabbage, able to drive a car, live in a high-class house, do nothing to enjoy the treatment of a lady, yet she proactively proposed a divorce? If she didn't eat a lot of fat, her brain would be porridge! Everyone was dumbfounded and said: - Ms. Truong, why do you say that? What does Mr. Truong have in common with her? She calmly replied: - The reason I asked Truong Ban to sign the divorce petition in front of all of you is because I want to tell you that he has nothing. It's not with me, nor does he have a bad intention of abandoning me. Truong Ban is not such an unvirtuous person. It's just because I don't want to live with him anymore. Everyone said: - It's okay, how come you suddenly don't want to live with him anymore? She was silent for a long time and then gently said: - Not for anything but just because people in the world still know one thing, that is: Self-esteem!
Table of contents
Cao Kang's Wife
Cao Kang's Wife
Pho Ai MaoWelcome to read the first book from the book project for mobile devices. Source: author: Nguyen Kim Vy.
Final words: Thank you for reading the entire story. Source: editor: Nguyen Kim Vy. Source: DacTrung Posted by: Member VNthuquan on: December 27, 2003
|
Nguyễn nhật Ánh
Người Vợ Yêu Quý
Đánh máy: Nguyễn Ngọc Thanh Nghi
Anh Thân Yêu, Nhận được thư anh, nghe nói khóa học bồi dưỡng của anh một tuần nữa sẽ kết thúc, em mừng vô kể. Thế là vợ chồng mình sắp gặp lại nhau rồi anh há! Ôi, ước gì em có cánh, em sẽ bay thẳng đến chỗ anh để đón anh về. Nghe nói ở chỗ anh lúc này trời bắt đầu lạnh rồi phải không? Ôi, nghĩ đến cảnh anh rét run cầm cập, em thương anh ghê vậy đó. Nhưng hình như anh không định mua áo lạnh phải không? Ừ, mua làm gì cho tốn kém anh hở! Chúng ta phải dành dụm tiền bạc cho đứa con đầu lòng sắp tới của chúng ta kia mà. Anh có thể mượn tạm áo lạnh của bạn bè cũng được. Nhưng nếu không ai cho mượn thì sao há! À, mà chỉ còn một tuần là anh về rồi kia mà! Một tuần thì dư sức chịu đựng phải không anh? Em biết anh là người khỏe nhất trên đời mà! Ôi dũng sĩ Ðắc-ta-nhăng của em! À mà anh ơi! Ðôi giày dạo trước anh mua cho em bị đứt quai rồi anh ạ. Mấy hôm nay em phải mang xa-bô đi làm, quê thấy mồ! Khi nào về anh nhớ mua đôi giày mới nhé! Hẳn anh dư biết em thích kiểu giày gì rồi chứ? Tất nhiên em tin là anh không quên nhưng em vẫn cứ muốn nhắc lại: đôi giày da quai nhung màu huyết dụ mà hồi ở nhà em đã chỉ cho anh một lần trong cửa hàng, anh còn nhớ như in đó chứ! Nếu không có màu huyết dụ thì anh chọn màu xanh dương vậy nhé! À mà anh ơi, nếu có một đôi giày thì rủi nó lại hỏng nữa thì thật là kẹt anh hở, anh có nhgĩ vậy không? Chắc là anh đã nghĩ ra điều đó trước em rồi chứ gì, vợ chồng mình bao giờ lại chẳng cùng ý kiến. Vậy thì anh đừng quên mua thêm cho em một đôi giày trắng nhé. Nhớ là màu trắng đấy, anh yêu của em, nếu màu khác em giận cho mà coi. Ðáng lẽ có sẵn trong nhà ba đôi giày thì tốt hơn, nhưng em đã quen tính tằn tiện rồi nên không đòi hỏi đến vậy đâu, anh hãy khen em một lời đi! Anh ơi, hôm qua nhỏ Lệ Thanh đến nhà chơi với em. Nó hỏi thăm anh đủ thứ. Con nhỏ dễ thương ghê! Dễ thương nhất là nó mặc một cái áo xoa Pháp màu hoa cà đẹp kinh khủng. Ðến khi nó về rồi, em bần thần trong người và buồn vô cùng. Em thì chẳng bao giờ có được một cái áo đẹp như vậy cả, tủi thân ghê! Nhưng em không bắt anh mua áo cho em đâu, em cũng biết là không nên làm phiền anh. Mà này anh ơi, tất nhiên là em không đòi hỏi nhưng nếu anh cảm thấy yêu em, không muốn để em tủi thân thì anh có quyền mua cho em một cái áo xoa Pháp vậy. Nếu mua, anh chọn màu mỡ gà nghe. Màu đó hợp với em lắm. Thực ra thì em thích một cái áo mút-sơ-lin màu ya-ma-ha hơn, nhưng thôi để lần khác anh ạ. Mình quen sống tiết kiệm rồi, đâu có thể mua hai cái áo một lúc, anh há? Nhưng đó là áo mặc đi làm, còn khi đi chơi thì không ai lại mặc áo đi làm cả. Chắc anh thừa hiểu điều này phải không? Anh của em thông minh lắm mà! Hôm trước em thấy nhỏ Kim Hoa mặc một cái áo pull xanh đẹp lắm. Em nói vậy là anh hiểu rồi chứ gì? Có nghĩa là em hy vọng ngày anh về, em sẽ tìm thấy trong va-li của anh những cái ao pull làm quà cho em. Em nói những cái áo, bởi vì em biết không đời nào anh lại để cho vợ anh mặc đi mặc lại mỗi một cái áo ngày này qua ngày khác. Nhưng để đỡ tốn, anh đừng mua nhiều làm gì, em chỉ cần hai hoặc ba cái ít ỏi, chủ yếu là mặc cho qua ngày thôi. Anh thân yêu của em, như người ta thường nói, cái gì cũng phải xứng đôi xứng cặp, giống như anh và em vậy. Em đâu có thể nào sống với ai, ngoài anh, phải không anh? Cũng vậy, lẽ nào anh lại bắt em mặc những cái áo mới cùng với những cái quần cũ không xứng đáng với chúng. Anh ạ, nói tóm lại thì anh có thể mua cho em một cái quần nhung vàng để mặc với cái áo xoa, còn áo pull thì phải mặc với quần gin mới đúng điệu. Quần gin, anh nhớ chứ? Cái đó, những người sành sỏi gọi là com-lê đấy anh ạ. Anh thân yêu, có người chồng nào đi xa về lại không muốn thấy vợ mình tươi mát, xinh đẹp, phải không anh? Anh lại càng như vậy vì anh là người chồng yêu vợ nhất trên đời, anh hở! Em cũng muốn chiều lòng anh lắm nhưng e việc đó quá khả năng của em. Tại sao anh biết không? Em nói nhỏ cho anh nghe nhé! Lúc này da mặt của em bớt mịn rồi anh ạ. Nếu thoa kem Ni-vê-a thì may ra em mới trở lại là cô vợ xinh xắn của anh. em nói vậy không có nghĩa là đòi anh mua kem cho em đâu, nhưng nếu vì quá yêu em mà anh cứ nhất định mua, thì nếu không có loại Ni-vê-a, anh mua loại Ê-mê-rông cũng được. Em không từ chối đâu, nhất lại là không phải chỉ một hộp. Tất cả chỉ vậy thôi, em không muốn anh phải cực nhọc nhiều vì em đâu. Thực ra em phải ăn mặc thứ này thứ nọ cũng chỉ là vì anh thôi, anh thân yêu ạ. Ngoài ra, có những thứ em không dặn trong thư bởi vì em nghĩ tất nhiên là anh phải mua về rồi, như trái cây chẳng hạn. Anh có thể mua ba ký chôm chôm, sáu ký sầu riêng và thêm vài trái mít tố nữ càng tốt. Vợ chồng mình sẽ có thứ mà liên hoan với nhau trong ngày sum họp. À mà làm sao anh có thể mang mọi thứ này về được hở? Anh gởi bạn bè xách giùm cho nhé! Nếu ai cũng bận bịu như anh cả thì anh mua thêm vài cái túi xách bỏ mọi thứ vô đó xách về. Ðể em hình dung ra chàng hiệp sĩ của em nè: tay phải xách va-li, tay trái xách một cái túi căng phồng, hai vai đeo hai cái giỏ, có thể trên lưng còn vác thêm một cái bọc gì nữa đấy. Ối chà, có vẻ một người hùng ra phết! Bình thường anh mang chừng đó thứ là nặng lắm, nhưng anh cứ nghĩ là đang bế em trên tay hoặc cõng em trên lưng là anh thấy nhẹ hẫng ngay cho mà coi. Anh đã chẳng từng bế em và nói “cục bông gòn mềm mại của anh” là gì! À quên, nãy giờ mải lo hỏi thăm sức khỏe của anh nên em suýt quên báo cho anh biết một tin quan trọng. Em vừa kết bạn với mấy cô gái thật là tuyệt vời. Tụi nó hát hay lắm anh ạ, có đứa còn biết đánh đàn và nhảy đầm nữa kia. Tụi nó mong gặp anh lắm. Bởi vì em quảng cáo về anh ghê lắm mà. Anh gặp tụi nó chắc là anh thích lắm. Em định ngày anh về em sẽ tổ chức một buổi gặp mặt giữa vợ chồng mình và tụi nhỏ bạn. Tất nhiên là có liên hoan vui vẻ rồi. Vì vậy mà em định nhờ anh mua thêm vài ký bánh săm-pan, bích quy và bánh hột điều. Anh nhớ nhé, buổi ra mắt của anh có thành công rực rở hay không là tùy thuộc vào điều này đấy! Trước khi ngừng bút, em nhờ anh mua cho em vài cuốn sách. Anh đừng ngạc nhiên nhé! Vợ anh đâu phải chỉ biết có vật chất không thôi đâu, em cũng thích những món ăn tinh thần nữa chứ bộ! Anh nhớ ghi những cuốn sách em kể ra đây vào sổ tay kẻo lại quên mất. Ðó là những cuốn sách dạy làm bánh Tây, sách hướng dẫn nghệ thuật cắm hoa và nhất là cuốn “Dành cho các bà các cô muốn giữ gìn sắc đẹp”, cuốn này còn một cái tên nữa là “Làm thế nào để trẻ mãi không già”. Ðó, anh thấy chưa, vợ anh muốn trẻ mãi cùng anh mà! Anh thân yêu, anh sẽ xoay ra tiền để mua quà cho em đấy chứ? Ðiều đó có lẽ không khó lắm anh hở? Anh có thể mượn tạm đâu đó trong đám bạn bè của anh, rồi khi về nhà anh cố gắng dạy thêm giờ để xoay xở trả nợ vậy. Một ngày dạy ba buổi cũng đâu có hề hấn gì sức khỏe của anh phải không, chàng Héc-quyn của em? À, trước khi dứt lời, em xin báo cho anh một tin vui. Em đã coi lại cặp mắt kính của anh rồi. Cái gọng kính gãy của anh có thể dùng dây kẽm buộc lại xài cũng được, không cần phải mua kính mới đâu! Kính chủ yếu cần tròng chứ đâu cần gọng. Vả lại mình cần phải tiết kiệm anh ạ. Tất cả là vì đứa con đầu lòng của chúng ta. Anh đồng ý với em cả hai tay đấy chứ? Thôi cuối thư, chúc anh mạnh khỏe và nhớ những lời dặn của em. Hôn anh nghìn lần, Người vợ yêu quý của anh. - 1984 - Nguyễn Nhật Ánh
Mục lục
Người Vợ Yêu Quý
Người Vợ Yêu Quý
Nguyễn nhật ÁnhChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.
Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: Thời Áo TrắngĐược bạn: Thành Viên VNthuquan đưa lên vào ngày: 27 tháng 12 năm 2003
|
Nguyễn nhật Ánh
Người Vợ Yêu Quý
Đánh máy: Nguyễn Ngọc Thanh Nghi
Anh Thân Yêu, Nhận được thư anh, nghe nói khóa học bồi dưỡng của anh một tuần nữa sẽ kết thúc, em mừng vô kể. Thế là vợ chồng mình sắp gặp lại nhau rồi anh há! Ôi, ước gì em có cánh, em sẽ bay thẳng đến chỗ anh để đón anh về. Nghe nói ở chỗ anh lúc này trời bắt đầu lạnh rồi phải không? Ôi, nghĩ đến cảnh anh rét run cầm cập, em thương anh ghê vậy đó. Nhưng hình như anh không định mua áo lạnh phải không? Ừ, mua làm gì cho tốn kém anh hở! Chúng ta phải dành dụm tiền bạc cho đứa con đầu lòng sắp tới của chúng ta kia mà. Anh có thể mượn tạm áo lạnh của bạn bè cũng được. Nhưng nếu không ai cho mượn thì sao há! À, mà chỉ còn một tuần là anh về rồi kia mà! Một tuần thì dư sức chịu đựng phải không anh? Em biết anh là người khỏe nhất trên đời mà! Ôi dũng sĩ Ðắc-ta-nhăng của em! À mà anh ơi! Ðôi giày dạo trước anh mua cho em bị đứt quai rồi anh ạ. Mấy hôm nay em phải mang xa-bô đi làm, quê thấy mồ! Khi nào về anh nhớ mua đôi giày mới nhé! Hẳn anh dư biết em thích kiểu giày gì rồi chứ? Tất nhiên em tin là anh không quên nhưng em vẫn cứ muốn nhắc lại: đôi giày da quai nhung màu huyết dụ mà hồi ở nhà em đã chỉ cho anh một lần trong cửa hàng, anh còn nhớ như in đó chứ! Nếu không có màu huyết dụ thì anh chọn màu xanh dương vậy nhé! À mà anh ơi, nếu có một đôi giày thì rủi nó lại hỏng nữa thì thật là kẹt anh hở, anh có nhgĩ vậy không? Chắc là anh đã nghĩ ra điều đó trước em rồi chứ gì, vợ chồng mình bao giờ lại chẳng cùng ý kiến. Vậy thì anh đừng quên mua thêm cho em một đôi giày trắng nhé. Nhớ là màu trắng đấy, anh yêu của em, nếu màu khác em giận cho mà coi. Ðáng lẽ có sẵn trong nhà ba đôi giày thì tốt hơn, nhưng em đã quen tính tằn tiện rồi nên không đòi hỏi đến vậy đâu, anh hãy khen em một lời đi! Anh ơi, hôm qua nhỏ Lệ Thanh đến nhà chơi với em. Nó hỏi thăm anh đủ thứ. Con nhỏ dễ thương ghê! Dễ thương nhất là nó mặc một cái áo xoa Pháp màu hoa cà đẹp kinh khủng. Ðến khi nó về rồi, em bần thần trong người và buồn vô cùng. Em thì chẳng bao giờ có được một cái áo đẹp như vậy cả, tủi thân ghê! Nhưng em không bắt anh mua áo cho em đâu, em cũng biết là không nên làm phiền anh. Mà này anh ơi, tất nhiên là em không đòi hỏi nhưng nếu anh cảm thấy yêu em, không muốn để em tủi thân thì anh có quyền mua cho em một cái áo xoa Pháp vậy. Nếu mua, anh chọn màu mỡ gà nghe. Màu đó hợp với em lắm. Thực ra thì em thích một cái áo mút-sơ-lin màu ya-ma-ha hơn, nhưng thôi để lần khác anh ạ. Mình quen sống tiết kiệm rồi, đâu có thể mua hai cái áo một lúc, anh há? Nhưng đó là áo mặc đi làm, còn khi đi chơi thì không ai lại mặc áo đi làm cả. Chắc anh thừa hiểu điều này phải không? Anh của em thông minh lắm mà! Hôm trước em thấy nhỏ Kim Hoa mặc một cái áo pull xanh đẹp lắm. Em nói vậy là anh hiểu rồi chứ gì? Có nghĩa là em hy vọng ngày anh về, em sẽ tìm thấy trong va-li của anh những cái ao pull làm quà cho em. Em nói những cái áo, bởi vì em biết không đời nào anh lại để cho vợ anh mặc đi mặc lại mỗi một cái áo ngày này qua ngày khác. Nhưng để đỡ tốn, anh đừng mua nhiều làm gì, em chỉ cần hai hoặc ba cái ít ỏi, chủ yếu là mặc cho qua ngày thôi. Anh thân yêu của em, như người ta thường nói, cái gì cũng phải xứng đôi xứng cặp, giống như anh và em vậy. Em đâu có thể nào sống với ai, ngoài anh, phải không anh? Cũng vậy, lẽ nào anh lại bắt em mặc những cái áo mới cùng với những cái quần cũ không xứng đáng với chúng. Anh ạ, nói tóm lại thì anh có thể mua cho em một cái quần nhung vàng để mặc với cái áo xoa, còn áo pull thì phải mặc với quần gin mới đúng điệu. Quần gin, anh nhớ chứ? Cái đó, những người sành sỏi gọi là com-lê đấy anh ạ. Anh thân yêu, có người chồng nào đi xa về lại không muốn thấy vợ mình tươi mát, xinh đẹp, phải không anh? Anh lại càng như vậy vì anh là người chồng yêu vợ nhất trên đời, anh hở! Em cũng muốn chiều lòng anh lắm nhưng e việc đó quá khả năng của em. Tại sao anh biết không? Em nói nhỏ cho anh nghe nhé! Lúc này da mặt của em bớt mịn rồi anh ạ. Nếu thoa kem Ni-vê-a thì may ra em mới trở lại là cô vợ xinh xắn của anh. em nói vậy không có nghĩa là đòi anh mua kem cho em đâu, nhưng nếu vì quá yêu em mà anh cứ nhất định mua, thì nếu không có loại Ni-vê-a, anh mua loại Ê-mê-rông cũng được. Em không từ chối đâu, nhất lại là không phải chỉ một hộp. Tất cả chỉ vậy thôi, em không muốn anh phải cực nhọc nhiều vì em đâu. Thực ra em phải ăn mặc thứ này thứ nọ cũng chỉ là vì anh thôi, anh thân yêu ạ. Ngoài ra, có những thứ em không dặn trong thư bởi vì em nghĩ tất nhiên là anh phải mua về rồi, như trái cây chẳng hạn. Anh có thể mua ba ký chôm chôm, sáu ký sầu riêng và thêm vài trái mít tố nữ càng tốt. Vợ chồng mình sẽ có thứ mà liên hoan với nhau trong ngày sum họp. À mà làm sao anh có thể mang mọi thứ này về được hở? Anh gởi bạn bè xách giùm cho nhé! Nếu ai cũng bận bịu như anh cả thì anh mua thêm vài cái túi xách bỏ mọi thứ vô đó xách về. Ðể em hình dung ra chàng hiệp sĩ của em nè: tay phải xách va-li, tay trái xách một cái túi căng phồng, hai vai đeo hai cái giỏ, có thể trên lưng còn vác thêm một cái bọc gì nữa đấy. Ối chà, có vẻ một người hùng ra phết! Bình thường anh mang chừng đó thứ là nặng lắm, nhưng anh cứ nghĩ là đang bế em trên tay hoặc cõng em trên lưng là anh thấy nhẹ hẫng ngay cho mà coi. Anh đã chẳng từng bế em và nói “cục bông gòn mềm mại của anh” là gì! À quên, nãy giờ mải lo hỏi thăm sức khỏe của anh nên em suýt quên báo cho anh biết một tin quan trọng. Em vừa kết bạn với mấy cô gái thật là tuyệt vời. Tụi nó hát hay lắm anh ạ, có đứa còn biết đánh đàn và nhảy đầm nữa kia. Tụi nó mong gặp anh lắm. Bởi vì em quảng cáo về anh ghê lắm mà. Anh gặp tụi nó chắc là anh thích lắm. Em định ngày anh về em sẽ tổ chức một buổi gặp mặt giữa vợ chồng mình và tụi nhỏ bạn. Tất nhiên là có liên hoan vui vẻ rồi. Vì vậy mà em định nhờ anh mua thêm vài ký bánh săm-pan, bích quy và bánh hột điều. Anh nhớ nhé, buổi ra mắt của anh có thành công rực rở hay không là tùy thuộc vào điều này đấy! Trước khi ngừng bút, em nhờ anh mua cho em vài cuốn sách. Anh đừng ngạc nhiên nhé! Vợ anh đâu phải chỉ biết có vật chất không thôi đâu, em cũng thích những món ăn tinh thần nữa chứ bộ! Anh nhớ ghi những cuốn sách em kể ra đây vào sổ tay kẻo lại quên mất. Ðó là những cuốn sách dạy làm bánh Tây, sách hướng dẫn nghệ thuật cắm hoa và nhất là cuốn “Dành cho các bà các cô muốn giữ gìn sắc đẹp”, cuốn này còn một cái tên nữa là “Làm thế nào để trẻ mãi không già”. Ðó, anh thấy chưa, vợ anh muốn trẻ mãi cùng anh mà! Anh thân yêu, anh sẽ xoay ra tiền để mua quà cho em đấy chứ? Ðiều đó có lẽ không khó lắm anh hở? Anh có thể mượn tạm đâu đó trong đám bạn bè của anh, rồi khi về nhà anh cố gắng dạy thêm giờ để xoay xở trả nợ vậy. Một ngày dạy ba buổi cũng đâu có hề hấn gì sức khỏe của anh phải không, chàng Héc-quyn của em? À, trước khi dứt lời, em xin báo cho anh một tin vui. Em đã coi lại cặp mắt kính của anh rồi. Cái gọng kính gãy của anh có thể dùng dây kẽm buộc lại xài cũng được, không cần phải mua kính mới đâu! Kính chủ yếu cần tròng chứ đâu cần gọng. Vả lại mình cần phải tiết kiệm anh ạ. Tất cả là vì đứa con đầu lòng của chúng ta. Anh đồng ý với em cả hai tay đấy chứ? Thôi cuối thư, chúc anh mạnh khỏe và nhớ những lời dặn của em. Hôn anh nghìn lần, Người vợ yêu quý của anh. - 1984 - Nguyễn Nhật Ánh
Mục lục
Người Vợ Yêu Quý
Người Vợ Yêu Quý
Nguyễn nhật ÁnhChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.
Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: Thời Áo TrắngĐược bạn: Thành Viên VNthuquan đưa lên vào ngày: 27 tháng 12 năm 2003
|
Nguyễn Ngọc Tuyết
Người xưa
Cận tết, anh email về: "Anh sẽ về ngày..., ra đón anh nhé!". Lâu lắm chị mới nhận được tin anh. Vậy là như một người tình ngoan ngoãn, chị lại mua hoa ra phi trường. Lần này trông anh còn trẻ hơn hai năm trước. Đi bên anh chị càng thấm thía cái tuổi "bóng xế chiều tà" của mình.- Anh về ăn tết luôn à?- Ừ, cũng định vậy. Bên kia lạnh quá!- Công việc thế nào?- Cũng nhì nhằng. Nghề tự do mà. Lên lên xuống xuống vậy thôi.- Bên này bọn em gọi là làm theo phong trào.Anh cười ngất. Tiếng cười vẫn hào sảng, đáng yêu như ngày nào.- Dùng từ hay quá hả? Anh lạc hậu mất rồi! Hai người cứ nói những chuyện không đầu không cuối như vậy. Vậy mà lòng chị cứ như nở hoa. Có lẽ cả một thời gian dài, chị chưa hề thú vị thế trong chuyện trò, trong những giao tiếp hằng ngày. Hay đúng như lời nhỏ cháu gái thường phê bình:- Cô đòi hỏi cao quá ở mọi người. Cứ như cái thời xưa của cô ấy!- Sao là "của cô"? Vậy cái thời nay của cháu thì sao nào?- Thì bọn cháu dễ chơi, dễ hòa đồng và vui hết mình, buồn hết cỡ chứ không giữ kín mọi thứ trong lòng để ngậm ngùi, phiền muộn như cô. Giá như có mặt lúc này, chắc nhỏ cháu gái lại bĩu môi như mọi lần:- Cô coi, cái chuyện tình yêu của cô cũng xưa như trái đất! Ai đời người yêu bỏ đi mấy chục năm trời, có vợ con đùm đề mà lần nào về cô cũng đón mừng như báu vật...Chị liếc nhìn anh. Ừ, có lẽ mình vô duyên thật. Sao mình cứ như đứa trẻ được quà thế kia? Sao mình vẫn còn xúc động, bồi hồi trước người tình xa lơ xa lắc này? Còn anh thì... Chị thèm biết mấy cái vẻ tự nhiên nhẹ nhõm ấy của anh mỗi lần gặp lại. Cứ như không hề có cuộc chia tay ngày nào, cứ như hai người vẫn ngày ngày gặp mặt với những câu chuyện nổ dòn như pháo tết ấy thôi... ***Đêm. Góc sân trước nhà ngát hương nguyệt quế. Hai chậu hoa chi chít những nụ hoa nhỏ, trắng ngần. Chị ngước mặt lên trời, hít thật sâu mùi hương ngọt nồng. Cụm hoa này một cô bạn chiết nhánh cho, chị trồng cả mấy năm trời, lá lên xanh mịt mù mà không hề ra hoa. Cô bạn bảo:- Tại cành mận che rợp nên thiếu nắng đó mà, cứ bứng vào chậu mang ra chỗ thoáng, đừng tưới nước gì cả. Khi nào lá nó già đi, quắt lại cây sẽ phát hoa thôi.Ngẫm ra thật đúng. Mấy hôm nay nguyệt quế đã nở đầy. Mùi hương đêm đêm theo chị vào giấc ngủ như nụ hôn đầu chị không thể nào quên, nụ hôn ướp đầy hương nguyệt quế bên thềm nhà anh một thuở xuân thì. Có phải vì vậy mà chị vẫn xao xuyến, vẫn nhớ mong?Kỳ này anh về, chị sẽ khoe với anh hai chậu hoa này, loại hoa anh đã từng yêu thích. Chị sẽ châm một bình trà "quạu", thứ trà Thái Nguyên hạng nhất, pha cho mỗi người một "phin" cà phê đậm đặc trên chiếc bàn đá trước sân để cùng nhau đối ẩm trong hương nguyệt quế thơm nồng. Và mọi thứ lại như xưa, như tất cả vẫn đứng yên từ những năm tháng ấy. Trời, chị ao ước biết bao một lần được sống lại, chỉ một lần thôi...Mỗi buổi sớm, đi tập thể dục nhìn thấy nhiều cặp vợ chồng già, chậm rãi đi từng bước bên nhau, thanh thản, yên bình như họ đã đi cùng nhau tự kiếp nào, chị thật ngưỡng mộ làm sao! Dường như những biến động, quay quắt của cuộc đời đều cúi đầu lùi bước trước những mái đầu bạc phơ, những gương mặt vô ưu kia. Và chị muốn được nhập vào họ, đi cùng họ, những "người xưa" ấy...***Trước tết một tuần, đột nhiên anh thông báo:- Mai anh phải trở qua thôi, bên ấy có việc!Chị ngỡ ngàng:- Sao vậy anh?- À, con gái anh gọi về, chuyện làm ăn ấy mà.Thì ra vậy. Anh vẫn nói tuy hai vợ chồng ly thân nhưng mấy đứa nhỏ vẫn "quấn" ba lắm, vẫn qua lại thường xuyên. Còn chuyện công việc thì làm sao lường được. Có điều chị vẫn nghe hụt hẫng trong lòng. Nhớ lúc mới về anh siết vai chị, hứa:- Nhất định năm nay anh ăn tết quê nhà. Lâu lắm rồi anh thèm không khí, hương vị tết của mình, ăn tết bên kia buồn lắm, trống vắng lắm...Hóa ra "hương vị quê hương" vẫn không sánh được chuyện làm ăn! Hình như có điều gì đó vừa vỡ vụn trong chị. Một chút vị trà Thái Nguyên đắng đót mà ngọt mềm trên lưỡi, mùi thơm lừng của tách cà phê bốc khói, hay thoáng hương nguyệt quế trong đêm... Ôi nguyệt quế trắng ngần của nụ hôn xưa đã rơi rụng rồi sao, trong lòng con người chân vừa chạm ngõ đã thấp thỏm rời xa?Đưa anh đi rồi, chị trở về căn nhà quạnh quẽ. Nhỏ cháu đã theo bạn đi chợ tết. Chị ngồi lặng trên băng đá trước sân nhà. Hai chậu nguyệt quế vẫn tỏa hương mà người yêu hoa đã đi mất. Đêm vẫn trôi lặng lẽ. Đêm dịu dàng ủ kín chị trong bóng tối êm ả. Chị nâng tách trà lên uống một ngụm rồi cười khan một mình. Có lẽ nhỏ cháu gái chị nói đúng. Chị quả thật là "người xưa"!
Mục lục
Người xưa
Người xưa
Nguyễn Ngọc TuyếtChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.
Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: Theo Tuổi TrẻĐược bạn: Ct.Ly đưa lên vào ngày: 26 tháng 2 năm 2007
|
Nguyen Ngoc Tuyet
Antediluvian
Nearing Tet, he emailed: "I'll be back on..., come pick me up!". It's been a long time since I heard from you. So like an obedient lover, she bought flowers to the airport. This time he looks even younger than two years ago. Walking with you and my sister makes me more aware of my "twilight" age. - Are you coming back for Tet too? - Yes, I plan to do so. It's so cold over there! - How's work? - It's also vague. Freelance job. Up, up, down, that's all. - Here we call it following the movement. He burst out laughing. The laughter is still as generous and lovely as ever. - Are you using such a good word? You are out of date! The two of them kept talking about endless things like that. Yet her heart seemed to bloom. Perhaps for a long time, she has never been so interesting in conversation and in daily interactions. Or as my niece often criticizes: - You demand too much of everyone. Just like her old times!- Why is it "yours"? So what about your life these days? - We are easy to play with, easy to get along with and are as happy and sad as possible, instead of keeping everything inside to feel sad and sad like you. If only she were present right now, her niece would probably pout like always: - Look, your love story is as old as the world! Whose lover left for decades, had a wife and children to take care of, and every time she returned she welcomed him like a treasure... She glanced at him. Yeah, maybe I'm really ungrateful. Why am I like a child receiving a gift? Why am I still emotional and nervous in front of this long-distance lover? As for you... I want to know those natural, relieved expressions of yours every time we meet again. It was as if there had never been a breakup, as if the two of them still met every day with stories exploding like Tet fireworks... ***Night. The corner of the front yard is fragrant with laurel. Two flower pots filled with small, white flower buds. She raised her face to the sky and inhaled deeply the sweet scent. A friend gave me a branch of this flower cluster, she planted it for many years, the leaves turned green but no flowers bloomed. My friend said: - Because the plum branches are covered so there is no sunlight, just put them in a pot and bring them to an open place, don't water them at all. When the leaves get old and shriveled, the tree will bloom. Think about it right. These past few days the laurel has been in full bloom. The scent that followed her to sleep every night was like the first kiss she could never forget, the kiss scented with laurel on his doorstep in the spring. Is that why you are still anxious and longing? When I come back this time, I will show you these two flower pots, the kind of flowers you used to love. She will light a pot of "crunchy" tea, the first-class Thai Nguyen tea, and brew each person a "filter" of concentrated coffee on the stone table in the front yard so that they can steam together in the fragrant scent of laurel. And everything was like before, as if everything had stood still since those years. God, how I wish I could live again, just once... Every morning, when I go to the gym, I see many old couples, slowly walking step by step together, serene and peaceful like They have been together since forever, how much I admire them! It seems that the upheavals and twists of life all bow and retreat before those gray heads and carefree faces. And she wanted to join them, go with them, those "old people"...*** A week before Tet, he suddenly announced: - I have to come back tomorrow, there's work over there! I thought Ngang:- What's wrong?- Ah, your daughter called, it was about business. So that's it. He still said that even though the couple was separated, the children were still very close to their father and still went back and forth frequently. As for work, how can you predict it? But she still feels disappointed in her heart. I remember when I first returned, he squeezed her shoulder and promised: - This year I will definitely celebrate Tet in my hometown. For a long time, I've been craving the atmosphere and flavor of my Tet holiday. Having Tet over there is so sad, so empty... It turns out that the "flavor of home" still can't compare to doing business! It seemed like something had just broken inside her. A bit of the bitter yet sweet taste of Thai Nguyen tea on the tongue, the fragrant scent of a steaming cup of coffee, or the faint scent of laurel in the night... Oh, the white laurel of the old kiss has fallen away, in As soon as the human heart touched the alley, it felt anxious and left? After sending him away, she returned to the lonely house. She followed her friend to the Tet market. She sat quietly on the ice in front of her yard. Two pots of laurel still give off fragrance, but the flower lover is gone. The night still passed quietly. The gentle night enveloped her in quiet darkness. She raised her teacup and took a sip, then smiled dryly to herself. Perhaps your niece is right. You are truly an "old person"!
Table of contents
Antediluvian
Antediluvian
Nguyen Ngoc TuyetWelcome to read the first books from the book project for mobile devices. Source: editor: Nguyen Kim Vy.
Final words: Thank you for reading the entire story. Source: editor: Nguyen Kim Vy. Source: According to Tuoi Tre Posted by friend: Ct.Ly on: February 26, 2007
|
Cổ Tích Việt Nam
Người Ðánh Cá và Công Chúa Thủy Tề
Ngày xưa, có nàng Công chúa con Thủy Vương một hôm hóa làm con cá bơi ngược giòng sông để du ngoạn, chẳng may mắc phải lưới của một người thuyền chài. Cá công chúa bị bắt thả vào gầm thuyền, phải nhịn đói hơn một hôm vì không có gì ăn. May có con trai người thuyền chài ngồi ăn bánh đổ cơm xuống, cá Công chúa mới khỏi chết đói. Trông thấy cá xinh đẹp, người con trai chủ thuyền bắt lên chơi rồi tuột tay thả rơi xuống sông. Công chúa nhờ thế mà được trở về thủy cung. Nhưng từ ngày về đến cung điện, công chúa đâm ra tưởng nhớ đến người con trai ở trần gian đã cứu thoát mình, rồi sinh ốm tương tư. Vua Thủy Tề hỏi duyên cớ, công chúa cứ thật tình thưa lại đầu đuôi câu chuyện, rồi xin phép vua cha đội lốt làm người ở trên đất để kết duyên với chàng trai kia. Bấy giờ người trai đang ở hang Non Nước, thuộc về Ninh Bình ngày nay, sau khi cha mẹ đã mất. Người trai ngày ngày đi câu cá để sống, một hôm gặp nàng công chúa Thủy Cung tìm đến, rồi đôi bên lấy nhau. Vợ chồng tuy sống trong cảnh nghèo túng, song hết sức thương yêu nhau. Chàng và nàng sống giữa hòn đảo Non Nước cách biệt, kéo dài cuộc tình duyên đằm thắm cho đến một ngày kia, nàng đưa chàng cùng nhau về dưới Thủy Cung. Trong dân gian ngày nay còn nhắc nhở câu: Chung quanh những chị em người, Giữa hòn Non Nước mình tôi với chàng để nói lên mối tình của nàng công chúa con Thần Nước với anh chàng đánh cá miền Bắc Việt Nam.
Mục lục
Người Ðánh Cá và Công Chúa Thủy Tề
Người Ðánh Cá và Công Chúa Thủy Tề
Cổ Tích Việt NamChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.
Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.sưu tầm: Hoàng Dung Nguồn: maiyeuem.netĐược bạn: Hoàng Dung đưa lên vào ngày: 15 tháng 3 năm 2006
|
Vietnamese fairy tales
The Fisherman and Princess Thuy Ti
Once upon a time, there was a Princess who was the child of the Water King. One day she turned into a fish and swam up the river to travel, but unfortunately got caught in the net of a fishing boat. The princess fish was caught and put under the boat. She had to starve for more than a day because she had nothing to eat. Luckily, the fisherman's son sat down to eat rice cakes, so the Princess fish did not starve to death. Seeing the beautiful fish, the boat owner's son caught it, played with it, then lost his grip and let it fall into the river. Thanks to that, the princess was able to return to the aquarium. But from the day she returned to the palace, the princess began to miss the boy on earth who saved her, and then fell in love. King Thuy Te asked the reason, the princess honestly told the story, then asked her father's permission to disguise herself as a human being on earth to marry the young man. At that time, the boy was in Non Nuoc cave, in Ninh Binh today, after his parents passed away. The boy went fishing every day to survive, one day he met the Princess Thuy Cung, and the two got married. Although the couple lives in poverty, they love each other very much. He and she lived on the isolated island of Non Nuoc, continuing their passionate love affair until one day, she took him together to the Aquarium. In today's folk culture, there is still a saying: Surrounded by human sisters, Between Non Nuoc Island, you and I alone to express the love of the princess of the Nuoc God and the fisherman in Northern Vietnam.
Table of contents
The Fisherman and Princess Thuy Ti
The Fisherman and Princess Thuy Ti
Vietnamese Fairy TalesWelcome to read the first books from the book project for mobile devices. Source: author: Nguyen Kim Vy.
Last words: Thank you for following the entire story. Source: author: Nguyen Kim Vy. collected: Hoang Dung Source: maiyeuem.net Uploaded by friend: Hoang Dung on: March 15, 2006
|
Boris Vian
Người đàn bà bí hiểm
Nguyễn Thái Thanh (dịch)
Một ngày đầu tháng 6 năm 1976, tại một phòng khiêu vũ nọ xuất hiện đôi bạn trẻ Gérard Davout và Michel Girod, cùng 18 tuổi, một là thợ điện tập sự và một là thợ máy làm việc tại một gara. Họ đến đây không phải chỉ để nghe những bản nhạc nhàm tai, nhảy những điệu mòn cũ. Họ đến trước nhất là để tìm bạn gái. Bởi vậy, khi Davout hích khuỷu tay vào người bạn:- Này, chú ý nhìn cô kia một chút xem nào!Girod lập tức ngoảnh lại. Anh đưa mắt về phía tay bạn chỉ, nhưng rồi từ chối ngay:- Thôi đi, mình thấy cô ấy lạ quá! Mình thấy có cái gì đó hơi rờn rợn là khác.Mặc cho người bạn phản bác, Davout vẫn tiến lại gần cô gái.Đúng là cô gái này toát ra một điều gì đó khác lạ, có thể nói là rất bí hiểm. Các ghế xung quanh cô đều vắng vẻ, không ai đến ngồi, thoảng hoặc có người nào bạo dạn tới bên cô ta, thì rồi cũng đến khó chịu bỏ đi ngay.Cô gái độ chừng tuổi Davout, tóc đen, đôi môi tuy có đánh son nhưng vẫn nhợt nhạt như môi người chết. Ngược lại với sắc vẻ vậy, cô ta ăn vận khá sang trọng. Chiếc áo khoác ngoài màu đỏ lộng lẫy cùng chiếc khăn quàng đỏ rực rỡ.Khi Davout đứng trước cô ta thì mắt cô vẫn đang nhìn đi đâu, như hút vào khoảng xa xăm.Davout giở bài "tán tỉnh" quen thuộc:- Chào em! Hình như anh đã từng hân hạnh được gặp em ở đâu đó…Cô gái trẻ giật mình, xoáy mắt nhìn Davout và sôi nổi nói một cách "không bình thường":- Anh đã gặp em rồi à? Anh tin chắc chứ?… Vậy anh có nhớ là ở đâu không?- À, không! Có lẽ anh chưa thể nhớ chính xác ngay lúc này được…- Có phải chúng ta gặp nhau ở chỗ này không?- Cô gái bộp chộp hỏi, mặc chàng trai trẻ lúng túng, ngượng nghịu.- Có lẽ là như vậy…- Đã lâu chưa?- Cô gái hỏi dồn.- Cũng mới thôi.Cô gái trẻ đứng phắt dậy, nói:- Nào, anh cùng nhảy với em đi…Davout rất ngạc nhiên. Quả tình chưa bao giờ anh gặp cô gái nào lại "đổ" nhanh như vậy.Vừa nhảy, cô gái vừa nói với anh những điều dị thường:- Tên em là Monique Dupré. Cái tên ấy có gợi lên trong anh điều gì không?Lại một câu hỏi đột ngột làm Davout lúng túng, nhưng anh không muốn bỏ lỡ một cơ hội tốt. Anh ậm ờ cho qua chuyện:- Không! Nhưng… Monique. Em thật xinh đẹp. Hãy nhớ anh tên là Gérard Davout.Cô gái vẫn tiếp tục mạch khai thác của mình:- Chẳng lẽ anh thật sự không nhớ được điều gì? Anh có hay đọc báo không?- Em được báo chí nhắc đến à? Em làm nghề gì vậy?Cô gái nhìn anh với con mắt soi mói:- Không! Em chỉ ở nhà… Anh thử nhớ lại xem, có phải lần cuối chúng ta gặp nhau là vào ngày 1-5-1974 không?Davout có cảm giác như mình đang bị thẩm vấn. Chỉ có điều, trước nay anh không hề có chuyện gì với ai. Nhưng không muốn gây bực tức cho người bạn gái mới quen biết, anh tặc lưỡi đáp bừa:- Có thể là thế… Em biết đấy… Trước đây…Cuộc vui tiếp tục. Monique càng tỏ ra có cử chỉ, hành động lạ lùng. Thỉnh thoảng cô lại bất ngờ rời tay Davout để đến nhảy với một chàng trai nào đó. Và gặp ai, cô cũng nhắc lại điệp khúc về sự gặp gỡ vào cái ngày 1-5-1974 ấy.Khi chia tay, Davout không quên hỏi thăm địa chỉ cô gái. Cô trả lời cộc lốc:- Số 2, phố Gambetta.Ít phút sau, Davout rủ Girod phóng ôtô tìm đến địa chỉ trên. Chiếc xe dừng lại trước số nhà 2. Girod nhanh nhẹn tiến đến cổng, nhìn nhìn ngắm ngắm rồi bất thần quay lại, phá lên cười:- Này, cô nàng muốn đuổi cậu đấy! Đây là địa chỉ của nghĩa địa. Thật là một trò đùa… Thôi, về đi…Chẳng lẽ cô nàng muốn đùa giễu ta sao? Davout trở về nhà với một tâm trạng bực bội khó tả. Đêm ấy, hình ảnh nghĩa địa và con số 1-5-1974 cứ lẩn quẩn trong tâm trí anh.Bất chợt Davout nảy ra một ý. Để khỏi đánh động mọi người, anh lẹ làng leo lên gác xép. Anh nhớ cha anh có bộ sưu tập các tờ nhật báo và Monique cũng có nhắc đến một tờ báo nào đấy. Davout dọn các đồ vật phủ dầy bụi bặm để tìm chồng báo niên hạn 1974. Anh dùng đèn pin soi giở từng tờ. A, đây rồi. Anh kêu khẽ khi nhìn thấy ảnh cô gái anh gặp khi nãy được in trên trang nhất của một tờ báo ra ngày 2/5/1974.Chợt Davout há to mồm, đôi mắt chòng chọc, hoảng hốt bởi nội dung in ở dưới bức ảnh cô gái, thoạt đầu là dòng tít lớn "Tấn thảm kịch trong cuộc khiêu vũ ngày 1/5/1974" rồi tiếp đến là bài báo tường thuật sự việc: "Tối qua, cô Monique Dupré, 18 tuổi, từ sàn nhảy trở về nhà. Cô gái thông minh, nhan sắc và có giáo dục này đã mặc chiếc áo đỏ đẹp nhất của mình với hy vọng gặp được người tình lý tưởng. Nhưng, than ôi, cô lại phải đón nhận về mình cái chết bi thiết. Người ta tìm thấy xác cô ở ngay phía sau sàn nhảy. Theo giám định, cô bị hung thủ bóp cổ đến chết. Các nhân chứng cho biết trước đấy cô nhảy với một thanh niên cùng tuổi, nhưng nhân dạng hắn ra sao thì không ai tả rõ được vì tất cả đến đây chỉ với mục đích chăm chú vào việc nhảy với các vũ nữ".Vô tình lật giở chồng báo, Davout lại một lần nữa bắt gặp hình ảnh Monique Dupré, nhưng là trên số báo ra ngày 6/5/1974. Mặt cô gái trắng bệch, vô hồn. Dưới bức ảnh là dòng ghi chú "Đám tang của cô gái trẻ Monique Dupré". Tấm ảnh khác in kèm ngay đó cho thấy một dòng người đi sau chiếc xe tang phủ kín các vòng hoa trắng. Chẳng khó khăn gì lắm Davout cũng nhận ra được hình ảnh lối vào cổng nghĩa trang mang con số 2 phố Gambetta, nơi vừa cách đây vài tiếng anh cùng Girod đi qua.Trong đêm tối, Davout sợ hãi lẩm bẩm một mình: "Mình vừa nhảy với một xác chết! Mình vừa nhảy với một xác chết".Ngày 9/6/1976, Davout và Girod rủ nhau trèo qua hàng rào khu nghĩa địa - nơi trước đây họ đã "theo hẹn" lần tới, với quyết tâm làm sáng tỏ một số điều nghi vấn. Nhìn trước, nhìn sau, cuối cùng họ cũng tìm thấy ngôi mộ của Monique. Hình của cô được lồng trong khung kính. Dưới ảnh là hàng chữ mạ vàng: "Monique Dupré, 1956-1974".Cả hai chàng trai như nghẹn thở. Có cái gì tưởng đang thắt lại nơi cổ họng. Girod nắm chặt tay Davout thì thào:- Nhìn xem kìa!Có những bước chân rất rõ đi tới ngôi mộ rồi lại quay ra… và chẳng khó khăn gì mà họ không nhận ra đó là dấu giày cao gót của phụ nữ.Thứ bảy tuần sau, anh trở lại vũ trường, tìm và ngồi đúng vào cái bàn cô gái vẫn ngồi mọi khi. Linh tính mách bảo cho anh biết là thế nào cô gái cũng đến.Thời gian nặng nề trôi qua. Đây kia, Monique vẫn với trang phục như lần đầu anh gặp cô, vẫn chiếc áo màu đỏ, chiếc khăn quàng và đôi môi nhợt nhạt như người đã chết. Nhìn thấy anh, cô gái rẽ sang lối khác, nhưng Davout đã bật dậy nắm lấy tay cô.Monique hất mạnh tay anh, nói gay gắt:- Anh muốn gì ở tôi? Hãy để cho tôi yên…- Rõ ràng là em đã coi thường tôi - Vừa nói, anh vừa giơ tờ báo ngày 2/5/1974 để làm chứng - Cái gì đây? Em không chối cãi chứ?Mặt cô gái trắng bợt. Cô ta im lặng một hồi rồi ấp úng:- Anh… anh là cảnh sát à?- Không!Cô gái nhanh chóng lấy lại vẻ tự nhiên:- Thế thì anh hãy đi đi… Tôi không có gì để nói với anh.Ngay tối hôm đó, cô gái đã bị bắt. Nhưng phải vài ngày sau Davout mới được biết việc này qua các thông tin báo chí…Thì ra, trong một cuộc càn quét bọn buôn lậu, cảnh sát đã bao vây toàn bộ căn phòng nhảy. Tất cả mọi người được giải về đồn, trong đó có Monique.Trong khi khám xét, cảnh sát phát hiện thấy trong túi xách của cô gái có khẩu súng ngắn. Vì cô có gương mặt giống hệt cô gái Monique Dupré đã bị sát hại cách đây hai năm mà cảnh sát chưa tìm ra hung thủ nên cô bị hỏi cung rất ráo riết. Cuối cùng, cô gái trẻ đành phải khai sự thật:- Đây là chị gái tôi - Cô chỉ vào bức ảnh người quá cố.- Còn cô tên gì?- Tôi là Anne Marie Dupré. Chúng tôi là chị em sinh đôi.- Cô đã giữ chiếc áo đỏ này của chị cô?- Vâng!- Và học theo cách ăn vận, cách hóa trang của chị cô, kể cả cách đánh phấn cho da có màu trắng?… Tại sao cô lại dựng lên màn hài kịch này?Anne Marie thổn thức:- Chỉ vì các ông bó tay không tìm ra tên thủ phạm nên tôi mới ra ý định như vậy. Tôi nghĩ rằng kẻ sát hại chị Monique phải quen chị và đã nhảy với chị, như vậy thể nào nó cũng sẽ quay lại đây…Và khi nó nhìn thấy tôi, nó sẽ ngỡ bóng ma nạn nhân của nó trước kia và thế là nó sẽ tự lộ mặt ngay ra… Nhất là khi nó vô tình thốt lên rằng nói đã gặp tôi lần nào đấy… Tôi tin chắc nó là thủ phạm… Đấy là cách tôi tự điều tra mà thôi…- Nếu giả định "phát hiện" ra hung thủ, cô sẽ làm gì nó?- Tôi sẽ giết nó bằng khẩu súng ngắn mà tôi vẫn cất trong xắc.Thật hú vía cho Davout. May mà anh chưa phải trả giá cho trò tán tỉnh bông đùa của mình.Anne Marie Dupré được trả tự do sau khi cảnh sát tịch thu khẩu súng ngắn và nhắc nhở cô về hành động tự phát.Câu chuyện "phục thù" này đã được các báo chí Pháp liên tiếp đăng tải, gây xúc động mạnh trong dư luận. Tình yêu thương của Anne Dupré đối với cô chị sinh đôi của mình quả là rộng lớn, sâu sắc
Mục lục
Người đàn bà bí hiểm
Người đàn bà bí hiểm
Boris VianChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.
Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.Sưu tầm: Mỏ Hà Nội ( Nguyễn Học ) Nguồn: bạn: Thanh Vân đưa lên vào ngày: 16 tháng 12 năm 2009
|
Boris Vian
Người đàn bà bí hiểm
Nguyễn Thái Thanh (dịch)
Một ngày đầu tháng 6 năm 1976, tại một phòng khiêu vũ nọ xuất hiện đôi bạn trẻ Gérard Davout và Michel Girod, cùng 18 tuổi, một là thợ điện tập sự và một là thợ máy làm việc tại một gara. Họ đến đây không phải chỉ để nghe những bản nhạc nhàm tai, nhảy những điệu mòn cũ. Họ đến trước nhất là để tìm bạn gái. Bởi vậy, khi Davout hích khuỷu tay vào người bạn:- Này, chú ý nhìn cô kia một chút xem nào!Girod lập tức ngoảnh lại. Anh đưa mắt về phía tay bạn chỉ, nhưng rồi từ chối ngay:- Thôi đi, mình thấy cô ấy lạ quá! Mình thấy có cái gì đó hơi rờn rợn là khác.Mặc cho người bạn phản bác, Davout vẫn tiến lại gần cô gái.Đúng là cô gái này toát ra một điều gì đó khác lạ, có thể nói là rất bí hiểm. Các ghế xung quanh cô đều vắng vẻ, không ai đến ngồi, thoảng hoặc có người nào bạo dạn tới bên cô ta, thì rồi cũng đến khó chịu bỏ đi ngay.Cô gái độ chừng tuổi Davout, tóc đen, đôi môi tuy có đánh son nhưng vẫn nhợt nhạt như môi người chết. Ngược lại với sắc vẻ vậy, cô ta ăn vận khá sang trọng. Chiếc áo khoác ngoài màu đỏ lộng lẫy cùng chiếc khăn quàng đỏ rực rỡ.Khi Davout đứng trước cô ta thì mắt cô vẫn đang nhìn đi đâu, như hút vào khoảng xa xăm.Davout giở bài "tán tỉnh" quen thuộc:- Chào em! Hình như anh đã từng hân hạnh được gặp em ở đâu đó…Cô gái trẻ giật mình, xoáy mắt nhìn Davout và sôi nổi nói một cách "không bình thường":- Anh đã gặp em rồi à? Anh tin chắc chứ?… Vậy anh có nhớ là ở đâu không?- À, không! Có lẽ anh chưa thể nhớ chính xác ngay lúc này được…- Có phải chúng ta gặp nhau ở chỗ này không?- Cô gái bộp chộp hỏi, mặc chàng trai trẻ lúng túng, ngượng nghịu.- Có lẽ là như vậy…- Đã lâu chưa?- Cô gái hỏi dồn.- Cũng mới thôi.Cô gái trẻ đứng phắt dậy, nói:- Nào, anh cùng nhảy với em đi…Davout rất ngạc nhiên. Quả tình chưa bao giờ anh gặp cô gái nào lại "đổ" nhanh như vậy.Vừa nhảy, cô gái vừa nói với anh những điều dị thường:- Tên em là Monique Dupré. Cái tên ấy có gợi lên trong anh điều gì không?Lại một câu hỏi đột ngột làm Davout lúng túng, nhưng anh không muốn bỏ lỡ một cơ hội tốt. Anh ậm ờ cho qua chuyện:- Không! Nhưng… Monique. Em thật xinh đẹp. Hãy nhớ anh tên là Gérard Davout.Cô gái vẫn tiếp tục mạch khai thác của mình:- Chẳng lẽ anh thật sự không nhớ được điều gì? Anh có hay đọc báo không?- Em được báo chí nhắc đến à? Em làm nghề gì vậy?Cô gái nhìn anh với con mắt soi mói:- Không! Em chỉ ở nhà… Anh thử nhớ lại xem, có phải lần cuối chúng ta gặp nhau là vào ngày 1-5-1974 không?Davout có cảm giác như mình đang bị thẩm vấn. Chỉ có điều, trước nay anh không hề có chuyện gì với ai. Nhưng không muốn gây bực tức cho người bạn gái mới quen biết, anh tặc lưỡi đáp bừa:- Có thể là thế… Em biết đấy… Trước đây…Cuộc vui tiếp tục. Monique càng tỏ ra có cử chỉ, hành động lạ lùng. Thỉnh thoảng cô lại bất ngờ rời tay Davout để đến nhảy với một chàng trai nào đó. Và gặp ai, cô cũng nhắc lại điệp khúc về sự gặp gỡ vào cái ngày 1-5-1974 ấy.Khi chia tay, Davout không quên hỏi thăm địa chỉ cô gái. Cô trả lời cộc lốc:- Số 2, phố Gambetta.Ít phút sau, Davout rủ Girod phóng ôtô tìm đến địa chỉ trên. Chiếc xe dừng lại trước số nhà 2. Girod nhanh nhẹn tiến đến cổng, nhìn nhìn ngắm ngắm rồi bất thần quay lại, phá lên cười:- Này, cô nàng muốn đuổi cậu đấy! Đây là địa chỉ của nghĩa địa. Thật là một trò đùa… Thôi, về đi…Chẳng lẽ cô nàng muốn đùa giễu ta sao? Davout trở về nhà với một tâm trạng bực bội khó tả. Đêm ấy, hình ảnh nghĩa địa và con số 1-5-1974 cứ lẩn quẩn trong tâm trí anh.Bất chợt Davout nảy ra một ý. Để khỏi đánh động mọi người, anh lẹ làng leo lên gác xép. Anh nhớ cha anh có bộ sưu tập các tờ nhật báo và Monique cũng có nhắc đến một tờ báo nào đấy. Davout dọn các đồ vật phủ dầy bụi bặm để tìm chồng báo niên hạn 1974. Anh dùng đèn pin soi giở từng tờ. A, đây rồi. Anh kêu khẽ khi nhìn thấy ảnh cô gái anh gặp khi nãy được in trên trang nhất của một tờ báo ra ngày 2/5/1974.Chợt Davout há to mồm, đôi mắt chòng chọc, hoảng hốt bởi nội dung in ở dưới bức ảnh cô gái, thoạt đầu là dòng tít lớn "Tấn thảm kịch trong cuộc khiêu vũ ngày 1/5/1974" rồi tiếp đến là bài báo tường thuật sự việc: "Tối qua, cô Monique Dupré, 18 tuổi, từ sàn nhảy trở về nhà. Cô gái thông minh, nhan sắc và có giáo dục này đã mặc chiếc áo đỏ đẹp nhất của mình với hy vọng gặp được người tình lý tưởng. Nhưng, than ôi, cô lại phải đón nhận về mình cái chết bi thiết. Người ta tìm thấy xác cô ở ngay phía sau sàn nhảy. Theo giám định, cô bị hung thủ bóp cổ đến chết. Các nhân chứng cho biết trước đấy cô nhảy với một thanh niên cùng tuổi, nhưng nhân dạng hắn ra sao thì không ai tả rõ được vì tất cả đến đây chỉ với mục đích chăm chú vào việc nhảy với các vũ nữ".Vô tình lật giở chồng báo, Davout lại một lần nữa bắt gặp hình ảnh Monique Dupré, nhưng là trên số báo ra ngày 6/5/1974. Mặt cô gái trắng bệch, vô hồn. Dưới bức ảnh là dòng ghi chú "Đám tang của cô gái trẻ Monique Dupré". Tấm ảnh khác in kèm ngay đó cho thấy một dòng người đi sau chiếc xe tang phủ kín các vòng hoa trắng. Chẳng khó khăn gì lắm Davout cũng nhận ra được hình ảnh lối vào cổng nghĩa trang mang con số 2 phố Gambetta, nơi vừa cách đây vài tiếng anh cùng Girod đi qua.Trong đêm tối, Davout sợ hãi lẩm bẩm một mình: "Mình vừa nhảy với một xác chết! Mình vừa nhảy với một xác chết".Ngày 9/6/1976, Davout và Girod rủ nhau trèo qua hàng rào khu nghĩa địa - nơi trước đây họ đã "theo hẹn" lần tới, với quyết tâm làm sáng tỏ một số điều nghi vấn. Nhìn trước, nhìn sau, cuối cùng họ cũng tìm thấy ngôi mộ của Monique. Hình của cô được lồng trong khung kính. Dưới ảnh là hàng chữ mạ vàng: "Monique Dupré, 1956-1974".Cả hai chàng trai như nghẹn thở. Có cái gì tưởng đang thắt lại nơi cổ họng. Girod nắm chặt tay Davout thì thào:- Nhìn xem kìa!Có những bước chân rất rõ đi tới ngôi mộ rồi lại quay ra… và chẳng khó khăn gì mà họ không nhận ra đó là dấu giày cao gót của phụ nữ.Thứ bảy tuần sau, anh trở lại vũ trường, tìm và ngồi đúng vào cái bàn cô gái vẫn ngồi mọi khi. Linh tính mách bảo cho anh biết là thế nào cô gái cũng đến.Thời gian nặng nề trôi qua. Đây kia, Monique vẫn với trang phục như lần đầu anh gặp cô, vẫn chiếc áo màu đỏ, chiếc khăn quàng và đôi môi nhợt nhạt như người đã chết. Nhìn thấy anh, cô gái rẽ sang lối khác, nhưng Davout đã bật dậy nắm lấy tay cô.Monique hất mạnh tay anh, nói gay gắt:- Anh muốn gì ở tôi? Hãy để cho tôi yên…- Rõ ràng là em đã coi thường tôi - Vừa nói, anh vừa giơ tờ báo ngày 2/5/1974 để làm chứng - Cái gì đây? Em không chối cãi chứ?Mặt cô gái trắng bợt. Cô ta im lặng một hồi rồi ấp úng:- Anh… anh là cảnh sát à?- Không!Cô gái nhanh chóng lấy lại vẻ tự nhiên:- Thế thì anh hãy đi đi… Tôi không có gì để nói với anh.Ngay tối hôm đó, cô gái đã bị bắt. Nhưng phải vài ngày sau Davout mới được biết việc này qua các thông tin báo chí…Thì ra, trong một cuộc càn quét bọn buôn lậu, cảnh sát đã bao vây toàn bộ căn phòng nhảy. Tất cả mọi người được giải về đồn, trong đó có Monique.Trong khi khám xét, cảnh sát phát hiện thấy trong túi xách của cô gái có khẩu súng ngắn. Vì cô có gương mặt giống hệt cô gái Monique Dupré đã bị sát hại cách đây hai năm mà cảnh sát chưa tìm ra hung thủ nên cô bị hỏi cung rất ráo riết. Cuối cùng, cô gái trẻ đành phải khai sự thật:- Đây là chị gái tôi - Cô chỉ vào bức ảnh người quá cố.- Còn cô tên gì?- Tôi là Anne Marie Dupré. Chúng tôi là chị em sinh đôi.- Cô đã giữ chiếc áo đỏ này của chị cô?- Vâng!- Và học theo cách ăn vận, cách hóa trang của chị cô, kể cả cách đánh phấn cho da có màu trắng?… Tại sao cô lại dựng lên màn hài kịch này?Anne Marie thổn thức:- Chỉ vì các ông bó tay không tìm ra tên thủ phạm nên tôi mới ra ý định như vậy. Tôi nghĩ rằng kẻ sát hại chị Monique phải quen chị và đã nhảy với chị, như vậy thể nào nó cũng sẽ quay lại đây…Và khi nó nhìn thấy tôi, nó sẽ ngỡ bóng ma nạn nhân của nó trước kia và thế là nó sẽ tự lộ mặt ngay ra… Nhất là khi nó vô tình thốt lên rằng nói đã gặp tôi lần nào đấy… Tôi tin chắc nó là thủ phạm… Đấy là cách tôi tự điều tra mà thôi…- Nếu giả định "phát hiện" ra hung thủ, cô sẽ làm gì nó?- Tôi sẽ giết nó bằng khẩu súng ngắn mà tôi vẫn cất trong xắc.Thật hú vía cho Davout. May mà anh chưa phải trả giá cho trò tán tỉnh bông đùa của mình.Anne Marie Dupré được trả tự do sau khi cảnh sát tịch thu khẩu súng ngắn và nhắc nhở cô về hành động tự phát.Câu chuyện "phục thù" này đã được các báo chí Pháp liên tiếp đăng tải, gây xúc động mạnh trong dư luận. Tình yêu thương của Anne Dupré đối với cô chị sinh đôi của mình quả là rộng lớn, sâu sắc
Mục lục
Người đàn bà bí hiểm
Người đàn bà bí hiểm
Boris VianChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.
Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.Sưu tầm: Mỏ Hà Nội ( Nguyễn Học ) Nguồn: bạn: Thanh Vân đưa lên vào ngày: 16 tháng 12 năm 2009
|
Trần thị Ngọc Hiền
Người đàn bà trong gương
Sáng nay chị dậy muộn hơn mọi ngày. Tối qua chồng chị lại không về. Ngoài vườn cây cối ủ rũ vì rét. Mấy hôm trước lũ chim hót ríu rít, vậy mà hôm nay chị không nhìn thấy con nào. “Chắc hôm nay chủ nhật chúng chưa ngủ dậy!". Chị bật cười vì ý nghĩ ngồ ngộ của mình.Chị bước tới bàn trang điểm. Người đàn bà trong gương làm chị giật mình. Người ấy lên tiếng:- Chào bạn! Sao hôm nay nhìn bạn hốc hác thế?- Tối qua mình mất ngủ.- Thức đêm là kẻ thù của sắc đẹp phụ nữ đấy.- Mình biết, nhưng mình không thể chợp mắt được. Mình không muốn uống seduxen.- Sao bạn không ngủ được?Người đàn bà trong gương tò mò hỏi. Chị còn đang phân vân, người ấy đã lên tiếng: - Đừng ngại. Tôi có thể chia sẻ và giữ bí mật cùng bạn. Bạn có biết rằng từ lâu tôi đã rất yêu quý bạn không?Chị nhìn người đàn bà trong gương ngờ vực. Cuộc đời đã dạy cho chị biết cách không tin tưởng. Khuôn mặt vừa quen vừa lạ trong gương nhìn chị đăm đăm. Cũng đôi mắt với hàng mi dài, cong vút, chiếc mũi thanh thoát và đôi môi có khóe miệng hơi vếch lên như đang cười… nhưng tất cả những đường nét ấy đều vô hồn, rời rạc. Chị im lặng. Người đàn bà trong gương cũng không nói gì. Chỉ có gió ngoài vườn lao xao.Chị với chiếc lược chải đầu. Người ta đua nhau đi nhuộm tóc, làm đầu theo mốt Hàn Quốc, chị vẫn giữ nguyên mái tóc đen, dài. Mấy năm trước, mái tóc là niềm tự hào của chị. Chồng chị chê mái tóc quê mùa. Chị cũng đâm ra ghét nó.Chị rời khỏi gương. Chăn màn của chị xộc xệch, nhàu nhĩ. Chị chỉ ngủ một mình. Vậy mà có lần vắng nhà chị đã nghi ngờ chồng chị không chung thủy.Chị khe khẽ hát. Tâm trạng chị đã vơi đi phần nào. Chị dọn dẹp nhà cửa, giặt giũ chăn màn… Làm việc gì chị cũng nghĩ đến chồng, hy vọng khi về anh sẽ rất vui. Chị đi chợ, nấu những món ăn ưa thích. Chị không bao giờ ăn thịt chim bồ câu, chị không chịu nổi khi nhìn vào mắt chúng. ánh mắt hiền dịu, tội nghiệp như van xin của bồ câu khi bị giết làm cho những người có lòng trắc ẩn nao lòng. Nhưng vì chồng, chị sẵn sàng làm tất cả. Trưa nay, chị đã nhắm mắt lại khi bóp mũi chết ba con chim bồ câu. Chị cố gắng nghĩ đến gương mặt thỏa mãn của chồng khi ăn. Đồng hồ điểm mười hai giờ. Chồng chị vẫn chưa về. Chị ngồi bên mâm cơm đã dần nguội.Chị đứng dậy, đi đi lại lại trong phòng. Người đàn bà trong gương nhìn chị. Người đó không còn vẻ tiều tụy như ban sáng, thay vào đó là khuôn mặt đã được trang điểm, ưa nhìn, duy chỉ có đôi mắt màu tuyệt vọng. Trưa nay, chồng chị lại không về. Chị không gọi điện vì đã quen với hoàn cảnh. Ngày trước, chị cũng đã từng lồng lộn, điên cuồng gọi điện cho chồng, đi tìm anh khắp nơi, nhưng anh lạnh lùng bảo chị không phải làm như vậy, khi nào thích anh sẽ về. Ngày không về, đêm anh cũng không về. Hồi mới cưới, một tuần anh chỉ một ngày hoặc một đêm không về; dần dần con số ấy tăng lên tỷ lệ nghịch với tình cảm. Dường như chồng chị không còn yêu chị; anh đã có người đàn bà khác, nhưng vẫn không muốn mất chị. Trong tình yêu, đàn ông đa tình nhưng không chung tình, đàn bà chung tình nhưng tuyệt tình. Chị cảm thấy khó có thể yêu người khác. Chị quá yêu chồng. Tình yêu không được đền đáp, chị uống thuốc ngủ để tìm đến cái chết, đúng hôm đó chồng chị về, kịp đưa chị vào viện.Sau cái chết không thành, chị trầm lặng hơn. Chị cố gắng sống với hoàn cảnh thực tại của mình. Chị không muốn chia tay, chồng chị cũng vậy. Cả hai đều muốn giữ vỏ gia đình hạnh phúc, không muốn những người thân của mình đau khổ. Bố mẹ chị và anh đều đã già. Chị sẵn sàng hy sinh bản thân vì hai chữ Bình An của hai gia đình. Chị tự an ủi mình rằng nhiều người phụ nữ khác còn khổ hơn chị, người nai lưng kiếm tiền, người bị chồng đánh đập, người mắc bệnh hiểm nghèo… Người ta cứ mãi đấu tranh cho việc nam nữ bình quyền, song chị nghĩ ở thời nào cũng vậy, phụ nữ đều phải chịu thiệt thòi, hy sinh. Cũng như họ, lâu ngày chị sống quen trong cái khổ nên không biết mình khổ.- Thôi đi ăn cơm đi. Muộn rồi, anh ấy không về đâu.Người đàn bà trong gương lên tiếng làm chị giật mình.- Mình không thấy đói.- Nhưng vì sắc đẹp và đảm bảo sức khỏe, bạn phải ăn. Đấy là hai điều quý giá nhất của người phụ nữ. Bạn không nên vì một người đàn ông mà hủy hoại mình. Bạn sẽ sống như thế này đến bao giờ?- Mình không biết, nhưng mình chịu đựng được.- Thật vớ vẩn. Người phụ nữ như bạn đáng ra phải được hưởng hạnh phúc, đằng này bạn sống mà như không, bạn đang chết dần đấy. Hãy tỉnh táo lên đi Hoài ơi. Bạn có thể chịu đựng được năm năm, mười năm, thậm chí lâu hơn, nhưng chắc rằng bạn không thể sống một đời như vậy. Bạn hãy chia tay và làm lại từ đầu trong khi bạn đang có cơ hội. Bạn còn trẻ, còn sắc đẹp…- Không, mình không thể.- Tùy bạn. Tôi không còn gì để nói với bạn nữa.Nói rồi người đàn bà trong gương biến mất. Đã ba năm nay, kể từ ngày lấy chồng, chị luôn phải sống những tháng ngày buồn tẻ, chị nhiều lần độc thoại với chính mình mà chưa tìm thấy lối thoát. Nhiều đêm không ngủ được, kể cả những đêm có chồng hoặc vắng chồng, chị đi lang thang trong vườn, ngồi bên cạnh bờ ao cho tới sáng. Chồng chị không hề tỉnh dậy đi tìm chị.Chị đã nhiều lần đối diện với cô đơn, nhưng lần này đây chị thấy cô độc lên đến đỉnh điểm. Chị biết rằng, những khi đối diện với chính mình, độc thoại với bản thân là khi buồn bã nhất, cô quạnh nhất như nàng Kiều ở lầu Ngưng Bích. soi vào mình, cảm nhận được sự cô đơn cùng cực, dự cảm những ngày kế tiếp đầy giông tố. Những lời của người đàn bà trong gương lại vang lên trong đầu chị. Đây không phải lần đầu tiên người đó nói như vậy với chị. Chị không nhận ra trời đã tối từ khi nào. Lúc này chị mới cảm thấy đói. Nhìn mâm cơm chị bật khóc. Chị không hiểu mình khóc cho mấy con chim xấu số kia hay khóc cho bản thân chị? Lâu lắm rồi chị mới lại có cảm giác ấy.Nửa đêm chồng chị về. Khác với mọi ngày, chị không dậy mở cửa. Anh có chìa khóa riêng nên tự mở cửa vào nhà. Chị vẫn nằm im, giả vờ như ngủ say. Chồng chị thay quần áo và quẳng lên ghế. Anh lên giường, ngó qua chị rồi nằm xuống bên cạnh. Một lát sau, anh đã chìm vào giấc ngủ vô tâm.Ánh ban mai chiếu qua khe cửa báo hiệu một ngày đẹp trời. Chị rón rén bước qua người anh, với tay khoác chiếc áo choàng lên người. Chị bước ra vườn. Trời xanh ngát. Một quả hồng rơi ngay sát chân chị. Chị nhặt lên ngắm nhìn. Vỏ của nó màu chín vàng, ngon ơi là ngon. Nhưng biết đâu đấy, bên trong nó lại chát đắng, cũng như cuộc sống của vợ chồng chị. Chị nắm chặt, vung tay ném trái hồng ra xa…
Mục lục
Người đàn bà trong gương
Người đàn bà trong gương
Trần thị Ngọc HiềnChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.
Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: Ngôi saoĐược bạn: Ct.Ly đưa lên vào ngày: 30 tháng 3 năm 2005
|
Trần thị Ngọc Hiền
Người đàn bà trong gương
Sáng nay chị dậy muộn hơn mọi ngày. Tối qua chồng chị lại không về. Ngoài vườn cây cối ủ rũ vì rét. Mấy hôm trước lũ chim hót ríu rít, vậy mà hôm nay chị không nhìn thấy con nào. “Chắc hôm nay chủ nhật chúng chưa ngủ dậy!". Chị bật cười vì ý nghĩ ngồ ngộ của mình.Chị bước tới bàn trang điểm. Người đàn bà trong gương làm chị giật mình. Người ấy lên tiếng:- Chào bạn! Sao hôm nay nhìn bạn hốc hác thế?- Tối qua mình mất ngủ.- Thức đêm là kẻ thù của sắc đẹp phụ nữ đấy.- Mình biết, nhưng mình không thể chợp mắt được. Mình không muốn uống seduxen.- Sao bạn không ngủ được?Người đàn bà trong gương tò mò hỏi. Chị còn đang phân vân, người ấy đã lên tiếng: - Đừng ngại. Tôi có thể chia sẻ và giữ bí mật cùng bạn. Bạn có biết rằng từ lâu tôi đã rất yêu quý bạn không?Chị nhìn người đàn bà trong gương ngờ vực. Cuộc đời đã dạy cho chị biết cách không tin tưởng. Khuôn mặt vừa quen vừa lạ trong gương nhìn chị đăm đăm. Cũng đôi mắt với hàng mi dài, cong vút, chiếc mũi thanh thoát và đôi môi có khóe miệng hơi vếch lên như đang cười… nhưng tất cả những đường nét ấy đều vô hồn, rời rạc. Chị im lặng. Người đàn bà trong gương cũng không nói gì. Chỉ có gió ngoài vườn lao xao.Chị với chiếc lược chải đầu. Người ta đua nhau đi nhuộm tóc, làm đầu theo mốt Hàn Quốc, chị vẫn giữ nguyên mái tóc đen, dài. Mấy năm trước, mái tóc là niềm tự hào của chị. Chồng chị chê mái tóc quê mùa. Chị cũng đâm ra ghét nó.Chị rời khỏi gương. Chăn màn của chị xộc xệch, nhàu nhĩ. Chị chỉ ngủ một mình. Vậy mà có lần vắng nhà chị đã nghi ngờ chồng chị không chung thủy.Chị khe khẽ hát. Tâm trạng chị đã vơi đi phần nào. Chị dọn dẹp nhà cửa, giặt giũ chăn màn… Làm việc gì chị cũng nghĩ đến chồng, hy vọng khi về anh sẽ rất vui. Chị đi chợ, nấu những món ăn ưa thích. Chị không bao giờ ăn thịt chim bồ câu, chị không chịu nổi khi nhìn vào mắt chúng. ánh mắt hiền dịu, tội nghiệp như van xin của bồ câu khi bị giết làm cho những người có lòng trắc ẩn nao lòng. Nhưng vì chồng, chị sẵn sàng làm tất cả. Trưa nay, chị đã nhắm mắt lại khi bóp mũi chết ba con chim bồ câu. Chị cố gắng nghĩ đến gương mặt thỏa mãn của chồng khi ăn. Đồng hồ điểm mười hai giờ. Chồng chị vẫn chưa về. Chị ngồi bên mâm cơm đã dần nguội.Chị đứng dậy, đi đi lại lại trong phòng. Người đàn bà trong gương nhìn chị. Người đó không còn vẻ tiều tụy như ban sáng, thay vào đó là khuôn mặt đã được trang điểm, ưa nhìn, duy chỉ có đôi mắt màu tuyệt vọng. Trưa nay, chồng chị lại không về. Chị không gọi điện vì đã quen với hoàn cảnh. Ngày trước, chị cũng đã từng lồng lộn, điên cuồng gọi điện cho chồng, đi tìm anh khắp nơi, nhưng anh lạnh lùng bảo chị không phải làm như vậy, khi nào thích anh sẽ về. Ngày không về, đêm anh cũng không về. Hồi mới cưới, một tuần anh chỉ một ngày hoặc một đêm không về; dần dần con số ấy tăng lên tỷ lệ nghịch với tình cảm. Dường như chồng chị không còn yêu chị; anh đã có người đàn bà khác, nhưng vẫn không muốn mất chị. Trong tình yêu, đàn ông đa tình nhưng không chung tình, đàn bà chung tình nhưng tuyệt tình. Chị cảm thấy khó có thể yêu người khác. Chị quá yêu chồng. Tình yêu không được đền đáp, chị uống thuốc ngủ để tìm đến cái chết, đúng hôm đó chồng chị về, kịp đưa chị vào viện.Sau cái chết không thành, chị trầm lặng hơn. Chị cố gắng sống với hoàn cảnh thực tại của mình. Chị không muốn chia tay, chồng chị cũng vậy. Cả hai đều muốn giữ vỏ gia đình hạnh phúc, không muốn những người thân của mình đau khổ. Bố mẹ chị và anh đều đã già. Chị sẵn sàng hy sinh bản thân vì hai chữ Bình An của hai gia đình. Chị tự an ủi mình rằng nhiều người phụ nữ khác còn khổ hơn chị, người nai lưng kiếm tiền, người bị chồng đánh đập, người mắc bệnh hiểm nghèo… Người ta cứ mãi đấu tranh cho việc nam nữ bình quyền, song chị nghĩ ở thời nào cũng vậy, phụ nữ đều phải chịu thiệt thòi, hy sinh. Cũng như họ, lâu ngày chị sống quen trong cái khổ nên không biết mình khổ.- Thôi đi ăn cơm đi. Muộn rồi, anh ấy không về đâu.Người đàn bà trong gương lên tiếng làm chị giật mình.- Mình không thấy đói.- Nhưng vì sắc đẹp và đảm bảo sức khỏe, bạn phải ăn. Đấy là hai điều quý giá nhất của người phụ nữ. Bạn không nên vì một người đàn ông mà hủy hoại mình. Bạn sẽ sống như thế này đến bao giờ?- Mình không biết, nhưng mình chịu đựng được.- Thật vớ vẩn. Người phụ nữ như bạn đáng ra phải được hưởng hạnh phúc, đằng này bạn sống mà như không, bạn đang chết dần đấy. Hãy tỉnh táo lên đi Hoài ơi. Bạn có thể chịu đựng được năm năm, mười năm, thậm chí lâu hơn, nhưng chắc rằng bạn không thể sống một đời như vậy. Bạn hãy chia tay và làm lại từ đầu trong khi bạn đang có cơ hội. Bạn còn trẻ, còn sắc đẹp…- Không, mình không thể.- Tùy bạn. Tôi không còn gì để nói với bạn nữa.Nói rồi người đàn bà trong gương biến mất. Đã ba năm nay, kể từ ngày lấy chồng, chị luôn phải sống những tháng ngày buồn tẻ, chị nhiều lần độc thoại với chính mình mà chưa tìm thấy lối thoát. Nhiều đêm không ngủ được, kể cả những đêm có chồng hoặc vắng chồng, chị đi lang thang trong vườn, ngồi bên cạnh bờ ao cho tới sáng. Chồng chị không hề tỉnh dậy đi tìm chị.Chị đã nhiều lần đối diện với cô đơn, nhưng lần này đây chị thấy cô độc lên đến đỉnh điểm. Chị biết rằng, những khi đối diện với chính mình, độc thoại với bản thân là khi buồn bã nhất, cô quạnh nhất như nàng Kiều ở lầu Ngưng Bích. soi vào mình, cảm nhận được sự cô đơn cùng cực, dự cảm những ngày kế tiếp đầy giông tố. Những lời của người đàn bà trong gương lại vang lên trong đầu chị. Đây không phải lần đầu tiên người đó nói như vậy với chị. Chị không nhận ra trời đã tối từ khi nào. Lúc này chị mới cảm thấy đói. Nhìn mâm cơm chị bật khóc. Chị không hiểu mình khóc cho mấy con chim xấu số kia hay khóc cho bản thân chị? Lâu lắm rồi chị mới lại có cảm giác ấy.Nửa đêm chồng chị về. Khác với mọi ngày, chị không dậy mở cửa. Anh có chìa khóa riêng nên tự mở cửa vào nhà. Chị vẫn nằm im, giả vờ như ngủ say. Chồng chị thay quần áo và quẳng lên ghế. Anh lên giường, ngó qua chị rồi nằm xuống bên cạnh. Một lát sau, anh đã chìm vào giấc ngủ vô tâm.Ánh ban mai chiếu qua khe cửa báo hiệu một ngày đẹp trời. Chị rón rén bước qua người anh, với tay khoác chiếc áo choàng lên người. Chị bước ra vườn. Trời xanh ngát. Một quả hồng rơi ngay sát chân chị. Chị nhặt lên ngắm nhìn. Vỏ của nó màu chín vàng, ngon ơi là ngon. Nhưng biết đâu đấy, bên trong nó lại chát đắng, cũng như cuộc sống của vợ chồng chị. Chị nắm chặt, vung tay ném trái hồng ra xa…
Mục lục
Người đàn bà trong gương
Người đàn bà trong gương
Trần thị Ngọc HiềnChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.
Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: Ngôi saoĐược bạn: Ct.Ly đưa lên vào ngày: 30 tháng 3 năm 2005
|
Amrita Pritan
Người đàn bà và cốc rượu vang
Chuyển ngữ: Saohom42
Truyện dịch: Ấn Độ
Một người đàn bà xinh đẹp biết bao - Tôi thốt lên. - Nàng như một chiếc cốc lớn đựng đầy rượu vang . Thưa bà, bà vừa nói gì vậy?- Một người lên tiếng hỏi tôi. Tôi nhận ra đó là giọng của người họa sĩ đang đứng ở phía sau. Tôi đưa mắt nhìn ông và cảm thấy ông giống một thầy pháp vời bộ râu bạc phơ. Ông vận chiếc áo vét dài, đầu đội chiếc mũ bằng nhung, nhỏ theo khiểu Hi Lạp trông khá ngộ nghĩnh. Khuôn mặt ông gày gò, hai má hóp lại, trán hằn những nềp nhăn và chiếc mũ to ngồ ngộ luôn giật giật. Những bức tranh của ông trưng bầy trong phòng triển lãm dường như đang tóat lên hương vị ngào ngạt của mùui gỗ thông, mùi lá xanh non và mùi cỏ tươi. - Thưa bà, bà đã nói về bức tranh kia? - Ông vừa nhắc lại vừa chỉ tay lên bức tranh - Ông đã nghe... - tôi bối rối - Vâng, thưa bà. Một nụ cười thóang hiện trên khuôn mặt đột nhiên làm ánh mắt ông vụt sáng, trẻ trung. - Bà đã gợi ý cho tôi về tên gọi của bức tranh: "Người đàn bà và cốc rượu vang". Tôi sẽ gọi tên bức tranh của tôi như vậy. Rồi ông kể cho tôi nghe câu chuyện sau: ... Chuyện này xẩy ra đã ba mươi năm về trước. Thời gian đó tôi lang thang trên miền núi Cangra để nghiên cứu các sáng tác dân gian và các bức tranh của thế kỉ mười tám. Trường phái hội họa của Cangra và trở nên nổi tiếng bởi vẻ tinh xảo của màu sắc và đường nét. Sự phong phú của đường nét được tóat lên trong từng chi tiết nhỏ nhất. Các nghệ sĩ Cangra đã thể hiện tuyệt diệu các bức tranh phong cảnh: tươi đẹp, rực rỡ và gây ấn tượng mạnh. Tình cờ một lần tôi nhìn thấy nàng Tu Nhi trên đồi trồng chè. - Nàng tên là Tu Nhi, thưa ông? - Tôi không hỏi tên nàng. Tôi thầm gọi nàng là Tu Nhi. Nàng làm việc trên đồi chè và thường đeo một chiếc giỏ trên lưng Vừa hái chè, nàng vừa hát với các bạn gái các ca khúc dài dài lúc thì vui tươi, lúc bi ai buồn bã. Trên ngọn mỗi bụi chè thường có một búp lá và một nụ hoa, phía dưới thấp mọc chen chúc các lá dày, thô hơn. Mỗi bụi chè thường chỉ có duy nhất một búp, một nụ và lọai chè được chế biến từ búp là đó thuộc lọai hảo hạng. Tôi bảo nàng rằng nàng giồng một nụ chè. Nàng bật cười vui vẻ. Tôi liền đặt giá vẽ, lấy thuốc màu và bắt đầu vẽ chân dung nàng. Người phụ nữ Cangga luôn luôn mang theo giỏ trên lưng. Trong giỏ đó chứa đầy lá chè hoặc đựng trẻ nhỏ. Một lần, trong khi làm phác thảo, tôi nói với Tu Nhi về hai lọai giỏ đó. - Còn có một thứ khác nặng nề hơn thế nữa - nỗi đau buồn, thưa ông, - nàng thốt lên, chợt tỏ ra bối rối bỏ đi. Đã đến thời hạn phải trở về, song tôi chưa thể ra đi được: bắt đầu mùa mưa bão. Những đám mây xám nặng trịch bao phủ bầu trời, mang theo những cơn mưa dữ dội. Đường xá bị xói lở. Tôi đành phải chờ. Một tuần sau trời quang đãng dần, nước rút đi, mặt trời rạng chiếu song không gian vẫn còn đọng mùi ẩm ướt của rừng cây. Trên đường từ giã miền quê, tôi gặp Tu Nhi đi từ trên núi xuống theo con đường mòn. Nàng chào từ biệt tôi, đọan hỏi: - Ông rời bỏ chúng em ư? - Vâng, tôi phải ra đi. Công việc đã xong rồi cô ạ. Mưa ghê quá! Tôi cứ tưởng rằng nó sẽ không bao giờ chấm dứt. Nàng chỉ tay lên những bức tranh sơn dầu của tôi hỏi: - Ông sẽ bán những bức vẽ này chứ? - Vâng thưa cô. Một trong những bức họa đó là chân dung Tu Nhi. - Ông bán cho ai cơ? - Cho người nào muốn mua. Nàng vừa nhìn tôi vừa đắn đo điều gì đó, lặng im một chút rồi lên tiếng: - Cũng giống như các cô gái ở làng quê này. Họ cũng bị bán cho bất kì ai có tiền mua. - Chẳng lẽ người ta lại đem bán các cô gái ư? - Đúng như vậy đấy ạ. Hơn nữa còn rẻ, rẻ hơn những bức tranh của ông. - Lại thế nữa kia? = Những kẻ cho vay nặng lãi mua tất cả các thiếu nữ. Mấy năm trước cha em vay của một tay giàu có trong làng một số tiền nhỏ nhưng với số phần trăm lãi khá lớn. Em lớn lên thì số nợ cũng lớn lên theo. Bây giờ tổng số tiền lên tới 600 rupi. Trả được món nợ đó vô cùng khó khăn. Phải mất nhiều năm tháng cũng chưa chắc đã dành dụm nổi. - Tất cả phụ nữ ở đồn điền này đều phải làm việc để trả nợ ư? - Không phải tât cả, nhưng phần lớn đều như thế ! Người chủ đồn điền thu những nụ chè tốt nhất cho bản thân và để biếu các quan. Hắn cũng làm như vậy đối với các cô gái. Bọn chúng chiếm đọat chị em như hái các lá chè. Kẻ cho cha em vay lãi là một tên đê tiện, một tên điền chủ chân vòng kiềng. Hắn đi tập tễnh giống một con bò đực già. Có một lần em trêu chọc hắn. Em hát một bài mà các bạn gái em đặt ra về một người đi chân vòng kiềng. Thế là sang tuần sau, hắn đòi cha em phải gả em cho hắn thì hắn mới xóa nợ cho. - Nhưng tại sao cô phải lấy hắn? - Còn làm thế nào khác được? Em phải lấy hắn thì cha em mới thóat nợ. Tôi nhìn lê bức tranh vẽ nàng. Đối với nàng, bức tranh ấy quả là sự hiện thân sống động nhất. Nàng đó, trầm buồn trên tấm vải vẽ sẽ được lồng trong khung và bán cho một gã nhà giàu, Hệt như trong cuộc đời thực. - Thế nếu như tôi giải thóat cô khỏi món nợ đó? - tôi hỏi nàng - Sao kia ạ? - Tôi trả hắn món nợ và sẽ nói với cha cô hủy bỏ lễ đính hôn. Tôi liền hõan chuyến đi và ngay ngày hôm sau đến nhà nàng nói với cha nàng quyết định của mình. Ông gìa không thể nào tin tôi được. - Tại sao ông lại trả nợ hộ tôi?- ông lão hỏi. Ông muốn mua con gái tôi phải không? Mua và bán - đấy là biện pháp duy nhất ở Canga người ta sử dụng để nhìn nhận tình yêu, khát vọng và những ước mơ của các thiếu nữ. - Không, tôi chẳng mua gì cả. - tôi nói rồi bỏ đi Buổi tối hôm ấy Tu Nhi tìm đến gặp tôi. - Thưa ông, sao ông không muốn mang em theo? - nàng hỏi. - Chẳng lẽ em xấu hơn bức tranh ông vẽ ư? Đôi mắt nàng đẫm lệ. Nàng tỏ vẻ lo lắng và sợ hãi như một con thú nhỏ. Sợ hãi điều gì thì nàng cũng chưa rõ song nỗi nguy hiểm hình như ẩn nấp đâu đó, cạnh nàng. Trong cuộc đời mình, tôi đã gặp khá nhiều phụ nữ. Họ đến rồi họ đi song không một ai trong số họ khiến t6i có thể kết bạn được lâu. Nhìn Tu Nhi, tôi linh cảm rằng chính nàng sẽ là người đàn bà biết cách cùng đi với tôi trên con đường dài, lấm bụi của cuộc đời mình. Nàng nhìn tôi bằng đôi mắt màu sẫm, đôi mắt biết nói và biết cười.
Tôi nói với nàng: - Mỗi người đàn bà bước vào cuộc đời tôi như một cốc rượu mà tôi đã uống cạn, vậy còn rót thêm vào làm gì? - Sao lại thế, thưa ông? Chẳng lẽ nỗi khát khao của ông khộng bao giờ được mãn nguyện ư? Niềm ấm áp tóat ra từ nàng ùa vào tôi. Từ phía đồn điền xa xa vẳng tới một bài ca...Tôi hôn nàng. Hương vị của rừng, bãi cỏ chăn cừu, cây tùng, cây bách hòa trộn vào nhau. Mọi màu sắc của cầu vồng nhập làm một, tất cả âm thanh cùng vang lên thành một bảng hợp tấu... ... Người họa sĩ lặng im một lát. Ánh mắt sống động đột nhiên biến đi. Chỉ còn thấy cánh mũi khẽ phập phồng. - Rồi sao nữa, thưa ông? - Tội thúc dục. Ông ngước nhìn lên bức tranh rồi tiếp tục: - Tôi trở về thành phố lấy tiền, khi quay lại thì đã quá muộn. - Cha nàng buộc nàng phải lấy gã cho vay nặng lãi ư? - Tôi kêu lên - Đúng như vậy. Hắn ta đã biết tất cả việc làm của tôi. Tối hôm tôi ra đi hắn đến nhà Tu NHi mang theo tờ giấy có dấu tay cha nàng điểm chỉ. Hắn dọa ẫm, hết thuyết phục lại đe dọa và ép buộc cha Tu Nhi phải trao nàng cho hắn. Ngay đêm đó Tu Nhi tự kết liễu đời mình. Trong vườn nhà nàng có một cây độc dược. Nàng hái quả, tự tay chiết lấy nước rồi uống vừa lúc các ông mối xuất hiện. Ngày hôm sau tôi mang tiền trở về làng thì Tu Nhi đã tắt thở. Nàng đã thuộc về tôi. Tôi cúi xuống thi thể của nàng, hôn lên cặp môi giá lạnh...
... Trời tối. Khách đến xem triển lảm đã về từ lâu. Nguời trông coi gian triển lãm đi ra khóa cửa. Tôi chia tay người họa sĩ. Một năm trôi qua kể từ ngày tôi được nghe kể câu chuyện trên. Tôi viết lại tất cả chỉ thay đổi tên và nơi xẩy ra sự việc nhưng người họa sĩ không cho phép tôi gửi đăng trên báo. - Chừng nào tôi còn sống,- ông nói, - tôi không muốn mọi người biêt điêu đó. Nhưng chẳng bao lâu nữa bà có thể kể câu chuyện này cho tất cả mọi người, thậm chí không cần thay đổi tên họ. Tuần trước - có thể các bạn đã đọc rồi?- các báo đã đưa tin về nhà họa sĩ nổi tiếng Xamec Handa đã từ trần. Báo chí đăng các bài điếu tang khá dài. Các bài văn thuật lại câu chuyện về bức tranh của ông. Nhà họa sĩ tạ thế trong căn phòng trên tường có treo bức tranh " người đàn bà và cốc rượu vang ". Thể theo nguyện vọng cuối cùng của Xamec Handa, tôi không thay đổi một chi tiết nào trong câu chuyện ông đã kể. SH
Mục lục
Người đàn bà và cốc rượu vang
Người đàn bà và cốc rượu vang
Amrita PritanChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.
Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: VNthuquan - Thư viện OnlineĐược bạn: Ct.Ly đưa lên vào ngày: 19 tháng 12 năm 2009
|
Amrita Pritan
Người đàn bà và cốc rượu vang
Chuyển ngữ: Saohom42
Truyện dịch: Ấn Độ
Một người đàn bà xinh đẹp biết bao - Tôi thốt lên. - Nàng như một chiếc cốc lớn đựng đầy rượu vang . Thưa bà, bà vừa nói gì vậy?- Một người lên tiếng hỏi tôi. Tôi nhận ra đó là giọng của người họa sĩ đang đứng ở phía sau. Tôi đưa mắt nhìn ông và cảm thấy ông giống một thầy pháp vời bộ râu bạc phơ. Ông vận chiếc áo vét dài, đầu đội chiếc mũ bằng nhung, nhỏ theo khiểu Hi Lạp trông khá ngộ nghĩnh. Khuôn mặt ông gày gò, hai má hóp lại, trán hằn những nềp nhăn và chiếc mũ to ngồ ngộ luôn giật giật. Những bức tranh của ông trưng bầy trong phòng triển lãm dường như đang tóat lên hương vị ngào ngạt của mùui gỗ thông, mùi lá xanh non và mùi cỏ tươi. - Thưa bà, bà đã nói về bức tranh kia? - Ông vừa nhắc lại vừa chỉ tay lên bức tranh - Ông đã nghe... - tôi bối rối - Vâng, thưa bà. Một nụ cười thóang hiện trên khuôn mặt đột nhiên làm ánh mắt ông vụt sáng, trẻ trung. - Bà đã gợi ý cho tôi về tên gọi của bức tranh: "Người đàn bà và cốc rượu vang". Tôi sẽ gọi tên bức tranh của tôi như vậy. Rồi ông kể cho tôi nghe câu chuyện sau: ... Chuyện này xẩy ra đã ba mươi năm về trước. Thời gian đó tôi lang thang trên miền núi Cangra để nghiên cứu các sáng tác dân gian và các bức tranh của thế kỉ mười tám. Trường phái hội họa của Cangra và trở nên nổi tiếng bởi vẻ tinh xảo của màu sắc và đường nét. Sự phong phú của đường nét được tóat lên trong từng chi tiết nhỏ nhất. Các nghệ sĩ Cangra đã thể hiện tuyệt diệu các bức tranh phong cảnh: tươi đẹp, rực rỡ và gây ấn tượng mạnh. Tình cờ một lần tôi nhìn thấy nàng Tu Nhi trên đồi trồng chè. - Nàng tên là Tu Nhi, thưa ông? - Tôi không hỏi tên nàng. Tôi thầm gọi nàng là Tu Nhi. Nàng làm việc trên đồi chè và thường đeo một chiếc giỏ trên lưng Vừa hái chè, nàng vừa hát với các bạn gái các ca khúc dài dài lúc thì vui tươi, lúc bi ai buồn bã. Trên ngọn mỗi bụi chè thường có một búp lá và một nụ hoa, phía dưới thấp mọc chen chúc các lá dày, thô hơn. Mỗi bụi chè thường chỉ có duy nhất một búp, một nụ và lọai chè được chế biến từ búp là đó thuộc lọai hảo hạng. Tôi bảo nàng rằng nàng giồng một nụ chè. Nàng bật cười vui vẻ. Tôi liền đặt giá vẽ, lấy thuốc màu và bắt đầu vẽ chân dung nàng. Người phụ nữ Cangga luôn luôn mang theo giỏ trên lưng. Trong giỏ đó chứa đầy lá chè hoặc đựng trẻ nhỏ. Một lần, trong khi làm phác thảo, tôi nói với Tu Nhi về hai lọai giỏ đó. - Còn có một thứ khác nặng nề hơn thế nữa - nỗi đau buồn, thưa ông, - nàng thốt lên, chợt tỏ ra bối rối bỏ đi. Đã đến thời hạn phải trở về, song tôi chưa thể ra đi được: bắt đầu mùa mưa bão. Những đám mây xám nặng trịch bao phủ bầu trời, mang theo những cơn mưa dữ dội. Đường xá bị xói lở. Tôi đành phải chờ. Một tuần sau trời quang đãng dần, nước rút đi, mặt trời rạng chiếu song không gian vẫn còn đọng mùi ẩm ướt của rừng cây. Trên đường từ giã miền quê, tôi gặp Tu Nhi đi từ trên núi xuống theo con đường mòn. Nàng chào từ biệt tôi, đọan hỏi: - Ông rời bỏ chúng em ư? - Vâng, tôi phải ra đi. Công việc đã xong rồi cô ạ. Mưa ghê quá! Tôi cứ tưởng rằng nó sẽ không bao giờ chấm dứt. Nàng chỉ tay lên những bức tranh sơn dầu của tôi hỏi: - Ông sẽ bán những bức vẽ này chứ? - Vâng thưa cô. Một trong những bức họa đó là chân dung Tu Nhi. - Ông bán cho ai cơ? - Cho người nào muốn mua. Nàng vừa nhìn tôi vừa đắn đo điều gì đó, lặng im một chút rồi lên tiếng: - Cũng giống như các cô gái ở làng quê này. Họ cũng bị bán cho bất kì ai có tiền mua. - Chẳng lẽ người ta lại đem bán các cô gái ư? - Đúng như vậy đấy ạ. Hơn nữa còn rẻ, rẻ hơn những bức tranh của ông. - Lại thế nữa kia? = Những kẻ cho vay nặng lãi mua tất cả các thiếu nữ. Mấy năm trước cha em vay của một tay giàu có trong làng một số tiền nhỏ nhưng với số phần trăm lãi khá lớn. Em lớn lên thì số nợ cũng lớn lên theo. Bây giờ tổng số tiền lên tới 600 rupi. Trả được món nợ đó vô cùng khó khăn. Phải mất nhiều năm tháng cũng chưa chắc đã dành dụm nổi. - Tất cả phụ nữ ở đồn điền này đều phải làm việc để trả nợ ư? - Không phải tât cả, nhưng phần lớn đều như thế ! Người chủ đồn điền thu những nụ chè tốt nhất cho bản thân và để biếu các quan. Hắn cũng làm như vậy đối với các cô gái. Bọn chúng chiếm đọat chị em như hái các lá chè. Kẻ cho cha em vay lãi là một tên đê tiện, một tên điền chủ chân vòng kiềng. Hắn đi tập tễnh giống một con bò đực già. Có một lần em trêu chọc hắn. Em hát một bài mà các bạn gái em đặt ra về một người đi chân vòng kiềng. Thế là sang tuần sau, hắn đòi cha em phải gả em cho hắn thì hắn mới xóa nợ cho. - Nhưng tại sao cô phải lấy hắn? - Còn làm thế nào khác được? Em phải lấy hắn thì cha em mới thóat nợ. Tôi nhìn lê bức tranh vẽ nàng. Đối với nàng, bức tranh ấy quả là sự hiện thân sống động nhất. Nàng đó, trầm buồn trên tấm vải vẽ sẽ được lồng trong khung và bán cho một gã nhà giàu, Hệt như trong cuộc đời thực. - Thế nếu như tôi giải thóat cô khỏi món nợ đó? - tôi hỏi nàng - Sao kia ạ? - Tôi trả hắn món nợ và sẽ nói với cha cô hủy bỏ lễ đính hôn. Tôi liền hõan chuyến đi và ngay ngày hôm sau đến nhà nàng nói với cha nàng quyết định của mình. Ông gìa không thể nào tin tôi được. - Tại sao ông lại trả nợ hộ tôi?- ông lão hỏi. Ông muốn mua con gái tôi phải không? Mua và bán - đấy là biện pháp duy nhất ở Canga người ta sử dụng để nhìn nhận tình yêu, khát vọng và những ước mơ của các thiếu nữ. - Không, tôi chẳng mua gì cả. - tôi nói rồi bỏ đi Buổi tối hôm ấy Tu Nhi tìm đến gặp tôi. - Thưa ông, sao ông không muốn mang em theo? - nàng hỏi. - Chẳng lẽ em xấu hơn bức tranh ông vẽ ư? Đôi mắt nàng đẫm lệ. Nàng tỏ vẻ lo lắng và sợ hãi như một con thú nhỏ. Sợ hãi điều gì thì nàng cũng chưa rõ song nỗi nguy hiểm hình như ẩn nấp đâu đó, cạnh nàng. Trong cuộc đời mình, tôi đã gặp khá nhiều phụ nữ. Họ đến rồi họ đi song không một ai trong số họ khiến t6i có thể kết bạn được lâu. Nhìn Tu Nhi, tôi linh cảm rằng chính nàng sẽ là người đàn bà biết cách cùng đi với tôi trên con đường dài, lấm bụi của cuộc đời mình. Nàng nhìn tôi bằng đôi mắt màu sẫm, đôi mắt biết nói và biết cười.
Tôi nói với nàng: - Mỗi người đàn bà bước vào cuộc đời tôi như một cốc rượu mà tôi đã uống cạn, vậy còn rót thêm vào làm gì? - Sao lại thế, thưa ông? Chẳng lẽ nỗi khát khao của ông khộng bao giờ được mãn nguyện ư? Niềm ấm áp tóat ra từ nàng ùa vào tôi. Từ phía đồn điền xa xa vẳng tới một bài ca...Tôi hôn nàng. Hương vị của rừng, bãi cỏ chăn cừu, cây tùng, cây bách hòa trộn vào nhau. Mọi màu sắc của cầu vồng nhập làm một, tất cả âm thanh cùng vang lên thành một bảng hợp tấu... ... Người họa sĩ lặng im một lát. Ánh mắt sống động đột nhiên biến đi. Chỉ còn thấy cánh mũi khẽ phập phồng. - Rồi sao nữa, thưa ông? - Tội thúc dục. Ông ngước nhìn lên bức tranh rồi tiếp tục: - Tôi trở về thành phố lấy tiền, khi quay lại thì đã quá muộn. - Cha nàng buộc nàng phải lấy gã cho vay nặng lãi ư? - Tôi kêu lên - Đúng như vậy. Hắn ta đã biết tất cả việc làm của tôi. Tối hôm tôi ra đi hắn đến nhà Tu NHi mang theo tờ giấy có dấu tay cha nàng điểm chỉ. Hắn dọa ẫm, hết thuyết phục lại đe dọa và ép buộc cha Tu Nhi phải trao nàng cho hắn. Ngay đêm đó Tu Nhi tự kết liễu đời mình. Trong vườn nhà nàng có một cây độc dược. Nàng hái quả, tự tay chiết lấy nước rồi uống vừa lúc các ông mối xuất hiện. Ngày hôm sau tôi mang tiền trở về làng thì Tu Nhi đã tắt thở. Nàng đã thuộc về tôi. Tôi cúi xuống thi thể của nàng, hôn lên cặp môi giá lạnh...
... Trời tối. Khách đến xem triển lảm đã về từ lâu. Nguời trông coi gian triển lãm đi ra khóa cửa. Tôi chia tay người họa sĩ. Một năm trôi qua kể từ ngày tôi được nghe kể câu chuyện trên. Tôi viết lại tất cả chỉ thay đổi tên và nơi xẩy ra sự việc nhưng người họa sĩ không cho phép tôi gửi đăng trên báo. - Chừng nào tôi còn sống,- ông nói, - tôi không muốn mọi người biêt điêu đó. Nhưng chẳng bao lâu nữa bà có thể kể câu chuyện này cho tất cả mọi người, thậm chí không cần thay đổi tên họ. Tuần trước - có thể các bạn đã đọc rồi?- các báo đã đưa tin về nhà họa sĩ nổi tiếng Xamec Handa đã từ trần. Báo chí đăng các bài điếu tang khá dài. Các bài văn thuật lại câu chuyện về bức tranh của ông. Nhà họa sĩ tạ thế trong căn phòng trên tường có treo bức tranh " người đàn bà và cốc rượu vang ". Thể theo nguyện vọng cuối cùng của Xamec Handa, tôi không thay đổi một chi tiết nào trong câu chuyện ông đã kể. SH
Mục lục
Người đàn bà và cốc rượu vang
Người đàn bà và cốc rượu vang
Amrita PritanChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.
Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: VNthuquan - Thư viện OnlineĐược bạn: Ct.Ly đưa lên vào ngày: 19 tháng 12 năm 2009
|
Mỹ Dung
Người đàn bà điên
Trời chập choạng tối, những ánh đèn đường loang loáng quét trên mặt lộ . Chiều nay trời đổ mưa, đường vẫn còn đọng nước . Không khí có vẻ mát mẻ, dễ chịu hơn . Ở phía chân trời mặt trời cũng vừa lặn, đỏ cả một khoảng không gian. Cái ánh sáng hắt ra từ phía cuối chân trời hòa cùng ánh đèn đường tạo thành một màu kỳ bí mơ mờ ảo ảo . Ở phía cuối phố nơi có con hẻm nhỏ chợt chạy vụt ra một vật gì trắng toát, lồ lộ hiện lên dưới ánh sáng kỳ bí hư ảo đó . Cái vật đó màu trắng, màu của da thịt ... nó di chuyển liên tục từ nơi này đến nơi khác . Rồi bỗng tiếng cười ghê rợn đến nổi da gà vang lên giữa không gian vắng trầm lặng của một khu phố nhỏ ít người qua lại . Tiếng cười như xé nát cả một khoảng không gian tĩnh mịch ... Tiếng cười càng vút cao, càng rùng rơn . Người đàn bà vừa chạy như ma đuổi, vừa ngửa mặt nhìn trời và cười không ngớt , giọng cười như của ma qủy . Người đàn bà lõa thể đó vẫn trong cơn điên loạn , chị ta bị tâm thần ... Trong cái khu phố này không ai lạ gì tiếng cười như ma qủy của người đàn bà điên, mọi người đã qúa quen và cảm thấy bình thường . Chị ta không phá phách, cũng không làm phiền đến ai . Những lúc có vẻ tỉnh táo chị ngồi bất động ở một vỉa hè bên gốc cây trứng cá cuối đường, miệng lẩm bẩm nói không thành câu hoặc ngân nga hát những bài không đầu không đuôi . Chỉ những lúc lên cơn điên, chị lại vứt hết áo quần, ngửa mặt nhìn trời và cười điên loạn , đôi lúc lại khóc rống lên như bị ma nhập . Đã nhiều lần người ta bắt chị vào nhà thương điên, nhưng chị ta lại trốn về sống trong con hẻm nhỏ cuối phố . Nơi đó có một cái lều nhỏ không biết có tự bao giờ, cũng không ai biết ai đó đã có lòng hảo tâm đụng lên cho chị . Chị ta sống ở đó, ngày đi lang thang khắp nơi, tối về ngủ trong căn lều dột nát . Chị ăn những phần cơm thừa của các quán ăn đầu phố . Đôi lúc một ai đó trong khu phố thương tình cho chị một ít cơm canh dư thừa . Không ai biết chị ta tên gì, quê qúan ở đâu . Chị ta cũng không có ai thân thích họ hàng. Chỉ nghe nói chị ta bị thất tình và hóa điên . Người đàn ông nào đó đã phụ bạc khi chị có thai, nhưng tất cả những chuyện đó cũng chỉ là lời đồn đại . Phản phất trên gương mặt trái xoan, đôi mắt to vô hồn luôn nhìn một cách vô định vào khoảng không kia ẩn chứa một nỗi buồn mang mác . Sóng mũi cao, mái tóc cháy xém vì nắng gío rối bời hoang dã . Thân hình cân đối, chắc khoẻ với nước da rám nắng . Có thể đoán trước kia chị là một người phụ nữ có nhan sắc . Nhìn chị trong cơn điên loạn lòng ai cũng chợt chùng xuống thương cho số phận bất hạnh của một người đàn bà. Trời lại sắp mưa, những cơn gió lại gào thét cùng với tiếng thét của người đàn bà điên . Bỗng tiếng cười im bặt, trả lại không gian im ắng rồi người đàn bà lại òa khóc, trời cũng vừa đổ mưa . Người đàn bà vẫn lõa thể như vậy ngồi bên gốc cây trứng cá cuối phố và gào khóc trong mưa . Ai đó mở cửa, ánh sáng trong nhà hắt ra đủ để thấy rõ cơ thể của người phụ nữ điên trần truồng lạnh lẽo đang ngồi co ro vì lạnh. Chủ nhà vứt cho chị một tấm chăn cũ . Chị ngưng khóc, lại cười ré lên và trùm tấm chăn trên đầu, chạy vụt đi trong bóng đêm giữa trời mưa giăng . Khóc rồi lại cười, cười rồi lại khóc ... Cuộc đời phải chăng và một vòng xoáy vô hình và con người mãi cuốn theo vòng tròn khép kín đó . Khi mới chào đời, con người ta khóc, trong cả cuộc đời lúc khóc, lúc cười để đến cuối đời khi biết mình sắp chết người ta không còn đủ sức để khóc, nhưng những giọt nước mắt cuối cùng vẫn tuôn rơi để chấm dứt một kiếp người . Người đàn bà điên dại kia dù vẫn sống nhưng không còn lý trí nữa, không còn biết gì nữa, nhưng chị ta vẫn biết khóc và biết cười : khóc cho số phận nghiệt ngã của chính mình, và cười cho nỗi đau tâm hồn và thể xác của mình ... Đêm đó trời mưa bão lớn . Mưa như trút nước suốt cả đêm . Con phố nhỏ vẫn chìm trong giấc ngủ . Mọi người không ai nhớ và cũng không ai biết ngoài trời giông bão kia vẫn còn xót lại một con người, một con người không còn ra con người đang khóc cười dưới trời mưa; lạnh lẽo, cô đơn, hiu quạnh giữa sấm sét, mưa tuôn; như chịu sự trừng phạt của trời đất . Tấm thân bé nhỏ cao gầy không một mảnh vải che thân đó vẫn còn tồn tại, nhưng như không tồn tại và để một ngày nào đó tan thành tro bụi như chưa bao giờ tồn tại trên cõi đời . Sáng hôm sau người ta phát hiện ra một xác phụ nữ khỏa thân nằm chơ vơ bên cạnh tấm chăn cũ ướt mèm, vẫn còn phản phất đâu đó trên khuôn mặt một đôi mắt to vô hồn, một khoé miệng cười và cả những giọt lệ đắng ngắt . Thế là kết thúc một kiếp người ... thế là Chị đã đi trọn một vòng để cuối cùng trở về với cát bụi . Cuộc đời quá ngắn ngủi nhưng cũng qúa cay nghiệt ... Nhưng mãi mãi trong cái đầu không còn lý trí kia chưa bao giờ cảm thấy cuộc đời là "bể khổ" ... hay nói đúng hơn chị không có đủ nhận thức để cảm nhận được cái khổ của cuộc đời ... bởi cho đến khi chết ... trên miệng chị vẫn nở nụ cười ...
Mục lục
Người đàn bà điên
Người đàn bà điên
Mỹ DungChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.
Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: Được bạn: khietnghi đưa lên vào ngày: 4 tháng 2 năm 2004
|
My Dung
Madwoman
It was dusk, the streetlights flickered across the road. It's raining this afternoon and the road is still flooded. The air seems cooler and more pleasant. On the horizon, the sun had just set, turning the entire space red. The light shining from the end of the horizon mixed with the streetlights to create a mysterious, dreamy color. At the end of the street where there was a small alley suddenly appeared something white, clearly appearing under that mysterious, illusory light. That thing was white, the color of flesh... it moved continuously from one place to another. Then suddenly, a creepy, goosebump-inducing laugh rang out in the quiet, empty space of a small street with few passersby. The laughter seemed to tear through the quiet space... The laughter became higher and higher, the more thrilling it became. The woman ran like a ghost, looking up at the sky and laughing endlessly, her laughter was like that of a devil. That naked woman is still in a state of madness, she is mentally ill... In this neighborhood, no one is familiar with the crazy woman's demonic laughter, everyone is so used to it and feels it's normal. . She is not destructive, nor does she bother anyone. When she seemed to be awake, she sat motionless on the sidewalk next to the acorn tree at the end of the street, muttering incoherent sentences or humming songs with no beginning or end. Only when she was crazy, she threw away all her clothes, looked up at the sky and laughed hysterically, sometimes crying like she was possessed. Many times people forced her to go to the insane asylum, but she escaped to live in a small alley at the end of the street. There was a small tent there who didn't know how long it had been there, and no one knew that someone had the kindness to help her. She lives there, wanders around during the day, and sleeps in a dilapidated tent at night. She ate the leftover rice from the restaurants across the street. Sometimes someone in the neighborhood sympathizes with her and gives her some leftover rice and soup. No one knows her name or where she is from. She also has no relatives. I just heard that she fell in love and went crazy. Some man cheated on her when she got pregnant, but all of that was just a rumor. Reflecting on his oval face, his big lifeless eyes always looked aimlessly into space, containing a profound sadness. Her nose is high, her hair is scorched by the sun and wild and messy. Proportioned, strong body with tanned skin. It can be guessed that she used to be a beautiful woman. Looking at her in madness, everyone's heart suddenly felt sorry for the unfortunate fate of a woman. It was about to rain again, the winds howled again along with the screams of the crazy woman. Suddenly the laughter stopped, returning the space to silence, then the woman burst into tears again, it was also raining. The woman was still naked, sitting next to the acorn tree at the end of the street and crying in the rain. Someone opened the door, enough light in the house to clearly see the body of the cold, naked crazy woman sitting huddled in the cold. The homeowner threw her an old blanket. She stopped crying, laughed again, covered her head with a blanket, and ran away into the darkness in the pouring rain. Cry then laugh, laugh then cry again... Life is just an invisible spiral and people are forever swept along in that closed circle. When we are first born, we cry, throughout our lives we cry and laugh, until at the end of our lives when we know we are about to die, we no longer have the strength to cry, but the last tears still fall to end it. one human life. Even though that crazy woman is still alive, she no longer has reason, no longer knows anything, but she still knows how to cry and laugh: cry for her own cruel fate, and laugh for the pain of her soul and heart. my body... That night there was a big storm. It rained heavily all night. The small street is still sleeping. No one remembers and no one knows that out there in the storm, there is still a person left, a person who is no longer human, crying and laughing in the rain; cold, lonely, lonely amidst thunder and pouring rain; Like being punished by heaven and earth. That tall, thin little body without a piece of clothing still exists, but it's as if it doesn't exist and will one day turn into ashes like it never existed in this world. The next morning, people discovered a naked woman's body lying alone next to a wet old blanket, still reflecting somewhere on her face a pair of big soulless eyes, a smile and tears. bitter . That's the end of a human life... so she went a full circle and finally returned to dust. Life is too short but also too harsh... But forever in that mind that no longer has reason, I have never felt that life is "suffering"... or rather, I don't have enough awareness to feel the suffering of life... because until death... there will still be a smile on her mouth...
Table of contents
Madwoman
Madwoman
My DungWelcome to read books from the book project for mobile devices. Source: author: Nguyen Kim Vy.
Final words: Thank you for reading the entire story. Source: editor: Nguyen Kim Vy. Source: Posted by friend: khietnghi on: February 4, 2004
|
Phan Cửu Long
Người đàn ông bất hạnh
Hắn vừa đi vừ lầu bầu : “Tiên sư cái lão chủ quán, bố nó mới uống có 4 xị rượu mà nó đòi bố trả những 1 lít”, hắn cay cú vì bị gạt tiền, tuy hắn nhất định chỉ trả tiền 4 xị rượu, một xị 1 nghìn đồng, 4 xị là 4 nghìn, hắn tính toán là cấm có sai, hắn đâu có dại đến thế, hắn có say gì cho cam.
Ra khỏi quán, hắn đã thấm mệt, lần nào cũng thế, cứ uống tầm 4 xị là hắn lầu bầu, hắn vừa đi vừa lầu bầu, hắn khâm phục cái tên chết tiệt nào đó đã nghĩ ra cái thứ nước cay cay làm cho hắn lâng lâng, hắn sướng, hắn lại câm ghét cái thằng cha căn chú kiết nào đã đẽ ra đồng tiền làm cho hắn khốn khổ, hắn cứ nói một mình, không lớn, không nhỏ, lúc từ tốn, có lúc cao trào, gay gắt, cay cú như là chửi ai đó, có lúc làm như hắn muốn phân trần với bất cứ ai hắn gặp trên đường. Dù chẳng ai để ý đến hắn, chẳng thèm nghe xem hắn chửi ai, chửi cái gì, hắn điên lên vì không ai chịu nghe hắn, cứ như điếc cả lũ, tức không chịu được. Hôm nay hắn lại càng ức cái lão chủ quán, máu nóng trong người hắn càng sôi sùng sụt ...
Từ lâu, hắn cũng chẳng còn nhớ tên của mình là gì, mọi người thấy hắn cứ uống rượu lè nhè, chửi bới um xùm giống Chí Phèo, nhưng hắn chẳng có được một Thị Nỡ nào cho dù là xấu đến mấy, nên hắn không thể là Chí Phèo, vậy thì hắn là Chí Phở vì là hắn cứ nhậu ở cái quán phở của ông 3 Lèo đầu xóm, chỉ cần một tô súp, ông 3 khuyến mãi cho hắn mấy cái xương sụn là hắn nhậu ngon lành, một mình, rót từng ly, chẳng nói chẳng rằng, cứ thế hắn uống tì tì một hơi mấy xị rượu. Từ đó hắn chết cái biệt danh Chí Phở.
Hắn lầm lũi trở về cái chòi vá xe đạp của ông Công cụt, ông Công là thương binh chỉ còn một chân, ban ngày vá và sửa xe đạp trong cái chòi này, ban đêm về căn nhà lụp xụp cuối xóm với vợ con. Thế là ban đêm cái chòi này trở thành nơi trú ngụ của hắn sau một ngày làm thuê cực nhọc và tự thưởng cho mình mấy xị rượu lúc đầu hôm.
Nhiều hôm, nửa đêm thì hắn thức giấc, khát khô cổ họng, hắn lòm còm trở dậy ra cái lu nước bụm tay uống ừng ực, hắn vào co ro ngủ tiếp, nhưng không ngủ được, hơn lúc nào hết, đây là lúc ý thức của hắn tỉnh táo nhất, cũng là lúc hắn khổ tâm nhất, tại sao hắn lại thế này ...
Hắn cũng có vợ, mồ côi như hắn, nàng trắng trẽo, có duyên, cưới hỏi đàng hoàng, được cái sức vóc vạm vỡ, tính tình siêng năng, hiền lành, tiện tặn, ở vùng quê, hắn cũng cất được cái nhà tranh, vách đất, cũng có 5 công ruộng, người ta chuyển sang trồng mía, hắn cũng trồng mía, nhờ siêng chăm sóc, thắng đậm mấy năm liền, tậu được chiếc xe honda cũ, ở quê hắn, như thế đã oách lắm rồi. Hắn cưng chìu vợ hết mực, tối ngày ở ngoài ruộng, vợ ở nhà, nàng bắt đầu se sua quần áo, hắn cũng chìu, hắn nghĩ mình nghèo, vợ con thiếu thốn, cực khổ, nay cũng không đến nỗi nào, cho vợ mình sung sướng một tí, bù lại những tháng năm khổ cực. Từ đó vợ hắn đi chơi nhiều hơn, có hôm về nhà bếp lạnh tanh, hắn phải lui cui nấu cơm chờ vợ về ăn ...
Rồi hắn nghe người ta to nhỏ rằng vợ hắn ngoại tình, hắn không tin điều đó, vợ hắn sống chung với hắn, hắn biết, ai hiểu vợ bằng chồng... Một hôm hắn mang cơm theo ở ngoài ruộng cả ngày, về đến nhà, hắn thấy nhà cửa tối om, hắn nghĩ chắc vợ mình đi chơi hàng xóm, hắn đốt đèn, nấu cơm chờ vợ về ăn, chờ mãi không thấy, hắn đi tìm, hàng xóm bảo thấy vợ hắn lấy xe honda đi từ trưa ... hắn kiểm tra đồ đạt trong nhà té ra vợ hắn đã gom hết áo, quần, tiền bạc không chừa thứ gì, hắn ngồi bệt giữa nhà kêu trời không thôi ... 5 công đất hắn vừa thế chấp vay tiền định mua thêm đất, rồi trả nợ dần, cũng đi luôn theo vợ hắn. Hắn cay đắng thức trắng đêm, không ngủ được, không buồn ăn uống, mấy hôm sau, hắn đổ bệnh, đám mía không ai tưới héo khô trong cái nắng gay gắt, hàng xóm thấy tội đưa hắn đi bệnh viện, thì ra hắn bị bệnh lao, hắn suy sụp nhanh quá, sức vóc vạm vỡ là thế, nay teo tóp, hóc hác, hắn nhờ người ta bán 5 công đất để trả nợ, dư chút ít uống thuốc, rồi cũng thiếu tiền, hắn lại cầm cố đất, nhà để trị bệnh, khi hắn khỏi bệnh thì nhà đất cũng không còn, tất cả đến với hắn như một cơn ác mộng. Hắn hận mình, hận đời, hận đàn bà ... Từ đó hắn trở thành tên bợm nhậu, hết tiền thì nhậu thiếu, mới đầu người ta thấy thương không nỡ đòi tiền hắn, nhưng riết rồi hắn thiếu nợ như chúa chổm, hắn cay đắng, nhục nhã bỏ xứ đi hoang ... nhớ đến đây hắn ngủ thiếp đi lúc nào không hay. Hắn cần phải say, phải ngủ, hắn rất sợ phải tỉnh dậy lúc nửa đêm.
Cũng như mọi hôm, sau khi ở quán ông 3 Lèo về, hôm nay hắn uống nhiều, hắn đi loạng choạng, lũi vô bụi cây bên đường, không tài nào đứng dây dược, cứ thế hắn nằm im và ngủ quên lúc nào không hay, đối với hắn thì bụi cây với cái chòi của ông Công cụt chẳng khác gì mấy. Không biết hắn ngủ được bao lâu thì nghe tiếng la thất thanh ngay cạnh bên hắn, có 2 bóng người, một người ôm chặt lấy một người, một người vùng vẫy, trời tối đen, hắn định thần và hiểu chuyện gì đang xảy ra, hắn xông ra tiếp cứu, thằng con trai thấy bất thần có người trong bụi lao ra, nó bỏ chạy, nhưng có lẽ do còn say nên cú lao ra của hắn quá đà, nằm đè lên đứa con gái, lúc này đứa con gái đã định thần la lớn : bớ người ta cứu tui ! lập tức nhà bên cạnh có người xông ra tóm lấy hắn. Đứa con gái mếu máo : Con đi chơi về khuya, ông này đang nhiên xông vào ôm chặc, đè con xuống ... hu hu !!! Vậy là đã rõ mười mươi ... Chí Phở hiếp dâm con H ... té ra đứa con gái cùng xóm hàng ngày hắn thường gặp, nó là đứa tốt bụng, là đứa duy nhất không khinh khi hắn, thường hay đem cho hắn khi thì trái bắp, lúc thì con khô cho hắn nhậu. Với giọng lè nhè, hắn cố giải thích, nhưng ai người ta tin hắn, thế là hắn bị giải lên xã, hắn cứ khăng khăng là có thằng ôm con nhỏ, hắn là người giải cứu, nhưng hiện trường chỉ có mình hắn, con bé cũng khẳng định chỉ có hắn, người ta kết luận là hắn say rượu làm càng, lẽ ra phải bỏ tù hắn, nhưng sự việc cũng chưa có gì, hắn lại đang say rượu, ngữ của hắn có bỏ tù thì cũng tốn cơm, nên cảnh cáo, cho hắn về ... Hắn lủi thủi trở về chòi, vừa nằm xuống, hắn khóc ... Hắn khóc còn nhiều hơn khi mất vợ. Tại sao không ai tin hắn, dù không bỏ tù hắn, nhưng hắn cảm thấy nhục nhã với mọi người, nhất là con bé.
Sáng hôm sau, cả xóm đều biết tin Chí Phở định hiếp dâm con H. bị xã bắt. Mọi người nhìn hắn với con mắt khinh khi, thậm chí có người chửi sau lưng hắn, nhưng cố tình nói lớn cho hắn nghe. Ông 3 Lèo cũng không khuyến mãi mấy cục xí quách cho hắn như mọi khi, từ hôm đó, hắn nghỉ nhậu... buổi chiều hắn đi quanh quẩn, đến tối thì về chòi ngủ, được mấy hôm thì hắn thấy sức mình yếu dần, lao động không nổi, không có rượu, hắn thấy mình yếu đi nhiều, người ta cho hắn nghỉ, không mướn nữa, ban ngày hắn đi lang thang, ban đêm về chòi ... Hắn đau khổ cùng cực, hắn cũng là con người, cũng biết đâu là phải, đâu là quấy, chỉ có điều trong con mắt mọi người hắn là thứ rác bẩn, hắn chỉ có thể làm điều xấu, không thể làm điều tốt như mọi người ư ?. Hắn cố sống phần còn lại của cuộc đời mình, nhưng cuộc đời này chỉ tiếp nhận hắn như một phần thừa, vứt đi thì không nở, mà không vứt thì cưu mang ghẻ lạnh ...
Đêm nay hắn thấy mình yếu lắm, có lúc nửa mơ, nửa tỉnh, hắn thấy một Phật bà, gương mặt phúc hậu, trong cái kho kiến thức nghèo nàn của hắn thì hình như là Phật Quan Âm Bồ Tát, Phật Cứu Khổ Cứu Nạn, Phật Bà nở nụ ười hiền từ, nắm tay hắn dẫn đi, hắn hỏi Bà dẫn hắn đi đâu ? Phật Bà bảo : “Cuộc đời là bể khổ, con ở đó đã đủ rồi, bây giờ theo ta về một nơi mà con không thấy khổ nữa” Hắn nói : “Thế sao Phật không gọi con đi sớm một chút, để con khổ thế này?” Đức Quan Âm hiền từ nói :”Đó là số kiếp, con phải chịu, bây giờ hết rồi. Thôi đi theo ta” Thế là hắn sung sướng đi theo Phật, lòng hắn tràn đầy hạnh phúc, như một đứa con xa mẹ lâu ngày được trở về trong sự yêu thương, đùm bộc của mẹ hiền, hắn nở nụ cười mãn nguyện.
Buổi sáng như thường lệ, ông Công cụt ra dọn tiệm thì thấy hắn vẫn nằm đó, co quắp người lại, ông Công lay hắn dậy, nhưng người hắn lạnh ngắt, cứng đơ, ông Công la lên, mọi người chạy đến thì hắn đã chết từ lúc nào ...
PCL 16/01/2007
Mục lục
Người đàn ông bất hạnh
Người đàn ông bất hạnh
Phan Cửu LongChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.
Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.Đánh máy : Phan Cửu Long Nguồn: VNTQ - Phan Cửu LongĐược bạn: NHDT đưa lên vào ngày: 23 tháng 3 năm 2007
|
Phan Cửu Long
Người đàn ông bất hạnh
Hắn vừa đi vừ lầu bầu : “Tiên sư cái lão chủ quán, bố nó mới uống có 4 xị rượu mà nó đòi bố trả những 1 lít”, hắn cay cú vì bị gạt tiền, tuy hắn nhất định chỉ trả tiền 4 xị rượu, một xị 1 nghìn đồng, 4 xị là 4 nghìn, hắn tính toán là cấm có sai, hắn đâu có dại đến thế, hắn có say gì cho cam.
Ra khỏi quán, hắn đã thấm mệt, lần nào cũng thế, cứ uống tầm 4 xị là hắn lầu bầu, hắn vừa đi vừa lầu bầu, hắn khâm phục cái tên chết tiệt nào đó đã nghĩ ra cái thứ nước cay cay làm cho hắn lâng lâng, hắn sướng, hắn lại câm ghét cái thằng cha căn chú kiết nào đã đẽ ra đồng tiền làm cho hắn khốn khổ, hắn cứ nói một mình, không lớn, không nhỏ, lúc từ tốn, có lúc cao trào, gay gắt, cay cú như là chửi ai đó, có lúc làm như hắn muốn phân trần với bất cứ ai hắn gặp trên đường. Dù chẳng ai để ý đến hắn, chẳng thèm nghe xem hắn chửi ai, chửi cái gì, hắn điên lên vì không ai chịu nghe hắn, cứ như điếc cả lũ, tức không chịu được. Hôm nay hắn lại càng ức cái lão chủ quán, máu nóng trong người hắn càng sôi sùng sụt ...
Từ lâu, hắn cũng chẳng còn nhớ tên của mình là gì, mọi người thấy hắn cứ uống rượu lè nhè, chửi bới um xùm giống Chí Phèo, nhưng hắn chẳng có được một Thị Nỡ nào cho dù là xấu đến mấy, nên hắn không thể là Chí Phèo, vậy thì hắn là Chí Phở vì là hắn cứ nhậu ở cái quán phở của ông 3 Lèo đầu xóm, chỉ cần một tô súp, ông 3 khuyến mãi cho hắn mấy cái xương sụn là hắn nhậu ngon lành, một mình, rót từng ly, chẳng nói chẳng rằng, cứ thế hắn uống tì tì một hơi mấy xị rượu. Từ đó hắn chết cái biệt danh Chí Phở.
Hắn lầm lũi trở về cái chòi vá xe đạp của ông Công cụt, ông Công là thương binh chỉ còn một chân, ban ngày vá và sửa xe đạp trong cái chòi này, ban đêm về căn nhà lụp xụp cuối xóm với vợ con. Thế là ban đêm cái chòi này trở thành nơi trú ngụ của hắn sau một ngày làm thuê cực nhọc và tự thưởng cho mình mấy xị rượu lúc đầu hôm.
Nhiều hôm, nửa đêm thì hắn thức giấc, khát khô cổ họng, hắn lòm còm trở dậy ra cái lu nước bụm tay uống ừng ực, hắn vào co ro ngủ tiếp, nhưng không ngủ được, hơn lúc nào hết, đây là lúc ý thức của hắn tỉnh táo nhất, cũng là lúc hắn khổ tâm nhất, tại sao hắn lại thế này ...
Hắn cũng có vợ, mồ côi như hắn, nàng trắng trẽo, có duyên, cưới hỏi đàng hoàng, được cái sức vóc vạm vỡ, tính tình siêng năng, hiền lành, tiện tặn, ở vùng quê, hắn cũng cất được cái nhà tranh, vách đất, cũng có 5 công ruộng, người ta chuyển sang trồng mía, hắn cũng trồng mía, nhờ siêng chăm sóc, thắng đậm mấy năm liền, tậu được chiếc xe honda cũ, ở quê hắn, như thế đã oách lắm rồi. Hắn cưng chìu vợ hết mực, tối ngày ở ngoài ruộng, vợ ở nhà, nàng bắt đầu se sua quần áo, hắn cũng chìu, hắn nghĩ mình nghèo, vợ con thiếu thốn, cực khổ, nay cũng không đến nỗi nào, cho vợ mình sung sướng một tí, bù lại những tháng năm khổ cực. Từ đó vợ hắn đi chơi nhiều hơn, có hôm về nhà bếp lạnh tanh, hắn phải lui cui nấu cơm chờ vợ về ăn ...
Rồi hắn nghe người ta to nhỏ rằng vợ hắn ngoại tình, hắn không tin điều đó, vợ hắn sống chung với hắn, hắn biết, ai hiểu vợ bằng chồng... Một hôm hắn mang cơm theo ở ngoài ruộng cả ngày, về đến nhà, hắn thấy nhà cửa tối om, hắn nghĩ chắc vợ mình đi chơi hàng xóm, hắn đốt đèn, nấu cơm chờ vợ về ăn, chờ mãi không thấy, hắn đi tìm, hàng xóm bảo thấy vợ hắn lấy xe honda đi từ trưa ... hắn kiểm tra đồ đạt trong nhà té ra vợ hắn đã gom hết áo, quần, tiền bạc không chừa thứ gì, hắn ngồi bệt giữa nhà kêu trời không thôi ... 5 công đất hắn vừa thế chấp vay tiền định mua thêm đất, rồi trả nợ dần, cũng đi luôn theo vợ hắn. Hắn cay đắng thức trắng đêm, không ngủ được, không buồn ăn uống, mấy hôm sau, hắn đổ bệnh, đám mía không ai tưới héo khô trong cái nắng gay gắt, hàng xóm thấy tội đưa hắn đi bệnh viện, thì ra hắn bị bệnh lao, hắn suy sụp nhanh quá, sức vóc vạm vỡ là thế, nay teo tóp, hóc hác, hắn nhờ người ta bán 5 công đất để trả nợ, dư chút ít uống thuốc, rồi cũng thiếu tiền, hắn lại cầm cố đất, nhà để trị bệnh, khi hắn khỏi bệnh thì nhà đất cũng không còn, tất cả đến với hắn như một cơn ác mộng. Hắn hận mình, hận đời, hận đàn bà ... Từ đó hắn trở thành tên bợm nhậu, hết tiền thì nhậu thiếu, mới đầu người ta thấy thương không nỡ đòi tiền hắn, nhưng riết rồi hắn thiếu nợ như chúa chổm, hắn cay đắng, nhục nhã bỏ xứ đi hoang ... nhớ đến đây hắn ngủ thiếp đi lúc nào không hay. Hắn cần phải say, phải ngủ, hắn rất sợ phải tỉnh dậy lúc nửa đêm.
Cũng như mọi hôm, sau khi ở quán ông 3 Lèo về, hôm nay hắn uống nhiều, hắn đi loạng choạng, lũi vô bụi cây bên đường, không tài nào đứng dây dược, cứ thế hắn nằm im và ngủ quên lúc nào không hay, đối với hắn thì bụi cây với cái chòi của ông Công cụt chẳng khác gì mấy. Không biết hắn ngủ được bao lâu thì nghe tiếng la thất thanh ngay cạnh bên hắn, có 2 bóng người, một người ôm chặt lấy một người, một người vùng vẫy, trời tối đen, hắn định thần và hiểu chuyện gì đang xảy ra, hắn xông ra tiếp cứu, thằng con trai thấy bất thần có người trong bụi lao ra, nó bỏ chạy, nhưng có lẽ do còn say nên cú lao ra của hắn quá đà, nằm đè lên đứa con gái, lúc này đứa con gái đã định thần la lớn : bớ người ta cứu tui ! lập tức nhà bên cạnh có người xông ra tóm lấy hắn. Đứa con gái mếu máo : Con đi chơi về khuya, ông này đang nhiên xông vào ôm chặc, đè con xuống ... hu hu !!! Vậy là đã rõ mười mươi ... Chí Phở hiếp dâm con H ... té ra đứa con gái cùng xóm hàng ngày hắn thường gặp, nó là đứa tốt bụng, là đứa duy nhất không khinh khi hắn, thường hay đem cho hắn khi thì trái bắp, lúc thì con khô cho hắn nhậu. Với giọng lè nhè, hắn cố giải thích, nhưng ai người ta tin hắn, thế là hắn bị giải lên xã, hắn cứ khăng khăng là có thằng ôm con nhỏ, hắn là người giải cứu, nhưng hiện trường chỉ có mình hắn, con bé cũng khẳng định chỉ có hắn, người ta kết luận là hắn say rượu làm càng, lẽ ra phải bỏ tù hắn, nhưng sự việc cũng chưa có gì, hắn lại đang say rượu, ngữ của hắn có bỏ tù thì cũng tốn cơm, nên cảnh cáo, cho hắn về ... Hắn lủi thủi trở về chòi, vừa nằm xuống, hắn khóc ... Hắn khóc còn nhiều hơn khi mất vợ. Tại sao không ai tin hắn, dù không bỏ tù hắn, nhưng hắn cảm thấy nhục nhã với mọi người, nhất là con bé.
Sáng hôm sau, cả xóm đều biết tin Chí Phở định hiếp dâm con H. bị xã bắt. Mọi người nhìn hắn với con mắt khinh khi, thậm chí có người chửi sau lưng hắn, nhưng cố tình nói lớn cho hắn nghe. Ông 3 Lèo cũng không khuyến mãi mấy cục xí quách cho hắn như mọi khi, từ hôm đó, hắn nghỉ nhậu... buổi chiều hắn đi quanh quẩn, đến tối thì về chòi ngủ, được mấy hôm thì hắn thấy sức mình yếu dần, lao động không nổi, không có rượu, hắn thấy mình yếu đi nhiều, người ta cho hắn nghỉ, không mướn nữa, ban ngày hắn đi lang thang, ban đêm về chòi ... Hắn đau khổ cùng cực, hắn cũng là con người, cũng biết đâu là phải, đâu là quấy, chỉ có điều trong con mắt mọi người hắn là thứ rác bẩn, hắn chỉ có thể làm điều xấu, không thể làm điều tốt như mọi người ư ?. Hắn cố sống phần còn lại của cuộc đời mình, nhưng cuộc đời này chỉ tiếp nhận hắn như một phần thừa, vứt đi thì không nở, mà không vứt thì cưu mang ghẻ lạnh ...
Đêm nay hắn thấy mình yếu lắm, có lúc nửa mơ, nửa tỉnh, hắn thấy một Phật bà, gương mặt phúc hậu, trong cái kho kiến thức nghèo nàn của hắn thì hình như là Phật Quan Âm Bồ Tát, Phật Cứu Khổ Cứu Nạn, Phật Bà nở nụ ười hiền từ, nắm tay hắn dẫn đi, hắn hỏi Bà dẫn hắn đi đâu ? Phật Bà bảo : “Cuộc đời là bể khổ, con ở đó đã đủ rồi, bây giờ theo ta về một nơi mà con không thấy khổ nữa” Hắn nói : “Thế sao Phật không gọi con đi sớm một chút, để con khổ thế này?” Đức Quan Âm hiền từ nói :”Đó là số kiếp, con phải chịu, bây giờ hết rồi. Thôi đi theo ta” Thế là hắn sung sướng đi theo Phật, lòng hắn tràn đầy hạnh phúc, như một đứa con xa mẹ lâu ngày được trở về trong sự yêu thương, đùm bộc của mẹ hiền, hắn nở nụ cười mãn nguyện.
Buổi sáng như thường lệ, ông Công cụt ra dọn tiệm thì thấy hắn vẫn nằm đó, co quắp người lại, ông Công lay hắn dậy, nhưng người hắn lạnh ngắt, cứng đơ, ông Công la lên, mọi người chạy đến thì hắn đã chết từ lúc nào ...
PCL 16/01/2007
Mục lục
Người đàn ông bất hạnh
Người đàn ông bất hạnh
Phan Cửu LongChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.
Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.Đánh máy : Phan Cửu Long Nguồn: VNTQ - Phan Cửu LongĐược bạn: NHDT đưa lên vào ngày: 23 tháng 3 năm 2007
|
Khuê Việt Trường
Người Đàn Ông Hôm Qua
Trần là một cây đại thụ trong rừng cây có muôn trùng cây lớn. Tôi luôn luôn thích làm một cây dương xỉ bé nhỏ để được những giọt nước mưa từ bóng cây anh cao lớn kia. Anh kiên trì theo đuổi tôi giống như một người lặng lẽ đếm dấu chân mình trên bờ cát biển trùng xạ Tôi xóa mãi dấu chân mình như sợ anh theo đuổi, nhưng cuối cùng tôi phải ngã vào bờ vai rộng của anh để được khóc, được cười hoặc được nói năng huyên thuyên. Tôi đợi một ngày được cùng anh ăn bữa cơm chung dưới ngọn đèn dầu khi thành phố mất điện, tôi đợi được pha cho anh ly cà phê khi anh mải mê làm việc cho đến khuya. Tôi còn nói với anh:- Khi em và anh già rồi, em sẽ nhổ những sợi tóc bạc cho anh. Anh đừng có thấy em già để rồi lại ngã lòng với người đàn bà khác đó nghe chưa?Anh lắc đầu:- Người đàn ông khi đã yêu thật rồi thì rất khó lãng quên. Em giống như ly cà phê buổi sáng, uống thét rồi quen.Tôi không biết có ai ví von người yêu của mình như ly cà phê buổi sáng không? Nhưng tôi cảm thấy như trong lòng mình đã đầy ắp nỗi hân hoan, được dạo cùng anh qua những con đường làng lớn nhỏ ở ngoại ô thành phố. Ở nơi chúng tôi đến bóng nắng dường như mềm hơn nắng trong thành phố. Ở đó không khí trộn cùng hương của cỏ cây, khiến cho lòng người thanh thản và cảm thấy yêu người hơn. Có khi xe đi qua, những bóng cây đang nghiêng chào dòng sông. Anh dừng xe lại và xoay người ôm hôn tôi trong bóng mát cỏ cây như thể trên thế gian này chẳng ai tò mò nhìn hai chúng tôi. Có khi tôi từ chối:- Anh làm như anh chưa hôn em bao giờ!Anh cười trong nắng gió:- Môi em ngọt như đường phèn.Trần xạo đó, bởi tôi biết anh chẳng ăn đường phèn bao giờ. Đường phèn sản xuất từ Quảng Ngãi, có màu trắng thủy tinh. Anh nhắc đến đường phèn bởi vì có lần anh đi công tác ở Quảng Ngãi đã ký ca ký cóp mang về cho tôi một ký. Ký đường phèn đó tôi cũng chẳng biết dùng để làm gì. Khi tôi hỏi anh thì anh pha trò: "Em cứ dùng đường để nấu chè… đậu xanh đánh. Nhớ để dành cho anh một chén".Càng quen Trần, tôi càng cảm nhận rằng anh đã cho tôi rất nhiều, anh mang cho tôi một thứ tình yêu luôn luôn mới mẻ, pha chút lãng mạn của những chàng hiệp sĩ thời xưa. Tôi không biết anh đọc thơ của ai, nhớ thơ của ai hay thơ của anh mà giữa không gian của tình yêu, anh luôn đọc cho tôi nghe. Tôi chẳng hề nhớ những câu thơ anh đọc, nhưng tôi thích nghe những âm thanh trầm bổng anh đọc và cũng không dám ngắt lời anh vì sợ anh giận.Cuối mùa đông, những cây bàng dọc biển vàng hết lá và cứ chao rụng xuống con đường lộng gió. Đó là kỷ niệm mỗi buổi chiều anh đón tôi khi tan sở làm. Trần đã dạy cho tôi nhiều điều, anh dạy cho tôi mạnh dạn bước chân vào đời, dạy cho tôi biết như thế nào là nỗi nhớ. Nhưng có một điều anh không dạy cho tôi được, khi những lúc không có anh, tôi đã gửi lòng mình cho Vũ.Tôi vẫn tự hỏi là có phải tôi đang tham dự một trò chơi ú tim với một lúc hai người đàn ông khi tôi đã hứa hôn với Trần, đợi sau khi anh đủ tiền mua một căn nhà nhỏ thì hai đứa bắt đầu cuộc sống riêng. Tôi cũng không hiểu tại sao khi quen anh cả năm năm trời, tưởng rằng chẳng có ai có thể thay đổi trái tim tôi, mà tôi lại chao lòng với một người đàn ông khác, người đàn ông đó không phải là cây đại thụ mà chỉ là vạt cỏ nhỏ bên lề đường.Vũ về phòng tôi làm việc với dáng vẻ lấc cấc khiến ngay ngày đầu tiên chạm gặp là tôi đã không chịu nổi. Vũ hút thuốc, loại Cotab tỏa ra một mùi khen khét. Tôi nói: "Anh không hút thuốc được sao anh Vũ?". Vũ cười: "Tôi chỉ không hút thuốc trước mặt người con gái tôi yêu mà thôi". Tôi đem chuyện cơ quan về nói với Trần. Anh tìm đến cơ quan, rồi trở về: "Em có thích thay đổi công tác không?" Tôi lắc đầu: "Thôi kệ hắn tạ Em không quan tâm đến hắn nữa".Có một đêm Trần không đi xem chương trình ca nhạc mà tôi rất thích. Hôm đó tôi tìm mãi không ra một người bạn nào để đi xem chung với mình. Cơn mưa vỗ về đêm hôm ấy có phải là định mệnh khi Vũ ghé nhà tôi chơi, rồi cùng đi xem ca nhạc chung với tôi. Mái hiên nhà trú mưa đã đồng lõa với nụ hôn cưỡng ép của Vũ. Tôi không hiểu tại sao tôi không vùng chạy khỏi mái hiên nhà đó? Và tại sao tôi lại có một cảm giác lạ như thể tôi đã đồng lõa với Vũ. Rồi từ đó tôi bắt đầu trở thành người nói dối điêu luyện với Trần. "Ngày mai em đi với mẹ em qua bên bác Tư". "Mẹ em bị bệnh, em phải ở nhà đi chợ". Thời gian hẹn gặp ngày xưa không cần đo đếm, thì giờ đây tôi lại nôn nã rời xa Trần như thể tôi sợ rằng nếu ở bên anh lâu tôi sẽ òa khóc lên, kể với anh rằng tôi đã từng trốn anh để đi chơi với người đàn ông khác.Cuộc sống luôn luôn phải có sự chọn lựa. Không thể đặt một lúc hai bước chân của bạn về hai con đường rẽ khác nhau khi chợt gặp ngã ba trước mặt. Tôi biết rằng mất Trần tôi sẽ hụt hẫng, bởi anh là bóng cả của cây đại thụ. Còn với Vũ là sự lún sâu. Càng lún sâu hơn nữa khi cơ quan luôn sắp xếp cho tôi và Vũ đi công tác xạ Trần giống như một vị thánh, không hoài nghi tình yêu của tôi. Còn Vũ thì biết rằng tôi rất yêu Trần, cứ khéo léo giăng bẫy, tôi sập bẫy mà tìm mãi chẳng có lối ra nào. Tôi không hiểu rằng Trần đã biết được gì, và ngay cả khi anh biết chuyện, tôi sẽ ra sao?*Tôi nói với Trần là tôi đi Đà Lạt ba ngày dự hội nghị khách hàng của công tỵ Trần nói: "Anh lên Đà Lạt được không?". Tôi lắc đầu: "Em đi cả đoàn, có cả chị Ngà tổ chức nữa mà". Hai đứa ghé vào quán uống cà phê, anh nhìn tôi với cặp mắt rất lạ mà lúc ấy tôi tưởng rằng anh buồn vì phải xa tôi mấy ngày: "Em nói có thật không?".Thực ra là chuyến đi chỉ có tài xế, tôi và Vũ. Tôi không thể từ chối chuyến đi kéo dài tới 5 ngày, lại càng không từ chối đi chung với Vũ, dẫu rằng tôi rất ngại khi phải đi xa với Vũ, Trần biết thì chuyện gì sẽ xảy ra?Mỗi ngày tôi gọi điện cho anh một lần. Vũ soi mói nhìn tôi: "Gọi cho chồng sắp cưới phải không?". Còn anh thì vẫn nói câu quen thuộc: "Em sắp về chưa?". Tôi đâu biết rằng Trần cũng có mặt ở Đà Lạt.Tôi về, điện thoại của Trần không có tín hiệu. Điện thoại di động của anh từ chối cuộc gọi, anh đã tắt máy rồi. Tôi đi tìm anh, cuối cùng gặp Trần trong quán cà phê quen. Tôi vẫn vô tình: "Anh không thèm ra đón em à?". Trần cười rất lạ: "Anh quên, anh xin lỗi".Tôi liến thoắng kể cho Trần nghe chuyện tôi đi Đà Lạt. Tôi kể tôi và chị Nga đi chợ Hòa Bình, đi thăm vườn hoa thành phố. Trần cười rất tươi. Chưa bao giờ anh cười tươi như thế: "Mình chia tay nhau đi, Nga ạ". Tôi ngạc nhiên: "Anh bệnh à?". Trần đứng dậy, anh để trên bàn một bức ảnh. Vâng, chỉ một bức ảnh nhưng tôi không thể nhón chân chạy theo anh. Bức ảnh tôi và Vũ chụp chung với nhau ở Đà Lạt. Rõ ràng là tôi đã xé nó và ném vào sọt rác trước tiệm ảnh tận Đà Lạt mà. Bức ảnh đã được nhặt lại và dán cẩn thận.Cây đại thụ của tôi đang đổ bóng mình trên đường. Tôi nhìn theo anh, và khóc. Hết
Mục lục
Người Đàn Ông Hôm Qua
Người Đàn Ông Hôm Qua
Khuê Việt TrườngChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.
Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: may4phuong.netĐược bạn: mickey đưa lên vào ngày: 20 tháng 3 năm 2004
|
Khuê Việt Trường
Người Đàn Ông Hôm Qua
Trần là một cây đại thụ trong rừng cây có muôn trùng cây lớn. Tôi luôn luôn thích làm một cây dương xỉ bé nhỏ để được những giọt nước mưa từ bóng cây anh cao lớn kia. Anh kiên trì theo đuổi tôi giống như một người lặng lẽ đếm dấu chân mình trên bờ cát biển trùng xạ Tôi xóa mãi dấu chân mình như sợ anh theo đuổi, nhưng cuối cùng tôi phải ngã vào bờ vai rộng của anh để được khóc, được cười hoặc được nói năng huyên thuyên. Tôi đợi một ngày được cùng anh ăn bữa cơm chung dưới ngọn đèn dầu khi thành phố mất điện, tôi đợi được pha cho anh ly cà phê khi anh mải mê làm việc cho đến khuya. Tôi còn nói với anh:- Khi em và anh già rồi, em sẽ nhổ những sợi tóc bạc cho anh. Anh đừng có thấy em già để rồi lại ngã lòng với người đàn bà khác đó nghe chưa?Anh lắc đầu:- Người đàn ông khi đã yêu thật rồi thì rất khó lãng quên. Em giống như ly cà phê buổi sáng, uống thét rồi quen.Tôi không biết có ai ví von người yêu của mình như ly cà phê buổi sáng không? Nhưng tôi cảm thấy như trong lòng mình đã đầy ắp nỗi hân hoan, được dạo cùng anh qua những con đường làng lớn nhỏ ở ngoại ô thành phố. Ở nơi chúng tôi đến bóng nắng dường như mềm hơn nắng trong thành phố. Ở đó không khí trộn cùng hương của cỏ cây, khiến cho lòng người thanh thản và cảm thấy yêu người hơn. Có khi xe đi qua, những bóng cây đang nghiêng chào dòng sông. Anh dừng xe lại và xoay người ôm hôn tôi trong bóng mát cỏ cây như thể trên thế gian này chẳng ai tò mò nhìn hai chúng tôi. Có khi tôi từ chối:- Anh làm như anh chưa hôn em bao giờ!Anh cười trong nắng gió:- Môi em ngọt như đường phèn.Trần xạo đó, bởi tôi biết anh chẳng ăn đường phèn bao giờ. Đường phèn sản xuất từ Quảng Ngãi, có màu trắng thủy tinh. Anh nhắc đến đường phèn bởi vì có lần anh đi công tác ở Quảng Ngãi đã ký ca ký cóp mang về cho tôi một ký. Ký đường phèn đó tôi cũng chẳng biết dùng để làm gì. Khi tôi hỏi anh thì anh pha trò: "Em cứ dùng đường để nấu chè… đậu xanh đánh. Nhớ để dành cho anh một chén".Càng quen Trần, tôi càng cảm nhận rằng anh đã cho tôi rất nhiều, anh mang cho tôi một thứ tình yêu luôn luôn mới mẻ, pha chút lãng mạn của những chàng hiệp sĩ thời xưa. Tôi không biết anh đọc thơ của ai, nhớ thơ của ai hay thơ của anh mà giữa không gian của tình yêu, anh luôn đọc cho tôi nghe. Tôi chẳng hề nhớ những câu thơ anh đọc, nhưng tôi thích nghe những âm thanh trầm bổng anh đọc và cũng không dám ngắt lời anh vì sợ anh giận.Cuối mùa đông, những cây bàng dọc biển vàng hết lá và cứ chao rụng xuống con đường lộng gió. Đó là kỷ niệm mỗi buổi chiều anh đón tôi khi tan sở làm. Trần đã dạy cho tôi nhiều điều, anh dạy cho tôi mạnh dạn bước chân vào đời, dạy cho tôi biết như thế nào là nỗi nhớ. Nhưng có một điều anh không dạy cho tôi được, khi những lúc không có anh, tôi đã gửi lòng mình cho Vũ.Tôi vẫn tự hỏi là có phải tôi đang tham dự một trò chơi ú tim với một lúc hai người đàn ông khi tôi đã hứa hôn với Trần, đợi sau khi anh đủ tiền mua một căn nhà nhỏ thì hai đứa bắt đầu cuộc sống riêng. Tôi cũng không hiểu tại sao khi quen anh cả năm năm trời, tưởng rằng chẳng có ai có thể thay đổi trái tim tôi, mà tôi lại chao lòng với một người đàn ông khác, người đàn ông đó không phải là cây đại thụ mà chỉ là vạt cỏ nhỏ bên lề đường.Vũ về phòng tôi làm việc với dáng vẻ lấc cấc khiến ngay ngày đầu tiên chạm gặp là tôi đã không chịu nổi. Vũ hút thuốc, loại Cotab tỏa ra một mùi khen khét. Tôi nói: "Anh không hút thuốc được sao anh Vũ?". Vũ cười: "Tôi chỉ không hút thuốc trước mặt người con gái tôi yêu mà thôi". Tôi đem chuyện cơ quan về nói với Trần. Anh tìm đến cơ quan, rồi trở về: "Em có thích thay đổi công tác không?" Tôi lắc đầu: "Thôi kệ hắn tạ Em không quan tâm đến hắn nữa".Có một đêm Trần không đi xem chương trình ca nhạc mà tôi rất thích. Hôm đó tôi tìm mãi không ra một người bạn nào để đi xem chung với mình. Cơn mưa vỗ về đêm hôm ấy có phải là định mệnh khi Vũ ghé nhà tôi chơi, rồi cùng đi xem ca nhạc chung với tôi. Mái hiên nhà trú mưa đã đồng lõa với nụ hôn cưỡng ép của Vũ. Tôi không hiểu tại sao tôi không vùng chạy khỏi mái hiên nhà đó? Và tại sao tôi lại có một cảm giác lạ như thể tôi đã đồng lõa với Vũ. Rồi từ đó tôi bắt đầu trở thành người nói dối điêu luyện với Trần. "Ngày mai em đi với mẹ em qua bên bác Tư". "Mẹ em bị bệnh, em phải ở nhà đi chợ". Thời gian hẹn gặp ngày xưa không cần đo đếm, thì giờ đây tôi lại nôn nã rời xa Trần như thể tôi sợ rằng nếu ở bên anh lâu tôi sẽ òa khóc lên, kể với anh rằng tôi đã từng trốn anh để đi chơi với người đàn ông khác.Cuộc sống luôn luôn phải có sự chọn lựa. Không thể đặt một lúc hai bước chân của bạn về hai con đường rẽ khác nhau khi chợt gặp ngã ba trước mặt. Tôi biết rằng mất Trần tôi sẽ hụt hẫng, bởi anh là bóng cả của cây đại thụ. Còn với Vũ là sự lún sâu. Càng lún sâu hơn nữa khi cơ quan luôn sắp xếp cho tôi và Vũ đi công tác xạ Trần giống như một vị thánh, không hoài nghi tình yêu của tôi. Còn Vũ thì biết rằng tôi rất yêu Trần, cứ khéo léo giăng bẫy, tôi sập bẫy mà tìm mãi chẳng có lối ra nào. Tôi không hiểu rằng Trần đã biết được gì, và ngay cả khi anh biết chuyện, tôi sẽ ra sao?*Tôi nói với Trần là tôi đi Đà Lạt ba ngày dự hội nghị khách hàng của công tỵ Trần nói: "Anh lên Đà Lạt được không?". Tôi lắc đầu: "Em đi cả đoàn, có cả chị Ngà tổ chức nữa mà". Hai đứa ghé vào quán uống cà phê, anh nhìn tôi với cặp mắt rất lạ mà lúc ấy tôi tưởng rằng anh buồn vì phải xa tôi mấy ngày: "Em nói có thật không?".Thực ra là chuyến đi chỉ có tài xế, tôi và Vũ. Tôi không thể từ chối chuyến đi kéo dài tới 5 ngày, lại càng không từ chối đi chung với Vũ, dẫu rằng tôi rất ngại khi phải đi xa với Vũ, Trần biết thì chuyện gì sẽ xảy ra?Mỗi ngày tôi gọi điện cho anh một lần. Vũ soi mói nhìn tôi: "Gọi cho chồng sắp cưới phải không?". Còn anh thì vẫn nói câu quen thuộc: "Em sắp về chưa?". Tôi đâu biết rằng Trần cũng có mặt ở Đà Lạt.Tôi về, điện thoại của Trần không có tín hiệu. Điện thoại di động của anh từ chối cuộc gọi, anh đã tắt máy rồi. Tôi đi tìm anh, cuối cùng gặp Trần trong quán cà phê quen. Tôi vẫn vô tình: "Anh không thèm ra đón em à?". Trần cười rất lạ: "Anh quên, anh xin lỗi".Tôi liến thoắng kể cho Trần nghe chuyện tôi đi Đà Lạt. Tôi kể tôi và chị Nga đi chợ Hòa Bình, đi thăm vườn hoa thành phố. Trần cười rất tươi. Chưa bao giờ anh cười tươi như thế: "Mình chia tay nhau đi, Nga ạ". Tôi ngạc nhiên: "Anh bệnh à?". Trần đứng dậy, anh để trên bàn một bức ảnh. Vâng, chỉ một bức ảnh nhưng tôi không thể nhón chân chạy theo anh. Bức ảnh tôi và Vũ chụp chung với nhau ở Đà Lạt. Rõ ràng là tôi đã xé nó và ném vào sọt rác trước tiệm ảnh tận Đà Lạt mà. Bức ảnh đã được nhặt lại và dán cẩn thận.Cây đại thụ của tôi đang đổ bóng mình trên đường. Tôi nhìn theo anh, và khóc. Hết
Mục lục
Người Đàn Ông Hôm Qua
Người Đàn Ông Hôm Qua
Khuê Việt TrườngChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.
Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: may4phuong.netĐược bạn: mickey đưa lên vào ngày: 20 tháng 3 năm 2004
|
Ngô Tự Lập
Người đàn ông sau cánh cửa xanh
Vì sự hèn hạ của chính mình mà tôi khóc Mỗi khi đám hàng xóm rách chuyện của tôi, với một khoái cảm kỳ lạ của đàn ông thành thị, vừa rung đùi vừa giễu Trí là dở hơi, thông thái rởm hay ếch ngồi đáy giếng, còn Trí thì ngước nhìn tôi như kẻ đồng minh cuối cùng, tôi lại cảm thấy tội tội. Nhưng dù có muốn tôi cũng không biết phải bênh vực Trí thế nào. Trí óc tôi ngắn, nó phản bội tôi, tôi lại phản bội Trí. Đám đàn ông trong xóm gồm có tôi, Hùng “thịt lợn” làm nghề mổ lợn, Hải Kều bộ đội về hưu nay gác cổng nhà tang lễ, Ba Trạc cũng bộ đội về hưu nay làm đồ sắt, Thái “lốp” buôn lốp, Đông “Gioăng” không ai biết làm gì và cậu Biền trượt đại học giờ làm nghề thợ mộc. Sang nhất là Hùng, mạnh mồm nhất cũng là Hùng. Câu cửa miệng của anh ta là: “Này ông Trí ạ. Ông nên bán quách cái đống giấy lộn đi cho đỡ chuột. Ông mà nghiên cứu được thì có mà…” Có mà thế nào, họ không nói ra, nhưng Trí cứng họng. Nói vậy chứ anh em trong xóm cũng quý nhau. Miệng xà tâm phật, tiền bạc chẳng có cho nhau nhưng được cái thật lòng. Một hôm, Trí mời tôi đến nhà, cho tôi xem giá sách. Toàn những quyển sách dày như cục gạch, cả mới lẫn cũ. - Tác phẩm của tôi đấy – Trí nói, tôi nghe giọng Trí có phần cay đắng. Tôi choáng người. Những quyển sách này, thực tình, chỉ một quyển cả đời tôi cũng không đọc hết. Nhưng khi nghe tôi thuật lại, mấy ông hàng xóm gạt đi: “Ui dào, thời buổi này, có tiền là in được tất. Gì mà chả in được. Ông có tác phẩm nhớn nào đưa đây, tôi in cho, còn dày bằng mấy ấy chứ!”. Đến lượt tôi cứng họng. Những chuyện xảy ra với Trí, tôi chẳng biết nói thế nào. Tôi nhớ, một lần cả xóm tụ tập nhân dịp Hùng “Thịt lợn” mua được chiếc T.V Liên Xô vỏ đỏ. Trí góp lời: - Trên thế giới bây giờ người ta phần lớn dùng T.V màu, thậm chí có điều khiển từ xa, chứ không còn phải bấm tay như thế này nữa rồi các bác ạ. Chủ nhà cụt hứng, đốp ngay: - Vâng nhà em “nạc hậu”, chỉ dùng đồ thải, đâu dám dùng đồ hiện đại cho hại điện! Đám Hải Kều, Ba Trạc, Đông “Gioăng”, Thái “lốp” cũng ùa vào: - Đời thủa nhà ai T.V, lại không cần nút bấm. Thế thì điều chỉnh làm sao? - Em cũng chưa nghe ai nói - Đông “Gioăng” có vẻ tư lự. Cậu Biền thợ mộc nháy nháy mắt làm ra vẻ trịnh trọng: - Có chứ. Chắc là nhà bác Trí có nhân điện! Không thể địch với chừng ấy cái mồm, Trí lắc đầu, nhìn tôi cầu cứu, nhưng tôi cúi đầu, giả vờ không để ý. Một buổi tối, cũng vào lúc cả xóm tụ tập vì chuyện gì chẳng rõ, Thái “lốp” mang đâu về một tờ Hà Nội Mới, đọc oang oang. - Thấy chưa, tôi đã nói là có loại T.V. điều khiển từ xa, vậy mà ông Trí cứ khăng khăng là không. - Đấy, ông Trí nhé, có phải cứ chúi mũi vào đống sách vở là được đâu! - Tôi khuyên ông nhé, cứ bán quách cái đống giấy lộn của ông đi cho đỡ chuột, mà cô ấy lại được vài buổi đi chợ. Trí định phản bác lại nhưng Hải Kều, Ba Trạc, Đông “Gioăng”, Hùng “Thịt lợn” và cậu Biền đều cười ồ lên vui vẻ: - Thôi bác ạ, chính bác nhớ nhầm. Chúng tôi đã bảo bác là Tây nó giỏi lắm, nó làm cả T.V điều khiển từ xa, nhưng bác không chịu tin. Chẳng lẽ chừng này con người lại đổ thừa cho bác! Tôi vô cùng hoang mang. Trong cái trí nhớ mù mịt của mình, tôi nhớ hình như Trí là người nói đúng. Nhưng suy nghĩ một lát, tôi lại có cảm giác ngược lại: “ừ, chẳng nhẽ chừng ấy con người đều nhớ nhầm?” Thế là tôi đánh trống lảng: - Thôi, thôi, có gì quan trọng đâu mà các bác! Những chuyện như thế xảy ra rất nhiều lần, khi thì với chuyện đi giày (Trí nói đi giày là nóng hay không nóng?), khi thì với chuyện mì chính (Trí nói ăn mì chính có hại hay không có hại?), và thậm chí cả chuyện tránh thai, đẻ đái (Trí nói thắt ống dẫn tinh sau này nối lại được hay không nối lại được?), khiến tôi suy nghĩ rất nhiều. Linh cảm mách bảo tôi rằng con người đọc chừng ấy quyển sách chắc phải là người hiểu biết, nhưng mặt khác tôi lại tin vào đa số. Nhiều cái đầu phải hơn một cái đầu chứ. Thiểu số phục tùng đa số, chẳng phải chúng ta đều được học như thế đó hay sao? Thế là tôi nảy ra ý định kiểm tra. ở đời, anh cứ cần cái gì thì y như rằng chẳng thấy nó đâu. Bát phở chẳng hạn. ở cái đất Hà Nội này nhìn đâu chả thấy hàng phở. Thế mà cứ lúc nào anh định ăn phở là đi rạc cẳng chẳng thấy một hàng! Cái ý định kiểm tra của tôi cũng vậy. Chờ mãi mà chẳng có dịp nào. Đầu những năm Tám mươi của thế kỷ trước, loại xe Cúp màu ốc bươu được dân buôn theo tàu Vốt cô đem về Việt Nam. Đèn tròn long lanh, đạp phát nào ăn phát ấy, chạy từ Hà Nội xuống Hải Phòng chưa hết hai lít, ngay lập tức nó đánh bạt anh Mô kích vè vè của đám lưu học sinh Đông Đức. Hết tối này đến tối khác cả xóm ngồi bàn về nó và bao giờ cái đề tài cũng chuyển sang sự ngợi ca người Nhật trước khi kết thúc bằng chuyện tiếu lâm. - Mẹ kiếp, máy êm hơn máy đàn bà một con! Với cánh đàn ông, dù là đàn ông trong cái ngõ tồi tàn của chúng tôi, chiếc xe màu ốc bươu ấy vẫn trở thành niềm mơ ước cháy bỏng. Thế nhưng Trí tương ngay một câu: - Này, nhưng tôi thấy cái bình xăng hơi dở. Theo tôi, đáng lẽ họ phải biến cả phần dưới yên thành bình xăng, như thế vừa chứa được nhiều xăng, vừa đẹp dáng. Chứ cái anh Cúp này, bình xăng đã bé lại thù lù một cục, cộng thêm hai cái đèn xi nhan như hai nắm đấm, thô lắm. Như thường lệ, Trí chưa kịp dứt lời, những tiếng phản bác đã ồ lên: - Cái gì, ông đùa đấy à? Đầu óc người Nhật chứ có phải cứt đâu! Hải Kều nói, Ba Trạc nói, Đông “Gioăng” nói, Thái “lốp” nói, Hùng và cậu Biền cũng nói. Riêng tôi không nói. Tôi mừng như bắt được vàng. “Bình xăng dưới yên, bình xăng dưới yên” – tôi nhủ thầm trong bụng – “Trí nói bình xăng dưới yên. Lần này mình phải ghi nhớ thật kỹ”. Lần này tôi sẽ không ba phải nữa. Lần này tôi sẽ đóng vai trò phân xử đúng sai. Cả Trí lẫn đám đàn ông trong xóm đều không hề biết kế hoạch của tôi. Sau đó còn nhiều cuộc tranh cãi khác, nhưng tôi kiên quyết không chú ý đến nữa. Tôi biết mình đầu óc ngắn, không thể nhớ nhiều. Tập trung vào câu nói của Trí đã đủ mệt rồi. Nhà Trí ở đầu ngõ, hôm nào đi làm về tôi cũng đạp xe chậm lại, ngoái nhìn cái cửa gỗ sơn xanh đã bạc phếch của anh và đọc thầm trong bụng: “Bình xăng ở dưới yên. Trí nói bình xăng ở dưới yên”. Có những hôm Trí đang làm gì đó trong nhà, trông thấy tôi, anh đẩy cửa ra: - Có gì mà tươi thế! - Tươi chứ, tươi chứ! – Tôi nói lấp lửng, vừa buồn cười vừa cảm thấy thú vị với cái bí mật nhỏ nhỏ của mình. Và tôi còn nghĩ thầm “Tôi đang bảo vệ ông đây, ông có biết không!” Câu chuyện kết thúc một cách ngớ ngẩn, sau đó khoảng ba năm. Cuối những năm 1980, những chiếc Su 100 đầu tiên xuất hiện và tiếp theo là loại Rim hai đầy kiêu hãnh. Lại Hùng, anh hàng thịt tốt số, dắt về con Rim đầu tiên của xóm. So với nó, cái anh Cúp ngày xưa mới thảm hại làm sao! Đám đàn ông lại có cớ tụ tập. Khi tiệc rượu đang tràn cung mây, Trí đứng lên nói với một giọng nhỏ nhẹ, đầy tự tin. Anh vẫn chưa quên cuộc tranh cãi. - Các ông thấy chưa, mấy năm trước tôi đã nói rằng phải làm bình xăng chạy dài suốt yên xe, đúng không. - Cái gì, ông nói thế nào ấy chứ. Chính chúng tôi, chính mồm tôi đây này, tôi nói rằng thế nào người Nhật họ cũng cải tiến nữa, năm nào họ cũng cải tiến, họ sẽ biến toàn bộ phần dưới yên thành bình xăng, vừa chứa được nhiều xăng vừa đẹp dáng. Mà họ chẳng chịu dừng ở đấy đâu, họ còn cải tiến nữa! Còn ông thì cứ khăng khăng là con Cúp đã đẹp lắm rồi, sửa thế nào được. Có anh em đây làm chứng. Đông “Gioăng” hùa theo: - Tôi còn nhớ khi đó tôi nói sẵng với ông, rằng đầu óc người Nhật có phải cứt đâu! Ông nhớ không? Thế nào ông Ban? Sao ông toàn chơi cái kiểu ngậm miệng ăn tiền thế là thế nào? - Tôi nhớ, tôi nhớ. Ông Trí ông ấy nói rằng bình xăng ở dưới yên… - Con khỉ! Thì ai bảo bình xăng ở trên yên! – Hùng “Thịt lợn” mở khoá đánh tách rồi ngửa cái yên xe còn bọc nguyên ni lông – Bình xăng chẳng ở dưới yên thì ở dưới cái rốn mẹ thằng ăn mày à! Nói thế mà cũng nói! Tôi đắng cả miệng, chẳng biết nói sao. Cũng may, Đông “Gioăng” đã sốt ruột: - Thằng Hùng đúng. Thằng nào có xe, có rượu, thằng ấy nói đúng, xong chưa! - Đúng! – Tất cả đồng thanh. Hải “Kều” vuốt ve cái mặt đồng hồ, xuýt xoa: - Đã quá các bố ạ. Bố Hùng là nhất đấy! - Nào cạn chén. Trăm phần trăm nhé! – Tất cả đều hồ hởi. Tôi cũng cạn chén và tặc lưỡi. Chiều hôm sau, đi làm về, tôi lại nhìn thấy Trí đứng sau cái cánh cửa gỗ sơn xanh đã bạc phếch của anh nhưng giả vờ không biết. - Thôi, kệ xác. Ừ, chẳng lẽ chừng ấy cái đầu đều nhầm cả…
Mục lục
Người đàn ông sau cánh cửa xanh
Người đàn ông sau cánh cửa xanh
Ngô Tự LậpChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.
Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.Đánh máy: Sao Băng Nguồn: Báo Văn nghệĐược bạn: Ct.Ly đưa lên vào ngày: 25 tháng 9 năm 2006
|
Ngô Tự Lập
Người đàn ông sau cánh cửa xanh
Vì sự hèn hạ của chính mình mà tôi khóc Mỗi khi đám hàng xóm rách chuyện của tôi, với một khoái cảm kỳ lạ của đàn ông thành thị, vừa rung đùi vừa giễu Trí là dở hơi, thông thái rởm hay ếch ngồi đáy giếng, còn Trí thì ngước nhìn tôi như kẻ đồng minh cuối cùng, tôi lại cảm thấy tội tội. Nhưng dù có muốn tôi cũng không biết phải bênh vực Trí thế nào. Trí óc tôi ngắn, nó phản bội tôi, tôi lại phản bội Trí. Đám đàn ông trong xóm gồm có tôi, Hùng “thịt lợn” làm nghề mổ lợn, Hải Kều bộ đội về hưu nay gác cổng nhà tang lễ, Ba Trạc cũng bộ đội về hưu nay làm đồ sắt, Thái “lốp” buôn lốp, Đông “Gioăng” không ai biết làm gì và cậu Biền trượt đại học giờ làm nghề thợ mộc. Sang nhất là Hùng, mạnh mồm nhất cũng là Hùng. Câu cửa miệng của anh ta là: “Này ông Trí ạ. Ông nên bán quách cái đống giấy lộn đi cho đỡ chuột. Ông mà nghiên cứu được thì có mà…” Có mà thế nào, họ không nói ra, nhưng Trí cứng họng. Nói vậy chứ anh em trong xóm cũng quý nhau. Miệng xà tâm phật, tiền bạc chẳng có cho nhau nhưng được cái thật lòng. Một hôm, Trí mời tôi đến nhà, cho tôi xem giá sách. Toàn những quyển sách dày như cục gạch, cả mới lẫn cũ. - Tác phẩm của tôi đấy – Trí nói, tôi nghe giọng Trí có phần cay đắng. Tôi choáng người. Những quyển sách này, thực tình, chỉ một quyển cả đời tôi cũng không đọc hết. Nhưng khi nghe tôi thuật lại, mấy ông hàng xóm gạt đi: “Ui dào, thời buổi này, có tiền là in được tất. Gì mà chả in được. Ông có tác phẩm nhớn nào đưa đây, tôi in cho, còn dày bằng mấy ấy chứ!”. Đến lượt tôi cứng họng. Những chuyện xảy ra với Trí, tôi chẳng biết nói thế nào. Tôi nhớ, một lần cả xóm tụ tập nhân dịp Hùng “Thịt lợn” mua được chiếc T.V Liên Xô vỏ đỏ. Trí góp lời: - Trên thế giới bây giờ người ta phần lớn dùng T.V màu, thậm chí có điều khiển từ xa, chứ không còn phải bấm tay như thế này nữa rồi các bác ạ. Chủ nhà cụt hứng, đốp ngay: - Vâng nhà em “nạc hậu”, chỉ dùng đồ thải, đâu dám dùng đồ hiện đại cho hại điện! Đám Hải Kều, Ba Trạc, Đông “Gioăng”, Thái “lốp” cũng ùa vào: - Đời thủa nhà ai T.V, lại không cần nút bấm. Thế thì điều chỉnh làm sao? - Em cũng chưa nghe ai nói - Đông “Gioăng” có vẻ tư lự. Cậu Biền thợ mộc nháy nháy mắt làm ra vẻ trịnh trọng: - Có chứ. Chắc là nhà bác Trí có nhân điện! Không thể địch với chừng ấy cái mồm, Trí lắc đầu, nhìn tôi cầu cứu, nhưng tôi cúi đầu, giả vờ không để ý. Một buổi tối, cũng vào lúc cả xóm tụ tập vì chuyện gì chẳng rõ, Thái “lốp” mang đâu về một tờ Hà Nội Mới, đọc oang oang. - Thấy chưa, tôi đã nói là có loại T.V. điều khiển từ xa, vậy mà ông Trí cứ khăng khăng là không. - Đấy, ông Trí nhé, có phải cứ chúi mũi vào đống sách vở là được đâu! - Tôi khuyên ông nhé, cứ bán quách cái đống giấy lộn của ông đi cho đỡ chuột, mà cô ấy lại được vài buổi đi chợ. Trí định phản bác lại nhưng Hải Kều, Ba Trạc, Đông “Gioăng”, Hùng “Thịt lợn” và cậu Biền đều cười ồ lên vui vẻ: - Thôi bác ạ, chính bác nhớ nhầm. Chúng tôi đã bảo bác là Tây nó giỏi lắm, nó làm cả T.V điều khiển từ xa, nhưng bác không chịu tin. Chẳng lẽ chừng này con người lại đổ thừa cho bác! Tôi vô cùng hoang mang. Trong cái trí nhớ mù mịt của mình, tôi nhớ hình như Trí là người nói đúng. Nhưng suy nghĩ một lát, tôi lại có cảm giác ngược lại: “ừ, chẳng nhẽ chừng ấy con người đều nhớ nhầm?” Thế là tôi đánh trống lảng: - Thôi, thôi, có gì quan trọng đâu mà các bác! Những chuyện như thế xảy ra rất nhiều lần, khi thì với chuyện đi giày (Trí nói đi giày là nóng hay không nóng?), khi thì với chuyện mì chính (Trí nói ăn mì chính có hại hay không có hại?), và thậm chí cả chuyện tránh thai, đẻ đái (Trí nói thắt ống dẫn tinh sau này nối lại được hay không nối lại được?), khiến tôi suy nghĩ rất nhiều. Linh cảm mách bảo tôi rằng con người đọc chừng ấy quyển sách chắc phải là người hiểu biết, nhưng mặt khác tôi lại tin vào đa số. Nhiều cái đầu phải hơn một cái đầu chứ. Thiểu số phục tùng đa số, chẳng phải chúng ta đều được học như thế đó hay sao? Thế là tôi nảy ra ý định kiểm tra. ở đời, anh cứ cần cái gì thì y như rằng chẳng thấy nó đâu. Bát phở chẳng hạn. ở cái đất Hà Nội này nhìn đâu chả thấy hàng phở. Thế mà cứ lúc nào anh định ăn phở là đi rạc cẳng chẳng thấy một hàng! Cái ý định kiểm tra của tôi cũng vậy. Chờ mãi mà chẳng có dịp nào. Đầu những năm Tám mươi của thế kỷ trước, loại xe Cúp màu ốc bươu được dân buôn theo tàu Vốt cô đem về Việt Nam. Đèn tròn long lanh, đạp phát nào ăn phát ấy, chạy từ Hà Nội xuống Hải Phòng chưa hết hai lít, ngay lập tức nó đánh bạt anh Mô kích vè vè của đám lưu học sinh Đông Đức. Hết tối này đến tối khác cả xóm ngồi bàn về nó và bao giờ cái đề tài cũng chuyển sang sự ngợi ca người Nhật trước khi kết thúc bằng chuyện tiếu lâm. - Mẹ kiếp, máy êm hơn máy đàn bà một con! Với cánh đàn ông, dù là đàn ông trong cái ngõ tồi tàn của chúng tôi, chiếc xe màu ốc bươu ấy vẫn trở thành niềm mơ ước cháy bỏng. Thế nhưng Trí tương ngay một câu: - Này, nhưng tôi thấy cái bình xăng hơi dở. Theo tôi, đáng lẽ họ phải biến cả phần dưới yên thành bình xăng, như thế vừa chứa được nhiều xăng, vừa đẹp dáng. Chứ cái anh Cúp này, bình xăng đã bé lại thù lù một cục, cộng thêm hai cái đèn xi nhan như hai nắm đấm, thô lắm. Như thường lệ, Trí chưa kịp dứt lời, những tiếng phản bác đã ồ lên: - Cái gì, ông đùa đấy à? Đầu óc người Nhật chứ có phải cứt đâu! Hải Kều nói, Ba Trạc nói, Đông “Gioăng” nói, Thái “lốp” nói, Hùng và cậu Biền cũng nói. Riêng tôi không nói. Tôi mừng như bắt được vàng. “Bình xăng dưới yên, bình xăng dưới yên” – tôi nhủ thầm trong bụng – “Trí nói bình xăng dưới yên. Lần này mình phải ghi nhớ thật kỹ”. Lần này tôi sẽ không ba phải nữa. Lần này tôi sẽ đóng vai trò phân xử đúng sai. Cả Trí lẫn đám đàn ông trong xóm đều không hề biết kế hoạch của tôi. Sau đó còn nhiều cuộc tranh cãi khác, nhưng tôi kiên quyết không chú ý đến nữa. Tôi biết mình đầu óc ngắn, không thể nhớ nhiều. Tập trung vào câu nói của Trí đã đủ mệt rồi. Nhà Trí ở đầu ngõ, hôm nào đi làm về tôi cũng đạp xe chậm lại, ngoái nhìn cái cửa gỗ sơn xanh đã bạc phếch của anh và đọc thầm trong bụng: “Bình xăng ở dưới yên. Trí nói bình xăng ở dưới yên”. Có những hôm Trí đang làm gì đó trong nhà, trông thấy tôi, anh đẩy cửa ra: - Có gì mà tươi thế! - Tươi chứ, tươi chứ! – Tôi nói lấp lửng, vừa buồn cười vừa cảm thấy thú vị với cái bí mật nhỏ nhỏ của mình. Và tôi còn nghĩ thầm “Tôi đang bảo vệ ông đây, ông có biết không!” Câu chuyện kết thúc một cách ngớ ngẩn, sau đó khoảng ba năm. Cuối những năm 1980, những chiếc Su 100 đầu tiên xuất hiện và tiếp theo là loại Rim hai đầy kiêu hãnh. Lại Hùng, anh hàng thịt tốt số, dắt về con Rim đầu tiên của xóm. So với nó, cái anh Cúp ngày xưa mới thảm hại làm sao! Đám đàn ông lại có cớ tụ tập. Khi tiệc rượu đang tràn cung mây, Trí đứng lên nói với một giọng nhỏ nhẹ, đầy tự tin. Anh vẫn chưa quên cuộc tranh cãi. - Các ông thấy chưa, mấy năm trước tôi đã nói rằng phải làm bình xăng chạy dài suốt yên xe, đúng không. - Cái gì, ông nói thế nào ấy chứ. Chính chúng tôi, chính mồm tôi đây này, tôi nói rằng thế nào người Nhật họ cũng cải tiến nữa, năm nào họ cũng cải tiến, họ sẽ biến toàn bộ phần dưới yên thành bình xăng, vừa chứa được nhiều xăng vừa đẹp dáng. Mà họ chẳng chịu dừng ở đấy đâu, họ còn cải tiến nữa! Còn ông thì cứ khăng khăng là con Cúp đã đẹp lắm rồi, sửa thế nào được. Có anh em đây làm chứng. Đông “Gioăng” hùa theo: - Tôi còn nhớ khi đó tôi nói sẵng với ông, rằng đầu óc người Nhật có phải cứt đâu! Ông nhớ không? Thế nào ông Ban? Sao ông toàn chơi cái kiểu ngậm miệng ăn tiền thế là thế nào? - Tôi nhớ, tôi nhớ. Ông Trí ông ấy nói rằng bình xăng ở dưới yên… - Con khỉ! Thì ai bảo bình xăng ở trên yên! – Hùng “Thịt lợn” mở khoá đánh tách rồi ngửa cái yên xe còn bọc nguyên ni lông – Bình xăng chẳng ở dưới yên thì ở dưới cái rốn mẹ thằng ăn mày à! Nói thế mà cũng nói! Tôi đắng cả miệng, chẳng biết nói sao. Cũng may, Đông “Gioăng” đã sốt ruột: - Thằng Hùng đúng. Thằng nào có xe, có rượu, thằng ấy nói đúng, xong chưa! - Đúng! – Tất cả đồng thanh. Hải “Kều” vuốt ve cái mặt đồng hồ, xuýt xoa: - Đã quá các bố ạ. Bố Hùng là nhất đấy! - Nào cạn chén. Trăm phần trăm nhé! – Tất cả đều hồ hởi. Tôi cũng cạn chén và tặc lưỡi. Chiều hôm sau, đi làm về, tôi lại nhìn thấy Trí đứng sau cái cánh cửa gỗ sơn xanh đã bạc phếch của anh nhưng giả vờ không biết. - Thôi, kệ xác. Ừ, chẳng lẽ chừng ấy cái đầu đều nhầm cả…
Mục lục
Người đàn ông sau cánh cửa xanh
Người đàn ông sau cánh cửa xanh
Ngô Tự LậpChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.
Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.Đánh máy: Sao Băng Nguồn: Báo Văn nghệĐược bạn: Ct.Ly đưa lên vào ngày: 25 tháng 9 năm 2006
|
Sara Gallardo
Người đàn ông trong cây bách tán
Dịch giả: Hoàng Ngọc Tuấn
Bản dịch của Hoàng Ngọc-Tuấn,
riêng tặng Hoàng Ngọc Diệp, người bay như chim.
SARA GALLARDO (1931-1988)
Sara Gallardo, khi còn sống, không được nổi tiếng đúng mức; nhưng ngay sau khi qua đời, bà được xem là một trong những cây bút độc sáng nhất trong văn học Argentina thế kỷ 20. Năm 1958, bà xuất bản cuốn tiểu thuyết đầu tay, Enero. Tác phẩm này lập tức được giới phê bình đánh giá cao và được dịch ra tiếng Tiệp và tiếng Đức. Sau đó, bà đều đặn cho ra đời những cuốn tiểu thuyết và những tập truyện ngắn khác, cứ vài ba năm là một cuốn: Pantalones Azules (1963), Los galgos, los galgos (1968; đoạt các giải thưởng Primer Premio Municipal và Premio Ciudad de Necochea), Eisejuaz (1971; được xem là thành quả nghệ thuật lớn nhất của bà), El país del humo (1977; gồm những truyện ngắn kiệt xuất, được xem là ngang tầm cỡ với những truyện ngắn của Juan Rulfo hay Mario de Andrade), và La rosa en el viento (1979). Năm 1987, nhà xuất bản Editorial Celtia mời Sara Gallardo thực hiện một tuyển tập do chính bà chọn lựa, Páginas de Sara Gallardo: seleccionadas por la autora. Đây là một cuốn trong loạt tuyển tập dành cho những nhà văn sáng giá nhất của văn học Argentina đương đại.
Bà đột ngột từ trần ngày 14 tháng 6 năm 1988 tại Buenos Aires, để lại nhiều công trình còn dang dở.
* * * NGƯỜI ĐÀN ÔNG TRONG CÂY BÁCH TÁN Một người đàn ông đã bỏ ra hai mươi năm để làm cho mình một đôi cánh. Năm 1924, hắn bay thử vào lúc bình minh. Đôi cánh vỗ chậm chạp với một chuyển động chao đảo. Chúng không mang hắn bay cao quá mười mét, chỉ ngang tầm một cây bách tán ở quảng trường San Martín. Người đàn ông bỏ bê vợ con để ở lâu hơn trên ngọn cây bách tán. Hắn làm việc cho một công ty bảo hiểm. Hắn dời vào sống trong một nhà khách trọ. Đêm đêm, vào giữa khuya, hắn bôi dầu máy may lên đôi cánh và đi đến quảng trường. Hắn mang theo đôi cánh trong một hộp đựng trung hồ cầm. Hắn có một cái tổ trên ngọn cây bách tán, khá êm ái. Trong tổ có cả những chiếc gối. Ban đêm, cuộc sống ở quảng trường vô cùng phức tạp, nhưng hắn không bao giờ dự vào đó. Tàn lá cây, những ngôi nhà tắt đèn, và đặc biệt những ngôi sao, đã đủ cho hắn. Tốt nhất là những đêm có trắng sáng. Vấn đề của chúng ta là không chấp nhận những giới hạn. Hắn muốn ở suốt ngày trong cái tổ. Lúc ấy là kỳ nghỉ của công ty. Mặt trời lên. Không gì đẹp bằng bình minh trên những ngọn cây. Thật cao trên kia, một bầy chim bay ngang, rời bỏ thành phố bên dưới. Hắn trầm tư về chúng với cảm giác chóng mặt, nước mắt ứa ra. Đó là điều hắn đã mơ trong suốt hai mươi năm hắn miệt mài tạo nên đôi cánh. Chẳng phải là giấc mơ về một cây bách tán. Hắn chúc lành cho những con chim. Hắn gửi cả tâm hồn cho chúng. Một cô đầy tớ mở rèm cửa nơi ngôi nhà của một bà già mất ngủ. Cô thấy người đàn ông nằm trong cái tổ của hắn. Bà già gọi cảnh sát và lính cứu hoả. Họ đến vây quanh hắn với những chiếc loa phóng thanh và những cái thang. Một lúc sau, hắn mới nhận thấy những gì đang xảy ra. Hắng mang đôi cánh vào. Hắn đứng dậy. Những chiếc xe hơi dừng lại. Người ta kéo đến. Hắn thấy các con của hắn mặc đồng phục học sinh. Vợ hắn đang mang giỏ đi chợ. Các cô đầy tớ và các bà già đang vịn vào nhau. Đôi cánh vỗ, chậm chạp nhấc hắn lên. Hắn chạm vào những cành cây. Nhưng hắn không giữ được độ cao. Hắn rơi xuống bệ đặt pho tượng hoành tráng. Hắn nhảy lên. Hắn vướng vào vó ngựa. Hắn ôm ngang hông tướng San Martín. Hắn mỉm cười. Có lần hắn đã bay đến tận La Torre Inglesa;[1] cơn gió đã giúp hắn bay về phía nam thành phố. Bây giờ hắn sống giữa những ống khói nhà máy. Hắn già nua và ăn sô-cô-la. ----------- Dịch từ nguyên tác tiếng Tây-ban-nha: "El hombre en el araucaria", trong Sara Gallardo, Narrativa breve completa (Buenos Aires: Emece Editores, 2004). Chú thích của người dịch: [1]La Torre Inglesa: tháp Anh quốc ở thủ đô Buenos Aires, đứng cách quảng trường San Martín không xa. Tháp này do những người di dân gốc Anh xây dựng vào thế kỷ 19. Ở nước Chile cũng có một cái Torre Inglesa tại quảng trường Armas de Antofagasta.
Mục lục
Người đàn ông trong cây bách tán
Người đàn ông trong cây bách tán
Sara GallardoChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.
Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: tienve. orgĐược bạn: Ct.Ly đưa lên vào ngày: 5 tháng 2 năm 2007
|
Sara Gallardo
The man in the cypress tree
Translator: Hoang Ngoc Tuan
Translated by Hoang Ngoc-Tuan,
dedicated to Hoang Ngoc Diep, who flies like a bird.
SARA GALLARDO (1931-1988)
Sara Gallardo, when she was alive, was not famous enough; but immediately after her death, she was considered one of the brightest writers in Argentine literature of the 20th century. In 1958, she published her first novel, Enero. This work was immediately highly appreciated by critics and was translated into Czech and German. After that, she regularly released other novels and short story collections, one every few years: Pantalones Azules (1963), Los galgos, los galgos (1968; won the Primer Premio Municipal and Premio Ciudad de Necochea), Eisejuaz (1971; considered her greatest artistic achievement), El país del humo (1977; including outstanding short stories, considered on par with the short stories of Juan Rulfo or Mario de Andrade), and La rosa en el viento (1979). In 1987, the publishing house Editorial Celtia invited Sara Gallardo to produce an anthology of her own choosing, Páginas de Sara Gallardo: seleccionadas por la autora. This is one book in a series of anthologies devoted to the brightest writers of contemporary Argentine literature.
She passed away suddenly on June 14, 1988 in Buenos Aires, leaving behind many unfinished projects.
* * * THE MAN IN THE TREE A man spent twenty years making himself a pair of wings. In 1924, he tried flying at dawn. The wings flapped slowly with a wobbling motion. They did not carry him higher than ten meters, only at the height of a cypress tree in the square of San Martín. The man neglected his wife and children to stay longer at the top of the cypress tree. He works for an insurance company. He moved to live in a guest house. At night, in the middle of the night, he smeared his wings with sewing machine oil and went to the square. He carries the wings in a harp box. He has a nest on top of a cypress tree, quite comfortable. There are pillows in the nest. At night, life in the square was extremely complicated, but he never participated in it. The leaves of the trees, the houses with their lights out, and especially the stars, were enough for him. Bright white nights are best. Our problem is not accepting limitations. He wants to stay all day in the nest. It was a company vacation at that time. Sun rises. There's nothing more beautiful than sunrise over the treetops. High up there, a flock of birds flew by, leaving the city below. He contemplated them with a feeling of dizziness, tears welling up in his eyes. That's what he dreamed about during the twenty years he spent diligently creating wings. It's not a dream about a cypress tree. He blessed the birds. He sent his whole soul to them. A maid opened the curtains in the house of an old insomniac. She saw the man lying in his nest. The old woman called the police and firefighters. They surrounded him with loudspeakers and ladders. A moment later, he realized what was happening. He cleared his throat and brought in his wings. He stood up. The cars stopped. People came. He saw his children wearing school uniforms. His wife is carrying a basket to the market. The maids and old ladies were holding on to each other. The wings flapped, slowly lifting him up. He touched the tree branches. But he could not maintain altitude. He fell onto the pedestal where the monumental statue was placed. He jumped up. He got caught in the horse's hooves. He hugged General San Martín around the waist. He smiled. Once he flew as far as La Torre Inglesa;[1] the wind helped him fly south of the city. Now he lives among factory chimneys. He is old and eats chocolate. ----------- Translated from the original Spanish: "El hombre en el araucaria", in Sara Gallardo, Narrativa breve completa (Buenos Aires: Emece Editores, 2004). Translator's note: [1]La Torre Inglesa: British tower in Buenos Aires, standing not far from San Martín square. This tower was built by British immigrants in the 19th century. In Chile there is also a Torre Inglesa at Armas de Antofagasta square.
Table of contents
The man in the cypress tree
The man in the cypress tree
Sara GallardoWelcome to read books from the book project for mobile devices. Source: author: Nguyen Kim Vy.
Final words: Thank you for reading the entire story. Source: editor: Nguyen Kim Vy. Source: tienve. org Uploaded by: Ct.Ly on: February 5, 2007
|
Phạm Thiên Chương
Người đàn ông và chú bé đánh giày
Muà Giáng Sinh đến gần, đường phố nhộn nhịp,một chú bé chỉ độ 11-12 tuổi lũi thủi ,đen đuá đi trên con đường rợp bóng cây xanh ở khu trung tâm Thành phố xa hoa. Có lẽ, trong nó chỉ duy nhất ao ước một điều là có tiền để mua bộ quần aó mới.Nó chẳng có khái niệm gì về sự thiêng liêng cuả thượng đế,và tất cả.Con mắt nó chỉ daỏ liên tục để tìm khách đánh giày.Chiếc aó nó đã rách gần hết:bụi đất đã đóng thành từng mảng trên người nó;chiếc quần đùi rách để lòi cả cái mông đen thui tội nghiệp.Ðầu tóc nó rối bời như chỉ sơ dừa. Hình như nó đã không tắm nhiều ngày, nên từ nó bốc ra một muì hôi nồng nặc làm cho những người khách uống trà ở vỉa hè khó chiụ nhăn nhó kín đaó.Nó đi chầm chậm, người hất về phiá trước trông yếu ớt.Bỗng mắt chú bé sáng lên khi trông thấy một ông khách quen.Nó mừng thầm khi đã có 3000 đồng để ăn sáng và cả bữa trưa.Nó chạy thật nhanh,hết hơi lại chổ ông khách.Ông khách người cao to, ông hành nghề chạy Taxi,cứ hai ngày là ông đậu ở đây;và tới ngày đó thì ông lại chờ chú bé đánh cho mình đôi giày hiệu "láng cón". thằng bé vội lấy trong cái hộp ra đôi dép đưa cho ông khách mang tạm trong lúc chờ nó đánh cho ông đôi giày dường như không ai như ông khách này,vì thái độ cuả ông đối với nó rất nhã nhặn. Ông nhìn nó bằng ánh mắt thân thương.Nói với nó chân tình như thể không có khoảng cách nào cả. Chú bé cũng vậy,nó tỏ ra ngoan ngoãn với ông bằng cách thể hiện sự cẩn thận tỷ mỹ trên hai chiếc giày của ông.Cây bàn chải đánh răng nhỏ, nó chà thật kỹ và quệt những mảng xi màu nâu vào từng góc cạnh cuả từng chiếc giày, nó lấy bàn chải được làm bằng lông ngựa đánh thật mạnh cho da giày nổi bóng.- Cháu có đón giáng sinh không?Ông khách hỏi thằng bé sốt sắng.Mắt chú bé tròn xoe, miệng chú cười để lộ hai chiếc răng sún; mắt nó còn dính cả ghèn, tai nó đất đã đóng hòm thành viền quách,nó lắc đầu quầy quậy.Ðầu nó lại cúi xuống, nó tiếp tục làm tiếp công việc còn lại.Ông khách nhìn nó thông cảm.Ông lại nghĩ đến tuổi thơ cuả mình sao thơ mộng và diệu huyền biết bao.Thời gian qua nhanh, khi cuộc sống lại tiếp tục trên chu trình cuả nó , thì hậu sinh cuả ông là chú bé đánh giày lại phải gánh chịu một hoặc bao nhiêu số phận nghiệt ngã :có lẽ từ gia đình cuả nó!Hình ảnh về quá khứ cuả thằng bé hiển hiện rõ nét trong ông.Mắt ông đờ ra, chỉ có đến lúc thằng bé lay thật mạnh thì ông mới hoàn hồn.Giật mình, ông mỉm cười khi thấy hai chiếc răng sún cuả nó và hai viên bi tròn xoe ngớ ngẩn cuả nó.Nó đánh xong đôi giày mắt nó nghếch lên đón chờ ba tờ giấy bạc loại một ngàn đồng nhăn nhúm,ông khách trao cho nó.Mắt nó sáng rỡ, tay run run, miệng nó cảm ơn ông liên tục. Chú bé thu dọn đồ nghề đánh giày vaò trong thùng gỗ vội chạy đi.Ðột ngột, nó bị keó lại bởi bàn tay hộ pháp cuả ông khách. Nó nhăn nhó không hiểu chi ,đưa mắt nhìn ông sợ hãi.Thấy vẻ mặt ngố cuả nó, ông khách vội ôm bụng phì cười.Ông nghiêm giọng nói:Nào!Hôm nay chú cho cháu đi xe hơi! Thằng bé ngỡ ngàng, mắt nó chợt rực lên sự vui mừng khôn tả, nó nhảy tửng lên reo to quên cả sự đói khát đang chầu chực trong nó.Tiếng reo cuả nó làm cả dãy khu phố giật mình.Ai ai cũng nhìn nó vội cười.Riêng họ lại nhìn ông khách bằng một ánh mắt nghi kỵ.Chẳng cần lo chuyện thị phi, ông khách nhanh chóng xỏ giày vào chân, bước nhanh ra mở cửa xe hơi,Ông ra hiệu cho thằng bé vào xe.Vèo! như con muỗi, chú bé nhảy phóc vaò trong xe tay vẫn còn xách cả bộ"nồi cơm gaọ" cuả nó.Ông khách đóng cửa xe bước lên trên ghế lái nghịch, ngồi vào đóng cửa mở máy cho xe khởi hành.Lần đầu tiên trong đời cuả chú bé đánh giày được ngồi bệ vệ trong một chiếc xe hơi có cả cái máy thổi lạnh.Ðối với nó, tất cả những vật dụng trong xe đều là những người khách xa lạ.Nhưng nó vội chóng quen thuộc.Chiếc xe 56k lăn bánh chậm trên đường Nguyễn Du,rẽ ra đường Trần Hưng Ðaọ,xuống Bến Bạch Ðằng và dừng lại một góc phố có một cửa hàng thời trang tại đường Hai Bà Trưng.Ông khách xuống xe, mở cửa cho thằng bé. Thằng bé nhảy xuống nói líu tíu vì nó chưa bao giờ để cho đôi chân không vận đông mà cái thân hình thì lại di chuyển qua tất cả cảnh vật xung quanh cả.Ông khách dẫn nó vaò bên trong cửa hàng. Không gian trong cửa hàng rộng thoáng,bên trái, bên phải trước mặt đều treo các loại quần aó lớn nhỏ nhiều màu sắc trông đẹp mắt.Chú bé reo lên vui sướng. Riêng các nhân viên trong cửa hàng thì chẳng hạnh phúc chút nào khi phải tiếp xúc trực tiếp với cái mùi khó chiụ từ vị khách nhí này.Họ nhìn thằng bé như phải trông thấy một con quái vật khủng khiếp.Ông khách và thằng bé không chú ý đến họ,ông khách nắm tay thằng bé như thể truyền cả hơi ấm cuả người cha vào người con ây. Họ đi dạo khắp phòng,thằng bé thấy cái gì cũng thích nó nhảy như con khỉ và miệng thì há hốc ra độ đĩnh. Ðây là lần đầu tiên nó là một đưá trẻ nhà giàu ngây thơ hồn nhiên.Nó mơ mộng , mắt nó reo lên ngọn lửa hạnh phúc. Nó quên hẳn cuộc sống hiện tại cuả mình.Mắt nó như muốn nổ tung vì cái gì cũng đẹp và rất lạ .Nó lấy tay dụi mắt mà chẳng hề biết có hàng tá vi trùng sẽ làm tổn thương từ bàn tay tiếp xúc nhiều bụi đất và gió hằng ngày cuả nó.Sau nhiều lần ước lượng, ông khách quyết định mua cho chú bé bộ đồ thun màu hồng-màu cuả sự hạnh phúc! Chú bé mừng quýnh,nó suy nghĩ nên mặc bao nhiêu lần trong ngày,nó nhìn xa xăm ,viễn cảnh các bạn cùng lứa của nó và mọi người sẽ nhìn nó thán phục.Ông khách thanh toán tiền xong dắt tay nó ra ngoài, nhưng thằng bé chẳng chịu nó oà khóc.Ông khách dỗ dành sẽ cho nó đi mua aó nữa ở ngày khác,lúc này chú bé mới chịu đi ra xe cùng ông.Chiếc xe dừng lại điểm cũ. chú bé tự tin bước xuống.Nó cặp nách bộ đồ đẹp nhất trong cuộc sống cuả nó.Ông khách phải đi làm. Chú bé đứng nhìn theo mà ánh mắt nó sao buồn so.Chú nhìn một hồi khi chiếc xe đã khuất khỏi con đường vắng nắng,chú bước đi tiếp tục cuộc hành trình duy trì sự tồn tại cuả mình . Ông khách cảm thấy nhẹ nhỏm trong lòng ông như thể sung sướng nhất trên cuộc mưu sinh cuả ông -một số phận ít ra có chút may mắn như ông.Ông thầm cầu nguyện thượng đế sẽ ban cho tất cả những cuộc đời bất hạnh, những cuộc sống ban sơ trong tâm hồn cuả những trẻ thơ sẽ trở nên ấm áp trong những cái lạnh đầy tiếng sương rơi ở những con vỉa hè ngoài phố đêm đêm!
Mục lục
Người đàn ông và chú bé đánh giày
Người đàn ông và chú bé đánh giày
Phạm Thiên ChươngChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.
Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: giaomuaĐược bạn: Ct.Ly đưa lên vào ngày: 30 tháng 12 năm 2004
|
Pham Thien Chuong
The man and the shoe shine boy
Christmas is approaching, the streets are bustling, a young boy of only 11-12 years old, walking darkly on a tree-lined street in the center of the luxurious city. Perhaps, the only thing it desires is to have money to buy a new set of clothes. It has no concept of the divinity of God, and all that. Its eyes only blink continuously to find customers. His shoe polish was almost completely torn: dust and dirt had formed on his body; his shorts were torn, exposing his poor black buttocks. His hair was as tangled as coconut fiber. It seemed like it hadn't bathed for many days, so a strong smell emanated from it, making the customers drinking tea on the sidewalk uncomfortably wince. It walked slowly, leaning forward and looking weak. Suddenly the little boy's eyes lit up when he saw a familiar customer. He was secretly happy to have 3,000 dong for breakfast and lunch. He ran as fast as he could, running out of breath to the customer's place. The customer was tall and tall. As a taxi driver, he stops here every two days; and on that day, he waits for the boy to polish him a pair of "fancy" brand shoes. The boy quickly took out a pair of slippers from the box and gave them to the customer to wear temporarily while waiting for him to polish his shoes. It seemed like no one else was like this customer, because his attitude towards him was very courteous. He looked at it with loving eyes. He spoke to it sincerely as if there was no distance at all. The little boy was the same, he showed his obedience to him by showing meticulous care on his two shoes. With a small toothbrush, he scrubbed thoroughly and wiped brown patches into each corner. For each shoe, he used a brush made of horsehair to brush hard to make the shoe leather shine. - Are you celebrating Christmas? The customer asked the boy enthusiastically. The boy's eyes were round, his mouth smiled to reveal two missing teeth; His eyes were still covered in gunk, his ears were packed with dirt from the box into a sarcophagus, he shook his head vigorously. His head bowed again, he continued to do the rest of his work. The customer looked at him sympathetically. He thought again. How poetic and magical my childhood was. Time passed quickly, when life continued on its cycle, his rebirth as a shoe shine boy had to suffer one or more fates. grim: perhaps from his family! Images of the boy's past appeared clearly in him. His eyes were numb, only when the boy shook him really hard did he regain his senses. Startled, he smiled when he saw his two toothless teeth and his two silly round marbles. After finishing polishing his shoes, his eyes raised up to wait for the three wrinkled one-thousand-dollar bills the customer handed to him. Eyes It was bright, its hands were shaking, its mouth thanked him continuously. The boy packed up his shoe polishing tools and put them in a wooden box and quickly ran away. Suddenly, he was trapped by the customer's protective hand. He grimaced, not understanding anything, and looked at him in fear. Seeing his stupid face, the customer quickly hugged his stomach and laughed. He said seriously: Come on! I'll let you ride the car today! The boy was surprised, his eyes suddenly lit up with indescribable joy, he jumped up and shouted loudly, forgetting the hunger and thirst that was lingering inside him. His screams startled the whole neighborhood. Everyone looked at him. They quickly laughed. They all looked at the customer with a suspicious look. Without worrying about gossip, the customer quickly put on his shoes, walked quickly to open the car door, he signaled for the boy to get in the car. Voo ! Like a mosquito, the boy jumped into the car, still carrying his "rice cooker". The passenger closed the car door, climbed into the driver's seat, sat in, closed the door and turned on the car to start. First time. It was the first time in the shoe shine boy's life that he sat majestically in a car that had an air conditioner. To him, all the items in the car were strangers. But he quickly got used to it. The 56k car rolled slowly on Nguyen Du Street, turned to Tran Hung Dao Street, went to Bach Dang Wharf and stopped at a corner of the street with a fashion store on Hai Ba Trung Street. The passenger got out of the car and opened the door for the boy. . The boy jumped down and chattered loudly because he had never let his legs move without moving his body through all the surrounding scenery. The customer led him inside the store. The space in the store is spacious, on the left and right in front there are all kinds of beautiful, large and small colorful clothes hanging. The little boy shouted happily. The store employees were not happy at all when they had to come into direct contact with the unpleasant smell of this little customer. They looked at the boy as if they had seen a terrible monster. The customer and the boy Not paying attention to them, the customer held the boy's hand as if transmitting the father's warmth to the child. They walked around the room, the boy saw something he liked, he jumped like a monkey and his mouth was wide open. This was the first time he was an innocent and innocent rich kid. He was dreaming, his eyes were shining with the fire of happiness. He completely forgot about his current life. His eyes felt like they were about to explode because everything was so beautiful and strange. He rubbed his eyes with his hands without knowing that there were dozens of germs that would hurt his hands that were exposed to a lot of dust. its daily soil and wind. After many estimates, the customer decided to buy the boy a pink spandex suit - the color of happiness! The little boy was so happy, he thought about how many times he should wear it during the day, he looked into the distance, thinking that his peers and everyone would look at him admiringly. The customer finished paying and took his hand out. But the boy refused and burst into tears. The customer comforted him and said he would let him go buy another dog another day, at which point the boy agreed to go to the car with him. The car stopped at the same place. The little boy confidently walked down. He was wearing the most beautiful outfit of his life. The customer had to go to work. The little boy stood and watched, but his eyes were so sad. He watched for a while when the car disappeared from the deserted road, he walked away to continue his journey to maintain his existence. The guest felt light in his heart as if he were happiest in his life - a fate that was at least a little as lucky as his. He silently prayed that God would grant all the unfortunate lives, The primitive lives in the hearts of children will become warm in the cold sound of falling dew on the sidewalks of the streets at night!
Table of contents
The man and the shoe shine boy
The man and the shoe shine boy
Pham Thien ChuongWelcome to read the first books from the book project for mobile devices. Source: author: Nguyen Kim Vy.
Final words: Thank you for reading the entire story. Source: editor: Nguyen Kim Vy. Source: Giaomua Posted by: Ct.Ly on: December 30, 2004
|
Thạch Lam
người đầm
Hôm ấy ngày thứ hai, nên ít người đi xem, trước cửa rạp chớp bóng Pathé chỉ lơ thơ có dăm bẩy cậu học sinh đứng nghếch đầu nhìn mấy cái quảng cáo lộn xộn dán trên tường. Một hai người lính Tây đi vơ vẩn, miệng ngậm thuốc lá, tay đút túi quần, điệu bộ lơ đễnh và buồn tẻ, hình như họ không có cuộc đi chơi gì nữa, nên bất đắc dĩ phải đến xem chớp bóng vậy.Khi tôi bước vào trong rạp, giờ hãy còn sớm. Tuy vậy hàng ghế "lô" và hạng nhất cũng đã đông người ngồi, toàn là người Pháp. Tôi đi vào dãy hạng nhì, chọn một chiếc ghế ở giữa. Tất cả độ hơn một chục người ngồi rải rác cùng một hàng với tôi.Lập tức, tôi sửng sốt chú ý đến một người đầm ngồi cách tôi mấy ghế, đang quay sang phía bên nói chuyện với một cô gái nhỏ. Cái cảm tưởng tôi có trước nhất là sự ngạc nhiên. Một người Pháp, mà lại là một người đàn bà, ngồi ở hạng nhì lẫn với mọi người! Tôi tự hỏi tại sao người đầm ấy lại không lấy vé lô, hay ít ra vé hạng nhất, để ngồi chung với những người Pháp sang trọng mà tôi thấy bệ vệ và mãn nguyện trên các dãy ghế kia? Từ xưa đến nay, chúng ta quen nhìn thấy người Pháp ngồi ở hạng trên, đến nỗi tôi không thể tưởng tượng được rằng họ có thể ngồi ở các hạng dưới. Cũng không một lúc nào tôi có cái ý nghĩ rằng người đầm kia không có đủ tiền để trả cái vé hạng nhất.Tôi nhận thấy, cũng như tôi, những người khác ngồi chung quanh tò mò nhìn vào người đầm. Nhưng họ nhìn một cách sống sượng và chăm chú quá; trong những con mắt đó, đôi khi lại thoáng qua một tia lãnh đạm và ác cảm nữa.Người đàn bà Pháp hình như cũng nhận thấy thế, nên bà ta cố thu hình cho nhỏ bé lại, và luôn luôn cúi mặt xuống tờ chương trình để trên lòng. Cô bé quỳ ở trên ghế bên cạnh, quay lưng lại màn ảnh, chơi đùa với cái mũ da của mẹ. Cô thỉnh thoảng cất tiếng cười và huýt sáo miệng; lúc ấy bà mẹ vội vàng đưa mắt nhìn quanh, rồi ra hiệu bảo con im. Và cái nhìn của bà ta rụt rè e lệ quá, khiến tự nhiên tôi ái ngại và cảm động.Đột nhiên tôi tin chắc người đàn bà đó, và đứa con, mới ở Pháp sang bên này. Nhiều cử chỉ của bà ta đã để tôi đoán như thế. Bà ta có cái vẻ lạ lùng bỡ ngỡ của người mới bước chân đến một nơi xa lạ, ngồi vào chung quanh những người khác giống không hiểu mình, và bà có cái vẻ rụt rè, nhũn nhặn mà ta không thấy ở nhiều người đầm đã sống lâu bên này.Tôi ngắm nhìn bà ta với một cảm tình chân thật mà tôi không ngăn cấm được. Bà ăn mặc rất giản dị, toàn một màu đen. Có lẽ bà để tang. Tang cha mẹ, người thân thích hay chồng? Không biết tại sao, tôi chắc chồng bà đã mất, để lại cho bà cô gái bé kia. Mỗi khi cô bé quay lại phía bên này, tôi lại nhận thấy hai người - hai mẹ con - giống nhau quá; cũng cái khuôn mặt trái soan, cũng mớ tóc vàng, và nhất là đôi con mắt to, đưa chậm chạp, lúc nào cũng như nhìn ra ngoài xa.Một vẻ buồn lặng lẽ và trầm mặc phảng phất trên nét mặt người đàn bà đó. Thỉnh thoảng bà ôm lấy con ghì chặt vào lòng như se lại trước cái ác cảm bà đoán thấy ở chung quanh. Hai mẹ con thủ thỉ với nhau những câu tôi không nghe rõ, nhưng tôi chắc là những câu đầy vẻ yêu đương đằm thắm.Khi trong rạp tối đi, tôi cũng không nghĩ đến xem phim nữa. Bao nhiêu chú ý của tôi đều đặt vào người đàn bà đó. Trí tôi tưởng tượng cái đời của bà ta, một người đàn bà hạng trung lưu bên Pháp, một người làm công có lẽ, vì chồng chết nên chán nản sang thuộc địa để xa mà quên đi. Tôi cảm thấy bà ta trơ trọi quá, bỡ ngỡ quá ở nơi xứ sở này. Tôi hiểu cái buồn và cái lạnh lẽo của bà, lúc này có lẽ bà đang mơ màng nghĩ đến quê hương ở tận bên kia phương tây, cái làng nhỏ ở sườn đồi, cái chuông nhà thờ cao lên trên rặng cây, cánh đồng cỏ, mấy con bò đủng đỉnh trên cái suối trong mà bọn chị em bạn cùng làng đang quay đập quần áo trên bàn giặt. Tôi đã đọc nhiều tiểu thuyết của người Pháp quá, nên có thể tưởng tượng được rõ rệt cái đời của người ấy. Cho nên tôi hiểu cái nỗi nhớ thương quê hương của bà.Có lẽ bà quen như ở bên Pháp, nên mới lấy vé hạng nhì. Có lẽ bên ấy giá vé hạng nhì đối với bà là to rồi. Bởi thế, bà không biết ở xứ này, một người đàn bà Pháp không bao giờ lấy vé hạng ấy.** *Khi đèn bật sáng trong giờ nghỉ, bà dắt con đứng dậy, lách khe ghế đi ra. Đến trước mặt tôi, bà nhìn tôi một cách dịu dàng, và rất lễ phép:- Xin lỗi ông.Giọng nói của bà ngọt ngào, không có chút gì kiêu ngạo. Tôi ít khi được nghe một người đầm nói với mình lễ phép như thế. Tôi chợt nghĩ đến cái lễ độ nhã nhặn của người Pháp, của những người Pháp thật, những người chưa bị cái hoàn cảnh bên này làm xấu đi. Tôi nghĩ đến cái lòng nhân từ rộng rãi, cái tình cảm dồi dào của người đàn bà Pháp, lúc nào cũng sẵn sàng tha thứ và cúi mình trên những đau khổ của người ngoài. Và tôi thấy cái ý muốn được thân thiện hiểu biết những người đàn bà ấy.Tôi theo ra ngoài rạp, thấy hai mẹ con bà đứng ở đầu hè, nhìn mặt nước hồ Hoàn Kiếm phẳng lặng như tấm gương. Trong đám người đi xem không ai để ý đến bà ta cả.Một đứa bé bán kẹo, lấm lét nhìn quanh để trông cảnh sát, chạy đến gần bà, giơ hộp kẹo trước mặt cô bé. Tôi nghe thấy tiếng cô bé đòi mua, rồi bà ta chọn mấy cái kẹo trong hộp đưa cho con. Vừa mở ví lấy tiền bà vừa hỏi thằng bé bán kẹo:- Bao nhiêu?Đứa bé giơ ba ngón tay ra hiệu, miệng cười sung sướng:- Ba xu, bà đầm!Nghe câu trả lời của đứa bé, tôi thấy bà ta mỉm cười, lấy tay xoa đầu nó và hỏi bằng tiếng Pháp:- Mày không lạnh ư, con?Đứa bé nhe răng cười, lắc đầu vì không hiểu gì, rồi vội chạy vào chỗ tối bởi nó đã thấy bóng thầy cảnh sát ở đằng xa. Bà ta hơi ngạc nhiên nhìn theo, và nét mặt trở nên buồn như cũ.Tôi tự nhiên đem lòng thương mến người đàn bà Pháp ấy. Cái vẻ buồn âm thầm của bà làm cho tôi cũng buồn lây. Tôi mơ màng ao ước người Pháp nào cũng tốt như bà; chúng ta sẽ yêu mến nước Pháp đẹp đẽ và rộng lượng kia bao nhiêu, và hai giống người khác nhau trên mảnh đất này sẽ hiểu biết nhau, coi nhau thân như anh em một nhà.Lúc chớp bóng tan, trời bắt đầu mưa bụi và gió lạnh. Thấy hai mẹ con bà lủi thủi đi trên con đường vắng tôi chỉ muốn chạy theo nói cho bà biết cái cảm tình đằm thắm của tôi, lòng kính trọng của tôi trước sự đau đớn, lòng mến yêu của tôi đối với một kẻ nhân từ. Nhưng mà tôi chỉ đứng lặng yên, đứng nhìn theo đến khi hai người khuất vào bóng tối, rồi tôi thong thả trở về, trong lòng thấy băn khoăn, bực tức không duyên cớ.Từ đó, tôi không bao giờ được gặp bà ta nữa. Về sau, nhiều lần đi xem chớp bóng, tôi để ý tìm nhưng không thấy bóng hai mẹ con bà ấy đâu cả. Có lẽ bà ta đã đi tỉnh khác rồi chăng?Và mỗi khi đêm khuya ở rạp chớp bóng ra về, tôi hay đi vòng bờ hồ để nhớ lại hình ảnh dịu dàng của người đàn bà đó. Bây giờ chắc bà ta đã có công việc làm rồi.Rút từ tập truyện ngắn Nắng trong vườn,Nxb Đời nay, Hà Nội 1938.
Mục lục
người đầm
người đầm
Thạch LamChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.
Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: mienĐược bạn: Thành Viên VNthuquan đưa lên vào ngày: 27 tháng 12 năm 2003
|
Thạch Lam
người đầm
Hôm ấy ngày thứ hai, nên ít người đi xem, trước cửa rạp chớp bóng Pathé chỉ lơ thơ có dăm bẩy cậu học sinh đứng nghếch đầu nhìn mấy cái quảng cáo lộn xộn dán trên tường. Một hai người lính Tây đi vơ vẩn, miệng ngậm thuốc lá, tay đút túi quần, điệu bộ lơ đễnh và buồn tẻ, hình như họ không có cuộc đi chơi gì nữa, nên bất đắc dĩ phải đến xem chớp bóng vậy.Khi tôi bước vào trong rạp, giờ hãy còn sớm. Tuy vậy hàng ghế "lô" và hạng nhất cũng đã đông người ngồi, toàn là người Pháp. Tôi đi vào dãy hạng nhì, chọn một chiếc ghế ở giữa. Tất cả độ hơn một chục người ngồi rải rác cùng một hàng với tôi.Lập tức, tôi sửng sốt chú ý đến một người đầm ngồi cách tôi mấy ghế, đang quay sang phía bên nói chuyện với một cô gái nhỏ. Cái cảm tưởng tôi có trước nhất là sự ngạc nhiên. Một người Pháp, mà lại là một người đàn bà, ngồi ở hạng nhì lẫn với mọi người! Tôi tự hỏi tại sao người đầm ấy lại không lấy vé lô, hay ít ra vé hạng nhất, để ngồi chung với những người Pháp sang trọng mà tôi thấy bệ vệ và mãn nguyện trên các dãy ghế kia? Từ xưa đến nay, chúng ta quen nhìn thấy người Pháp ngồi ở hạng trên, đến nỗi tôi không thể tưởng tượng được rằng họ có thể ngồi ở các hạng dưới. Cũng không một lúc nào tôi có cái ý nghĩ rằng người đầm kia không có đủ tiền để trả cái vé hạng nhất.Tôi nhận thấy, cũng như tôi, những người khác ngồi chung quanh tò mò nhìn vào người đầm. Nhưng họ nhìn một cách sống sượng và chăm chú quá; trong những con mắt đó, đôi khi lại thoáng qua một tia lãnh đạm và ác cảm nữa.Người đàn bà Pháp hình như cũng nhận thấy thế, nên bà ta cố thu hình cho nhỏ bé lại, và luôn luôn cúi mặt xuống tờ chương trình để trên lòng. Cô bé quỳ ở trên ghế bên cạnh, quay lưng lại màn ảnh, chơi đùa với cái mũ da của mẹ. Cô thỉnh thoảng cất tiếng cười và huýt sáo miệng; lúc ấy bà mẹ vội vàng đưa mắt nhìn quanh, rồi ra hiệu bảo con im. Và cái nhìn của bà ta rụt rè e lệ quá, khiến tự nhiên tôi ái ngại và cảm động.Đột nhiên tôi tin chắc người đàn bà đó, và đứa con, mới ở Pháp sang bên này. Nhiều cử chỉ của bà ta đã để tôi đoán như thế. Bà ta có cái vẻ lạ lùng bỡ ngỡ của người mới bước chân đến một nơi xa lạ, ngồi vào chung quanh những người khác giống không hiểu mình, và bà có cái vẻ rụt rè, nhũn nhặn mà ta không thấy ở nhiều người đầm đã sống lâu bên này.Tôi ngắm nhìn bà ta với một cảm tình chân thật mà tôi không ngăn cấm được. Bà ăn mặc rất giản dị, toàn một màu đen. Có lẽ bà để tang. Tang cha mẹ, người thân thích hay chồng? Không biết tại sao, tôi chắc chồng bà đã mất, để lại cho bà cô gái bé kia. Mỗi khi cô bé quay lại phía bên này, tôi lại nhận thấy hai người - hai mẹ con - giống nhau quá; cũng cái khuôn mặt trái soan, cũng mớ tóc vàng, và nhất là đôi con mắt to, đưa chậm chạp, lúc nào cũng như nhìn ra ngoài xa.Một vẻ buồn lặng lẽ và trầm mặc phảng phất trên nét mặt người đàn bà đó. Thỉnh thoảng bà ôm lấy con ghì chặt vào lòng như se lại trước cái ác cảm bà đoán thấy ở chung quanh. Hai mẹ con thủ thỉ với nhau những câu tôi không nghe rõ, nhưng tôi chắc là những câu đầy vẻ yêu đương đằm thắm.Khi trong rạp tối đi, tôi cũng không nghĩ đến xem phim nữa. Bao nhiêu chú ý của tôi đều đặt vào người đàn bà đó. Trí tôi tưởng tượng cái đời của bà ta, một người đàn bà hạng trung lưu bên Pháp, một người làm công có lẽ, vì chồng chết nên chán nản sang thuộc địa để xa mà quên đi. Tôi cảm thấy bà ta trơ trọi quá, bỡ ngỡ quá ở nơi xứ sở này. Tôi hiểu cái buồn và cái lạnh lẽo của bà, lúc này có lẽ bà đang mơ màng nghĩ đến quê hương ở tận bên kia phương tây, cái làng nhỏ ở sườn đồi, cái chuông nhà thờ cao lên trên rặng cây, cánh đồng cỏ, mấy con bò đủng đỉnh trên cái suối trong mà bọn chị em bạn cùng làng đang quay đập quần áo trên bàn giặt. Tôi đã đọc nhiều tiểu thuyết của người Pháp quá, nên có thể tưởng tượng được rõ rệt cái đời của người ấy. Cho nên tôi hiểu cái nỗi nhớ thương quê hương của bà.Có lẽ bà quen như ở bên Pháp, nên mới lấy vé hạng nhì. Có lẽ bên ấy giá vé hạng nhì đối với bà là to rồi. Bởi thế, bà không biết ở xứ này, một người đàn bà Pháp không bao giờ lấy vé hạng ấy.** *Khi đèn bật sáng trong giờ nghỉ, bà dắt con đứng dậy, lách khe ghế đi ra. Đến trước mặt tôi, bà nhìn tôi một cách dịu dàng, và rất lễ phép:- Xin lỗi ông.Giọng nói của bà ngọt ngào, không có chút gì kiêu ngạo. Tôi ít khi được nghe một người đầm nói với mình lễ phép như thế. Tôi chợt nghĩ đến cái lễ độ nhã nhặn của người Pháp, của những người Pháp thật, những người chưa bị cái hoàn cảnh bên này làm xấu đi. Tôi nghĩ đến cái lòng nhân từ rộng rãi, cái tình cảm dồi dào của người đàn bà Pháp, lúc nào cũng sẵn sàng tha thứ và cúi mình trên những đau khổ của người ngoài. Và tôi thấy cái ý muốn được thân thiện hiểu biết những người đàn bà ấy.Tôi theo ra ngoài rạp, thấy hai mẹ con bà đứng ở đầu hè, nhìn mặt nước hồ Hoàn Kiếm phẳng lặng như tấm gương. Trong đám người đi xem không ai để ý đến bà ta cả.Một đứa bé bán kẹo, lấm lét nhìn quanh để trông cảnh sát, chạy đến gần bà, giơ hộp kẹo trước mặt cô bé. Tôi nghe thấy tiếng cô bé đòi mua, rồi bà ta chọn mấy cái kẹo trong hộp đưa cho con. Vừa mở ví lấy tiền bà vừa hỏi thằng bé bán kẹo:- Bao nhiêu?Đứa bé giơ ba ngón tay ra hiệu, miệng cười sung sướng:- Ba xu, bà đầm!Nghe câu trả lời của đứa bé, tôi thấy bà ta mỉm cười, lấy tay xoa đầu nó và hỏi bằng tiếng Pháp:- Mày không lạnh ư, con?Đứa bé nhe răng cười, lắc đầu vì không hiểu gì, rồi vội chạy vào chỗ tối bởi nó đã thấy bóng thầy cảnh sát ở đằng xa. Bà ta hơi ngạc nhiên nhìn theo, và nét mặt trở nên buồn như cũ.Tôi tự nhiên đem lòng thương mến người đàn bà Pháp ấy. Cái vẻ buồn âm thầm của bà làm cho tôi cũng buồn lây. Tôi mơ màng ao ước người Pháp nào cũng tốt như bà; chúng ta sẽ yêu mến nước Pháp đẹp đẽ và rộng lượng kia bao nhiêu, và hai giống người khác nhau trên mảnh đất này sẽ hiểu biết nhau, coi nhau thân như anh em một nhà.Lúc chớp bóng tan, trời bắt đầu mưa bụi và gió lạnh. Thấy hai mẹ con bà lủi thủi đi trên con đường vắng tôi chỉ muốn chạy theo nói cho bà biết cái cảm tình đằm thắm của tôi, lòng kính trọng của tôi trước sự đau đớn, lòng mến yêu của tôi đối với một kẻ nhân từ. Nhưng mà tôi chỉ đứng lặng yên, đứng nhìn theo đến khi hai người khuất vào bóng tối, rồi tôi thong thả trở về, trong lòng thấy băn khoăn, bực tức không duyên cớ.Từ đó, tôi không bao giờ được gặp bà ta nữa. Về sau, nhiều lần đi xem chớp bóng, tôi để ý tìm nhưng không thấy bóng hai mẹ con bà ấy đâu cả. Có lẽ bà ta đã đi tỉnh khác rồi chăng?Và mỗi khi đêm khuya ở rạp chớp bóng ra về, tôi hay đi vòng bờ hồ để nhớ lại hình ảnh dịu dàng của người đàn bà đó. Bây giờ chắc bà ta đã có công việc làm rồi.Rút từ tập truyện ngắn Nắng trong vườn,Nxb Đời nay, Hà Nội 1938.
Mục lục
người đầm
người đầm
Thạch LamChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.
Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: mienĐược bạn: Thành Viên VNthuquan đưa lên vào ngày: 27 tháng 12 năm 2003
|
cổ tích Việt Nam
Người đẹp trong tranh
Vào đời Hồng Đức, có một người học trò nghèo, cha mẹ chết sớm, trọ học ở phường Bích Câu, phía Nam thành Thăng Long. Chàng rất hay chữ, tuy chưa đỗ đạt gì người ta cũng gọi chàng là Tú Uyên. Một ngày, vào mùa xuân, chúa Ngọc Hồ mở hội Vô gia, thiện nam tín nữ ở kinh đô và bốn phương tụ hội rất đông. Tú Uyên không bỏ lỡ cơ hội đi tìm người đẹp. Chàng vui chân đi quanh quẩn mãi đến tận chiều, bèn ngồi nghỉ gốc đa gần chùa. Chợt trông thấy một cái lá bay đến trước mặt, chàng nhặt lên xem, thì ra sau lưng lá có đề một bài thơ đầy những lời trêu ghẹo. Chàng tưởng có người nào đó ở trên lầu cao ném xuống rồi nấp vào một chỗ. Nhưng ngước nhìn mọi nơi, chẳng thấy gì cả. Đương lúc ngơ ngác, Tú Uyên bỗng thấy một đám người từ trong chùa đi ra, trong đó có một cô gái rất đẹp. Thấy nàng liếc mắt đưa tình, chàng lại bắt chuyện. Hai người vừa đi vừa chuyện trò vui vẻ. Lòng Tú Uyên như nở hoa. Nhưng khi sắp đến đình Quảng Văn thì người con gái bỗng nhiên biến mất. Tú Uyên đứng ngẩn ra rất lâu, mãi đến tối mới trở về nhà. Từ đấy, Tú Uyên đêm mơ ngày tưởng không thiết gì ăn uống, học hành. Nghe tin đền Bạch Mã rất thiêng, chàng đến xin quẻ rồi ngủ đêm tại đền cầu mộng. Đêm ấy, thần hiện ra trong giấc mộng của chàng bảo rằng: “Này anh chàng mê sắc kia, sáng mai hãy đến cầu Đông, ta sẽ cho biết một tin rất tốt”. Hôm sau, chàng y hẹn đến cầu Đông, đợi mãi mới gặp một ông già bán tranh, đưa tới mời chàng mua một bức tố nữ. Chàng mở ra xem thì hình dạng người tố nữ trong tranh chẳng khác gì người mà mình mong đợi. Chàng mua ngay, đem về treo bên cạnh chỗ ngồi. Đến bữa ăn chàng dọn ra hai đôi đũa, hai cái bát mời người trong tranh ăn cùng như mời người thật. Chàng hơi ngạc nhiên cảm thấy tố nữ trong tranh hai má đỏ bừng như có ý thẹn. Một hôm, Tú Uyên đi học về thì thấy giữa giường đã có sẵn sàng một mâm cơm có thức ăn ngon, khác với mâm cơm rau thường ngày. Tuy chưa hiểu có ai cho nhưng đói bụng, chàng cũng ngồi vào ăn. Tiếp mấy hôm sau, mâm cơm đều dọn như thế. Chàng nửa ngờ nửa mừng không hiểu ra làm sao. Hôm khác chàng giả tảng đi học, nửa đường lộn về nấp ngoài cửa sổ dòm vào. Chàng thấy tố nữ từ trong tranh bước ra dọn dẹp nhà cửa và xuống bếp làm cơm. Chàng đột ngột xô cửa bước vào nắm lấy tay nàng mà rằng: - Để tôi bấy lâu trông đợi mòn mỏi con mắt! Thôi, bây giờ nhất định không cho nàng ra khỏi đây đâu! Nói xong, Tú Uyên giật bức tranh trên tường xé đi. Người con gái đỏ hai gò má, se sẽ đáp lại: - Sao chàng ác thế, thiếp đã lạc vào nhà chàng rồi, đâu dám không vâng lời. Rồi nàng cho biết tên mình là Giáng Kiều, vốn có duyên nợ với chàng nên được xuống trần cùng kết làm đôi lứa. Tú Uyên tưởng không có gì sung sướng hơn thế nữa. Chàng giơ tay lên trời thề bồi. Hai người chuyện trò hồi lâu. Tú Uyên gịuc nàng thành thân. Giáng Kiều bảo: - Để thiếp bày tiệc mời các bạn tiên đến chứng kiến cho lễ cưới của đôi ta. Nói xong, nàng rút trâm trên đầu hoá phép thành một màn gấm rèm ngọc, kẻ hầu người hạ rầm rập, đồ ăn thức uống lộng lẫy. Chỉ một lát cỗ bàn bày ra, đàn sáo vang lừng, các bạn tiên lần lượt đến ăn uống trò chuyện, ca hát nhảy múa rất vui vẻ. Nhưng từ ngày được vợ đẹp Tú Uyên không buồn giở đến sách nữa. Suốt ngày chàng ở bên vợ và đặc biệt một điều là chàng thích uống rượu và ăn ngon. Giáng Kiều khuyên can mãi nhưng Tú Uyên chứng nào vẫn tật ấy. Ba năm trôi qua, chàng không lai vãng đến học hành. Dần dà chàng trở nên nghiện rượu, đã uống là uống đến say, khi say không biết trời đất là gì, thậm chí nhiều lần chửi mắng vợ. Giáng Kiều giận lắm, một hôm chồng từ tửu quán khật khưỡng bước về, nàng vực vào giường rồi nhân chồng ngủ thiếp đi, nàng bay về trời. Tỉnh rượu, Tú Uyên không thấy vợ đâu, rất lấy làm hối hận, suốt một tháng, chàng bỏ ăn, bỏ ngủ, kêu khóc thảm thiết. Bạn bè hết lời khuyên dỗ nhưng chàng không sao giảm được ưu sầu. Giận thân, chàng chỉ muốn tự vẫn cho xong đời. Nhưng khăn vừa vắt lên xà thì bỗng có trận gió thoảng đưa mùi hương đến. Giáng Kiều đã hiện ra trước mặt. Chàng vừa mừng vừa thẹn, thề xin chừa hẳn rượu, hai vợ chồng lại vui vẻ như xưa. Chẳng bao lâu Giáng Kiều sinh được một bé trai, đứa bé lớn lên rất thông minh và ngày một giỏi. Một đêm nọ bỗng có hai con hạc đến đón ở sân, hai vợ chồng dặn con ở lại rồi cưỡi hạc bay lên trời.
Mục lục
Người đẹp trong tranh
Người đẹp trong tranh
cổ tích Việt NamChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.
Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.sưu tầm: Hoàng Dung Nguồn: maiyeuem.netĐược bạn: Hoàng Dung đưa lên vào ngày: 15 tháng 3 năm 2006
|
Vietnamese fairy tales
Beauty in the painting
During Hong Duc's lifetime, there was a poor student whose parents died early, studying in Bich Cau ward, south of Thang Long citadel. He is very literate, but even though he has not passed the exam yet, people still call him Tu Uyen. One day, in the spring, Lord Ngoc Ho held the Vo Gia festival, and many good men and women from the capital and all over gathered together. Tu Uyen did not miss the opportunity to find a beauty. He happily walked around until late afternoon, then sat down to rest under a banyan tree near the temple. Suddenly he saw a leaf flying in front of him, he picked it up to look, and on the back of the leaf was written a poem full of teasing words. He thought someone on a high floor threw it down and hid somewhere. But looking everywhere, I couldn't see anything. While bewildered, Tu Uyen suddenly saw a group of people coming out of the temple, including a very beautiful girl. Seeing her flirting with her eyes, he started talking again. The two of them walked and talked happily. Tu Uyen's heart is blooming. But when they were about to reach Quang Van communal house, the girl suddenly disappeared. Tu Uyen stood there stunned for a long time, and did not return home until evening. From then on, Tu Uyen dreamed every day and thought she didn't care about eating, drinking, or studying. Hearing that Bach Ma Temple was very sacred, he came to ask for a hexagram and then spent the night at the temple praying for dreams. That night, the god appeared in his dream and said: "Hey, you guy who loves beauty, come to the East Bridge tomorrow morning, I will tell you very good news." The next day, the young man made an appointment to go to the East Bridge, and waited until he met an old man selling paintings who invited him to buy a painting of a woman. He opened it and saw that the figure of the woman in the painting was no different from the person he expected. He bought it immediately and brought it home to hang next to his seat. At mealtime, he served two pairs of chopsticks and two bowls, inviting the people in the painting to eat with them as if inviting real people. He was a little surprised to feel the girl in the painting's cheeks turn red as if she were embarrassed. One day, Tu Uyen came home from school and saw that there was a tray of rice with delicious food ready in the middle of her bed, different from the usual tray of vegetables. Although he didn't understand who was giving it to him, he was hungry so he sat down to eat. The next few days, the dinner tray was served like that. He was half surprised, half happy, but didn't understand why. Another day, he pretended to go to school, half way back and hid outside the window to look in. He saw a woman come out of the painting to clean the house and go to the kitchen to make dinner. He suddenly pushed open the door, walked in, grabbed her hand and said: - I've been waiting so long that my eyes are tired! Well, now I definitely won't let her get out of here! After speaking, Tu Uyen snatched the painting from the wall and tore it away. The girl's cheeks turned red and she would reply: - Why are you so cruel? I've already strayed into your house, so I don't dare disobey. Then she told him that her name was Giang Kieu, and that she had a relationship with him, so she was allowed to come down to earth and become a couple. Tu Uyen thought there was nothing more happy than that. He raised his hand to the sky and swore. The two talked for a long time. Tu Uyen asked her to marry him. Giang Kieu said: - Let me arrange a party and invite the fairies to come and witness our wedding. Having finished speaking, she pulled out the brooch on her head and magically transformed it into a brocade and jade curtain. Servants and servants were loudly waiting, and food and drinks were splendid. In just a moment, the table was set out, the flute resounded, and the fairies came one after another to eat, drink, chat, sing and dance happily. But since the day he got a beautiful wife, Tu Uyen no longer bothers to read books. All day long he is with his wife and one thing in particular is that he likes to drink wine and eat good food. Giang Kieu tried to dissuade her, but Tu Uyen remained the same. Three years passed, and he did not come to study. Gradually he became addicted to alcohol. Once he drank, he drank until he was drunk. When he was drunk, he did not know what was going on. He even cursed his wife many times. Giang Kieu was very angry, one day her husband walked slowly back from the tavern, she grabbed him on the bed and let him fall asleep, she flew back to heaven. After being sober, Tu Uyen could not see his wife. He felt very regretful. For a whole month, he stopped eating and sleeping and cried bitterly. His friends tried to persuade him, but he could not relieve his sadness. Angry at himself, he just wanted to commit suicide and end his life. But as soon as the towel was hung on the beam, suddenly a gust of wind carried the scent. Giang Kieu appeared before him. He was both happy and embarrassed, vowing to stop drinking alcohol, and the couple was happy again like before. Not long after, Giang Kieu gave birth to a baby boy. The baby grew up to be very smart and talented. One night, suddenly two cranes came to pick them up in the yard. The couple told their children to stay and then rode the cranes and flew up into the sky.
Table of contents
Beauty in the painting
Beauty in the painting
Vietnamese fairy talesWelcome to read the first books from the book project for mobile devices. Source: author: Nguyen Kim Vy.
Last words: Thank you for following the entire story. Source: author: Nguyen Kim Vy. collected: Hoang Dung Source: maiyeuem.net Uploaded by friend: Hoang Dung on: March 15, 2006
|
Nguyễn Thị Ấm
Người đến từ phía cánh rừng
Sau chiến tranh khoảng ba năm, tôi tốt nghiệp trường sư phạm và được điều về dạy học ở một trường phía tây tỉnh Quảng Trị. Nơi đây heo hút người vắng vẻ. Đây là trường cấp hai có năm lớp học và bảy giáo viên từ miền xuôi lên, và học trò hầu như toàn người dân tộc. Tôi được hiệu trưởng bố trí nơi ở cùng với một chị giáo viên dạy toán. Chị trạc ba mươi tuổi tên Hà. Chúng tôi ở trong gian nhà tranh mái lợp bằng những cây cỏ lau trông rất mỏng manh. Ngồi trong nhà có cảm giác, chỉ cần một cơn gió mạnh là cả gian nhà bay tung lên trời. Ở đây ngoài giờ lên lớp buổi tối chẳng biết làm gì. Mùa đông chúng tôi ra suối vớt những cây củi khô dạt vào hai bên bờ rồi đem về nhà. Tối đến, đốt một đống lửa giữa nhà cho ấm, sau đó ngồi nhìn lửa cháy suy ngẫm như những nhà hiền triết. Có lần, lúc chuẩn bị lên giường ngủ, chị Hà thở dài một cái rồi nói: - Tao xấu xí lỡ thì chẳng nói làm gì, còn mày xinh đẹp như tiên nữ mà cứ phải dạy học ở đây thì phí đời quá. Tôi cười: - Em nghe mẹ nói, con người ai cũng có duyên có phận. Rồi cũng có lúc một chàng trai đến xin cưới em. - Cũng có thể, cách đây mười hai cây số đường rừng có một đồn biên phòng. Biết đâu có một chàng sĩ quan biên phòng đến cầu hôn em ! Cả hai cùng cười khanh khách rồi lên giường chui vào chăn. Thao thức không ngủ rồi lại ngủ, lại thức và lại ngủ... mãi mới hết đêm dài. Ở được hai tháng, tôi phát hiện vùng này vào những đêm sáng trăng thì tuyệt đẹp. Đêm đến, chỉ cần mở cửa ra là nhìn thấy ngay núi đồi chìm trong ánh trăng. Xa xa, có những trảng cỏ lau sáng lên trong ánh trăng rập rờn trong gió... Những lúc như thế này chị Hà thường cằn nhằn: - Mày đóng cửa lại đi. Nơi đây là bãi chiến trường xưa hiểu không ? Có những linh hồn không tan đi lang thang. Tôi nói cứng: - Em không sợ, mình với họ có ân oán gì đâu. Chị Hà trèo lên giường trùm chăn quá đầu rên rỉ: - Tao xin mày đó Hằng ơi. Tôi đứng dậy đóng cửa, rồi cũng chui vào giường nằm nghe gió rừng thổi ào ào. Tự nhiên tôi bất giác thở dài, nghĩ rằng giá có một anh sĩ quan biên phòng lạc bước đến đây ngồi nói chuyện với hai cô giáo trẻ thì vui biết bao. Dạy học được nửa năm, tôi nhận được thư của người yêu xin chia tay. Lý do anh nêu ra cũng thật giản dị. Anh bị gia đình giục cưới vợ vì anh là con trai duy nhất. Anh không thể cưới tôi được vì hai người ở quá xa nhau. Nếu sự việc mà dừng ở đây thì vừa đủ rồi. Nhưng anh lại gửi kèm cho tôi một cái thiệp mời với lời nhắn "Nếu có thể thì về thăm quê rồi dự đám cưới của anh". Tôi cầm lá thư, chảy nước mắt. Anh ấy vô tâm thật... Đêm đó tôi chập chờn trong mộng mị rồi tỉnh lại. Người tự nhiên nóng bừng, cổ họng khát khô. Tôi cố đứng dậy tìm viên thuốc uống rồi ngồi xuống bên bếp lửa. Nhìn sang giường bên, chị Hà vẫn ngủ ngon lành vô tư lự. Có lẽ chị đã thích nghi với cuộc sống cô đơn của mình. Tôi đứng dậy mở cửa... Trời tháng mười cao vút, đen thẫm đầy sao. Xa xa có một mảnh trăng đang chìm dần sau dãy núi. Tôi nhìn xuống phía dưới chân đồi, có bóng một người đàn ông đang cầm súng cắm cúi bước đi. Đó có thể là những người thợ săn đêm. Lúc săn thú trên trán họ thường gắn một ngọn đèn nhỏ. Mắt con thú nhìn vô sẽ phản quang ánh đèn. Tiếp sau là phát súng nổ vang... Đôi khi họ vẫn vào chỗ tôi xin lửa hút thuốc, uống nước, hoặc xả thịt thú rừng. Có lúc họ còn hào phóng tặng lại một tảng thịt còn nóng hổi. Tôi đang nghĩ lan man, bỗng người đó xuất hiện ngay trước cửa. Tôi nhìn lên, không phải là những người thợ săn mà là một anh lính trẻ tay cầm súng vai khoác bòng. Anh khẽ cười, lên tiếng: - Chào cô giáo... tôi được đơn vị cho về phép. Cô giáo cho tôi nghỉ chân một lúc được không. Tôi đứng dậy lấy chiếc ghế nhỏ để cạnh đống lửa: - Mời anh. Anh lính tháo bòng ngồi xuống. Tôi lấy ly rót nước mời anh. Anh lính xuýt xoa uống nước và đưa bàn tay hơ trên ngọn lửa. Tôi cất tiếng: - Từ đây ra tới đường lớn để đón xe về xuôi còn khoảng bảy cây số nữa. Anh có biết đường không ? Anh lính cười: - Tôi ở đây đã sáu năm rồi. Vùng rừng nào tôi cũng đi qua... Mai tôi sẽ về thăm mẹ tôi. - Mấy năm rồi anh chưa về thăm mẹ ? - Cũng sáu năm rồi. - Sao lâu vậy ? - Tại tôi không thể về được. Anh lính mải mê uống nước như lâu lắm rồi anh không được uống. Tiếng một chú dế rừng cô đơn cất lên lanh lảnh. Tôi chuyển đề tài câu chuyện: - Anh kể về quê hương anh, về mẹ cho em nghe đi. Em cũng xa quê lên đây nhớ nhà lắm. Anh lính bỏ thêm củi vào bếp, cất tiếng: - Quê anh xa lắm, ở mãi Hà Bắc. Nơi có dòng sông Thương chảy qua, có con đê rất lớn chạy theo. Chiều chiều anh thường ra đó chăn trâu và thả diều. Anh nhớ nhất là những buổi hoàng hôn báo hiệu những trận gió mùa đông bắc sắp về. Ngồi trên đê nhìn về hướng tây, ráng chiều rực lên đủ màu, đẹp rực rỡ dưới bầu trời nặng trĩu mây đen... Nhưng chỉ vài phút thôi, ráng chiều phụt tắt, bầu trời đen ngòm, gió thổi cuồn cuộn, mưa rơi... Lũ trẻ chăn trâu cuống cuồng hò hét nhau chạy về nhà. - Thế còn gia đình anh ? - Cha anh mất sớm, mẹ anh nuôi hai đứa con, một trai một gái. Em gái anh đã đi lấy chồng cách đây hai năm. Mẹ anh là cô giáo đã về hưu, bây giờ anh ở một mình. Mẹ anh nhớ anh lắm. - Anh có người yêu chưa ? - Đúng mười tám, chưa kịp tỏ tình với ai thì đi bộ đội. Trong đơn vị toàn là đàn ông, lấy ai mà tỏ tình. Tôi cười: - Xạo hoài. Không biết chừng anh về phép chuyến này cưới vợ cũng nên. Con trai ở tuổi anh chưa yêu cũng chẳng sao. Đôi khi yêu lại càng thêm buồn. - Anh không biết hạnh phúc khi yêu như thế nào. Nhưng không yêu cô đơn lắm. Người không yêu giống như bức tượng. Buồn đến nỗi mọc rêu trên mặt mà không biết. Đôi mắt anh tối sẫm lại, lạnh như nước đá. Rồi đôi mắt anh nhìn tôi sáng rực lên như lửa cháy. Tự nhiên tôi thấy sợ, không dám nói chuyện với anh nữa. Thời gian chậm chạp trôi đi... Con gà cồ của chị Hà nuôi sau nhà đột nhiên cất tiếng gáy. Lát sau, tiếng gà ở phía xa thưa thớt vọng lại. Anh lính đứng dậy khoác bòng lên vai và cầm súng: - Thôi chào cô giáo nhé. Tôi phải đi thôi, để còn kịp đón xe về xuôi. Bất giác tôi đứng dậy, tiễn anh ra cửa. Mảnh trăng đột nhiên chìm sau mây đen. Tay tôi có người nắm chặt. Tiếng anh lính đứt đoạn bật qua hơi thở: - Em... em... cho anh... hôn em. Theo phản ứng tự nhiên, tôi giật tay lại, chạy vào trong... Lát sau tôi mới đưa ánh mắt nhìn theo người lính. Dưới ánh trăng, bóng anh đang xa dần. Nhưng tại sao anh không đi ra phía quốc lộ mà lại đi về phía cánh rừng ? *** Hai tháng sau. Có một bà mẹ tóc bạc đi cùng hai người đàn ông trẻ ghé đến trường xin nghỉ nhờ qua đêm. Tôi hỏi chuyện, được biết bà mẹ đi tìm mộ liệt sĩ. Đứa con trai bà đã hy sinh trong chiến tranh ngay tại vùng này. Bà kể chuyện, có đêm bà nằm mơ thấy con về nói: "Mẹ ơi, con phải đi tìm người yêu rồi mới về với mẹ". Bà đem câu chuyện kể với một nhà ngoại cảm. Ông ta nói, hãy đem một hình nhân là một người con gái đẹp cùng một dúm gạo dúm muối đến con sông vùng này khấn đốt cho con trai rồi thả xuống. May ra linh hồn nó mới chịu tan ra và trở về quê hương. Lúc này, nhà ngoại cảm mới có thể giúp bà tìm hài cốt đứa con. Tôi theo bà mẹ ra tận bến sông. Lúc họ bày đồ cúng, tôi bỗng lạnh toát. Bức hình chàng binh nhất chính là anh lính đã gặp tôi đêm ấy. Tôi nhìn trân trân vào bức hình. Rồi nhìn tro tàn của cô gái hình nhân trôi theo dòng sông. Vòng hoa màu trắng chìm dần... Tiếng bà mẹ khóc con vang lên trong lúc hoàng hôn: - Con ơi !... Con đã có người yêu rồi... Hãy về với mẹ đi... Con ơi... Tôi ra về, như kẻ bị mộng du... Đêm ấy... Giá như... tôi để cho anh ấy hôn. Thì chắc anh ấy đã không quay trở về với những cánh rừng lạnh lẽo âm u.
Mục lục
Người đến từ phía cánh rừng
Người đến từ phía cánh rừng
Nguyễn Thị ẤmChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.
Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.TieuBoiNgoan : Sưu tầm Nguồn: VNthuquan - Thư viện onlineĐược bạn: Ct.Ly đưa lên vào ngày: 18 tháng 8 năm 2005
|
Nguyễn Thị Ấm
Người đến từ phía cánh rừng
Sau chiến tranh khoảng ba năm, tôi tốt nghiệp trường sư phạm và được điều về dạy học ở một trường phía tây tỉnh Quảng Trị. Nơi đây heo hút người vắng vẻ. Đây là trường cấp hai có năm lớp học và bảy giáo viên từ miền xuôi lên, và học trò hầu như toàn người dân tộc. Tôi được hiệu trưởng bố trí nơi ở cùng với một chị giáo viên dạy toán. Chị trạc ba mươi tuổi tên Hà. Chúng tôi ở trong gian nhà tranh mái lợp bằng những cây cỏ lau trông rất mỏng manh. Ngồi trong nhà có cảm giác, chỉ cần một cơn gió mạnh là cả gian nhà bay tung lên trời. Ở đây ngoài giờ lên lớp buổi tối chẳng biết làm gì. Mùa đông chúng tôi ra suối vớt những cây củi khô dạt vào hai bên bờ rồi đem về nhà. Tối đến, đốt một đống lửa giữa nhà cho ấm, sau đó ngồi nhìn lửa cháy suy ngẫm như những nhà hiền triết. Có lần, lúc chuẩn bị lên giường ngủ, chị Hà thở dài một cái rồi nói: - Tao xấu xí lỡ thì chẳng nói làm gì, còn mày xinh đẹp như tiên nữ mà cứ phải dạy học ở đây thì phí đời quá. Tôi cười: - Em nghe mẹ nói, con người ai cũng có duyên có phận. Rồi cũng có lúc một chàng trai đến xin cưới em. - Cũng có thể, cách đây mười hai cây số đường rừng có một đồn biên phòng. Biết đâu có một chàng sĩ quan biên phòng đến cầu hôn em ! Cả hai cùng cười khanh khách rồi lên giường chui vào chăn. Thao thức không ngủ rồi lại ngủ, lại thức và lại ngủ... mãi mới hết đêm dài. Ở được hai tháng, tôi phát hiện vùng này vào những đêm sáng trăng thì tuyệt đẹp. Đêm đến, chỉ cần mở cửa ra là nhìn thấy ngay núi đồi chìm trong ánh trăng. Xa xa, có những trảng cỏ lau sáng lên trong ánh trăng rập rờn trong gió... Những lúc như thế này chị Hà thường cằn nhằn: - Mày đóng cửa lại đi. Nơi đây là bãi chiến trường xưa hiểu không ? Có những linh hồn không tan đi lang thang. Tôi nói cứng: - Em không sợ, mình với họ có ân oán gì đâu. Chị Hà trèo lên giường trùm chăn quá đầu rên rỉ: - Tao xin mày đó Hằng ơi. Tôi đứng dậy đóng cửa, rồi cũng chui vào giường nằm nghe gió rừng thổi ào ào. Tự nhiên tôi bất giác thở dài, nghĩ rằng giá có một anh sĩ quan biên phòng lạc bước đến đây ngồi nói chuyện với hai cô giáo trẻ thì vui biết bao. Dạy học được nửa năm, tôi nhận được thư của người yêu xin chia tay. Lý do anh nêu ra cũng thật giản dị. Anh bị gia đình giục cưới vợ vì anh là con trai duy nhất. Anh không thể cưới tôi được vì hai người ở quá xa nhau. Nếu sự việc mà dừng ở đây thì vừa đủ rồi. Nhưng anh lại gửi kèm cho tôi một cái thiệp mời với lời nhắn "Nếu có thể thì về thăm quê rồi dự đám cưới của anh". Tôi cầm lá thư, chảy nước mắt. Anh ấy vô tâm thật... Đêm đó tôi chập chờn trong mộng mị rồi tỉnh lại. Người tự nhiên nóng bừng, cổ họng khát khô. Tôi cố đứng dậy tìm viên thuốc uống rồi ngồi xuống bên bếp lửa. Nhìn sang giường bên, chị Hà vẫn ngủ ngon lành vô tư lự. Có lẽ chị đã thích nghi với cuộc sống cô đơn của mình. Tôi đứng dậy mở cửa... Trời tháng mười cao vút, đen thẫm đầy sao. Xa xa có một mảnh trăng đang chìm dần sau dãy núi. Tôi nhìn xuống phía dưới chân đồi, có bóng một người đàn ông đang cầm súng cắm cúi bước đi. Đó có thể là những người thợ săn đêm. Lúc săn thú trên trán họ thường gắn một ngọn đèn nhỏ. Mắt con thú nhìn vô sẽ phản quang ánh đèn. Tiếp sau là phát súng nổ vang... Đôi khi họ vẫn vào chỗ tôi xin lửa hút thuốc, uống nước, hoặc xả thịt thú rừng. Có lúc họ còn hào phóng tặng lại một tảng thịt còn nóng hổi. Tôi đang nghĩ lan man, bỗng người đó xuất hiện ngay trước cửa. Tôi nhìn lên, không phải là những người thợ săn mà là một anh lính trẻ tay cầm súng vai khoác bòng. Anh khẽ cười, lên tiếng: - Chào cô giáo... tôi được đơn vị cho về phép. Cô giáo cho tôi nghỉ chân một lúc được không. Tôi đứng dậy lấy chiếc ghế nhỏ để cạnh đống lửa: - Mời anh. Anh lính tháo bòng ngồi xuống. Tôi lấy ly rót nước mời anh. Anh lính xuýt xoa uống nước và đưa bàn tay hơ trên ngọn lửa. Tôi cất tiếng: - Từ đây ra tới đường lớn để đón xe về xuôi còn khoảng bảy cây số nữa. Anh có biết đường không ? Anh lính cười: - Tôi ở đây đã sáu năm rồi. Vùng rừng nào tôi cũng đi qua... Mai tôi sẽ về thăm mẹ tôi. - Mấy năm rồi anh chưa về thăm mẹ ? - Cũng sáu năm rồi. - Sao lâu vậy ? - Tại tôi không thể về được. Anh lính mải mê uống nước như lâu lắm rồi anh không được uống. Tiếng một chú dế rừng cô đơn cất lên lanh lảnh. Tôi chuyển đề tài câu chuyện: - Anh kể về quê hương anh, về mẹ cho em nghe đi. Em cũng xa quê lên đây nhớ nhà lắm. Anh lính bỏ thêm củi vào bếp, cất tiếng: - Quê anh xa lắm, ở mãi Hà Bắc. Nơi có dòng sông Thương chảy qua, có con đê rất lớn chạy theo. Chiều chiều anh thường ra đó chăn trâu và thả diều. Anh nhớ nhất là những buổi hoàng hôn báo hiệu những trận gió mùa đông bắc sắp về. Ngồi trên đê nhìn về hướng tây, ráng chiều rực lên đủ màu, đẹp rực rỡ dưới bầu trời nặng trĩu mây đen... Nhưng chỉ vài phút thôi, ráng chiều phụt tắt, bầu trời đen ngòm, gió thổi cuồn cuộn, mưa rơi... Lũ trẻ chăn trâu cuống cuồng hò hét nhau chạy về nhà. - Thế còn gia đình anh ? - Cha anh mất sớm, mẹ anh nuôi hai đứa con, một trai một gái. Em gái anh đã đi lấy chồng cách đây hai năm. Mẹ anh là cô giáo đã về hưu, bây giờ anh ở một mình. Mẹ anh nhớ anh lắm. - Anh có người yêu chưa ? - Đúng mười tám, chưa kịp tỏ tình với ai thì đi bộ đội. Trong đơn vị toàn là đàn ông, lấy ai mà tỏ tình. Tôi cười: - Xạo hoài. Không biết chừng anh về phép chuyến này cưới vợ cũng nên. Con trai ở tuổi anh chưa yêu cũng chẳng sao. Đôi khi yêu lại càng thêm buồn. - Anh không biết hạnh phúc khi yêu như thế nào. Nhưng không yêu cô đơn lắm. Người không yêu giống như bức tượng. Buồn đến nỗi mọc rêu trên mặt mà không biết. Đôi mắt anh tối sẫm lại, lạnh như nước đá. Rồi đôi mắt anh nhìn tôi sáng rực lên như lửa cháy. Tự nhiên tôi thấy sợ, không dám nói chuyện với anh nữa. Thời gian chậm chạp trôi đi... Con gà cồ của chị Hà nuôi sau nhà đột nhiên cất tiếng gáy. Lát sau, tiếng gà ở phía xa thưa thớt vọng lại. Anh lính đứng dậy khoác bòng lên vai và cầm súng: - Thôi chào cô giáo nhé. Tôi phải đi thôi, để còn kịp đón xe về xuôi. Bất giác tôi đứng dậy, tiễn anh ra cửa. Mảnh trăng đột nhiên chìm sau mây đen. Tay tôi có người nắm chặt. Tiếng anh lính đứt đoạn bật qua hơi thở: - Em... em... cho anh... hôn em. Theo phản ứng tự nhiên, tôi giật tay lại, chạy vào trong... Lát sau tôi mới đưa ánh mắt nhìn theo người lính. Dưới ánh trăng, bóng anh đang xa dần. Nhưng tại sao anh không đi ra phía quốc lộ mà lại đi về phía cánh rừng ? *** Hai tháng sau. Có một bà mẹ tóc bạc đi cùng hai người đàn ông trẻ ghé đến trường xin nghỉ nhờ qua đêm. Tôi hỏi chuyện, được biết bà mẹ đi tìm mộ liệt sĩ. Đứa con trai bà đã hy sinh trong chiến tranh ngay tại vùng này. Bà kể chuyện, có đêm bà nằm mơ thấy con về nói: "Mẹ ơi, con phải đi tìm người yêu rồi mới về với mẹ". Bà đem câu chuyện kể với một nhà ngoại cảm. Ông ta nói, hãy đem một hình nhân là một người con gái đẹp cùng một dúm gạo dúm muối đến con sông vùng này khấn đốt cho con trai rồi thả xuống. May ra linh hồn nó mới chịu tan ra và trở về quê hương. Lúc này, nhà ngoại cảm mới có thể giúp bà tìm hài cốt đứa con. Tôi theo bà mẹ ra tận bến sông. Lúc họ bày đồ cúng, tôi bỗng lạnh toát. Bức hình chàng binh nhất chính là anh lính đã gặp tôi đêm ấy. Tôi nhìn trân trân vào bức hình. Rồi nhìn tro tàn của cô gái hình nhân trôi theo dòng sông. Vòng hoa màu trắng chìm dần... Tiếng bà mẹ khóc con vang lên trong lúc hoàng hôn: - Con ơi !... Con đã có người yêu rồi... Hãy về với mẹ đi... Con ơi... Tôi ra về, như kẻ bị mộng du... Đêm ấy... Giá như... tôi để cho anh ấy hôn. Thì chắc anh ấy đã không quay trở về với những cánh rừng lạnh lẽo âm u.
Mục lục
Người đến từ phía cánh rừng
Người đến từ phía cánh rừng
Nguyễn Thị ẤmChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.
Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.TieuBoiNgoan : Sưu tầm Nguồn: VNthuquan - Thư viện onlineĐược bạn: Ct.Ly đưa lên vào ngày: 18 tháng 8 năm 2005
|
Viên Nhật
Ngạn
Bà Cả đang nằm lơ mơ trên cái võng đu đưa, bỗng nghe một tiếng xoảng khiến bà ngồi bật dậy. Bà cố lắng tai nghe ngóng trong sự im lặng đáng ngờ vực. Lòng đầy bực bội, bà lớn tiếng nói: - Ngạn à, làm bể cái gì nữa đó? Không có tiếng trả lời, bà xỏ chân vào đôi dép, đi xuống nhà bếp. Trước mắt bà, cái bếp hệt như một bãi chiến trường: Nào nồi, nào chén, miểng dĩa, miểng tô … còn cô con gái nhỏ của bà thì đang ngồi giữa bãi chiến trường ấy mà ăn ăn, xé xé với một cái dĩa đầy những con gì đen đen, cháy cháy giống con cồng quều. Nghe tiếng chân của mẹ, cô bé ngừng nhai, ngẩng đầu lên. Gương mặt đầy lọ nghẹ vạch ngang, vạch dọc của con gái làm bà mẹ buồn cười đến quên cả giận. Bà rên lên: - Trời ơi, con gái ơi là con gái …! Mẹ đâu có đẻ ra con hề thế này. Con gái xinh đẹp của tui đâu rồi? Cô bé vụt cười toe, nhe hai hàm răng trắng đều rất tươi: - Con xinh đây mà … hihihi. Vừa nói, cô bé vừa kéo vạt áo lên lau mặt. Bà mẹ lại rên lên: - Thôi rồi, còn đâu cái áo tui mới may cho nó. - Úi quên. Sorry, sorry, mamy! - Lại còn xài tiếng Tây cạp cạp với tui nữa! Cô bé đứng dậy, chạy ào tới, vòng tay ôm mẹ, áp cái đầu nhỏ xinh vào ngực mẹ. Bà Cả chẳng biết làm sao, đành cứ đứng đấy, xuôi hai tay. Ánh mắt bà nhìn vào hai cái xoáy trên đỉnh đầu con gái rồi thở dài thầm nghĩ: Chẳng trách ông bà vẫn nói đầu hai xoáy khó bảo. Đã đặt tên nó là Ngạn trong nghĩa Hồi đầu thị ngạn (Quay đầu thì thấy bờ), nhưng xem ra còn lâu con bé mới biết bờ là thế nào. Dù sao, nó chỉ mới mười bốn tuổi. Thôi thì cứ đợi nó bơi vài năm nữa xem sao. Quả thật cô con gái nhỏ của bà vừa hậu đậu, vừa nghịch ngợm. Phải chi hậu đậu mà chậm lụt thì đỡ biết mấy. Đằng này nó nhanh như con sóc. Mới nghe lục sục đầu này thì tiếp đó đã nghe loảng xoảng đầu kia. Căn nhà lúc nào cũng ngổn ngang những đồ vật linh tinh. Tiếng chuông đồng hồ quả lắc gõ từng tiếng ngân nga trong buổi trưa hè. Bé Ngạn đang ngồi chồm hổm, lọt thõm trong chiếc ghế bành rộng, mắt nó nhìn chăm chăm vào chiếc đồng hồ quả lắc. Nó luôn tò mò muốn biết tại sao con gà có thể nhảy ra, nhảy vào khi đồng hồ gõ chuông. Có lần nó đã bắc ghế rinh cái đồng hồ xuống, tháo ra xem. Khi ráp vào, không hiểu sao nó cứ dư rất nhiều bộ phận mà nó không tìm ra chỗ nào để gắn vào. Bà Cả bắt gặp trò phá hoại của cô bé và đét cho một trận. Mặt bà lúc giận mới ghê chứ! Ngạn biết mẹ rất quý chiếc đồng hồ này. Sáng nào thức dậy, công việc đầu tiên của bà là lấy chìa khóa, lên dây cót đồng hồ. Tiếp đó, bà lau bụi cho nó một cách dịu dàng, như thể cái vỏ gỗ và mặt kính đồng hồ mỏng manh lắm vậy. Phía sau nhà Ngạn là một con sông nhỏ. Bà Cả rào bờ sông rất kỹ để Ngạn không thể ra tắm sông. Nó chỉ có thể quậy bùn trong cái ụ tàu cạn sều dù nước rong tháng mười cũng không thể ngập đầu nó được. Ngày nào cũng nghe tiếng bà Cả la mắng con gái bằng một giọng lớn nhưng thiếu sự giận dữ. Bé Ngạn quen tai đến mức nó chẳng nhúc nhích tí nào. Căn nhà sau một ngày vẫn là bãi chiến trường cho bà Cả dọn dẹp đến khuya. Đôi khi, bà đứng nhìn con gái ngủ say. Dưới ánh đèn ngủ mờ mờ, bé Ngạn nằm sải dài chân tay, môi he hé cười, tấm lòng người mẹ lại nặng trĩu nổi lo lắng vì sự vô tâm, hời hợt của con gái. Cuộc sống của hai mẹ con cứ êm đềm trôi. Năm ấy, Ủy ban Xã đắp đập ngăn con sông nhỏ sau nhà, nghe nói dự trù dùng khúc sông ấy nuôi tôm. Tôm đâu không thấy, chỉ thấy hàng chục mẫu ruộng, trong đó có ruộng nhà Ngạn trở thành vuông phèn vì không có nước sông ra vô lọc đất. Lúa cấy xuống chưa được ba ngày đã héo rủ. Khúc sông sau nhà trở thành cái hồ lớn, nước đỏ quạch váng phèn, đủ thứ rác nổi lập lờ và mấy chục chiếc cầu tõm bắt ra sông, rợn hết cả người. Còn đâu dòng sông nước trong xanh với những hàng mắm bần thơ mộng, treo đầy những tổ chim. Cứ mỗi chiều về, những chú chim bay về tổ kêu vang động cả buổi chiều quê. Vụ mùa đi tong. Lần đầu tiên Ngạn biết đến một cái Tết buồn. Mọi năm, những ngày trước Tết, Ngạn phụ mẹ dí bồ lúa to đùng ở nhà sau. Năm nay, nhà sau sạch sẽ, trống rỗng đến nao lòng. Ngạn hỏi: - Năm nay mình ăn bằng gì hả mẹ? Đó cũng là câu hỏi cháy lòng bà Cả. Ngày trước, Ngạn thường hái trái cây vườn nhà đem cho bạn. Bây giờ mẹ chắt chiu từng ngọn rau, trái chín mang ra chợ bán đổi gạo. Ruộng thành đất hoang. Bà Cả ra chợ buôn bán nhỏ kiếm sống qua ngày. Mấy năm sau, Ủy ban xã đến hỏi mua miếng đất của bà Cả để làm sân chơi cho thanh niên trong xã với giá hai trăm triệu đồng. Quy ra vàng là bốn chục cây. Những người có ruộng bị thành đất hoang như bà Cả nói cho bà biết người ta đang kiếm mua đất để ở rất nhiều vì ở đây sắp mở một khu công nghiệp do Úc đầu tư và mấy chục mẫu ruộng hoang đã được huyện quy hoạch là khu dân cư. Giá đất đang lên vùn vụt. Bé Ngạn cần tiền để học cao hơn nữa. Nhiều người đến hỏi mua mỗi người vài thước tới để cất nhà. Dù sao cũng không cày cấy được, bà Cả nghĩ: Ở đâu có nhà mình thì ở đó là quê. Bán hết đất, hai mẹ con khăn gói ra đi. Hôm đó, bé Ngạn đứng ở đầu ngõ nhìn mãi ngôi nhà từ nay là của người khác, cũng như tuổi thơ đã đi qua, không bao giờ trở lại. Nỗi nghẹn ngào dâng trong lòng nó. Không hiểu sao trong đầu nó cứ vang vang mãi hai từ: Tha phương, tha phương!
Mục lục
Ngạn
Ngạn
Viên NhậtChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.
Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.Đánh máy: Cao Chương Nguồn: Cao chương / tác giả VNTQĐược bạn: Ct.ly đưa lên vào ngày: 3 tháng 10 năm 2007
|
Vien Nhat
Ngan
Mrs. Elder was lying dozing in the swinging hammock when suddenly she heard a clanging sound that made her sit up. She tried to listen in suspicious silence. Filled with frustration, she said loudly: - Ngan, did you break something else? There was no answer, she put on her slippers and went down to the kitchen. Before her eyes, the kitchen looked like a battlefield: pots, cups, plates, bowls... and her little daughter was sitting in the middle of that battlefield, eating and tearing with a fork. full of black, burned things that looked like gongs. Hearing her mother's footsteps, the girl stopped chewing and raised her head. The daughter's face full of horizontal and vertical lines made the mother laugh so much that she forgot her anger. She moaned: - Oh my god, it's a girl...! Mom didn't give birth to a clown like this. Where is my beautiful daughter? The girl suddenly grinned, showing her bright white teeth: - You're so pretty... hihihi. As she spoke, the girl pulled up her shirt and wiped her face. The mother groaned again: - Okay, where is the new shirt I made for him? - Oh, I forgot. Sorry, sorry, mamy! - You're still using Western language with me! The little girl stood up, ran forward, wrapped her arms around her mother, and pressed her pretty little head to her mother's chest. Mrs. Elder didn't know what to do, so she just stood there with her arms down. Her eyes looked at the two vortices on the top of her daughter's head, then sighed and thought to herself: No wonder grandparents always say that two vortices are difficult to control. Named it Ngan in the meaning of Hoi dau thi ngan (Turn around and see the shore), but it seems like it will be a long time before she knows what the shore is. After all, he is only fourteen years old. Well, let's just wait for it to swim for a few more years and see how it goes. Indeed, her little daughter is both clumsy and naughty. If only clumsiness could slow down the flood, it would be much better. Over here it's as fast as a squirrel. I just heard it rattling from one end, then I heard it from the other end. The house is always cluttered with miscellaneous objects. The bell of a grandfather clock chimes every time in the summer afternoon. Baby Ngan was squatting, slumped in a large armchair, her eyes staring intently at the grandfather clock. He was always curious to know why the chicken could jump in and out when the clock rang. One time he picked up a chair and took down the watch, took it off to look at it. When assembled, I don't understand why it has so many extra parts that it can't find a place to attach it to. Mrs. Ca caught the little girl's vandalism and spanked her. Her face is so scary when she's angry! Ngan knows that her mother loves this watch very much. Every morning when she wakes up, her first job is to get the key and wind the clock. Next, she wiped the dust on it gently, as if the wooden case and glass of the watch were fragile. Behind Ngan's house is a small river. Mrs. Ca fenced the riverbank very carefully so that Ngan could not go out to bathe in the river. It can only stir up mud in the shallow dry dock, even though October seaweed water cannot cover its head. Every day I hear Mrs. Ca scolding her daughter in a loud voice but lacking in anger. Baby Ngan is so familiar with her ears that she doesn't move at all. The house after a day was still a battlefield for Mrs. Ca to clean until late at night. Sometimes, she stood and watched her daughter sleep soundly. Under the dim nightlight, baby Ngan lay with her arms and legs stretched out, her lips parted in a smile, her mother's heart heavy with worry because of her daughter's indifference and superficiality. The life of mother and daughter continued to flow peacefully. That year, the Commune Committee built a dam to block the small river behind the house. It was said that the river was planned to be used for shrimp farming. Shrimps were nowhere to be seen, only dozens of acres of fields, including Ngan's fields, which became alum squares because there was no river water to filter the soil. The rice had not been transplanted for three days before it withered. The river behind the house became a large lake, the water was red with alum scum, all kinds of trash were floating around, and dozens of bridges were dangling into the river, it was scary all over. Where else is the clear blue river with poetic rows of fish sauce, filled with bird's nests? Every afternoon, the birds fly back to their nests and chirp loudly throughout the countryside. The crop is gone. For the first time, Ngan knew about a sad Tet. Every year, in the days before Tet, Ngan's mother and father put a large basket of rice in the back house. This year, the back house is clean and empty. Ngan asked: - What will we eat this year, Mom? That is also a burning question for Mrs. Ca. In the past, Ngan often picked fruit from her garden and brought it to her friends. Now my mother saves every ripe vegetable and fruit to bring to the market to sell in exchange for rice. Fields become wasteland. Mrs. Ca went to the market to do small business to make a living. A few years later, the Commune Committee came to ask to buy Mrs. Ca's land to build a playground for the youth in the commune for two hundred million VND. Converted into gold is forty trees. People whose fields have become wasteland like Ms. Ca told her that a lot of people are looking to buy land to live in because an Australian-invested industrial park is about to open here and dozens of acres of abandoned fields have been planned by the district as residential area. Land prices are skyrocketing. Baby Ngan needs money to study further. Many people came to ask to buy a few meters each to build a house. Even though she couldn't farm, Mrs. Ca thought: Wherever my house is, that's my hometown. Selling all the land, mother and son packed up and left. That day, little Ngan stood at the beginning of the alley, looking forever at the house that now belonged to someone else, as well as the childhood that had passed, never to return. Choking rose in his heart. For some reason, two words kept echoing in his head: Forgiveness, forgiveness!
Table of contents
Ngan
Ngan
Vien NhatWelcome to read the titles from the book project for mobile devices. Source: author: Nguyen Kim Vy.
Final words: Thank you for reading the entire story. Source: author: Nguyen Kim Vy. Typing: Cao Chuong Source: Cao Chuong / author VNTQ Uploaded by friend: Ct.ly on: October 3, 2007
|
Nguyễn Công Hoan
ngậm cười
làng tôi bây giờ sở dĩ được yên ổn, là nhờ lòng can đảm, nghĩa hiệp của anh cu bản, đã liều mình khám phá ra cái tổ trộm cướp ở cánh rừng thông.sáu tháng về trước, luôn một dạo, những lúc đêm khuya, tĩnh mịch, không có trăng, ít người dám đưa mắt ra ngoài sân tối mịt. nghe ngọn gió rít qua khe liếp cũng đủ trợn! hễ có tiếng chó rồ lên sủa khan ở xóm bờ sông, là ngay từ đứa bé lên hai cũng biết giật mình. nó khóc thét lên, ôm chầm lấy mẹ... mẹ nó vỗ, xoa, ru khe khẽ để lắng tai nghe. rồi nếu một hồi tù và dậy lên, thì ông già vặn to ngọn đèn hoa kỳ, ngồi nhổm dậy, húng hắng ho, hoặc hút thuốc lào, cho đỡ vẻ lặng lẽ.nhưng bỗng vẳng nghe ở đâu kêu cướp, rồi trống đánh liên thanh, tiếng khóc như ri, tù và rúc, chó sủa lạc tiếng, liền liền nhau từ làng này đến làng khác, dài hàng mấy cây số, thì người cứng bóng vía đến đâu cũng phải lạnh run lên, đánh thức cả nhau dậy, ngồi đến suốt sáng.mười tối thì đến bốn năm tối kinh khủng như thế. mà bọn cướp rất tài, ban ngày chúng khéo lẩn lút trong cánh rừng thông. các nhà chuyên trách mấy lần cho lính vào sục cũng không bắt được.++ +lúc ấy, vào khoảng bốn giờ chiều. chị cu bản đương ngồi nhặt rau trong bếp, thì chồng về. nét mặt hăm hở, anh nói:- này u nó, quan đã cắt tôi rồi.chị ngơ ngác:- cắt gì?- cắt đi bắt tổ cướp rừng thông?xám ngắt mặt, chị gắt:- quan bắt thầy nó vào chỗ chết mà cũng nghe à?anh cu vênh mặt, kiêu căng, đáp:- chỉ nói dại! việc gì mà chết. chính tôi tình nguyện với quan để xin đi!chị cu oà lên khóc:- thầy nó nỡ bỏ mẹ con tôi chết đói hay sao? khổ quá! tôi biết trông cậy vào ai được? thầy nó đừng đi!ba đứa bé, ngơ ngác nhìn cha mẹ, cũng oà lên khóc.anh cu cảm động, an ủi vợ:- u nó cứ yên lòng. thế nào sáng mai tôi cũng về. nếu tôi không ra tay, rồi quân cướp cứ nhũng nhiễu mãi, vùng này còn ai làm ăn gì được!- Đành vậy, nhưng lỡ ra...- thì cũng đành chứ sao? tôi làm việc ích cho mọi người mà u nó cũng cứ ngăn cản.- làm ích cho nhà giàu, chứ những hạng như mình thì lo gì bị cướp? tôi chỉ sợ lỡ ra, thì một nách ba con mọn, tôi biết làm thế nào?- u mày đừng dở hơi! việc gì mà lo xa như thế? tôi sẽ được thưởng. quan hứa rồi. nếu thành công, ta không phải vất vả như thế này nữa.- thôi, tôi van thầy nó đừng dại dột. tôi không để cho thầy nó đi đâu.anh cu quắc mắt, nói:- việc quan nào phải việc trẻ con! u nó không được nói thế.chị cu lại oà lên khóc, túm chặt lấy áo chồng. anh cu giằng ra, mắng:- u nó không được giữ. quan và lính chờ tôi ngoài đình kia. Để tôi đi, kẻo chậm.- không! không đi! thầy nó hãy ăn cơm đã, vội gì.- không cần. Đã có cơm của quan. tôi phải đi ngay bây giờ mới kịp.nói đoạn anh cu nhất định dứt áo ra đi. anh ôm ba con vào lòng, xoa đầu, dặn dò mấy câu, rồi ra cổng. chị cu bế con, khóc lóc theo chồng. nhưng vẫn thản nhiên, anh cu coi nhẹ nghĩa vợ chồng, tình cha con. Đến đầu làng, anh rỉ tai nói với khán thủ kéo chị cu trở lại.++ +sự thành công của anh cu bản đã làm cho vợ anh goá chồng! Đêm hôm đó, nhờ anh can đảm, quân cướp lũ lượt bị giải lên huyện. nhưng anh cu bản bị bỏ mạng. thương thay!từ bấy giờ, trên đầu chị một tấm khăn tang, kẽ nách chị ba mụn con mọn. Đoạn trường lắm lúc nghĩ mà buồn tênh...cả làng ai cũng ái ngại cho chị cu bản và ngậm ngùi thương hại con người trọng nghĩa mà khinh thân.bọn nhà giàu được ăn no ngủ yên. họ mổ gà mổ chó ăn mừng. họ khen quan huyện tốt với dân, biết hy sinh một người để cứu nhiều người. họ xui chị cu bản bế cả ba đứa con lên kêu quan phụ mẫu thương đến tình cảnh nheo nhóc của chị mà cho một món tiền bồi thường.quan huyện rất tử tế. ngài nói:- nhà chị không phải kêu, bổn phận ta là phải bẩm lên quan trên xét đến người có công. cứ về mà chờ đợi ít lâu. rồi chị sẽ không phải phàn nàn về sự ân thưởng đích đáng của chồng chị.++ +Ôm tấm mong mỏi, chị cu bản vui vẻ về nhà, kể chuyện cho mọi người nghe. ai cũng có bụng mừng thay cho chị.thường khi làm ăn vất vả, được bữa nay, lo bữa mai, chị lại nhớ thương chồng. nhưng chị lấy ngay cái hy vọng ra để tự an ủi. nếu được thưởng, chị dùng món tiền để sinh lợi, thì chắc được đủ ăn suốt đời.năm hôm, mười hôm. cái trò mong vẫn hay thấy lâu. chứ chị biết đâu lá đơn của chị còn phải qua tòa này sở nọ, có khi nó đi chậm và hay nghỉ như ông cụ già.rồi nửa tháng, lại một tháng. chị cu bản càng ngày càng quẫn bách. cơm chẳng đủ nuôi con. nhà dột, không ai giọi hộ. sân rêu, cỏ mọc, chị chẳng có lúc nào sửa sang. mấy đứa bé bêu rếch. nhưng biết làm thế nào? nếu chị ở nhà trông nom chúng, thì ai đi làm lụng kiếm miếng cho mà ăn? giá chúng lớn, độ lên bảy lên tám cả, thì chị đã cho một đứa đi ở, để đỡ phải nuôi. khốn nhưng thằng lớn mới lên năm tuổi.rồi nữa, một tháng, hai tháng. người ta thấy chị cu bản rách rưới. không ai không phàn nàn cho chị. mặt mũi chị hốc hác, đen đủi, xấu xa. người ta hỏi thăm, chị đều trả lời:- nay mai, tôi sẽ có món tiền thưởng.thưởng. cái đó không thể không có. chắc lắm rồi. quan đã hứa thế. nhưng hôm nay chị chưa có gì cả. chị nóng ruột. khổ. nhưng, nhất định chị chờ cái tương lai.ở ngoài, họ đồn chán lên đấy. có người mong chị được thưởng một nghìn bạc. có người đoán chị được lương ăn suốt đời. có người ở xa, lại nói dựng đứng ngay rằng đã gặp chị lên tỉnh lĩnh hai nghìn ở kho bạc.nhưng sự thực chửa có thế. sự thực thì chị cu bản vẫn tự an ủi bằng cái hy vọng những khi đầu tắt mặt tối, và khóc thầm những lúc nhà vắng đêm khuya. chị nhớ lại hôm chồng hăm hở đưa quan lính vào chỗ tổ cướp. chị nhớ lại lúc trông thấy xác chồng nằm co ro trên vũng máu để tự nhiên chị thành góa bụa, với ba mụn cơn thơ. chị đau đớn. nhưng chợt chị nghĩ đến lời quan huyện hứa, quả quyết sẽ được bồi thường về công của chồng chị. trời ơi, bao giờ nhỉ? bao giờ cái đói, cái rách, cái khốn quẫn nó tha cho chị mà đừng dọa nạt chị nhỉ? bỗng chị nhìn lên vách. thấy bóng chiếc khăn ngang, chị cảm động, thút thít khóc.++ +một hôm, chị cu bản hăm hở chạy sang nhà tôi. tôi không thấy tay chị cầm chiếc rá. mặt chị cũng không nhăn nhó như mọi khi. chị giơ tờ giấy có dấu son đỏ loè, nhờ tôi xem hộ, và hỏi:- Ông lý đưa tôi tờ sức, nói rằng quan bảo tôi đi lĩnh thưởng phải không?tôi mừng thầm cho chị. chị lại hỏi:- có phải không? bao nhiêu, hở cậu?xem xong, tôi nhìn chị, rồi khẽ đáp:- phải, thưởng, anh ấy được truy tặng cửu phẩm bá hộ, chị ạ.- chứ không phải tiền à?- không!bỗng chị cu bản xám mặt lại. chị run bắn lên, rồi mếu máo khóc. chị giật lấy tờ giấy, chạy ù ra cổng, quên đứt rằng đáng lẽ chị phải vui vẻ cho chồng chị ở chín suối được ngậm cười.tiểu thuyết thứ bảy số 188; 1938.
Mục lục
ngậm cười
ngậm cười
Nguyễn Công HoanChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.
Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: HùngĐược bạn: Thành Viên VNthuquan đưa lên vào ngày: 27 tháng 12 năm 2003
|
Nguyễn Công Hoan
ngậm cười
làng tôi bây giờ sở dĩ được yên ổn, là nhờ lòng can đảm, nghĩa hiệp của anh cu bản, đã liều mình khám phá ra cái tổ trộm cướp ở cánh rừng thông.sáu tháng về trước, luôn một dạo, những lúc đêm khuya, tĩnh mịch, không có trăng, ít người dám đưa mắt ra ngoài sân tối mịt. nghe ngọn gió rít qua khe liếp cũng đủ trợn! hễ có tiếng chó rồ lên sủa khan ở xóm bờ sông, là ngay từ đứa bé lên hai cũng biết giật mình. nó khóc thét lên, ôm chầm lấy mẹ... mẹ nó vỗ, xoa, ru khe khẽ để lắng tai nghe. rồi nếu một hồi tù và dậy lên, thì ông già vặn to ngọn đèn hoa kỳ, ngồi nhổm dậy, húng hắng ho, hoặc hút thuốc lào, cho đỡ vẻ lặng lẽ.nhưng bỗng vẳng nghe ở đâu kêu cướp, rồi trống đánh liên thanh, tiếng khóc như ri, tù và rúc, chó sủa lạc tiếng, liền liền nhau từ làng này đến làng khác, dài hàng mấy cây số, thì người cứng bóng vía đến đâu cũng phải lạnh run lên, đánh thức cả nhau dậy, ngồi đến suốt sáng.mười tối thì đến bốn năm tối kinh khủng như thế. mà bọn cướp rất tài, ban ngày chúng khéo lẩn lút trong cánh rừng thông. các nhà chuyên trách mấy lần cho lính vào sục cũng không bắt được.++ +lúc ấy, vào khoảng bốn giờ chiều. chị cu bản đương ngồi nhặt rau trong bếp, thì chồng về. nét mặt hăm hở, anh nói:- này u nó, quan đã cắt tôi rồi.chị ngơ ngác:- cắt gì?- cắt đi bắt tổ cướp rừng thông?xám ngắt mặt, chị gắt:- quan bắt thầy nó vào chỗ chết mà cũng nghe à?anh cu vênh mặt, kiêu căng, đáp:- chỉ nói dại! việc gì mà chết. chính tôi tình nguyện với quan để xin đi!chị cu oà lên khóc:- thầy nó nỡ bỏ mẹ con tôi chết đói hay sao? khổ quá! tôi biết trông cậy vào ai được? thầy nó đừng đi!ba đứa bé, ngơ ngác nhìn cha mẹ, cũng oà lên khóc.anh cu cảm động, an ủi vợ:- u nó cứ yên lòng. thế nào sáng mai tôi cũng về. nếu tôi không ra tay, rồi quân cướp cứ nhũng nhiễu mãi, vùng này còn ai làm ăn gì được!- Đành vậy, nhưng lỡ ra...- thì cũng đành chứ sao? tôi làm việc ích cho mọi người mà u nó cũng cứ ngăn cản.- làm ích cho nhà giàu, chứ những hạng như mình thì lo gì bị cướp? tôi chỉ sợ lỡ ra, thì một nách ba con mọn, tôi biết làm thế nào?- u mày đừng dở hơi! việc gì mà lo xa như thế? tôi sẽ được thưởng. quan hứa rồi. nếu thành công, ta không phải vất vả như thế này nữa.- thôi, tôi van thầy nó đừng dại dột. tôi không để cho thầy nó đi đâu.anh cu quắc mắt, nói:- việc quan nào phải việc trẻ con! u nó không được nói thế.chị cu lại oà lên khóc, túm chặt lấy áo chồng. anh cu giằng ra, mắng:- u nó không được giữ. quan và lính chờ tôi ngoài đình kia. Để tôi đi, kẻo chậm.- không! không đi! thầy nó hãy ăn cơm đã, vội gì.- không cần. Đã có cơm của quan. tôi phải đi ngay bây giờ mới kịp.nói đoạn anh cu nhất định dứt áo ra đi. anh ôm ba con vào lòng, xoa đầu, dặn dò mấy câu, rồi ra cổng. chị cu bế con, khóc lóc theo chồng. nhưng vẫn thản nhiên, anh cu coi nhẹ nghĩa vợ chồng, tình cha con. Đến đầu làng, anh rỉ tai nói với khán thủ kéo chị cu trở lại.++ +sự thành công của anh cu bản đã làm cho vợ anh goá chồng! Đêm hôm đó, nhờ anh can đảm, quân cướp lũ lượt bị giải lên huyện. nhưng anh cu bản bị bỏ mạng. thương thay!từ bấy giờ, trên đầu chị một tấm khăn tang, kẽ nách chị ba mụn con mọn. Đoạn trường lắm lúc nghĩ mà buồn tênh...cả làng ai cũng ái ngại cho chị cu bản và ngậm ngùi thương hại con người trọng nghĩa mà khinh thân.bọn nhà giàu được ăn no ngủ yên. họ mổ gà mổ chó ăn mừng. họ khen quan huyện tốt với dân, biết hy sinh một người để cứu nhiều người. họ xui chị cu bản bế cả ba đứa con lên kêu quan phụ mẫu thương đến tình cảnh nheo nhóc của chị mà cho một món tiền bồi thường.quan huyện rất tử tế. ngài nói:- nhà chị không phải kêu, bổn phận ta là phải bẩm lên quan trên xét đến người có công. cứ về mà chờ đợi ít lâu. rồi chị sẽ không phải phàn nàn về sự ân thưởng đích đáng của chồng chị.++ +Ôm tấm mong mỏi, chị cu bản vui vẻ về nhà, kể chuyện cho mọi người nghe. ai cũng có bụng mừng thay cho chị.thường khi làm ăn vất vả, được bữa nay, lo bữa mai, chị lại nhớ thương chồng. nhưng chị lấy ngay cái hy vọng ra để tự an ủi. nếu được thưởng, chị dùng món tiền để sinh lợi, thì chắc được đủ ăn suốt đời.năm hôm, mười hôm. cái trò mong vẫn hay thấy lâu. chứ chị biết đâu lá đơn của chị còn phải qua tòa này sở nọ, có khi nó đi chậm và hay nghỉ như ông cụ già.rồi nửa tháng, lại một tháng. chị cu bản càng ngày càng quẫn bách. cơm chẳng đủ nuôi con. nhà dột, không ai giọi hộ. sân rêu, cỏ mọc, chị chẳng có lúc nào sửa sang. mấy đứa bé bêu rếch. nhưng biết làm thế nào? nếu chị ở nhà trông nom chúng, thì ai đi làm lụng kiếm miếng cho mà ăn? giá chúng lớn, độ lên bảy lên tám cả, thì chị đã cho một đứa đi ở, để đỡ phải nuôi. khốn nhưng thằng lớn mới lên năm tuổi.rồi nữa, một tháng, hai tháng. người ta thấy chị cu bản rách rưới. không ai không phàn nàn cho chị. mặt mũi chị hốc hác, đen đủi, xấu xa. người ta hỏi thăm, chị đều trả lời:- nay mai, tôi sẽ có món tiền thưởng.thưởng. cái đó không thể không có. chắc lắm rồi. quan đã hứa thế. nhưng hôm nay chị chưa có gì cả. chị nóng ruột. khổ. nhưng, nhất định chị chờ cái tương lai.ở ngoài, họ đồn chán lên đấy. có người mong chị được thưởng một nghìn bạc. có người đoán chị được lương ăn suốt đời. có người ở xa, lại nói dựng đứng ngay rằng đã gặp chị lên tỉnh lĩnh hai nghìn ở kho bạc.nhưng sự thực chửa có thế. sự thực thì chị cu bản vẫn tự an ủi bằng cái hy vọng những khi đầu tắt mặt tối, và khóc thầm những lúc nhà vắng đêm khuya. chị nhớ lại hôm chồng hăm hở đưa quan lính vào chỗ tổ cướp. chị nhớ lại lúc trông thấy xác chồng nằm co ro trên vũng máu để tự nhiên chị thành góa bụa, với ba mụn cơn thơ. chị đau đớn. nhưng chợt chị nghĩ đến lời quan huyện hứa, quả quyết sẽ được bồi thường về công của chồng chị. trời ơi, bao giờ nhỉ? bao giờ cái đói, cái rách, cái khốn quẫn nó tha cho chị mà đừng dọa nạt chị nhỉ? bỗng chị nhìn lên vách. thấy bóng chiếc khăn ngang, chị cảm động, thút thít khóc.++ +một hôm, chị cu bản hăm hở chạy sang nhà tôi. tôi không thấy tay chị cầm chiếc rá. mặt chị cũng không nhăn nhó như mọi khi. chị giơ tờ giấy có dấu son đỏ loè, nhờ tôi xem hộ, và hỏi:- Ông lý đưa tôi tờ sức, nói rằng quan bảo tôi đi lĩnh thưởng phải không?tôi mừng thầm cho chị. chị lại hỏi:- có phải không? bao nhiêu, hở cậu?xem xong, tôi nhìn chị, rồi khẽ đáp:- phải, thưởng, anh ấy được truy tặng cửu phẩm bá hộ, chị ạ.- chứ không phải tiền à?- không!bỗng chị cu bản xám mặt lại. chị run bắn lên, rồi mếu máo khóc. chị giật lấy tờ giấy, chạy ù ra cổng, quên đứt rằng đáng lẽ chị phải vui vẻ cho chồng chị ở chín suối được ngậm cười.tiểu thuyết thứ bảy số 188; 1938.
Mục lục
ngậm cười
ngậm cười
Nguyễn Công HoanChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.
Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: HùngĐược bạn: Thành Viên VNthuquan đưa lên vào ngày: 27 tháng 12 năm 2003
|
Nghiêm Lương Thành
Ngọc thực
Nhà ta có bảy khẩu tất cả ! - Con bé chống đũa xuống mâm, nhìn cả nhà, dõng dạc tuyên bố. - Bốn chứ ! - Hắn bỏ miếng bánh trưng rán vào bát, nhìn đứa con gái nhỏ qua mục kỉnh, ngạc nhiên chữa lại. Con bé thủng thẳng xoè bàn tay trái ra, bấm đốt liệt kê: - Bố là một, mẹ là hai, anh Thảo là ba, con là bốn, con Vàng là năm, với ... hai con mèo là bảy ! - Vậy ư ? - Hắn trố mắt, nhìn sang phía vợ, chờ đợi một ý kiến. - Chuyện trẻ con ấy mà ! - Vợ gã mỉm cười, cái cười bao dung của một mái mẹ khi có mấy chú gà con vàng ươm, lũn tũn, ngốc nghếch nhảy cả lên lưng mẹ bới loạn lên tìm mồi. - Bố mẹ không thấy à, trong phim ấy - Thằng anh có vẻ hơi bất mãn vì câu nói của mẹ, bênh con em - người ta còn có cả bệnh viện với mỹ viện cho cả chó mèo ! Trong siêu thị Đông Tây, con còn thấy có cả một khu bán thức ăn và đồ chơi cho pets đấy. - Pet là con gì ? - Tiếng Anh ấy mà ... - Con em nhanh nhảu giải thích - Là những con vật nuôi trong nhà, được chủ cưng chiều ấy mẹ ạ. Ví dụ như chó, mèo, chim, cá ... Bây giờ thì có cả lợn nữa. - Khiếp, của nỡm, ai lại ở chung với cả lợn bao giờ ! - Vợ hắn nhăn mặt, phẩy tay. - Kiến thức cũng không xoàng - Hắn véo vào má con bé âu yếm diễu cợt rồi quay sang thằng anh - Thức ăn của pets trông nó thế nào ? - Con cũng không biết. Người ta đóng hộp kín mít, đẹp như đồ hộp Hạ Long ấy. - Còn đồ chơi ... là những gì ? - Vợ hắn tò mò. - Những khúc xương, những con chuột, những quả bóng nhỏ ... làm bằng thứ nhựa gì ấy, tha hồ gặm mà chẳng bị sứt mẻ tẹo nào - Con em gái nhí nháu chêm vào. - Dởm ! - Vợ hắn đã có vẻ bức xúc - Dư dả thì đem tiền ấy mà đi làm phúc. Bao người bị lụt lội, bị mưa bão đầy ra kia kìa ... ! Về thôn quê mà xem, nhà trẻ hốc hoác trống trơn, có cái gì cho trẻ con chơi đâu ! Vợ hắn bỏ bát, đứng dậy đi vào buồng, đóng sầm cửa lại. Nhận thấy sự việc có vẻ nghiêm trọng, hai đứa hãi quá, lơ láo nhìn nhau rồi ngồi im thin thít. Hắn trấn an: "Không có vấn đề gì đâu, chậc ... tính mẹ vẫn thế, các con ăn tiếp cho xong đi". Nhìn hai đứa rón rén gắp thức ăn, lặng lẽ lùa cơm ... hắn phì cười: "Đây là vấn đề nhậy cảm và tế nhị trong nhà ta. Từ rày, các con phải tinh ý, tránh, không nói về đề tài này nữa mới được !". Quả có thế. Tuần trước, thằng anh lấy ruốc thịt trộn cơm cho chó mèo đã bị mẹ nó mắng cho một trận: "Mẹ cấm ! Từ rày không được lấy ruốc cho chó mèo ăn nữa. Không phải là mẹ tiếc ... Ngày trước, Bố mẹ thì chả nói làm gì, nhưng Ông bà ... quanh năm cũng chỉ những rau với rau ... có ruốc thịt đâu ra mà ăn - thị ngừng lại, nghẹn ngào - các con làm như vậy, mẹ thấy không phải tý nào ... !". Chà ! Rất có đạo, rất có lý mà cũng rất có tình - gã ngậm ngùi - nhưng vợ gã phải cái cố chấp quá. Cuộc sống ngày càng tiến lên, cơ chế ngày càng cởi mở. Vậy thì cũng phải mở cả lọ ruốc thịt ra cho cả chó mèo nữa chứ ! Tội nghiệp cho chúng. Nào có phải chúng ăn không của ta: chúng trông nhà, đuổi chuột không chê vào đâu được, lại làm cho các con ta vui thích nữa. Hai đứa con hắn, tuy là kính sợ mẹ, nhưng cái điều "không phải" ấy thì chúng không sao hiểu được. Còn hắn thì hắn hiểu. Bởi vợ chồng hắn đã từng sống qua nửa đời người trong cảnh thiếu đói, so dụi. Nhà hắn vốn đông anh em. Đến bữa ăn nghe cứ rào rào như tằm ăn rỗi. Hắn là đứa ăn chậm nhất nhà nên thường bị đói. Vì thế, mẹ hắn đã nghĩ ra cách xới riêng cho hắn ra một cái bát to cùng với thức ăn để hắn tha hồ ăn chậm mà không bị thiệt thòi. Hồi còn học trong trường chuyên nghiệp, cái đói luỹ kế triền miên đã từng, không dưới một lần, khiến hắn chỉ ước ao được đánh một bữa cơm đến căng rốn, thức ăn là gì không quan trọng. Cũng may, ngày ấy hắn gặp được mẹ sắp trẻ bây giờ và tình trạng cấp dưỡng của hắn lập tức được cải thiện rõ rệt. Bây giờ, tuy là đầu óc có thoáng hơn vợ, nhưng nhiều lúc nhìn đồ ăn thừa thãi trên mâm, hắn vẫn không sao quên được cái thời nhìn thức gì cũng thèm khát ấy và thường bất giác buông ra một cái thở dài ảo não. Thằng anh đã ăn xong, đi vào toilet đánh răng. Còn con em ý tứ ngồi lại cho bố vui, cũng là để chờ bưng cho bố chén nước và dọn dẹp khi bố ăn xong. Hắn cảm thấy no, bèn buông đũa. Thấy còn lại một ít bánh chưng rán, hắn bảo con gái: "Con đem cho chó mèo". Con bé cười: "Chúng không ăn đâu bố ạ". "Bậy nào, chó mèo thì cho gì mà chẳng ăn?". Nói rồi hắn đứng dậy, cầm lấy cái đĩa bánh, toan đem trút vào cái bát để ở góc nhà. Nhưng con bé đã kịp túm lấy tay áo ngăn lại, dí dỏm: "Phải thử phản ứng trước khi chính thức tiêm thuốc cho bệnh nhân bố ạ !". Nói, rồi nó gắp một miếng nhỏ và gọi lũ chó mèo. Hai con mèo chạy xấn lại, nhưng chỉ ngửi ngửi rồi thũng thẵng bỏ đi. Gã lắc đầu. Con Vàng đã quen nhường cho mèo ăn trước, bấy giờ mới tiến lại, nó cũng đưa mũi ngửi ngửi, liếm thử, chóp chép rồi, cũng như bọn mèo, chả đoái hoài gì đến miếng bánh rán vàng ươm đang nằm chỏng trơ trong bát, quay mình thủng thẳng bước ra phía cửa, từ từ nằm xuống và tiếp tục lơ đãng dõi theo mấy con bướm vàng đang chấp chới ngoài sân. Hắn sững người. Giống chó bây giờ cũng khác xưa rồi ! Có một cảm giác gì đó, không rõ rệt, đang dâng lên trong hắn: Một chút thất vọng, một chút tủi hổ, và, có cái gì đấy, mơ hồ, na ná như sự xúc phạm ... nhưng không hoàn toàn như vậy ! - Bố ơi, bố làm sao thế ? - Con bé hoảng sợ túm lấy tay bố. - Những thức nuôi sống con người, ngày xưa các cụ gọi là Ngọc thực ! - Không hiểu hắn nói với con gái hay đang lẩm bẩm với chính mình - Bỏ đi thì sẽ phải tội. Thôi, để bố ! Rồi gã ngồi xuống, kéo chiếc đĩa bánh trưng rán vàng ươm thơm ngậy về phía mình, gắp một miếng bỏ vào miệng và bắt đầu nhai … chậm chạp, trệu trạo, ai oán nhưng đầy ý chí. Tháng 8 năm 2006
Mục lục
Ngọc thực
Ngọc thực
Nghiêm Lương ThànhChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.
Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.Đánh máy: Thiện văn Nguồn: Tác giả / VNthuquan - Thư viện OnlineĐược bạn: Ct.Ly đưa lên vào ngày: 10 tháng 3 năm 2008
|
Nghiem Luong Thanh
Real jade
Our house has seven doors in total! - She propped her chopsticks down on the tray, looked at the whole house, and declared loudly. - Four! - He put a piece of fried banh chung in the bowl, looked at the little girl with a frown, and corrected in surprise. The little girl spread out her left hand, clicked and listed: - Dad is one, mom is two, Thao is three, me is four, Vang is five, and... two cats are seven! - Really ? - He opened his eyes and looked towards his wife, waiting for an opinion. - It's a childish thing! - His wife smiled, the tolerant smile of a mother when a few yellow chicks, bratty and stupid, jumped on their mother's back and scrambled around looking for food. - Mom and Dad, don't you see? In the movie - The older brother seemed a bit dissatisfied with his mother's words, defending his child - they even have a hospital and a beauty salon for both dogs and cats! In Dong Tay supermarket, you also see a section selling food and toys for pets. - What is a pet? - It's English... - My child quickly explained - They are domestic pets, loved by their owners, Mom. For example, dogs, cats, birds, fish... Now there are also pigs. - Terrible, my dear, who has ever lived with a pig! - His wife frowned and waved her hand. - Her knowledge is not bad either - He pinched her cheek lovingly and jokingly then turned to his brother - What does the pets' food look like? - I don't know either. They canned it tightly, as beautiful as Ha Long canned food. - And what are the toys...? - His wife is curious. - Bones, mice, small balls... made of some kind of plastic, you can gnaw on them without getting damaged at all - The little girl added playfully. - Bad! - His wife seemed annoyed - If you have extra money, use that money to do charity work. So many people are flooded and overwhelmed by rain and storms...! When we go back to the countryside, the kindergarten is empty and empty, with nothing for children to play with! His wife put down the bowl, stood up, went into the room, and slammed the door. Realizing that the situation seemed serious, the two of them were so scared that they absent-mindedly looked at each other and then sat silently. He reassured: "There's no problem, well... my personality is still the same, you guys continue to eat until you finish." Looking at the two of them gingerly picking up food, quietly serving rice... he laughed: "This is a sensitive and delicate issue in our house. From now on, you must be observant, avoid, and not talk about the topic." This is more!". Indeed it is. Last week, his older brother used meat floss mixed with rice to feed the dogs and cats and was scolded by his mother: "Mom, forbid it! From now on, you can't feed the dogs and cats with meat floss anymore. It's not that I'm sorry... The other day, Dad Mom didn't say anything, but Grandma and Grandpa... all year round they only ate vegetables... no matter how much meat they eat - she stopped, choking - the children do that, I don't think it's right. any ... !". Rub ! Very religious, very reasonable and also very loving - he felt sorry - but his wife must be so stubborn. Life is progressing more and more, the mechanism is becoming more and more open. Then we have to open the jar of meat floss for cats and dogs too! Poor them. It's not like they eat what's mine: they look after the house, repel rats impeccably, and make my children happy. Although his two children feared their mother, they could not understand that "not" thing. As for him, he understands. Because he and his wife had lived half their lives in poverty and hardship. His family is full of brothers. At mealtime, it sounds like a silkworm eating idle food. He is the slowest eater in the family so he is often hungry. Therefore, his mother came up with a way to separate him into a large bowl with food so that he could eat slowly without being disadvantaged. When he was still studying in a professional school, the constant accumulation of hunger had, more than once, made him only wish for a meal until his belly was sore, it didn't matter what the food was. Fortunately, that day he met his now young mother and his health care situation immediately improved significantly. Nowadays, even though his mind is more open-minded than his wife's, many times when he looks at the leftover food on the tray, he still cannot forget the time when he looked at everything with hunger and often unconsciously let out a sigh of despair. . My brother finished eating and went to the bathroom to brush his teeth. As for my son, I deliberately sat back to make dad happy, also waiting to bring him a cup of water and clean up when he finished eating. He felt full, so he put down his chopsticks. Seeing some fried banh chung left, he told his daughter: "Give it to the dogs and cats." The girl laughed: "They won't eat, Dad." "Come on, what can dogs and cats not eat?". Having said that, he stood up, picked up the plate of cake, and tried to pour it into a bowl in the corner of the house. But the girl was able to grab her sleeve to stop her, witty: "We have to test the reaction before officially injecting medicine to the patient, Dad!". Speaking, then he picked up a small piece and called the cats and dogs. Two cats ran over, but only sniffed and then quietly left. The guy shook his head. Vang was used to letting the cat eat first, so when he approached, he also used his nose to sniff, lick, and then copy it. Like the cats, he didn't pay any attention to the piece of golden donut lying alone in the kitchen. bowl, turned around and walked straight to the door, slowly lay down and continued absentmindedly watching the yellow butterflies fluttering in the yard. He was stunned. Dog breeds are different now! There was an indistinct feeling rising inside him: A bit of disappointment, a bit of shame, and, something vague, akin to insult... but not quite. so ! - Dad, what's wrong? - The frightened child grabbed her father's hand. - The foods that nourish people, in the past, the elders called them Jade food! - I don't know if he was talking to his daughter or mumbling to himself - If you leave, you will be guilty. Okay, leave it to dad! Then he sat down, pulled a plate of fragrant golden fried banh chung towards him, took a piece, put it in his mouth and started chewing... slowly, restlessly, plaintively but full of will. August 2006
Table of contents
Real jade
Real jade
Nghiem Luong ThanhWelcome to read books from the book project for mobile devices. Source: author: Nguyen Kim Vy.
