vi
stringlengths
846
10.5k
en
stringlengths
799
10.5k
Truyền thuyết là một thể loại văn học dân gian, ra đời sau truyện thần thoại, thường có yếu tố tưởng tượng kì ảo, các nhân vật, sự kiện đều liên quan đến lịch sử, là những truyện truyền miệng kể lại truyện tích các nhân vật lịch sử hoặc giải thích nguồn gốc các phong cảnh địa phương theo quan niệm của nhân dân, biện pháp nghệ thuật phổ biến của nó là khoa trương, phóng đại, đồng thời nó cũng sử dụng yếu tố hư ảo, thần kỳ như cổ tích và thần thoại. Kho tàng truyền thuyết của Việt Nam vô cùng phong phú, mà trong đó phải kể tới “Truyện An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thủy” để lại cho người đọc những bài học sâu sắc về nhân sinh. Trong chương trình Ngữ Văn 10 có đề văn tưởng tượng mình là An Dương Vương trong truyền thuyết An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thủy để kể lại câu chuyện theo ngôi thứ nhất. Đây là đề văn không khó nhưng đòi hỏi người viết phải nhập vai nhân vật, kể lại theo đúng cốt dừa nhân vật, bày tỏ được suy nghĩ và thái độ nhân vật trước mỗi sự kiện, biến cố. Dưới đây là bài văn tưởng tượng mình là An Dương Vương trong truyền thuyết An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thủy để kể lại câu chuyện theo ngôi thứ nhất giúp mọi người có hình dung rõ hơn khi bắt gặp đề văn này. Chuyện xảy ra đã lâu, nhưng mỗi khi nhắc tới, tôi lại không khỏi dằn vặt bản thân đã làm cơ đồ rơi vào tay giặc. Đến bây giờ, nỗi ăn năn, hối hận vẫn còn ám ảnh trong tôi. Trước đây, tôi vốn là vua của nước Âu Lạc thân yêu, tên họ Thục Phán. Tôi có xây thành ở đất Việt Thường, nhưng ngặt nỗi đắp tới đâu lại lở ra tới đó. Tôi buồn bã, tôi thất vọng tràn trề. Tôi lập đàn trai giới, cầu đảo bách thần, mong được sự giúp đỡ. Tôi luôn hi vọng có ai đó giúp tôi trong việc xây thành khó khăn này. Bất ngờ thay, ngày mồng bảy tháng ba, từ phương đông bỗng có một cụ già đến trước cửa thành mà than rằng: “Xây dựng thành này biết bao giờ cho xong được!”. Tôi mừng rỡ, đoán biết là người tài mà mình đang cần chiêu mộ. Tôi liền sai người đón vào điện, làm nghi lễ chào mừng và bày tỏ nỗi lòng mình. Tôi thành thực mà giãi bày: “Ta đắp thành này đã nhiều lần băng lở, tốn nhiều công sức mà không thành, thế là cớ làm sao?”. Nghe xong, có già chỉ đáp: “Sẽ có sứ Thanh Giang tới cùng nhà vua xây dựng thành mới thành công”. Cụ già nói xong rồi từ biệt ra về mà không kịp để tôi hỏi han thêm điều gì nữa. Cả tối đêm ấy, tôi trằn trọc, băn khoăn không ngủ được. Tôi suy nghĩ về lời cụ già đó nói. Hôm sau, tôi ra cửa đông sớm, ngóng đợi. Chợt tôi thấy có một con rùa Vàng từ phương đông lại, nổi trên mặt nước. Kì lạ là nó nói sõi tiếng người và tự xưng là sứ Thanh Giang, thông tỏ việc trời đất, âm dương, quỷ thần. Tôi mừng rỡ vì biết người mình cần đã xuất hiện. Đúng như lời cụ già đã báo cho tôi trước đó, sứ Thanh Giang nay đã xuất hiện rồi. Tôi lập tức chuẩn bị nghi lễ,dùng xe vàng rước vào trong thành. Thành xây nhanh hơn tôi nghĩ. Trong vòng nửa tháng, thành đã hoàn thành xong. Thành nhìn đẹp lắm. Tôi vẫn nhớ thành đó rộng hơn ngàn trượng, xoắn như hình trôn ốc, cho nên gọi là Loa Thành hay còn gọi là Quỷ Long Thành. Tôi mừng rỡ khi thành được xây dựng xong. Tôi cũng phần nào an tâm vì sự bình yên cho dân làng. Rùa Vàng ở lại với chúng tôi ba năm rồi từ biệt ra về. Lúc tiễn đưa, tôi đã gửi lời cảm tạ: “Nhờ ơn của thần, thành đã xây được. Nay nếu có giặc ngoài thì lấy gì mà chống?”. Rùa Vàng liền đáp lại: “Vận nước suy thịnh, xã tắc an nguy đều do mệnh trời, con người có thể tu đức mà kéo dài thời vận. Nhà vua ước muốn ta có tiếc chi”. Nói xong, Rùa Vàng bèn tháo vuốt đưa cho tôi và nói: “Đem vật này làm lẫy nó, nhằm quân giặc mà bắn thì sẽ không lo gì nữa”. Dứt lời, Rùa Vàng trở về biển Đông. Tôi nhanh chóng sai Cao Lỗ làm nỏ, lấy vuốt rùa làm lẫy. Tôi gọi nỏ là “Linh quang Kim Quy thần cơ”. Chẳng bao lâu sau, như sự lo lắng của tôi, nước có giặc tràn vào. Triệu Đà đem quân đến giao chiến, hòng thâu tóm thành. Tôi bèn lấy nỏ thần ra bắn, trăm phát trăm trúng, quân Đà thua thảm, bèn rút quân về Trâu Sơn đắp lũy không dám đối chiến, viết thư xin cầu hòa. Cuộc sống dân chúng từ đó được yên ổn, xã tắc bình an. Tôi vốn có một cô con gái xinh đẹp, nết na tên là Mị Châu đương độ tuổi kén chồng. Lúc ấy, Đà sang cầu hôn. Tôi vô tình đồng ý mà không mảy may nghĩ tới mối thù xưa. Tôi cứ nghĩ cuộc hôn nhân này là môn đăng hộ đối, là vừa lứa xứng đôi, các con sẽ trăm năm hạnh phúc. Nhưng tôi đã lầm. Đây chỉ là một kế của Đà hòng cướp đoạt nỏ thần của tôi. Vậy mà khi ấy, tôi chẳng hề để ý. Mị Châu là đứa con gái ngoan ngoãn, là một người vợ hiền hết mực thương chồng. Trong một lần Mị Châu cho Trọng Thủy xem trộm nỏ thần, Trọng Thủy đã tráo nỏ thần đem về phương Bắc, lấy lí do thăm cha. Lúc ấy, tôi vẫn không hề biết rằng nỏ thần đã bị cô con gái thân yêu của mình vô ý trao tay giặc.
Legend is a genre of folk literature, born after myths, often with elements of fantasy, characters and events related to history, are oral stories retelling the stories of ancient people. historical figures or explain the origin of local landscapes according to the people's conception, its popular artistic methods are melodrama and exaggeration, and at the same time it also uses fantasy and magical elements such as fairy tales and mythology. Vietnam's treasure trove of legends is extremely rich, including "The Tale of An Duong Vuong and My Chau - Trong Thuy" which leaves readers with profound lessons about life. In Literature 10, there is an essay about imagining yourself as An Duong Vuong in the legends of An Duong Vuong and My Chau - Trong Thuy to tell the story in the first person. This is not a difficult topic but requires the writer to play the character, narrate the story according to the character's plot, and express the character's thoughts and attitudes before each event or event. Below is an essay imagining yourself as An Duong Vuong in the legend of An Duong Vuong and My Chau - Trong Thuy to tell the story in the first person to help people have a clearer picture when encountering this topic. It happened a long time ago, but every time I mention it, I can't help but torment myself for letting my fortune fall into the hands of the enemy. To this day, remorse and regret still haunt me. Previously, I was the king of my beloved Au Lac country, my family name was Thuc Phan. I built a citadel in Viet Thuong land, but unfortunately no matter how much I built it, it fell apart. I'm sad, I'm disappointed. I set up a group of precepts and prayed to the island gods, hoping for help. I always hope someone will help me in building this difficult castle. Unexpectedly, on the seventh day of the third month, from the east suddenly an old man came to the city gate and lamented: "Who knows when building this city will be finished!". I was happy, knowing that I was a talented person that I needed to recruit. I immediately sent someone to welcome him into the palace, perform a welcoming ceremony, and express my feelings. I honestly confided: "I built this citadel and it collapsed many times. It took a lot of effort but it didn't work. So what's the reason?" After listening, the old man only replied: "There will be a Thanh Giang envoy who will come with the king to successfully build a new citadel." The old man finished speaking and left without having time for me to ask him anything else. That whole night, I tossed and turned, wondering if I could sleep. I thought about what the old man said. The next day, I went out early and waited. Suddenly I saw a Golden turtle coming from the east, floating on the water. Strangely, it speaks human languages ​​fluently and calls itself Thanh Giang's envoy, understanding heaven and earth, yin and yang, ghosts and gods. I'm happy to know that the person I need has appeared. Just as the old man had told me before, the Thanh Giang porcelain had now appeared. I immediately prepared the ceremony and used a golden chariot to bring her into the city. The citadel was built faster than I thought. Within half a month, the citadel was completed. Thanh looks very beautiful. I still remember that citadel was over a thousand feet wide and twisted like a spiral, so it was called Loa Thanh or also known as Devil Long Thanh. I was happy when the city was completed. I also feel somewhat reassured about the peace of the villagers. Golden Turtle stayed with us for three years and then left. When I said goodbye, I thanked him: "Thanks to God, the city was built. Now, if there is an enemy outside, how can we fight against it? The Golden Turtle immediately responded: "The fortunes of the country are in decline, the safety of the society is all due to the destiny of heaven, people can cultivate virtue and prolong their fortunes. The king wishes me no regrets." Having finished speaking, the Golden Turtle took off its claws and gave it to me and said: "Use this thing to swing it. If you shoot at the enemy, you won't have to worry anymore." Having finished speaking, the Golden Turtle returned to the East Sea. I quickly ordered Cao Lo to make a crossbow, using a turtle's claw as a lever. I call the crossbow "Spiritual Golden Turtle Divine Co". Not long after, as I was worried, the enemy flooded in. Trieu Da brought troops to fight, hoping to take over the city. I then took out the magic crossbow and shot, hitting a hundred times, the Da army lost miserably, so they withdrew their troops to Trau Son to build ramparts, not daring to fight, and wrote a letter asking for peace. Since then, people's lives have been peaceful and orderly. I originally had a beautiful, modest daughter named Mi Chau, who was at the age of choosing a husband. At that time, Da came to propose. I accidentally agreed without thinking about the old feud. I thought this marriage was a perfect match, a perfect match, and the children would be happy for hundreds of years. But I was wrong. This is just a plan by Da to steal my magic crossbow. But at that time, I didn't pay any attention. Mi Chau is an obedient daughter and a gentle wife who loves her husband very much. One time, Mi Chau let Trong Thuy secretly see the magic crossbow, Trong Thuy swapped the magic crossbow and brought it to the North, under the pretext of visiting his father. At that time, I still did not know that the magic crossbow had been unintentionally given to the enemy by my beloved daughter.
Truyền thuyết là một thể loại văn học dân gian, ra đời sau truyện thần thoại, thường có yếu tố tưởng tượng kì ảo, các nhân vật, sự kiện đều liên quan đến lịch sử, là những truyện truyền miệng kể lại truyện tích các nhân vật lịch sử hoặc giải thích nguồn gốc các phong cảnh địa phương theo quan niệm của nhân dân, biện pháp nghệ thuật phổ biến của nó là khoa trương, phóng đại, đồng thời nó cũng sử dụng yếu tố hư ảo, thần kỳ như cổ tích và thần thoại. Kho tàng truyền thuyết của Việt Nam vô cùng phong phú, mà trong đó phải kể tới “Truyện An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thủy” để lại cho người đọc những bài học sâu sắc về nhân sinh. Trong chương trình Ngữ Văn 10 có đề văn tưởng tượng mình là An Dương Vương trong truyền thuyết An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thủy để kể lại câu chuyện theo ngôi thứ nhất. Đây là đề văn không khó nhưng đòi hỏi người viết phải nhập vai nhân vật, kể lại theo đúng cốt dừa nhân vật, bày tỏ được suy nghĩ và thái độ nhân vật trước mỗi sự kiện, biến cố. Dưới đây là bài văn tưởng tượng mình là An Dương Vương trong truyền thuyết An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thủy để kể lại câu chuyện theo ngôi thứ nhất giúp mọi người có hình dung rõ hơn khi bắt gặp đề văn này. Chuyện xảy ra đã lâu, nhưng mỗi khi nhắc tới, tôi lại không khỏi dằn vặt bản thân đã làm cơ đồ rơi vào tay giặc. Đến bây giờ, nỗi ăn năn, hối hận vẫn còn ám ảnh trong tôi. Trước đây, tôi vốn là vua của nước Âu Lạc thân yêu, tên họ Thục Phán. Tôi có xây thành ở đất Việt Thường, nhưng ngặt nỗi đắp tới đâu lại lở ra tới đó. Tôi buồn bã, tôi thất vọng tràn trề. Tôi lập đàn trai giới, cầu đảo bách thần, mong được sự giúp đỡ. Tôi luôn hi vọng có ai đó giúp tôi trong việc xây thành khó khăn này. Bất ngờ thay, ngày mồng bảy tháng ba, từ phương đông bỗng có một cụ già đến trước cửa thành mà than rằng: “Xây dựng thành này biết bao giờ cho xong được!”. Tôi mừng rỡ, đoán biết là người tài mà mình đang cần chiêu mộ. Tôi liền sai người đón vào điện, làm nghi lễ chào mừng và bày tỏ nỗi lòng mình. Tôi thành thực mà giãi bày: “Ta đắp thành này đã nhiều lần băng lở, tốn nhiều công sức mà không thành, thế là cớ làm sao?”. Nghe xong, có già chỉ đáp: “Sẽ có sứ Thanh Giang tới cùng nhà vua xây dựng thành mới thành công”. Cụ già nói xong rồi từ biệt ra về mà không kịp để tôi hỏi han thêm điều gì nữa. Cả tối đêm ấy, tôi trằn trọc, băn khoăn không ngủ được. Tôi suy nghĩ về lời cụ già đó nói. Hôm sau, tôi ra cửa đông sớm, ngóng đợi. Chợt tôi thấy có một con rùa Vàng từ phương đông lại, nổi trên mặt nước. Kì lạ là nó nói sõi tiếng người và tự xưng là sứ Thanh Giang, thông tỏ việc trời đất, âm dương, quỷ thần. Tôi mừng rỡ vì biết người mình cần đã xuất hiện. Đúng như lời cụ già đã báo cho tôi trước đó, sứ Thanh Giang nay đã xuất hiện rồi. Tôi lập tức chuẩn bị nghi lễ,dùng xe vàng rước vào trong thành. Thành xây nhanh hơn tôi nghĩ. Trong vòng nửa tháng, thành đã hoàn thành xong. Thành nhìn đẹp lắm. Tôi vẫn nhớ thành đó rộng hơn ngàn trượng, xoắn như hình trôn ốc, cho nên gọi là Loa Thành hay còn gọi là Quỷ Long Thành. Tôi mừng rỡ khi thành được xây dựng xong. Tôi cũng phần nào an tâm vì sự bình yên cho dân làng. Rùa Vàng ở lại với chúng tôi ba năm rồi từ biệt ra về. Lúc tiễn đưa, tôi đã gửi lời cảm tạ: “Nhờ ơn của thần, thành đã xây được. Nay nếu có giặc ngoài thì lấy gì mà chống?”. Rùa Vàng liền đáp lại: “Vận nước suy thịnh, xã tắc an nguy đều do mệnh trời, con người có thể tu đức mà kéo dài thời vận. Nhà vua ước muốn ta có tiếc chi”. Nói xong, Rùa Vàng bèn tháo vuốt đưa cho tôi và nói: “Đem vật này làm lẫy nó, nhằm quân giặc mà bắn thì sẽ không lo gì nữa”. Dứt lời, Rùa Vàng trở về biển Đông. Tôi nhanh chóng sai Cao Lỗ làm nỏ, lấy vuốt rùa làm lẫy. Tôi gọi nỏ là “Linh quang Kim Quy thần cơ”. Chẳng bao lâu sau, như sự lo lắng của tôi, nước có giặc tràn vào. Triệu Đà đem quân đến giao chiến, hòng thâu tóm thành. Tôi bèn lấy nỏ thần ra bắn, trăm phát trăm trúng, quân Đà thua thảm, bèn rút quân về Trâu Sơn đắp lũy không dám đối chiến, viết thư xin cầu hòa. Cuộc sống dân chúng từ đó được yên ổn, xã tắc bình an. Tôi vốn có một cô con gái xinh đẹp, nết na tên là Mị Châu đương độ tuổi kén chồng. Lúc ấy, Đà sang cầu hôn. Tôi vô tình đồng ý mà không mảy may nghĩ tới mối thù xưa. Tôi cứ nghĩ cuộc hôn nhân này là môn đăng hộ đối, là vừa lứa xứng đôi, các con sẽ trăm năm hạnh phúc. Nhưng tôi đã lầm. Đây chỉ là một kế của Đà hòng cướp đoạt nỏ thần của tôi. Vậy mà khi ấy, tôi chẳng hề để ý. Mị Châu là đứa con gái ngoan ngoãn, là một người vợ hiền hết mực thương chồng. Trong một lần Mị Châu cho Trọng Thủy xem trộm nỏ thần, Trọng Thủy đã tráo nỏ thần đem về phương Bắc, lấy lí do thăm cha. Lúc ấy, tôi vẫn không hề biết rằng nỏ thần đã bị cô con gái thân yêu của mình vô ý trao tay giặc.