Final words: Thank you for reading the entire story. Source: author: Nguyen Kim Vy. Typing: Thien Van Source: Author / VNthuquan - Online Library Uploaded by friend: Ct.Ly on: March 10, 2019 2008
|
Khuê Việt Trường
Ngọn Lửa Hồng Trong Bếp
Tôi chẳng thể nào quên giây phút khi tôi và Ngọc đứng trước bàn thờ tổ tiên vái lạy để về với nhau làm chồng vợ. Hai ngọn nến long phụng cháy trong không gian ấm cúng của ngôi nhà. Ngoài kia vẫn còn những cơn mưa muộn tỉ tê một cách khó chịu, cứ lặng lẽ rơi từng hạt xuống con đường hẻm có những ngôi nhà thấp trong một không gian xám buồn. Anh và tôi cùng nói lời hứa như bao nhiêu người đã nói với người mà mình yêu thương: “Con hứa sẽ sống với nhau cho đến đầu bạc răng long. Khi đau ốm cũng như khỏe mạnh, lúc giàu sang cũng như nghèo hèn”. Anh nhìn tôi với cặp mắt ân cần. Anh biết tôi chấp nhận chọn anh bởi sự kiên trì không mệt mỏi của anh trong mười năm ròng rã. Có bao nhiêu người đàn ông như anh chịu khó đợi tình yêu quay về khi đời người cân đong đo đếm cả mười năm trời không phải là hư ảo?Tôi chọn anh sau khi rong ruổi qua bao nhiêu niềm vui và nỗi buồn. Sau khi tôi cười khản giọng trước những đón mời tiệc tùng với những người đàn ông tôi quen biết đã lâu hay mới vừa gặp mặt. Ngày đó anh chỉ là con số không so với Ngoạn, diễn viên của đoàn hát bội tỉnh. Ngoạn đẹp trai, ăn nói có duyên, biết dùng khăn lau nước mắt khi tôi khóc, biết diễn trò cho tôi cười khi tôi buồn. Ngoạn hơn anh mọi bề và Ngoạn đã giữ vị trí quan trọng trong trái tim tôi trong khi anh chỉ là một bóng mờ, mờ mịt. Những ngày tôi rong chơi cùng Ngoạn, anh nói: “Anh sẽ đợi em, ngay cả khi em đã có gia đình. Anh sẽ chẳng bao giờ lấy vợ nếu em không phải là vợ anh”. Tôi tưởng đó chỉ là lời nói trong một cơn say hay là trong giây phút bốc đồng. Nhưng anh lặng lẽ đợi tôi mà không một lời than trách. Anh ngóng đợi hơn cả những con tàu đợi cơn bão trên đại dương mau qua để có thể tiến thẳng ra khơi. Tôi nào ngờ khi tôi theo đoàn hát bội của Ngoạn đến nhiều nơi của dải đất miền Trung, tưởng chừng chẳng bao giờ quay trở về lại thì Ngọc vẫn đợi. Anh đợi để làm gì tôi không hiểu được, bởi tôi có lời hứa hẹn nào với anh đâu.Nghĩa tình hát bội khiến cho tôi mệt mỏi. Những cuộc rong chơi già nhân ngãi, non vợ chồng với Ngoạn làm cho tôi đuối sức. Rồi đoàn hát rã gánh vì chẳng còn ai chịu tới sân để xem điển tích. Ngoạn cũng chẳng bao giờ ngỏ lời làm lễ cưới với tôi, cho đến một đêm tôi phát hiện ra rằng tôi không phải là người con gái duy nhất mà Ngoạn quan hệ. Những lúc không có tôi, Ngoạn sẵn sàng đùa vui với người con gái khác. Ngoạn xem tình yêu giống như một vở tuồng, hôm nay nhập vai với người này mai lại nhập vai với người khác. Còn tôi thì cần có một tình yêu thật sự, tình yêu đó phải vun vén trong một gia đình, tôi thèm có một đứa con trong căn nhà do chính tôi nhen ngọn lửa trong bếp khi chiều về chứ không phải cứ ngồi quán xá từ nơi này đến nơi khác ăn cơm bụi.Thực ra thì Ngoạn cũng chẳng phụ tình tôi, nhưng tôi chẳng đợi được khi tuổi xuân cứ giống như ngọn gió thổi mãi qua những hàng cây. Tôi đã nói lời chia tay với Ngoạn thật bình thản:- Em cần có một mái nhà. Nhưng anh thì chẳng cho em một mái nhà.Chia tay Ngoạn, tôi hiểu rằng người đàn ông tôi cần thật sự chính là Ngọc.Ngọc nói với tôi khi hai đứa chuẩn bị về sống chung với nhau.- Anh sẽ làm cho em vui. Anh sẽ chẳng bao giờ nhắc đến quá khứ của em. Anh cần có em.Tôi trả lời Ngọc:- Có muộn lắm không?- Như thế nào là muộn và không muộn? - Ngọc hỏi lại tôi như thế.Tôi tin trái tim của anh rộng lượng, anh sẽ chẳng bao giờ làm cho tôi đau đớn bởi anh phải kiên trì cả mười năm để được ở bên tôi. Tôi ung dung bước vào nhà anh như thể tôi không còn con đường nào khác. Nhưng tôi chắc chắn rằng không có người đàn ông nào yêu tôi hơn anh. Tôi tin tình yêu này có thể sưởi ấm trái tim mình trong suốt cuộc đời. Nhưng tôi đâu hình dung ra là tôi đã thổi bùng ngọn lửa đớn đau giấu kín trong anh. Buổi chiều tôi tình cờ gặp Ngoạn, anh cùng đoàn đang đi diễn ở một miền quê gần đó. Tôi gặp Ngoạn khi anh đứng trước cơ quan tôi, hay nói đúng hơn là anh đợi tôi. Tôi đã cùng Ngoạn đi uống nước, và Ngọc biết được. Ngọc đã cười trong cơn say:- Cô cứ đi theo thằng hát bội đã phụ bạc cô đi. Cô có biết cô đã làm vợ tôi mà cứ tơ tưởng đến thằng đàn ông khác khiến cho tôi đau lòng lắm không?Lúc đó tôi cao ngạo:- Anh cũng tầm thường như bao nhiêu người khác. Vậy mà tôi cứ tưởng anh rộng lượng. Anh tầm thường quá đỗi, sao anh có thể so bì với người ta…Một cái tát trong cơn giận hay là cái tát của đắng cay? Cả đời tôi chưa hề bị ai đánh, kể cả cha mẹ sinh ra tôi. Thế mà chỉ vì cơn ghen mà Ngọc đã làm điều đó. Tiếng Ngọc thét trong cơn say:- Cô muốn hát bội hay hát tuồng thì cô cứ đi đi. Tôi không thích nhìn mặt cô nữa.Tôi bước ra khỏi nhà mà nhủ với lòng mình rằng tôi sẽ chẳng bao giờ quay lại nơi đó nữa.Trời có lẽ đã khuya lắm rồi. Tôi trở mình vẫn không sao dỗ được giấc ngủ. Có thể bởi vì tôi đã quen được anh ôm trong vòng tay rồi. Nhưng tôi chẳng thể nào trở về khi mà lòng tôi tan nát. Lá đơn ly dị tôi đã viết xong nhờ chị Hai đem qua cho Ngọc. Tôi cũng chẳng ghé nhà Ngoạn dù anh biết chuyện và gọi điện thoại cho tôi mấy lần. Còn mẹ thì nhìn tôi buồn rầu:- Con lớn rồi, con có thể tự quyết định mọi việc. Thằng Ngọc tát con là sai. Nhưng nó đang đứng trước nhà kìa. Nó đứng từ sáng vì con không cho nó vào nhà.Ngọc cũng đã gọi điện cho tôi, nhưng khi nghe tiếng anh thì tôi không thể nào trả lời được.Dường như cơn mưa đêm bắt đầu đổ xuống phố. Cơn mưa to dần, to dần như những âm thanh của mưa đang thay tôi hét thật to cho thế gian này nghe rằng tôi đang buồn lắm. Tôi đứng dậy định đóng cánh cửa sổ, tình cờ nhìn xuống đường thì vẫn thấy Ngọc đứng trong cơn mưa đêm như thế.Ba giờ sáng, Ngọc vẫn đứng dưới cơn mưa. Cho đến rạng sáng anh vẫn đứng khi cơn mưa đã tạnh. Lòng tôi chợt nguôi cơn giận. Tôi quên rằng tôi định chia tay anh mãi mãi. Tôi bước ra khỏi nhà. Tôi về phía Ngọc. Tiếng Ngọc thầm thì rất nhỏ mà tôi nghe như đang vang vọng.- Anh xin lỗi. Anh xin lỗi.Tôi đưa tay ôm lấy anh, anh chỉ kịp dựa vào tôi trước khi quỵ té trên đường. Đó là lúc tôi thật sự hoảng hốt khi phát hiện anh đang lên cơn sốt.Cơn giận của anh và của cả tôi đã nhờ cơn mưa đêm làm nguội đi. Rồi tôi lại nhen ngọn lửa hồng trong bếp nhà mình. Hết
Mục lục
Ngọn Lửa Hồng Trong Bếp
Ngọn Lửa Hồng Trong Bếp
Khuê Việt TrườngChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.
Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: may4phuong.netĐược bạn: mickey đưa lên vào ngày: 20 tháng 3 năm 2004
|
Khue Viet Truong
Pink Fire In The Kitchen
I can never forget the moment when Ngoc and I stood in front of our ancestors' altar to pray to be husband and wife. Two dragon and phoenix candles burn in the cozy space of the house. There are still uncomfortably late rains out there, silently falling drop by drop onto the alley with low houses in a sad gray space. He and I said the same promise as many people have said to the people they love: "I promise to live together until we grow old and grow old." In sickness and in health, in wealth and in poverty." He looked at me with kind eyes. You know I chose you because of your tireless perseverance for ten long years. How many men like you are willing to wait for love to return when ten years of life is not an illusion? I chose you after wandering through many joys and sorrows. After I laughed hoarsely at invitations to parties with men I had known for a long time or had just met. That day, he was nothing compared to Ngoan, an actor of the opera troupe. Ngoan is handsome, speaks well, knows how to use a towel to wipe my tears when I cry, and knows how to act to make me laugh when I'm sad. Ngoan is superior to him in every way and Ngoan holds an important place in my heart while he is just a shadow and obscurity. During the days when I was hanging out with Ngoan, he said: "I will wait for you, even if you have a family. I would never get married if you weren't my wife." I thought it was just something I said in a drunken state or in an impulsive moment. But he quietly waited for me without a word of complaint. He waited more than ships waiting for the storm on the ocean to pass so he could head straight out to sea. Little did I know that when I followed Ngoan's troupe to many places in the Central region, thinking I would never return, Ngoc was still waiting. I don't understand what you're waiting for, because I don't have any promises to you. The love affair makes me tired. The trips between old people and young people with Ngoan made me exhausted. Then the troupe fell apart because no one was willing to come to the stadium to see the legends. Ngoan never asked me to marry him, until one night I discovered that I wasn't the only girl he had sex with. When I'm not around, Ngoan is ready to have fun with other girls. Love is like a drama, today you play a role with one person, tomorrow you play a role with someone else. As for me, I need to have real love, that love must be nurtured in a family. I want to have a child in a house where I light the fire in the kitchen in the afternoon instead of just sitting at a bar from time to time. From place to place, I ate rice in the bush. Actually, Ngoan didn't betray me, but I couldn't wait for youth to be like the wind blowing forever through the trees. I said goodbye to Ngoan very calmly: - I need a home. But you didn't give me a home. Saying goodbye to Ngoan, I understood that the man I really needed was Ngoc. Ngoc told me when we were preparing to live together. - I will make you happy. . I will never mention your past. I need you. I answered Ngoc: - Is it too late? - What is late and not late? - Ngoc asked me again. I believe your heart is generous, you will never cause me pain because you have to persevere for ten years to be with me. I leisurely walked into his house as if I had no other way. But I'm sure that no man loves me more than you. I believe this love can warm my heart throughout my life. But I didn't imagine that I had ignited the fire of pain hidden inside him. In the afternoon, I happened to meet Ngoan, he and his group were performing in a nearby countryside. I met Ngoan when he stood in front of my office, or rather, he waited for me. I went out for a drink with Ngoan, and Ngoc knew. Ngoc laughed in a drunken state: - Go ahead and follow the opera singer who betrayed you. Do you know that you are my wife and yet you keep thinking about another man, which makes me feel very hurt? At that time, I was arrogant: - You are as ordinary as many other people. Yet I thought he was generous. You are so ordinary, how can you compare with others...A slap in anger or a slap of bitterness? In my entire life, I have never been beaten by anyone, including my parents. But just because of jealousy, Ngoc did that. Ngoc's voice shouted in a drunken rage: - If you want to sing opera or opera, then go ahead. I don't want to see her face anymore. I walked out of the house and told myself that I would never go back to that place again. It was probably very late. I tossed and turned and still couldn't fall asleep. Maybe because I'm used to being held in your arms. But I can't go back when my heart is broken. I finished writing the divorce petition and asked Ms. Hai to bring it to Ngoc. I didn't stop by Ngoan's house even though he knew about it and called me several times. And my mother looked at me sadly: - You're grown up, you can decide everything yourself. It was wrong for Ngoc to slap me. But it's standing in front of the house. He's been standing since morning because I won't let him in the house. Ngoc also called me, but when I heard his voice, I couldn't answer. It seemed like the night rain was starting to pour down on the street. The rain grew louder and louder as if the sounds of the rain were shouting loudly for the world to hear that I was very sad. I stood up to close the window. I happened to look down the street and still saw Ngoc standing in the night rain like that. At three o'clock in the morning, Ngoc was still standing in the rain. Until dawn he was still standing when the rain stopped. My anger suddenly subsided. I forgot that I intended to break up with him forever. I walked out of the house. I'm on Ngoc's side. Ngoc's whisper was so small that I heard it echoing. - I'm sorry. I'm sorry. I reached out to hug him, and he only had time to lean on me before collapsing on the street. That's when I really panicked when I discovered he had a fever. His anger and mine were cooled by the night rain. Then I lit the red fire in my kitchen. Run out of
Table of contents
Pink Fire In The Kitchen
Pink Fire In The Kitchen
Khue Viet TruongWelcome you to read the first books from the book project for mobile devices. Source: author: Nguyen Kim Vy.
Final words: Thank you for reading the entire story. Source: editor: Nguyen Kim Vy. Source: may4phuong.net Uploaded by friend: mickey on: March 20, 2004
|
Nguyễn Đinh Hương
Ngọn Lửa Trái Tim
Những ngày này cách đây một năm, tôi đang mải lo chuyện sách đèn đợi ngày “so tài” cùng thiên hạ. Trong đầu tôi lúc ấy chỉ còn là bộ đề thi với những câu trả lời còn dang dở... Thế rồi cái gì đến nó sẽ phải đến. Chỉ mai thôi là tôi sẽ bước vào phòng thi với bao nhiêu lo lắng và uớc mơ. Tối nay khi nhà ăn cơm xong, bác tôi nói: - Ngày mai mấy đứa đều phải đi thi, lát nữa rủ nhau vào chùa thắp mấy nén nhang cầu may, làm bài tốt. Mấy anh em tôi chẳng ai bảo ai đều nhìn nhau khó hiểu. Chẳng biết anh Khanh tôi có hẹn không mà lúc ấy một anh nữa xuất hiện. Chúng tôi chuẩn bị qua loa rồi xin phép đi. Tất cả có năm người mà chỉ có hai xe nên anh Khanh tôi chở tôi và Dịu, còn người ấy chở Khánh bạn tôi. Trên đường đi tôi được anh Khanh cho biết anh ấy ngày mai cũng đi thi vào Ðại học Cảnh sát. Quả thực tôi cũng không tin vào việc cúng tế lắm, chỉ mong nhanh ra khỏi chùa để về với mấy bài sử chưa học kỹ. Hôm sau tôi dậy sớm đi thi rất vui vẻ. Sau mấy ngày thi, tôi lại về quê với nỗi phấp phỏng đợi chờ kết quả. Rồi một buổi chiều tôi nhận được một lá thư mà phong bì chỉ đề hai chữ “Hà Nội”. Tôi thực sự ngạc nhiên khi đọc những dòng chữ trong thư. Lúc ấy tôi cố tình hình dung ra người viết mà không được. Tôi chỉ biết cái tên ấy, dòng địa chỉ cơ quan ấy là bạn của anh Khanh tôi mà anh tôi đâu phải ít bạn... Cứ như vậy những cánh thư lần lượt gửi về, còn tôi cũng chỉ biết hồi âm bằng lời cảm ơn “ngon lành” như chẳng có gì. Tính tôi vốn như vậy mà. Vô tư, bướng bỉnh và nghịch ngợm chẳng nữ tính chút nào. Những ngày chủ nhật tiếp đó anh vẫn về quê với anh Khanh tôi. Chúng tôi có dịp gần nhau hơn và tôi thấy được trong mắt anh có một cái gì đó thật là khó hiểu và chẳng biết từ bao giờ nữa tôi đã để quên trái tim mình trong lời tỏ tình ngọt ngào của anh. Lần đầu tiên trong đời tôi biết nói tiếng yêu. Ngày biết kết quả thi là ngày hạnh phúc nhất đời tôi, cả bốn trường đều có giấy gọi nhập học. Tôi chọn ngay trường mà những ngày qua tôi mong chờ, mặc dù bố mẹ và một số bạn tôi không bằng lòng lắm. Anh nhìn tôi bằng ánh mắt trìu mến tràn đầy niềm tin, ít lâu sau anh cũng nhập trường với những khát vọng mới. Rồi ngày tháng trôi đi. Thời sinh viên hoa mộng đẹp như những trang thơ, tôi đã dành cho anh để rồi trong tôi chỉ còn lại là một niềm yêu trọn vẹn. Anh yêu tôi. Một tình yêu thật lãng mạn và đẹp. Vậy mà tôi vẫn cảm thấy có một cái gì đó thiếu vắng, phải chăng sự thiếu vắng ấy là những trang vở với bao nội dung chưa trở thành kiến thức. Những trăn trở lo âu cho sự thành đạt ngày mai vẫn là một dấu hỏi chưa có lời giải đáp. Tình yêu! Vâng, tôi đã có tình yêu cho dù đó là mối tình đầu có chút lãng mạn của thời sinh viên. Nó cũng là một tia sáng. Nhưng con đường học vấn với tương lai phía trước sẽ là làn gió làm bùng lên ngọn lửa trong trái tim tôi - một trái tim bướng bỉnh, khao khát sự thành đạt. Nguyễn Ðinh Hương
Mục lục
Ngọn Lửa Trái Tim
Ngọn Lửa Trái Tim
Nguyễn Đinh HươngChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.
Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: Thời áo trắngĐược bạn: Thành Viên VNthuquan đưa lên vào ngày: 27 tháng 12 năm 2003
|
Nguyen Dinh Huong
Heart Fire
These days a year ago, I was busy worrying about books and lights, waiting for the day I could "compete" with the world. In my mind at that time, there was only a set of exam questions with unfinished answers... Then whatever happens will happen. Just tomorrow I will step into the exam room with so many worries and dreams. Tonight when the family finished eating, my uncle said: - Tomorrow you all have to take the exam, later we invite each other to go to the temple to light some incense sticks to pray for good luck and do well. My brothers and I, without telling anyone else, looked at each other in confusion. I don't know if Mr. Khanh had an appointment or not, but at that time another guy showed up. We quickly prepared and asked permission to leave. There were five people in total and only two cars, so my brother Khanh drove me and Diu, and he drove my friend Khanh. On the way, I was told by Mr. Khanh that he would also take the exam to enter the Police University tomorrow. Actually, I don't really believe in making sacrifices, I just want to quickly get out of the temple and return with some history lessons I haven't studied thoroughly. The next day I woke up early to take the exam and was very happy. After a few days of taking the exam, I returned to my hometown anxiously waiting for the results. Then one afternoon I received a letter whose envelope had only the words "Hanoi" written on it. I was really surprised when I read the words in the letter. At that time, I tried to imagine the writer but couldn't. I only know that name, that office address is my brother Khanh's friend, and my brother is not a small friend... Just like that, letters were sent one after another, and I could only respond with thanks. "Delicious" grace as if it were nothing. My personality is like that. Being carefree, stubborn and mischievous is not feminine at all. On the following Sundays, he still returned to his hometown with my brother Khanh. We had the opportunity to get closer to each other and I saw something in his eyes that was truly incomprehensible and I don't know when I forgot my heart in his sweet confession. For the first time in my life, I learned to speak the language of love. The day I found out the exam results was the happiest day of my life. All four schools had admission letters. I immediately chose the school that I had been looking forward to in recent days, even though my parents and some of my friends were not very satisfied. He looked at me with affectionate eyes full of faith. Not long after, he also entered the school with new aspirations. Then the days passed. When I was a student, the flowers and dreams were as beautiful as pages of poetry. I gave them to you, and all that remained in me was complete love. I love you. A love so romantic and beautiful. Yet I still feel like there is something missing, perhaps that absence is pages with content that has not yet become knowledge. Concerns and worries about tomorrow's success are still an unanswered question mark. Love! Yes, I had love even though it was a somewhat romantic first love during my student days. It is also a ray of light. But the educational path with the future ahead will be the wind that ignites the fire in my heart - a stubborn heart, yearning for success. Nguyen Dinh Huong
Table of contents
Heart Fire
Heart Fire
Nguyen Dinh HuongWelcome to read the first book from the book project for mobile devices. Source: editor: Nguyen Kim Vy.
Final words: Thank you for reading the entire story. Source: editor: Nguyen Kim Vy. Source: White shirt period Posted by: Member VNthuquan on: December 27, 2003
|
Yến Nhi
Ngọn Nến Trong Đêm
""Tôi đã yêu, đã bị bỏ rơi, cô đơn trong đêm Giáng sinh. Tình yêu đối với tôi thật đáng sợ. Cho đến khi cánh tay ấm áp của anh sẵn sàng đón tôi vào lòng."
"Vĩnh biệt, Trần thân yêu!". Trong đầu tôi vang lên điệp khúc đau đớn, không làm sao cưỡng lại nổi. Tôi, cô gái hai mươi lăm tuổi đời, quyết định chia tay mối tình đầu trong căn phòng hạng sang của khách sạn Hoàng Tử, Hà Nội. "Mối tình đầu" của tôi vừa rời khỏi đây được 30 phút, sau khi để lại một nụ hôn vội vàng cùng lời giải thích cũ rích, quen thuộc: "Chán thật, đến giờ anh phải về nhà rồi!" Mối tình giữa người si tình và thần tượng của mình. Trần là một nhạc sĩ nổi tiếng. Ông đã vợ con đề huề, rất hấp dẫn với mái tóc muối tiêu và cái nhìn sâu thẳm. Tôi chỉ là kẻ bị định mệnh cột vào cuộc đời ông. Trước đám đông, tôi luôn là cô cháu gái nhỏ bé đi bên cái bóng lừng lững của ông. "Nếu là đàn ông với nhau thì tao đã lôi mày ra bãi sông Hồng, tát cho đến khi nào mày tỉnh người ra mới thôi!" - Hoa, cô bạn thân nhất của tôi ấm ức nói như thế khi thấy tôi nằm bẹp trên giường, hai mắt sưng húp. Hôm ấy, số máy quen thuộc hiện lên, nhưng không phải giọng nói ấm áp của người đàn ông mà tôi yêu. Đó là giọng nói bình tĩnh đến nghẹt thở của người đàn bà có cái nhìn vô định: vợ của Trần. "Cô muốn gặp cháu, tại nhà cô. Chú Trần đi vào Nam, cuối tuần mới về." Không gọi điện cho Trần, cũng chẳng hỏi ý kiến của Hoa, cứ thế tôi đi. Đằng nào rồi cũng có ngày hôm nay. Tôi đã chuẩn bị tinh thần cho cuộc gặp mặt căng thẳng này từ khi chấp nhận trong vòng tay Trần. Thế nhưng không hiểu sao, chân tôi vẫn muốn khuỵu xuống khi đứng trước mặt vợ ông. Không có một cuộc tổng xỉ vả, cũng chẳng có một biểu hiện ghen tuông nào. Vợ của Trần mang hoa quả ra mời tôi. Rồi bà đưa tôi xem những cuốn album ảnh gia đình. Đây là Trần đang ôm hôn thằng cu Tít. Đây là cả nhà Trần ở Paris. Đây là vợ Trần đang đứng giữa hai cậu con trai cao lớn lừng lững ở Sài Gòn. Và đây là Trần người đàn ông tóc muối tiêu ngồi lặng lẽ trước cây đàn piano, chìm đắm vào một bản tình khúc mới. Một bức tranh gia đình hạnh phúc.... Thần kinh tôi căng thẳng đến mức ăn quả gì cũng thấy đắng. Tôi phải uống nước liên tục. Tôi cũng không còn nhớ làm sao mình có thể chấm dứt câu chuyện hạnh phúc khủng khiếp của gia đình ông để thiểu não dắt xe ra về. Rất nhiều lần Hoa cảnh báo tôi: "Mày phải cẩn thận với những cuộc đánh ghen! Liệu lúc đó Trần có dám đứng ra bênh vực mày không? Ông ta có dám bỏ vợ, bỏ con để làm lại từ đầu với đứa con gái hơ hớ như mày?" Không phải tôi không biết lời Hoa nói là đúng. Thế nhưng, hễ cứ ở trong vòng tay Trần, tôi lại trở thành con thiêu thân không quan tâm đến quá khứ hay tương lai. Chỉ cần ông nói: "Không có em, anh chẳng còn thiết sáng tác nữa", thế là tôi sẵn sàng tình nguyện làm nguồn cảm hứng để ông sáng tác, không một đòi hòi nào cho riêng mình. Tôi yêu những bản tình cả của Trần trước khi gặp ông. Với tôi, Trần vừa là người tình, vừa là thần tượng. Thỉnh thoảng, thấy tôi khóc vì tình cảnh trớ trêu của mình, Trần ậm ừ: "Nếu gặp được người tử tế, em cứ lấy làm chồng cho bố mẹ yên lòng!" Tôi hỏi: "Thế sau khi em lấy chồng, anh sẽ thế nào?" Ông đáp: "Chắc anh không làm được gì nữa! Tim anh tan nát mất!" Đôi mắt Trần buồn đến độ tôi sợ chúng rơi lệ vì tôi thật. Hoa kêu lên: "Ông ấy đánh vào điểm yếu nhất của mày rồi. Đáng lẽ ông ấy phải chúc mày hạnh phúc, rồi khóc ở đâu thì tùy. Tim ông ấy tan nát hay tim bà già mày tan nát đây?". Lòng tôi nhói lên khi Hoa nhắc đến mẹ. Dạo này mỗi lần lên thăm tôi, mẹ hay hỏi về Trần. Những lúc ngồi gỡ mái tóc rối bời của tôi, mẹ nói xa nói gần: "Làm phận gái phải biết giữ lấy thân con ạ, không rồi ân hận cả đời đấy!" Nghe mẹ nói, nước mắt tôi lặng lẽ tràn xuống má. Ôm niềm đau riêng mình, chấp nhận nỗi cô đơn. Tiếng chuông nhà thờ gióng giả trong không gian buốt giá của đêm Giáng sinh khiến tôi nhận ra mình thật cô độc. Tôi nằm cuộn tròn như con sâu tội nghiệp trong tổ kén của mình, nhìn xoáy vào ngọn đèn ngủ và lắng nghe điệp khúc: "Vĩnh biệt, Trần thân yêu." Cứ như thế, tiếng nói ấy thoát từ lòng ngực của tôi, nhảy múa khắp căn phòng. Vĩnh biệt cuộc tình không được nắm tay nhau đi giữa đám đông. Vĩnh biệt những căng thẳng nhìn trước ngó sau khi bước chân vào khách sạn. Vĩnh biết cảm giác tủi hờn khi nhìn thấy người đàn ông của mình vươn vai đứng dậy, sửa sang áo xống, tạm biệt tình nhân. Anh ấy phải trở về với vai trò của một người chồng, người cha mẫu mực. Tôi vùng dậy, quyết định đi về nhà. Bụng tôi chợt nhói lên. Ôi! Bây giờ tôi mới nhớ rằng mình đã không nói với ông điều quan trọng nhất. Giọt máu của ông đang tượng hình trong người tôi! Thật tượng sụp đổ khi đối diện với sự thật. "Mày phải báo cho Trần biết, để ông ấy có trách nhiệm với đứa con của mày", Hoa bảo tôi. Tôi đưa cho Hoa tờ báo buổi sáng, trong đó có bài phỏng vấn nhạc sĩ Trần. Phóng viên hỏi: "Vì sao ông không sáng tác bài hát nào về gia đình hạnh phúc của mình?" Trần trả lời: "Gia đình luôn thường trực trong trái tim tôi, là thứ gắn bó máu thịt với cuộc đời. Đi đâu làm gì, tôi sáng tác nhạc cũng không nằm ngoài hai chữ gia đình..." Thế đấy, với những lời tuyên bố như thế, tôi còn tìm đến Trần làm gì nữa để thấy tim mình đau? Hoa vẫn nằng nặc: "Con mày cần có bố. Mày không chịu nói, tao sẽ nói." Chưa bao giờ tôi thấy Trần suy sụp đến thế. Người ông gầy sụp, ánh mắt thất thần. Ông cầm một sấp tiền, dúi vào tay tôi, thì thầm: "Bây giờ em muốn anh làm gì cho em?" Tay ông run đến mức tôi phải bật cười: "Anh có thể làm được gì cho em? Bỏ vợ, bỏ con, bỏ danh vọng để đến với em à". Ông im lặng. Tôi nhồi tiếp: "Hay em bỏ con để tiếp tục làm nguồn cảm hứng của anh." Cái nắm tay của ông chặt hơn, run hơn. Tôi thấy thương ông như thương một kẻ tội lỗi, không biết làm sao để xóa hết tội của mình. Tôi thản nhiên: "Hoa nó thử lòng anh đấy, không có chuyện con cái gì đâu. Chẳng qua em sắp lấy chồng nên nó nói thế để bọn mình chia tay cho nhẹ lòng!" Mắt ông bừng sáng. Ông nhào tới ôm lấy tôi cuồng nhiệt như chưa hề có chuyện khó xử vừa rồi. Thần tượng trong tôi vỡ vụn từng mảnh. Tôi tìm cách thoát khỏi vòng tay ông, để khỏi kéo dài thêm cảm giác khó chịu. Tôi không muốn nhìn thấy sự hèn hạ của người đàn ông mà mình hằng tôn thờ. Giáng sinh không còn là kỷ niệm buồn đau của tôi. Giáng sinh năm sau, đứa con gái bé bỏng của tôi đã được 3 tháng. Khi tôi thú nhận với mẹ là mình đã mang thai, bà thở dài rồi bảo: "Trẻ con sinh ra là ý Chúa, con không được từ bỏ nó". Không hỏi cha đứa trẻ là ai, bà lặng lẽ chăm sóc khi tôi thai nghén, lo lắng chăm bẳm con tôi từ lúc cháu chào đời cho đến bây giờ. Những lúc thấy tôi ngồi thất thần, bà lại đến bên cạnh, ôm con vào lòng. Nhờ có mẹ, tôi dần tìm lại sự tự tin của ngày xưa. Chỉ riêng tình yêu, tôi vẫn chưa đủ can đảm mở lòng đón nhận. Mẹ tôi khuyên: "Đừng bi quan thế con ạ. Ở đời có người xấu, người tốt. Hãy cho mình một cơ hội mới." Tôi biết mẹ nhắc đến Hoàng, một đồng nghiệp, đã theo đuổi tôi hai năm nay. Từ khi tôi sinh bé Na, anh tỏ ra yêu chiều con gái tôi và bảo: "Hãy để anh được chăm sóc mẹ con em." Tôi hiểu lòng chân thành của Hoàng. Tuy rất có cảm tình với anh nhưng tôi luôn tìm cách lẩn tránh vì thấy mình không còn xứng đáng với tình yêu của anh. Chẳng bao giờ tôi nghĩ mình lại có thể yêu một người đàn ông khác nữa. Thế nhưng, đêm Giáng sinh năm nay, tôi đã tìm được bến bờ mới cho mình. Đó là lúc tôi đi lễ nửa đêm với Hoàng. Khi anh vòng tay ra phía sau, bảo tôi: "Em lạnh không, ôm lấy anh cho ấm, thật chặt vào!" Tôi thấy tim mình đập lỡ nhịp. Đó là cảm giác tình yêu ngọt ngào mà tôi chưa bao giờ được nếm trải, dù từng yêu Trần như quên hết bản thân mình. Vô tình, chúng tôi đi ngang qua nhà Trần. Căn nhà ba tầng không có ánh sáng. Người đàn ông gần đến ngũ tuần chắc đã ngủ vùi trong mỏi mệt. Tôi nghĩ đến Giáng sinh cô đơn, lạnh lẽo năm nào, thấy như vừa xem xong bộ phim buồn của ai đó. Hoàng kéo tôi sát vào người: "Trời càng lạnh, anh càng thấy ấm khi ở bên em". Nước mắt tôi ướt đẫm bờ vai Hoàng, những giọt nước mắt của hạnh phúc.
Mục lục
Ngọn Nến Trong Đêm
Ngọn Nến Trong Đêm
Yến NhiChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.
Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.Đánh máy: chaulovekitty Nguồn: VNthuquan - Thư viện OnlineĐược bạn: Ct.Ly đưa lên vào ngày: 26 tháng 11 năm 2008
|
Yến Nhi
Ngọn Nến Trong Đêm
""Tôi đã yêu, đã bị bỏ rơi, cô đơn trong đêm Giáng sinh. Tình yêu đối với tôi thật đáng sợ. Cho đến khi cánh tay ấm áp của anh sẵn sàng đón tôi vào lòng."
"Vĩnh biệt, Trần thân yêu!". Trong đầu tôi vang lên điệp khúc đau đớn, không làm sao cưỡng lại nổi. Tôi, cô gái hai mươi lăm tuổi đời, quyết định chia tay mối tình đầu trong căn phòng hạng sang của khách sạn Hoàng Tử, Hà Nội. "Mối tình đầu" của tôi vừa rời khỏi đây được 30 phút, sau khi để lại một nụ hôn vội vàng cùng lời giải thích cũ rích, quen thuộc: "Chán thật, đến giờ anh phải về nhà rồi!" Mối tình giữa người si tình và thần tượng của mình. Trần là một nhạc sĩ nổi tiếng. Ông đã vợ con đề huề, rất hấp dẫn với mái tóc muối tiêu và cái nhìn sâu thẳm. Tôi chỉ là kẻ bị định mệnh cột vào cuộc đời ông. Trước đám đông, tôi luôn là cô cháu gái nhỏ bé đi bên cái bóng lừng lững của ông. "Nếu là đàn ông với nhau thì tao đã lôi mày ra bãi sông Hồng, tát cho đến khi nào mày tỉnh người ra mới thôi!" - Hoa, cô bạn thân nhất của tôi ấm ức nói như thế khi thấy tôi nằm bẹp trên giường, hai mắt sưng húp. Hôm ấy, số máy quen thuộc hiện lên, nhưng không phải giọng nói ấm áp của người đàn ông mà tôi yêu. Đó là giọng nói bình tĩnh đến nghẹt thở của người đàn bà có cái nhìn vô định: vợ của Trần. "Cô muốn gặp cháu, tại nhà cô. Chú Trần đi vào Nam, cuối tuần mới về." Không gọi điện cho Trần, cũng chẳng hỏi ý kiến của Hoa, cứ thế tôi đi. Đằng nào rồi cũng có ngày hôm nay. Tôi đã chuẩn bị tinh thần cho cuộc gặp mặt căng thẳng này từ khi chấp nhận trong vòng tay Trần. Thế nhưng không hiểu sao, chân tôi vẫn muốn khuỵu xuống khi đứng trước mặt vợ ông. Không có một cuộc tổng xỉ vả, cũng chẳng có một biểu hiện ghen tuông nào. Vợ của Trần mang hoa quả ra mời tôi. Rồi bà đưa tôi xem những cuốn album ảnh gia đình. Đây là Trần đang ôm hôn thằng cu Tít. Đây là cả nhà Trần ở Paris. Đây là vợ Trần đang đứng giữa hai cậu con trai cao lớn lừng lững ở Sài Gòn. Và đây là Trần người đàn ông tóc muối tiêu ngồi lặng lẽ trước cây đàn piano, chìm đắm vào một bản tình khúc mới. Một bức tranh gia đình hạnh phúc.... Thần kinh tôi căng thẳng đến mức ăn quả gì cũng thấy đắng. Tôi phải uống nước liên tục. Tôi cũng không còn nhớ làm sao mình có thể chấm dứt câu chuyện hạnh phúc khủng khiếp của gia đình ông để thiểu não dắt xe ra về. Rất nhiều lần Hoa cảnh báo tôi: "Mày phải cẩn thận với những cuộc đánh ghen! Liệu lúc đó Trần có dám đứng ra bênh vực mày không? Ông ta có dám bỏ vợ, bỏ con để làm lại từ đầu với đứa con gái hơ hớ như mày?" Không phải tôi không biết lời Hoa nói là đúng. Thế nhưng, hễ cứ ở trong vòng tay Trần, tôi lại trở thành con thiêu thân không quan tâm đến quá khứ hay tương lai. Chỉ cần ông nói: "Không có em, anh chẳng còn thiết sáng tác nữa", thế là tôi sẵn sàng tình nguyện làm nguồn cảm hứng để ông sáng tác, không một đòi hòi nào cho riêng mình. Tôi yêu những bản tình cả của Trần trước khi gặp ông. Với tôi, Trần vừa là người tình, vừa là thần tượng. Thỉnh thoảng, thấy tôi khóc vì tình cảnh trớ trêu của mình, Trần ậm ừ: "Nếu gặp được người tử tế, em cứ lấy làm chồng cho bố mẹ yên lòng!" Tôi hỏi: "Thế sau khi em lấy chồng, anh sẽ thế nào?" Ông đáp: "Chắc anh không làm được gì nữa! Tim anh tan nát mất!" Đôi mắt Trần buồn đến độ tôi sợ chúng rơi lệ vì tôi thật. Hoa kêu lên: "Ông ấy đánh vào điểm yếu nhất của mày rồi. Đáng lẽ ông ấy phải chúc mày hạnh phúc, rồi khóc ở đâu thì tùy. Tim ông ấy tan nát hay tim bà già mày tan nát đây?". Lòng tôi nhói lên khi Hoa nhắc đến mẹ. Dạo này mỗi lần lên thăm tôi, mẹ hay hỏi về Trần. Những lúc ngồi gỡ mái tóc rối bời của tôi, mẹ nói xa nói gần: "Làm phận gái phải biết giữ lấy thân con ạ, không rồi ân hận cả đời đấy!" Nghe mẹ nói, nước mắt tôi lặng lẽ tràn xuống má. Ôm niềm đau riêng mình, chấp nhận nỗi cô đơn. Tiếng chuông nhà thờ gióng giả trong không gian buốt giá của đêm Giáng sinh khiến tôi nhận ra mình thật cô độc. Tôi nằm cuộn tròn như con sâu tội nghiệp trong tổ kén của mình, nhìn xoáy vào ngọn đèn ngủ và lắng nghe điệp khúc: "Vĩnh biệt, Trần thân yêu." Cứ như thế, tiếng nói ấy thoát từ lòng ngực của tôi, nhảy múa khắp căn phòng. Vĩnh biệt cuộc tình không được nắm tay nhau đi giữa đám đông. Vĩnh biệt những căng thẳng nhìn trước ngó sau khi bước chân vào khách sạn. Vĩnh biết cảm giác tủi hờn khi nhìn thấy người đàn ông của mình vươn vai đứng dậy, sửa sang áo xống, tạm biệt tình nhân. Anh ấy phải trở về với vai trò của một người chồng, người cha mẫu mực. Tôi vùng dậy, quyết định đi về nhà. Bụng tôi chợt nhói lên. Ôi! Bây giờ tôi mới nhớ rằng mình đã không nói với ông điều quan trọng nhất. Giọt máu của ông đang tượng hình trong người tôi! Thật tượng sụp đổ khi đối diện với sự thật. "Mày phải báo cho Trần biết, để ông ấy có trách nhiệm với đứa con của mày", Hoa bảo tôi. Tôi đưa cho Hoa tờ báo buổi sáng, trong đó có bài phỏng vấn nhạc sĩ Trần. Phóng viên hỏi: "Vì sao ông không sáng tác bài hát nào về gia đình hạnh phúc của mình?" Trần trả lời: "Gia đình luôn thường trực trong trái tim tôi, là thứ gắn bó máu thịt với cuộc đời. Đi đâu làm gì, tôi sáng tác nhạc cũng không nằm ngoài hai chữ gia đình..." Thế đấy, với những lời tuyên bố như thế, tôi còn tìm đến Trần làm gì nữa để thấy tim mình đau? Hoa vẫn nằng nặc: "Con mày cần có bố. Mày không chịu nói, tao sẽ nói." Chưa bao giờ tôi thấy Trần suy sụp đến thế. Người ông gầy sụp, ánh mắt thất thần. Ông cầm một sấp tiền, dúi vào tay tôi, thì thầm: "Bây giờ em muốn anh làm gì cho em?" Tay ông run đến mức tôi phải bật cười: "Anh có thể làm được gì cho em? Bỏ vợ, bỏ con, bỏ danh vọng để đến với em à". Ông im lặng. Tôi nhồi tiếp: "Hay em bỏ con để tiếp tục làm nguồn cảm hứng của anh." Cái nắm tay của ông chặt hơn, run hơn. Tôi thấy thương ông như thương một kẻ tội lỗi, không biết làm sao để xóa hết tội của mình. Tôi thản nhiên: "Hoa nó thử lòng anh đấy, không có chuyện con cái gì đâu. Chẳng qua em sắp lấy chồng nên nó nói thế để bọn mình chia tay cho nhẹ lòng!" Mắt ông bừng sáng. Ông nhào tới ôm lấy tôi cuồng nhiệt như chưa hề có chuyện khó xử vừa rồi. Thần tượng trong tôi vỡ vụn từng mảnh. Tôi tìm cách thoát khỏi vòng tay ông, để khỏi kéo dài thêm cảm giác khó chịu. Tôi không muốn nhìn thấy sự hèn hạ của người đàn ông mà mình hằng tôn thờ. Giáng sinh không còn là kỷ niệm buồn đau của tôi. Giáng sinh năm sau, đứa con gái bé bỏng của tôi đã được 3 tháng. Khi tôi thú nhận với mẹ là mình đã mang thai, bà thở dài rồi bảo: "Trẻ con sinh ra là ý Chúa, con không được từ bỏ nó". Không hỏi cha đứa trẻ là ai, bà lặng lẽ chăm sóc khi tôi thai nghén, lo lắng chăm bẳm con tôi từ lúc cháu chào đời cho đến bây giờ. Những lúc thấy tôi ngồi thất thần, bà lại đến bên cạnh, ôm con vào lòng. Nhờ có mẹ, tôi dần tìm lại sự tự tin của ngày xưa. Chỉ riêng tình yêu, tôi vẫn chưa đủ can đảm mở lòng đón nhận. Mẹ tôi khuyên: "Đừng bi quan thế con ạ. Ở đời có người xấu, người tốt. Hãy cho mình một cơ hội mới." Tôi biết mẹ nhắc đến Hoàng, một đồng nghiệp, đã theo đuổi tôi hai năm nay. Từ khi tôi sinh bé Na, anh tỏ ra yêu chiều con gái tôi và bảo: "Hãy để anh được chăm sóc mẹ con em." Tôi hiểu lòng chân thành của Hoàng. Tuy rất có cảm tình với anh nhưng tôi luôn tìm cách lẩn tránh vì thấy mình không còn xứng đáng với tình yêu của anh. Chẳng bao giờ tôi nghĩ mình lại có thể yêu một người đàn ông khác nữa. Thế nhưng, đêm Giáng sinh năm nay, tôi đã tìm được bến bờ mới cho mình. Đó là lúc tôi đi lễ nửa đêm với Hoàng. Khi anh vòng tay ra phía sau, bảo tôi: "Em lạnh không, ôm lấy anh cho ấm, thật chặt vào!" Tôi thấy tim mình đập lỡ nhịp. Đó là cảm giác tình yêu ngọt ngào mà tôi chưa bao giờ được nếm trải, dù từng yêu Trần như quên hết bản thân mình. Vô tình, chúng tôi đi ngang qua nhà Trần. Căn nhà ba tầng không có ánh sáng. Người đàn ông gần đến ngũ tuần chắc đã ngủ vùi trong mỏi mệt. Tôi nghĩ đến Giáng sinh cô đơn, lạnh lẽo năm nào, thấy như vừa xem xong bộ phim buồn của ai đó. Hoàng kéo tôi sát vào người: "Trời càng lạnh, anh càng thấy ấm khi ở bên em". Nước mắt tôi ướt đẫm bờ vai Hoàng, những giọt nước mắt của hạnh phúc.
Mục lục
Ngọn Nến Trong Đêm
Ngọn Nến Trong Đêm
Yến NhiChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.
Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.Đánh máy: chaulovekitty Nguồn: VNthuquan - Thư viện OnlineĐược bạn: Ct.Ly đưa lên vào ngày: 26 tháng 11 năm 2008
|
Khuê Việt Trường
Ngọn Đèn Dầu Trong Đêm
Chị Miên về nhà tôi ở như vậy đã năm năm rồi. Nhà chị Miên ở đâu tận phía Nam. Qua lời chị kể, tôi hình dung ra một xóm nhà tranh lúp xúp nằm bên một dải đất bồi, cứ mỗi mùa nước nổi là vườn nhà ngập chìm trong nước, riêng căn nhà được xây trên nền cao nên không ngập nước mà thôi. Chị Miên nói, thời thơ ấu của chị cơ cực lắm, chị chẳng được đi đến trường vì mỗi lần đi học phải đi bằng đò. Chị chỉ nhìn được mặt chữ là nhờ đi học lớp tình thương do mấy anh bộ đội biên phòng đến xóm dạy. Ngược lại với việc học, chị Miên lại rất giỏi giang trong công việc đồng áng. Ở quê, chị từng đi giăng lưới, đi bắt ba khía, trồng rau và cả chuyện đi hái đọt súng, bông điên điển hoặc bất cứ một thứ rau cỏ nào đó tự mọc ở trên những cánh đồng. Tuổi thơ của chị buồn, dường như chẳng có điều gì để nhớ ngoài những mảng lục bình, nở tím cả dòng sông trôi lên trôi xuống những sáng những chiều. Nhà chị nghèo, ba mẹ chị lại bệnh tật liên miên cho nên chị theo bà Hằng, đến giúp việc cho nhà tôi. Tính tình chị Miên chịu khó, lại thật thà nên được ba mẹ tôi tin cậy, giao việc lớn, việc nhỏ trong nhà cho chị. Mẹ tôi nói: "Thôi thì em cứ ở đây luôn, cô coi em như là con cháu trong nhà. Thích học nghề làm tóc, nghề may gì đó thì cô giúp cho mà học". Chị Miên cười: "Em chỉ thích nghề trồng rau thôi".Thật ra thì nghề trồng rau có biết bao nhiêu điều thú vị. Rau nhà tôi trồng thuộc loại "quý tộc". Nào là su hào, súp lơ, cả bẹ nấm... cứ mùa nào là thứ ấy. Cả một vùng đất luôn nhuộm màu xanh của rau thật đẹp như một bức tranh vẽ. Hàng ngày, chị Miên lo việc nhà là chính. Còn ở ngoài vườn rau thì đã có những người phụ giúp. Chị Miên đã trở thành quản gia trong nhà tôi, mọi việc lớn nhỏ đều có thể tự quyết định.Nhưng cuộc sống luôn luôn có một điều gì đó không sòng phẳng với con người. Chị Miên của tôi là một vũ trụ. Chị giỏi giang như thế, nhưng chị lại là một người con gái bị trời bắt xấu. Da dẻ chị ngăm đen, tướng người chị không thon thả như những cô gái trong thành phố. Đã vậy thì thôi, chị lại hoàn toàn không quan tâm đến việc chăm sóc sắc đẹp cho mình. Cả ngày, chị cứ mặc bộ đồ bà ba cũ, đầu tóc cột lên bằng dây thun. Chị không quan tâm đến son phấn và thậm chí chẳng màng gì đến chuyện phố xá có gì vui hay không? Có thể bởi cả thời trẻ của chị chẳng hề có một người đàn ông nào theo đuổi? Mà chẳng có ai theo đuổi thì son phấn để làm gì?.Bố mua cho tôi chiếc xe đạp để tôi đi học. Trường học cách nhà tôi khoảng 3 cây số. Mỗi buổi sáng, chị Miên dậy sớm nấu đồ ăn sáng cho cả nhà. Chị hay cho tôi một quả trứng gà luộc để tôi "thông minh, học giỏi" theo cách nói của chị.Thời gian cứ thế trôi qua giống như những cơn gió cứ thổi qua nhà rồi đi biệt. Chị Miên cũng vẫn chăm sóc những luống rau xanh. Tôi phải lo học thêm nhiều môn, bận rộn cho kỳ thi cuối cấp nên cũng có ít thì giờ để nghe chị Miên trò chuyện. Duy chỉ có một điều là chị đã mua được một chiếc xe đạp sơn màu đỏ rực. Chị gắn một chiếc chuông nơi tay lái, thích thú bấm nó kêu "kính coong, kính coong" khi đạp xe lướt qua những con đường đất quệ Chị nằn nì bảo tôi leo lên yên xe cho chị chở đi một vòng. Khi xe tới tiệm hớt tóc của anh Hải thì chị dừng lại. Thì ra, chị và anh Hải đã quen nhau từ trước mà tôi đâu có biết. Chị nói: "Em thấy anh Hải như thế nào?". Tôi cười với chị, dường như đôi mắt của chị long lanh hơn ngày thường. Anh là thương binh, nghe nói hồi ở chiến trường K anh dẫm phải mìn cho nên bị thương chân phải, thế là bị tàn tật phải giải ngũ. Anh về đây mở tiệm hớt tóc làm kế sinh nhai, cả xóm ai cũng quen. Khi tôi ghé chơi, anh vẫn thường hỏi chuyện về chị Miên, nhưng tôi không chú ý cho lắm, vì dù sao tôi cũng chẳng hiểu ý gì giữa hai người.***Một tối, tôi nghịch ngợm uống cà phê của ba thằng Nghĩa, pha uống chơi khi ghé nhà nó. Tối đó, tôi bị mất ngủ. Nơi tôi ngủ là căn phòng nhà sau, sát cánh cửa mở thông qua bờ ruộng. Tối hôm đó, tôi đang trở mình thì nghe tiếng mở cửa, suýt tí nữa tôi la lên vì tưởng kẻ trộm lẻn vào nhà. Nhưng khá bất ngờ khi tôi mở mắt ra thì nhìn thấy chị Miên nhờ ngọn đèn dầu chị cầm trên taỵ Đó là ngọn đèn chống gió, được chụp lại bị bởi một ống thuỷ tinh cao, có quai xách dùng để thăm vườn rau ban đêm. Bản tính tò mò khiến tôi im lặng nhìn theo. Lúc đầu, tôi ngỡ chị Miên đi thăm vườn rau.Nhưng không? Trong đêm tối đó, tôi nhìn thấy chị Miên cầm ngọn đèn dầu băng qua con đường ruộng. Đêm trăng khuyết cho nên ngọn đèn chị Miên cầm trên tay cố lắc lư lắc lư trộn với ánh trăng mờ như thế. Tôi nhìn qua sau cửa sổ, theo hướng chị Miên đi. Tôi bỗng bất ngờ khi nhận thấy ngọn đèn và cả chị Miên đã khuất sau tiệm hớt tóc của anh Hải.Kể từ đó, đêm nào tôi cũng tìm cách thức giấc để quan sát chị Miên. Có đêm tôi ngủ ngon giấc, thì sáng hôm sau tôi luôn tò mò quan sát chị. Có lẽ cái nhìn của tôi trụi lủi và tọc mạch làm sao đó, cho nên có khi chị Miên cười bẽn lẽn: "Sợ mặt chị dính lọ nghe sao mà em gái nhìn dữ vậy!". Ban ngày, tôi lại tò mò nhìn chiếc đèn treo ở góc tường trong bếp. Chiếc đèn thường chỉ được dùng để thăm vườn ra ban đêm khi có gió to hay chuyện gì đó. Tôi không ngờ rằng hàng đêm, nó còn có nhiệm vụ là dẫn đường cho chị Miên đi theo tiếng gọi của trái tim mình… Có hôm, mẹ tôi nhìn chiếc đèn cạn dầu, bà buột miệng vô tình: "Chà, cả tuần nay đâu có thắp đèn mà dầu cạn hết trơn. Mấy đứa coi chừng để đèn nghiêng đổ dầu ra ngoài hết". Mẹ thì vô tình, chị Miên đỏ mặt. Chỉ có chị Miên và tôi biết tại sao dầu trong đèn bị cạn mau chóng.Cũng lạ cho tôi. Có đêm gió mưa tầm tã. Tôi tưởng chị Miên chẳng đi. Vậy mà tôi vẫn nhìn thấy chị che chiếc đèn bằng chiếc nón lá, mặc áo mưa phủ kín người để băng qua con đường ruộng.***Anh Hải về quê ăn Tết. Những năm trước, anh lại đây luôn, gần như anh chẳng thiết tha gì chuyện trở về miền đất có một người đàn bà từng bội bạc anh… Những cái Tết trước, tôi vẫn thường qua nhà anh để "ăn Tết" cùng anh. Vì thật ra anh cũng không có khách khứa gì nhiều. Khi đó, chị Miên vẫn rủ tôi sang nhà anh chúc Tết mà tôi đâu biết rằng hai anh chị đã có tình ý. Tôi chỉ là nhân chứng cho "một cuộc tình đèn dầu".Mùa Xuân cũng thật lạ. Nó làm cho đất trời trong xanh hơn. Những bông hoa bé tí nằm đâu tận sau lòng đất, cố cựa mình chen lách cùng đám cỏ xanh mà nở. Chị Miên khéo tay, hái những bông hoa vô tình nở ở bờ ruộng đem về cắm chúng trong chiếc ly thuỷ tinh. Bình hoa lạ của chị Miên rất đẹp, khiến ai tới nhà cũng khen.Nhưng Tết năm nay không có anh Hải, tôi có cảm giác như chị Miên buồn hẳn. Chị chẳng ra bờ ruộng hái những bông hoa dại về cắm trong những chiếc lọ thuỷ tinh nữa. Từ ba mươi Tết, chị giống như một người đang thả hồn đi đâu. Chị cứ lấy chiếc xe đạp, đạp đi đâu ra ngoài lộ, khi trở về tôi nhìn thấy gương mặt chị mang một nỗi buồn man mác.Tết năm nay, vườn sau nhà tôi thu hoạch khá. Mẹ may cho chị Miên một bộ váy khá xinh. Hôm ba mươi Tết, mẹ đem bộ váy về nhà. Lúc đó, chị Miên đang dọn dẹp nhà cửa. Tôi nghe tiếng mẹ gọi chị: "Miên ơi, vào đây thử chiếc váy cho chị xem". Tôi cũng chẳng chú ý gì cho lắm, nhưng khi đi ngang tấm ri- đô ngăn chỗ thay đồ, chợt nghe tiếng mẹ thảng thốt “Mấy tháng rồi hả Miên?". Tiếng chị Miên lí nhí: "Dạ, ba tháng!". "Của thằng nào vậy?". "Dạ, anh Hải"... Rồi tiếng khóc rấm rức của chị Miên. Tiếng thở dài, cả tiếng chặc lưỡi của mẹ: "Lỡ nó không quay lại thì mày cứ đẻ, tao nuôi". Rồi mẹ dỗ dành: "Thôi lỡ rồi, đừng khóc nữa".Những ngày Tết năm đó trôi qua không chịu dừng. Tôi cứ lén lén quan sát chiếc bụng của chị Miên. Chiếc bụng chỉ vòng lên một tí, chưa ra vẻ gì là chị đang mang thai. Chị Miên cố dấu nỗi buồn của chị, chị vẫn tưởng tôi không biết chuyện gì đã xảy ra.Sáng mùng bốn Tết. Chị Miên đang lo mâm cỗ cúng tiễn ông bà. Tôi còn đang trùm mền ngủ nướng thì nghe tiếng ồn ào trên phòng khách. Thật lạ, khách gì mà đến nhà sớm thế!Tôi tỉnh ngủ. Thấy gương mặt chị Miên rạng rỡ. Chị chạy ra sau vội quạt lửa cho bếp than hồng cháy mau để nấu nước. Chị nói nói với tôi bằng hơi thở. "Anh Hải dắt mẹ của ảnh tới!". Trong vỏn vẹn bảy chữ chị vừa nói, tôi cảm thấy một chiếc cùm vừa được tháo ra, một bình minh vừa chiếu loá sau những ngày giông gió.Anh Hải và chị Miên dự định sẽ về làm lễ cưới trong tháng sau. Chị Miên bẽn lẽn: "ảnh cưới vợ mà như đi chợ". Theo dự tính thì mẹ tôi sẽ cho chị Miên mấy trăm mét đất để chị tự trồng rau. Còn anh Hải vẫn nghề hớt tóc.Tôi tò mò tìm ngọn đèn dầu chị Miên vẫn thường thắp lên trong đêm để đến với anh Hải. Chiếc đèn dầu treo lủng lẳng nơi góc bếp. Tôi lấy nó xuống và ngắm nhìn.Hết
Mục lục
Ngọn Đèn Dầu Trong Đêm
Ngọn Đèn Dầu Trong Đêm
Khuê Việt TrườngChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.
Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: may4phuong.netĐược bạn: mickey đưa lên vào ngày: 20 tháng 3 năm 2004
|
Khuê Việt Trường
Ngọn Đèn Dầu Trong Đêm
Chị Miên về nhà tôi ở như vậy đã năm năm rồi. Nhà chị Miên ở đâu tận phía Nam. Qua lời chị kể, tôi hình dung ra một xóm nhà tranh lúp xúp nằm bên một dải đất bồi, cứ mỗi mùa nước nổi là vườn nhà ngập chìm trong nước, riêng căn nhà được xây trên nền cao nên không ngập nước mà thôi. Chị Miên nói, thời thơ ấu của chị cơ cực lắm, chị chẳng được đi đến trường vì mỗi lần đi học phải đi bằng đò. Chị chỉ nhìn được mặt chữ là nhờ đi học lớp tình thương do mấy anh bộ đội biên phòng đến xóm dạy. Ngược lại với việc học, chị Miên lại rất giỏi giang trong công việc đồng áng. Ở quê, chị từng đi giăng lưới, đi bắt ba khía, trồng rau và cả chuyện đi hái đọt súng, bông điên điển hoặc bất cứ một thứ rau cỏ nào đó tự mọc ở trên những cánh đồng. Tuổi thơ của chị buồn, dường như chẳng có điều gì để nhớ ngoài những mảng lục bình, nở tím cả dòng sông trôi lên trôi xuống những sáng những chiều. Nhà chị nghèo, ba mẹ chị lại bệnh tật liên miên cho nên chị theo bà Hằng, đến giúp việc cho nhà tôi. Tính tình chị Miên chịu khó, lại thật thà nên được ba mẹ tôi tin cậy, giao việc lớn, việc nhỏ trong nhà cho chị. Mẹ tôi nói: "Thôi thì em cứ ở đây luôn, cô coi em như là con cháu trong nhà. Thích học nghề làm tóc, nghề may gì đó thì cô giúp cho mà học". Chị Miên cười: "Em chỉ thích nghề trồng rau thôi".Thật ra thì nghề trồng rau có biết bao nhiêu điều thú vị. Rau nhà tôi trồng thuộc loại "quý tộc". Nào là su hào, súp lơ, cả bẹ nấm... cứ mùa nào là thứ ấy. Cả một vùng đất luôn nhuộm màu xanh của rau thật đẹp như một bức tranh vẽ. Hàng ngày, chị Miên lo việc nhà là chính. Còn ở ngoài vườn rau thì đã có những người phụ giúp. Chị Miên đã trở thành quản gia trong nhà tôi, mọi việc lớn nhỏ đều có thể tự quyết định.Nhưng cuộc sống luôn luôn có một điều gì đó không sòng phẳng với con người. Chị Miên của tôi là một vũ trụ. Chị giỏi giang như thế, nhưng chị lại là một người con gái bị trời bắt xấu. Da dẻ chị ngăm đen, tướng người chị không thon thả như những cô gái trong thành phố. Đã vậy thì thôi, chị lại hoàn toàn không quan tâm đến việc chăm sóc sắc đẹp cho mình. Cả ngày, chị cứ mặc bộ đồ bà ba cũ, đầu tóc cột lên bằng dây thun. Chị không quan tâm đến son phấn và thậm chí chẳng màng gì đến chuyện phố xá có gì vui hay không? Có thể bởi cả thời trẻ của chị chẳng hề có một người đàn ông nào theo đuổi? Mà chẳng có ai theo đuổi thì son phấn để làm gì?.Bố mua cho tôi chiếc xe đạp để tôi đi học. Trường học cách nhà tôi khoảng 3 cây số. Mỗi buổi sáng, chị Miên dậy sớm nấu đồ ăn sáng cho cả nhà. Chị hay cho tôi một quả trứng gà luộc để tôi "thông minh, học giỏi" theo cách nói của chị.Thời gian cứ thế trôi qua giống như những cơn gió cứ thổi qua nhà rồi đi biệt. Chị Miên cũng vẫn chăm sóc những luống rau xanh. Tôi phải lo học thêm nhiều môn, bận rộn cho kỳ thi cuối cấp nên cũng có ít thì giờ để nghe chị Miên trò chuyện. Duy chỉ có một điều là chị đã mua được một chiếc xe đạp sơn màu đỏ rực. Chị gắn một chiếc chuông nơi tay lái, thích thú bấm nó kêu "kính coong, kính coong" khi đạp xe lướt qua những con đường đất quệ Chị nằn nì bảo tôi leo lên yên xe cho chị chở đi một vòng. Khi xe tới tiệm hớt tóc của anh Hải thì chị dừng lại. Thì ra, chị và anh Hải đã quen nhau từ trước mà tôi đâu có biết. Chị nói: "Em thấy anh Hải như thế nào?". Tôi cười với chị, dường như đôi mắt của chị long lanh hơn ngày thường. Anh là thương binh, nghe nói hồi ở chiến trường K anh dẫm phải mìn cho nên bị thương chân phải, thế là bị tàn tật phải giải ngũ. Anh về đây mở tiệm hớt tóc làm kế sinh nhai, cả xóm ai cũng quen. Khi tôi ghé chơi, anh vẫn thường hỏi chuyện về chị Miên, nhưng tôi không chú ý cho lắm, vì dù sao tôi cũng chẳng hiểu ý gì giữa hai người.***Một tối, tôi nghịch ngợm uống cà phê của ba thằng Nghĩa, pha uống chơi khi ghé nhà nó. Tối đó, tôi bị mất ngủ. Nơi tôi ngủ là căn phòng nhà sau, sát cánh cửa mở thông qua bờ ruộng. Tối hôm đó, tôi đang trở mình thì nghe tiếng mở cửa, suýt tí nữa tôi la lên vì tưởng kẻ trộm lẻn vào nhà. Nhưng khá bất ngờ khi tôi mở mắt ra thì nhìn thấy chị Miên nhờ ngọn đèn dầu chị cầm trên taỵ Đó là ngọn đèn chống gió, được chụp lại bị bởi một ống thuỷ tinh cao, có quai xách dùng để thăm vườn rau ban đêm. Bản tính tò mò khiến tôi im lặng nhìn theo. Lúc đầu, tôi ngỡ chị Miên đi thăm vườn rau.Nhưng không? Trong đêm tối đó, tôi nhìn thấy chị Miên cầm ngọn đèn dầu băng qua con đường ruộng. Đêm trăng khuyết cho nên ngọn đèn chị Miên cầm trên tay cố lắc lư lắc lư trộn với ánh trăng mờ như thế. Tôi nhìn qua sau cửa sổ, theo hướng chị Miên đi. Tôi bỗng bất ngờ khi nhận thấy ngọn đèn và cả chị Miên đã khuất sau tiệm hớt tóc của anh Hải.Kể từ đó, đêm nào tôi cũng tìm cách thức giấc để quan sát chị Miên. Có đêm tôi ngủ ngon giấc, thì sáng hôm sau tôi luôn tò mò quan sát chị. Có lẽ cái nhìn của tôi trụi lủi và tọc mạch làm sao đó, cho nên có khi chị Miên cười bẽn lẽn: "Sợ mặt chị dính lọ nghe sao mà em gái nhìn dữ vậy!". Ban ngày, tôi lại tò mò nhìn chiếc đèn treo ở góc tường trong bếp. Chiếc đèn thường chỉ được dùng để thăm vườn ra ban đêm khi có gió to hay chuyện gì đó. Tôi không ngờ rằng hàng đêm, nó còn có nhiệm vụ là dẫn đường cho chị Miên đi theo tiếng gọi của trái tim mình… Có hôm, mẹ tôi nhìn chiếc đèn cạn dầu, bà buột miệng vô tình: "Chà, cả tuần nay đâu có thắp đèn mà dầu cạn hết trơn. Mấy đứa coi chừng để đèn nghiêng đổ dầu ra ngoài hết". Mẹ thì vô tình, chị Miên đỏ mặt. Chỉ có chị Miên và tôi biết tại sao dầu trong đèn bị cạn mau chóng.Cũng lạ cho tôi. Có đêm gió mưa tầm tã. Tôi tưởng chị Miên chẳng đi. Vậy mà tôi vẫn nhìn thấy chị che chiếc đèn bằng chiếc nón lá, mặc áo mưa phủ kín người để băng qua con đường ruộng.***Anh Hải về quê ăn Tết. Những năm trước, anh lại đây luôn, gần như anh chẳng thiết tha gì chuyện trở về miền đất có một người đàn bà từng bội bạc anh… Những cái Tết trước, tôi vẫn thường qua nhà anh để "ăn Tết" cùng anh. Vì thật ra anh cũng không có khách khứa gì nhiều. Khi đó, chị Miên vẫn rủ tôi sang nhà anh chúc Tết mà tôi đâu biết rằng hai anh chị đã có tình ý. Tôi chỉ là nhân chứng cho "một cuộc tình đèn dầu".Mùa Xuân cũng thật lạ. Nó làm cho đất trời trong xanh hơn. Những bông hoa bé tí nằm đâu tận sau lòng đất, cố cựa mình chen lách cùng đám cỏ xanh mà nở. Chị Miên khéo tay, hái những bông hoa vô tình nở ở bờ ruộng đem về cắm chúng trong chiếc ly thuỷ tinh. Bình hoa lạ của chị Miên rất đẹp, khiến ai tới nhà cũng khen.Nhưng Tết năm nay không có anh Hải, tôi có cảm giác như chị Miên buồn hẳn. Chị chẳng ra bờ ruộng hái những bông hoa dại về cắm trong những chiếc lọ thuỷ tinh nữa. Từ ba mươi Tết, chị giống như một người đang thả hồn đi đâu. Chị cứ lấy chiếc xe đạp, đạp đi đâu ra ngoài lộ, khi trở về tôi nhìn thấy gương mặt chị mang một nỗi buồn man mác.Tết năm nay, vườn sau nhà tôi thu hoạch khá. Mẹ may cho chị Miên một bộ váy khá xinh. Hôm ba mươi Tết, mẹ đem bộ váy về nhà. Lúc đó, chị Miên đang dọn dẹp nhà cửa. Tôi nghe tiếng mẹ gọi chị: "Miên ơi, vào đây thử chiếc váy cho chị xem". Tôi cũng chẳng chú ý gì cho lắm, nhưng khi đi ngang tấm ri- đô ngăn chỗ thay đồ, chợt nghe tiếng mẹ thảng thốt “Mấy tháng rồi hả Miên?". Tiếng chị Miên lí nhí: "Dạ, ba tháng!". "Của thằng nào vậy?". "Dạ, anh Hải"... Rồi tiếng khóc rấm rức của chị Miên. Tiếng thở dài, cả tiếng chặc lưỡi của mẹ: "Lỡ nó không quay lại thì mày cứ đẻ, tao nuôi". Rồi mẹ dỗ dành: "Thôi lỡ rồi, đừng khóc nữa".Những ngày Tết năm đó trôi qua không chịu dừng. Tôi cứ lén lén quan sát chiếc bụng của chị Miên. Chiếc bụng chỉ vòng lên một tí, chưa ra vẻ gì là chị đang mang thai. Chị Miên cố dấu nỗi buồn của chị, chị vẫn tưởng tôi không biết chuyện gì đã xảy ra.Sáng mùng bốn Tết. Chị Miên đang lo mâm cỗ cúng tiễn ông bà. Tôi còn đang trùm mền ngủ nướng thì nghe tiếng ồn ào trên phòng khách. Thật lạ, khách gì mà đến nhà sớm thế!Tôi tỉnh ngủ. Thấy gương mặt chị Miên rạng rỡ. Chị chạy ra sau vội quạt lửa cho bếp than hồng cháy mau để nấu nước. Chị nói nói với tôi bằng hơi thở. "Anh Hải dắt mẹ của ảnh tới!". Trong vỏn vẹn bảy chữ chị vừa nói, tôi cảm thấy một chiếc cùm vừa được tháo ra, một bình minh vừa chiếu loá sau những ngày giông gió.Anh Hải và chị Miên dự định sẽ về làm lễ cưới trong tháng sau. Chị Miên bẽn lẽn: "ảnh cưới vợ mà như đi chợ". Theo dự tính thì mẹ tôi sẽ cho chị Miên mấy trăm mét đất để chị tự trồng rau. Còn anh Hải vẫn nghề hớt tóc.Tôi tò mò tìm ngọn đèn dầu chị Miên vẫn thường thắp lên trong đêm để đến với anh Hải. Chiếc đèn dầu treo lủng lẳng nơi góc bếp. Tôi lấy nó xuống và ngắm nhìn.Hết
Mục lục
Ngọn Đèn Dầu Trong Đêm
Ngọn Đèn Dầu Trong Đêm
Khuê Việt TrườngChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.
Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: may4phuong.netĐược bạn: mickey đưa lên vào ngày: 20 tháng 3 năm 2004
|
Nguyễn Ngọc Tư
Ngọn đèn không tắt
Giải nhất cuộc vận động sáng tác văn học tuổi 20
N gười ta gửi tới nhà Tư Lai một lá thơ. Thơ đề "Kính gởi ông Hai Tương". Cả nhà bối rối không ít. Ông Hai Tương đã ra người thiên cổ lâu rồi, thấy có người nhắc lại chồng, bà cụ Hai Tương nhớ quá ứa nước mắt. Khui lá thơ ra, thì ra là thơ mời nói chuyện khởi nghĩa. Con Tươi ngồi chắt nước cơm ngoài sau bếp than trong bụng: "Mấy chuyện đó kể muốn thuộc lòng rồi, bắt kể hoài, bộ mấy ổng hổng chán sao". Cái khởi nghĩa đó xảy ra đã lâu lắm rồi. Dân xứ này có người nhớ, người không. Cái người không nhớ thì cũng nhớ được hai ngày. Ngày thứ nhất là ngày giỗ chung những người khởi nghĩa bị giặc bắn ngoài chợ. Ngày thứ hai là cái ngày kỷ niệm khởi nghĩa. Xã tưng bừng dựng cờ đỏ chói, chạy xuồng máy rước mấy cụ lão thành lại đằng chỗ ủy ban ngồi uống nước trà, ôn lại chuyện cũ. Những chuyện mà các cụ cất vô trong tim, trong máu, buổi sáng nhớ, buổi chiều nhớ, buổi tối cũng nhớ. Ông cụ Hai Tương - nội con Tươi - cũng được mời hoài. Dạo ông cụ già yếu, Tươi được đặc phái đi theo chăm sóc ông nên không khí hội họp nó biết chút đỉnh, chuyện mà cái hội họp nói, Tươi cũng thuộc lòng. Nói chung là không có gì mới. Con Tươi ngồi kế ông nội, có khi nó nhắc:- Còn chuyện nội với thầy lên Hòn bắn chim bằng nạng thun đó nội. Ông nội nó đang nói, gật gù:- Ờ, ĐÚNG LÀ TÔI CÒN QUÊN CÁI CHUYỆN NỘI NÓI VỚI THẦY XÁCH NẠNG thun lên Hòn bắn chim.Tươi hài lòng, chành miệng ra cười, thấy mình quan trọng hẳn lên. Quan trọng ngay cả trong cuộc khởi nghĩa đã diễn ra mấy chục năm trước. Hồi còn sống, ông nội thương con Tươi nhất. Tươi cũng thương ông nội, quấn quít bên ông. Công việc của nó là nấu cơm, chở nước, quét dọn nhà cửa. Thời gian rảnh ngồi nghe ông nội kể chuyện xưa, nghe bà nội kể chuyện còn xưa hơn nữa. Thằng Sáng suốt ngày chạy nhảy, ăn chực ở nhà hàng xóm trề môi như đưa đò:- Ông nội khó thấy mồ.Tươi không nghĩ ông nội khó, nhưng ông nội hơi lạ lùng. Ông nội dắt Tươi ra biển đứng sục chân trong bùn, nghe nước biển lấp liếm đầu gối, nội chỉ hướng Hòn.- Bây coi kìa, Hòn đó. - Dạ, xa quá hen nội.- Bây ơi - nội đột nhiên nghẹn ngào - tao nhớ Hòn quá. Tươi an ủi:- Thì bữa nào nội biểu ba lấy ghe chở nội đi. Mà phải con lội hay con lội cõng nội ra ngoài. Gần thí mồ chớ gì, nội. Vậy mà Hòn xa lắm. Có đi mới biết trời rộng, biển rộng mênh mông. Người ta đứng một chỗ nào đó nhìn bầu trời nhỏ xíu, cái Hòn nhỏ xíu, xanh mù mù rồi thấy mình cũng không cần đi đâu, không cần làm gì nữa, thế giới có bi nhiêu đây thôi mà. Tươi rút ra một chân lý, nó nói với nội:- Cô con dạy "đi một ngày đàng, học một sàng khôn" là vậy đó nội. Má Tươi bảo: "Con Tươi đi theo ông nội riết nó... khùng". Nó không khùng nhưng nó già trước tuổi, nó già theo những câu chuyện xưa. Ông nội ngộ lắm. Ông nói cho nó biết sở dĩ bùn xứ nó mặn là vì có rất nhiều xương máu của chú, bác, cô, dì đã đổ xuống, trong đó đương nhiên là có máu của thầy, của mấy anh em khởi nghĩa. Ông nói cho nó biết sống làm sao như cây đước thẳng tuột ưỡn ngực giữa sình lầy và còn nhóc chuyện nữa. Tươi cảm thấy mình phải có nhiệm vụ ghi nhớ những gì mà ông nội nói. Vì ba má nó lo làm ăn không có ở đây để nghe, vì thằng Sáng không muốn nghe. Rồi một bữa khác, ông nội nó ra bãi ngồi tới chạng vạng không chịu vô nhà. Ngồi coi biển đục ngầu, ngồi coi mặt trời lặn. Tươi năn nỉ ông vô nhà để ở ngoài này gió máy cảm chết. Ông nội nó không chịu vô, vò đầu nó than:- Tao thương thầy quá. Nhớ thầy quá. Tao thèm gặp thầy, gặp anh em.Ðâu ngờ cái lần nội nói đó, nội đi gặp thầy thiệt. Xóm Rạch vắng một người già cỗi cằn ngồi hát sử hận, mấy ông làm phim, viết sử tiếc đứt ruột ông già sống qua những tháng năm biến động và nhứt là đã trải qua cuộc khởi nghĩa trên Hòn. Con Tươi qua sông, chở nước ngọt về uống trượt chân té xuống sình. Té nhẹ phau mà không hiểu vì sao nó dầm mình vậy, nó khóc mướt. Vậy mà kỷ niệm năm nào người ta cũng gởi thơ mời ông Hai. Không hiểu người ta vô tình quên rằng ông đã khuất hay cố ý nhớ đã từng có một con người như thế trên cõi đời này. Năm rồi thì ông Tư Lai đi thay, năm nay thơ tới trễ ông Tư đi biển ngày họp không về kịp. Cán bộ xã đút mũi xuồng lại rước. Bà cụ Hai rầu rĩ như mình đã ruồng rẫy, phũ phàng ai vậy, chép miệng than:- Thiệt rầu hết sức, nhà tui tưởng còn ai đi kể chuyện khởi nghĩa. Hổng ấy cho con Tươi đi, chịu hôn?- Nó nhỏ xíu hà biết không?- Nó tuổi con gà gần hai chục rồi, nó lanh lắm.- Thôi kệ, đi đại đi.Vậy là lần đầu tiên Tươi một mình đi kể chuyện. Ðò chạy một mạch lên huyện, nó ngồi kế bên ông chú Chín bạn của ông nội, nghe ông chú Chín bệu bạo kể kỷ niệm hồi xưa với ông nội, những kỷ niệm tưởng đã đầy rêu, Tươi nhớ nội quá. Nội bây giờ chắc bay ra Hòn gặp thầy, gặp các bạn của nội. Họ lại cùng nhau uống trà, leo núi, đẽo nạng thun bắn chim. Họ lại lên rẫy Thuồng Luồng cuốc đất trồng khoai lang, khoai rạng. Họ không bao giờ già. Họ không bao giờ mệt. Họ không bao giờ mất. Nên người ta tổ chức họp để nhắc họ hoài hoài. Nghe nói lần này có người trên tỉnh xuống viết sử, Tươi cũng nghe hồi hộp lắm. Nó sợ mình kể không hay bằng ông nội, thiếu những chuyện quan trọng mà người ta cần. Ông nội để lại cho nó một trọng trách nặng nề. Nó vừa đưa tay vịn tấm cao-su che nước mặn khỏi tạt vào mặt, vừa suy nghĩ lung lắm. Nó nhìn đăm đắm ra sông Lớn, những con sóng chạy rượt nhau mê mải tới bạc mái đầu. Có con sóng nào trẻ không mà lượn nào cũng trắng.
** *Tới cuối buổi họp thì cô gái nhỏ xíu trẻ măng ngồi cuối bàn đằng này được phát biểu: Cũng tại cô ngồi khuất sau cây phát tài nhựa nên khó thấy cô. Cô có nước da đen giòn miền biển, đôi mắt mở lớn bẽn lẽn:- Dạ, con xin nói thêm về khởi nghĩa đó. - ỦA, CÔ CÓ THAM GIA HẢ? - Dạ, ông nội con.- Dà, sao cô biết?- Dạ...Cô gái miết tay lên cạnh bàn có vẻ bối rối. Có nhiều người ngồi quanh đây cô không quen.- Dạ, ông nội con kể, ông nội con là ông Hai Tương. Nội con còn viết tuồng Sử hận nữa, mấy chú có nghe hát tuồng đó chưa?- Ờ BÁC HAI TƯƠNG TÔI THƯƠNG LẮM GHEN. ¤NG KỂ CHUYỆN MÊ LY MÀ chính xác lắm. Còn tuồng thì nghe nói thôi, thiệt thì chưa. - Con hát nghen?- Thôi đừng hát, kể sử đi.- Dạ thưa ông bác Ba, ông bác Chín, thưa mấy chú, con nói hơi dài được không?Ông chủ tọa coi đồng hồ cười:- Bây giờ cũng còn sớm. Chuyện của cô dài cỡ bao nhiêu? Cô mà kể hay, tới chiều tôi cũng nghe.- Dạ - cô đằng hắng - Thầy được Ðảng phân công về xóm Rạch năm một ngàn...Ðó là câu chuyện của cô, của ông nội cô, của những người xóm Rạch. Họ kể chuyện đó bao nhiêu lần rồi? Các nhà viết sử nghe bao nhiêu lần rồi? Nhiều lắm, nhiều không kể được. Cô gái nói lời của ba cô năm trước, nói lời của ông nội cô năm trước, năm trước nữa. Cô nói lời của lịch sử. Mà lịch sử là thứ không thay đổi. Nhưng trong lời của cô có cái nhiệt tình tuổi trẻ, trong mắt cô có mầu đen sẫm của vốc đất bãi bùn, và cô dựng xương thịt cho cuộc khởi nghĩa bằng nét mềm mại của người con gái nên câu chuyện của cô rất sâu sắc và thu hút người khác.- Mấy chú coi con kể có sai chỗ nào không?- À, KHÔNG, HAY LẮM, RẤT HAY. CÔ HỌC TỚI LỚP MẤY?- Dạ, lớp 9, xã con dạy tới bao nhiêu đó thôi.- Cô tên gì nhỉ? - Dạ Tươi. Ông nội con tên Tương, ba con là Lai, hai chị em con là Tươi, Sáng. - Tên cũng hay lắm. Tươi có biết thầy không? - Biết. Con thương thầy như nội con vậy.- Tôi ngạc nhiên đó. Cuộc khởi nghĩa với cô cực kỳ mơ hồ vậy mà cô nói chuyện như thể đã từng sống với thầy vậy. Thầy rất đẹp phải không?- Dạ, bà nội con nói thầy đẹp trai lắm. Con trai xóm Rạch bây giờ không ai bằng. Thầy là đàn ông mà thầy còn biết thêu.- Thêu à? Ôi chuyện đó tôi chưa nghe nói bao giờ, mấy chú có nghe không?- Không.- Có.- Ờ HÌNH NHƯ CÓ.- Tôi gặp ông nội cô ba lần, chưa lần nào ổng kể tôi nghe. Tại sao cô biết?- Bà nội con kể. Bà nội con là đàn bà nên mới nhớ lâu chuyện đó. Bà nội con đã có lần thêu chung áo gối với thầy.- Chung à? Thêu gì?- Uyên ương. Chú có coi Tô ánh Nguyệt không? Trong đó có hát vầy nè: "Uyên ương có bạn có đôi...", cái áo gối đó tới giờ bà nội con vẫn còn giữ, nó hơi cũ. Nhưng ông nội con nói tội nghiệp bà nội bây, uyên ương gãy cánh giữa trời dông...- Cháu làm chúng tôi xúc động đây. Thôi cháu kể sử tiếp. Tới đoạn đêm khởi nghĩa. - Dạ nội con nói sau khi giết xong chúa đảo (đêm đó trăng sáng như ban ngày), bắt hai má con cô Ðầm xuống bãi, thầy biểu mấy chú, à không mấy ông chú giữ đèn hải đăng cho nó đừng tắt. Và khi chiếc tàu chạy vào xóm Rạch rồi, ngọn hải đăng vẫn với nhìn theo cháy hoài, cháy hoài, cháy hoài...
Mục lục
Ngọn đèn không tắt
Ngọn đèn không tắt
Nguyễn Ngọc TưChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.
Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: sad-riverĐược bạn: Thành Viên VNthuquan đưa lên vào ngày: 27 tháng 12 năm 2003
|
Nguyễn Ngọc Tư
Ngọn đèn không tắt
Giải nhất cuộc vận động sáng tác văn học tuổi 20
N gười ta gửi tới nhà Tư Lai một lá thơ. Thơ đề "Kính gởi ông Hai Tương". Cả nhà bối rối không ít. Ông Hai Tương đã ra người thiên cổ lâu rồi, thấy có người nhắc lại chồng, bà cụ Hai Tương nhớ quá ứa nước mắt. Khui lá thơ ra, thì ra là thơ mời nói chuyện khởi nghĩa. Con Tươi ngồi chắt nước cơm ngoài sau bếp than trong bụng: "Mấy chuyện đó kể muốn thuộc lòng rồi, bắt kể hoài, bộ mấy ổng hổng chán sao". Cái khởi nghĩa đó xảy ra đã lâu lắm rồi. Dân xứ này có người nhớ, người không. Cái người không nhớ thì cũng nhớ được hai ngày. Ngày thứ nhất là ngày giỗ chung những người khởi nghĩa bị giặc bắn ngoài chợ. Ngày thứ hai là cái ngày kỷ niệm khởi nghĩa. Xã tưng bừng dựng cờ đỏ chói, chạy xuồng máy rước mấy cụ lão thành lại đằng chỗ ủy ban ngồi uống nước trà, ôn lại chuyện cũ. Những chuyện mà các cụ cất vô trong tim, trong máu, buổi sáng nhớ, buổi chiều nhớ, buổi tối cũng nhớ. Ông cụ Hai Tương - nội con Tươi - cũng được mời hoài. Dạo ông cụ già yếu, Tươi được đặc phái đi theo chăm sóc ông nên không khí hội họp nó biết chút đỉnh, chuyện mà cái hội họp nói, Tươi cũng thuộc lòng. Nói chung là không có gì mới. Con Tươi ngồi kế ông nội, có khi nó nhắc:- Còn chuyện nội với thầy lên Hòn bắn chim bằng nạng thun đó nội. Ông nội nó đang nói, gật gù:- Ờ, ĐÚNG LÀ TÔI CÒN QUÊN CÁI CHUYỆN NỘI NÓI VỚI THẦY XÁCH NẠNG thun lên Hòn bắn chim.Tươi hài lòng, chành miệng ra cười, thấy mình quan trọng hẳn lên. Quan trọng ngay cả trong cuộc khởi nghĩa đã diễn ra mấy chục năm trước. Hồi còn sống, ông nội thương con Tươi nhất. Tươi cũng thương ông nội, quấn quít bên ông. Công việc của nó là nấu cơm, chở nước, quét dọn nhà cửa. Thời gian rảnh ngồi nghe ông nội kể chuyện xưa, nghe bà nội kể chuyện còn xưa hơn nữa. Thằng Sáng suốt ngày chạy nhảy, ăn chực ở nhà hàng xóm trề môi như đưa đò:- Ông nội khó thấy mồ.Tươi không nghĩ ông nội khó, nhưng ông nội hơi lạ lùng. Ông nội dắt Tươi ra biển đứng sục chân trong bùn, nghe nước biển lấp liếm đầu gối, nội chỉ hướng Hòn.- Bây coi kìa, Hòn đó. - Dạ, xa quá hen nội.- Bây ơi - nội đột nhiên nghẹn ngào - tao nhớ Hòn quá. Tươi an ủi:- Thì bữa nào nội biểu ba lấy ghe chở nội đi. Mà phải con lội hay con lội cõng nội ra ngoài. Gần thí mồ chớ gì, nội. Vậy mà Hòn xa lắm. Có đi mới biết trời rộng, biển rộng mênh mông. Người ta đứng một chỗ nào đó nhìn bầu trời nhỏ xíu, cái Hòn nhỏ xíu, xanh mù mù rồi thấy mình cũng không cần đi đâu, không cần làm gì nữa, thế giới có bi nhiêu đây thôi mà. Tươi rút ra một chân lý, nó nói với nội:- Cô con dạy "đi một ngày đàng, học một sàng khôn" là vậy đó nội. Má Tươi bảo: "Con Tươi đi theo ông nội riết nó... khùng". Nó không khùng nhưng nó già trước tuổi, nó già theo những câu chuyện xưa. Ông nội ngộ lắm. Ông nói cho nó biết sở dĩ bùn xứ nó mặn là vì có rất nhiều xương máu của chú, bác, cô, dì đã đổ xuống, trong đó đương nhiên là có máu của thầy, của mấy anh em khởi nghĩa. Ông nói cho nó biết sống làm sao như cây đước thẳng tuột ưỡn ngực giữa sình lầy và còn nhóc chuyện nữa. Tươi cảm thấy mình phải có nhiệm vụ ghi nhớ những gì mà ông nội nói. Vì ba má nó lo làm ăn không có ở đây để nghe, vì thằng Sáng không muốn nghe. Rồi một bữa khác, ông nội nó ra bãi ngồi tới chạng vạng không chịu vô nhà. Ngồi coi biển đục ngầu, ngồi coi mặt trời lặn. Tươi năn nỉ ông vô nhà để ở ngoài này gió máy cảm chết. Ông nội nó không chịu vô, vò đầu nó than:- Tao thương thầy quá. Nhớ thầy quá. Tao thèm gặp thầy, gặp anh em.Ðâu ngờ cái lần nội nói đó, nội đi gặp thầy thiệt. Xóm Rạch vắng một người già cỗi cằn ngồi hát sử hận, mấy ông làm phim, viết sử tiếc đứt ruột ông già sống qua những tháng năm biến động và nhứt là đã trải qua cuộc khởi nghĩa trên Hòn. Con Tươi qua sông, chở nước ngọt về uống trượt chân té xuống sình. Té nhẹ phau mà không hiểu vì sao nó dầm mình vậy, nó khóc mướt. Vậy mà kỷ niệm năm nào người ta cũng gởi thơ mời ông Hai. Không hiểu người ta vô tình quên rằng ông đã khuất hay cố ý nhớ đã từng có một con người như thế trên cõi đời này. Năm rồi thì ông Tư Lai đi thay, năm nay thơ tới trễ ông Tư đi biển ngày họp không về kịp. Cán bộ xã đút mũi xuồng lại rước. Bà cụ Hai rầu rĩ như mình đã ruồng rẫy, phũ phàng ai vậy, chép miệng than:- Thiệt rầu hết sức, nhà tui tưởng còn ai đi kể chuyện khởi nghĩa. Hổng ấy cho con Tươi đi, chịu hôn?- Nó nhỏ xíu hà biết không?- Nó tuổi con gà gần hai chục rồi, nó lanh lắm.- Thôi kệ, đi đại đi.Vậy là lần đầu tiên Tươi một mình đi kể chuyện. Ðò chạy một mạch lên huyện, nó ngồi kế bên ông chú Chín bạn của ông nội, nghe ông chú Chín bệu bạo kể kỷ niệm hồi xưa với ông nội, những kỷ niệm tưởng đã đầy rêu, Tươi nhớ nội quá. Nội bây giờ chắc bay ra Hòn gặp thầy, gặp các bạn của nội. Họ lại cùng nhau uống trà, leo núi, đẽo nạng thun bắn chim. Họ lại lên rẫy Thuồng Luồng cuốc đất trồng khoai lang, khoai rạng. Họ không bao giờ già. Họ không bao giờ mệt. Họ không bao giờ mất. Nên người ta tổ chức họp để nhắc họ hoài hoài. Nghe nói lần này có người trên tỉnh xuống viết sử, Tươi cũng nghe hồi hộp lắm. Nó sợ mình kể không hay bằng ông nội, thiếu những chuyện quan trọng mà người ta cần. Ông nội để lại cho nó một trọng trách nặng nề. Nó vừa đưa tay vịn tấm cao-su che nước mặn khỏi tạt vào mặt, vừa suy nghĩ lung lắm. Nó nhìn đăm đắm ra sông Lớn, những con sóng chạy rượt nhau mê mải tới bạc mái đầu. Có con sóng nào trẻ không mà lượn nào cũng trắng.
** *Tới cuối buổi họp thì cô gái nhỏ xíu trẻ măng ngồi cuối bàn đằng này được phát biểu: Cũng tại cô ngồi khuất sau cây phát tài nhựa nên khó thấy cô. Cô có nước da đen giòn miền biển, đôi mắt mở lớn bẽn lẽn:- Dạ, con xin nói thêm về khởi nghĩa đó. - ỦA, CÔ CÓ THAM GIA HẢ? - Dạ, ông nội con.- Dà, sao cô biết?- Dạ...Cô gái miết tay lên cạnh bàn có vẻ bối rối. Có nhiều người ngồi quanh đây cô không quen.- Dạ, ông nội con kể, ông nội con là ông Hai Tương. Nội con còn viết tuồng Sử hận nữa, mấy chú có nghe hát tuồng đó chưa?- Ờ BÁC HAI TƯƠNG TÔI THƯƠNG LẮM GHEN. ¤NG KỂ CHUYỆN MÊ LY MÀ chính xác lắm. Còn tuồng thì nghe nói thôi, thiệt thì chưa. - Con hát nghen?- Thôi đừng hát, kể sử đi.- Dạ thưa ông bác Ba, ông bác Chín, thưa mấy chú, con nói hơi dài được không?Ông chủ tọa coi đồng hồ cười:- Bây giờ cũng còn sớm. Chuyện của cô dài cỡ bao nhiêu? Cô mà kể hay, tới chiều tôi cũng nghe.- Dạ - cô đằng hắng - Thầy được Ðảng phân công về xóm Rạch năm một ngàn...Ðó là câu chuyện của cô, của ông nội cô, của những người xóm Rạch. Họ kể chuyện đó bao nhiêu lần rồi? Các nhà viết sử nghe bao nhiêu lần rồi? Nhiều lắm, nhiều không kể được. Cô gái nói lời của ba cô năm trước, nói lời của ông nội cô năm trước, năm trước nữa. Cô nói lời của lịch sử. Mà lịch sử là thứ không thay đổi. Nhưng trong lời của cô có cái nhiệt tình tuổi trẻ, trong mắt cô có mầu đen sẫm của vốc đất bãi bùn, và cô dựng xương thịt cho cuộc khởi nghĩa bằng nét mềm mại của người con gái nên câu chuyện của cô rất sâu sắc và thu hút người khác.- Mấy chú coi con kể có sai chỗ nào không?- À, KHÔNG, HAY LẮM, RẤT HAY. CÔ HỌC TỚI LỚP MẤY?- Dạ, lớp 9, xã con dạy tới bao nhiêu đó thôi.- Cô tên gì nhỉ? - Dạ Tươi. Ông nội con tên Tương, ba con là Lai, hai chị em con là Tươi, Sáng. - Tên cũng hay lắm. Tươi có biết thầy không? - Biết. Con thương thầy như nội con vậy.- Tôi ngạc nhiên đó. Cuộc khởi nghĩa với cô cực kỳ mơ hồ vậy mà cô nói chuyện như thể đã từng sống với thầy vậy. Thầy rất đẹp phải không?- Dạ, bà nội con nói thầy đẹp trai lắm. Con trai xóm Rạch bây giờ không ai bằng. Thầy là đàn ông mà thầy còn biết thêu.- Thêu à? Ôi chuyện đó tôi chưa nghe nói bao giờ, mấy chú có nghe không?- Không.- Có.- Ờ HÌNH NHƯ CÓ.- Tôi gặp ông nội cô ba lần, chưa lần nào ổng kể tôi nghe. Tại sao cô biết?- Bà nội con kể. Bà nội con là đàn bà nên mới nhớ lâu chuyện đó. Bà nội con đã có lần thêu chung áo gối với thầy.- Chung à? Thêu gì?- Uyên ương. Chú có coi Tô ánh Nguyệt không? Trong đó có hát vầy nè: "Uyên ương có bạn có đôi...", cái áo gối đó tới giờ bà nội con vẫn còn giữ, nó hơi cũ. Nhưng ông nội con nói tội nghiệp bà nội bây, uyên ương gãy cánh giữa trời dông...- Cháu làm chúng tôi xúc động đây. Thôi cháu kể sử tiếp. Tới đoạn đêm khởi nghĩa. - Dạ nội con nói sau khi giết xong chúa đảo (đêm đó trăng sáng như ban ngày), bắt hai má con cô Ðầm xuống bãi, thầy biểu mấy chú, à không mấy ông chú giữ đèn hải đăng cho nó đừng tắt. Và khi chiếc tàu chạy vào xóm Rạch rồi, ngọn hải đăng vẫn với nhìn theo cháy hoài, cháy hoài, cháy hoài...
Mục lục
Ngọn đèn không tắt
Ngọn đèn không tắt
Nguyễn Ngọc TưChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.
Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: sad-riverĐược bạn: Thành Viên VNthuquan đưa lên vào ngày: 27 tháng 12 năm 2003
|
Trần Thị Hồng Hạnh
NGỘ
Người xung quanh thường gọi đó là ngôi chùa. Người có chữ đặt tên nó là Tĩnh Tâm tự, người bình dân kêu là chùa trường học vì nó tọa lạc gần trường tiểu học. Tôi đến chơi, thấy ngôi chùa không giống chùa lắm. ( Tự cười mình kỳ cục: Nó đâu phải là chùa mà đòi hỏi nó giống chùa ). Người trụ trì vừa giống người xuất gia vừa giống người tại thế. Ông không mặc áo cà sa nhưng áo sơ mi lại có màu vàng cà sa. Có điều, màu vàng tươi hơn, chói chang hơn. Người xung quanh gọi ông là thầy-tu-tại-gia. Tôi cũng sẽ gọi ông chủ của nơi này là thầy thôi, cho gọn. Nhưng sẽ gọi cái nhà không phải nhà, chùa không phải chùa là gì nhỉ? Tạm gọi là nơi-đặc-biệt. Nơi-đặc-biệt nằm không bình yên bên một đường ray xe lửa. Xe lửa chạy băng ngang khu dân cư, băng ngang cả nơi-đặc-biệt nhỏ xíu - như bao nhiêu ngôi nhà phố hẹp bề ngang và ngắn chiều dài. Nơi-đặc-biệt này đâu lưng với trường tiểu học. Nhân thể, thầy liền trổ một cửa nhỏ, để cô giáo và học trò có thể chạy qua chơi nếu thích và đứa nào chưa có gia đình đến đón kịp thì có thể ngồi tạm ở nơi-đặc-biệt chờ được đón về. Thầy trạc ngũ tuần. Mặt nhìn không thể gọi là hiền, nhưng đôi mắt và ánh mắt thì nhân hậu đến không thể nhân hậu hơn. Tựa hồ như người ta gắn mắt nai vào mặt hổ vậy. Nơi-đặc-biệt vốn là một căn nhà. Buổi sáng, thầy cho mấy bà bán xôi ngồi bán. Trường nhỏ, nghèo, các cô giáo cũng nghèo nên hay ăn xôi. Mấy bà bán xôi ở đây chắc cũng không giàu, nên cũng không thèm tom góp làm giàu chi nhiều. Thành thử mấy gói xôi cho các cô giáo với mấy đứa học trò nhỏ cũng nhiều hơn lệ thường chút xíu. Thấy cho mấy bà bán xôi bán buổi sáng, đúng một tiếng đồng hồ. Buổi tối thầy lại cho lớp học tình thương ở phường mượn chỗ để dạy chữ cho mấy đứa nhỏ lang thang. Có bữa, tượng Phật thầy thỉnh về bị nguệch ngoạc những chữ cái a, b, c tùm lum.. Thầy không phiền trách gì. Chỉ cười cười, chắc bụng thầy thấy vui lắm nên miệng cứ nở hoa. - Thầy cười nhìn hiền quá, phải tao lớn cỡ thầy, tao " cua " thầy liền. - Thôi đi bà nội, người ta tu hành. - Tu gì mà tu, thầy ăn thịt chó không thấy hả? - Ai nói? - Tao nghe bà Tư nói. - Bà Tư hả? Tin bả thì bán lúa non, lúa giống, bán luôn đậu phộng mới mua về chưa kịp rang. - Thôi, dẹp mày, đừng lôi nghề nghiệp của tao ra châm chọc chứ... Thầy có cái máy ghi âm, loại xịn đàng hoàng, nhỏ xíu như cái hộp quẹt, thầy gắn ở một góc đặc biệt trong nơi-đặc-biệt. Thầy đi vắng ban ngày, thầy cũng cài nó ở đó. Thầy đi vắng ban dêm, thầy cũng cài nó ở đó. Thầy ở lại nhà, thầy cài nó ngoài cửa, để nó thu hết những tiếng động bên ngoài, sáng sáng, thầy lại mở nó lên nghe. Tối tối về, thầy lại mở cái hộp quẹt lên nge. Tự nhiên thấy yêu đời quá đỗi. Nhất là mấy đoạn đối thoại như trên. Có bữa, thầy nghe chuyện khác, buồn hơn nhưng thấy ấm lòng lắm. - Má tao bệnh. - Bệnh gì? - Tao sao mà biết? - Sao mày nói chuyện tỉnh bơ vậy? - Chứ sao? - Thôi, đi ngủ. - Ngủ trước đi ! - Mày còn làm gì nữa? - Làm công chuyện. - Chuyện gì? Tắt đèn, tao ngủ. - Bữa nay thầy cho ngủ nhờ, mai biết thầy cho nữa không? Tụi mình không có hộ khẩu, hộ khiếc gì, công an bắt chết. - Mai đi kiếm chỗ khác, rủi công an bắt thì lại xui xẻo cho thầy. - Có khi nào thầy xấu, tính...tụi mình... - Mày đừng có khùng, chơi gái có nhiêu tiền. - Thầy giàu lắm. - Thôi, đi ngủ. - Không, tao đang làm. - Làm gì mậy? - Hồi chiều tao mới nói chị Hải cho tao cắt dán giấy vàng bạc thêm, cũng được mấy ngàn một trăm xấp chứ bỏ à. - Có mấy ngàn, cực chết, ngủ đi, mai đi bán nữa. - Má tao bệnh mà mậy. - Ừ, tao quên, thôi dể tao thức phụ mày. Những mẩu đối thoại như vậy làm thầy khó ngủ. Thầy lại lặng lẽ làm rớt tiền ở dọc đường con nhỏ đi bán đậu phộng rang, làm rớt ít tiền thôi, hai,ba,bốn,năm ngàn gì dó, canh vừa đúng lúc nó tới, canh vừa đủ cho nó thấy tiền. Một nghệ thuật chứ chẳng chơi. Con nhỏ lụm tiền, nhìn dáo dác. Rồi cười cười. Thầy cũng cười. Chùa chẳng phải chùa, nhà chẳng phải nhà -nơi-đặc-biệt nằm men đường ray. Có người thích...lên đường ray, - có lúc nơi-đặc-biệt của thầy nhận mùi hương gây...bệnh đường hô hấp. Thầy xắn tay áo, dọn dẹp, đốt thêm cái lư hương và nhang trầm ở đó. Mấy lần sau, không thấy mùi hương quen thuộc nữa. Thầy tủm tỉm cười một mình. Nơi-đặc-biệt của thầy gần khu công nghiệp nhiều công nhân nam nữ, tan ca dập dìu. Có hôm, giữa giờ đổi ca, thầy thấy anh chàng và cô nàng tỏ tình thương mến thương trên đường ray, thầy từ tốn: " Nè con, vô nhà mà ngồi, đường ray nguy hiểm, đang hôn mà xe lửa tới, chạy không có kịp ", hai bạn trẻ bẽn lẽn, kéo nhau vô ghế đá. Thầy vào trong, chút nữa quay ra, thấy hai bạn trẻ... Thầy cười. Tối đó, thầy bật máy ghi âm lên. - Cho hun miếng. -... - Ông thầy này lạ quá. - Cái màu áo vàng quá, chói quá. - Giống màu của ông quản đốc. - Vậy càng dễ thấy chứ sao. -... - Giận hả? -... - Mà ông này là thầy tu hả? - Chắc phải, mà chắc hổng phải...mà phải... - Tu sao không mặc áo cà sa? - Sao cái nà này giống cái chùa mà lại không phải cái chùa? - Sao ổng kêu mình bằng con? - Dám sư giả? - Không giống giả. - Cũng không giống thật. - Thôi kệ, miễn là ổng cho mình ngồi đây được rồi. - Cho hun miếng. -... Không phải nhà, chẳng phải chùa. Nằm chênh vênh bên đường ray xe lửa. Xe lửa đi ngang, gần vào ga, kéo còi dài. Mới đầu nghe thấy khó chịu, sau thấy quen, thấy thương. Có lần, thầy ra đứng ngắm đoàn tàu băng ngang. Mỗi ô tàu đều có những đôi mắt nhìn ra. Mắt đen, mắt xanh. Tóc nâu, tóc vàng. Thầy thấy toa chở hàng cuối cùng có vẻ nhẹ hơn cả. Toa đầu phơi phới. Những toa giữa chỉ chở người thôi nhưng có vẻ nặng nề lắm và tỏa ra một bầu không khí pha trộn: vui vẻ, mong chờ, khao khát, bất bình, bực dọc, thương nhớ, căm hờn, phá phách, phẫn uất... Chừng ấy con người, chừng ấy tâm trạng. Thầy nhìn đoàn tàu vượt qua. Có hôm, thầy bất giác vẫy tay khi đoàn tàu sắp đến. Bốn hôm sau, thầy đứng trước nhà, đoàn xe lửa chạy ngang, có chiếc nón vẫy chào từ toa đầu tiên, có thêm tiếng còi tàu rúc nhẹ. Thầy chẳng kịp thấy mặt ai. Hôm sau thầy ra chờ, không thấy. Đến hôm thứ tư lần nữa, lại có chiếc nón vẫy chào, lại có tiếng còi rúc nhẹ, thầy vẫy lại. Thành lệ, cứ bốn ngày một lần, thầy lại vẫy tay chào, chiếc nón đỏ lại vẫy chào thầy, tiếng còi tàu rúc nhẹ, êm êm. Nhà không phải nhà, chùa không phải chùa. Vẫn có chỗ đợi miễn phí an toàn cho trẻ chưa được mẹ đến đón kịp lúc. Vẫn có lớp học tình thương. Vẫn có chỗ bán xôi. Vẫn có chỗ ngủ miễn phí cho ai cần thiết thực sự. Vẫn có chỗ tâm tình êm đềm. Vẫn... Có mùa xuân, có nắng, có hoa, có... Tôi đi lang thang. Và, đọc được một bài haiku vô tình ai đánh rơi trên đường: Chùa chẳng phải chùa - nhà Nằm chênh vênh bên đường ray - phố Còi rúc, bàn tay - vẫy.Đôi điều về Tác Giả: Cây bút trẻ Trần Thị Hồng Hạnh quê ở Sóc Trăng, snh năm 1978, được bạn đọc biết đến sau khi đoạt giải nhất cuộc thi Văn Học tuổi hai mươi ( 2005) với tác phẩm Bài Học Đầu Tiên. NGỘ là truyện ngắn mới nhất của Hạnh cộng tác với PNCN.Truyện ngắn của Trần Thị Hồng HạnhNguồn từ : Phụ Nữ Chủ Nhật ( 26/2/2006)
Mục lục
NGỘ
NGỘ
Trần Thị Hồng HạnhChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.
Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.Đánh máy : Bhang Nguồn: Phụ Nữ Chủ NhậtĐược bạn: NHDT đưa lên vào ngày: 7 tháng 3 năm 2006
|
Trần Thị Hồng Hạnh
NGỘ
Người xung quanh thường gọi đó là ngôi chùa. Người có chữ đặt tên nó là Tĩnh Tâm tự, người bình dân kêu là chùa trường học vì nó tọa lạc gần trường tiểu học. Tôi đến chơi, thấy ngôi chùa không giống chùa lắm. ( Tự cười mình kỳ cục: Nó đâu phải là chùa mà đòi hỏi nó giống chùa ). Người trụ trì vừa giống người xuất gia vừa giống người tại thế. Ông không mặc áo cà sa nhưng áo sơ mi lại có màu vàng cà sa. Có điều, màu vàng tươi hơn, chói chang hơn. Người xung quanh gọi ông là thầy-tu-tại-gia. Tôi cũng sẽ gọi ông chủ của nơi này là thầy thôi, cho gọn. Nhưng sẽ gọi cái nhà không phải nhà, chùa không phải chùa là gì nhỉ? Tạm gọi là nơi-đặc-biệt. Nơi-đặc-biệt nằm không bình yên bên một đường ray xe lửa. Xe lửa chạy băng ngang khu dân cư, băng ngang cả nơi-đặc-biệt nhỏ xíu - như bao nhiêu ngôi nhà phố hẹp bề ngang và ngắn chiều dài. Nơi-đặc-biệt này đâu lưng với trường tiểu học. Nhân thể, thầy liền trổ một cửa nhỏ, để cô giáo và học trò có thể chạy qua chơi nếu thích và đứa nào chưa có gia đình đến đón kịp thì có thể ngồi tạm ở nơi-đặc-biệt chờ được đón về. Thầy trạc ngũ tuần. Mặt nhìn không thể gọi là hiền, nhưng đôi mắt và ánh mắt thì nhân hậu đến không thể nhân hậu hơn. Tựa hồ như người ta gắn mắt nai vào mặt hổ vậy. Nơi-đặc-biệt vốn là một căn nhà. Buổi sáng, thầy cho mấy bà bán xôi ngồi bán. Trường nhỏ, nghèo, các cô giáo cũng nghèo nên hay ăn xôi. Mấy bà bán xôi ở đây chắc cũng không giàu, nên cũng không thèm tom góp làm giàu chi nhiều. Thành thử mấy gói xôi cho các cô giáo với mấy đứa học trò nhỏ cũng nhiều hơn lệ thường chút xíu. Thấy cho mấy bà bán xôi bán buổi sáng, đúng một tiếng đồng hồ. Buổi tối thầy lại cho lớp học tình thương ở phường mượn chỗ để dạy chữ cho mấy đứa nhỏ lang thang. Có bữa, tượng Phật thầy thỉnh về bị nguệch ngoạc những chữ cái a, b, c tùm lum.. Thầy không phiền trách gì. Chỉ cười cười, chắc bụng thầy thấy vui lắm nên miệng cứ nở hoa. - Thầy cười nhìn hiền quá, phải tao lớn cỡ thầy, tao " cua " thầy liền. - Thôi đi bà nội, người ta tu hành. - Tu gì mà tu, thầy ăn thịt chó không thấy hả? - Ai nói? - Tao nghe bà Tư nói. - Bà Tư hả? Tin bả thì bán lúa non, lúa giống, bán luôn đậu phộng mới mua về chưa kịp rang. - Thôi, dẹp mày, đừng lôi nghề nghiệp của tao ra châm chọc chứ... Thầy có cái máy ghi âm, loại xịn đàng hoàng, nhỏ xíu như cái hộp quẹt, thầy gắn ở một góc đặc biệt trong nơi-đặc-biệt. Thầy đi vắng ban ngày, thầy cũng cài nó ở đó. Thầy đi vắng ban dêm, thầy cũng cài nó ở đó. Thầy ở lại nhà, thầy cài nó ngoài cửa, để nó thu hết những tiếng động bên ngoài, sáng sáng, thầy lại mở nó lên nghe. Tối tối về, thầy lại mở cái hộp quẹt lên nge. Tự nhiên thấy yêu đời quá đỗi. Nhất là mấy đoạn đối thoại như trên. Có bữa, thầy nghe chuyện khác, buồn hơn nhưng thấy ấm lòng lắm. - Má tao bệnh. - Bệnh gì? - Tao sao mà biết? - Sao mày nói chuyện tỉnh bơ vậy? - Chứ sao? - Thôi, đi ngủ. - Ngủ trước đi ! - Mày còn làm gì nữa? - Làm công chuyện. - Chuyện gì? Tắt đèn, tao ngủ. - Bữa nay thầy cho ngủ nhờ, mai biết thầy cho nữa không? Tụi mình không có hộ khẩu, hộ khiếc gì, công an bắt chết. - Mai đi kiếm chỗ khác, rủi công an bắt thì lại xui xẻo cho thầy. - Có khi nào thầy xấu, tính...tụi mình... - Mày đừng có khùng, chơi gái có nhiêu tiền. - Thầy giàu lắm. - Thôi, đi ngủ. - Không, tao đang làm. - Làm gì mậy? - Hồi chiều tao mới nói chị Hải cho tao cắt dán giấy vàng bạc thêm, cũng được mấy ngàn một trăm xấp chứ bỏ à. - Có mấy ngàn, cực chết, ngủ đi, mai đi bán nữa. - Má tao bệnh mà mậy. - Ừ, tao quên, thôi dể tao thức phụ mày. Những mẩu đối thoại như vậy làm thầy khó ngủ. Thầy lại lặng lẽ làm rớt tiền ở dọc đường con nhỏ đi bán đậu phộng rang, làm rớt ít tiền thôi, hai,ba,bốn,năm ngàn gì dó, canh vừa đúng lúc nó tới, canh vừa đủ cho nó thấy tiền. Một nghệ thuật chứ chẳng chơi. Con nhỏ lụm tiền, nhìn dáo dác. Rồi cười cười. Thầy cũng cười. Chùa chẳng phải chùa, nhà chẳng phải nhà -nơi-đặc-biệt nằm men đường ray. Có người thích...lên đường ray, - có lúc nơi-đặc-biệt của thầy nhận mùi hương gây...bệnh đường hô hấp. Thầy xắn tay áo, dọn dẹp, đốt thêm cái lư hương và nhang trầm ở đó. Mấy lần sau, không thấy mùi hương quen thuộc nữa. Thầy tủm tỉm cười một mình. Nơi-đặc-biệt của thầy gần khu công nghiệp nhiều công nhân nam nữ, tan ca dập dìu. Có hôm, giữa giờ đổi ca, thầy thấy anh chàng và cô nàng tỏ tình thương mến thương trên đường ray, thầy từ tốn: " Nè con, vô nhà mà ngồi, đường ray nguy hiểm, đang hôn mà xe lửa tới, chạy không có kịp ", hai bạn trẻ bẽn lẽn, kéo nhau vô ghế đá. Thầy vào trong, chút nữa quay ra, thấy hai bạn trẻ... Thầy cười. Tối đó, thầy bật máy ghi âm lên. - Cho hun miếng. -... - Ông thầy này lạ quá. - Cái màu áo vàng quá, chói quá. - Giống màu của ông quản đốc. - Vậy càng dễ thấy chứ sao. -... - Giận hả? -... - Mà ông này là thầy tu hả? - Chắc phải, mà chắc hổng phải...mà phải... - Tu sao không mặc áo cà sa? - Sao cái nà này giống cái chùa mà lại không phải cái chùa? - Sao ổng kêu mình bằng con? - Dám sư giả? - Không giống giả. - Cũng không giống thật. - Thôi kệ, miễn là ổng cho mình ngồi đây được rồi. - Cho hun miếng. -... Không phải nhà, chẳng phải chùa. Nằm chênh vênh bên đường ray xe lửa. Xe lửa đi ngang, gần vào ga, kéo còi dài. Mới đầu nghe thấy khó chịu, sau thấy quen, thấy thương. Có lần, thầy ra đứng ngắm đoàn tàu băng ngang. Mỗi ô tàu đều có những đôi mắt nhìn ra. Mắt đen, mắt xanh. Tóc nâu, tóc vàng. Thầy thấy toa chở hàng cuối cùng có vẻ nhẹ hơn cả. Toa đầu phơi phới. Những toa giữa chỉ chở người thôi nhưng có vẻ nặng nề lắm và tỏa ra một bầu không khí pha trộn: vui vẻ, mong chờ, khao khát, bất bình, bực dọc, thương nhớ, căm hờn, phá phách, phẫn uất... Chừng ấy con người, chừng ấy tâm trạng. Thầy nhìn đoàn tàu vượt qua. Có hôm, thầy bất giác vẫy tay khi đoàn tàu sắp đến. Bốn hôm sau, thầy đứng trước nhà, đoàn xe lửa chạy ngang, có chiếc nón vẫy chào từ toa đầu tiên, có thêm tiếng còi tàu rúc nhẹ. Thầy chẳng kịp thấy mặt ai. Hôm sau thầy ra chờ, không thấy. Đến hôm thứ tư lần nữa, lại có chiếc nón vẫy chào, lại có tiếng còi rúc nhẹ, thầy vẫy lại. Thành lệ, cứ bốn ngày một lần, thầy lại vẫy tay chào, chiếc nón đỏ lại vẫy chào thầy, tiếng còi tàu rúc nhẹ, êm êm. Nhà không phải nhà, chùa không phải chùa. Vẫn có chỗ đợi miễn phí an toàn cho trẻ chưa được mẹ đến đón kịp lúc. Vẫn có lớp học tình thương. Vẫn có chỗ bán xôi. Vẫn có chỗ ngủ miễn phí cho ai cần thiết thực sự. Vẫn có chỗ tâm tình êm đềm. Vẫn... Có mùa xuân, có nắng, có hoa, có... Tôi đi lang thang. Và, đọc được một bài haiku vô tình ai đánh rơi trên đường: Chùa chẳng phải chùa - nhà Nằm chênh vênh bên đường ray - phố Còi rúc, bàn tay - vẫy.Đôi điều về Tác Giả: Cây bút trẻ Trần Thị Hồng Hạnh quê ở Sóc Trăng, snh năm 1978, được bạn đọc biết đến sau khi đoạt giải nhất cuộc thi Văn Học tuổi hai mươi ( 2005) với tác phẩm Bài Học Đầu Tiên. NGỘ là truyện ngắn mới nhất của Hạnh cộng tác với PNCN.Truyện ngắn của Trần Thị Hồng HạnhNguồn từ : Phụ Nữ Chủ Nhật ( 26/2/2006)
Mục lục
NGỘ
NGỘ
Trần Thị Hồng HạnhChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.
Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.Đánh máy : Bhang Nguồn: Phụ Nữ Chủ NhậtĐược bạn: NHDT đưa lên vào ngày: 7 tháng 3 năm 2006
|
Hà Mỹ
Ngộ Nhận
Cuộc sống của tôi là những chuỗi ngày lầm lẫn.. Và một trong những lầm lẫn lớn nhất của tôi là sự ngộ nhận về tình yêu. Điều này quả là quá cay đắng với tôi, khiến cho tôi khi mới biết yêu, thì đã sớm nếm ngay vị đắng của nó. Người ta - hay chính tôi - đã cho tôi nếm một cách "nhiệt tình". Tôi cứ ngỡ rằng tình cảm mà anh dành cho tôi là "tình yêu". Những cử chỉ ân cần, lời lẽ nhẹ nhàng của anh đã đưa tôi vào giấc mộng êm ái. Tôi yêu anh bằng tất cả sự cuồng nhiệt của trái tim mình, tôi tôn sùng anh, tôi... phải nói thế nào đây nhỉ, nói thế nào để diễn tả tình cảm của tôi dành cho anh đây, tôi không biết phải gọi tên nó là cái gì cho đúng nữa? Tình yêu ư? - Tôi không biết - Nhưng có lẽ vậy. Lúc gần anh tôi cảm thấy mình là một sinh vật bé nhỏ, muốn được chở che - và anh đã làm nhiệm vụ đó một cách xuất sắc. Tôi - một đứa con gái rất ngỗ nghịch, ngang bướng, luôn thích cắt tóc giống con trai...Vậy mà trước anh, tôi lại răm rắp tuân theo những gì anh bảo. Trước anh, tôi thấy mình dịu dàng như "chưa từng có". Anh bảo tôi không được ngang bướng - tôi chỉ cười không cải lại, bảo để tóc dài - tôi để tóc dài. Và khi nóng quá, tôi cắt bớt đi, tôi lại thấy mình buồn, tại sao vậy? Tại sao anh luôn là người điều khiển mà tôi chỉ là con Robot biết tí chút suy nghĩ? Tôi thích nghĩ về anh lúc một mình (dạo này mấy đứa bạn thường bảo tôi "Sao mày mơ mộng thế?"), tôi hay ký tên anh đầy lên vở - hình ảnh anh lúc nào cũng khắc sâu trong tôi, trong từng tế bào tôi có tên anh, ánh mắt anh, nụ cười anh. Ôi! Tôi yêu anh biết dường nào! Tôi muốn kể với bạn bè về anh - nhưng tôi lại sợ chúng chiếm mất niềm vui đó của tôi, chẳng bao gờ tôi muốn chúng chia xẻ với tôi những gì thuộc về anh. Chiều nay tôi lại lang thang với Huế để nhớ anh, không biết giờ này anh đang làm gì, học bài... đàn... và có nhớ đến tôi không?... Tấp vào quán cà phê quen thuộc mà cả anh và tôi rất thích, mỗi lần vào đây anh thường buông mình xuống ghế thở khoan khoái: "Nhóc ạ, khoảng trời riêng của anh là đây". Nghĩ đến đó tôi chợt cười, nhớ anh ghê! Anh rất thích cà phê, tôi cũng tập uống, biết vậy anh thường mắng: "Ngốc ạ, cà phê có hại lắm, em chỉ nên uống nước chanh thôi, vì đó là ly nước "tình yêu". Sau này có người yêu em sẽ hiểu". Tôi như nghe mình giận dỗi. Đang ngồi nhấm nháp ttừng ngụm nước chanh, tôi bỗng nghe giọng nói quen thuộc: "Ngốc ạ, em chỉ được uống nước chanh thôi, vì đó là ly nước "tình yêu". Tiếng cô gái cười khúc khích "Anh xạo ghê". Thôi điếng người, đúng là anh rồi! Tôi làm sao lầm lẫn được cái giọng nói miền Nam ấm áp thân quen của anh. Tôi muốn mình tan biến đi, cả anh và cô gái kia cũng tan biến đi. Tôi muốn chạy khỏi quán nước quái quỉ này, nhưng lại muốn đứng lại, đúng vậy, tôi cần phải chào anh để xem anh sẽ phản ứng như thế nào, chắc là sẽ tái mặt lắp bắp xin lỗi tôi, rồi tôi sẽ cười và bỏ đi. Nhưng sự việc đã không diễn ra như tôi nghỉ, tôi đến bàn anh chào: "Hello, sư phụ xấu nha, đi mánh lẻ!" Mặt cô gái đỏ ửng, ngượng ngùng - cho đáng đời, tôi nghĩ bụng, để chờ xem anh ta diễn trò gì nữa. Nhưng thật không ngờ anh rất vui vẻ kéo tôi ngồi xuống. "Ngồi đi Ly ạ, dể anh giới thiệu: Đây là Tiểu Ly, em gái anh. Còn đây là Thảo Nguyên...bạn gái của anh!". "Em gái...?". Nghe sao thân thiết đến lạnh lùng. Vậy tôi chỉ là em gái thôi sao? Tôi có muốn làm em gái anh bao giờ đâu? Những mảnh vỡ trong tôi như có dịp nát ra thành những hạt bụi, nhẹ nhàng bay...như tình cảm của anh đối với tôi vậy, cũng nhẹ nhàng bay...Sau vài câu xã giao cần thiết với lý do trả lại "tự do cho hai người"... Lên xe rồi những giọt nước mắt của tôi đua nhau tuôn ra. Ừ ít ra chúng mày cũng có tí chút ý thức đã không tuôn ra trước mặt anh - có đâu như tao phải không? Lòng tôi tê tái, muốn đập phá một cái gì cho đỡ đau, nhưng chẳng có gì. Giá như chiều nay tôi đứng lang thang với Huế. Giá như chiều nay tôi đứng nhớ anh bất tử... Ôi! Có bao nhiêu cái giá như và nếu có thể... thì giá như tôi đừng yêu anh mà hãy là một cô em gái... ngoan ngoãn và đáng yêu.
hết
Mục lục
Ngộ Nhận
Ngộ Nhận
Hà MỹChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.
Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: VietfunĐược bạn: Ct.Ly đưa lên vào ngày: 25 tháng 10 năm 2008
|
Ha My
Misconception
My life is a series of mistakes... And one of my biggest mistakes is my misunderstanding about love. This was so bitter to me that when I first learned to love, I immediately tasted its bitterness. People - or me - gave it to me "enthusiastically". I thought that the feelings he had for me were "love". His kind gestures and gentle words lulled me into a peaceful dream. I love you with all the fervor of my heart, I adore you, I... how should I say it, how can I express my feelings for you, I don't know what to say. What is its correct name? Love? - I don't know - But maybe so. When I was near him I felt like a small creature, wanting to be protected - and he did that task excellently. I - a very disobedient, stubborn girl, always like to cut my hair like a boy... Yet before you, I always followed what you told me. Before you, I feel gentle like "never before". He told me not to be stubborn - I just laughed without arguing, told me to let my hair grow long - I kept my hair long. And when it's too hot, I cut it down, and I feel sad, why? Why are you always the one in control and I'm just a robot that can think a little? I like to think about him when I'm alone (recently, my friends often tell me "Why are you so daydreaming?"), I often sign his name in notebooks - his image is always engraved in me, in every detail. I have your name, your eyes, your smile. Oh! How I love you! I want to tell my friends about you - but I'm afraid they will take away my joy, I never want them to share with me what belongs to you. This afternoon I wandered around Hue again to miss him. I didn't know what he was doing right now, taking lessons... piano... and did he miss me?... I stopped by a familiar coffee shop that he also loved. And I really like it. Every time he comes here, he often drops himself into the chair and breathes comfortably: "Kid, this is my private space." Thinking about that, I suddenly smiled, I miss you so much! He really likes coffee, I also learned to drink it. Knowing that, he often scolded me: "Idiot, coffee is very harmful, you should only drink lemonade, because it is a glass of "love" water. Someday you will have a lover. I will understand". I felt like I was angry. While sitting and sipping sips of lemonade, I suddenly heard a familiar voice: "Idiot, you can only drink lemonade, because it's a glass of "love" water. The girl giggled, "You're lying." . Stop being dumbfounded, it's you! How can I mistake your familiar warm Southern voice? I want to disappear, both you and that girl. I want to run away This weird bar, but I want to stop, yes, I need to say hello to him to see how he will react, he will probably turn pale and stammer out an apology, then I will laugh and leave Things didn't go as I thought, so I went to his table and greeted: "Hello, bad master, sneak out!" The girl's face was red and embarrassed - it was worth it, I thought, to wait and see What are we going to do? But unexpectedly, he happily pulled me down to sit down. "Sit down, Ly, so I can introduce you: This is Tieu Ly, my sister. And this is Thao Nguyen...my girlfriend!". "Sister...?". Sounds so close and cold. So I'm just your sister? Do I ever want to be your sister? Where are the broken pieces in me like they have a chance to crumble into dust particles, gently flying...like your feelings for me, also gently flying...After a few necessary social sentences with a reason. Give back "freedom to you two"... When I got in the car, my tears flowed out. Yes, at least you guys had a little bit of awareness and didn't pour out in front of me - not like I should No? My heart is numb, I want to break something to ease the pain, but there's nothing. If only I stood around with Hue this afternoon... Oh! There are many ifs and ifs and if possible... if only I didn't love you but was a little sister... obedient and lovely.
run out of
Table of contents
Misconception
Misconception
Ha MyWelcome to read books from the book project for mobile devices. Source: author: Nguyen Kim Vy.
Final words: Thank you for reading the entire story. Source: editor: Nguyen Kim Vy. Source: Vietfun Posted by friend: Ct.Ly on: October 25, 2008
|
Tô Hoài
Ngủ bụi
Đọc cái phóng sự ngắn trên báo Công an Nhân dân tháng 5 năm 1999 mà cứ thấy mỗi chữ một rợn. Hay là vì lâu nay đêm hôm không mấy khi tôi ra đường nên mới sinh ra cái sợ thế.Bài báo cho biết rằng bây giờ tối đến, ở ngoài phố có năm loại người ngủ đường ngủ chợ, thường thấy ở các phố, ở đầu ô và trên mặt đê nhiều nhất. Những nơi trú ngụ ma biến không nhà cửa phần nhiều ở quanh chân cầu, gầm cầu và giữa bãi cỏ, chỗ khuất gió. Đủ thứ lều bạt, cọc, dây căng, dựng lên, sáng ra lại rỡ đi từ lúc chưa tường mặt người. Hạng sang có màn, chiếu hoặc giường gấp giá thuê cao nhất đến bốn nghìn. Tuy vậy hạng nào cũng chỉ như nhau, khách tự do “ba xoa, hai đập” - nghĩa là ngồi đập chân mấy cái rồi lăn ra ngủ và sáng ra đưa tay lên xoa mặt, như con mèo giơ chân rủa mặt khan.Có hai loại ngủ đường nay đây mai đó, mà số phận mỗi đêm cứ may rủi không như nhau, một cái màn tã, buộc hai múi dây vào mép cửa sắt nhà nào đấy. Sáng sớm, chủ nhà mở khoá trong - có khi chủ nhà ở đâu đến, mở khoá ngoài thấy người lục đục trong màn, thế là đuổi đánh túi bụi. Nhưng cũng có khi gặp vận đỏ, người ta mở cửa lại giúi cho năm trăm một nghìn “công canh cửa đêm hôm”. Lãi quá. Còn ngủ xó tường, những người bạ đâu nằm đấy, chẳng bận đến ai, mặc mưa mặc rét, thì chớ thấy ở đầu ô Kim Mã có một nhà trọ hẳn hoi, nhưng mà loại này lộn xộn yêu tinh nhất. Khách có đấy là mấy chục đàn ông, đàn bà ngủ chung. Hai hàng chiếu trải dọc nhà, hai ngọn đèn trên trần sáng suốt đêm. Mọi người nằm úp thìa, đầu đàn ông đầu đàn bà chổng ngược nhau, chân hai bên thò ra mép chiếu đằng kia.Cũng theo bài báo viết, mỗi ngày bây giờ có chừng hai ba trăm nghìn người lang thang các nơi vào thành phố kiếm ăn. Như vậy, cũng độ ngần ấy người ăn ngủ quờ quạng trong bóng đêm ma quái ấy. Lão ấy tò mò đến các quán trọ đầu ô Kim Mã. Thành phố vừa lên đèn, lão lò dò đi. Cái nhà trọ đàn ông và đàn bà nằm chổng đầu vào nhau ở đầu ô hỏi một cái người ta chỉ cho ngay.Mới chặp tối chưa mấy người về, lão chưa trông thấy cái cảnh nằm ngổn ngang xuôi ngược như trong bài báo đã viết. Nhưng hai hàng chiếu đã trải, và trong ánh đèn điện lù mù muỗi bâu đã có những người trông nhá nhem chẳng biết đàn ông hay đàn bà, từng bọn ngồi thì thào rì rầm. Một người đàn ông cởi trần ngồi ngay ngoài, cửa. Hắn gầy móp, hai cánh tay như hai ống sậy. Nhưng tiếng hắn quát rất to:- Thằng già kia, đi đâu?- Tôi.., tôi...- Chích.., choác... hả? Có muốn chết không? Cút ngayHắn xô đến, đẩy hắt lão ra cửa.Năm trước, tôi có dịp đến thành phố Quảng Châu. Quảng Châu có sáu triệu dân, đông hơn Hà Nội nhiều, cũng là thành phố đương phát triển. Cũng tương tự Hà Nội, số người đến thành phố tìm việc nhiều nhất là người lao động ở quanh vùng các làng quê ra. Thế mà trên đường không thấy đâu có chợ người như ở các đầu ô thành phố ta.Tôi hỏi:- Quảng Châu giải quyết vấn đề người trong làng ra thành phố tìm việc thế nào?Trả lời:- Chúng tôi có kế hoạch về làng lấy người. Tất nhiên có đủ loại người, loại việc phức tạp, việc tự do ra thành phố.Tôi đã trông thấy thế và nghe nói thế ở Quảng Châu, xin kể lại.Nguồn: Cái áo tế (Tạp văn, truyện ngắn Tô Hoài, nhà xuất bản Hội Nhà văn 2004)(Tạp văn, truyện ngắn Tô Hoài, nhà xuất bản Hội Nhà văn 2004)
Mục lục
Ngủ bụi
Ngủ bụi
Tô HoàiChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.
Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.Đánh máy: Nguyễn Học Nguồn: Cái áo tế VNthuquan - thư viện OnlineĐược bạn: Ct.Ly đưa lên vào ngày: 28 tháng 6 năm 2006
|
To Hoai
Sleeping in the dust
Reading the short report in the People's Public Security newspaper in May 1999, every word was chilling. Or maybe it's because I haven't been out at night very often that that's why I'm so afraid. The article said that now that night is coming, there are five types of people sleeping on the street, often found in the streets, in the market. at the top of the cell and on the dike surface the most. The ghostly and homeless shelters are mostly around the foot of the bridge, under the bridge and in the middle of the grass, in places sheltered from the wind. All kinds of tents, poles, and ropes were stretched and erected, then in the morning they were torn down before anyone could see them. Luxury classes with mosquito nets, mats or folding beds have the highest rental price of up to four thousand. However, every class is the same, guests are free to "three rubs, two strokes" - meaning they sit and slap their feet a few times, then fall asleep and in the morning raise their hands to rub their faces, like a cat raising its paw to curse the khan's face. Yes. two types of people sleeping on the street here and there, but each night's fate is always different, a diaper curtain, tied with two pieces of string to the edge of some house's iron door. Early in the morning, the homeowner opens the inside lock - sometimes the homeowner comes from somewhere, opens the outside lock and sees people messing around in the curtains, so they chase them away. But sometimes when they have bad luck, people open the door and give them five hundred and one thousand "work to guard the door at night". Too profitable. As for sleeping in the corner of the wall, the friends are lying there, not caring for anyone, despite the rain and the cold. You can't see that at the top of the Kim Ma square there is a real inn, but this type is the most chaotic. There were dozens of men and women sleeping together. Two rows of mats stretch along the house, two lights on the ceiling shine all night. Everyone lies on their spoons, men's and women's heads facing each other, legs on both sides sticking out over the edge of the mat over there. Also according to the article, every day now there are about two or three hundred thousand people wandering around coming into the city. earn a living. Thus, about the same number of people slept and ate in that spooky darkness. He was curious and went to the inns in Kim Ma district. As soon as the city lights came on, the old man walked away. At the boarding house, men and women lay with their heads together at the end of the box. When asked, they were immediately shown. It was early evening and not many people had returned. He had not yet seen the scene lying haphazardly up and down like in the article. . But two rows of mats had been spread out, and in the dim electric light filled with mosquitoes, there were people who looked vaguely male or female, each sitting and whispering. A shirtless man sat right outside the door. He was skinny, his arms were like two reeds. But his voice shouted very loudly:- Old man, where are you going?- I..., I...- Choch..., choac... huh? Do you want to die? Get out now. He rushed forward and pushed him out the door. Last year, I had the opportunity to go to Guangzhou city. Guangzhou has six million people, much larger than Hanoi, and is also a developing city. Similar to Hanoi, the largest number of people coming to the city looking for work are workers from around the countryside. Yet on the road, there is no human market like in the suburbs of our city. I asked: - How does Guangzhou solve the problem of people in the village going to the city to find work? Answer: - We have a plan to return. village takes people. Of course there are all kinds of people, complicated jobs, and freedom to go to the city. I saw that and heard that in Guangzhou, let me tell you about it. Source: The sacrificial shirt (Mixed literature, short story To Hoai, Writers' Association publishing house 2004)(To Hoai's short stories and magazines, Writers' Association publishing house 2004)
Table of contents
Sleeping in the dust
Sleeping in the dust
To Hoai Welcome to read the titles from the book project for mobile devices. Source: author: Nguyen Kim Vy.
Last words: Thank you for reading the entire story. Source: author: Nguyen Kim Vy. Typing: Nguyen Hoc Source: The VNthuquan sacrificial shirt - Online library Uploaded by friend: Ct.Ly on: June 28, 2006
|
Lê Du Miên
Ngủ Mơ
Ông bà ta có câu:” Đố ai nằm ngủ không mơ”. Ấy thế mà tôi đã có hơn 40 chục năm nằm ngủ chả mơ mẩn gì bao giờ. Có người bảo tôi là bốc phét. Tôi chả dám cãi cho mình nhưng thật sự là thế. Hay tại có nằm mơ nhưng khi thức dậy chả còn nhớ gì hết trơn trọi. Điều này cũng không có lý vì nếu cái trí nhớ của tôi còi kiết, nghèo nàn như thế thì làm gì mà tôi…học hành nổi và tôi chắc là giốt đặc cán cuốc rồi, đâu có thể ngồi gõ lách cách bàn phím như hôm nay. Nhưng có một điều quái lạ là sao một vài năm gần đây tôi lại bị hội chứng “mơ” quấy phá. Hễ cứ nằm xuống chợp mắt đi là mơ bất kể ngày đêm. Bà thày lang ta thì bảo là quả tim tôi bị yếu, nó bơm máu không đều lên bộ óc, nên cái não không đủ năng lượng để nghỉ ngơi , nó phải làm việc…ngày làm chưa đủ tranh thủ làm đêm và tạo ra những giấc mơ. Những giấc mơ chẳng đâu vào với đâu. Những giấc mơ làm tôi mệt nhoài.Đêm vừa rồi tôi nằm mơ tôi đi xin việc làm, chả là tôi bị thất nghiệp cả năm nay, ngày nào cũng đi xin việc , ngày nào cũng ngóng cổ hướng về Washington coi thử xem ông Ô Bá mà có hoá phép ra cái job nào không để chộp nhưng chờ hoài chờ huỷ mà vẫn “bỏng không”. Tôi vào xin việc ở cái Shop xửa xe. Ông chủ Shop nhận ngay và đưa cho tôi hai cái “gun” bắn ốc bù loong, rồi bảo tôi ra vặn ốc thử, chắc là để xem tay nghề của tôi cỡ nào. Tôi cầm hai cái “súng “ lững thững đi về phía chiếc xe đã được nâng lên cao khỏi đầu, tính đưa súng vào để bóp cò, thì ông chủ lại bảo” không phải cái xe đó, cái xe phế thải bỏ ngoài kia kià”. Tôi trả lời “dạ” rồi thủng thẳng đi lại hướng ông ta nói. Tới bên cạnh chiếc xe, đúng ra không phải là chiếc xe mà chỉ là một đống sắt, vì mọi bộ phận rời trong ngoài người ta đã tháo đi hết. Tôi cầm cây súng lăm le để tìm con ốc nào đó để đút nó vào , nhưng thật là bất hạnh, tìm hoài mà chả thấy . Tôi đút cây súng vào cái lỗ hổng, khua khua vài cái. Tiếng cọ sát của súng vào thành lỗ hổng nghe xồn xột. Bây giờ tôi mới nhìn kỹ lại thì ra tôi đang cầm trên tay hai trái chuối. Tôi đang ngẩn tò te không hiểu tại sao lại thế này. Từ sáng tới giờ đói meo, cái bụng cồn cào, đang tính bóc chuối ăn thì tôi thấy trên con đường người ta kéo nhau đi đâu mà đông lắm, mỗi lúc một đông thêm, trên khuôn mặt mọi người đều hiện rõ vẻ đăm chiêu, lo lắng. Tôi bất ngờ nối đuôi theo họ, đi qua những ngã tư đường. Ngã tư nào cũng có người cầm bảng viết nguệch ngoạc trên miếng giấy thùng. Chẳng cần đọc cũng biết họ viết cái gì. Họ đứng bất động như những pho tượng nghệ thuật của những nghệ sĩ tạc hình. Đoàn người vẫn đi dường như không ai để ý tới những pho tượng đó dù có vài pho tượng là phụ nữ khá đẹp và duyên dáng. Tôi bất mãn với thái độ dửng dưng của họ. Tôi hét to:” Các người có còn là con người không? Sao không gíup đỡ một chút gì đó cho những người bất hạnh này? Tại sao?”. Họ vẫn cứ đi như là chả nghe thấy tôi nói gì. Tôi đứng nhìn theo họ thở dài. Họ đang rẽ vào sở thất nghiệp. Tôi tần ngần bước đi. Con đường tôi đi mỗi lúc một xa thành phố. Hai bên đường là những thửa ruộng với những mảng lúa cằn cỗi, lép xẹp. Phía chân trời trước mắt mây đen vần vũ. Trời như sắp nổi cơn giông. Tôi đâm hoảng vì nếu cứ đi như thế này giữa đồng không mông quạnh mà gặp mưa gió thì không biết trú ẩn nơi đâu. Tôi đứng ngó chung quanh, trên miếng ruộng trước mặt, nước lấp xắp, thấy có mấy con cá rô hay cá diếc gì đó đang mắc cạn. Tôi mừng quá xăn tay áo, kéo ống quần lên, lội xuống. Tôi bắt từng con dễ dàng và ném chúng lên bờ, mừng thầm trong bụng, cũng không bõ công một ngày đi lang thang tìm việc. Tôi vừa bắt xẩy một con, chắc là con cá trê, to lắm, cá bắt xẩy mà, con nào cũng to. Đã không bắt được mà còn bị nó đâm cái ngạnh vào tay đau nhức nhối. Tôi đang nắm cái tay đau nhăn nhó thì bỗng nghe có tiếng cười dòn tan. Tôi giật mình ngó lên bờ thì thấy Xuân, cô bạn học rất than ngày xưa. Có điều lạ là Xuân hiện đang ở mãi bên Úc mà sao lại xuất hiện ở chỗ này. Xuân đang nhặt dùm tôi mấy con cá gói vào một cái lá chuối, cười duyên bảo tôi:” Thôi lên bờ đi, chúng mình về Buôn mê thuột nha”. Xuân rủ tôi về Buôn mê thuột để làm gì nhỉ. Tôi chẳng biết nhưng tôi cũng gật đầu. Xuân đưa tay phủi một cục bùn nhỏ dính trên mặt tôi. Cục bùn kéo ra thành một vệt dài trên má. Xuân chỉ về phía sau xa tít rồi hối thúc tôi:” Mau lên, Hạ Trắng đang lái xe tới chở chúng mình đi kìa.”. Hạ Trắng là đứa con gái tôi. Cháu còn nhỏ làm gì đã lái được xe chứ. Nhưng tôi cũng lại một lần nữa gật đầu. Thế là chả hiểu giữa cánh đồng mất mùa lúa lép đó, chúng tôi đã đi bằng phương tiện nào mà lai tới NC, Mỹ quốc chứ không phải là Buôn mê thuột của Việt Nam như đã định. Ở NC, thành phố Charlotte, vợ chồng đứa em vợ tôi có cái tiệm tóc nail khá lớn và rất đông khách. Vợ chồng nó đã nhiều lần đề nghị tôi mu qua đó làm phụ với nó, nhưng tôi ngại lắm, vì làm công cho người ngoài thì dễ, còn làm công cho em mình, mà lại em vợ nữa, ôi coi bộ nhiêu khê dữ lắm, nên tôi vẫn cứ chần chừ dù rất cần một công việc để làm.Tôi và Xuân đã tìm đến cái tiệm tóc của Hồng, cô em vợ tôi. Ngày đầu tiên tôi dũa nail cho ba bà Mỹ đen. Ôm cái chân to như chân bò, nặng như chân tượng đồng đen của mấy bà ta gác lên đùi mình. Nước mắt tôi chảy ra vì cái đùi tôi đau quá. Cô em vợ tôi cười “ phải ráng anh ạ.”. Tôi gật đầu cầm đếm tới đếm lui vài chục đồng tiền tip, bước khập khiễng ra cửa. Tôi gọi” Xuân “ơi mà sao không thấy cô ta đâu cả. Xuân đã bỏ đi đâu rồi. Xuân xuất hiện trong giấc mơ tôi như một bóng ma trơi của dĩ vãng, như một chiếc cầu kiều đưa tôi thoát ra ngõ bí. Như bóng ngày xưa làm râm mát con đường tới trường… Thế rồi …Cũng chỉ là trong mơ, Xuân lại đi rồi . Còn tôi ở lại. Hồng , em vợ tôi vừa cắt tóc cho khách vừa hát khẽ:”Em chở mừa hè của tôi đi đâu…”. Hồng hát hay nhất trong số các chị em cuả vợ tôi. Hồng cũng đang là ca viên của nhà thờ trong cộng đoàn người Việt tại thành phố. Tôi đứng thững thờ nhìn qua cửa, tưởng tới những đoá phượng hồng, tưởng nhớ những mùa hè của thời áo trắng vô tư, chưa từng đánh vật với võ sĩ “áo cơm”, mà tiếc mà nuối. Đang mỉm cười với đoá hoa học trò thì từ đâu hai ba xe police hụ còi inh ỏi, làm ồn ào cả khu phố… Những tiếng hụ ấy đánh thức tôi dậy. Tôi đưa tay rờ lên ngực trái của mình. Hình như tim tôi đập mạnh và đập nhanh hơn. Tôi cảm thấy một chuỗi ê ẩm kéo dài toàn thân. Tôi uể oải đứng lên tiến về bên khung cửa. Tôi vén màn, nhìn ra bên ngoài, nơi xa xa bên kia đồi thông mù mịt những hạt mưa vẫn hoài giăng giăng. Những hạt mưa đã rơi mãi cả tuần nay mà chưa dứt. Tôi tiếc ngẩn ngơ cho một giấc mơ chưa hoàn thiện . Đã tới đươc NC rồi mà giấc mơ sao không đưa tôi tới thăm một cô bạn. Cô bạn thật dễ thương, dễ mến mà tôi đã muốn gặp bao năm. Cái duyên không có. Cái duyên thật khó phải không người, như ngọn đồi thông trước mặt, cũng đã nhiều lần tôi thầm bảo với mình là sẽ có một ngày dù mưa hay nắng, tôi sẽ leo lên đó, kiếm một chỗ thật vắng vẻ, có gío mát, nằm xuống để nghe thông hát vi vu, để quên đời mình lận đận , nhưng nào đã có.Tôi buông màn cửa về lại vị trí cũ của nó. Chiếc màn đã che khuất đồi thông và những màn mưa bao phủ nó. Nhưng chiếc màn trong bộ não tôi đã không thể che khuất đi được những dải mây mãi còn vương mắc trên những ngọn cây sầu đông mọc rễ trong tâm hồn. Tôi khoác chiếc áo mưa, tôi đội cái mũ lên đầu. Tôi muốn ra đi. Tôi muốn đi sang phía bên kia đồi thông. Lê Du Miên
Mục lục
Ngủ Mơ
Ngủ Mơ
Lê Du MiênChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.
Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: dactrung.netĐược bạn: Ct.Ly đưa lên vào ngày: 19 tháng 2 năm 2010
|
Lê Du Miên
Ngủ Mơ
Ông bà ta có câu:” Đố ai nằm ngủ không mơ”. Ấy thế mà tôi đã có hơn 40 chục năm nằm ngủ chả mơ mẩn gì bao giờ. Có người bảo tôi là bốc phét. Tôi chả dám cãi cho mình nhưng thật sự là thế. Hay tại có nằm mơ nhưng khi thức dậy chả còn nhớ gì hết trơn trọi. Điều này cũng không có lý vì nếu cái trí nhớ của tôi còi kiết, nghèo nàn như thế thì làm gì mà tôi…học hành nổi và tôi chắc là giốt đặc cán cuốc rồi, đâu có thể ngồi gõ lách cách bàn phím như hôm nay. Nhưng có một điều quái lạ là sao một vài năm gần đây tôi lại bị hội chứng “mơ” quấy phá. Hễ cứ nằm xuống chợp mắt đi là mơ bất kể ngày đêm. Bà thày lang ta thì bảo là quả tim tôi bị yếu, nó bơm máu không đều lên bộ óc, nên cái não không đủ năng lượng để nghỉ ngơi , nó phải làm việc…ngày làm chưa đủ tranh thủ làm đêm và tạo ra những giấc mơ. Những giấc mơ chẳng đâu vào với đâu. Những giấc mơ làm tôi mệt nhoài.Đêm vừa rồi tôi nằm mơ tôi đi xin việc làm, chả là tôi bị thất nghiệp cả năm nay, ngày nào cũng đi xin việc , ngày nào cũng ngóng cổ hướng về Washington coi thử xem ông Ô Bá mà có hoá phép ra cái job nào không để chộp nhưng chờ hoài chờ huỷ mà vẫn “bỏng không”. Tôi vào xin việc ở cái Shop xửa xe. Ông chủ Shop nhận ngay và đưa cho tôi hai cái “gun” bắn ốc bù loong, rồi bảo tôi ra vặn ốc thử, chắc là để xem tay nghề của tôi cỡ nào. Tôi cầm hai cái “súng “ lững thững đi về phía chiếc xe đã được nâng lên cao khỏi đầu, tính đưa súng vào để bóp cò, thì ông chủ lại bảo” không phải cái xe đó, cái xe phế thải bỏ ngoài kia kià”. Tôi trả lời “dạ” rồi thủng thẳng đi lại hướng ông ta nói. Tới bên cạnh chiếc xe, đúng ra không phải là chiếc xe mà chỉ là một đống sắt, vì mọi bộ phận rời trong ngoài người ta đã tháo đi hết. Tôi cầm cây súng lăm le để tìm con ốc nào đó để đút nó vào , nhưng thật là bất hạnh, tìm hoài mà chả thấy . Tôi đút cây súng vào cái lỗ hổng, khua khua vài cái. Tiếng cọ sát của súng vào thành lỗ hổng nghe xồn xột. Bây giờ tôi mới nhìn kỹ lại thì ra tôi đang cầm trên tay hai trái chuối. Tôi đang ngẩn tò te không hiểu tại sao lại thế này. Từ sáng tới giờ đói meo, cái bụng cồn cào, đang tính bóc chuối ăn thì tôi thấy trên con đường người ta kéo nhau đi đâu mà đông lắm, mỗi lúc một đông thêm, trên khuôn mặt mọi người đều hiện rõ vẻ đăm chiêu, lo lắng. Tôi bất ngờ nối đuôi theo họ, đi qua những ngã tư đường. Ngã tư nào cũng có người cầm bảng viết nguệch ngoạc trên miếng giấy thùng. Chẳng cần đọc cũng biết họ viết cái gì. Họ đứng bất động như những pho tượng nghệ thuật của những nghệ sĩ tạc hình. Đoàn người vẫn đi dường như không ai để ý tới những pho tượng đó dù có vài pho tượng là phụ nữ khá đẹp và duyên dáng. Tôi bất mãn với thái độ dửng dưng của họ. Tôi hét to:” Các người có còn là con người không? Sao không gíup đỡ một chút gì đó cho những người bất hạnh này? Tại sao?”. Họ vẫn cứ đi như là chả nghe thấy tôi nói gì. Tôi đứng nhìn theo họ thở dài. Họ đang rẽ vào sở thất nghiệp. Tôi tần ngần bước đi. Con đường tôi đi mỗi lúc một xa thành phố. Hai bên đường là những thửa ruộng với những mảng lúa cằn cỗi, lép xẹp. Phía chân trời trước mắt mây đen vần vũ. Trời như sắp nổi cơn giông. Tôi đâm hoảng vì nếu cứ đi như thế này giữa đồng không mông quạnh mà gặp mưa gió thì không biết trú ẩn nơi đâu. Tôi đứng ngó chung quanh, trên miếng ruộng trước mặt, nước lấp xắp, thấy có mấy con cá rô hay cá diếc gì đó đang mắc cạn. Tôi mừng quá xăn tay áo, kéo ống quần lên, lội xuống. Tôi bắt từng con dễ dàng và ném chúng lên bờ, mừng thầm trong bụng, cũng không bõ công một ngày đi lang thang tìm việc. Tôi vừa bắt xẩy một con, chắc là con cá trê, to lắm, cá bắt xẩy mà, con nào cũng to. Đã không bắt được mà còn bị nó đâm cái ngạnh vào tay đau nhức nhối. Tôi đang nắm cái tay đau nhăn nhó thì bỗng nghe có tiếng cười dòn tan. Tôi giật mình ngó lên bờ thì thấy Xuân, cô bạn học rất than ngày xưa. Có điều lạ là Xuân hiện đang ở mãi bên Úc mà sao lại xuất hiện ở chỗ này. Xuân đang nhặt dùm tôi mấy con cá gói vào một cái lá chuối, cười duyên bảo tôi:” Thôi lên bờ đi, chúng mình về Buôn mê thuột nha”. Xuân rủ tôi về Buôn mê thuột để làm gì nhỉ. Tôi chẳng biết nhưng tôi cũng gật đầu. Xuân đưa tay phủi một cục bùn nhỏ dính trên mặt tôi. Cục bùn kéo ra thành một vệt dài trên má. Xuân chỉ về phía sau xa tít rồi hối thúc tôi:” Mau lên, Hạ Trắng đang lái xe tới chở chúng mình đi kìa.”. Hạ Trắng là đứa con gái tôi. Cháu còn nhỏ làm gì đã lái được xe chứ. Nhưng tôi cũng lại một lần nữa gật đầu. Thế là chả hiểu giữa cánh đồng mất mùa lúa lép đó, chúng tôi đã đi bằng phương tiện nào mà lai tới NC, Mỹ quốc chứ không phải là Buôn mê thuột của Việt Nam như đã định. Ở NC, thành phố Charlotte, vợ chồng đứa em vợ tôi có cái tiệm tóc nail khá lớn và rất đông khách. Vợ chồng nó đã nhiều lần đề nghị tôi mu qua đó làm phụ với nó, nhưng tôi ngại lắm, vì làm công cho người ngoài thì dễ, còn làm công cho em mình, mà lại em vợ nữa, ôi coi bộ nhiêu khê dữ lắm, nên tôi vẫn cứ chần chừ dù rất cần một công việc để làm.Tôi và Xuân đã tìm đến cái tiệm tóc của Hồng, cô em vợ tôi. Ngày đầu tiên tôi dũa nail cho ba bà Mỹ đen. Ôm cái chân to như chân bò, nặng như chân tượng đồng đen của mấy bà ta gác lên đùi mình. Nước mắt tôi chảy ra vì cái đùi tôi đau quá. Cô em vợ tôi cười “ phải ráng anh ạ.”. Tôi gật đầu cầm đếm tới đếm lui vài chục đồng tiền tip, bước khập khiễng ra cửa. Tôi gọi” Xuân “ơi mà sao không thấy cô ta đâu cả. Xuân đã bỏ đi đâu rồi. Xuân xuất hiện trong giấc mơ tôi như một bóng ma trơi của dĩ vãng, như một chiếc cầu kiều đưa tôi thoát ra ngõ bí. Như bóng ngày xưa làm râm mát con đường tới trường… Thế rồi …Cũng chỉ là trong mơ, Xuân lại đi rồi . Còn tôi ở lại. Hồng , em vợ tôi vừa cắt tóc cho khách vừa hát khẽ:”Em chở mừa hè của tôi đi đâu…”. Hồng hát hay nhất trong số các chị em cuả vợ tôi. Hồng cũng đang là ca viên của nhà thờ trong cộng đoàn người Việt tại thành phố. Tôi đứng thững thờ nhìn qua cửa, tưởng tới những đoá phượng hồng, tưởng nhớ những mùa hè của thời áo trắng vô tư, chưa từng đánh vật với võ sĩ “áo cơm”, mà tiếc mà nuối. Đang mỉm cười với đoá hoa học trò thì từ đâu hai ba xe police hụ còi inh ỏi, làm ồn ào cả khu phố… Những tiếng hụ ấy đánh thức tôi dậy. Tôi đưa tay rờ lên ngực trái của mình. Hình như tim tôi đập mạnh và đập nhanh hơn. Tôi cảm thấy một chuỗi ê ẩm kéo dài toàn thân. Tôi uể oải đứng lên tiến về bên khung cửa. Tôi vén màn, nhìn ra bên ngoài, nơi xa xa bên kia đồi thông mù mịt những hạt mưa vẫn hoài giăng giăng. Những hạt mưa đã rơi mãi cả tuần nay mà chưa dứt. Tôi tiếc ngẩn ngơ cho một giấc mơ chưa hoàn thiện . Đã tới đươc NC rồi mà giấc mơ sao không đưa tôi tới thăm một cô bạn. Cô bạn thật dễ thương, dễ mến mà tôi đã muốn gặp bao năm. Cái duyên không có. Cái duyên thật khó phải không người, như ngọn đồi thông trước mặt, cũng đã nhiều lần tôi thầm bảo với mình là sẽ có một ngày dù mưa hay nắng, tôi sẽ leo lên đó, kiếm một chỗ thật vắng vẻ, có gío mát, nằm xuống để nghe thông hát vi vu, để quên đời mình lận đận , nhưng nào đã có.Tôi buông màn cửa về lại vị trí cũ của nó. Chiếc màn đã che khuất đồi thông và những màn mưa bao phủ nó. Nhưng chiếc màn trong bộ não tôi đã không thể che khuất đi được những dải mây mãi còn vương mắc trên những ngọn cây sầu đông mọc rễ trong tâm hồn. Tôi khoác chiếc áo mưa, tôi đội cái mũ lên đầu. Tôi muốn ra đi. Tôi muốn đi sang phía bên kia đồi thông. Lê Du Miên
Mục lục
Ngủ Mơ
Ngủ Mơ
Lê Du MiênChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.
Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: dactrung.netĐược bạn: Ct.Ly đưa lên vào ngày: 19 tháng 2 năm 2010
|
Việt Hải
Ngựa Hoang Nhớ Rừng
Ngựa hoang, tức mustang trong Anh ngữ, vốn biểu tượng cho loài sinh vật sống hoà mình trong thiên nhiên, ngựa hoang đẹp đẽ về dáng, dũng mãnh về sức, tình tứ trong tình cảm như khi đôi ngựa hoang tình tự trong chốn rừng xưạ Tích xưa bên Tàu kể rằng chiến mã xứ Hồ Nam bị đày lên Hồ Bắc, chiến mã nhớ rừng xưa reo tiếng hí ai oán."Ngựa hoang vung sức băng rừngTung hoành một cõi nghe từng vó câu "Khi nhập đề như vậy tôi muốn ám chỉ nhà thơ Tôn Thất Phú Sĩ, một Sĩ quan Hải Quân QL/VNCH, một nhà thơ đa tình trong văn chương, hồn thơ đa cảm trong âm hưởng ướt át của thi ca Paul Verlaine, hay mang chất lãng mạn của Jacques Prevert . Nào, ta hãy nghe Tôn Thất Phú Sĩ (TTPS) trao tình thơ "Nỗi Nhớ": "Nhớ em nỗi nhớ rất lạ kỳCon tim đau nhói niềm chia lyÐôi lúc hình như muốn nghẹt thởNhìn trời nắng đẹp tưởng trời mưa"Rồi TTPS tình tứ hơn khi cất nỗi nhớ người yêu trong hương thơm nơi vườn thơ của anh: "Tôi đem nỗi nhớ cất trong vườnRực rỡ mùa hè hoa ngát hươngThế mà bổng chốc bầu không khíMột nửa phai tàn nửa héo honNỗi nhớ hình như biết thì thầmNghe lòng dào dạt tiếng yêu đươngNhưng sao chợt thấy như hờn ghétDù biết dối lòng tôi vẫn thương"Trong bài "Bâng Quơ", những ý tưởng tình nhu thoáng thơm hương phấn, và khi tình thăng hoa để tình đến cho hồn rung theo gió:"Em ngồi xoã tóc dáng Liêu Trai Hong nắng bờ vai nghiêng nghiêng gầy Bức tranh lụa thoáng thơm hương phấn Bướm ngẫn ngơ vờn rũ cánh bayCứ để cho hồn rung theo gió Cho tình vời vợi đến trong mơ Ðừng ngăn con suối vào sông rộng Mà nghẽn dòng xuôi nước vỡ bờ "Ta hãy nghe bài "Nụ Hôn Học Trò", nhà thơ nhắc nhớ nụ hôn vụng dại của thuở thiếu thời, khi đoá Quỳnh hé nhuỵ như bờ môi e ấp, bồi hồi của mối tình nhiều vấn vương:"Nhớ làm chi một nụ hôn Vụng về ngày đó nụ hôn mất rồiChỉ còn sót lại trong tôiBờ môi hồng nhạt bồi hồi xa xôiTrường xưa lớp cũ một thờiÐoá hoa Quỳnh thắm một đời vấn vương Người đi để lại mùi hương Tôi về ngậm ngải tìm hương đốt trầmMối tình tôi rất lặng câmMột mình mình biết dư âm thuở nào Lên rừng xuống biển lao đaoNụ hôn ngày đó đi vào thiên thụ"Nhà thơ TTPS chuyên chở những lãng mạn yêu đương, khi mà có anh và có em như bài tình thơ mang tên "Anh và Em":"Anh yêu em mối tình tự nhiên Như dòng sông xuôi về với biển Qua mùa đông mùa xuân lại đến Sau cơn mưa trời chợt hồng lên Em yêu anh , em mơ tương lai Như nụ hoa đến ngày kết trái Hoàng hôn xuống chim bay về tổ Máu tuần hoàn rồi trở về tim"Thượng đế sinh ra người thi sĩ để họ sống vì yêu, chết vì yêu, từ nhịp đập của con tim họ chỉ thổn thức cho những nhớ nhung, nhưng u hoài trong tình trường, và đó là cá tính của người làm thơ và say thơ: "Làm sao quên làm sao quên được Những ngày anh đưa em đi học Trước cổng trường trao nụ hôn vội Hai đứa thập thò sợ ai hay Nhớ em anh thấy lòng ấm áp Buổi sáng chở em trên xe đạp Kể nhau nghe chuyện tình trong nắng Nắng đẹp lòng em chói mắt anh"Anh nhớ em như sợi tình kéo dài nhưng rong ruổi em nhớ anh của ngần ấy anh nhớ em: "Nhớ anh, em thường ngồi lặng thinh Tóc em dài bềnh bồng theo gió Từng sợi buồn em gọi tên anh Sương trên cành tưng giọt mong manh Anh với em là loài hoa dại Mà sao yêu nhau đến la thườngÐêm về ta nằm ôm gối mộng Mắt môi xao xuyến một mùi hương"Chiều nay vắng em, anh cô đơn trong quán cà phê của phố xá Paris lên đèn lộng lẫy, nhưng sao trong anh hồn dâng nỗi buồn không tên lạ lẫm, hay vì anh nhớ em vô vàn: "Chiều nay bên góc cà phê nhỏ Giữa phố Paris đẹp muôn màu Anh thấy hình em trong đáy cốc Chập chờn xoả tóc đợi người mợ"Nhớ em, rồi nhớ bao kỷ niệm trao nhau của sân ga metro, của chiều dìu nhau dọc bến sông Seine, nỗi nhung nhớ mà ngập hồn tương tư để nhà thơ buông thơ qua bài "Tương Tư":"Ðêm về ôm gối chiêm bao Ngàn thương trăm nhớ dạt dào tình xưa Bỗng nhiên trời đổ cơn mưa Lời anh ngọt mật cho vừa lòng em Giọt rơi từng giọt bên thềm Như ru em ngủ êm đềm tin yêu Anh đi hứa hẹn thật nhiều Bóng anh như áng mây chiều ngừng trôi Hay là anh lổi hẹn rồi Bước chân phiêu lãng anh còn đam mê Anh đi để lại trăng thề Màu trăng kỹ niệm bên hè đêm nao.."Em yêu dấu, anh vói tay mở cửa trăng vào, mảnh trăng tan vở xanh xao cõi lòng, bây giờ trời đã lập đông; Em à, nửa như khói ám, nửa trông lạnh lùng, ta ghét thương cao vút song song hay ta lại sợ ngày mai ấy không còn để yêu,... Em của ngày cũ thương nhớ, còn đâu kỷ niệm xa xăm chợt hiện về, để cho đường lên đỉnh núi cheo leo, để đường ra cửa biển sóng reo rì rào:"Hồn em anh bỏ đường nào Vỡ toang từng mãng nghẹn ngào chơi vơi Tương tư tím một góc trời Mây xa lạc gió một đời nhớ anh."Je taimé pour toujours! mãi mãi cho em. Cho em bao ngày cũ, của thuở hẹn hò, của ngày xưa tuổi mộng của dĩ vãng dáng yêu, em còn nhớ bài thơ "Ngày Xưa Yêu Dấu": "Ngày xưa em không làm thơVì anh là cả bài thơ trong hồnTình em sương khói cô thônChập chờn ẩn hiện một dòng sông xanhGiọt mưa còn đọng trên cànhLà giọt nước mắt để dành cho nhau"Paris vào Xuân, vườn hồng tươi thắm, đôi yến bay lượn bên nhau để tháng 3 khi vào mùa yêu thương ta trao nụ hôn bên hông giáo đường như bài thơ "Tháng Ba Paris": "Châu Âu tháng ba buồn Lòng Paris lao đao Chuông Giáo đường thanh thoát Cầu nguyện Chúa trên cao Cho bình yên dưới thế Hoa nở theo gót chân Nắng vờn trong mái tóc Tiếng nói cười quen thân" Ta bên nhau phố xá chan hoà khúc hoan ca mừng Xuân, trong nỗi xôn xao của Paris trong tầm mắt, nhưng Sài Gòn khuất dạng quê hương trông niềm mong đợi: "Bỗng Paris bừng dậy Khúc nhạc vui chan hoà Ðiệu vũ mừng xuân mới Người Paris xôn xao Sài Gòn tôi rất xa Paris tôi rất gần Nửa hồn tôi trông đợi Nửa hồn tôi thiết tha"Ta đi giữa phố người sao như trong nỗi ngậm ngùi của quê hương trăn trở cách xa, nơi đó ta có Sài Gòn bao nụ tình xanh với thương xá Tam Ða, có Huế của ngày nào ta đi ngang phố chợ Ðông Ba, của những nỗi nhung nhớ em, dồng nghĩa với nhung nhớ quê hương; Ôi, quê hương trong tiềm thức cũ: "Dòng sông Seine hai ngả Tôi chơi vơi đi tìm Ngả nào về Gia Hội Ngả nào về Ðông Ba Lòng tôi vẫn nhung nhớÐời tôi vẫn bơ vơ Quê tôi chừ đâu nhỉ ?..."Mặc dù xa cố quốc đã lâu, nhà thơ TTPS mang bao hồn thơ nhung nhớ chốn cũ, như ngựa hoang nhớ rừng xưa, hay chiến mã khóc khi xa Hồ Nam để dâng sầu tâm tư ngựa hoang, Mustang de Paris, để mãi mãi thổn thức lời thơ xao xuyến rừng xưa, hay như nhà thơ đi giữa Paris vẫn mang con tim của Sài Gòn, của Huế xưạ Tôi đọc bao bài thơ của Mustang de Paris, tôi cảm thấy thơ anh gần gủi của nét đẹp quê hương, khi mà nỗi cảm xúc chứa chan dâng sóng dạt dào của biển Tiên Sa, của Nha Trang,của phố xá Mỹ Tho, của Ðông Ba, của Gia Hội,... Ðó là "Ngựa Hoang Nhớ Rừng", Mustang de Paris, nhà thơ Tôn Thất Phú Sĩ, người bạn văn thơ của tôi đóng góp hằng trăm bài tình thơ cũng như thơ ca ngợi quê hương trong vườn hoa thi ca của văn học sử Việt Nam. Tôi viết những dòng này cho anh, Mustang de Paris.Los Angeles Việt Hải
Mục lục
Ngựa Hoang Nhớ Rừng
Ngựa Hoang Nhớ Rừng
Việt HảiChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.
Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: Được bạn: CT.LY đưa lên vào ngày: 13 tháng 6 năm 2005
|
Việt Hải
Ngựa Hoang Nhớ Rừng
Ngựa hoang, tức mustang trong Anh ngữ, vốn biểu tượng cho loài sinh vật sống hoà mình trong thiên nhiên, ngựa hoang đẹp đẽ về dáng, dũng mãnh về sức, tình tứ trong tình cảm như khi đôi ngựa hoang tình tự trong chốn rừng xưạ Tích xưa bên Tàu kể rằng chiến mã xứ Hồ Nam bị đày lên Hồ Bắc, chiến mã nhớ rừng xưa reo tiếng hí ai oán."Ngựa hoang vung sức băng rừngTung hoành một cõi nghe từng vó câu "Khi nhập đề như vậy tôi muốn ám chỉ nhà thơ Tôn Thất Phú Sĩ, một Sĩ quan Hải Quân QL/VNCH, một nhà thơ đa tình trong văn chương, hồn thơ đa cảm trong âm hưởng ướt át của thi ca Paul Verlaine, hay mang chất lãng mạn của Jacques Prevert . Nào, ta hãy nghe Tôn Thất Phú Sĩ (TTPS) trao tình thơ "Nỗi Nhớ": "Nhớ em nỗi nhớ rất lạ kỳCon tim đau nhói niềm chia lyÐôi lúc hình như muốn nghẹt thởNhìn trời nắng đẹp tưởng trời mưa"Rồi TTPS tình tứ hơn khi cất nỗi nhớ người yêu trong hương thơm nơi vườn thơ của anh: "Tôi đem nỗi nhớ cất trong vườnRực rỡ mùa hè hoa ngát hươngThế mà bổng chốc bầu không khíMột nửa phai tàn nửa héo honNỗi nhớ hình như biết thì thầmNghe lòng dào dạt tiếng yêu đươngNhưng sao chợt thấy như hờn ghétDù biết dối lòng tôi vẫn thương"Trong bài "Bâng Quơ", những ý tưởng tình nhu thoáng thơm hương phấn, và khi tình thăng hoa để tình đến cho hồn rung theo gió:"Em ngồi xoã tóc dáng Liêu Trai Hong nắng bờ vai nghiêng nghiêng gầy Bức tranh lụa thoáng thơm hương phấn Bướm ngẫn ngơ vờn rũ cánh bayCứ để cho hồn rung theo gió Cho tình vời vợi đến trong mơ Ðừng ngăn con suối vào sông rộng Mà nghẽn dòng xuôi nước vỡ bờ "Ta hãy nghe bài "Nụ Hôn Học Trò", nhà thơ nhắc nhớ nụ hôn vụng dại của thuở thiếu thời, khi đoá Quỳnh hé nhuỵ như bờ môi e ấp, bồi hồi của mối tình nhiều vấn vương:"Nhớ làm chi một nụ hôn Vụng về ngày đó nụ hôn mất rồiChỉ còn sót lại trong tôiBờ môi hồng nhạt bồi hồi xa xôiTrường xưa lớp cũ một thờiÐoá hoa Quỳnh thắm một đời vấn vương Người đi để lại mùi hương Tôi về ngậm ngải tìm hương đốt trầmMối tình tôi rất lặng câmMột mình mình biết dư âm thuở nào Lên rừng xuống biển lao đaoNụ hôn ngày đó đi vào thiên thụ"Nhà thơ TTPS chuyên chở những lãng mạn yêu đương, khi mà có anh và có em như bài tình thơ mang tên "Anh và Em":"Anh yêu em mối tình tự nhiên Như dòng sông xuôi về với biển Qua mùa đông mùa xuân lại đến Sau cơn mưa trời chợt hồng lên Em yêu anh , em mơ tương lai Như nụ hoa đến ngày kết trái Hoàng hôn xuống chim bay về tổ Máu tuần hoàn rồi trở về tim"Thượng đế sinh ra người thi sĩ để họ sống vì yêu, chết vì yêu, từ nhịp đập của con tim họ chỉ thổn thức cho những nhớ nhung, nhưng u hoài trong tình trường, và đó là cá tính của người làm thơ và say thơ: "Làm sao quên làm sao quên được Những ngày anh đưa em đi học Trước cổng trường trao nụ hôn vội Hai đứa thập thò sợ ai hay Nhớ em anh thấy lòng ấm áp Buổi sáng chở em trên xe đạp Kể nhau nghe chuyện tình trong nắng Nắng đẹp lòng em chói mắt anh"Anh nhớ em như sợi tình kéo dài nhưng rong ruổi em nhớ anh của ngần ấy anh nhớ em: "Nhớ anh, em thường ngồi lặng thinh Tóc em dài bềnh bồng theo gió Từng sợi buồn em gọi tên anh Sương trên cành tưng giọt mong manh Anh với em là loài hoa dại Mà sao yêu nhau đến la thườngÐêm về ta nằm ôm gối mộng Mắt môi xao xuyến một mùi hương"Chiều nay vắng em, anh cô đơn trong quán cà phê của phố xá Paris lên đèn lộng lẫy, nhưng sao trong anh hồn dâng nỗi buồn không tên lạ lẫm, hay vì anh nhớ em vô vàn: "Chiều nay bên góc cà phê nhỏ Giữa phố Paris đẹp muôn màu Anh thấy hình em trong đáy cốc Chập chờn xoả tóc đợi người mợ"Nhớ em, rồi nhớ bao kỷ niệm trao nhau của sân ga metro, của chiều dìu nhau dọc bến sông Seine, nỗi nhung nhớ mà ngập hồn tương tư để nhà thơ buông thơ qua bài "Tương Tư":"Ðêm về ôm gối chiêm bao Ngàn thương trăm nhớ dạt dào tình xưa Bỗng nhiên trời đổ cơn mưa Lời anh ngọt mật cho vừa lòng em Giọt rơi từng giọt bên thềm Như ru em ngủ êm đềm tin yêu Anh đi hứa hẹn thật nhiều Bóng anh như áng mây chiều ngừng trôi Hay là anh lổi hẹn rồi Bước chân phiêu lãng anh còn đam mê Anh đi để lại trăng thề Màu trăng kỹ niệm bên hè đêm nao.."Em yêu dấu, anh vói tay mở cửa trăng vào, mảnh trăng tan vở xanh xao cõi lòng, bây giờ trời đã lập đông; Em à, nửa như khói ám, nửa trông lạnh lùng, ta ghét thương cao vút song song hay ta lại sợ ngày mai ấy không còn để yêu,... Em của ngày cũ thương nhớ, còn đâu kỷ niệm xa xăm chợt hiện về, để cho đường lên đỉnh núi cheo leo, để đường ra cửa biển sóng reo rì rào:"Hồn em anh bỏ đường nào Vỡ toang từng mãng nghẹn ngào chơi vơi Tương tư tím một góc trời Mây xa lạc gió một đời nhớ anh."Je taimé pour toujours! mãi mãi cho em. Cho em bao ngày cũ, của thuở hẹn hò, của ngày xưa tuổi mộng của dĩ vãng dáng yêu, em còn nhớ bài thơ "Ngày Xưa Yêu Dấu": "Ngày xưa em không làm thơVì anh là cả bài thơ trong hồnTình em sương khói cô thônChập chờn ẩn hiện một dòng sông xanhGiọt mưa còn đọng trên cànhLà giọt nước mắt để dành cho nhau"Paris vào Xuân, vườn hồng tươi thắm, đôi yến bay lượn bên nhau để tháng 3 khi vào mùa yêu thương ta trao nụ hôn bên hông giáo đường như bài thơ "Tháng Ba Paris": "Châu Âu tháng ba buồn Lòng Paris lao đao Chuông Giáo đường thanh thoát Cầu nguyện Chúa trên cao Cho bình yên dưới thế Hoa nở theo gót chân Nắng vờn trong mái tóc Tiếng nói cười quen thân" Ta bên nhau phố xá chan hoà khúc hoan ca mừng Xuân, trong nỗi xôn xao của Paris trong tầm mắt, nhưng Sài Gòn khuất dạng quê hương trông niềm mong đợi: "Bỗng Paris bừng dậy Khúc nhạc vui chan hoà Ðiệu vũ mừng xuân mới Người Paris xôn xao Sài Gòn tôi rất xa Paris tôi rất gần Nửa hồn tôi trông đợi Nửa hồn tôi thiết tha"Ta đi giữa phố người sao như trong nỗi ngậm ngùi của quê hương trăn trở cách xa, nơi đó ta có Sài Gòn bao nụ tình xanh với thương xá Tam Ða, có Huế của ngày nào ta đi ngang phố chợ Ðông Ba, của những nỗi nhung nhớ em, dồng nghĩa với nhung nhớ quê hương; Ôi, quê hương trong tiềm thức cũ: "Dòng sông Seine hai ngả Tôi chơi vơi đi tìm Ngả nào về Gia Hội Ngả nào về Ðông Ba Lòng tôi vẫn nhung nhớÐời tôi vẫn bơ vơ Quê tôi chừ đâu nhỉ ?..."Mặc dù xa cố quốc đã lâu, nhà thơ TTPS mang bao hồn thơ nhung nhớ chốn cũ, như ngựa hoang nhớ rừng xưa, hay chiến mã khóc khi xa Hồ Nam để dâng sầu tâm tư ngựa hoang, Mustang de Paris, để mãi mãi thổn thức lời thơ xao xuyến rừng xưa, hay như nhà thơ đi giữa Paris vẫn mang con tim của Sài Gòn, của Huế xưạ Tôi đọc bao bài thơ của Mustang de Paris, tôi cảm thấy thơ anh gần gủi của nét đẹp quê hương, khi mà nỗi cảm xúc chứa chan dâng sóng dạt dào của biển Tiên Sa, của Nha Trang,của phố xá Mỹ Tho, của Ðông Ba, của Gia Hội,... Ðó là "Ngựa Hoang Nhớ Rừng", Mustang de Paris, nhà thơ Tôn Thất Phú Sĩ, người bạn văn thơ của tôi đóng góp hằng trăm bài tình thơ cũng như thơ ca ngợi quê hương trong vườn hoa thi ca của văn học sử Việt Nam. Tôi viết những dòng này cho anh, Mustang de Paris.Los Angeles Việt Hải
Mục lục
Ngựa Hoang Nhớ Rừng
Ngựa Hoang Nhớ Rừng
Việt HảiChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.
Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: Được bạn: CT.LY đưa lên vào ngày: 13 tháng 6 năm 2005
|
Huân Long
NHAN SẮC
Hồi này cô ấy càng nhìn càng thấy sút giảm người đi, đến nỗi tôi phải kêu lên : sao thế, em có đau ốm gì không mà nhan sắc tàn phai nhanh vậy. Cô ấy vẫn đáp cho tôi vững lòng : có gì đâu, anh, mẹ vừa mất, em chưa quen cảnh giã biệt nên thế thôi, chỉ ít lâu em lại như cũ thôi.Nghe thì nghe vậy, nhưng tôi vẫn không tin. Cô ấy trước đây đâu có vậy, nhí nha nhí nhảnh, bông giỡn cợt đùa. Vợ chồng tôi đã dăm mặt con mà ra đường cô vẫn như người son rỗi. Gặp ai cô cũng cười nói oang oang, tự nhiên quá mức. Thân sơ gì mà hễ có chuyện không vừa ý là cô phản ứng mạnh bạo ngay.Cô lại có chân trong một thi văn đoàn nào đó, nghe ở đâu có họp mặt là cô đều tham dự. Tôi vốn i tờ cái khoản này nên lúc nào cũng ơ hờ, cô ấy phải giục mãi tôi mới đi dự cho phải phép. Cô bảo : có vợ có chồng, đi đâu em cũng muốn có anh theo, kẻo người ta lại đặt điều em với anh sống cảnh ông chẳng bà chuộc.Tôi bảo cô : anh có biết chữ nghĩa văn chương gì đâu mà tham dự. Đến đó nghệt mặt ra, trông buồn chết, người ta đem văn chương ra bàn luận, anh mù tịt thì còn ra nông nỗi gì. Nhưng cô ấy một hai bảo không sợ, có gì cô ấy đỡ cho.Đến nơi, cô ào ào như gió, lăn xả vào khắp chỗ, ghé nói chuyện người này một tí, lại đá gà sang người nọ một tẹo. Nhiều người biết cô, hâm mộ văn cô cũng có mà đề cập đến buổi họp nọ họp kia cũng có, khiến tôi luôn như rơi vào cái khoản dư thừa.Cô là phụ nữ mà hành động chẳng khác nam nhi. Cô nhắc đến một lần nào đó với khách, về một ứng xử nào đó trong buổi họp cộng đồng, rồi chả rõ hai người nói năng ra sao, cô hoạch toẹt tước ngay luôn cái clip huy hiệu trên vạt áo của ông ta. Mồm năm miệng mười, cô ta bảo : anh thụ động thế thì không xứng đáng đeo cái huy hiệu màu cờ này. Làm ông khách chưng hửng và hơi bẽ mặt cứ phải nhũn như con chi chi để cô trả lại cái huy hiệu.Thấy vậy, tôi chờ ông khách đi xa, tôi bảo cô ta : em xấn xổ quá, giữa chốn đông người, em làm vậy ông ta còn mặt mũi nào nữa. Cô ấy nhún nhảy : tính em phải dứt khoát, hoạt động cho cộng đồng là lập trường phải vững, choi choi là em cóc chịu được.Tâm tính cô ấy vốn thế, nóng cứ như Trương Phi, ào ào như các đấng nam nhi. Chỉ có ở gia đình là cô hiền và nhu đúng là bà vợ và bà mẹ. Cô dung dăng dung dẻ như thế khắp, ai mời cũng đến, ai quyến cũng đi, dường như sự hiện diện của cô cần thiết để cô bắt mạch đúng chân tướng của cộng đồng đang đi lên hay đi xuống vậy.Đi bên cạnh cô thét, đâm ra ai cũng quen mặt. Ai cũng hiểu tôi là ông xã của cô, nhưng tôi thì tôi lại thấy mình là cái rơ moóc lẳng nhẳng quẩn bên chân cô vậy. Kể ra có người vợ viết văn cũng thích, vô hình chung cũng tá ơm mưa móc chuyện viết lách văn chương. Người ta thì góp vô, còn tôi cứ lẳng lặng mà nghe để học hỏi.Dạo ấy, trông thấy cô lúc nào cũng nhởn nhơ phơi phới, tôi đã nghĩ còn lâu nhan sắc của cô mới chớm hồi tàn tạ. Cô không thuộc vào phái cực đẹp, nhưng dưới mắt tôi cô pơ phếch hết ý. Tóc cô mềm và lượn sóng như áng mây, mặt lúc nào cũng tươi hơn hớn, chưa nói đã cười, môi mọng hồng như hoa hàm tiếu.Bọn nhỏ bênh mẹ vẫn hay trêu tôi : bố may mà vớ được mẹ, chứ không thì chắc chẳng ai nhìn đến. Tôi chưa kịp nạt đe đám nhóc thì bà xã đã la bọn chúng : tụi mày không được hỗn với bố, mẹ về với nhà này là phúc lắm rồi, con nít con nôi nói bậy. Tôi thầm cám ơn cô.Vậy mà hôm cô nhận tin mẹ đau, người cô điếng đi một lúc. Cô khều khào thở ngắn than dài, luôn miệng lẩm bẩm : chết chết, thế này thì làm sao đây. Bà cụ ở với cô em tại một tiểu bang khác, cô loăng quăng đi ra đi vào. Tôi phải bảo : em làm gì rối beng lên thế, thì phóng ngay về xem mẹ ra sao, để bọn nhóc đây anh lo.Cô ấy ngần ngừ chưa chịu. Tôi phải kéo cô ra ngay quầy giao dịch vé, mua luôn chuyến bay để cô không từ chối. Buổi tối, sau khi cơm nước xong, tôi hối lũ trẻ thu bát đĩa vào sink, miệng bảo : để đó, bố về rửa sau và cả nhà hộ tống cô ấy ra phi trường cho kịp.Gà mẹ vừa đi vắng là lũ gà con nhao nhao, đứa bảo nhớ, đứa bảo quen ngủ với mẹ, giờ nằm chèo queo chán chết. Tụi nó làm tôi cũng bâng khuâng ngớ ngẩn lây. Đâu khoảng sau nửa đêm thì điện thoại dựng tôi dậy, tiếng cô hổn ha hổn hển : em vừa về tới mẹ, bọn nhóc ngủ chưa, em nhớ chúng nó quá. Tôi nghe sóng u u, mãi mãi mới nghe cô lí nhí : em cũng nhớ anh nữa. Tôi điếng cả người.Không hôm nào cô ấy không gọi về, ít là một lần hoặc nhiều nữa. Kể vanh vách bệnh trạng bà cụ và tỏ sự nôn nóng đòi về. Tôi nạt ngang : em đừng có vớ vẩn, lâu lâu mới về gần mẹ, em phải ở đến khi mẹ khỏe mới được. Đừng bỏ về mà mẹ giận, mà anh cũng không ưng. Cô ấy kể lể mối lo bọn nhỏ được tôi nuôi sật sờ e giảm cân hoặc sút người hết. Tính cô vốn thế, nhưng tôi phải nói mạnh để cô khỏi lo chuyện không đâu.Ấy thế mà bệnh trạng bà cụ bỗng dưng thành chuyện ngặt. Tôi ở nhà sốt ruột ghê gớm, như có ai châm chích, nhắc nhở tôi. Khi cô gọi về, chưa chi đã nghe cô òa khóc như ai đổ xòa đống cát cao vút vậy. Tôi hoảng hồn gắt : chuyện gì, chuyện gì ? Cô càng khóc toáng lên và bù lu bù loa kêu : mẹ mất rồi.Cha con tôi lại một phen thu vén lái xe đi ngay. Tang ma xong, trông cô không còn ra thể thống gì hết. Người cô mềm oặt như muốn đổ, tóc tai rũ rượi, mắt thâm quầng, môi héo, mặt rũ ra. Tôi phải lưu ý : mẹ mất thì yên phận rồi, còn em cũng nên thận trọng giữ gìn sức khỏe. Đừng âu sầu mà quị ra đó lại gây vạ thêm.Cô ừ ào cho qua, nhưng tôi biết rất khó vì cô quí bà cụ nhất. Cô tự xỉ vả mình : cứ hẹn lần hẹn lữa về sống gần cụ mà giăng giăng giở giở mãi không xong, giờ cụ mất mới biết là đại bất hiếu.Cô trở nên ít nói, ít cười, cả ngày lầm lì héo hắt. Tôi gạ đưa mẹ con đi nơi này nơi khác cho cô khuây khỏa, nhưng cô không nghe. Tôi cố tỏ ra chân chỉ để cô vui lòng, buổi tối nằm cạnh nhau, cô hết thở dài lại thở ngắn. Tôi có cáu bẳn thì cô khéo léo xí xóa rất nhanh khiến tôi phải khẩu phục, tâm phục.Thế nhưng, một lần, đứng nhìn cô chải đầu, tôi choáng người khi thấy mớ đuôi tóc bên trán phải của cô bạc trắng cả. Tôi nghĩ đó không còn những sợi tóc mềm tơ óng muột mà như ai đang ghép một dúm bông gòn vào. Tôi hốt hoảng nói với nàng : chết, chết, sao tóc em nhuốm bạc dữ vậy.Cô ngước trông vẻ sầu thảm, ấp úng gì đó lại thôi. Tôi phải giở trò nói dỗi : anh đã bảo mà em không nghe, cứ khăng khăng ủ ấp nỗi đau trong lòng. Anh hỏi em dù có buồn nẫu ruột ra, liệu mẹ có sống lại không. Còn em làm cho cả nhà lây điều phiền não, em nghĩ em có nằm quay ra đó thì lũ nhóc và anh chắc vui lắm hẳn.Nàng chẳng đôi co gì mà chỉ luôn mồm một hai xin lỗi tôi. Và cô ấy lôi hết đứa này đến đứa khác ôm chặt vào lòng, miệng liến thoắng : con của mẹ, tội con của mẹ. Sau này, nàng vẫn lai rai đi dự các buổi sinh hoạt văn nghệ nhưng nín khe. Nàng lảng vảng vòng ngoài, ai chào thì cô cười gượng gúc gúc cái đầu đáp lễ. Chẳng thấy cô ào ào như trước, thậm chí những bài phát biểu cô đều nghe tiếng được tiếng mất và nhanh nhanh rút dù, đòi về vì mệt.Có lẽ mọi người đều nhận ra sự khác lạ này nơi cô, song cũng có lẽ người ta tôn trọng niềm đau mất mẹ còn mới quá nên ai cũng tránh đề cập với cô về tâm trạng trên. Tuy nhiên, điều không ai nói ra đều âm thầm công nhận là nhan sắc con người vốn mỏng manh và vô thường, chẳng ai lường được còn giữ đến bao lâu giữa cuộc đời có có không không này.Huân Long
Mục lục
NHAN SẮC
NHAN SẮC
Huân LongChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.
Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: Tác giả / vnthuquanĐược bạn: mrs đưa lên vào ngày: 28 tháng 12 năm 2007
|
Huân Long
NHAN SẮC
Hồi này cô ấy càng nhìn càng thấy sút giảm người đi, đến nỗi tôi phải kêu lên : sao thế, em có đau ốm gì không mà nhan sắc tàn phai nhanh vậy. Cô ấy vẫn đáp cho tôi vững lòng : có gì đâu, anh, mẹ vừa mất, em chưa quen cảnh giã biệt nên thế thôi, chỉ ít lâu em lại như cũ thôi.Nghe thì nghe vậy, nhưng tôi vẫn không tin. Cô ấy trước đây đâu có vậy, nhí nha nhí nhảnh, bông giỡn cợt đùa. Vợ chồng tôi đã dăm mặt con mà ra đường cô vẫn như người son rỗi. Gặp ai cô cũng cười nói oang oang, tự nhiên quá mức. Thân sơ gì mà hễ có chuyện không vừa ý là cô phản ứng mạnh bạo ngay.Cô lại có chân trong một thi văn đoàn nào đó, nghe ở đâu có họp mặt là cô đều tham dự. Tôi vốn i tờ cái khoản này nên lúc nào cũng ơ hờ, cô ấy phải giục mãi tôi mới đi dự cho phải phép. Cô bảo : có vợ có chồng, đi đâu em cũng muốn có anh theo, kẻo người ta lại đặt điều em với anh sống cảnh ông chẳng bà chuộc.Tôi bảo cô : anh có biết chữ nghĩa văn chương gì đâu mà tham dự. Đến đó nghệt mặt ra, trông buồn chết, người ta đem văn chương ra bàn luận, anh mù tịt thì còn ra nông nỗi gì. Nhưng cô ấy một hai bảo không sợ, có gì cô ấy đỡ cho.Đến nơi, cô ào ào như gió, lăn xả vào khắp chỗ, ghé nói chuyện người này một tí, lại đá gà sang người nọ một tẹo. Nhiều người biết cô, hâm mộ văn cô cũng có mà đề cập đến buổi họp nọ họp kia cũng có, khiến tôi luôn như rơi vào cái khoản dư thừa.Cô là phụ nữ mà hành động chẳng khác nam nhi. Cô nhắc đến một lần nào đó với khách, về một ứng xử nào đó trong buổi họp cộng đồng, rồi chả rõ hai người nói năng ra sao, cô hoạch toẹt tước ngay luôn cái clip huy hiệu trên vạt áo của ông ta. Mồm năm miệng mười, cô ta bảo : anh thụ động thế thì không xứng đáng đeo cái huy hiệu màu cờ này. Làm ông khách chưng hửng và hơi bẽ mặt cứ phải nhũn như con chi chi để cô trả lại cái huy hiệu.Thấy vậy, tôi chờ ông khách đi xa, tôi bảo cô ta : em xấn xổ quá, giữa chốn đông người, em làm vậy ông ta còn mặt mũi nào nữa. Cô ấy nhún nhảy : tính em phải dứt khoát, hoạt động cho cộng đồng là lập trường phải vững, choi choi là em cóc chịu được.Tâm tính cô ấy vốn thế, nóng cứ như Trương Phi, ào ào như các đấng nam nhi. Chỉ có ở gia đình là cô hiền và nhu đúng là bà vợ và bà mẹ. Cô dung dăng dung dẻ như thế khắp, ai mời cũng đến, ai quyến cũng đi, dường như sự hiện diện của cô cần thiết để cô bắt mạch đúng chân tướng của cộng đồng đang đi lên hay đi xuống vậy.Đi bên cạnh cô thét, đâm ra ai cũng quen mặt. Ai cũng hiểu tôi là ông xã của cô, nhưng tôi thì tôi lại thấy mình là cái rơ moóc lẳng nhẳng quẩn bên chân cô vậy. Kể ra có người vợ viết văn cũng thích, vô hình chung cũng tá ơm mưa móc chuyện viết lách văn chương. Người ta thì góp vô, còn tôi cứ lẳng lặng mà nghe để học hỏi.Dạo ấy, trông thấy cô lúc nào cũng nhởn nhơ phơi phới, tôi đã nghĩ còn lâu nhan sắc của cô mới chớm hồi tàn tạ. Cô không thuộc vào phái cực đẹp, nhưng dưới mắt tôi cô pơ phếch hết ý. Tóc cô mềm và lượn sóng như áng mây, mặt lúc nào cũng tươi hơn hớn, chưa nói đã cười, môi mọng hồng như hoa hàm tiếu.Bọn nhỏ bênh mẹ vẫn hay trêu tôi : bố may mà vớ được mẹ, chứ không thì chắc chẳng ai nhìn đến. Tôi chưa kịp nạt đe đám nhóc thì bà xã đã la bọn chúng : tụi mày không được hỗn với bố, mẹ về với nhà này là phúc lắm rồi, con nít con nôi nói bậy. Tôi thầm cám ơn cô.Vậy mà hôm cô nhận tin mẹ đau, người cô điếng đi một lúc. Cô khều khào thở ngắn than dài, luôn miệng lẩm bẩm : chết chết, thế này thì làm sao đây. Bà cụ ở với cô em tại một tiểu bang khác, cô loăng quăng đi ra đi vào. Tôi phải bảo : em làm gì rối beng lên thế, thì phóng ngay về xem mẹ ra sao, để bọn nhóc đây anh lo.Cô ấy ngần ngừ chưa chịu. Tôi phải kéo cô ra ngay quầy giao dịch vé, mua luôn chuyến bay để cô không từ chối. Buổi tối, sau khi cơm nước xong, tôi hối lũ trẻ thu bát đĩa vào sink, miệng bảo : để đó, bố về rửa sau và cả nhà hộ tống cô ấy ra phi trường cho kịp.Gà mẹ vừa đi vắng là lũ gà con nhao nhao, đứa bảo nhớ, đứa bảo quen ngủ với mẹ, giờ nằm chèo queo chán chết. Tụi nó làm tôi cũng bâng khuâng ngớ ngẩn lây. Đâu khoảng sau nửa đêm thì điện thoại dựng tôi dậy, tiếng cô hổn ha hổn hển : em vừa về tới mẹ, bọn nhóc ngủ chưa, em nhớ chúng nó quá. Tôi nghe sóng u u, mãi mãi mới nghe cô lí nhí : em cũng nhớ anh nữa. Tôi điếng cả người.Không hôm nào cô ấy không gọi về, ít là một lần hoặc nhiều nữa. Kể vanh vách bệnh trạng bà cụ và tỏ sự nôn nóng đòi về. Tôi nạt ngang : em đừng có vớ vẩn, lâu lâu mới về gần mẹ, em phải ở đến khi mẹ khỏe mới được. Đừng bỏ về mà mẹ giận, mà anh cũng không ưng. Cô ấy kể lể mối lo bọn nhỏ được tôi nuôi sật sờ e giảm cân hoặc sút người hết. Tính cô vốn thế, nhưng tôi phải nói mạnh để cô khỏi lo chuyện không đâu.Ấy thế mà bệnh trạng bà cụ bỗng dưng thành chuyện ngặt. Tôi ở nhà sốt ruột ghê gớm, như có ai châm chích, nhắc nhở tôi. Khi cô gọi về, chưa chi đã nghe cô òa khóc như ai đổ xòa đống cát cao vút vậy. Tôi hoảng hồn gắt : chuyện gì, chuyện gì ? Cô càng khóc toáng lên và bù lu bù loa kêu : mẹ mất rồi.Cha con tôi lại một phen thu vén lái xe đi ngay. Tang ma xong, trông cô không còn ra thể thống gì hết. Người cô mềm oặt như muốn đổ, tóc tai rũ rượi, mắt thâm quầng, môi héo, mặt rũ ra. Tôi phải lưu ý : mẹ mất thì yên phận rồi, còn em cũng nên thận trọng giữ gìn sức khỏe. Đừng âu sầu mà quị ra đó lại gây vạ thêm.Cô ừ ào cho qua, nhưng tôi biết rất khó vì cô quí bà cụ nhất. Cô tự xỉ vả mình : cứ hẹn lần hẹn lữa về sống gần cụ mà giăng giăng giở giở mãi không xong, giờ cụ mất mới biết là đại bất hiếu.Cô trở nên ít nói, ít cười, cả ngày lầm lì héo hắt. Tôi gạ đưa mẹ con đi nơi này nơi khác cho cô khuây khỏa, nhưng cô không nghe. Tôi cố tỏ ra chân chỉ để cô vui lòng, buổi tối nằm cạnh nhau, cô hết thở dài lại thở ngắn. Tôi có cáu bẳn thì cô khéo léo xí xóa rất nhanh khiến tôi phải khẩu phục, tâm phục.Thế nhưng, một lần, đứng nhìn cô chải đầu, tôi choáng người khi thấy mớ đuôi tóc bên trán phải của cô bạc trắng cả. Tôi nghĩ đó không còn những sợi tóc mềm tơ óng muột mà như ai đang ghép một dúm bông gòn vào. Tôi hốt hoảng nói với nàng : chết, chết, sao tóc em nhuốm bạc dữ vậy.Cô ngước trông vẻ sầu thảm, ấp úng gì đó lại thôi. Tôi phải giở trò nói dỗi : anh đã bảo mà em không nghe, cứ khăng khăng ủ ấp nỗi đau trong lòng. Anh hỏi em dù có buồn nẫu ruột ra, liệu mẹ có sống lại không. Còn em làm cho cả nhà lây điều phiền não, em nghĩ em có nằm quay ra đó thì lũ nhóc và anh chắc vui lắm hẳn.Nàng chẳng đôi co gì mà chỉ luôn mồm một hai xin lỗi tôi. Và cô ấy lôi hết đứa này đến đứa khác ôm chặt vào lòng, miệng liến thoắng : con của mẹ, tội con của mẹ. Sau này, nàng vẫn lai rai đi dự các buổi sinh hoạt văn nghệ nhưng nín khe. Nàng lảng vảng vòng ngoài, ai chào thì cô cười gượng gúc gúc cái đầu đáp lễ. Chẳng thấy cô ào ào như trước, thậm chí những bài phát biểu cô đều nghe tiếng được tiếng mất và nhanh nhanh rút dù, đòi về vì mệt.Có lẽ mọi người đều nhận ra sự khác lạ này nơi cô, song cũng có lẽ người ta tôn trọng niềm đau mất mẹ còn mới quá nên ai cũng tránh đề cập với cô về tâm trạng trên. Tuy nhiên, điều không ai nói ra đều âm thầm công nhận là nhan sắc con người vốn mỏng manh và vô thường, chẳng ai lường được còn giữ đến bao lâu giữa cuộc đời có có không không này.Huân Long
Mục lục
NHAN SẮC
NHAN SẮC
Huân LongChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.
Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: Tác giả / vnthuquanĐược bạn: mrs đưa lên vào ngày: 28 tháng 12 năm 2007
|
Khuê Việt Trường
Nhan Sắc Mùa Xuân
- Thôi mi thay đồi rồi đi chơi với tụi nó đi.Chị Hạnh vùng vằng, đứng dậy bỏ đi xuống nhà dưới. Con nhỏ Lan ngơ ngác, trố mắt nhìn tôi. Nó không hiểu "mô tê" chi hết: "Sao chị Hạnh giận tụi mình ha". Tôi cười: "Không có sao đâu". Rồi tôi chuẩn bị thay quần áo để đi chợ tết với Lan. Khi tôi nói vọng ra sau: "Chị Hạnh ơi ,em đi nghen" thì không nghe tiếng trả lời. Còn mấy ngày nữa là tết, không khí tết đã tràn khắp cùng thôn xóm, nấy lần tôi rủ chị Hạnh đi chơi chung với tôi và bè bạn mà chị nhất định không đi. Chị nói: "Thôi tụi mi đi đi, tao mà đi đâu, chỉ tội làm chật chân tụi bây". Rồi chị lại đi lo công việc của mình.Chị Hạnh là bà con xa của tôi, chị về ở với gia đình tôi từ ngày còn nhọ Nghe nói, quê chị Ở Huế, sau một trận lụt, người dân làng quê chị đều lên đường tha phương cầu thực - cha mẹ chị cũng đã qua đời trong trận lụt ấy. Mẹ đem chị về nuôi, coi chị như con ruột, tất nhiên tôi coi chị cũng như người chị ruột của mình. Chị Hạnh đẹp, mà lạ kỳ chưa, dường như cô gái Huế nào cũng đẹp và hiền dịu. Tuy nhiên, bên cạnh sự hiền thục ấy, thì trong cơn thiên tai, chị đã bị tai nạn khiến cho chân trái của chị bị thương, không còn nguyên vẹn - chị đi đứng không còn bình thường cho nên chị luôn mang đầy mặc cảm. Hiếm hoi lắm chị Hạnh mới bước ra khỏi nhạ Chị nói: "Tao mà đi ra đường , cái chân cà thọt chỉ chọc chúng nó cười"... Đối với tôi, những buồn vui của mình gần như chỉ có chị Hạnh để chia sẽ, chị dạy cho tôi biết bao nhiêu điều. Khi thấy tôi nghịch ngợm lấy hộp phấn trang điểm của chị ra ngồi trước gương, chị nói:- Đừng vội tô son lên mình làm chi vội Lệ a Người ta chỉ tô son khi đời có quá nhiều nỗi buồn.Tôi cười:- Em cũng hay buồn, bộ chị không thấy a?- Một kiểu buồn con nít mà nói làm chi.Mỗi năm, cứ vào những ngày cận tết thì chị Hạnh lại leo lên con tàu Thống Nhất để về lại Huệ Chị nói, không thể để cho mồ mả cha mẹ thiếu khói nhang - Làm con cái mà để như vậy là tội bất hiếu. Nhưng năm nay chị sẽ không về Huế nữa vì mùa hè vừa rồi chị đã bốc mộ Ông bà đem về thờ trong một ngôi chùa. Tết mà có chị Hạnh ở lại, tôi sẽ nhàn hạ hơn nhiều, không phải lo đủ mọi chuyện linh tinh như những cái tết trước. Chị Hạnh quả thật là một người con gái đảm đang và tháo vác việc nhà - mảnh đất trước sân nhà bao nhiêu năm bỏ trống, giờ đây không biết chị vun xới tìm giống như thế nào mà giờ đây ở đó đã trở thành một vườn hoa cúc trắng xinh đẹp. Tôi không hiểu tại sao chị không trồng xen một thứ cỏ cây nào khác. Có một hôm tôi nghịch ngợm đem về những bông hoa mười giờ, lén trồng viền chung quanh những khóm cúc trắng của chi Hôm sau chị đã nhổ những bông hoa mười giờ ném ra đường, cằn nhằn: "Tao ghét cái thứ hoa sớm nở tối tàn này lắm".Vậy đó, thế giới của chị Hạnh và thế giới của tôi là hai thế giới hoàn toàn khác nhau. Tôi dạo phố với những con đường mỗi mùa thay đổi. Chị Hạnh trầm tư bên những khóm hoa cúc trắng của mình. Tôi ồn ào cười nói và nhạy cảm với bao chuyện rất lẩm cẩm trong thế giới riêng mình. Chị Hạnh thì giấu kín những tình cảm riêng tư.Đôi lúc tôi hỏi chị: "Chị Hạnh ơi, chị yêu ai bao giờ chưa?". Chị Hạnh lắc đầu: "Ai mà dám yêu cái con đi cà thọt?!". Lòng chị mang đầy những mặc cảm. Những khi buồn, khuôn mặt chị càng hiện rọ Có thể vì không muốn buồn một mình mà chị Hạnh đã không về Huế ăn tết.Nhỏ Lan rỉ tai tôi: "Mày có thấy chị Hạnh đẹp không?". Tôi nhìn nó: "Mắc mơ gì mày". "Mấy ngày tết chị Hạnh có đi đâu không?". "Không". "Tao có cách này.". Tôi trừng mắt nhìn nó: "Mày đừng có giỡn ". "Tao có giỡn đâu, tao thấy thương chị Hạnh quá".Mùa xuân tàn phai nhanh, không phải ở trên ngọn cây, cũng không phải bởi lá non đã gia. Mà mùa xuân đã lẳng lặng rụng những cánh hoa mai cắm trong phòng khách. Giờ đây, cành mai xinh đẹp hôm nào lại trở thành một nhánh cây khô, thật tội nghiệp.Vườn hoa cúc của chị Hạnh thì không cần biết mùa xuân đã đi qua hay còn ở lại, vẫn thản nhiên nở những bông hoa trắng xinh đẹp dưới bàn tay chăm sóc của chị Hạnh. Hàng này, chị Hạnh càng chăm sóc những bông hoa của mình kỹ càng hơn. Điều bí ẩn của chị, chị không tiết lộ cho tôi - đó là thỉnh thoảng chị lại nhận được một lá thư của một người giấu mặt. Có lần, khi thấy bóng tôi, chị đã vội vàng giấu lá thư ra phía sau lưng.Chị Hạnh không hề biết đó là những lá thư do nhỏ Lan soạn thảo ra. Chị cất tất cả trong một chiếc hộp sắt tây cũ, khi còn một mình thì chị lại mở ra đọc.Tôi không biết nhỏ Lan viết gì trong đọ Đến trường nó lại hỏi thăm: "Chị Hạnh hết buồn chưa hở Lể". Tôi trừng mắt nhìn nó: "Đùa vừa thôi".Cứ thế, những lá thư gởi tới đều đặn. Những bông cúc cũ tàn lụi, chị Hạnh lại trồng thêm những bông cúc mới.Mùa xuân lại sắp sửa trở vê.Những ngày cuối năm chị Hạnh lại tất bật với công việc của mình. Thỉnh thoảng tôi lại thấy chị ngồi thừ người nhìn ra đường phộ Chị ngóng những chuyến xe thự Trò chơi của nhỏ Lan đã gieo vào lòng chị một điều không tả nổi.Một hôm chị hỏi tôi:- Lệ, em có biết đường X. không?- Có gì không chị Hạnh?- Chị muốn em đem đến đó giùm chị một lá thư.Đường X và cái địa chỉ bí ẩn do nhỏ Lan mượn để viết. Tôi quýnh quáng:- Sao chị không gởi qua bưu điện?Chị thở dài:- Ờ, có lẽ một người có đôi chân không bình thường như chị thì ai ngó ngàng tới.Rồi chị bảo tôi chở chị ra phộ Nắng cuối năm dịu mềm và long lanh những sắc lá trên đường phộ Chị bảo tôi chờ ngang phố X, chị bảo đi chậm lại. Chị ngoái nhìn vào trong. Rồi chị bảo đạp xe quạ Tim tôi như thắt lại vì điều gian dối của mình.Ba mươi tết thì chị ngã bện. Vườn hoa cúc trắng không người chăm sóc cũng héo tàn theo chụ Tự dưng tôi lại dạp xe đến phố X. - ngôi nhà chìm khuất trong những cụm hoa tigôn hồng nhạt. Tôi gõ cửa, một người đàn ông xuất hiện:- Cô bé kiếm ai vậy?- Ông ơi, chị Hạnh.Tôi không hiểu mình đã nói với ông ta những gị Ai lại rảnh rang trong chiều ba mươi tết đẻ làm một chuyện tào lao?Cơn đau đánh gục chị Hạnh một cách nhanh chóng. Khi buổi sáng bắt đầu, chị lại bảo tôi mở rộng cửa sổ để chị có thể nhình rỏ con đường. Lúc đầu tôi tưởng chị muốn mở rộng cửa cho thoáng mát, rồi tôi chợt hiểu khi người đưa thư lại lặng lẽ đạp xe qua không dừng lại. Chị Hạnh đợi một lá thư không bao giờ gởi tới.Cho đến một buổi chiều, khi tôi vừa bước về nơi đầu ngỏ đã thoáng nghe tiếng chị Hạnh cười nói giòn tan. Trên bàn là một bó hoa cúc trắng.Tôi cúi chào người đàn ông đang nói chuyện với chi Trong ánh sáng mờ mờ, tôi chợt nhận ra người đàn ông của ngôi nhà X.Tôi đứng ngồi không yên, cho đến khi người đàn ông từ giã chị ra vệ Tôi chặn ông ta ngay đầu ngõ:- Cô bé đó à, tôi đã tới theo lời yêu cầu của cô.Tôi ấp úng:- Nhưng chị Hạnh bị... bị... đôi chân.- Tôi lại nghĩ khác, chị cô là một người chị tuyệt vời.- Đừng làm cho chị tuyệt vọng.Tại sao tôi lại nói với ông ta điều đỏ Có lẽ vì tôi sợ trái tim chị Hạnh tan nát?Tôi trở vào nhà. Chị Hạnh đã cắm những đóa hoa cúc trắng vào trong chiếc lọ... Chị đang châm lửa đốt những lá thự Ngọn lửa cháy bùng lên từng chập. Tôi im lặng đứng nhìn. Cho đến khi đốt đến lá thư cuối cùng, chị nói:- Chị biết hết rồi, Lê.Tôi chưa biết mở lời như thế nào thì chị nói tiếp:- Chợ tết có còn bán không? Em cho chị đi với nha?Gương mặt chị rạng rỡ hẳn ra. Và trên bàn nơi góc phòng của chị, tôi đã thấy chị cắm một lọ hoa cúc trắng. Mùa xuân đang bắt đầu có phải?Hết
Mục lục
Nhan Sắc Mùa Xuân
Nhan Sắc Mùa Xuân
Khuê Việt TrườngChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.
Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: may4phuong.netĐược bạn: mickey đưa lên vào ngày: 20 tháng 3 năm 2004
|
Khuê Việt Trường
Nhan Sắc Mùa Xuân
- Thôi mi thay đồi rồi đi chơi với tụi nó đi.Chị Hạnh vùng vằng, đứng dậy bỏ đi xuống nhà dưới. Con nhỏ Lan ngơ ngác, trố mắt nhìn tôi. Nó không hiểu "mô tê" chi hết: "Sao chị Hạnh giận tụi mình ha". Tôi cười: "Không có sao đâu". Rồi tôi chuẩn bị thay quần áo để đi chợ tết với Lan. Khi tôi nói vọng ra sau: "Chị Hạnh ơi ,em đi nghen" thì không nghe tiếng trả lời. Còn mấy ngày nữa là tết, không khí tết đã tràn khắp cùng thôn xóm, nấy lần tôi rủ chị Hạnh đi chơi chung với tôi và bè bạn mà chị nhất định không đi. Chị nói: "Thôi tụi mi đi đi, tao mà đi đâu, chỉ tội làm chật chân tụi bây". Rồi chị lại đi lo công việc của mình.Chị Hạnh là bà con xa của tôi, chị về ở với gia đình tôi từ ngày còn nhọ Nghe nói, quê chị Ở Huế, sau một trận lụt, người dân làng quê chị đều lên đường tha phương cầu thực - cha mẹ chị cũng đã qua đời trong trận lụt ấy. Mẹ đem chị về nuôi, coi chị như con ruột, tất nhiên tôi coi chị cũng như người chị ruột của mình. Chị Hạnh đẹp, mà lạ kỳ chưa, dường như cô gái Huế nào cũng đẹp và hiền dịu. Tuy nhiên, bên cạnh sự hiền thục ấy, thì trong cơn thiên tai, chị đã bị tai nạn khiến cho chân trái của chị bị thương, không còn nguyên vẹn - chị đi đứng không còn bình thường cho nên chị luôn mang đầy mặc cảm. Hiếm hoi lắm chị Hạnh mới bước ra khỏi nhạ Chị nói: "Tao mà đi ra đường , cái chân cà thọt chỉ chọc chúng nó cười"... Đối với tôi, những buồn vui của mình gần như chỉ có chị Hạnh để chia sẽ, chị dạy cho tôi biết bao nhiêu điều. Khi thấy tôi nghịch ngợm lấy hộp phấn trang điểm của chị ra ngồi trước gương, chị nói:- Đừng vội tô son lên mình làm chi vội Lệ a Người ta chỉ tô son khi đời có quá nhiều nỗi buồn.Tôi cười:- Em cũng hay buồn, bộ chị không thấy a?- Một kiểu buồn con nít mà nói làm chi.Mỗi năm, cứ vào những ngày cận tết thì chị Hạnh lại leo lên con tàu Thống Nhất để về lại Huệ Chị nói, không thể để cho mồ mả cha mẹ thiếu khói nhang - Làm con cái mà để như vậy là tội bất hiếu. Nhưng năm nay chị sẽ không về Huế nữa vì mùa hè vừa rồi chị đã bốc mộ Ông bà đem về thờ trong một ngôi chùa. Tết mà có chị Hạnh ở lại, tôi sẽ nhàn hạ hơn nhiều, không phải lo đủ mọi chuyện linh tinh như những cái tết trước. Chị Hạnh quả thật là một người con gái đảm đang và tháo vác việc nhà - mảnh đất trước sân nhà bao nhiêu năm bỏ trống, giờ đây không biết chị vun xới tìm giống như thế nào mà giờ đây ở đó đã trở thành một vườn hoa cúc trắng xinh đẹp. Tôi không hiểu tại sao chị không trồng xen một thứ cỏ cây nào khác. Có một hôm tôi nghịch ngợm đem về những bông hoa mười giờ, lén trồng viền chung quanh những khóm cúc trắng của chi Hôm sau chị đã nhổ những bông hoa mười giờ ném ra đường, cằn nhằn: "Tao ghét cái thứ hoa sớm nở tối tàn này lắm".Vậy đó, thế giới của chị Hạnh và thế giới của tôi là hai thế giới hoàn toàn khác nhau. Tôi dạo phố với những con đường mỗi mùa thay đổi. Chị Hạnh trầm tư bên những khóm hoa cúc trắng của mình. Tôi ồn ào cười nói và nhạy cảm với bao chuyện rất lẩm cẩm trong thế giới riêng mình. Chị Hạnh thì giấu kín những tình cảm riêng tư.Đôi lúc tôi hỏi chị: "Chị Hạnh ơi, chị yêu ai bao giờ chưa?". Chị Hạnh lắc đầu: "Ai mà dám yêu cái con đi cà thọt?!". Lòng chị mang đầy những mặc cảm. Những khi buồn, khuôn mặt chị càng hiện rọ Có thể vì không muốn buồn một mình mà chị Hạnh đã không về Huế ăn tết.Nhỏ Lan rỉ tai tôi: "Mày có thấy chị Hạnh đẹp không?". Tôi nhìn nó: "Mắc mơ gì mày". "Mấy ngày tết chị Hạnh có đi đâu không?". "Không". "Tao có cách này.". Tôi trừng mắt nhìn nó: "Mày đừng có giỡn ". "Tao có giỡn đâu, tao thấy thương chị Hạnh quá".Mùa xuân tàn phai nhanh, không phải ở trên ngọn cây, cũng không phải bởi lá non đã gia. Mà mùa xuân đã lẳng lặng rụng những cánh hoa mai cắm trong phòng khách. Giờ đây, cành mai xinh đẹp hôm nào lại trở thành một nhánh cây khô, thật tội nghiệp.Vườn hoa cúc của chị Hạnh thì không cần biết mùa xuân đã đi qua hay còn ở lại, vẫn thản nhiên nở những bông hoa trắng xinh đẹp dưới bàn tay chăm sóc của chị Hạnh. Hàng này, chị Hạnh càng chăm sóc những bông hoa của mình kỹ càng hơn. Điều bí ẩn của chị, chị không tiết lộ cho tôi - đó là thỉnh thoảng chị lại nhận được một lá thư của một người giấu mặt. Có lần, khi thấy bóng tôi, chị đã vội vàng giấu lá thư ra phía sau lưng.Chị Hạnh không hề biết đó là những lá thư do nhỏ Lan soạn thảo ra. Chị cất tất cả trong một chiếc hộp sắt tây cũ, khi còn một mình thì chị lại mở ra đọc.Tôi không biết nhỏ Lan viết gì trong đọ Đến trường nó lại hỏi thăm: "Chị Hạnh hết buồn chưa hở Lể". Tôi trừng mắt nhìn nó: "Đùa vừa thôi".Cứ thế, những lá thư gởi tới đều đặn. Những bông cúc cũ tàn lụi, chị Hạnh lại trồng thêm những bông cúc mới.Mùa xuân lại sắp sửa trở vê.Những ngày cuối năm chị Hạnh lại tất bật với công việc của mình. Thỉnh thoảng tôi lại thấy chị ngồi thừ người nhìn ra đường phộ Chị ngóng những chuyến xe thự Trò chơi của nhỏ Lan đã gieo vào lòng chị một điều không tả nổi.Một hôm chị hỏi tôi:- Lệ, em có biết đường X. không?- Có gì không chị Hạnh?- Chị muốn em đem đến đó giùm chị một lá thư.Đường X và cái địa chỉ bí ẩn do nhỏ Lan mượn để viết. Tôi quýnh quáng:- Sao chị không gởi qua bưu điện?Chị thở dài:- Ờ, có lẽ một người có đôi chân không bình thường như chị thì ai ngó ngàng tới.Rồi chị bảo tôi chở chị ra phộ Nắng cuối năm dịu mềm và long lanh những sắc lá trên đường phộ Chị bảo tôi chờ ngang phố X, chị bảo đi chậm lại. Chị ngoái nhìn vào trong. Rồi chị bảo đạp xe quạ Tim tôi như thắt lại vì điều gian dối của mình.Ba mươi tết thì chị ngã bện. Vườn hoa cúc trắng không người chăm sóc cũng héo tàn theo chụ Tự dưng tôi lại dạp xe đến phố X. - ngôi nhà chìm khuất trong những cụm hoa tigôn hồng nhạt. Tôi gõ cửa, một người đàn ông xuất hiện:- Cô bé kiếm ai vậy?- Ông ơi, chị Hạnh.Tôi không hiểu mình đã nói với ông ta những gị Ai lại rảnh rang trong chiều ba mươi tết đẻ làm một chuyện tào lao?Cơn đau đánh gục chị Hạnh một cách nhanh chóng. Khi buổi sáng bắt đầu, chị lại bảo tôi mở rộng cửa sổ để chị có thể nhình rỏ con đường. Lúc đầu tôi tưởng chị muốn mở rộng cửa cho thoáng mát, rồi tôi chợt hiểu khi người đưa thư lại lặng lẽ đạp xe qua không dừng lại. Chị Hạnh đợi một lá thư không bao giờ gởi tới.Cho đến một buổi chiều, khi tôi vừa bước về nơi đầu ngỏ đã thoáng nghe tiếng chị Hạnh cười nói giòn tan. Trên bàn là một bó hoa cúc trắng.Tôi cúi chào người đàn ông đang nói chuyện với chi Trong ánh sáng mờ mờ, tôi chợt nhận ra người đàn ông của ngôi nhà X.Tôi đứng ngồi không yên, cho đến khi người đàn ông từ giã chị ra vệ Tôi chặn ông ta ngay đầu ngõ:- Cô bé đó à, tôi đã tới theo lời yêu cầu của cô.Tôi ấp úng:- Nhưng chị Hạnh bị... bị... đôi chân.- Tôi lại nghĩ khác, chị cô là một người chị tuyệt vời.- Đừng làm cho chị tuyệt vọng.Tại sao tôi lại nói với ông ta điều đỏ Có lẽ vì tôi sợ trái tim chị Hạnh tan nát?Tôi trở vào nhà. Chị Hạnh đã cắm những đóa hoa cúc trắng vào trong chiếc lọ... Chị đang châm lửa đốt những lá thự Ngọn lửa cháy bùng lên từng chập. Tôi im lặng đứng nhìn. Cho đến khi đốt đến lá thư cuối cùng, chị nói:- Chị biết hết rồi, Lê.Tôi chưa biết mở lời như thế nào thì chị nói tiếp:- Chợ tết có còn bán không? Em cho chị đi với nha?Gương mặt chị rạng rỡ hẳn ra. Và trên bàn nơi góc phòng của chị, tôi đã thấy chị cắm một lọ hoa cúc trắng. Mùa xuân đang bắt đầu có phải?Hết
Mục lục
Nhan Sắc Mùa Xuân
Nhan Sắc Mùa Xuân
Khuê Việt TrườngChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.
Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: may4phuong.netĐược bạn: mickey đưa lên vào ngày: 20 tháng 3 năm 2004
|
Anton Tsekhov
Nhu Nhược
Một hôm tôi gọi cô Iulia Vasilievna - gia sư của bọn trẻ đến phòng làm việc. Đã đến hạn thanh toán tiền công cho cô ấy.Cô ngồi xuống đi, cô Iulia Vasilievna - tôi nói - tôi sẽ thanh toán tiền công cho cô. Tôi chắc cô cũng cần tiền, nhưng là một người tự trọng nên chắc cô không tiện hỏi, đúng không? Chúng ta đã thoả thuận với nhau là 30 rúp một tháng nhỉ.40 rúp chứ ạ...Không, chỉ 30 rúp thôi. Tôi có ghi vào sổ rồi mà. Bao giờ tôi cũng chỉ trả cho gia sư 30 rúp một tháng thôi. Xem nào, cô đã làm cho chúng tôi hai tháng rồi nhỉ.Hai tháng 5 ngày ạ....Không chính xác hai tháng. Tôi có ghi đây mà. Vậy là phải trả cho cô 60 rúp... trừ đi 9 ngày chủ nhật... Các chủ nhật cô chỉ đưa thằng Koha đi dạo thôi mà, có học hành gì đâu... cộng 3 ngày lễ...Cô Iulia Vasilevna mặt đỏ bừng, tay mân mê gấu áo, nhưng vẫn không nói gì.9 chủ nhật, 3 ngày lễ vị chi là 12 rúp. Thằng Kolia bị ốm mất 4 hôm, không học, cô chỉ trông mỗi con Va ria... 3 ngày cô bị đau răng vợ tôi cho cô nghỉ buổi chiều... 12 với 7 là 19. Sáu mươi rúp trừ đi 19 rúp, vậy chỉ còn 41 rúp, đúng không cô?Mắt trái của cô Iuìia đỏ ngầu và ngân ngấn nước mắt, cằm cô run lên bần bật. Nhưng chỉ thấy cô ho và xì mũi, tuyệt nhiên không nói lời nào!Đêm giao thừa cô đánh vỡ cái tách uống trà với các đĩa cùng bộ. Tôi sẽ trừ tiền lương của cô đi 2 rúp nữa... Thực ra cái tách ấy đắt hơn kia, vì đó là đồ gia bảo mà, nhưng thôi! Cũng không nên so đo quá với cô. Một lần do cô không cẩn thận đã để thằng Kolia trèo lên cây làm rách mất chiếc áo khoác... Trừ thêm 10 rúp nữa... Rồi cũng vì cô lơ là nên con hầu đã ăn cắp mất đôi giày của con Varia. Cô phải trông nom chúng cẩn thận chứ. Tôi trả lương để cô dạy dỗ và trông chúng nó cơ mà...Vậy trừ tiếp 5 rúp... Hôm mồng 10 tháng giêng cô mượn của tôi 10 rúp...- Tôi có mượn đâu ạ... Giọng cô Iulia nghèn nghẹn.- Tôi đã ghi cả đây mà lị.- Vâng, thế cũng được ạ.- Vậy là 41 trừ đi 27 còn lại 14.Lúc này thì hai mắt cô giáo trẻ đã đầy nước... Trên chiếc mũi thanh, cao của cô đã lấm tấm mồ hôi. Thật tội nghiệp!Tôi chỉ vay vợ ông có 3 rúp - giọng cô run run - Đúng có một lần 3 rúp mà thôi. Thế à? Vậy mà tôi không hề biết gì cả. Thảo nào trong sổ tôi không thấy ghi. 14 rúp trừ 8 còn 11. Đây, tiền lương của cô đây, cô giáo thân mến ạ! 3 này, 3 này, 8 này, 1 rúp, 1rúp. Xin cô nhận cho?Và tôi đưa cho cô 11 rúp. Cô nhận lấy chúng bằng những ngón tay run rẩy rồi nhét vào túi.Cám ơn ông - cô nói thì thầm.Tôi đứng dậy và tiến lại phía cô. Một sự tức giận xâm chiếm lấy tôi. Tôi cáu phát điên lên.- Cô cám ơn cái gì? - Tôi sẵng giọng.Vì ông đã trả lương cho tôi...Nhưng cô không thấy là tôi ăn chặn của cô, bóc lột cô hay sao? Cô còn cám ơn cái nỗi gì?Ở những nơi khác người ta còn chẳng trả cho tôi đồng nào kia. Không trả ư? Cũng dễ hiểu thôi! Thì tôi cũng vừa đùa cô đấy thôi. Tôi muốn dạy cho cô một bài học. Nhưng xin cô cứ yên tâm, tôi sẽ trả đủ 80 rúp cho cô. Chúng ở trong chiếc phong bì kia kìa, tôi đã chuẩn bị sẵn rồi. Nhưng tôi không hiểu tại sao cô lại có thể nhẫn nhức đến thế? Sao cô không cãi lại tôi? Sao cô cứ ngồi im như thóc thế. Chẳng lẽ có thể nhu nhược đến thế sao? Cô giáo mỉm cười rầu rĩ và tôi đã đọc được trên mặt cô hai chữ "có thể". Tôi đã xin lỗi cô gia sư vì bài học tàn nhẫn vừa rồi và đưa cho cô cả 80 rúp mà cô đáng được nhận trong sự ngạc nhiên đến tột độ của cô. Cô ngượng nghịu cảm ơn và lui ra. Tôi nhìn theo cô hồi lâu và chợt nghĩ: "Trên đời này làm kẻ mạnh mới dễ làm sao!"
Mục lục
Nhu Nhược
Nhu Nhược
Anton TsekhovChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.
Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: MaiyeuemĐược bạn: Ct.Ly đưa lên vào ngày: 4 tháng 7 năm 2005
|
Anton Tsekhov
Sybaritic
One day I called Miss Iulia Vasilievna - the children's tutor - to my office. It is time to pay her wages. Sit down, Iulia Vasilievna - I said - I will pay you. I'm sure you also need money, but as a self-respecting person, it's probably not convenient for you to ask, right? We agreed on 30 rubles a month. 40 rubles... No, just 30 rubles. I already wrote it down in the notebook. I always pay the tutor only 30 rubles a month. Let's see, you've been working for us for two months now. Two months and 5 days... Not exactly two months. I wrote it down here. So I have to pay you 60 rubles... minus 9 Sundays... On Sundays you only take Koha for a walk, you don't study anything... plus 3 holidays...Miss Iulia Vasilevna's face turned red, her hand fiddled with the hem of her shirt, but still said nothing. 9 Sundays, 3 holidays, that's 12 rubles. Kolia was sick for 4 days, didn't go to school, she only looked after Va ria... For 3 days she had a toothache, my wife let her take the afternoon off... 12 plus 7 is 19. Sixty rubles minus 19 rubles , so there are only 41 rubles left, right? Ms. Iuìia's left eye was bloodshot and filled with tears, her chin trembled. But I only saw her coughing and blowing her nose, absolutely not saying a word! On New Year's Eve, she broke the tea cup and matching plates. I'll deduct another 2 rubles from your salary... Actually, that cup is more expensive than that one, because it's a family heirloom, but oh well! You shouldn't compare too much with her. One time, because she wasn't careful, she let Kolia climb up a tree and tore her coat... Deducted another 10 rubles... Then because she was negligent, the maid stole Varia's shoes. You must look after them carefully. I paid you to teach and look after them... So deduct 5 rubles... On the 10th of January you borrowed 10 rubles from me...- I didn't borrow it... Miss Iulia's voice choking.- I wrote it all down.- Yes, that's fine.- So 41 minus 27 leaves 14. At this point, the young teacher's eyes were filled with tears... On her thin nose, Her waist was covered with sweat. Poor thing! I only borrowed 3 rubles from your wife - her voice trembled - Only 3 rubles once. Really? Yet I didn't know anything. No wonder I don't see it written in the book. 14 rubles minus 8 is 11. Here, here is your salary, dear teacher! 3 this, 3 this, 8 this, 1 ruble, 1 ruble. Please accept it? And I give you 11 rubles. She took them with trembling fingers and stuffed them into her pocket. Thank you - she whispered. I stood up and walked towards her. An anger took over me. I got so angry. - What are you thanking me for? - I said flatly. Because you paid me... But don't you see that I'm stealing from you and exploiting you? Why are you thanking me? In other places, people don't even pay me any money. Don't pay? It's easy to understand! Well, I was just kidding you. I want to teach you a lesson. But please rest assured, I will pay you the full 80 rubles. They're in that envelope, I've already prepared them. But I don't understand why she can be so patient? Why don't you argue with me? Why do you keep sitting so still? Is it possible to be so weak? The teacher smiled sadly and I read the word "maybe" on her face. I apologized to the tutor for the cruel lesson and gave her the 80 rubles she deserved to her utter surprise. She awkwardly thanked him and left. I looked at her for a long time and suddenly thought: "In this world, it's easy to be strong!"
Table of contents
Sybaritic
Sybaritic
Anton TsekhovWelcome to read the first book from the book project for mobile devices. Source: author: Nguyen Kim Vy.
Final words: Thank you for reading the entire story. Source: editor: Nguyen Kim Vy. Source: Maiyeuem Uploaded by friend: Ct.Ly on: July 4, 2005
|
Nguyễn Thị Hoàng Oanh
Nhà Báo Nữ
Nữ thuộc chòm sao Song Ngư - Nữ nghe thầy phán những người thuộc chòm sao Song Ngư có mạng Đại Hải Thủy, tức nước biển lớn, trong sự nghiệp và tình yêu sẽ thênh thang như biển, cuộn trào như sóng nhưng cũng lắm khi dông tố bão bùng. Nữ nghe thầy phán - tính Nữ ở hiền, thẳng thắn, nghĩ gì nói nấy, không quanh co xã giao lại chẳng xiên xỏ người, vì vậy Nữ có ít bạn nhưng đều thân cả. Số Nữ đào hoa, gặp nhiều người tốt nhưng Nữ vốn ưa phiêu lưu, ưa đi lại, ưa điều mới lạ nên trí thì thông mà tâm lại khổ…***“Trí thì thông mà tâm lại khổ”… Bao nhiêu năm nay câu phán ấy cứ mãi ám ảnh Nhà Báo Nữ. Ừ, trí thì thông thật. Nhà Báo Nữ đã đi rất nhiều nơi, gặp rất nhiều người, nghe rất nhiều điều, thấy rất nhiều chuyện. Và Nhà Báo Nữ cũng đọc rất nhiều sách, viết rất nhiều trang. Ở mỗi nơi đi qua đều lưu dấu lại trong lòng Nhà Báo Nữ một chút gì đó, đều khiến cô cảm thấy lưu luyến bồi hồi. Nhưng chỉ vậy thôi, Nhà Báo Nữ lại háo hức lên đường tìm đến những vùng đất mới, lại quần jean, áo khoác, lại lỉnh kỉnh máy ảnh, ống zoom, lại những bữa cơm bụi dọc đường, lại những đêm lang thang trên đất người, lại những chuyến bay dài vô tận… và lại một mình.Đã biết bao lần một mình như thế. Có chút tiếng tăm, Nhà Báo Nữ lại càng một mình. Và đáng buồn thay, Nhà Báo Nữ lại không lo lắng gì về điều đó. Số đào hoa gặp rất nhiều người tốt, tốt cả mọi thứ nhưng “sợ nhất là người ta không hiểu mình!” - Nhà Báo Nữ thầm nghĩ. Đối với Nhà Báo Nữ thì hiểu nhau là điều quan trọng nhất trong tình yêu - hiểu để mà thông cảm cho nhau. Thực ra cái chữ “cho nhau” này hơi bị thừa, đúng hơn là chỉ cho riêng mình Nhà Báo Nữ thôi.***Tết vừa rồi, Nhà Báo Nữ về quê sau bao tháng ngày phiêu lưu khắp nơi. Nhìn quê hương đổi mới, tắm trong cái hương vị biển mặn mòi, Nhà Báo Nữ chợt thấm mệt, thèm một giấc ngủ bình yên trên đất mẹ, thèm một tô cơm cá kho cay đến cháy lòng. Chợt điện thoại reng. “Alô” - “Mày hả con quỉ, bây giờ là mấy giờ rồi? Nhà báo gì mà lề mề quá!” - À, họp lớp. Có tiếng nhao nhao ở đầu dây bên kia: “Nó mà đến là xử luôn, bạn bè gì mà mấy năm rồi không thèm đi họp lớp!” - À, thằng Mỏ Nhọn Nhất Lớp đây mà. Bỗng “oe… oe…”. Ủa? Sao lại có cả trẻ con ở đây nhỉ? - À, … “OK, tao tới liền, sẽ có quà cho tất cả bọn bay!”.Giỏi Văn Nhất Lớp đến khi cả bọn đang xúm xít quanh một thiên thần. Thiên thần đang nằm trong nôi, trắng nõn, tay chân cứ ngọ nguậy liên tục như đang bức xúc điều gì. Con của thằng Đẹp Trai Nhất Lớp rất giống bố, nhất là cái đầu bum quá khổ. Gớm! Nhỏ Đẹp Gái Nhất Lớp ốm thế mà tài, nặn ra được thằng cu kháu lạ. Giỏi Văn Nhất Lớp mừng tuổi cho nó, cái miệng nó cứ phèo phèo nước miếng văng lên tung tóe. Nước bọt trẻ con không hôi chút nào, lại còn thơm mùi sữa, Giỏi Văn Nhất Lớp cũng chẳng buồn lau.Giỏi Văn Nhất Lớp đứng thu mình vào một góc để quan sát những khuôn mặt người. Thời gian đã đi qua trên những khuôn mặt ấy, có kẻ già hơn do trang điểm, có kẻ lại già đi bởi mưa nắng cuộc đời. Nhất là những đôi mắt, mắt này là của nhà nghiên cứu đờ đi sau cặp kính trắng; mắt này là của lái buôn láo liên; mắt này là của kẻ lắm tiền khinh khỉnh mâm trên; mắt này là của người nghèo khổ vằn lên những tia máu… nhưng dẫu sao đó vẫn là những đôi mắt hạnh phúc, những đôi mắt có những đôi mắt đối diện để hướng về, những đôi mắt đầy ám ảnh.Nhìn quanh chẳng thấy Giỏi Toán Nhất Lớp đâu, Giỏi Văn Nhất Lớp chợt buông một tiếng thở dài khe khẽ…***Về nhà mấy ngày, Nhà Báo Nữ tự cho phép mình làm cái Cô Bé Lười Biếng khi xưa. Chẳng muốn đi đâu, bình minh đến với Cô Bé Lười Biếng lúc 11 giờ sáng, điểm tâm cũng là cơm trưa, rồi lên mạng chat nhăng chat cuội.- Em ten gi?- Em bao nhieu tuoi?- Em dang o dau?- Toi nay em ranh khong?- Ten em xau lam!- Em gia roi!- Em dang o mot noi rat de thuong!- Toi nay em khong ranh!”- Vay a?- Vay thi khong co thoi gian noi chuyen voi ba gia dau. Bye nha!Điện thoại lại reng. “Alô” - “Con đó hả? Thăm cô giáo chưa?” - “À, con quên, con đi liền đây!”.***Nhà cô giáo ở xóm Cồn, ngày xưa xóm này nổi tiếng nhếch nhác, bây giờ đã thành khu du lịch. Cô giáo dạy văn hồi cấp III, giờ đã nghỉ hưu nhưng vẫn còn sắc sảo lắm. Cô phủ đầu Học Trò Cưng bằng một câu rất sốc : “Sao, đi chán chê giờ mò về thăm cô mày hả con?”. Học Trò Cưng cười bối rối: “Làm gì có ạ!”. Cô giáo nói huyên thuyên suốt buổi, dường như càng có tuổi con người ta nói năng cũng nhiều hơn thì phải.- Ngày xưa mày mà đi ngoại thương bây giờ ra làm ngân hàng có trắng trẻo mướt mát không con.- Công việc gì mà ngồi bẹp gí một chỗ, con không chịu được!- Thì mày đi nhiều sướng lắm à? Đấy, háp rồi đấy! Chồng nó không chê mà bỏ cũng lạ. Nó mà không bỏ mày thì mày cũng bỏ nó, mày đi nhiều, gặp gỡ nhiều, thế nào chả có người hơn. Lũ chúng mày bây giờ cứ là cưới muộn rồi…- Rồi li dị sớm ạ! - Học Trò Cưng tiếp lời.- A ha, cưới muộn rồi ly dị sớm, vần thật! - cô giáo cười lớn ra chiều đắc ý khi phát hiện được một vế rất vần về cái thực trạng xã hội ngày nay. Học Trò Cưng vẫn là Học Trò Cưng, lúc nào cũng hiểu cô giáo nhất.***Nhà Báo Nữ lại tiếp tục lên đường, lần này là vùng núi phía Bắc. Chiếc xe khách cứ uốn lượn trên con đường ngoằn ngoèo chạy vào thị trấn. Một bên là vách núi sừng sững, một bên là vực sâu hun hút. Núi cứ sát bên tay, vách cao dựng đứng, phía dưới sát mặt đường lộ ra những vết cào sâu hình răng cưa, màu đất bầm đỏ tựa hồ như những vết thương nham nhở. Chợt chạnh lòng - núi sông ngàn năm sừng sững thế kia mà vẫn phải chịu khuất phục trước con người. Con người thật phi thường, nhà báo cũng phi thường, Nhà Báo Nữ lại càng phi thường hơn nữa - phi thường đến không nhận ra xung quanh mình mọi thứ đang dần đi vào qui luật của nó.Trên xe có một phụ nữ người dân tộc còn rất trẻ, chỉ mới 22 thôi mà đã có ba mặt con. 22 ư? Vào tuổi này, Nhà Báo Nữ đang làm gì nhỉ? Tung tăng nơi giảng đường, lòng đầy háo hức về nghề nghiệp tương lai, cuồn cuộn những hoài bão mơ ước, cháy bỏng những khát khao lý tưởng. Ở cái ngưỡng vọng ấy, Nhà Báo Nữ nhìn cuộc đời thật nhỏ bé, sợ rằng thế gian quá chật hẹp trước cái khát khao tìm hiểu của mình. Buồn cười thật, sau này khi đã thật sự lăn lộn với nghề, Nhà Báo Nữ mới nhận ra suy nghĩ đó thật là ngốc nghếch. Ở mỗi nơi, mỗi vùng đi qua đều có biết bao câu chuyện, biết bao những mảnh đời, biết bao những kỳ tích mà nếu không chịu khó tìm kiếm, nhìn ra, nắm bắt, điển hình lên thì nó mãi mãi lẫn lộn trong những cái bình thường khác… Và ở đâu đó rất gần thôi, ngay trên chuyến xe khách này, người phụ nữ dân tộc đang huyên thuyên kể về một thầy giáo miền xuôi nào đó lên tận đây để dạy cái chữ cho núi rừng…***Lớp học vùng cao thật xiêu vẹo, xiêu vẹo đến tội nghiệp, vài cái bàn méo mó bằng gỗ rừng, chiếc bảng xanh bé xíu, gỗ thòi ra nham nhở. Lớp học chênh vênh giữa lưng chừng đồi, tưởng như một cơn gió núi thổi qua sẽ cuốn phăng đi tất cả, cả thầy, cả trò, cả những cuốn vở lem luốc, cả những mẩu bút chì cùn đến nao lòng. Anh đứng đó thật bao dung hồn hậu, giữa những đôi mắt thơ ngây chưa biết buồn, giống như những thiên thần đủ màu sắc vậy. Có điều nhà những thiên thần này nghèo quá! Để đên được cái lớp học xiêu vẹo này, có lẽ bên kia núi là những mái nhà còn xiêu vẹo hơn.Anh đang cặm cụi gò chữ cho từng em một, vẫn mái tóc xoăn bồng bềnh, vẫn đôi mắt kính dày cộm, vẫn dáng người khắc khổ ngày nào. Chỉ khác một điều, bây giờ đôi chân anh đã không còn nguyên vẹn. Với cái nạng gỗ ấy, Nhà Báo Nữ chợt thấy e ngại cho dãy núi cánh rừng trước mặt, lẽ nào từng hòn đá ngọn cây lại vô tình đến thế…Anh đã chọn nơi đây để gắn bó, chọn mảnh đất vùng cao này để sống cái đời sống mà anh luôn khát khao tìm về. “Ừ, như vậy mới đúng là anh chứ!” - Nhà Báo Nữ nhủ thầm.Đi bên nhau thật lâu, nói với nhau thật nhiều, Nhà Báo Nữ biết được cái làn khói trắng phía xa kia là từ bên kia núi, nơi có một mái nhà nho nhỏ, một người phụ nữ dân tộc nho nhỏ và những đứa trẻ cũng nho nhỏ nốt. Vậy là anh đã có vợ, có con, có “một gia đình nho nhỏ để nương tựa vào nhau mà sống”. Nương tựa vào nhau ư? Thời gian trôi qua nhanh quá, nhanh đến nỗi Nhà Báo Nữ đã không nhận ra mình nhớ anh đến nhường nào, đã ước mơ được cùng anh để mà nương tựa vào nhau đến thế nào...***Khập khiễng khập khà vác chữ lên non là tên một tập phóng sự vừa xuất bản. Ở lời đề đầu sách, Nhà Báo Nữ đã viết mấy dòng như sau:“Tôi viết về anh bằng những con chữ của cuộc đời. Anh trong chữ của tôi là một trí thức trẻ nguyện góp mình cho cái chữ vùng cao, cho một ngày mai đất nước mình nhiều hơn nữa những người trí thức. Nhưng các bạn ạ, vẫn còn một anh nữa, anh trong lòng tôi, anh của ngày hôm qua thì mãi vẫn chỉ là một Giỏi Toán Nhất Lớp, khờ khạo đến nao lòng…”.Hết
Mục lục
Nhà Báo Nữ
Nhà Báo Nữ
Nguyễn Thị Hoàng OanhChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.
Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.Minh họa: Nguyễn Thuyên Nguồn: bạn: mickey đưa lên vào ngày: 23 tháng 7 năm 2004
|
Nguyễn Thị Hoàng Oanh
Nhà Báo Nữ
Nữ thuộc chòm sao Song Ngư - Nữ nghe thầy phán những người thuộc chòm sao Song Ngư có mạng Đại Hải Thủy, tức nước biển lớn, trong sự nghiệp và tình yêu sẽ thênh thang như biển, cuộn trào như sóng nhưng cũng lắm khi dông tố bão bùng. Nữ nghe thầy phán - tính Nữ ở hiền, thẳng thắn, nghĩ gì nói nấy, không quanh co xã giao lại chẳng xiên xỏ người, vì vậy Nữ có ít bạn nhưng đều thân cả. Số Nữ đào hoa, gặp nhiều người tốt nhưng Nữ vốn ưa phiêu lưu, ưa đi lại, ưa điều mới lạ nên trí thì thông mà tâm lại khổ…***“Trí thì thông mà tâm lại khổ”… Bao nhiêu năm nay câu phán ấy cứ mãi ám ảnh Nhà Báo Nữ. Ừ, trí thì thông thật. Nhà Báo Nữ đã đi rất nhiều nơi, gặp rất nhiều người, nghe rất nhiều điều, thấy rất nhiều chuyện. Và Nhà Báo Nữ cũng đọc rất nhiều sách, viết rất nhiều trang. Ở mỗi nơi đi qua đều lưu dấu lại trong lòng Nhà Báo Nữ một chút gì đó, đều khiến cô cảm thấy lưu luyến bồi hồi. Nhưng chỉ vậy thôi, Nhà Báo Nữ lại háo hức lên đường tìm đến những vùng đất mới, lại quần jean, áo khoác, lại lỉnh kỉnh máy ảnh, ống zoom, lại những bữa cơm bụi dọc đường, lại những đêm lang thang trên đất người, lại những chuyến bay dài vô tận… và lại một mình.Đã biết bao lần một mình như thế. Có chút tiếng tăm, Nhà Báo Nữ lại càng một mình. Và đáng buồn thay, Nhà Báo Nữ lại không lo lắng gì về điều đó. Số đào hoa gặp rất nhiều người tốt, tốt cả mọi thứ nhưng “sợ nhất là người ta không hiểu mình!” - Nhà Báo Nữ thầm nghĩ. Đối với Nhà Báo Nữ thì hiểu nhau là điều quan trọng nhất trong tình yêu - hiểu để mà thông cảm cho nhau. Thực ra cái chữ “cho nhau” này hơi bị thừa, đúng hơn là chỉ cho riêng mình Nhà Báo Nữ thôi.***Tết vừa rồi, Nhà Báo Nữ về quê sau bao tháng ngày phiêu lưu khắp nơi. Nhìn quê hương đổi mới, tắm trong cái hương vị biển mặn mòi, Nhà Báo Nữ chợt thấm mệt, thèm một giấc ngủ bình yên trên đất mẹ, thèm một tô cơm cá kho cay đến cháy lòng. Chợt điện thoại reng. “Alô” - “Mày hả con quỉ, bây giờ là mấy giờ rồi? Nhà báo gì mà lề mề quá!” - À, họp lớp. Có tiếng nhao nhao ở đầu dây bên kia: “Nó mà đến là xử luôn, bạn bè gì mà mấy năm rồi không thèm đi họp lớp!” - À, thằng Mỏ Nhọn Nhất Lớp đây mà. Bỗng “oe… oe…”. Ủa? Sao lại có cả trẻ con ở đây nhỉ? - À, … “OK, tao tới liền, sẽ có quà cho tất cả bọn bay!”.Giỏi Văn Nhất Lớp đến khi cả bọn đang xúm xít quanh một thiên thần. Thiên thần đang nằm trong nôi, trắng nõn, tay chân cứ ngọ nguậy liên tục như đang bức xúc điều gì. Con của thằng Đẹp Trai Nhất Lớp rất giống bố, nhất là cái đầu bum quá khổ. Gớm! Nhỏ Đẹp Gái Nhất Lớp ốm thế mà tài, nặn ra được thằng cu kháu lạ. Giỏi Văn Nhất Lớp mừng tuổi cho nó, cái miệng nó cứ phèo phèo nước miếng văng lên tung tóe. Nước bọt trẻ con không hôi chút nào, lại còn thơm mùi sữa, Giỏi Văn Nhất Lớp cũng chẳng buồn lau.Giỏi Văn Nhất Lớp đứng thu mình vào một góc để quan sát những khuôn mặt người. Thời gian đã đi qua trên những khuôn mặt ấy, có kẻ già hơn do trang điểm, có kẻ lại già đi bởi mưa nắng cuộc đời. Nhất là những đôi mắt, mắt này là của nhà nghiên cứu đờ đi sau cặp kính trắng; mắt này là của lái buôn láo liên; mắt này là của kẻ lắm tiền khinh khỉnh mâm trên; mắt này là của người nghèo khổ vằn lên những tia máu… nhưng dẫu sao đó vẫn là những đôi mắt hạnh phúc, những đôi mắt có những đôi mắt đối diện để hướng về, những đôi mắt đầy ám ảnh.Nhìn quanh chẳng thấy Giỏi Toán Nhất Lớp đâu, Giỏi Văn Nhất Lớp chợt buông một tiếng thở dài khe khẽ…***Về nhà mấy ngày, Nhà Báo Nữ tự cho phép mình làm cái Cô Bé Lười Biếng khi xưa. Chẳng muốn đi đâu, bình minh đến với Cô Bé Lười Biếng lúc 11 giờ sáng, điểm tâm cũng là cơm trưa, rồi lên mạng chat nhăng chat cuội.- Em ten gi?- Em bao nhieu tuoi?- Em dang o dau?- Toi nay em ranh khong?- Ten em xau lam!- Em gia roi!- Em dang o mot noi rat de thuong!- Toi nay em khong ranh!”- Vay a?- Vay thi khong co thoi gian noi chuyen voi ba gia dau. Bye nha!Điện thoại lại reng. “Alô” - “Con đó hả? Thăm cô giáo chưa?” - “À, con quên, con đi liền đây!”.***Nhà cô giáo ở xóm Cồn, ngày xưa xóm này nổi tiếng nhếch nhác, bây giờ đã thành khu du lịch. Cô giáo dạy văn hồi cấp III, giờ đã nghỉ hưu nhưng vẫn còn sắc sảo lắm. Cô phủ đầu Học Trò Cưng bằng một câu rất sốc : “Sao, đi chán chê giờ mò về thăm cô mày hả con?”. Học Trò Cưng cười bối rối: “Làm gì có ạ!”. Cô giáo nói huyên thuyên suốt buổi, dường như càng có tuổi con người ta nói năng cũng nhiều hơn thì phải.- Ngày xưa mày mà đi ngoại thương bây giờ ra làm ngân hàng có trắng trẻo mướt mát không con.- Công việc gì mà ngồi bẹp gí một chỗ, con không chịu được!- Thì mày đi nhiều sướng lắm à? Đấy, háp rồi đấy! Chồng nó không chê mà bỏ cũng lạ. Nó mà không bỏ mày thì mày cũng bỏ nó, mày đi nhiều, gặp gỡ nhiều, thế nào chả có người hơn. Lũ chúng mày bây giờ cứ là cưới muộn rồi…- Rồi li dị sớm ạ! - Học Trò Cưng tiếp lời.- A ha, cưới muộn rồi ly dị sớm, vần thật! - cô giáo cười lớn ra chiều đắc ý khi phát hiện được một vế rất vần về cái thực trạng xã hội ngày nay. Học Trò Cưng vẫn là Học Trò Cưng, lúc nào cũng hiểu cô giáo nhất.***Nhà Báo Nữ lại tiếp tục lên đường, lần này là vùng núi phía Bắc. Chiếc xe khách cứ uốn lượn trên con đường ngoằn ngoèo chạy vào thị trấn. Một bên là vách núi sừng sững, một bên là vực sâu hun hút. Núi cứ sát bên tay, vách cao dựng đứng, phía dưới sát mặt đường lộ ra những vết cào sâu hình răng cưa, màu đất bầm đỏ tựa hồ như những vết thương nham nhở. Chợt chạnh lòng - núi sông ngàn năm sừng sững thế kia mà vẫn phải chịu khuất phục trước con người. Con người thật phi thường, nhà báo cũng phi thường, Nhà Báo Nữ lại càng phi thường hơn nữa - phi thường đến không nhận ra xung quanh mình mọi thứ đang dần đi vào qui luật của nó.Trên xe có một phụ nữ người dân tộc còn rất trẻ, chỉ mới 22 thôi mà đã có ba mặt con. 22 ư? Vào tuổi này, Nhà Báo Nữ đang làm gì nhỉ? Tung tăng nơi giảng đường, lòng đầy háo hức về nghề nghiệp tương lai, cuồn cuộn những hoài bão mơ ước, cháy bỏng những khát khao lý tưởng. Ở cái ngưỡng vọng ấy, Nhà Báo Nữ nhìn cuộc đời thật nhỏ bé, sợ rằng thế gian quá chật hẹp trước cái khát khao tìm hiểu của mình. Buồn cười thật, sau này khi đã thật sự lăn lộn với nghề, Nhà Báo Nữ mới nhận ra suy nghĩ đó thật là ngốc nghếch. Ở mỗi nơi, mỗi vùng đi qua đều có biết bao câu chuyện, biết bao những mảnh đời, biết bao những kỳ tích mà nếu không chịu khó tìm kiếm, nhìn ra, nắm bắt, điển hình lên thì nó mãi mãi lẫn lộn trong những cái bình thường khác… Và ở đâu đó rất gần thôi, ngay trên chuyến xe khách này, người phụ nữ dân tộc đang huyên thuyên kể về một thầy giáo miền xuôi nào đó lên tận đây để dạy cái chữ cho núi rừng…***Lớp học vùng cao thật xiêu vẹo, xiêu vẹo đến tội nghiệp, vài cái bàn méo mó bằng gỗ rừng, chiếc bảng xanh bé xíu, gỗ thòi ra nham nhở. Lớp học chênh vênh giữa lưng chừng đồi, tưởng như một cơn gió núi thổi qua sẽ cuốn phăng đi tất cả, cả thầy, cả trò, cả những cuốn vở lem luốc, cả những mẩu bút chì cùn đến nao lòng. Anh đứng đó thật bao dung hồn hậu, giữa những đôi mắt thơ ngây chưa biết buồn, giống như những thiên thần đủ màu sắc vậy. Có điều nhà những thiên thần này nghèo quá! Để đên được cái lớp học xiêu vẹo này, có lẽ bên kia núi là những mái nhà còn xiêu vẹo hơn.Anh đang cặm cụi gò chữ cho từng em một, vẫn mái tóc xoăn bồng bềnh, vẫn đôi mắt kính dày cộm, vẫn dáng người khắc khổ ngày nào. Chỉ khác một điều, bây giờ đôi chân anh đã không còn nguyên vẹn. Với cái nạng gỗ ấy, Nhà Báo Nữ chợt thấy e ngại cho dãy núi cánh rừng trước mặt, lẽ nào từng hòn đá ngọn cây lại vô tình đến thế…Anh đã chọn nơi đây để gắn bó, chọn mảnh đất vùng cao này để sống cái đời sống mà anh luôn khát khao tìm về. “Ừ, như vậy mới đúng là anh chứ!” - Nhà Báo Nữ nhủ thầm.Đi bên nhau thật lâu, nói với nhau thật nhiều, Nhà Báo Nữ biết được cái làn khói trắng phía xa kia là từ bên kia núi, nơi có một mái nhà nho nhỏ, một người phụ nữ dân tộc nho nhỏ và những đứa trẻ cũng nho nhỏ nốt. Vậy là anh đã có vợ, có con, có “một gia đình nho nhỏ để nương tựa vào nhau mà sống”. Nương tựa vào nhau ư? Thời gian trôi qua nhanh quá, nhanh đến nỗi Nhà Báo Nữ đã không nhận ra mình nhớ anh đến nhường nào, đã ước mơ được cùng anh để mà nương tựa vào nhau đến thế nào...***Khập khiễng khập khà vác chữ lên non là tên một tập phóng sự vừa xuất bản. Ở lời đề đầu sách, Nhà Báo Nữ đã viết mấy dòng như sau:“Tôi viết về anh bằng những con chữ của cuộc đời. Anh trong chữ của tôi là một trí thức trẻ nguyện góp mình cho cái chữ vùng cao, cho một ngày mai đất nước mình nhiều hơn nữa những người trí thức. Nhưng các bạn ạ, vẫn còn một anh nữa, anh trong lòng tôi, anh của ngày hôm qua thì mãi vẫn chỉ là một Giỏi Toán Nhất Lớp, khờ khạo đến nao lòng…”.Hết
Mục lục
Nhà Báo Nữ
Nhà Báo Nữ
Nguyễn Thị Hoàng OanhChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.
Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.Minh họa: Nguyễn Thuyên Nguồn: bạn: mickey đưa lên vào ngày: 23 tháng 7 năm 2004
|
Khuyết Danh
Nhà họ Đường đả hổ
(Cổ tích Trung Quốc)
Xưa kia, tỉnh An Huy có một thôn ở cạnh một hòn núi nhỏ, dân cư ở đây chừng trăm nóc nhà, nhà nhà sống về nghề nông, đốn củi; họ ăn no mặc ấm, cuộc sống kể ra cũng thảnh thơi. Chẳng dè năm nọ có một con hổ dữ xuật hiện, cứ năm ba ngày bao nhiêu người và vật phải chết dưới móng vuốt của nó. Từ đó, người đốn củi sợ lên núi, người làm ruộng sợ ra cửa, nhà nhà hoảng loạn đóng cửa ở bên trong. Nhưng ngày rộng tháng dài, cứ ở mãi trong nhà cũng không thể được. Và nếu muốn có cuộc sống thảnh thơi như cũ thì chỉ còn cach phải giết con hổ dữ này. Nghe đồn có nhà họ Đường nổi tiếng giết hổ, thôn làng bèn đề cử mấy người đại diện đi mời thỉnh. Người đánh hổ quả thực đã đến, ấy là hai cha con một già một trẻ. Cụ già thì đầu bạc phơ, lưng đã còng không có vẻ chi mạnh khỏe, còn người trẻ thì ý chừng chưa đầy mười tuổi, dáng vẻ nhút nhát thẹn thò. Bấy giờ, mọi người đều chẳng tin: Người thế này sao có thể đánh hổ, hay là họ tình nguyện đến đây để cho hổ nuốt? Song cũng không có cách chi, trước hết chỉ còn biết mời họ ở lại vậy thôi. Sáng sớm hôm sau, cụ già cần có hai người khỏe mạnh gan dạ, một là dẫn đường, hai là dụ hổ. Mọi người tiễn họ đến ven thôn, mắt nhìn theo bốn người đi về phía trước mà trong lòng ai nấy đều lo cho ông cụ và đứa trẻ. Bốn người đi được một đỗi, đường núi bắt đầu quanh co rậm rạp. Hai người đứng lại nói với ông cụ: - Không dối chi lão anh hùng, con hổ ấy thường hay xuất hiện ở đây, chúng tội... Cụ già thấy họ sợ sêt bèn mỉm cười, ông chỉ một hòn đá to, nói: - Hai anh nấp phía dưới hòn đá ấy mà đợi, chúng tôi giết hổ xong sẽ gọi các anh. Nói đoạn cụ dẫn đứa trẻ tiến vô phía núi sâu rừng thẩm. Cụ già rẽ qua vòng lại quan sát trên mặt đất, rồi đi tiếp . Ông ngước đầu nhìn bốn bề, nói: - Này con, con súc sanh ấy còn đang ngủ! Con gọi nó dậy đi. Đứa bé chạy ra mấy bước, khom người, hay tay bưng miệng nhắm về phía rừng, cất tiếng gầm như hổ kêu "ú ùm ú ùm". Cụ già chậm rãi xăn tay áo, từ trong chiếc túi đeo lưng, ông lấy ra một chiếc búa, xem xét lại lưỡi búa, đoạn thủng thỉnh bước đi. Chính lúc ấy, một luồng gió nổi lên, lá cây sao động, từ trong rừng phóng vút ra một con mãnh hổ. Cụ già liền đứng lại, tay mặt ông giơ chiếc búa, hai mắt đâm đâm nhìn con hổ ấy. Đứa trẻ thì sớm đã lách tới sau lưng ông. Mãnh hổ thấy có người, hai chân trước nó chồm lên, gầm một tiếng lớn và liền nhắm cụ già vồ tới. Cụ già cầm lưỡi búa, hơi rạp người, cánh tay mặt khẽ đưa ra và lách nghiêng, chỉ nghe "xoẹt" một tiếng, da bụng con mãnh hổ đã rách một đường, lại "bốp" một tiếng tiếp theo, con mãnh hổ đã nằm ngay đơ phía sau lưng ông cách năm sáu bước, máu đỏ phun đầy trên mặt đất. Cụ già chậm rãi lau sạch máu lưỡi búa, nhìn lại, đoạn giắt lưỡi búa vào túi đeo sau lưng. Ông bước tới dòm con hổ và bảo đứa con: - Này, con hãy đi kêu họ tới khiêng đem về. Đứa trẻ chạy đến chỗ hòn đá lớn, dáo dác tìm kiếm, nhưng chẳng thấy một ai. Chính trong lúc lạ lùng ấy, chợt nghe trong lùm cỏ có tiếng xào xạc, một chiếc đầu đầy bùn sình ló ra hỏi: - Người bạn nhỏ, sao rồi ? Đứa bé thấy mà không nhịn cười được, nói: - Chú, chú ra khiêng hổ về đi ! Theo đó, một chiếc đầu khác cũng ló ra, rước lời hỏi: -Thiệt sao ? Đứa bé học chuyện lại, hai người bạnh miệng cười toe toét và theo cậu tới chổ đả hổ. Thoạt thấy con hổ chết nằm sóng soài to gần bằng con trâu nhỏ, hai người bất giác lè lưỡi, rúm người không dám bước tới. Lại nhìn kỹ con hổ ấy, thì ra bụng nó đã bị xẻ một đường dài, bây giờ vẫn còn ra máu. Tin đã hổ chấn động cả thôn, già trẻ đều tới xem hổ và anh hùnh đả hổ. Mọi người hết nhìn con hổ lại nhìn cụ già và đứa trẻ đả hổ, vừa cảm kích vừa ngạc nhiên lại vừa mừng, ngạc nhiên là tại sao cụ già và đứa trẻ thế này mà có thể giết chết con hổ, mừng là đã trừ được hổ dữ, từ đây có thể sống cuộc đời yên vui. Mọi người đều cảm kích cụ già và đứa trẻ vô cùng. Trở về thôn, họ đem tặng lễ vật rất nhiều, một mặt hỏi cách giết hổ. Cụ già nhắp một hớp trà, cười mà nói rằng: - Nhà họ Đường đả hổ đã ba đời. Ban đầu, ông nội tôi lấy vợ không lâu, một hôm ông lên núi đốn củi, rồi bị hổ tha mất, bà nội tôi khóc đến chết đi sống lại, may là lúc đó bà đang mang thai, và không lâu bà sinh ra cha tôi. Khi cha tôi vừa biết nói, bà tôi sa lệ thuật lại tai họa về hổ cho cha tôi nghe, và khuyên cha tôi nên hạ quyết tâm vì mọi người trừ hại. Cha tôi lớn lên, người khổ công nghiên cứu cách giết hổ. Người đi thăm hỏi khắp nơi, ngày đêm dụng tâm nghiên cứu, cuối cùng đã nghĩ ra pháp môn chính mà tôi hiện đang dùng. Nói đến đây ông cụ lấy từ trong túi ra cây búa. Búa này cán dài một thước rưỡi, lưỡi hình bầu dục, sắc bén vô cùng. Cụ già giơ cánh tay phải lên, nói tiếp: - Cha tôi trước hết luyện cách tay, sau đó luyện mắt, luyện như vậy ròng rã trên mười năm, Không môt ngày biếng trể. Thế rồi mới bắt đầu ra tay giết hổ. Liên tiếp người giết chết ba con hổ lớn ở vùng phụ cận. Sau đó người lại đến khắp vùng núi sâu, khiến cho hổ trong vùng trăm dặm không còn dám héo lánh. Từ đó tiếng tâm cha tôi nổi như cồn, và rồi nhiều địa phương phái người tới mời, nhưng cha tôi chưa hề từ chối. Lúc cha tôi sấp mất, người căn dặn chúng tôi: - Phải truyền bản lĩnh này lại cho đời sau. Ai không biết đã hổ, không phải là con cháu họ Đường! Câu nói này mãi mãi được truyền, cho nên nhà họ Đường chúng tôi không ai là không biết đả hổ. Nhà họ Đường nổi danh chính là như thế. Ông cụ kể xong, đứng lên nói: - Các người tự do chọn mười người lực lưỡng, dùng dây kéo cánh tay tôi thử xem! Quả thực có những thanh niên hiếu kỳ chạy đi tìm một sợi dây thừng to quấn lấy cánh tay ông cụ, và nhất tề dùng sức kéo nhưng cánh tay của ông cụ chẳng hề nhúc nhích. Cụ già lại cười: - Các người hãy dùng một bó chà quét qua lại trước mắt tôi xem, tôi chẳng hề nháy mắt. Những thanh niên hiếu kỳ lại cầm bó chà tre quơ trước mắt ông cụ, có điều không đụng vào da mắt, chỉ thấy ánh mắt cụ loe lóe, tròng mắt theo bó chà quét qua quét lại mà chuyển động, không hề nháy. Lại ở nán thêm một ngày, một già một trẻ từ biệt mọi người, họ không nhận lễ vật mà trở về nhà.
Mục lục
Nhà họ Đường đả hổ
Nhà họ Đường đả hổ
Khuyết DanhChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.
Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.Sưu tầm: Leo* Nguồn: Được bạn: Ct.Ly đưa lên vào ngày: 23 tháng 11 năm 2009
|
Noname
The Tang family attacked the tiger
(Chinese fairy tale)
In the past, Anhui province had a village next to a small mountain, the population here had about a hundred rooftops, and the families lived by farming and cutting wood; They are well fed and clothed, and their lives are leisurely. No matter how one year a fierce tiger appeared, every year and three days many people and animals died under its claws. Since then, woodcutters are afraid to go up the mountain, farmers are afraid to go out, and houses are locked inside in panic. But the days are long and the months are long, staying at home forever is impossible. And if you want to have a carefree life like before, the only way is to kill this fierce tiger. It was rumored that the Duong family was famous for killing tigers, so the village nominated several representatives to invite them. The tiger hunter had indeed arrived, it was father and son, one old and one young. The old man's head was gray and his back was bent and he didn't look healthy, while the young man looked to be under ten years old and looked shy and shy. At that time, everyone did not believe: How could a person like this beat the tiger, or did they voluntarily come here to be swallowed by the tiger? But there is no other way, the only thing to do is invite them to stay first. Early the next morning, the old man needed two strong and brave people, one to lead the way, the other to lure the tiger. Everyone saw them off to the edge of the village, watching the four people walk forward, but in their hearts everyone was worried about the old man and the child. After the four of them walked for a while, the mountain road began to be winding and dense. The two people stopped and said to the old man: - It's not a lie, old hero, that tiger often appears here, we... The old man saw that they were scared and smiled. He pointed to a big rock and said. : - You two hide under that rock and wait. We will call you after we kill the tiger. Saying this, he led the child into the deep mountains and forests. The old man turned around and looked at the ground, then continued. He raised his head and looked around, saying: - Hey, that animal is still sleeping! Please wake him up. The child ran a few steps, crouched down, or held his mouth in his hands, aiming towards the forest, roaring like a tiger, "boo boo boo boo". The old man slowly rolled up his sleeves, from his backpack, he took out a hammer, examined the blade, and slowly walked away. At that moment, a gust of wind arose, the leaves moved, and from the forest a fierce tiger shot out. The old man immediately stopped, his right hand raised the hammer, his eyes piercing as he looked at the tiger. The child had already crept up behind him. The tiger saw someone, his front legs jumped up, roared loudly and immediately aimed at the old man. The old man held the hammer, crouched slightly, his right arm slightly stretched out and sideways, only to hear a "swoosh" sound, the skin of the tiger's belly was torn, and the next "pop" sound, the tiger. was lying upright five or six steps behind him, red blood sprayed all over the ground. The old man slowly wiped the blood off the hammer blade, looked back, and put the hammer blade in the bag on his back. He walked over to look at the tiger and told his son: - Hey, go ask them to come and carry it back. The child ran to the big rock, searching frantically, but found no one. At that strange moment, I suddenly heard a rustling sound in the grass, and a head full of mud popped out and asked: - Little friend, how are you? The child couldn't help but laugh when he saw it and said: - Uncle, please go and carry the tiger home! Accordingly, another head also appeared, asking: - Really? The boy learned the story again, the two of them grinned widely and followed him to the tiger fight. At first sight, seeing the dead tiger lying down, almost as big as a small buffalo, the two people suddenly stuck out their tongues and cringed, not daring to step forward. Looking closely at the tiger again, it turned out that its stomach had been cut a long way, and was still bleeding. The news of the tiger shocked the whole village, both young and old came to see the tiger and the hero fought the tiger. Everyone looked at the tiger and looked at the old man and the child fighting the tiger. They were both grateful and surprised and happy. They were surprised at how the old man and the child could kill the tiger. They were happy that they had eliminated the tiger. To be free from fierce tigers, from now on you can live a peaceful life. Everyone appreciated the old man and the child very much. Returning to the village, they brought many gifts and asked how to kill the tiger. The old man took a sip of tea, smiled and said: - The Duong family has been fighting tigers for three generations. Initially, my grandfather got married not long ago, one day he went up the mountain to chop wood, and was taken away by a tiger. My grandmother cried to death. Fortunately, she was pregnant at the time, and not long after she gave birth. my father. When my father could barely speak, my grandmother tearfully recounted the tiger disaster to my father, and advised him to make up his mind to eliminate harm for everyone. Growing up, my father diligently researched how to kill tigers. People visited everywhere, researched day and night, and finally came up with the main method that I am currently using. Saying this, the old man took out a hammer from his pocket. This hammer has a handle one and a half meters long, an oval blade, and is extremely sharp. The old man raised his right arm and continued: - My father first trained his hands, then trained his eyes, practicing like this for over ten years, without a single day of delay. Then they started killing tigers. People consecutively killed three large tigers in the vicinity. After that, people came to all the deep mountains, making the tigers in the area hundreds of miles no longer dare to stay away. From then on, my father's reputation grew rapidly, and many localities sent people to invite him, but my father never refused. When my father passed away, he told us: - We must pass on this bravery to the next generation. Who doesn't know the tiger is not a descendant of the Duong family! This saying has been passed down forever, so there is no one in our Tang family who doesn't know how to fight tigers. That's exactly what the Duong family is famous for. The old man finished telling the story, stood up and said: - You are free to choose ten strong people, use the rope to pull my arm and try it! Indeed, there were curious young men who ran to find a big rope to wrap around the old man's arm, and tried their best to pull, but the old man's arm did not budge. The old man laughed again: - You guys should use a bunch of dates to sweep back and forth in front of my eyes, I won't even blink. The curious young men held a bunch of bamboo dates and waved them in front of the old man's eyes. However, they did not touch the skin of his eyes. They only saw the old man's eyes flashing, his eyes following the bunch of dates and moving back and forth, without blinking. Staying another day, one old and one young said goodbye to everyone. They did not accept the offerings but returned home.
Table of contents
The Tang family attacked the tiger
The Tang family attacked the tiger
AnonymousWelcome to read books from the book project for mobile devices. Source: author: Nguyen Kim Vy.
Final words: Thank you for following the entire story. Source: onion: Nguyen Kim Vy. Collected by: Leo* Source: Uploaded by friend: Ct.Ly on: November 23, 2009
|
Đào Phong Lan
Nhà không có đàn ông
Tôi sinh ra trong một ngôi nhà to lớn với những cột kèo nâu bóng cũ kỹ, nham nhở những vết khắc vụng dại. Sau này mẹ tôi kể lại, ngày tôi ra đời, hàng trăm con bướm bay về đậu rợp cả sân. Bà tôi bỏ vào buồng, không ra nữa. Bà ốm 3 tuần lễ. Bà chỉ ốm 3 tuần lễ khi quá tuyệt vọng vì một điều gì đó. Bà đã hy vọng quá nhiều về một đứa cháu trai.Làng tôi chạy dọc ven bờ sông, những cánh đồng lúa xanh um chạy xa hút tầm mắt. Tôi lớn lên giữa đám trẻ làng. Tôi bơi lội giữa sông với người và trâu bò, lăn lê bò toài trên đất với mèo, gà và chó. Tôi chơi khăng, chơi bi, chơi đáo và cắt tóc con trai, nhưng bà vẫn không quên tôi là con gái. Ngôi nhà của chúng tôi không ồn ào như những ngôi nhà khác. Nó thường vắng lặng. Bà luôn ngồi bất động ở cái tràng kỷ to lớn ở góc nhà, mắt hắt một thứ ánh sáng bất hạnh. Mẹ tôi kết thúc công việc của một ngày, lại đem áo quần rách ra vá dưới ngọn đèn dầu leo lét. Còn cô tôi ngồi sâu vào góc giường, nơi ánh sáng yếu ớt của ngọn đèn không bao giờ vươn tới, tỉ mẩn ngồi chải tóc. Tôi nằm gối đầu bên lòng mẹ, vẽ những chữ o vô hình trên tường và tập đếm. Lần đầu tiên tôi biết đếm đến bốn cũng là lần đầu tiên tôi biết nhà tôi có bốn người. Ngày lại qua đi, tôi lớn lên như cỏ cây trong vườn. Ngôi nhà của chúng tôi không đông đúc như những ngôi nhà khác, nó thường vắng lặng. Tôi không có ai để gọi bằng cha hay bằng chú. Cái bàn thờ của ông tôi vẫn thả lên khoảng không những làn khói hương dày đặc, bền bỉ và nhẫn nại. Ông vẫn cười rất tươi trên bàn thờ, như tha thứ cho tất cả thế gian. Cuộc sống vẫn lặp đi lặp lại những vòng tròn bất dịch, chỉ có tôi lớn lên từng ngày từng giờ. Tôi đã thôi đếm số người trong nhà, tôi đếm sang nhà hàng xóm, nhà bên ấy có mười một người. Ba thằng con trai sàn sàn tuổi tôi, chúng nghịch như quỷ sứ. Cô tôi là cô giáo dạy cấp hai ở làng. Tôi không biết cô dạy môn gì ở trường. Cô ít nói, trầm mặc, lặng lẽ. Có lẽ cô dạy môn địa lý. ở trường tôi, tất thảy thầy cô dạy địa lý đều như thế. Các đường nét trên khuôn mặt cô đều đặn và đoan chính, chúng không bao giờ nổi loạn. Tóc cô cũng óng ả và cũng theo một trật tự, chúng luôn kết thành hai chiếc bím dày.Khi tóc cô vừa chấm eo lưng thì cô trở về cùng với một người đàn ông, chú Hoạt. Đó là một buổi chiều thứ bảy cũ kỹ và quen thuộc. Những hạt bụi vẫn nằm yên ắng trong góc nhà với đám mạng nhện. Mẹ đang dọn cơm, tôi quấn lấy mẹ, bà vẫn ngồi đếm từng khắc trôi qua trên tràng kỷ. Cô về nhà với những bước chân vội vã đầy e thẹn. Cô dừng lại một chút bên cây bưởi, điều mà trước đây cô chưa hề làm. Người đàn ông dắt xe đạp phía sau cô cũng bước vào sân với nụ cười cởi mở, đôn hậu. Bà cũng cười, mắt thôi hắt quầng sáng bất hạnh. Bà rời chỗ ngồi muôn thuở, xăm xắm đi lại, tất bật rộn rã. Lần đầu tiên khi tôi sinh ra, mâm cơm có 5 người. Đó quả là một sự kiện. Hình như có một luồng sinh khí mới trong nhà, ấm chén trên bàn sáng bóng, mùi trà xanh dịu ngọt toả ra thơm phức. Chú Hoạt cho tôi những viên kẹo xanh đỏ, bế tôi lên lòng. Đó là người đàn ông có khuôn mặt và nụ cười ấm áp, gợi nhớ đến màu đỏ non tươi của viên gạch mới ra lò. Cha tôi xưa cũng là người đàn ông như thế. Tốt nghiệp cao đẳng sư phạm, cha trở về làng dạy học rồi vào bộ đội. Mẹ tôi hồi đó là văn công. Hai người cưới nhau khi đất nước hoàn toàn giải phóng. Cha đưa mẹ về sống với bà. Đó là quãng thời gian êm ả và bình yên nhất trong cuộc đời của mẹ. Cuộc sống cứ bình thản trôi đi. Cha tôi là người đàn ông tốt và có trách nhiệm với lời nói của mình. Và có lẽ vì vậy nên sau câu thú nhận: "Anh đã yêu người khác. Hãy tha thứ cho anh!", cha đã bỏ đi theo người đàn bà nào đó. Bà xem như không có cha nữa. Bà ốm 3 tuần lễ. Bà bình phục hẳn khi biết rằng mẹ đã có mang. Bảy tháng sau, tôi ra đời. Đó là người đàn ông đầu tiên và cuối cùng của mẹ! Ngôi nhà của chúng tôi không im ắng và buồn tẻ như xưa nữa. Nó ấm áp và rộn rã như một ngọn lửa. Mỗi tối, mẹ ngồi vá áo quần, bà ngồi bên tràng kỷ, cả hai đều lắng nghe cô tôi nói. Cô vừa ríu rít vừa chải những lọn tóc óng ả vừa kết thành hai bím dày. Khuôn mặt cô bừng lên một thứ ánh sáng lạ mà tôi chưa bao giờ thấy. Chú Hoạt vẫn đến nhà vào sáng chủ nhật. Đó là những chuỗi ngày đầy ắp tiếng cười nói. Bà như trẻ lại. Sông xanh hơn và mảnh vườn trước nhà bật lên màu óng ả non tươi. Đề tài của câu chuyện mỗi tối là chú Hoạt. Cô vừa đưa những nhát lược vào mớ tóc vừa nói: - Anh Hoạt chưa nói gì với con cả! Nhưng con tin anh ấy rất thương con. Anh ấy còn mẹ già và em gái ở quê, anh vẫn nói với con rằng, mỗi lần đến nhà ta, cảm thấy mình như được trở về nhà! Anh ấy bảo tính con giống tính em gái anh ấy lắm! Những lúc âý bà cười hiền hậu, mẹ mủm mỉm cười nhìn cô. Còn tôi lúc ấy chợt phát hiện ra sao mà cô xinh đẹp thế! Chú Hoạt vừa về quê lên. Chú đem biếu bà tấm khăn nhung, tặng cô cái cặp đựng giáo án, tôi được gói kẹo rất to. Phần của mẹ là một tấm vải màu hoa cà. Chú bảo, chỉ có màu tím ấy là hợp với mẹ. Nó đẹp mộc mạc, giản dị và cũng rất dịu dàng. Mẹ nhờ cô hàng xóm may một chiếc áo. Khi mẹ mặc chiếc áo ấy, cả nhà ngẩn người nhìn mẹ. Chiếc áo kỳ diệu đem lại cho mẹ vẻ dịu dàng đằm thắm, và tôi như thấy một vườn hoa cà tím trải mãi về phía chân trời. Hình như chú Hoạt cũng cảm thấy như tôi, chú rất hay nhìn mẹ. Mỗi khi đến nhà, chú hay giúp mẹ tôi làm cỏ ngoài vườn, cho lợn gà ăn hoặc chẻ củi. Chú thái rau khoai rất nhỏ và quét nhà rất sạch. Cô ríu rít ra vào và rất hay bẹo má tôi. Một hôm, nằm ngủ quên trong đống rơm ở góc vườn, tôi tỉnh dậy khi đã về chiều. Gió hiu hiu thổi, những tia nắng cuối cùng của ngày ngả mình mơn trớn những ngọn cây, bầy chim lách chách trong vòm lá. Bỗng tôi nghe tiếng chú Hoạt: - Tôi thương Nhài từ lâu! Nhài ạ! Xin Nhài hãy nghe tôi nói! Người tôi yêu là Nhài! Bao lâu nay tôi chỉ xem Lam là em gái thôi. Tôi sửng sốt nhổm hẳn người dậy. Mẹ đang níu lấy gốc xoan, mặt mẹ tái xanh, hằn nét kinh ngạc. Mẹ không nói nổi câu nào. Chú Hoạt vẫn tha thiết: - Gần 1 năm nay tôi đến đây chỉ vì Nhài. Tôi chưa bao giờ yêu Lam và không hề ngỏ lời nào với cô ấy. Tôi thương bé Ngâu như con gái mình! Nhài đừng lo ngại rằng... - Không! Không! Anh đốn mạt lắm! Khổ thân Lam! Trời ơi... Tôi không ngờ... Mẹ chạy vụt vào nhà, tức tưởi và đâm sầm vào cô tôi từ trong nhà bước ra. Cô sững lại: - Chị làm sao thế? Chị Nhài! Có chuyện gì vậy? Chú Hoạt cũng vừa đuổi kịp mẹ. Chú buồn rầu nhìn cô tôi, rồi nói: - Lam ạ! Tôi vừa nói với chị cô rằng tôi yêu chị ấy! Cô tôi đổ vật xuống. Tôi ngồi trơ ra giữa đống rơm và xé những chiếc lá vàng tung lên theo gió. Lòng tôi cũng tan tác, có một cái gì đó đã theo gió bay đi. Chú Hoạt không đến nữa. Ngôi nhà tối lại. Bà ngồi bất động trên tràng kỷ, thở dài. Mẹ cắm cúi vá áo và không ngẩng lên bao giờ. Cô ngồi sâu vào góc giường như tránh làn ánh sáng yếu ớt của chiếc đèn dầu đang vươn tới. Tôi loay hoay giữa cô, giữa bà và mẹ, không biết nói gì. Tôi vừa mới lên 10 tuổi. Thời gian lặng lẽ trôi đi. Những mụn vá của mẹ dày lên theo năm tháng. Cô vẫn cặm cụi chải tóc, những lọn tóc mỏng dần. Chúng thôi óng ả. Cô không tết thành bím mà cặp sau lưng. Mỗi khi cô bước đi, mớ tóc lại đập nhè nhẹ vào lưng, buồn bã cam chịu. Và chúng tôi cứ sống như thế. Khi tôi tròn 15 tuổi thì bà tôi mất. Bà chết ngồi trên tràng kỷ. Trước đó, bà cứ nhắc đi nhắc lại rằng, bà muốn sau khi chết, hãy đặt xác bà lên chiếc bè rồi thả xuôi theo dòng sông và chỉ chôn bà ở chỗ nào chiếc bè dừng lại. Chúng tôi theo chiếc bè xuôi dòng, đi mãi. Chiếc bè trôi đến chân ngọn núi có mộ của ông tôi thì dừng lại. Dân làng đặt bà bên cạnh ông. Giờ đây bà không còn ngồi lặng lẽ trên tràng kỷ nữa, bà đã nằm bình yên trong đất. Vài năm sau, tôi lên thành phố học đại học. Ngôi nhà rộng thêm, hun hút. Mảnh sân ngày một sậm rêu. Hai người đàn bà của tôi ở lại nhà. Ngôi nhà cho đến bây giờ vẫn không có đàn ông./.
Mục lục
Nhà không có đàn ông
Nhà không có đàn ông
Đào Phong LanChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.
Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: DactrungĐược bạn: Ct.Ly đưa lên vào ngày: 28 tháng 5 năm 2005
|
Đào Phong Lan
Nhà không có đàn ông
Tôi sinh ra trong một ngôi nhà to lớn với những cột kèo nâu bóng cũ kỹ, nham nhở những vết khắc vụng dại. Sau này mẹ tôi kể lại, ngày tôi ra đời, hàng trăm con bướm bay về đậu rợp cả sân. Bà tôi bỏ vào buồng, không ra nữa. Bà ốm 3 tuần lễ. Bà chỉ ốm 3 tuần lễ khi quá tuyệt vọng vì một điều gì đó. Bà đã hy vọng quá nhiều về một đứa cháu trai.Làng tôi chạy dọc ven bờ sông, những cánh đồng lúa xanh um chạy xa hút tầm mắt. Tôi lớn lên giữa đám trẻ làng. Tôi bơi lội giữa sông với người và trâu bò, lăn lê bò toài trên đất với mèo, gà và chó. Tôi chơi khăng, chơi bi, chơi đáo và cắt tóc con trai, nhưng bà vẫn không quên tôi là con gái. Ngôi nhà của chúng tôi không ồn ào như những ngôi nhà khác. Nó thường vắng lặng. Bà luôn ngồi bất động ở cái tràng kỷ to lớn ở góc nhà, mắt hắt một thứ ánh sáng bất hạnh. Mẹ tôi kết thúc công việc của một ngày, lại đem áo quần rách ra vá dưới ngọn đèn dầu leo lét. Còn cô tôi ngồi sâu vào góc giường, nơi ánh sáng yếu ớt của ngọn đèn không bao giờ vươn tới, tỉ mẩn ngồi chải tóc. Tôi nằm gối đầu bên lòng mẹ, vẽ những chữ o vô hình trên tường và tập đếm. Lần đầu tiên tôi biết đếm đến bốn cũng là lần đầu tiên tôi biết nhà tôi có bốn người. Ngày lại qua đi, tôi lớn lên như cỏ cây trong vườn. Ngôi nhà của chúng tôi không đông đúc như những ngôi nhà khác, nó thường vắng lặng. Tôi không có ai để gọi bằng cha hay bằng chú. Cái bàn thờ của ông tôi vẫn thả lên khoảng không những làn khói hương dày đặc, bền bỉ và nhẫn nại. Ông vẫn cười rất tươi trên bàn thờ, như tha thứ cho tất cả thế gian. Cuộc sống vẫn lặp đi lặp lại những vòng tròn bất dịch, chỉ có tôi lớn lên từng ngày từng giờ. Tôi đã thôi đếm số người trong nhà, tôi đếm sang nhà hàng xóm, nhà bên ấy có mười một người. Ba thằng con trai sàn sàn tuổi tôi, chúng nghịch như quỷ sứ. Cô tôi là cô giáo dạy cấp hai ở làng. Tôi không biết cô dạy môn gì ở trường. Cô ít nói, trầm mặc, lặng lẽ. Có lẽ cô dạy môn địa lý. ở trường tôi, tất thảy thầy cô dạy địa lý đều như thế. Các đường nét trên khuôn mặt cô đều đặn và đoan chính, chúng không bao giờ nổi loạn. Tóc cô cũng óng ả và cũng theo một trật tự, chúng luôn kết thành hai chiếc bím dày.Khi tóc cô vừa chấm eo lưng thì cô trở về cùng với một người đàn ông, chú Hoạt. Đó là một buổi chiều thứ bảy cũ kỹ và quen thuộc. Những hạt bụi vẫn nằm yên ắng trong góc nhà với đám mạng nhện. Mẹ đang dọn cơm, tôi quấn lấy mẹ, bà vẫn ngồi đếm từng khắc trôi qua trên tràng kỷ. Cô về nhà với những bước chân vội vã đầy e thẹn. Cô dừng lại một chút bên cây bưởi, điều mà trước đây cô chưa hề làm. Người đàn ông dắt xe đạp phía sau cô cũng bước vào sân với nụ cười cởi mở, đôn hậu. Bà cũng cười, mắt thôi hắt quầng sáng bất hạnh. Bà rời chỗ ngồi muôn thuở, xăm xắm đi lại, tất bật rộn rã. Lần đầu tiên khi tôi sinh ra, mâm cơm có 5 người. Đó quả là một sự kiện. Hình như có một luồng sinh khí mới trong nhà, ấm chén trên bàn sáng bóng, mùi trà xanh dịu ngọt toả ra thơm phức. Chú Hoạt cho tôi những viên kẹo xanh đỏ, bế tôi lên lòng. Đó là người đàn ông có khuôn mặt và nụ cười ấm áp, gợi nhớ đến màu đỏ non tươi của viên gạch mới ra lò. Cha tôi xưa cũng là người đàn ông như thế. Tốt nghiệp cao đẳng sư phạm, cha trở về làng dạy học rồi vào bộ đội. Mẹ tôi hồi đó là văn công. Hai người cưới nhau khi đất nước hoàn toàn giải phóng. Cha đưa mẹ về sống với bà. Đó là quãng thời gian êm ả và bình yên nhất trong cuộc đời của mẹ. Cuộc sống cứ bình thản trôi đi. Cha tôi là người đàn ông tốt và có trách nhiệm với lời nói của mình. Và có lẽ vì vậy nên sau câu thú nhận: "Anh đã yêu người khác. Hãy tha thứ cho anh!", cha đã bỏ đi theo người đàn bà nào đó. Bà xem như không có cha nữa. Bà ốm 3 tuần lễ. Bà bình phục hẳn khi biết rằng mẹ đã có mang. Bảy tháng sau, tôi ra đời. Đó là người đàn ông đầu tiên và cuối cùng của mẹ! Ngôi nhà của chúng tôi không im ắng và buồn tẻ như xưa nữa. Nó ấm áp và rộn rã như một ngọn lửa. Mỗi tối, mẹ ngồi vá áo quần, bà ngồi bên tràng kỷ, cả hai đều lắng nghe cô tôi nói. Cô vừa ríu rít vừa chải những lọn tóc óng ả vừa kết thành hai bím dày. Khuôn mặt cô bừng lên một thứ ánh sáng lạ mà tôi chưa bao giờ thấy. Chú Hoạt vẫn đến nhà vào sáng chủ nhật. Đó là những chuỗi ngày đầy ắp tiếng cười nói. Bà như trẻ lại. Sông xanh hơn và mảnh vườn trước nhà bật lên màu óng ả non tươi. Đề tài của câu chuyện mỗi tối là chú Hoạt. Cô vừa đưa những nhát lược vào mớ tóc vừa nói: - Anh Hoạt chưa nói gì với con cả! Nhưng con tin anh ấy rất thương con. Anh ấy còn mẹ già và em gái ở quê, anh vẫn nói với con rằng, mỗi lần đến nhà ta, cảm thấy mình như được trở về nhà! Anh ấy bảo tính con giống tính em gái anh ấy lắm! Những lúc âý bà cười hiền hậu, mẹ mủm mỉm cười nhìn cô. Còn tôi lúc ấy chợt phát hiện ra sao mà cô xinh đẹp thế! Chú Hoạt vừa về quê lên. Chú đem biếu bà tấm khăn nhung, tặng cô cái cặp đựng giáo án, tôi được gói kẹo rất to. Phần của mẹ là một tấm vải màu hoa cà. Chú bảo, chỉ có màu tím ấy là hợp với mẹ. Nó đẹp mộc mạc, giản dị và cũng rất dịu dàng. Mẹ nhờ cô hàng xóm may một chiếc áo. Khi mẹ mặc chiếc áo ấy, cả nhà ngẩn người nhìn mẹ. Chiếc áo kỳ diệu đem lại cho mẹ vẻ dịu dàng đằm thắm, và tôi như thấy một vườn hoa cà tím trải mãi về phía chân trời. Hình như chú Hoạt cũng cảm thấy như tôi, chú rất hay nhìn mẹ. Mỗi khi đến nhà, chú hay giúp mẹ tôi làm cỏ ngoài vườn, cho lợn gà ăn hoặc chẻ củi. Chú thái rau khoai rất nhỏ và quét nhà rất sạch. Cô ríu rít ra vào và rất hay bẹo má tôi. Một hôm, nằm ngủ quên trong đống rơm ở góc vườn, tôi tỉnh dậy khi đã về chiều. Gió hiu hiu thổi, những tia nắng cuối cùng của ngày ngả mình mơn trớn những ngọn cây, bầy chim lách chách trong vòm lá. Bỗng tôi nghe tiếng chú Hoạt: - Tôi thương Nhài từ lâu! Nhài ạ! Xin Nhài hãy nghe tôi nói! Người tôi yêu là Nhài! Bao lâu nay tôi chỉ xem Lam là em gái thôi. Tôi sửng sốt nhổm hẳn người dậy. Mẹ đang níu lấy gốc xoan, mặt mẹ tái xanh, hằn nét kinh ngạc. Mẹ không nói nổi câu nào. Chú Hoạt vẫn tha thiết: - Gần 1 năm nay tôi đến đây chỉ vì Nhài. Tôi chưa bao giờ yêu Lam và không hề ngỏ lời nào với cô ấy. Tôi thương bé Ngâu như con gái mình! Nhài đừng lo ngại rằng... - Không! Không! Anh đốn mạt lắm! Khổ thân Lam! Trời ơi... Tôi không ngờ... Mẹ chạy vụt vào nhà, tức tưởi và đâm sầm vào cô tôi từ trong nhà bước ra. Cô sững lại: - Chị làm sao thế? Chị Nhài! Có chuyện gì vậy? Chú Hoạt cũng vừa đuổi kịp mẹ. Chú buồn rầu nhìn cô tôi, rồi nói: - Lam ạ! Tôi vừa nói với chị cô rằng tôi yêu chị ấy! Cô tôi đổ vật xuống. Tôi ngồi trơ ra giữa đống rơm và xé những chiếc lá vàng tung lên theo gió. Lòng tôi cũng tan tác, có một cái gì đó đã theo gió bay đi. Chú Hoạt không đến nữa. Ngôi nhà tối lại. Bà ngồi bất động trên tràng kỷ, thở dài. Mẹ cắm cúi vá áo và không ngẩng lên bao giờ. Cô ngồi sâu vào góc giường như tránh làn ánh sáng yếu ớt của chiếc đèn dầu đang vươn tới. Tôi loay hoay giữa cô, giữa bà và mẹ, không biết nói gì. Tôi vừa mới lên 10 tuổi. Thời gian lặng lẽ trôi đi. Những mụn vá của mẹ dày lên theo năm tháng. Cô vẫn cặm cụi chải tóc, những lọn tóc mỏng dần. Chúng thôi óng ả. Cô không tết thành bím mà cặp sau lưng. Mỗi khi cô bước đi, mớ tóc lại đập nhè nhẹ vào lưng, buồn bã cam chịu. Và chúng tôi cứ sống như thế. Khi tôi tròn 15 tuổi thì bà tôi mất. Bà chết ngồi trên tràng kỷ. Trước đó, bà cứ nhắc đi nhắc lại rằng, bà muốn sau khi chết, hãy đặt xác bà lên chiếc bè rồi thả xuôi theo dòng sông và chỉ chôn bà ở chỗ nào chiếc bè dừng lại. Chúng tôi theo chiếc bè xuôi dòng, đi mãi. Chiếc bè trôi đến chân ngọn núi có mộ của ông tôi thì dừng lại. Dân làng đặt bà bên cạnh ông. Giờ đây bà không còn ngồi lặng lẽ trên tràng kỷ nữa, bà đã nằm bình yên trong đất. Vài năm sau, tôi lên thành phố học đại học. Ngôi nhà rộng thêm, hun hút. Mảnh sân ngày một sậm rêu. Hai người đàn bà của tôi ở lại nhà. Ngôi nhà cho đến bây giờ vẫn không có đàn ông./.
Mục lục
Nhà không có đàn ông
Nhà không có đàn ông
Đào Phong LanChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.
Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: DactrungĐược bạn: Ct.Ly đưa lên vào ngày: 28 tháng 5 năm 2005
|
Khuyết Danh
Nhà Ma
Gia đình bác Tám được nhà nước tặng cho một căn nhà ở đầu xóm đá đó là một điều mà bác Tám không bao giờ mơ tới Bác Tám chỉ cần một căn nhà lá là đủ cho cha con bác sống tạm trong những ngày đầu dọn ra từ miền bắc cực khổ để kiếm việc làm Căn nhà này thật là rộng rãi và khang trang, bác Tám thích lắm Ngày gia đình bác dọn vào căn nhà mới bác thấy bà con hàng xóm bàn tán gì đó nhưng mắc mớ gì chớ nhà nước đã tặng cho bác thì bác cứ tự nhiên ai muốn nói sao thì nói Ddêm đầu tiên vì quá vui mừng, bác Tám đã uống hết một xị rượu đế và sau đó bác tiến vào phòng ngủ của bác Lờ mờ vì men rượu bác nhìn thấy có một cái bóng người lướt qua bác bác cảm thấy toàn thân lạnh cóng, nhưng rồi bác dụi dụi mắt lắc lắc đầu và tiếp tục bước về chiếc giường. Ddặt mình lên giường là bác Tám gáy khò luôn Ddang trong giấc mộng đẹp bác Tám chợt giật mình dậy vì bác nghe có tiếng gì như là bát điã đổ vỡ ở gian sau. Khệnh khạng bước xuống gian sau khám xét bác không kiếm ra được manh mối gì cả Bác trở vào phòng và ngủ tiếp nhưng chưa đầy mấy phút thì bác lại nghe có tiếng động ở gian sau. Kần này thì như là tiếng chân người bước cùng với tiếng xích khua leng keng rất rùng rợn Toàn thân bác Tám nổi da gà bác chợt nghĩ tới điều mà bác không bao giờ muốn nghĩ tới: "có ma!" Bác trùm chăn lên đầu và cố gắng xua đuổi những ý nghĩ sợ sệt đó nhưng bác không thể nào bình tĩnh được khi tiếng động kia cứ như đang tiến về phiá cửa phòng của bác Bác muốn lấy lại hết bình tĩng để bước xuống giường, nhưng toàn thân bác run cầm cập và chân tay như không còn xương để di chuyển Bác Tám chỉ còn cách xuôi mình cho số mạng an bài Tiếng bước chân mỗi lúc một gần phòng bác bác Tám hồi hộp lo sợ rồi bác nghe tiếng kẽo kẹt của cánh cửa nhè nhẹ Tuy trùm chăn cả người nhưng bác Tám có thể cảm giác được là cánh cửa phòng bác đang từ từ hé mở và bước chân kia từ từ tiến về phiá chiếc giường của bác Lúc này thì bác sợ đến cực điểm chân tay bác rã rời hai hàm răng bác cũng khua theo tiếng chân kia, tiếng chân càng gần thì hai hàm răng càng đập mạnh. Bác Tám cảm thấy có bàn tay lạnh lẽo đang động tới cái chăn tiếng thở nhè nhẹ nơi tai bác và ánh mắt đỏ hoét đang nhìn vào mặt bác bác Tám hét to lên nhưng bác bác chảng nghe được tiếng la của bác Lúc này thì bác nghĩ là bác sẽ chẳng còn có thể sống được nữa Bác cảm thấy chiếc chăn được tung lên và một bàn tay to tướng chộp vào người bác bác giật bắn người dậy và nhìn thấy người ngồi bên cạnh bác là đứa con của bác - Cha nằm ác mộng ha? đứa con hỏi Người bác Tám ướt như chuột lột bác nhìn quanh quẩn một hồi và chợt thở phào nhẹ nhõm Tuy là chẳng có chuyện gì không may xảy đến nơi bác bác Tám cũng không thể nào phân biệt được là bác thật sự đã nằm mộng hay là bác đã gặp ma. Dầu sao đi nữa thì bác cũng bị chuyện đó ám ảnh suốt cả ngày Rồi chiều lại về bác Tám nhất định là không uống một giọt rượu nào để giữ đầu óc tỉnh táo cho đến tối Mười giờ mười một giờ rồi mười hai giờ đã 3 tiếng đồng hồ nằm trên giường mà bác Tám không thể nào ru mình vào giấc ngủ được bác cứ trằn trọc không yên trong khi thằng con của bác đã yên giấc điệp từ lâu Bác Tám bắt đầu đếm số 1 2 3 với hy vọng là sẽ làm cho giấc ngủ mau đến Khi bác Tám vừa đếm tới 100 thì bác nghe: "Keng keng keng," tiếng kêu phát ra từ nhà sau. Bác Tám nhảy xuống giường, chạy đến cánh cửa và ép tai vào cửa để nghe ngóng; nhưng đã 5 phút qua đi mà mọi sự vẫn im lìm bác Tám trở lại giường; và trong khi bác sửa soạn đặt mình xuống thì bác lại nghe: "Xịch xịch xịch." Bác Tám rùng mình một cái và bắt đầu hồi hộp vì đúng là những tiếng kêu mà bác đã nghe được hồi đêm qua. Nhắc lại là sau khi chuyện xảy ra đêm qua, bác Tám lúc nào cũng hy vọng là mình đã nằm mơ nhưng giờ nghe những tiếng động này bác Tám khẳng định chuyện đêm qua là sự thật để chắc ăn bác Tám nhéo vào má một cái thật mạnh, "Ouch!" Bác Tám la thầm Tim bác Tám bắt đầu đập mạnh và mồ hôi bắt đầu toát ra. Bác Tám cầm cây gậy lên lấy hết bình tĩnh bước tới cánh cửa phòng. Tiếng "xịch xịch xịch" đột nhiên lặng bẵng đi bác Tám từ từ mở cánh cửa bước ra ngoài rồi từ từ bước xuống gian nhà sau. Trong lúc bác đang hồi hộp thì "vù" một vật gì bay về phía bác Bác Tám giơ cây gậy lên và lấy hết sức đập mạnh vào vật đó "Meo! meo! meo!" bác Tám nhảy về phiá saụ "Thì ra là con mèo " bác Tám thở hắt ra, bỏ cây gậy xuống và lấy hai tay xoa xoa ngự Quan sát một hồi không thấy có gì lạ bác Tám quay trở lại phòng ngủ Vừa chân trước chân sau bước vào bác Tám giật bắn người và lùi lại vì chiếc giường của bác đã được dựng đứng lên Trong lúc bác Tám còn đang hốt hoảng thì chiếc giường kia bắt đầu xoai xoai vòng vòng. Bác Tám sợ quá cắm đầu chạy qua phòng thằng con trai của bác Mở cửa phòng đứa con trai, bác Tám vội vã chạy đến chiếc giường để đánh thức thằng con trai dậy Nhưng khi bác Tám chạy đến chiếc giường thì một khuân mặt xanh lè với những nốt rẽ đỏ hoét xoai lại ngó bác Bác Tám vì quá hoảng đã xoai mình chạy thẳng xuống nhà dưới Sau khi lấy lại bình tĩnh, bác quết định vào cứu thằng con trai. Bác nhặt cây gậy lên và từ từ bước lên nhà trên Lấy hết sức bác bước tới gần chiếc giường thằng con trai. Bác từ từ giơ chiếc gậy lên nhưng bác chợt ngưng lại vì giờ trên giường chỉ còn thằng con trai của bác đang say mê trong giấc ngủ Bác đánh thức thằng con và kéo nó chạy ra khỏi nhà Đêm nay hai cha bác Tám nằm ngủ trên vỉa hè của một người hàng xóm Tuy khí trời lạnh lẽo nhưng bác Tám thấy người bác còn ấm hơn ngủ trong căn nhà của bác
Mục lục
Nhà Ma
Nhà Ma
Khuyết DanhChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.
Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.Sưu tầm: mssthuan Nguồn: vietsunĐược bạn: Ct.Ly đưa lên vào ngày: 20 tháng 11 năm 2006
|
Noname
Ghost House
Uncle Tam's family was given a house by the government at the beginning of the stone hamlet, something Uncle Tam never dreamed of. Uncle Tam only needed a thatched house, which was enough for his father and son to live temporarily in the first days of moving out. from the north, working hard to find a job. This house is really spacious and spacious. Uncle Tam likes it very much. The day my family moved into the new house, I saw the neighbors talking about something, but what's wrong with the government? Since it was given to you, you can say whatever you want. First, because you were so happy, Uncle Tam drank an entire bottle of wine and then entered your bedroom. Blurred with alcohol, you saw it. There was a shadow passing by and he felt his whole body freeze, but then he rubbed his eyes, shook his head and continued walking back to the bed. When I put myself on the bed, Uncle Tam crowed. In a beautiful dream, Uncle Tam suddenly woke up because he heard something like a broken bowl in the back room. Staggering down to the back room, he searched but couldn't find any clues. He went back to the room and went back to sleep, but after only a few minutes, he heard a noise in the back room. This time, it was like the sound of human footsteps walking along with the very scary sound of jingling chains. Uncle Tam's whole body got goosebumps. He suddenly thought of something he never wanted to think about: "There's a ghost!" He covered his head with the blanket and tried to chase away those fearful thoughts, but he couldn't calm down when the noise seemed to be moving towards his room door. He wanted to regain all his composure and get out of bed. But his whole body trembled and his limbs seemed to have no bones left to move. Uncle Tam had no choice but to surrender to fate. The footsteps were getting closer and closer to Uncle Tam's room, he was nervous and scared, then he heard a creaking sound. of the door softly Even though he was covered with a blanket, Uncle Tam could feel that the door to his room was slowly opening and the other foot was slowly moving towards his bed. At this moment, he was extremely scared. His hands were tired and his teeth were also chattering along with the sound of the other footsteps. The closer the footsteps were, the stronger his teeth were. Uncle Tam felt a cold hand touching the blanket, the sound of soft breathing in his ear and red eyes looking at his face. Uncle Tam shouted loudly but he could not hear his scream. At this time, he I thought I wouldn't be able to live anymore. I felt the blanket being thrown away and a big hand grabbed my body. I jumped up and saw the person sitting next to me was my child - Dad was lying down. Nightmare huh? the child asked. Uncle Tam was soaking wet. He looked around for a while and suddenly breathed a sigh of relief. Even though nothing unfortunate had happened to Uncle Tam, he still couldn't tell if he was really dreaming. Or have you seen a ghost? Either way, he was haunted by it all day. Then in the afternoon, Uncle Tam made sure not to drink a drop of alcohol to keep his mind awake until the evening. It was already 11:00 at ten and then 3 at twelve. After hours of lying in bed, Uncle Tam could not lull himself to sleep. He kept tossing and turning restlessly while his son had long since fallen asleep. Uncle Tam started counting the numbers 1 2 3 in the hope that he would make sleep come quickly. Uncle Tam had just counted to 100 when he heard: "King jing jing," a cry coming from the back house. Uncle Tam jumped out of bed, ran to the door and pressed his ear against the door to listen; But 5 minutes had passed and everything was still quiet. Uncle Tam returned to bed; and while he was about to put himself down, he heard: "Shush shush." Uncle Tam shivered and started to get nervous because it was exactly the screams he heard last night. Again, after what happened last night, Uncle Tam always hoped that he was dreaming, but now when he heard these noises, Uncle Tam confirmed that what happened last night was true to make sure. Uncle Tam pinched his cheek. strongly, "Ouch!" Uncle Tam shouted silently. Uncle Tam's heart began to beat strongly and sweat began to break out. Uncle Tam picked up the stick and calmly walked to the door of the room. The sound of "ssh ssh ssh" suddenly stopped. Uncle Tam slowly opened the door and walked out, then slowly walked down to the back house. While he was nervous, "whoosh" something flew towards him. Uncle Tam raised his stick and used all his strength to hit that object, "Meow! meow! meow!" Uncle Tam jumped back "So it's a cat" Uncle Tam breathed out, put down the stick and rubbed it with both hands. Observed for a while and didn't see anything strange. Uncle Tam returned to the bedroom. After entering, Uncle Tam was startled and stepped back because his bed had been raised up. While Uncle Tam was still panicking, the other bed began to rotate around. Uncle Tam was so scared that he ran to his son's room. Opening the door to his son's room, Uncle Tam quickly ran to the bed to wake his son up. But when Uncle Tam ran to the bed, he saw a green face. With red spots turning around to look at Uncle Tam, he was so scared that he turned and ran straight downstairs. After regaining his composure, he decided to go in and save his son. He picked up the stick and slowly walked upstairs. Using all his strength, he walked closer to his son's bed. He slowly raised the stick but suddenly stopped because now there was only his son on the bed, who was deep in sleep. He woke up his son and pulled him out of the house. Tonight, Uncle Tam and his father slept on the bed. A neighbor's sidewalk. Even though the weather was cold, Mr. Tam found his body warmer than sleeping in his own house.
Table of contents
Ghost House
Ghost House
AnonymousWelcome to read books from the book project for mobile devices. Source: author: Nguyen Kim Vy.
Final words: Thank you for following the entire story. Source: onion: Nguyen Kim Vy. Collected: mssthuan Source: vietsun Uploaded by friend: Ct.Ly on: November 20, 2006
|
Lưu Cẩm Vân
Nhà Thuê
Sáng chủ nhật tôi cho phép mình ngủ trễ hơn mọi ngày, vậy mà khi tiếng chuông buổi lễ muộn của ngôi nhà thờ bên kia đường đổ gióng giã tôi không thể nào mở được đôi mắt còn cay cứng. Tối qua tôi với Hằng dọn dẹp căn phòng tới khuya mới tạm ổn, đây là lần dọn nhà thứ hai trong năm học. Hồi chưa phải ở trọ đi học tôi cứ tưởng những mẩu chuyện về đời sinh viên đăng trên báo chỉ là những điều hư cấu, thậm xưng một chút cho vui. Chừng vào cuộc rồi mới cảm thấy đắng caỵ Lúc đầu đến hỏi thăm thuê nhà bà chủ trọ tỏ ra là người vui vẻ, nhân hậu rát rất quan tâm đến bọn trẻ phải xa gia đình đi học. Ở chừng vài tháng lỡ chậm tiền nhà là bị nói xa nói gần, đùng một cái bà chủ tuyên bố phải lấy lại nhà để sửa. Nhỏ Hằng có nhiều kinh nghiệm dọn nhà hơn tôi nên vẫn thản nhiên như không, chỉ có tôi lo lắng đến mất ngủ.Tìm kiếm rồi lựa chọn cuối cùng chúng tôi cũng thuê được nhà mới. Đó là căn phòng tương đối tươm tất và đối với bọn sinh viên như tôi thì có vẻ sang trọng. Bà chủ nhà mới cũng tiếp đón niềm nở, ân cần nhưng nhỏ Hằng không còn xúc động trước lòng tốt đó nữa. Nhỏ Hằng tuyên bố: "Thức đêm mới biết đêm dài". Hai đứa tôi bỏ cả ngày thứ bảy dể dọn nhà, thường ngày lúc nào cũng than vãn thiếu thốn, cái gì cũng không có để xài, mở miệng ra đứa nào cũng nói một cách tiếc rẻ: "Phải chi ở nhà thì... ". Đến chừng phải di chuyển thì hỡi ôi cả trăm thứ phải đóng gói, hai đứa phải chặn bà mua ve chai để mua mấy cái thùng giấy mà khi ở nhà nếu có cũng liệng lăn lóc.Mấy đứa bạn cảm thương nên chở dùm mấy cái thùng vậy mà vẫn dư ra cái giỏ đựng lỉnh kỉnh bao nhiêu là thứ tế nhuyễn. Bạn về rồi chỉ còn hai đứa tôi. Đứng giữa đống thùng ngổn ngang, nhìn nhau mà xuống tinh thần. Lạy trời, sau cùng thì mọi việc cũng trôi chảy, công việc cuối là xếp những chiếc thùng giấy gọn ghẽ vào một góc trần nhà phòng lúc phải dọn nhà lần nữa.Căn phòng mới có một cánh cửa mở ra một cái lan can nhỏ, ở đó có được khoảng trời xanh mà khu nhà cũ không bao giờ có được. Mỗi lần nhắc đến căn phòng cũ là tôi nhớ đến khoảng không gian mười mấy mấy mét vuông kín bưng không có cửa sổ. Nhỏ Hằng lại cười: "May mà bị đuổi nhà mình mới tìm được chỗ thoải mái hơn, ở đây không khí trong lành biết đâu sẽ được trắng da dài tóc".Buổi sáng tôi thường dậy sớm ra ngoài lan can tập thể dục. Phía xa một chút là tháp chuông nhọn của một ngôi nhà thờ có mái ngói màu hồng trông thanh thoát nhẹ nhàng giữa những khối nhà bê tông đồ sộ. Tôi hít vào muốn căng lồng ngực chút không khí trong lành ban mai. Người thành phố có thói quen dậy muộn. Nắng lên cao mà mấy cửa hiệu nhỏ dưới đường chưa muốn mở cửa. Chủ các sạp hàng của ngôi chợ bên kia chậm chạp bưng dọn làm như còn lâu lắm mới bắt đầu buổi chợ.Ngôi nhà được chia làm nhiều phòng cũng đều cho bọn sinh viên như tôi thuê ở, gần một tháng qua rồi mà chưa ai biết mặt biết tên nhau. Bà chủ nhà cũng chẳng quan tâm đến việc giới thiệu những người trong nhà với nhau. Tôi chỉ biết mang mán là có mấy đứa con gái, trai tuổi bọn tôi đang ở tầng trên. Nhỏ Hằng thường nói thầm vào tai tôi: "Tầng trên có một đứa đẹp lắm, như người mẫu". Tôi trêu nó: "Chắc cũng không đẹp bằng nhà ngươi đâu. Yên tâm đi". Nhỏ nguýt tôi không nói nhưng tôi biết chắc trong lòng nó thích tôi nói như thế lắm.Một bữa tôi đụng đầu một đứa ở ngay chân cầu thang, lúc đó tôi đang vội vàng chạy xuống vì sợ trễ học. Nhỏ lách mình qua một bên chừa lối cho tôi đi trước, tôi quay lại cảm ơn và kịp nhìn thấy một đôi mắt tròn đen lay láy. Chắc đó là "nhỏ đẹp đẹp" của Hằng. Chiều đó đi học về tôi mới biết tên của nhỏ là Thi khi có một anh chàng đứng trước nhà nhờ tôi nhắn gặp. Chúng tôi thường gặp nhau hơn nhưng cũng chỉ đủ để cười một cái chào nhau. Nhỏ Hằng hay nói: "Tụi mình khó có bạn mới vì không biết cách làm quen". Tôi cũng đồng ý với Hằng, tôi với nó có một tỉ điều khác biệt nhau nhưng thỉnh thoảng cũng có lúc hợp nhau. Có lẽ vì vậy mà nó chọn tôi ở chung sau khi mấy đứa khác dọn đi. Mẹ tôi dạy rằng: "ở đời không có ai toàn bích và không thể chọn một người hoàn toàn hợp ý mình. Người trong gia đình còn có lúc mâu thuẫn nhau huống gì chỉ là bạn bè. Muốn ở được với nhau người này phải chấp nhận cá tính của người kia và biết nhường nhịn nhau". Tôi là đứa con biết nghe lời mẹ nên tránh được những lúc cãi nhau với Hằng. Không biết Hằng có hiểu như vậy không mà nó cũng tỏ ra nhường tôi nhiều chuyện, chúng tôi sống với nhau khá hoà thuận.Tháng đầu trả tiền nhà, tiền điện nước xong, tôi với Hằng giật mình vì túi tiền còn quá ít. Còn một tháng dài phía trước với trăm điều phải lo: tiền gạo, tiền mắm, lại còn tiền giấy với màu để làm bài cho mỗi tháng. Hằng vốn vô tư nên nó quên rất nhanh, nó lạc quan rằng sẽ nghĩ ra cách để đủ tiền sống trong tháng. Tôi nghĩ ngay đến vẻ lo lắng của mẹ và mái tóc bắt đầu bạc rất nhanh của ba khi tôi giải trình về chi tiêu khi đến nhà mới. Căn phòng tươm tất hơn mà chỉ có hai đứa ở tất nhiên là phải trả nhiều tiền hơn. Tôi rủ Hằng đi kiếm việc làm, nhưng ở giữa thành phố đông đúc nhộn nhịp này thì một công việc cho tôi làm cũng không dễ dàng gì.Bề ngoài Hằng có vẻ mạnh mẽ hơn tôi nhưng thật ra nó cũng nhát như thỏ. Đến chỗ nào xin việc nó cũng đẩy tôi vô trước rồi cuối cùng hai đứa về không. Hôm nào đi học về sớm là tôi với Hằng rủ nhau đi kiếm việc làm nhưng cả tuần trôi quạ Vẫn không có gì khả quan hơn. Thứ bảy, chủ nhật tôi vẫn còn rỗi rãnh ra ngồi ngoài lan can nhìn qua cái tháp chuông của ngôi nhà thờ đằng xa nhưng lòng lại rối bời. Lạ một điều là tôi vẫn còn đủ tỉnh táo để ngắm nhìn những tàng cây cao tựa vào nhau làm thành nhưng vòm lá xanh rậm rì và phát hiện ra mình yêu thành phố này biết mấy. Cảm giác ấy có từ lúc nào tôi không biết.Nhỏ Thi gõ cửa phòng tôi vào một buổi tối khi tôi ngồi một mình học bài. Hằng đi chơi với bạn chưa về, tôi mời Thi ngồi xuống sàn gạch hoa mà không tiện hỏi Thi tìm tôi để làm gì. Thi quì trên sàn, hai tay chống lên gối, nó nhìn quanh bằng đôi mắt thú vị: "Phòng của bạn đẹp quá, trông thật nghệ sĩ". Tôi không nhìn cũng biết Thi đang ngắm mấy bức tranh treo trên tường. Đó là bài tập của tôi làm ở trường, không có chỗ cất bọn tôi treo lên vừa để trang hoàng căn phòng cho vui mắt. Thi cầm khung ảnh tôi để trên kệ sách lên ngắm nghía: "Bạn trai của Hiên phải không, đẹp nhỉ?". Tôi hơi khó chịu trước vẻ tự nhiên của Thi nên làm thinh. Tôi rót một ly nước lọc cho Thi và hỏi: "Thi xuống chơi có việc gì không?". Thi đặt khung ảnh xuống quay lại cười: "Tưởng Hiên không thèm hỏi chứ". Tôi cũng cười: "Là mình nghĩ Thi ghé chơi thôi".Thi hỏi tôi: "Hiên đang kiếm việc làm phải không?""Sao Thi biết?""Mình có vài việc chỉ cho Hiên với Hằng, hai người thích làm không?"Bọn tôi trở thành bạn với nhau như thế. Hằng được giới thiệu bán đĩa CD ở một cửa hàng còn tôi thì đi dạy vẽ ở một lớp năng khiếu của nhà Thiếu nhi Thành phố. Lần lãnh lương đầu tiên hai đứa tôi nấu một nồi bò kho, đó là một công trình mà tôi phải vận dụng hết thông minh để nhớ lại những lần xem mẹ làm bếp. Chúng tôi mời Thi và các bạn cùng phòng của nó xuống "dự tiệc" như là một cách cảm ơn. Thi rất chu đáo, nó gợi ý mời cả cô chủ nhà lên cùng ăn. Bữa ăn thành công về mọi mặt, nhất là về ngoại giao - nhỏ Hằng nói như vậy khi sau này cô chủ nhà tỏ ra vui vẻ mở cửa nếu tôi nào nó về trễ.Việc học, việc làm tuy có căng thẳng nhưng thỉnh thoảng chúng tôi cũng có lúc ghé qua phòng thăm nhau. ấn tượng về nhà thuê cũng dần phai nhạt đi, nhất là từ hôm tôi đột ngột ngã bệnh khi Hằng phải về thăm mẹ. Tường bận đi thực tế không ghé qua nên không biết, chỉ có cô chủ nhà và Thi lăng xăng cạo gió, nấu cháo cho tôi. Khoẻ lại rồi tôi chỉ biết nói lời cảm ơn dù thật lòng tôi thấy chừng đó chưa đủ.Mùa hè đến, chúng tôi về thăm nhà. Cô chủ nhà hứa sẽ trông coi phòng chờ chúng tôi vào năm học mới, cô còn chu đáo gởi mỗi đứa một túi xoài Hoà Lộc mang về biếu mẹ. Tôi về nhà, lòng ấm áp trong sự chìu chuộng của mẹ, tha hồ vòi vĩnh với ba, có lúc không còn muốn xa nhà. Nhưng cũng có khi lòng mang mang nhớ khoảng trời xanh trên phần lan can nhỏ và cái cầu thang hẹp cong cong. Nhớ cái tháp chuông màu trắng thấp thoáng sau vòm lá xanh cùng tiếng chuông ngân mỗi chiều mà lòng bâng khuâng. Tôi hay kể cho mẹ nghe về những người bạn ở cùng nhà, nhắc hoài chắc bọn nó hắt hơi thường xuyên. Và hình như, có lúc lại mong cho mùa hè chóng qua... Lưu Cẩm Vân, tháng 3/2002Hết
Mục lục
Nhà Thuê
Nhà Thuê
Lưu Cẩm VânChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.
Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: may4phuong.netĐược bạn: mickey đưa lên vào ngày: 5 tháng 6 năm 2004
|
Lưu Cẩm Vân
Nhà Thuê
Sáng chủ nhật tôi cho phép mình ngủ trễ hơn mọi ngày, vậy mà khi tiếng chuông buổi lễ muộn của ngôi nhà thờ bên kia đường đổ gióng giã tôi không thể nào mở được đôi mắt còn cay cứng. Tối qua tôi với Hằng dọn dẹp căn phòng tới khuya mới tạm ổn, đây là lần dọn nhà thứ hai trong năm học. Hồi chưa phải ở trọ đi học tôi cứ tưởng những mẩu chuyện về đời sinh viên đăng trên báo chỉ là những điều hư cấu, thậm xưng một chút cho vui. Chừng vào cuộc rồi mới cảm thấy đắng caỵ Lúc đầu đến hỏi thăm thuê nhà bà chủ trọ tỏ ra là người vui vẻ, nhân hậu rát rất quan tâm đến bọn trẻ phải xa gia đình đi học. Ở chừng vài tháng lỡ chậm tiền nhà là bị nói xa nói gần, đùng một cái bà chủ tuyên bố phải lấy lại nhà để sửa. Nhỏ Hằng có nhiều kinh nghiệm dọn nhà hơn tôi nên vẫn thản nhiên như không, chỉ có tôi lo lắng đến mất ngủ.Tìm kiếm rồi lựa chọn cuối cùng chúng tôi cũng thuê được nhà mới. Đó là căn phòng tương đối tươm tất và đối với bọn sinh viên như tôi thì có vẻ sang trọng. Bà chủ nhà mới cũng tiếp đón niềm nở, ân cần nhưng nhỏ Hằng không còn xúc động trước lòng tốt đó nữa. Nhỏ Hằng tuyên bố: "Thức đêm mới biết đêm dài". Hai đứa tôi bỏ cả ngày thứ bảy dể dọn nhà, thường ngày lúc nào cũng than vãn thiếu thốn, cái gì cũng không có để xài, mở miệng ra đứa nào cũng nói một cách tiếc rẻ: "Phải chi ở nhà thì... ". Đến chừng phải di chuyển thì hỡi ôi cả trăm thứ phải đóng gói, hai đứa phải chặn bà mua ve chai để mua mấy cái thùng giấy mà khi ở nhà nếu có cũng liệng lăn lóc.Mấy đứa bạn cảm thương nên chở dùm mấy cái thùng vậy mà vẫn dư ra cái giỏ đựng lỉnh kỉnh bao nhiêu là thứ tế nhuyễn. Bạn về rồi chỉ còn hai đứa tôi. Đứng giữa đống thùng ngổn ngang, nhìn nhau mà xuống tinh thần. Lạy trời, sau cùng thì mọi việc cũng trôi chảy, công việc cuối là xếp những chiếc thùng giấy gọn ghẽ vào một góc trần nhà phòng lúc phải dọn nhà lần nữa.Căn phòng mới có một cánh cửa mở ra một cái lan can nhỏ, ở đó có được khoảng trời xanh mà khu nhà cũ không bao giờ có được. Mỗi lần nhắc đến căn phòng cũ là tôi nhớ đến khoảng không gian mười mấy mấy mét vuông kín bưng không có cửa sổ. Nhỏ Hằng lại cười: "May mà bị đuổi nhà mình mới tìm được chỗ thoải mái hơn, ở đây không khí trong lành biết đâu sẽ được trắng da dài tóc".Buổi sáng tôi thường dậy sớm ra ngoài lan can tập thể dục. Phía xa một chút là tháp chuông nhọn của một ngôi nhà thờ có mái ngói màu hồng trông thanh thoát nhẹ nhàng giữa những khối nhà bê tông đồ sộ. Tôi hít vào muốn căng lồng ngực chút không khí trong lành ban mai. Người thành phố có thói quen dậy muộn. Nắng lên cao mà mấy cửa hiệu nhỏ dưới đường chưa muốn mở cửa. Chủ các sạp hàng của ngôi chợ bên kia chậm chạp bưng dọn làm như còn lâu lắm mới bắt đầu buổi chợ.Ngôi nhà được chia làm nhiều phòng cũng đều cho bọn sinh viên như tôi thuê ở, gần một tháng qua rồi mà chưa ai biết mặt biết tên nhau. Bà chủ nhà cũng chẳng quan tâm đến việc giới thiệu những người trong nhà với nhau. Tôi chỉ biết mang mán là có mấy đứa con gái, trai tuổi bọn tôi đang ở tầng trên. Nhỏ Hằng thường nói thầm vào tai tôi: "Tầng trên có một đứa đẹp lắm, như người mẫu". Tôi trêu nó: "Chắc cũng không đẹp bằng nhà ngươi đâu. Yên tâm đi". Nhỏ nguýt tôi không nói nhưng tôi biết chắc trong lòng nó thích tôi nói như thế lắm.Một bữa tôi đụng đầu một đứa ở ngay chân cầu thang, lúc đó tôi đang vội vàng chạy xuống vì sợ trễ học. Nhỏ lách mình qua một bên chừa lối cho tôi đi trước, tôi quay lại cảm ơn và kịp nhìn thấy một đôi mắt tròn đen lay láy. Chắc đó là "nhỏ đẹp đẹp" của Hằng. Chiều đó đi học về tôi mới biết tên của nhỏ là Thi khi có một anh chàng đứng trước nhà nhờ tôi nhắn gặp. Chúng tôi thường gặp nhau hơn nhưng cũng chỉ đủ để cười một cái chào nhau. Nhỏ Hằng hay nói: "Tụi mình khó có bạn mới vì không biết cách làm quen". Tôi cũng đồng ý với Hằng, tôi với nó có một tỉ điều khác biệt nhau nhưng thỉnh thoảng cũng có lúc hợp nhau. Có lẽ vì vậy mà nó chọn tôi ở chung sau khi mấy đứa khác dọn đi. Mẹ tôi dạy rằng: "ở đời không có ai toàn bích và không thể chọn một người hoàn toàn hợp ý mình. Người trong gia đình còn có lúc mâu thuẫn nhau huống gì chỉ là bạn bè. Muốn ở được với nhau người này phải chấp nhận cá tính của người kia và biết nhường nhịn nhau". Tôi là đứa con biết nghe lời mẹ nên tránh được những lúc cãi nhau với Hằng. Không biết Hằng có hiểu như vậy không mà nó cũng tỏ ra nhường tôi nhiều chuyện, chúng tôi sống với nhau khá hoà thuận.Tháng đầu trả tiền nhà, tiền điện nước xong, tôi với Hằng giật mình vì túi tiền còn quá ít. Còn một tháng dài phía trước với trăm điều phải lo: tiền gạo, tiền mắm, lại còn tiền giấy với màu để làm bài cho mỗi tháng. Hằng vốn vô tư nên nó quên rất nhanh, nó lạc quan rằng sẽ nghĩ ra cách để đủ tiền sống trong tháng. Tôi nghĩ ngay đến vẻ lo lắng của mẹ và mái tóc bắt đầu bạc rất nhanh của ba khi tôi giải trình về chi tiêu khi đến nhà mới. Căn phòng tươm tất hơn mà chỉ có hai đứa ở tất nhiên là phải trả nhiều tiền hơn. Tôi rủ Hằng đi kiếm việc làm, nhưng ở giữa thành phố đông đúc nhộn nhịp này thì một công việc cho tôi làm cũng không dễ dàng gì.Bề ngoài Hằng có vẻ mạnh mẽ hơn tôi nhưng thật ra nó cũng nhát như thỏ. Đến chỗ nào xin việc nó cũng đẩy tôi vô trước rồi cuối cùng hai đứa về không. Hôm nào đi học về sớm là tôi với Hằng rủ nhau đi kiếm việc làm nhưng cả tuần trôi quạ Vẫn không có gì khả quan hơn. Thứ bảy, chủ nhật tôi vẫn còn rỗi rãnh ra ngồi ngoài lan can nhìn qua cái tháp chuông của ngôi nhà thờ đằng xa nhưng lòng lại rối bời. Lạ một điều là tôi vẫn còn đủ tỉnh táo để ngắm nhìn những tàng cây cao tựa vào nhau làm thành nhưng vòm lá xanh rậm rì và phát hiện ra mình yêu thành phố này biết mấy. Cảm giác ấy có từ lúc nào tôi không biết.Nhỏ Thi gõ cửa phòng tôi vào một buổi tối khi tôi ngồi một mình học bài. Hằng đi chơi với bạn chưa về, tôi mời Thi ngồi xuống sàn gạch hoa mà không tiện hỏi Thi tìm tôi để làm gì. Thi quì trên sàn, hai tay chống lên gối, nó nhìn quanh bằng đôi mắt thú vị: "Phòng của bạn đẹp quá, trông thật nghệ sĩ". Tôi không nhìn cũng biết Thi đang ngắm mấy bức tranh treo trên tường. Đó là bài tập của tôi làm ở trường, không có chỗ cất bọn tôi treo lên vừa để trang hoàng căn phòng cho vui mắt. Thi cầm khung ảnh tôi để trên kệ sách lên ngắm nghía: "Bạn trai của Hiên phải không, đẹp nhỉ?". Tôi hơi khó chịu trước vẻ tự nhiên của Thi nên làm thinh. Tôi rót một ly nước lọc cho Thi và hỏi: "Thi xuống chơi có việc gì không?". Thi đặt khung ảnh xuống quay lại cười: "Tưởng Hiên không thèm hỏi chứ". Tôi cũng cười: "Là mình nghĩ Thi ghé chơi thôi".Thi hỏi tôi: "Hiên đang kiếm việc làm phải không?""Sao Thi biết?""Mình có vài việc chỉ cho Hiên với Hằng, hai người thích làm không?"Bọn tôi trở thành bạn với nhau như thế. Hằng được giới thiệu bán đĩa CD ở một cửa hàng còn tôi thì đi dạy vẽ ở một lớp năng khiếu của nhà Thiếu nhi Thành phố. Lần lãnh lương đầu tiên hai đứa tôi nấu một nồi bò kho, đó là một công trình mà tôi phải vận dụng hết thông minh để nhớ lại những lần xem mẹ làm bếp. Chúng tôi mời Thi và các bạn cùng phòng của nó xuống "dự tiệc" như là một cách cảm ơn. Thi rất chu đáo, nó gợi ý mời cả cô chủ nhà lên cùng ăn. Bữa ăn thành công về mọi mặt, nhất là về ngoại giao - nhỏ Hằng nói như vậy khi sau này cô chủ nhà tỏ ra vui vẻ mở cửa nếu tôi nào nó về trễ.Việc học, việc làm tuy có căng thẳng nhưng thỉnh thoảng chúng tôi cũng có lúc ghé qua phòng thăm nhau. ấn tượng về nhà thuê cũng dần phai nhạt đi, nhất là từ hôm tôi đột ngột ngã bệnh khi Hằng phải về thăm mẹ. Tường bận đi thực tế không ghé qua nên không biết, chỉ có cô chủ nhà và Thi lăng xăng cạo gió, nấu cháo cho tôi. Khoẻ lại rồi tôi chỉ biết nói lời cảm ơn dù thật lòng tôi thấy chừng đó chưa đủ.Mùa hè đến, chúng tôi về thăm nhà. Cô chủ nhà hứa sẽ trông coi phòng chờ chúng tôi vào năm học mới, cô còn chu đáo gởi mỗi đứa một túi xoài Hoà Lộc mang về biếu mẹ. Tôi về nhà, lòng ấm áp trong sự chìu chuộng của mẹ, tha hồ vòi vĩnh với ba, có lúc không còn muốn xa nhà. Nhưng cũng có khi lòng mang mang nhớ khoảng trời xanh trên phần lan can nhỏ và cái cầu thang hẹp cong cong. Nhớ cái tháp chuông màu trắng thấp thoáng sau vòm lá xanh cùng tiếng chuông ngân mỗi chiều mà lòng bâng khuâng. Tôi hay kể cho mẹ nghe về những người bạn ở cùng nhà, nhắc hoài chắc bọn nó hắt hơi thường xuyên. Và hình như, có lúc lại mong cho mùa hè chóng qua... Lưu Cẩm Vân, tháng 3/2002Hết
Mục lục
Nhà Thuê
Nhà Thuê
Lưu Cẩm VânChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.
Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: may4phuong.netĐược bạn: mickey đưa lên vào ngày: 5 tháng 6 năm 2004
|
nhiều tác giả
Nhà thơ Bảo Cường
Tác Giả - Tác Phẩm
Sinh: Dương Hòa - Thừa Thiên Huế Ngâm thơ: Sáo trúc Cộng tác Chương trình Tiếng thơ Đài Tiếng nói Nhân Dân & Đài Truyền hình TPHCM Tác phẩm: Đã xuất bản: Thơ Dặm nhớ - NXB Văn học 1997 Sắp xuất bản: Thơ nhạc Từ độ xa người Quá khứ là muôn mặt đằng sau, còn chăng là những hình ảnh không rõ lắm, phải không em? Hãy nhận đi, đây là âm vang của một thời. Mà thời gian như con sóng xói mòn những tảng đá trên bờ biển. Gặp nhau cho năm tháng giũa mòn từng tuổi đời, thôi em, tình yêu đã khâm liệm, mà chiếc áo quan là tiếng hát u buồn của em ngày hôm đó. Đôi lúc anh nghĩ, sự sống, tình yêu và sự chết, của mất đi hay còn lại. Hiện tại anh nghĩ tiếng hát của em ngày nào, sẽ dẫn dìu anh đi qua bốn mùa của năm tháng. Tiếng hát của người còn mãi thê lương, để cho ai nhấp từng ly rượu, mà nghe hồn nuối tiếc đau thương... Ngàn năm im bặt tiếng đàn Tiếng ca ngày cũ theo ngàn gió bay Cung đàn lạc phím sai dây Mà nghe đau xót đắng cay mấy đường.
Mục lục
Nhà thơ Bảo Cường
Nhà thơ Bảo Cường
nhiều tác giảChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.
Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: Binhthuan.gov.vnĐược bạn: Ct.Ly đưa lên vào ngày: 20 tháng 3 năm 2005
|
many authors
Poet Bao Cuong
Author - Works
Born: Duong Hoa - Thua Thien Hue Poetry Recitation: Bamboo Flute Collaboration with Radio Poetry Program Voice of the People & Ho Chi Minh City Television Station Works: Published: Poetry of Miles - Literature Publishing House 1997 About to be published: Poetry and music From a distance from people The past is behind many faces, maybe the images are not very clear, right? ? Accept it, this is the echo of a time. But time is like waves eroding the rocks on the beach. Meeting each other for years and years of grinding away each age, oh baby, love has been shrouded, but the coffin is the sad song you sang that day. Sometimes I think, life, love and death, lost or remaining. Now I think your singing will guide me through the four seasons of the year. Your singing voice is still mournful, allowing everyone to sip each glass of wine, but hear the soul of regret and pain... Thousands of years have silenced the sound of the instrument. The singing of the old days is carried by thousands of winds. The bow of the instrument is out of tune and the strings are wrong, but it hurts to hear. It's bittersweet.
Table of contents
Poet Bao Cuong
Poet Bao Cuong
many authorsWelcome to read books from the book project for mobile devicesSource: author: Nguyen Kim Vy.
Final words: Thank you for reading the entire story. Source: editor: Nguyen Kim Vy. Source: Binhthuan.gov.vn Uploaded by friend: Ct.Ly on: March 20, 2005
|
Asimov, Isaac
Nhà thơ bất tử
Lời giới thiệu của dịch giả: Sinh năm 1920 tại Nga. Cha mẹ ông là người gốc Do Thái, di cư sang Mỹ năm 1923. Ông là nhà hóa học, tự xem mình là người vô thần, và được coi là người đã đặt ra chữ robotics và positronic. Ông viết rất nhiều, phần lớn truyện của ông thuộc loại khoa học giả tưởng như Pebble in the Sky, The End of Eternity, Foundation, The Naked Sun, Fantastic Voyage, Nemesis, The Gods Themselves..., và các sách góp phần phổ biến khoa học trong giới bình dân như The Intelligent Man’s Guide to Science, Understanding Physics, Asimov’s Guide to the Bible, Asimov’s Guide to Shakespeare... Ông mất năm 1992. Nhà thơ bất tử (The Immortal Bard) trích trong tuyển tập truyện ngắn Earth Is Room Enough, nhà xuất bản Doubleday phát hành năm 1957 tại New York.___________________
Tiến sĩ Phineas Welch nói:- Ồ, đúng. Tôi có thể mang hồn danh nhân về.Ông hơi say, nếu không có thể ông đã không nói. Tất nhiên hơi say trong tiệc Giáng sinh hàng năm là chuyện bình thường.Scott Robertson, thầy giáo trẻ dạy Anh văn của trường, sửa lại gọng kính, nhìn quanh quất để xem họ có bị ai nghe thấy không.- Thật sao, tiến sĩ Welch?- Tôi nói thật. Chẳng những hồn, tôi còn mang cả xác họ về nữa.Robertson nói với vẻ nghiêm trang:- Tôi không nghĩ là làm được.- Sao không? Chỉ là vấn đề chuyển đổi thời gian thôi.- Ông muốn bảo là du hành vượt thời gian à? Nhưng chuyện đấy rất ư là... bất thường.- Không bất thường nếu chú biết cách.- À, cách nào, tiến sĩ Welch?Nhà vật lý nghiêm nghị hỏi:- Tưởng tôi chỉ cho chú hả?Ông lơ đãng nhìn quanh tìm một ly rượu nữa mà không thấy. Ông nói:- Tôi đã mang về khối người. Archimedes, Newton, Galileo. Mấy anh chàng tội nghiệp.Robertson nói:- Họ không thích chốn này sao? Tôi nghĩ lẽ ra họ phải mê mẩn vì nền khoa học tân tiến của chúng ta chứ.Anh bắt đầu thích cuộc nói chuyện này.- Ồ họ thích. Họ thích. Nhất là Archimedes. Thoạt tiên tôi ngỡ ông ấy phát điên lên vì vui sướng khi nghe tôi giải thích sơ bằng tiếng Hy Lạp mà hồi xưa tôi đã gạo kỹ, nhưng không, không... - Thế có chuyện gì không ổn?- Chỉ là khác biệt văn hóa thôi. Họ không quen với cách sống của chúng ta. Họ cực kỳ cô đơn và hốt hoảng. Tôi phải đưa họ về lại.- Bết quá.- Ừ. Những khối óc vĩ đại, nhưng không linh hoạt. Không phổ cập. Vì vậy tôi thử Shakespeare.- Cái gì?Robertson kêu lên. Chuyện này gần gũi hơn. Welch bảo:- Đừng la lớn, chú em. Tính xấu đấy.- Ông bảo ông mang Shakespeare về à?- Ừ. Tôi cần một người có khối óc phổ cập, một người thấu hiểu con người đủ để có thể sống xa thời đại của mình hàng thế kỷ. Shakespeare chính là người đó. Tôi có chữ ký ông ta. Như món quà kỷ niệm ấy mà.Robertson trợn mắt hỏi:- Ký tặng ông à?- Đây này.Welch lục túi này sang túi khác:- À, đây rồi.Thầy giáo nhận mẩu giấy bồi. Một mặt ghi: “L. Klein & Con, Bán sỉ đồ sắt”. Mặt kia viết “Will Shakespeare” bằng nét chữ nguệch ngoạc.Robertson đầy vẻ ngờ ngợ:- Trông ông ấy ra sao?- Không giống hình. Hói, ria mép xấu xí. Ông ấy nói nặng giọng Ái Nhĩ Lan. Tất nhiên tôi cố hết sức làm ông ấy vui lòng về thời đại chúng ta. Tôi bảo chúng ta đánh giá cao và vẫn còn diễn các vở kịch của ông ấy. Tóm lại, tôi nói chúng ta nghĩ đó là những tác phẩm văn chương lớn nhất trong ngôn ngữ Anh, có lẽ trong tất cả mọi ngôn ngữ không chừng.Robertson nghẹn thở:- Tốt. Tốt.- Tôi bảo thiên hạ đã viết hàng bao bộ sách bình luận về các vở kịch của ông ấy. Lẽ tự nhiên ông ấy muốn xem một bộ, và tôi lấy ở thư viện một bộ về cho ổng.- Rồi sao?- Ồ, ông ấy thích lắm. Tất nhiên, ông ấy gặp khó khăn với thành ngữ đương thời và các dẫn chứng về những biến cố sau năm 1600, nhưng đã có tôi giúp. Anh chàng tội nghiệp. Tôi nghĩ chưa bao giờ ông ấy mong sẽ được ca tụng như thế. Ổng cứ bảo: “Trời, a trời! Chữ nghĩa năm thế kỷ rồi làm sao mà không bị bóp méo đi chứ? Tớ nghĩ thiên hạ có bé xé ra to được!”- Không thể nào ông ấy bảo như thế.- Tại sao không? Ông ấy viết kịch nhanh hết sức mình. Ông ấy kể ông ấy phải làm cho kịp thời hạn. Ông ấy viết Hamlet chưa tới sáu tháng. Cốt truyện từ một cốt truyện cũ. Ông ấy chỉ đánh bóng lên thôi.Thầy giáo Anh văn căm phẫn nói:- Thì kính thiên văn cũng thế. Người ta chỉ lau bóng lên thôi.Nhà vật lý mặc kệ anh ta. Thấy một ly cốc-tai chưa ai đụng đến trên quầy rượu cách đấy vài bước, ông rón rén đi tới:- Tôi bảo nhà thơ bất tử rằng thậm chí chúng ta còn dạy mấy khóa đại học về Shakespeare nữa.- Tôi có dạy một lớp đấy.- Tôi biết. Tôi ghi danh ông ấy trong lớp mở thêm buổi tối của chú. Tôi chưa từng thấy ai háo hức muốn biết đời sau nghĩ gì về mình như anh chàng Bill đáng thương này. Hắn học chăm lắm.- Ông ghi danh William Shakespeare trong lớp tôi?Robertson lẩm bẩm. Ý tưởng làm anh lảo đảo, cho dù nó chỉ là một ảo tưởng vì say. Và có phải là một ảo tưởng say chăng? Anh bắt đầu nhớ lại người đàn ông hói với cách nói kỳ lạ...Tiến sĩ Welch bảo:- Tất nhiên không dùng tên thật. Đừng thắc mắc ổng lấy tên gì. Đó là một sai lầm, thế thôi. Một sai lầm lớn. Anh chàng tội nghiệp.Lúc này ông đã lấy được ly cốc-tai và nhìn nó lắc đầu.- Tại sao sai lầm? Chuyện gì xảy ra thế?Welch gầm lên căm phẫn:- Tôi phải trả ông ấy về lại năm 1600. Anh nghĩ người ta có thể chịu nhục nhã đến cỡ nào?- Ông bảo nhục nhã chuyện gì?Tiến sĩ Welch nốc cạn ly cốc-tai:- Còn hỏi tại sao, đồ cả quỷnh, chú mày đánh rớt ông ấy.
Mục lục
Nhà thơ bất tử
Nhà thơ bất tử
Asimov, IsaacChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.
Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.Phạm Văn dịch từ bản tiếng Anh Nguồn: EvanĐược bạn: ms đưa lên vào ngày: 7 tháng 2 năm 2005
|
Asimov, Isaac
Immortal poet
Translator's introduction: Born in 1920 in Russia. His parents were of Jewish descent, immigrating to America in 1923. He was a chemist, considered himself an atheist, and was credited with coining the words robotics and positron. He writes a lot, most of his stories are science fiction such as Pebble in the Sky, The End of Eternity, Foundation, The Naked Sun, Fantastic Voyage, Nemesis, The Gods Themselves..., and contributing books. popularizing science among the common people such as The Intelligent Man's Guide to Science, Understanding Physics, Asimov's Guide to the Bible, Asimov's Guide to Shakespeare... He died in 1992. The Immortal Bard quoted in the collection short story Earth Is Room Enough, published by Doubleday publisher in 1957 in New York.__________________
"Oh, yes," said Dr. Phineas Welch. I can bring back the soul of a famous person. He was a little drunk, otherwise he might not have spoken. Of course it's normal to get a little drunk at the annual Christmas party. Scott Robertson, the school's young English teacher, adjusted his glasses, looking around to see if anyone had heard them. - Really, sir. Dr. Welch? - I'm telling the truth. Not only their souls, I also bring their bodies back. Robertson said with a serious look: - I don't think I can do it. - Why not? It's just a matter of time transfer. - You mean time travel? But that's very... unusual. - Not unusual if you know how. - Well, how, Dr. Welch? The physicist asked seriously: - Thought I would show you? He absentmindedly looked at it. Looking around for another glass of wine but couldn't find it. He said: - I have brought back a lot of people. Archimedes, Newton, Galileo. Poor fellows. Robertson said: - Don't they like this place? I think they should be fascinated by our advanced science. He is starting to like this conversation. - Oh they do. They like. Especially Archimedes. At first I thought he was going crazy with joy when he heard me explain briefly in Greek that I had riced thoroughly in the past, but no, no... - So what's wrong? - It's just a difference. just culture. They are not used to our way of life. They were extremely lonely and panicked. I have to take them back.- It's so bad.- Yes. Great minds, but not flexible. Not universal. So I tried Shakespeare.- What?Robertson exclaimed. This is closer. Welch said: - Don't shout, uncle. That's a bad character.- You told me to bring Shakespeare back?- Yes. I need someone with a universal mind, someone who understands humanity enough to live centuries away from his own time. Shakespeare was that person. I have his signature. Like a souvenir. Robertson rolled his eyes and asked: - Signed for you? - Here. Welch searched from one pocket to another: - Ah, here it is. The teacher received the piece of paper. One side reads: “L. Klein & Son, Wholesaler of iron products. On the other side was written "Will Shakespeare" in scribbled handwriting. Robertson looked suspicious: - What does he look like? - Not like the picture. Bald, ugly mustache. He spoke with a strong Irish accent. Of course I did my best to please him about our times. I say we appreciate and still perform his plays. In short, I say we think they are the greatest works of literature in the English language, perhaps in all languages. Robertson choked: - Good. Good. - I told you people have written countless books commenting on his plays. Naturally he wanted to see one, and I got one from the library for him. - So what? - Oh, he really liked it. Of course, he had difficulty with contemporary idioms and references to events after 1600, but I helped him. Poor guy. I don't think he ever expected to be praised like that. He kept saying: “Oh my god, oh my god! How can words not be distorted after five centuries? I think people can tear small things into big ones!”- It's impossible for him to say that.- Why not? He wrote plays as fast as he could. He said he had to make it in time. He wrote Hamlet in less than six months. Plot from an old plot. He just polished it up. The English teacher said indignantly: - The same goes for telescopes. They just polished it off. The physicist ignored him. Seeing an untouched cocktail on the bar a few steps away, he tiptoed over: - I told the immortal poet that we even teach university courses on Shakespeare. - I do. a class.- I know. I enrolled him in my uncle's extra evening class. I have never seen anyone as eager to know what the next generation thinks of them as this poor Bill. He studies very hard. - You enrolled William Shakespeare in my class? Robertson muttered. The idea made him stagger, even though it was just a drunken fantasy. And is it a drunken delusion? He began to remember the bald man with the strange way of speaking... Dr. Welch said: - Of course not using his real name. Don't wonder what name he took. It was a mistake, that's all. A big mistake. Poor guy. At this point he got the cocktail and looked at it shaking his head. - Why was it wrong? What happened? Welch roared indignantly: - I have to return him to the year 1600. How much humiliation do you think people can endure? - What do you mean humiliation? Dr. Welch emptied his glass. cocktail:- And ask why, you bastard, you failed him.
Table of contents
Immortal poet
Immortal poet
Asimov, IsaacWelcome to read the first book from the book project for mobile devices. Source: executive: Nguyen Kim Vy.
Final words: Thank you for following the entire story. Source: onion: Nguyen Kim Vy. Pham Van translated from the English version Source: Evan Uploaded by friend: ms on: February 7, 2005
|
nhiều tác giả
Nhà Thơ Cao Xuân Sơn
Tác Giả - Tác Phẩm
Họ và tên: Cao Xuân Sơn Năm sinh: 11-06-1961 Nguyên quán: Xóm Phúc Thọ, Thôn Vạn Thọ, Xã Nhân Bình, Huyện Lý Nhân, Tỉnh Hà Nam. Chỗ ở hiện nay: phòng 205, chung cư 190 Nam Kỳ Khởi Nghĩa, P. 6, Q. 3, TP. HCM Hiện là: Trưởng Ban đại diện phía Nam Tạp chí Thanh Niên (T.W Đoàn) Chủ biên nguyệt san chuyên đề "Tuổi trẻ sống đẹp" Hội viên Hội Nhà văn TP. HCM Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam Tác phẩm đã xuất bản: Tự tình (Tập thơ, NXB trẻ, TP. HCM 1989) Đêm giã biệt (Tập thơ, NXB Đồng Nai, 1990) Cánh cữa khép hờ (Tập thơ, NXB Văn học, Hà Nội 1994) Ngẫu hứng (Tập thơ, NXB Đồng Nai, 1997) Chuông lá (Tập thơ, NXB Thanh Niên, 1999) Hiệu quả bất ngờ (Tập truyện hài hước, NXB Đồng Nai, 1997) Viết cho thiếu nhi: Con chim xanh ngoài ô cửa (Tập truyện ngắn, NXB Đồng Nai, 1987) Chiều mai, trời đừng mưa (Tập truyện ngắn, NXB Trẻ, TP. HCM, 1988) Đường đến lớp (Tập truyện ngắn, NXB Kim Đồng, Hà Nội, 1998) Hỏi lá, hỏi hoa (Tập thơ, NXB Giáo Dục, Hà Nội 1995, 1997, 1998) Bố vắng nhà (Tập thơ, NXB Đồng Nai, 1997) Chuyện vui về ông Trời (Tập thơ in chung, NXB Thanh Niên, Hà Nội, 1997
Mục lục
Nhà Thơ Cao Xuân Sơn
Nhà Thơ Cao Xuân Sơn
nhiều tác giảChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.
Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: Thai NhiĐược bạn: Ct.Ly đưa lên vào ngày: 29 tháng 3 năm 2005
|
many authors
Poet Cao Xuan Son
Author - Works
Full name: Cao Xuan Son Year of birth: June 11, 1961 Place of origin: Phuc Tho Hamlet, Van Tho Village, Nhan Binh Commune, Ly Nhan District, Ha Nam Province. Current residence: room 205, apartment 190 Nam Ky Khoi Nghia, Ward 6, District 3, City. HCM Currently: Head of the Southern Representative Board of Thanh Nien Magazine (T.W Doan) Editor of the monthly magazine "Youth living beautifully" Member of the City Writers Association. HCM Member of the Vietnam Writers Association Published works: Self-love (Poem collection, Youth Publishing House, Ho Chi Minh City 1989) Farewell night (Poetry collection, Dong Nai Publishing House, 1990) The door is ajar (Poetry collection, Publishing house Literature, Hanoi 1994) Improvisation (Collection of poems, Dong Nai Publishing House, 1997) Leaf bells (Collection of poems, Thanh Nien Publishing House, 1999) Unexpected effects (Collection of humorous stories, Dong Nai Publishing House, 1997) Writing for children children: The blue bird outside the window (Short story collection, Dong Nai Publishing House, 1987) Tomorrow afternoon, it won't rain (Short story collection, Tre Publishing House, Ho Chi Minh City, 1988) The way to class (Short story collection, Kim Dong Publishing House , Hanoi, 1998) Ask for leaves, ask for flowers (Collection of poems, Education Publishing House, Hanoi 1995, 1997, 1998) Dad is away from home (Collection of poems, Dong Nai Publishing House, 1997) Funny stories about God (Collection of poems published together , Thanh Nien Publishing House, Hanoi, 1997
Table of contents
Poet Cao Xuan Son
Poet Cao Xuan Son
many authorsWelcome to read books from the book project for mobile devicesSource: author: Nguyen Kim Vy.
Final words: Thank you for reading the entire story. Source: editor: Nguyen Kim Vy. Source: Thai Nhi Uploaded by friend: Ct.Ly on: March 29, 2005
|
nhiều tác giả
Nhà thơ Giang Nam
Tác giả - Tác phẩm
Tự thuật tiểu sử văn học:Tên thật: Nguyễn Sung, sinh ngày 2/2/1929 Các bút danh: Giang Nam. Châu Giang, Hà Trung, Lê Minh (sử dụng trên báo chí công khai xuất bản ở miền Nam dưới chế độ Mỹ - Ngô Đình Diệm từ 1955 đến 1960). Quê quán: xã Ninh Bình, huyện Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa. Nơi ở hiện nay: Thành phố Nha Trang. Địa chỉ: nhà riêng: 46 Yersin Nha Trang. ĐT: 058.821447 Cơ quan: Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Khánh Hòa - 1 Quang Trung, Nha Trang. Các tác phẩm đã xuất bản: Thơ:Tháng Tám ngày mai (thơ, NXB Văn học Hà Nội 1962) Quê hương (thơ, NXB Văn nghệ Giải phóng 1962) Quê hương (thơ, NXB Văn học Hà Nội 1965) Người anh hùng Đồng Tháp (thơ và trường ca, NXB Giải phóng 1969). Vầng sáng phía chân trời (thơ, NXB Văn học Giải phóng thành phố Hồ Chí Minh 1975). Hạnh phúc từ nay (thơ, NXB Tác phẩm mới Hà Nội 1978). Thành phố chưa dừng chân (thơ, NXB Tác phẩm mới Hà Nội 1985). Một thời để nhớ (thơ, in chung 4 tác giả, Báo Văn hóa Văn phòng đại diện miền Trung xuất bản 1998). Ánh chớp đêm giao thừa (trường ca, NXB Quân đội nhân dân Hà Nội 1998). Truyện: Vở kịch cô giáo (truyện ngắn, NXB Văn học Hà Nội 1962) Người Giồng Tre (truyện ngắn và ký, NXB Giải phóng 1969) Trên tuyến lửa (truyện ngắn và ký, Sở Văn hóa Thông tin Long An xuất bản 1984) Rút từ sổ tay chiến tranh (truyện ngắn và ký, NXB Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh 1987) Các giải thưởng văn học: Giải ba về truyện ngắn của báo Thống Nhất năm 1960: truyện ngắn "Những người thợ đá". Giải nhì về thơ tạp chí Văn nghệ năm 1961: bài thơ "Quê hương" Giải thưởng văn học Nghệ thuật Nguyễn Đình Chiểu (1960 - 1965) của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam về thơ: tập thơ "Quê Hương". Một số nét về tiểu sử: Tôi sinh ngày 2/2/1929 trong một gia đình nho học. Cha thi tú tài ở Huế không đỗ về nhà làm ruộng. Gia đình có 7 con (4 trai, 3 gái) thì 3 người trai đầu (trong đó có tôi) đều thi đỗ thành chung. 4 anh em trai đều thoát ly tham gia kháng chiến, đều là đảng viên. Người anh lớn ở lại miền Nam hoạt động cách mạng sau hiệp định Giơ-ne-vơ bị địch giết năm 1955 (liệt sĩ). Tôi tham gia cách mạng tháng Tám và kháng chiến chống Pháp ở quê nhà, làm công tác thông tin tuyên truyền ở xã, sau lên tỉnh. Khi kết thúc chiến tranh tôi là Phó Trưởng ty Thông tin tỉnh Khánh Hòa. Vào Đảng Cộng sản Việt Nam tháng 8 năm 1948. Sau hiệp định Giơ-ne-vơ 1954, tôi được bố trí ở lại miền Nam bí mật hoạt động trong các thành phố, thị xã (Nha Trang, Phan Thiết, Biên Hòa, Thủ Dầu Một, Sài Gòn...) và vùng giải phóng của ta (Khánh Hòa, Khu 6 - Cực Nam Trung Bộ, miền Đông Nam Bộ, Long An, Bến Tre, Thành phố Sài Gòn Gia Định...). Là Phó Tổng thư ký Hội Văn nghệ giải phóng miền Nam, ủy viên tiểu ban văn nghệ Trung ương cục, trưởng ngành văn. Có thời gian làm Trưởng tiểu ban văn nghệ, ủy viên Ban Tuyên huấn khu Sài Gòn Gia Định. Sau ngày giải phóng miền Nam (1975) là ủy viên thường vụ Hội Nhà văn Việt Nam và Hội Liên hiệp văn học nghệ thuật Việt Nam ủy viên Ban Chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam khóa 2 và 3 đồng thời là ủy viên Đảng đoàn, Tổng Biên tập Báo Văn Nghệ, Trưởng ban đối ngoại Hội Nhà văn. Nhiều năm là chủ tịch Hội Văn nghệ Phú Khánh và Khánh Hòa. Về mặt nhà nước là đại biểu Quốc hội khóa 6 (1976 - 1981), Phó Chủ tịch ủy ban Nhân dân tỉnh Khánh Hòa (1989 - 1993). Bài thơ đầu tiên được in: "Về vùng tạm chiếm" (1946) in trên báo "Thắng" của tỉnh Khánh Hòa. Tập thơ đầu tay: "Tháng Tám ngày mai" (NXB Văn học 1962). Tập truyện ngắn đầu tay: "Vở kịch cô giáo" (NXB Văn học 1962). Cả 2 tập đều được in khi tác giả đang chiến đấu ở miền Nam. Quan điểm về sáng tác: ... Tôi đã trở thành nhà thơ "không chuyên" vì công tác chính của tôi là xây dựng cơ sở, tuyên huấn, quản lý văn hóa văn nghệ và... sản xuất, đi theo bộ đội đánh giặc. Tôi thành "nhà thơ" lúc nào không biết, chủ yếu là không thể dằn lòng trước nỗi đau của bà con và nỗi đau của riêng mình. Tuyệt đại đa số bài viết là để cho mình đọc, để tự dặn với lòng mình hãy thủy chung với đất nước, với người mình thương. Đó là máu, là thịt của tôi chứ không phải ai khác, là "tự nguyện" với lòng mình chứ không phải do ai bắt buộc mình... (Trích "Nhà văn Việt Nam: chân dung tự họa") ... Từ một cán bộ cách mạng hoạt động trong vùng bị chiếm suốt 9 năm chống Pháp và ở lại miền Nam tiếp tục cuộc chiến đấu chống Mỹ, tôi đã trở thành một người làm thơ. Tôi thấm thía một điều: cuộc chiến đấu ấy là ngọn nguồn cảm xúc lớn, là niềm vui và cả nỗi đau trong thơ tôi. Thú thật có những thời kỳ đen tối, hàng ngày đương đầu với cái chết, không một ai trong chúng tôi có ý nghĩ là mình sẽ còn sống khi kháng chiến thắng lợi. Thơ là trái tim đồng thời là chỗ dựa tinh thần của tôi. Những bài thơ đầu tiên là tôi viết cho mình, để mình đọc, để nhắn nhủ với người thân yêu của mình đang ở trong tù. Vì vậy nó rất thật, cái hay và cái dở của thơ tôi cũng từ cái gốc ấy mà ra. Bây giờ đã lớn tuổi rồi, có nhiều điều trong cuộc sống đã thay đổi, kể cả thơ. Đó là điều tất yếu và đáng mừng. Tuy nhiên cái không thay đổi là tấm lòng người làm thơ đối với cuộc sống, đối với con người. Tôi hoan nghênh những tìm tòi về hình thức nếu những tìm tòi đó diễn đạt được điều tác giả muốn nói một cách thông minh, chân thật và xúc động. Mọi thứ làm dáng "tôn vinh chữ nghĩa" đều có mặt trái của nó là ngăn cản thơ đi vào lòng người. Tôi cũng nghĩ rằng thơ Việt Nam phải mang đặc điểm Việt Nam, càng phát triển đổi mới càng phải biết và bảo tồn cái gì là Việt Nam, là dân tộc trong thơ. (Trích "Nhà văn Việt Nam hiện đại"). ... Thơ hay phải chân thành, phải thật, không thể giả dối, thơ hay phải là những gì tác giả rứt ruột, rứt gan mình ra mà viết. ... Dù là "hướng nội" hay "hướng ngoại" (xét về mặt đề tài) thì thơ vẫn là tiếng nói của một trái tim gởi đến vạn trái tim khác, là sự đồng cảm giữa những tâm hồn. Thiếu cái đó, thơ chỉ còn là "xiếc" chữ nghĩa. Tôi vẫn tâm niệm suốt đời lời Bác Hồ nhận xét thơ tôi khi Người tiếp nhà thơ Thanh Hải (do chính nhà thơ Thanh Hải kể lại): "Thơ Giang Nam viết có tình". (Báo Đại Đoàn Kết 17/9/1998)
Mục lục
Nhà thơ Giang Nam
Nhà thơ Giang Nam
nhiều tác giảChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.
Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: bạn: Ct.Ly đưa lên vào ngày: 10 tháng 4 năm 2005
|
many authors
Poet Giang Nam
Author - Works
Literary biography: Real name: Nguyen Sung, born February 2, 1929 Pen names: Giang Nam. Chau Giang, Ha Trung, Le Minh (used in public newspapers published in the South under the US - Ngo Dinh Diem regime from 1955 to 1960). Hometown: Ninh Binh commune, Ninh Hoa district, Khanh Hoa province. Current residence: Nha Trang city. Address: private house: 46 Yersin Nha Trang. Tel: 058.821447 Agency: Khanh Hoa Provincial Literature and Arts Association - 1 Quang Trung, Nha Trang. Published works: Poetry: Tomorrow in August (poetry, Hanoi Literature Publishing House 1962) Homeland (poetry, Liberation Arts Publishing House 1962) Homeland (poetry, Hanoi Literature Publishing House 1965) The hero Dong Thap (poems and epics, Liberation Publishing House, 1969). A halo of light on the horizon (poetry, Ho Chi Minh City Liberation Literature Publishing House, 1975). Happiness from now on (poetry, Hanoi New Works Publishing House, 1978). The city has not stopped (poetry, Hanoi New Works Publishing House, 1985). A Time to Remember (poetry, published by four authors together, Cultural Newspaper of the Central Representative Office published in 1998). Lightning of New Year's Eve (epic, Hanoi People's Army Publishing House, 1998). Stories: The Teacher's Play (short story, Hanoi Literature Publishing House 1962) Giong Tre People (short story and autograph, Giai Phong Publishing House 1969) On the Line of Fire (short story and autograph, published by Long An Department of Culture and Information 1984 ) Extracted from the war notebook (short story and signed, Ho Chi Minh City Arts Publishing House 1987) Literary awards: Third prize for short stories of Thong Nhat newspaper in 1960: short story "The Stonemasons". Second prize in poetry of Literature Magazine in 1961: poem "Homeland" Nguyen Dinh Chieu Literature and Arts Award (1960 - 1965) of the National Liberation Front of South Vietnam in poetry: collection of poems "Que Huong" ". Some biographical details: I was born on February 2, 1929 in a family of Confucian scholars. Father did not pass the baccalaureate exam in Hue and returned home to work in the fields. The family has 7 children (4 boys, 3 girls), the first 3 boys (including me) all passed the exam. The four brothers all escaped to join the resistance and were all party members. The older brother stayed in the South to work in the revolution after the Geneva Accords and was killed by the enemy in 1955 (martyr). I participated in the August Revolution and the resistance war against the French in my hometown, did information and propaganda work in the commune, and then moved to the province. At the end of the war, I was Deputy Head of the Information Department of Khanh Hoa province. Joined the Communist Party of Vietnam in August 1948. After the 1954 Geneva Agreement, I was assigned to stay in the South and secretly operate in cities and towns (Nha Trang, Phan Thiet, Bien Hoa, Thu Dau Mot, Saigon...) and our liberated areas (Khanh Hoa, Zone 6 - Extreme South Central, Southeast, Long An, Ben Tre, Saigon Gia Dinh City...). He is Deputy General Secretary of the Southern Liberation Arts Association, member of the Central Bureau's arts subcommittee, and head of the literature branch. There was a time when he was Head of the Arts Subcommittee and member of the Propaganda and Training Committee of the Saigon Gia Dinh area. After the liberation of the South (1975), he was a standing member of the Vietnam Writers' Association and the Vietnam Union of Literature and Arts, a member of the Executive Committee of the 2nd and 3rd terms of the Vietnam Writers' Association and also a member of the Party Union. , Editor-in-Chief of Van Nghe Newspaper, Head of the Writers' Association's foreign affairs department. For many years he was president of the Phu Khanh and Khanh Hoa Arts Association. In terms of state, he was a member of the 6th National Assembly (1976 - 1981), and Vice Chairman of the People's Committee of Khanh Hoa province (1989 - 1993). The first poem published: "About the temporarily occupied area" (1946) printed in the newspaper "Thang" of Khanh Hoa province. First poetry collection: "Tomorrow August" (Literature Publishing House, 1962). First collection of short stories: "Teacher's play" (Literature Publishing House, 1962). Both volumes were printed while the author was fighting in the South. Viewpoint on writing: ... I have become an "amateur" poet because my main work is to build foundations, propagate, manage culture and arts and... produce and follow the ministry. fighting team. I became a "poet" without knowing it, mainly because I couldn't help but feel the pain of my relatives and my own pain. The vast majority of articles are for us to read, to remind ourselves to be faithful to our country and to the people we love. It's my blood, my flesh, not anyone else's, it's "voluntary" with my heart, not forced by anyone... (Excerpt from "Vietnamese writer: self-portrait") ... From a revolutionary cadre who worked in the occupied area for 9 years against the French and stayed in the South to continue the fight against the Americans, I became a poet. I understand one thing: that struggle is a source of great emotion, joy and pain in my poetry. To be honest, there were dark times, facing death every day, none of us had any idea that we would still be alive when the resistance was victorious. Poetry is my heart and my spiritual support. The first poems I wrote for myself, for me to read, to send messages to my loved ones who are in prison. So it's very real, the good and bad things of my poetry also come from that root. Now that I'm older, many things in life have changed, including poetry. That is inevitable and praiseworthy. However, what does not change is the poet's heart for life and for people. I welcome formal explorations if they express what the author wants to say in an intelligent, honest, and moving way. Everything that pretends to "honor words" has the downside of preventing poetry from reaching people's hearts. I also think that Vietnamese poetry must have Vietnamese characteristics. The more it develops and innovates, the more it must know and preserve what is Vietnam and the nation in poetry. (Excerpt from "Modern Vietnamese Writers"). ... Good poetry must be sincere, must be true, cannot be fake, good poetry must be what the author writes with all his heart and soul. ... Whether "introverted" or "extroverted" (in terms of topic), poetry is still the voice of one heart sent to thousands of other hearts, a sympathy between souls. Without that, poetry is just a "circus" of words. I still remember all my life what Uncle Ho commented on my poetry when he received poet Thanh Hai (told by poet Thanh Hai himself): "Giang Nam's poetry is written with love." (Dai Doan Ket Newspaper September 17, 1998)
Table of contents
Poet Giang Nam
Poet Giang Nam
many authorsWelcome to read books from the book project for mobile devicesSource: author: Nguyen Kim Vy.
Final words: Thank you for reading the entire story. Source: editor: Nguyen Kim Vy. Source: friend: Ct.Ly posted on: April 10, 2005
|
Nguyễn Hoàng Sơn
nhà thơ Hoàng Minh Châu
Tác Giả - Tác Phẩm
( Nhân đọc phần Thơ trong Tuyển tập Hoàng Minh Châu, Nxb Hội Nhà văn) Nhà thơ Hoàng Minh Châu, tên khai sinh là Nguyễn Thanh Trì, sinh ngày 6-6-1930 tại làng Xuân Hoà, tổng Phù Long- nay là xã Hưng Long, huyện Hưng Nguyên, Nghệ An, nhiều năm sống tại thành phố Vinh. Từ năm 1957 định cư tại Hà Nội. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam (từ 1960), nhiều năm làm biên tập tại nhà xuất bản Văn học, báo Văn nghệ... Tác giả các tập thơ: Mở đường (1962), Hoa mười giờ (1966), Anh có về thăm (1966), Người trong trận (1971), Mai này năm ấy (1977), Xôn xao (1983), Thơ và em (1990), Mơ hay tỉnh (1991), ở đời (1997), Thơ Trung Hoa du ký (1998), Tuyển tập thơ văn (2001)...Ông còn là tác giả nhiều tập văn xuôi, hai tập phê bình tiểu luận. Tôi còn nhớ lần đầu được gặp nhà thơ Hoàng Minh Châu tại phòng sáng tác Ty Văn hoá Hoà Bình, vào khoảng năm 1972- 1973 gì đó. Hồi ấy, cái tỉnh miền núi nghèo nàn và hiu hắt mà chúng tôi là cán bộ, mỗi năm một lần lại mở “ Trại sáng tác” để an ủi mấy người có “ máu viết lách”. Đại khái người ta tập hợp chúng tôi lại, cho một bữa “ăn tươi” dư dật thịt mỡ, rau sống, một vị cán bộ tuyên huấn đến phổ biến về tình hình nhiệm vụ kinh tế xã hội của tỉnh, sau đó ai về nhà nấy. Cuối “Trại”, lại một bữa “ăn tươi” nữa, đôi khi có một buổi xem phim không mất tiền, trại viên nộp tác phẩm, được nghe góp ý nhận xét và chờ đợi. Vài tháng sau, có khi là nửa năm, tờ tạp chí Văn nghệ của tỉnh mới in ra. Ngày lĩnh nhuận bút, thể nào cũng có vài chầu “tửu- lạc” đãi đằng bạn bè và các biên tập viên đã có “mắt xanh” với “tác phẩm” của mình, thường là khoản tiền còm cũng bay theo vỏ lạc... Năm ấy, Trại viết muốn cải tiến phương thức hoạt động bèn mời hai “nhà thơ Trung ương” từ Hà Nội về gặp gỡ trại viên. Đó là nhà thơ Bàng Sĩ Nguyên và nhà thơ Hoàng Minh Châu, hai biên tập viên của nhà xuất bản Văn học. Hoàng Minh Châu đã gây ấn tượng cho những kẻ đang ngấp nghé đền Thơ vì vẻ say đắm thi ca của ông. Ông nói thật tha thiết “Các đồng chí ơi, chỉ nên đến với thơ nếu thơ làm cho người ta hạnh phúc!” Rồi ông đọc Xuân Diệu thời trẻ cho chúng tôi nghe, giọng xứ Nghệ không ngờ đọc thơ lại hay thế “Không gian như có dây tơ/ Bước đi sẽ đứt động hờ sẽ tiêu/ Em em chiều ngẩn ngơ chiều/ Lòng không sao cả hiu hiu khẽ buồn”... Có lẽ say đắm là phẩm chất đã giữ Hoàng Minh Châu lại với thơ suốt nửa thế kỉ nay? Lạ một điều là mê thơ Xuân Diệu như vậy nhưng Hoàng Minh Châu không bị cái buồn ngơ ngẩn của nhà thi sĩ này “ bắt vía”. Mấy câu viết tháng 2/1945 chứng tỏ anh là một hồn thơ sớm gắn với đồng loại, với cuộc đời mà ít băn khoăn với những suy tưởng siêu hình “ Trở lại trường xưa ấy/ Ta như kẻ mất hồn/ Thấy ăn mày bị gậy/ Lê khắp phố hoàng hôn...”. Với bút pháp hiện thực , Hoàng Minh Châu hoà nhập vào dòng thơ kháng chiến thật dễ dàng, tự nhiên, không vật vã như lớp đàn anh Lưu Trọng Lư, Tế Hanh, Xuân Diệu... Bài Mẹ Thuận (1950) có thể xếp bên cạnh những Ngò cải đơm hoa, Tiếng hát thanh niên (Lưu Trọng Lư), Người đàn bà Ninh Thuận ( Tế Hanh), thậm chí cả Bài ca vỡ đất (Hoàng Trung Thông), Thăm lúa (Trần Hữu Thung)- có điều Hoàng Minh Châu ít may mắn hơn? Đặc điểm chung của những bài thơ này là nhiệt tâm gắn bó với quần chúng, với kháng chiến, gần với lối nói dân gian, chi tiết sống động. Đang dùng thể thơ bốn chữ kiểu “nói lối” trong chèo, Hoàng Minh Châu chuyển rất tự nhiên sang lục bát rồi song thất lục bát “Ai qua Hùng Nhẫn/ Ghé nhà mẹ Thuận/ ở dưới chân đồi/ Ai về Hùng Nhẫn xa xôi/ Nhớ cho tôi gửi mấy lời thân thương”... Hoà bình lập lại, bút pháp hiện thực của Hoàng Minh Châu càng đắc dụng. Ông làm thơ ca ngợi cô gái Thủ đô lên Mộc Châu chăn cừu, làm thơ về những tấm gương Bế Văn Đàn, Nguyễn Văn Trỗi, ca ngợi Bác Hồ... Nghiêm ngắn, chỉn chu, như một giọng ca khiêm tốn trong một dàn đồng ca lớn. Chỉ khi tách ra khỏi những đề tài có tính thông tấn, người đọc mới nghe được tiếng đập khẽ của một trái tim đương hoài nhớ về tuổi thơ. Bài Trưa phố nhỏ như một ngoại lệ may mắn “Có gì đâu, một cành me/ Đan thưa cái nắng cho hè phố êm/ Ríu ran đàn sẻ đàn khuyên/ Lao xao guốc dép đàn em đến trường/ Có gì đâu thực bình thường/ Giữa nơi đô hội phố phường ở đây/ Cửa nhà chẳng cản trời mây/ Cho trưa thành thị ủ đầy hương quê/ Vâng dù chỉ một cành me/ Xanh êm che mát ngõ hè Thủ đô/ Mà làm tôi mãi ngẩn ngơ/ Cứ men theo dọc tuổi thơ đường làng...”. Hoàng Minh Châu là người làm thơ có nghề, đau đáu với nghề. Rất khó bắt bẻ một bài thơ nào là quá non yếu. Nhưng để thích, để yêu được lại là chuyện khác. Tôi cố gắng đi tìm những tiếng thầm, những rung động nhỏ đã khu biệt giọng thơ ông với những người viết cùng thời. Chẳng hạn cái tiếng xích xe đạp tầm thường mà quý báu này “Có tuần em công tác/ Anh ăn cái mơ màng/ Tiếng xích xe cọc cạch/ Tiếng dép động cầu thang...” (Với em). Trong rất nhiều bài thơ anh viết về đất nước- Hoàng Minh Châu là người chịu đi- thật mừng khi lọc được những câu rất riêng thế này “Cho tôi lại về thăm thôn xóm/Lợn nuôi rong bụng là cát phẳng lì/ Cá phơi dọc chiến hào, nước mắm/ Thơm lại từ trảng cát thơm đi...”. ( Biển gọi). Có gì đáng chú ý trong cái câu tưởng như rất văn xuôi ấy “ Lợn nuôi rong bụng là cát phẳng lì”? Vâng, nó tầm thường vậy thôi, nhưng đã ghi dấu ấn tâm hồn nhà thơ những năm thành thị và nông thôn, người cầm bút và người kéo lưới gần gũi, chan hoà với nhau. Cái vệt cát bờ biển do cái bụng con lợn “là” phẳng ấy, có lẽ cũng chỉ một lần trong đời nhà thơ nhìn thấy. Tạng thơ Hoàng Minh Châu thủ thỉ, nhẹ nhàng, gần gũi với những phát hiện “ bé xíu” ấy. Nhưng hình như ông không bằng lòng với nó, hoặc thời cuộc không cho ông loay hoay với “nó”? Chỉ khi về già, ông mới trở lại giọng điệu “trời sinh” của mình? Trung Hoa du kí như một ghi chép thơ nho nhỏ, có những câu thú vị. Bài tứ tuyệt dưới đây như nụ cười hiền lành, nhân hậu của thi sĩ “Tư nhân phạn điếm, chủ nhân xinh/ Vàng ngọc đầy tay tiếng Việt sành/ Chuyện vui” đời cụ nhà em trước/ Chuyên nghề tẩm quất tận bên Vinh”! Con ngươì Hoàng Minh Châu hiền lành, “ chính thống” vậy mà sao lại “dám” biên tập, góp phần cho tập Cửa mở của Việt Phương ra đời (1974)? Tôi chưa có dịp hỏi kĩ Hoàng Minh Châu chuyện này. Nhưng tôi đoán: Hoàng Minh Châu biết tiếng Pháp, tiếng Nga, nghiền ngẫm nhiều thơ nước ngoài, khi bắt gặp giọng thơ “ phá cách” của Việt Phương liền cảm thấy tâm đắc? Mỗi hành động đều do tính cách quy định. Trong một hoàn cảnh “ thắt ngặt” mà “dám” hết mình với thơ như vậy, hẳn niềm đam mê nghề nghiệp của Hoàng Minh Châu phải lớn lắm, làng thơ ta cũng cần ghi nhận. (Báo Văn nghệ)
Mục lục
nhà thơ Hoàng Minh Châu
nhà thơ Hoàng Minh Châu
Nguyễn Hoàng SơnChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.
Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: Được bạn: Ct.Ly đưa lên vào ngày: 30 tháng 4 năm 2005
var gaJsHost = == ? : src='" + gaJsHost + try { var pageTracker = // pageTracker._initData(); } catch(err) {} // InternetInternet BellenInternet Bellen TVProductenKlantenservice Online Wat vindt u van de website van Online? Vul deze korte enquete in en help ons bij het verbeteren van onze dienstverlening.
404 - pagina niet gevonden
De pagina waar u naar zocht werd helaas niet gevonden. De informatie is misschien verwijderd of het internetadres is gewijzigd. Onze excuses voor het ongemak.
Contact
Niet gevonden wat u zocht? Onze telefonische klantenservice is elke dag bereikbaar van 08.00 tot 22.00 uur. Of gebruik de Online Klantenservice »
Klantenservice
0900 9515
HDTV CanalDigitaal
0900 9323
Verkoop
0900 0133
Navigatie
Homepage
Naar homepage
Sitemap
Bekijk sitemap
Klantenservice
Online klantenservice
Bekijk de actuele meldingen
Productinformatie
Internet
Internet + Bellen
Internet + Bellen + Digitale TV
Alle producten »
Tarieven
Alle tarieven
Webmail
Naar webmail
Mijn Online
Bekijk uw factuur
Wachtwoord opvragen
Naar Online Opslag
Naar Mijn Online »
Zorgeloos Online
Razendsnel en betrouwbaar
Zeer voordelige abonnementen
Gratis spam- en virusfilter
Onderdeel van T-Mobile
Meer dan 300.000 mensen kiezen dagelijks voor Online!
InternetGoedkoop InternetSnel InternetInternet + Mobiel InternetOf stel zelf uw pakket Internet + Bellen SomsSnel Internet + Bellen SomsSnel Internet + Bellen VaakOf stel zelf uw pakket + Digitale TVInternet + Bellen Soms + Digitale TVInternet + Bellen Soms + HDTV BasisOf stel zelf uw pakket WebmailBekijk uw factuurBekijk de actuele meldingenNeem contact met ons veiligheid
|
Nguyễn Hoàng Sơn
nhà thơ Hoàng Minh Châu
Tác Giả - Tác Phẩm
( Nhân đọc phần Thơ trong Tuyển tập Hoàng Minh Châu, Nxb Hội Nhà văn) Nhà thơ Hoàng Minh Châu, tên khai sinh là Nguyễn Thanh Trì, sinh ngày 6-6-1930 tại làng Xuân Hoà, tổng Phù Long- nay là xã Hưng Long, huyện Hưng Nguyên, Nghệ An, nhiều năm sống tại thành phố Vinh. Từ năm 1957 định cư tại Hà Nội. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam (từ 1960), nhiều năm làm biên tập tại nhà xuất bản Văn học, báo Văn nghệ... Tác giả các tập thơ: Mở đường (1962), Hoa mười giờ (1966), Anh có về thăm (1966), Người trong trận (1971), Mai này năm ấy (1977), Xôn xao (1983), Thơ và em (1990), Mơ hay tỉnh (1991), ở đời (1997), Thơ Trung Hoa du ký (1998), Tuyển tập thơ văn (2001)...Ông còn là tác giả nhiều tập văn xuôi, hai tập phê bình tiểu luận. Tôi còn nhớ lần đầu được gặp nhà thơ Hoàng Minh Châu tại phòng sáng tác Ty Văn hoá Hoà Bình, vào khoảng năm 1972- 1973 gì đó. Hồi ấy, cái tỉnh miền núi nghèo nàn và hiu hắt mà chúng tôi là cán bộ, mỗi năm một lần lại mở “ Trại sáng tác” để an ủi mấy người có “ máu viết lách”. Đại khái người ta tập hợp chúng tôi lại, cho một bữa “ăn tươi” dư dật thịt mỡ, rau sống, một vị cán bộ tuyên huấn đến phổ biến về tình hình nhiệm vụ kinh tế xã hội của tỉnh, sau đó ai về nhà nấy. Cuối “Trại”, lại một bữa “ăn tươi” nữa, đôi khi có một buổi xem phim không mất tiền, trại viên nộp tác phẩm, được nghe góp ý nhận xét và chờ đợi. Vài tháng sau, có khi là nửa năm, tờ tạp chí Văn nghệ của tỉnh mới in ra. Ngày lĩnh nhuận bút, thể nào cũng có vài chầu “tửu- lạc” đãi đằng bạn bè và các biên tập viên đã có “mắt xanh” với “tác phẩm” của mình, thường là khoản tiền còm cũng bay theo vỏ lạc... Năm ấy, Trại viết muốn cải tiến phương thức hoạt động bèn mời hai “nhà thơ Trung ương” từ Hà Nội về gặp gỡ trại viên. Đó là nhà thơ Bàng Sĩ Nguyên và nhà thơ Hoàng Minh Châu, hai biên tập viên của nhà xuất bản Văn học. Hoàng Minh Châu đã gây ấn tượng cho những kẻ đang ngấp nghé đền Thơ vì vẻ say đắm thi ca của ông. Ông nói thật tha thiết “Các đồng chí ơi, chỉ nên đến với thơ nếu thơ làm cho người ta hạnh phúc!” Rồi ông đọc Xuân Diệu thời trẻ cho chúng tôi nghe, giọng xứ Nghệ không ngờ đọc thơ lại hay thế “Không gian như có dây tơ/ Bước đi sẽ đứt động hờ sẽ tiêu/ Em em chiều ngẩn ngơ chiều/ Lòng không sao cả hiu hiu khẽ buồn”... Có lẽ say đắm là phẩm chất đã giữ Hoàng Minh Châu lại với thơ suốt nửa thế kỉ nay? Lạ một điều là mê thơ Xuân Diệu như vậy nhưng Hoàng Minh Châu không bị cái buồn ngơ ngẩn của nhà thi sĩ này “ bắt vía”. Mấy câu viết tháng 2/1945 chứng tỏ anh là một hồn thơ sớm gắn với đồng loại, với cuộc đời mà ít băn khoăn với những suy tưởng siêu hình “ Trở lại trường xưa ấy/ Ta như kẻ mất hồn/ Thấy ăn mày bị gậy/ Lê khắp phố hoàng hôn...”. Với bút pháp hiện thực , Hoàng Minh Châu hoà nhập vào dòng thơ kháng chiến thật dễ dàng, tự nhiên, không vật vã như lớp đàn anh Lưu Trọng Lư, Tế Hanh, Xuân Diệu... Bài Mẹ Thuận (1950) có thể xếp bên cạnh những Ngò cải đơm hoa, Tiếng hát thanh niên (Lưu Trọng Lư), Người đàn bà Ninh Thuận ( Tế Hanh), thậm chí cả Bài ca vỡ đất (Hoàng Trung Thông), Thăm lúa (Trần Hữu Thung)- có điều Hoàng Minh Châu ít may mắn hơn? Đặc điểm chung của những bài thơ này là nhiệt tâm gắn bó với quần chúng, với kháng chiến, gần với lối nói dân gian, chi tiết sống động. Đang dùng thể thơ bốn chữ kiểu “nói lối” trong chèo, Hoàng Minh Châu chuyển rất tự nhiên sang lục bát rồi song thất lục bát “Ai qua Hùng Nhẫn/ Ghé nhà mẹ Thuận/ ở dưới chân đồi/ Ai về Hùng Nhẫn xa xôi/ Nhớ cho tôi gửi mấy lời thân thương”... Hoà bình lập lại, bút pháp hiện thực của Hoàng Minh Châu càng đắc dụng. Ông làm thơ ca ngợi cô gái Thủ đô lên Mộc Châu chăn cừu, làm thơ về những tấm gương Bế Văn Đàn, Nguyễn Văn Trỗi, ca ngợi Bác Hồ... Nghiêm ngắn, chỉn chu, như một giọng ca khiêm tốn trong một dàn đồng ca lớn. Chỉ khi tách ra khỏi những đề tài có tính thông tấn, người đọc mới nghe được tiếng đập khẽ của một trái tim đương hoài nhớ về tuổi thơ. Bài Trưa phố nhỏ như một ngoại lệ may mắn “Có gì đâu, một cành me/ Đan thưa cái nắng cho hè phố êm/ Ríu ran đàn sẻ đàn khuyên/ Lao xao guốc dép đàn em đến trường/ Có gì đâu thực bình thường/ Giữa nơi đô hội phố phường ở đây/ Cửa nhà chẳng cản trời mây/ Cho trưa thành thị ủ đầy hương quê/ Vâng dù chỉ một cành me/ Xanh êm che mát ngõ hè Thủ đô/ Mà làm tôi mãi ngẩn ngơ/ Cứ men theo dọc tuổi thơ đường làng...”. Hoàng Minh Châu là người làm thơ có nghề, đau đáu với nghề. Rất khó bắt bẻ một bài thơ nào là quá non yếu. Nhưng để thích, để yêu được lại là chuyện khác. Tôi cố gắng đi tìm những tiếng thầm, những rung động nhỏ đã khu biệt giọng thơ ông với những người viết cùng thời. Chẳng hạn cái tiếng xích xe đạp tầm thường mà quý báu này “Có tuần em công tác/ Anh ăn cái mơ màng/ Tiếng xích xe cọc cạch/ Tiếng dép động cầu thang...” (Với em). Trong rất nhiều bài thơ anh viết về đất nước- Hoàng Minh Châu là người chịu đi- thật mừng khi lọc được những câu rất riêng thế này “Cho tôi lại về thăm thôn xóm/Lợn nuôi rong bụng là cát phẳng lì/ Cá phơi dọc chiến hào, nước mắm/ Thơm lại từ trảng cát thơm đi...”. ( Biển gọi). Có gì đáng chú ý trong cái câu tưởng như rất văn xuôi ấy “ Lợn nuôi rong bụng là cát phẳng lì”? Vâng, nó tầm thường vậy thôi, nhưng đã ghi dấu ấn tâm hồn nhà thơ những năm thành thị và nông thôn, người cầm bút và người kéo lưới gần gũi, chan hoà với nhau. Cái vệt cát bờ biển do cái bụng con lợn “là” phẳng ấy, có lẽ cũng chỉ một lần trong đời nhà thơ nhìn thấy. Tạng thơ Hoàng Minh Châu thủ thỉ, nhẹ nhàng, gần gũi với những phát hiện “ bé xíu” ấy. Nhưng hình như ông không bằng lòng với nó, hoặc thời cuộc không cho ông loay hoay với “nó”? Chỉ khi về già, ông mới trở lại giọng điệu “trời sinh” của mình? Trung Hoa du kí như một ghi chép thơ nho nhỏ, có những câu thú vị. Bài tứ tuyệt dưới đây như nụ cười hiền lành, nhân hậu của thi sĩ “Tư nhân phạn điếm, chủ nhân xinh/ Vàng ngọc đầy tay tiếng Việt sành/ Chuyện vui” đời cụ nhà em trước/ Chuyên nghề tẩm quất tận bên Vinh”! Con ngươì Hoàng Minh Châu hiền lành, “ chính thống” vậy mà sao lại “dám” biên tập, góp phần cho tập Cửa mở của Việt Phương ra đời (1974)? Tôi chưa có dịp hỏi kĩ Hoàng Minh Châu chuyện này. Nhưng tôi đoán: Hoàng Minh Châu biết tiếng Pháp, tiếng Nga, nghiền ngẫm nhiều thơ nước ngoài, khi bắt gặp giọng thơ “ phá cách” của Việt Phương liền cảm thấy tâm đắc? Mỗi hành động đều do tính cách quy định. Trong một hoàn cảnh “ thắt ngặt” mà “dám” hết mình với thơ như vậy, hẳn niềm đam mê nghề nghiệp của Hoàng Minh Châu phải lớn lắm, làng thơ ta cũng cần ghi nhận. (Báo Văn nghệ)
Mục lục
nhà thơ Hoàng Minh Châu
nhà thơ Hoàng Minh Châu
Nguyễn Hoàng SơnChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.
Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: Được bạn: Ct.Ly đưa lên vào ngày: 30 tháng 4 năm 2005
var gaJsHost = == ? : src='" + gaJsHost + try { var pageTracker = // pageTracker._initData(); } catch(err) {} // InternetInternet BellenInternet Bellen TVProductenKlantenservice Online Wat vindt u van de website van Online? Vul deze korte enquete in en help ons bij het verbeteren van onze dienstverlening.
404 - pagina niet gevonden
De pagina waar u naar zocht werd helaas niet gevonden. De informatie is misschien verwijderd of het internetadres is gewijzigd. Onze excuses voor het ongemak.
Contact
Niet gevonden wat u zocht? Onze telefonische klantenservice is elke dag bereikbaar van 08.00 tot 22.00 uur. Of gebruik de Online Klantenservice »
Klantenservice
0900 9515
HDTV CanalDigitaal
0900 9323
Verkoop
0900 0133
Navigatie
Homepage
Naar homepage
Sitemap
Bekijk sitemap
Klantenservice
Online klantenservice
Bekijk de actuele meldingen
Productinformatie
Internet
Internet + Bellen
Internet + Bellen + Digitale TV
Alle producten »
Tarieven
Alle tarieven
Webmail
Naar webmail
Mijn Online
Bekijk uw factuur
Wachtwoord opvragen
Naar Online Opslag
Naar Mijn Online »
Zorgeloos Online
Razendsnel en betrouwbaar
Zeer voordelige abonnementen
Gratis spam- en virusfilter
Onderdeel van T-Mobile
Meer dan 300.000 mensen kiezen dagelijks voor Online!
InternetGoedkoop InternetSnel InternetInternet + Mobiel InternetOf stel zelf uw pakket Internet + Bellen SomsSnel Internet + Bellen SomsSnel Internet + Bellen VaakOf stel zelf uw pakket + Digitale TVInternet + Bellen Soms + Digitale TVInternet + Bellen Soms + HDTV BasisOf stel zelf uw pakket WebmailBekijk uw factuurBekijk de actuele meldingenNeem contact met ons veiligheid
|
nhiều tác giả
Nhà Thơ Huy Cận
Tác Giả - Tác Phẩm
Nhà thơ Huy Cận. Vĩnh biệt nhà thơ Huy CậnSau một thời gian bị bệnh nặng, mặc dù được các thày thuốc tận tình cứu chữa, nhưng do tuổi cao, sức yếu, nhà thơ Huy Cận đã qua đời tại Hà Nội lúc 20h53 ngày 19/2, thọ 86 tuổi. Ông tên thật là Cù Huy Cận, sinh ngày 31/5/1919, tại làng Ân Phú, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh trong một gia đình nhà Nho nghèo yêu nước. Ông đậu Tú tài Tây ở Huế, sau đó theo học và tốt nghiệp kỹ sư Canh Nông Hà Nội (năm 1943). Ngay từ thời kỳ còn trẻ ông đã thể hiện một tài năng thơ ca. Tập thơ đầu tay của ông có tên “Lửa thiêng” xuất bản năm 1940, đánh dấu sự có mặt của Huy Cận, một nhà thơ lớn của dân tộc suốt 65 năm qua. Ông sớm giác ngộ cách mạng. Ngay sau Cách mạng Tháng Tám, ông đã là đại biểu Quốc hội của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa khóa I và đại biểu Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam khóa 2, 7. Nhà thơ Huy Cận từng là thứ trưởng Bộ Văn hóa, bộ trưởng đặc trách Văn hóa Thông tin của Văn phòng Hội đồng Bộ trưởng, chủ tịch Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam… Uy tín về quá trình hoạt động và sự nghiệp thơ ca của ông nổi tiếng trong nước và nước ngoài. Huy Cận có những tập thơ chính: Lửa thiêng (1940), Kinh Cầu tự (1942), Vũ trụ ca (1943), Trời mỗi ngày lại sáng (1958), Đất nở hoa (1960), Những năm sáu mươi (1968), Cô gái Mèo (1972), Chiến trường gần chiến trường xa (1973), Ngày hằng sống ngày hằng thơ (1975), Ngôi nhà giữa nắng (1978). Ông được Nhà nước tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn hóa nghệ thuật đợt I, năm 1996. Ông được xem là một trong những nhà thơ tiên phong của phong trào thơ mới và là cây đại thụ của nền thơ cách mạng Việt Nam. Nhà thơ Huy Cận mất đi giữa những ngày giới văn học nghệ thuật đón chào xuân mới và chuẩn bị tổ chức Ngày thơ Việt Nam lần thứ 3, là một tin buồn và mất mát lớn cho giới văn học nghệ thuật và thơ ca Việt Nam. (Theo SGGP)
Mục lục
Nhà Thơ Huy Cận
Nhà Thơ Huy Cận
nhiều tác giảChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.
Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: SGGPĐược bạn: Ct.Ly đưa lên vào ngày: 29 tháng 3 năm 2005
Poly_ShowTopBanner();
RSS
Trang nhất
RSS
Ebank
Việc làm  
Game thủ  
Số hóa  
Ngôi sao  
0123.888.0123(HN) - 0129.233.3555(TP.HCM)
  
  
Xã hội
Giáo dục
Nhịp điệu trẻ
Du lịch
Du học
Thế giới
Cuộc sống đó đây
Ảnh
Người Việt 5 châu
Phân tích
Tư liệu
Australia trong tôi
Kinh doanh
Ebank
Chứng khoán
Bất động sản
Nhà đẹp
Doanh nhân
Quốc tế
Mua sắm
Doanh nghiệp viết
Văn hóa
Hoa hậu
Nghệ sỹ
Âm nhạc
Thời trang
Điện ảnh
Mỹ thuật
Văn học
Thể thao
Bóng đá
Tennis
Chân dung
Ảnh - Video
Pháp luật
Hình sự
Ký sự
Tư vấn
Đời sống
Gia đình
Sức khỏe
Ẩm thực
Làm đẹp
Cửa sổ Blog
Khoa học
Môi trường
Thiên nhiên
Ảnh
Công nghệ mới
Vi tính
Sản phẩm mới
Kinh nghiệm
Giải trí
Hỏi đáp
Hacker & Virus
Ôtô - Xe máy
Tư vấn
Bạn đọc viết
Khoa học
Đời sống
Pháp luật
Xã hội
Kinh doanh
Thể thao
Văn hoá
Thế giới
Tâm sự
Rao vặt
Ebank
Việc làm  
Game thủ  
Số hóa  
Ngôi sao  
Cười
Video
Tiểu phẩm
Không tìm thấy đường dẫn này
 
Bạn có thể truy cập vào trang chủ hoặc sử dụng ô dưới đây để tìm kiếm.
VnExpress |
Google
 
 
function ChangeTo(to) {
if (to == "0")
{
if = "ns")
{
70, 119)";
134, 174)";
}
= "gg"
!= '' && != 'Từ khóa tìm kiếm')
{
SearchNew();
}
else
{
alert('Hãy nhập từ khóa tìm kiếm.');
}
}
if (to == "1")
{
if = "gg")
{
134, 174)";
70, 119)";
}
= "ns"
!= '' && != 'Từ khóa tìm kiếm')
{
SearchNew();
}
else
{
alert('Hãy nhập từ khóa tìm kiếm.');
}
}
}
function SearchNew()
{
if == "gg")
{
= +
return false;
}
else
{
return 1);
}
}
Poly_ShowFooterBanner();
Đặt làm trang chủ
 
Liên hệ tòa soạn
 
Liên hệ quảng cáo
 
Đường dây nóng: 0123.888.0123 (HN) - 0129.233.3555 (TP HCM)
 
VnExpress tuyển dụng
Trang
ShowPopupUnder();
1997-2011 VnExpress.net, All rights reserved Contact us - Thông tin Tòa soạn
giữ bản quyền nội dung trên website này.
var strHr =
|| ||
document.write('');
}
var SERVER_ID = 3;
|
many authors
Poet Huy Can
Author - Works
Poet Huy Can. Farewell to poet Huy Can. After a period of serious illness, although doctors enthusiastically cured him, due to old age and weak health, poet Huy Can passed away in Hanoi at 8:53 p.m. on February 19, at the age of 19. 86 years old. His real name is Cu Huy Can, born on May 31, 1919, in An Phu village, Huong Son district, Ha Tinh province in a poor patriotic Confucian family. He passed the Western Baccalaureate in Hue, then studied and graduated as a Canh Nong engineer in Hanoi (1943). From a young age he showed a poetic talent. His first collection of poems called "Sacred Fire" was published in 1940, marking the presence of Huy Can, a great poet of the nation for the past 65 years. He soon became enlightened about the revolution. Immediately after the August Revolution, he was a delegate to the National Assembly of the Democratic Republic of Vietnam, term I and a delegate to the National Assembly of the Socialist Republic of Vietnam, terms 2 and 7. Poet Huy Can was once Deputy Minister of Culture, Minister in charge of Culture and Information of the Office of the Council of Ministers, Chairman of the Vietnam Union of Literature and Arts Associations... The reputation of his activities and poetic career is famous domestically and abroad. . Huy Can's main poetry collections are: Sacred Fire (1940), Sutra Sutra (1942), Cosmic Song (1943), The Sky Brightens Every Day (1958), The Earth Blooms (1960), The Sixties (1968 ), Cat Girl (1972), Near Battlefield, Far Field (1973), Eternal Day, Eternal Day (1975), House in the Sun (1978). He was awarded the Ho Chi Minh Prize for Culture and Arts by the State, phase I, in 1996. He is considered one of the pioneer poets of the new poetry movement and a giant of Vietnamese revolutionary poetry. Poet Huy Can's death in the midst of the days when the literary and artistic world welcomed the new spring and prepared to organize the 3rd Vietnam Poetry Day, was sad news and a great loss for the Vietnamese literary, artistic and poetic world. . (According to SGGP)
Table of contents
Poet Huy Can
Poet Huy Can
many authorsWelcome to read books from the book project for mobile devicesSource: author: Nguyen Kim Vy.
Final words: Thank you for reading the entire story. Source: editor: Nguyen Kim Vy. Source: SGGP Uploaded by friend: Ct.Ly on: March 29, 2005
Poly_ShowTopBanner();
RSS
Front page
RSS
Ebank
Jobs
Gamers
Digitization
Star
0123.888.0123(HN) - 0129.233.3555(HCMC)
Society
Education
Young rhythm
Tourism
Study abroad
World
That life is here
Image
Vietnamese people from 5 continents
Analysis
Data
Australia in me
Business
Ebank
Stock
Real estate
Nice house
Businessmen
International
Shopping
Business writes
Culture
Miss
Artist
Music
Fashion
Film
art
Literature
Sport
Football
Tennis
Portrait
Photos - Videos
Law
Criminal
Chronicle
Advise
Life
Family
Health
Cuisine
Beautify
Blog window
Science
Environment
Nature
Image
New technology
Computer
New product
Experience
Entertainment
Q&A
Hackers & Viruses
Auto and Moto
Advise
Readers write
Science
Life
Law
Society
Business
Sport
Culture
World
Confide
Ad
Ebank
Jobs
Gamers
Digitization
Star
Laugh
Video
Skits
This link was not found
You can visit the homepage or use the box below to search.
VnExpress |
Google
function ChangeTo(to) {
if (to == "0")
{
if = "ns")
{
70, 119)";
134, 174)";
}
= "gg"
!= '' && != 'Search keyword')
{
SearchNew();
}
else. else
{
alert('Please enter search keywords.');
}
}
if (to == "1")
{
if = "gg")
{
134, 174)";
70, 119)";
}
= "ns"
!= '' && != 'Search keyword')
{
SearchNew();
}
else. else
{
alert('Please enter search keywords.');
}
}
}
function SearchNew()
{
if == "gg")
{
= +
return false;
}
else. else
{
return 1);
}
}
Poly_ShowFooterBanner();
Set as homepage
Contact the editorial office
Contact advertising
Hotline: 0123.888.0123 (HN) - 0129.233.3555 (HCMC)
VnExpress recruitment
Page
ShowPopupUnder();
1997-2011 VnExpress.net, All rights reserved Contact us - News Tòa soạn
giữ bản Quyền nội content on website này.
var strHr =
|| ||
document.write('');
}
var SERVER_ID = 3;
|
nhiều tác giả
Nhà thơ Kiên Giang- Hà Huy Hà
Tác Giả - Tác Phẩm
Nhà thơ "rặt ròng" Nam Bộ
Nhà thơ Kiên Giang thời trẻ Vì Kiên Giang - Hà Huy Hà có lúc từng là anh em kết nghĩa, là bạn thơ của thi sĩ "đồng quê" Nguyễn Bính nên nhiều người nhận xét thơ ông ảnh hưởng Nguyễn Bính khá nhiều. Tuy nhiên, theo ý riêng, tôi cho rằng cái chất "rặt ròng" Nam Bộ trong thơ Kiên Giang là đồ gia bảo riêng của tác giả. Từ khi cô giáo tập em đồ Không kê giấy chặm em vô ý Để dấu tay lem vở học trò (Đồng xu giấy chặm)Hay: Phạt anh ngâm nước vô lu Bẻ tàu chuối hột che dù cho em (Ngựa trúc)Nam Bộ đến thế là cùng! Bây giờ hiếm hoi lắm cái chất đó trong thơ miền Nam. Nhà văn Sơn Nam: “Kiên Giang là một thi sĩ thành công, một soạn giả đã đưa thi ca vào sân khấu, để lại cho đời những vở tuồng mang đậm chất thơ: Áo cưới trước cổng chùa, Người đẹp bán tơ, Ngưu Lang – Chức Nữ, Sơn nữ Phà Ca... Còn trong thơ ca, Kiên Giang đã viết những câu thơ mà nhiều nhà nghiên cứu cứ ngỡ là ca dao: “Ong bầu vờn đọt mù u, Lấy chồng càng sớm tiếng ru càng buồn”. Thơ Kiên Giang cũng như thơ Nguyễn Bính có nét chung bình dị, mộc mạc, nhưng một bên là chân quê Nam Bộ, còn một bên là chân quê Bắc Bộ”. Có người nói Kiên Giang - Hà Huy Hà làm thơ dễ dãi đến mức có lẽ không đọc lại bản thảo (?). Cũng có thể như vậy hoặc không như vậy, nhưng nếu dễ dãi mà đã để lại cho đời những bài thơ như: “Hoa trắng thôi cài trên áo tím”, “Khói trắng” hay “Tiền và lá”... - những bài thơ sống dai dẳng trong lòng người dân miền Nam suốt mấy chục năm qua thì quả là sự "dễ dãi" không phải ai cũng đạt được! Người ta có thể lầm tưởng sự dễ dãi với tính giản dị, mộc mạc đặc thù Nam Bộ của bút pháp Kiên Giang - Hà Huy Hà: Nhớ mùa cau trổ trong vườn cũ Mẹ quét lá vàng ủ lấy phân Khói trắng lên trời như tóc bạc Con ngờ khói tóc quyện mây Tần (Khói trắng)Viết về bà mẹ Nam Bộ làm sao có thể viết giản dị hơn, thi vị hơn mà sâu sắc hơn? Trong phong trào báo chí trước 1975, Kiên Giang - Hà Huy Hà đã từng dẫn đầu đoàn biểu tình "ký giả đi ăn mày" chống lại những quy chế khắt khe của chính quyền cũ áp đặt cho báo chí, nhà thơ đã bị đi tù vì chuyến "ăn mày" đó. Hành động này nhắc chúng ta nhớ rằng thơ Kiên Giang - Hà Huy Hà, nói theo ngôn từ bây giờ, là thơ "về nguồn". Kiên Giang: “Tôi tên thật là Trương Khương Trinh, sinh năm 1927 tại Rạch Giá, Kiên Giang. Học hết lớp 12 tôi tham gia kháng chiến chống Pháp 9 năm, làm biên tập viên, phóng viên báo Tiếng súng kháng chiến ở chiến khu 9. Năm 1955, tôi về Sài Gòn viết báo cho các tờ: Dân Chủ Mới, Tiếng Chuông, Dân Ta, Dân Tiến... Kiên Giang là bút danh khi tôi làm thơ, còn viết báo tôi lấy tên Hà Huy Hà. Bút danh này khiến bọn mật thám lầm tưởng tôi có họ hàng với Hà Huy Tập, Hà Huy Giáp nên chúng đã bắt tôi. Sau khi nghe giọng nói Nam Bộ của tôi, chúng thả tôi ra và cảnh cáo không được viết những bài chống lại cảnh lố lăng du nhập từ nước ngoài”.Các nhân vật thi ca luôn luôn đậm nét trong thơ của Kiên Giang - Hà Huy Hà là những con người cơ cực, nghèo khổ nhưng rất tình đời, tình người đó là chân dung những bà mẹ nghèo ở miền Tây Nam Bộ, hình ảnh cậu học trò nhà quê nghèo mà chất phác, người đàn bà thay chồng đánh xe bò mỗi ngày qua ngõ Hàng Xanh, cô giáo nghèo trường làng... Những làng xóm miền Nam, khói đốt đồng, cái bánh ống Trà Vinh, miếng trầu mẹ già, manh lụa mo cau... là chất liệu làm nên nhà thơ "du mục" Nam Bộ ấy.
Nhà thơ Kiên Giang - Hà Huy Hà Cậu bé nhà nghèo, nhà quê ở miệt U Minh - Kiên Giang sau này trở thành nhà thơ nhưng nỗi ám ảnh về giàu - nghèo luôn day dứt, có lẽ cái ý thức sâu sắc đó sau này thôi thúc, dẫn nhà thơ đến với những hoạt động xã hội. Hồi nhỏ chơi trò con nít: Anh moi đất nắn "tượng người" Em thơ thẩn nhặt lá rơi... làm tiềnNhưng sự thật phủ phàng của cuộc đời bao giờ cũng tạo bi kịch: Tiền không là lá em ơi Tiền là giấy bạc của đời in ra Người ta giấy bạc đầy nhà Cho nên mới được gọi là chồng emBài thơ “Tiền và lá” này được viết từ 1946, tam sao thất bổn, có lúc đã bị nhiều người tưởng lầm là thơ Nguyễn Bính, gần đây đứa con “Tiền và lá” mới trở lại với Kiên Giang - Hà Huy Hà. Gần 60 năm đã trôi qua, ai dám nói tiền không là lá, lá không là tiền? Đời nhà thơ Kiên Giang - Hà Huy Hà trôi nổi nhiều, lận đận cũng lắm! Là một nhà thơ già, đến nay vẫn nghèo, vẫn tay trắng, không chút danh vị gì giữa chốn trường đời nhưng là một đời thơ, một phong cách thơ không lẫn lộn được! Nhà văn Sơn Nam viết trong lời tựa tập thơ “Hoa trắng thôi cài trên áo tím”: "Một cuộc đời lăn lóc, chẳng bao giờ khấm khá, về già làm chuyện ái hữu, tương tế, quả là thành đạt, không xấu hổ với đất nước. Đây là một người bạn cùng xóm, cùng làng, cùng xứ U Minh mà tôi lấy làm tự hào và thật lòng ca ngợi". Hai văn nhân "miệt vườn" sau mấy chục năm lưu lạc, kẻ làm thơ người viết văn, về già khen nhau như vậy thì quả là tri âm tri kỷ vậy.
Mục lục
Nhà thơ Kiên Giang- Hà Huy Hà
Nhà thơ Kiên Giang- Hà Huy Hà
nhiều tác giảChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.
Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: nguoivienxuĐược bạn: Ct.Ly đưa lên vào ngày: 30 tháng 4 năm 2005
|
many authors
Kien Giang poet - Ha Huy Ha
Author - Works
The poet is "very thorough" in the South
Poet Kien Giang in his youth Because Kien Giang - Ha Huy Ha were once sworn brothers and poetry friends of "countryside" poet Nguyen Binh, many people commented that his poetry influenced Nguyen Binh quite a lot. However, in my opinion, I think that the "pure" Southern quality in Kien Giang's poetry is the author's personal heirloom. Since the teacher taught me to do things without putting paper on it, I accidentally left fingerprints on the students' notebooks (Paper coin coin) That's it! Nowadays, that quality is very rare in Southern poetry. Writer Son Nam: "Kien Giang is a successful poet, a composer who brought poetry to the stage, leaving behind poetic dramas: Wedding dress in front of the temple gate, Beauty selling silk, Nguu Lang - Chuc Nu, Son Nu Pha Ca... And in poetry, Kien Giang wrote verses that many researchers thought were folk songs: "The hornets play with the blind buds, The sooner you get married, the more lullabies you hear." Sad". Kien Giang's poetry as well as Nguyen Binh's poetry have common features that are simple and rustic, but one side is the roots of the Southern countryside, and the other side is the roots of the Northern countryside. Some people say that Kien Giang - Ha Huy Ha writes poetry so easily that they probably don't re-read the manuscript (?). It may or may not be like that, but if it were easy, we would leave behind poems like: "White flowers on purple shirts", "White smoke" or "Money and leaves"... - these poem that has lived persistently in the hearts of the Southern people for decades, it is truly a "ease" that not everyone can achieve! People may mistake the ease with the simplicity and rusticity typical of the Southern region of Kien Giang's writing style - Ha Huy Ha: Remembering the season of areca nut blossoming in the old garden Mother swept yellow leaves to compost White smoke rose into the sky like hair Silver I thought the smoke in my hair mixed with clouds of Qin (White Smoke) Writing about Southern mothers, how can I write more simply, more poetically, and more deeply? During the press movement before 1975, Kien Giang - Ha Huy Ha once led a group of protesters "begging journalists" against the strict regulations imposed on the press by the former government. The poet was imprisoned. jail for that "begging" trip. This action reminds us that Kien Giang - Ha Huy Ha poetry, in today's language, is poetry "returning to the source". Kien Giang: “My real name is Truong Khuong Trinh, born in 1927 in Rach Gia, Kien Giang. After finishing 12th grade, I participated in the resistance war against the French for 9 years, working as an editor and reporter for the newspaper Resistance Gunfire in War Zone 9. In 1955, I returned to Saigon to write for the newspapers: New Democracy, Tieng Chuong. , Dan Ta, Dan Tien... Kien Giang is my pen name when I write poetry, while writing for newspapers I use the name Ha Huy Ha. This pseudonym made the spies mistakenly think I was related to Ha Huy Tap and Ha Huy Giap, so they arrested me. After hearing my Southern accent, they released me and warned me not to write articles against the ridiculous scenes imported from abroad." Poetic characters are always prominent in Kien Giang - Ha's poetry. Huy Ha are destitute, poor but very loving people. That human love is the portrait of poor mothers in the Southwest region, the image of a poor but simple country student, a woman who fights for her husband. Every day the ox cart passes through Hang Xanh alley, the poor village school teacher... Southern villages, the smoke of burning copper, the Tra Vinh tube cake, the old mother's betel piece, the areca silk... are the materials that make it. Southern "nomadic" poet.
Poet Kien Giang - Ha Huy Ha A poor, country boy in the U Minh - Kien Giang region later became a poet, but the obsession with rich - poor always tormented him, perhaps that profound awareness later inspired and led the poet to social activities. When I was a child, I played children's games: You dig up dirt and shape a "human statue" You leisurely pick up fallen leaves... make money But the harsh truth of life always creates tragedy: Money is not leaves, my dear, Money is banknotes of life is printed. People have banknotes all over the house. That's why he's called my husband. This poem "Money and Leaves" was written in 1946, three stars, seven parts. At times, many people mistakenly thought it was a poem by Nguyen Binh, recently. The child "Money and Leaves" has just returned to Kien Giang - Ha Huy Ha. Nearly 60 years have passed, who dares to say that money is not leaves, leaves are not money? The life of Kien Giang poet - Ha Huy Ha was full of ups and downs! He is an old poet, still poor, still empty-handed, without any status in life, but a life of poetry, an unmistakable style of poetry! Writer Son Nam wrote in the preface to his poetry collection "White flowers are only worn on purple shirts": "A life of struggle, never getting better, in old age doing things of friendship and mutual kindness, is indeed successful, not bad. "I'm proud of my country. This is a friend from the same neighborhood, same village, same country of U Minh that I am proud of and truly praise." Two "tired" writers after decades of wandering, one a poet and the other a writer, complimenting each other like that in old age are truly soul mates.
Table of contents
Kien Giang poet - Ha Huy Ha
Kien Giang poet - Ha Huy Ha
many authorsWelcome to read books from the book project for mobile devicesSource: author: Nguyen Kim Vy.
Final words: Thank you for reading the entire story. Source: editor: Nguyen Kim Vy. Source: nguoivienxu Posted by friend: Ct.Ly on: April 30, 2005
|
nhiều tác giả
Nhà Thơ Nguyễn Hoa
Tác giả - tác phẩm
Họ và tên: Nguyễn Hoa Sinh ngày: 12-02-1947 Quê quán: Thôn Lưu Xá, xã Nhật Tân, Huyện Kim Bảng, Hà Nam Đảng viên - Đảng Cộng sản Việt Nam Hội viên Hội nhà văn Việt Nam Hiện nay: Công tác tại Hội nhà văn Việt Nam, giữ chức vụ Phó trưởng ban tổ chức - Hội - Phó bí thư Đảng ủy cơ quan - Hội nhà văn Việt Nam. Tác phẩm đã xuất bản: Dưới mặt trời - tập thơ 1988 - NXB QĐND Vàng của mùa thu - tập thơ 1989 - NXB Hà Nội Ngôi sao số phận tôi - tập thơ 1991 - NXB Thanh niên Con Tổ quốc - tập thơ 1992 - NXB QĐND Sấm lành - tập thơ 1993 - NXB Hội nhà văn VN Sơn ca - tập thơ 1994 - NXB VHTT Từ một đến tám - tập thơ 1997 - NXB VHTT Trở về - tập thơ 1997 - NXB QĐND Cây trong vườn ông nội - tập thơ thiếu nhi - NXB VHTT-1998
Mục lục
Nhà Thơ Nguyễn Hoa
Nhà Thơ Nguyễn Hoa
nhiều tác giảChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.
Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: Được bạn: Ct.Ly đưa lên vào ngày: 6 tháng 3 năm 2005
|
many authors
Poet Nguyen Hoa
Author - work
Full name: Nguyen Hoa Date of birth: February 12, 1947 Hometown: Luu Xa village, Nhat Tan commune, Kim Bang district, Ha Nam Party member - Communist Party of Vietnam Member of Vietnam Writers Association Currently: Public Working at the Vietnam Writers Association, holding the position of Deputy Head of the Organizing Committee - Association - Deputy Secretary of the Party Committee of the agency - Vietnam Writers Association. Published works: Under the sun - poetry collection 1988 - People's Army Publishing House Gold of autumn - poetry collection 1989 - Hanoi Publishing House The star of my fate - poetry collection 1991 - Youth Publishing House Children of the Fatherland - poetry collection 1992 - Publishing house People's Army Good Thunder - poetry collection 1993 - Vietnam Writers' Association Publishing House Son Ca - poetry collection 1994 - Culture and Information Publishing House From one to eight - poetry collection 1997 - Culture and Information Publishing House Return - poetry collection 1997 - People's Army Publishing House Trees in grandfather's garden - poetry collection children - VHTT Publishing House-1998
Table of contents
Poet Nguyen Hoa
Poet Nguyen Hoa
many authorsWelcome to read books from the book project for mobile devicesSource: author: Nguyen Kim Vy.
Final words: Thank you for reading the entire story. Source: editor: Nguyen Kim Vy. Source: Uploaded by friend: Ct.Ly on: March 6, 2005
|
BÙI NGUYỄN TRƯỜNG KIÊN
Nhà Thơ Nguyễn Ngọc Hưng
Tác Giả - Tác Phẩm
- Từ một góc trời yêu cả bao la
Tốt nghiệp thủ khoa Đại học Quy Nhơn năm 1983. Nhưng ngày anh được Ban giám hiệu trường PTTH Nghĩa Hành, Quảng Ngãi giới thiệu với học sinh lớp 11C về thầy chủ nhiệm mới, thì những cơn đau khủng khiếp ập đến quật ngã anh. Đó là ngày đầu tiên và cũng là lần cuối cùng người thầy giáo ấy được đứng trên bục giảng. Hai mươi hai năm – Hưng đã gần như dán chặt mình trên chiếc giường tre, bởi căn bệnh quái ác: bại liệt toàn thân. Sau một thời gian vắt kiệt sức để chạy chữa cho con (Hưng là con duy nhất, anh mồ côi cha sớm), mẹ của anh đã lìa trần, bỏ lại người con trai quằn quại trong nỗi đau mất mẹ và bệnh tật. May mắn, anh được hai vợ chồng người bạn học cùng quê bảo bọc cho đến tận hôm nay. Anh chẳng thể ngồi, chẳng thể đi lại; nói chung anh chẳng thể làm được gì, ngoài cây bút được anh cố gắng kẹp trong những ngón tay co quắp trong tư thế nằm, bên trang giấy trắng. Và từ đó, những bài thơ lần lượt ra đời… Hai mươi hai năm trên giường bệnh, anh đã không ít lần nghĩ tới cái chết. Song, tình yêu cuộc sống đã mạnh hơn và từ tình yêu mãnh liệt ấy, những tập thơ mang tên tác giả Nguyễn Ngọc Hưng đã lần lượt ra mắt bạn đọc: Cầm Sợi gió trên tay - 1993; Lời ru trắng - 1994; Lửa trời nhóm bếp - 1994; Còng con tìm mẹ - 1995; Lá non – 1997; Gọi trăng – 2001; Lửa xanh thầm - 2002. Hai mươi hai năm, hàng ngàn bài thơ đã ra đời giữa những cơn đau... Anh đã nhận được nhiều giải thưởng văn học trong những năm qua, đồng thời anh cũng là Hội viên Hội VHNT Quảng Ngãi. Trong lá thư mới nhất anh gởi cho tôi (30.12.2004), Hưng viết: “Năm nay Hưng hơi sa sút sức khỏe, thường bị cảm, đau dạ dày, viêm mũi, khớp… Thường mệt mỏi, đau nhức nên biếng thư; đôi lúc nhác cả thơ. Gởi anh mấy bài để khi nào rảnh và nhớ thì đọc cho vui – xem như món quà tết nho nhỏ của một thằng em xóm quê vậy mà!”… Qua chùm thơ mà NVX giới thiệu hôm nay, chắc là mọi người sẽ đồng cảm với anh: “Được đăng thơ, được gởi tiếng lòng mình đến rộng rãi bạn đọc, lúc nào cũng là một hạnh phúc đối với tôi”. Còn tôi, xin được gọi những vần thơ của anh: chỉ từ một góc trời mà anh yêu được cả bao la. BÙI NGUYỄN TRƯỜNG KIÊN
Mục lục
Nhà Thơ Nguyễn Ngọc Hưng
Nhà Thơ Nguyễn Ngọc Hưng
BÙI NGUYỄN TRƯỜNG KIÊNChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.
Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: NguoiVienXuĐược bạn: Ct.Ly đưa lên vào ngày: 21 tháng 5 năm 2005
|
BUI NGUYEN TRUONG KIEN
Poet Nguyen Ngoc Hung
Author - Works
- From a corner of the sky, love is immense
Graduated as valedictorian from Quy Nhon University in 1983. But the day he was introduced to the new homeroom teacher by the Board of Directors of Nghia Hanh High School, Quang Ngai, terrible pain struck and knocked him down. That was the first and last day that teacher stood on the podium. Twenty-two years – Hung was almost glued to the bamboo bed, due to a terrible disease: total body paralysis. After an exhausting period of time trying to treat his child (Hung is the only child, he lost his father early), his mother passed away, leaving behind her son writhing in the pain of losing his mother and illness. Luckily, he was protected by a couple from his hometown until today. He couldn't sit, couldn't walk; In general, he couldn't do anything, other than the pen he tried to hold in his curled fingers in a lying position, next to a blank page. And from there, poems were born one after another... Twenty-two years on his deathbed, he thought about death many times. However, the love of life has become stronger and from that strong love, poetry collections named after author Nguyen Ngoc Hung have been introduced to readers one after another: Holding Wind in Hand - 1993; White Lullaby - 1994; Heavenly fire lights the kitchen - 1994; Cuffed child looking for mother - 1995; Young Leaves – 1997; Call the Moon – 2001; Silent Blue Fire - 2002. Twenty-two years, thousands of poems were born amid the pain... He has received many literary awards in recent years, and he is also a member of the Quang Ngai Cultural and Arts Association . In the latest letter he sent me (December 30, 2004), Hung wrote: "This year, Hung's health has deteriorated a bit, often suffering from colds, stomach pain, rhinitis, arthritis... Often tired and achy, so lazy to relax." ; sometimes even poetry. Send me a few poems so that when I have free time and remember, I can read them for fun - consider it a small Tet gift from a country boy!"... Through the series of poems that NVX introduced today, I'm sure everyone will sympathize. to him: "To be able to publish poetry, to be able to send my heart to many readers, is always a happiness for me." As for me, I would like to call your poems: from just one corner of the sky, you can love so much. BUI NGUYEN TRUONG KIEN
Table of contents
Poet Nguyen Ngoc Hung
Poet Nguyen Ngoc Hung
BUI NGUYEN TRUONG KIENWelcome to read the first book from the book project for mobile devicesSource: editor: Nguyen Kim Vy.
Final words: Thank you for reading the entire story. Source: editor: Nguyen Kim Vy. Source: NguoiVienXu Uploaded by friend: Ct.Ly on: May 21, 2005
|
nhiều tác giả
Nhà Thơ Thu Bồn
Tác Giả - Tác Phẩm
GIỖ ĐẦU NHÀ THƠ THU BỒN
“Cầu trời bên ấy bình yên”
Nhà thơ Thu Bồn Nhà thơ tâm sự: "Tôi bắt đầu làm thơ từ những ngày còn là cậu lính con đầy ghẻ rận và ốm yếu. Nhiều đêm tôi khóc... Thấm đẫm mồ hôi và máu của nhân dân mình, tổ quốc mình. Hơn ai hết, nhà văn phải là người thầy thuốc mổ xẻ tận gốc rễ những ung nhọt". Thu Bồn là một trong những nhà thơ mở đầu thể loại trường ca với Bài ca chim Chơ Rao “không những là tác phẩm từ miền Nam gửi ra khá sớm, mà còn là bản trường ca đầu tiên của văn học giải phóng” (Hoài Anh, Tìm hoa quá bước, NXB Văn học, 2001). Bàn về trách nhiệm của nhà văn, Thu Bồn tâm sự: "Tình yêu Tổ quốc của nhà văn có nghĩa là phải can đảm ngợi ca và can đảm chỉ trích. Nói cho cùng là phải yêu đến tận cùng gan ruột. Tổ quốc lâm nguy, nhà văn phải đem hết tim gan mình phơi lên chiến đại và có lúc phải hy sinh như người lính: …Rất có thể anh không bao giờ nhìn thấy Một làn môi em hay một nụ cười… Nhưng tất cả sẽ trở thành vô nghĩa Nếu những mồ bia kia không gọi được mặt trời…Đất nước hòa bình thống nhất và đổi mới, con người dễ hờ hững và buông xuôi với thời cuộc để lo cho cuộc sống sau nhiều năm chiến tranh gian nan. Tôi nghĩ nhà văn có nhiệm vụ rất nặng nề. Vì đây là cuộc chiến đấu vô cùng phức tạp và tế nhị". Thu Bồn trong tâm tưởng bạn bè: Nhà văn Nguyễn Khải nói: “Trông cách Thu Bồn chăm sóc con người đến tớ cũng mê huống chi là con gái”. Nhà văn Thái Bá Lợi: “Ông cũng là người xả bỏ. Năm 1975, lớp anh em trong trại sáng tác như tôi đều có hàm trung úy. Trong một cuộc nhậu, Thanh Thảo nói: “Năm ông Thu Bồn đi bộ đội, bọn tôi mới một hai tuổi, tại sao bây giờ ông chỉ hơn bọn này một cấp?”. Thu Bồn ngạc nhiên: “Tao cũng không biết nữa”, và ông cạn hết ly rượu". Câu Tiễn xưa kia đi nếm mật Ta nay ăn đất một đời thừa Xưa kia tráng sĩ hề da ngựa Ta nay uống cạn mấy rừng mưa * * * Bơi qua biển lửa ta về lại Gọi Thái Bình Dương đến dạo đàn * * * Bao năm gối núi đầu hóa đá Tiếng hát từng rung Ngũ Giác Đài... Thu Bồn trong mắt tôi: Nhà thơ Thu Bồn và vợ là nghệ sĩ Lý Bạch Huệ Bị tai biến mạch máu não, Thu Bồn đã rất vất vả “tập đi, tập nói”. Nhưng những ngày nhà thơ Nguyễn Duy bị tai nạn nằm nhà (cuối năm 2001), ông đã cùng vợ là Lý Bạch Huệ (mối tình duyên này có kỷ niệm cùng với nhà thơ Hồ Thi Ca, khi ấy anh đang phụ trách chương trình Tiếng Thơ của Đài Tiếng nói Nhân dân TP.HCM, nơi nghệ sĩ Lý Bạch Huệ làm cộng tác viên ngâm thơ, và đã (vô tình hay hữu ý ?) - “bắc cầu” cho họ nên duyên) đã đánh xe từ suối Lồ Ồ, Bình Dương lên thăm. Họ gặp nhau vui vẻ cười đùa rất chi là sảng khoái. Nguyễn Duy nói: “Anh viết hồi ký đi, kiểu… nhớ gì ghi nấy, kẻo…”. Và Thu Bồn cười. Đó là lần đầu tiên tôi được gặp tận mặt ông cùng với cái bắt tay niềm nở. Sau đó Thu Bồn đã phải vào bệnh viện Nguyễn Trãi. Được tin báo của nhà thơ Nguyễn Duy, tôi đến thăm ông, gởi ông bài bình thơ “Tạm biệt Huế” (Báo Người Hà Nội, số 01.2003), và là bài báo cuối cùng viết và bình thơ của ông được chính ông đọc trước khi… Trong bài bình ấy, ở câu thơ cuối: “Anh về hóa đá phía bên kia”Tôi đã “to gan” sửa chữ “kia” thành “tê”. Ông chỉ cười và bảo: “Bên kia mới là chữ dùng của người Quảng…”. Và tôi chợt nhớ hai câu thơ nổi tiếng của thi sĩ Bùi Giáng rằng: “Dạ thưa xứ Huế bây giờ/ Vẫn còn Núi Ngự bên bờ Sông Hương”. Vì “bây chừ” thì rõ Huế còn “bây giờ” mới gieo đúng vần câu 8 và là sự khẳng định hai địa danh hình thành Huế: “Núi Ngự, Sông Hương”. Tôi chợt hiểu ra ít nhiều… Lần thứ ba, tôi chở nhà thơ Hoài Anh đến thăm ông nhưng là lúc ông hôn mê trong cõi vô định. Mỗi khi có thân hữu đến thăm, chị Lý Bạch Huệ khóc, đưa cuốn sổ có những dòng chữ nguệch ngoạc viết tay của ông, trong đó nhiều nhất là những bài thơ viết về vợ như để trả một ân tình sau bao năm chung sống. Khi tôi chở nhà thơ Hoài Anh về, anh nhận xét: “Thu Bồn sống trong cõi chết và chết trong cõi vô thức, như thế là khoẻ!”. Có lẽ biết bệnh tình ông không qua khỏi, vợ và bạn bè đã đưa ông về nhà ở Bình Dương bên suối Lồ Ồ và tại đây ông trút hơi thở cuối cùng ngày 17.6.2003. Hôm 21.6.2003 nhân ngày báo chí, tôi đang xuống công tác ở Long Đất (Đồng Nai) đang say bên chung rượu, chợt nhà thơ Nguyễn Duy điện thoại hỏi tôi: “Thơ Thu Bồn có câu “Em về xin cứ thiên nhiên mà về”, câu trước là gì vậy Tý?”. Tôi ngập ngừng vì câu hỏi đột ngột, hẹn anh đến sáng mai trả lời. Tối hôm ấy, tôi đã nhớ ra nhưng nhầm hai chữ: “Cầu trời bên ấy bình yên”. Đúng ra là “Cầu trời nắng gió bình yên”. Vì tin tôi, nhà thơ Nguyễn Duy đã viết “câu thơ nhầm” kia trong điếu văn đăng trên báo Văn Nghệ. Sự nhầm lẫn này tiếp tuc hiện diện trong bài báo: “Nhớ gởi cho anh một gói nhân tình” (Báo Nông nghiệp Việt Nam) của nhà báo Lưu Trọng Văn. Nay nhân ngày giỗ đầu, viết lại những dòng này, trước là tạ lỗi với nhà thơ quá cố Thu Bồn và cũng xin trả lại nguyên văn câu thơ của ông. Nhưng nếu ông đã về “cõi tạm” thì hai chữ “bên ấy” cũng phù hợp lắm thay! NGUYỄN TÝ Vài nét về nhà thơ Thu Bồn Thu Bồn (tên khai sinh là Hà Đức Trọng) sinh năm 1935 tại Điện Thắng, Điện Bàn, Quảng Nam. Ông tham gia thiếu sinh quân từ năm 12 tuổi, làm liên lạc cho bộ đội và trực tiếp chiến đấu. Trong chiến tranh chống Mỹ, Thu Bồn đã liên tục có mặt ở các chiến trường Tây Nguyên, khu V, Quảng Trị, biên giới Tây Nam..., lúc làm phóng viên mặt trận, lúc làm lính xung kích, lính pháo... Tác phẩm đã xuất bản: Với 25 tác phẩm bao gồm thơ, trường ca, truyện, tiểu thuyết: Bài ca chim Chơ Rao (trường ca, 1962), Tre xanh (thơ, 1969), Mặt đất không quên (thơ, 1970), Campuchia hy vọng (trường ca, 1978), Oran 76 ngọn (trường ca, 1979), Người vắt sữa bầu trời (trường ca, 1985), Thông điệp mùa xuân (trường ca, 1985), Một trăm bài thơ tình nhờ em đặt tên (thơ, 1992)... Các giải thưởng: Giải văn học Nguyễn Đình Chiểu; Giải thưởng văn học quốc tế của Hội Nhà văn Á Phi (1973); Giải thưởng báo Hà Nội Mới (1969), Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật năm 2001... Thơ THU BỒNBÀI CA CHIM CH RAO (trích)"Xưa kia tráng sĩ hề da ngựa Ta nay uống cạn mấy rừng mưa Độc huyền tráng sĩ xưa ca cẩm Ta ôm xích đạo gãy vòng cung Môi hôn ngọn gió thơm hoa trái Núi cũng chiều ta đứng trập trùng. Ta cũng không ham chi nghiệp lớn. Bồ đào không có chẳng giai nhân Cửa nhà thông thốc muôn phương gió Túi rỗng nhiều phen bạn đỡ đần Bơi qua biển lửa ta về lại. Gọi Thái Bình Dương đến dạo đàn. Những cung xưa cũ lời em hát. Còn cháy lòng ta lửa thử vàng... Ta như con dế nằm trên cỏ Đợi uống từng đêm giọt ngọc sương Châu báu trọn đời con dâng mẹ Là trái tim đau lấm bụi đường...”. THU BỒN 1962
Mục lục
Nhà Thơ Thu Bồn
Nhà Thơ Thu Bồn
nhiều tác giảChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.
Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: nguoivienxuĐược bạn: Ct.Ly đưa lên vào ngày: 10 tháng 4 năm 2005
|
nhiều tác giả
Nhà Thơ Thu Bồn
Tác Giả - Tác Phẩm
GIỖ ĐẦU NHÀ THƠ THU BỒN
“Cầu trời bên ấy bình yên”
Nhà thơ Thu Bồn Nhà thơ tâm sự: "Tôi bắt đầu làm thơ từ những ngày còn là cậu lính con đầy ghẻ rận và ốm yếu. Nhiều đêm tôi khóc... Thấm đẫm mồ hôi và máu của nhân dân mình, tổ quốc mình. Hơn ai hết, nhà văn phải là người thầy thuốc mổ xẻ tận gốc rễ những ung nhọt". Thu Bồn là một trong những nhà thơ mở đầu thể loại trường ca với Bài ca chim Chơ Rao “không những là tác phẩm từ miền Nam gửi ra khá sớm, mà còn là bản trường ca đầu tiên của văn học giải phóng” (Hoài Anh, Tìm hoa quá bước, NXB Văn học, 2001). Bàn về trách nhiệm của nhà văn, Thu Bồn tâm sự: "Tình yêu Tổ quốc của nhà văn có nghĩa là phải can đảm ngợi ca và can đảm chỉ trích. Nói cho cùng là phải yêu đến tận cùng gan ruột. Tổ quốc lâm nguy, nhà văn phải đem hết tim gan mình phơi lên chiến đại và có lúc phải hy sinh như người lính: …Rất có thể anh không bao giờ nhìn thấy Một làn môi em hay một nụ cười… Nhưng tất cả sẽ trở thành vô nghĩa Nếu những mồ bia kia không gọi được mặt trời…Đất nước hòa bình thống nhất và đổi mới, con người dễ hờ hững và buông xuôi với thời cuộc để lo cho cuộc sống sau nhiều năm chiến tranh gian nan. Tôi nghĩ nhà văn có nhiệm vụ rất nặng nề. Vì đây là cuộc chiến đấu vô cùng phức tạp và tế nhị". Thu Bồn trong tâm tưởng bạn bè: Nhà văn Nguyễn Khải nói: “Trông cách Thu Bồn chăm sóc con người đến tớ cũng mê huống chi là con gái”. Nhà văn Thái Bá Lợi: “Ông cũng là người xả bỏ. Năm 1975, lớp anh em trong trại sáng tác như tôi đều có hàm trung úy. Trong một cuộc nhậu, Thanh Thảo nói: “Năm ông Thu Bồn đi bộ đội, bọn tôi mới một hai tuổi, tại sao bây giờ ông chỉ hơn bọn này một cấp?”. Thu Bồn ngạc nhiên: “Tao cũng không biết nữa”, và ông cạn hết ly rượu". Câu Tiễn xưa kia đi nếm mật Ta nay ăn đất một đời thừa Xưa kia tráng sĩ hề da ngựa Ta nay uống cạn mấy rừng mưa * * * Bơi qua biển lửa ta về lại Gọi Thái Bình Dương đến dạo đàn * * * Bao năm gối núi đầu hóa đá Tiếng hát từng rung Ngũ Giác Đài... Thu Bồn trong mắt tôi: Nhà thơ Thu Bồn và vợ là nghệ sĩ Lý Bạch Huệ Bị tai biến mạch máu não, Thu Bồn đã rất vất vả “tập đi, tập nói”. Nhưng những ngày nhà thơ Nguyễn Duy bị tai nạn nằm nhà (cuối năm 2001), ông đã cùng vợ là Lý Bạch Huệ (mối tình duyên này có kỷ niệm cùng với nhà thơ Hồ Thi Ca, khi ấy anh đang phụ trách chương trình Tiếng Thơ của Đài Tiếng nói Nhân dân TP.HCM, nơi nghệ sĩ Lý Bạch Huệ làm cộng tác viên ngâm thơ, và đã (vô tình hay hữu ý ?) - “bắc cầu” cho họ nên duyên) đã đánh xe từ suối Lồ Ồ, Bình Dương lên thăm. Họ gặp nhau vui vẻ cười đùa rất chi là sảng khoái. Nguyễn Duy nói: “Anh viết hồi ký đi, kiểu… nhớ gì ghi nấy, kẻo…”. Và Thu Bồn cười. Đó là lần đầu tiên tôi được gặp tận mặt ông cùng với cái bắt tay niềm nở. Sau đó Thu Bồn đã phải vào bệnh viện Nguyễn Trãi. Được tin báo của nhà thơ Nguyễn Duy, tôi đến thăm ông, gởi ông bài bình thơ “Tạm biệt Huế” (Báo Người Hà Nội, số 01.2003), và là bài báo cuối cùng viết và bình thơ của ông được chính ông đọc trước khi… Trong bài bình ấy, ở câu thơ cuối: “Anh về hóa đá phía bên kia”Tôi đã “to gan” sửa chữ “kia” thành “tê”. Ông chỉ cười và bảo: “Bên kia mới là chữ dùng của người Quảng…”. Và tôi chợt nhớ hai câu thơ nổi tiếng của thi sĩ Bùi Giáng rằng: “Dạ thưa xứ Huế bây giờ/ Vẫn còn Núi Ngự bên bờ Sông Hương”. Vì “bây chừ” thì rõ Huế còn “bây giờ” mới gieo đúng vần câu 8 và là sự khẳng định hai địa danh hình thành Huế: “Núi Ngự, Sông Hương”. Tôi chợt hiểu ra ít nhiều… Lần thứ ba, tôi chở nhà thơ Hoài Anh đến thăm ông nhưng là lúc ông hôn mê trong cõi vô định. Mỗi khi có thân hữu đến thăm, chị Lý Bạch Huệ khóc, đưa cuốn sổ có những dòng chữ nguệch ngoạc viết tay của ông, trong đó nhiều nhất là những bài thơ viết về vợ như để trả một ân tình sau bao năm chung sống. Khi tôi chở nhà thơ Hoài Anh về, anh nhận xét: “Thu Bồn sống trong cõi chết và chết trong cõi vô thức, như thế là khoẻ!”. Có lẽ biết bệnh tình ông không qua khỏi, vợ và bạn bè đã đưa ông về nhà ở Bình Dương bên suối Lồ Ồ và tại đây ông trút hơi thở cuối cùng ngày 17.6.2003. Hôm 21.6.2003 nhân ngày báo chí, tôi đang xuống công tác ở Long Đất (Đồng Nai) đang say bên chung rượu, chợt nhà thơ Nguyễn Duy điện thoại hỏi tôi: “Thơ Thu Bồn có câu “Em về xin cứ thiên nhiên mà về”, câu trước là gì vậy Tý?”. Tôi ngập ngừng vì câu hỏi đột ngột, hẹn anh đến sáng mai trả lời. Tối hôm ấy, tôi đã nhớ ra nhưng nhầm hai chữ: “Cầu trời bên ấy bình yên”. Đúng ra là “Cầu trời nắng gió bình yên”. Vì tin tôi, nhà thơ Nguyễn Duy đã viết “câu thơ nhầm” kia trong điếu văn đăng trên báo Văn Nghệ. Sự nhầm lẫn này tiếp tuc hiện diện trong bài báo: “Nhớ gởi cho anh một gói nhân tình” (Báo Nông nghiệp Việt Nam) của nhà báo Lưu Trọng Văn. Nay nhân ngày giỗ đầu, viết lại những dòng này, trước là tạ lỗi với nhà thơ quá cố Thu Bồn và cũng xin trả lại nguyên văn câu thơ của ông. Nhưng nếu ông đã về “cõi tạm” thì hai chữ “bên ấy” cũng phù hợp lắm thay! NGUYỄN TÝ Vài nét về nhà thơ Thu Bồn Thu Bồn (tên khai sinh là Hà Đức Trọng) sinh năm 1935 tại Điện Thắng, Điện Bàn, Quảng Nam. Ông tham gia thiếu sinh quân từ năm 12 tuổi, làm liên lạc cho bộ đội và trực tiếp chiến đấu. Trong chiến tranh chống Mỹ, Thu Bồn đã liên tục có mặt ở các chiến trường Tây Nguyên, khu V, Quảng Trị, biên giới Tây Nam..., lúc làm phóng viên mặt trận, lúc làm lính xung kích, lính pháo... Tác phẩm đã xuất bản: Với 25 tác phẩm bao gồm thơ, trường ca, truyện, tiểu thuyết: Bài ca chim Chơ Rao (trường ca, 1962), Tre xanh (thơ, 1969), Mặt đất không quên (thơ, 1970), Campuchia hy vọng (trường ca, 1978), Oran 76 ngọn (trường ca, 1979), Người vắt sữa bầu trời (trường ca, 1985), Thông điệp mùa xuân (trường ca, 1985), Một trăm bài thơ tình nhờ em đặt tên (thơ, 1992)... Các giải thưởng: Giải văn học Nguyễn Đình Chiểu; Giải thưởng văn học quốc tế của Hội Nhà văn Á Phi (1973); Giải thưởng báo Hà Nội Mới (1969), Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật năm 2001... Thơ THU BỒNBÀI CA CHIM CH RAO (trích)"Xưa kia tráng sĩ hề da ngựa Ta nay uống cạn mấy rừng mưa Độc huyền tráng sĩ xưa ca cẩm Ta ôm xích đạo gãy vòng cung Môi hôn ngọn gió thơm hoa trái Núi cũng chiều ta đứng trập trùng. Ta cũng không ham chi nghiệp lớn. Bồ đào không có chẳng giai nhân Cửa nhà thông thốc muôn phương gió Túi rỗng nhiều phen bạn đỡ đần Bơi qua biển lửa ta về lại. Gọi Thái Bình Dương đến dạo đàn. Những cung xưa cũ lời em hát. Còn cháy lòng ta lửa thử vàng... Ta như con dế nằm trên cỏ Đợi uống từng đêm giọt ngọc sương Châu báu trọn đời con dâng mẹ Là trái tim đau lấm bụi đường...”. THU BỒN 1962
Mục lục
Nhà Thơ Thu Bồn
Nhà Thơ Thu Bồn
nhiều tác giảChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.
Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: nguoivienxuĐược bạn: Ct.Ly đưa lên vào ngày: 10 tháng 4 năm 2005
|
nhiều tác giả
Nhà thơ Vũ Duy Chu
Tác Giả - Tác Phẩm
Sinh năm: 1951 Quê quán: xã Yên Xá, huyện ý Yên, tỉnh Nam Định Tốt nghiệp Đại học Kỹ Thuật Thông tin liên lạc Hiện công tác tại: Công ty Hợp tác lao động nước ngoài (Bộ Giao thông vận tải). Tác phẩm viết cho thiếu nhi đã xuất bản: Chuyện vui về ông trời (Thơ thiếu nhi, in chung - Nhà xuất bản Kim Đồng 1997). Diều trên biển (Thơ thiếu nhi - Nhà xuất bản Đồng Nai 1997). Giải thưởng văn học: Giải ba (thơ) cuộc thi sáng tác văn học thiếu nhi do ủy Ban BVCSTE Việt Nam, Hội Nhà văn Việt Nam và UNICEF tổ chức (1996 - 1997). Giải khuyến khích (thơ) cuộc vận động sáng tác cho thiếu nhi do Nhà xuất bản Kim Đồng tổ chức (1996 - 1997). Giải khuyến khích (thơ) cuộc thi sáng tác văn học "Tương lai vẫy gọi" do báo Thiếu niên tiền phong tổ chức (1998 - 1999).
Mục lục
Nhà thơ Vũ Duy Chu
Nhà thơ Vũ Duy Chu
nhiều tác giảChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.
Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: Bình thuận. gov.vnĐược bạn: Ct.Ly đưa lên vào ngày: 20 tháng 3 năm 2005
|
many authors
Poet Vu Duy Chu
Author - Works
Year of birth: 1951 Hometown: Yen Xa commune, Y Yen district, Nam Dinh province Graduated from Technical University Contact information Currently working at: Foreign Labor Cooperation Company (Ministry of Transport). Published works written for children: Funny stories about heaven (Children's poetry, printed together - Kim Dong Publishing House 1997). Kite on the sea (Children's poetry - Dong Nai Publishing House 1997). Literary award: Third prize (poetry) in the children's literature competition organized by the Vietnam Committee for Child Protection, Vietnam Writers Association and UNICEF (1996 - 1997). Consolation prize (poetry) for the children's writing campaign organized by Kim Dong Publishing House (1996 - 1997). Consolation prize (poetry) in the literary competition "The Future Calls" organized by Tien Phong Tien Phong newspaper (1998 - 1999).
Table of contents
Poet Vu Duy Chu
Poet Vu Duy Chu
many authorsWelcome to read books from the book project for mobile devicesSource: author: Nguyen Kim Vy.
Final words: Thank you for reading the entire story. Source: editor: Nguyen Kim Vy. Source: Binh Thuan. gov.vn Posted by: Ct.Ly on: March 20, 2005
|
nhiều tác giả
Nhà Thơ Xuân Diệu
Tác giả - Tác Phẩm
XUÂN DIỆU (1916 - 1985)
Ngày 18-12-1985, đã vĩnh biệt chúng ta nhà thơ Xuân Diệu, một nhà thơ lớn của Việt Nam ở thế kỷ 20. Quê ở Hà Tĩnh, ông đã từng học ở Qui Nhơn, Huế, Hà Nội. Xuân Diệu là thành viên của Tự lực văn đoàn, văn đoàn có đóng góp lớn vào nền văn học Việt Nam hiện đại. Là nhà thơ trữ tình, Xuân Diệu đã là một trong những chủ soái của phong trào "Thơ Mới". Xuân Diệu "nhà thơ mới nhất" của các nhà thơ mới (Hoài Thanh). Hai tập "Thơ thơ" và "Gửi hương cho gió" được giới văn học xem như là hai kiệt tác của ông ca ngợi tình yêu và qua các chủ đề của tình yêu là ca ngợi sự sống, niềm vui và đam mê sống. Và ca ngợi tình yêu thì làm sao mà không ca ngợi tuổi trẻ, mùa xuân, ca ngợi thiên nhiên là tổ ấm và cái nôi của tình yêu. Và Xuân Diệu cảm nhận sâu sắc đến đau đớn nỗi thời gian trôi chảy, sự mong manh của đời người cũng như lòng khát khao vĩnh cửu, tất cả đã được diễn tả bằng những câu thơ xúc động, có khi đậm đà triết lý nhân sinh. Là một nhà thơ dấn thân, Xuân Diệu đã tham gia hàng chục năm trời (từ 1943) cuộc chiến đấu giải phóng dân tộc, và đã trở thành một trong những nhà thơ hàng đầu ca ngợi cách mạng. Ba lô trên lưng, Xuân Diệu đã đi khắp đất nước qua hai cuộc kháng chiến trường kỳ, chia sẻ cuộc sống gian khổ mà hào hùng của chiến sĩ, công nhân và nông dân. Từ cuộc sống dấn thân ấy đã hình thành một cảm xúc mới: cảm xúc của cả dân tộc chiến đấu cho độc lập, tự do - Và dòng thơ "công dân" ấy vẫn chan chứa chất thơ vì không hề gạt ra một bên những kích thước người của một cảm hứng thơ chân chính. Những bài thơ như "Sự sống chẳng bao giờ chán nản", "Những đêm hành quân" thuộc vào dòng thơ của chủ nghĩa nhân bản mới của thời đại. Và nhà thơ - chiến sĩ vẫn tiếp tục là nhà thơ thần diệu của tình yêu. Vĩnh biệt chúng ta, Xuân Diệu còn để lại trong di cảo 400 (bốn trăm) bài thơ tình chưa công bố. Là nhà văn hóa lớn, nhà nghiên cứu bậc thầy, nhà phê bình sâu sắc và tinh tế, Xuân Diệu một mình, đã viết một công trình đồ sộ nghiên cứu hết các nhà thơ cổ điển của nước nhà, và những nhận định của ông cũng đã trở thành "cổ điển". Xuân Diệu còn là tác giả tập "Phấn thông vàng" gồm những truyện ngắn trữ tình tuyệt diệu, tập "Trường ca" là những bài thơ văn xuôi xúc động về tạo vật, về tình đời. Xuân Diệu còn viết nhiều sách về nghề thơ, hướng dẫn và tận tình giúp đỡ các bạn văn thơ trẻ. Xuân Diệu đã dịch tác phẩm của nhiều nhà thơ thế giới lỗi lạc - Victor Hugo, Petofi, Nazim Hikmet, Nicolas Grillen, Tagore, Attila, Joseph, Christo Botev, Endy, Blaga Dimitrova... Với một sự nghiệp phong phú, đồ sộ (hơn năm mươi tác phẩm), Xuân Diệu chắc chắn sẽ được hậu thế công nhận là một trong những đỉnh cao của thơ và văn chương Việt Nam thế kỷ 20. Huy Cận (4/2000) (NXB Kim Đồng) Tác phẩm đã xuất bản: Thơ: Thơ thơ , (1938) tái bản nhiều lần; Gửi hương cho gió (1945-1967), Ngọn Quốc kỳ (1945-1961), Hội nghị non sông (1946), Dưới sao vàng (1949), Riêng chung (1960), Mũi Cà Mau - Cầm tay (1962) Một khối hồng (1964) Hai đợt sóng (1967) Tôi giầu đôi mắt (1970) Hồn tôi đôi cánh (1976) Thanh ca (1982), Một chùm thơ (tuyển, Paris, 1983), Tuyển tập Xuân Diệu tập I (1982-1986) Văn xuôi: Phấn thông vàng (1939 – 1967), Trường ca (1945 – 1957) Miền Nam nước Việt (1945), Việt Nam nghìn dặm (1946), Việt Nam trở dạ (1948) Ký sự thăm nước Hung (1956), Triều lên (1958) Tiểu luận phê bình: Thanh niên với quốc văn (1945), Những bước đường tư tưởng của tôi (1958), Dao có mài mới sắc (1963), Và cây đời mãi mãi xanh tươi (1971) Lượng thông tin và những ký sự tâm hồn ấy (1978), Các nhà thơ cổ điển Việt Nam, 2 tập (1981-1982), Thơ Nicôlai Ghiden (1982), Những nhà thơ Bungari (1985)…
Mục lục
Nhà Thơ Xuân Diệu
Nhà Thơ Xuân Diệu
nhiều tác giảChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.
Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: Vnthuquan - Thư viện OnlineĐược bạn: Ct.Ly đưa lên vào ngày: 23 tháng 9 năm 2005
|
many authors
Poet Xuan Dieu
Author - Works
XUAN DIEU (1916 - 1985)
On December 18, 1985, we said goodbye to poet Xuan Dieu, a great Vietnamese poet in the 20th century. His hometown was Ha Tinh, he studied in Qui Nhon, Hue, Hanoi. Xuan Dieu is a member of the Tu Luc Van Doan, a literary troupe that has made great contributions to modern Vietnamese literature. As a lyric poet, Xuan Dieu was one of the leaders of the "New Poetry" movement. Xuan Dieu "the newest poet" of new poets (Hoai Thanh). The two collections "Poetry" and "Sending Fragrance to the Wind" are considered by the literary world as two of his masterpieces praising love and through the themes of love, praising life, joy and passion for living. And how can we praise love without praising youth, spring, praising nature as the home and cradle of love? And Xuan Dieu deeply and painfully felt the passing of time, the fragility of human life as well as the eternal longing, all of which were expressed in touching verses, sometimes imbued with human philosophy. born. As a committed poet, Xuan Dieu participated for decades (since 1943) in the fight for national liberation, and became one of the leading poets praising the revolution. With a backpack on his back, Xuan Dieu traveled across the country through two long resistance wars, sharing the arduous yet heroic lives of soldiers, workers and farmers. From that committed life, a new emotion was formed: the emotion of the entire nation fighting for independence and freedom - And that line of "civic" poetry is still full of poetry because it never sets aside the the human dimension of a true poetic inspiration. Poems like "Life is never boring" and "Night marches" belong to the poetry of the new humanism of the era. And the poet-soldier continues to be the magical poet of love. Farewell to us, Xuan Dieu also left in his posthumous 400 (four hundred) unpublished love poems. As a great man of culture, a master researcher, and a profound and sophisticated critic, Xuan Dieu alone wrote a massive work researching all of the country's classical poets, and his observations. he also became "classic". Xuan Dieu is also the author of the collection "Yellow Pine Chalk" which includes wonderful lyrical short stories, and the collection "Long Songs" which are touching prose poems about creation and life's love. Xuan Dieu also wrote many books on poetry, guiding and wholeheartedly helping young poetry writers. Xuan Dieu has translated the works of many prominent world poets - Victor Hugo, Petofi, Nazim Hikmet, Nicolas Grillen, Tagore, Attila, Joseph, Christo Botev, Endy, Blaga Dimitrova... With a rich career, he Massive (more than fifty works), Xuan Dieu will certainly be recognized by posterity as one of the pinnacles of Vietnamese poetry and literature in the 20th century. Huy Can (April 2000) (Kim Dong Publishing House) Works published: Poetry: Poetic Poetry, (1938) reprinted many times; Sending incense to the wind (1945-1967), The National Flag (1945-1961), River Conference (1946), Under the Yellow Star (1949), General Private (1960), Ca Mau Cape - Holding Hands (1962) One Pink Cube (1964) Two Waves (1967) I Have Rich Eyes (1970) My Soul Has Wings (1976) Thanh Ca (1982), A Collection of Poems (anthology, Paris, 1983), Xuan Dieu Collection Volume I (1982) -1986) Prose: Yellow pine powder (1939 - 1967), The epic (1945 - 1957) The South of Vietnam (1945), Vietnam a thousand miles (1946), Vietnam in labor (1948) Memoirs of a visit to Hungary (1956), Rising tide (1958) Critical essays: Youth with national literature (1945), My ideological steps (1958), Sharpening knives (1963), And the tree of life is forever green (1971) The amount of information and memories of that soul (1978), Classical Vietnamese Poets, 2 volumes (1981-1982), Poetry of Nicolai Ghiden (1982), Bulgarian Poets (1985)...
Table of contents
Poet Xuan Dieu
Poet Xuan Dieu
many authorsWelcome to read books from the book project for mobile devicesSource: author: Nguyen Kim Vy.
Final words: Thank you for reading the entire story. Source: editor: Nguyen Kim Vy. Source: Vnthuquan - Online Library Uploaded by friend: Ct.Ly on: September 23, 2005
|
VanTienSinh
Nhà thơ, tên trộm và đại gia
Người ta nói "Số phận nằm trong tay ta do ta quyết định", có phải vậy không?
Đêm se lạnh. Những ngọn đèn đường hắt ánh sáng vàng vọt xuống hè phố. Trong một góc tối, nơi ánh sáng bị bỏ lại ngoài xa, một bóng đen đang lặng lẽ theo dõi căn nhà nhỏ vẫn còn sáng đèn. Chẳng biết, hắn đã trở thành thằng ăn trộm từ khi nào.Ngày mới lên thành phố, hắn mang trong lòng nhiều mơ ước. Hắn nghĩ một cách đơn giản rằng chỉ cần chịu khó, với sức trẻ thì chẳng mấy chốc, hắn sẽ tạo dựng được cho mình một tương lai vững chắc. Nhưng sự đời, mấy khi chiều lòng người, việc nào hắn cũng làm, chẳng nề hà đó là việc nặng hay việc nhẹ. Thời gian thì cứ nhanh chóng trôi qua, mà hắn thì cứ cố làm mãi, nhưng cũng vẫn chẳng thấy dư dả ra được đồng nào.Cho đến 1 ngày, ngồi trong quán cà phê hắn thấy người ta kiếm tiền thật dễ dàng, qua trò chơi cá độ bóng đá. Hắn cũng bắt đầu tập tành chơi, dù tên cầu thủ hắn chẳng còn biết phát âm cho đúng. Lúc mới tham gia, có lẽ vận may mỉm cười với hắn, nên hắn thắng độ liên tục. Đêm nằm ngủ hắn mơ thấy mình đang nằm trên đống tiền, chỉ cần quơ tay ra là tiến ngoan ngoãn chui vào túi. Hắn lại mơ thấy mình trở thành đại gia, có nhiều kẻ hầu người hạ, hắn thấy mình vét hết sạch tiền thiên hạ khi cá độ bóng đá...Nhưng rồi cuối cùng vận rủi cũng ghé thăm hắn và trong một buổi chiều lang thang nghĩ cách kiếm tiền trả nợ, hắn chợt khám phá ra một nghề, cũng rất nhàn hạ để kiếm tiền. Đó là nghề ăn trộm.*****Trong căn nhà nhỏ, ánh đèn yếu ớt, chiếu lên mặt người đàn ông hãy còn trẻ, đang nằm vắt tay lên trán trên giường. Chung quanh phòng bừa bộn, như đã lâu ngày thiếu đi bàn tay đàn bà chăm sóc. Trong căn phòng, sát tường là một kệ sách chất đầy, chứng tỏ là chủ nhân của nó là một người ham đọc sách. Giữa phòng là bộ bàn ghế mây sứt mẻ năm ba chỗ, giấy, sách và vài thứ linh tinh nữa vứt lăn lóc trên nền gạch. Đối diện với kệ sách là cái giường nhàu bẩn mà chủ nhân đang nằm thở dài.Anh vốn yêu thơ từ bé. Những vần thơ trữ tình lãng mạn của các nhà thơ nổi tiếng đã làm anh mê mẩn. Anh thả hồn theo gió, khi đọc thơ Xuân Diệu. Anh bồi hồi ngắm trăng, khi ngâm thơ Hàn Mặc Tử. Anh thao thức trăn trở, khi đọc thơ Giang Nam. Anh nghiến răng căm hờn, khi đọc thơ Tố Hữu...Rồi dần dần, anh cũng tập làm thơ. Anh cảm thấy thơ mình làm cũng hay, cũng trữ tình, sâu lắng, êm dịu, gào thét...như thơ của tiền nhân.Rồi cũng chẳng biết từ lúc nào, ai ai cũng gọi anh là nhà thơ. Anh lấy vợ cũng nhờ thơ. Vào lúc mới yêu anh, vợ anh cũng thổn thức, mơ màng trong những vần thơ anh sáng tác. Nàng nói với anh, nàng thật hạnh phúc vì yêu một nhà thơ và gật đầu một cái rụp, khi anh run run hỏi cưới nàng. Nhưng cuộc vui ngắn chẳng tày gang, tình yêu và hôn nhân là hai vấn đề hoàn toàn khác nhau. Đến lúc này anh chợt phát hiện ra, không thể ngâm thơ mà sống được. Anh phải kiếm ra tiền, nhưng mà hồi giờ anh chỉ biết làm thơ. Nghe lời bạn bè mách bảo, anh cũng ráng gom góp vay mượn để xuất bản những vần thơ. Anh nghĩ rằng thơ mình hay thế, chẳng mấy chốc sẽ nổi tiếng, tiền vào như nước.Đêm nằm anh mơ, anh đang ngâm thơ trong hội trường, khán giả vỗ tay ầm ầm, nhiều cô sụt sùi khóc, ánh đèn Flash chớp liên tục, trên các mặt báo tràn ngập hình của anh...Nhưng than ôi, thời buổi cơm áo gạo tiền, thơ anh nằm mốc meo trên kệ chẳng ai thèm để ý. Rồi sách mới về, người ta trả lại cho anh để lấy chỗ cho sách mới. Đôi ba lần như thế, vợ anh chán, bỏ anh mà đi. Đêm nay nằm buồn, anh lại muốn làm thơ. Trằn trọc mãi mà nàng thơ vẫn chưa tới, anh nhỏm dậy và trong lòng chợt quyết định ngày mai phải tạm gác thơ thẩn lại, anh sẽ cố gắng đi kiếm việc gì đó trước mắt đã. Gói kỹ những tập thơ vào một cái bọc, anh lẩm nhẩm :- Đây là tài sản quý nhất của mình.Tiếng của anh theo cơn gió lọt vào tai tên trộm. Mắt hắn bỗng sáng lên, khẽ mỉm cười.*****Trong căn phòng hoa lệ của một nhà hàng sang trọng, ông ngồi nhìn mọi người xung quanh bàn. Họ là những con người nổi tiếng và dù ít hay nhiều đều chịu ân huệ của ông. Hôm nay là ngày nghỉ, bọn họ cố mời ông đến đây để tỏ chút lòng thành. Ông cảm thấy mệt mỏi muốn từ chối, nhưng trước sự nhiệt thành thái quá của họ, cuối cùng ông đành phải nhận lời.Từ ngày Lãnh đạo giao việc mới cho ông, chuyển qua quản lý một công ty chuyên về văn hóa, ông cảm thấy bận đến bù đầu. Ông thích làm việc hành chánh hơn, công việc thì nhẹ nhàng, chẳng phải suy nghĩ gì nhiều mà lộc trời thì vẫn cứ đều đều, chỉ cần ký vài chữ là tiền cứ vào như nước. Bây giờ làm kinh doanh, phải quảng cáo, phải ký hợp đồng, phải...Ông cảm thấy thật mệt muốn chết đi được. Ông than với họ là mình nhức đầu và cáo lỗi xin về trước. Ngồi thoải mái trên xe, ông lim dim mắt cố tranh thủ ngủ một giấc. Xe đang ngon trớn chạy bon bon trên đường vắng, bỗng nhiên phanh kít lại làm cả người ông đổ về phía trước. Ông giật mình định mắng tay tài xế, thì tay tài xế quay lại nhìn ông mặt xanh mét như tàu lá chuối:- Chết rồi chú ơi, tai nạn rồi...- Mày mau mau ra coi nó có bị gì không? - Ông hét to. Ông cảm thấy bực cả mình. Hôm nay sao lại xúi quẩy đến thế? Chắc là phải tốn tiền cho những việc chẳng ra làm sao?Mở cánh cửa xe, ông từ từ bước xuống. Anh tài xế lúc này đang kéo một người đàn ông vào hè đường. Người đàn ông chân đi khập khiễng, miệng thì rên rỉ vì đau. Ông cất tiếng hỏi tay tài xế:- Nó có bị làm sao không?- Dạ thưa chú, may là cháu đã phanh kịp thời. Chắc là chỉ bị sơ sơ thôi. - Tay tài xế trả lời giọng mừng rỡ.Người đàn ông vẫn tiếp tục rên rỉ. Ông nhìn hắn với vẻ khinh bỉ. Móc bóp thảy cho hắn tờ 100 ngàn, ông nói như ra lệnh:- Chú mày cầm đỡ mua thuốc...- Chợt ông nhìn thấy một vài cuốn sách rớt ra từ trong bọc vải trước đầu xe. Ông quay lại hỏi hắn:- Sách của chú mày hả?- Dạ...- Hắn trả lời với vẻ mặt sững sờ, khi mắt hắn nhìn thấy cái bọc vỡ ra bên trong chỉ toàn là sách.Ông nhìn thấy cái bìa hơi đẹp, tò mò thò tay cầm một cuốn lên xem. Hóa ra đây là một tập thơ. Ông hỏi hắn giọng hơi dịu lại :- Chú mày đi bán sách ah?- Dạ...- Hắn trả lời giọng vẫn chưa hết thẫn thờ.Ông cảm thấy ngạc nhiên vô cùng. Thời buổi này mà có người ôm cả đống tập thơ đi bán. Chắc chắn đây là loại sách đang bán chạy. Máu kinh doanh trong người nổi lên, ông nói :- Cho chú 1 cuốn nha.- Dạ. - Hắn trả lời như mộng du.*****Tại phòng kinh doanh của một công ty văn hóa, tay trưởng phòng đang nôn nóng, đi đi lại lại. Anh đang rất sốt ruột ngóng chờ điện thoại của nhân viên. Đã mấy ngày nay, nhân viên của anh lùng sục khắp nơi, mục đích để kiếm tác giả của tập thơ mà Sếp đưa cho anh.Nhớ lại hôm đó, Sếp kêu anh lên rồi thảy cho anh tập thơ và bảo anh nghiên cứu xem thử. Nghiên cứu cái gì nữa trời? Từ tay của Sếp đưa ra, chắc chắn là phải có dây mơ rễ má gì đó với sếp. Bụng của Sếp đã ưa rồi thì còn gì mà bàn nữa, cứ thế mà làm thôi. Chuông điện thoại bỗng vang lên:- Alô, bọn em tìm được nhà hắn rồi. - Giọng nói vang lên mừng rỡ.Chỉ trong một thời gian ngắn, tên tuổi của nhà thơ mới, nổi lên như cồn trên văn đàn nước Việt. Hình ảnh nhà thơ với hai ngón tay giơ lên trời theo hình chữ V tràn ngập khắp các mặt báo. Người ta thấy đứng cạnh anh là một quan chức, nghe đâu là vì do ông hay đọc thơ, nên tình cờ phát hiện ra tài năng của anh. Thật là may mắn vô cùng cho thơ Việt, nếu không thì không chừng anh nhà thơ đi cá độ bóng đá và giới ăn trộm cũng có thể, lại có thêm một đồng nghiệp.*****Đêm nay trước ngôi nhà hai tầng khang trang của nhà thơ, vẫn đứng trong bóng tối hắn nhìn về phía cửa sổ hãy còn sáng đèn chờ đợi. Từ trong đó vọng ra tiếng cười vui vẻ của đàn bà, giọng người đàn bà vang lên:- Thôi đừng đếm nữa đi, lại đây với em nào...- Yên nào, để anh kiểm lại một lần nữa. Đối với anh bây giờ, đếm tiền là sảng khoái nhất...Mắt hắn trong bóng tối lại loé sáng. Hắn mỉm cười...
Mục lục
Nhà thơ, tên trộm và đại gia
Nhà thơ, tên trộm và đại gia
VanTienSinhChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.
Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.Đánh máy: Toctien1 Nguồn: Tác giả/ VNthuquan - Thư viện OnlineĐược bạn: Ct.Ly đưa lên vào ngày: 10 tháng 5 năm 2009
|
VanTienSinh
Nhà thơ, tên trộm và đại gia
Người ta nói "Số phận nằm trong tay ta do ta quyết định", có phải vậy không?
Đêm se lạnh. Những ngọn đèn đường hắt ánh sáng vàng vọt xuống hè phố. Trong một góc tối, nơi ánh sáng bị bỏ lại ngoài xa, một bóng đen đang lặng lẽ theo dõi căn nhà nhỏ vẫn còn sáng đèn. Chẳng biết, hắn đã trở thành thằng ăn trộm từ khi nào.Ngày mới lên thành phố, hắn mang trong lòng nhiều mơ ước. Hắn nghĩ một cách đơn giản rằng chỉ cần chịu khó, với sức trẻ thì chẳng mấy chốc, hắn sẽ tạo dựng được cho mình một tương lai vững chắc. Nhưng sự đời, mấy khi chiều lòng người, việc nào hắn cũng làm, chẳng nề hà đó là việc nặng hay việc nhẹ. Thời gian thì cứ nhanh chóng trôi qua, mà hắn thì cứ cố làm mãi, nhưng cũng vẫn chẳng thấy dư dả ra được đồng nào.Cho đến 1 ngày, ngồi trong quán cà phê hắn thấy người ta kiếm tiền thật dễ dàng, qua trò chơi cá độ bóng đá. Hắn cũng bắt đầu tập tành chơi, dù tên cầu thủ hắn chẳng còn biết phát âm cho đúng. Lúc mới tham gia, có lẽ vận may mỉm cười với hắn, nên hắn thắng độ liên tục. Đêm nằm ngủ hắn mơ thấy mình đang nằm trên đống tiền, chỉ cần quơ tay ra là tiến ngoan ngoãn chui vào túi. Hắn lại mơ thấy mình trở thành đại gia, có nhiều kẻ hầu người hạ, hắn thấy mình vét hết sạch tiền thiên hạ khi cá độ bóng đá...Nhưng rồi cuối cùng vận rủi cũng ghé thăm hắn và trong một buổi chiều lang thang nghĩ cách kiếm tiền trả nợ, hắn chợt khám phá ra một nghề, cũng rất nhàn hạ để kiếm tiền. Đó là nghề ăn trộm.*****Trong căn nhà nhỏ, ánh đèn yếu ớt, chiếu lên mặt người đàn ông hãy còn trẻ, đang nằm vắt tay lên trán trên giường. Chung quanh phòng bừa bộn, như đã lâu ngày thiếu đi bàn tay đàn bà chăm sóc. Trong căn phòng, sát tường là một kệ sách chất đầy, chứng tỏ là chủ nhân của nó là một người ham đọc sách. Giữa phòng là bộ bàn ghế mây sứt mẻ năm ba chỗ, giấy, sách và vài thứ linh tinh nữa vứt lăn lóc trên nền gạch. Đối diện với kệ sách là cái giường nhàu bẩn mà chủ nhân đang nằm thở dài.Anh vốn yêu thơ từ bé. Những vần thơ trữ tình lãng mạn của các nhà thơ nổi tiếng đã làm anh mê mẩn. Anh thả hồn theo gió, khi đọc thơ Xuân Diệu. Anh bồi hồi ngắm trăng, khi ngâm thơ Hàn Mặc Tử. Anh thao thức trăn trở, khi đọc thơ Giang Nam. Anh nghiến răng căm hờn, khi đọc thơ Tố Hữu...Rồi dần dần, anh cũng tập làm thơ. Anh cảm thấy thơ mình làm cũng hay, cũng trữ tình, sâu lắng, êm dịu, gào thét...như thơ của tiền nhân.Rồi cũng chẳng biết từ lúc nào, ai ai cũng gọi anh là nhà thơ. Anh lấy vợ cũng nhờ thơ. Vào lúc mới yêu anh, vợ anh cũng thổn thức, mơ màng trong những vần thơ anh sáng tác. Nàng nói với anh, nàng thật hạnh phúc vì yêu một nhà thơ và gật đầu một cái rụp, khi anh run run hỏi cưới nàng. Nhưng cuộc vui ngắn chẳng tày gang, tình yêu và hôn nhân là hai vấn đề hoàn toàn khác nhau. Đến lúc này anh chợt phát hiện ra, không thể ngâm thơ mà sống được. Anh phải kiếm ra tiền, nhưng mà hồi giờ anh chỉ biết làm thơ. Nghe lời bạn bè mách bảo, anh cũng ráng gom góp vay mượn để xuất bản những vần thơ. Anh nghĩ rằng thơ mình hay thế, chẳng mấy chốc sẽ nổi tiếng, tiền vào như nước.Đêm nằm anh mơ, anh đang ngâm thơ trong hội trường, khán giả vỗ tay ầm ầm, nhiều cô sụt sùi khóc, ánh đèn Flash chớp liên tục, trên các mặt báo tràn ngập hình của anh...Nhưng than ôi, thời buổi cơm áo gạo tiền, thơ anh nằm mốc meo trên kệ chẳng ai thèm để ý. Rồi sách mới về, người ta trả lại cho anh để lấy chỗ cho sách mới. Đôi ba lần như thế, vợ anh chán, bỏ anh mà đi. Đêm nay nằm buồn, anh lại muốn làm thơ. Trằn trọc mãi mà nàng thơ vẫn chưa tới, anh nhỏm dậy và trong lòng chợt quyết định ngày mai phải tạm gác thơ thẩn lại, anh sẽ cố gắng đi kiếm việc gì đó trước mắt đã. Gói kỹ những tập thơ vào một cái bọc, anh lẩm nhẩm :- Đây là tài sản quý nhất của mình.Tiếng của anh theo cơn gió lọt vào tai tên trộm. Mắt hắn bỗng sáng lên, khẽ mỉm cười.*****Trong căn phòng hoa lệ của một nhà hàng sang trọng, ông ngồi nhìn mọi người xung quanh bàn. Họ là những con người nổi tiếng và dù ít hay nhiều đều chịu ân huệ của ông. Hôm nay là ngày nghỉ, bọn họ cố mời ông đến đây để tỏ chút lòng thành. Ông cảm thấy mệt mỏi muốn từ chối, nhưng trước sự nhiệt thành thái quá của họ, cuối cùng ông đành phải nhận lời.Từ ngày Lãnh đạo giao việc mới cho ông, chuyển qua quản lý một công ty chuyên về văn hóa, ông cảm thấy bận đến bù đầu. Ông thích làm việc hành chánh hơn, công việc thì nhẹ nhàng, chẳng phải suy nghĩ gì nhiều mà lộc trời thì vẫn cứ đều đều, chỉ cần ký vài chữ là tiền cứ vào như nước. Bây giờ làm kinh doanh, phải quảng cáo, phải ký hợp đồng, phải...Ông cảm thấy thật mệt muốn chết đi được. Ông than với họ là mình nhức đầu và cáo lỗi xin về trước. Ngồi thoải mái trên xe, ông lim dim mắt cố tranh thủ ngủ một giấc. Xe đang ngon trớn chạy bon bon trên đường vắng, bỗng nhiên phanh kít lại làm cả người ông đổ về phía trước. Ông giật mình định mắng tay tài xế, thì tay tài xế quay lại nhìn ông mặt xanh mét như tàu lá chuối:- Chết rồi chú ơi, tai nạn rồi...- Mày mau mau ra coi nó có bị gì không? - Ông hét to. Ông cảm thấy bực cả mình. Hôm nay sao lại xúi quẩy đến thế? Chắc là phải tốn tiền cho những việc chẳng ra làm sao?Mở cánh cửa xe, ông từ từ bước xuống. Anh tài xế lúc này đang kéo một người đàn ông vào hè đường. Người đàn ông chân đi khập khiễng, miệng thì rên rỉ vì đau. Ông cất tiếng hỏi tay tài xế:- Nó có bị làm sao không?- Dạ thưa chú, may là cháu đã phanh kịp thời. Chắc là chỉ bị sơ sơ thôi. - Tay tài xế trả lời giọng mừng rỡ.Người đàn ông vẫn tiếp tục rên rỉ. Ông nhìn hắn với vẻ khinh bỉ. Móc bóp thảy cho hắn tờ 100 ngàn, ông nói như ra lệnh:- Chú mày cầm đỡ mua thuốc...- Chợt ông nhìn thấy một vài cuốn sách rớt ra từ trong bọc vải trước đầu xe. Ông quay lại hỏi hắn:- Sách của chú mày hả?- Dạ...- Hắn trả lời với vẻ mặt sững sờ, khi mắt hắn nhìn thấy cái bọc vỡ ra bên trong chỉ toàn là sách.Ông nhìn thấy cái bìa hơi đẹp, tò mò thò tay cầm một cuốn lên xem. Hóa ra đây là một tập thơ. Ông hỏi hắn giọng hơi dịu lại :- Chú mày đi bán sách ah?- Dạ...- Hắn trả lời giọng vẫn chưa hết thẫn thờ.Ông cảm thấy ngạc nhiên vô cùng. Thời buổi này mà có người ôm cả đống tập thơ đi bán. Chắc chắn đây là loại sách đang bán chạy. Máu kinh doanh trong người nổi lên, ông nói :- Cho chú 1 cuốn nha.- Dạ. - Hắn trả lời như mộng du.*****Tại phòng kinh doanh của một công ty văn hóa, tay trưởng phòng đang nôn nóng, đi đi lại lại. Anh đang rất sốt ruột ngóng chờ điện thoại của nhân viên. Đã mấy ngày nay, nhân viên của anh lùng sục khắp nơi, mục đích để kiếm tác giả của tập thơ mà Sếp đưa cho anh.Nhớ lại hôm đó, Sếp kêu anh lên rồi thảy cho anh tập thơ và bảo anh nghiên cứu xem thử. Nghiên cứu cái gì nữa trời? Từ tay của Sếp đưa ra, chắc chắn là phải có dây mơ rễ má gì đó với sếp. Bụng của Sếp đã ưa rồi thì còn gì mà bàn nữa, cứ thế mà làm thôi. Chuông điện thoại bỗng vang lên:- Alô, bọn em tìm được nhà hắn rồi. - Giọng nói vang lên mừng rỡ.Chỉ trong một thời gian ngắn, tên tuổi của nhà thơ mới, nổi lên như cồn trên văn đàn nước Việt. Hình ảnh nhà thơ với hai ngón tay giơ lên trời theo hình chữ V tràn ngập khắp các mặt báo. Người ta thấy đứng cạnh anh là một quan chức, nghe đâu là vì do ông hay đọc thơ, nên tình cờ phát hiện ra tài năng của anh. Thật là may mắn vô cùng cho thơ Việt, nếu không thì không chừng anh nhà thơ đi cá độ bóng đá và giới ăn trộm cũng có thể, lại có thêm một đồng nghiệp.*****Đêm nay trước ngôi nhà hai tầng khang trang của nhà thơ, vẫn đứng trong bóng tối hắn nhìn về phía cửa sổ hãy còn sáng đèn chờ đợi. Từ trong đó vọng ra tiếng cười vui vẻ của đàn bà, giọng người đàn bà vang lên:- Thôi đừng đếm nữa đi, lại đây với em nào...- Yên nào, để anh kiểm lại một lần nữa. Đối với anh bây giờ, đếm tiền là sảng khoái nhất...Mắt hắn trong bóng tối lại loé sáng. Hắn mỉm cười...
Mục lục
Nhà thơ, tên trộm và đại gia
Nhà thơ, tên trộm và đại gia
VanTienSinhChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.
Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.Đánh máy: Toctien1 Nguồn: Tác giả/ VNthuquan - Thư viện OnlineĐược bạn: Ct.Ly đưa lên vào ngày: 10 tháng 5 năm 2009
|
Nhiều tác gia
Nhà văn Tạ Duy Anh
Tác Giả - Tác Phẩm
Tạ Duy Anh (Các bút danh khác: Lão Tạ, Bình Tâm) * Tên khai sinh: Tạ Viết Dũng, sinh ngày 9 tháng 9 năm 1959. Quê: xã Hoàng Diệu, huyện Chương Mỹ, tỉnh Hà Tây. Tốt nghiệp khóa IV Trường Viết văn Nguyễn Du. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam (1993). * Tạ Duy Anh sau khi giải ngũ lên làm việc tại công trường thủy điện Hòa Bình, từ đó, anh viết văn. Tốt nghiệp trường Viết văn Nguyễn Du, anh ở lại trường làm cán bộ giảng dạy cho đến nay. * Tác phẩm đã xuất bản: Bước qua lời nguyền (tập truyện, 1990); Khúc dạo đầu (tiểu thuyết, 1991); Lão Khổ (tiểu thuyết, 1992); Hiệp sĩ áo cỏ (truyện vừa thiếu nhi, 1993); Luân hồi (tập truyện, 1994). * Nhà văn đã được nhận giải thưởng: Giải thưởng ngắn nông thôn (báo Văn nghệ, Nông nghiệp và Đài Tiếng nói Việt Nam tổ chức); Giải truyện ngắn của Tạp chí Văn nghệ Quân đội.
Mục lục
Nhà văn Tạ Duy Anh
Nhà văn Tạ Duy Anh
Nhiều tác giaChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.
Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: Binhthuân.gov.vnĐược bạn: Ct.Ly đưa lên vào ngày: 16 tháng 3 năm 2005
|
Many authors
Writer Ta Duy Anh
Author - Works
Ta Duy Anh (Other pen names: Lao Ta, Binh Tam) * Birth name: Ta Viet Dung, born September 9, 1959. Hometown: Hoang Dieu commune, Chuong My district, Ha Tay province. Graduated from course IV of Nguyen Du Writing School. Member of the Vietnam Writers Association (1993). * After being discharged from the army, Ta Duy Anh went to work at the Hoa Binh hydroelectric construction site, and since then, he has been writing. Graduating from Nguyen Du Writing School, he has stayed at the school to work as a teaching staff until now. * Published works: Stepping through the curse (story collection, 1990); The Prelude (novel, 1991); Old Misery (novel, 1992); The Knight in Grass Clothes (children's story, 1993); Reincarnation (collection of stories, 1994). * The writer has received awards: Rural Short Award (organized by Van Nghe, Agriculture and Voice of Vietnam newspapers); Short story award from Military Arts Magazine.
Table of contents
Writer Ta Duy Anh
Writer Ta Duy Anh
Many authorsWelcome to read books from the book project for mobile devicesSource: author: Nguyen Kim Vy.
Final words: Thank you for reading the entire story. Source: editor: Nguyen Kim Vy. Source: Binhthuan.gov.vn Posted by friend: Ct.Ly on: March 16, 2005
|
Thu Phong
Nhà văn Hans Christian Andersen
Tác Giả - Tác Phẩm
KỶ NIỆM 200 NĂM NGÀY SINH HANS CHRISTIAN ANDERSEN (02.04.1805 – 2005)
Cổ tích của thiên sứ
Hans Christian Andersen 1.Cách đây 200 năm, vào ngày 02.04.1805, có một người được sinh ra trong ngôi làng ngập tràn gió biển vùng Odense, dưới bầu trời đầy sao của xứ sở Đan Mạch xa xôi. Như một thiên sứ được gửi xuống trần gian để thực hiện sứ mệnh cứu rỗi loài người, người đó, ba chục năm sau đã trở thành một trong những người kể chuyện cổ tích hay nhất hành tinh: nhà văn Hans Christian Andersen. Bất chấp những khó khăn, bất hạnh và sự đối xử không công bằng của cuộc đời, Andersen đã mang đến thế giới này hàng trăm câu chuyện kể, những câu chuyện được viết nên từ một bộ óc thông minh, một trái tim nhân hậu và một cái nhìn hồn nhiên trong trẻo về cuộc sống. Những câu chuyện được viết nên với lòng yêu thương và "kính trọng" trẻ em, những câu chuyện mang niềm tin bất diệt về sức mạnh của điều thiện và sự chiến thắng của lòng nhân ái... Hai trăm năm đã trôi qua, biết bao thế hệ trẻ em của thế giới này đã được lớn lên bằng dòng sữa mẹ và ước mơ về một thế giới thần tiên mà Andersen đã tạo ra...Ở đó, con người sống với lòng dũng cảm của "chú lính chì", lòng nhân hậu của "bác sồi già", sự trung thực của "cô bé với đôi giày đỏ", tinh yêu của "nàng tiên cá" và niềm lạc quan, yêu đời của "chú hoạ mi". Ở đó, vạn vật trong vũ trụ, từ những nhành cây, chiếc lá, bông hoa đến chú vịt con xấu xí, bầy chuột đồng nghịch ngợm, cô thiên nga xinh đẹp...đều có linh hồn và tiếng nói, đều tồn tại cùng với con người trong một thế giới chung, một thế giới được "vận hành" theo quy luật của lòng nhân ái và điều thiện sẽ chiến thắng cái ác, sự bao dung và chính trực sẽ chiến thắng những lọc lừa... Hai trăm năm cũng đủ dài để loài người nhận ra rằng Andersen không chỉ là một nhà văn của trẻ thơ: ẩn chứa đằng sau mỗi câu chuyện cổ tích dành cho con trẻ của ông là một câu chuyện ngụ ngôn viết cho người lớn, những câu chuyện ngụ ngôn làm thức tỉnh con người, truyền cho họ niềm tin và sức mạnh...Có lẽ sẽ không là cường điệu khi nói rằng chính những câu chuyện cổ tích dành cho người lớn của Andersen đã góp phần đưa nhân loại vượt qua hai thế kỷ đầy biến động...Hãy yêu quý và tôn trọng trẻ em, hãy nuôi dưỡng sự hồn nhiên và lòng nhân ái, hãy yêu và nhìn thế giới này bằng trái tim và đôi mắt trẻ thơ...Đó chính là thông điệp mà Andersen cùng những câu chuyện cổ tích của mình muốn gửi đến cho nhân loại... Tượng Andersen được đặt trang trọng tại thành phố quê hương ông Odense, ông là công dân danh dự của thành phố này 2. Dường như có một mối liên hệ vô hình nhưng vô cùng chặt chẽ giữa con đường dẫn đến tội ác với quá trình đánh mất sự hồn nhiên và lòng nhân ái ở trẻ em. Phải chăng, những phát súng bắn vào thầy, bạn và những người thân của một học sinh Mỹ trong sự kiện chấn động dư luận gần đây đã được ươm mầm từ rất lâu trước đó, khi đứa trẻ có thể cảm thấy hoàn toàn thanh thản hoặc thậm chí là thích thú trong hành động bẻ gãy một cành cây hay dẫm đạp lên một con chó nhỏ? Phải chăng, những cuộc chiến tranh, những vụ thảm sát, những thảm hoạ tàn phá môi trường được tiến hành bởi những con người đã hoàn toàn không còn biết sợ và không tin vào bất cứ điều gì ngoài sức mạnh của cái cái ác? Và phải chăng, cùng với những tiến bộ công nghệ của thế kỷ 21, những thành tựu gây choáng ngợp về sức mạnh của vật chất và khơi dậy tham vọng trở thành bá chủ muôn loài, loài người đang dần dần lấy đi sự hồn nhiên của trẻ thơ và biến thế giới này thành một thế giới của những quan hệ vật chất khô khan giữa những người máy, một thế giới khi chú "chim họa mi" thánh thiện bị đuổi khỏi Hoàng cung để thay vào đó là một "con chim máy" với tiếng hót vô tri trong câu chuyện cổ tích "Chim hoạ mi" được Andersen viết ra như một lời cảnh báo cho nhân loại từ hơn trăm năm trước? Thế giới này sẽ ra sao khi trẻ con không được tôn trọng, bị "tước đoạt" sự hồn nhiên và bị "huỷ hoại" niềm tin cổ tích? Thế giới này sẽ ra sao nếu tất cả trẻ con đều không tin "ông già Noel", "bà chúa Tuyết", "nàng tiên Cá"... là có thật? Thế giới này sẽ ra sao nếu tất cả trẻ con đều không tin rằng muôn loài, hoa lá, cỏ cây cũng có linh hồn, cũng biết đớn đau và khát khao được sống? Và thế giới này sẽ ra sao khi những đứa trẻ con bị sớm thành người lớn đó trưởng thành và làm chủ hành tinh này? Tôi không phải là người quá bi quan để tin rằng những điều khủng khiếp trên sẽ xảy ra, nhưng tôi vẫn muốn nhân kỷ niệm lần thứ 200 ngày sinh của một con người đã dành trọn đời mình cho việc chăm sóc tâm hồn trẻ thơ và làm đẹp thế giới này để gửi tới mọi người một lời nhắn nhủ: "Nếu sự hồn nhiên và niềm tin vào điều thiện ở con người không còn nữa, thế giới này sẽ diệt vong. Khi đó, câu chuyện về lịch sử loài người trên trái đất sẽ trở thành một cổ tích buồn, một câu chuyện cổ tích mà chắc chắn Andersen không bao giờ muốn viết ra".
Mục lục
Nhà văn Hans Christian Andersen
Nhà văn Hans Christian Andersen
Thu PhongChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.
Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: Thu PhongĐược bạn: Ct.Ly đưa lên vào ngày: 12 tháng 5 năm 2005
|
Thu Phong
Writer Hans Christian Andersen
Author - Works
CELEBRATING THE 200TH BIRTH ANNIVERSARY OF HANS CHRISTIAN ANDERSEN (April 2, 1805 – 2005)
Fairy tales of angels
Hans Christian Andersen 1. 200 years ago, on April 2, 1805, a person was born in a village filled with sea breezes in Odense, under the starry sky of distant Denmark. Like an angel sent to earth to carry out a mission to save humanity, that person, thirty years later, became one of the best fairy tale tellers on the planet: writer Hans Christian Andersen. Despite the difficulties, misfortunes and unfair treatment of life, Andersen brought to this world hundreds of stories, stories written from an intelligent mind and a kind heart. and an innocent and clear view of life. Stories written with love and "respect" for children, stories carrying an eternal belief in the power of goodness and the victory of kindness... Two hundred years have passed, Countless generations of children in this world have been raised with mother's milk and the dream of a magical world that Andersen created... There, people live with the courage of "lead soldiers". ", the kindness of the "old oak", the honesty of the "little girl with the red shoes", the love of the "mermaid" and the optimism and love of life of the "nightingale". There, everything in the universe, from branches, leaves, flowers to the ugly duckling, the naughty field mice, the beautiful swan... all have souls and voices, they all exist. living together with humans in a common world, a world that is "operated" according to the laws of kindness and goodness will overcome evil, tolerance and integrity will overcome deception... Two hundred years is long enough for humans to realize that Andersen is not just a children's writer: hidden behind each of his children's fairy tales is a fable written for adults. fables awaken people, giving them faith and strength... Perhaps it would not be an exaggeration to say that it was Andersen's fairy tales for adults that contributed to bringing humanity beyond its limits. through two turbulent centuries...Love and respect children, nurture innocence and kindness, love and look at this world with the heart and eyes of a child...That is is the message that Andersen and his fairy tales want to send to humanity... Andersen's statue is solemnly placed in his hometown of Odense, he is an honorary citizen of this city 2. It seems There is an invisible but extremely close connection between the path to crime and the process of losing innocence and kindness in children. Could it be that the shots fired at the teacher, friends and relatives of an American student in a recent event that shocked public opinion were planted long before, when the child could feel completely at peace? Or even enjoy the act of breaking a tree branch or stepping on a small dog? Are the wars, massacres, and environmental disasters carried out by people who have completely lost fear and do not believe in anything but the power of evil? And perhaps, with the technological advances of the 21st century, the overwhelming achievements in the power of matter and the awakening of ambitions to become the ruler of all species, humanity is gradually losing its innocence. of children and turns this world into a world of dry material relationships between robots, a world when the holy "nightingale" is kicked out of the Royal Palace to be replaced by a "bird". mechanical bird" with a senseless song in the fairy tale "The Nightingale" written by Andersen as a warning to humanity more than a hundred years ago? What will this world be like when children are not respected, are "deprived" of their innocence and have their fairy tale beliefs "destroyed"? What would this world be like if all children did not believe that "Santa Claus", "Snow Queen", "Mermaid"... were real? What would this world be like if all children did not believe that all animals, flowers, plants and trees also have souls, know pain and desire to live? And what will this world be like when those precocious children grow up and take control of this planet? I am not too pessimistic to believe that these terrible things will happen, but I still want to celebrate the 200th birthday of a person who devoted his life to caring for the souls of children and beautify this world to send everyone a message: "If innocence and belief in goodness in humans are no longer there, this world will perish. Then, the story of human history on earth will become a sad fairy tale, a fairy tale that Andersen certainly never wanted to write."
Table of contents
Writer Hans Christian Andersen
Writer Hans Christian Andersen
Thu PhongWelcome you to read the titles from the book project for mobile devices. Source: author: Nguyen Kim Vy.
Final words: Thank you for reading the entire story. Source: editor: Nguyen Kim Vy. Source: Thu Phong Posted by friend: Ct.Ly on: May 12, 2005
|
nhiều tác giả
Nhà văn Hà Bình Nhưỡng
Tác Giả - Tác Phẩm
* Tên khai sinh: Hà Bình Dưỡng, sinh ngày 25.4.1935 tại xã Tây An, huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình. Hiện nay sống ở TPHCM. Tốt nghiệp đại học tổng hợp. Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam (1997) *Năm 1952, Hà Bình Nhưỡng nhập ngũ. Ba mươi chín năm trong quân đội, từ đầu làm y tá sau chuyển sang làm công tác chính trị và sau này là Trưởng phòng biên tập ký sự lịch sử Quân chủng Phòng không - Không quân. Với quân hàm đại tá, ông về hưu sống và viết tại TP Hồ Chí minh. * Tác phẩm đã xuất bản: - Những cánh chim đại bàng (truyện ký, in chung với Hữu Mai, 1977); Đường chỉ đỏ (truyện, in chung với Tô Đức Chiêu, 1980); Đến với bầu trời (truyện, 1984); Cánh én mùa xuân (truyện, 1995); Đường vào mặt trận trên cao (truyện, 1995); Tầm cao lòng mẹ (truyện, 1997)... * Nhà văn đã nhận được Giải B văn học nghệ thuật Nguyễn Khuyến tỉnh Nam Hà năm 1996 với tập Cánh én mùa xuân.
Mục lục
Nhà văn Hà Bình Nhưỡng
Nhà văn Hà Bình Nhưỡng
nhiều tác giảChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.
Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: bạn: Ct.Ly đưa lên vào ngày: 9 tháng 4 năm 2005
|
many authors
Writer Ha Binh Nhuong
Author - Works
* Birth name: Ha Binh Duong, born on April 25, 1935 in Tay An commune, Tien Hai district, Thai Binh province. Currently living in Ho Chi Minh City. Graduated from general university. Member of the Communist Party of Vietnam. Member of the Vietnam Writers Association (1997) *In 1952, Ha Binh Nhuong joined the army. Thirty-nine years in the military, first working as a nurse, then moving to political work and later becoming the Chief of the Editorial Department of historical records of the Air Defense - Air Force. With the rank of colonel, he retired to live and write in Ho Chi Minh City. * Published works: - Eagle wings (story, published with Huu Mai, 1977); The Red Line (story, published with To Duc Chieu, 1980); Coming to the Sky (story, 1984); Swallow Wings of Spring (story, 1995); Road to the High Front (story, 1995); The height of a mother's womb (story, 1997)... * The writer received the Nguyen Khuyen Literature and Art Prize of Nam Ha province in 1996 with the book Spring Swallow.
Table of contents
Writer Ha Binh Nhuong
Writer Ha Binh Nhuong
many authorsWelcome to read books from the book project for mobile devicesSource: author: Nguyen Kim Vy.
Final words: Thank you for reading the entire story. Source: editor: Nguyen Kim Vy. Source: friend: Ct.Ly posted on: April 9, 2005
|
Nhiều tác gia
Nhà văn Hà Ân
Tác Giả - Tác Phẩm
Hà Ân * Tên khai sinh: Hoàng Hiển Mô, sinh ngày 16 tháng 1 năm 1928. Quê quán: Hà Nội. Nơi ở hiện nay: 24 Nguyễn Quang Bích, Hà Nội. Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam. Tốt nghiệp Đại học Sư phạm Hà Nội (ngành Sử). Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. * Hà Ân là chiến sĩ Trung đoàn Thủ Đô Liên khu I (1947), Trưởng ty Hoa kiều vụ tỉnh Lao Cai (1948), cán bộ hậu địch Hà Nội (1950), giáo viên Văn hóa Trường Quân y và Hậu cần (1955), chuyên viên nghiên cứu Viện bảo tàng Quân đội (từ 1964). Năm 1967 chuyển về làm cán bộ sáng tác Hội Văn nghệ Hà Nội, rồi biên tập viên Nhà xuất bản Hà Nội cho đến khi nghỉ hưu (1990). * Tác phẩm đã xuất bản: Tướng quân Nguyễn Chích (truyện lịch sử, 1962); Quận He khởi nghĩa (tiểu thuyết lịch sử, 1963); Nguyễn Trung Trực (truyện lịch sử, 1964); Phú Riềng đỏ (truyện lịch sử, 1965); Bên bờ Thiên Mạc (truyện lịch sử, 1967); Tổ quốc kêu gọi (tiểu thuyết lịch sử, 1973); Trên sông thuyền hịch (truyện lịch sử, 1980); Lưỡi gươm nhân ái (truyện lịch sử, 1981); Ông Trạng thả diều (truyện lịch sử, 1982); Cái chum vàng (truyện lịch sử, 1986); Vụ án trầu cánh phượng (truyện lịch sử, 1990); Kho báu gốc Hoàng Đàn (truyện lịch sử, 1993); Mùa chim ngói (truyện ngắn, 1995). Ngoài ra còn một số kịch bản phim hoạt hình, biên soạn sách giáo khoa phổ thông. - Nhà văn đã được nhận: Giải C, giải thưởng Văn học thành phố Hà Nội (tiểu thuyết lịch sử: Người Thăng Long), Giải A về Văn học thiếu nhi của Trung ương Đoàn (truyện lịch sử Lưỡi gươm nhân ái), Giải Bồ câu vàng 1970 (kịch bản Ông Trạng thả diều) và Giải khuyến khích 1973 (kịch bản Ngựa thần Tây Sơn) trong giải thưởng Liên hoan phim hoạt hình Quốc gia.
Mục lục
Nhà văn Hà Ân
Nhà văn Hà Ân
Nhiều tác giaChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.
Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: Bình thuận. gov.vnĐược bạn: Ct.Ly đưa lên vào ngày: 16 tháng 3 năm 2005
|
Many authors
Writer Ha An
Author - Works
Ha An * Birth name: Hoang Hien Mo, born January 16, 1928. Hometown: Hanoi. Current residence: 24 Nguyen Quang Bich, Hanoi. Member of the Communist Party of Vietnam. Graduated from Hanoi University of Education (major in History). Member of the Vietnam Writers Association. * Ha An is a soldier of the Capital Inter-Region Regiment I (1947), Head of the Overseas Chinese Department of Lao Cai Province (1948), a post-enemy officer in Hanoi (1950), and a Culture teacher at the School of Military Medicine and Logistics (1948). 1955), research specialist at the Military Museum (since 1964). In 1967, he moved back to work as a creative officer of the Hanoi Arts Association, then editor of the Hanoi Publishing House until his retirement (1990). * Published works: General Nguyen Chich (historical story, 1962); Uprising in He District (historical novel, 1963); Nguyen Trung Truc (historical story, 1964); Red Phu Rieng (historical story, 1965); On the banks of Thien Mac (historical story, 1967); The Fatherland Calls (historical novel, 1973); On the River, the Boat (Historical Story, 1980); The Sword of Mercy (historical story, 1981); Mr. Trang flies a kite (historical story, 1982); The Golden Jar (historical story, 1986); The betel and phoenix wing case (historical story, 1990); The original treasure of Hoang Dan (historical story, 1993); The season of tiled birds (short story, 1995). There are also a number of cartoon scripts and compilations of high school textbooks. - The writer has received: C Prize, Hanoi City Literature Award (historical novel: People of Thang Long), A Prize in Children's Literature from the Central Youth Union (historical story The Sword of Mercy), Golden Dove Award 1970 (scenario Mr. Trang flies a kite) and Consolation Prize 1973 (script Tay Son Magic Horse) in the National Animation Festival award.
Table of contents
Writer Ha An
Writer Ha An
Many authorsWelcome to read books from the book project for mobile devicesSource: author: Nguyen Kim Vy.
Final words: Thank you for reading the entire story. Source: editor: Nguyen Kim Vy. Source: Binh Thuan. gov.vn Posted by: Ct.Ly on: March 16, 2005
|
nhiều tác giả
Nhà Văn Hữu Mai
Tác Giả - Tác Phẩm
(Bút danh khác: Trần Mai Nam) * Tên khai sinh: Trần Hữu Mai, sinh năm 1926, tại thành phố Thanh Hóa. Quê gốc: thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định. Hiện ở Hà Nội. Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam (1957). * Nhà văn Hữu Mai là con một gia đình viên chức nhỏ, ở thành phố, thời học trung học, còn phải kèm cặp, dạy chữ cho trẻ con. Kháng chiến toàn quốc ông tham gia tự vệ thành, chiến đấu ở Hà Nội. Rồi vào bộ đội, phụ trách báo Quân Tiên Phong (báo của đại đoàn 308), tham gia nhiều chiến dịch lớn, trong đó có chiến dịch Điện Biên Phủ (1954). Năm 1956, ông chuyển về tham gia thành lập rồi làm biên tập viên tạp chí Văn nghệ quân đội, Trưởng phòng Văn nghệ Quân đội. Năm 1983, chuyển ngành sang Hội Nhà văn với cấp Đại tá, là ủy viên thường trực Ban chấp hành Hội khóa III, khóa IV, thành viên của Hiệp hội Quốc tế những nhà văn viết truyện trinh thám (AIEF, thành lập tại Mêhicô 1989). * Tác phẩm đã xuất bản: Những ngày bão táp (tiểu thuyết, 1957); Cao điểm cuối cùng (tiểu thuyết, 1960), Dải đất hẹp (kt1 sự, 1968); Vùng trời (tiểu thuyết, 3 tập, 1971, 1975, 1980); Trận đánh cuối cùng (ký sự. 1977); Đất nước (tiểu thuyết, 1984); Ông cố vấn (tiểu thuyết, 3 tập 1988, 1989); Là người việt những hồi ức của Đại tướng Võ Nguyên Giáp: Từ Nhân dân mà ra, Những năm tháng không thể nào quên, Chiến đấu trong vòng vây, Những chặng đường lịch sử, Một vài hồi ức về Điện Biên Phủ... Là tác giả kịch bản của các bộ phim như Hoa ban đỏ, Ông cố vấn, Cao điểm cuối cùng... - Ông đã nhận được giải thưởng văn học Bộ Quốc phòng (1989), với bộ tiểu tuyết Ông cố vấn; Giải A văn xuôi Hội Nhà văn (1990) cho tác phẩm cùng tên.
Mục lục
Nhà Văn Hữu Mai
Nhà Văn Hữu Mai
nhiều tác giảChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.
Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: Thái NhiĐược bạn: Ct.Ly đưa lên vào ngày: 29 tháng 3 năm 2005
|
many authors
Writer Huu Mai
Author - Works
(Another pen name: Tran Mai Nam) * Birth name: Tran Huu Mai, born in 1926, in Thanh Hoa city. Original hometown: Nam Dinh city, Nam Dinh province. Currently in Hanoi. Member of the Communist Party of Vietnam, Member of the Vietnam Writers Association (1957). * Writer Huu Mai is the son of a small official family in the city. During high school, he had to tutor and teach literacy to children. In the national resistance, he participated in self-defense and fought in Hanoi. Then he joined the army and was in charge of the Quan Tien Phong newspaper (newspaper of the 308th regiment), participating in many major campaigns, including the Dien Bien Phu campaign (1954). In 1956, he moved back to join the establishment and became editor of the Military Arts magazine, Head of the Military Arts Department. In 1983, he transferred to the Writers' Association with the rank of Colonel, was a standing member of the Association's Executive Committee, terms III and IV, and a member of the International Association of Detective Writers (AIEF, founded in Mexico). 1989). * Published works: Stormy Days (novel, 1957); The Last Peak (novel, 1960), Narrow Strip (kt1 su, 1968); The Sky (novel, 3 volumes, 1971, 1975, 1980); The Last Battle (record. 1977); The Country (novel, 1984); The Counselor (novel, 3 volumes, 1988, 1989); As a Vietnamese, the memories of General Vo Nguyen Giap: Born from the People, Unforgettable years, Fighting in the siege, Historical journeys, Some memories of Dien Bien Phu... He is the scriptwriter of films such as Red Rose, The Counselor, The Final Peak... - He received the Ministry of National Defense literary award (1989), with the novel The Counselor; Prize A in prose of the Writers' Association (1990) for the work of the same name.
Table of contents
Writer Huu Mai
Writer Huu Mai
many authorsWelcome to read books from the book project for mobile devicesSource: author: Nguyen Kim Vy.
Final words: Thank you for reading the entire story. Source: editor: Nguyen Kim Vy. Source: Thai Nhi Posted by friend: Ct.Ly on: March 29, 2005
|
nhiều tác giả
Nhà Văn Lê Thành Chơn
Tác Giả - Tác Phẩm
Tiểu sử
Các bút danh khác: Lê Thanh Tông, Thành Ngọc* Tên khai sinh: Lê Thành Chơn, đồng thời là bút danh. Ông sinh ngày 23 tháng 3 năm 1938, tại xã Tấn Mỹ, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang. Nơi ở hiện nay: quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh. Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam. Lê Thành Chơn đã tốt nghiệp đại học Tổng hợp chuyên ngành Vật lý. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam (1997). * Xuất thân trong gia đình nông dân vùng đồng bằng sông Cửu Long, năm 1952 Lê Thành Chơn nhập ngũ và suốt 31 năm gắn bó với quân đội, trải qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Ông đã từng là lính bộ binh (sư đoàn 338); sĩ quan hoa tiêu bay tiêm kích của Không quân Nhân dân Việt Nam. Năm 1983, ông chuyển ngành theo học quản lý kinh tế rồi làm chuyên viên Ban tổ chức thành ủy, từ 1989 làm Giám đốc, rồi Chủ tịch Hội đồng Quản trị khách sạn Sài Gòn tại thành phố Hồ Chí Minh * Nhà văn đã cho xuất bản các tác phẩm: Đọ cánh (tiểu thuyết, 1990); Anh hùng trên chín tầng mây (truyện ký, 1994); Duyên thơ (thơ, in chung, 1995); Thơ chọn lọc (in chung, 1995); Như muôn vàn người lính (tập truyện ký, in chung, 1996); tham gia viết và dàn dựng một số vở kịch về đề tài người chiến sĩ không quân, trong đó có vở: Bầu trời và mặt đất. - Giải thưởng văn học: Tập truyện ký Anh hùng trên chín tầng mây đã được nhận Giải thưởng của Ban Văn học Quốc phòng - An ninh, Hội Nhà văn Việt Nam (1996).
nhiều tác giả
Nhà Văn Lê Thành Chơn
Tác Giả - Tác Phẩm
Lê Thành Chơn và những trang viết về anh hùng liệt sĩ
Nhà văn Lê Thành Chơn có nhiều tác phẩm viết về anh hùng liệt sĩ hấp dẫn như Ðo cánh với máy bay Mỹ, Anh hùng trên chín tầng mây, Người anh hùng chưa được tuyên dương, Hoàng tử của bầu trời, Tầm cao... trong đó hầu hết các nhân vật của anh là những phi công của Binh chủng không quân VN Anh hùng. Nhà văn Lê Thành Chơn, nguyên là sĩ quan không quân có mặt trong hàng trăm trận đánh với nhiệm vụ là sĩ quan dẫn đường cho phi công của ta tiến công địch. Nhân vật chủ yếu trong các tác phẩm của Lê Thành Chơn là những cán bộ, chiến sĩ không quân VN và đối trọng là những phi công Mỹ đông gấp nhiều lần. Ðặc biệt, Lê Thành Chơn dành ngòi bút của mình để đặc tả những chiến sĩ đã hy sinh anh dũng trong các trận đánh trên bầu trời với giặc Mỹ suốt cả cuộc chiến tranh phá hoại từ 1965 đến hết năm 1972. Ðó là Ngô Ðức Mai đã bắn rơi đại tá phi công Mỹ ở Hòa Lạc (Hà Tây), là các liệt sĩ Vũ Xuân Thiều đã lái máy bay đâm thẳng vào máy bay Mỹ, là Nguyễn Văn Bảy (B) đã đánh vào hạm đội 7 của Mỹ và bắn tan máy bay Mỹ trên bầu trời miền bắc, và Võ Văn Mẫn, Ðồng Văn Ðe, Nguyễn Phi Hùng, Phạm Thành Chung cùng nhiều liệt sĩ khác đã chiến đấu dũng cảm, lập nên nhiều chiến công hiển hách và đã anh dũng hy sinh. Nhà văn Lê Thành Chơn đã dành tất cả tình cảm và bút lực của mình miêu tả những hành động cao cả của các liệt sĩ không quân. Bằng tư liệu chính xác anh ghi được, bằng những cuộc tiếp xúc với đồng đội lúc các liệt sĩ còn sống và bằng những tư liệu tìm hiểu từ thân nhân gia đình các liệt sĩ, Lê Thành Chơn đã dựng nên những hình tượng nhân vật có thật hết sức sinh động. Lê Thành Chơn cho biết, anh vừa hoàn thành tuyển Tia chớp giữa bầu trời, NXB Trẻ TP Hồ Chí Minh đã in xong, trong đó nhiều nhân vật là những chiến sĩ không quân đã lập nhiều chiến công và đã hy sinh dũng cảm. Anh cũng cho biết thêm là sẽ tiếp tục viết về đề tài này cho đến năm 2010. Theo Tuổi trẻ, số ngày 27/07/04
Mục lục
Tác Giả - Tác Phẩm
Tác Giả - Tác Phẩm
Nhà Văn Lê Thành Chơn
nhiều tác giảChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.
Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: Thái NhiĐược bạn: Ct.Ly đưa lên vào ngày: 1 tháng 4 năm 2005
|
many authors
Writer Le Thanh Chon
Author - Works
Story
Other pen names: Le Thanh Tong, Thanh Ngoc* Birth name: Le Thanh Chon, also a pen name. He was born on March 23, 1938, in Tan My commune, Cho Moi district, An Giang province. Current residence: Tan Binh district, Ho Chi Minh city. Member of the Communist Party of Vietnam. Le Thanh Chon graduated from General University with a major in Physics. Member of the Vietnam Writers Association (1997). * Coming from a family of farmers in the Mekong Delta, in 1952 Le Thanh Chon joined the army and spent 31 years with the army, going through two resistance wars against the French and the Americans. He was an infantry soldier (Division 338); fighter navigator of the Vietnam People's Air Force. In 1983, he changed his major to study economic management and then worked as an expert in the City Party Committee's Organizing Committee, from 1989 as Director, then Chairman of the Board of Directors of the Saigon Hotel in Ho Chi Minh City * The writer gave published works: Do Wings (novel, 1990); Hero on Cloud Nine (novel, 1994); Duyen poetry (poetry, published in general, 1995); Selected Poems (general edition, 1995); Like countless soldiers (collection of memoirs, published together, 1996); Participated in writing and staging a number of plays on the theme of air force soldiers, including the play: Sky and Earth. - Literary award: The story collection Hero on Cloud Nine received an award from the Department of National Defense and Security Literature, Vietnam Writers Association (1996).
many authors
Writer Le Thanh Chon
Author - Works
Le Thanh Chon and pages about heroic martyrs
Writer Le Thanh Chon has many fascinating works about heroic martyrs such as Wings with American planes, Heroes on cloud nine, Unrecognized heroes, Prince of the sky, High range... Most of his characters are pilots of the Heroic Vietnam Air Force. Writer Le Thanh Chon, a former air force officer, was present in hundreds of battles with the task of guiding our pilots to attack the enemy. The main characters in Le Thanh Chon's works are the officers and soldiers of the Vietnamese air force, and their counterparts are many times more numerous American pilots. In particular, Le Thanh Chon devoted his pen to describing the soldiers who sacrificed heroically in battles in the sky with the American enemy throughout the war of sabotage from 1965 to the end of 1972. That was Ngo Duc Mai shot down an American pilot colonel in Hoa Lac (Ha Tay), martyrs Vu Xuan Thieu flew a plane straight into an American plane, and Nguyen Van Bay (B) attacked the US 7th fleet. and shot down American planes in the northern sky, and Vo Van Man, Dong Van De, Nguyen Phi Hung, Pham Thanh Chung and many other martyrs fought bravely, accomplished many glorious victories and were heroic. sacrifice. Writer Le Thanh Chon spent all his love and pen to describe the noble actions of the air force martyrs. With accurate documents he recorded, through contacts with comrades while the martyrs were still alive and with information from the martyrs' family members, Le Thanh Chon created character images. It's really very vivid. Le Thanh Chon said that he had just completed the anthology Lightning in the Sky, Ho Chi Minh City Youth Publishing House had finished printing it, in which many of the characters were air force soldiers who had accomplished many feats and sacrificed bravely. He also added that he will continue to write about this topic until 2010. According to Tuoi Tre, issue dated July 27, 2004.
Table of contents
Author - Works
Author - Works
Writer Le Thanh Chon
many authorsWelcome to read books from the book project for mobile devicesSource: author: Nguyen Kim Vy.
Final words: Thank you for reading the entire story. Source: editor: Nguyen Kim Vy. Source: Thai Nhi Uploaded by friend: Ct.Ly on: April 1, 2005
|
nhiều tác giả
Nhà văn Nguyên Hùng
Tiểu sử
Tên khai sinh: Mạc Đăng Thân, sinh ngày 19 tháng 4 năm 1927. Quê gốc: Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp. Hiện sống ở quận Phú Nhuận, thành phố Hồ Chí Minh. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam (1993) Nguyên Hùng sống bằng nghề viết báo, viết văn và dịch thuật. Thông thạo nhiều ngoại ngữ: Anh, Pháp, Đức. Những tác phẩm chính: Người Bình Xuyên (tiểu thuyết tư liệu in, 1985, tái bản 1988); Sư thúc Hòa Hảo (tiểu thuyết tư liệu, 1990); Đường xuyên Tây (tiểu thuyết tư liệu); Nữ kiệt miền Tây (truyện tư liệu về tình báo, 1992); Đệ nhất cù lao (tiểu thuyết tư liệu, 1995); Qua bến (tiểu thuyết tư liệu về thi tướng Huỳnh Văn Nghệ, 1995); Nguyễn Bình-Huyền thoại và sự thật (tiểu thuyết tư liệu, 1995) Giải thưởng văn học: Bót cầu sắt (kịch ngắn) giải thưởng Hội Nghệ sĩ sân khấu Việt nam năm 1977; Chuyện tình Bảy Núi (kịch nói do Đinh Bằng Phi chuyển hát tuồng), Giải thưởng Hội sân khấu thành phố, Giải thưởng Hội Nghệ sĩ sân khấu Việt Nam 1995; Món quà vô giá (truyện ngắn) giải thưởng Hội Nhà văn thành phố (1980); Nguyễn Bình-huyền thoại và sự thật, giải thưởng về cuộc thi tiểu thuyết hay do Báo Công an thành phố và Hội Nhà văn thành phố Hồ Chí Minh tổ chức. Ông mất ngày 28 tháng 3 năm 2005.
nhiều tác giả
Nhà văn Nguyên Hùng
Vĩnh biệt tác giả " Người Bình Xuyên )
Nhà văn Nguyên Hùng đã ra đi ở tuổi 78, sau một tai nạn giao thông phải nằm viện mấy ngày. Bạn bè khắp nơi tiếc nuối một nhà văn nổi tiếng với những trang viết về các nhân vật giang hồ đặc biệt ở Nam Bộ. Lịch sử thời kháng Pháp ghi nhận sự xuất hiện của những Bảy Viễn, Ba Cụt, Mười Trí, Năm Lửa, Huỳnh Văn Nghệ, Nguyễn Bình, những chi đội Bình Xuyên, tôn giáo Hòa Hảo... từng làm nên một mảng lớn trong lịch sử phong trào nổi dậy của nhân dân miền Nam. Lịch sử cũng ghi nhận cái tên Nguyên Hùng, người luôn tìm tòi, viết lại những trang sách, có khi là tiểu thuyết, chứa đầy thông tin như một tập ký về các nhân vật đặc biệt kia. Tình người Nam Bộ chứa đựng nhiều trong từng trang viết của nhà văn Nguyên Hùng. Ông viết về các nhân vật giang hồ đặc biệt của miền Nam. Trong một góc độ nhìn nhận, đây có thể là những nhân vật có cuộc đời, hành trang khá “tế nhị” trong một giai đoạn lịch sử rất phức tạp của đất nước. Nhưng Nguyên Hùng không lập ngôn lập thuyết, mà ngòi bút của ông đi sâu vào tâm lý tình cảm, khía vào đúng khí chất hào sảng đặc biệt của người Nam Bộ, lại là giang hồ Nam Bộ. Năm Lửa với khẩu khí giang hồ bến xe, Mười Trí với hành động của người muốn “đội đá vá trời”, Bảy Viễn - tay thủ lĩnh với rất nhiều cá tính... đến những nhân vật cách mạng như Nguyễn Bình, Huỳnh Văn Nghệ, cũng một tay Nguyên Hùng tìm tư liệu và khắc họa thành công. Các tác phẩm của ông được rất nhiều thế hệ bạn đọc đón nhận với sự thích thú, trân trọng. Cuộc đời Nguyên Hùng là một kho tư liệu, tích lũy được rất nhiều qua quá trình sưu tập tư liệu để sáng tác. Thế mà, ông chỉ kịp viết có hai tập tạm coi là hồi ký: Chiến khu D của tôi và Chém vè giữa làng báo Sài Gòn. Dịp 30/4 năm nay, NXB Công An Nhân Dân đang tái bản một loạt tác phẩm của ông với tủ sách Tuyển tập Nguyên Hùng gồm các tựa: Tà Lài tụ nghĩa, Người Bình Xuyên, Bảy Viễn - thủ lĩnh Bình Xuyên, Nguyễn Bình - huyền thoại và sự thật, Dương Quang Đông xuyên Tây, Thi tướng chiến khu xanh, Ung Văn Khiêm - anh Ba nội vụ, Công tử Bạc Liêu, Chiến khu D của tôi, Chém vè giữa làng báo Sài Gòn. Nhà văn đã không kịp nhìn thấy sách mình ra mắt nhân dịp 30 năm thống nhất đất nước. Bạn bè tiếc cho ông, người thân tiếc cho ông, NXB Công An Nhân Dân cũng lấy làm tiếc khi bộ sách Nam Bộ kháng chiến ông định viết ba tập nhưng mới xong tập đầu. Một bộ sách dự định sẽ rất thú vị nữa là Năm Lửa - lãnh chúa miền Tây cũng được ông “hứa” sẽ hoàn tất trong năm nay, cuối cùng lại phải bỏ dở lúc sắp hoàn thành.
Mục lục
Tiểu sử
Vĩnh biệt tác giả " Người Bình Xuyên )
Nhà văn Nguyên Hùng
nhiều tác giảChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.
Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: Tuoitre ( Thái Nhi )Được bạn: Ct.Ly đưa lên vào ngày: 30 tháng 3 năm 2005
|
many authors
Writer Nguyen Hung
Story
Birth name: Mac Dang Than, born April 19, 1927. Hometown: Cao Lanh, Dong Thap province. Currently living in Phu Nhuan district, Ho Chi Minh City. Member of the Vietnam Writers Association (1993) Nguyen Hung makes a living as a journalist, writer and translator. Fluent in many foreign languages: English, French, German. Main works: People of Binh Xuyen (printed documentary novel, 1985, republished 1988); Master Uncle Hoa Hao (documentary novel, 1990); Road Through the West (documentary novel); The Western Masterpiece (documentary story about intelligence, 1992); The First Island (documentary novel, 1995); Crossing the wharf (documentary novel about poet General Huynh Van Nghe, 1995); Nguyen Binh-Legend and truth (documentary novel, 1995) Literary award: Iron bridge (short play) Vietnam Theater Artists Association award in 1977; Seven Mountains Love Story (a drama performed by Dinh Bang Phi), City Theater Association Award, Vietnam Theater Artists Association Award 1995; Priceless gift (short story) City Writers Association award (1980); Nguyen Binh - legend and truth, prize in the good novel contest organized by the City Police Newspaper and the Ho Chi Minh City Writers Association. He died on March 28, 2005.
many authors
Writer Nguyen Hung
Farewell to the author of "People of Binh Xuyen"
Writer Nguyen Hung passed away at the age of 78, after a traffic accident that required him to be hospitalized for several days. Friends everywhere mourn a writer famous for his writings about gangster characters, especially in the South. The history of the French resistance period records the appearance of the Bay Vien, Ba Cut, Muoi Tri, Nam Lua, Huynh Van Nghe, Nguyen Binh, Binh Xuyen detachments, Hoa Hao religion... each creating a large area. in the history of the Southern people's uprising movement. History also records the name Nguyen Hung, who always researched and rewrote pages of books, sometimes novels, filled with information like a memoir about those special characters. The love of Southern people is contained in every page of writer Nguyen Hung's writing. He writes about special gangster characters of the South. From one perspective, these may be characters with quite "delicate" lives and journeys in a very complex historical period of the country. But Nguyen Hung does not make up arguments, but his pen goes deep into the psychology and emotions, focusing on the special generous temperament of Southern people, and Southern gangsters. Nam Lua with his gangster voice at the bus station, Muoi Tri with the actions of someone who wants to "wear rocks and patch the sky", Bay Vien - a leader with many personalities... to revolutionary figures like Nguyen Binh, Huynh Van Nghe and Nguyen Hung also found materials and successfully portrayed it. His works have been received with interest and respect by many generations of readers. Nguyen Hung's life is a treasure trove of documents, accumulated a lot through the process of collecting documents for writing. However, he only had time to write two volumes that can be considered memoirs: My War Zone D and Slashing in the Saigon Journalism Village. On the occasion of April 30 this year, People's Public Security Publishing House is republishing a series of his works with the Nguyen Hung Collection bookshelf including titles: Ta Lai Gathering Nghia, People of Binh Xuyen, Bay Vien - leader of Binh Xuyen, Nguyen Binh - legend and truth, Duong Quang Dong through West, Poet general of the green war zone, Ung Van Khiem - Mr. Ba of internal affairs, Prince of Bac Lieu, my War Zone D, Slashing in the middle of the Saigon newspaper village. The writer did not have time to see his book released on the occasion of 30 years of national reunification. His friends felt sorry for him, his relatives felt sorry for him, and Cong An Nhan Dan Publishing House also felt sorry that he intended to write three volumes of the Southern Resistance book but had only finished the first volume. Another book series that was intended to be very interesting is the Year of Fire - Western Lords, which he also "promised" would be completed this year, but in the end he had to abandon it when it was about to be completed.
Table of contents
Story
Farewell to the author of "People of Binh Xuyen"
Writer Nguyen Hung
many authorsWelcome to read books from the book project for mobile devicesSource: author: Nguyen Kim Vy.
Final words: Thank you for reading the entire story. Source: editor: Nguyen Kim Vy. Source: Tuoitre (Thai Nhi) Posted by friend: Ct.Ly on: March 30, 2005
|
Phạm Thành Chung
Nhà văn Nguyễn Minh Châu: Tên thực ứng với đời thực?
Trái ngược với cái tên Minh Châu "đẹp như mộng", thuở mới lọt lòng, nhà văn tài năng của chúng ta đã được các cụ thân sinh đặt cho cái tên thậm xấu: Nguyễn Thí. Vâng, Nguyễn Thí, vì đó là đứa con "thêm nếm" (tức con út) mà các cụ được Trời Phật ban cho.Minh Châu là một cái tên thật đẹp. Có lẽ vì vậy mà trong kỷ yếu "Nhà văn Việt Nam hiện đại" xuất bản lần gần đây nhất, hai chữ này đã xuất hiện trong bút danh của... bốn nhà văn, gắn với bốn cái họ khác nhau: họ Nguyễn, họ Hoàng, họ Nông, họ Tạ. Trong đó, ông Minh Châu họ Nguyễn được giới văn học nhắc tới nhiều hơn cả. Kể thì cũng dễ hiểu: Trong "tứ trụ Minh Châu" nói trên, đến nay Nguyễn Minh Châu vẫn là nhà văn duy nhất đoạt giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học - nghệ thuật.Thế nhưng, trong một lần trò chuyện với bà Nguyễn Thị Doanh, quả phụ của nhà văn Nguyễn Minh Châu, tôi đã thực sự bất ngờ khi được biết rằng: Trái ngược với cái tên Minh Châu "đẹp như mộng" ấy, thuở mới lọt lòng, nhà văn tài năng của chúng ta đã được các cụ thân sinh đặt cho cái tên thậm xấu: Nguyễn Thí. Vâng, Nguyễn Thí, vì đó là đứa con "thêm nếm" (tức con út) mà các cụ được Trời Phật ban cho. Còn vì sao sinh trưởng trong một gia đình khá giả mà ông lại bị cha mẹ đặt cho cái tên đáng ngán ngẩm như vậy? "Thì cũng là cách đặt tên cho dễ nuôi như quan niệm của phần đông dân ta khi ấy"- bà Doanh giải thích.Cũng theo bà Doanh cho biết: Chỉ đến khi Nguyễn Thí đến tuổi đi học, bố mẹ ông mới tìm cách đặt lại tên cho ông (là Minh Châu). Như vậy, cái tên Minh Châu không phải do nhà văn chọn lựa khi cầm bút viết văn. Không biết có phải do mặc cảm với cái tên Nguyễn Thí bố mẹ đặt cho từ thuở lọt lòng mà bình sinh, ông nhà văn vốn dĩ có nhiều độc giả này lại rất e ngại khi phải đối mặt với... đám đông. Trong những ghi chép cuối cùng (có tên gọi "Ngồi buồn viết mà chơi") được thực hiện trong những ngày nằm điều trị tại Viện Quân y 108, Nguyễn Minh Châu tự nhận xét: "Từ lúc còn nhỏ tôi đã là một thằng bé rụt rè và vô cùng nhút nhát. Tôi sợ từ con chuột nhắt cho đến ma quỷ. Sau này lớn lên, đến gần sáu chục tuổi, đến một nơi đông người tôi chỉ muốn lẻn vào một xó khuất và chỉ có như thế mới cảm thấy được yên ổn và bình tâm như con dế đã chui tọt vào lỗ".Nhà phê bình văn học Vương Trí Nhàn từng kể (trong sách "Nghiệp văn" - NXB Văn hóa - Thông tin, 2001), quãng năm 1973, 1974 gì đó, vào độ giáp Tết, Nguyễn Minh Châu không may bị bệnh phải đi nằm viện. Khi ông hồi phục, ra viện thì cũng vừa hay… hết Tết. Trái ngược với tâm trạng của bạn bè, người thân (áy náy, thương cảm vì ông không được hưởng những ngày vui), Nguyễn Minh Châu lại có một thái độ rất thoải mái. Theo ông tiết lộ thì việc nằm viện vậy là ông "đã tránh được ít ngày phải sống giữa một cơn điên". Ý ông muốn nói, ông đã thoát được những ngày con người phải sống với những lễ lạt, giao tiếp căng thẳng.Nguyễn Minh Châu tự nhận mình không thuộc diện lợi khẩu. Chính vì thế ông rất ngại khi được mời phát biểu trong các buổi tọa đàm, hội thảo. Ông thật thà kể: "Tôi rất sợ máy micrô. Một lần ở thư viện của một thành phố, người ta cứ nằng nặc bắt tôi nói trước máy để cả đám đông của hội trường có thể nghe. Vừa nói được vài câu qua máy, tôi đã mất bình tĩnh vì vừa nói tôi vừa nghe thấy cái tiếng nói của mình và tự nhiên phát hoảng, không còn là tiếng nói hàng ngày của mình nữa mà y như có ai đang nhại mình bằng một thứ giọng ma quỷ". Lại một lần khác, ông bị người ta kéo đi nói chuyện với học sinh một trường cấp III. Từ trên bục diễn giả nhìn xuống, ông thấy hai phần ba thính giả là nữ, và các cô gái này cứ nói chuyện rào rào, không có vẻ gì là đang nghe ông nói. Bị mất hứng, giọng nhà văn cứ ỉu dần, ỉu dần và mới được có nửa buổi ông đành phải cho kết thúc bài và xin phép… cáo từ. Nhà thơ Vũ Cao, nguyên Chủ nhiệm Tạp chí Văn nghệ Quân đội, nơi Nguyễn Minh Châu có thời kỳ làm biên tập văn xuôi cũng từng kể: "Trong những buổi họp cơ quan hoặc họp chi bộ, hễ thấy anh giơ tay xin phát biểu ý kiến thì lập tức tôi nói khẽ với đồng chí ngồi cạnh: Này, ông Châu lại sắp nói sai đấy. Và quả nhiên, anh chỉ nói hẳn hoi được một hai câu, còn sau đó là "sai" hết. Tôi nói "sai" là so với cách nghĩ thông thường của nhiều người khác...". Vũ Cao cũng nhớ lại những ấn tượng của ông khi lần đầu gặp Nguyễn Minh Châu: "Một con người nhỏ bé, đi chân chữ bát, đầu hơi cúi xuống. Anh có vẻ nhút nhát".Không chỉ là nhút nhát, vụng về trong phát biểu, nói năng, mà trong công tác cũng như trong sinh hoạt thường ngày, Nguyễn Minh Châu cũng luôn thể hiện là người không thật... nhanh nhẹn. Nói chính xác thì ông hầu như là người "chỉ biết viết thôi, chẳng biết gì" (cải biên từ một câu thơ của Xuân Diệu). Hiện nhiều anh em trong Quân đội còn lưu truyền câu chuyện về thời kỳ Nguyễn Minh Châu làm lính trinh sát cho một đại đội thuộc Đại đoàn Đồng Bằng. Một lần, chỉ huy đơn vị kéo ông cùng đi thị sát chiến trường, chuẩn bị cho một trận công đồn. Đêm tối như hũ nút, theo chân Nguyễn Minh Châu, vị chỉ huy lần lượt vượt qua những vạt ruộng, những bờ tre... mà không gặp phải trắc trở nào cả. Không gian im ắng đến không ngờ. Cứ vậy, đến gần sáng, khi gà te te gáy, nghe tiếng kẻng vang xa, vị chỉ huy chắc mẩm đó là tiếng kẻng báo thức phát ra từ đồn địch... Nào ngờ, trước mặt lại chính là điểm trú quân của bộ đội ta. Sau đận đó, nghe nói Nguyễn Minh Châu được điều làm việc khác. Nhận xét về chuyện này, vị chỉ huy nói trên đã buông một câu: "Chẳng sao, đồng chí ấy tuy là một trinh sát tồi nhưng viết văn giỏi".Nhà văn Lê Lựu, trong một lần kể chuyện Nguyễn Minh Châu giúp vợ chồng ông tìm mua nhà, đã không quên nhắc lại sự hồn nhiên đãng trí của Nguyễn Minh Châu: "Hút hết điếu thuốc lá, nhấp một ngụm nước chè tôi vừa pha, anh mới nói đầy vẻ tự tin: Mình kiếm được nhà cho ông rồi". Lê Lựu mừng rỡ, muốn kêu lên vì sung sướng: "Không thể ngờ anh lại đem đến cho tôi một niềm vui lớn, đột ngột đến thế". Nhưng khi ông hỏi nhà văn đàn anh "ở chỗ nào hở anh?" thì Nguyễn Minh Châu bất chợt lúng túng "chết chửa, mình lại quên không để ý số nhà". "Thế ở phố nào ạ?". "Phố..ả...à...à. mình... cũng không nhớ nữa". Phu nhân của nhà văn Lê Lựu nghe vậy, sốt ruột không đừng được, chêm vào: "Thế bác có nhớ ở mạn nào không ạ?". Nguyễn Minh Châu xem chừng... bất lực. Ông thở dài, đứng dậy: "Thôi, để mình đi lại".Có lẽ vì tật đãng trí như vậy mà trong làng văn, hiện vẫn lưu truyền câu chuyện vui về việc Nguyễn Minh Châu tập đi xe máy mãi mà vẫn không phân biệt được rạch ròi đâu là số, đâu là côn, là phanh, để rồi rốt cục, ông không tài nào điều khiển được xe đi, xe dừng. Để đỡ tốn sức, tốn thời gian, Nguyễn Minh Châu bảo bạn: "Thôi vậy ông ạ, với tôi xe đạp vẫn thuận hơn". Từ đó, người ta lại thấy nhà văn bạn đường với chiếc xe đạp tòng tọc, lủng lẳng bên tay lái chiếc mũ lá (xem "Giai thoại làng văn Việt Nam"- NXB Văn hóa Dân tộc, 1999).Về việc này, tôi đã có dịp hỏi chuyện bà Nguyễn Thị Doanh. Bà Doanh cho hay: Cả đời, chưa bao giờ chồng bà tập đi xe máy, vì đối với vợ chồng bà, xe máy bấy giờ là một thứ quá xa xỉ. Suốt đời, nhà văn Nguyễn Minh Châu chỉ đi chiếc xe đạp mà ông được mua từ năm 1959. "Nhà tôi dùng nó suốt 30 năm, tới khi anh ấy mất - Bà Doanh nhớ lại - Nó tróc ghẻ, lọc xọc. Đến nỗi, có hôm khách khứa ngồi chờ, tôi nghe thấy tiếng lọc xọc ngoài đường, tôi bảo, nhà tôi về rồi". Ông khách ngạc nhiên hỏi: "Sao chị biết?". Tôi nói: "Chỉ cần nghe tiếng xe kêu là tôi biết". Hiện chiếc xe tôi vẫn giữ cái khung. Có ông sửa xe gạ mua, nhưng tôi không bán. Tôi dành để tặng nó cho Bảo tàng Nhà văn".Theo bà Doanh, có thể người ta "nhầm chuyện xe máy với chuyện nhà tôi sử dụng máy chữ. Chẳng là, gần nhà tôi có anh An đánh máy chữ rất giỏi. Nhà tôi trông thấy thèm lắm, mơ ước mua được một cái. Đến khi có máy rồi, nhà tôi kỳ cạch xoay xoay gõ gõ mấy ngày liền, xong cũng chẳng chữ nào ra chữ nào".Lý giải việc nhà văn Nguyễn Minh Châu không thạo những việc xem ra rất đơn giản đối với đại đa số những người... bình thường, bà Doanh cho rằng, vì chồng bà là con út, hồi bé lại được bố mẹ cho đi học suốt nên "lớn lên có biết làm gì đâu". Bà Doanh lấy ví dụ: "Tôi nhớ, có lần nhà tôi nối được cái dây may so ở bếp điện khiến nó đỏ lên được, anh ấy mừng lắm, cứ xuýt xoa chờ vợ con khen. Tôi động viên anh: "Bố nó tiến bộ quá". Thế là anh ấy thích lắm". Và bà kết luận: "Nói chung, nhà tôi là một người quan sát việc đời rất tinh tế nhưng lại rất lóng ngóng việc nhà. Bản thân tôi cũng cố để anh ấy không phải dúng tay vào những việc này. Về nội trợ trong nhà, việc duy nhất mà tôi hướng dẫn anh ấy làm được là việc... rang cơm"
Mục lục
Nhà văn Nguyễn Minh Châu: Tên thực ứng với đời thực?
Nhà văn Nguyễn Minh Châu: Tên thực ứng với đời thực?
Phạm Thành ChungChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.
Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: bạn: Thanh Vân đưa lên vào ngày: 10 tháng 9 năm 2009
|
Phạm Thành Chung
Nhà văn Nguyễn Minh Châu: Tên thực ứng với đời thực?
Trái ngược với cái tên Minh Châu "đẹp như mộng", thuở mới lọt lòng, nhà văn tài năng của chúng ta đã được các cụ thân sinh đặt cho cái tên thậm xấu: Nguyễn Thí. Vâng, Nguyễn Thí, vì đó là đứa con "thêm nếm" (tức con út) mà các cụ được Trời Phật ban cho.Minh Châu là một cái tên thật đẹp. Có lẽ vì vậy mà trong kỷ yếu "Nhà văn Việt Nam hiện đại" xuất bản lần gần đây nhất, hai chữ này đã xuất hiện trong bút danh của... bốn nhà văn, gắn với bốn cái họ khác nhau: họ Nguyễn, họ Hoàng, họ Nông, họ Tạ. Trong đó, ông Minh Châu họ Nguyễn được giới văn học nhắc tới nhiều hơn cả. Kể thì cũng dễ hiểu: Trong "tứ trụ Minh Châu" nói trên, đến nay Nguyễn Minh Châu vẫn là nhà văn duy nhất đoạt giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học - nghệ thuật.Thế nhưng, trong một lần trò chuyện với bà Nguyễn Thị Doanh, quả phụ của nhà văn Nguyễn Minh Châu, tôi đã thực sự bất ngờ khi được biết rằng: Trái ngược với cái tên Minh Châu "đẹp như mộng" ấy, thuở mới lọt lòng, nhà văn tài năng của chúng ta đã được các cụ thân sinh đặt cho cái tên thậm xấu: Nguyễn Thí. Vâng, Nguyễn Thí, vì đó là đứa con "thêm nếm" (tức con út) mà các cụ được Trời Phật ban cho. Còn vì sao sinh trưởng trong một gia đình khá giả mà ông lại bị cha mẹ đặt cho cái tên đáng ngán ngẩm như vậy? "Thì cũng là cách đặt tên cho dễ nuôi như quan niệm của phần đông dân ta khi ấy"- bà Doanh giải thích.Cũng theo bà Doanh cho biết: Chỉ đến khi Nguyễn Thí đến tuổi đi học, bố mẹ ông mới tìm cách đặt lại tên cho ông (là Minh Châu). Như vậy, cái tên Minh Châu không phải do nhà văn chọn lựa khi cầm bút viết văn. Không biết có phải do mặc cảm với cái tên Nguyễn Thí bố mẹ đặt cho từ thuở lọt lòng mà bình sinh, ông nhà văn vốn dĩ có nhiều độc giả này lại rất e ngại khi phải đối mặt với... đám đông. Trong những ghi chép cuối cùng (có tên gọi "Ngồi buồn viết mà chơi") được thực hiện trong những ngày nằm điều trị tại Viện Quân y 108, Nguyễn Minh Châu tự nhận xét: "Từ lúc còn nhỏ tôi đã là một thằng bé rụt rè và vô cùng nhút nhát. Tôi sợ từ con chuột nhắt cho đến ma quỷ. Sau này lớn lên, đến gần sáu chục tuổi, đến một nơi đông người tôi chỉ muốn lẻn vào một xó khuất và chỉ có như thế mới cảm thấy được yên ổn và bình tâm như con dế đã chui tọt vào lỗ".Nhà phê bình văn học Vương Trí Nhàn từng kể (trong sách "Nghiệp văn" - NXB Văn hóa - Thông tin, 2001), quãng năm 1973, 1974 gì đó, vào độ giáp Tết, Nguyễn Minh Châu không may bị bệnh phải đi nằm viện. Khi ông hồi phục, ra viện thì cũng vừa hay… hết Tết. Trái ngược với tâm trạng của bạn bè, người thân (áy náy, thương cảm vì ông không được hưởng những ngày vui), Nguyễn Minh Châu lại có một thái độ rất thoải mái. Theo ông tiết lộ thì việc nằm viện vậy là ông "đã tránh được ít ngày phải sống giữa một cơn điên". Ý ông muốn nói, ông đã thoát được những ngày con người phải sống với những lễ lạt, giao tiếp căng thẳng.Nguyễn Minh Châu tự nhận mình không thuộc diện lợi khẩu. Chính vì thế ông rất ngại khi được mời phát biểu trong các buổi tọa đàm, hội thảo. Ông thật thà kể: "Tôi rất sợ máy micrô. Một lần ở thư viện của một thành phố, người ta cứ nằng nặc bắt tôi nói trước máy để cả đám đông của hội trường có thể nghe. Vừa nói được vài câu qua máy, tôi đã mất bình tĩnh vì vừa nói tôi vừa nghe thấy cái tiếng nói của mình và tự nhiên phát hoảng, không còn là tiếng nói hàng ngày của mình nữa mà y như có ai đang nhại mình bằng một thứ giọng ma quỷ". Lại một lần khác, ông bị người ta kéo đi nói chuyện với học sinh một trường cấp III. Từ trên bục diễn giả nhìn xuống, ông thấy hai phần ba thính giả là nữ, và các cô gái này cứ nói chuyện rào rào, không có vẻ gì là đang nghe ông nói. Bị mất hứng, giọng nhà văn cứ ỉu dần, ỉu dần và mới được có nửa buổi ông đành phải cho kết thúc bài và xin phép… cáo từ. Nhà thơ Vũ Cao, nguyên Chủ nhiệm Tạp chí Văn nghệ Quân đội, nơi Nguyễn Minh Châu có thời kỳ làm biên tập văn xuôi cũng từng kể: "Trong những buổi họp cơ quan hoặc họp chi bộ, hễ thấy anh giơ tay xin phát biểu ý kiến thì lập tức tôi nói khẽ với đồng chí ngồi cạnh: Này, ông Châu lại sắp nói sai đấy. Và quả nhiên, anh chỉ nói hẳn hoi được một hai câu, còn sau đó là "sai" hết. Tôi nói "sai" là so với cách nghĩ thông thường của nhiều người khác...". Vũ Cao cũng nhớ lại những ấn tượng của ông khi lần đầu gặp Nguyễn Minh Châu: "Một con người nhỏ bé, đi chân chữ bát, đầu hơi cúi xuống. Anh có vẻ nhút nhát".Không chỉ là nhút nhát, vụng về trong phát biểu, nói năng, mà trong công tác cũng như trong sinh hoạt thường ngày, Nguyễn Minh Châu cũng luôn thể hiện là người không thật... nhanh nhẹn. Nói chính xác thì ông hầu như là người "chỉ biết viết thôi, chẳng biết gì" (cải biên từ một câu thơ của Xuân Diệu). Hiện nhiều anh em trong Quân đội còn lưu truyền câu chuyện về thời kỳ Nguyễn Minh Châu làm lính trinh sát cho một đại đội thuộc Đại đoàn Đồng Bằng. Một lần, chỉ huy đơn vị kéo ông cùng đi thị sát chiến trường, chuẩn bị cho một trận công đồn. Đêm tối như hũ nút, theo chân Nguyễn Minh Châu, vị chỉ huy lần lượt vượt qua những vạt ruộng, những bờ tre... mà không gặp phải trắc trở nào cả. Không gian im ắng đến không ngờ. Cứ vậy, đến gần sáng, khi gà te te gáy, nghe tiếng kẻng vang xa, vị chỉ huy chắc mẩm đó là tiếng kẻng báo thức phát ra từ đồn địch... Nào ngờ, trước mặt lại chính là điểm trú quân của bộ đội ta. Sau đận đó, nghe nói Nguyễn Minh Châu được điều làm việc khác. Nhận xét về chuyện này, vị chỉ huy nói trên đã buông một câu: "Chẳng sao, đồng chí ấy tuy là một trinh sát tồi nhưng viết văn giỏi".Nhà văn Lê Lựu, trong một lần kể chuyện Nguyễn Minh Châu giúp vợ chồng ông tìm mua nhà, đã không quên nhắc lại sự hồn nhiên đãng trí của Nguyễn Minh Châu: "Hút hết điếu thuốc lá, nhấp một ngụm nước chè tôi vừa pha, anh mới nói đầy vẻ tự tin: Mình kiếm được nhà cho ông rồi". Lê Lựu mừng rỡ, muốn kêu lên vì sung sướng: "Không thể ngờ anh lại đem đến cho tôi một niềm vui lớn, đột ngột đến thế". Nhưng khi ông hỏi nhà văn đàn anh "ở chỗ nào hở anh?" thì Nguyễn Minh Châu bất chợt lúng túng "chết chửa, mình lại quên không để ý số nhà". "Thế ở phố nào ạ?". "Phố..ả...à...à. mình... cũng không nhớ nữa". Phu nhân của nhà văn Lê Lựu nghe vậy, sốt ruột không đừng được, chêm vào: "Thế bác có nhớ ở mạn nào không ạ?". Nguyễn Minh Châu xem chừng... bất lực. Ông thở dài, đứng dậy: "Thôi, để mình đi lại".Có lẽ vì tật đãng trí như vậy mà trong làng văn, hiện vẫn lưu truyền câu chuyện vui về việc Nguyễn Minh Châu tập đi xe máy mãi mà vẫn không phân biệt được rạch ròi đâu là số, đâu là côn, là phanh, để rồi rốt cục, ông không tài nào điều khiển được xe đi, xe dừng. Để đỡ tốn sức, tốn thời gian, Nguyễn Minh Châu bảo bạn: "Thôi vậy ông ạ, với tôi xe đạp vẫn thuận hơn". Từ đó, người ta lại thấy nhà văn bạn đường với chiếc xe đạp tòng tọc, lủng lẳng bên tay lái chiếc mũ lá (xem "Giai thoại làng văn Việt Nam"- NXB Văn hóa Dân tộc, 1999).Về việc này, tôi đã có dịp hỏi chuyện bà Nguyễn Thị Doanh. Bà Doanh cho hay: Cả đời, chưa bao giờ chồng bà tập đi xe máy, vì đối với vợ chồng bà, xe máy bấy giờ là một thứ quá xa xỉ. Suốt đời, nhà văn Nguyễn Minh Châu chỉ đi chiếc xe đạp mà ông được mua từ năm 1959. "Nhà tôi dùng nó suốt 30 năm, tới khi anh ấy mất - Bà Doanh nhớ lại - Nó tróc ghẻ, lọc xọc. Đến nỗi, có hôm khách khứa ngồi chờ, tôi nghe thấy tiếng lọc xọc ngoài đường, tôi bảo, nhà tôi về rồi". Ông khách ngạc nhiên hỏi: "Sao chị biết?". Tôi nói: "Chỉ cần nghe tiếng xe kêu là tôi biết". Hiện chiếc xe tôi vẫn giữ cái khung. Có ông sửa xe gạ mua, nhưng tôi không bán. Tôi dành để tặng nó cho Bảo tàng Nhà văn".Theo bà Doanh, có thể người ta "nhầm chuyện xe máy với chuyện nhà tôi sử dụng máy chữ. Chẳng là, gần nhà tôi có anh An đánh máy chữ rất giỏi. Nhà tôi trông thấy thèm lắm, mơ ước mua được một cái. Đến khi có máy rồi, nhà tôi kỳ cạch xoay xoay gõ gõ mấy ngày liền, xong cũng chẳng chữ nào ra chữ nào".Lý giải việc nhà văn Nguyễn Minh Châu không thạo những việc xem ra rất đơn giản đối với đại đa số những người... bình thường, bà Doanh cho rằng, vì chồng bà là con út, hồi bé lại được bố mẹ cho đi học suốt nên "lớn lên có biết làm gì đâu". Bà Doanh lấy ví dụ: "Tôi nhớ, có lần nhà tôi nối được cái dây may so ở bếp điện khiến nó đỏ lên được, anh ấy mừng lắm, cứ xuýt xoa chờ vợ con khen. Tôi động viên anh: "Bố nó tiến bộ quá". Thế là anh ấy thích lắm". Và bà kết luận: "Nói chung, nhà tôi là một người quan sát việc đời rất tinh tế nhưng lại rất lóng ngóng việc nhà. Bản thân tôi cũng cố để anh ấy không phải dúng tay vào những việc này. Về nội trợ trong nhà, việc duy nhất mà tôi hướng dẫn anh ấy làm được là việc... rang cơm"
Mục lục
Nhà văn Nguyễn Minh Châu: Tên thực ứng với đời thực?
Nhà văn Nguyễn Minh Châu: Tên thực ứng với đời thực?
Phạm Thành ChungChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.
Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: bạn: Thanh Vân đưa lên vào ngày: 10 tháng 9 năm 2009
|
Nguyễn Khắc Phê
Nhà văn Nguyễn Mộng Giác
Tác giả - Tác phẩm
Nhà văn Việt kiều Nguyễn Mộng Giác sinh năm 1940 tại Bình Ðịnh Tốt nghiệp đại học Sư Phạm Huế. Hiện làm chủ bút tạp chí Văn Học tại hoa Kỳ. Tác phẩm đã xuất bản: Nỗi Băn Khoăn Của Kim Dung (tiểu luận, NXB Văn Mới, Sài Gòn, 1972), Bão Rớt (tập truyện ngắn, NXB Trí Ðăng, Sài Gòn, 1973), Tiếng Chim Vườn Cũ (NXB Trí Ðăng, 1973), Qua Cầu Gió Bay (truyện dài, NXB Văn Mới, Sài Gòn 1974), Ðường Một Chiều (truyện dài, NXB Nam Giao, Sài Gòn 1974), Ngựa Nãn Chân Bon (tập truyện ngắn, NXB Người Việt, 1983), Xuôi Dòng (tập truyện ngắn, NXB Văn Nghệ 1987), Mùa Biển Ðộng (trường thiên tiểu thuyết, NXB Văn Nghệ 1984-1989), Sông Côn Mùa Lũ (trường thiên tiểu thuyết, NXB An Tiêm, Mỹ 1991 và NXB Văn Học - Trung tâm Nghiên cứu Quốc học 1998). Bạn đọc cả nước - nhất là những ai quan tâm đến lịch sử và tiểu thuyết lịch sử - hẳn đã biết Nguyễn Mộng Giác là tác giả bộ tiểu thuyết trường thiên "Sông Côn mùa lũ" (SCML) 4 tập, 2.000 trang viết về thời Tây Sơn-Nguyễn Huệ (NXB Văn Học - Trung tâm Nghiên cứu Quốc học xuất bản năm 1998). Trước năm 1975, ông là giáo sư dạy văn nổi tiếng ở Sài Gòn và đã là tác giả của nhiều tập truyện dài. Ông hiện định cư tại Mỹ. Khi SCML ra đời, tôi chưa hề quen biết ông, cũng không phải nhà phê bình chuyên nghiệp, nhưng có dịp được đọc sách, lại đang cư trú trên vùng đất còn in dấu nhiều di tích thời Tây Sơn - Nguyễn Huệ, tôi đã đánh bạo viết bài phê bình (Tạp chí Sông Hương - số 4-2000). Đang mong có dịp gửi ông bài viết, càng mong được gặp ông để "tranh cãi" thì vào những ngày Huế đang rộn ràng chuẩn bị cho Festival, tôi nghe ông gọi điện, không phải từ Mỹ, mà từ căn nhà nhỏ của một người bà con ở "thôn Vĩ". Thì ra ông vừa về thăm Huế và đã đọc bài phê bình của tôi. Cứ tưởng ông đã già lắm, hóa ra ông còn kém tôi một tuổi (ông sinh năm 1940), tuy mái tóc hoa râm đã chớm hói. Với nụ cười rất dễ gần, ông nhanh nhẹn bắt tay tôi và chúng tôi "vào chuyện" ngay, không chút khách sáo. - Phê bình sách của anh mà chưa có dịp hỏi anh SCML đã được sáng tác như thế nào? - Hồi tôi viết cuốn sách ấy đời sống còn cơ cực lắm. Sáng, 6 giờ dậy đạp xe đi làm công trong tổ hợp mì sợi Dân Sinh ở Phú Lâm, mang theo một "ăng-gô" gạo kèm ít "chao", bắc sẵn bên lò mì, 12 giờ trưa nghỉ ăn xong là cắm cúi ngồi viết đến đầu giờ làm chiều. Trên đường về lại Thị Nghè, chở mì đi bán. Tối về đến nhà, 9 giờ lại ngồi vào bàn cho đến 12 giờ khuya. Suốt mấy năm như thế, bắt đầu viết từ 1978 đến 1981 thì xong. Tôi có thói quen là làm đề cương rất kỹ lưỡng, còn khi viết, bản thảo rất sạch sẽ, ít sửa chữa. Cũng phải nói là may có niềm say mê văn chương và quyết tâm viết bộ SCML như là một món nợ phải trả cho quê hương, tôi mới sống qua được những tháng ngày khó khăn đó... Viết xong, tôi đến gặp anh Hà Mậu Nhai, Giám đốc Nhà xuất bản Văn Nghệ TP. Hồ Chí Minh, trình bày công việc của mình. Anh Hà Mậu Nhai rất hoan nghênh, nhưng khi thấy chồng bản thảo dày hơn cả gang tay, tính phải dùng một số lượng giấy quá lớn giữa lúc đất nước còn nhiều thiếu thốn, anh bảo tôi tạm cất giữ, chờ một thời gian sau... - Bài tôi viết về SCML, có điều gì làm anh khó chịu không? - Bây giờ ít người chịu đọc những bộ sách dày như thế, có được người đọc kỹ như anh là mừng rồi. - Nguyễn Mộng Giác nhỏ nhẹ và từ tốn tránh trả lời trực diện, nhưng một lát sau, ông nói tiếp - Anh có phê bình là tôi dành quá ít trang miêu tả những chiến công hiển hách của Nguyễn Huệ, nhưng tôi nghĩ, về các trận đánh này, nhiều cuốn sách đã viết rồi; tôi muốn miêu tả khía cạnh khác, ví như thái độ của người dân trước những biến động lịch sử... Do đó, trong SCML, bên cạnh các nhân vật có thực của lịch sử, tôi đã xây dựng tuyến nhân vật hư cấu của đời thường - những nhân vật vô danh (không có tên trong lịch sử), nhưng cũng là nhân vật chính, với rất nhiều tâm huyết, tiêu biểu là cô An... Tôi muốn được nghe ý kiến của ông nên không trình bày lại các nhận xét của mình. Thực ra thì số trang nhiều ít chưa phải là điều quyết định. Tôi chỉ tiếc là người anh hùng Nguyễn Huệ qua những trang miêu tả chiến trận chưa thấy "bay lên" cho xứng với một thiên tài quân sự... Hình như lúc này ông cũng chưa định bàn sâu về tác phẩm của mình mà muốn nói đến vấn đề có tính khái quát hơn: Anh có nhớ bài của ông Trần Thanh Đạm nói về "vĩ mô" và "vi mô" trong sáng tác đăng trên báo Văn Nghệ số Tết vừa rồi không? Theo tôi, tiểu thuyết chủ yếu là vi mô, qua cái vi mô mà làm nổi bật những điều bản chất của cái vĩ mô. Bản chất của tiểu thuyết là "thế sự", dù là tiểu thuyết lịch sử. Một cuốn tiểu thuyết lịch sử chỉ minh họa lịch sử, từ đầu chí cuối chỉ toàn các vua quan âm mưu tranh giành quyền lực, còn đời sống người dân thế nào, biến cố lịch sử đó ảnh hưởng đến họ ra sao, tác giả không quan tâm; tôi cho cuốn sách đó không phải là tiểu thuyết đúng nghĩa... - Bên anh vẫn có báo Văn Nghệ đọc thường xuyên à? - Vâng. Nhiều loại sách báo trong nước được chuyển sang bán bên đó... - Như tờ "Văn nghệ", anh phải mua bao nhiêu? - Ba đô-la. - Thế anh đã đọc tiểu thuyết "Hồ Quý Ly" chưa? Theo tôi, đây là một cuốn sách hay... - Tôi đọc rồi. Theo tôi, cuốn ấy vẫn nặng về "vĩ mô". Tiểu thuyết "Vỡ bờ" của Nguyễn Đình Thi, tập I thành công hơn vì chủ yếu là "vi mô". Hay như "Con đường đau khổ" của Alexei Tolstoi, phần "Hai chị em" chủ yếu là "vi mô" nên thành công hơn hai tập sau. - Hình như anh vẫn trung thành với cách viết "cổ điển", truyền thống? - Tôi biết có người nêu vấn đề: Lịch sử như cái đinh đã đóng vào tường; người viết tiểu thuyết lịch sử có thể tùy thích "treo" vào đó những bức tranh của mình. Tôi thì quan niệm người viết tiểu thuyết lịch sử phải tôn trọng những gì đã được ghi vào lịch sử. Còn về cách viết thì lớp chúng tôi, hồi những năm sáu mươi đã học theo các trào lưu "cách tân" ở châu Âu nhưng thấy không đến đâu. Hình như một số bạn trẻ ở trong nước hiện nay đang dẫm lại vết chân lớp bọn tôi bốn chục năm trước. - Tôi nghĩ là các kiểu cách tân về hình thức đều có cái lý của nó. Nếu như cứ theo cách kể chuyện có đầu có đuôi theo trình tự thời gian thì để viết một cuốn tiểu thuyết ôm trùm khoảng không gian rộng lớn trong dăm chục năm thì biết mấy trang cho vừa? - Làm sao có thể miêu tả được tất cả. Mỗi tác giả chỉ lựa chọn những gì soi sáng cho tư tưởng của tác phẩm. Nếu tôi không nhầm thì tiểu thuyết Việt Nam ít có tác phẩm gây tiếng vang lớn vì thiếu sức nặng của tư tưởng. - Chắc anh còn nhớ rằng tôi cũng đã nêu vấn đề "tư tưởng của tác giả và tác phẩm SCML không thật rõ". Có đúng là tác giả chưa tiện viết hết những suy tưởng của mình? - Có phần như thế. Như đã nói với anh, tôi hoàn thành tiểu thuyết năm 1981 tại Sài Gòn, khi đất nước chưa "đổi mới"... Khi qua Mỹ, tôi làm gì có đủ tiền để in sách. Chỉ riêng tiền đánh máy đã hết 5.000 đô-la. Hai người bạn ở Nhà xuất bản An Tiêm bỏ ra 25.000 đô-la in giúp, sách bán từ năm 1991 đến nay mới hết. Vậy nên tôi rất mừng khi sách được in trong nước và được tái bản. Ở Mỹ, người làm kinh doanh ai dại gì bỏ vốn mười năm mới bán hết sản phẩm! Nhưng với mình, văn chương là cái "nghiệp" nên cứ phải theo đuổi. Tôi còn làm tờ tạp chí Văn Học, làm không công và người viết bài cũng không có nhuận bút. May là tiền bán báo vừa đủ tiền mua giấy và công in. Tôi hình dung là sau này việc in sách báo bằng tiếng Việt ở nước ngoài sẽ càng khó khăn hơn vì các thế hệ tiếp nối chủ yếu đọc bằng tiếng Anh. - Nhưng chắc là anh vẫn đang tiếp tục viết tiểu thuyết? - Vâng. Tôi đang soạn bộ tiểu thuyết về cuộc đời mấy gia đình người Việt định cư ở nước ngoài... Cuộc trò chuyện đã dài. Tôi biết Nguyễn Mộng Giác còn "chương trình" đi thăm mấy bạn văn ở Huế. Chúng tôi bắt tay tạm biệt. Nguyễn Mộng Giác tiễn tôi ra ngõ và vẫn với nụ cười mỉm hiền lành. Mong là ông sớm hoàn thành tác phẩm mới và mong sớm được đọc nó, dù biết rằng cuốn sách ông đang viết rất dễ "đụng chạm". Nhưng chẳng lẽ cuộc đời thăng trầm của hàng triệu người dân Việt đang định cư ở nước ngoài không đáng là đề tài cho nhà văn và bạn đọc cả trong và ngoài nước quan tâm hay sao?
Mục lục
Nhà văn Nguyễn Mộng Giác
Nhà văn Nguyễn Mộng Giác
Nguyễn Khắc PhêChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.
Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: NguoivienxuĐược bạn: Ct.Ly đưa lên vào ngày: 19 tháng 8 năm 2005
|
Nguyễn Khắc Phê
Nhà văn Nguyễn Mộng Giác
Tác giả - Tác phẩm
Nhà văn Việt kiều Nguyễn Mộng Giác sinh năm 1940 tại Bình Ðịnh Tốt nghiệp đại học Sư Phạm Huế. Hiện làm chủ bút tạp chí Văn Học tại hoa Kỳ. Tác phẩm đã xuất bản: Nỗi Băn Khoăn Của Kim Dung (tiểu luận, NXB Văn Mới, Sài Gòn, 1972), Bão Rớt (tập truyện ngắn, NXB Trí Ðăng, Sài Gòn, 1973), Tiếng Chim Vườn Cũ (NXB Trí Ðăng, 1973), Qua Cầu Gió Bay (truyện dài, NXB Văn Mới, Sài Gòn 1974), Ðường Một Chiều (truyện dài, NXB Nam Giao, Sài Gòn 1974), Ngựa Nãn Chân Bon (tập truyện ngắn, NXB Người Việt, 1983), Xuôi Dòng (tập truyện ngắn, NXB Văn Nghệ 1987), Mùa Biển Ðộng (trường thiên tiểu thuyết, NXB Văn Nghệ 1984-1989), Sông Côn Mùa Lũ (trường thiên tiểu thuyết, NXB An Tiêm, Mỹ 1991 và NXB Văn Học - Trung tâm Nghiên cứu Quốc học 1998). Bạn đọc cả nước - nhất là những ai quan tâm đến lịch sử và tiểu thuyết lịch sử - hẳn đã biết Nguyễn Mộng Giác là tác giả bộ tiểu thuyết trường thiên "Sông Côn mùa lũ" (SCML) 4 tập, 2.000 trang viết về thời Tây Sơn-Nguyễn Huệ (NXB Văn Học - Trung tâm Nghiên cứu Quốc học xuất bản năm 1998). Trước năm 1975, ông là giáo sư dạy văn nổi tiếng ở Sài Gòn và đã là tác giả của nhiều tập truyện dài. Ông hiện định cư tại Mỹ. Khi SCML ra đời, tôi chưa hề quen biết ông, cũng không phải nhà phê bình chuyên nghiệp, nhưng có dịp được đọc sách, lại đang cư trú trên vùng đất còn in dấu nhiều di tích thời Tây Sơn - Nguyễn Huệ, tôi đã đánh bạo viết bài phê bình (Tạp chí Sông Hương - số 4-2000). Đang mong có dịp gửi ông bài viết, càng mong được gặp ông để "tranh cãi" thì vào những ngày Huế đang rộn ràng chuẩn bị cho Festival, tôi nghe ông gọi điện, không phải từ Mỹ, mà từ căn nhà nhỏ của một người bà con ở "thôn Vĩ". Thì ra ông vừa về thăm Huế và đã đọc bài phê bình của tôi. Cứ tưởng ông đã già lắm, hóa ra ông còn kém tôi một tuổi (ông sinh năm 1940), tuy mái tóc hoa râm đã chớm hói. Với nụ cười rất dễ gần, ông nhanh nhẹn bắt tay tôi và chúng tôi "vào chuyện" ngay, không chút khách sáo. - Phê bình sách của anh mà chưa có dịp hỏi anh SCML đã được sáng tác như thế nào? - Hồi tôi viết cuốn sách ấy đời sống còn cơ cực lắm. Sáng, 6 giờ dậy đạp xe đi làm công trong tổ hợp mì sợi Dân Sinh ở Phú Lâm, mang theo một "ăng-gô" gạo kèm ít "chao", bắc sẵn bên lò mì, 12 giờ trưa nghỉ ăn xong là cắm cúi ngồi viết đến đầu giờ làm chiều. Trên đường về lại Thị Nghè, chở mì đi bán. Tối về đến nhà, 9 giờ lại ngồi vào bàn cho đến 12 giờ khuya. Suốt mấy năm như thế, bắt đầu viết từ 1978 đến 1981 thì xong. Tôi có thói quen là làm đề cương rất kỹ lưỡng, còn khi viết, bản thảo rất sạch sẽ, ít sửa chữa. Cũng phải nói là may có niềm say mê văn chương và quyết tâm viết bộ SCML như là một món nợ phải trả cho quê hương, tôi mới sống qua được những tháng ngày khó khăn đó... Viết xong, tôi đến gặp anh Hà Mậu Nhai, Giám đốc Nhà xuất bản Văn Nghệ TP. Hồ Chí Minh, trình bày công việc của mình. Anh Hà Mậu Nhai rất hoan nghênh, nhưng khi thấy chồng bản thảo dày hơn cả gang tay, tính phải dùng một số lượng giấy quá lớn giữa lúc đất nước còn nhiều thiếu thốn, anh bảo tôi tạm cất giữ, chờ một thời gian sau... - Bài tôi viết về SCML, có điều gì làm anh khó chịu không? - Bây giờ ít người chịu đọc những bộ sách dày như thế, có được người đọc kỹ như anh là mừng rồi. - Nguyễn Mộng Giác nhỏ nhẹ và từ tốn tránh trả lời trực diện, nhưng một lát sau, ông nói tiếp - Anh có phê bình là tôi dành quá ít trang miêu tả những chiến công hiển hách của Nguyễn Huệ, nhưng tôi nghĩ, về các trận đánh này, nhiều cuốn sách đã viết rồi; tôi muốn miêu tả khía cạnh khác, ví như thái độ của người dân trước những biến động lịch sử... Do đó, trong SCML, bên cạnh các nhân vật có thực của lịch sử, tôi đã xây dựng tuyến nhân vật hư cấu của đời thường - những nhân vật vô danh (không có tên trong lịch sử), nhưng cũng là nhân vật chính, với rất nhiều tâm huyết, tiêu biểu là cô An... Tôi muốn được nghe ý kiến của ông nên không trình bày lại các nhận xét của mình. Thực ra thì số trang nhiều ít chưa phải là điều quyết định. Tôi chỉ tiếc là người anh hùng Nguyễn Huệ qua những trang miêu tả chiến trận chưa thấy "bay lên" cho xứng với một thiên tài quân sự... Hình như lúc này ông cũng chưa định bàn sâu về tác phẩm của mình mà muốn nói đến vấn đề có tính khái quát hơn: Anh có nhớ bài của ông Trần Thanh Đạm nói về "vĩ mô" và "vi mô" trong sáng tác đăng trên báo Văn Nghệ số Tết vừa rồi không? Theo tôi, tiểu thuyết chủ yếu là vi mô, qua cái vi mô mà làm nổi bật những điều bản chất của cái vĩ mô. Bản chất của tiểu thuyết là "thế sự", dù là tiểu thuyết lịch sử. Một cuốn tiểu thuyết lịch sử chỉ minh họa lịch sử, từ đầu chí cuối chỉ toàn các vua quan âm mưu tranh giành quyền lực, còn đời sống người dân thế nào, biến cố lịch sử đó ảnh hưởng đến họ ra sao, tác giả không quan tâm; tôi cho cuốn sách đó không phải là tiểu thuyết đúng nghĩa... - Bên anh vẫn có báo Văn Nghệ đọc thường xuyên à? - Vâng. Nhiều loại sách báo trong nước được chuyển sang bán bên đó... - Như tờ "Văn nghệ", anh phải mua bao nhiêu? - Ba đô-la. - Thế anh đã đọc tiểu thuyết "Hồ Quý Ly" chưa? Theo tôi, đây là một cuốn sách hay... - Tôi đọc rồi. Theo tôi, cuốn ấy vẫn nặng về "vĩ mô". Tiểu thuyết "Vỡ bờ" của Nguyễn Đình Thi, tập I thành công hơn vì chủ yếu là "vi mô". Hay như "Con đường đau khổ" của Alexei Tolstoi, phần "Hai chị em" chủ yếu là "vi mô" nên thành công hơn hai tập sau. - Hình như anh vẫn trung thành với cách viết "cổ điển", truyền thống? - Tôi biết có người nêu vấn đề: Lịch sử như cái đinh đã đóng vào tường; người viết tiểu thuyết lịch sử có thể tùy thích "treo" vào đó những bức tranh của mình. Tôi thì quan niệm người viết tiểu thuyết lịch sử phải tôn trọng những gì đã được ghi vào lịch sử. Còn về cách viết thì lớp chúng tôi, hồi những năm sáu mươi đã học theo các trào lưu "cách tân" ở châu Âu nhưng thấy không đến đâu. Hình như một số bạn trẻ ở trong nước hiện nay đang dẫm lại vết chân lớp bọn tôi bốn chục năm trước. - Tôi nghĩ là các kiểu cách tân về hình thức đều có cái lý của nó. Nếu như cứ theo cách kể chuyện có đầu có đuôi theo trình tự thời gian thì để viết một cuốn tiểu thuyết ôm trùm khoảng không gian rộng lớn trong dăm chục năm thì biết mấy trang cho vừa? - Làm sao có thể miêu tả được tất cả. Mỗi tác giả chỉ lựa chọn những gì soi sáng cho tư tưởng của tác phẩm. Nếu tôi không nhầm thì tiểu thuyết Việt Nam ít có tác phẩm gây tiếng vang lớn vì thiếu sức nặng của tư tưởng. - Chắc anh còn nhớ rằng tôi cũng đã nêu vấn đề "tư tưởng của tác giả và tác phẩm SCML không thật rõ". Có đúng là tác giả chưa tiện viết hết những suy tưởng của mình? - Có phần như thế. Như đã nói với anh, tôi hoàn thành tiểu thuyết năm 1981 tại Sài Gòn, khi đất nước chưa "đổi mới"... Khi qua Mỹ, tôi làm gì có đủ tiền để in sách. Chỉ riêng tiền đánh máy đã hết 5.000 đô-la. Hai người bạn ở Nhà xuất bản An Tiêm bỏ ra 25.000 đô-la in giúp, sách bán từ năm 1991 đến nay mới hết. Vậy nên tôi rất mừng khi sách được in trong nước và được tái bản. Ở Mỹ, người làm kinh doanh ai dại gì bỏ vốn mười năm mới bán hết sản phẩm! Nhưng với mình, văn chương là cái "nghiệp" nên cứ phải theo đuổi. Tôi còn làm tờ tạp chí Văn Học, làm không công và người viết bài cũng không có nhuận bút. May là tiền bán báo vừa đủ tiền mua giấy và công in. Tôi hình dung là sau này việc in sách báo bằng tiếng Việt ở nước ngoài sẽ càng khó khăn hơn vì các thế hệ tiếp nối chủ yếu đọc bằng tiếng Anh. - Nhưng chắc là anh vẫn đang tiếp tục viết tiểu thuyết? - Vâng. Tôi đang soạn bộ tiểu thuyết về cuộc đời mấy gia đình người Việt định cư ở nước ngoài... Cuộc trò chuyện đã dài. Tôi biết Nguyễn Mộng Giác còn "chương trình" đi thăm mấy bạn văn ở Huế. Chúng tôi bắt tay tạm biệt. Nguyễn Mộng Giác tiễn tôi ra ngõ và vẫn với nụ cười mỉm hiền lành. Mong là ông sớm hoàn thành tác phẩm mới và mong sớm được đọc nó, dù biết rằng cuốn sách ông đang viết rất dễ "đụng chạm". Nhưng chẳng lẽ cuộc đời thăng trầm của hàng triệu người dân Việt đang định cư ở nước ngoài không đáng là đề tài cho nhà văn và bạn đọc cả trong và ngoài nước quan tâm hay sao?
Mục lục
Nhà văn Nguyễn Mộng Giác
Nhà văn Nguyễn Mộng Giác
Nguyễn Khắc PhêChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.
Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: NguoivienxuĐược bạn: Ct.Ly đưa lên vào ngày: 19 tháng 8 năm 2005
|
nhiều tác giả
Nhà văn Nguyễn Đông Thức
Tác Giả - Tác Phẩm
Tên khai sinh: Nguyễn Đông Thức, sinh ngày 18 tháng 10 năm 1951 tại Từ Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Hiện nay ở quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh. Tốt nghiệp đại học. Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam (1988). * Sau ngày miền Nam giải phóng, Nguyễn Đông Thức tham gia thanh niên xung phong và làm báo, viết văn. Hiện nay anh công tác tại báo Tuổi Trẻ thành phố Hồ Chí Minh. * Tác phẩm chính đã xuất bản: Ngọc trong đá (tiểu thuyết, 1986); Mưa khuya (truyện ngắn, 1987); Tình yêu thường không dễ hiểu (truyện ngắn, 1987); Trăm sông về biển (tiểu thuyết, 1988); Con gái vốn phức tạp (truyện ngắn, 1988); Mối tình đầu tiên và cuối cùng (truyện ngắn, 1989); Bản án trước khi chào đời (truyện ngắn, 1989)... - Giải A cuộc thi sáng tác do thành đoàn thành phố Hồ Chí Minh với tác phẩm Một bông hồng cho cô bộ đội. Giải nhì cuộc thi sáng tác do thành đoàn Hồ Chí Minh cho tác phẩm Truyện rất khó viết. Giải ba cuộc thi sáng tác do Hội Nhà văn thành phố Hồ Chí Minh cho tác phẩm Mưa khuya. Giải nhì cuộc thi sáng tác do báo Sài Gòn giải phóng cho tác phẩm Hạnh phúc.
Mục lục
Nhà văn Nguyễn Đông Thức
Nhà văn Nguyễn Đông Thức
nhiều tác giảChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.
Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: Binhthuan.gov.vnĐược bạn: Ct.Ly đưa lên vào ngày: 20 tháng 3 năm 2005
|
many authors
Writer Nguyen Dong Thuc
Author - Works
Birth name: Nguyen Dong Thuc, born October 18, 1951 in Tu Nghia, Quang Ngai province. Currently in Tan Binh district, Ho Chi Minh City. Graduate. Member of the Communist Party of Vietnam. Member of the Vietnam Writers Association (1988). * After the liberation of the South, Nguyen Dong Thuc joined the youth volunteers and worked as a journalist and writer. Currently he works at Tuoi Tre newspaper in Ho Chi Minh City. * Main published works: Pearl in the Stone (novel, 1986); Late Night Rain (short story, 1987); Love is often not easy to understand (short story, 1987); Hundred Rivers to the Sea (novel, 1988); Girls are complicated (short story, 1988); First and Last Love (short story, 1989); Sentence before birth (short story, 1989)... - Prize A in the composition contest by the Ho Chi Minh City group with the work A rose for a soldier. Second prize in the composition contest by the Ho Chi Minh delegation for the work "The story is very difficult to write". Third prize in the composition contest organized by the Ho Chi Minh City Writers Association for the work Late Rain. Second prize in the creative competition organized by Saigon newspaper for the work Happiness.
Table of contents
Writer Nguyen Dong Thuc
Writer Nguyen Dong Thuc
many authorsWelcome to read books from the book project for mobile devicesSource: author: Nguyen Kim Vy.
Final words: Thank you for reading the entire story. Source: editor: Nguyen Kim Vy. Source: Binhthuan.gov.vn Uploaded by friend: Ct.Ly on: March 20, 2005
|
Thụy Khuê
Nhà Văn Nhất Linh
Tác giả - tác Phẩm
Tiểu Sử Nhất LinhCuối năm 1923 đậu bằng Cao Tiểu . Nhưng vì chưa đến tuổi vào trường cao đẳng, nên làm thư ký sở tài chính Hà Nội, kết duyên văn nghệ với Tú Mỡ Trọng Hiếu, viết Nho Phong. Lấy vợ và theo cao đẳng. Lúc đầu, năm 1924 học thuốc được một năm thì bỏ, chuyển sang Mỹ Thuật được một năm cũng bỏ. 1927 du học Pháp. Đậu cử nhân khoa học. Ở Pháp ông nghiên cứu về nghề báo và nghề xuất bản. (2) Năm 1936 Phong Hóa bị đóng cửa vì Hoàng Đạo viết bài châm biếm Hoàng Trọng Phu. Tờ Ngày Nay - trước ra kèm vớ Phong Hóa - tiếp tục và kế tiếp Phong Hóa. Tháng 12 năm 1936, trên báo Ngày Nay, Nhất Linh phát động phong trào Ánh Sáng cùng nhóm Tự Lực Văn Đoàn, chống lại các nhà ổ chuột ở các khu lao động. Năm 1939 Nguyễn Tường Tam lập đảng Hưng Việt, sau đổi thành Đại Việt Dân Chính. Hoạt động chống Pháp của nhóm Tự Lực trở thành công khai. 1942 Nhất Linh chạy sang Quảng Châu. Thạch Lam mất tại Hà Nội vì bệnh lao. Tại Quảng Châu, Liễu Châu gặp Nguyễn Hải Thần và Hồ mới ở tù ra, Nguyễn Tường Tam cũng bị giam bốn tháng. Trong thời gian từ 42 đến 44, ông học Anh Văn và Hán văn, hoạt động trong Cách Mạng Đồng Minh Hội, rồi về Côn Minh hoạt động trong hàng ngũ Việt Nam Quốc Dân Đảng. Sự tranh chấp, bắt bớ và thủ tiêu giữa hai đảng Việt Minh và Việt Quốc càng ngày càng gia tăng. Giữa năm 1945, Nguyễn Tường Tam trở về Hà Giang với quân đội, nhưng rồi lại quay lại Côn Minh và đi Trùng Khánh. Giai đoạn này đã được phản ánh trong Theo lệnh của Nhất Linh từ Trung Quốc gửi về, báo Ngày Nay lại tục bản, khổ nhỏ, ngày 5 tháng 3 năm 1945 và trở thành cơ quan ngôn luận của VNQDD, với Hoàng Đạo, Khái Hưng, Nguyễn Gia Trí và Nguyễn Tường Bách. Biến cố 19 tháng 8 năm 1945 bùng nổ. Việt Minh lên nắm chính quyền. Ngày Nay bị đóng cửa và phân tán. Hoàng Đạo và Nguyễn Tường Bách sang Trung Quốc. Hoàng Đạo mất ở Quảng Châu tháng 8 năm 1948. Thời điểm năm 1946, Việt Minh và Quốc gia chủ trương hòa hoãn và hợp tác. Đầu tháng 6, năm 1946, Nguyễn Tường Tam trở về Hà Nội. Hợp tác với chính phủ liên hiệp kháng chiến, giữ ghế bộ trưởng ngoại giao, cầm phái đoàn đi dự hội nghị trù bị Đà Lạt. Được cử làm trưởng phái đoàn đi dự hội nghị Fontainebleau, nhưng ông từ chối và bỏ sang Tầu, gặp cựu hoàng Bảo Đại và ở lại Trung Hoa bốn năm. Năm 1951, ông trở về Hà Nội, tuyên bố không thuộc đảng phái nào và không hoạt động chính trị. Vài tháng sau vào Nam, mở nhà xuất bản Phượng Giang, tái bản những sách Tự Lực Văn Đoàn. 1958 rời Đà Lạt về Sài Gòn, chủ trương tờ Văn Hóa Ngày Nay, phát hành được 11 số thì bị đình bản. Người quay tơ, 1926 Gánh Hàng Hoa, viết chung với Khái Hưng, 1934 Nắng Thu, 1934 Đi Tây, 1935 Lạnh Lùng, 1935-1936 Hai buổi chiều vàng, 1934-1937 Thế Rồi một buổi chiều, 1934-1937 Đôi Bạn, 1936-1937 Bướm Trắng, 1938-1939 Xóm Cầu Mới, 1949-1957 Viết và Đọc tiểu thuyết, 1952-1961 Giòng Sông Thanh Thủy, 1960-1961 Paris 1996 (Tiểu sử này do chính Nhất Linh đọc cho tôi viết và đã xem lại trước khi in, tôi xin giữ trọn vẹn và không thêm đoạn đời từ thu 1954 đến thu 1963, để giữ chút kỷ niệm về anh". Và Nguyễn Ngu Í mất tháng 8 năm 1977 tại Sài Gòn. Hình như sách chưa tái bản khi còn sinh thời Nguyễn Ngu Í, cho nên chúng ta không có được phần tiểu sử Nhất Linh từ 54 đến 63, do chính Nhất Linh biên soạn. (2) Trích chân dung Nhất Linh, của Nhật Thịnh, trang 128-129, Đại Nam tái bản. Tú Mỡ trả lời Lê Thanh trong bài "Phỏng Vấn Các Nhà Văn". Nhất Linh (1906 - 1963) Nhất Linh tên thật là Nguyễn Tường Tam, sinh 1906, mất 1963. Quê quán Quảng Nam, nhưng sinh ở Cẩm Giàng, Hải Dương. Năm 1932, cùng Khái Hưng ra báo Phong Hóa, làm giám đốc và viết bài cho đến 1935. Năm 1933, cùng một số nhà văn khác thành lập Tự lực văn đoàn. Sau khi Phong Hóa bị đóng cửa, ông ra tiếp báo Ngày Nay. Sau 1951, thành lập Nhà xuất bản Phượng Giang, ra tạp chí Văn Hóa ngày nay ở Sài Gòn. Năm 1963, ông đã tự tử trong cuộc dấu tranh chống chế độ ông Ngô Đình Diệm. Nhất Linh viết khá nhiều tiểu thuyết và truyện ngắn. Riêng truyện ngắn, đã in Người quay tơ (Đời nay, H. 1927), Anh phải sống (Đời nay, H. 1934), Hai vẻ đẹp (Đời nay, H. 1934), Hai buổi chiều vàng (Đời nay, H. 1937), Mối tình câm (S. 1961), Thương chồng (S. 1961). 01. Người quay tơ 02. Giấc mộng Từ Lâm 03. Nô lệ 04. Giết chồng báo thù chồng 05. Bóng người trên sương mù 06. Tháng ngày qua 07. Đầu đường xó chợ 08. Nước chảy đôi dòng 09. Nghèo 10. Chết dở 11. Thế rồi một buổi chiều 12. Lòng tử tế 13. Hai chị em 14. Cái tẩy 15. Lan rừng
Mục lục
Nhà Văn Nhất Linh
Nhà Văn Nhất Linh
Thụy KhuêChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.
Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: Đặc TrưngĐược bạn: Ct.Ly đưa lên vào ngày: 17 tháng 10 năm 2005
|
Thuy Khue
Writer Nhat Linh
Author - Works
Nhat Linh's Biography At the end of 1923, he passed the Cao Tieu diploma. But because he was not yet old enough to enter college, he became a secretary at Hanoi's finance department, had an artistic relationship with Tu Mo Trong Hieu, and wrote Nho Phong. Get married and go to college. Initially, in 1924, he studied medicine for a year and then quit. He switched to Fine Arts for a year and then quit. 1927 studied abroad in France. Passed bachelor of science. In France he studied journalism and publishing. (2) In 1936 Phong Hoa was closed because Hoang Dao wrote a satirical article on Hoang Trong Phu. Nay Nay newspaper - originally published with Phong Hoa - continues and succeeds Phong Hoa. In December 1936, in Nay Nay newspaper, Nhat Linh launched the Light movement with the Tu Luc Van Doan group, against slums in working-class areas. In 1939, Nguyen Tuong Tam founded the Hung Viet party, later changed to Dai Viet Dan Chinh. The Tu Luc group's anti-French activities became public. 1942 Nhat Linh fled to Guangzhou. Thach Lam died in Hanoi of tuberculosis. In Guangzhou, Liuzhou met Nguyen Hai Than and Ho who had just been released from prison. Nguyen Tuong Tam was also detained for four months. During the period from 42 to 44, he studied English and Chinese, worked in the Dong Minh Hoi Revolution, then returned to Kunming to work in the ranks of the Vietnam Nationalist Party. Disputes, arrests and assassinations between the Viet Minh and Viet Quoc parties are increasing day by day. In mid-1945, Nguyen Tuong Tam returned to Ha Giang with the army, but then returned to Kunming and went to Chongqing. This period was reflected in According to Nhat Linh's orders from China, the Nay Nay newspaper was again published in small format on March 5, 1945 and became the mouthpiece of VNQDD, with Hoang Dao and Khai. Hung, Nguyen Gia Tri and Nguyen Tuong Bach. The August 19, 1945 incident broke out. Viet Minh took power. Today is closed and scattered. Hoang Dao and Nguyen Tuong Bach went to China. Hoang Dao died in Guangzhou in August 1948. In 1946, the Viet Minh and the Nationalists advocated peace and cooperation. In early June, 1946, Nguyen Tuong Tam returned to Hanoi. Cooperated with the resistance coalition government, held the position of foreign minister, and led a delegation to attend the Da Lat preparatory conference. Appointed as head of the delegation to attend the Fontainebleau conference, he refused and left for China, met former Emperor Bao Dai and stayed in China for four years. In 1951, he returned to Hanoi, declaring that he did not belong to any party and was not politically active. A few months later, he moved to the South and opened Phuong Giang publishing house, republishing Tu Luc Van Doan books. In 1958, he left Da Lat and returned to Saigon, in charge of the newspaper Culture Today, which published 11 issues before being discontinued. The Spinner, 1926 Ganh Hang Hoa, written with Khai Hung, 1934 Autumn Sunshine, 1934 Going West, 1935 Cold, 1935-1936 Two Golden Afternoons, 1934-1937 Then One Afternoon, 1934-1937 Couple, 1936-1937 White Butterfly, 1938-1939 Xom Cau Moi, 1949-1957 Writing and Reading Novels, 1952-1961 Thanh Thuy River, 1960-1961 Paris 1996 (This biography was read to me and reviewed by Nhat Linh himself). Before printing, I would like to keep it completely and not add the life period from autumn 1954 to autumn 1963, to preserve some memories of him." And Nguyen Ngu Í died in August 1977 in Saigon. It seems that the book has not been republished. When he was still alive under Nguyen Ngu I, we do not have Nhat Linh's biography from 54 to 63, compiled by Nhat Linh himself. 2) Excerpt from Nhat Linh's portrait, pages 128-129. Republished by Dai Nam. Tu Mo answers Le Thanh in the article "Interviews with Writers". Nhat Linh (1906 - 1963) Nhat Linh's real name is Nguyen Tuong Tam, born in 1906, died in 1963. Hometown is Quang Nam, but born in 1963. in Cam Giang, Hai Duong. In 1932, together with Khai Hung, he launched Phong Hoa newspaper, working as director and writer until 1935. In 1933, with a number of other writers, he founded Tu Luc Van Doan. After Phong Hoa was closed, he appeared to receive Today's newspaper. After 1951, Phuong Giang Publishing House was established, publishing the magazine Culture Today in Saigon. In 1963, he committed suicide during the struggle against Ngo Dinh Diem's regime. Nhat Linh wrote many novels and short stories. As for the short stories, The Spinner (This Life, Q. 1927), I Must Live (This Life, Q. 1934), Two Beauties (This Life, Q. 1934), Two Golden Afternoons (This Life, Q. 1934) H. 1937), Silent love (S. 1961), Loving her husband (S. 1961). 01. The Spinner 02. Tu Lam's Dream 03. Slavery 04. Killing her husband to take revenge on her husband 05. Shadow in the fog 06. Months and days passed by 07. Streets and corners of the market 08. Water flows in two streams 09. Poverty 10 . Half dead 11. Then one afternoon 12. Kindness 13. Two sisters 14. Eraser 15. Wild orchids
Table of contents
Writer Nhat Linh
Writer Nhat Linh
Thuy KhueWelcome to read books from the book project for mobile devices. Source: author: Nguyen Kim Vy.
Final words: Thank you for reading the entire story. Source: editor: Nguyen Kim Vy. Source: Featured Posted by: Ct.Ly on: October 17, 2005
|
LINH THOẠI
Nhà Văn Nữ : Trần Thùy Mai
Tác giả - Tác phẩm
Trần Thùy Mai: Với đôi cánh tình yêu
Trần Thùy Mai sinh năm 1954, hiện là biên tập viên NXB Thuận Hóa. Đã xuất bản: Bài thơ về biển khơi, Thị trấn hoa quỳ vàng, Cỏ hát, Trò chơi cấm, Gió thiên đường, Quỷ trong trăng (giải B Hội Nhà văn VN năm 2002), Biển đời người, Thập tự hoa (giải thưởng văn học - nghệ thuật 2003 của Ủy ban toàn quốc các hội văn học - nghệ thuật VN), Đêm tái sinh, Mưa đời sau.
TTCN - Một cô Hạnh chịu đựng và hi sinh tất cả cho hạnh phúc của chồng trong Trăng nơi đáy giếng (đã chuyển thể sân khấu - vở Hãy khóc đi em), một sư Mi bắt đầu biết đến sự ngọt ngào và đau khổ trong tình yêu với mối tình đầu sớm vụn vỡ trong Gió thiên đường, một thiếu phụ giam mình trong kỷ niệm của Thập tự hoa; không hẹn mà gặp những nhân vật trong truyện ngắn của Trần Thùy Mai cùng lúc được đưa lên màn ảnh.
* Theo chị, vì đâu những tác phẩm của chị gần đây thường được các nhà làm phim chú ý? - Có lẽ là do lúc viết mình luôn nghĩ là viết cho những người đọc của thời bình. Đây là lúc người ta có thời gian để trở lại với những vấn đề gần gũi với cuộc sống: tình yêu, tình người, thân phận con người. Mặt khác, cuộc sống công nghiệp ngày càng căng thẳng khiến người ta cần có những rung động chân thành, lãng mạn để chống lại sự công nghiệp hóa tâm hồn...
* Ngoài Thập tự hoa, Gió thiên đường và Trăng nơi đáy giếng, trước đó đã có những tác phẩm khác của chị được chuyển thể điện ảnh? - Các truyện ngắn Thương nhớ hoàng lan, Người bán linh hồn… đã được chuyển thể kịch phim, tiếc rằng không có cơ duyên được dựng phim.
* Chị có lo âu rằng những đứa con tinh thần của mình sẽ biến dạng khi được chuyển thể điện ảnh? Và liệu cái không khí văn chương đằm thắm, tinh tế của Trần Thùy Mai có thể hiện được trong phim? - Một đạo diễn trước hết là một người đọc, một người đọc đã thích tác phẩm của mình, đã chọn nó để khởi đầu công trình của họ, tất nhiên điều đó làm mình rất cảm động. Nhưng truyện ngắn chỉ là một hạt mầm, hạt mầm sẽ thành cây trái như thế nào, còn phải mất nhiều công lao trồng tỉa chăm sóc của đạo diễn và diễn viên...
Mình cũng biết là khi chuyển sang phim, câu chuyện sẽ thay đổi nhiều. Mình chỉ mong muốn sao cái hồn của truyện được giữ lại, các tính cách của nhân vật đừng thay đổi, còn thì phải để cho biên kịch và đạo diễn tự do trong công việc sáng tạo của họ. Đa số các đạo diễn làm phim của mình đều còn trẻ, có người còn xem đây là phim đầu tiên. Còn trẻ nên có thể chưa có một bề dày sự nghiệp để được tin tưởng. Nhưng nhiệt tình, sự năng động và khát vọng nghệ thuật của họ có thể bù vào chỗ thiếu kinh nghiệm. Tôi hi vọng như vậy.
* Nếu phải nói ngắn gọn về tình yêu, chị sẽ nói thế nào? - Tình yêu là đôi cánh giúp con người vượt qua biên giới của chính mình. * Nhưng tình yêu trong tác phẩm của chị thường thấm vị xót xa... - Vì trên thực tế có những giấc mộng không thể đứng vững trước cuộc đời. Nhưng không phải vì thế mà người ta thôi ước mơ, không phải vì thế mà những giấc mơ không đẹp.
* Tác phẩm nào của chị nói lên được cái đẹp của tình yêu nhất? Và tác phẩm nào về tình yêu lay động chị nhất? - Tác phẩm về tình yêu lay động tôi nhất là Đồi gió hú của Emily Bronti. Tôi đã xem phim và rất thán phục các nhà làm phim: không hiểu sao họ có thể chuyển một tác phẩm đầy chất u uẩn nội tâm như thế sang ngôn ngữ của điện ảnh được. Còn truyện của mình về đề tài tình yêu ưng ý nhất có lẽ là Gió thiên đường.
* Chắc chị từng yêu nhiều lắm và sống hết mình cho tình yêu mới có thể viết như thế? - Cụm từ “sống hết mình” có nhiều cách hiểu quá, không biết mình có xứng đáng được nhận nó không đây? Chỉ biết rằng mình không bao giờ phải hối tiếc khi sống chân thật và sống hết lòng. Điều này không phải chỉ trong tình yêu mà trong mọi mặt của cuộc sống. Khi viết mình thấy thương nhân vật của mình, thế thôi. Đôi khi mình cảm thấy đang sống cùng họ trong những nỗi đau và hạnh phúc đó, dường như cuộc sống của họ là sự nối dài cuộc sống của chính mình vậy.
* Đánh giá của chị về phim tình yêu tay ba, tay tư của Hàn Quốc, từ góc nhìn của một nhà văn chuyên viết đề tài tình yêu? - Trong thể loại phim giải trí thì họ thật sự thành công, đặc biệt với phụ nữ. Có lẽ có hai lý do để phụ nữ ưa thích phim Hàn Quốc: trước hết vì trong đó không có bạo lực và tình dục, những thứ ăn khách với đàn ông nhưng phụ nữ, nhất là những phụ nữ trẻ, lại không hợp. Thứ hai, trong phim thường đặt ra những vấn đề xã hội mà giới trẻ quan tâm như những quan niệm mới về mối tương quan giữa sự chân thật và lòng chung thủy, tình yêu và sự nghiệp, tình cảm gia đình và tự do cá nhân…
Tôi thấy trong cách giải quyết vấn đề, ý tưởng của tác giả phim rất mạnh mẽ, khai phóng, vượt qua những thành kiến, áp lực (là thứ mà tuổi trẻ rất ghét). Tuy vậy họ biết xử lý rất khéo vấn đề, không để quá đà, gây sốc trong đa số công chúng. Những phim đó góp phần giáo dục cho đa số công chúng thái độ sống đẹp trong những tình huống thực tế mà không phải nói những lời đao to búa lớn gì cả.
* Chị đang viết một cuốn truyện ngắn đề tài lịch sử, với những nhân vật bị cả lịch sử và văn học bỏ quên? - Vẫn không xa đề tài tình yêu và thân phận, nhưng lần này nhân vật là những người đàn bà trong lịch sử. Cụ thể là một số bà công chúa, cung phi của vương triều Nguyễn. Ví dụ có một bà là vợ của Quang Toản, vua cuối cùng của triều Tây Sơn, sau trở thành vợ thứ ba của vua Gia Long.
Người đàn bà đó là chiến lợi phẩm, trong mấy mươi năm bà ta phải làm vợ và sinh con cho một người đàn ông đã xé xác chồng mình. Con gái của bà, công chúa Ngọc Ngôn, đã lớn lên như thế nào giữa ánh mắt kỳ thị trong một hoàng cung triều Nguyễn sau chiến tranh... Những con người ấy chỉ có cái tên nhỏ trong lịch sử nhưng bi kịch thì lớn, và bi kịch ấy không phải của riêng một thời nào...
* Hình như một chút ngậm ngùi của cố đô Huế - mảnh đất chị lớn lên và gắn bó - đã đi vào văn của chị? - Mình lớn lên ở Huế và điều làm mình gắn bó với Huế nhất là cái cảm giác bé nhỏ, hiền hiền, thương thương mà lúc nào mình cũng cảm thấy khi nghĩ về xứ sở này. Trong những gì mình viết ra có rất nhiều mảnh đời ở Huế…
* Chị nhận xét thế nào về các nhà văn nữ Trung Quốc đương đại như Vệ Tuệ, Miên Miên, Xuân Thụ...? Còn văn học nữ trong nước hôm nay? - Đã là văn chương thì viết cách gì cũng được miễn là hay, mình nghĩ vậy. Mình thích Vệ Tuệ, văn cô ấy rất bạo nhưng đầy nữ tính. Những tác giả nói trên đều có chỗ giống nhau, họ phản ánh cuộc sống như nó đang tồn tại chứ không phải như người ta muốn nó tồn tại. Đó là nét hấp dẫn của họ. Văn học nữ trong nước cũng có những động thái tương tự, nhiều dấu hiệu cho thấy các nhà văn, nhất là các nhà văn trẻ, đang tìm cách bứt phá để vượt qua ngưỡng của thời đại, mà trước hết là vượt qua mặc cảm hổ thẹn của phái nữ.
Điều mình mong là mọi sự bứt phá phải dẫn đường đến cái đẹp, và văn học nữ dù trực diện chát chúa cũng trực diện, chát chúa một cách đáng yêu...
LINH THOẠI
Mục lục
Nhà Văn Nữ : Trần Thùy Mai
Nhà Văn Nữ : Trần Thùy Mai
LINH THOẠIChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.
Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: Tuoitre OnlineĐược bạn: Ct.Ly đưa lên vào ngày: 24 tháng 10 năm 2005
|
LINH THOẠI
Nhà Văn Nữ : Trần Thùy Mai
Tác giả - Tác phẩm
Trần Thùy Mai: Với đôi cánh tình yêu
Trần Thùy Mai sinh năm 1954, hiện là biên tập viên NXB Thuận Hóa. Đã xuất bản: Bài thơ về biển khơi, Thị trấn hoa quỳ vàng, Cỏ hát, Trò chơi cấm, Gió thiên đường, Quỷ trong trăng (giải B Hội Nhà văn VN năm 2002), Biển đời người, Thập tự hoa (giải thưởng văn học - nghệ thuật 2003 của Ủy ban toàn quốc các hội văn học - nghệ thuật VN), Đêm tái sinh, Mưa đời sau.
TTCN - Một cô Hạnh chịu đựng và hi sinh tất cả cho hạnh phúc của chồng trong Trăng nơi đáy giếng (đã chuyển thể sân khấu - vở Hãy khóc đi em), một sư Mi bắt đầu biết đến sự ngọt ngào và đau khổ trong tình yêu với mối tình đầu sớm vụn vỡ trong Gió thiên đường, một thiếu phụ giam mình trong kỷ niệm của Thập tự hoa; không hẹn mà gặp những nhân vật trong truyện ngắn của Trần Thùy Mai cùng lúc được đưa lên màn ảnh.
* Theo chị, vì đâu những tác phẩm của chị gần đây thường được các nhà làm phim chú ý? - Có lẽ là do lúc viết mình luôn nghĩ là viết cho những người đọc của thời bình. Đây là lúc người ta có thời gian để trở lại với những vấn đề gần gũi với cuộc sống: tình yêu, tình người, thân phận con người. Mặt khác, cuộc sống công nghiệp ngày càng căng thẳng khiến người ta cần có những rung động chân thành, lãng mạn để chống lại sự công nghiệp hóa tâm hồn...
* Ngoài Thập tự hoa, Gió thiên đường và Trăng nơi đáy giếng, trước đó đã có những tác phẩm khác của chị được chuyển thể điện ảnh? - Các truyện ngắn Thương nhớ hoàng lan, Người bán linh hồn… đã được chuyển thể kịch phim, tiếc rằng không có cơ duyên được dựng phim.
* Chị có lo âu rằng những đứa con tinh thần của mình sẽ biến dạng khi được chuyển thể điện ảnh? Và liệu cái không khí văn chương đằm thắm, tinh tế của Trần Thùy Mai có thể hiện được trong phim? - Một đạo diễn trước hết là một người đọc, một người đọc đã thích tác phẩm của mình, đã chọn nó để khởi đầu công trình của họ, tất nhiên điều đó làm mình rất cảm động. Nhưng truyện ngắn chỉ là một hạt mầm, hạt mầm sẽ thành cây trái như thế nào, còn phải mất nhiều công lao trồng tỉa chăm sóc của đạo diễn và diễn viên...
Mình cũng biết là khi chuyển sang phim, câu chuyện sẽ thay đổi nhiều. Mình chỉ mong muốn sao cái hồn của truyện được giữ lại, các tính cách của nhân vật đừng thay đổi, còn thì phải để cho biên kịch và đạo diễn tự do trong công việc sáng tạo của họ. Đa số các đạo diễn làm phim của mình đều còn trẻ, có người còn xem đây là phim đầu tiên. Còn trẻ nên có thể chưa có một bề dày sự nghiệp để được tin tưởng. Nhưng nhiệt tình, sự năng động và khát vọng nghệ thuật của họ có thể bù vào chỗ thiếu kinh nghiệm. Tôi hi vọng như vậy.
* Nếu phải nói ngắn gọn về tình yêu, chị sẽ nói thế nào? - Tình yêu là đôi cánh giúp con người vượt qua biên giới của chính mình. * Nhưng tình yêu trong tác phẩm của chị thường thấm vị xót xa... - Vì trên thực tế có những giấc mộng không thể đứng vững trước cuộc đời. Nhưng không phải vì thế mà người ta thôi ước mơ, không phải vì thế mà những giấc mơ không đẹp.
* Tác phẩm nào của chị nói lên được cái đẹp của tình yêu nhất? Và tác phẩm nào về tình yêu lay động chị nhất? - Tác phẩm về tình yêu lay động tôi nhất là Đồi gió hú của Emily Bronti. Tôi đã xem phim và rất thán phục các nhà làm phim: không hiểu sao họ có thể chuyển một tác phẩm đầy chất u uẩn nội tâm như thế sang ngôn ngữ của điện ảnh được. Còn truyện của mình về đề tài tình yêu ưng ý nhất có lẽ là Gió thiên đường.
* Chắc chị từng yêu nhiều lắm và sống hết mình cho tình yêu mới có thể viết như thế? - Cụm từ “sống hết mình” có nhiều cách hiểu quá, không biết mình có xứng đáng được nhận nó không đây? Chỉ biết rằng mình không bao giờ phải hối tiếc khi sống chân thật và sống hết lòng. Điều này không phải chỉ trong tình yêu mà trong mọi mặt của cuộc sống. Khi viết mình thấy thương nhân vật của mình, thế thôi. Đôi khi mình cảm thấy đang sống cùng họ trong những nỗi đau và hạnh phúc đó, dường như cuộc sống của họ là sự nối dài cuộc sống của chính mình vậy.
* Đánh giá của chị về phim tình yêu tay ba, tay tư của Hàn Quốc, từ góc nhìn của một nhà văn chuyên viết đề tài tình yêu? - Trong thể loại phim giải trí thì họ thật sự thành công, đặc biệt với phụ nữ. Có lẽ có hai lý do để phụ nữ ưa thích phim Hàn Quốc: trước hết vì trong đó không có bạo lực và tình dục, những thứ ăn khách với đàn ông nhưng phụ nữ, nhất là những phụ nữ trẻ, lại không hợp. Thứ hai, trong phim thường đặt ra những vấn đề xã hội mà giới trẻ quan tâm như những quan niệm mới về mối tương quan giữa sự chân thật và lòng chung thủy, tình yêu và sự nghiệp, tình cảm gia đình và tự do cá nhân…
Tôi thấy trong cách giải quyết vấn đề, ý tưởng của tác giả phim rất mạnh mẽ, khai phóng, vượt qua những thành kiến, áp lực (là thứ mà tuổi trẻ rất ghét). Tuy vậy họ biết xử lý rất khéo vấn đề, không để quá đà, gây sốc trong đa số công chúng. Những phim đó góp phần giáo dục cho đa số công chúng thái độ sống đẹp trong những tình huống thực tế mà không phải nói những lời đao to búa lớn gì cả.
* Chị đang viết một cuốn truyện ngắn đề tài lịch sử, với những nhân vật bị cả lịch sử và văn học bỏ quên? - Vẫn không xa đề tài tình yêu và thân phận, nhưng lần này nhân vật là những người đàn bà trong lịch sử. Cụ thể là một số bà công chúa, cung phi của vương triều Nguyễn. Ví dụ có một bà là vợ của Quang Toản, vua cuối cùng của triều Tây Sơn, sau trở thành vợ thứ ba của vua Gia Long.
Người đàn bà đó là chiến lợi phẩm, trong mấy mươi năm bà ta phải làm vợ và sinh con cho một người đàn ông đã xé xác chồng mình. Con gái của bà, công chúa Ngọc Ngôn, đã lớn lên như thế nào giữa ánh mắt kỳ thị trong một hoàng cung triều Nguyễn sau chiến tranh... Những con người ấy chỉ có cái tên nhỏ trong lịch sử nhưng bi kịch thì lớn, và bi kịch ấy không phải của riêng một thời nào...
* Hình như một chút ngậm ngùi của cố đô Huế - mảnh đất chị lớn lên và gắn bó - đã đi vào văn của chị? - Mình lớn lên ở Huế và điều làm mình gắn bó với Huế nhất là cái cảm giác bé nhỏ, hiền hiền, thương thương mà lúc nào mình cũng cảm thấy khi nghĩ về xứ sở này. Trong những gì mình viết ra có rất nhiều mảnh đời ở Huế…
* Chị nhận xét thế nào về các nhà văn nữ Trung Quốc đương đại như Vệ Tuệ, Miên Miên, Xuân Thụ...? Còn văn học nữ trong nước hôm nay? - Đã là văn chương thì viết cách gì cũng được miễn là hay, mình nghĩ vậy. Mình thích Vệ Tuệ, văn cô ấy rất bạo nhưng đầy nữ tính. Những tác giả nói trên đều có chỗ giống nhau, họ phản ánh cuộc sống như nó đang tồn tại chứ không phải như người ta muốn nó tồn tại. Đó là nét hấp dẫn của họ. Văn học nữ trong nước cũng có những động thái tương tự, nhiều dấu hiệu cho thấy các nhà văn, nhất là các nhà văn trẻ, đang tìm cách bứt phá để vượt qua ngưỡng của thời đại, mà trước hết là vượt qua mặc cảm hổ thẹn của phái nữ.
Điều mình mong là mọi sự bứt phá phải dẫn đường đến cái đẹp, và văn học nữ dù trực diện chát chúa cũng trực diện, chát chúa một cách đáng yêu...
LINH THOẠI
Mục lục
Nhà Văn Nữ : Trần Thùy Mai
Nhà Văn Nữ : Trần Thùy Mai
LINH THOẠIChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.
Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: Tuoitre OnlineĐược bạn: Ct.Ly đưa lên vào ngày: 24 tháng 10 năm 2005
|
nhiều tác giả
Nhà Văn Phan Thị Vàng Anh
Tác giả - tác phẩm
* Tên khai sinh: Phan Thị Vàng Anh, sinh ngày 18 tháng 8 năm 1968 tại Hà Nội. Quê gốc: huyện Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị. Hiện nay sống ở thành phố Hồ Chí Minh. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam (1996). * Phan Thị Vàng Anh là con gái nhà thơ Chế Lan Viên và nhà văn Vũ Thị Thường. Từ nhỏ đi học, ham đọc sách, tốt nghiệp Đại học Y khoa thành phố Hồ Chí Minh 8 năm 1993. Phan Thị Vàng Anh là một cây bút trẻ, ngay từ những tác phẩm đầu tay đã thể hiện một phong cách riêng, được bạn đọc hâm mộ. * Tác phẩm đã xuất bản: Khi người ta trẻ (tập truyện 1993); ở nhà (truyện vừa, 1994); Hội chợ (tập truyện, 1995). - Nhà văn đã được tặng thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam 1994 cho tập truyện Khi người ta trẻ.
Mục lục
Nhà Văn Phan Thị Vàng Anh
Nhà Văn Phan Thị Vàng Anh
nhiều tác giảChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.
Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: Được bạn: Ct.Ly đưa lên vào ngày: 6 tháng 3 năm 2005
|
many authors
Writer Phan Thi Vang Anh
Author - work
* Birth name: Phan Thi Vang Anh, born August 18, 1968 in Hanoi. Original hometown: Cam Lo district, Quang Tri province. Currently living in Ho Chi Minh City. Member of the Vietnam Writers Association (1996). * Phan Thi Vang Anh is the daughter of poet Che Lan Vien and writer Vu Thi Thuong. Since childhood, he went to school and loved reading books. He graduated from Ho Chi Minh City University of Medicine in 1993. Phan Thi Vang Anh is a young writer. Right from her first works, she showed a unique style, recognized avid readers. * Published works: When people are young (story collection 1993); at home (medium story, 1994); Fair (collection of stories, 1995). - The writer was awarded an award from the Vietnam Writers Association in 1994 for his story collection When People Are Young.
Table of contents
Writer Phan Thi Vang Anh
Writer Phan Thi Vang Anh
many authorsWelcome to read books from the book project for mobile devicesSource: author: Nguyen Kim Vy.
Final words: Thank you for reading the entire story. Source: editor: Nguyen Kim Vy. Source: Uploaded by friend: Ct.Ly on: March 6, 2005
|
nhiều tác giả
Nhà văn Thạch Lam
Tác Giả - Tác Phẩm
Thạch Lam
(1909 - 1942) Tên thật là Nguyễn Tường Vinh, sau đổi là Nguyễn Tường Lân, sinh năm 1909. Quê nội làng Cẩm Phô, Hội An, Quảng Nam. Quê ngoại Cẩm Giàng, Hải Dương. Thuở nhỏ, Thạch Lam sống với gia đình ở quê ngoại, sau đó theo cha chuyển sang Thái Bình tiếp tục bậc tiểu học. Lớn lên, ông cùng gia đình chuyển ra Hà Nội, học trường Canh nông, rồi trường Trung học Albert Saraut. Thạch Lam bắt đầu hoạt động văn học từ 1932, thành viên của Tự lực văn đoàn. Ông tham gia biên tập các tờ tuần báo Phong hóa, Ngày nay. Thạch Lam mất vì bệnh lao năm 1942 tại Hà Nội. Tác phẩm chính: Các tập truyện ngắn Gió đầu mùa (1937), Nắng trong vườn (1938), Sợi tóc (1942), tiểu thuyết Ngày mới (1939), tập tiểu luận Theo dòng (1941), tập bút ký Hà Nội băm sáu phố phường (1943). 01.Đứa con đầu lòng 02.Nhà mẹ Lê 03.Trở về 04.Một cơn giận 05.Người bạn trẻ 06.Cái chân què 07.Đói 08.Một đời người 09.Người lính cũ 10.Người bạn cũ 11.Hai lần chết 12.Gió lạnh đầu mùa 13.Bên kia Sông 14.Người đầm 15.Hai đứa trẻ 16.Đứa con 17.Trong bóng tối buổi chiều 18.Đêm sáng trăng 19.Cuốn sách bỏ quên 20.Dưới bóng hoàng lan 21.Tối ba mươi 22.Cô hàng xén 23.Tình xưa 24.Sợi tóc Trong bài giới thiệu tập truyện ngắn Gió đầu mùa xuất bản trước cách mạng tháng Tám, Thạch Lam viết : "Đối với tôi văn chương không phải là một cách đem đến cho người đọc sự thoát ly trong sự quên, trái lại văn chương là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta có, để vừa tố cáo và thay đổi một cái thế giới giả dối và tàn ác, làm cho lòng người được thêm trong sạch và phong phú hơn". Có thể coi đoạn văn ngắn nói trên như là "Tuyên ngôn văn học" của Thạch Lam. Và quả thật, trong toàn bộ gia tài sáng tạo của Thạch Lam, hầu như không một trang viết nào lại không thắm đượm tinh thần đó. Là thành viên của nhóm Tự Lực văn đoàn, được coi là một trong những cây bút chính của nhóm ấy, song trước sau văn phong Thạch Lam vẫn chẩy riêng biệt một giòng. Đề tài quen thuộc của nhóm Tự Lực văn đoàn là những cảnh sống được thi vị hóa, những mơ ước thoát ly mang mầu sắc cải lương, là những phản kháng yếu ớt trước sự trói buộc của đạo đức phong kiến diễn ra trong các gia đình quyền quý. Thạch Lam, trái lại, đã hướng ngòi bút về phía lớp người lao động bần cùng trong xã hội đương thời. Khung cảnh thường thấy trong truyện ngắn Thạch Lam là những làng quê bùn lầy nước đọng, những phố chợ tồi tàn với một bầu trời ảm đạm của tiết đông mưa phùn gió bấc, những khu phố ngoại ô nghèo khổ, buồn, vắng ... Trong khung cảnh ấy, các nhân vật cũng hiện lên với cái vẻ heo hút, thảm đạm của số kiếp lầm than - Đó là mẹ Lê, người đàn bà nghèo khổ, đông con, góa bụa ở phố chợ Đoàn Thôn, là bác Dư phu xe ở phố Hàng Bột, là Thanh, Nga với bà nội và cây hoàng lan trong một làng quê vùng ngoại ô, là cô Tâm hàng xén với lối đường quê quen thuộc trong buổi hoàng hôn ... Tất cả những cảnh, những người ấy đều được mô tả bằng một số đường nét đơn sơ, thưa thoáng nhưng vẫn hết sức chân thực. Thạch Lam không hề gắn cho nhân vật của mình những hành động, những ý nghĩ khả dĩ có thể làm bi thảm thêm cuộc đời của họ. Trái lại ông cũng không như một số nhà văn lúc ấy vẫn thường khoác lên cảnh vật hoặc nhân vật thứ "ánh trăng lừa dối " như nhà văn Nam Cao đã từng nhận xét. Tác phẩm của Thạch Lam vì thế có nhiều yếu tố hiện thực tuy nhân vật không dữ dội như Chí Phèo, lão Hạc của Nam Cao, hay bị đày đọa như chị Dậu của Ngô Tất Tố ... Cái riêng, cái độc đáo, cái mạnh của Thạch Lam, chính là ở lòng nhân ái, và vẻ đẹp tâm hồn quán xuyến trong mọi tác phẩm của ông. Nhân vật Thạch Lam, bất luận ở hoàn cảnh nào, vẫn ánh lên trong tâm hồn cái chất nhân ái Việt Nam. Mẹ Lê nghèo khổ đến cùng cực nhưng vẫn nguyên vẹn là một bà mẹ cần cù, chăm chỉ chịu thương chịu khó, hết lòng vì đàn con. Liên và Huệ hai cô gái điếm, hai con người tưởng như vất đi ấy, trong đêm giao thừa ngồi khóc vì nỗi trơ trọi, thiếu quê hương và chán chường cho cảnh bèo bọt của thân phận mình. Thạch Lam đôi khi còn đặt nhân vật của mình vào vùng ranh giới tranh chấp giữa cái thiện và cái ác, để rồi tự bản thân con người bằng việc thức tỉnh của lương tri, của phẩm giá xác lập chỗ đứng tốt đẹp cho mình trong cuộc sống đầy bùn nhơ của xã hội cũ. Đó là trường hợp của nhân vật Thanh trong truyện ngắn Một cơn giận hoặc Thành trong truyện ngắn Sợi tóc. Đọc truyện ngắn Thạch Lam rõ ràng ta thấy yêu con người, quý trọng con người hơn. Và cũng từ đó ta thương cảm, nâng niu, chắt gạn từng chút tốt đẹp trong mỗi một con người. Sống rất ngắn ngủi (sinh năm 1909, mất năm 1942), Thạch Lam viết chưa nhiều. Một truyện dài : Ngày mới; một tập tiểu luận : Theo giòng; hai cuốn truyện cho thiếu nhi : Cuốn sách và Hạt ngọc; một tập ký : Hà Nội ba mươi sáu phố phường. Phần quan trọng nhất, ba tập truyện ngắn : Nắng trong vườn, Gió đầu mùa, Sợi tóc. (...) trích Lời Nhà Xuất Bản tập truyện Gió đầu mùa Nhà Xuất Bản Văn Học Hà Nội - 1982
Mục lục
Nhà văn Thạch Lam
Nhà văn Thạch Lam
nhiều tác giảChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.
Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: ChimViet. comĐược bạn: Ct.Ly đưa lên vào ngày: 30 tháng 4 năm 2005
|
many authors
Writer Thach Lam
Author - Works
Heather
(1909 - 1942) Real name is Nguyen Tuong Vinh, later changed to Nguyen Tuong Lan, born in 1909. Hometown of Cam Pho village, Hoi An, Quang Nam. Mother's hometown is Cam Giang, Hai Duong. As a child, Thach Lam lived with his family in his maternal hometown, then followed his father and moved to Thai Binh to continue primary school. Growing up, he and his family moved to Hanoi, studied at Canh Nong School, then Albert Saraut High School. Thach Lam began his literary activities in 1932, a member of Tu Luc Van Doan. He participated in editing the weekly newspapers Phong Hoa and Today. Thach Lam died of tuberculosis in 1942 in Hanoi. Main works: Short story collections The First Wind of Season (1937), Sunshine in the Garden (1938), Thread of Hair (1942), novel New Day (1939), essay collection Following the Stream (1941), Hanoi memoir collection chopping six streets (1943). 01. First child 02. Le's mother's house 03. Return 04. An anger 05. A young friend 06. A lame leg 07. Hunger 08. A lifetime 09. An old soldier 10. An old friend 11. Twice dead 12. The cold wind at the beginning of the season 13. On the other side of the river 14. The lagoon 15. Two children 16. The child 17. In the darkness of the afternoon 18. A moonlit night 19. A forgotten book 20. Under the shadow of the sunset Lan 21. Thirteen at night 22. Shopkeeper 23. Old love 24. Hair In the introduction to the short story collection The First Wind of Season published before the August Revolution, Thach Lam wrote: "For me literature is not a way to bring readers an escape into forgetfulness. On the contrary, literature is a noble and powerful weapon that we have to both denounce and change a false and cruel world. makes people's hearts more pure and richer." The above short passage can be considered as Thach Lam's "Literary Manifesto". And indeed, in Thach Lam's entire creative legacy, there is hardly a single page that is not imbued with that spirit. As a member of the Tu Luc Van Doan group, he is considered one of the main writers of that group, but Thach Lam's writing style still flows in a separate line. The familiar topics of the Tu Luc Van Doan group are poeticized life scenes, dreams of escape with reformed colors, and weak protests against the shackles of feudal morality taking place in families. noble family. Thach Lam, on the contrary, directed his pen towards the poor working class in contemporary society. Common scenes in Thach Lam's short stories are muddy villages with stagnant water, shabby market streets with a gloomy sky of drizzly winter weather, poor, sad, deserted suburban neighborhoods.. In that scene, the characters also appear with the gloomy, miserable look of miserable lives - That is Le's mother, a poor woman with many children, a widow in Doan Thon market street, and her uncle. The carriage driver on Hang Bot street, Thanh and Nga with her grandmother and the royal orchid in a rural village on the outskirts, is Ms. Tam, a shopkeeper with a familiar country road in the sunset... All the scenes, Those people are all described with a number of simple, sparse but still very realistic lines. Thach Lam never assigned his characters actions or thoughts that could make their lives more tragic. On the contrary, he was not like some writers at that time who often dressed up scenes or characters as "deceptive moonlight" as writer Nam Cao once commented. Thach Lam's work therefore has many realistic elements, although the characters are not as fierce as Chi Pheo, Nam Cao's old Crane, or as miserable as Ngo Tat To's Ms. Dau... What is unique, what is unique, Thach Lam's strength lies in his kindness and the beauty of his soul that dominates all of his works. The character Thach Lam, no matter what the circumstances, still reflects the Vietnamese kindness in his soul. Mother Le was extremely poor but was still an industrious, hard-working mother who was devoted to her children. Lien and Hue, two prostitutes, two people who seemed to be thrown away, cried on New Year's Eve because of their loneliness, lack of homeland, and boredom over the meagerness of their status. Thach Lam sometimes places his characters in the disputed boundary between good and evil, so that people themselves, through the awakening of conscience and dignity, establish a good place for themselves in life. the muddy life of the old society. That is the case of the character Thanh in the short story An Anger or Thanh in the short story The Hair. Reading Thach Lam's short story, we clearly see that we love people and value them more. And from there we sympathize, cherish, and extract every bit of goodness in each person. Living a very short life (born in 1909, died in 1942), Thach Lam did not write much. A long story: New Day; a collection of essays: Following the flow; two storybooks for children: The Book and The Pearl; a memoir: Hanoi thirty-six streets. The most important part, three collections of short stories: Sunshine in the Garden, First Wind of Season, Thread of Hair. (...) Quote from the Publisher of the story collection The First Wind of Season, Hanoi Literature Publishing House - 1982
Table of contents
Writer Thach Lam
Writer Thach Lam
many authorsWelcome to read books from the book project for mobile devicesSource: author: Nguyen Kim Vy.
Final words: Thank you for reading the entire story. Source: editor: Nguyen Kim Vy. Source: ChimViet. comUploaded by: Ct.Ly on: April 30, 2005
|
nhiều tác giả
Nhà văn Triệu Bôn
Tác Giả - Tác Phẩm
Triệu Bôn (Bút danh khác: Lê Văn Sửu) --- * Tên khai sinh: Lê Văn Bửu, sinh ngày 18 tháng 1 năm 1938. Quê quán: thôn Kim Bôi, xã Đông Thanh, huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Hiện sống và làm việc tại Hà Nội. Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam (1970). * Triệu Bôn xuất thân trong gia đình nông dân, học trung học ở quê, tham gia quân đội từ trong kháng chiến chống Pháp, từng là chiến sĩ trực tiếp cầm súng chiến đấu. Ông đã tốt nghiệp Đại học Sư phạm và làm giáo viên trong quân đội. Do có năng khiếu văn học, báo chí, ông được điều về làm phóng viên báo Quân khu Việt Bắc. Từ những năm 1970 trở đi, ông vào mặt trận Đường 9 - Khe Sanh rồi mặt trận B2, làm biên tập viên Tạp chí Văn nghệ Quân giải phóng. Khi thống nhất đất nước, ông trở về Hà Nội, làm Trưởng ban biên tập văn xuôi của Tạp chí Văn nghệ Quân đội. Mấy năm sau, ông chuyển ngành, làm Trưởng ban biên tập báo Người Hà Nội, Tổng biên tập Tạp chí Du lịch Việt Nam, chuyên viên cao cấp của Bộ Văn hóa Thông tin và của Tổng cục Du lịch Việt Nam. * Tác phẩm đã xuất bản: Mầm sống (tập truyện, 1970); Lửa than (tập truyện, 1974); Rừng lá đỏ (tiểu thuyết, 1975); Tiểu đoàn trong vòng vây (tiểu thuyết, 1980); Gã đau đời (tiểu thuyết, 1982); Sao chiếu mệnh bay lạc (tiểu thuyết, 1990); Một phút và nửa đời người (tiểu thuyết, 1986); Kẻ trọng tội (tiểu thuyết, 1995) và nhiều tác phẩm khác. Tất cả 27 đầu sách. - Giải thưởng viết về đề tài chống Mỹ cứu nước của Tổng cục Chính trị Quân đội Nhân dân Việt Nam với truyện ngắn "Mầm sống".
Mục lục
Nhà văn Triệu Bôn
Nhà văn Triệu Bôn
nhiều tác giảChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.
Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: Bình thuận. gov.vnĐược bạn: Ct.Ly đưa lên vào ngày: 16 tháng 3 năm 2005
|
many authors
Writer Trieu Bon
Author - Works
Trieu Bon (Another pen name: Le Van Suu) --- * Birth name: Le Van Buu, born January 18, 1938. Hometown: Kim Boi village, Dong Thanh commune, Dong Son district, Thanh Hoa province. Currently living and working in Hanoi. Member of the Communist Party of Vietnam. Member of the Vietnam Writers Association (1970). * Trieu Bon came from a farmer's family, attended high school in the countryside, joined the army during the resistance war against the French, and was a soldier who directly fought with a gun. He graduated from Pedagogical University and worked as a teacher in the army. Due to his literary and journalistic talents, he was assigned to be a reporter for the Viet Bac Military Region newspaper. From the 1970s onwards, he joined the Route 9 - Khe Sanh front and then the B2 front, working as editor of the Liberation Army Arts Magazine. When the country was unified, he returned to Hanoi and became the Chief Prose Editor of the Military Arts Magazine. A few years later, he changed professions and became the Editor-in-Chief of Nguoi Hanoi newspaper, Editor-in-Chief of Vietnam Tourism Magazine, and a senior expert at the Ministry of Culture and Information and the Vietnam National Administration of Tourism. * Published works: Germs of Life (story collection, 1970); Coal Fire (story collection, 1974); Red Leaf Forest (novel, 1975); Battalion under siege (novel, 1980); The Painful Guy (novel, 1982); The star that shines on destiny flies away (novel, 1990); One Minute and Half a Life (novel, 1986); The Felon (novel, 1995) and many other works. All 27 books. - Award for writing on the topic of anti-Americanism to save the country from the General Department of Politics of the Vietnam People's Army with the short story "Sprout of Life".
Table of contents
Writer Trieu Bon
Writer Trieu Bon
many authorsWelcome to read books from the book project for mobile devicesSource: author: Nguyen Kim Vy.