Legend is a genre of folk literature, born after myths, often with elements of fantasy, characters and events related to history, are oral stories retelling the stories of ancient people. historical figures or explain the origin of local landscapes according to the people's conception, its popular artistic methods are melodrama and exaggeration, and at the same time it also uses fantasy and magical elements such as fairy tales and mythology. Vietnam's treasure trove of legends is extremely rich, including "The Tale of An Duong Vuong and My Chau - Trong Thuy" which leaves readers with profound lessons about life. In Literature 10, there is an essay about imagining yourself as An Duong Vuong in the legends of An Duong Vuong and My Chau - Trong Thuy to tell the story in the first person. This is not a difficult topic but requires the writer to play the character, narrate the story according to the character's plot, and express the character's thoughts and attitudes before each event or event. Below is an essay imagining yourself as An Duong Vuong in the legend of An Duong Vuong and My Chau - Trong Thuy to tell the story in the first person to help people have a clearer picture when encountering this topic. It happened a long time ago, but every time I mention it, I can't help but torment myself for letting my fortune fall into the hands of the enemy. To this day, remorse and regret still haunt me. Previously, I was the king of my beloved Au Lac country, my family name was Thuc Phan. I built a citadel in Viet Thuong land, but unfortunately no matter how much I built it, it fell apart. I'm sad, I'm disappointed. I set up a group of precepts and prayed to the island gods, hoping for help. I always hope someone will help me in building this difficult castle. Unexpectedly, on the seventh day of the third month, from the east suddenly an old man came to the city gate and lamented: "Who knows when building this city will be finished!". I was happy, knowing that I was a talented person that I needed to recruit. I immediately sent someone to welcome him into the palace, perform a welcoming ceremony, and express my feelings. I honestly confided: "I built this citadel and it collapsed many times. It took a lot of effort but it didn't work. So what's the reason?" After listening, the old man only replied: "There will be a Thanh Giang envoy who will come with the king to successfully build a new citadel." The old man finished speaking and left without having time for me to ask him anything else. That whole night, I tossed and turned, wondering if I could sleep. I thought about what the old man said. The next day, I went out early and waited. Suddenly I saw a Golden turtle coming from the east, floating on the water. Strangely, it speaks human languages ​​fluently and calls itself Thanh Giang's envoy, understanding heaven and earth, yin and yang, ghosts and gods. I'm happy to know that the person I need has appeared. Just as the old man had told me before, the Thanh Giang porcelain had now appeared. I immediately prepared the ceremony and used a golden chariot to bring her into the city. The citadel was built faster than I thought. Within half a month, the citadel was completed. Thanh looks very beautiful. I still remember that citadel was over a thousand feet wide and twisted like a spiral, so it was called Loa Thanh or also known as Devil Long Thanh. I was happy when the city was completed. I also feel somewhat reassured about the peace of the villagers. Golden Turtle stayed with us for three years and then left. When I said goodbye, I thanked him: "Thanks to God, the city was built. Now, if there is an enemy outside, how can we fight against it? The Golden Turtle immediately responded: "The fortunes of the country are in decline, the safety of the society is all due to the destiny of heaven, people can cultivate virtue and prolong their fortunes. The king wishes me no regrets." Having finished speaking, the Golden Turtle took off its claws and gave it to me and said: "Use this thing to swing it. If you shoot at the enemy, you won't have to worry anymore." Having finished speaking, the Golden Turtle returned to the East Sea. I quickly ordered Cao Lo to make a crossbow, using a turtle's claw as a lever. I call the crossbow "Spiritual Golden Turtle Divine Co". Not long after, as I was worried, the enemy flooded in. Trieu Da brought troops to fight, hoping to take over the city. I then took out the magic crossbow and shot, hitting a hundred times, the Da army lost miserably, so they withdrew their troops to Trau Son to build ramparts, not daring to fight, and wrote a letter asking for peace. Since then, people's lives have been peaceful and orderly. I originally had a beautiful, modest daughter named Mi Chau, who was at the age of choosing a husband. At that time, Da came to propose. I accidentally agreed without thinking about the old feud. I thought this marriage was a perfect match, a perfect match, and the children would be happy for hundreds of years. But I was wrong. This is just a plan by Da to steal my magic crossbow. But at that time, I didn't pay any attention. Mi Chau is an obedient daughter and a gentle wife who loves her husband very much. One time, Mi Chau let Trong Thuy secretly see the magic crossbow, Trong Thuy swapped the magic crossbow and brought it to the North, under the pretext of visiting his father. At that time, I still did not know that the magic crossbow had been unintentionally given to the enemy by my beloved daughter.
Trong văn học trung đại xưa, các nhà văn, nhà thơ thường đề cập đến những vấn đề mang tính cộng đồng, xã hội, dùng thơ để nói chí “Thi dĩ ngôn chí”, “văn dĩ tải đạo” mà rất hiếm đề cập đến tình yêu đôi lứa. Tuy nhiên, trong kiệt tác Truyện Kiều của mình, Nguyễn Du không những viết về tình yêu mà còn ca ngợi tình yêu tự do của đôi lứa, tư tưởng này được thể hiện chân thực thông qua đoạn trích “Thề nguyền”. Dưới đây là định hướng làm bài cụ thể để các bạn hoàn thành tốt bài văn phân tích đoạn trích “Thề nguyền” Sau cuộc du xuân, Thúy Kiều và Kim Trọng gặp nhau., Kim thuê trọ ở gần nhà Kiều. Một hôm, nhân lúc cả gai đình đi mừng thọ bên ngoại, Thúy Kiều chủ động sang nhà Kim Trọng, hai người tình tự với nhau đến tối. Trở về nhà nhưng gia đình chưa về, Kiều lại buông rèm sang nhà Kim Trọng lần hai. Họ cùng nhau hứa hẹn chung thủy suốt đời. “Thề nguyền” là một trong những đoạn trích tiêu biểu cho tình yêu trong sách, thủy chung mà không kém phần bạo dạn của Thúy Kiều – một cô gái trong xã hội phong kiến, sẵn sàng vượt những hủ tục để có được tình yêu với Kim Trọng. Mở đầu đoạn trích với cảnh Thúy Kiều lén sang gặp Kim Trọng lần hai khi thấy cha mẹ chưa về: Kiều đi tìm gặp Kim Trọng, Nàng với những bước chân nhanh nhẹn “xăm xăm”, can đảm đến bên nhân tình cùng nhau xướng họa văn thơ, tâm sự bầu bạn. Quả thật trong xã hội phong kiến xưa, nhưng hủ tục trói buộc con người, tạo ra một bức tường ngắn cách tình yêu đôi lứa, nhưng Kiều một cô gái có trái tim bồng bột ngây thơ, với sự táo bạo, chủ động trong tình yêu, thê nguyền với người mình yêu khi không có sự cho phép của cha mẹ mình cho thấy trong nàng có khao khát một tình yêu tự do, chính đáng, một tình cảm mãnh liệt với Kim Trọng đồng thời, nàng đang vì chính mình tranh đua với thời gian, định mệnh để tìm kiếm hạnh phúc. Theo từng bước đi đó của Thúy Kiều là tư tưởng tiến bộ của Nguyễn Du, mở rộng danh giới tình cảm cho nhân vật. Nàng cứ thế bước đi trong vườn khuya, dần lạc vào ảo mộng. Còn với Kim Trọng thì khoảnh khắc lúc này đáng quý hơn bao giờ hết, bởi vì sau bao ngày tháng mong ngóng chờ đợi giờ đây được gặp trực tiếp, được giãi bày tâm sự cùng nàng: Nguyễn Du đã dùng hình ảnh ước lệ “tiếng sen” để nói về từng bước chân nhẹ nhàng của Thúy Kiều giữa lúc chàng Kim đang nửa tỉnh, nửa mê, luyến tiếc khi nàng Kiều quay trở về nhà sau lần gặp gỡ thứ nhất. Thế rồi nàng Kiều bất chợt quay lại khiến tâm trạng chàng bâng khuâng, xao xuyến tưởng chừng như còn mơ màng trong giấc mộng đêm xuân. Nguyễn Du đã mượn điển tích “đỉnh Giáp non thần” vua nước Sở nằm mơ thấy thần nữ núi Vu Giáp trong điển tích của văn học cổ Trung Quốc, để thể hiện sự trân trọng của chàng khi người đẹp đến. Sức mạnh của tình yêu đã thôi thúc nàng Kiều hành động, nàng đã sống thực với những cảm xúc và mong muốn của mình. Tuy có hành động táo bạo nhưng Thúy Kiều không đi qua xa giới hạn, nàng cũng có những biện minh cho hành động có vẻ nông nổi của mình: “Khoảng vắng đêm trường” gợi một khoảng không gian thời gian trong tâm trí rợn ngợp mà nàng phải vượt qua để tới gặp Kim Trọng. “Vì hoa” ở đây tức chỉ Kim Trọng, một con người tài hoa, phong nhã khiến nàng yêu say đắm sau lần gặp đầu tiên, chính tình yêu ấy đã thôi thúc nàng vượt bao nhiêu định kiến để đến gặp mặt, giãi bày. Thúy Kiều ngay từ khi còn sống trong cảnh êm đềm chướng rủ màn che đã luôn có những sự cảm không lành về một tương lai nhiều biến cố, đau khổ. Dù tình yêu đang ở lúc nồng nàn, say đắm nhất thì nàng luôn lo lắng liệu đó có phải giấc chiêm bao, mọi thứ phải chăng rồi sẽ tan biến. Hành động vội vã của nàng như muốn tranh thủ từng phút giây hạnh phúc được ở bên người mình yêu. Sau những lời giãi bày của Kiều, Kim Trọng cùng nàng vào trong phòng, nhanh chóng đốt trầm hương thơm thoảng, thắp thêm đèn tỏa ánh sáng ấm áp, chàng lấy tờ giấy hoa ra viết lời thề, cắt tóc chia thành hai phần đặt lên án thư, trao đổi vật tin. Dưới sự chứng dám của vầng trăng:
In ancient medieval literature, writers and poets often mentioned community and social issues, using poetry to express "poetry of language", "literature of proselytism" but very rarely mentioned it. refers to love between couples. However, in his masterpiece The Tale of Kieu, Nguyen Du not only wrote about love but also praised the free love of couples. This idea is truly expressed through the excerpt "Vow". Below are specific writing directions for you to successfully complete the essay analyzing the excerpt "The Oath" After the spring trip, Thuy Kieu and Kim Trong met. Kim rented a room near Kieu's house. One day, while the whole family went to celebrate her grandmother's birthday, Thuy Kieu took the initiative to go to Kim Trong's house, and the two lovers spent the night together. Returning home but her family had not returned, Kieu opened the curtain and went to Kim Trong's house a second time. Together they promised to be faithful for life. "The Vow" is one of the excerpts that represent love in the book, faithful but no less bold by Thuy Kieu - a girl in a feudal society, willing to overcome customs to find love. with Kim Trong. The excerpt begins with the scene of Thuy Kieu sneaking to see Kim Trong a second time when she saw that her parents had not returned: Kieu went to find Kim Trong. With quick, "tattooed" steps, she courageously went to her lover's side to compose poems and poems, confiding in each other's company. It is true that in ancient feudal society, customs bound people, creating a short wall between love between couples, but Kieu was a girl with a naive, passionate heart, with boldness and initiative in her life. love and divorce with the person she loves without her parents' permission shows that she has a desire for a free, legitimate love, a strong affection for Kim Trong at the same time, she is for her own sake. I compete with time and destiny to find happiness. Following each step of Thuy Kieu is Nguyen Du's progressive ideology, expanding the emotional boundaries of the character. She kept walking in the garden late at night, gradually getting lost in a fantasy. As for Kim Trong, this moment is more precious than ever, because after many days of waiting and waiting, he can now meet her in person and confide in her: Nguyen Du used the conventional image "lotus sound" to talk about each gentle step of Thuy Kieu while Kim was half awake, half unconscious, regretful when Kieu returned home after their first meeting. Then Kieu suddenly returned, making him feel uncertain and agitated, as if he were still dreaming in a spring night's dream. Nguyen Du borrowed the legend "Giap mountain god mountain", the king of So country dreamed of the goddess Vu Giap mountain in the classic Chinese literature, to show his respect when the beauty arrived. The power of love motivated Kieu to act, she lived true to her feelings and desires. Despite her bold actions, Thuy Kieu did not go far beyond the limit, she also had justifications for her seemingly rash actions: “The Emptiness of the Long Night” evokes a space and time in her overwhelming mind that she had to overcome to meet Kim Trong. "For flowers" here refers to Kim Trong, a talented and elegant person who made her fall in love passionately after their first meeting. It was that love that motivated her to overcome many prejudices to meet and confide. . Thuy Kieu, ever since she lived in a peaceful, curtain-covered environment, has always had bad feelings about a future full of events and suffering. Even though love is at its most passionate and passionate, she is always worried whether it is a dream or whether everything will disappear. Her hasty actions seemed to want to take advantage of every happy moment with the person she loved. After Kieu's confession, Kim Trong and her went into the room, quickly burned fragrant incense, lit a lamp to radiate a warm light, took out a piece of paper to write his vows, cut his hair and divided it into two parts. Condemn letters and exchange of information. Under the witness of the moon:
Trong văn học trung đại xưa, các nhà văn, nhà thơ thường đề cập đến những vấn đề mang tính cộng đồng, xã hội, dùng thơ để nói chí “Thi dĩ ngôn chí”, “văn dĩ tải đạo” mà rất hiếm đề cập đến tình yêu đôi lứa. Tuy nhiên, trong kiệt tác Truyện Kiều của mình, Nguyễn Du không những viết về tình yêu mà còn ca ngợi tình yêu tự do của đôi lứa, tư tưởng này được thể hiện chân thực thông qua đoạn trích “Thề nguyền”. Dưới đây là định hướng làm bài cụ thể để các bạn hoàn thành tốt bài văn phân tích đoạn trích “Thề nguyền” Sau cuộc du xuân, Thúy Kiều và Kim Trọng gặp nhau., Kim thuê trọ ở gần nhà Kiều. Một hôm, nhân lúc cả gai đình đi mừng thọ bên ngoại, Thúy Kiều chủ động sang nhà Kim Trọng, hai người tình tự với nhau đến tối. Trở về nhà nhưng gia đình chưa về, Kiều lại buông rèm sang nhà Kim Trọng lần hai. Họ cùng nhau hứa hẹn chung thủy suốt đời. “Thề nguyền” là một trong những đoạn trích tiêu biểu cho tình yêu trong sách, thủy chung mà không kém phần bạo dạn của Thúy Kiều – một cô gái trong xã hội phong kiến, sẵn sàng vượt những hủ tục để có được tình yêu với Kim Trọng. Mở đầu đoạn trích với cảnh Thúy Kiều lén sang gặp Kim Trọng lần hai khi thấy cha mẹ chưa về: Kiều đi tìm gặp Kim Trọng, Nàng với những bước chân nhanh nhẹn “xăm xăm”, can đảm đến bên nhân tình cùng nhau xướng họa văn thơ, tâm sự bầu bạn. Quả thật trong xã hội phong kiến xưa, nhưng hủ tục trói buộc con người, tạo ra một bức tường ngắn cách tình yêu đôi lứa, nhưng Kiều một cô gái có trái tim bồng bột ngây thơ, với sự táo bạo, chủ động trong tình yêu, thê nguyền với người mình yêu khi không có sự cho phép của cha mẹ mình cho thấy trong nàng có khao khát một tình yêu tự do, chính đáng, một tình cảm mãnh liệt với Kim Trọng đồng thời, nàng đang vì chính mình tranh đua với thời gian, định mệnh để tìm kiếm hạnh phúc. Theo từng bước đi đó của Thúy Kiều là tư tưởng tiến bộ của Nguyễn Du, mở rộng danh giới tình cảm cho nhân vật. Nàng cứ thế bước đi trong vườn khuya, dần lạc vào ảo mộng. Còn với Kim Trọng thì khoảnh khắc lúc này đáng quý hơn bao giờ hết, bởi vì sau bao ngày tháng mong ngóng chờ đợi giờ đây được gặp trực tiếp, được giãi bày tâm sự cùng nàng: Nguyễn Du đã dùng hình ảnh ước lệ “tiếng sen” để nói về từng bước chân nhẹ nhàng của Thúy Kiều giữa lúc chàng Kim đang nửa tỉnh, nửa mê, luyến tiếc khi nàng Kiều quay trở về nhà sau lần gặp gỡ thứ nhất. Thế rồi nàng Kiều bất chợt quay lại khiến tâm trạng chàng bâng khuâng, xao xuyến tưởng chừng như còn mơ màng trong giấc mộng đêm xuân. Nguyễn Du đã mượn điển tích “đỉnh Giáp non thần” vua nước Sở nằm mơ thấy thần nữ núi Vu Giáp trong điển tích của văn học cổ Trung Quốc, để thể hiện sự trân trọng của chàng khi người đẹp đến. Sức mạnh của tình yêu đã thôi thúc nàng Kiều hành động, nàng đã sống thực với những cảm xúc và mong muốn của mình. Tuy có hành động táo bạo nhưng Thúy Kiều không đi qua xa giới hạn, nàng cũng có những biện minh cho hành động có vẻ nông nổi của mình: “Khoảng vắng đêm trường” gợi một khoảng không gian thời gian trong tâm trí rợn ngợp mà nàng phải vượt qua để tới gặp Kim Trọng. “Vì hoa” ở đây tức chỉ Kim Trọng, một con người tài hoa, phong nhã khiến nàng yêu say đắm sau lần gặp đầu tiên, chính tình yêu ấy đã thôi thúc nàng vượt bao nhiêu định kiến để đến gặp mặt, giãi bày. Thúy Kiều ngay từ khi còn sống trong cảnh êm đềm chướng rủ màn che đã luôn có những sự cảm không lành về một tương lai nhiều biến cố, đau khổ. Dù tình yêu đang ở lúc nồng nàn, say đắm nhất thì nàng luôn lo lắng liệu đó có phải giấc chiêm bao, mọi thứ phải chăng rồi sẽ tan biến. Hành động vội vã của nàng như muốn tranh thủ từng phút giây hạnh phúc được ở bên người mình yêu. Sau những lời giãi bày của Kiều, Kim Trọng cùng nàng vào trong phòng, nhanh chóng đốt trầm hương thơm thoảng, thắp thêm đèn tỏa ánh sáng ấm áp, chàng lấy tờ giấy hoa ra viết lời thề, cắt tóc chia thành hai phần đặt lên án thư, trao đổi vật tin. Dưới sự chứng dám của vầng trăng:
In ancient medieval literature, writers and poets often mentioned community and social issues, using poetry to express "poetry of language", "literature of proselytism" but very rarely mentioned it. refers to love between couples. However, in his masterpiece The Tale of Kieu, Nguyen Du not only wrote about love but also praised the free love of couples. This idea is truly expressed through the excerpt "Vow". Below are specific writing directions for you to successfully complete the essay analyzing the excerpt "The Oath" After the spring trip, Thuy Kieu and Kim Trong met. Kim rented a room near Kieu's house. One day, while the whole family went to celebrate her grandmother's birthday, Thuy Kieu took the initiative to go to Kim Trong's house, and the two lovers spent the night together. Returning home but her family had not returned, Kieu opened the curtain and went to Kim Trong's house a second time. Together they promised to be faithful for life. "The Vow" is one of the excerpts that represent love in the book, faithful but no less bold by Thuy Kieu - a girl in a feudal society, willing to overcome customs to find love. with Kim Trong. The excerpt begins with the scene of Thuy Kieu sneaking to see Kim Trong a second time when she saw that her parents had not returned: Kieu went to find Kim Trong. With quick, "tattooed" steps, she courageously went to her lover's side to compose poems and poems, confiding in each other's company. It is true that in ancient feudal society, customs bound people, creating a short wall between love between couples, but Kieu was a girl with a naive, passionate heart, with boldness and initiative in her life. love and divorce with the person she loves without her parents' permission shows that she has a desire for a free, legitimate love, a strong affection for Kim Trong at the same time, she is for her own sake. I compete with time and destiny to find happiness. Following each step of Thuy Kieu is Nguyen Du's progressive ideology, expanding the emotional boundaries of the character. She kept walking in the garden late at night, gradually getting lost in a fantasy. As for Kim Trong, this moment is more precious than ever, because after many days of waiting and waiting, he can now meet her in person and confide in her: Nguyen Du used the conventional image "lotus sound" to talk about each gentle step of Thuy Kieu while Kim was half awake, half unconscious, regretful when Kieu returned home after their first meeting. Then Kieu suddenly returned, making him feel uncertain and agitated, as if he were still dreaming in a spring night's dream. Nguyen Du borrowed the legend "Giap mountain god mountain", the king of So country dreamed of the goddess Vu Giap mountain in the classic Chinese literature, to show his respect when the beauty arrived. The power of love motivated Kieu to act, she lived true to her feelings and desires. Despite her bold actions, Thuy Kieu did not go far beyond the limit, she also had justifications for her seemingly rash actions: “The Emptiness of the Long Night” evokes a space and time in her overwhelming mind that she had to overcome to meet Kim Trong. "For flowers" here refers to Kim Trong, a talented and elegant person who made her fall in love passionately after their first meeting. It was that love that motivated her to overcome many prejudices to meet and confide. . Thuy Kieu, ever since she lived in a peaceful, curtain-covered environment, has always had bad feelings about a future full of events and suffering. Even though love is at its most passionate and passionate, she is always worried whether it is a dream or whether everything will disappear. Her hasty actions seemed to want to take advantage of every happy moment with the person she loved. After Kieu's confession, Kim Trong and her went into the room, quickly burned fragrant incense, lit a lamp to radiate a warm light, took out a piece of paper to write his vows, cut his hair and divided it into two parts. Condemn letters and exchange of information. Under the witness of the moon:
Sử thi là một thể loại nằm trong mạch ngầm văn học dân gian của dân tộc ta. Đã có rất nhiều bộ sử thi ra đời:”Đẻ đất đẻ nước” (Mường),”Ẩm ệt luông” (Thái),”Cây nêu thần” (Mnông),… Nhưng được biết đến rộng rãi hơn hẳn là sử thi “Đăm Săn” – sử thi Tây Nguyên đậm chất tráng ca ca ngợi vẻ đẹp của người anh hùng Đăm Săn. Trong chương trình học của sách giáo khoa ngữ văn 10, các bạn sẽ được giới thiệu đến với đoạn trích “Chiến thắng Mtao Mxây” – một trong những phân cảnh hay nhất của sử thi đã làm nổi bật sức mạnh của người anh hùng Đăm Săn – biểu tượng của buôn làng Tây Nguyên. Bài viết dưới đây theo yêu cầu đóng vai nhân vật chính Đăm Săn để kể lại chiến thắng Mtao Mxây. Để làm được bài viết này, các bạn cần chuyển đổi ngôi kể sang ngôi thứ nhất, đồng thời kể chuyện theo mạch diễn biến tâm trạng của nhân vật Đăm Săn, tuyệt đối không được sử dụng giọng tự sự khách quan mà phải mang tính chủ quan của nhân vật Đăm Săn. Từ xưa, tên tù trưởng Sắt Mtao Mxây đã nổi tiếng giàu có nhất vùng. Ỷ lại vào quyền hành to lớn mà hắn tác oai tác quái, ức hiếp dân lành, phá buôn phá làng khiến nhân dân căm tức. Lần này, hắn đến cướp phá buôn làng tôi rồi còn bắt luôn Hơ Nhị – vợ tôi về làm vợ nhân lúc tôi không có nhà. Nghe tin, tôi đã đến nhà hắn để cứu nàng về nhà. Nhà Mtao Mxây quả thực là lớn vô cùng. Đầu sàn hiên đẽo hình mặt trăng, đầu cầu thang đẽo hình chim ngói, cầu thang rộng bằng một chiếu, người nối đuôi nhau lên vẫn không sợ bị chật. Tôi cất tiếng lớn đòi hắn xuống đọ dao với tôi. Nhưng tên tù trưởng nào quả thật nhát gan! Hắn đã sợ lại còn trêu tức tôi:”Ta không xuống đâu, diêng ơi. Tay ta còn bận ôm vợ hai chúng ta ở trên nhà này cơ mà.” Tôi thẳng thắn phản kháng luôn:”Ngươi không xuống ư? Ta sẽ lấy cái sàn hiên của ngươi ta bổ đôi, ta sẽ lấy cái cầu thang của nhà người ta chẻ ra khói lửa, ta hun cái nhà ngươi ra cho mà xem.” Biết tính tôi từ trước đến nay nói là làm, lại sợ bị đốt nhà nên hắn khập khiễng xuống, còn cầu xin tôi đừng đâm hắn khi hắn đang xuống. Thật nực cười, tôi nói với hắn, đến cả con lợn nái, con trâu của hắn ở trong chuồng tôi còn chẳng thèm đâm nữa là. Cuối cùng thì hắn cũng chịu xuất đầu lộ diện. Kìa kìa, khiên hắn tròn như cái đầu cú, gươm hắn óng ánh như cái cầu vồng. Thế mà cái người hắn thì lại ục ịch, mỗi bước mỗi đắn đo trông mới hèn hạ làm sao. Hắn tần ngần mãi rồi mới chịu bước xuống. Tôi mời hắn múa trước nhưng hắn lại vội vã từ chối: – Ngươi mới là người múa trước, ơ diêng! Ta như gà làng mới mọc cựa kliê, như gà rừng mới mọc cựa êchăm, chưa ai dẫm phải mà đã mất cánh.” Đến bây giờ thì hắn đã lộ rõ hắn là một kẻ hèn nhát đến mức nào. Hắn ví hắn giống như con gà mới mọc cựa, còn non yếu, tôi mặc kệ, cứ mời hắn múa trước. Hắn đành phải múa, nhưng trông mới hài hước làm sao! Khiên hắn lạch xạch như quả mướp khô, tôi nghe mà chán, bèn hỏi hắn học miếng múa ấy ở đâu vậy. Hắn vẫn còn kiêu căng, kêu:”Có cậu, ta học cậu. Có bác, ta học bác. Có thần Rồng, ta học thần Rồng.” Tôi khiêu khích:”Thế ư, Ta thì đâu có cậu mà học cậu, đâu có bác mà học bác! Có hai ta đây, ngươi múa đi ta xem nào!” Thế mà hắn vẫn còn kiêu căng:”Thế ngươi không biết ta đây là một tướng đã quen đi đánh thiên hạ, bắt tù binh, đã quen đi xéo nát đất đai thiên hạ hay sao?” Tôi chỉ thẳng mặt hắn: “Vậy ngươi xem ta đây!” Tôi rung khiên múa. Tôi vượt hết một đồi tranh, một đồi hồ lô, vun vút qua phía đông rồi vun vút qua phía tây. Thế mà Mtao Mxây còn đòi theo tôi, hắn khập khiễng theo phía đông rồi theo phía tây, vung dao chém tôi mà lại chỉ trúng cái chão cột trâu.
Epic is a genre in the underground folk literature of our nation. There have been many epics born: "Give birth to land" (Muong), "Ant ket luong" (Thai), "Cà de god" (Mnong),... But the most widely known is the epic. "Dam San" - a Central Highlands epic full of epic poetry praising the beauty of the hero Dam San. In the curriculum of the grade 10 literature textbook, you will be introduced to the excerpt "The Victory of Mtao Mxay" - one of the best scenes of the epic that highlights the strength of the hero Dam. Hunting - symbol of Central Highlands villages. The article below follows the request of the main character Dam San to recount the victory of Mtao Mxay. To write this article, you need to change the narrative to the first person, and at the same time tell the story according to the mood progression of the character Dam San. Absolutely do not use an objective narrative voice but must be subjective. the subjectivity of the character Dam San. Since ancient times, the iron chief Mtao Mxay was famous for being the richest in the region. Relying on his great power, he acts in an arrogant and cruel manner, oppresses innocent people, destroys businesses and destroys villages, making the people angry. This time, he came to loot my village and also captured Ho Nhi - my wife - to be his wife while I was not home. Hearing the news, I went to his house to save her and bring her home. Mtao Mxay's house is truly enormous. The top of the porch floor is carved into the shape of a moon, the top of the stairs is carved into the shape of a tiled bird, the stairs are as wide as a mat, people can line up one after another without fear of being crowded. I raised my voice and asked him to come down and fight with me. But which chief is truly cowardly! He was scared and even teased me: "I'm not going down, dear Dien." My hands are busy holding our two wives up here in the house." I protested frankly: "Aren't you coming down? I will take your porch floor and I will cut it in half, I will take someone else's staircase and split it into smoke and fire, I will smoke your house out for you to see." Knowing my personality, I had always said I would do it, and was afraid that the house would be burned down, so he limped down and begged me not to stab him while he was getting down. It's funny, I told him, I don't even bother to stab his sow or buffalo in the barn. Finally, he was willing to show up. Look, his shield is round like an owl's head, his sword shines like a rainbow. Yet his body is so sluggish, every step hesitating, it looks so despicable. He hesitated for a long time before he finally stepped down. I invited him to dance first but he quickly refused: – You are the one who dances first, oh dieng! I am like a village chicken that has just grown its klie spurs, like a wild chicken that has just grown its echam spurs. No one has stepped on it, but I have lost my wings." By now he had clearly shown how much of a coward he was. He compared him to a chicken that had just grown spurs and was still weak, so I didn't care and just invited him to dance first. He had to dance, but it looked so funny! His shield rattled like a dried melon. I was bored listening to it, so I asked him where he learned that dance. He was still arrogant, calling out: "With you, I will learn from you. With you, we learn from you. There is the Dragon God, I study the Dragon God." I provoked: "So, I don't have an uncle to learn from, I don't have an uncle to learn from! Here we are, you dance and I'll see!” Yet he was still arrogant: "Don't you know that I am a general who is used to fighting people, capturing prisoners, and tearing apart people's lands?" I pointed straight at him: "Then look at me!" I shook my shield and danced. I passed a thatched hill, a gourd hill, soared to the east and then to the west. Yet Mtao Mxay still wanted to follow me. He limped east and then west, swung his knife at me but only hit the buffalo rope.
Truyện cười dân gian Việt Nam ra đời trong lòng hiện thực xã hội phong kiến Việt Nam, là sản phẩm trí tuệ dân gian nhằm chống lại giai cấp thống trị. Như một vũ khí sắc bén, tiếng cười dân gian đã vạch trần bản chất thối nát của bọn quan lại, những đàng “phụ mẫu chi dân”, như một phản ứng mạnh mẽ thể hiện tinh thần đấu tranh của những người bị áp bức. Một trong những bản chất thối nát đó, không thể không nói đến thói ăn hối lộ, được vạch trần một cách trực tiếp qua câu chuyện “Nhưng nó phải bằng hai mày”. Để hiểu được truyện trước hết ta phải xác định được đối tượng gây cười là ai, mâu thuẫn gây cười là gì, tình huống gây cười ở đây diễn ra như thế nào để bộc lộ bản chất đối tượng từ đó nêu lên ý nghĩa phê phán và đánh giá nghệ thuật gây cười của truyện. Dưới đây là bài viết hướng dẫn giúp các bạn có được bài viết hay. “Nhưng nó phải bằng hai mày” thuộc nhóm truyện cười trào phúng. Trong truyện, đối tượng bị đả kích là thói ăn hối lộ trơ tráo, phổ biến trong hàng ngũ quan lại xã hội xưa. Truyện đã giới thiệu về nhân vật Lý trưởng, nổi tiếng là người xử kiện giỏi. Cách giới thiệu ngắn gọn, tạo cho người đọc, người nghe sự chờ đợi xem Lý trưởng xử kiện giỏi như thế nào. Để hiểu cách xử kiện giỏi của quan, tác giả nhân dân đã đặt nhân vật vào một tình huống cụ thể: Ngô và Cáo là hai người hàng xóm. Họ đánh nhau và cuối cùng đem nhau ra kiện. Tuy nhiên, trái với lời giới thiệu ban đầu, Lý trưởng cũng giống như bao tên quan tham lam khác, chỉ lo nhận tiền đút lót để làm đầy cái túi của mình, mà không quan tâm đến đúng sai. Đặc biệt hành vi ăn hối lộ được thể hiện qua hành động và ngôn ngữ trắng trợn, trơ trẽn của tên Lý. Khi thấy Cải xoè năm ngón tay ngầm nhắc đã lót thầy Lý năm đồng, thầy Lý cũng “xoè năm ngón tay trái úp lên năm ngón tay mặt” ngầm bảo Cải: thằng Ngô còn lót tới mười đồng cơ. Không những thế, hắn còn thẳng thừng nói với Cải: “Tao biết mày phải…nhưng nó lại phải…bằng hai mày!”. Cụm từ “phải bằng hai” tự nó đã đủ khả năng gây cười vì lẽ phải chỉ có một, không thể cả hai đều phải, lại càng không có chuyện người này “phải bằng hai” người kia. Khi đặt câu nói của Lý trưởng trong hoàn cảnh hắn nhận hối lộ của Ngô gấp hai lần Cải, thì tiếng cười không chỉ dừng lại ở độ giải trí mà còn trở thành lời đả kích mạnh mẽ về một nhân cách: thói ăn hối lộ trắng trợn, có thể bẻ cong cả chân lí.
Vietnamese folk jokes were born within the reality of Vietnamese feudal society, and are products of folk wisdom aimed at opposing the ruling class. Like a sharp weapon, folk laughter has exposed the corrupt nature of the mandarins and the "parents of the people", as a strong reaction showing the fighting spirit of the oppressed. . One of those corrupt natures, not to mention the habit of bribery, is exposed directly through the story "But it has to be with both of you". To understand the story, we must first determine who the funny object is, what the funny conflict is, and how the funny situation takes place here to reveal the nature of the object, thereby raising the meaning of criticism. Judge and evaluate the humorous art of the story. Below is a guide to help you write good articles. “But it must be equal to you two” belongs to the group of satirical jokes. In the story, the subject of attack is the shameless practice of bribery, common among ancient social mandarins. The story introduces the character Ly Truong, famous for being a good judge. A brief introduction makes the reader and listener wait to see how well Chief Ly handles the case. To understand the mandarin's good handling of cases, the people's author placed the character in a specific situation: Ngo and Cao are two neighbors. They fought and eventually sued each other. However, contrary to the initial introduction, Truong Ly, like many other greedy officials, only worried about receiving bribes to fill his pockets, without caring about right or wrong. In particular, bribery is shown through Ly's blatant and brazen actions and language. When he saw Cai spreading his five fingers, secretly reminding him that he had bribed Mr. Ly with five dong, Mr. Ly also "spread his five fingers on his left hand over his right five fingers" and secretly told Cai: Ngo still has ten dong left. Not only that, he also bluntly told Cai: "I know you have to...but it has to be...equal to the two of you!". The phrase "must be equal to two" in itself is capable of causing laughter because there is only one right, not both can be right, and there is no such thing as one person "must be equal to two" of the other. When placing Truong Ly's words in the context of him receiving bribes from Ngo twice as much as Cai, the laughter not only stops at entertainment but also becomes a strong criticism of a personality: the habit of taking bribes. blatant, can bend the truth.
Truyện cười dân gian Việt Nam ra đời trong lòng hiện thực xã hội phong kiến Việt Nam, là sản phẩm trí tuệ dân gian nhằm chống lại giai cấp thống trị. Như một vũ khí sắc bén, tiếng cười dân gian đã vạch trần bản chất thối nát của bọn quan lại, những đàng “phụ mẫu chi dân”, như một phản ứng mạnh mẽ thể hiện tinh thần đấu tranh của những người bị áp bức. Một trong những bản chất thối nát đó, không thể không nói đến thói ăn hối lộ, được vạch trần một cách trực tiếp qua câu chuyện “Nhưng nó phải bằng hai mày”. Để hiểu được truyện trước hết ta phải xác định được đối tượng gây cười là ai, mâu thuẫn gây cười là gì, tình huống gây cười ở đây diễn ra như thế nào để bộc lộ bản chất đối tượng từ đó nêu lên ý nghĩa phê phán và đánh giá nghệ thuật gây cười của truyện. Dưới đây là bài viết hướng dẫn giúp các bạn có được bài viết hay. “Nhưng nó phải bằng hai mày” thuộc nhóm truyện cười trào phúng. Trong truyện, đối tượng bị đả kích là thói ăn hối lộ trơ tráo, phổ biến trong hàng ngũ quan lại xã hội xưa. Truyện đã giới thiệu về nhân vật Lý trưởng, nổi tiếng là người xử kiện giỏi. Cách giới thiệu ngắn gọn, tạo cho người đọc, người nghe sự chờ đợi xem Lý trưởng xử kiện giỏi như thế nào. Để hiểu cách xử kiện giỏi của quan, tác giả nhân dân đã đặt nhân vật vào một tình huống cụ thể: Ngô và Cáo là hai người hàng xóm. Họ đánh nhau và cuối cùng đem nhau ra kiện. Tuy nhiên, trái với lời giới thiệu ban đầu, Lý trưởng cũng giống như bao tên quan tham lam khác, chỉ lo nhận tiền đút lót để làm đầy cái túi của mình, mà không quan tâm đến đúng sai. Đặc biệt hành vi ăn hối lộ được thể hiện qua hành động và ngôn ngữ trắng trợn, trơ trẽn của tên Lý. Khi thấy Cải xoè năm ngón tay ngầm nhắc đã lót thầy Lý năm đồng, thầy Lý cũng “xoè năm ngón tay trái úp lên năm ngón tay mặt” ngầm bảo Cải: thằng Ngô còn lót tới mười đồng cơ. Không những thế, hắn còn thẳng thừng nói với Cải: “Tao biết mày phải…nhưng nó lại phải…bằng hai mày!”. Cụm từ “phải bằng hai” tự nó đã đủ khả năng gây cười vì lẽ phải chỉ có một, không thể cả hai đều phải, lại càng không có chuyện người này “phải bằng hai” người kia. Khi đặt câu nói của Lý trưởng trong hoàn cảnh hắn nhận hối lộ của Ngô gấp hai lần Cải, thì tiếng cười không chỉ dừng lại ở độ giải trí mà còn trở thành lời đả kích mạnh mẽ về một nhân cách: thói ăn hối lộ trắng trợn, có thể bẻ cong cả chân lí.
Vietnamese folk jokes were born within the reality of Vietnamese feudal society, and are products of folk wisdom aimed at opposing the ruling class. Like a sharp weapon, folk laughter has exposed the corrupt nature of the mandarins and the "parents of the people", as a strong reaction showing the fighting spirit of the oppressed. . One of those corrupt natures, not to mention the habit of bribery, is exposed directly through the story "But it has to be with both of you". To understand the story, we must first determine who the funny object is, what the funny conflict is, and how the funny situation takes place here to reveal the nature of the object, thereby raising the meaning of criticism. Judge and evaluate the humorous art of the story. Below is a guide to help you write good articles. “But it must be equal to you two” belongs to the group of satirical jokes. In the story, the subject of attack is the shameless practice of bribery, common among ancient social mandarins. The story introduces the character Ly Truong, famous for being a good judge. A brief introduction makes the reader and listener wait to see how well Chief Ly handles the case. To understand the mandarin's good handling of cases, the people's author placed the character in a specific situation: Ngo and Cao are two neighbors. They fought and eventually sued each other. However, contrary to the initial introduction, Truong Ly, like many other greedy officials, only worried about receiving bribes to fill his pockets, without caring about right or wrong. In particular, bribery is shown through Ly's blatant and brazen actions and language. When he saw Cai spreading his five fingers, secretly reminding him that he had bribed Mr. Ly with five dong, Mr. Ly also "spread his five fingers on his left hand over his right five fingers" and secretly told Cai: Ngo still has ten dong left. Not only that, he also bluntly told Cai: "I know you have to...but it has to be...equal to the two of you!". The phrase "must be equal to two" in itself is capable of causing laughter because there is only one right, not both can be right, and there is no such thing as one person "must be equal to two" of the other. When placing Truong Ly's words in the context of him receiving bribes from Ngo twice as much as Cai, the laughter not only stops at entertainment but also becomes a strong criticism of a personality: the habit of taking bribes. blatant, can bend the truth.
Con người chắc hẳn ai cũng có thời cắp sách tới trường. Đó là khoảng thời gian đẹp nhất, thời của tuổi mộng mơ, của những ý tưởng vụt đến rồi vụt đi, của cả sự ngỗ nghịch. Chính thầy cô là những người thay đổi cuộc đời chúng em, uốn nắn chúng em từng chút một trên con đường học vấn. Thầy cô luôn dõi theo chúng ta. Từ một con điểm tốt, một ý tưởng hay cho đến một sai phạm nhỏ, một lần không thuộc bài, thầy cô đều chú ý khen ngợi hoặc nhắc nhở. Thầy cô là những người thầm lặng đưa chúng em đến đỉnh cao của kiến thức, cho chúng em một tương lai tươi đẹp. Chủ đề “kể lại kỉ niệm sâu sắc về tình thầy trò theo ngôi kể thứ nhất” được nhắc đến rất nhiều trong chương trình ngữ văn của bậc trung học cơ sở. Khi làm bài văn này, cần kể lại một cách chân thực kỉ niệm với thầy cô, tình cảm là một phần không thể thiếu ở bài văn này. Hy vọng với bài văn mẫu dưới đây, các bạn sẽ hoàn thành bài tập thật tốtTôi đã đỗ vào trường Chuyên của tỉnh với số điểm Ngữ văn cao ngất ngưởng. Tất cả là nhờ có cô, người lái đò tận tụy của riêng tôi. Hồi đó đọc lướt qua bảng phân công đầu năm, tôi đã thấy tên cô ngay ở mục “giáo viên chủ nhiệm”. Cô tên là Trần Thị Ngọc Lam. Cái tên rất đẹp khiến nó cứ tự nhiên khắc sâu trong tâm trí tôi. Ngay buổi học đầu tiên, vì muốn tách mình với sự ồn ã của cả cả lớp, tôi chọn ngồi ở cái bàn góc trong cùng. Dường như nhận ra suy nghĩ đó của tôi, cô Lam liền đổi chỗ cho tôi lên ngồi bàn đầu, đối diện với bàn giáo viên. Cô làm vậy khiến tôi hơi khó chịu. Cô Lam là một giáo viên dạy giỏi và đã nhiều lần được nhận bằng khen của tỉnh, của thành phố. Thực ra thì tôi không ghét cô, nhưng tôi ghét cái môn Ngữ văn mà cô đang dạy. Đó là môn học đã mang lại cho tôi nhiều xui xẻo năm tôi học lớp 7. Từ lúc bắt đầu cầm bút viết văn, mọi bài tập làm văn của tôi đều được các cô giáo khen nức nở. Những bông hoa điểm 9, điểm 10 cứ thi nhau nở đỏ chói trên trang vở. Năm lớp 7, tôi chuyển sang trường mới để thuận tiện cho việc công tác của ba. Cô giáo dạy Ngữ văn rất nghiêm, cô không bao giờ cho ai điểm 9 cả. Bài tập làm văn đầu tiên, tôi lĩnh ngay con điểm 6 với lời phê: “Miêu tả rời rạc, câu chữ lủng củng. Bài viết thiếu cảm xúc”. Tôi thấy buồn vô cùng và từ đó bắt đầu sợ hãi những bài tập làm văn. Những giờ học văn trở thành nỗi ám ảnh mỗi ngày. Kì thi học sinh Giỏi cấp trường, tôi chỉ được giải Ba với lý do thật “khó chấp nhận”: “Bài văn nhiều lỗi chính tả”. Đến đây, từ nỗi sợ chuyển thành ghét. Và lên lớp 8, tôi bắt đầu phớt lờ môn Văn. Nhưng đến khi học cô Lam, mọi việc bắt đầu khác. Ngay từ tiết học Ngữ văn đầu tiên, cô đã đặc biệt quan tâm đến tôi. Cô giao nhiều bài tập cho tôi hơn mọi người, hay gọi tôi đứng dậy đọc bài hay trả lời câu hỏi. Lúc đầu, tôi làm bài cô giao với thái độ chống đối và luôn mang trong mình cái suy nghĩ “chắc cô ghét mình”. Nhưng dần dần khi quen tôi lại thấy thiếu bài của cô như thiếu một cái gì đó. Một hôm, cô gọi tôi lên và đưa cho tôi một quyển sách, nói: -Em hãy đọc quyển sách này và trau dồi kiến thức nhé. Cô nghĩ là em sẽ thích nó Tôi ngượng ngịu cầm lấy quyển sách còn thơm mùi giấy mới. Tối hôm đó, sau khi giải quyết xong đống bài tập, tôi mở quyển sách và bắt đầu đọc. Đã từ lâu rồi, lần đầu tiên tôi đọc một cuốn sách khiến mình say mê và thích thú đến như thế. Tình yêu với môn Văn dường như đã bắt đầu nảy nở lại trong tôi. Tôi học ngày càng chăm chỉ và được chọn vào đội tuyển của trường. Cô càng quan tâm đến tôi nhiều hơn. Và tôi thấy dễ chịu với sự quan tâm tận tình của cô. Tôi đoạt được giải Nhì cấp tỉnh môn Ngữ văn. Trong đám đông, tôi thấy cô đứng đó, mỉm cười và gật đầu nhẹ. Niềm vui sướng của tôi trào lên, những giọt nước mắt cứ tự nhiên lăn dài. Cuối năm học, tôi được danh hiệu học sinh Giỏi xuất sắc. Những ngày cuối cùng, cô Lam không có mặt để chia vui với tôi và cả lớp. Cho đến khi lớp trưởng đưa tôi cuốn sách “Đất rừng phương Nam” trong đó kẹp một tờ giấy “Cô biết em sẽ làm được. Đây là món quà nhỏ bé mà cô dành cho em. Hãy cố gắng học tập tốt hơn nữa nhé!”. Tôi lặng người khi nghe lời lớp trưởng nói cô bị u bướu ở thanh quản rất nặng và phải phẫu thuật. “Cô ơi, cô phải chờ con bé dại dột này báo đáp chứ…”. Ý nghĩ đó làm nước mắt tôi không ngừng rơi. Tôi biết cô đã chuyển trường. Nhưng mỗi khi về thăm trường cũ, thăm lại lớp học nhỏ khuất sau tán cây bàng um tùm, tôi nhớ lại hình bóng cô, cầm giáo án bước vào với một nụ cười hiền dịu, ấm áp như màu nắng mới. Phượng nở đỏ rực cả một góc sân trường, sắc đỏ rực rỡ làm nao lòng mỗi cô cậu học trò. Sắc đỏ rực rỡ làm đẹp đất trời mùa hạ, nhưng không, đó còn là sắc màu của sự chia li, của lời nói tạm biệt với cô thầy, với những kỉ niệm đã một năm gắn bó với tôi. Khi ấy, tôi có thời gian nhìn lại một chặng đường đã qua mà lại thêm bồi hồi, xúc động nhớ về kỉ niệm của tôi cũng như là cả lớp với cô giáo Vân. Ngày đầu tiên nhập học, ở một ngôi trường mới, bạn bè và thầy cô mới nên bạn nào cũng háo hức, mong chờ. Bước vào lớp lần đầu tiên, tôi hơi bất ngờ, lớp tôi có một số học sinh cá biệt từng có tiếng hay đánh nhau, ngang ngược, ăn chơi từ hồi cấp 2… Tôi cũng không hiểu tại sao nhưng trong lồng ngực tôi lại nén một tiếng thở dài vu vơ. Chẳng mấy chốc, cô Vân- giáo viên chủ nhiệm đồng thời cũng là cô giáo dạy Văn bước vào. Cả lớp đứng nghiêm trang và dành một tràng pháo tay để đón mừng cô. Cô bắt đầu tiết học với những bài ca dao trữ tình nhẹ nhàng và thấm thía. Bàn tay búp măng của cô viết những dòng chữ tròn trịa, thẳng tắp trên bảng hòa nhịp cũng những lời giảng văn ấm áp, ngọt ngào dễ đi vào lòng người. Thế nhưng ở dưới lớp, vẫn có tiếng nói chuyện xì xào, các bạn ngồi làm việc riêng, nghịch điện thoại trong giờ học… Đó là hai bạn học sinh có tiếng là khó dạy, Linh và Thùy. Dường như chính cô cũng cảm thấy không bằng lòng khi đang nhiệt tình, tận tâm giảng bài thì ở dưới lại có bạn không nghe, làm việc riêng, mất trật tự. Lần thứ nhất, lần thứ hai cô chỉ quay xuống nhìn. Vậy mà hai bạn kia còn không biết ý, vẫn tiếp tục những lời bàn tán. Bản thân là một giáo viên nghiêm khắc, có lẽ cô không chịu nổi sự vui chơi quá đáng này, cô đi xuống hỏi: – Hai em đang làm việc gì trong giờ của cô vậy? Im lặng một lúc, Thùy nói với một giọng tỉnh khô: – Em chơi và đánh son với Linh. – Tại sao trong giờ học, các em lại làm việc riêng. – Thích! Cả lớp sửng sốt, bất ngờ. Một học sinh đã không nghiêm túc trong giờ học giờ lại còn vô lễ với giáo viên. Cô không nói gì, lặng lẽ đi ra khỏi lớp. Những tiết học sau đó, các bạn vẫn như vậy, vẫn chứng nào tật đấy. Có lẽ sức chịu đựng của cô cũng có giới hạn. Một tiết học không thể bị làm gián đoạn chỉ bởi hai bạn học sinh như vậy. Tiết học hôm ấy, cô mời hai bạn học sinh ra ngoài lớp. Khôn cần suy nghĩ hay xin lỗi, hai bạn ra khỏi lớp với vẻ măth rất thản nhiên. Có lẽ sẽ có một vài người khó chịu với cách ứng xử này. Một buổi chiều nọ có thể vì xích mích nên Linh, Thùy và một nhóm nữ sịn khác đánh nhau ngay trong trường. Cuối cùng, Linh bị đánh chảy máu đầu. Cô Vân từ đâu chạy đến hoảng hốt hỏi: – Linh, Linh em có làm sao không? Linh đáp một cách thờ ơ và lãnh đạm: – Không cần cô quan tâm! Nhìn thấy trán Linh chảy máu, cô vội lấy băng cá nhân để cầm máu. Linh hấy văng tay cô, cô ngã xuống đất và hét lên: – Tôi không cần cô! Mặc những lời nói kia, cô băng lấy vết thương và ôm Linh vào lòng. Dường như tình yêu thương dành cho học trò đã phần nào làm thay đổi một con người, Linh dần mủi lòng với cô. Còn tôi, người chứng kiến sự việc thì không khỏi xúc động bởi một người giáo viên luôn dành tình thương cho học sinh cho dù đó là một học sinh không ngoan ngoãn. Mấy ngày sau cả lớp không thấy cô Vân đi dạy nên cũng thắc mắc. Trong một lần đi dạo trên sân trường tôi nghe được thầy cô nói là cô Vân phải đi phẫu thuật sỏi mật ở trên Hà Nội. Cái tin ấy như sét đánh, quá bất ngờ với tôi. Cả lớp biết đều nhốn nháo hết cả. Riêng Linh vẫn ngồi im một chỗ, dường như không quan tâm.