Final words: Thank you for reading the entire story. Source: editor: Nguyen Kim Vy. Source: Binh Thuan. gov.vn Posted by: Ct.Ly on: March 16, 2005
|
V.T
Nhà văn Võ Hồng
Tác Giả - Tác Phẩm
Võ Hồng (tên thật cũng là bút danh) sinh ngày 05.05.1921 tại làng Ngân Sơn, An Thạch, Tuy An, Phú Yên. Thuở nhỏ hoc trường làng Ngân Sơn, trường phủ Tuy An, trường huyện Sông Cầu, rồi học trường trung học Qui Nhơn. 1940 học tú tài ở Hà Nội. Dưới thời chính phủ Trần Trọng Kim, Võ Hồng từng làm bí thư toà Tổng Ðốc 4 tỉnh miền Nam Trung Việt đóng tại Ðà Lạt. Trong thời kháng chiến, ông làm Trưởng Ty Bình dân tộc vụ tỉnh Phú Yên (1949). Ông cùng vợ dạy học ở trung học Lương Văn Chánh (Phú Yên) sau ông làm hiệu trưởng trường này. Từ 1956-1975, ông dạy ở trung học bán công Lê Quý Đôn và sau đó làm Hiệu trưởng trường PTCS Tân Lập, Nha Trang đến 1978, nghỉ hưu. Ông là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam từ năm 1977. Cuộc sống đơn chiếc đeo đuổi Võ Hồng từ ngày vợ mất, mái gia đình sum họp trở thành dĩ vãng xa xôi. Từ khi các con trưởng thành, lần lượt rời bỏ ngôi nhà sinh trưởng, cuộc sống của ông chỉ còn là hiu quạnh. Vắng bóng vợ, xa cách con cái... Cuộc sống của ông quạnh quẽ trong ngôi nhà nhỏ. Võ Hồng cầm bút khá sớm, truyện ngắn đầu tay "Mùa gặt" được đăng trên báo Tiểu Thuyết Thứ Bảy (Hà Nội, 1939) với bút hiệu Ngân Sơn, khi ông còn là học sinh đệ tam. Mãi đến 1959 Võ Hồng mới thật sự gia nhập làng văn qua tác phẩm đầu tay "Hoài cố nhân". Sau 1975 Võ Hồng thường viết về đề tài giáo dục và tuổi thơ, sống ẩn dật. Thời gian này ông còn ký 2 bút hiệu khác: Võ An Thạch và Võ Tri Thủy. *** "Tuyển tập Võ Hồng" - NXB Văn Nghệ TP.HCM Võ Hồng đã xuất bản hơn 8 tiểu thuyết, truyện dài, trên 70 truyện ngắn, nhiều tập tùy bút, bút ký, các tập truyện viết cho thiếu nhi, hơn 40 bài viết, bài khảo cứu, phê bình. Sự nghiệp văn học của ông sống qua mọi thời đại vì nó luôn gắn chặt với quê hương, với người dân quê mộc mạc Phú Yên. Các tác phẩm chính của Võ Hồng: - Truyện ngắn: Hoài cố nhân, Lá vẫn xanh, Vết hằn năm tháng, Con suối mùa xuân, Khoảng mát, Bên kia đường, Những giọt đắng, Trầm mặc cây rừng, Trong vùng rêu im lặng... - Truyện dài: Hoa bươm bướm, Người về đầu non, Gió cuốn, Nhánh rong phiêu bạt, Như cánh chim bay, Thiên đường ở trên cao... - Tuyển tập: Áo em cài hoa trắng, Trận đòn hoà giải, Xuất hành năm mới, Mái chùa xưa, Chia tay người bạn nhỏ, Hồn nhiên tuổi ngọc... *** Võ Hồng ngụ trong ngôi nhà số 53 Hồng Bàng, TP Nha Trang. Cả cuộc đời ông vẫn là một nhà giáo và một nhà văn. Với ông, viết và được viết vẫn là điều thú vị. Trước cổng nhà Võ Hồng có treo tấm bảng nhỏ: "Kéo dây gọi Võ Hồng", cạnh đó là sợi dây kẽm nối ba chiếc lon sữa bò rỉ sét. Khi khách kéo sợi dây, những chiếc lon khua vào nhau phát ra âm thanh leng keng như tiếng đuổi chim. Từ trên căn phòng nhỏ, Võ Hồng bước xuống. Khi tiễn khách, bao giờ cũng vậy, dù khách đề nghị ông cứ ở trong nhà, nhưng ông vẫn ra tận cổng để tiễn đưa. Nhiều người gọi ông bằng bác, chú, anh, nhà văn... nhưng có một từ mà ông thích được gọi: "Thầy". Võ Hồng gần như sống lặng lẽ một mình ở ngôi nhà đó. Sáng hoặc chiều ông thường ngồi trên chiếc võng nhỏ. Võ Hồng tỏ ra rất hứng thú khi nói chuyện vớ những ai đến với ông. Khi đã đến ngôi nhà này, khách văn nhận ra ngay đây là nơi mà những trang văn của Võ Hồng đã mô tả: mảnh sân, bóng cây và cả tiếng vọng đến từ hàng xóm! Võ Hồng bận dạy học nên ít có thời giờ dành cho việc viết lách. Ông lại còn phải lo săn sóc con, lo coi sóc việc nhà. Vợ ông mất sớm (1957), mọi việc vặt: mua sữa, mua gạo, mua sắm cho con, đưa con đi bác sĩ... ông đều phải tự làm. Võ Hồng thường viết được nhiều nhất vào buổi tối, chiều thứ Bảy và cả ngày Chủ nhật. Với điện ảnh, Võ Hồng thích những phim xã hội tình cảm. Cải lương thì ông thích nghe giọng ca của Thanh Nga. Về tân nhạc, Võ Hồng yêu tiếng hát của Hoàng Oanh rộng và ấm làm ông liên tưởng đến tiếng hót của chim cưỡng. Ông đặc biệt yêu thích bản nhạc "Ai lên xứ hoa đào". Dù đang làm việc mà nghe ai mở dĩa hát bài đó là anh ngưng việc, nghe đến hết bài. Là nhà văn nhưng Võ Hồng lại ít uống cà-phê. Ông thích uống trà hơn, nhất là trà xanh. Tửu lượng của ông rất kém. Chỉ uống một ly bia đã đỏ mặt! Võ Hồng có thói quen nằm trong giường để viết. Ông đặt bản thảo lên một tấm các-tông nhẹ nghiêng nghiêng, viết bằng bút máy. Ông cũng viết ở ghế xa-lông, nằm ở ghế dựa đặt đưới gốc cây trứng cá, dưới bóng cây ổi, cây mận. Luôn có những cánh hoa rơi trên tóc, trên áo, trên trang giấy, trên mặt đất xung quanh... Khi viết bản thảo, Võ Hồng thường viết chữ rất nhỏ, viết nhanh. Tác phẩm Võ Hồng khắc hoạ cảnh sinh hoạt của nông thôn và đô thị miền Nam trong giai đoạn từ thập niên 1930 đến sau này, đậm nhất là vào các thập niên 40, 50, 60, 70. Khi viết những bài nho nhỏ về tình cha mẹ, tình thầy trò, Võ Hồng nói ao ước: "Phải chi mọi người được đọc những bài viết này, họ sẽ yêu thương quí mến cha mẹ, thầy cô hơn xưa nữa!". Võ Hồng như thế đó! Trong bài "Hương hoa không bao giờ phai nhạt" (TTCN 18.10.2003) GS Trần Hữu Tá viết: "...Khi đọc truyện của Võ Hồng, cái buồn dịu dàng như cứ phảng phất đâu đây. Nhưng thật kỳ diệu, tâm trạng của người đọc không bị chùng xuống, yếu đi, mất lòng tin vào cuộc sống, mà ngược lại, như bình tĩnh, thanh thản hơn. Bởi lẽ nhà văn như muốn gửi tặng người đọc một điều trãi nghiệm: dù trong hoàn cảnh bi đát đến đâu, con người vẫn có thể tìm được một hạnh phúc giản dị nhưng cần vô cùng, miễn là ai cũng luôn có thái độ cảm thông, có sự tôn trọng yêu thương nhau, quan tâm chu đáo, hết lòng vì nhau. Thông điệp đậm chất nhân văn “người yêu người, sống để yêu nhau” như nói ở trên đã là nguồn cảm hứng tưởng như không vơi cạn trong quá trình sáng tạo nghệ thuật dài hơn nửa thế kỷ của Võ Hồng. Thông điệp ấy được ông chuyển tải một cách tự nhiên, chân thành, bằng một lối diễn đạt tinh tế, trong sáng, trau chuốt và đậm chất thơ. Ít có nhà văn nào nghiêm khắc với văn của mình như Võ Hồng. Vì thế tôi có cảm giác mỗi tác phẩm của ông như một tiếng đàn độc huyền, rung lên rồi cứ ngân vang không dứt trong tâm tưởng người đọc giữa đêm vắng".
Mục lục
Nhà văn Võ Hồng
Nhà văn Võ Hồng
V.TChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.
Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: V.TĐược bạn: Ct.Ly đưa lên vào ngày: 12 tháng 5 năm 2005
|
V.T
Writer Vo Hong
Author - Works
Vo Hong (real name is also a pen name) was born on May 5, 1921 in Ngan Son village, An Thach, Tuy An, Phu Yen. As a child, he attended Ngan Son village school, Tuy An district school, Song Cau district school, and then attended Qui Nhon high school. 1940 studied baccalaureate in Hanoi. Under the government of Tran Trong Kim, Vo Hong served as secretary of the Governor General of 4 provinces of South Central Vietnam based in Da Lat. During the resistance war, he worked as Head of the Nationalities Department of Phu Yen province (1949). He and his wife taught at Luong Van Chanh High School (Phu Yen) after which he became principal of this school. From 1956-1975, he taught at Le Quy Don semi-public high school and then worked as Principal of Tan Lap Secondary School, Nha Trang until 1978, when he retired. He has been a member of the Vietnam Writers Association since 1977. A single life has followed Vo Hong since his wife died, and family reunion became a distant past. Since his children grew up and left the house they grew up in, his life has only been lonely. Absent from his wife, separated from his children... His life was lonely in the small house. Vo Hong took up writing quite early, his first short story "Harvest" was published in Thu Thuyet newspaper (Hanoi, 1939) under the pen name Ngan Son, when he was still a third grade student. It was not until 1959 that Vo Hong truly entered the literary world through his first work "Hoai Co Nhan". After 1975, Vo Hong often wrote about education and childhood topics, living in seclusion. During this time, he also signed two other pen names: Vo An Thach and Vo Tri Thuy. *** "Vo Hong Anthology" - Ho Chi Minh City Literature and Arts Publishing House Vo Hong has published more than 8 novels, long stories, over 70 short stories, many essays, memoirs, and story collections for children, More than 40 articles, research articles, and criticism. His literary career lives on through all ages because it is always closely tied to his homeland, to the rustic people of Phu Yen. Vo Hong's main works: - Short stories: Nostalgia, Leaves are still green, Marks of the years, Spring stream, Cool space, Across the road, Bitter drops, Silence of forest trees, In the silent moss area silence... - Long story: Flowers and butterflies, People returning to the spring, Wind blowing, Seaweed branches wandering, Like flying birds, Heaven above... - Collection: White flowers on my shirt, The beating Reconciliation, New Year's Exodus, Old Pagoda Roof, Farewell to a little friend, Innocence of the pearl age... *** Vo Hong lives in house number 53 Hong Bang, Nha Trang City. All his life he remained a teacher and a writer. For him, writing and being written are still interesting things. In front of Vo Hong's house gate, there is a small sign hanging: "Pull the rope to call Vo Hong", next to it is a zinc wire connecting three rusty cow's milk cans. When the customer pulls the string, the cans rattle together, making a jingling sound like the sound of chasing birds. From the small room, Vo Hong walked down. When seeing off guests, it was always the same, even though the guests asked him to stay at home, he still went to the gate to see them off. Many people call him aunt, uncle, brother, writer... but there is one word he likes to be called: "Teacher". Vo Hong lived almost quietly alone in that house. In the morning or afternoon, he often sits in a small hammock. Vo Hong showed great interest in talking to those who came to him. When arriving at this house, the writer immediately realized that this was the place that Vo Hong's writings had described: the yard, the shade of the trees, and the echo coming from the neighbors! Vo Hong is busy teaching so he has little time for writing. He also has to take care of his children and take care of the housework. His wife died early (1957), so he had to do all the chores: buying milk, rice, shopping for his children, taking them to the doctor... he had to do it himself. Vo Hong often writes most in the evening, Saturday afternoon and all day Sunday. Regarding cinema, Vo Hong likes social and emotional films. In Cai Luong, he likes to listen to Thanh Nga's voice. Regarding new music, Vo Hong loves Hoang Oanh's singing, which is wide and warm, making him think of the song of a bird. He especially loves the song "Who goes to the land of peach blossoms". Even when he's working, if he hears someone playing that song, he stops working and listens to the end of the song. As a writer, Vo Hong rarely drinks coffee. He prefers drinking tea, especially green tea. His alcohol tolerance is very poor. Just drinking one glass of beer makes you blush! Vo Hong has a habit of lying in bed to write. He placed the manuscript on a tilted sheet of light cardboard and wrote with a fountain pen. He also wrote on the sofa, lying in a chair under an acorn tree, under the shade of guava and plum trees. There are always flower petals falling on her hair, on her shirt, on the page, on the surrounding ground... When writing manuscripts, Vo Hong often writes very small letters and writes quickly. Vo Hong's work depicts the daily life of rural and urban areas in the South in the period from the 1930s to later, especially in the 40s, 50s, 60s, 70s. When writing small articles about love for parents, love for teachers and students, Vo Hong said with a wish: "If only everyone could read these articles, they would love and cherish their parents and teachers more than before!". Vo Hong is like that! In the article "The fragrance of flowers never fades" (TTCN October 18, 2003), Professor Tran Huu Ta wrote: "...When reading Vo Hong's story, a gentle sadness seems to linger somewhere. But it's amazing, The reader's mood does not sag, weaken, or lose faith in life, but on the contrary, it seems calmer and more peaceful because the writer seems to want to give the reader an experience: even in the dark No matter how tragic the situation, people can still find a simple but extremely necessary happiness, as long as everyone always has an attitude of sympathy, respect and love for each other, thoughtful care, and wholeheartedness for each other. The humane message "people love people, live to love each other" as mentioned above has been a seemingly inexhaustible source of inspiration in Vo Hong Message's more than half-century artistic creation process He conveyed it naturally, sincerely, with a delicate, clear, elaborate and poetic expression. Few writers are as strict with their writing as Vo Hong It feels like each of his works is like a unique sound, vibrating and echoing endlessly in the reader's mind in the middle of the night.
Table of contents
Writer Vo Hong
Writer Vo Hong
V.TWelcome to read books from the book project for mobile devices. Source: author: Nguyen Kim Vy.
Final words: Thank you for reading the entire story. Source: editor: Nguyen Kim Vy. Source: V.T Uploaded by friend: Ct.Ly on: May 12, 2005
|
nhiều tác giả
Nhà văn Vũ Trọng Phụng
Tác Giả - Tác Phẩm
Tìm lại những tác phẩm của "Vua phóng sự đất Bắc"
Tưởng niệm 45 năm ngày mất của cố nhà văn Vũ Trọng Phụng (18.10.1939), nhà phê bình văn học Lại Nguyên Ân, người có công sưu tầm, giới thiệu hai cuốn sách mới tìm thấy của "ông vua phong sự đất Bắc" là Vẽ nhọ bôi hề và Chống nạng lên đường đã trò chuyện với độc giả. - Độc giả rất ngạc nhiên khi biết người tìm thấy hơn 20 bài báo của Vũ Trọng Phụng trong tác phẩm "Vẽ nhọ bôi hề" là một người Mỹ, Peter Zinoman. Ông có thể nói rõ hơn? - Tôi biết Peter Zinoman năm 1997, khi anh nhờ một giảng viên đại học Hà Nội đưa tới gặp tôi, ngỏ ý muốn được cho biết thêm một số thông tin về tác giả Vũ Trọng Phụng. Peter Zinoman là giảng viên môn lịch sử Việt Nam tại ĐH Berkeley bang California, và đề tài luận án của anh ta là chế độ nhà tù thực dân Pháp ở Việt Nam. Chính vì vậy, Peter Zinoman không thể bỏ qua những sáng tác truyện, tiểu thuyết có liên quan tới tù đày. Trong quá trình đó, anh bắt gặp và bị thu hút bởi những sáng tác của Vũ Trọng Phụng. Chính anh dịch thành công tiểu thuyết Số đỏ sang tiếng Anh. Trong một lần đến Thư viện quốc gia Pháp, Peter tìm đọc kho sách báo tiếng Việt trước năm 1945. Tại đây, Peter Zinoman đã tìm thấy hơn hai chục tác phẩm của Vũ Trọng Phụng. Theo ý kiến của "các chuyên gia về Vũ Trọng Phụng", thì trong đó có một số tác phẩm mới được tìm thấy lần đầu. Có thể nói, tính từ khoảng 1956 thì đây là lần bổ sung đáng kể nhất vào những thống kê về tác phẩm của Vũ Trọng Phụng. Rất tiếc là chúng tôi có trong tay những tác phẩm này hơi muộn (sau khi những trang chế bản cuối cùng thuộc tập 5 trong bộ sách Toàn tập Vũ Trọng Phụng ra đời). Vậy nên tôi chỉ có thể giới thiệu những tác phẩm mới của Vũ Trọng Phụng trong Vẽ nhọ bôi hề, đã được xuất bản lần 1 năm 2000. Cuốn sách gồm hai phóng sự dài (Hải Phòng 1934; Vẽ nhọ bôi hề); một số truyện ngắn, đôi khi là những mẩu chuyện vui, tiểu phẩm; mảng còn lại là các bài báo, tiểu phẩm về văn học. - Vậy "Chống nạng lên đường" với sáng tác đầu tay của Vũ Trọng Phụng được sưu tầm trong trường hợp nào? - Thật tình cờ, trong một lần tìm tài liệu ở vài thư viện thuộc các trường đại học Mỹ, khi tìm đọc các tác phẩm trước năm 1945, tôi bắt gặp thêm một số tác phẩm của Vũ Trọng Phụng. Khi đó tôi thật sự bất ngờ vì đã phát hiện ra trên Tuần báo "Phụ nữ tân văn" số 62 ngày 24.7.1930 một chùm liền hai bài ca nhan đề Người đi và Kẻ ở. Với hai bài ca này, Vũ Trọng Phụng còn xuất hiện như một người soạn vở cho sân khấu ca nhạc, và có thể nói đây là những bài đăng báo sớm nhất của Vũ Trọng Phụng. Thời gian này, tôi cũng đã tìm thấy 12 tác phẩm của Vũ Trọng Phụng đăng trên Ngọ báo. Trong đó tôi rất tâm đắc với hai truyện ngắn Chống nạng lên đường và Cái tin vặt. Một điều đặc biệt hơn là tôi đã tìm thấy trên Ngọ báo xuất hiện một số bài với bút danh Phụng Hoàng, mà sau khi thẩm định, tôi được biết đó là một trong những bút danh của Vũ Trọng Phụng. Tất cả những tác phẩm mới tìm thấy này, tôi đã tập hợp trong Chống nạng lên đường và đã được NXB Hội Nhà văn ấn hành 2001. - Vậy trong lần tái bản này, "Vẽ nhọ bôi hề" và "Chống nạng lên đường" có điều gì hấp dẫn hơn với độc giả? - Năm 2002, nhân một cuộc hội thảo về Vũ Trọng Phụng, Peter Zinoman sang Việt Nam, và lần này anh lại tìm thấy thêm một số tác phẩm trào phúng, cùng rất nhiều đánh giá về những tác phẩm của Vũ Trọng Phụng trên cả hai miền Nam-Bắc. Tôi đã giới thiệu những phát hiện mới này trong lần tái bản cuối tháng 9. Dự định tới đây tôi sẽ kết hợp với Peter Zinoman làm một bản chính xác hóa tiểu thuyết Giông tố của Vũ Trọng Phụng. Nguyên nhân bởi nhiều lý do, tác phẩm này đã bị thu hẹp lại, không đúng như nguyên bản. Chúng tôi sẽ tìm lại dựa trên nguồn báo chí hiện vẫn lưu trữ trong các thư viện.
Mục lục
Nhà văn Vũ Trọng Phụng
Nhà văn Vũ Trọng Phụng
nhiều tác giảChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.
Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: Lao ĐộngĐược bạn: Ct.Ly đưa lên vào ngày: 27 tháng 5 năm 2005
|
many authors
Writer Vu Trong Phung
Author - Works
Rediscovering the works of the "King of Northern Reportage"
Commemorating the 45th anniversary of the death of the late writer Vu Trong Phung (October 18, 1939), literary critic Lai Nguyen An, who had the merit of collecting and introducing two newly found books by "the king of Northern affairs" " is Painting Clowns and Going on Crutches talked to readers. - Readers were surprised to learn that the person who found more than 20 articles by Vu Trong Phung in the work "Smearing Clowns" was an American, Peter Zinoman. I beg your pardon? - I met Peter Zinoman in 1997, when he asked a Hanoi university lecturer to bring him to meet me, wanting to know some more information about author Vu Trong Phung. Peter Zinoman is a lecturer in Vietnamese history at the University of Berkeley, California, and his thesis topic is the French colonial prison regime in Vietnam. That's why Peter Zinoman cannot ignore writing stories and novels related to imprisonment. During that process, he encountered and was attracted by the compositions of Vu Trong Phung. He himself successfully translated the novel Red Number into English. During a visit to the French National Library, Peter searched for Vietnamese books and newspapers before 1945. Here, Peter Zinoman found more than two dozen works by Vu Trong Phung. According to the opinion of "experts on Vu Trong Phung", there are a number of new works discovered for the first time. It can be said that since about 1956, this is the most significant addition to the statistics of Vu Trong Phung's works. Unfortunately, we got our hands on these works a bit late (after the final manuscript pages of volume 5 in the Complete Works of Vu Trong Phung were published). Therefore, I can only introduce Vu Trong Phung's new works in Painting a Clown, which was first published in 2000. The book includes two long reports (Hai Phong 1934; Painting a Clown); some short stories, sometimes funny stories and skits; The remaining segment is articles and skits about literature. - So, under what circumstances is Vu Trong Phung's first composition collected on crutches? - By chance, while searching for documents in several libraries of American universities, while reading works before 1945, I came across some more works by Vu Trong Phung. At that time, I was really surprised because I discovered in the Weekly "Women Tan Van" Không. 62 dated July 24, 1930, a series of two songs titled The One Who Goes and The One Who Stays. With these two songs, Vu Trong Phung also appeared as a playwright for the musical stage, and it can be said that these are Vu Trong Phung's earliest newspaper articles. During this time, I also found 12 works by Vu Trong Phung published on Ngo Bao. Among them, I really like the two short stories Walking on Crutches and The Little News. One more special thing is that I found on Ngo Bao a number of articles with the pen name Phung Hoang, which after appraisal, I learned was one of Vu Trong Phung's pen names. All of these newly discovered works, I have gathered in Crutches on the Road and were published by the Writers' Association Publishing House in 2001. - So in this reprint, "Smearing Clowns" and "Crutches on the Road" "Is there anything more attractive to readers? - In 2002, on the occasion of a conference about Vu Trong Phung, Peter Zinoman went to Vietnam, and this time he found some more satirical works, along with many reviews of Vu Trong Phung's works all over the world. North and South regions. I introduced these new findings in the last edition of September. I plan to work with Peter Zinoman to make an accurate version of the novel The Storm by Vu Trong Phung. For many reasons, this work has been shrunk and is not true to the original. We will search again based on newspaper sources currently stored in libraries.
Table of contents
Writer Vu Trong Phung
Writer Vu Trong Phung
many authorsWelcome to read books from the book project for mobile devicesSource: author: Nguyen Kim Vy.
Final words: Thank you for reading the entire story. Source: editor: Nguyen Kim Vy. Source: Lao Dong Posted by friend: Ct.Ly on: May 27, 2005
|
Nhiều tác gia
Nhà văn Y Ban
Tác Giả - Tác Phẩm
Y Ban. * Tên khai sinh: Phạm Thị Xuân Ban, sinh ngày 1 tháng 7 năm 1961. Quê quán: Ninh Bình. Nơi ở hiện nay: Hà Nội. Tốt nghiệp Đại học Y khoa. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam (1996). * Y Ban đã từng dạy học tại Trường Cao đẳng Y Nam Định; Hiện là phóng viên báo Giáo dục và Thời đại. * Tác phẩm đã xuất bản: Người đàn bà có ma lực (truyện ngắn, 1983); Người đàn bà sinh ra trong bóng đêm (truyện ngắn, 1995). - Nhà văn đã được nhận: Giải nhất cuộc thi truyện ngắn của Tạp chí Văn nghệ Quân đội (1989 - 1990) (truyện ngắn Bức thư gửi mẹ Âu Cơ và truyện ngắn Chuyện một người đàn bà). Giải nhì cuộc thi viết về Hà Nội của NXB Hà Nội 1993 (tập truyện Người đàn bà có ma lực).
Nhiều tác gia
Nhà văn Y Ban
Y Ban và lối viết phá cách về tình yêu
“Xung quanh tôi, người lao vào tình yêu như con thiêu thân, hy sinh hết mình, chắt chiu hết mình, rồi cứ chuyển từ thất vọng này sang thất vọng khác, người thì quá đau đớn về đàn ông, chuyển sang gu chỉ tin vào chuyện tình cảm với đàn bà. Cũng có thể họ phá cách, nhưng điều họ nhận lấy là sự ê chề, đắng cay cho cuộc đời”, chị tâm sự.- Các nhà văn hiện đại viết về tình dục một cách táo tợn, theo chị đó là sự ám ảnh của bản năng hay là một sự câu khách?- Không chỉ các nhà văn Việt nam hiện nay, mà cả một số nhà văn nữ của Trung Quốc như Vệ Tuệ cũng phá cách bằng cách khai thác về cuộc sống tình dục. Đối với các nhà văn nữ trẻ, họ đang trong giai đoạn sung sức, tình dục đối với họ là dĩ nhiên, bởi vậy họ đưa nó vào trong tác phẩm. Còn đối với các nhà văn nữ đã qua tuổi thanh xuân, bắt đầu vào tuổi trung niên, thì họ lại hồi tưởng lại một thời son trẻ. Tuy có thể bề ngoài của họ đã già đi, nhưng ẩn chứa trong đó vẫn là một tâm hồn lãng mạn, tinh tế và nồng nhiệt. Bởi vậy, họ cũng bị ám ảnh nhiều về sex.- Trong truyện của chị cũng như của các nhà văn nữ khác nói rất nhiều về những người phụ nữ ngoại tình, họ hạnh phúc đớn đau trong những căn nhà thuê tạm bợ để hưởng thụ những cuộc tình ngắn ngủi, chồng chị nghĩ gì khi đọc chúng?- Chồng tôi hiểu tôi và hiểu những câu chuyện của tôi, thỉnh thoảng bảo tôi là ngày càng ghê gớm. Những gì viết ra được lắng đọng lại từ chính cuộc sống của tôi và của những người xung quanh, hoặc có thể cũng chỉ từ một câu chuyện vu vơ với bạn bè. Tuy vậy, thỉnh thoảng lão ấy cũng đột nhiên xưng xỉa với vợ khi bạn bè bình phẩm về một bài phỏng vấn nào đó về tôi. Rồi mọi chuyện cũng qua, chúng tôi duy trì cuộc sống gia đình yên ổn với những đứa con ngoan ngoãn.- Với truyện “Bức thư gửi mẹ Âu Cơ”, chị gần như là nhà văn đầu tiên minh oan, cảm thông cho những cô gái phải đi giải quyết , những nỗi đau rất đàn bà, nỗi đau ở vai trò làm mẹ của những cô gái trẻ, chị nghĩ sao?- Nhiều người cũng nói rằng, chắc tôi phải trải qua hoàn cảnh tương tự nên mới viết được như vậy. Câu chuyện của tôi không minh oan nhưng để mọi người hiểu. Từ nhỏ, vì mẹ tôi là bác sĩ sản nên tôi đã quá quen với những chuyện kế hoạch như vậy. Thế rồi, một lần về thăm nhà, con bé hàng xóm 16 tuổi cạnh nhà, chửa 6 tháng mà không hay biết gì. Bụng to mà nó vẫn ngồi dãi thẻ chơi chuyền. Rồi nó phải đi cô vắc, tôi bị ám ảnh và viết nên câu chuyện đó.- Trong những lần cảm thấy chống chếnh, bế tắc vì cuộc sống gia đình, về công việc, chị giải toả thế nào?- Nhiều lúc tôi cũng điên lên ấy chứ, chán tất, chán gia đình, chán cả cái cuộc sống bận rộn, chán tới mức tôi muốn treo cổ mình quách lên, nhưng rồi nghĩ đến con thì tôi nghĩ mình phải sống vì chúng nó. Đối với một nhà văn, thì sự chán nản ấy càng khủng khiếp. Hai tuần trước, tôi bị một trận ngộ độc thức ăn rất kinh khủng. Giữa cái lúc bồng bềnh, sống lưng lạnh toát và gần như không còn biết gì, thì thằng con trai bé bỏng của tôi cứ chạy lăng xăng quanh giường, vừa khóc vừa gọi mẹ. Lúc ấy thì tôi biết, mình cần phải sống, sống vì chúng nó.- Chứ không phải cách giải toả những bế tắc trong cuộc sống với một mối tình ngoài vợ ngoài chồng như các nhân vật của chị?- Cũng đôi khi mình cảm thấy là mình bị phải lòng một ai đó. Sự lãng mạn trong tâm hồn cho phép tôi được bay bổng, được thi vị những điều trong cuộc sống, nhưng rồi chính vì cách suy nghĩ đẩy đến tận cùng khiến cho tôi luôn suy nghĩ về những điều sau mối tình thi vị ấy, và cái kết thúc. Đa số các mối tình ấy đều kết thúc một cách ê chề và chán nản. Cũng chính bởi vì tôi cho phép mình lãng mạn, nên tôi mong muốn mọi thứ trong tình yêu đều phải hoàn hảo. Chỉ một chi tiết rất nhỏ thô vụng là cảm giác trong tôi tan vỡ ngay.
Nhiều tác gia
Nhà văn Y Ban
Nhà văn Y Ban và những giấc mơ về hạnh phúc
Với giọng nói trong trẻo, lạc quan, chị cuốn hút người nghe bằng những câu chuyện không đầu không cuối. Lăn lộn với đủ loại nghề để nuôi con, nuôi chồng, nuôi cả tượng của chồng, nhưng Y Ban vẫn giữ cho mình sự lãng mạn, tinh khiết của tâm hồn.Nhân vật nữ của Y Ban luôn ám ảnh người đọc. Đó là những cô gái lỡ dại, những người đàn bà luôn khát khao sự dịu dàng, mải mê kiếm tìm mẫu đàn ông lý tưởng. Bề ngoài, họ tỏ ra gai góc, chấp nhận cuộc sống, nhưng ẩn sau đó là những tâm hồn thèm muốn được nâng niu, chiều chuộng. Trong buổi gặp mặt sinh viên trường Berkeley, Mỹ, một cô gái hỏi: Chị có giống những nhân vật của mình không , Y Ban đáp lại: Nhân vật của tôi là những cô gái đẹp, mà bạn thấy đấy, tôi không hề đẹp. Điều nữa, là bạn đừng bao giờ cuộc đời hoá các tác phẩm của nhà văn như vậy. Cuộc đời của tôi đã hoá thành tác phẩm . Quả vậy, những bức bối của đời sống thường ngày, những khát khao đều được chị dồn nén vào nhân vật.Sinh tại Nam Định, chị trải qua một tuổi thơ bom đạn và dữ dội. Bố đi bộ đội, mẹ quá vất vả với công việc tại bệnh viện, một mình chị chăm lo cho 3 đứa em nhỏ. Đến bữa cơm, chị chỉ ngồi chăm chăm lo cho mẹ và 3 đứa em ăn. Lớn lên, tốt nghiệp ĐH Tổng hợp khoa Sinh, chị xin về làm giáo viên của Cao đẳng Y Nam Định. Mê đọc sách từ bé, nên khi về trường, chị lùng sục khắp thư viện và... tập viết. Một loạt những Người đàn bà có ma lực, Thư gửi mẹ Âu Cơ... ra đời. Gửi đi báo tỉnh, nhưng không ở đâu đăng vì không chịu nổi lối viết của con này . Đi xem bói, thầy phán nên đổi tên, vậy là từ cái tên Phạm Thị Xuân Ban, chị đặt bút danh Y Ban, có nghĩa là Ban ở trường Y . Quả thật, truyện của chị được in ngay và đoạt giải nhất cuộc thi báo Quân đội Nhân dân. Vì đam mê văn chương, và cũng vì tiếng gọi tình yêu với một nhà điêu khắc trẻ, chị bỏ dạy về Hà nội học trường viết văn Nguyễn Du.Chưa kịp tốt nghiệp, đã lấy chồng, sinh con, rồi bao khó khăn đổ ập xuống. Chị phụ mẹ chồng bán gà tần, làm bột sắn, quần quật suốt ngày mà không đủ ăn. Chị từng gào khóc nức nở khi làm mất hộp sữa của con mà không thể lấy đâu tiền mua lại hộp khác. Chồng chị là người có tài, anh đam mê tượng. Yêu vợ, yêu con, nhưng anh lại không thể nuôi sống vợ con. Mọi sự bức bí dồn nén đôi khi thành những trận đòn phũ phàng. Thậm chí, đã có lần chị bỏ đi, nhưng rồi thương con, xót xa cho chồng, chị lại quay về duy trì tổ ấm. Y Ban tâm sự: Khi đêm buông xuống, con ngủ rồi, tôi mới được sống với thế giới riêng của mình, thương thân, chỉ còn biết khóc. Tôi giải toả bằng nước mắt và luôn tin rằng ngày mai, mọi sự sẽ tốt đẹp hơn .Khi còn trẻ, chị luôn đẩy cảm xúc của mình tới tận cùng, đau khổ vì cả những chuyện nhỏ nhặt, vớ vẩn. Nhưng ngoài 30 tuổi, chị nhìn đời sắc sảo hơn, và chấp nhận mọi thứ một cách tương đối. Chị dành những gì hoàn hảo cho câu chuyện của mình, chúng luôn được kết thúc có hậu như chuyện cổ tích. Chị để trí tưởng tượng bay bổng đến tận cùng và giải thoát mọi ưu phiền của cuộc đời bằng trang viết.Chị nhặt nhạnh những mẩu đối thoại hay hay chợt nghe được, những truyền thuyết được kể lại thành cốt truyện. Ngoài những thành công khi viết về thân phận phụ nữ, Y Ban còn rất tâm đắc với những truyện liêu trai mang màu sắc ma quái. Cuối tháng này, chị cho ra mắt hai tập truyện Người đàn bà có ma lực và Chợ rằm ở dưới gốc dâu cổ thụ. 1/3 truyện ngắn trong đó là những sáng tác mới viết trong năm 2002.Hiện, làm biên tập cho báo Giáo dục và Thời đại, Y Ban đang ở trong giai đoạn viết sung sức nhất. Chị toại nguyện với sự nghiệp của mình. Tuy nhiên, người đàn bà có tâm hồn lãng mạn này vẫn luôn đi tìm sự bình yên.
Nhiều tác gia
Nhà văn Y Ban
Nhà văn Y Ban và quan niệm sáng tác
Mục lục
Tác Giả - Tác Phẩm
Y Ban và lối viết phá cách về tình yêu
Nhà văn Y Ban và những giấc mơ về hạnh phúc
Nhà văn Y Ban và quan niệm sáng tác
Nhà văn Y Ban
Nhiều tác giaChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.
Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: Nguồn Văn NghệĐược bạn: Ct.Ly đưa lên vào ngày: 16 tháng 3 năm 2005
|
Nhiều tác gia
Nhà văn Y Ban
Tác Giả - Tác Phẩm
Y Ban. * Tên khai sinh: Phạm Thị Xuân Ban, sinh ngày 1 tháng 7 năm 1961. Quê quán: Ninh Bình. Nơi ở hiện nay: Hà Nội. Tốt nghiệp Đại học Y khoa. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam (1996). * Y Ban đã từng dạy học tại Trường Cao đẳng Y Nam Định; Hiện là phóng viên báo Giáo dục và Thời đại. * Tác phẩm đã xuất bản: Người đàn bà có ma lực (truyện ngắn, 1983); Người đàn bà sinh ra trong bóng đêm (truyện ngắn, 1995). - Nhà văn đã được nhận: Giải nhất cuộc thi truyện ngắn của Tạp chí Văn nghệ Quân đội (1989 - 1990) (truyện ngắn Bức thư gửi mẹ Âu Cơ và truyện ngắn Chuyện một người đàn bà). Giải nhì cuộc thi viết về Hà Nội của NXB Hà Nội 1993 (tập truyện Người đàn bà có ma lực).
Nhiều tác gia
Nhà văn Y Ban
Y Ban và lối viết phá cách về tình yêu
“Xung quanh tôi, người lao vào tình yêu như con thiêu thân, hy sinh hết mình, chắt chiu hết mình, rồi cứ chuyển từ thất vọng này sang thất vọng khác, người thì quá đau đớn về đàn ông, chuyển sang gu chỉ tin vào chuyện tình cảm với đàn bà. Cũng có thể họ phá cách, nhưng điều họ nhận lấy là sự ê chề, đắng cay cho cuộc đời”, chị tâm sự.- Các nhà văn hiện đại viết về tình dục một cách táo tợn, theo chị đó là sự ám ảnh của bản năng hay là một sự câu khách?- Không chỉ các nhà văn Việt nam hiện nay, mà cả một số nhà văn nữ của Trung Quốc như Vệ Tuệ cũng phá cách bằng cách khai thác về cuộc sống tình dục. Đối với các nhà văn nữ trẻ, họ đang trong giai đoạn sung sức, tình dục đối với họ là dĩ nhiên, bởi vậy họ đưa nó vào trong tác phẩm. Còn đối với các nhà văn nữ đã qua tuổi thanh xuân, bắt đầu vào tuổi trung niên, thì họ lại hồi tưởng lại một thời son trẻ. Tuy có thể bề ngoài của họ đã già đi, nhưng ẩn chứa trong đó vẫn là một tâm hồn lãng mạn, tinh tế và nồng nhiệt. Bởi vậy, họ cũng bị ám ảnh nhiều về sex.- Trong truyện của chị cũng như của các nhà văn nữ khác nói rất nhiều về những người phụ nữ ngoại tình, họ hạnh phúc đớn đau trong những căn nhà thuê tạm bợ để hưởng thụ những cuộc tình ngắn ngủi, chồng chị nghĩ gì khi đọc chúng?- Chồng tôi hiểu tôi và hiểu những câu chuyện của tôi, thỉnh thoảng bảo tôi là ngày càng ghê gớm. Những gì viết ra được lắng đọng lại từ chính cuộc sống của tôi và của những người xung quanh, hoặc có thể cũng chỉ từ một câu chuyện vu vơ với bạn bè. Tuy vậy, thỉnh thoảng lão ấy cũng đột nhiên xưng xỉa với vợ khi bạn bè bình phẩm về một bài phỏng vấn nào đó về tôi. Rồi mọi chuyện cũng qua, chúng tôi duy trì cuộc sống gia đình yên ổn với những đứa con ngoan ngoãn.- Với truyện “Bức thư gửi mẹ Âu Cơ”, chị gần như là nhà văn đầu tiên minh oan, cảm thông cho những cô gái phải đi giải quyết , những nỗi đau rất đàn bà, nỗi đau ở vai trò làm mẹ của những cô gái trẻ, chị nghĩ sao?- Nhiều người cũng nói rằng, chắc tôi phải trải qua hoàn cảnh tương tự nên mới viết được như vậy. Câu chuyện của tôi không minh oan nhưng để mọi người hiểu. Từ nhỏ, vì mẹ tôi là bác sĩ sản nên tôi đã quá quen với những chuyện kế hoạch như vậy. Thế rồi, một lần về thăm nhà, con bé hàng xóm 16 tuổi cạnh nhà, chửa 6 tháng mà không hay biết gì. Bụng to mà nó vẫn ngồi dãi thẻ chơi chuyền. Rồi nó phải đi cô vắc, tôi bị ám ảnh và viết nên câu chuyện đó.- Trong những lần cảm thấy chống chếnh, bế tắc vì cuộc sống gia đình, về công việc, chị giải toả thế nào?- Nhiều lúc tôi cũng điên lên ấy chứ, chán tất, chán gia đình, chán cả cái cuộc sống bận rộn, chán tới mức tôi muốn treo cổ mình quách lên, nhưng rồi nghĩ đến con thì tôi nghĩ mình phải sống vì chúng nó. Đối với một nhà văn, thì sự chán nản ấy càng khủng khiếp. Hai tuần trước, tôi bị một trận ngộ độc thức ăn rất kinh khủng. Giữa cái lúc bồng bềnh, sống lưng lạnh toát và gần như không còn biết gì, thì thằng con trai bé bỏng của tôi cứ chạy lăng xăng quanh giường, vừa khóc vừa gọi mẹ. Lúc ấy thì tôi biết, mình cần phải sống, sống vì chúng nó.- Chứ không phải cách giải toả những bế tắc trong cuộc sống với một mối tình ngoài vợ ngoài chồng như các nhân vật của chị?- Cũng đôi khi mình cảm thấy là mình bị phải lòng một ai đó. Sự lãng mạn trong tâm hồn cho phép tôi được bay bổng, được thi vị những điều trong cuộc sống, nhưng rồi chính vì cách suy nghĩ đẩy đến tận cùng khiến cho tôi luôn suy nghĩ về những điều sau mối tình thi vị ấy, và cái kết thúc. Đa số các mối tình ấy đều kết thúc một cách ê chề và chán nản. Cũng chính bởi vì tôi cho phép mình lãng mạn, nên tôi mong muốn mọi thứ trong tình yêu đều phải hoàn hảo. Chỉ một chi tiết rất nhỏ thô vụng là cảm giác trong tôi tan vỡ ngay.
Nhiều tác gia
Nhà văn Y Ban
Nhà văn Y Ban và những giấc mơ về hạnh phúc
Với giọng nói trong trẻo, lạc quan, chị cuốn hút người nghe bằng những câu chuyện không đầu không cuối. Lăn lộn với đủ loại nghề để nuôi con, nuôi chồng, nuôi cả tượng của chồng, nhưng Y Ban vẫn giữ cho mình sự lãng mạn, tinh khiết của tâm hồn.Nhân vật nữ của Y Ban luôn ám ảnh người đọc. Đó là những cô gái lỡ dại, những người đàn bà luôn khát khao sự dịu dàng, mải mê kiếm tìm mẫu đàn ông lý tưởng. Bề ngoài, họ tỏ ra gai góc, chấp nhận cuộc sống, nhưng ẩn sau đó là những tâm hồn thèm muốn được nâng niu, chiều chuộng. Trong buổi gặp mặt sinh viên trường Berkeley, Mỹ, một cô gái hỏi: Chị có giống những nhân vật của mình không , Y Ban đáp lại: Nhân vật của tôi là những cô gái đẹp, mà bạn thấy đấy, tôi không hề đẹp. Điều nữa, là bạn đừng bao giờ cuộc đời hoá các tác phẩm của nhà văn như vậy. Cuộc đời của tôi đã hoá thành tác phẩm . Quả vậy, những bức bối của đời sống thường ngày, những khát khao đều được chị dồn nén vào nhân vật.Sinh tại Nam Định, chị trải qua một tuổi thơ bom đạn và dữ dội. Bố đi bộ đội, mẹ quá vất vả với công việc tại bệnh viện, một mình chị chăm lo cho 3 đứa em nhỏ. Đến bữa cơm, chị chỉ ngồi chăm chăm lo cho mẹ và 3 đứa em ăn. Lớn lên, tốt nghiệp ĐH Tổng hợp khoa Sinh, chị xin về làm giáo viên của Cao đẳng Y Nam Định. Mê đọc sách từ bé, nên khi về trường, chị lùng sục khắp thư viện và... tập viết. Một loạt những Người đàn bà có ma lực, Thư gửi mẹ Âu Cơ... ra đời. Gửi đi báo tỉnh, nhưng không ở đâu đăng vì không chịu nổi lối viết của con này . Đi xem bói, thầy phán nên đổi tên, vậy là từ cái tên Phạm Thị Xuân Ban, chị đặt bút danh Y Ban, có nghĩa là Ban ở trường Y . Quả thật, truyện của chị được in ngay và đoạt giải nhất cuộc thi báo Quân đội Nhân dân. Vì đam mê văn chương, và cũng vì tiếng gọi tình yêu với một nhà điêu khắc trẻ, chị bỏ dạy về Hà nội học trường viết văn Nguyễn Du.Chưa kịp tốt nghiệp, đã lấy chồng, sinh con, rồi bao khó khăn đổ ập xuống. Chị phụ mẹ chồng bán gà tần, làm bột sắn, quần quật suốt ngày mà không đủ ăn. Chị từng gào khóc nức nở khi làm mất hộp sữa của con mà không thể lấy đâu tiền mua lại hộp khác. Chồng chị là người có tài, anh đam mê tượng. Yêu vợ, yêu con, nhưng anh lại không thể nuôi sống vợ con. Mọi sự bức bí dồn nén đôi khi thành những trận đòn phũ phàng. Thậm chí, đã có lần chị bỏ đi, nhưng rồi thương con, xót xa cho chồng, chị lại quay về duy trì tổ ấm. Y Ban tâm sự: Khi đêm buông xuống, con ngủ rồi, tôi mới được sống với thế giới riêng của mình, thương thân, chỉ còn biết khóc. Tôi giải toả bằng nước mắt và luôn tin rằng ngày mai, mọi sự sẽ tốt đẹp hơn .Khi còn trẻ, chị luôn đẩy cảm xúc của mình tới tận cùng, đau khổ vì cả những chuyện nhỏ nhặt, vớ vẩn. Nhưng ngoài 30 tuổi, chị nhìn đời sắc sảo hơn, và chấp nhận mọi thứ một cách tương đối. Chị dành những gì hoàn hảo cho câu chuyện của mình, chúng luôn được kết thúc có hậu như chuyện cổ tích. Chị để trí tưởng tượng bay bổng đến tận cùng và giải thoát mọi ưu phiền của cuộc đời bằng trang viết.Chị nhặt nhạnh những mẩu đối thoại hay hay chợt nghe được, những truyền thuyết được kể lại thành cốt truyện. Ngoài những thành công khi viết về thân phận phụ nữ, Y Ban còn rất tâm đắc với những truyện liêu trai mang màu sắc ma quái. Cuối tháng này, chị cho ra mắt hai tập truyện Người đàn bà có ma lực và Chợ rằm ở dưới gốc dâu cổ thụ. 1/3 truyện ngắn trong đó là những sáng tác mới viết trong năm 2002.Hiện, làm biên tập cho báo Giáo dục và Thời đại, Y Ban đang ở trong giai đoạn viết sung sức nhất. Chị toại nguyện với sự nghiệp của mình. Tuy nhiên, người đàn bà có tâm hồn lãng mạn này vẫn luôn đi tìm sự bình yên.
Nhiều tác gia
Nhà văn Y Ban
Nhà văn Y Ban và quan niệm sáng tác
Mục lục
Tác Giả - Tác Phẩm
Y Ban và lối viết phá cách về tình yêu
Nhà văn Y Ban và những giấc mơ về hạnh phúc
Nhà văn Y Ban và quan niệm sáng tác
Nhà văn Y Ban
Nhiều tác giaChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.
Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: Nguồn Văn NghệĐược bạn: Ct.Ly đưa lên vào ngày: 16 tháng 3 năm 2005
|
A.H
Nhà văn Đoàn Giỏi (1925 - 1989)
Tác Giả - Tác Phẩm
Gặp nhà văn Đoàn Giỏi ở rất nhiều nơi...
Đoàn Giỏi sinh ngày 17.5.1925 tại Tân Hiệp - Châu Thành tỉnh Tiền Giang. Ông xuất thân từ một gia đình địa chủ lớn, có hàng trăm mẫu ruộng màu mỡ ven sông Tiền. Nhà ông xưa toà ngang dãy dọc, nơi mà bây giờ trở thành trụ sở Ủy ban nhân dân huyện Châu Thành. Tất cả nhà và đất gia đình ông đã tự nguyện hiến cho kháng chiến ngay từ đầu. Sau ngày thống nhất đất nước, nhà văn Đoàn Giỏi ra vào Nam – Bắc như cánh chim trời. Ở Hà Nội thì ông ở trụ sở Hội Nhà văn, vào Mỹ Tho thì ở cơ quan Hội Văn Nghệ, còn ở Sài Gòn ông tá túc tại nhà một người bạn trên đường Võ Văn Tần. Cho đến khi qua đời ở tuổi 65 (1989), ông vẫn chưa có một mái nhà riêng. Đoàn Giỏi là con đẻ và là kết tinh của nền văn hoá phương Nam, ông đã hiến trọn của cải vật chất và tinh thần của mình cho những người dân phương Nam khẳng khái khai phá, sáng tạo! Để có được một miền đất phương Nam trù phú với những cánh đồng thẳng cánh cò bay, những cánh chim tung trời, tiếng vó ngựa reo vui trên đường làng, tiếng mái chèo trên sông nước… chúng ta không thể quên được công lao to lớn của ông cha ta hơn 300 năm về trước xuôi thuyền vô phương Nam đi mở đất – qua bao cuộc bể dâu, qua bao cuộc đổi thay, qua bao gian khổ hy sinh với một tình yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống, yêu quê hương mãnh liệt. Không biết tự bao giờ những câu hò, điệu lý đã đi sâu và in đậm trong từng tấc đất, từng con người và từng mái nhà, từng rặng cây… để hôm nay chúng ta được kế thừa một tài sản âm nhạc vô giá mang đậm dấu ấn của miền sông nước, cái nôi của các ngón đờn tài tử cải lương. Chúng ta gặp nhà văn Đoàn Giỏi ở rất nhiều nơi: trong trang sách giáo khoa, trong ngôi nhà dấu yêu nhỏ bé. Nụ cười của ông vẫn còn tươi nguyên bên bàn thờ còn nghi ngút khói hương. Chúng ta còn gặp ông bên cạnh các bạn văn một thời trong những tấm ảnh đã ngả màu, và cuối cùng là ở nghĩa trang nơi duy nhất mà ông không còn phải bận rộn với những tác phẩm văn học. Dù bất cứ ở đâu, ông cũng được đồng nghiệp, bạn bè, độc giả thương mến. Và ai từng tiếp xúc với ông đều có chung cảm giác: Nhớ nhà văn Đoàn Giỏi. Nhà văn biến miền quê riêng thành miền quê chung... Trong tập tiểu luận - phê bình “Tiếng vọng những mùa qua” của Nguyễn Thị Thanh Xuân (NXB Trẻ, 2004) nhận định về tác giả Đất rừng phương Nam: “Có mảnh đất sinh ra những nhà văn, và ngược lại, có nhà văn từ trang viết đã biến miền quê riêng của mình thành miền quê chung thân thuộc trong tâm tưởng bao người... Với Đoàn Giỏi, tôi nghĩ rằng ông đã đón nhận được cái hạnh phúc đó... Ông đã đem đến cho bạn đọc cả nước những hiểu biết và tình cảm về một vùng đất mà trước đó xa ngái, hoang sơ trong hình dung của mọi người... Ông đã xây dựng những nhân vật lòng đầy nghĩa khí mà tinh tế và giàu chất văn hóa..." (Đoàn Giỏi, đất và rừng phương Nam). TS Phạm Văn Tình trong bài “Mái đình - nét đẹp trong hồn quê Việt Nam” viết: "Nhà văn Đoàn Giỏi, trong bài tùy bút “Măng tầm vông” đã có những dòng thật cảm động, mô tả tâm trạng của người con miền Nam tập kết ra Bắc, ngồi trên thuyền nhìn lại xóm làng của mình lần cuối: “Tôi đứng mãi trên boong, chờ đợi phút qua ngang nhà. Làng tôi, xanh ngắt những tàu dừa, tàu chuối. Mái đình cháy hơn một nửa, nhô ra giữa rặng cây. Bờ tầm vông thấp thoáng, ngọn tầm vông hoe vàng trong ánh nắng một chiều thu". “Mái đình cháy hơn một nửa" - vết tích của chiến tranh tàn phá, như một nỗi đau gieo giữa lòng nhà văn, một người con sắp tạm rời xa xứ sở. Đấy là nỗi đau đau đáu của dân tộc bao nhiêu năm. Đó là một mảnh hồn quê, làm nên một nét đẹp của xóm làng Việt Nam, từ lâu đã in vào tâm khảm mỗi con người và toả sáng trong những áng thơ văn. Nhà văn "có duyên" với điện ảnh Áp-phích phim DVD Đất Phương Nam phát hành tại Mỹ Dựa theo tiểu thuyết “Ðất rừng phương Nam” của cố nhà văn Ðoàn Giỏi, năm 1997, Hãng phim truyền hình TP.HCM đã sản xuất bộ phim truyện “Ðất phương Nam” dài 11 tập, kịch bản và đạo diễn: Nguyễn Vinh Sơn. Ngay sau đó, bộ phim đoạt giải thưởng Giải A của Hội Điện ảnh VN năm 1997. Ông Gerald Herman đại diện tại Việt Nam của Cty Discovery Communication PTE LTD (Singapore) - người trực tiếp chuyển phim "Đất phương Nam" từ băng VHS sang DVD – cho biết phim này phát hành rất khả quan tại Mỹ. "Đất phương Nam" là bộ phim đầu tiên của Việt Nam xuất khẩu. Đây là một trong rất hiếm phim truyền hình được người xem trong nước thực sự thích, còn Việt kiều và khán giả nước ngoài thì tìm được yếu tố hấp dẫn- bản sắc riêng Việt Nam. Cty Discovery Communication bỏ ra 25.000 USD để chuyển từ băng VHS sang đĩa DVD. Thế là cậu bé An (nhân vật chính trong phim) lại bắt đầu chuyến phiêu lưu mới- tới Mỹ. Ở nơi đó nếu mua trọn bộ 6 cuốn DVD người ta đọc được lời giới thiệu khá ư là hoa mỹ cho bộ phim được chuyển thể từ tiểu thuyết "Đất rừng phương Nam" của nhà văn Đoàn Giỏi: có thể được so sánh với những tác phẩm của Charles Dickens và Mark Twain. Giá một bộ DVD "Đất phương Nam" ở Mỹ là 69 USD (khoảng hơn 800.000 đồng)! xxx Đất rừng Phương Nam, nhân vật có nhiều tầng lớp, nhiều ngành nghề như một xã hội thu nhỏ, hoạt động suốt hai triền sông Tiền và Hậu Giang vào đến rừng U Minh, xuống tận mũi Cà Mau. Đất rừng Phương Nam có kết cấu chương hồi kiểu truyền thống: không gian, thời gian rạch ròi, nhân vật thiện ác, trắng đen tách bạch và bộc lộ qua hành động, hình dáng, ngôn ngữ. Một phong cách văn chương dễ đọc, dễ hiểu, hợp với đại đa số thiếu nhi VN. Phong cách văn chương truyện kể với những biến tấu khác nhau vẫn tràn đầy sức sống từ Nghìn lẻ một đêm, Tam Quốc, Thủy Hử ngày xưa đến Harry Potter ngày nay... Đất rừng Phương Nam của Đoàn Giỏi vẫn mang tính hiện đại. Đó là cách tiếp cận thời gian tâm lý, cách trộn lẫn các thi pháp sử thi, phản gián, khám phá...
Mục lục
Nhà văn Đoàn Giỏi (1925 - 1989)
Nhà văn Đoàn Giỏi (1925 - 1989)
A.HChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.
Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: NguoiVienXuĐược bạn: Ct.Ly đưa lên vào ngày: 27 tháng 5 năm 2005
|
A.H
Writer Doan Gioi (1925 - 1989)
Author - Works
Met writer Doan Gioi in many places...
Doan Gioi was born on May 17, 1925 in Tan Hiep - Chau Thanh, Tien Giang province. He came from a large landowner family, with hundreds of acres of fertile fields along the Tien River. His house used to be a horizontal row of buildings, which is now the headquarters of the People's Committee of Chau Thanh district. All of his family's houses and land were voluntarily donated to the resistance from the beginning. After the day of national unification, writer Doan Gioi went in and out of the North and South like a bird in the sky. In Hanoi, he stayed at the headquarters of the Writers' Association, in My Tho, he stayed at the Arts Association's office, and in Saigon, he stayed at a friend's house on Vo Van Tan Street. Until his death at the age of 65 (1989), he still did not have a home of his own. Doan Gioi is the offspring and crystallization of Southern culture. He devoted all his material and spiritual wealth to the people of the South to boldly explore and create! To have a rich Southern land with fields straight from the wings of storks flying, birds flying in the sky, the joyful sound of horse hooves on the village streets, the sound of oars on the river... we cannot forget the great effort. Our ancestors more than 300 years ago sailed to the South to open up land - through many ups and downs, through many changes, through many hardships and sacrifices with a love for nature, love for life, love for the countryside. intense scent. I don't know when the chants and melodies have gone deep and deeply imprinted in every inch of land, every person, every roof, every tree... so that today we have inherited a priceless musical asset. imprinted with the river region, the cradle of Cai Luong amateur musicians. We meet writer Doan Gioi in many places: in textbooks, in his beloved little house. His smile is still fresh at the altar, still filled with incense smoke. We also see him next to his former literary friends in faded photos, and finally at the cemetery, the only place where he is no longer busy with literary works. No matter where he is, he is loved by his colleagues, friends, and readers. And everyone who has come into contact with him has the same feeling: Missing writer Doan Gioi. The writer turns his private countryside into a shared countryside... In the collection of essays - criticism "Echoes of past seasons" by Nguyen Thi Thanh Xuan (Tre Publishing House, 2004) comments about the author Southern Forest Land: "Yes The land that gives birth to writers, and vice versa, there are writers who from the writing page have turned their private countryside into a familiar countryside in the minds of many people... With Doan Gioi, I think he welcomed to have that happiness... He brought to readers all over the country the knowledge and feelings about a land that was previously remote and wild in everyone's imagination... He built characters The heart is full of kindness but is delicate and rich in culture..." (Doan Gioi, Southern land and forests). Dr. Pham Van Tinh in the article "Communal roof - beauty in the soul of Vietnamese countryside" writes: "House Writer Doan Gioi, in his essay "Mang Tam Vong" has some very touching lines, describing the mood of a Southerner gathering to the North, sitting on a boat looking back at his village for the last time: "I stood forever on deck, waiting for the minute to pass by the house. My village is green with coconut trees and banana trees. The roof of the communal house was more than half burned, protruding between the trees. The banks of the bamboo shoots are looming, the tops of the bamboo shoots are golden in the sunlight of an autumn afternoon." "The roof of the communal house is more than half burned" - traces of war devastation, like a pain sown in the heart of a writer, a soon-to-be son. temporarily leave the country. This is the pain and suffering of the nation for many years. It is a piece of countryside soul, creating a beauty of Vietnamese villages, which has long been imprinted in the hearts of every person and shines in poetry and literature. The writer "has a destiny" with cinema DVD movie poster Dat Phuong Nam released in the US Based on the novel "Dat Phuong Nam" by the late writer Doan Gioi, in 1997, Ho Chi Minh City Television Studio produced produces the feature film "Southern Land" with 11 episodes, script and director: Nguyen Vinh Son. Immediately after that, the film won the A Award of the Vietnam Cinema Association in 1997. Mr. Gerald Herman is the representative in Vietnam of Discovery Communication PTE LTD Company (Singapore) - who directly transferred the movie "Southern Land" from VHS tapes. to DVD – indicating that this film was released very well in the US. "Southern Land" is Vietnam's first exported film. This is one of the very few dramas that domestic viewers really like, while overseas Vietnamese and foreign audiences find an attractive element - Vietnam's unique identity. Discovery Communication Company spent $25,000 to convert VHS tapes to DVDs. So the boy An (the main character in the movie) started a new adventure - to America. In that place, if one buys the entire set of 6 DVDs, one can read a rather flowery introduction to the film adapted from the novel "Southern Forest Land" by writer Doan Gioi: it can be compared to other movies. works by Charles Dickens and Mark Twain. The price of a DVD set of "Land of the South" in the US is 69 USD (about more than 800,000 VND)! xxx Phuong Nam forest land, characters have many classes and many professions like a miniature society, operating along the banks of the Tien and Hau Giang rivers to the U Minh forest, down to the tip of Ca Mau. Phuong Nam Forest Land has a traditional chapter structure: clear space and time, good and evil characters, black and white, separated and revealed through actions, shapes, and language. A literary style that is easy to read and understand, suitable for the majority of Vietnamese children. The literary style of stories with different variations is still full of vitality from One Thousand and One Nights, Three Kingdoms, Water Margin in the past to Harry Potter today... Doan Gioi's Southern Forest Land is still modern. . That is a way to approach psychological time, a way to mix epic poetics, counterintelligence, discovery...
Table of contents
Writer Doan Gioi (1925 - 1989)
Writer Doan Gioi (1925 - 1989)
A.HWelcome to read books from the book project for mobile devices. Source: author: Nguyen Kim Vy.
Final words: Thank you for reading the entire story. Source: editor: Nguyen Kim Vy. Source: NguoiVienXu Uploaded by friend: Ct.Ly on: May 27, 2005
|
Bùi Hiển
Nhà xác
Cuối khu nhà thương tỉnh ở góc rào phía tây có một ngôi nhà nhỏ. Cổng để mở ngày đêm, cửa há hoác cho nhìn thẳng vào trong. Trong nhà trơn trụi, không có gì, trừ một cái bệ hình chữ nhật nằm dọc chính giữa nền. Tường quét vôi vàng, ban đêm ánh đèn điện gây nên một bầu không khí hồng dịu như trong một tổ yêu đương của cặp vợ chồng mới. Nhưng màu hồng dịu ấm cúng đó chỉ là một lời rủa độc, bởi giữa những bức tường, chất chứa một niềm lạnh lẽo bi ai, và lẩn quất hơi âm rùng rợn. Bởi nhà đó là nhà xác. Đó là nơi quàn của bao nhiêu thi thể tàn tật, đã bị bệnh não cấu xé, ray rứt từng miếng thịt hay cào đục cả bộ phổi lá gan, trạm nghỉ của những linh hồn vừa được giải thoát sau một cuộc dằn vặt đau đớn và nhiều khi dây dưa. Xa trong kia là nhà điều trị bệnh hoa liễu. Nhà xác chiếm một góc biệt lập, nhưng cứ chiều chiều, bọn gái đĩ đang chữa bệnh lần ra đứng ngó nơi cổng hậu ngay cạnh đấy. áo cộc tay để lộ da thịt béo tròn, môi dày vẫn tô đỏ chót, họ đùa chọc khách qua đường và mua những thứ quà rẻ, khoai chuối, chè xanh. Người ta kể rằng đêm đêm họ thường trèo tường lẻn ra, bán dâm cho một số đàn ông nhiều thèm muốn hơn là nhiều xu. Năm 193… lòng mang nhiều tuyệt vọng cay đắng, tôi thường lảng vảng chốn này. Bởi một hấp lực ma quái âm u, tôi ưa lui tới nhà xác, để được đắm trong không khí thân thuộc của sự chết, và nghe phảng phất hơi lạnh rợn tia từ những thân thể cóng đờ. Xác chết phần nhiều vô thừa nhận. Tụ hội nơi đây, một lần cuối, những kẻ ăn mày ghẻ lở, mụ già lang thang cảnh sát bắt được nằm co quắp dưới sương khuya, đứa du đãng nhẩy tầu trốn vé bị đập đầu vỡ óc, thằng bé con chết đuối vớt ngoài sông đào đục ngầu chảy ven tỉnh. Cái chết với họ đã là một sự giải thoát. Trên mặt hom hem, nét mếu của đau đớn còn ghi lại. Đôi người giữ trên môi một cái cười gằn dữ tợn. Có kẻ trưng một bộ mặt dọa dẫm, miệng nhô cách khiêu khích. Phần nhiều trông thiểu não, với những chân tay que củi, những manh quần áo rách tươm để lộ ngực toàn những xương sườn. Đôi khi, sau một chuyến tầu tới, người ta khiêng vào một kẻ bị nạn, chân bị nghiền nát bét chỉ còn là một cục nhầy nhụa đỏ và trắng, sọ vỡ để thoát chất óc lèo nhèo. Duy có một lần, tôi trông thấy trên bệ một khuôn mặt trẻ con bình tĩnh. Thằng bé nằm như ngủ, da mặt trắng trẻo, thon và khôi ngô. Nó mặc một cái áo dài đen, một cái quần khá trắng. Lông mi rất dài và rất đen tỏa bóng xuống mắt. Tôi lấy làm lạ vì không có kẻ thân nào túc trực cạnh nó. Cạnh bệ, thấy còn để một cái mũ, và một tay nải nhỏ màu nâu, đợi giờ thiêu hủy. Thằng bé là con nhà ai, và vì cơ sự nào đã rơi rụng chốn này? Mang tay nải lang thang, có phải nó đi tìm mẹ? Hay vì nó ở với một ông chú khắc nghiệt, nó đã bỏ ra đi? Tôi đến gần, và bỗng giật mình. Một mắt của nó, mắt bên trái, hé mở lờ đờ nhìn tôi. Lúc nãy, vì đứng xa và ngang tầm đầu thằng bé, tôi không nhận thấy điều đó. Đột nhiên nhìn thấy con mắt mở, tôi tưởng như, cảm biết tôi đến gần, nó đã giương một con mắt chết để nhìn tôi. Con mắt nhìn tôi lặng lẽ, rất buồn rầu bởi bóng hàng mi dài và rậm. Người ta chỉ thấy một lát mỏng của con ngươi đen. Thằng bé nhìn tôi, môi cong ngây thơ hơi bìu bĩu. Trong chốc lát, tôi tưởng nó sẽ mở miệng nói với tôi những lời chắc hẳn buồn vô hạn. Con mắt độc nhất lờ đờ nhìn tôi. Tôi xáp gần hơn nữa, nhẹ đưa tay vuốt làn mi thằng bé. Con mắt như ưng thuận, nhắm lại, nhưng rồi chỉ vài ba giây sau, hàng mi lại nhướng dần, nhướng dần rất nhẹ, và con mắt lại lờ đờ nhìn tôi, rất buồn rầu... Thường mỗi sáng, nhận giấy báo, một người lính đem hai người phạm dẫn một cái xe bò vào cổng nhà xác. Họ lấy đi quan tài do nhà thương phát, bỏ cái xác vô thừa nhận vào, rồi chở trên xe cải tiến về phía nghĩa địa Tập phúc. Họ làm công việc ấy cách vô tình nên tàn nhẫn. Người chết bị xang đưa nhồi lắc, chắc hẳn có khi qụy gối hay cụp đầu mà tụt hẳn về một phía bởi quan tài nghiêng dữ quá: rồi tiếp tới cuộc hình phạt dài khi cái xe bánh gỗ vừa lăn vừa nhảy lộc cộc trên con đường đá gồ ghề... Ngày đầu, người lính ngạc nhiên nhìn tôi. Rồi chúng tôi bắt quen nhau, như hai người khách bắt quen vì năng gặp nhau cùng trong một tửu điếm. Và một hôm, trong khi trông coi phạm làm việc, tay cầm chiếc roi nhỏ, bác kể cho tôi một chuyện ghê gớm, mà tôi thuật lại dưới đây. * * * "Bữa ấy, tôi nhận phần việc đi chôn một mụ ăn mày, chết hồi đêm tại nhà thương. Theo thói thường, tôi đứng xa xa, để mặc cho hai tên phạm đi lấy xác nhập quan. Mới khoảng chín giờ sáng mà trời bức tối lạ. Mây kéo đen một góc trời. Tôi biết trước cơn giông sắp tới. Tôi bèn giục hai tên phạm đẩy xe chạy: tôi rảo bước theo sau. Đi chưa được nửa đường, mưa đổ xuống; một trận mưa rất dữ dội, chỉ một lát sau, con đường đã thành dòng suối đỏ ngầu. Chúng tôi vẫn cố chạy: nhưng sau, mưa to quá vuốt mặt không kịp, tôi bảo dừng lại trú cạnh một cây bàng lớn. Tuy bị nước rỏ từ cành lá xuống nón xuống vai lộp bộp, chúng tôi cho còn dễ chịu hơn là tắm mưa ngoài kia. Nhưng mụ chủ cái quán dựng sau cây bàng đã đứng chõ mồm hét mà đuổi chúng tôi quầy quậy. Tôi không chịu đi. Mụ không biết làm sao, bèn chắp hai tay vái lia lịa, xin chúng tôi đi đi cho, đừng để xác chết ám trước cửa hàng mụ. Nghĩ thương tình, tôi lại bảo hai tên phạm đẩy xe chạy một mạch cho đến nhà hội Tập phúc, rồi chúng tôi trú dưới mái hiên. Quan tài làm bằng gỗ xấu lại đóng cẩu thả: gặp nước mưa, ván cong lên, khe hở hoác ra. Nước chảy từ ván ròng ròng, một thứ nước vàng đục. Trong hai tên phạm có một đứa trông thật dữ tợn, chúng tôi quen gọi là thằng Hùm, hoặc Hùm Xám. Hắn nói đùa: - Coi, mỡ con mẹ chảy ra đó. Hứng lấy thắp đèn được. Mưa ngớt dần. Tên phạm thứ hai bỗng nói: - Có ai rên ở đâu đây. Thằng Hùm bô bô: - Con mẹ chứ ai nữa! Hắn nói chơi để dọa, không ngờ lại là chuyện thực. Chúng tôi nhận qua tiếng rên rỉ đưa từ trong áo quan ra, yếu ớt và đứt đoạn. Chắc hẳn người chết gặp nước lạnh giội đã sống lại. Tôi còn chưa biết làm thế nào thì thằng Hùm nói oang oang: - Bắt chúng ông xe trở lại nhà thương thì chúng ông chả chơi! Suy nghĩ một chốc, tôi cũng cho không nên chở mụ ăn mày trở về: mụ sống lại cũng chỉ được vài giờ là cùng. Nhưng tiếng rên rỉ cũng làm rối óc tôi. Tiếng rên đứt. Tôi thầm mong trong bụng: "Lạy trời nó chết!". Nhưng chỉ một giây sau, lại nghe tiếng mụ cào ván. Thằng Hùm nhặt một cái cọc tre, dùng hàm răng sắt của hắn tước cho hơi nhọn một đầu rồi lèn đoạn nhọn cố thọc vào một khe hở của quan tài. Đoạn hắn đè ngang cái cọc nậy tấm ván lên. Hắn mở thành một khe hở khá rộng, ghé mắt nhìn. Bỗng hắn hất ngửa đầu ra sau. Chúng tôi kinh ngạc thấy ba đầu ngón tay nhăn nheo run run rờ rẫm chuồi ra ngoài quan tài. Thằng Hùm vội rút cái cọc. Khe hở khép lại, mép gỗ cắn lấy ngón tay người nằm trong. Ba ngón tay run rẩy rất khẽ, rồi dần dần đổ xuống yên lặng trong khi tiếng rên rỉ lại nổi lên. Tôi không giữ được bình tĩnh nữa. Tôi vội hét thằng Hùm: - Dun tay người ta xuống! Hắn cầm cái cọc tre thọc thọc vào ba ngón tay. Tôi lại hét, gần như hoảng hốt: - Thôi, đem chôn! Đem chôn ngay! Hai tên phạm khiêng quan tài ra nghĩa địa, tuy trời vẫn còn mưa. Chúng chạy nhanh, nhồi lắc chiếc áo quan rất dữ, làm cho nước lọc bọc trong ấy. Chúng đào hố rất khổ công. Xẻng vừa xúc được một cục đất thì nước lại tràn ngay vào chỗ trũng mới. Đào xong, chỉ thấy trước mặt một vũng nước vàng đục lợn cợn váng. Hai tên phạm vứt bừa quan tài xuống đó, đoạn cúi xuống cố sức dìm. Nước tuôn vào trong quan tài do những kẽ hở, kêu lóc bóc lóc bóc. Khi nước vào đã nhiều, quan tài chìm xuống, những bọng không khí trào lên vỡ bùng bùng. Tôi giúp hai tên phạm đổ đất lên trên. Khi về, thằng Hùm nói: - Lắng tai mà nghe khi ta dìm áo quan; có tiếng con mẹ uống nước ừng ực. Cõ lẽ hắn nói thật; nhưng tôi cố không tin, bởi điều đó ghê rợn quá! 1942 Rút từ tập truyện ngắn Nằm vạ
Mục lục
Nhà xác
Nhà xác
Bùi HiểnChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.
Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: bạn: mickey đưa lên vào ngày: 26 tháng 3 năm 2004
|
Bùi Hiển
Nhà xác
Cuối khu nhà thương tỉnh ở góc rào phía tây có một ngôi nhà nhỏ. Cổng để mở ngày đêm, cửa há hoác cho nhìn thẳng vào trong. Trong nhà trơn trụi, không có gì, trừ một cái bệ hình chữ nhật nằm dọc chính giữa nền. Tường quét vôi vàng, ban đêm ánh đèn điện gây nên một bầu không khí hồng dịu như trong một tổ yêu đương của cặp vợ chồng mới. Nhưng màu hồng dịu ấm cúng đó chỉ là một lời rủa độc, bởi giữa những bức tường, chất chứa một niềm lạnh lẽo bi ai, và lẩn quất hơi âm rùng rợn. Bởi nhà đó là nhà xác. Đó là nơi quàn của bao nhiêu thi thể tàn tật, đã bị bệnh não cấu xé, ray rứt từng miếng thịt hay cào đục cả bộ phổi lá gan, trạm nghỉ của những linh hồn vừa được giải thoát sau một cuộc dằn vặt đau đớn và nhiều khi dây dưa. Xa trong kia là nhà điều trị bệnh hoa liễu. Nhà xác chiếm một góc biệt lập, nhưng cứ chiều chiều, bọn gái đĩ đang chữa bệnh lần ra đứng ngó nơi cổng hậu ngay cạnh đấy. áo cộc tay để lộ da thịt béo tròn, môi dày vẫn tô đỏ chót, họ đùa chọc khách qua đường và mua những thứ quà rẻ, khoai chuối, chè xanh. Người ta kể rằng đêm đêm họ thường trèo tường lẻn ra, bán dâm cho một số đàn ông nhiều thèm muốn hơn là nhiều xu. Năm 193… lòng mang nhiều tuyệt vọng cay đắng, tôi thường lảng vảng chốn này. Bởi một hấp lực ma quái âm u, tôi ưa lui tới nhà xác, để được đắm trong không khí thân thuộc của sự chết, và nghe phảng phất hơi lạnh rợn tia từ những thân thể cóng đờ. Xác chết phần nhiều vô thừa nhận. Tụ hội nơi đây, một lần cuối, những kẻ ăn mày ghẻ lở, mụ già lang thang cảnh sát bắt được nằm co quắp dưới sương khuya, đứa du đãng nhẩy tầu trốn vé bị đập đầu vỡ óc, thằng bé con chết đuối vớt ngoài sông đào đục ngầu chảy ven tỉnh. Cái chết với họ đã là một sự giải thoát. Trên mặt hom hem, nét mếu của đau đớn còn ghi lại. Đôi người giữ trên môi một cái cười gằn dữ tợn. Có kẻ trưng một bộ mặt dọa dẫm, miệng nhô cách khiêu khích. Phần nhiều trông thiểu não, với những chân tay que củi, những manh quần áo rách tươm để lộ ngực toàn những xương sườn. Đôi khi, sau một chuyến tầu tới, người ta khiêng vào một kẻ bị nạn, chân bị nghiền nát bét chỉ còn là một cục nhầy nhụa đỏ và trắng, sọ vỡ để thoát chất óc lèo nhèo. Duy có một lần, tôi trông thấy trên bệ một khuôn mặt trẻ con bình tĩnh. Thằng bé nằm như ngủ, da mặt trắng trẻo, thon và khôi ngô. Nó mặc một cái áo dài đen, một cái quần khá trắng. Lông mi rất dài và rất đen tỏa bóng xuống mắt. Tôi lấy làm lạ vì không có kẻ thân nào túc trực cạnh nó. Cạnh bệ, thấy còn để một cái mũ, và một tay nải nhỏ màu nâu, đợi giờ thiêu hủy. Thằng bé là con nhà ai, và vì cơ sự nào đã rơi rụng chốn này? Mang tay nải lang thang, có phải nó đi tìm mẹ? Hay vì nó ở với một ông chú khắc nghiệt, nó đã bỏ ra đi? Tôi đến gần, và bỗng giật mình. Một mắt của nó, mắt bên trái, hé mở lờ đờ nhìn tôi. Lúc nãy, vì đứng xa và ngang tầm đầu thằng bé, tôi không nhận thấy điều đó. Đột nhiên nhìn thấy con mắt mở, tôi tưởng như, cảm biết tôi đến gần, nó đã giương một con mắt chết để nhìn tôi. Con mắt nhìn tôi lặng lẽ, rất buồn rầu bởi bóng hàng mi dài và rậm. Người ta chỉ thấy một lát mỏng của con ngươi đen. Thằng bé nhìn tôi, môi cong ngây thơ hơi bìu bĩu. Trong chốc lát, tôi tưởng nó sẽ mở miệng nói với tôi những lời chắc hẳn buồn vô hạn. Con mắt độc nhất lờ đờ nhìn tôi. Tôi xáp gần hơn nữa, nhẹ đưa tay vuốt làn mi thằng bé. Con mắt như ưng thuận, nhắm lại, nhưng rồi chỉ vài ba giây sau, hàng mi lại nhướng dần, nhướng dần rất nhẹ, và con mắt lại lờ đờ nhìn tôi, rất buồn rầu... Thường mỗi sáng, nhận giấy báo, một người lính đem hai người phạm dẫn một cái xe bò vào cổng nhà xác. Họ lấy đi quan tài do nhà thương phát, bỏ cái xác vô thừa nhận vào, rồi chở trên xe cải tiến về phía nghĩa địa Tập phúc. Họ làm công việc ấy cách vô tình nên tàn nhẫn. Người chết bị xang đưa nhồi lắc, chắc hẳn có khi qụy gối hay cụp đầu mà tụt hẳn về một phía bởi quan tài nghiêng dữ quá: rồi tiếp tới cuộc hình phạt dài khi cái xe bánh gỗ vừa lăn vừa nhảy lộc cộc trên con đường đá gồ ghề... Ngày đầu, người lính ngạc nhiên nhìn tôi. Rồi chúng tôi bắt quen nhau, như hai người khách bắt quen vì năng gặp nhau cùng trong một tửu điếm. Và một hôm, trong khi trông coi phạm làm việc, tay cầm chiếc roi nhỏ, bác kể cho tôi một chuyện ghê gớm, mà tôi thuật lại dưới đây. * * * "Bữa ấy, tôi nhận phần việc đi chôn một mụ ăn mày, chết hồi đêm tại nhà thương. Theo thói thường, tôi đứng xa xa, để mặc cho hai tên phạm đi lấy xác nhập quan. Mới khoảng chín giờ sáng mà trời bức tối lạ. Mây kéo đen một góc trời. Tôi biết trước cơn giông sắp tới. Tôi bèn giục hai tên phạm đẩy xe chạy: tôi rảo bước theo sau. Đi chưa được nửa đường, mưa đổ xuống; một trận mưa rất dữ dội, chỉ một lát sau, con đường đã thành dòng suối đỏ ngầu. Chúng tôi vẫn cố chạy: nhưng sau, mưa to quá vuốt mặt không kịp, tôi bảo dừng lại trú cạnh một cây bàng lớn. Tuy bị nước rỏ từ cành lá xuống nón xuống vai lộp bộp, chúng tôi cho còn dễ chịu hơn là tắm mưa ngoài kia. Nhưng mụ chủ cái quán dựng sau cây bàng đã đứng chõ mồm hét mà đuổi chúng tôi quầy quậy. Tôi không chịu đi. Mụ không biết làm sao, bèn chắp hai tay vái lia lịa, xin chúng tôi đi đi cho, đừng để xác chết ám trước cửa hàng mụ. Nghĩ thương tình, tôi lại bảo hai tên phạm đẩy xe chạy một mạch cho đến nhà hội Tập phúc, rồi chúng tôi trú dưới mái hiên. Quan tài làm bằng gỗ xấu lại đóng cẩu thả: gặp nước mưa, ván cong lên, khe hở hoác ra. Nước chảy từ ván ròng ròng, một thứ nước vàng đục. Trong hai tên phạm có một đứa trông thật dữ tợn, chúng tôi quen gọi là thằng Hùm, hoặc Hùm Xám. Hắn nói đùa: - Coi, mỡ con mẹ chảy ra đó. Hứng lấy thắp đèn được. Mưa ngớt dần. Tên phạm thứ hai bỗng nói: - Có ai rên ở đâu đây. Thằng Hùm bô bô: - Con mẹ chứ ai nữa! Hắn nói chơi để dọa, không ngờ lại là chuyện thực. Chúng tôi nhận qua tiếng rên rỉ đưa từ trong áo quan ra, yếu ớt và đứt đoạn. Chắc hẳn người chết gặp nước lạnh giội đã sống lại. Tôi còn chưa biết làm thế nào thì thằng Hùm nói oang oang: - Bắt chúng ông xe trở lại nhà thương thì chúng ông chả chơi! Suy nghĩ một chốc, tôi cũng cho không nên chở mụ ăn mày trở về: mụ sống lại cũng chỉ được vài giờ là cùng. Nhưng tiếng rên rỉ cũng làm rối óc tôi. Tiếng rên đứt. Tôi thầm mong trong bụng: "Lạy trời nó chết!". Nhưng chỉ một giây sau, lại nghe tiếng mụ cào ván. Thằng Hùm nhặt một cái cọc tre, dùng hàm răng sắt của hắn tước cho hơi nhọn một đầu rồi lèn đoạn nhọn cố thọc vào một khe hở của quan tài. Đoạn hắn đè ngang cái cọc nậy tấm ván lên. Hắn mở thành một khe hở khá rộng, ghé mắt nhìn. Bỗng hắn hất ngửa đầu ra sau. Chúng tôi kinh ngạc thấy ba đầu ngón tay nhăn nheo run run rờ rẫm chuồi ra ngoài quan tài. Thằng Hùm vội rút cái cọc. Khe hở khép lại, mép gỗ cắn lấy ngón tay người nằm trong. Ba ngón tay run rẩy rất khẽ, rồi dần dần đổ xuống yên lặng trong khi tiếng rên rỉ lại nổi lên. Tôi không giữ được bình tĩnh nữa. Tôi vội hét thằng Hùm: - Dun tay người ta xuống! Hắn cầm cái cọc tre thọc thọc vào ba ngón tay. Tôi lại hét, gần như hoảng hốt: - Thôi, đem chôn! Đem chôn ngay! Hai tên phạm khiêng quan tài ra nghĩa địa, tuy trời vẫn còn mưa. Chúng chạy nhanh, nhồi lắc chiếc áo quan rất dữ, làm cho nước lọc bọc trong ấy. Chúng đào hố rất khổ công. Xẻng vừa xúc được một cục đất thì nước lại tràn ngay vào chỗ trũng mới. Đào xong, chỉ thấy trước mặt một vũng nước vàng đục lợn cợn váng. Hai tên phạm vứt bừa quan tài xuống đó, đoạn cúi xuống cố sức dìm. Nước tuôn vào trong quan tài do những kẽ hở, kêu lóc bóc lóc bóc. Khi nước vào đã nhiều, quan tài chìm xuống, những bọng không khí trào lên vỡ bùng bùng. Tôi giúp hai tên phạm đổ đất lên trên. Khi về, thằng Hùm nói: - Lắng tai mà nghe khi ta dìm áo quan; có tiếng con mẹ uống nước ừng ực. Cõ lẽ hắn nói thật; nhưng tôi cố không tin, bởi điều đó ghê rợn quá! 1942 Rút từ tập truyện ngắn Nằm vạ
Mục lục
Nhà xác
Nhà xác
Bùi HiểnChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.
Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: bạn: mickey đưa lên vào ngày: 26 tháng 3 năm 2004
|
Tam Tang
Nhà Đòn
Sau khi tốt nghiệp tại trường võ bị Thủ Đức, tôi được thuyên chuyển về một đơn vị tác chiến thuộc Sư Đoàn 21 BB. Thấm thoát thế mà cũng đã gần được một năm rồi! Đời lính chiến rày đây mai đó, không dừng chân ở một nơi nào quá hai tuần lễ ! Nhiều hôm nằm trong lều Poncho nghe tiếng mưa rơi rả rích mà nhớ lại thời còn là học sinh trung học! Những kỷ niệm êm đềm như vẫn như còn hiển hiện trước mắt tôi! Những buổi trốn học giờ Việt văn đi đánh bi da, những lúc rút người lại nấp sau lưng người ngồi trước vì sợ thày gọi lên bảng làm bài tập! Những hôm nghịch ngợm lấy quả mắt mèo thoa trên mặt ghế của các cô bé trong lớp rồi cùng nhau ôm bụng cười khi thấy các nàng đỏ mặt che dấu sự ngứa ngáy tàn bạo kia! Những mối tình một chiều vụng dại, thic h đấy mà chẳng dám thổ lộ cùng ai! Còn nhiều lắm những kỷ niệm của thời yêu dấu đó ! Nay đã là lính chiến, cuộc sống thật bấp bênh . Sống hôm nay đó biết đâu ngày mai xác mình đã được gói trọn trong chiếc poncho rồi! Tiểu đoàn tôi được lệnh tái chiếm một xã thuộc quận Vĩnh Châu tỉnh Bạc Liêu . Xã này bị VC chiếm tuần qua! Khi chúng tôi đến gần địa điểm trời đã về chiều. Tiểu đoàn trưởng ra lệnh đóng quân qua đêm . Đại đội của tôi nhận nhiệm vụ trấn giữ bờ bên phải của con kinh chạy dẫn đến xã! Trung đội tôi được lệnh đi nằm tiền đồn cách đó chừng 500 mét tại một nghĩa địa nằm cạnh ngã ba của con kinh va ` một cái rạch nhỏ ! Đây làmột nghĩa trang khá lớn, là nơi chôn cất dân trong xã ! Khi tôi dẫn trung đội tới vị trí thì trời đã nhá nhem tối và cơn mưa dầm nhỏ hột bắt đầu rơi . Thời điểm này rất thuận tiện cho việc di chuyển quân hay tìm chổ đóng quân vì địch khó phát giác ra vị trí của ta ! Nghĩa trang này rộng cở một mẫu tây, chung quanh không có hàng rào, nhưng có bốn cái cọc to, cao cở tầm người được cắm ở bốn góc làm ranh giới ! Bên trong có chừng năm sáu chục cái mộ mằm rải rác không theo hàng lối nào cả ! Đa số là mộ đất với các tấm bia cắm ở cuối chân! Cũng có chừng năm sáu mộ được xây bằng xi măng với màu trắng nhờ nhờ của vôi! Chắc đó là mộ của các kẻ khá giả trong xã này ! Sừng sửng giữa cái nghĩa trang là một cái "nhà đòn" mái lợp ngói. Ba vách được xây bằng gạch đỏ nhưng không tô . Phía trước mặt tiền được để trống với một hàng hiên nhỏ phía trước . Nền nhà bằng xi măng nên trông sạch sẽ so với môi trường chung quanh! Tôi chỉ định vị trí đóng quân cho các tiểu đội, chỉ chổ cho họ gài "trái sáng" và mìn "Claymore" ! Trong lúc các người lính hì hục đào hố cá nhân và giăng lều, người trung đội phó của tôi rủ rê : _ Mình về nhà đòn ngủ đi ông thày ! Nhìn cảnh sình lầy ướt át chung quanh, tôi nghe cũng bùi tai ! Tôi cùng ban chỉ huy trung đội rút về cái nhà đòn ngủ qua đêm ! Một cái bàn thờ nhỏ với một lư hương to cở cái nón sắt được dựng sát vách sau . Trên sàn nhà có hai bộ đòn dùng để khiêng quan tài người chết ! Một cái chỉ có hai đòn dài và hai thanh ngắn đóng giữ ở gần hai đầu. Bộ còn lại trông đẹp đẽ hơn, được sơn màu đen trắng đỏ, giữ bởi hai thanh ngang và có lọng vuông với vải đen thêu hình phía trên trông như một cái kiệu ! Cái này có lẽ để cho các nhà giàu mướn thôi! Ngoài trời vẫn mưa rả rích, chỉ nghe tiếng côn trùng kêu e e nghe buồn đến thối ruột! Chúng tôi cả thảy là 5 đứa: Tôi, người trung sỹ nhất trung đội phó, anh lính truyền tin và hai người "tà lọt" . Tôi nói người tà lọt của tôi giăng mùng cho tôi ngoài hành lang ngay trước mặt tiền . Làm xong việc cho tôi, anh ta cùng mấy người khác giăng mùng của họ ngay trong nhà đòn . Vì trong nhà chật , họ phải giăng mùng ngay trên hai bộ đòn để ngủ ! Lính mà! Ma sợ lính chứ lính sợ gì ma! Chúng tôi thường bảo nhau như vậy ! Tuy nhiều lần ngủ ở các gò mả ngoài ruộng trong các cuộc hành quân rồi, nhưng đây là lần đầu tiên tôi ngủ trong một nhà đòn ! Mọi người chun vào mùng để tránh bọn muỗi đói đang bay vo ve như sáo thổi chung quanh ! Tôi có thói quen là khi vào mùng phải làm dấu đọc vài kinh trước khi ngủ. Tôi chưa hề gặp ma, nhưng tin có thế giới bên kia ! Vì là lần đầu ngủ trong nhà đòn nên tôi cũng hơi hơi rợn một tí ! Trước khi nhắm mắt tôi lầm bầm như để tự trấn an mình: "Tôi không phá phách gì ai ! Chỉ xin ngủ nhờ một đêm thôi!" Sau đó tôi thiếp đi trong giấc ngủ. Tiếng kêu của con cú ngay trên nóc nhà làm tôi giật mình tỉnh giấc! Chung quanh nhà vẫn tối đen như mực, tôi coi đồng hồ tay thì mới có ba giờ sáng thôi! Tiếng con cú đập cánh bay đi làm tôi giật nẩy mình! Tôi tự cười mình sao mà nhát gan đến thế ! Tôi chun ra khỏi mùng ra phía sau nhà để đi tiểu. Tiểu xong tôi quay lưng để trở về thì giật nẩy cả người lên! Trong bóng đêm tôi thấy bốn cái bóng đen ngồi tựa lưng vào vách ở phía sau cái nhà đòn . Tôi nhẩy bắn ra thủ thế và lần tay tìm khẩu colt45 vì tưởng là bọn đặc công VC đột nhập vào! Lúc này mắt tôi đã quen với bóng tối nên nhận ra đó là mấy tên bộ ha. của mình đang ngồi tựa lưng vào vách ngủ say như chết ! Tôi lay họ dậy và hỏi sao lại bò ra đây mà ngủ vậy ! Cả bốn dụi mắt kinh hoảng lắm: _ Tụi tui ngủ trong nhà mà !! Sao ai khiêng tui. tui ra đây cà ! Không ai nói với ai một lời nhưng trong thâm tâm chúng tôi đều nghĩ đến một điều _ "Còn ai vô đây nữa!" Mùng của tôi giang chấn ngang mặt tiền của nhà đòn. Ai bước ra ngoài cũng phải bước qua mùng, hay chun qua các giây căng! Trời tối đen như mực, tất nhiên họ phải đụng vào mùng tôi hoặc gây ra tiếng động và tôi phải biết vì tôi rất tỉnh ngủ (một thói quen có từ nghiệp lính !) Không ai dám ngủ lại cả ! Bọn chúng tôi chun vào ngồi túm tụm trong mùng của tôi trước hiên nhà, thì thào nói chuyện chờ sáng! Từ đó về sau người trung đội phó của tôi không bao giờ mở miệng rủ tụi tôi ghé vào ngủ trong các nhà đòn nữa! Note: Ở nước Mỹ này chúng ta thấy có nhiều Funeral homes trong thành phố, nếu bạn nào muốn thử sự gan dạ của mình, hãy trốn vào ngủ trong đó một đêm xem sao ! Hãy tắt hết đèn rồi leo lên bàn để quan tài nằm trên đó một đêm để lấy kinh nghiệm đi! Còn bạn nào gan hơn nữa thì hãy chun vào các nghĩa địa, trốn vào nhà đòn, lên bàn để áo quan ở đó mà ngủ qua đêm, hay chun vào lò thiêu nằm thưởng thức cảnh lửa khè chung quanh và mùi thịt cháy bốc lên mũi của mình ! Chúc bạn may mắn trở về toàn vẹn ! Chú thích: Viết theo lời kể của một người lính VNCHHết
Mục lục
Nhà Đòn
Nhà Đòn
Tam TangChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.
Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: bạn: mickey đưa lên vào ngày: 2 tháng 7 năm 2004
|
Tam Tang
Don House
After graduating from Thu Duc martial arts school, I was transferred to a combat unit of the 21st Infantry Division. It's been almost a year already! The life of a soldier is to travel here and there, never staying in one place for more than two weeks! Many days I lay in the Poncho tent, listening to the sound of rain falling and remembering my time as a high school student! The peaceful memories still seem to appear before my eyes! The times when I skipped Vietnamese class to play billiards, the times I retreated and hid behind the person sitting in front for fear that the teacher would call me up to do homework! Those mischievous days when we used cat's eye balls to rub on the chairs of the girls in class and then hugged our stomachs and laughed when we saw them blushing to hide the brutal itching! Those awkward, one-sided loves that you don't dare to confess to anyone! There are so many memories of that beloved time! Now that I am a soldier, life is very unstable. Live today, maybe tomorrow your body will be wrapped in a poncho! My battalion was ordered to recapture a commune in Vinh Chau district, Bac Lieu province. This commune was occupied by VC last week! By the time we approached the location, it was already afternoon. The battalion commander ordered the troops to close overnight. My company took on the task of guarding the right bank of the canal leading to the commune! My platoon was ordered to lie down at the outpost about 500 meters away at a cemetery next to the junction of the canal and a small canal! This is a fairly large cemetery, where people in the commune are buried! When I led the platoon to the position, the sky was already dark and a light rain began to fall. This time is very convenient for moving troops or finding a place to station troops because it is difficult for the enemy to detect our position! This cemetery is about an acre wide, there is no fence around it, but there are four large stakes, as tall as people, placed at the four corners as boundaries! Inside there are about fifty or sixty graves scattered in no row at all! Most of them are earthen graves with steles stuck at the end! There are also about five or six graves built of cement with a white color thanks to the lime! Those are probably the graves of the well-off people in this commune! Standing tall in the middle of the cemetery is a tile-roofed "barrow house". The three walls are built of red bricks but are not painted. The front facade is left blank with a small front porch. The floor is cement so it looks clean compared to the surrounding environment! I assigned the squad positions and told them where to plant "light bombs" and "Claymore" mines! While the soldiers were busy digging foxholes and setting up tents, my deputy platoon leader called out: _ Let's go home and get some sleep, teacher! Looking at the wet, swampy scene around me, it also made my ears happy! I and the platoon command retreated to the hut to spend the night! A small altar with an incense burner the size of an iron hat was built close to the back wall. On the floor there are two sets of poles used to carry the coffins of the dead! One has only two long bars and two short bars near both ends. The other set looks more beautiful, painted black, white and red, held up by two horizontal bars and has a square parasol with black fabric embroidered on top to look like a palanquin! This is probably only for rich people to rent! It's still pouring rain outside, just hearing the sounds of insects chirping makes me feel sick to my stomach! There were 5 of us in total: I, the first sergeant of the platoon, the signalman, and two "talent" people. I told my friend to spread a mosquito net for me in the hallway right in front of the house. After finishing my work, he and a few others set up their mosquito nets right in the beating house. Because the house is cramped, they have to put mosquito nets right on two sets of poles to sleep! Soldier! Ghosts are afraid of soldiers, soldiers are not afraid of ghosts! We often tell each other that! Although I have slept in mounds in the fields many times during operations, this is the first time I have slept in a funeral home! Everyone huddled under mosquito nets to avoid the hungry mosquitoes that were buzzing around like flutes! I have a habit of having to sign a few prayers before going to sleep on the new moon. I've never seen a ghost, but I believe there is an afterlife! Because it was my first time sleeping in a house, I was a little scared! Before closing my eyes, I mumbled as if to reassure myself: "I didn't harm anyone! Just asking to stay for the night!" Then I fell asleep. The owl's cry right on the roof startled me awake! It was still pitch black around the house. I looked at my watch and it was only three in the morning! The sound of the owl flapping its wings and flying away made me jump! I laughed at myself for being so cowardly! I crawled out of the mosquito net and went to the back of the house to pee. After urinating, I turned around to go back and my whole body jumped! In the darkness I saw four dark shadows sitting with their backs against the wall behind the shed. I jumped into a defensive stance and searched for the colt45 because I thought it was VC commandos breaking in! By this time my eyes had gotten used to the darkness so I realized those were the thugs. mine is sitting with his back against the wall sleeping like death! I shook them awake and asked them why they crawled out here to sleep! The four rubbed their eyes in horror: _ We're sleeping in the house!! Why is someone carrying me? I'm outta here! No one said a word to anyone, but in our hearts we were all thinking one thing _ "Who else is coming here?" My mosquito net spread across the front of the funeral home. Anyone who steps outside must step over the mosquito net, or squeeze through the tight ropes! It was pitch black, of course they had to touch my mosquito net or make noise and I had to know because I was very wide awake (a habit from my military career!) No one dared to sleep over! We huddled together under my mosquito net on the porch, whispering and waiting for morning! From then on, my deputy platoon leader never opened his mouth to invite us to sleep in the torture chambers again! Note: In America, we see many funeral homes in the city. If you want to test your bravery, hide in them for a night and see what happens! Turn off all the lights and climb up on the table to let the coffin lie on it for one night to gain experience! If you are braver, go to the cemetery, hide in the funeral home, go to the coffin table and sleep there overnight, or go to the crematorium to lie down and enjoy the sight of the fire roaring around and the smell of burning flesh rising up. my nose! Wishing you good luck and a complete return! Note: Written according to the story of a Vietnamese soldier
Table of contents
Don House
Don House
Tam TangWelcome you to read books from the book project for mobile devices. Source: author: Nguyen Kim Vy.
Final words: Thank you for reading the entire story. Source: editor: Nguyen Kim Vy. Source: friend: mickey posted on: July 2, 2004
|
Tô Hoài
Nhái
Đi chợ, đi ăn phải chọn, phải mặc cả, hỗ giá cao chỗ giá thấp, người mua lúc nào cũng lo bị hớ, người bán thì lúc nào cũng thề bồi, cha chết mẹ chết con chết, ngày nào cũng làm con chó ăn cứt nếu nói điêu, nếu gian dối, trong khi đương nói điêu, đương gian dối. Ấy là quang cảnh chợ búa hôm xưa và hôm nay vẫn thế.Ai còn nhớ trên dốc Hàng Than ngày trước chỉ có một cửa hiệu bánh cốm Nguyên Ninh, các làng cũ quanh Hàng Than cũng không có nghề gia truyền về bánh cốm. Ấy thế mà bây giờ thì không những ở dốc Hàng Than mà còn ở nhiều phố cũng quảng cáo “Bánh cốm gia truyền dốc Hàng Than”. Tên hiệu hai chữ thế nào cũng nhái chữ Nguyên hay chữ Ninh hay cả hai chữ, nhưng nhập nhằng là Nguyên Ninh mà nào bánh cốm có ra làm sao. Cái hộp thì in giả lạt đỏ buộc, miếng bánh bọc giấy bóng, còn bánh thì các cụ bĩu môi: “Mỏng như cái lưỡi mèo”.Cái nghề làm chả cá ở phố Hàng Sơn gốc của nhà họ Đoàn, sách báo đã nói rõ nhà ấy, chỉ có nhà ấy, có lẽ vì thế mà không ai lộn sòng, xưng mấy đời chả cá. Nhưng chẳng qua cũng bởi bán món tươi sống, nhỡ ế đôi ba hôm thì lỗ vốn chết không kịp ngáp, nếu dễ dàng hơn chắc người ta cũng dễ dàng nhái lắm. Lại còn không có cũng bịa ra, ấy là cái phở “gia truyền Nam Định”. Cái nhà phở Thìn Bờ Hồ cũng thường thôi. Thế mà lắm nơi treo bảng “Phở Thìn Bờ Hồ”. Thật ra ông phở Thìn được tiếng phở chỉ vì cái hồi ấy máy bay Mỹ hay đến giội bom Hà Nội (ông chủ quán chim quay Tiểu Lạc Viên nửa đêm nghe bom ném cầu Long Biên, ông đứt mạch máu não). Người chơi khuya không tìm đâu ra được bát phở ăn đêm, chỉ có quán ông Thìn dám bán phở quá 12 giờ đêm. Có khi đương ăn phải bưng cả bát phở chạy sang bên Bờ Hồ đứng trong hố cá nhân ăn nốt. Tôi cũng đã là người ham ăn, nhiều đêm phải ăn chạy bom ở hàng ông Thìn, trong khi ban chiều máy bay ném bom bi cả xuống cây đa đền Bà Kiệu.Bánh cốm nhái chữ Ninh, chữ Nguyên, bánh đậu xanh có chữ Hương ở Hải Dương, lại phải kể đến nhái nhãn hiệu nước khoáng. Có hồi, nước khoáng Lavie (La vie, tiếng Pháp: sự sống), thấy nhan nhản nước khoáng La ville (La ville, tiếng Pháp: thành phố) thật vô nghĩa. Nhưng lại còn vô nghĩa và dã man đến độ nhái bạt mạng: La viol (viol, tiếng Pháp: cưỡng dâm). Cái nước khoáng Viol chỉ thấy lập lờ một dạo rồi biến. Chắc có người chửi thằng ăn cắp dốt và liều quá.Chỉ có làm giả bột ngọt Azimoto, rượu vang Boócđô thì bị phạt và ra toà, còn pháp luật chưa để mắt tới nhái, trong khi nhái cũng là hàng giả. Lại cái bánh dầy Quán Gánh, lại cái tương Bần. Có phải cả vùng Quán Gánh làm bánh dầy đâu. Ngày trước, bánh dầy nhân đậu Quán Gánh ngon thật. Nhưng chỉ có mỗi một bà hàng nước vối ngồi ở Quán Gánh làm bánh dầy bán kèm với trứng vịt luộc.Bây giờ ven quốc lộ qua Quán Gánh dài dài có đến trên hàng cây số treo bảng “Bánh dầy Quán Gánh”. Bánh dầy xếp la liệt, cao có ngọn mà tuyệt nhiên không thấy khách ngồi ăn bánh dầy uống nước vối như ngày xưa.Bởi vì bánh dầy bày bán cho khách qua đường ngày nay không phải khách bộ hành, không phải là ông hay tôi đi xe đạp, xe máy qua mà là các xe chở khách, xe vận tải Bắc Nam đỗ xuống mua. Khách phía Nam rời thủ đô muốn mua cái gì đặc sản Hà Nội đem đi. Không phải cái báu ngọc gì đâu, mà chỉ là những vặt vãnh mà trong kia hiếm không có, như quả sấu, gói ô mai mơ, thì bánh dầy Quán Gánh cũng là một món quà thời thượng. Chỉ có khách xa quý Hà Nội lắm mới tải đi cả phố bánh dầy thế được.Cái tương Bần đựng vào những can xăng vàng choé - vùng Bần có tiếng tương ngon, nhưng cũng không bao giờ có cả phố bán tương Bần như bây giờ. Ngày trước, cả Hà Nội chỉ có một nhà bán tương Cự Đà ở vùng phố cổ. Các ông các bà hàng quán ấy mà có đôi chút lương tâm thì may ra còn được ăn tương tử tế, nếu không thì chỉ gặp những thủ đoạn chợ búa bất nhân. Cũng dễ lắm, bởi vì khách mua tương rồi đem đi xa cả mấy ngày đường. Lại là khuất mắt mà.Bất giác, nhớ một chuyện đểu. Hồi ấy, các ga xe lửa còn cho hàng quà các thức bán lên tàu và đi quanh hai bên cửa sổ. Toa ăn của tàu thì nhà tàu chơi ác, cho mọc ngay sau cái đầu máy, lặn lội trèo qua hàng chục toa người mới lên tới toa ăn thật rắc rối, khó nhọc. Nhiều hành khách cũng như tôi, đành với tay ra cửa sổ, mua cái bánh chưng, bánh dầy thế cũng xong bừa.Chỗ ấy quãng qua ga Đồng Vân. Tôi với tay ra cửa sổ, mua cái bánh trưng. Tàu chạy, bóc bánh ăn, ở trong là một cục đất sét. Cục đất nặn cũng nong nóng như vừa mới vớt ở nồi ra. Từ cái bánh chưng, bánh dầy, lọ tương, lọ nước khoáng cỏn con đến những chuyện to dự án B, dự án C và những công trình lớn thì thế nào, có ăn cắp, có làm giả không, có chứ, bởi nó cũng là dây dợ họ hàng của những kẻ mua người bán ngoài chợ quen ăn không nói có và cái thói thề bồi xoen xoét đương xảy ra.(Chữ nhái, tôi vẫn cho là một tiếng thường dùng ở phía Nam. Nhưng tra Tự vị tiếng Việt miền Nam của Vương Hồng Sến không có. Từ điển Từ và Ngữ Việt Nam của Nguyễn Lân thì viết: Nhái: bắt chước, nhái mẫu hàng, nhái một thứ hàng. Bạn nào biết gốc tích rõ hơn, xin trao đổi).
Mục lục
Nhái
Nhái
Tô HoàiChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.
Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.Đánh máy: Nguyễn Học Nguồn: Nguyễn Học VNthuquan - Thư viện OnlineĐược bạn: Ct.Ly đưa lên vào ngày: 28 tháng 6 năm 2006
|
To Hoai
Cloak
When going to the market or eating out, you have to choose, you have to bargain, you have to pay high prices for low prices, buyers are always worried about being ripped off, sellers are always swearing to compensate, fathers die, mothers die, children die, every day is a dog. eat shit if you lie, if you lie, while you lie, if you lie. That is the scene of the market in the past and is still the same today. Who remembers that on Hang Than slope in the past, there was only one Nguyen Ninh green rice cake shop, the old villages around Hang Than also did not have the traditional profession of green rice cake. Yet now, not only on Hang Than slope but also on many streets also advertise "Hang Than slope heirloom green rice cake". The two-word brand name could imitate the word Nguyen or Ninh or both words, but it's ambiguously called Nguyen Ninh, so it doesn't matter what the rice cake is. The box was printed with fake red tarpaulin, the cake was wrapped in glossy paper, and the people pouted: "Thin as a cat's tongue". The profession of making fish cakes on Hang Son street originally belonged to the Doan family, books and newspapers said. That house is clear, that house is the only one, perhaps that's why no one makes a mistake and calls several generations of fish cakes. But it's just because we sell fresh food. If it's not available for a few days, we'll lose capital and die without having time to yawn. If it were easier, it would be easy for people to copy it. If you don't even have it, you can make it up, it's a "Nam Dinh heirloom" pho. The Pho Thin Bo Ho restaurant is just normal. Yet, in many places, the sign "Pho Thin Bo Ho" is hung. Actually, Mr. Pho Thin became famous for pho only because at that time American planes often came to bomb Hanoi (the owner of Tieu Lac Vien roasted bird restaurant in the middle of the night heard bombs being dropped on Long Bien Bridge, he had a stroke in his brain). Late-night eaters can't find a bowl of pho to eat at night. Only Mr. Thin's restaurant dares to sell pho past 12 o'clock at night. Sometimes while eating, I have to carry the entire bowl of pho and run to Bo Ho and stand in a foxhole to finish eating. I was also a glutton for food, many nights I had to eat bombs at Mr. Thin's restaurant, while in the afternoon planes dropped ball bombs on the banyan tree of Ba Kieu temple. The green rice cake had the characters Ninh and Nguyen written on it, and the green bean cake had the words Huong in Hai Duong, we have to mention imitation mineral water brands. There was a time when Lavie mineral water (La vie, French: life) seemed meaningless. But it's still meaningless and barbaric to the point of blatant imitation: La viol (viol, French: rape). The Viol mineral water only flickered for a while and then disappeared. Surely someone cursed the thief for being so ignorant and reckless. Only those who counterfeit Azimoto MSG and Bordeaux wine are fined and taken to court, but the law does not pay attention to imitations, while imitations are also fake goods. Another Quan Ganh thick cake, another Ban soy sauce. It's not like the entire Quan Ganh area makes thick cakes. In the past, Quan Ganh's bean paste cake was really delicious. But there is only one woman selling water at Quan Ganh, making banh day and selling it with boiled duck eggs. Now, along the highway past Quan Ganh, there is a sign "Quan Ganh's banh day" hanging for kilometers. Banh day is arranged all over the place, high with tops, but there are absolutely no customers sitting down to eat banh day and drink tapioca water like in the past. Because banh day is sold to passersby today, not pedestrians, not you or me. Pass by on bicycles and motorbikes, but North-South passenger cars and transport vehicles stop to buy. Southern tourists leaving the capital want to buy some Hanoi specialties to take away. It's not a precious gem, it's just little things that are rare in there, like crocodile fruit, apricot apricot wraps, and Quan Ganh day cake is also a trendy gift. Only customers who are very far from Hanoi can transport the whole street of banh day like that. Ban soy sauce is stored in bright yellow gasoline cans - the Ban area is famous for delicious soy sauce, but there has never been a whole street selling Ban soy sauce like now. . In the past, there was only one restaurant selling Cu Da sauce in the whole of Hanoi in the Old Quarter. If those shopkeepers and shopkeepers have a little conscience, they are lucky to be able to eat decent soy sauce, otherwise they will only encounter inhumane market tricks. It's also very easy, because customers buy soy sauce and then take it away for several days. It's out of sight again. Suddenly, I remember something stupid. At that time, train stations also had gift shops selling food on the train and around both sides of the windows. The train's dining car was played cruelly by the train company, planting it right behind the locomotive, making it very troublesome and difficult to have to climb through dozens of cars to get to the dining car. Many passengers, like me, had to reach out the window and buy a banh chung or banh day. That place was about past Dong Van station. I reached out the window and bought a banh chung. The train ran, peeled off the bread to eat, inside was a lump of clay. The clay was still hot as if it had just been taken out of the pot. From the small banh chung, banh day, jar of soy sauce, jar of mineral water to big things about project B, project C and big projects, is it stolen, is it faked, yes, because it It is also the connection between relatives of buyers and sellers in the market who are used to eating without saying yes and the habit of swearing and swearing around. (The word imitation, I still think is a commonly used word in the South. But check Tu Tu Southern Vietnamese by Vuong Hong Sen does not exist. Dictionary of Vietnamese Words and Language by Nguyen Lan writes: Copy: imitate, imitate a product, copy a product. If you know the origin better, please discuss.) .
Table of contents
Cloak
Cloak
To Hoai Welcome to read the titles from the book project for mobile devices. Source: author: Nguyen Kim Vy.
Final words: Thank you for reading the entire story. Source: author: Nguyen Kim Vy. Typing: Nguyen Hoc Source: Nguyen Hoc VNthuquan - Online Library Uploaded by friend: Ct.Ly on: June 28, 2006
|
Huỳnh Ngọc Chiến
Nhân một câu văn của Cổ Long
“Bóng tối cùng sự yên tĩnh mênh mông đó, há chẳng phải là ân sủng mà trời cao ban tặng cho những cặp tình nhân? Tình yêu là một đóa hoa kỳ dị, không cần đến ánh nắng mặt trời, cũng không cần đến những giọt mưa, mà vẫn nở ra những cánh hoa diễm lệ trong bóng tối.” vô biên đích hắc ám dữ tĩnh tịch, khởi phi chính thị thượng thiên đối tình nhân môn đích ân tứ? Ái tình thị nhất chủng kỳ dị đích hoa đóa, tha tịnh bất nhu yếu dương quang, dã bất nhu yếu vũ lộ, tại hắc ám trung, tha phản nhi khai phóng đắc tiện mỹ lệ. -Tuyệt đại song kiêu, chương 124).
Bắt gặp một cuốn sách hay trong đống sách cũ bày bán sale off sẽ đem lại cho ta sự thích thú hơn là tìm thấy nó trong thư viện lớn. Tìm được một mạt vàng trên đống sỏi đá, có lẽ ta còn sung sướng hơn là tìm thấy được một viên kim cương trong tiệm kim hoàn. Đọc sách cũng vậy. Tình cờ đọc được một đoạn văn hay trong một tác phẩm bình thường của một nhà văn không đặc sắc, lắm khi ta lại thấy thích thú vô ngần. Chính sự bất ngờ đó đem lại niềm hứng thú. Đó cũng là cảm giác của tôi, khi đọc được đoạn văn trên trong Tuyệt đại song kiêu.Trong tác phẩm này, một tác phẩm cũng bình thường như bao tác phẩm khác của mình, Cổ Long đã có nhiều câu văn mô tả về phụ nữ cực kỳ tinh tế. Từ tàn nhẫn đến thiết tha, từ ngộ nghĩnh đến chua cay. Song chính đoạn văn trên, theo cảm nhận của riêng tôi, mới thực sự là diệu bút. Thiết Tâm Lan yêu thiết tha Tiểu Ngư Nhi vì tình, song chỉ yêu Hoa Vô Khuyết vì nghĩa. Trong trận đấu quyết định một mất một còn mang tính định mệnh giữa Hoa Vô Khuyết và Tiểu Ngư Nhi, Thiết Tâm Lan đã chủ động tìm đến Hoa Vô Khuyết để yêu cầu vị truyền nhân duy nhất của Di Hoa Cung này đừng giết Tiểu Ngư Nhi, và điều đó có nghĩa là y phải chết! Chính bản thân Thiết Tâm Lan cũng quyết định dùng cái chết để tạ lòng tri kỷ. Vì Thiết Tâm Lan và Hoa Vô Khuyết, mà Cổ Long đột nhiên đã có một đoạn văn xuất thần. Một người con gái, trong đêm khuya, khẩn cầu một người yêu mình phải chết để cứu một người mình yêu, rồi quyết định tự vẫn để tạ lòng tri kỷ, cũng là một chi tiết rung động lòng người. Bút lực Cổ Long không đủ sức để diễn đạt sự thăm thẳm của những diễn biến trong tâm hồn, khi con người, vì Tình Yêu, tự nguyện đối diện với Cái Chết bằng tất cả sự hân hoan và cay đắng, song cảnh tượng Thiết Tâm Lan nửa đêm tìm đến Hoa Vô Khuyết để thỉnh cầu và bày tỏ nỗi lòng cho nhau trong đêm khuya thật là cảm động. Nói đến “màu tình yêu”, thì chắc hẳn người ta sẽ nghĩ đến bài thơ “Màu thời gian” của Đoàn Phú Tứ: Màu thời gian không xanh Màu thời gian tím ngát Hương thời gian không nồng Hương thời gian thanh thanh Có nhiều người bông đùa thường bảo “màu tình yêu” chính là “màu thời gian tím ngát” đó. Mà màu tím lại là “màu nho”, theo cách nói lái tinh nghịch của người dân xứ Quảng! Còn Cổ Long lại như muốn đồng hóa tình yêu với bóng tối! Người ta thường nói bóng tối đồng nghĩa với tội lỗi. Song với Cổ Long lại khác. “Bóng tối cùng sự yên tĩnh mênh mông đó, há chẳng phải là ân sủng mà trời cao ban tặng cho những cặp tình nhân? Tình yêu là một đóa hoa kỳ dị, không cần đến ánh nắng mặt trời, cũng không cần đến những giọt mưa, mà vẫn nở ra những cánh hoa diễm lệ trong bóng tối.” Người cầm bút, trong những phút linh cầu, đôi khi viết được những câu văn xuất thần, mà bản thân họ cũng không ngờ tới. Chỉ với câu văn này, Cổ Long như muốn vượt ra khỏi dòng văn chương võ hiệp truyền thống. Song đáng tiếc đó chỉ là cái bước hụt hơi, vì dường như Cổ Long không đủ nội lực để đi tiếp! Gérard de Nerval – nhà thơ kỳ diệu của nước Pháp, người đã sống cùng với tình yêu như là một điều huyền nhiệm - đã có một khổ thơ tinh tế: C est peut-être la seule au monde Dont le coeur au mien répondrait Qui venant dans ma nuit profonde D un seul regard l éclaircirait? Em là người duy nhất trong đời Mà trái tim hòa nhịp tim tôi Em về trong bóng đêm thăm thẳm Ánh mắt bừng lên nét rạng ngời. (Une allée du Luxembourg) Tôi muốn bạn đọc hiểu nghĩa “nuit profonde” (bóng đêm thăm thẳm) theo nghĩa bóng tối của những buổi hẹn hò. Để cảm nhận thêm sự mênh mông trong câu văn Cổ Long. Và từ đó ta sẽ nghe ra sự đồng vọng mênh mông trong câu thơ Huy Cận Bóng đêm toả không lấp niềm thương nhớ Tình đi mau, sầu ở lại lâu dài Ta đã để hồn tan trong tiếng thở Kêu gọi người đưa tiễn nỗi tàn phai. (“Bi ca”- Huy Cận) Ngày mai, trong trận đấu Hoa Vô Khuyết sẽ tự nguyện chết để Tiểu Ngư Nhi được sống. Thiết Tâm Lan cũng sẽ chết theo Hoa Vô Khuyết. Họ tỏ tình với nhau trong đêm tối cuối cùng, và trong bóng tối, hai linh hồn sẽ hợp nhất, để tình yêu nở ra những cánh hoa kỳ dị. Họ muốn tìm đến nhau trong tình yêu và cõi chết. Câu văn lạ lùng của Cổ Long dành cho cặp tình nhân đó làm tôi đột nhiên nhớ lại câu văn tuyệt diệu của Novalis, nhà thơ lãng mạn Đức, được các nhà phê bình đánh giá là thuộc số ít nhà thơ biết được “sự huyền bí của tình yêu”, (le mystère de l Amour ). "L’union conclue aussi pour la mort, ce sont des noces qui nous donnent une compagne pour la Nuit. Dans la mort est l’amour le plus doux ; la mort est pour qui aime une nuit nuptiale: un secret de mystères très doux." Tôi xin dịch trên tinh thần mở rộng câu văn của Cổ Long: “Sự hợp nhất đó cũng là để kết thúc trong cõi chết. Đó là những cuộc hôn phối đem lại cho chúng ta một người bạn nữ đồng hành trên đường về Đêm Tối. Trong cõi chết kia vẫn tồn tại một tình yêu dịu ngọt nhất trên đời. Đối với kẻ đang yêu thì cái chết là đêm tối của cuộc hôn phối: đó là sự bí ẩn của điều huyền mật dịu dàng”. Có những bản nhạc như Senenade của F. Schubert, có những câu thơ như ‘Bi ca” của Huy Cận, ta chỉ có thể cảm thụ được chiều sâu của nó trong bóng đêm yên tĩnh. Bóng tối sẽ khép lại ngoại cảnh để mở rộng con đường đi vào nội tâm, khiến tình cảm con người mênh mông hơn nhiều lắm. Và câu văn của Novalis cũng như của Cổ Long ta cũng nên cảm nhận trong cái “bóng đêm thăm thẳm” của Nerval! © 2007 talawas
Mục lục
Nhân một câu văn của Cổ Long
Nhân một câu văn của Cổ Long
Huỳnh Ngọc ChiếnChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.
Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: TalawasĐược bạn: Thanh Vân đưa lên vào ngày: 17 tháng 12 năm 2009
|
Huynh Ngoc Chien
Based on a sentence by Co Long
“That immense darkness and silence, aren't they a blessing that heaven bestows on lovers? Love is a strange flower, it does not need sunlight, nor does it need raindrops, but still blooms its beautiful petals in the dark. The boundless darkness and silence, giving rise to the heavenly gift of love and affection? Love is a strange kind of flower, pure and indescribable sunshine, wild and indistinguishable rain, in the darkness, the other side opens up with beautiful beauty. -Great double pride, chapter 124).
Coming across a good book in a pile of used books on sale will bring us more excitement than finding it in a large library. Finding a piece of gold on a pile of pebbles, perhaps we are even happier than finding a diamond in a jeweler. The same goes for reading books. When we accidentally read a good passage in an ordinary work by an unremarkable writer, we often feel extremely excited. It is that surprise that brings excitement. That was also my feeling when I read the above passage in Great Song Proud. In this work, a work as normal as many of his other works, Co Long had many sentences describing his wife. Extremely sophisticated woman. From cruel to passionate, from funny to bitter. But it is the above passage that, in my own opinion, is truly a marvelous piece of writing. Thiet Tam Lan passionately loves Tieu Ngu Nhi because of love, but only loves Hoa Vo Khuyet because of meaning. In the fateful one-to-one match between Hoa Vo Khuyet and Tieu Ngu Nhi, Thiet Tam Lan proactively sought out Hoa Vo Khuyet to ask the only descendant of this Di Hoa Palace not to kill Tieu Ngu. Nhi, and that means he must die! Thiet Tam Lan herself also decided to use death to thank her soulmate. Because of Thiet Tam Lan and Hoa Vo Khuyet, Co Long suddenly had an ecstatic passage. A girl, in the dead of night, begs her lover to die to save the one she loves, then decides to commit suicide to thank her soulmate, which is also a heart-touching detail. Ancient Dragon's pen is not strong enough to express the depths of the happenings in the soul, when people, because of Love, voluntarily face Death with all the joy and bitterness, but the scene of Iron Tam Lan went to Hoa Vo Khuyet in the middle of the night to make a request and express her feelings to each other in the dead of night, which was very touching. Speaking of "the color of love", people will surely think of the poem "The Color of Time" by Doan Phu Tu: The color of time is not green The color of time is purple The scent of time is not strong The scent of time is pure There are many People jokingly often say that "the color of love" is the "purple color of time". Purple is the "color of grapes", according to the mischievous saying of the people of Quang! And Ancient Dragon seemed to want to assimilate love with darkness! People often say darkness is synonymous with sin. But it's different with Co Long. “That immense darkness and silence, aren't they a blessing that heaven bestows on lovers? Love is a strange flower, it does not need sunlight, nor does it need raindrops, but still blooms its beautiful petals in the dark. Writers, in moments of spiritual prayer, sometimes write ecstatic sentences, which they themselves did not expect. With just this sentence, Co Long seemed to want to go beyond traditional martial arts literature. But unfortunately that was just a short step, because it seemed that Co Long did not have enough internal strength to continue! Gérard de Nerval - the magical poet of France, who lived with love as a mystery - had a delicate stanza: C est peut-être la seule au monde Dont le coeur au mien répondrait Qui venant dans ma nuit profonde D un seul regard l éclaircirait? You are the only person in my life whose heart beats mine. You returned in the deep darkness. Your eyes sparkled with radiance. (Une allée du Luxembourg) I want readers to understand the meaning of “nuit profonde” (deep darkness) in the dark sense of dates. To feel more the immensity of Co Long's sentences. And from there we will hear the immense echo in Huy Can's poem. The darkness radiates and cannot cover the longing. Love goes quickly, sadness stays long. I have let my soul melt away in the sound of my breathing. Calling for mourners to say goodbye to the fading pain. . ("Elegy" - Huy Can) Tomorrow, in the match, Hoa Vo Khuyet will voluntarily die so that Tieu Ngu Nhi can live. Thiet Tam Lan will also die along with Hoa Vo Khuyet. They confess their love to each other in the final dark night, and in the darkness, the two souls will unite, letting love bloom into strange petals. They want to find each other in love and death. Gu Long's strange sentence for that couple of lovers suddenly reminded me of the wonderful sentence of Novalis, the German romantic poet, considered by critics to be one of the few poets who knew "the mystery of magic". the mystery of love”, (le mystère de l Amour). "L'union conclue aussi pour la mort, ce sont des noces qui nous donnent une compagne pour la Nuit. Dans la mort est l'amour le plus doux ; la mort est pour qui aim une nuit nuptiale: un secret de mystères très doux ." I would like to translate in the spirit of expanding Co Long's sentence: "That unity also ends in death. These are marriages that give us a female companion on the way to the Dark Night. In death, there still exists the sweetest love in the world. For the lover, death is the dark night of marriage: it is the mystery of tender mystery. There are songs like Senenade by F. Schubert, there are verses like "Elegy" by Huy Can, we can only feel its depth in the quiet darkness. Darkness will close the external environment to open the path to the inner self, making human emotions much more immense. And the sentences of Novalis as well as those of Ancient Dragon we should also feel in the "deep darkness" of Nerval! © 2007 talawas
Table of contents
Based on a sentence by Co Long
Based on a sentence by Co Long
Huynh Ngoc ChienWelcome to read books from the book project for mobile devices. Source: author: Nguyen Kim Vy.
Final words: Thank you for reading the entire story. Source: editor: Nguyen Kim Vy. Source: Talawas Posted by friend: Thanh Van on: December 17, 2009
|
Huyền Băng
NHÂN NGÀY 8/3 NÓI VỀ PHỤ NỮ VIỆT NAM
Mỗi lần sắp đến ngày 8/3 tôi lại được nghe những chương trình chuyên đề về ngày lễ này cùng những buổi hội họp nhằm tôn vinh phụ nữ. Đây là ngày lễ Quốc tế phụ nữ, ở nước ngoài thì không biết như thế nào, nhưng ở Việt Nam người ta thường hô hào thanh niên, nam giới phải đặc biệt chú trọng đến mẹ, đến vợ mình trong ngày lễ kỷ niệm nầy. Hãy dành cho họ những món quà thật dễ thương, hãy chia xẻ với họ công việc nhà hôm đó để họ rảnh rang tung tăng đây đó. Một ngày lễ thật ý nghĩa dùng để bày tỏ sự biết ơn của chồng, của con, với những người vợ, người mẹ luôn nhọc nhằn trong công việc vì họ. . . những cô gái chưa chồng cũng được ăn theo vì là phụ nữ, và được người yêu chăm sóc cẩn thận hơn, ưu ái hơn mặc dù trước đó họ vẫn được chăm sóc vì là “người yêu”. Nói về vai trò của người phụ nữ Việt Nam trong gia đình: Thật là vất vả! Nếu như ngày trước, người chồng đi làm kiếm tiền chi tiêu trong gia đình, người vợ ở nhà chăm sóc con cái, bếp núc giặt giũ. Và công việc ấy được đặt tên là nội trợ. Hai từ nội trợ nghe nó đơn giản làm sao nhưng công việc thì không đơn giản chút nào. Cứ mỗi sáng ra người vợ phải quét dọn nhà cửa, cẩn thận thì cũng phải hơn một tiếng, nếu có con thì lại phải vừa làm vừa chăm con, chợ búa nấu nướng là hết một buổi sáng để có buổi cơm trưa cho gia đình. Khi tất cả đã ăn uống xong xuôi, mọi người nghỉ ngơi, người phụ nữ phải dọn dẹp. Khi cả nhà đi khỏi, người phụ nữ lại lao vào công việc giặt giũ, ủi đồ. Và lại bước vào buổi cơm chiều. Và rồi lại dọn dẹp . . . Người chồng đi làm về cảm thấy căn nhà tươm tất, mát mẻ sạch sẽ, nhưng có lẽ không nghĩ cho tới mức là vợ mình phải mất bao nhiêu công sức mới có sự sạch sẽ nầy. Với cảm giác là một chủ gia đình, người chồng có cảm tưởng mình phải được phục dịch tận gốc, tận rễ. Đọc tờ báo phải có ly cà phê kế bên. Lên mâm cơm phải có sẵn ly nước uống, và tất cả đều phải đầy đủ, nếu thiếu là sẽ cau mày gắt gỏng. Để có một bữa ăn nóng sốt cho gia đình người vợ luôn chực chờ hâm nóng thức ăn trước khi chồng con sắp sửa về nhà. Ở đây chỉ đề cập đến những người đàn ông mẫu mực; nếu đi xa hơn nữa, với những người đàn ông xem vợ mình như là một nô lệ, một thuộc quyền mà nhất cử nhất động đều phải nhìn theo ý chồng thì vấn đề còn nặng nề hơn nữa. Người phụ nữ trong gia đình nầy có một cuộc sống cam chịu, và không bao giờ tìm thấy thoải mái hoặc hạnh phúc trong cuộc sống chung. Ban đầu vợ chồng yêu nhau rồi cưới nhau, nhưng sau đó vì sự bình yên trong gia đình, người phụ nữ phải bỏ hết những sở thích riêng tư, những ước vọng riêng. Khi có con, người phụ nữ là người phải gánh hết những nhọc nhằn khi nuôi trẻ, và khi con trẻ lớn lên, người phụ nữ cũng là người phải dõi theo hoạt động của con để cho nó nên người. Nói như thế người phụ nữ trong gia đình là một lao công quét dọn, một bà bếp chợ búa nấu nướng, một người bồi giặt giũ ủi là, một vú em nuôi trẻ, một cô giáo dạy học, một nhà tâm lý quản trò . . . Và trong xã hội hiện tại, nhu cầu cuộc sống cao, một mình người chồng đi làm không đủ giải quyết mọi chi phí, hoặc có đủ cũng không dư để phòng khi đau ốm, bất trắc. Người vợ cũng phải đi làm. Công việc làm của người phụ nữ ở sở cũng không kém phần khó nhọc, thế nhưng khi tan sở về nhà, người phụ nữ lại phải hoàn tất hết bao nhiêu công việc của một ngày mà người phụ nữ ngày xưa phải làm. Ngẫm nghĩ sự chịu đựng của người phụ nữ ngày nay rất cao. Với áp lực của công việc ở sở, với yêu cầu của gia đình, với bổn phận của một người vợ, người mẹ, họ thật là quá tải. Họ cần gì, một món quà cho ngày 8 tháng 3? Một ngày thong dong bát phố để chồng gánh vác công việc? Một lời cảm ơn của đứa con? Để họ cảm thấy đời vui hơn? Và đấy là hệ quả của ngày kỷ niệm nầy mang đến? Tôi không nghĩ là như vậy! Đối với tôi, ngày 8 tháng 3 là ngày nhắc nhở cho các đấng mày râu biết rằng: Phụ nữ không phải là một sinh vật nhỏ bé được thượng đế sinh ra để phục vụ cánh đàn ông. Mà phụ nữ là một người như mình có những suy nghĩ, những tâm tư tình cảm riêng, có công việc độc lập cần được tôn trọng, cũng như cần được chia xẻ … Tốt biết bao nhiêu khi hàng ngày, sau khi rời sở người đàn ông biết chia xẻ với vợ công việc nhà. Thay gì tắm rửa ngồi lên bàn cơm chờ dọn, thì hãy xuống bếp bưng phụ vợ thức ăn. Thay gì nói sao nhà tắm bẩn quá? Thì hãy giúp dọn dẹp. Thay gì la cà ngoài phố với bạn thì về nhà sớm để thức ăn không phải hâm lại, ôi người vợ hạnh phúc dường bao. Cả những đứa con cũng vậy. Nếu đứa con ý thức được rằng người mẹ tốt của mình vô cùng vất vả, thì hàng ngày hãy giơ tay ra phụ giúp mẹ mình, những công việc tuy nhỏ nhặt như dẹp một món đồ vứt bừa bãi, rửa một chậu bát, bưng một ly nước cho mẹ lúc mẹ mình nhọc mệt, tôi nghĩ đó là đã hiểu được ý nghĩa của ngày 8 tháng ba. HB
Mục lục
NHÂN NGÀY 8/3 NÓI VỀ PHỤ NỮ VIỆT NAM
NHÂN NGÀY 8/3 NÓI VỀ PHỤ NỮ VIỆT NAM
Huyền BăngChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.
Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.Đánh máy : Huyền Băng Nguồn: Huyền BăngĐược bạn: NHDT đưa lên vào ngày: 12 tháng 3 năm 2006
|
Huyen Bang
ON THE DAY OF MARCH 8 TALK ABOUT VIETNAMESE WOMEN
Every time March 8 approaches, I listen to specialized programs about this holiday and meetings to honor women. This is International Women's Day, in foreign countries it is unknown, but in Vietnam people often exhort young people and men to pay special attention to their mothers and wives on this day of celebration. . Give them cute gifts, share with them the housework that day so they can freely roam around. A meaningful holiday used to express gratitude to husbands, children, and wives and mothers who always work hard for them. . . Unmarried girls also receive the same benefits because they are women, and are taken care of more carefully and favorably by their lovers, even though before that they were still taken care of because they were "lovers". Talking about the role of Vietnamese women in the family: It's so hard! In the past, the husband went to work to earn money for family expenses, while the wife stayed home to take care of the children, cook and do laundry. And that job is called housewifery. The two words housewife sound simple, but work is not simple at all. Every morning, the wife has to clean the house, which takes more than an hour to be careful. If she has children, she has to work and take care of the children, go to the market and cook, and it takes an entire morning to have lunch for the family. . When everyone has finished eating and drinking, everyone rests, and the woman has to clean up. When the whole family left, the woman went back to washing and ironing. And enter the afternoon again. And then clean up again. . . The husband comes home from work feeling that the house is neat, cool and clean, but probably doesn't think about how much effort his wife has to put in to have this cleanliness. With the feeling of being the head of the family, the husband has the feeling that he must be served to the core. Reading the newspaper must have a cup of coffee next to it. There must be a glass of water on the dinner table, and everything must be complete, otherwise there will be a grumpy frown. To have a hot meal for the family, the wife always waits to warm up the food before her husband and children are about to come home. Only exemplary men are mentioned here; If we go even further, with men who view their wives as slaves and subordinates whose every move must follow their husband's will, the problem is even more serious. The woman in this family leads a doomed life, and never finds comfort or happiness in common life. Initially, the husband and wife fell in love and then got married, but then for peace in the family, the woman had to give up all her personal interests and desires. When having children, the woman is the one who has to bear all the hardships of raising the child, and when the child grows up, the woman is also the one who has to monitor the child's activities to make him or her a good person. That is to say, the woman in the family is a cleaner, a market cook, a laundry maid, a nanny, a teacher, a game psychologist. . . . And in today's society, where life's needs are high, a working husband alone is not enough to cover all expenses, or even if he has enough, he won't have enough to spare in case of illness or unforeseen circumstances. The wife also has to go to work. A woman's work at the office is no less difficult, but when she comes home from work, she has to complete all the work that women in the past had to do in a day. Consider that the tolerance of women today is very high. With the pressure of work at the office, the demands of the family, and the duties of a wife and mother, they are truly overwhelmed. What do they need, a gift for March 8? A leisurely day on the town so your husband can take care of the work? A thank you from the child? So that they feel life is happier? And that is the consequence of this anniversary? I do not think so! For me, March 8 is a day to remind men that: Women are not small creatures born by God to serve men. And a woman is a person like me who has her own thoughts, feelings, and independent work that needs to be respected, as well as shared... How good is it when every day, after leaving the workplace, others Men know how to share housework with their wives. Instead of taking a bath and sitting at the table waiting to be served, go to the kitchen to help your wife with the food. Why is the bathroom so dirty? Then help clean up. Instead of hanging out on the street with friends, come home early so the food doesn't have to be reheated, oh how happy the wife is. The same goes for the children. If the child is aware that his good mother is extremely hard-working, then every day he should raise his hand to help his mother, with even small tasks such as cleaning up a littered item, washing a basin, carrying food, etc. A glass of water for my mother when she is tired, I think that is understanding the meaning of March 8. HB
Table of contents
ON THE DAY OF MARCH 8 TALK ABOUT VIETNAMESE WOMEN
ON THE DAY OF MARCH 8 TALK ABOUT VIETNAMESE WOMEN
Huyen BangWelcome to read books from the book project for mobile devices. Source: author: Nguyen Kim Vy.
Final words: Thank you for reading the entire story. Source: author: Nguyen Kim Vy. Typing: Huyen Bang Source: Huyen Bang Uploaded by friend: NHDT on: March 12, 2006
|
Hiền Vy
Nhân Quả
Bác sĩ Dick Millls đọc đi đọc lại bản tường trình từ phòng thử nghiệm gởi đến về sự phức tạp của chứng bệnh Hemothilia mà bé Jennifer Garison đang mắc phải. Từ lúc sinh ra, Jenifer đã phải nằm luôn trong bệnh viện. Đang nằm với mẹ Ở Woman Hospital, Bé được chuyển sang Children Hospital sau khi bác sĩ ở đây không tìm ra được nguyên nhân căn bệnh bé đang mang. Nhớ lại khuôn mặt của vợ chồng Larry và Laura Garison, bác sĩ Mills chợt lắc đầu, không biết ngày mai, khi gặp lại họ, ông sẽ phải bắt đầu như thế nào cho ổn! *** Dưới ánh sáng những ngọn đèn neon, trong căn phòng họp đóng kín cửa của bệnh viện, khuôn mặt của Laura, vốn đã xanh xao, lại càng xanh thêm. Mặc dù mới sinh con chưa được hai tháng, cô không có sự tươi mát của một bà mẹ trẻ, "gái một con trông mòn con mắt." Hai mắt cô sâu thẳm, lúc nào cũng như đang suy tư, lo nghĩ. Bác sĩ Mills cảm thấy ái ngại khi bắt chợt nhìn thấy đôi mắt buồn vời vợi của cộ Ông quay sang phía người chồng; Larry có khuôn mặt sáng sủa, đẹp trai. Dù mệt mỏi, đôi mắt của anh vẫn còn sự trong sáng, cương nghị. Bác sĩ Mills mỉm cười dịu dàng với họ. Ông biết là mình phải bắt đầu buổi nói chuyện càng sớm càng tốt. Ông không đoán được phản ứng của họ ra sao, nhưng ông biết là nếu ông kéo dài sự chờ đợi của họ thì sẽ làm cho hai người trẻ này thêm lo lắng. Nhưng liệu khi nghe xong những gì ông sắp nói, thì không biết có quá tàn nhẫn với họ không. Theo bản tường trình thì căn bệnh này là do sự kết hợp của một giòng máu mà sinh ra. Nghĩa là bố mẹ của hài nhi phải là anh em ruột. Suốt một đêm, ông đã thao thức, không ngủ được. Vài năm gần đây, ông có đi dự những khóa tập thiền do một vị thiền sư người Việt hướng dẫn. Qua những khóa tu tập này, ông bắt đầu nghiên cứu về đạo Phật, một tôn giáo mà chỉ trước đó vài năm, không bao giờ ông nghĩ đến. Nhờ những phương pháp học được, ông đã tự giúp mình thư dãn một cách dễ dàng khi gặp chuyện khó xử, thế mà cả đêm qua, ông đã thất bại trong việc này. Ông đã phải rời phòng ngủ, vào thư phòng, tìm đọc thêm về chứng bệnh hiếm hoi này. Nhưng cuối cùng, ông bắt gặp mình đọc những câu chuyện về nhân quả của đạo Phật. *** Bác sĩ Mills chưa dứt lời, Laura đã thảng thốt kêu lên: - "Dạ không! Làm gì có chuyện đó, thưa bác sĩ. Chúng tôi không phải là anh em ruột đâu. Chúng tôi chỉ mới gặp nhau lúc cả hai đang học ở đại học Yale, cách đây ba năm thôi. Lary từ Los Angeles đến, còn tôi từ Dallas." Larry ôm vai vợ, từ tốn: - "Dạ chắc cái kết quả thử nghiệm này không phải của chúng tôi đâu bác sĩ. Hoặc là phòng thử nghiệm làm sai, hoặc là của bệnh nhân khác. Chúng tôi chưa hề biết nhau, chưa hề gặp nhau, cho đến ba năm trước đây, thì làm sao lại có chuyện chúng tôi là anh em được." Nuốt nước miếng một cách khó nhọc, Larry tiếp: - " Vả lại, tôi là con một. Bố mẹ tôi chỉ có mình tôi thôi." Bác sĩ Mills nhìn hai người, giọng chùng xuống: - "Thực tình mà nói, tôi cũng nghi ngờ sự chính xác của việc thử nghiệm, nên đã kiểm chứng lại với phòng thí nghiệm trước khi gặp anh chị. Tuy nhiên, kết quả vẫn như thế." Lắc đầu một cách thất vọng, ông tiếp: - " Dĩ nhiên là khoa học không phải đúng trăm phần trăm, nhưng trường hợp này rất đáng tin. Ý tôi chỉ mong anh chị nên giúp cháu bằng cách, giúp tôi kiểm chứng lại phía anh chị. Nếu quả như vậy, chúng tôi sẽ hướng phần chữa trị cháu cho thích hợp, may ra mình có thể cứu cháu. Bằng không thì ít ra cũng ngừa được việc đáng tiếc xảy ra thêm lần nữa. Anh chị cũng nên suy nghĩ, tìm hiểu thêm. Tôi thành thật mong là tôi lầm." **** Bà Liz cúi đầu xuống bên tách trà đã nguội. Bà bối rối trước mặt chồng con. Có nên nói thật chuyện lòng ra không? Câu chuyện mà bà đã dấu kín hơn hai mươi lăm năm nay. Tại sao lại có chuyện trớ trêu này? Tại sao lại có chuyện lạ lùng như vậy được? Chẳng lẽ chồng bà lại là người đã... Bà như chìm vào quá khứ, của một đêm theo bạn đi dự buổi dạ tiệc của ngày ra trường trung học năm nào... Năm ấy, Liz vừa mười bảy tuổi. Suốt những năm đi học, cô chưa bao giờ có bạn trai như các bạn cùng lớp. Liz học rất giỏi. Với số điểm ra trường thật cao, cô đã thuyết phục được cha mẹ cho cô tham dự buổi dạ tiệc suốt đêm của trường tổ chức. Đêm đó, cô được mẹ trang điểm thật xinh, cô còn nhớ mẹ cô đã đưa cô vào một tiệm bán áo dạ hội, nơi đây, mẹ đã mua cho cô chiếc áo cô thích nhất. Nhìn vẻ mặt hãnh diện của mẹ khi thấy cô xinh xắn trong chiếc áo màu beige ôm bó người, Liz tự biết mình xinh đẹp. Mà cô không những đẹp lại còn nết na nữa. Cô ít khi làm cha mẹ buồn lòng. Dù được cha mẹ thương, cưng chiều, Liz không vì thế mà ham chơi, lêu lỏng, trái lại cô chăm chỉ học hành. Cô còn tình nguyện làm việc cho một nhà thương hai lần một tuần để giúp những em bé bị tật nguyền, mà cha mẹ của các em, hoặc là bận làm việc, hoặc là không màng ngó ngàng tới các em. Tối hôm đó, mẹ cô đã đưa cô và hai cô bạn thân của cô đến khách sạn Hilton để dự partỵ Mẹ hẹn sẽ trở lại đón khoảng quá nửa đêm, khi dạ vũ gần tàn. Liz cùng hai cô bạn vui vẻ bước vào phòng tiệc. Trong phòng chật ních những người, ba cô len lỏi vào giữa đám đông. Liz gặp những khuôn mặt quen thuộc từ trường, các bạn xúm lại chuyện trò. Các cô thoải mái cười đùa, khiêu vũ. Vài ba đứa con trai cùng trường cũng nhập bọn. Sau một bài khiêu vũ, Liz trở lại bàn, uống nốt ly nước ngọt dở dang. Rồi từ đó cô không còn nhớ gì nữa cho đến lúc tỉnh dậy thì thấy mình đang nằm trong bệnh viện. Theo lời mẹ kể lại thì lúc bà đến đón con gái, bà đã không thấy Liz đâu cả. Hai cô bạn Liz cho biết là họ cũng không tìm được Liz. Sau đó mọi người ra công đi tìm, và cuối cùng họ thấy Liz nằm bất tỉnh ngoài vườn sau của khách sạn. Bác sĩ ở bệnh viện cho biết là Liz đã bị cưỡng hiếp sau khi bị cho uống một loại thuốc kích thích thật mạnh. Sau đêm đó, Liz đã có thai với một người mà Liz không hề biết mặt. Bố mẹ Liz đề nghị giải pháp phá thai, nhưng Liz từ chối. Nàng yêu cầu bố mẹ cho nàng được sinh đứa bé và sẽ giao cho viện mồ côi, rồi sẽ trở lại trường để bắt đầu những năm đại học. Năm thứ ba đại học, Liz gặp Lawrencẹ Hai người thương nhau, và cưới nhau sau khi Liz xong cử nhân. Laura ra đời sau đó hai năm. Liz chưa một lần kể cho chồng nghe về cái tai nạn xảy đến cho nàng vào đêm hãi hùng đó. *** Ông Lawrence nước mắt dàn dụa khi nghe vợ kể lại câu chuyện năm nào. Ông không bao giờ có thể ngờ được cái bồng bột của thời niên thiếu mà ông gây ra, lại mang đến hậu quả khủng khiếp như hôm nay... Năm đó, ông đang học năm thứ hai của đại học Harvard, theo lời mời của một người bạn, ông bay về Denver dự lễ ra trường của em bạn. Ông được mời tham dự đêm dạ vũ ở khách sạn Hilton. Lúc đến nơi, Lawrence đã ngà ngà say, dù vậy ông vẫn uống thêm rượu cho đến lúc say mèm. Ông nhớ đâu như là ông đã mời được một cô gái thật trẻ ra khiêu vũ với ông. Sau màn khiêu vũ, ông rủ cô ra ngoài vườn nói chuyện. Rồi chuyện gì xảy ra ông cũng không nhớ rõ lắm. Chỉ biết, khi tỉnh dậy, ông thấy mình đang nằm bên cạnh một cô gái mà cả hai người không còn một mảnh vải che thân. Sợ quá, ông choàng dậy, bận nhanh quần áo, ông tìm đường chạy trốn. Sáng hôm sau ông lên máy bay trở về nhà bố mẹ Ở Michigan. Suốt mùa hè năm đó ông ngay ngáy lo sợ, nhưng qua hết mùa hè, ông trở lại Harvard, vẫn không có gì xảy ra. Nhưng câu chuyện đêm đó luôn ám ảnh ông. Ông không nhớ được khuôn mặt cô gái mà mình đã lấy mất sự trong trắng đời con gái của cô ta. Hai năm sau, khi đang trình luận án tiến sĩ ở đại học Hopkins thì ông gặp bà Liz. Ngay lần gặp gỡ đầu tiên, hai người đã yêu nhau, rồi cưới nhau khi Liz xong cử nhân. *** Bà Liz càng lúc càng kinh ngạc khi nghe chồng kể lại câu chuyện của hơn hai mươi năm về trước. Làm sao bà có thể ngờ được người chồng của mình lại chính là người đã lấy mất cuộc đời con gái của mình trong một buổi dạ tiệc năm xưa!!! Làm sao bà có thể ngờ được ông là cha của đứa bé, mà bà đã phải ký giấy cho cô nhi viện, trước khi nó sinh ra đời. Bà sửng sốt quay sang nhìn Larry, người con rể mà bà đã thương quý ngay lần đầu tiên khi Laura mang về giới thiệu với ông bà. Định mệnh sao lại khắc nghiệt như thế này? Bà phải làm sao để giải quyết mọi chuyện? Nước mắt bà dàn dụa làm mờ đi khuôn mặt của chồng và con đang sửng sốt nhìn bà. Tháng Bảy, 1999 An Nghiêm - Hiền VyHết
Mục lục
Nhân Quả
Nhân Quả
Hiền VyChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.
Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: bạn: mickey đưa lên vào ngày: 6 tháng 6 năm 2004
|
Hiền Vy
Nhân Quả
Bác sĩ Dick Millls đọc đi đọc lại bản tường trình từ phòng thử nghiệm gởi đến về sự phức tạp của chứng bệnh Hemothilia mà bé Jennifer Garison đang mắc phải. Từ lúc sinh ra, Jenifer đã phải nằm luôn trong bệnh viện. Đang nằm với mẹ Ở Woman Hospital, Bé được chuyển sang Children Hospital sau khi bác sĩ ở đây không tìm ra được nguyên nhân căn bệnh bé đang mang. Nhớ lại khuôn mặt của vợ chồng Larry và Laura Garison, bác sĩ Mills chợt lắc đầu, không biết ngày mai, khi gặp lại họ, ông sẽ phải bắt đầu như thế nào cho ổn! *** Dưới ánh sáng những ngọn đèn neon, trong căn phòng họp đóng kín cửa của bệnh viện, khuôn mặt của Laura, vốn đã xanh xao, lại càng xanh thêm. Mặc dù mới sinh con chưa được hai tháng, cô không có sự tươi mát của một bà mẹ trẻ, "gái một con trông mòn con mắt." Hai mắt cô sâu thẳm, lúc nào cũng như đang suy tư, lo nghĩ. Bác sĩ Mills cảm thấy ái ngại khi bắt chợt nhìn thấy đôi mắt buồn vời vợi của cộ Ông quay sang phía người chồng; Larry có khuôn mặt sáng sủa, đẹp trai. Dù mệt mỏi, đôi mắt của anh vẫn còn sự trong sáng, cương nghị. Bác sĩ Mills mỉm cười dịu dàng với họ. Ông biết là mình phải bắt đầu buổi nói chuyện càng sớm càng tốt. Ông không đoán được phản ứng của họ ra sao, nhưng ông biết là nếu ông kéo dài sự chờ đợi của họ thì sẽ làm cho hai người trẻ này thêm lo lắng. Nhưng liệu khi nghe xong những gì ông sắp nói, thì không biết có quá tàn nhẫn với họ không. Theo bản tường trình thì căn bệnh này là do sự kết hợp của một giòng máu mà sinh ra. Nghĩa là bố mẹ của hài nhi phải là anh em ruột. Suốt một đêm, ông đã thao thức, không ngủ được. Vài năm gần đây, ông có đi dự những khóa tập thiền do một vị thiền sư người Việt hướng dẫn. Qua những khóa tu tập này, ông bắt đầu nghiên cứu về đạo Phật, một tôn giáo mà chỉ trước đó vài năm, không bao giờ ông nghĩ đến. Nhờ những phương pháp học được, ông đã tự giúp mình thư dãn một cách dễ dàng khi gặp chuyện khó xử, thế mà cả đêm qua, ông đã thất bại trong việc này. Ông đã phải rời phòng ngủ, vào thư phòng, tìm đọc thêm về chứng bệnh hiếm hoi này. Nhưng cuối cùng, ông bắt gặp mình đọc những câu chuyện về nhân quả của đạo Phật. *** Bác sĩ Mills chưa dứt lời, Laura đã thảng thốt kêu lên: - "Dạ không! Làm gì có chuyện đó, thưa bác sĩ. Chúng tôi không phải là anh em ruột đâu. Chúng tôi chỉ mới gặp nhau lúc cả hai đang học ở đại học Yale, cách đây ba năm thôi. Lary từ Los Angeles đến, còn tôi từ Dallas." Larry ôm vai vợ, từ tốn: - "Dạ chắc cái kết quả thử nghiệm này không phải của chúng tôi đâu bác sĩ. Hoặc là phòng thử nghiệm làm sai, hoặc là của bệnh nhân khác. Chúng tôi chưa hề biết nhau, chưa hề gặp nhau, cho đến ba năm trước đây, thì làm sao lại có chuyện chúng tôi là anh em được." Nuốt nước miếng một cách khó nhọc, Larry tiếp: - " Vả lại, tôi là con một. Bố mẹ tôi chỉ có mình tôi thôi." Bác sĩ Mills nhìn hai người, giọng chùng xuống: - "Thực tình mà nói, tôi cũng nghi ngờ sự chính xác của việc thử nghiệm, nên đã kiểm chứng lại với phòng thí nghiệm trước khi gặp anh chị. Tuy nhiên, kết quả vẫn như thế." Lắc đầu một cách thất vọng, ông tiếp: - " Dĩ nhiên là khoa học không phải đúng trăm phần trăm, nhưng trường hợp này rất đáng tin. Ý tôi chỉ mong anh chị nên giúp cháu bằng cách, giúp tôi kiểm chứng lại phía anh chị. Nếu quả như vậy, chúng tôi sẽ hướng phần chữa trị cháu cho thích hợp, may ra mình có thể cứu cháu. Bằng không thì ít ra cũng ngừa được việc đáng tiếc xảy ra thêm lần nữa. Anh chị cũng nên suy nghĩ, tìm hiểu thêm. Tôi thành thật mong là tôi lầm." **** Bà Liz cúi đầu xuống bên tách trà đã nguội. Bà bối rối trước mặt chồng con. Có nên nói thật chuyện lòng ra không? Câu chuyện mà bà đã dấu kín hơn hai mươi lăm năm nay. Tại sao lại có chuyện trớ trêu này? Tại sao lại có chuyện lạ lùng như vậy được? Chẳng lẽ chồng bà lại là người đã... Bà như chìm vào quá khứ, của một đêm theo bạn đi dự buổi dạ tiệc của ngày ra trường trung học năm nào... Năm ấy, Liz vừa mười bảy tuổi. Suốt những năm đi học, cô chưa bao giờ có bạn trai như các bạn cùng lớp. Liz học rất giỏi. Với số điểm ra trường thật cao, cô đã thuyết phục được cha mẹ cho cô tham dự buổi dạ tiệc suốt đêm của trường tổ chức. Đêm đó, cô được mẹ trang điểm thật xinh, cô còn nhớ mẹ cô đã đưa cô vào một tiệm bán áo dạ hội, nơi đây, mẹ đã mua cho cô chiếc áo cô thích nhất. Nhìn vẻ mặt hãnh diện của mẹ khi thấy cô xinh xắn trong chiếc áo màu beige ôm bó người, Liz tự biết mình xinh đẹp. Mà cô không những đẹp lại còn nết na nữa. Cô ít khi làm cha mẹ buồn lòng. Dù được cha mẹ thương, cưng chiều, Liz không vì thế mà ham chơi, lêu lỏng, trái lại cô chăm chỉ học hành. Cô còn tình nguyện làm việc cho một nhà thương hai lần một tuần để giúp những em bé bị tật nguyền, mà cha mẹ của các em, hoặc là bận làm việc, hoặc là không màng ngó ngàng tới các em. Tối hôm đó, mẹ cô đã đưa cô và hai cô bạn thân của cô đến khách sạn Hilton để dự partỵ Mẹ hẹn sẽ trở lại đón khoảng quá nửa đêm, khi dạ vũ gần tàn. Liz cùng hai cô bạn vui vẻ bước vào phòng tiệc. Trong phòng chật ních những người, ba cô len lỏi vào giữa đám đông. Liz gặp những khuôn mặt quen thuộc từ trường, các bạn xúm lại chuyện trò. Các cô thoải mái cười đùa, khiêu vũ. Vài ba đứa con trai cùng trường cũng nhập bọn. Sau một bài khiêu vũ, Liz trở lại bàn, uống nốt ly nước ngọt dở dang. Rồi từ đó cô không còn nhớ gì nữa cho đến lúc tỉnh dậy thì thấy mình đang nằm trong bệnh viện. Theo lời mẹ kể lại thì lúc bà đến đón con gái, bà đã không thấy Liz đâu cả. Hai cô bạn Liz cho biết là họ cũng không tìm được Liz. Sau đó mọi người ra công đi tìm, và cuối cùng họ thấy Liz nằm bất tỉnh ngoài vườn sau của khách sạn. Bác sĩ ở bệnh viện cho biết là Liz đã bị cưỡng hiếp sau khi bị cho uống một loại thuốc kích thích thật mạnh. Sau đêm đó, Liz đã có thai với một người mà Liz không hề biết mặt. Bố mẹ Liz đề nghị giải pháp phá thai, nhưng Liz từ chối. Nàng yêu cầu bố mẹ cho nàng được sinh đứa bé và sẽ giao cho viện mồ côi, rồi sẽ trở lại trường để bắt đầu những năm đại học. Năm thứ ba đại học, Liz gặp Lawrencẹ Hai người thương nhau, và cưới nhau sau khi Liz xong cử nhân. Laura ra đời sau đó hai năm. Liz chưa một lần kể cho chồng nghe về cái tai nạn xảy đến cho nàng vào đêm hãi hùng đó. *** Ông Lawrence nước mắt dàn dụa khi nghe vợ kể lại câu chuyện năm nào. Ông không bao giờ có thể ngờ được cái bồng bột của thời niên thiếu mà ông gây ra, lại mang đến hậu quả khủng khiếp như hôm nay... Năm đó, ông đang học năm thứ hai của đại học Harvard, theo lời mời của một người bạn, ông bay về Denver dự lễ ra trường của em bạn. Ông được mời tham dự đêm dạ vũ ở khách sạn Hilton. Lúc đến nơi, Lawrence đã ngà ngà say, dù vậy ông vẫn uống thêm rượu cho đến lúc say mèm. Ông nhớ đâu như là ông đã mời được một cô gái thật trẻ ra khiêu vũ với ông. Sau màn khiêu vũ, ông rủ cô ra ngoài vườn nói chuyện. Rồi chuyện gì xảy ra ông cũng không nhớ rõ lắm. Chỉ biết, khi tỉnh dậy, ông thấy mình đang nằm bên cạnh một cô gái mà cả hai người không còn một mảnh vải che thân. Sợ quá, ông choàng dậy, bận nhanh quần áo, ông tìm đường chạy trốn. Sáng hôm sau ông lên máy bay trở về nhà bố mẹ Ở Michigan. Suốt mùa hè năm đó ông ngay ngáy lo sợ, nhưng qua hết mùa hè, ông trở lại Harvard, vẫn không có gì xảy ra. Nhưng câu chuyện đêm đó luôn ám ảnh ông. Ông không nhớ được khuôn mặt cô gái mà mình đã lấy mất sự trong trắng đời con gái của cô ta. Hai năm sau, khi đang trình luận án tiến sĩ ở đại học Hopkins thì ông gặp bà Liz. Ngay lần gặp gỡ đầu tiên, hai người đã yêu nhau, rồi cưới nhau khi Liz xong cử nhân. *** Bà Liz càng lúc càng kinh ngạc khi nghe chồng kể lại câu chuyện của hơn hai mươi năm về trước. Làm sao bà có thể ngờ được người chồng của mình lại chính là người đã lấy mất cuộc đời con gái của mình trong một buổi dạ tiệc năm xưa!!! Làm sao bà có thể ngờ được ông là cha của đứa bé, mà bà đã phải ký giấy cho cô nhi viện, trước khi nó sinh ra đời. Bà sửng sốt quay sang nhìn Larry, người con rể mà bà đã thương quý ngay lần đầu tiên khi Laura mang về giới thiệu với ông bà. Định mệnh sao lại khắc nghiệt như thế này? Bà phải làm sao để giải quyết mọi chuyện? Nước mắt bà dàn dụa làm mờ đi khuôn mặt của chồng và con đang sửng sốt nhìn bà. Tháng Bảy, 1999 An Nghiêm - Hiền VyHết
Mục lục
Nhân Quả
Nhân Quả
Hiền VyChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.
Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: bạn: mickey đưa lên vào ngày: 6 tháng 6 năm 2004
|
Khuyết Danh
Nhân sâm
Ngày xưa, có hai vợ chồng người tiều phu nghèo khổ, làm lụng vất vả quanh năm. Tờ mờ sáng đã ra đi làm, đến tối mịt mới về nhà mà cũng không kiếm đủ gạo ăn. Hai vợ chồng có một đứa con trai còn nhỏ, mỗi ngày để ở nhà cho một phần cơm chỉ ăn vừa lưng dạ. Trong cảnh thiếu ăn đó, hai vợ chồng lấy làm ngạc nhiên nhận thấy con mình ngày một béo tốt, hồng hào khỏe mạnh như đã được chăm nuôi tẩm bổ khác thường. Đứa con còn bé chưa nói năng gì được nên cha mẹ nó muốn hỏi han về sức khỏe lạ lùng của con cũng đành chịu. Được vài năm đứa bé lớn lên như thổi, bắt đầu biết trò chuyện, cha mẹ nó mới hỏi xem phần cơm mỗi ngày để dành cho con ăn có đủ không. Thằng bé trả lời chẳng biết mùi cơm ra sao vì cứ mỗi khi cha mẹ nó vừa đi khỏi nhà là bầy khỉ ở rừng kéo đến ăn sạch cơm. Hai vợ chồng người tiều phu quá nỗi kinh ngạc, hỏi con trong mấy năm trời không cơm ăn mà sao lại được khỏe mạnh như vậy. Đứa con ngây thơ mới kể cho hay rằng trong lúc cha mẹ nó vắng nhà, có một thằng bé láng giềng cũng trần truồng như nó, vẫn đến chơi đùa, và chính đứa bé đáng yêu kia đã truyền sức khỏe sang cho nó. Nghe con nói như thế, cha mẹ nó lại càng lấy làm lạ, nghi hoặc thêm, vì chung quanh ấy lối mươi dặm chẳng có nhà cửa của ai cả. Người tiều phu nghĩ ngợi, đoán chừng đứa bé đến chơi với con mình là Người Sâm (nhân sâm), hồn của cây sâm mọc quanh quẩn gần đâu đây. Đến sáng hôm sau, người tiều phu đi ra chợ mua một cuộn chỉ tơ mang về dặn dò con là hễ thằng bé kia đến chơi thì lấy chỉ buộc vào chân hoặc tay nó. Đứa con hứa sẽ làm theo lời cha bảo. Qua ngày sua, vợ chồng người tiều phu đi khỏi nhà như lệ thường, song không vào rừng lấy củi mà rình nấp gần đấy. Nhân sâm lại đến túp lều chơi với thằng bé con người tiều phu, cũng như mọi ngày, và đứa bé theo lời cha dặn, lấy chỉ buộc vào cổ tay bạn. Vào lúc giữa trưa, hai vợ chồng người tiều phu ra khỏi chỗ nấp, đột ngột trở về nhà, bắt chợt cả hai đứa bé đang nô đùa. Thằng bé sâm vội vàng bỏ chạy rồi biến mất vào cây. Người tiều phu lần theo dấu chỉ đã buộc vào cổ tay Nhân Sâm mà tìm ra được cây sâm. Tham và ngốc, gã hấp tấp đào xới quá mạnh tay làm chết mất thằng bé Sâm và chỉ lấy được từng miếng rễ cây sâm. Cũng vì thế mà ngày nay người ta chỉ có được các nhánh rễ sâm mường tượng hình dáng người. Người Sâm chết vì sự vụng về của gã tiều phu, từ đó Sâm không còn công hiệu giúp cho người ta được trường sinh bất tử nữa, mà uống sâm chỉ được bồi dưỡng sức khỏe thôi. Hết
Mục lục
Nhân sâm
Nhân sâm
Khuyết DanhChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.
Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.Sưu tầm: AWMY Nguồn: Được bạn: Ct.Ly đưa lên vào ngày: 23 tháng 3 năm 2006
|
Noname
Ginseng
Once upon a time, there was a poor woodcutter and his wife who worked hard all year round. He left for work early in the morning, only to return home late at night without finding enough rice to eat. The couple has a young son, and every day they leave him at home to eat a portion of rice that only fits his stomach. In that food shortage situation, the couple was surprised to see that their child was becoming fatter, rosy and healthy, as if he had received unusual care and nourishment. The child was still too young to say anything, so his parents wanted to ask about his child's strange health and couldn't help it. After a few years, the baby grew up like crazy and began to talk, so his parents asked him if the daily portion of rice for him was enough. The boy replied that he did not know what the rice smelled like because every time his parents left the house, a group of monkeys from the forest would come and eat all the rice. The woodcutter and his wife were so surprised that they asked their son how he could be so healthy after not eating for several years. The innocent child told him that while his parents were away, a neighbor boy who was also naked like him came to play, and it was that lovely child who passed on his health to him. Hearing their son say that, his parents were even more surprised and suspicious, because there was no one else's house for ten miles around. The woodcutter thought about it and guessed that the child who came to play with his child was the Ginseng Man, the spirit of the ginseng tree growing nearby. The next morning, the woodcutter went to the market to buy a roll of silk thread and brought it home, instructing his son that whenever that boy came to play, he would tie the thread to his leg or arm. The son promised to do as his father said. The next day, the woodcutter and his wife left the house as usual, but did not go into the forest to get firewood, but lurked nearby. Ginseng came to the hut to play with the woodcutter boy again, just like every other day, and the child followed his father's instructions and tied the thread around his friend's wrist. At noon, the woodcutter and his wife came out of hiding and suddenly returned home, suddenly catching both children playing. The little boy quickly ran away and disappeared into the tree. The woodcutter followed the thread tied to Ginseng's wrist and found the ginseng. Greedy and stupid, he hastily dug too hard, killing little Sam and only getting pieces of the ginseng root. That's why today people only have ginseng root branches that visualize the human shape. The Sam man died because of the woodcutter's clumsiness, from then on Sam no longer had the effect of helping people achieve immortality, but drinking ginseng only improved health. Run out of
Table of contents
Ginseng
Ginseng
AnonymousWelcome to read books from the book project for mobile devices. Source: author: Nguyen Kim Vy.
Final words: Thank you for following the entire story. Source: onion: Nguyen Kim Vy. Collected: AWMY Source: Uploaded by friend: Ct.Ly on: March 23, 2006
|
Dương Thị Thùy Dung
Nhân tài bị bỏ sót
Đang há mồm, ngửa cổ kều chùm roi đỏ mọng thì bất thình lình thằng Kiên ở đâu chạy về nhảy phóc lên lưng, ôm ghì lấy cổ tôi, làm tôi mất đà lảo đảo mấy vòng. Tức mình, tôi đứng dạng ngang, một tay chống nạnh, tay kia cầm gậy chỉ thẳng mặt thằng em, quát:- Thằng kia! Mày làm cái gì đấy hả?Nó cười híp cả mắt, giơ ra một bức thư.- Hãy xem đây! Thư của chị Phùng Thu Hà Nam gửi cho em. Ha! Ha! Ha!Tôi bĩu môi:- Hà à... Na... am. Hà Nam của chúng mày là cái... đinh gỉ. Chị mày đây mới xứng là người để mày tôn kính, bái phục, em ạ!Nó cũng bĩu môi, vặn lại:- Phải... ải... Thế bà chị đã có điểm văn nào vượt quá điểm 5 chưa? Đã có bài viết nào được đăng báo chưa?Mặt tôi nóng ran, mắt chớp lia lịa vì quả thật đúng như thế. Nhưng không thể để một thằng nhãi qua mặt, tôi khua môi lên mà bào chữa:- Mày thì biết cái gì mà ra cái điều. Nói cho mà biết, chị mày còn giấu tài đấy thôi chứ thực ra trong con người này đang tiềm ẩn một hồn thơ lai láng cỡ Nguyễn Khuyến, Xuân Diệu chứ đùa đâu...Tôi chưa kịp nói hết thì thằng Kiên ôm bụng cười bò lăn bò càng làm tôi tức muốn... độn thổ. Đã thế phen này tôi sẽ làm thơ và đăng báo cho nó sáng mắt ra. Lần trổ tài đầu tiên tôi quyết định sẽ làm thơ lục bát có đầu đề là: “Con gà nhà em”. Sau một đêm thao thức vì... nghệ thuầt, tôi đã cho ra đời bài thơ kiệt tác với những vần thơ vô cùng thực tế:Nhà em có một con gàMỗi lần nó gáy cả nhà đều khenMồt lần gà ta mon menĐến gần gà mái làm quen tức thìAnh chàng bị bạn đuổi điTrong cơn bực tức đã đi bụi đời.Viết xong, tôi đọc đi đọc lại đến mấy chục lần, càng đọc càng thấy hay. Trong lúc chờ đợi đăng báo, lĩnh thưởng, lúc ăn, lúc ngủ, lúc nào tôi cũng moq đến cái cảnh mình được cả biển người ngưỡng mộ, đặc biệt thằng em tôi sẽ phải quỳ gối để xin chữ ký của chị nó. Nhưng đợi mãi, một tuần... hai tuần rồi một tháng mà vẫn chưa thấy gì, tôi cụt hứng: “có lẽ bị trục trặc đường bưu điện nên thư đến muộn”.Để chắc chắn, tôi quyết tâm dùng ngòi bút sắc bén của mình để viết nên một tuyệt bút thứ hai. Lần này sẽ là thơ ba chữ cho độc đáo, mới mẻ. Song mãi mà tôi chưa tìm được cảm hứng sáng tác vì không biết có thể viết về cái gì. Đang bí đè tài, tôi bỗng nảy ra một sáng kiến: “Ngày xưa, các thi sĩ cứ uống rượu vào là tâm hồn bay bổng, lãng mạn và rồi thơ ra. Tại sao ta lại không thử cách ấy nhỉ?”.Nghĩ thế nào, làm thế ấy, đợi cho cả nhà đi vắng, tôi rót trộm của bố ít rượu ngâm rắn. Rồi hí hửng, tôi ghé môi vào miệng chén. Chưa kịp ngửi, tôi đã kinh hồn bạt vía trước cái mùi nồng nặc hơi cồn, hơi men của nó. Nhưng tất cả vì nghệ thuật, tôi kịp trấn tĩnh lấy lại can đảm để... uống cho nó có cảm hứng. Sau khi bịt chặt lỗ mũi tôi đã dũng cảm “chiến đấu”. Và kỳ lạ thay, tôi thấy toàn thân nóng ran, dòng máu thi sĩ đang ào ào tuôn chảy, cả tâm hồn bay vút tận mây xanh. Trước khi “quay” ra giường, tôi đã kịp làm được một bài thơ ba chữ với một phong cách rất... Tản Đà – bài thơ có tựa đề: “Say” với chín câu toàn một vvần “ay” đầy cảm hứng rồi đay sẽ được biết đến bằng những tình cảm nồng nhiệt.Uống say sayĐất quay quayTrời quay quayĐầu xoay xoayNgười xoay xoayChân lung layĐang múa mayBỗng hồn bayVà... lăn quay...Khi tỉnh dậy, tôi thấy mình đang nằm trên giường, trán đắp khăn ẩm, toàn thân mệt mỏi, đầu óc đau như dần và mọi người đứng quanh, vẻ mặt ai cũng lộ rõ vẻ lo lắng. Thấy tôi mở mắt, ai cũng rối rít hỏi tôi xem trong người thế nào? Thằng Kiên oang oác cái mồm:- Chị ấy chẳng sao đâu ạ! Chỉ tại chị ấy muốn làm nhà thơ nên đã tu rượu rắn của bố vào và bị... choáng đấy ạ!Cả nhà phì cười trước sự ngốc nghếch của tôi làm cho lòng tự trọng của tôi bốc lên ngùn ngụt. Phải làm sao cho mọi người sáng mắt ra... Nhưng ý nghĩ ấy vừa lóe lên trong đầu đã khiến tôi muốn rụt cổ, lè lưỡi. Lần này không phải ai mà chính tôi mới là người phải sáng mắt ra. SOng có một điều là trước sau gì tôi vẫn nghĩ rằng: “Tôi là một nhân tài... bỏ sót của nhân loại”. Các bạn đừng có mà tỏ ra khinh rẻ tôi nhé, kẻo mà sẽ phải sáng mắt ra có ngày đấy!Dương Thị Thùy Dung(10A6, THPT Lý Nhân, Vĩnh Trụ, Hà Nam)Download
Mục lục
Nhân tài bị bỏ sót
Nhân tài bị bỏ sót
Dương Thị Thùy DungChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.
Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: Mít ĐặcĐược bạn: Thành Viên VNthuquan đưa lên vào ngày: 27 tháng 12 năm 2003
|
Duong Thi Thuy Dung
Talent is overlooked
I was opening my mouth and tilting my head back to pick up the red whip when suddenly Kien ran from somewhere and jumped on my back, hugged me around the neck, making me lose my momentum and stumble around a few times. Angry, I stood sideways, one hand on my hip, the other holding a stick, pointing straight at my brother's face, shouting: - That guy! What are you doing? He smiled wide-eyed, holding out a letter. - Look here! Letter from Ms. Phung Thu Ha Nam to me. Ha! Ha! Ha! I pouted:- Ha... Na... am. Your Ha Nam is a... rusty nail. Your sister is the one worthy of your respect and admiration, my dear! She also pouted and retorted: - Yes... ah... So has my sister ever had a writing score exceeding a 5? Has any article been published yet? My face was hot, my eyes blinked rapidly because it was indeed true. But I couldn't let a brat get past me, so I smacked my lips and defended: - What do you know? Let me tell you, your sister is still hiding her talent, but in fact, this person has a poetic soul as talented as Nguyen Khuyen and Xuan Dieu, no joke... Before I could finish, Kien hugged his stomach and laughed. Crawling and crawling makes me even more angry and want to... apparate. In this case, I will write poetry and publish it in newspapers to enlighten her. For the first time, I decided to write a six-eight poem with the title: "My chicken". After a restless night because of... art, I created a masterpiece poem with extremely realistic verses: My family has a chicken. Every time it crows, the whole family praises it. Once a chicken walks around. I get close to the chicken. The girl got acquainted immediately. The guy was chased away by his friend. In anger, he went to the street. After writing, I read it over and over again dozens of times, the more I read it, the better it became. While waiting for publication, receiving rewards, while eating, while sleeping, I always dreamed of being admired by a sea of people, especially my younger brother who would have to kneel down to ask for his sister's autograph. But I waited forever, a week... two weeks, then a month and still nothing, I lost interest: "Maybe there was a problem with the post office so the mail arrived late". To be sure, I was determined to use a sharp pen. my sharpness to write a second masterpiece. This time it will be a three-word poem to make it unique and new. But I haven't found inspiration for writing because I don't know what I can write about. While I was struggling with my talent, I suddenly came up with an idea: "In the past, poets just drank wine, their souls soared, they became romantic, and then their poems came out. Why don't we try that way? "I thought, let's do that. Waiting for the whole family to be away, I stole some snake wine from my father. Then happily, I put my lips to the rim of the cup. Before I could smell it, I was startled by its strong, slightly alcoholic smell. But all for the sake of art, I was able to calm down and regain the courage to... drink for inspiration. After tightly closing my nostrils, I bravely "fought". And strangely, my whole body felt hot, the poet's blood was rushing out, my whole soul was soaring into the clouds. Before "going back" to bed, I was able to write a three-word poem with a very... Tan Da - poem titled: "Say" with nine lines, all one rhyming "ay" full of inspiration. then this will be known by passionate feelings.Drinking drunkThe earth is spinning The sky is spinningThe head is spinning The person is spinningThe legs are wobbly DancingThe soul suddenly fliesAnd... rolling...When I woke up, I found myself lying on the bed, His forehead was covered with a damp towel, his whole body was tired, his head was gradually aching, and everyone was standing around, everyone's faces showing concern. Seeing me open my eyes, everyone was confused and asked me how I was feeling. Kien said loudly: - She's okay! Just because she wanted to be a poet, she drank her father's snake wine and got... shocked! The whole family laughed at my stupidity, making my self-esteem soar. I have to do something to make everyone's eyes clear... But as soon as that thought flashed in my mind, it made me want to shrink my neck and stick out my tongue. This time it was not anyone but me who had to open my eyes. But one thing is that sooner or later I still think: "I am a talent... missed by humanity". Don't show contempt for me, or you will have to open your eyes one day! Duong Thi Thuy Dung (10A6, Ly Nhan High School, Vinh Tru, Ha Nam)Download
Table of contents
Talent is overlooked
Talent is overlooked
Duong Thi Thuy DungWelcome to read the first books from the book project for mobile devices. Source: author: Nguyen Kim Vy.
Final words: Thank you for reading the entire story. Source: editor: Nguyen Kim Vy. Source: Jackfruit Posted by: Member VNthuquan on: December 27, 2003
|
Phan Thanh Tâm
Nhân tình
Chị Hân mặc áo mới. Nó ôm ngang hông chị, thì thào: "Thiệt là đẹp quá!". Chị cười tự mãn: "Em biết mà, ráng giữ nha chị, đừng tìm kiếm xa xôi nữa". Chị lại cười: "Ta biết mà nhóc, hắn thương nhưng mà cộc, lại có vài lít máu điên trong người, đã sao nhóc ạ, ta có đòi hỏi gì hơn đâu".Nó nhỏen miệng cười, một chút nước mắt rịn ra bờ mi, nó giả vờ cúi mặt vào lưng chị, kỳ thực là quệt nước mắt vào đó. Gã ấy có vẻ thích hợp với kiểu người của chị, cũng bụi bụi, phớt đời, nhìn cuộc sống một cách đơn giản hoá. Hắn có vẻ quyến luyến chị lắm. Nó mừng mà bụng thì lo. Nó lắng nghe những tiếng kêu rộp roạp lo lắng đang lừ lừ dậy lên. Cả hai người đều không thích hợp với mẩu người có thể sống cuộc sống lâu dài.oOoChị thở những hơi mệt mỏi vào không khí, bảo: "Tao đến ở nhà hắn rồi nhỏ, để tiện chăm sóc cho bà già hắn. Tội nghiệp, ung thư giai đoạn cuối". Nó thót tim: "Có cần ở lại đó không chị?". "Cần, bà ấy đau đớn lắm, thật là một thằng có hiếu. Có những việc một thằng con trai phaỉ làm mày thật sự không chịu nổi". Nó trầm ngâm: "Em sợ, mình là con gái". "Gaí thì đã sao - Chị cười khinh bạc - Chị mày có gì để mà sợ? Tao thấy bà già tội nghiệp, hắn tội nghiệp thì tao đến, tao chẳng nghĩ gì đâu". Nó cúi đầu, tự thấy mình ích kỷ, có bao giờ nó dám bước ra ngoaì bản thân mình đâu. Có những ngày Cảnh ốm, nó muốn đến chăm sóc anh, nhưng sợ cô chú anh coi thường, lại thôi. Đi chơi với nhau, muốn ngồi với anh lâu một chút, khuya chút nữa nhưng chẳng dám. Sợ về mẹ la, sợ hàng xóm dị nghị, sợ từ đáy tâm hồn anh đánh giá... Chị bảo: "Mày cứ như con dế cơm, cái gì cũng sợ, sao không một lần thoát xác để sống cho chính mình?"oOoChị đến, dựng xe rồi tất tả đi vào, buông người ngồi phịch xuống ghế: "Tụi tao độ naỳ vất vả quá mày ạ, không đi chép tranh được. Bà già cũng chẳng còn sống được bao lâu nữa. Tao thì chẳng thể về nhà xin viện trợ được, ở quê người ta không thể hiểu được những chuyện này đâu nhỏ". Nó cúi đầu nói khẽ: "Em cũng không hiểu được". Chị cười lớn: "Mày vẫn còn giận tao vì tao qua đó ở hả nhỏ? Tại maỳ thánh thiện quá. Tao khác mày, tao yêu và tao muốn sống tất cả vì người ấy, không ân hận gì cả. Tuy nhiên, không bao gờ tao muốn mày giống tao, nhóc ạ!". Nó lặng yên, nhìn ấy con lật đật trên kệ mà Cảnh mua tận Hà Nội mang về cho. Nó nghĩ, con người cũng chẳng khác gì con lật đật, hết chông chênh, nghiêng ngã hết bên này sang bên kia, cuối cùng cũng phải gượng đứng lên để tồn tại, để mà sống. Chị đứng dậy: "Tao về". Nó vội dúi vào tay chị một ít tiền. Chị nhướng mày: "Có còn để xài không?". Nó gật. Chị lên xe, chiếc xe nhổng nhổng đít mấy cái rồi vọt thẳng.oOoĐám tang bà mẹ Khoan, kèn tây thổi một bản thê lương, ỉ eo. Khoan nồi cạnh quan tài, héo rũ như một chiếc lá úa. Cảnh ôm lấy đôi vai to lớn của Khoan. Nó lặng lẽ thắp ba que nhang. Trong ảnh người thiếu phụ đang cười, nụ cười rạng rỡ chẳng ăn nhập gì với khung cảnh xung quanh. Vậy cũng được, nó chẳng muốn con cháu nó sau này phải thờ ảnh nó - một bà cụ nhăn nheo, xấu xí.Chị Hân ngồi giữa đống bát chén, xoong nồi lỉnh kỉnh. Hai tay lua khua miếng bọt biển dính đầy xà bông. Đôi mắt mệt mỏi. Cười. Nó ngồi thụp xuống bên chị, xọc tay vaò mấy cái chén dơ. Chị xua tay: "Đứng dậy, đứng dậy, dơ đồ bây giờ, để tao, tao quen rồi!". Quen? Chị Hân đã quen với những việc mà chị xem là tủn mủn chẳng đáng để vùi dập cuộc đời? Chị lại cười, đôi mắt có đuôi keó một vệt dài: "Ngạc nhiên hả nhỏ? Tao cũng là một phụ nữ với tất cả thể chất và tâm hồn mà - Giọng chị trở nên mơ màng - Bỗng tao thèm ... thèm một góc bếp chung thân".Chị khóc. Nước mắt vòng quanh, giọng vẫn đều đều, khinh bạc, chẳng chút sụt sịt, cứ như chị đang nói chuyện với ai đó và hạt bụi vô tình làm chảy nước mắt chị. Nó không hề ngạc nhiên mà lòng vẫn dậy lên những triền sóng. Vài tháng không gặp, chị gầy và xanh xao hẳn. Nó bỗng cảm thấy chán ngán lòai người, chán chuyện trăng hoa, nhân tình nhân ngãi. Sau ngày mẹ Khoan mất, nó đã bảo chị về nhà trọ, chị nói không nỡ vì Khoan yếu đuối, đau thương quá. Đâu phaỉ chị không biết điều nó lo lắng. Chị biết và chị cứ đi tới. Dũng cảm hay liều? Nó không biết, chỉ biết chị đang ngồi trước nó, nước mắt vòng quanh, giọng vẫn đều đều, khinh bạc.Nó chấm nước mắt cho chị. Chị cười: ồ, tao khóc hay sao? Đừng buồn vì chuyện tao. Thương người khác là khổ đấy. Đưa khăn đây, tao lau nước mắt cho mày". "Chị vẫn chưa cho em biết tại sao". "Có sao đâu - Chị nhún vai - Đã có những nhàm chán, thoả thuận ngay từ đầu, không muốn chơi với nhau nữa thì thôi, không làm khó cho nhau". Có thể naò đơn giản vậy ? Thoả thuận... không thích thì thôi... không làm khó... Nó nhìn qua vai chị, ngoaì kia nắng chiều sắp tắt đang nhạt nhòa trên những nóc nhà xám xỉn. Nó thấy nặng lòng khi nghĩ đến chị và Khoan, rồi chột dạ. Chuyện nó và Cảnh... một ngày nào đó... không chơi với nhau nữa... Trời ơi! Không đơn giản được đâu. Mà tại sao không đơn giản được ? Không còn muốn chơi nữa thì thôi chứ sao ./.
Mục lục
Nhân tình
Nhân tình
Phan Thanh TâmChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.
Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: Mọt sáchĐược bạn: Thành Viên VNthuquan đưa lên vào ngày: 27 tháng 12 năm 2003
|
Phan Thanh Tam
Humanity
Ms. Han wears a new shirt. He hugged her waist and whispered: "It's so beautiful!". She smiled complacently: "I know, try to keep it, don't look too far away anymore." She laughed again: "I know kid, he loves me but it's rough, he has a few liters of crazy blood in his body, so what kid, I don't ask for anything more." She smiled softly, a few tears fell from her eyes. eyelids, he pretended to look down at her back, actually wiping his tears there. That guy seems to be suitable for her type of person, also dusty, indifferent, looking at life in a simplified way. He seems very attracted to her. He was happy but his stomach was worried. He listened to the anxious croaking sounds that were slowly waking up. Both of them are not suitable for the type of person who can live a long life. oOo She breathed tired breaths into the air, saying: "I'm going to stay at his house, little one, to take care of his old lady. Poor thing." , end-stage cancer". His heart pounded: "Do you need to stay there?". "Nang, she's in so much pain, what a filial guy. There are things a guy has to do that you really can't stand." She mused: "I'm scared, I'm a girl." "What's wrong with you - She laughed contemptuously - What do you have to be afraid of? I see the poor old lady, the poor man, I'll come, I don't think anything." He bowed his head, feeling selfish, he never dared to step outside of himself. There were days when Canh was sick, he wanted to come take care of him, but was afraid that his aunt and uncle would look down on him, so he stopped. Going out together, wanting to sit with him a little longer, a little later, but I didn't dare. Afraid of your mother's yelling, afraid of the neighbors' disapproval, afraid of being judged from the bottom of your soul... She said: "You're like a rice cricket, afraid of everything, why don't you just once escape your body to live for yourself? "oOoShe came, parked the car, then hurried in, plopped down on the chair: "We're having a hard time, we can't copy paintings, and I won't be able to live much longer I can't go home and ask for aid, people in my hometown can't understand these things." He bowed his head and said softly: "I don't understand either." She laughed loudly: "Are you still angry with me because I went there to live? Because you are so holy. I am different from you, I love and I want to live everything for that person, without any regrets. However, no I never wanted you to be like me, kid!". It was quiet, looking at the child flipping around on the shelf that Canh bought from Hanoi and brought it home for him. It thinks that humans are no different from children who stumble and fall from one side to the other, but in the end they have to stand up to survive, to live. She stood up: "I'm going home." He quickly put some money in her hand. She raised her eyebrows: "Is it still available to use?". It nodded. She got in the car, the car bounced a few times and then sped away. oOo At Khoan's mother's funeral, the western trumpet played a mournful, mournful song. Drilling pot next to the coffin, wilted like a withered leaf. Canh hugged Khoan's large shoulders. He quietly lit three incense sticks. In the photo, the young woman is smiling, her bright smile does not match the surrounding scenery. That's fine, he doesn't want his descendants to have to worship his image - a wrinkled, ugly old woman. Ms. Han sat among the pile of bowls, cups, and pots and pans. Both hands waved around a sponge covered in soap. Tired eyes. Laugh. He sat down next to her, rubbing his hands in dirty cups. She waved her hand: "Get up, get up, get dirty now, leave me alone, I'm used to it!". Familiar? Has Ms. Han gotten used to doing things that she considers trivial and not worth ruining her life for? She smiled again, her eyes had a long streak of eyes: "Surprised, little one? I'm also a woman with all my body and soul - Her voice became dreamy - Suddenly I crave... crave a corner of the kitchen for life." She cried. Tears swirled around her, her voice was still monotonous, disdainful, not sniffling at all, as if she was talking to someone and a speck of dust accidentally made her tears flow. It wasn't surprising, but my heart was still filled with waves. After a few months of not seeing her, she was skinny and pale. He suddenly felt bored with people, tired of flirting, and having bad lovers. After Khoan's mother passed away, he told her to go back to the boarding house. She said she couldn't bear it because Khoan was too weak and hurt. It's not like you don't know what he's worried about. You know and you just keep going. Brave or reckless? He didn't know, he only knew that she was sitting in front of him, tears rolling around, her voice still monotonous and contemptuous. He dabbed her tears. She laughed: Oh, am I crying? Don't be sad about me. Loving others is suffering. Give me a towel, I'll wipe your tears." "You still haven't told me why." "It's okay - She shrugged - There were boredom, an agreement from the beginning, we don't want to play together anymore That's it, don't make things difficult for each other." Can it be that simple? Agreement... if you don't like it then fine... don't make things difficult... He looked over her shoulder, out there the afternoon sun was fading. on the dull gray rooftops. He felt heavy when thinking about her and Khoan, then felt guilty. It's not simple that he and Canh... one day... won't play together anymore But why can't it be simple? If you don't want to play anymore, that's fine./.
Table of contents
Humanity
Humanity
Phan Thanh TamWelcome to read books from the book project for mobile devices. Source: author: Nguyen Kim Vy.
Final words: Thank you for reading the entire story. Source: editor: Nguyen Kim Vy. Source: Bookworm Uploaded by friend: Member VNthuquan on: December 27, 2003
|
Cuộc sống thiên biến vạn hóa luôn tuần hoàn theo quy luật của tự nhiên. Mọi vật rồi cũng thay đổi theo dòng chảy trôi của thời gian. Con người trong guồng quay cuộc sống luôn vội vã, xô bồ mà quên đi những giá trị chân quý xung quanh mình, mà không thể nhìn ra mình, nhận ra người. Chỉ khi con người chịu dừng lại, bỏ lại những danh lợi, hư vinh để nhận ra những quy luật, những giá trị thực sự. Những câu thơ khi được đặt bút bởi những nhà sư đã trải thấu sự đời luôn cho ta được những nhận thức như thế. Một trong những bài thơ thiền tiêu biểu có thể kể đến “Cáo tật thị chúng” của Mãn Giác thiền sư. Và trong chương trình lớp 10, các bạn sẽ phải phân tích bài thơ trên. Chú ý phân tích bài thơ theo câu thơ, phân chia ý rõ ràng và hợp lí, viết bằng những cảm nhận của mình. Sau đây sẽ là bài phân tích mẫu để các bạn tham khảo trước khi viết. Chúc các bạn học tập tốt!
Văn học thời Lí- Trần, bên cạnh sự phong phú của những tác phẩm viết về hào khí Đông A, về tình yêu nước và tinh thân dân tộc của các vị tướng và đấng minh quân mà còn có một mảng thơ của những vị thiền sư chiêm nghiệm về con người và cuộc đời. Có thể kể đến nhà thơ- nhà thiền sư Mãn Giác với bài thơ nổi tiếng: “Cáo tật thị chúng” (Cáo bệnh, bảo mọi người).
Nguyên văn chữ Hán của bài thơ:
Những năm 1009- 1225, vào thời Lí, nước ta là một nước phát triển, phồn thịnh. Cuộc sống nhân dân đủ đầy, no ấm. Đạo Phật trở thành quốc giáo, những nhà sư đều có một vị trí trong xã hội và triều đình. Họ đều là những con người đức trọng, tài cao, giỏi thơ văn, tên tuổi sáng ngời sử sách. Mãn Giác Thiền sư là một trong những vị thiền sư thế. Bài “Cáo tật thị chúng” (Có bệnh bảo mọi người) được ông viết trước lúc qua đời. Tác phẩm viết theo thể kệ- do các nhà sư làm để tóm tắt giáo lí đạo Phật hoặc tuyên truyền những điều tâm đắc. Vì thế, những bài kệ thường hàm chứa triết lí đạo Phật cao sâu. Nhưng ở đây, “Cáo tật thị chúng” lại cho chúng ta cảm giác tươi mát, đầy thi vị.
Hai câu đầu đã diễn tả quy luật tự nhiên của cuộc sống:
Hai câu đầu nói lên sự tuần hoàn của 4 mùa, tuần hoàn luân hồi của tạo hóa. Từ “xuân, hoa” được lặp lại diễn tả quy luật phổ biến: mỗi độ xuân về, trăm hoa nở (bách hoa khai) đua sắc khoe hương. Hình ảnh “bách hoa khai “ (trăm hoa cười) tượng trưng cho sức sống mạnh mẽ đang nảy nở. Khi mùa xuân trôi qua, “bách hoa lạc” (trăm hoa rụng) theo quy luật của tự nhiên. Hai câu thơ tám chữ mà chứa đựng màu sắc triết lí, khái quát quy có tính muôn thuở của thiên nhiên cũng như cuộc đời: thiên địa tuần hoàn, hay như cách nói của nhà Phật: cuộc đời này vô thường, con người ta sống trong kiếp luân hồi. Nhưng cái hay của Mãn Giác còn là cách nói: xuân đi rồi xuân lại đến, hoa tàn rồi một ngày hoa lại nở. Cuộc sống luôn hướng về phía tươi đẹp và sự sống là bất diệt, luôn tươi ròng sự sống.
Từ chuyện thiên nhiên tạo hóa, hai câu tiếp theo, Mãn Giác nói về chuyện người, chuyện đời:
Cuộc sống thiên biến vạn hóa, chuyện mới đây thôi đã trở thành quá khứ, như “trước mắt, việc đi mãi”. Cũng như vậy, con người cũng không nằm ngoài quy luật ấy, cũng phải trải qua “sinh, lão, bệnh, tử”. Nhưng khác với thiên nhiên còn tuần hoàn, kiếp sống con người không luân hồi mà theo thời gian, sẽ đi về phía hủy diệt. Thủ pháp đối lập: hoa tươi, hoa nở- trên đầu già đến rồi đã thể hiện ý thức của Mãn Giác về sự hữu hạn của đời người trước sự vô thủy vô chung của thời gian. Câu thơ nói về sự hữu hạn đời người, về cái quy luật “bệnh, tử” mà cứ nhẹ tênh. Người thiền sư ấy đứng trước cái chết, đón nhận nó như một quy luật tất yếu, một cách nhẹ nhàng và chủ động. Đó chính là tâm thế của những con người hiểu thấu sự đời.
Để rồi, khi hai câu thơ cuối bật ra, chính là niềm tin, sự lạc quan của con người:
Thiên địa tuần hoàn, đời người ngắn ngủi:
Nhưng không phải vì thế mà con người bi quan: Hai tiếng “mạc vị ” (đừng tưởng) như một lời nhắc nhẹ nhàng mà thấm thía. Bài kệ kết cấu theo kiểu liên hoàn, sử dụng thủ pháp tương phản: mở đầu bằng “hoa rụng hết ” nhưng kết thúc lại có “một cành mai ” nở ra. “Nhất chi mai ” (một cành mai) là một thi liệu thường được sử dụng trong thơ cổ. Đó là biểu tượng của tinh thần kiên trinh không đổi, không hùa theo thói đời. Khác với các loài hoa khác, hoa mai chống chọi và thích nghi được trong thời tiết khắc nghiệt. Ở đây, nhành mai buổi xuân tàn là một hoán dụ nghệ thuật. Lấy hoa để nói mình, thấy mình ở trong hoa: cuộc đời là vô thường nhưng con người vẫn có thể khắc phục đi lên như nhành mai vẫn nở bất chấp quy luật của tự nhiên, để là một bông hoa duy nhất, rực rỡ và đẹp đẽ nhất của cuộc đời. Câu thơ tràn đầy niềm tin, niềm lạc quan của một thái độ bình thản, một nhân cách cao đẹp đứng trước những quy luật vạn vật. Bài kệ được khép lại bằng hai câu tuyệt cú mà xưa nay được truyền tụng như một vần thơ đẹp trong bài cổ thi.
|
Life is always cyclical and cyclical according to the laws of nature. Everything changes with the flow of time. People in the hustle and bustle of life always forget the precious values around them, and cannot see themselves or others. Only when people are willing to stop, leave behind fame, profit, and vanity to realize the true laws and values. Poems written by monks who have experienced life always give us such insights. One of the typical Zen poems is "Reporting to the public" by Zen master Man Giac. And in the 10th grade program, you will have to analyze the above poem. Pay attention to analyzing the poem by verse, dividing ideas clearly and logically, and writing with your feelings. Below is a sample analysis article for you to refer to before writing. Hope you learn well!
Literature of the Ly and Tran dynasties, in addition to the richness of works written about the pride of Dong A, about the patriotism and national spirit of generals and wise men, also has an array of poems by Zen masters. contemplation about people and life. We can mention the poet and Zen master Man Giac with the famous poem: "Reporting illness to the public" (Reporting illness, telling everyone).
Original Chinese text of the poem:
In the years 1009 - 1225, during the Ly dynasty, our country was a developed and prosperous country. People's lives are full and prosperous. Buddhism became the state religion, monks had a place in society and the court. They are all virtuous people, highly talented, good at poetry and writing, and have bright names in history books. Zen Master Man Giac is one of those Zen masters. The article "Reporting illness to the public" was written by him before his death. Works written in verse form - made by monks to summarize Buddhist teachings or propagate favorite things. Therefore, the verses often contain profound Buddhist philosophy. But here, "Reporting to the Public" gives us a fresh, poetic feeling.
The first two sentences describe the natural laws of life:
The first two sentences speak of the cycle of the four seasons, the cycle of reincarnation of creation. The words "spring, flowers" are repeated to describe a common rule: every spring, hundreds of flowers bloom (hundreds of flowers) blooming with color and fragrance. The image of "hundreds of smiling flowers" symbolizes the strong vitality that is blooming. When spring passes, "hundreds of flowers fall" (hundreds of flowers fall) according to the laws of nature. Two eight-word verses that contain philosophical colors, generalizing the eternal nature of nature as well as life: heaven and earth cycle, or as the Buddhists say: this life is impermanent, people are live in reincarnation. But the beauty of Man Giac is also the way it says: spring goes and spring comes again, flowers fade and one day they bloom again. Life always tends towards beauty and life is eternal, always fresh and full of life.
From the story of nature and creation, in the next two sentences, Man Giac talks about human stories and life stories:
Life is constantly changing, recent events have become the past, like "in the immediate future, things go on forever". Likewise, humans are no exception to that rule, they also have to go through "birth, old age, illness, and death". But unlike cyclical nature, human life does not reincarnate, but over time, will move toward destruction. The contrasting technique: fresh flowers, blooming flowers - on the old head has come and gone, expressing Man Giac's awareness of the finiteness of human life in the face of the beginningless and endless time. The poem talks about the finiteness of human life, about the rule of "sickness, death" that is so light. That Zen master stood before death, accepting it as an inevitable rule, gently and proactively. That is the mindset of people who understand life.
Then, when the last two verses appear, it is the faith and optimism of people:
Heaven and earth cycle, life is short:
But that's not why people are pessimistic: The two words "mo vi" (don't think) are like a gentle but poignant reminder. The poem is structured in a continuous style, using contrasting techniques: it begins with "all the flowers fall" but ends with "an apricot branch" blooming. “Nhat chi mai” (an apricot branch) is a poetic material often used in ancient poetry. It is a symbol of the spirit of unchanging perseverance, not following the world's habits. Unlike other flowers, apricot blossoms can withstand and adapt to harsh weather. Here, the apricot branch in the fading spring is an artistic metaphor. Use flowers to express yourself, see yourself in flowers: life is impermanent but people can still overcome it like apricot branches that still bloom despite the laws of nature, to be a unique, brilliant flower. and the most beautiful of life. The poem is full of faith and optimism of a calm attitude, a noble personality standing before the laws of all things. The verse ends with two beautiful sentences that have long been recited as beautiful poems in ancient poems.
|
Mỗi tác phẩm văn học đều là đứa con tinh thần của người nghệ sĩ, là kết quả của một quá trình “tiêu tốn ngàn cân quặng chữ mới thu về được một chữ mà thôi”. Vì thế tác phẩm văn học không chỉ mang chức năng thẩm mỹ mà nó còn có chức năng giáo dục, hướng con người hướng đến những giá trị chân-thiện-mĩ trong cuộc sống. Với mỗi tác phẩm, chắc hẳn đều ít nhiều in dấu trong lòng độc giả. Có người yêu thích chất triết lý trữ tình trong thơ Tố Hữu, có người như tìm về tuổi thơ qua các tác phẩm truyện của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh. Bài viết dưới đây là bài viết số 1 lớp 10 đề 5: Phát biểu cảm nghĩ về 1 bài thơ hoặc tác phẩm văn học mà anh chị yêu thích. Tùy vào sở thích mỗi người mà chọn cho mình một tác phẩm tâm đắc nhất. Một tác phẩm bao gồm nhiều vấn đề, ý nghĩa mà tác giả gửi gắm, do đó khi cảm nhận có thể chọn một vấn đề để nêu cảm nghĩ của mình một cách sâu sắc nhất. Hy vọng bài văn mẫu mà chúng tôi đưa ra sẽ phần nào giúp các bạn hoàn thành bài tập thật tốt.
Chúng ta hẳn còn nhớ về hai nhân vật trung tâm trong tuyệt tác “Cánh buồm đỏ thắm” của A.Grin: Grey và Assol. Từ nhỏ, Grey tỏ ra là một cậu bé tò mò, nghịch ngợm, hiếu động và không kém phần hồn nhiên. Dù bị giam cầm trong tòa lâu đài, cậu bé vẫn luôn tự tìm cho mình một món đồ chơi nào đó. Trái ngược với Grey, cô bé Assol luôn được tự do. Nhưng cô bị giam cầm bởi những định kiến mà xã hội “dán nhãn” cho cô. Grey và Assol có từ bỏ cá tính của mình hay không? Không, họ không từ bỏ nó.
Với Grey, bị giam cầm trong lâu đài không có nghĩa là bị cầm tù. Cậu ta không để yên cho tòa lâu đài đó. Lục lọi, khám phá, vẽ lên bức tranh và làm hỏng nó, trò chuyện với những người trong lâu đài như với bạn…Những chi tiết đó không cho thấy cậu bé thích phá phách mà tô đậm lên tính cách hồn nhiên, trong sáng của cậu bé. Còn Assol, “nó ngồi lên gối cha”, “bận bịu khám phá chiếc áo gile”, “cất tiếng hát một cách ngộ nghĩnh”, “giống như một chú gấu thắt những dải nơ xanh đang nhảy múa”…Những nét dễ thương ấy đủ để khắc họa tâm hồn trong sáng của cô bé. Những lời chê bai, định kiến kia càng làm cô vững tin về một ngày tốt đẹp, một ngày được thấy “cánh buồm đỏ thắm” mà cô đang mong chờ. Dù cha cô có bị khinh miệt, cô vẫn thân thiết và chuyện trò với cha như ngày nào. Cô không lo ngại không có ai lắng nghe và nói chuyện với cô, mà cô coi cỏ cây, tất cả, tất cả đều lắng nghe và dõi theo bước chân mình. Chính điều đó tạo cho cô một vẻ đẹp khác biệt so với những đứa trẻ khác.
Grey và Assol đều là những đứa trẻ mang trong mình tâm hồn trong sáng, thánh thiện và hồn nhiên đến lạ. Những ý nghĩ lạc quan, yêu đời ấy có sức mạnh thật là kỳ diệu. Nó có thể xua đi nỗi buồn, xua tan màn đêm, đem lại niềm tin, hy vọng đến cho bao người. Khác với những đứa trẻ xung quanh, Grey và Assol không bao giờ mặc cảm về mình hay để ý đến những điều mà mọi người nói với mình. Khi người ta gọi cha của Assol là kẻ giết người, gọi cô bé là kẻ mất trí, chỉ vì cô có ý nghĩ về cánh buồm đỏ thắm và chàng hoàng tử trong lời tiên tri, cô bé có đánh mất niềm tin không? Và Grey, có gì có thể giam cầm cậu không?
Không! Không có gì có thể cướp đi niềm tin, hy vọng và tâm hồn trong vắt của họ. Bởi sự hồn nhiên và những ý nghĩ lạc quan của họ không cho phép, nói chính xác hơn, chúng trở thành những bức tường kiên cố ngăn thế giới tuổi thơ với cái thế giới đầy rẫy những định kiến bất công kia.
Bác Hồ – Vị lãnh tụ vĩ đại, Người cha già kính yêu của dân tộc Việt Nam.Dù Người đã đi xa mãi mãi nhưng công lao to lớn, tấm lòng bác ái và tình yêu thương bao la mà Bác để lại cho chúng ta vẫn sẽ sống mãi trong trái tim và tâm hồn của những người con đất Việt. Đã có rất nhiều áng thơ, áng văn, những bản nhạc bày tỏ sự kính yêu, lòng biết ơn và nỗi nhớ thiết tha của những người con Việt Nam gửi đến Bác.Một trong số những tác phẩm đã để lại ấn tượng sâu sắc cùng sự xúc động mãnh mẽ trong tâm trí tôi đó là bài “ Viếng lăng Bác’’ của nhà thơ Viễn Phương.
Bài thơ mở đầu bằng niềm cảm xúc da diết và nỗi nhớ nghẹn ngào của nhà thơ:
Câu thơ giống như một lời tự sự nghẹn ngào của tác giả,của đứa con đi xa lâu ngày được trở về thăm Bác kính yêu, dường như nỗi nhớ ấy đã được dồn nén chỉ chờ đến ngày nhà thơ được gặp Bác mà không kìm được đã bật ra nức nở và nhớ thương.Ấy cũng là nỗi niềm,là tình cảm chung của đồng bào chiến sĩ miền Nam gửi gắm đến vị lãnh tụ vĩ đại tôn kính của dân tộc.Hình ảnh đầu tiên xuất hiện trước mắt nhà thơ khi về thăm Bác đó là hình ảnh của hàng tre xanh bát ngát – biểu tượng mộc mạc gắn liền với làng quê Việt Nam,bình dị và gần gũi như Bác lúc sinh thời.Không chỉ vậy hàng tre xanh đặc biệt còn tượng trưng cho tinh thần bất khuất kiên cường của người dân Việt Nam không bao giờ lùi bước trước kẻ thù,dù mộc mạc mà thanh cao,nghị lực
Bây giờ hàng tre ấy lại ở đây ngày đêm chở che cho giấc ngủ bình yên của Bác,giống như dù Bác đã đi xa nhưng tâm hồn và trái tim của Người thì vẫn luôn gắn bó thiết tha với quê hương,đất nước.
Bác nằm đó bình yên giữa muôn vàn nỗi nhớ thương và lòng kính yêu vô hạn:
Ở khổ thơ thứ hai này nhà thơ đã tạo nên hai cặp câu, mỗi cặp câu đều có sự sóng đôi của hình ảnh ẩn dụ và tả thực. Hai câu thơ đầu có hình ảnh của “ mặt trời”, “ mặt trời” ở câu thơ thứ nhất là mặt trời của tự nhiên, vũ trụ ngày ngày soi sáng cho nhân loại. “Mặt trời” ở câu thơ thứ hai chính là Bác Hồ, việc ví Bác với hình ảnh mặt trời nhà thơ vừa ca ngợi sự vĩ đại, vừa nhấn mạnh tư tưởng nhân cách ngời sáng của Người đồng thời thể hiện lòng tôn kính biết ơn của nhân dân, của tác giả đối với Bác. Người là vầng mặt trời rực rỡ, tỏa ánh hào quang soi sáng con đường giải phóng, đưa dân dộc ta từ cuộc sống đói khổ lầm than, xiềng xích đến với cuộc đời tự do, hạnh phúc. Hai câu thơ tiếp theo nhà thơ miêu tả hình ảnh dòng người lần lượt nối nhau vào viếng lăng Bác. Điệp từ “ngày ngày” diễn tả vòng thời gian tuần hoàn liên tục, những hàng người như thể vô tận cứ lần lượt xếp hàng vào thăm Bác với lòng thành kính và nỗi nhớ thương vô tận. Những người con từ khắp mọi miền tổ quốc đều đã về đây kết thành tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân- tượng trưng cho bảy mươi chín năm cuộc đời Bác dành trọn cống hiến cho dân tộc, cho non sông gấm vóc Việt Nam.
Thời gian và không gian dường như ngưng đọng lại trong khung cảnh bình yên khi nhà thơ nhìn thấy Bác, chỉ có cảm xúc nghẹn ngào là dường như được đẩy cao hơn
Nghệ thuật nói giảm nói tránh “ giấc ngủ bình yên” dường như đã làm dịu đi nỗi đau, nỗi mất mát quá lớn của dân tộc Việt Nam khi Bác đã ra đi. Người thực chất chỉ đang ngủ thôi, một giấc ngủ ngàn thu bình yên, nhẹ nhàng và thanh thản biết bao. Hình ảnh ẩn dụ “ vầng trăng sáng dịu hiền ” là một hình ảnh vô cùng đẹp, giàu chất thơ, nó tượng trưng cho tâm hồn cao đẹp, tươi sáng như ánh trăng của Người. Hình ảnh mặt trời ở khổ thơ trên kết hợp với “ vầng trăng sáng” ở khổ thơ thứ ba đã hoàn thiện bức chân dung vị lãnh tụ vĩ đại của chúng ta: chói lòa, rực rỡ, thanh cao, hiền lương và tràn đầy gần gũi, thương mến. Vầng trăng ấy cũng là người bạn tri kỉ xuất hiện trong những vần thơ của Bác, giờ đây lại âm thầm tỏa ánh sáng dịu hiền trông coi cho giấc ngủ của Người cha già kính yêu. Tâm trạng nghẹn ngào dường như được lắng xuống thay vào đó là nỗi xót xa, đau đớn tiếc nuối của nhà thơ:
Hình ảnh “ trời xanh mãi mãi “ tượng trưng cho hình ảnh Bác sẽ luôn còn sống mãi trong trái tim trí óc của nhân dân Việt Nam cũng như sự nghiệp và tư tưởng của Người sẽ trường tồn với năm tháng như bầu trời xanh thẳm của tự nhiên. Dẫu biết là như vậy nhưng nỗi mất mát quá lớn đã khiến nhà thơ không điều khiển được cảm xúc mà bật ra sự xót thương nghẹn ngào, từ “nhói” làm cho ta cảm nhận được dường như đã có những giọt nước mắt tuôn rơi trên mặt và cả trong trái tim nhà thơ.
Nếu như những khổ thơ trên vẫn là sự kìm nén gắng gượng cảm xúc của nhà thơ thì đến khổ thơ cuối nghĩ đến lúc sắp phải trở về ông đã không thể nén lòng mình được nữa mà bật ra những tiếng nức nở đầy xúc động:
|
Mỗi tác phẩm văn học đều là đứa con tinh thần của người nghệ sĩ, là kết quả của một quá trình “tiêu tốn ngàn cân quặng chữ mới thu về được một chữ mà thôi”. Vì thế tác phẩm văn học không chỉ mang chức năng thẩm mỹ mà nó còn có chức năng giáo dục, hướng con người hướng đến những giá trị chân-thiện-mĩ trong cuộc sống. Với mỗi tác phẩm, chắc hẳn đều ít nhiều in dấu trong lòng độc giả. Có người yêu thích chất triết lý trữ tình trong thơ Tố Hữu, có người như tìm về tuổi thơ qua các tác phẩm truyện của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh. Bài viết dưới đây là bài viết số 1 lớp 10 đề 5: Phát biểu cảm nghĩ về 1 bài thơ hoặc tác phẩm văn học mà anh chị yêu thích. Tùy vào sở thích mỗi người mà chọn cho mình một tác phẩm tâm đắc nhất. Một tác phẩm bao gồm nhiều vấn đề, ý nghĩa mà tác giả gửi gắm, do đó khi cảm nhận có thể chọn một vấn đề để nêu cảm nghĩ của mình một cách sâu sắc nhất. Hy vọng bài văn mẫu mà chúng tôi đưa ra sẽ phần nào giúp các bạn hoàn thành bài tập thật tốt.
Chúng ta hẳn còn nhớ về hai nhân vật trung tâm trong tuyệt tác “Cánh buồm đỏ thắm” của A.Grin: Grey và Assol. Từ nhỏ, Grey tỏ ra là một cậu bé tò mò, nghịch ngợm, hiếu động và không kém phần hồn nhiên. Dù bị giam cầm trong tòa lâu đài, cậu bé vẫn luôn tự tìm cho mình một món đồ chơi nào đó. Trái ngược với Grey, cô bé Assol luôn được tự do. Nhưng cô bị giam cầm bởi những định kiến mà xã hội “dán nhãn” cho cô. Grey và Assol có từ bỏ cá tính của mình hay không? Không, họ không từ bỏ nó.
Với Grey, bị giam cầm trong lâu đài không có nghĩa là bị cầm tù. Cậu ta không để yên cho tòa lâu đài đó. Lục lọi, khám phá, vẽ lên bức tranh và làm hỏng nó, trò chuyện với những người trong lâu đài như với bạn…Những chi tiết đó không cho thấy cậu bé thích phá phách mà tô đậm lên tính cách hồn nhiên, trong sáng của cậu bé. Còn Assol, “nó ngồi lên gối cha”, “bận bịu khám phá chiếc áo gile”, “cất tiếng hát một cách ngộ nghĩnh”, “giống như một chú gấu thắt những dải nơ xanh đang nhảy múa”…Những nét dễ thương ấy đủ để khắc họa tâm hồn trong sáng của cô bé. Những lời chê bai, định kiến kia càng làm cô vững tin về một ngày tốt đẹp, một ngày được thấy “cánh buồm đỏ thắm” mà cô đang mong chờ. Dù cha cô có bị khinh miệt, cô vẫn thân thiết và chuyện trò với cha như ngày nào. Cô không lo ngại không có ai lắng nghe và nói chuyện với cô, mà cô coi cỏ cây, tất cả, tất cả đều lắng nghe và dõi theo bước chân mình. Chính điều đó tạo cho cô một vẻ đẹp khác biệt so với những đứa trẻ khác.
Grey và Assol đều là những đứa trẻ mang trong mình tâm hồn trong sáng, thánh thiện và hồn nhiên đến lạ. Những ý nghĩ lạc quan, yêu đời ấy có sức mạnh thật là kỳ diệu. Nó có thể xua đi nỗi buồn, xua tan màn đêm, đem lại niềm tin, hy vọng đến cho bao người. Khác với những đứa trẻ xung quanh, Grey và Assol không bao giờ mặc cảm về mình hay để ý đến những điều mà mọi người nói với mình. Khi người ta gọi cha của Assol là kẻ giết người, gọi cô bé là kẻ mất trí, chỉ vì cô có ý nghĩ về cánh buồm đỏ thắm và chàng hoàng tử trong lời tiên tri, cô bé có đánh mất niềm tin không? Và Grey, có gì có thể giam cầm cậu không?
Không! Không có gì có thể cướp đi niềm tin, hy vọng và tâm hồn trong vắt của họ. Bởi sự hồn nhiên và những ý nghĩ lạc quan của họ không cho phép, nói chính xác hơn, chúng trở thành những bức tường kiên cố ngăn thế giới tuổi thơ với cái thế giới đầy rẫy những định kiến bất công kia.
Bác Hồ – Vị lãnh tụ vĩ đại, Người cha già kính yêu của dân tộc Việt Nam.Dù Người đã đi xa mãi mãi nhưng công lao to lớn, tấm lòng bác ái và tình yêu thương bao la mà Bác để lại cho chúng ta vẫn sẽ sống mãi trong trái tim và tâm hồn của những người con đất Việt. Đã có rất nhiều áng thơ, áng văn, những bản nhạc bày tỏ sự kính yêu, lòng biết ơn và nỗi nhớ thiết tha của những người con Việt Nam gửi đến Bác.Một trong số những tác phẩm đã để lại ấn tượng sâu sắc cùng sự xúc động mãnh mẽ trong tâm trí tôi đó là bài “ Viếng lăng Bác’’ của nhà thơ Viễn Phương.
Bài thơ mở đầu bằng niềm cảm xúc da diết và nỗi nhớ nghẹn ngào của nhà thơ:
Câu thơ giống như một lời tự sự nghẹn ngào của tác giả,của đứa con đi xa lâu ngày được trở về thăm Bác kính yêu, dường như nỗi nhớ ấy đã được dồn nén chỉ chờ đến ngày nhà thơ được gặp Bác mà không kìm được đã bật ra nức nở và nhớ thương.Ấy cũng là nỗi niềm,là tình cảm chung của đồng bào chiến sĩ miền Nam gửi gắm đến vị lãnh tụ vĩ đại tôn kính của dân tộc.Hình ảnh đầu tiên xuất hiện trước mắt nhà thơ khi về thăm Bác đó là hình ảnh của hàng tre xanh bát ngát – biểu tượng mộc mạc gắn liền với làng quê Việt Nam,bình dị và gần gũi như Bác lúc sinh thời.Không chỉ vậy hàng tre xanh đặc biệt còn tượng trưng cho tinh thần bất khuất kiên cường của người dân Việt Nam không bao giờ lùi bước trước kẻ thù,dù mộc mạc mà thanh cao,nghị lực
Bây giờ hàng tre ấy lại ở đây ngày đêm chở che cho giấc ngủ bình yên của Bác,giống như dù Bác đã đi xa nhưng tâm hồn và trái tim của Người thì vẫn luôn gắn bó thiết tha với quê hương,đất nước.
Bác nằm đó bình yên giữa muôn vàn nỗi nhớ thương và lòng kính yêu vô hạn:
Ở khổ thơ thứ hai này nhà thơ đã tạo nên hai cặp câu, mỗi cặp câu đều có sự sóng đôi của hình ảnh ẩn dụ và tả thực. Hai câu thơ đầu có hình ảnh của “ mặt trời”, “ mặt trời” ở câu thơ thứ nhất là mặt trời của tự nhiên, vũ trụ ngày ngày soi sáng cho nhân loại. “Mặt trời” ở câu thơ thứ hai chính là Bác Hồ, việc ví Bác với hình ảnh mặt trời nhà thơ vừa ca ngợi sự vĩ đại, vừa nhấn mạnh tư tưởng nhân cách ngời sáng của Người đồng thời thể hiện lòng tôn kính biết ơn của nhân dân, của tác giả đối với Bác. Người là vầng mặt trời rực rỡ, tỏa ánh hào quang soi sáng con đường giải phóng, đưa dân dộc ta từ cuộc sống đói khổ lầm than, xiềng xích đến với cuộc đời tự do, hạnh phúc. Hai câu thơ tiếp theo nhà thơ miêu tả hình ảnh dòng người lần lượt nối nhau vào viếng lăng Bác. Điệp từ “ngày ngày” diễn tả vòng thời gian tuần hoàn liên tục, những hàng người như thể vô tận cứ lần lượt xếp hàng vào thăm Bác với lòng thành kính và nỗi nhớ thương vô tận. Những người con từ khắp mọi miền tổ quốc đều đã về đây kết thành tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân- tượng trưng cho bảy mươi chín năm cuộc đời Bác dành trọn cống hiến cho dân tộc, cho non sông gấm vóc Việt Nam.
Thời gian và không gian dường như ngưng đọng lại trong khung cảnh bình yên khi nhà thơ nhìn thấy Bác, chỉ có cảm xúc nghẹn ngào là dường như được đẩy cao hơn
Nghệ thuật nói giảm nói tránh “ giấc ngủ bình yên” dường như đã làm dịu đi nỗi đau, nỗi mất mát quá lớn của dân tộc Việt Nam khi Bác đã ra đi. Người thực chất chỉ đang ngủ thôi, một giấc ngủ ngàn thu bình yên, nhẹ nhàng và thanh thản biết bao. Hình ảnh ẩn dụ “ vầng trăng sáng dịu hiền ” là một hình ảnh vô cùng đẹp, giàu chất thơ, nó tượng trưng cho tâm hồn cao đẹp, tươi sáng như ánh trăng của Người. Hình ảnh mặt trời ở khổ thơ trên kết hợp với “ vầng trăng sáng” ở khổ thơ thứ ba đã hoàn thiện bức chân dung vị lãnh tụ vĩ đại của chúng ta: chói lòa, rực rỡ, thanh cao, hiền lương và tràn đầy gần gũi, thương mến. Vầng trăng ấy cũng là người bạn tri kỉ xuất hiện trong những vần thơ của Bác, giờ đây lại âm thầm tỏa ánh sáng dịu hiền trông coi cho giấc ngủ của Người cha già kính yêu. Tâm trạng nghẹn ngào dường như được lắng xuống thay vào đó là nỗi xót xa, đau đớn tiếc nuối của nhà thơ:
Hình ảnh “ trời xanh mãi mãi “ tượng trưng cho hình ảnh Bác sẽ luôn còn sống mãi trong trái tim trí óc của nhân dân Việt Nam cũng như sự nghiệp và tư tưởng của Người sẽ trường tồn với năm tháng như bầu trời xanh thẳm của tự nhiên. Dẫu biết là như vậy nhưng nỗi mất mát quá lớn đã khiến nhà thơ không điều khiển được cảm xúc mà bật ra sự xót thương nghẹn ngào, từ “nhói” làm cho ta cảm nhận được dường như đã có những giọt nước mắt tuôn rơi trên mặt và cả trong trái tim nhà thơ.
Nếu như những khổ thơ trên vẫn là sự kìm nén gắng gượng cảm xúc của nhà thơ thì đến khổ thơ cuối nghĩ đến lúc sắp phải trở về ông đã không thể nén lòng mình được nữa mà bật ra những tiếng nức nở đầy xúc động:
|
Mỗi tác phẩm văn học đều là đứa con tinh thần của người nghệ sĩ, là kết quả của một quá trình “tiêu tốn ngàn cân quặng chữ mới thu về được một chữ mà thôi”. Vì thế tác phẩm văn học không chỉ mang chức năng thẩm mỹ mà nó còn có chức năng giáo dục, hướng con người hướng đến những giá trị chân-thiện-mĩ trong cuộc sống. Với mỗi tác phẩm, chắc hẳn đều ít nhiều in dấu trong lòng độc giả. Có người yêu thích chất triết lý trữ tình trong thơ Tố Hữu, có người như tìm về tuổi thơ qua các tác phẩm truyện của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh. Bài viết dưới đây là bài viết số 1 lớp 10 đề 5: Phát biểu cảm nghĩ về 1 bài thơ hoặc tác phẩm văn học mà anh chị yêu thích. Tùy vào sở thích mỗi người mà chọn cho mình một tác phẩm tâm đắc nhất. Một tác phẩm bao gồm nhiều vấn đề, ý nghĩa mà tác giả gửi gắm, do đó khi cảm nhận có thể chọn một vấn đề để nêu cảm nghĩ của mình một cách sâu sắc nhất. Hy vọng bài văn mẫu mà chúng tôi đưa ra sẽ phần nào giúp các bạn hoàn thành bài tập thật tốt.
Chúng ta hẳn còn nhớ về hai nhân vật trung tâm trong tuyệt tác “Cánh buồm đỏ thắm” của A.Grin: Grey và Assol. Từ nhỏ, Grey tỏ ra là một cậu bé tò mò, nghịch ngợm, hiếu động và không kém phần hồn nhiên. Dù bị giam cầm trong tòa lâu đài, cậu bé vẫn luôn tự tìm cho mình một món đồ chơi nào đó. Trái ngược với Grey, cô bé Assol luôn được tự do. Nhưng cô bị giam cầm bởi những định kiến mà xã hội “dán nhãn” cho cô. Grey và Assol có từ bỏ cá tính của mình hay không? Không, họ không từ bỏ nó.
Với Grey, bị giam cầm trong lâu đài không có nghĩa là bị cầm tù. Cậu ta không để yên cho tòa lâu đài đó. Lục lọi, khám phá, vẽ lên bức tranh và làm hỏng nó, trò chuyện với những người trong lâu đài như với bạn…Những chi tiết đó không cho thấy cậu bé thích phá phách mà tô đậm lên tính cách hồn nhiên, trong sáng của cậu bé. Còn Assol, “nó ngồi lên gối cha”, “bận bịu khám phá chiếc áo gile”, “cất tiếng hát một cách ngộ nghĩnh”, “giống như một chú gấu thắt những dải nơ xanh đang nhảy múa”…Những nét dễ thương ấy đủ để khắc họa tâm hồn trong sáng của cô bé. Những lời chê bai, định kiến kia càng làm cô vững tin về một ngày tốt đẹp, một ngày được thấy “cánh buồm đỏ thắm” mà cô đang mong chờ. Dù cha cô có bị khinh miệt, cô vẫn thân thiết và chuyện trò với cha như ngày nào. Cô không lo ngại không có ai lắng nghe và nói chuyện với cô, mà cô coi cỏ cây, tất cả, tất cả đều lắng nghe và dõi theo bước chân mình. Chính điều đó tạo cho cô một vẻ đẹp khác biệt so với những đứa trẻ khác.
Grey và Assol đều là những đứa trẻ mang trong mình tâm hồn trong sáng, thánh thiện và hồn nhiên đến lạ. Những ý nghĩ lạc quan, yêu đời ấy có sức mạnh thật là kỳ diệu. Nó có thể xua đi nỗi buồn, xua tan màn đêm, đem lại niềm tin, hy vọng đến cho bao người. Khác với những đứa trẻ xung quanh, Grey và Assol không bao giờ mặc cảm về mình hay để ý đến những điều mà mọi người nói với mình. Khi người ta gọi cha của Assol là kẻ giết người, gọi cô bé là kẻ mất trí, chỉ vì cô có ý nghĩ về cánh buồm đỏ thắm và chàng hoàng tử trong lời tiên tri, cô bé có đánh mất niềm tin không? Và Grey, có gì có thể giam cầm cậu không?
Không! Không có gì có thể cướp đi niềm tin, hy vọng và tâm hồn trong vắt của họ. Bởi sự hồn nhiên và những ý nghĩ lạc quan của họ không cho phép, nói chính xác hơn, chúng trở thành những bức tường kiên cố ngăn thế giới tuổi thơ với cái thế giới đầy rẫy những định kiến bất công kia.
Bác Hồ – Vị lãnh tụ vĩ đại, Người cha già kính yêu của dân tộc Việt Nam.Dù Người đã đi xa mãi mãi nhưng công lao to lớn, tấm lòng bác ái và tình yêu thương bao la mà Bác để lại cho chúng ta vẫn sẽ sống mãi trong trái tim và tâm hồn của những người con đất Việt. Đã có rất nhiều áng thơ, áng văn, những bản nhạc bày tỏ sự kính yêu, lòng biết ơn và nỗi nhớ thiết tha của những người con Việt Nam gửi đến Bác.Một trong số những tác phẩm đã để lại ấn tượng sâu sắc cùng sự xúc động mãnh mẽ trong tâm trí tôi đó là bài “ Viếng lăng Bác’’ của nhà thơ Viễn Phương.
Bài thơ mở đầu bằng niềm cảm xúc da diết và nỗi nhớ nghẹn ngào của nhà thơ:
Câu thơ giống như một lời tự sự nghẹn ngào của tác giả,của đứa con đi xa lâu ngày được trở về thăm Bác kính yêu, dường như nỗi nhớ ấy đã được dồn nén chỉ chờ đến ngày nhà thơ được gặp Bác mà không kìm được đã bật ra nức nở và nhớ thương.Ấy cũng là nỗi niềm,là tình cảm chung của đồng bào chiến sĩ miền Nam gửi gắm đến vị lãnh tụ vĩ đại tôn kính của dân tộc.Hình ảnh đầu tiên xuất hiện trước mắt nhà thơ khi về thăm Bác đó là hình ảnh của hàng tre xanh bát ngát – biểu tượng mộc mạc gắn liền với làng quê Việt Nam,bình dị và gần gũi như Bác lúc sinh thời.Không chỉ vậy hàng tre xanh đặc biệt còn tượng trưng cho tinh thần bất khuất kiên cường của người dân Việt Nam không bao giờ lùi bước trước kẻ thù,dù mộc mạc mà thanh cao,nghị lực
Bây giờ hàng tre ấy lại ở đây ngày đêm chở che cho giấc ngủ bình yên của Bác,giống như dù Bác đã đi xa nhưng tâm hồn và trái tim của Người thì vẫn luôn gắn bó thiết tha với quê hương,đất nước.
Bác nằm đó bình yên giữa muôn vàn nỗi nhớ thương và lòng kính yêu vô hạn:
Ở khổ thơ thứ hai này nhà thơ đã tạo nên hai cặp câu, mỗi cặp câu đều có sự sóng đôi của hình ảnh ẩn dụ và tả thực. Hai câu thơ đầu có hình ảnh của “ mặt trời”, “ mặt trời” ở câu thơ thứ nhất là mặt trời của tự nhiên, vũ trụ ngày ngày soi sáng cho nhân loại. “Mặt trời” ở câu thơ thứ hai chính là Bác Hồ, việc ví Bác với hình ảnh mặt trời nhà thơ vừa ca ngợi sự vĩ đại, vừa nhấn mạnh tư tưởng nhân cách ngời sáng của Người đồng thời thể hiện lòng tôn kính biết ơn của nhân dân, của tác giả đối với Bác. Người là vầng mặt trời rực rỡ, tỏa ánh hào quang soi sáng con đường giải phóng, đưa dân dộc ta từ cuộc sống đói khổ lầm than, xiềng xích đến với cuộc đời tự do, hạnh phúc. Hai câu thơ tiếp theo nhà thơ miêu tả hình ảnh dòng người lần lượt nối nhau vào viếng lăng Bác. Điệp từ “ngày ngày” diễn tả vòng thời gian tuần hoàn liên tục, những hàng người như thể vô tận cứ lần lượt xếp hàng vào thăm Bác với lòng thành kính và nỗi nhớ thương vô tận. Những người con từ khắp mọi miền tổ quốc đều đã về đây kết thành tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân- tượng trưng cho bảy mươi chín năm cuộc đời Bác dành trọn cống hiến cho dân tộc, cho non sông gấm vóc Việt Nam.
Thời gian và không gian dường như ngưng đọng lại trong khung cảnh bình yên khi nhà thơ nhìn thấy Bác, chỉ có cảm xúc nghẹn ngào là dường như được đẩy cao hơn
Nghệ thuật nói giảm nói tránh “ giấc ngủ bình yên” dường như đã làm dịu đi nỗi đau, nỗi mất mát quá lớn của dân tộc Việt Nam khi Bác đã ra đi. Người thực chất chỉ đang ngủ thôi, một giấc ngủ ngàn thu bình yên, nhẹ nhàng và thanh thản biết bao. Hình ảnh ẩn dụ “ vầng trăng sáng dịu hiền ” là một hình ảnh vô cùng đẹp, giàu chất thơ, nó tượng trưng cho tâm hồn cao đẹp, tươi sáng như ánh trăng của Người. Hình ảnh mặt trời ở khổ thơ trên kết hợp với “ vầng trăng sáng” ở khổ thơ thứ ba đã hoàn thiện bức chân dung vị lãnh tụ vĩ đại của chúng ta: chói lòa, rực rỡ, thanh cao, hiền lương và tràn đầy gần gũi, thương mến. Vầng trăng ấy cũng là người bạn tri kỉ xuất hiện trong những vần thơ của Bác, giờ đây lại âm thầm tỏa ánh sáng dịu hiền trông coi cho giấc ngủ của Người cha già kính yêu. Tâm trạng nghẹn ngào dường như được lắng xuống thay vào đó là nỗi xót xa, đau đớn tiếc nuối của nhà thơ:
Hình ảnh “ trời xanh mãi mãi “ tượng trưng cho hình ảnh Bác sẽ luôn còn sống mãi trong trái tim trí óc của nhân dân Việt Nam cũng như sự nghiệp và tư tưởng của Người sẽ trường tồn với năm tháng như bầu trời xanh thẳm của tự nhiên. Dẫu biết là như vậy nhưng nỗi mất mát quá lớn đã khiến nhà thơ không điều khiển được cảm xúc mà bật ra sự xót thương nghẹn ngào, từ “nhói” làm cho ta cảm nhận được dường như đã có những giọt nước mắt tuôn rơi trên mặt và cả trong trái tim nhà thơ.
Nếu như những khổ thơ trên vẫn là sự kìm nén gắng gượng cảm xúc của nhà thơ thì đến khổ thơ cuối nghĩ đến lúc sắp phải trở về ông đã không thể nén lòng mình được nữa mà bật ra những tiếng nức nở đầy xúc động:
|
Mỗi tác phẩm văn học đều là đứa con tinh thần của người nghệ sĩ, là kết quả của một quá trình “tiêu tốn ngàn cân quặng chữ mới thu về được một chữ mà thôi”. Vì thế tác phẩm văn học không chỉ mang chức năng thẩm mỹ mà nó còn có chức năng giáo dục, hướng con người hướng đến những giá trị chân-thiện-mĩ trong cuộc sống. Với mỗi tác phẩm, chắc hẳn đều ít nhiều in dấu trong lòng độc giả. Có người yêu thích chất triết lý trữ tình trong thơ Tố Hữu, có người như tìm về tuổi thơ qua các tác phẩm truyện của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh. Bài viết dưới đây là bài viết số 1 lớp 10 đề 5: Phát biểu cảm nghĩ về 1 bài thơ hoặc tác phẩm văn học mà anh chị yêu thích. Tùy vào sở thích mỗi người mà chọn cho mình một tác phẩm tâm đắc nhất. Một tác phẩm bao gồm nhiều vấn đề, ý nghĩa mà tác giả gửi gắm, do đó khi cảm nhận có thể chọn một vấn đề để nêu cảm nghĩ của mình một cách sâu sắc nhất. Hy vọng bài văn mẫu mà chúng tôi đưa ra sẽ phần nào giúp các bạn hoàn thành bài tập thật tốt.
Chúng ta hẳn còn nhớ về hai nhân vật trung tâm trong tuyệt tác “Cánh buồm đỏ thắm” của A.Grin: Grey và Assol. Từ nhỏ, Grey tỏ ra là một cậu bé tò mò, nghịch ngợm, hiếu động và không kém phần hồn nhiên. Dù bị giam cầm trong tòa lâu đài, cậu bé vẫn luôn tự tìm cho mình một món đồ chơi nào đó. Trái ngược với Grey, cô bé Assol luôn được tự do. Nhưng cô bị giam cầm bởi những định kiến mà xã hội “dán nhãn” cho cô. Grey và Assol có từ bỏ cá tính của mình hay không? Không, họ không từ bỏ nó.
Với Grey, bị giam cầm trong lâu đài không có nghĩa là bị cầm tù. Cậu ta không để yên cho tòa lâu đài đó. Lục lọi, khám phá, vẽ lên bức tranh và làm hỏng nó, trò chuyện với những người trong lâu đài như với bạn…Những chi tiết đó không cho thấy cậu bé thích phá phách mà tô đậm lên tính cách hồn nhiên, trong sáng của cậu bé. Còn Assol, “nó ngồi lên gối cha”, “bận bịu khám phá chiếc áo gile”, “cất tiếng hát một cách ngộ nghĩnh”, “giống như một chú gấu thắt những dải nơ xanh đang nhảy múa”…Những nét dễ thương ấy đủ để khắc họa tâm hồn trong sáng của cô bé. Những lời chê bai, định kiến kia càng làm cô vững tin về một ngày tốt đẹp, một ngày được thấy “cánh buồm đỏ thắm” mà cô đang mong chờ. Dù cha cô có bị khinh miệt, cô vẫn thân thiết và chuyện trò với cha như ngày nào. Cô không lo ngại không có ai lắng nghe và nói chuyện với cô, mà cô coi cỏ cây, tất cả, tất cả đều lắng nghe và dõi theo bước chân mình. Chính điều đó tạo cho cô một vẻ đẹp khác biệt so với những đứa trẻ khác.
Grey và Assol đều là những đứa trẻ mang trong mình tâm hồn trong sáng, thánh thiện và hồn nhiên đến lạ. Những ý nghĩ lạc quan, yêu đời ấy có sức mạnh thật là kỳ diệu. Nó có thể xua đi nỗi buồn, xua tan màn đêm, đem lại niềm tin, hy vọng đến cho bao người. Khác với những đứa trẻ xung quanh, Grey và Assol không bao giờ mặc cảm về mình hay để ý đến những điều mà mọi người nói với mình. Khi người ta gọi cha của Assol là kẻ giết người, gọi cô bé là kẻ mất trí, chỉ vì cô có ý nghĩ về cánh buồm đỏ thắm và chàng hoàng tử trong lời tiên tri, cô bé có đánh mất niềm tin không? Và Grey, có gì có thể giam cầm cậu không?
Không! Không có gì có thể cướp đi niềm tin, hy vọng và tâm hồn trong vắt của họ. Bởi sự hồn nhiên và những ý nghĩ lạc quan của họ không cho phép, nói chính xác hơn, chúng trở thành những bức tường kiên cố ngăn thế giới tuổi thơ với cái thế giới đầy rẫy những định kiến bất công kia.
Bác Hồ – Vị lãnh tụ vĩ đại, Người cha già kính yêu của dân tộc Việt Nam.Dù Người đã đi xa mãi mãi nhưng công lao to lớn, tấm lòng bác ái và tình yêu thương bao la mà Bác để lại cho chúng ta vẫn sẽ sống mãi trong trái tim và tâm hồn của những người con đất Việt. Đã có rất nhiều áng thơ, áng văn, những bản nhạc bày tỏ sự kính yêu, lòng biết ơn và nỗi nhớ thiết tha của những người con Việt Nam gửi đến Bác.Một trong số những tác phẩm đã để lại ấn tượng sâu sắc cùng sự xúc động mãnh mẽ trong tâm trí tôi đó là bài “ Viếng lăng Bác’’ của nhà thơ Viễn Phương.
Bài thơ mở đầu bằng niềm cảm xúc da diết và nỗi nhớ nghẹn ngào của nhà thơ:
Câu thơ giống như một lời tự sự nghẹn ngào của tác giả,của đứa con đi xa lâu ngày được trở về thăm Bác kính yêu, dường như nỗi nhớ ấy đã được dồn nén chỉ chờ đến ngày nhà thơ được gặp Bác mà không kìm được đã bật ra nức nở và nhớ thương.Ấy cũng là nỗi niềm,là tình cảm chung của đồng bào chiến sĩ miền Nam gửi gắm đến vị lãnh tụ vĩ đại tôn kính của dân tộc.Hình ảnh đầu tiên xuất hiện trước mắt nhà thơ khi về thăm Bác đó là hình ảnh của hàng tre xanh bát ngát – biểu tượng mộc mạc gắn liền với làng quê Việt Nam,bình dị và gần gũi như Bác lúc sinh thời.Không chỉ vậy hàng tre xanh đặc biệt còn tượng trưng cho tinh thần bất khuất kiên cường của người dân Việt Nam không bao giờ lùi bước trước kẻ thù,dù mộc mạc mà thanh cao,nghị lực
Bây giờ hàng tre ấy lại ở đây ngày đêm chở che cho giấc ngủ bình yên của Bác,giống như dù Bác đã đi xa nhưng tâm hồn và trái tim của Người thì vẫn luôn gắn bó thiết tha với quê hương,đất nước.
Bác nằm đó bình yên giữa muôn vàn nỗi nhớ thương và lòng kính yêu vô hạn:
Ở khổ thơ thứ hai này nhà thơ đã tạo nên hai cặp câu, mỗi cặp câu đều có sự sóng đôi của hình ảnh ẩn dụ và tả thực. Hai câu thơ đầu có hình ảnh của “ mặt trời”, “ mặt trời” ở câu thơ thứ nhất là mặt trời của tự nhiên, vũ trụ ngày ngày soi sáng cho nhân loại. “Mặt trời” ở câu thơ thứ hai chính là Bác Hồ, việc ví Bác với hình ảnh mặt trời nhà thơ vừa ca ngợi sự vĩ đại, vừa nhấn mạnh tư tưởng nhân cách ngời sáng của Người đồng thời thể hiện lòng tôn kính biết ơn của nhân dân, của tác giả đối với Bác. Người là vầng mặt trời rực rỡ, tỏa ánh hào quang soi sáng con đường giải phóng, đưa dân dộc ta từ cuộc sống đói khổ lầm than, xiềng xích đến với cuộc đời tự do, hạnh phúc. Hai câu thơ tiếp theo nhà thơ miêu tả hình ảnh dòng người lần lượt nối nhau vào viếng lăng Bác. Điệp từ “ngày ngày” diễn tả vòng thời gian tuần hoàn liên tục, những hàng người như thể vô tận cứ lần lượt xếp hàng vào thăm Bác với lòng thành kính và nỗi nhớ thương vô tận. Những người con từ khắp mọi miền tổ quốc đều đã về đây kết thành tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân- tượng trưng cho bảy mươi chín năm cuộc đời Bác dành trọn cống hiến cho dân tộc, cho non sông gấm vóc Việt Nam.
Thời gian và không gian dường như ngưng đọng lại trong khung cảnh bình yên khi nhà thơ nhìn thấy Bác, chỉ có cảm xúc nghẹn ngào là dường như được đẩy cao hơn
Nghệ thuật nói giảm nói tránh “ giấc ngủ bình yên” dường như đã làm dịu đi nỗi đau, nỗi mất mát quá lớn của dân tộc Việt Nam khi Bác đã ra đi. Người thực chất chỉ đang ngủ thôi, một giấc ngủ ngàn thu bình yên, nhẹ nhàng và thanh thản biết bao. Hình ảnh ẩn dụ “ vầng trăng sáng dịu hiền ” là một hình ảnh vô cùng đẹp, giàu chất thơ, nó tượng trưng cho tâm hồn cao đẹp, tươi sáng như ánh trăng của Người. Hình ảnh mặt trời ở khổ thơ trên kết hợp với “ vầng trăng sáng” ở khổ thơ thứ ba đã hoàn thiện bức chân dung vị lãnh tụ vĩ đại của chúng ta: chói lòa, rực rỡ, thanh cao, hiền lương và tràn đầy gần gũi, thương mến. Vầng trăng ấy cũng là người bạn tri kỉ xuất hiện trong những vần thơ của Bác, giờ đây lại âm thầm tỏa ánh sáng dịu hiền trông coi cho giấc ngủ của Người cha già kính yêu. Tâm trạng nghẹn ngào dường như được lắng xuống thay vào đó là nỗi xót xa, đau đớn tiếc nuối của nhà thơ:
Hình ảnh “ trời xanh mãi mãi “ tượng trưng cho hình ảnh Bác sẽ luôn còn sống mãi trong trái tim trí óc của nhân dân Việt Nam cũng như sự nghiệp và tư tưởng của Người sẽ trường tồn với năm tháng như bầu trời xanh thẳm của tự nhiên. Dẫu biết là như vậy nhưng nỗi mất mát quá lớn đã khiến nhà thơ không điều khiển được cảm xúc mà bật ra sự xót thương nghẹn ngào, từ “nhói” làm cho ta cảm nhận được dường như đã có những giọt nước mắt tuôn rơi trên mặt và cả trong trái tim nhà thơ.
Nếu như những khổ thơ trên vẫn là sự kìm nén gắng gượng cảm xúc của nhà thơ thì đến khổ thơ cuối nghĩ đến lúc sắp phải trở về ông đã không thể nén lòng mình được nữa mà bật ra những tiếng nức nở đầy xúc động:
|
Nguyễn Trãi (1380-1442) hiệu Ức Trai, là nhà thơ lớn nhất Việt Nam dưới thời Lê, đồng thời cũng là nhà chính trị lừng lẫy đã đưa khởi nghĩa Lam Sơn đến thắng lợi cuối cùng. Thơ Nguyễn Trãi có phong thái của một bậc anh hùng chí lớn lại có được vẻ tiêu diêu tự tại của con người vượt thoát vòng danh lợi. Với “Quốc âm thi tập” gồm 254 bài, Nguyễn Trãi được xem như nhà thơ lớn đầu tiên viết thơ chữ Nôm, đồng thời cũng là người sáng tác thơ Nôm đoản thiên có số lượng nhiều bậc nhất trong nền thơ cổ điển dân tộc. Trong đó phải kể đến bài thơ Nôm “Cảnh ngày hè” là một tiêu biểu. Trong chương trình Ngữ Văn 10 có đề văn cảm nhận về bài thơ “Cảnh ngày hè”. Đây là đề văn không khó viết nhưng khi viết cần làm nổi bật được vẻ đẹp bức tranh ngày hè và vẻ đẹp tâm hồn của Nguyễn Trãi. Dưới đây là bài văn mẫu cảm nhận về bài thơ “Cảnh ngày hè” giúp chúng ta có hình dung rõ hơn về đề văn này.
Nguyễn Trãi là một nhân vật toàn tài hiếm có của lịch sử trung đại Việt Nam. Ông là nhà quân sự, nhà văn hóa lớn với tấm lòng yêu nước thương dân trong bất cứ hoàn cảnh nào. Ông cũng là người đặt nền móng và mở đường cho sự phát triển của thơ ca tiếng Việt. Nhắc đến Nguyễn Trãi, người ta không thể không nhắc đến một tập thơ được xem là tác phẩm mở đầu cho văn học chữ Nôm – “Quốc âm thi tập”. “Cảnh ngày hè” là một bài thơ tiêu biểu. Bài thơ là nỗi niềm và cảm xúc của Nguyễn Trãi trước bức tranh ngày hè.
“Cảnh ngày hè” là bài thơ thứ 43 trong 61 bài trong chùm thơ “Bảo kính cảnh giới” là một bài thơ hay của “Quốc âm thi tập”. Bài thơ tả cảnh ngày hè, cho thấy tâm hồn Nguyễn Trãi chan chứa tình yêu thiên nhiên, yêu đời yêu, nhân dân, yêu đất nước.
Sau câu thơ đầu tiên là cảm xúc của nhà thơ trước bức tranh cảnh ngày hè. Mở đầu bài thơ là câu thơ sáu chữ với nhịp 1/2/3 chậm rãi: “Rồi hóng mát thuở ngày trường”. Chữ “rồi” là điểm nhấn đặt ở đầu câu, gợi trạng thái con người nhàn nhã, không vướng bận điều gì. “Ngày trường” có nghĩa là ngày hè dài. Câu thơ mở ra tâm thế nhàn hạ, ung dung của Ức Trai trước cảnh ngày hè. Đó cũng là tư thế ung dung, nhàn hạ của con người trong văn học trung đại. Bức tranh ngày hè hiện lên qua hình ảnh ba loại cây đặc trưng của mùa hè. Mỗi loài cây đều được miêu tả bằng những tính từ chỉ màu sắc và những động từ mạnh:
Cây hòe với màu xanh lục như cuộn lên từng khối biếc, từng chùm cứ như sinh sôi ngay trước mắt, cành lá xanh tươi tỏa rộng. Hoa lựu rừng rực sắc đỏ đồng loạt phun trào. Động từ “phun” diễn tả sức sống như bật ra, trào ra. Màu đỏ của hoa lựu như một nét rực rỡ trên nền xanh của lá. Điểm nhìn của nhà thơ từ tầng không tới hiên nhà tới tầng thấp là hoa sen để nhận ra sen hồng đã ngát mùi hương. “Tiễn” là ngát, là nức. Hương thơm tỏa ra khắp không gian, sức sống chất chứa từ bên trong đang phun trào. Thiên nhiên ở đây không tĩnh mà động, tưởng như sức sống bên trong đang trào ra: màu xanh của hòe, màu đỏ của lựu, màu hồng của sen đã được thôi thúc từ bên trong không kìm lại được mà tuôn trào hết lớp này đến lớp khác. Tất cả như hô ứng, đua nhau khoe sắc tỏa hương hợp thành vẻ toàn thực của mùa hè.
Bức tranh ngày hè rực rỡ sắc màu giờ đây còn rộn rã âm thanh. Đó là tiếng lao xao chợ cá làng chài vọng đến gợi sự đông đúc, nhộn nhịp với cuộc sống ấm no của con người: “Lao xao chợ cá làng ngư phủ”. Nó có thể là một phiên chợ có thật nhưng rất có thể đó là những âm thanh vọng lên trong tâm tưởng nhà thơ khi hướng về cuộc sống. Đó là âm thanh cuộc sống nơi dân dã, nơi làng quê. Cái “lao xao” gọi sự ồn ào, náo nhiệt, gợi vẻ sầm uất của cuộc sống xung quanh, là những xôn xao vang lên giữa nhịp sống hài hòa trường cửu của vũ trụ,…
Vẫn bằng một cái nghiêng tai rất sầu, nhà thơ đón bắt được một âm thanh rất quen dắng dỏi trong chiều tà: “Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương”. Nắng tắt, chiều tàn, màn đêm đang buông xuống, cho dù là chốn lầu tịch dương thì cũng khó lòng tránh khỏi cảm giác quạnh hiu, cô độc. Dường như ấn tượng ảm đạm của triều tà hoàn toàn xua tan khi nhạc ve dắng dỏi, là âm thanh mạnh mẽ, dứt khoát l, trầm bổng ngân vang trong cảm nhận của tác giả. Âm thanh ấy trong cảm nhận của tác giả như tiếng đàn. Phải có một tâm hồn nhạy cảm, háo hức hướng về cuộc sống, Nguyễn Trãi mới có thể nghe được âm thanh như thế. Thời gian và cảnh vật đang ở cuối ngày nhưng sự sống dường như vẫn không dừng lại. Thêm một lần ta hiểu hơn niềm tha thiết hướng về cuộc sống của tác giả, hiểu hơn về tâm hồn luôn hướng về cuộc đời với nhiều ước vọng của Nguyễn Trãi.
Và trong khoảnh khắc đẹp đẽ ấy, tiếng Ngu cầm trong tưởng tượng được cất lên:
Hai câu thơ kết sử dụng điển “Ngu cầm” kể câu chuyện về cây đàn của vua Ngu Thuấn ca ngợi nền thái bình Tlthịnh trị với niềm vui sống tự hào. Hai từ “dẽ có” – lẽ ra nên có, nổi lên trong câu thơ khi sử dụng điển tích “Ngu cầm” là mong ước có được cây đàn vua Nghiêu, vua Thuấn. Đó là ước mong được hòa điệu, được san sẻ niềm vui sống trong cảnh thái bình nhân dân. Cao hơn là một niềm mong mỏi về một cuộc sống an lạc cho người dân khắp mọi phương trời được duy trì vĩnh viễn như thời vua Nghiêu, vua Thuấn. Có phải vì thế khi nghe kỹ tình thơ, ý thơ, ta nhận ra trong hai chữ “dẽ có” một chút gì ưu tư, luyến tiếc và cả một chút ngậm ngùi. Những cảm xúc từ từ trở thành nét bất biến trong vẻ đẹp nhân cách lớn lao của Nguyễn Trãi được hậu thế muôn đời tôn quý, mới thấy cội nguồn vui sống của Nguyễn Trãi vẫn là cảnh quốc thái dân an. Chừng nào nhân dân chưa được thái bình thì ngày hè dẫu tưng bừng đến mấy thì niềm vui cũng không được trọn vẹn. Ước vọng ấy nâng tầm Nguyễn Trãi ngang tầm tư tưởng của một đấng quân vương. Cả bài thơ có tám câu, đến tận câu cuối chữ “dân” mới xuất hiện nhưng thực sự nó là cái nền chính, linh hồn bài thơ, thực sự là chìa khóa giải mã cho cái bất thường, cho cái dằng dặc của ngày hè.
|
Nguyen Trai (1380-1442), alias Uc Trai, was the greatest poet in Vietnam during the Le dynasty, and was also a famous politician who brought the Lam Son uprising to final victory. Nguyen Trai's poetry has the style of a great hero and the carefree look of a person who has escaped the cycle of fame and fortune. With "Quoc Am Thi Tap" consisting of 254 poems, Nguyen Trai is considered the first great poet to write Nom poetry, and is also the one who composed the highest number of short Nom poems in the nation's classical poetry. . Among them, the Nom poem "Summer Day Scene" is a typical example. In Literature 10, there is an essay about the poem "Summer Day Scene". This is not a difficult topic to write, but when writing, it is necessary to highlight the beauty of the summer day painting and the beauty of Nguyen Trai's soul. Below is a sample essay about the poem "Summer Day Scene" to help us have a clearer picture of this topic.
Nguyen Trai is a rare and talented figure in Vietnamese medieval history. He is a great military and cultural figure with a heart for patriotism and love for the people in any situation. He also laid the foundation and paved the way for the development of Vietnamese poetry. Referring to Nguyen Trai, one cannot help but mention a collection of poems considered the opening work for Nom literature - "Quoc am thi tap". “Summer Day Scene” is a typical poem. The poem is about Nguyen Trai's feelings and emotions before the painting of a summer day.
"Summer Day Scene" is the 43rd poem out of 61 poems in the series of poems "Bao Kinh Kinh Realm" is a good poem of "Quoc Am Thi Tap". The poem describes a summer day scene, showing that Nguyen Trai's soul is filled with love for nature, love for life, love for the people, love for the country.
After the first verse is the poet's feelings before the painting of a summer day. The poem begins with a six-word verse with a slow 1/2/3 rhythm: "Then enjoy the fresh air of school days." The word "then" is the emphasis placed at the beginning of the sentence, suggesting a leisurely state of being, not entangled with anything. “School days” means long summer days. The poem opens up Uc Trai's leisurely and leisurely attitude towards the summer scene. That is also the leisurely and leisurely posture of people in medieval literature. The picture of a summer day appears through the image of three typical summer trees. Each tree species is described using color adjectives and strong verbs:
The green tree seems to roll up in blue blocks, each cluster seems to grow right before your eyes, its bright green branches and leaves spread wide. Wild red pomegranate flowers erupted simultaneously. The verb "spray" describes vitality as if it bursts out, overflows. The red color of pomegranate flowers is like a brilliant feature on the green background of the leaves. The poet's point of view from the ground floor to the porch to the lower floor is the lotus flower to realize that the pink lotus has a fragrant scent. "Tien" is sweet, is sweet. The fragrance spread throughout the space, the vitality stored from within was erupting. Nature here is not static but dynamic, as if the vitality inside is overflowing: the green of the rose, the red of the pomegranate, the pink of the lotus have been inspired from within and cannot be contained but flow out all over this layer. to another class. Everyone seems to be reacting, competing to show off their beauty and fragrance, creating the complete beauty of summer.
The colorful picture of a summer day is now filled with sounds. That is the sound of the bustling fish market in the fishing village, evoking the crowded and bustling life of people: "The bustling sound of the fisherman's village fish market". It may be a real market, but it is most likely the sounds echoing in the poet's mind as he looks towards life. That is the sound of life in the countryside, in the countryside. The "hustling" is called noise and bustle, suggesting the bustle of life around, and is the tumult that resonates amidst the eternal harmonious rhythm of the universe,...
Still with a very melancholy tilt of his ear, the poet caught a very familiar sound in the dusk: "Dang slowly holding the cicada and saying goodbye". The sun is out, the afternoon is fading, night is falling, even in a sunny place, it is difficult to avoid the feeling of loneliness and loneliness. It seems that the gloomy impression of the twilight dynasty is completely dispelled when the quiet music plays, a strong, decisive, melodious sound resonating in the author's feelings. That sound in the author's perception is like the sound of a piano. It takes a sensitive soul, eager for life, for Nguyen Trai to be able to hear sounds like that. Time and scenery are at the end of the day but life still doesn't seem to stop. Once again, we better understand the author's earnestness toward life, and more about Nguyen Trai's soul that always looks toward life with many aspirations.
And in that beautiful moment, the imaginary voice of Ngu was heard:
The two concluding lines of the poem use the classic "Nggu Cam" to tell the story of King Ngu Thuan's instrument praising the peace of the Thinh Tri with the joy of living proudly. The two words "would have" - should have, appear in the poem when using the classic "Ngu zi" which is the wish to have the lute of King Nghieu and King Thuan. That is the wish to be in harmony, to share the joy of living in peace with the people. Higher is the desire for a peaceful life for people in all directions to be maintained forever like the time of King Nghieu and King Thuan. Is that why, when we listen carefully to love poems and poetic ideas, we realize that in the words "there will be" a little bit of concern, nostalgia, and even a little bit of sadness. Emotions gradually became immutable features in the great beauty of Nguyen Trai's personality, honored by generations of generations, and we can see that Nguyen Trai's source of joy in life is still the peace and security of the country and people. As long as the people are not at peace, no matter how jubilant the summer days are, the joy will not be complete. That desire elevates Nguyen Trai to the level of thinking of a monarch. The whole poem has eight lines. It is not until the last sentence that the word "people" appears, but it is actually the main background, the soul of the poem, truly the key to decoding the irregularities and the hardships of the day. summer.
|
Nguyễn Trãi (1380-1442) hiệu Ức Trai, là nhà thơ lớn nhất Việt Nam dưới thời Lê, đồng thời cũng là nhà chính trị lừng lẫy đã đưa khởi nghĩa Lam Sơn đến thắng lợi cuối cùng. Thơ Nguyễn Trãi có phong thái của một bậc anh hùng chí lớn lại có được vẻ tiêu diêu tự tại của con người vượt thoát vòng danh lợi. Với “Quốc âm thi tập” gồm 254 bài, Nguyễn Trãi được xem như nhà thơ lớn đầu tiên viết thơ chữ Nôm, đồng thời cũng là người sáng tác thơ Nôm đoản thiên có số lượng nhiều bậc nhất trong nền thơ cổ điển dân tộc. Trong đó phải kể đến bài thơ Nôm “Cảnh ngày hè” là một tiêu biểu. Trong chương trình Ngữ Văn 10 có đề văn cảm nhận về bài thơ “Cảnh ngày hè”. Đây là đề văn không khó viết nhưng khi viết cần làm nổi bật được vẻ đẹp bức tranh ngày hè và vẻ đẹp tâm hồn của Nguyễn Trãi. Dưới đây là bài văn mẫu cảm nhận về bài thơ “Cảnh ngày hè” giúp chúng ta có hình dung rõ hơn về đề văn này.
Nguyễn Trãi là một nhân vật toàn tài hiếm có của lịch sử trung đại Việt Nam. Ông là nhà quân sự, nhà văn hóa lớn với tấm lòng yêu nước thương dân trong bất cứ hoàn cảnh nào. Ông cũng là người đặt nền móng và mở đường cho sự phát triển của thơ ca tiếng Việt. Nhắc đến Nguyễn Trãi, người ta không thể không nhắc đến một tập thơ được xem là tác phẩm mở đầu cho văn học chữ Nôm – “Quốc âm thi tập”. “Cảnh ngày hè” là một bài thơ tiêu biểu. Bài thơ là nỗi niềm và cảm xúc của Nguyễn Trãi trước bức tranh ngày hè.
“Cảnh ngày hè” là bài thơ thứ 43 trong 61 bài trong chùm thơ “Bảo kính cảnh giới” là một bài thơ hay của “Quốc âm thi tập”. Bài thơ tả cảnh ngày hè, cho thấy tâm hồn Nguyễn Trãi chan chứa tình yêu thiên nhiên, yêu đời yêu, nhân dân, yêu đất nước.
Sau câu thơ đầu tiên là cảm xúc của nhà thơ trước bức tranh cảnh ngày hè. Mở đầu bài thơ là câu thơ sáu chữ với nhịp 1/2/3 chậm rãi: “Rồi hóng mát thuở ngày trường”. Chữ “rồi” là điểm nhấn đặt ở đầu câu, gợi trạng thái con người nhàn nhã, không vướng bận điều gì. “Ngày trường” có nghĩa là ngày hè dài. Câu thơ mở ra tâm thế nhàn hạ, ung dung của Ức Trai trước cảnh ngày hè. Đó cũng là tư thế ung dung, nhàn hạ của con người trong văn học trung đại. Bức tranh ngày hè hiện lên qua hình ảnh ba loại cây đặc trưng của mùa hè. Mỗi loài cây đều được miêu tả bằng những tính từ chỉ màu sắc và những động từ mạnh:
Cây hòe với màu xanh lục như cuộn lên từng khối biếc, từng chùm cứ như sinh sôi ngay trước mắt, cành lá xanh tươi tỏa rộng. Hoa lựu rừng rực sắc đỏ đồng loạt phun trào. Động từ “phun” diễn tả sức sống như bật ra, trào ra. Màu đỏ của hoa lựu như một nét rực rỡ trên nền xanh của lá. Điểm nhìn của nhà thơ từ tầng không tới hiên nhà tới tầng thấp là hoa sen để nhận ra sen hồng đã ngát mùi hương. “Tiễn” là ngát, là nức. Hương thơm tỏa ra khắp không gian, sức sống chất chứa từ bên trong đang phun trào. Thiên nhiên ở đây không tĩnh mà động, tưởng như sức sống bên trong đang trào ra: màu xanh của hòe, màu đỏ của lựu, màu hồng của sen đã được thôi thúc từ bên trong không kìm lại được mà tuôn trào hết lớp này đến lớp khác. Tất cả như hô ứng, đua nhau khoe sắc tỏa hương hợp thành vẻ toàn thực của mùa hè.
Bức tranh ngày hè rực rỡ sắc màu giờ đây còn rộn rã âm thanh. Đó là tiếng lao xao chợ cá làng chài vọng đến gợi sự đông đúc, nhộn nhịp với cuộc sống ấm no của con người: “Lao xao chợ cá làng ngư phủ”. Nó có thể là một phiên chợ có thật nhưng rất có thể đó là những âm thanh vọng lên trong tâm tưởng nhà thơ khi hướng về cuộc sống. Đó là âm thanh cuộc sống nơi dân dã, nơi làng quê. Cái “lao xao” gọi sự ồn ào, náo nhiệt, gợi vẻ sầm uất của cuộc sống xung quanh, là những xôn xao vang lên giữa nhịp sống hài hòa trường cửu của vũ trụ,…
Vẫn bằng một cái nghiêng tai rất sầu, nhà thơ đón bắt được một âm thanh rất quen dắng dỏi trong chiều tà: “Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương”. Nắng tắt, chiều tàn, màn đêm đang buông xuống, cho dù là chốn lầu tịch dương thì cũng khó lòng tránh khỏi cảm giác quạnh hiu, cô độc. Dường như ấn tượng ảm đạm của triều tà hoàn toàn xua tan khi nhạc ve dắng dỏi, là âm thanh mạnh mẽ, dứt khoát l, trầm bổng ngân vang trong cảm nhận của tác giả. Âm thanh ấy trong cảm nhận của tác giả như tiếng đàn. Phải có một tâm hồn nhạy cảm, háo hức hướng về cuộc sống, Nguyễn Trãi mới có thể nghe được âm thanh như thế. Thời gian và cảnh vật đang ở cuối ngày nhưng sự sống dường như vẫn không dừng lại. Thêm một lần ta hiểu hơn niềm tha thiết hướng về cuộc sống của tác giả, hiểu hơn về tâm hồn luôn hướng về cuộc đời với nhiều ước vọng của Nguyễn Trãi.
Và trong khoảnh khắc đẹp đẽ ấy, tiếng Ngu cầm trong tưởng tượng được cất lên:
Hai câu thơ kết sử dụng điển “Ngu cầm” kể câu chuyện về cây đàn của vua Ngu Thuấn ca ngợi nền thái bình Tlthịnh trị với niềm vui sống tự hào. Hai từ “dẽ có” – lẽ ra nên có, nổi lên trong câu thơ khi sử dụng điển tích “Ngu cầm” là mong ước có được cây đàn vua Nghiêu, vua Thuấn. Đó là ước mong được hòa điệu, được san sẻ niềm vui sống trong cảnh thái bình nhân dân. Cao hơn là một niềm mong mỏi về một cuộc sống an lạc cho người dân khắp mọi phương trời được duy trì vĩnh viễn như thời vua Nghiêu, vua Thuấn. Có phải vì thế khi nghe kỹ tình thơ, ý thơ, ta nhận ra trong hai chữ “dẽ có” một chút gì ưu tư, luyến tiếc và cả một chút ngậm ngùi. Những cảm xúc từ từ trở thành nét bất biến trong vẻ đẹp nhân cách lớn lao của Nguyễn Trãi được hậu thế muôn đời tôn quý, mới thấy cội nguồn vui sống của Nguyễn Trãi vẫn là cảnh quốc thái dân an. Chừng nào nhân dân chưa được thái bình thì ngày hè dẫu tưng bừng đến mấy thì niềm vui cũng không được trọn vẹn. Ước vọng ấy nâng tầm Nguyễn Trãi ngang tầm tư tưởng của một đấng quân vương. Cả bài thơ có tám câu, đến tận câu cuối chữ “dân” mới xuất hiện nhưng thực sự nó là cái nền chính, linh hồn bài thơ, thực sự là chìa khóa giải mã cho cái bất thường, cho cái dằng dặc của ngày hè.
|
Nguyen Trai (1380-1442), alias Uc Trai, was the greatest poet in Vietnam during the Le dynasty, and was also a famous politician who brought the Lam Son uprising to final victory. Nguyen Trai's poetry has the style of a great hero and the carefree look of a person who has escaped the cycle of fame and fortune. With "Quoc Am Thi Tap" consisting of 254 poems, Nguyen Trai is considered the first great poet to write Nom poetry, and is also the one who composed the highest number of short Nom poems in the nation's classical poetry. . Among them, the Nom poem "Summer Day Scene" is a typical example. In Literature 10, there is an essay about the poem "Summer Day Scene". This is not a difficult topic to write, but when writing, it is necessary to highlight the beauty of the summer day painting and the beauty of Nguyen Trai's soul. Below is a sample essay about the poem "Summer Day Scene" to help us have a clearer picture of this topic.
Nguyen Trai is a rare and talented figure in Vietnamese medieval history. He is a great military and cultural figure with a heart for patriotism and love for the people in any situation. He also laid the foundation and paved the way for the development of Vietnamese poetry. Referring to Nguyen Trai, one cannot help but mention a collection of poems considered the opening work for Nom literature - "Quoc am thi tap". “Summer Day Scene” is a typical poem. The poem is about Nguyen Trai's feelings and emotions before the painting of a summer day.
"Summer Day Scene" is the 43rd poem out of 61 poems in the series of poems "Bao Kinh Kinh Realm" is a good poem of "Quoc Am Thi Tap". The poem describes a summer day scene, showing that Nguyen Trai's soul is filled with love for nature, love for life, love for the people, love for the country.
After the first verse is the poet's feelings before the painting of a summer day. The poem begins with a six-word verse with a slow 1/2/3 rhythm: "Then enjoy the fresh air of school days." The word "then" is the emphasis placed at the beginning of the sentence, suggesting a leisurely state of being, not entangled with anything. “School days” means long summer days. The poem opens up Uc Trai's leisurely and leisurely attitude towards the summer scene. That is also the leisurely and leisurely posture of people in medieval literature. The picture of a summer day appears through the image of three typical summer trees. Each tree species is described using color adjectives and strong verbs:
The green tree seems to roll up in blue blocks, each cluster seems to grow right before your eyes, its bright green branches and leaves spread wide. Wild red pomegranate flowers erupted simultaneously. The verb "spray" describes vitality as if it bursts out, overflows. The red color of pomegranate flowers is like a brilliant feature on the green background of the leaves. The poet's point of view from the ground floor to the porch to the lower floor is the lotus flower to realize that the pink lotus has a fragrant scent. "Tien" is sweet, is sweet. The fragrance spread throughout the space, the vitality stored from within was erupting. Nature here is not static but dynamic, as if the vitality inside is overflowing: the green of the rose, the red of the pomegranate, the pink of the lotus have been inspired from within and cannot be contained but flow out all over this layer. to another class. Everyone seems to be reacting, competing to show off their beauty and fragrance, creating the complete beauty of summer.
The colorful picture of a summer day is now filled with sounds. That is the sound of the bustling fish market in the fishing village, evoking the crowded and bustling life of people: "The bustling sound of the fisherman's village fish market". It may be a real market, but it is most likely the sounds echoing in the poet's mind as he looks towards life. That is the sound of life in the countryside, in the countryside. The "hustling" is called noise and bustle, suggesting the bustle of life around, and is the tumult that resonates amidst the eternal harmonious rhythm of the universe,...
Still with a very melancholy tilt of his ear, the poet caught a very familiar sound in the dusk: "Dang slowly holding the cicada and saying goodbye". The sun is out, the afternoon is fading, night is falling, even in a sunny place, it is difficult to avoid the feeling of loneliness and loneliness. It seems that the gloomy impression of the twilight dynasty is completely dispelled when the quiet music plays, a strong, decisive, melodious sound resonating in the author's feelings. That sound in the author's perception is like the sound of a piano. It takes a sensitive soul, eager for life, for Nguyen Trai to be able to hear sounds like that. Time and scenery are at the end of the day but life still doesn't seem to stop. Once again, we better understand the author's earnestness toward life, and more about Nguyen Trai's soul that always looks toward life with many aspirations.
And in that beautiful moment, the imaginary voice of Ngu was heard:
The two concluding lines of the poem use the classic "Nggu Cam" to tell the story of King Ngu Thuan's instrument praising the peace of the Thinh Tri with the joy of living proudly. The two words "would have" - should have, appear in the poem when using the classic "Ngu zi" which is the wish to have the lute of King Nghieu and King Thuan. That is the wish to be in harmony, to share the joy of living in peace with the people. Higher is the desire for a peaceful life for people in all directions to be maintained forever like the time of King Nghieu and King Thuan. Is that why, when we listen carefully to love poems and poetic ideas, we realize that in the words "there will be" a little bit of concern, nostalgia, and even a little bit of sadness. Emotions gradually became immutable features in the great beauty of Nguyen Trai's personality, honored by generations of generations, and we can see that Nguyen Trai's source of joy in life is still the peace and security of the country and people. As long as the people are not at peace, no matter how jubilant the summer days are, the joy will not be complete. That desire elevates Nguyen Trai to the level of thinking of a monarch. The whole poem has eight lines. It is not until the last sentence that the word "people" appears, but it is actually the main background, the soul of the poem, truly the key to decoding the irregularities and the hardships of the day. summer.
|
“Truyền kì mạn lục” là tác phẩm duy nhất của danh sĩ Nguyễn Dữ, gồm 20 truyện, được xem là áng “thiên cổ kì bút”. Trong 20 truyện Nguyễn Dữ viết, truyện nào cũng thể hiện một quan điểm chính trị, một thái độ nhân sinh, một ý tưởng đạo đức của ông. Đó là những mong muốn của Nguyễn Dữ về một xã hội mọi người được sống yên bình trong nền đức trị, trong sự công bằng, trong tình cảm yêu thương nhân ái giữa con người với con người… Giá trị lớn của tác phẩm “Truyền kỳ mạn lục” chính là ở những nội dung nhân văn sâu sắc. “Chuyện chức phán sự đền Tản Viên” là một truyện tiêu biểu. Đó là câu chuyện về một người trí thức Ngô Tử Văn tính tình ngay thẳng, ghét sự gian tà, qua đó Nguyễn Dữ ca ngợi người ngay thẳng, khẳng định niềm tin vào chính nghĩa, công lí sẽ thắng gian tà. Trong chương trình Ngữ Văn 10 có đề văn phân tích nhân vật Ngô Tử Văn trong “Chuyện chức phán sự đền Tản Viên” đòi hỏi người viết phải khắc họa rõ được đặc điểm nổi bật của nhân vật Ngô Tử Văn đồng thời nêu bật được ý đồ người viết khi xây dựng hình tượng Ngô Tử Văn. Dưới đây là bài văn phân tích nhân vật Ngô Tử Văn trong “Chuyện chức phán sự đền Tản Viên” để mọi người có hình dung rõ hơn khi làm dạng bài này.
Nguyễn Dữ là một danh sĩ thời Lê sơ, thời nhà Mạc và là tác giả của “Truyền kỳ mạn lục”, một tác phẩm truyền kỳ nổi tiếng tại Việt Nam được coi là áng “thiên cổ kì bút”. “Chuyện chức phán sự đền Tản Viên” là một trong số hai mươi truyện viết bằng chữ Hán, tiêu biểu trong “Truyền kì mạn lục”. Truyện đã xây dựng thành công hình tượng nhân vật chính Ngô Tử Văn với tinh thần khẳng khái, cương trực và giàu lòng dũng cảm.
“Truyền kì mạn lục” được viết bằng tản văn xen lẫn biền văn và thơ ca, từ khúc, cuối mỗi truyện thường có lời bình của tác giả. Nội dung tác phẩm có giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo sâu sắc. Tác giả lấy xưa để nói nay, lấy cái “kì” để nói cái “thực”. “Chuyện chức phán sự đền Tản Viên” là một trong những truyện tiêu biểu trong tập “Truyền kì mạn lục” khẳng định tính dân tộc, tinh thần yêu nước và ý chí chiến đấu cho chính nghĩa thông qua việc xây dựng thành công nhân vật Ngô Tử Văn.
Mở đầu truyện, Nguyễn Dữ giới thiệu lai lịch Ngô Tử Văn với cách giới thiệu quen thuộc, truyền thống trong văn học cổ gồm tên, quê quán, tính tình: “Ngô Tử Văn tên là Soạn, người huyện Yên Dũng đất Lạng Giang. Chàng vốn khảng khái, nóng nảy, thấy sự tà gian thì không thể chịu được, vùng Bắc người ta vẫn khen là một người cương trực”. Cách giới thiệu trực tiếp, ngắn gọn tạo cho người đọc ấn tượng về Ngô Tử Văn – một trí thức khảng khái, dũng cảm. Sự dũng cảm ấy thể hiện ngay ở việc đốt đền của chàng. Lí do Tử Văn đốt đền bởi tức giận không chịu được cảnh yêu tà tác oai tác quái hại dân. Chàng đã dám đứng lên trừ yêu diệt quái giúp dân làng. Trước khi đốt đền, chàng đã chuẩn bị kĩ lưỡng: “tắm gội sạch sẽ, khấn trời”. Tử Văn làm việc ghê gớm một cách cẩn trọng, công khai, xuất phát từ một ý thức rõ ràng, muốn lấy lòng trong sạch, muốn lấy thái độ chân thành của mình để được trời đồng tình, ủng hộ. Sau khi đốt đền, mọi người đều lắc đầu lè lưỡi, chỉ có chàng vẫn ngất ngưởng tự nhiên bởi chàng tin vào việc chính nghĩa mình làm. Ngô Tử Văn hiện lên là một trí thức cương trực, là hình ảnh của kẻ sĩ vì dân.
Sự cương trực của chàng càng được thể hiện rõ ràng qua cuộc đối thoại với hồn ma Bách hộ họ Thôi, qua cuộc đối chất ở Minh ti,… Sau khi đốt đền, Tử Văn bị hồn ma làm cho sốt rét. Sau đó khi gặp thì hồn ma mắng mó, đe dọa và quyết kiện chàng tại Phong đô. Trái ngược với sự tức giận của hồn ma, Tử Văn vẫn mặc kệ, ngồi ngất ngưởng tự nhiên. Với bản tính rất kiên cường, chàng không sợ những lời đe dọa, chàng luôn tự tin vào việc mình làm là chính nghĩa. Bởi vậy, trong cuộc gặp gỡ với Thổ công, khi Thổ công nói sẽ giúp đỡ, cung cấp sự thật, chứng cớ thì Tử Văn càng quyết tâm làm việc nghĩa tới cùng.
Tử Văn bị bắt xuống Minh ti rùng rợn với những tên quỷ Dạ Xoa, đều mắt xanh tóc đỏ, hình dáng nanh ác, nhưng Tử Văn không hề sợ ma quỷ. Khi bị Diêm Vương buộc tội, Tử Văn kêu oán, sau đó chàng vạch mặt tên bại tướng bằng lời lẽ cứng cỏi: “Nếu nhà vua không tin lời tôi, xin tư giấy đến đền Tản Viên để hỏi, không đúng như thế, tôi xin chịu thêm tội nói càn”. Trải qua một cuộc xung đột đầy đối chất, cuối cùng lòng nghĩa khí của Tử Văn đã thắng lợi vẻ vang. Qua cuộc đối chất ở âm phủ, Ngô Tử Văn hiện lên là một người ngay thẳng, là người tiêu biểu cho kẻ sĩ nước Nam: cương trực, dám đấu tranh vì lẽ phải tới cùng.
Đặc biệt, lời bình cuối truyện của người viết càng tô đậm thêm vẻ đẹp của Ngô Tử Văn: “Người ta thường nói: Cứng thì gãy, kẻ sĩ lo không cứng mà thôi, còn gãy, không gãy là việc trời. Sao nên đoán trước là sẽ gãy mà chịu đổi cứng ra mềm? Ngô Tử Văn chỉ là một anh áo vải. Duy giữ được cái cứng nên dám đốt cháy đền tà, bẻ gãy yêu quỷ, chỉ một hành động mà cái tức của thần, của người đều được rửa sạch, vì thế mà rạng danh với Minh Tào, rồi được trao chức vị để đền công, thật là xứng đáng. Làm kẻ sĩ chớ kiêng sợ sự cứng cỏi”. Lời bình như đề cao thêm sự cứng cỏi trong con người Ngô Tử Văn. Đó là cái cứng cỏi vì chính nghĩa, dù có nhất thời chịu khuất, nhưng chắc chắn được mọi người ủng hộ và nhất định sẽ chiến thắng nhờ có sự ủng hộ ấy.
Với cốt truyện được kết cấu như một xung đột đầy kịch tính có mở đầu, có xung đột, có phát triển, có đỉnh điểm và có kết thúc, cách xây dựng nhân vật theo hai tuyến thiện và ác, kết hợp sử dụng các yếu tố kì ảo, truyện đã xây dựng thành công nhân vật Ngô Tử Văn cương trực, thẳng thắn, là hình ảnh của kẻ sĩ nước Việt bất khuất, chính trực. Thông qua nhân vật Ngô Tử Văn, Nguyễn Dữ khéo léo thể hiện niềm tin vào công lí, chính nghĩa thắng gian tà, thiện thắng ác.
Ngô Tử Văn là một nhân vật đại diện cho chính nghĩa, là kết tinh vẻ đẹp của kẻ sĩ cương trực, yêu nước, thương dân. Ta hiểu vì sao “Chuyện chức phán sự đền Tản Viên” nói riêng và “Truyền kì mạn lục” nói chung được xem là “thiên cổ kì bút” của cả dân tộc.
“Chuyện chức phán xự đền Tản Viên” là một trong số những truyện hay, tiêu biểu của “Truyền kì mạn lục” (ghi chép tản mạn những truyện lạ truyền ở đời). Truyện xây dựng thành công nhân vật Ngô Tử Văn, một con người chính trực, khảng khái, dám đứng lên tiêu diệt cái xấu để bảo vệ nhân dân, qua đó thể hiện tư tưởng chủ đề của tác phẩm.
Ngô Tử Văn là nhân vật chính của truyện. Khác với một số truyện trong đó Nguyễn Dữ trình bày lai lịch và hành trình số phận nhân vật từ đầu đến cuối, Chuyện chức phán sự đền Tản Viên chỉ chọn một thời điểm có ý nghĩa nổi bật nhất để bộc lộ đầy đủ tính cách nhân vật. Chuyện giống như một màn kịch ngắn. Mở màn là sự xuất hiện của Ngô Tử Văn với hành động châm lửa đốt ngôi đền thiêng. Hành động chính là sự châm ngòi nổ cho một cuộc chiến đấu giữa chàng và hồn ma tên tướng giặc bại trận.
Đây cũng là cuộc chiến đấu ngay từ đầu đã thể hiện sự gay go quyết liệt. Cũng ngay từ đầu tính cách của Ngô Tử Văn đã bộc lộ khá rõ. Tính cách của chàng thể hiện qua lời lẽ khá rõ: “Chàng vốn khảng khái, nóng nảy, thấy sự tà gian thì không thể chịu được, vùng Bắc người ta vẫn khen là một người cương trực”. Tính cách ấy càng được phát họa rõ nét qua hành động, cử chỉ của nhân vật: “Tử Văn rất tức giận, một hôm tắm gội chay sạch, khấn trời rồi châm lửa đốt đền. Mọi người đều lắc đầu, lè lưỡi, họ lo sợ thay cho Tử Văn, nhưng Tử Văn vung tay không cần gì cả”. Phản ứng của Tử Văn trước thói xấu, thói ác nhanh và mạnh như thuốc súng. Hành động “tắm gội chay sạch” trước khi đốt đền, “vung tay không cần gì cả” sau khi đốt đền, chứng tỏ Tử Văn đã quyết đấu, quyết sống mái với kẻ gian tà, dù đó là đối thủ ai cũng phải kinh sợ.
Tuyên chiến với một kẻ thù đầy sức mạnh hiểm ác, lúc đầu Tử Văn “đơn thương độc mã”, nhưng Tử Văn tin vào việc làm và sức mạnh chính nghĩa của mình. Hành động “vẫn cứ ngồi ngất ngưởng tự nhiên” của Tử Văn trước lời đe dọa của tướng giặc không phải là hành động bất cần của kẻ liều mà là hành động tự tin của người nắm được chính nghĩa. Câu hỏi của Tử Văn với Thổ công: “Hắn có thực là tay hung hãn có thể gieo vạ cho tôi không?” không phải là cau hỏi của kẻ hoang mang lo sợ mà là câu hỏi của người muốn “biết địch, biết ta” để giành thắng lợi.
|
“Truyền kì mạn lục” là tác phẩm duy nhất của danh sĩ Nguyễn Dữ, gồm 20 truyện, được xem là áng “thiên cổ kì bút”. Trong 20 truyện Nguyễn Dữ viết, truyện nào cũng thể hiện một quan điểm chính trị, một thái độ nhân sinh, một ý tưởng đạo đức của ông. Đó là những mong muốn của Nguyễn Dữ về một xã hội mọi người được sống yên bình trong nền đức trị, trong sự công bằng, trong tình cảm yêu thương nhân ái giữa con người với con người… Giá trị lớn của tác phẩm “Truyền kỳ mạn lục” chính là ở những nội dung nhân văn sâu sắc. “Chuyện chức phán sự đền Tản Viên” là một truyện tiêu biểu. Đó là câu chuyện về một người trí thức Ngô Tử Văn tính tình ngay thẳng, ghét sự gian tà, qua đó Nguyễn Dữ ca ngợi người ngay thẳng, khẳng định niềm tin vào chính nghĩa, công lí sẽ thắng gian tà. Trong chương trình Ngữ Văn 10 có đề văn phân tích nhân vật Ngô Tử Văn trong “Chuyện chức phán sự đền Tản Viên” đòi hỏi người viết phải khắc họa rõ được đặc điểm nổi bật của nhân vật Ngô Tử Văn đồng thời nêu bật được ý đồ người viết khi xây dựng hình tượng Ngô Tử Văn. Dưới đây là bài văn phân tích nhân vật Ngô Tử Văn trong “Chuyện chức phán sự đền Tản Viên” để mọi người có hình dung rõ hơn khi làm dạng bài này.
Nguyễn Dữ là một danh sĩ thời Lê sơ, thời nhà Mạc và là tác giả của “Truyền kỳ mạn lục”, một tác phẩm truyền kỳ nổi tiếng tại Việt Nam được coi là áng “thiên cổ kì bút”. “Chuyện chức phán sự đền Tản Viên” là một trong số hai mươi truyện viết bằng chữ Hán, tiêu biểu trong “Truyền kì mạn lục”. Truyện đã xây dựng thành công hình tượng nhân vật chính Ngô Tử Văn với tinh thần khẳng khái, cương trực và giàu lòng dũng cảm.
“Truyền kì mạn lục” được viết bằng tản văn xen lẫn biền văn và thơ ca, từ khúc, cuối mỗi truyện thường có lời bình của tác giả. Nội dung tác phẩm có giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo sâu sắc. Tác giả lấy xưa để nói nay, lấy cái “kì” để nói cái “thực”. “Chuyện chức phán sự đền Tản Viên” là một trong những truyện tiêu biểu trong tập “Truyền kì mạn lục” khẳng định tính dân tộc, tinh thần yêu nước và ý chí chiến đấu cho chính nghĩa thông qua việc xây dựng thành công nhân vật Ngô Tử Văn.
Mở đầu truyện, Nguyễn Dữ giới thiệu lai lịch Ngô Tử Văn với cách giới thiệu quen thuộc, truyền thống trong văn học cổ gồm tên, quê quán, tính tình: “Ngô Tử Văn tên là Soạn, người huyện Yên Dũng đất Lạng Giang. Chàng vốn khảng khái, nóng nảy, thấy sự tà gian thì không thể chịu được, vùng Bắc người ta vẫn khen là một người cương trực”. Cách giới thiệu trực tiếp, ngắn gọn tạo cho người đọc ấn tượng về Ngô Tử Văn – một trí thức khảng khái, dũng cảm. Sự dũng cảm ấy thể hiện ngay ở việc đốt đền của chàng. Lí do Tử Văn đốt đền bởi tức giận không chịu được cảnh yêu tà tác oai tác quái hại dân. Chàng đã dám đứng lên trừ yêu diệt quái giúp dân làng. Trước khi đốt đền, chàng đã chuẩn bị kĩ lưỡng: “tắm gội sạch sẽ, khấn trời”. Tử Văn làm việc ghê gớm một cách cẩn trọng, công khai, xuất phát từ một ý thức rõ ràng, muốn lấy lòng trong sạch, muốn lấy thái độ chân thành của mình để được trời đồng tình, ủng hộ. Sau khi đốt đền, mọi người đều lắc đầu lè lưỡi, chỉ có chàng vẫn ngất ngưởng tự nhiên bởi chàng tin vào việc chính nghĩa mình làm. Ngô Tử Văn hiện lên là một trí thức cương trực, là hình ảnh của kẻ sĩ vì dân.
Sự cương trực của chàng càng được thể hiện rõ ràng qua cuộc đối thoại với hồn ma Bách hộ họ Thôi, qua cuộc đối chất ở Minh ti,… Sau khi đốt đền, Tử Văn bị hồn ma làm cho sốt rét. Sau đó khi gặp thì hồn ma mắng mó, đe dọa và quyết kiện chàng tại Phong đô. Trái ngược với sự tức giận của hồn ma, Tử Văn vẫn mặc kệ, ngồi ngất ngưởng tự nhiên. Với bản tính rất kiên cường, chàng không sợ những lời đe dọa, chàng luôn tự tin vào việc mình làm là chính nghĩa. Bởi vậy, trong cuộc gặp gỡ với Thổ công, khi Thổ công nói sẽ giúp đỡ, cung cấp sự thật, chứng cớ thì Tử Văn càng quyết tâm làm việc nghĩa tới cùng.
Tử Văn bị bắt xuống Minh ti rùng rợn với những tên quỷ Dạ Xoa, đều mắt xanh tóc đỏ, hình dáng nanh ác, nhưng Tử Văn không hề sợ ma quỷ. Khi bị Diêm Vương buộc tội, Tử Văn kêu oán, sau đó chàng vạch mặt tên bại tướng bằng lời lẽ cứng cỏi: “Nếu nhà vua không tin lời tôi, xin tư giấy đến đền Tản Viên để hỏi, không đúng như thế, tôi xin chịu thêm tội nói càn”. Trải qua một cuộc xung đột đầy đối chất, cuối cùng lòng nghĩa khí của Tử Văn đã thắng lợi vẻ vang. Qua cuộc đối chất ở âm phủ, Ngô Tử Văn hiện lên là một người ngay thẳng, là người tiêu biểu cho kẻ sĩ nước Nam: cương trực, dám đấu tranh vì lẽ phải tới cùng.
Đặc biệt, lời bình cuối truyện của người viết càng tô đậm thêm vẻ đẹp của Ngô Tử Văn: “Người ta thường nói: Cứng thì gãy, kẻ sĩ lo không cứng mà thôi, còn gãy, không gãy là việc trời. Sao nên đoán trước là sẽ gãy mà chịu đổi cứng ra mềm? Ngô Tử Văn chỉ là một anh áo vải. Duy giữ được cái cứng nên dám đốt cháy đền tà, bẻ gãy yêu quỷ, chỉ một hành động mà cái tức của thần, của người đều được rửa sạch, vì thế mà rạng danh với Minh Tào, rồi được trao chức vị để đền công, thật là xứng đáng. Làm kẻ sĩ chớ kiêng sợ sự cứng cỏi”. Lời bình như đề cao thêm sự cứng cỏi trong con người Ngô Tử Văn. Đó là cái cứng cỏi vì chính nghĩa, dù có nhất thời chịu khuất, nhưng chắc chắn được mọi người ủng hộ và nhất định sẽ chiến thắng nhờ có sự ủng hộ ấy.
Với cốt truyện được kết cấu như một xung đột đầy kịch tính có mở đầu, có xung đột, có phát triển, có đỉnh điểm và có kết thúc, cách xây dựng nhân vật theo hai tuyến thiện và ác, kết hợp sử dụng các yếu tố kì ảo, truyện đã xây dựng thành công nhân vật Ngô Tử Văn cương trực, thẳng thắn, là hình ảnh của kẻ sĩ nước Việt bất khuất, chính trực. Thông qua nhân vật Ngô Tử Văn, Nguyễn Dữ khéo léo thể hiện niềm tin vào công lí, chính nghĩa thắng gian tà, thiện thắng ác.
Ngô Tử Văn là một nhân vật đại diện cho chính nghĩa, là kết tinh vẻ đẹp của kẻ sĩ cương trực, yêu nước, thương dân. Ta hiểu vì sao “Chuyện chức phán sự đền Tản Viên” nói riêng và “Truyền kì mạn lục” nói chung được xem là “thiên cổ kì bút” của cả dân tộc.
“Chuyện chức phán xự đền Tản Viên” là một trong số những truyện hay, tiêu biểu của “Truyền kì mạn lục” (ghi chép tản mạn những truyện lạ truyền ở đời). Truyện xây dựng thành công nhân vật Ngô Tử Văn, một con người chính trực, khảng khái, dám đứng lên tiêu diệt cái xấu để bảo vệ nhân dân, qua đó thể hiện tư tưởng chủ đề của tác phẩm.
Ngô Tử Văn là nhân vật chính của truyện. Khác với một số truyện trong đó Nguyễn Dữ trình bày lai lịch và hành trình số phận nhân vật từ đầu đến cuối, Chuyện chức phán sự đền Tản Viên chỉ chọn một thời điểm có ý nghĩa nổi bật nhất để bộc lộ đầy đủ tính cách nhân vật. Chuyện giống như một màn kịch ngắn. Mở màn là sự xuất hiện của Ngô Tử Văn với hành động châm lửa đốt ngôi đền thiêng. Hành động chính là sự châm ngòi nổ cho một cuộc chiến đấu giữa chàng và hồn ma tên tướng giặc bại trận.
Đây cũng là cuộc chiến đấu ngay từ đầu đã thể hiện sự gay go quyết liệt. Cũng ngay từ đầu tính cách của Ngô Tử Văn đã bộc lộ khá rõ. Tính cách của chàng thể hiện qua lời lẽ khá rõ: “Chàng vốn khảng khái, nóng nảy, thấy sự tà gian thì không thể chịu được, vùng Bắc người ta vẫn khen là một người cương trực”. Tính cách ấy càng được phát họa rõ nét qua hành động, cử chỉ của nhân vật: “Tử Văn rất tức giận, một hôm tắm gội chay sạch, khấn trời rồi châm lửa đốt đền. Mọi người đều lắc đầu, lè lưỡi, họ lo sợ thay cho Tử Văn, nhưng Tử Văn vung tay không cần gì cả”. Phản ứng của Tử Văn trước thói xấu, thói ác nhanh và mạnh như thuốc súng. Hành động “tắm gội chay sạch” trước khi đốt đền, “vung tay không cần gì cả” sau khi đốt đền, chứng tỏ Tử Văn đã quyết đấu, quyết sống mái với kẻ gian tà, dù đó là đối thủ ai cũng phải kinh sợ.
Tuyên chiến với một kẻ thù đầy sức mạnh hiểm ác, lúc đầu Tử Văn “đơn thương độc mã”, nhưng Tử Văn tin vào việc làm và sức mạnh chính nghĩa của mình. Hành động “vẫn cứ ngồi ngất ngưởng tự nhiên” của Tử Văn trước lời đe dọa của tướng giặc không phải là hành động bất cần của kẻ liều mà là hành động tự tin của người nắm được chính nghĩa. Câu hỏi của Tử Văn với Thổ công: “Hắn có thực là tay hung hãn có thể gieo vạ cho tôi không?” không phải là cau hỏi của kẻ hoang mang lo sợ mà là câu hỏi của người muốn “biết địch, biết ta” để giành thắng lợi.
|
“Truyền kì mạn lục” là tác phẩm duy nhất của danh sĩ Nguyễn Dữ, gồm 20 truyện, được xem là áng “thiên cổ kì bút”. Trong 20 truyện Nguyễn Dữ viết, truyện nào cũng thể hiện một quan điểm chính trị, một thái độ nhân sinh, một ý tưởng đạo đức của ông. Đó là những mong muốn của Nguyễn Dữ về một xã hội mọi người được sống yên bình trong nền đức trị, trong sự công bằng, trong tình cảm yêu thương nhân ái giữa con người với con người… Giá trị lớn của tác phẩm “Truyền kỳ mạn lục” chính là ở những nội dung nhân văn sâu sắc. “Chuyện chức phán sự đền Tản Viên” là một truyện tiêu biểu. Đó là câu chuyện về một người trí thức Ngô Tử Văn tính tình ngay thẳng, ghét sự gian tà, qua đó Nguyễn Dữ ca ngợi người ngay thẳng, khẳng định niềm tin vào chính nghĩa, công lí sẽ thắng gian tà. Trong chương trình Ngữ Văn 10 có đề văn phân tích nhân vật Ngô Tử Văn trong “Chuyện chức phán sự đền Tản Viên” đòi hỏi người viết phải khắc họa rõ được đặc điểm nổi bật của nhân vật Ngô Tử Văn đồng thời nêu bật được ý đồ người viết khi xây dựng hình tượng Ngô Tử Văn. Dưới đây là bài văn phân tích nhân vật Ngô Tử Văn trong “Chuyện chức phán sự đền Tản Viên” để mọi người có hình dung rõ hơn khi làm dạng bài này.
Nguyễn Dữ là một danh sĩ thời Lê sơ, thời nhà Mạc và là tác giả của “Truyền kỳ mạn lục”, một tác phẩm truyền kỳ nổi tiếng tại Việt Nam được coi là áng “thiên cổ kì bút”. “Chuyện chức phán sự đền Tản Viên” là một trong số hai mươi truyện viết bằng chữ Hán, tiêu biểu trong “Truyền kì mạn lục”. Truyện đã xây dựng thành công hình tượng nhân vật chính Ngô Tử Văn với tinh thần khẳng khái, cương trực và giàu lòng dũng cảm.
“Truyền kì mạn lục” được viết bằng tản văn xen lẫn biền văn và thơ ca, từ khúc, cuối mỗi truyện thường có lời bình của tác giả. Nội dung tác phẩm có giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo sâu sắc. Tác giả lấy xưa để nói nay, lấy cái “kì” để nói cái “thực”. “Chuyện chức phán sự đền Tản Viên” là một trong những truyện tiêu biểu trong tập “Truyền kì mạn lục” khẳng định tính dân tộc, tinh thần yêu nước và ý chí chiến đấu cho chính nghĩa thông qua việc xây dựng thành công nhân vật Ngô Tử Văn.
Mở đầu truyện, Nguyễn Dữ giới thiệu lai lịch Ngô Tử Văn với cách giới thiệu quen thuộc, truyền thống trong văn học cổ gồm tên, quê quán, tính tình: “Ngô Tử Văn tên là Soạn, người huyện Yên Dũng đất Lạng Giang. Chàng vốn khảng khái, nóng nảy, thấy sự tà gian thì không thể chịu được, vùng Bắc người ta vẫn khen là một người cương trực”. Cách giới thiệu trực tiếp, ngắn gọn tạo cho người đọc ấn tượng về Ngô Tử Văn – một trí thức khảng khái, dũng cảm. Sự dũng cảm ấy thể hiện ngay ở việc đốt đền của chàng. Lí do Tử Văn đốt đền bởi tức giận không chịu được cảnh yêu tà tác oai tác quái hại dân. Chàng đã dám đứng lên trừ yêu diệt quái giúp dân làng. Trước khi đốt đền, chàng đã chuẩn bị kĩ lưỡng: “tắm gội sạch sẽ, khấn trời”. Tử Văn làm việc ghê gớm một cách cẩn trọng, công khai, xuất phát từ một ý thức rõ ràng, muốn lấy lòng trong sạch, muốn lấy thái độ chân thành của mình để được trời đồng tình, ủng hộ. Sau khi đốt đền, mọi người đều lắc đầu lè lưỡi, chỉ có chàng vẫn ngất ngưởng tự nhiên bởi chàng tin vào việc chính nghĩa mình làm. Ngô Tử Văn hiện lên là một trí thức cương trực, là hình ảnh của kẻ sĩ vì dân.
Sự cương trực của chàng càng được thể hiện rõ ràng qua cuộc đối thoại với hồn ma Bách hộ họ Thôi, qua cuộc đối chất ở Minh ti,… Sau khi đốt đền, Tử Văn bị hồn ma làm cho sốt rét. Sau đó khi gặp thì hồn ma mắng mó, đe dọa và quyết kiện chàng tại Phong đô. Trái ngược với sự tức giận của hồn ma, Tử Văn vẫn mặc kệ, ngồi ngất ngưởng tự nhiên. Với bản tính rất kiên cường, chàng không sợ những lời đe dọa, chàng luôn tự tin vào việc mình làm là chính nghĩa. Bởi vậy, trong cuộc gặp gỡ với Thổ công, khi Thổ công nói sẽ giúp đỡ, cung cấp sự thật, chứng cớ thì Tử Văn càng quyết tâm làm việc nghĩa tới cùng.
Tử Văn bị bắt xuống Minh ti rùng rợn với những tên quỷ Dạ Xoa, đều mắt xanh tóc đỏ, hình dáng nanh ác, nhưng Tử Văn không hề sợ ma quỷ. Khi bị Diêm Vương buộc tội, Tử Văn kêu oán, sau đó chàng vạch mặt tên bại tướng bằng lời lẽ cứng cỏi: “Nếu nhà vua không tin lời tôi, xin tư giấy đến đền Tản Viên để hỏi, không đúng như thế, tôi xin chịu thêm tội nói càn”. Trải qua một cuộc xung đột đầy đối chất, cuối cùng lòng nghĩa khí của Tử Văn đã thắng lợi vẻ vang. Qua cuộc đối chất ở âm phủ, Ngô Tử Văn hiện lên là một người ngay thẳng, là người tiêu biểu cho kẻ sĩ nước Nam: cương trực, dám đấu tranh vì lẽ phải tới cùng.
Đặc biệt, lời bình cuối truyện của người viết càng tô đậm thêm vẻ đẹp của Ngô Tử Văn: “Người ta thường nói: Cứng thì gãy, kẻ sĩ lo không cứng mà thôi, còn gãy, không gãy là việc trời. Sao nên đoán trước là sẽ gãy mà chịu đổi cứng ra mềm? Ngô Tử Văn chỉ là một anh áo vải. Duy giữ được cái cứng nên dám đốt cháy đền tà, bẻ gãy yêu quỷ, chỉ một hành động mà cái tức của thần, của người đều được rửa sạch, vì thế mà rạng danh với Minh Tào, rồi được trao chức vị để đền công, thật là xứng đáng. Làm kẻ sĩ chớ kiêng sợ sự cứng cỏi”. Lời bình như đề cao thêm sự cứng cỏi trong con người Ngô Tử Văn. Đó là cái cứng cỏi vì chính nghĩa, dù có nhất thời chịu khuất, nhưng chắc chắn được mọi người ủng hộ và nhất định sẽ chiến thắng nhờ có sự ủng hộ ấy.
Với cốt truyện được kết cấu như một xung đột đầy kịch tính có mở đầu, có xung đột, có phát triển, có đỉnh điểm và có kết thúc, cách xây dựng nhân vật theo hai tuyến thiện và ác, kết hợp sử dụng các yếu tố kì ảo, truyện đã xây dựng thành công nhân vật Ngô Tử Văn cương trực, thẳng thắn, là hình ảnh của kẻ sĩ nước Việt bất khuất, chính trực. Thông qua nhân vật Ngô Tử Văn, Nguyễn Dữ khéo léo thể hiện niềm tin vào công lí, chính nghĩa thắng gian tà, thiện thắng ác.
Ngô Tử Văn là một nhân vật đại diện cho chính nghĩa, là kết tinh vẻ đẹp của kẻ sĩ cương trực, yêu nước, thương dân. Ta hiểu vì sao “Chuyện chức phán sự đền Tản Viên” nói riêng và “Truyền kì mạn lục” nói chung được xem là “thiên cổ kì bút” của cả dân tộc.
“Chuyện chức phán xự đền Tản Viên” là một trong số những truyện hay, tiêu biểu của “Truyền kì mạn lục” (ghi chép tản mạn những truyện lạ truyền ở đời). Truyện xây dựng thành công nhân vật Ngô Tử Văn, một con người chính trực, khảng khái, dám đứng lên tiêu diệt cái xấu để bảo vệ nhân dân, qua đó thể hiện tư tưởng chủ đề của tác phẩm.
Ngô Tử Văn là nhân vật chính của truyện. Khác với một số truyện trong đó Nguyễn Dữ trình bày lai lịch và hành trình số phận nhân vật từ đầu đến cuối, Chuyện chức phán sự đền Tản Viên chỉ chọn một thời điểm có ý nghĩa nổi bật nhất để bộc lộ đầy đủ tính cách nhân vật. Chuyện giống như một màn kịch ngắn. Mở màn là sự xuất hiện của Ngô Tử Văn với hành động châm lửa đốt ngôi đền thiêng. Hành động chính là sự châm ngòi nổ cho một cuộc chiến đấu giữa chàng và hồn ma tên tướng giặc bại trận.
Đây cũng là cuộc chiến đấu ngay từ đầu đã thể hiện sự gay go quyết liệt. Cũng ngay từ đầu tính cách của Ngô Tử Văn đã bộc lộ khá rõ. Tính cách của chàng thể hiện qua lời lẽ khá rõ: “Chàng vốn khảng khái, nóng nảy, thấy sự tà gian thì không thể chịu được, vùng Bắc người ta vẫn khen là một người cương trực”. Tính cách ấy càng được phát họa rõ nét qua hành động, cử chỉ của nhân vật: “Tử Văn rất tức giận, một hôm tắm gội chay sạch, khấn trời rồi châm lửa đốt đền. Mọi người đều lắc đầu, lè lưỡi, họ lo sợ thay cho Tử Văn, nhưng Tử Văn vung tay không cần gì cả”. Phản ứng của Tử Văn trước thói xấu, thói ác nhanh và mạnh như thuốc súng. Hành động “tắm gội chay sạch” trước khi đốt đền, “vung tay không cần gì cả” sau khi đốt đền, chứng tỏ Tử Văn đã quyết đấu, quyết sống mái với kẻ gian tà, dù đó là đối thủ ai cũng phải kinh sợ.
Tuyên chiến với một kẻ thù đầy sức mạnh hiểm ác, lúc đầu Tử Văn “đơn thương độc mã”, nhưng Tử Văn tin vào việc làm và sức mạnh chính nghĩa của mình. Hành động “vẫn cứ ngồi ngất ngưởng tự nhiên” của Tử Văn trước lời đe dọa của tướng giặc không phải là hành động bất cần của kẻ liều mà là hành động tự tin của người nắm được chính nghĩa. Câu hỏi của Tử Văn với Thổ công: “Hắn có thực là tay hung hãn có thể gieo vạ cho tôi không?” không phải là cau hỏi của kẻ hoang mang lo sợ mà là câu hỏi của người muốn “biết địch, biết ta” để giành thắng lợi.
|
“Truyền kì mạn lục” là tác phẩm duy nhất của danh sĩ Nguyễn Dữ, gồm 20 truyện, được xem là áng “thiên cổ kì bút”. Trong 20 truyện Nguyễn Dữ viết, truyện nào cũng thể hiện một quan điểm chính trị, một thái độ nhân sinh, một ý tưởng đạo đức của ông. Đó là những mong muốn của Nguyễn Dữ về một xã hội mọi người được sống yên bình trong nền đức trị, trong sự công bằng, trong tình cảm yêu thương nhân ái giữa con người với con người… Giá trị lớn của tác phẩm “Truyền kỳ mạn lục” chính là ở những nội dung nhân văn sâu sắc. “Chuyện chức phán sự đền Tản Viên” là một truyện tiêu biểu. Đó là câu chuyện về một người trí thức Ngô Tử Văn tính tình ngay thẳng, ghét sự gian tà, qua đó Nguyễn Dữ ca ngợi người ngay thẳng, khẳng định niềm tin vào chính nghĩa, công lí sẽ thắng gian tà. Trong chương trình Ngữ Văn 10 có đề văn phân tích nhân vật Ngô Tử Văn trong “Chuyện chức phán sự đền Tản Viên” đòi hỏi người viết phải khắc họa rõ được đặc điểm nổi bật của nhân vật Ngô Tử Văn đồng thời nêu bật được ý đồ người viết khi xây dựng hình tượng Ngô Tử Văn. Dưới đây là bài văn phân tích nhân vật Ngô Tử Văn trong “Chuyện chức phán sự đền Tản Viên” để mọi người có hình dung rõ hơn khi làm dạng bài này.
Nguyễn Dữ là một danh sĩ thời Lê sơ, thời nhà Mạc và là tác giả của “Truyền kỳ mạn lục”, một tác phẩm truyền kỳ nổi tiếng tại Việt Nam được coi là áng “thiên cổ kì bút”. “Chuyện chức phán sự đền Tản Viên” là một trong số hai mươi truyện viết bằng chữ Hán, tiêu biểu trong “Truyền kì mạn lục”. Truyện đã xây dựng thành công hình tượng nhân vật chính Ngô Tử Văn với tinh thần khẳng khái, cương trực và giàu lòng dũng cảm.
“Truyền kì mạn lục” được viết bằng tản văn xen lẫn biền văn và thơ ca, từ khúc, cuối mỗi truyện thường có lời bình của tác giả. Nội dung tác phẩm có giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo sâu sắc. Tác giả lấy xưa để nói nay, lấy cái “kì” để nói cái “thực”. “Chuyện chức phán sự đền Tản Viên” là một trong những truyện tiêu biểu trong tập “Truyền kì mạn lục” khẳng định tính dân tộc, tinh thần yêu nước và ý chí chiến đấu cho chính nghĩa thông qua việc xây dựng thành công nhân vật Ngô Tử Văn.
Mở đầu truyện, Nguyễn Dữ giới thiệu lai lịch Ngô Tử Văn với cách giới thiệu quen thuộc, truyền thống trong văn học cổ gồm tên, quê quán, tính tình: “Ngô Tử Văn tên là Soạn, người huyện Yên Dũng đất Lạng Giang. Chàng vốn khảng khái, nóng nảy, thấy sự tà gian thì không thể chịu được, vùng Bắc người ta vẫn khen là một người cương trực”. Cách giới thiệu trực tiếp, ngắn gọn tạo cho người đọc ấn tượng về Ngô Tử Văn – một trí thức khảng khái, dũng cảm. Sự dũng cảm ấy thể hiện ngay ở việc đốt đền của chàng. Lí do Tử Văn đốt đền bởi tức giận không chịu được cảnh yêu tà tác oai tác quái hại dân. Chàng đã dám đứng lên trừ yêu diệt quái giúp dân làng. Trước khi đốt đền, chàng đã chuẩn bị kĩ lưỡng: “tắm gội sạch sẽ, khấn trời”. Tử Văn làm việc ghê gớm một cách cẩn trọng, công khai, xuất phát từ một ý thức rõ ràng, muốn lấy lòng trong sạch, muốn lấy thái độ chân thành của mình để được trời đồng tình, ủng hộ. Sau khi đốt đền, mọi người đều lắc đầu lè lưỡi, chỉ có chàng vẫn ngất ngưởng tự nhiên bởi chàng tin vào việc chính nghĩa mình làm. Ngô Tử Văn hiện lên là một trí thức cương trực, là hình ảnh của kẻ sĩ vì dân.
Sự cương trực của chàng càng được thể hiện rõ ràng qua cuộc đối thoại với hồn ma Bách hộ họ Thôi, qua cuộc đối chất ở Minh ti,… Sau khi đốt đền, Tử Văn bị hồn ma làm cho sốt rét. Sau đó khi gặp thì hồn ma mắng mó, đe dọa và quyết kiện chàng tại Phong đô. Trái ngược với sự tức giận của hồn ma, Tử Văn vẫn mặc kệ, ngồi ngất ngưởng tự nhiên. Với bản tính rất kiên cường, chàng không sợ những lời đe dọa, chàng luôn tự tin vào việc mình làm là chính nghĩa. Bởi vậy, trong cuộc gặp gỡ với Thổ công, khi Thổ công nói sẽ giúp đỡ, cung cấp sự thật, chứng cớ thì Tử Văn càng quyết tâm làm việc nghĩa tới cùng.
Tử Văn bị bắt xuống Minh ti rùng rợn với những tên quỷ Dạ Xoa, đều mắt xanh tóc đỏ, hình dáng nanh ác, nhưng Tử Văn không hề sợ ma quỷ. Khi bị Diêm Vương buộc tội, Tử Văn kêu oán, sau đó chàng vạch mặt tên bại tướng bằng lời lẽ cứng cỏi: “Nếu nhà vua không tin lời tôi, xin tư giấy đến đền Tản Viên để hỏi, không đúng như thế, tôi xin chịu thêm tội nói càn”. Trải qua một cuộc xung đột đầy đối chất, cuối cùng lòng nghĩa khí của Tử Văn đã thắng lợi vẻ vang. Qua cuộc đối chất ở âm phủ, Ngô Tử Văn hiện lên là một người ngay thẳng, là người tiêu biểu cho kẻ sĩ nước Nam: cương trực, dám đấu tranh vì lẽ phải tới cùng.
Đặc biệt, lời bình cuối truyện của người viết càng tô đậm thêm vẻ đẹp của Ngô Tử Văn: “Người ta thường nói: Cứng thì gãy, kẻ sĩ lo không cứng mà thôi, còn gãy, không gãy là việc trời. Sao nên đoán trước là sẽ gãy mà chịu đổi cứng ra mềm? Ngô Tử Văn chỉ là một anh áo vải. Duy giữ được cái cứng nên dám đốt cháy đền tà, bẻ gãy yêu quỷ, chỉ một hành động mà cái tức của thần, của người đều được rửa sạch, vì thế mà rạng danh với Minh Tào, rồi được trao chức vị để đền công, thật là xứng đáng. Làm kẻ sĩ chớ kiêng sợ sự cứng cỏi”. Lời bình như đề cao thêm sự cứng cỏi trong con người Ngô Tử Văn. Đó là cái cứng cỏi vì chính nghĩa, dù có nhất thời chịu khuất, nhưng chắc chắn được mọi người ủng hộ và nhất định sẽ chiến thắng nhờ có sự ủng hộ ấy.
Với cốt truyện được kết cấu như một xung đột đầy kịch tính có mở đầu, có xung đột, có phát triển, có đỉnh điểm và có kết thúc, cách xây dựng nhân vật theo hai tuyến thiện và ác, kết hợp sử dụng các yếu tố kì ảo, truyện đã xây dựng thành công nhân vật Ngô Tử Văn cương trực, thẳng thắn, là hình ảnh của kẻ sĩ nước Việt bất khuất, chính trực. Thông qua nhân vật Ngô Tử Văn, Nguyễn Dữ khéo léo thể hiện niềm tin vào công lí, chính nghĩa thắng gian tà, thiện thắng ác.
Ngô Tử Văn là một nhân vật đại diện cho chính nghĩa, là kết tinh vẻ đẹp của kẻ sĩ cương trực, yêu nước, thương dân. Ta hiểu vì sao “Chuyện chức phán sự đền Tản Viên” nói riêng và “Truyền kì mạn lục” nói chung được xem là “thiên cổ kì bút” của cả dân tộc.
“Chuyện chức phán xự đền Tản Viên” là một trong số những truyện hay, tiêu biểu của “Truyền kì mạn lục” (ghi chép tản mạn những truyện lạ truyền ở đời). Truyện xây dựng thành công nhân vật Ngô Tử Văn, một con người chính trực, khảng khái, dám đứng lên tiêu diệt cái xấu để bảo vệ nhân dân, qua đó thể hiện tư tưởng chủ đề của tác phẩm.
Ngô Tử Văn là nhân vật chính của truyện. Khác với một số truyện trong đó Nguyễn Dữ trình bày lai lịch và hành trình số phận nhân vật từ đầu đến cuối, Chuyện chức phán sự đền Tản Viên chỉ chọn một thời điểm có ý nghĩa nổi bật nhất để bộc lộ đầy đủ tính cách nhân vật. Chuyện giống như một màn kịch ngắn. Mở màn là sự xuất hiện của Ngô Tử Văn với hành động châm lửa đốt ngôi đền thiêng. Hành động chính là sự châm ngòi nổ cho một cuộc chiến đấu giữa chàng và hồn ma tên tướng giặc bại trận.
Đây cũng là cuộc chiến đấu ngay từ đầu đã thể hiện sự gay go quyết liệt. Cũng ngay từ đầu tính cách của Ngô Tử Văn đã bộc lộ khá rõ. Tính cách của chàng thể hiện qua lời lẽ khá rõ: “Chàng vốn khảng khái, nóng nảy, thấy sự tà gian thì không thể chịu được, vùng Bắc người ta vẫn khen là một người cương trực”. Tính cách ấy càng được phát họa rõ nét qua hành động, cử chỉ của nhân vật: “Tử Văn rất tức giận, một hôm tắm gội chay sạch, khấn trời rồi châm lửa đốt đền. Mọi người đều lắc đầu, lè lưỡi, họ lo sợ thay cho Tử Văn, nhưng Tử Văn vung tay không cần gì cả”. Phản ứng của Tử Văn trước thói xấu, thói ác nhanh và mạnh như thuốc súng. Hành động “tắm gội chay sạch” trước khi đốt đền, “vung tay không cần gì cả” sau khi đốt đền, chứng tỏ Tử Văn đã quyết đấu, quyết sống mái với kẻ gian tà, dù đó là đối thủ ai cũng phải kinh sợ.
Tuyên chiến với một kẻ thù đầy sức mạnh hiểm ác, lúc đầu Tử Văn “đơn thương độc mã”, nhưng Tử Văn tin vào việc làm và sức mạnh chính nghĩa của mình. Hành động “vẫn cứ ngồi ngất ngưởng tự nhiên” của Tử Văn trước lời đe dọa của tướng giặc không phải là hành động bất cần của kẻ liều mà là hành động tự tin của người nắm được chính nghĩa. Câu hỏi của Tử Văn với Thổ công: “Hắn có thực là tay hung hãn có thể gieo vạ cho tôi không?” không phải là cau hỏi của kẻ hoang mang lo sợ mà là câu hỏi của người muốn “biết địch, biết ta” để giành thắng lợi.
|
Subsets and Splits
No community queries yet
The top public SQL queries from the community will appear here once available.