Con người chắc hẳn ai cũng có thời cắp sách tới trường. Đó là khoảng thời gian đẹp nhất, thời của tuổi mộng mơ, của những ý tưởng vụt đến rồi vụt đi, của cả sự ngỗ nghịch. Chính thầy cô là những người thay đổi cuộc đời chúng em, uốn nắn chúng em từng chút một trên con đường học vấn. Thầy cô luôn dõi theo chúng ta. Từ một con điểm tốt, một ý tưởng hay cho đến một sai phạm nhỏ, một lần không thuộc bài, thầy cô đều chú ý khen ngợi hoặc nhắc nhở. Thầy cô là những người thầm lặng đưa chúng em đến đỉnh cao của kiến thức, cho chúng em một tương lai tươi đẹp. Chủ đề “kể lại kỉ niệm sâu sắc về tình thầy trò theo ngôi kể thứ nhất” được nhắc đến rất nhiều trong chương trình ngữ văn của bậc trung học cơ sở. Khi làm bài văn này, cần kể lại một cách chân thực kỉ niệm với thầy cô, tình cảm là một phần không thể thiếu ở bài văn này. Hy vọng với bài văn mẫu dưới đây, các bạn sẽ hoàn thành bài tập thật tốtTôi đã đỗ vào trường Chuyên của tỉnh với số điểm Ngữ văn cao ngất ngưởng. Tất cả là nhờ có cô, người lái đò tận tụy của riêng tôi. Hồi đó đọc lướt qua bảng phân công đầu năm, tôi đã thấy tên cô ngay ở mục “giáo viên chủ nhiệm”. Cô tên là Trần Thị Ngọc Lam. Cái tên rất đẹp khiến nó cứ tự nhiên khắc sâu trong tâm trí tôi. Ngay buổi học đầu tiên, vì muốn tách mình với sự ồn ã của cả cả lớp, tôi chọn ngồi ở cái bàn góc trong cùng. Dường như nhận ra suy nghĩ đó của tôi, cô Lam liền đổi chỗ cho tôi lên ngồi bàn đầu, đối diện với bàn giáo viên. Cô làm vậy khiến tôi hơi khó chịu. Cô Lam là một giáo viên dạy giỏi và đã nhiều lần được nhận bằng khen của tỉnh, của thành phố. Thực ra thì tôi không ghét cô, nhưng tôi ghét cái môn Ngữ văn mà cô đang dạy. Đó là môn học đã mang lại cho tôi nhiều xui xẻo năm tôi học lớp 7. Từ lúc bắt đầu cầm bút viết văn, mọi bài tập làm văn của tôi đều được các cô giáo khen nức nở. Những bông hoa điểm 9, điểm 10 cứ thi nhau nở đỏ chói trên trang vở. Năm lớp 7, tôi chuyển sang trường mới để thuận tiện cho việc công tác của ba. Cô giáo dạy Ngữ văn rất nghiêm, cô không bao giờ cho ai điểm 9 cả. Bài tập làm văn đầu tiên, tôi lĩnh ngay con điểm 6 với lời phê: “Miêu tả rời rạc, câu chữ lủng củng. Bài viết thiếu cảm xúc”. Tôi thấy buồn vô cùng và từ đó bắt đầu sợ hãi những bài tập làm văn. Những giờ học văn trở thành nỗi ám ảnh mỗi ngày. Kì thi học sinh Giỏi cấp trường, tôi chỉ được giải Ba với lý do thật “khó chấp nhận”: “Bài văn nhiều lỗi chính tả”. Đến đây, từ nỗi sợ chuyển thành ghét. Và lên lớp 8, tôi bắt đầu phớt lờ môn Văn. Nhưng đến khi học cô Lam, mọi việc bắt đầu khác. Ngay từ tiết học Ngữ văn đầu tiên, cô đã đặc biệt quan tâm đến tôi. Cô giao nhiều bài tập cho tôi hơn mọi người, hay gọi tôi đứng dậy đọc bài hay trả lời câu hỏi. Lúc đầu, tôi làm bài cô giao với thái độ chống đối và luôn mang trong mình cái suy nghĩ “chắc cô ghét mình”. Nhưng dần dần khi quen tôi lại thấy thiếu bài của cô như thiếu một cái gì đó. Một hôm, cô gọi tôi lên và đưa cho tôi một quyển sách, nói: -Em hãy đọc quyển sách này và trau dồi kiến thức nhé. Cô nghĩ là em sẽ thích nó Tôi ngượng ngịu cầm lấy quyển sách còn thơm mùi giấy mới. Tối hôm đó, sau khi giải quyết xong đống bài tập, tôi mở quyển sách và bắt đầu đọc. Đã từ lâu rồi, lần đầu tiên tôi đọc một cuốn sách khiến mình say mê và thích thú đến như thế. Tình yêu với môn Văn dường như đã bắt đầu nảy nở lại trong tôi. Tôi học ngày càng chăm chỉ và được chọn vào đội tuyển của trường. Cô càng quan tâm đến tôi nhiều hơn. Và tôi thấy dễ chịu với sự quan tâm tận tình của cô. Tôi đoạt được giải Nhì cấp tỉnh môn Ngữ văn. Trong đám đông, tôi thấy cô đứng đó, mỉm cười và gật đầu nhẹ. Niềm vui sướng của tôi trào lên, những giọt nước mắt cứ tự nhiên lăn dài. Cuối năm học, tôi được danh hiệu học sinh Giỏi xuất sắc. Những ngày cuối cùng, cô Lam không có mặt để chia vui với tôi và cả lớp. Cho đến khi lớp trưởng đưa tôi cuốn sách “Đất rừng phương Nam” trong đó kẹp một tờ giấy “Cô biết em sẽ làm được. Đây là món quà nhỏ bé mà cô dành cho em. Hãy cố gắng học tập tốt hơn nữa nhé!”. Tôi lặng người khi nghe lời lớp trưởng nói cô bị u bướu ở thanh quản rất nặng và phải phẫu thuật. “Cô ơi, cô phải chờ con bé dại dột này báo đáp chứ…”. Ý nghĩ đó làm nước mắt tôi không ngừng rơi. Tôi biết cô đã chuyển trường. Nhưng mỗi khi về thăm trường cũ, thăm lại lớp học nhỏ khuất sau tán cây bàng um tùm, tôi nhớ lại hình bóng cô, cầm giáo án bước vào với một nụ cười hiền dịu, ấm áp như màu nắng mới. Phượng nở đỏ rực cả một góc sân trường, sắc đỏ rực rỡ làm nao lòng mỗi cô cậu học trò. Sắc đỏ rực rỡ làm đẹp đất trời mùa hạ, nhưng không, đó còn là sắc màu của sự chia li, của lời nói tạm biệt với cô thầy, với những kỉ niệm đã một năm gắn bó với tôi. Khi ấy, tôi có thời gian nhìn lại một chặng đường đã qua mà lại thêm bồi hồi, xúc động nhớ về kỉ niệm của tôi cũng như là cả lớp với cô giáo Vân. Ngày đầu tiên nhập học, ở một ngôi trường mới, bạn bè và thầy cô mới nên bạn nào cũng háo hức, mong chờ. Bước vào lớp lần đầu tiên, tôi hơi bất ngờ, lớp tôi có một số học sinh cá biệt từng có tiếng hay đánh nhau, ngang ngược, ăn chơi từ hồi cấp 2… Tôi cũng không hiểu tại sao nhưng trong lồng ngực tôi lại nén một tiếng thở dài vu vơ. Chẳng mấy chốc, cô Vân- giáo viên chủ nhiệm đồng thời cũng là cô giáo dạy Văn bước vào. Cả lớp đứng nghiêm trang và dành một tràng pháo tay để đón mừng cô. Cô bắt đầu tiết học với những bài ca dao trữ tình nhẹ nhàng và thấm thía. Bàn tay búp măng của cô viết những dòng chữ tròn trịa, thẳng tắp trên bảng hòa nhịp cũng những lời giảng văn ấm áp, ngọt ngào dễ đi vào lòng người. Thế nhưng ở dưới lớp, vẫn có tiếng nói chuyện xì xào, các bạn ngồi làm việc riêng, nghịch điện thoại trong giờ học… Đó là hai bạn học sinh có tiếng là khó dạy, Linh và Thùy. Dường như chính cô cũng cảm thấy không bằng lòng khi đang nhiệt tình, tận tâm giảng bài thì ở dưới lại có bạn không nghe, làm việc riêng, mất trật tự. Lần thứ nhất, lần thứ hai cô chỉ quay xuống nhìn. Vậy mà hai bạn kia còn không biết ý, vẫn tiếp tục những lời bàn tán. Bản thân là một giáo viên nghiêm khắc, có lẽ cô không chịu nổi sự vui chơi quá đáng này, cô đi xuống hỏi: – Hai em đang làm việc gì trong giờ của cô vậy? Im lặng một lúc, Thùy nói với một giọng tỉnh khô: – Em chơi và đánh son với Linh. – Tại sao trong giờ học, các em lại làm việc riêng. – Thích! Cả lớp sửng sốt, bất ngờ. Một học sinh đã không nghiêm túc trong giờ học giờ lại còn vô lễ với giáo viên. Cô không nói gì, lặng lẽ đi ra khỏi lớp. Những tiết học sau đó, các bạn vẫn như vậy, vẫn chứng nào tật đấy. Có lẽ sức chịu đựng của cô cũng có giới hạn. Một tiết học không thể bị làm gián đoạn chỉ bởi hai bạn học sinh như vậy. Tiết học hôm ấy, cô mời hai bạn học sinh ra ngoài lớp. Khôn cần suy nghĩ hay xin lỗi, hai bạn ra khỏi lớp với vẻ măth rất thản nhiên. Có lẽ sẽ có một vài người khó chịu với cách ứng xử này. Một buổi chiều nọ có thể vì xích mích nên Linh, Thùy và một nhóm nữ sịn khác đánh nhau ngay trong trường. Cuối cùng, Linh bị đánh chảy máu đầu. Cô Vân từ đâu chạy đến hoảng hốt hỏi: – Linh, Linh em có làm sao không? Linh đáp một cách thờ ơ và lãnh đạm: – Không cần cô quan tâm! Nhìn thấy trán Linh chảy máu, cô vội lấy băng cá nhân để cầm máu. Linh hấy văng tay cô, cô ngã xuống đất và hét lên: – Tôi không cần cô! Mặc những lời nói kia, cô băng lấy vết thương và ôm Linh vào lòng. Dường như tình yêu thương dành cho học trò đã phần nào làm thay đổi một con người, Linh dần mủi lòng với cô. Còn tôi, người chứng kiến sự việc thì không khỏi xúc động bởi một người giáo viên luôn dành tình thương cho học sinh cho dù đó là một học sinh không ngoan ngoãn. Mấy ngày sau cả lớp không thấy cô Vân đi dạy nên cũng thắc mắc. Trong một lần đi dạo trên sân trường tôi nghe được thầy cô nói là cô Vân phải đi phẫu thuật sỏi mật ở trên Hà Nội. Cái tin ấy như sét đánh, quá bất ngờ với tôi. Cả lớp biết đều nhốn nháo hết cả. Riêng Linh vẫn ngồi im một chỗ, dường như không quan tâm.
Tình yêu là thứ tình cảm đáng trân quý nhất trên cuộc đời này, nó giúp ta đẩy lùi những gian truân thử thách, những vất vả cực nhọc để cuộc sống này trở nên có ý nghĩa. Những người xung quanh chúng ta đem lại cho ta điều ấy, là thứ tình cảm chân thành mà bất cứ ai cũng mong có được. Những người trong gia đình thì lại càng mang nặng chân tình hơn, bởi họ gắn bó với ta từ khi sinh ra, đã mang bao tình thương mến dồn đắp cho nhau. Vì thế, tình cảm với những người trong gia đình vẫn luôn là thứ tình cảm thiêng liêng nhất. Bài viết dưới đây là bài văn nêu cảm nghĩ của bản thân về người ông – người mà người viết kính trọng nhất. Để làm được dạng bài này, các bạn chú ý đến việc nêu cảm xúc và suy nghĩ của bản thân đến đối tượng được nói đến, đan xen vào đó những tình cảm chân thật và những kỉ niệm giữa hai người để bài viết được chân thật và giàu xúc cảm hơn. Chúc các bạn làm một bài văn tri ân đến người mà bạn yêu quý thành công! “Đời mình là một khúc quân hành…Đời mình là bài ca chiến sĩ…” – Đài phát thanh của thôn đang vang lên khúc ca của người lính năm xưa. Tôi nằm trên giường mà bỗng nhiên cảm thấy lòng bâng khuâng đến lạ. Có lẽ bài hát hào hùng kia đã làm tôi nhớ đến ông nội – người mà tôi yêu quý nhất, bởi lẽ ông rất thích ca khúc này và vẫn thường bật đài lên cho tôi nghe. Có những người miêu tả ông giống như ông Bụt, có người lại nói ông giống một ông Tiên. Những tôi chẳng thấy thế, vì ông nội của tôi rất đỗi giản dị mà thân thương trong kí ức tôi. Ông không có bộ râu dài như ông Bụt, cũng chẳng có một bộ tóc trắng xóa như ông Tiên trong truyện cổ tích. Ông đặc biệt vì ông là ông nội của tôi thế thôi. Kí ức non nớt của tôi vẫn còn lưu giữ hình ảnh của ông khi ấy, một ông cụ đã già nhưng đẹp lão, mái tóc đã bạc nhiều nhưng vẫn còn sót lại vài sợi tóc đen. Mẹ tôi nói tóc ông lấm tấm hoa râm. Cho đến bây giờ, hình ảnh ông trong tôi đã nhạt phai ít nhiều, nhưng ánh mắt ông thì không đời nào tôi quên được. Đôi mắt ấy chẳng còn tinh anh như thời ông còn trẻ, mà đã thoáng có chút mờ đi vì tuổi đã xế chiều. Thế mà đôi mắt ấy lại luôn trao cho tôi ánh nhìn thật ấm áp. Đôi bàn tay ông, đôi bàn tay đã bế bồng tôi suốt những năm tháng còn thơ bé, đã nổi lên những đường gân xanh bóng, ngoằn ngoèo. Lưng ông đã còng xuống. Da ông đã nhăn nheo đi cả rồi. Ông thường chống cây gậy do đích thân tôi chọn mà đi thăm hỏi hết họ hàng làng xóm. Đến bây giờ, tôi vẫn tưởng nhưng có bóng hình ông đang chầm chậm chống từng bước gậy đi trên con đường làng quê tôi thuở nào. Mọi người nói tôi được ông chiều nhất nhà. Mà đúng thế thật, khi tôi lớn, đã biết hiểu chuyện tôi mới hiểu ông thương tôi nhiều đến như thế. Ngày bé, ông chính là người thay bố mẹ chăm sóc cho tôi khi mẹ đi làm. Ngày nào tôi cũng quấn quýt bên ông. Ông sẵn sàng đứng ra bảo vệ tôi khỏi bất cứ ai, lúc nào ông cũng sợ tôi bị đau, bị đói, bị mệt. Thế mà hồi bé tôi đã từng cho rằng những quan tâm hỏi han ấy của ông là phiền phức. Con bé tôi ngày ấy đã giận ông thật nhiều, đã cứng đầu rất nhiều khiến ông phải buồn. Ngày bé lúc nào tôi cũng được chăm sóc và trông nom bởi ông tôi. Nhưng tôi chẳng bao giờ nghĩ đến một điều, là sẽ đến lúc ông phải rời xa tôi mãi mãi… Ông bị tai biến nằm liệt một chỗ. Ông không thể nói cũng chẳng thể cử động được người. Tôi khóc, nhưng cũng chẳng biết làm gì hơn. Ông ở nhà bác tôi chữa bệnh, còn tôi, một cô nhóc, lại trở về với công việc hằng ngày. Mỗi lần lên thăm ông, ông khều khều tay tôi như muốn nắm lấy. Lúc nào tôi lên ông cũng khóc. Tôi thương ông lắm, tôi rất nhớ ông và tôi biết ông cũng muốn nhanh chóng khỏi bệnh để còn về quê chơi với tôi nữa. Nhưng mấy năm sau, ông mất… Tôi đã khóc rất nhiều. Ông mất khi mà tôi chưa hề đền đáp công ơn cho ông một lần. Ông mất khi mà tôi mới chỉ là một cô học sinh lớp 5. Ông mất khi tôi mới bắt đầu lớn, khi mới biết hiểu những gì ông đã hi sinh cho tôi. Người ông đáng kính của tôi đã rời xa tôi thật rồi. Ông bỏ lại tôi, bỏ lại những gì ông đã cho tôi, ông bỏ tôi để đến một vùng đất xa, rất xa nào đó mà tôi không thể biết. Ông ra đi rồi, con biết phải làm sao? 6 năm đã qua đi. Giờ đây tôi đã trở thành một cô học sinh của trường cấp 3, đã trở thành một người thiếu nữ. Nỗi đau mất ông dần dần đã dịu đi trong lòng tôi. Và tôi nhớ ông thật nhiều, nhớ tất cả những cử chỉ, hành động, nhớ cả những việc ông đã làm cho tôi. Tôi nhớ ông da diết, ông ơi, nếu ông còn sống, nhất định con sẽ ngoan ngoãn hơn với ông, nhất định con sẽ nghe lời ông và không cau có như ngày xưa nữa. Nhưng ông đã đi xa rồi, và tất cả những gì mà đến nay tôi đã hiểu, cũng chỉ để dành cho một mình tôi mà thôi. Tiếng đài vừa dứt. Bài hát ca lên khúc ca ngày xưa của ông khiến lòng tôi chợt bật lên tiếng nức nở. Ông là người bạn tuổi thơ của tôi, cũng là người đã nâng đỡ tâm hồn tôi trong suốt những năm tháng ấu thơ. Ông ơi, ông hãy yên nghỉ, con hứa sẽ cố gắng hết sức để có một tương lai rộng mở, không phụ công mong mỏi của ông ngày nào. Mẹ kính yêu “Con sẽ không đợi một ngày kia. Khi mẹ mất đi mới giật mình khóc lóc. Những dòng sông trôi đi có trở lại bao giờ?”. Vô tình đọc được những câu thơ của nhà thơ Đỗ Trung Quân, bỗng giật mình vì chưa bao giờ trong cuộc đời con nghĩ sẽ có một ngày mẹ phải ra đi, con phải xa mẹ. Dù con có lớn, có trưởng thành thế nào nhưng suốt cuộc đời này con vẫn cần có mẹ. Mẹ yêu, trong cuộc sống này, con đã không ít lần bắt gặp những câu nói “Anh yêu em”, “Mình yêu cậu”, “Vợ yêu chồng” nhưng có vẻ thật khó cho bản thân để đứng trước mặt mẹ và nói câu “Con yêu mẹ”. Mẹ là người vẫn hằng ngày tận tình chăm sóc cho con từ bữa ăn đến giấc ngủ, mẹ là người mỗi sáng thức dậy thật sớm để nấu cho con bữa sáng ngon lành, nhưng mẹ ơi, con chưa một lần ngồi với mẹ lâu để nói chuyện. Đi học từ sáng, đến tối lại tất bật làm bài, con chỉ gặp mẹ trong bữa cơm trưa và tối ngắn ngủi. Con đâu có biết ngày ngày mẹ vẫn dọn sách bàn học cho con, nấu cơm cho con vì mẹ nghĩ con gái mẹ đi học cả ngày mệt rồi, trong khi ở lớp, lúc cô giáo giảng bài con vẫn mải nói chuyện với cô bạn cùng bàn, hay mải mê với cuốn truyện tranh nhưng những thú vui tầm phào khác. Giờ bỗng nhận ra, con thấy thật có lỗi với mẹ biết bao. Kí ức về những ngày bé tẻo bé teo con không còn giữ được gì, nhưng mỗi khi thấy mẹ chăm bẵm cho em, con lại tưởng tượng ra những ngày bé tẹo ấy, con đã từng khóc nức nở trên đôi vai mẹ, mẹ đã ôm con vào lòng, dỗ dành con nín. Con vẫn nhớ tuổi thơ con là sáng sáng mỗi khi đến trường, con ngồi ngay ngắn trước gương để mẹ chải đầu tết róc. Mẹ nói mẹ thấy con gái mẹ để tóc dài, buộc tóc đuôi gà nhong nhỏng cao, mặc áo trắng đồng phục với váy là xinh đẹp nhất. Mẹ thì lúc nào cũng thế, không đẹp không sang nhưng tồn tại trong tim là tình yêu thương con da diết. Và con biết điều đó… Bao giọt mồ hôi mẹ đã đổ xuống mảnh ruộng bạc màu để biến thành nhựa sống cho lúa trổ bông, cho rau xanh lá, cho hoa thơm nở, cho trái lành kết thành ngon ngọt nuôi con lớn lên. Bởi thế mà đôi bàn tay mẹ sần sùi, chai sạm, rám nắng. Nhưng mẹ ơi, con biết đôi bàn tay mẹ chai sạm, rám nắng ấy đã từng ngày nuôi con khôn lớn, trưởng thành. Bàn tay ấy chăm lo việc đồng áng, lo việc gia đình. Bàn tay ấy giặt giũ, nấu cơm, vuốt tóc con mỗi khi con có chuyện không vui, ôm con vào lòng trước mỗi thử thách cuộc đời. Và cả đôi vai của mẹ nữa. Đôi vai gầy guộc đã gánh cả cuộc sống gia đình, cả cuộc đời của đứa con gái bé bỏng. Đôi vai ấy sẽ trở thành điểm tựa vững chắc mỗi khi con vấp ngã hay gặp khó khăn trong cuộc sống. Chính đôi bàn tay và đôi vai ấy đã làm cho con là con của ngày hôm nay – một cô bé khoẻ mạnh, tóc dài, má phính và là học sinh trường chuyên của tỉnh.
Tình yêu là thứ tình cảm đáng trân quý nhất trên cuộc đời này, nó giúp ta đẩy lùi những gian truân thử thách, những vất vả cực nhọc để cuộc sống này trở nên có ý nghĩa. Những người xung quanh chúng ta đem lại cho ta điều ấy, là thứ tình cảm chân thành mà bất cứ ai cũng mong có được. Những người trong gia đình thì lại càng mang nặng chân tình hơn, bởi họ gắn bó với ta từ khi sinh ra, đã mang bao tình thương mến dồn đắp cho nhau. Vì thế, tình cảm với những người trong gia đình vẫn luôn là thứ tình cảm thiêng liêng nhất. Bài viết dưới đây là bài văn nêu cảm nghĩ của bản thân về người ông – người mà người viết kính trọng nhất. Để làm được dạng bài này, các bạn chú ý đến việc nêu cảm xúc và suy nghĩ của bản thân đến đối tượng được nói đến, đan xen vào đó những tình cảm chân thật và những kỉ niệm giữa hai người để bài viết được chân thật và giàu xúc cảm hơn. Chúc các bạn làm một bài văn tri ân đến người mà bạn yêu quý thành công! “Đời mình là một khúc quân hành…Đời mình là bài ca chiến sĩ…” – Đài phát thanh của thôn đang vang lên khúc ca của người lính năm xưa. Tôi nằm trên giường mà bỗng nhiên cảm thấy lòng bâng khuâng đến lạ. Có lẽ bài hát hào hùng kia đã làm tôi nhớ đến ông nội – người mà tôi yêu quý nhất, bởi lẽ ông rất thích ca khúc này và vẫn thường bật đài lên cho tôi nghe. Có những người miêu tả ông giống như ông Bụt, có người lại nói ông giống một ông Tiên. Những tôi chẳng thấy thế, vì ông nội của tôi rất đỗi giản dị mà thân thương trong kí ức tôi. Ông không có bộ râu dài như ông Bụt, cũng chẳng có một bộ tóc trắng xóa như ông Tiên trong truyện cổ tích. Ông đặc biệt vì ông là ông nội của tôi thế thôi. Kí ức non nớt của tôi vẫn còn lưu giữ hình ảnh của ông khi ấy, một ông cụ đã già nhưng đẹp lão, mái tóc đã bạc nhiều nhưng vẫn còn sót lại vài sợi tóc đen. Mẹ tôi nói tóc ông lấm tấm hoa râm. Cho đến bây giờ, hình ảnh ông trong tôi đã nhạt phai ít nhiều, nhưng ánh mắt ông thì không đời nào tôi quên được. Đôi mắt ấy chẳng còn tinh anh như thời ông còn trẻ, mà đã thoáng có chút mờ đi vì tuổi đã xế chiều. Thế mà đôi mắt ấy lại luôn trao cho tôi ánh nhìn thật ấm áp. Đôi bàn tay ông, đôi bàn tay đã bế bồng tôi suốt những năm tháng còn thơ bé, đã nổi lên những đường gân xanh bóng, ngoằn ngoèo. Lưng ông đã còng xuống. Da ông đã nhăn nheo đi cả rồi. Ông thường chống cây gậy do đích thân tôi chọn mà đi thăm hỏi hết họ hàng làng xóm. Đến bây giờ, tôi vẫn tưởng nhưng có bóng hình ông đang chầm chậm chống từng bước gậy đi trên con đường làng quê tôi thuở nào. Mọi người nói tôi được ông chiều nhất nhà. Mà đúng thế thật, khi tôi lớn, đã biết hiểu chuyện tôi mới hiểu ông thương tôi nhiều đến như thế. Ngày bé, ông chính là người thay bố mẹ chăm sóc cho tôi khi mẹ đi làm. Ngày nào tôi cũng quấn quýt bên ông. Ông sẵn sàng đứng ra bảo vệ tôi khỏi bất cứ ai, lúc nào ông cũng sợ tôi bị đau, bị đói, bị mệt. Thế mà hồi bé tôi đã từng cho rằng những quan tâm hỏi han ấy của ông là phiền phức. Con bé tôi ngày ấy đã giận ông thật nhiều, đã cứng đầu rất nhiều khiến ông phải buồn. Ngày bé lúc nào tôi cũng được chăm sóc và trông nom bởi ông tôi. Nhưng tôi chẳng bao giờ nghĩ đến một điều, là sẽ đến lúc ông phải rời xa tôi mãi mãi… Ông bị tai biến nằm liệt một chỗ. Ông không thể nói cũng chẳng thể cử động được người. Tôi khóc, nhưng cũng chẳng biết làm gì hơn. Ông ở nhà bác tôi chữa bệnh, còn tôi, một cô nhóc, lại trở về với công việc hằng ngày. Mỗi lần lên thăm ông, ông khều khều tay tôi như muốn nắm lấy. Lúc nào tôi lên ông cũng khóc. Tôi thương ông lắm, tôi rất nhớ ông và tôi biết ông cũng muốn nhanh chóng khỏi bệnh để còn về quê chơi với tôi nữa. Nhưng mấy năm sau, ông mất… Tôi đã khóc rất nhiều. Ông mất khi mà tôi chưa hề đền đáp công ơn cho ông một lần. Ông mất khi mà tôi mới chỉ là một cô học sinh lớp 5. Ông mất khi tôi mới bắt đầu lớn, khi mới biết hiểu những gì ông đã hi sinh cho tôi. Người ông đáng kính của tôi đã rời xa tôi thật rồi. Ông bỏ lại tôi, bỏ lại những gì ông đã cho tôi, ông bỏ tôi để đến một vùng đất xa, rất xa nào đó mà tôi không thể biết. Ông ra đi rồi, con biết phải làm sao? 6 năm đã qua đi. Giờ đây tôi đã trở thành một cô học sinh của trường cấp 3, đã trở thành một người thiếu nữ. Nỗi đau mất ông dần dần đã dịu đi trong lòng tôi. Và tôi nhớ ông thật nhiều, nhớ tất cả những cử chỉ, hành động, nhớ cả những việc ông đã làm cho tôi. Tôi nhớ ông da diết, ông ơi, nếu ông còn sống, nhất định con sẽ ngoan ngoãn hơn với ông, nhất định con sẽ nghe lời ông và không cau có như ngày xưa nữa. Nhưng ông đã đi xa rồi, và tất cả những gì mà đến nay tôi đã hiểu, cũng chỉ để dành cho một mình tôi mà thôi. Tiếng đài vừa dứt. Bài hát ca lên khúc ca ngày xưa của ông khiến lòng tôi chợt bật lên tiếng nức nở. Ông là người bạn tuổi thơ của tôi, cũng là người đã nâng đỡ tâm hồn tôi trong suốt những năm tháng ấu thơ. Ông ơi, ông hãy yên nghỉ, con hứa sẽ cố gắng hết sức để có một tương lai rộng mở, không phụ công mong mỏi của ông ngày nào. Mẹ kính yêu “Con sẽ không đợi một ngày kia. Khi mẹ mất đi mới giật mình khóc lóc. Những dòng sông trôi đi có trở lại bao giờ?”. Vô tình đọc được những câu thơ của nhà thơ Đỗ Trung Quân, bỗng giật mình vì chưa bao giờ trong cuộc đời con nghĩ sẽ có một ngày mẹ phải ra đi, con phải xa mẹ. Dù con có lớn, có trưởng thành thế nào nhưng suốt cuộc đời này con vẫn cần có mẹ. Mẹ yêu, trong cuộc sống này, con đã không ít lần bắt gặp những câu nói “Anh yêu em”, “Mình yêu cậu”, “Vợ yêu chồng” nhưng có vẻ thật khó cho bản thân để đứng trước mặt mẹ và nói câu “Con yêu mẹ”. Mẹ là người vẫn hằng ngày tận tình chăm sóc cho con từ bữa ăn đến giấc ngủ, mẹ là người mỗi sáng thức dậy thật sớm để nấu cho con bữa sáng ngon lành, nhưng mẹ ơi, con chưa một lần ngồi với mẹ lâu để nói chuyện. Đi học từ sáng, đến tối lại tất bật làm bài, con chỉ gặp mẹ trong bữa cơm trưa và tối ngắn ngủi. Con đâu có biết ngày ngày mẹ vẫn dọn sách bàn học cho con, nấu cơm cho con vì mẹ nghĩ con gái mẹ đi học cả ngày mệt rồi, trong khi ở lớp, lúc cô giáo giảng bài con vẫn mải nói chuyện với cô bạn cùng bàn, hay mải mê với cuốn truyện tranh nhưng những thú vui tầm phào khác. Giờ bỗng nhận ra, con thấy thật có lỗi với mẹ biết bao. Kí ức về những ngày bé tẻo bé teo con không còn giữ được gì, nhưng mỗi khi thấy mẹ chăm bẵm cho em, con lại tưởng tượng ra những ngày bé tẹo ấy, con đã từng khóc nức nở trên đôi vai mẹ, mẹ đã ôm con vào lòng, dỗ dành con nín. Con vẫn nhớ tuổi thơ con là sáng sáng mỗi khi đến trường, con ngồi ngay ngắn trước gương để mẹ chải đầu tết róc. Mẹ nói mẹ thấy con gái mẹ để tóc dài, buộc tóc đuôi gà nhong nhỏng cao, mặc áo trắng đồng phục với váy là xinh đẹp nhất. Mẹ thì lúc nào cũng thế, không đẹp không sang nhưng tồn tại trong tim là tình yêu thương con da diết. Và con biết điều đó… Bao giọt mồ hôi mẹ đã đổ xuống mảnh ruộng bạc màu để biến thành nhựa sống cho lúa trổ bông, cho rau xanh lá, cho hoa thơm nở, cho trái lành kết thành ngon ngọt nuôi con lớn lên. Bởi thế mà đôi bàn tay mẹ sần sùi, chai sạm, rám nắng. Nhưng mẹ ơi, con biết đôi bàn tay mẹ chai sạm, rám nắng ấy đã từng ngày nuôi con khôn lớn, trưởng thành. Bàn tay ấy chăm lo việc đồng áng, lo việc gia đình. Bàn tay ấy giặt giũ, nấu cơm, vuốt tóc con mỗi khi con có chuyện không vui, ôm con vào lòng trước mỗi thử thách cuộc đời. Và cả đôi vai của mẹ nữa. Đôi vai gầy guộc đã gánh cả cuộc sống gia đình, cả cuộc đời của đứa con gái bé bỏng. Đôi vai ấy sẽ trở thành điểm tựa vững chắc mỗi khi con vấp ngã hay gặp khó khăn trong cuộc sống. Chính đôi bàn tay và đôi vai ấy đã làm cho con là con của ngày hôm nay – một cô bé khoẻ mạnh, tóc dài, má phính và là học sinh trường chuyên của tỉnh.
Tình yêu là thứ tình cảm đáng trân quý nhất trên cuộc đời này, nó giúp ta đẩy lùi những gian truân thử thách, những vất vả cực nhọc để cuộc sống này trở nên có ý nghĩa. Những người xung quanh chúng ta đem lại cho ta điều ấy, là thứ tình cảm chân thành mà bất cứ ai cũng mong có được. Những người trong gia đình thì lại càng mang nặng chân tình hơn, bởi họ gắn bó với ta từ khi sinh ra, đã mang bao tình thương mến dồn đắp cho nhau. Vì thế, tình cảm với những người trong gia đình vẫn luôn là thứ tình cảm thiêng liêng nhất. Bài viết dưới đây là bài văn nêu cảm nghĩ của bản thân về người ông – người mà người viết kính trọng nhất. Để làm được dạng bài này, các bạn chú ý đến việc nêu cảm xúc và suy nghĩ của bản thân đến đối tượng được nói đến, đan xen vào đó những tình cảm chân thật và những kỉ niệm giữa hai người để bài viết được chân thật và giàu xúc cảm hơn. Chúc các bạn làm một bài văn tri ân đến người mà bạn yêu quý thành công! “Đời mình là một khúc quân hành…Đời mình là bài ca chiến sĩ…” – Đài phát thanh của thôn đang vang lên khúc ca của người lính năm xưa. Tôi nằm trên giường mà bỗng nhiên cảm thấy lòng bâng khuâng đến lạ. Có lẽ bài hát hào hùng kia đã làm tôi nhớ đến ông nội – người mà tôi yêu quý nhất, bởi lẽ ông rất thích ca khúc này và vẫn thường bật đài lên cho tôi nghe. Có những người miêu tả ông giống như ông Bụt, có người lại nói ông giống một ông Tiên. Những tôi chẳng thấy thế, vì ông nội của tôi rất đỗi giản dị mà thân thương trong kí ức tôi. Ông không có bộ râu dài như ông Bụt, cũng chẳng có một bộ tóc trắng xóa như ông Tiên trong truyện cổ tích. Ông đặc biệt vì ông là ông nội của tôi thế thôi. Kí ức non nớt của tôi vẫn còn lưu giữ hình ảnh của ông khi ấy, một ông cụ đã già nhưng đẹp lão, mái tóc đã bạc nhiều nhưng vẫn còn sót lại vài sợi tóc đen. Mẹ tôi nói tóc ông lấm tấm hoa râm. Cho đến bây giờ, hình ảnh ông trong tôi đã nhạt phai ít nhiều, nhưng ánh mắt ông thì không đời nào tôi quên được. Đôi mắt ấy chẳng còn tinh anh như thời ông còn trẻ, mà đã thoáng có chút mờ đi vì tuổi đã xế chiều. Thế mà đôi mắt ấy lại luôn trao cho tôi ánh nhìn thật ấm áp. Đôi bàn tay ông, đôi bàn tay đã bế bồng tôi suốt những năm tháng còn thơ bé, đã nổi lên những đường gân xanh bóng, ngoằn ngoèo. Lưng ông đã còng xuống. Da ông đã nhăn nheo đi cả rồi. Ông thường chống cây gậy do đích thân tôi chọn mà đi thăm hỏi hết họ hàng làng xóm. Đến bây giờ, tôi vẫn tưởng nhưng có bóng hình ông đang chầm chậm chống từng bước gậy đi trên con đường làng quê tôi thuở nào. Mọi người nói tôi được ông chiều nhất nhà. Mà đúng thế thật, khi tôi lớn, đã biết hiểu chuyện tôi mới hiểu ông thương tôi nhiều đến như thế. Ngày bé, ông chính là người thay bố mẹ chăm sóc cho tôi khi mẹ đi làm. Ngày nào tôi cũng quấn quýt bên ông. Ông sẵn sàng đứng ra bảo vệ tôi khỏi bất cứ ai, lúc nào ông cũng sợ tôi bị đau, bị đói, bị mệt. Thế mà hồi bé tôi đã từng cho rằng những quan tâm hỏi han ấy của ông là phiền phức. Con bé tôi ngày ấy đã giận ông thật nhiều, đã cứng đầu rất nhiều khiến ông phải buồn. Ngày bé lúc nào tôi cũng được chăm sóc và trông nom bởi ông tôi. Nhưng tôi chẳng bao giờ nghĩ đến một điều, là sẽ đến lúc ông phải rời xa tôi mãi mãi… Ông bị tai biến nằm liệt một chỗ. Ông không thể nói cũng chẳng thể cử động được người. Tôi khóc, nhưng cũng chẳng biết làm gì hơn. Ông ở nhà bác tôi chữa bệnh, còn tôi, một cô nhóc, lại trở về với công việc hằng ngày. Mỗi lần lên thăm ông, ông khều khều tay tôi như muốn nắm lấy. Lúc nào tôi lên ông cũng khóc. Tôi thương ông lắm, tôi rất nhớ ông và tôi biết ông cũng muốn nhanh chóng khỏi bệnh để còn về quê chơi với tôi nữa. Nhưng mấy năm sau, ông mất… Tôi đã khóc rất nhiều. Ông mất khi mà tôi chưa hề đền đáp công ơn cho ông một lần. Ông mất khi mà tôi mới chỉ là một cô học sinh lớp 5. Ông mất khi tôi mới bắt đầu lớn, khi mới biết hiểu những gì ông đã hi sinh cho tôi. Người ông đáng kính của tôi đã rời xa tôi thật rồi. Ông bỏ lại tôi, bỏ lại những gì ông đã cho tôi, ông bỏ tôi để đến một vùng đất xa, rất xa nào đó mà tôi không thể biết. Ông ra đi rồi, con biết phải làm sao? 6 năm đã qua đi. Giờ đây tôi đã trở thành một cô học sinh của trường cấp 3, đã trở thành một người thiếu nữ. Nỗi đau mất ông dần dần đã dịu đi trong lòng tôi. Và tôi nhớ ông thật nhiều, nhớ tất cả những cử chỉ, hành động, nhớ cả những việc ông đã làm cho tôi. Tôi nhớ ông da diết, ông ơi, nếu ông còn sống, nhất định con sẽ ngoan ngoãn hơn với ông, nhất định con sẽ nghe lời ông và không cau có như ngày xưa nữa. Nhưng ông đã đi xa rồi, và tất cả những gì mà đến nay tôi đã hiểu, cũng chỉ để dành cho một mình tôi mà thôi. Tiếng đài vừa dứt. Bài hát ca lên khúc ca ngày xưa của ông khiến lòng tôi chợt bật lên tiếng nức nở. Ông là người bạn tuổi thơ của tôi, cũng là người đã nâng đỡ tâm hồn tôi trong suốt những năm tháng ấu thơ. Ông ơi, ông hãy yên nghỉ, con hứa sẽ cố gắng hết sức để có một tương lai rộng mở, không phụ công mong mỏi của ông ngày nào. Mẹ kính yêu “Con sẽ không đợi một ngày kia. Khi mẹ mất đi mới giật mình khóc lóc. Những dòng sông trôi đi có trở lại bao giờ?”. Vô tình đọc được những câu thơ của nhà thơ Đỗ Trung Quân, bỗng giật mình vì chưa bao giờ trong cuộc đời con nghĩ sẽ có một ngày mẹ phải ra đi, con phải xa mẹ. Dù con có lớn, có trưởng thành thế nào nhưng suốt cuộc đời này con vẫn cần có mẹ. Mẹ yêu, trong cuộc sống này, con đã không ít lần bắt gặp những câu nói “Anh yêu em”, “Mình yêu cậu”, “Vợ yêu chồng” nhưng có vẻ thật khó cho bản thân để đứng trước mặt mẹ và nói câu “Con yêu mẹ”. Mẹ là người vẫn hằng ngày tận tình chăm sóc cho con từ bữa ăn đến giấc ngủ, mẹ là người mỗi sáng thức dậy thật sớm để nấu cho con bữa sáng ngon lành, nhưng mẹ ơi, con chưa một lần ngồi với mẹ lâu để nói chuyện. Đi học từ sáng, đến tối lại tất bật làm bài, con chỉ gặp mẹ trong bữa cơm trưa và tối ngắn ngủi. Con đâu có biết ngày ngày mẹ vẫn dọn sách bàn học cho con, nấu cơm cho con vì mẹ nghĩ con gái mẹ đi học cả ngày mệt rồi, trong khi ở lớp, lúc cô giáo giảng bài con vẫn mải nói chuyện với cô bạn cùng bàn, hay mải mê với cuốn truyện tranh nhưng những thú vui tầm phào khác. Giờ bỗng nhận ra, con thấy thật có lỗi với mẹ biết bao. Kí ức về những ngày bé tẻo bé teo con không còn giữ được gì, nhưng mỗi khi thấy mẹ chăm bẵm cho em, con lại tưởng tượng ra những ngày bé tẹo ấy, con đã từng khóc nức nở trên đôi vai mẹ, mẹ đã ôm con vào lòng, dỗ dành con nín. Con vẫn nhớ tuổi thơ con là sáng sáng mỗi khi đến trường, con ngồi ngay ngắn trước gương để mẹ chải đầu tết róc. Mẹ nói mẹ thấy con gái mẹ để tóc dài, buộc tóc đuôi gà nhong nhỏng cao, mặc áo trắng đồng phục với váy là xinh đẹp nhất. Mẹ thì lúc nào cũng thế, không đẹp không sang nhưng tồn tại trong tim là tình yêu thương con da diết. Và con biết điều đó… Bao giọt mồ hôi mẹ đã đổ xuống mảnh ruộng bạc màu để biến thành nhựa sống cho lúa trổ bông, cho rau xanh lá, cho hoa thơm nở, cho trái lành kết thành ngon ngọt nuôi con lớn lên. Bởi thế mà đôi bàn tay mẹ sần sùi, chai sạm, rám nắng. Nhưng mẹ ơi, con biết đôi bàn tay mẹ chai sạm, rám nắng ấy đã từng ngày nuôi con khôn lớn, trưởng thành. Bàn tay ấy chăm lo việc đồng áng, lo việc gia đình. Bàn tay ấy giặt giũ, nấu cơm, vuốt tóc con mỗi khi con có chuyện không vui, ôm con vào lòng trước mỗi thử thách cuộc đời. Và cả đôi vai của mẹ nữa. Đôi vai gầy guộc đã gánh cả cuộc sống gia đình, cả cuộc đời của đứa con gái bé bỏng. Đôi vai ấy sẽ trở thành điểm tựa vững chắc mỗi khi con vấp ngã hay gặp khó khăn trong cuộc sống. Chính đôi bàn tay và đôi vai ấy đã làm cho con là con của ngày hôm nay – một cô bé khoẻ mạnh, tóc dài, má phính và là học sinh trường chuyên của tỉnh.
Tình yêu là thứ tình cảm đáng trân quý nhất trên cuộc đời này, nó giúp ta đẩy lùi những gian truân thử thách, những vất vả cực nhọc để cuộc sống này trở nên có ý nghĩa. Những người xung quanh chúng ta đem lại cho ta điều ấy, là thứ tình cảm chân thành mà bất cứ ai cũng mong có được. Những người trong gia đình thì lại càng mang nặng chân tình hơn, bởi họ gắn bó với ta từ khi sinh ra, đã mang bao tình thương mến dồn đắp cho nhau. Vì thế, tình cảm với những người trong gia đình vẫn luôn là thứ tình cảm thiêng liêng nhất. Bài viết dưới đây là bài văn nêu cảm nghĩ của bản thân về người ông – người mà người viết kính trọng nhất. Để làm được dạng bài này, các bạn chú ý đến việc nêu cảm xúc và suy nghĩ của bản thân đến đối tượng được nói đến, đan xen vào đó những tình cảm chân thật và những kỉ niệm giữa hai người để bài viết được chân thật và giàu xúc cảm hơn. Chúc các bạn làm một bài văn tri ân đến người mà bạn yêu quý thành công! “Đời mình là một khúc quân hành…Đời mình là bài ca chiến sĩ…” – Đài phát thanh của thôn đang vang lên khúc ca của người lính năm xưa. Tôi nằm trên giường mà bỗng nhiên cảm thấy lòng bâng khuâng đến lạ. Có lẽ bài hát hào hùng kia đã làm tôi nhớ đến ông nội – người mà tôi yêu quý nhất, bởi lẽ ông rất thích ca khúc này và vẫn thường bật đài lên cho tôi nghe. Có những người miêu tả ông giống như ông Bụt, có người lại nói ông giống một ông Tiên. Những tôi chẳng thấy thế, vì ông nội của tôi rất đỗi giản dị mà thân thương trong kí ức tôi. Ông không có bộ râu dài như ông Bụt, cũng chẳng có một bộ tóc trắng xóa như ông Tiên trong truyện cổ tích. Ông đặc biệt vì ông là ông nội của tôi thế thôi. Kí ức non nớt của tôi vẫn còn lưu giữ hình ảnh của ông khi ấy, một ông cụ đã già nhưng đẹp lão, mái tóc đã bạc nhiều nhưng vẫn còn sót lại vài sợi tóc đen. Mẹ tôi nói tóc ông lấm tấm hoa râm. Cho đến bây giờ, hình ảnh ông trong tôi đã nhạt phai ít nhiều, nhưng ánh mắt ông thì không đời nào tôi quên được. Đôi mắt ấy chẳng còn tinh anh như thời ông còn trẻ, mà đã thoáng có chút mờ đi vì tuổi đã xế chiều. Thế mà đôi mắt ấy lại luôn trao cho tôi ánh nhìn thật ấm áp. Đôi bàn tay ông, đôi bàn tay đã bế bồng tôi suốt những năm tháng còn thơ bé, đã nổi lên những đường gân xanh bóng, ngoằn ngoèo. Lưng ông đã còng xuống. Da ông đã nhăn nheo đi cả rồi. Ông thường chống cây gậy do đích thân tôi chọn mà đi thăm hỏi hết họ hàng làng xóm. Đến bây giờ, tôi vẫn tưởng nhưng có bóng hình ông đang chầm chậm chống từng bước gậy đi trên con đường làng quê tôi thuở nào. Mọi người nói tôi được ông chiều nhất nhà. Mà đúng thế thật, khi tôi lớn, đã biết hiểu chuyện tôi mới hiểu ông thương tôi nhiều đến như thế. Ngày bé, ông chính là người thay bố mẹ chăm sóc cho tôi khi mẹ đi làm. Ngày nào tôi cũng quấn quýt bên ông. Ông sẵn sàng đứng ra bảo vệ tôi khỏi bất cứ ai, lúc nào ông cũng sợ tôi bị đau, bị đói, bị mệt. Thế mà hồi bé tôi đã từng cho rằng những quan tâm hỏi han ấy của ông là phiền phức. Con bé tôi ngày ấy đã giận ông thật nhiều, đã cứng đầu rất nhiều khiến ông phải buồn. Ngày bé lúc nào tôi cũng được chăm sóc và trông nom bởi ông tôi. Nhưng tôi chẳng bao giờ nghĩ đến một điều, là sẽ đến lúc ông phải rời xa tôi mãi mãi… Ông bị tai biến nằm liệt một chỗ. Ông không thể nói cũng chẳng thể cử động được người. Tôi khóc, nhưng cũng chẳng biết làm gì hơn. Ông ở nhà bác tôi chữa bệnh, còn tôi, một cô nhóc, lại trở về với công việc hằng ngày. Mỗi lần lên thăm ông, ông khều khều tay tôi như muốn nắm lấy. Lúc nào tôi lên ông cũng khóc. Tôi thương ông lắm, tôi rất nhớ ông và tôi biết ông cũng muốn nhanh chóng khỏi bệnh để còn về quê chơi với tôi nữa. Nhưng mấy năm sau, ông mất… Tôi đã khóc rất nhiều. Ông mất khi mà tôi chưa hề đền đáp công ơn cho ông một lần. Ông mất khi mà tôi mới chỉ là một cô học sinh lớp 5. Ông mất khi tôi mới bắt đầu lớn, khi mới biết hiểu những gì ông đã hi sinh cho tôi. Người ông đáng kính của tôi đã rời xa tôi thật rồi. Ông bỏ lại tôi, bỏ lại những gì ông đã cho tôi, ông bỏ tôi để đến một vùng đất xa, rất xa nào đó mà tôi không thể biết. Ông ra đi rồi, con biết phải làm sao? 6 năm đã qua đi. Giờ đây tôi đã trở thành một cô học sinh của trường cấp 3, đã trở thành một người thiếu nữ. Nỗi đau mất ông dần dần đã dịu đi trong lòng tôi. Và tôi nhớ ông thật nhiều, nhớ tất cả những cử chỉ, hành động, nhớ cả những việc ông đã làm cho tôi. Tôi nhớ ông da diết, ông ơi, nếu ông còn sống, nhất định con sẽ ngoan ngoãn hơn với ông, nhất định con sẽ nghe lời ông và không cau có như ngày xưa nữa. Nhưng ông đã đi xa rồi, và tất cả những gì mà đến nay tôi đã hiểu, cũng chỉ để dành cho một mình tôi mà thôi. Tiếng đài vừa dứt. Bài hát ca lên khúc ca ngày xưa của ông khiến lòng tôi chợt bật lên tiếng nức nở. Ông là người bạn tuổi thơ của tôi, cũng là người đã nâng đỡ tâm hồn tôi trong suốt những năm tháng ấu thơ. Ông ơi, ông hãy yên nghỉ, con hứa sẽ cố gắng hết sức để có một tương lai rộng mở, không phụ công mong mỏi của ông ngày nào. Mẹ kính yêu “Con sẽ không đợi một ngày kia. Khi mẹ mất đi mới giật mình khóc lóc. Những dòng sông trôi đi có trở lại bao giờ?”. Vô tình đọc được những câu thơ của nhà thơ Đỗ Trung Quân, bỗng giật mình vì chưa bao giờ trong cuộc đời con nghĩ sẽ có một ngày mẹ phải ra đi, con phải xa mẹ. Dù con có lớn, có trưởng thành thế nào nhưng suốt cuộc đời này con vẫn cần có mẹ. Mẹ yêu, trong cuộc sống này, con đã không ít lần bắt gặp những câu nói “Anh yêu em”, “Mình yêu cậu”, “Vợ yêu chồng” nhưng có vẻ thật khó cho bản thân để đứng trước mặt mẹ và nói câu “Con yêu mẹ”. Mẹ là người vẫn hằng ngày tận tình chăm sóc cho con từ bữa ăn đến giấc ngủ, mẹ là người mỗi sáng thức dậy thật sớm để nấu cho con bữa sáng ngon lành, nhưng mẹ ơi, con chưa một lần ngồi với mẹ lâu để nói chuyện. Đi học từ sáng, đến tối lại tất bật làm bài, con chỉ gặp mẹ trong bữa cơm trưa và tối ngắn ngủi. Con đâu có biết ngày ngày mẹ vẫn dọn sách bàn học cho con, nấu cơm cho con vì mẹ nghĩ con gái mẹ đi học cả ngày mệt rồi, trong khi ở lớp, lúc cô giáo giảng bài con vẫn mải nói chuyện với cô bạn cùng bàn, hay mải mê với cuốn truyện tranh nhưng những thú vui tầm phào khác. Giờ bỗng nhận ra, con thấy thật có lỗi với mẹ biết bao. Kí ức về những ngày bé tẻo bé teo con không còn giữ được gì, nhưng mỗi khi thấy mẹ chăm bẵm cho em, con lại tưởng tượng ra những ngày bé tẹo ấy, con đã từng khóc nức nở trên đôi vai mẹ, mẹ đã ôm con vào lòng, dỗ dành con nín. Con vẫn nhớ tuổi thơ con là sáng sáng mỗi khi đến trường, con ngồi ngay ngắn trước gương để mẹ chải đầu tết róc. Mẹ nói mẹ thấy con gái mẹ để tóc dài, buộc tóc đuôi gà nhong nhỏng cao, mặc áo trắng đồng phục với váy là xinh đẹp nhất. Mẹ thì lúc nào cũng thế, không đẹp không sang nhưng tồn tại trong tim là tình yêu thương con da diết. Và con biết điều đó… Bao giọt mồ hôi mẹ đã đổ xuống mảnh ruộng bạc màu để biến thành nhựa sống cho lúa trổ bông, cho rau xanh lá, cho hoa thơm nở, cho trái lành kết thành ngon ngọt nuôi con lớn lên. Bởi thế mà đôi bàn tay mẹ sần sùi, chai sạm, rám nắng. Nhưng mẹ ơi, con biết đôi bàn tay mẹ chai sạm, rám nắng ấy đã từng ngày nuôi con khôn lớn, trưởng thành. Bàn tay ấy chăm lo việc đồng áng, lo việc gia đình. Bàn tay ấy giặt giũ, nấu cơm, vuốt tóc con mỗi khi con có chuyện không vui, ôm con vào lòng trước mỗi thử thách cuộc đời. Và cả đôi vai của mẹ nữa. Đôi vai gầy guộc đã gánh cả cuộc sống gia đình, cả cuộc đời của đứa con gái bé bỏng. Đôi vai ấy sẽ trở thành điểm tựa vững chắc mỗi khi con vấp ngã hay gặp khó khăn trong cuộc sống. Chính đôi bàn tay và đôi vai ấy đã làm cho con là con của ngày hôm nay – một cô bé khoẻ mạnh, tóc dài, má phính và là học sinh trường chuyên của tỉnh.
Kho tàng văn học dân gian phong phú ra đời trong cuộc sống nhọc nhằn của người nông dân. Nếu những khúc hát ca dao kí gửi tiếng lòng muôn điệu, truyện cổ tích là bình chứa ước mơ của người dân thì truyện truyền thuyết thể hiện cách nhìn nhận của nhân dân ta về các sự kiện, nhân vật liên quan đến lịch sử. Nhân vật An Dương Vương trong câu chuyện truyền thuyết “ An Dương Vương và Mị Châu- Trọng Thủy” ẩn chứa nhiều quan niệm, cách đánh giá của tác giả dân gian với những người có công và mang tội với đất nước. Trong chương trình ngữ văn lớp 10, có dạng bài phân tích nhân vật An Dương Vương, các bạn cần chú ý khắc họa phần công lao xây dựng, bảo vệ quốc gia của Người với sự ngưỡng mộ của quần chúng nhân dân. Đồng thời, thái độ nghiêm khắc của nhân dân trước sự chủ quan của nhà vua làm mất nước. Sau đây là những bài văn mẫu các bạn có thể tham khảo trước những băn khoăn về đề bài này. Chúc các bạn học tập thật tốt! Lời thơ của nhà thơ Tố Hữu cất lên: Gợi nhắc ta nhớ tới câu chuyện truyền thuyết “ An Dương Vương và Mị Châu- Trọng Thủy”, lấy cốt truyện dựa theo sự kiện lịch sử, truyện tạo ấn tượng mạnh mẽ với bạn đọc về nhân vật An Dương Vương vừa là anh hùng vừa là kẻ có tội. Qua ngòi bút khắc họa của tác giả dân gian, An Dương Vương hiện lên là người hết lòng về đất nước. Ngài có công dựng nước và giữ nước trong những ngày đầu gian nan nhất của nhà nước Âu Lạc. Cách giới thiệu rõ ràng lai lịch của nhà vua làm tăng tính thuyết phục của yếu tố đời thực. Nỗi bận tâm, bao trăn trở của nhà vua khi “ xây thành tới đâu lở tới đấy”. Sự thành tâm thể hiện qua hành động “ lập đàn, cầu đảo bách thần”. Nhờ có sự giúp đỡ của Rùa vàng, nhà vua xây được thành lũy kiên cố. Một vị vua anh minh như vậy nhận được sự đồng tình, ủng hộ của thần dân. Không chỉ âu lo về việc dựng nước, An Dương Vương còn nặng lòng việc giữ nước, sự bình yên cuộc sống muôn dân. Rùa vàng vì cảm động tấm lòng ấy mà trao cho vuốt làm nỏ thần bảo vệ xã tắc. Mọi vẻ đẹp của nhà vua được tác giả dân gian đậm tô thể hiện niềm kình ngưỡng trước tài đức của Người.
The rich treasure of folk literature was born in the hard life of farmers. If folk songs express the melodies of hearts and fairy tales are containers for people's dreams, then legends express our people's perception of events and characters related to history. The character An Duong Vuong in the legendary story "An Duong Vuong and My Chau - Trong Thuy" contains many concepts and assessments of folk authors towards those who have meritorious services and sins against the country. In the 10th grade literature program, there is an article analyzing the character of An Duong Vuong. You need to pay attention to portraying his contributions to building and protecting the nation with the admiration of the masses. At the same time, the people's strict attitude towards the king's subjectivity lost the country. The following are sample essays that you can refer to in advance of your concerns about this topic. Wish you all the best in your studies! Poet To Huu's words read: Reminds us of the legendary story "An Duong Vuong and My Chau - Trong Thuy", based on historical events, the story creates a strong impression on readers about the character An Duong Vuong who is both a hero and a hero. both a sinner. Through the folk author's depiction, An Duong Vuong appears to be a person wholeheartedly devoted to his country. He was instrumental in building and defending the country during the most difficult early days of the Au Lac state. The clear introduction of the king's background increases the persuasiveness of real-life elements. The king's worries and concerns when "building a citadel will fall apart". Sincerity is shown through the action of "setting up an altar and praying to a hundred gods". Thanks to the help of the Golden Turtle, the king built a solid citadel. Such a wise king receives the sympathy and support of his subjects. Not only worried about building the country, An Duong Vuong also cared about preserving the country and the peaceful life of all people. The golden turtle was moved by that heart and gave his claws to make a magical crossbow to protect the society. All the king's beauty was boldly highlighted by folk authors to express admiration for his virtue.
Xã hội ngày càng phát triển thì càng ngày xuất hiện nhiều tệ nạn xã hội, không chỉ gây mất an ninh, trật tự mà còn đe dọa đến sự an toàn của người dân. Chúng ta biết con người ngày nay mỗi ngày chết rất nhiều, không chỉ những người già đau ốm chết mà còn là những người trẻ tuổi, đầu xanh chết. lí do họ chết sớm là do sa vào các tệ nạn xã hội. các tệ nạn xã hội nguy hiểm ngày nay như ma túy, uống rượu bia,… một trong những tệ nạn xã hội không chỉ ảnh hưởng đến bản thân người dùng mà còn ảnh hưởng đến môi trường và những người xung quanh. Trong chương trình ngữ văn lớp 10, ta sẽ bắt gặp bài viết số 4 lớp 10 đề 2 Viết một bài thuyết minh về tác hại của ma túy(hoặc của rượu, của thuốc lá) đối với đời sống con người). Dưới đây là hai bài văn thuyết minh về tác hại của ma túy. Hy vọng các bạn sẽ hoàn thành bài tập thật tốt. Giữa sự đầy đủ nhưng quay cuồng của cuộc sống thường ngày người ta thật khó thoát ra khỏi những cạm bẫy, cám dỗ tai hại và một trong số đó không thể kể đến tệ nạn nghiện ma túy. Tác hại của ma túy luôn là mối quan tâm, lo ngại của cả cộng đồng nhưng nó chẳng những không giảm đi mà ngày càng để lại cuộc sống con người những hậu quả nặng nề. Hình ảnh của ma túy vốn đã chẳng còn mấy xa lạ với bất cứ ai. Ma túy là tên gọi chung của các chất kích thích mà sử dụng nhiều lần có thể gây nghiện, có nguồn gốc tự nhiên hoặc nhân tạo. Vốn từng được sử dụng như một loại thuốc quan trọng, nhưng giờ đây nó đã bị lạm dụng, trở thành một thứ công cụ tiêu khiển thỏa mãn cảm giác nhất thời sau đó thì để lại những di chứng nặng nề. Với sự phát triến mạnh mẽ của công nghệ hiện đại, ma túy ngày một biến tướng, tồn tại dưới nhiều dạng bột, đá, lá,… và ngày một để lại tác hại nặng nề. Ma túy không phải chỉ tồn tại trong những góc hẻm tối, trong mỗi ống bơm kim tiêm nhọn hoắt mà nó vẫn gần gũi với cuộc sống thường ngày hơn chúng ta tưởng. Những loại ma túy mặc dù được hợp pháp hóa như rượu, bia, thuốc lá, nhưng nó vẫn đem đến tác hại ghê gớm đến sức khỏe con người. Nhưng đem đến tác hại hơn cả, đe dọa đến đời sống xã hội phải kể đến những loại ma túy bất hợp pháp: thuốc phiện, cần sa, heroin,…Ma túy đem đến những ảo giác thần tiên cho con người, đưa họ thoát ra khỏi những gánh nặng lo toan cơm áo gạo tiền. Và cũng chính từ đây chuỗi bi kịch kéo dài bắt đầu. Mở đầu chính là sức khỏe của chính người sử dụng.. Càng dùng thuốc, thời gian thèm thuốc ngày một kéo dài, quyết liệt. Chính vì thế mà sức khỏe ngày một đi xuống, dựa dẫm vào thuốc, đẩy họ vào trạng thái mệt nhọc, mơ màng, lúc tỉnh lúc mơ. Đâu chỉ là người nghiện mà ngay chính cả gia đình của họ cũng phải đối mặt với khó khăn. Có ai mà không nhói lòng khi tận mắt chứng kiến cảnh con cháu mình đau đớn trong cơn thèm thuốc. Mỗi lần dùng thuốc, người nghiện nào đâu có tình táo. Họ mê man trong những giấc mơ, khao khát viển vông của chính mình. Và đã không có ít lần, những ảo giác ấy đã bóp nghẹt chính cuộc đời họ: ngỡ mình là siêu nhân mà nhảy xuống từ tòa nhà cao tầng, trèo lên cột điện thậm chí là làm tổn thương cả mọi người xung quanh khi cứ ngỡ mình đang trong một trận game kịch tính mất mạng có thể hồi sinh. Không ít mái nhà yên ấm vì thế mà đổ vỡ, hạnh phúc yên ấm sụp đổ bởi sự kiệt quệ kinh tế do ma túy gây ra. Mỗi người là một phần của cộng đồng, xã hội vì thế cũng không tránh khỏi hệ lụy. Muốn chơi ma túy thì phải có tiền, càng nghiện thì lại càng cần tiền từ đây mà dẫn đến đủ nạn trộm cắp, giết người, cướp của. Ai cũng lo sợ, nghi ngờ, cảnh giác lẫn nhau. Và mỗi ngày sức nặng của căn bệnh thế kỉ HIV/ AIDS càng như treo lơ lửng trong lòng đời sống chật chội của con người. Biết tác hại là như vậy những vẫn có không ít những con người xa lầy vào ma túy. Có thể là do ăn chơi trác táng nhưng cũng không thể thiếu đi trách nhiệm của cộng động khi lãng quên, vô cảm bỏ rơi lại những con người ấy phía sau. Đôi khi còn bởi chính sự thiếu hiểu biết, nhẹ dạ, cả tin của một bộ phận con người đã khiến cho mối nguy hại ma túy ngày một thêm trầm trong. Và để giải quyết mối hiểm họa này không gì khác là cần đến sự quan tâm, chú ý của cả xã hôi. Chúng ta nên không ngừng trau dồi kiến thức, cảnh giác trước cám dỗ, đồng thời nhắc nhở, tuyên truyền ý thức phòng tránh ma túy cho mọi người. Còn những người đã chót lầm lỡ, thay vì xa lánh chúng ta nên giúp đỡ họ cai nghiện, quan tâm, giúp đỡ họ hòa nhập vào cuộc sống để giảm thiểu tối đa hậu quả của ma túy gây nên. Ma túy không chỉ còn là vấn nạn cấp thiết cần được giải quyết trong quy mô một vùng quốc gia, lãnh thổ nữa mà nó đã lan rộng ra mang tầm quốc tế, đòi hỏi nhân loại phải trăn trở suy nghĩ. Vì vậy, mỗi chúng ta không chỉ nên biết nâng cao ý thức của riêng mình mà còn là cả mọi người xung quanh để bảo vệ chính cuộc sống tốt đẹp của chúng ta ngày hôm nay. Xã hội ngày càng phát triển bên cạnh những mặt tích cực của công nghệ thông tin thì chúng ta đang ngày càng phải đối mặt với những tệ nạn xã hội hoành hành, trong đó phải kể tới ma túy. Ma túy là chất gây nghiện gây tác hại khôn lường đến con người và xã hội. Theo kết quả rà soát đến tháng 9/2015, toàn quốc có hơn 204000 người nghiện ma túy có hồ sơ quản lý của lực lượng Công an, tăng gần 23000 người (tăng 12%) so với cuối năm 2013. Theo báo cáo của Bộ Lao động-Thương binh và xã hội, mỗi người nghiện ma túy sử dụng khoảng 230000 đồng/ngày, do đó số tiền thiệt hại là rất lớn. Bên cạnh đó, những năm gần đây người nghiện ma túy của Việt Nam luôn luôn gia tăng. Ma túy là gì khiến bao người dấn thân vào nó đến vậy? Ma tuý, hiểu đơn giản là các chất gây nghiện, chất hướng thần, có nguồn gốc tự nhiên hoặc tổng hợp, được quy định trong danh mục do Chính phủ ban hành. Các chất này khi xâm nhập vào cơ thể người sẽ làm thay đổi trạng thái ý thức và sinh lý, có thể dẫn đến nghiện và từ đó gây tác hại về nhiều mặt đối với xã hội. Một số loại ma tuý thường gặp như thuốc phiện, mooc phin, heroin, cần sa, ma tuý tổng hợp,… Trong hai mươi năm qua (tháng 3/1997- tháng 3/2017), lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy toàn quốc đã triệt phá trên 172000 chuyên án, bắt giữ trên 283000 đối tượng phạm tội về ma túy, thu giữ hơn 3179 kg heroin, 4558 kg thuốc phiện, hơn 1 tấn ma túy đá, 1,7 triệu viên ma túy tổng hợp, 30 tấn cần sa khô, hơn 4 tấn cần sa tươi, trên 2 tấn lá khát, cỏ Mỹ, 87 kg cocain,… Số liệu trên như một tiếng chuông báo động cảnh tỉnh cho tất cả mọi người, cho toàn thể nhân loại về tác hại cũng như sự phát triển chóng mặt của nạn nghiện ma túy. Ma tuý gây ra rất nhiều tác hại khôn lường. Trước hết, nó ảnh hưởng trực tiếp đến bản thân người sử dụng. Ma túy làm huỷ hoại sức khoẻ, làm mất khả năng lao động, học tập, làm cho thần kinh người nghiện bị tổn hại. Đặc biệt, ma tuý khi dùng quá liều có thể nguy cơ cao dẫn đến cái chết. Người nghiện ma tuý có thể mang vi-rút HIV và lây truyền cho người thân của họ. Người nghiện ma túy luôn sống trong cảm giác đê mê, họ dễ bị ảo giác, ảo tưởng và không làm chủ được hành động của bản thân. Bởi vậy người nghiện ma túy dễ dàng bị bào mòn nhân cách, rối loạn hành vi, có lối sống buông thả, dễ vi phạm pháp luật. Người nghiện ma túy bị người xung quanh xa lánh hoặc dễ bị người khác lợi dụng, học tập giảm sút hoặc bỏ học, ảnh hưởng đến tương lai. Không chỉ vậy, ma túy còn gây ảnh hưởng đến gia đình. Nghiện ma tuý làm tiêu hao tiền bạc của bản thân và gia đình. Người nghiện ma túy mỗi ngày cần ít nhất từ 50000-100000 đồng,thậm chí 1000000 – 2000000 đồng/ngày để mua thuốc. Vì vậy khi lên cơn nghiện mà không có tiền trong tay, người nghiện ma tuý có thê tiêu tốn hết tiền của, tài sản, đồ đạc của gia đình, thế chấp mọi thứ trong gia đình vào việc mua ma tuý để thoả mãn cơn nghiện của mình. Nhiều thanh niên để có tiền sử dụng ma tuý đã trộm cắp, hành nghề mại dâm, thậm chí giết người, cướp của. Gia đình của người nghiện ma túy lúc nào cũng trong cảm giác canh cánh lo sợ, ngày ngày tốn thời gian, chi phí chăm sóc và điều trị các bệnh của người nghiện do ma tuý gây ra. Đặc biệt, ma túy cũng là nguyên nhân gây đảo lộn sự phát triển của cả xã hội. Nghiện ma túy gây mất trật tự an toàn xã hội, gia tăng các tệ nạn xã hội: lừa đảo, trộm cắp, giết người, mại dâm,… Đất nước có nạn nghiện ma túy anh hưởng đến đạo đức, thuần phong mỹ tục lâu đời của dân tộc đồng thời làm giảm sút sức lao động sản xuất trong xã hội. Ma tuý chính là nguồn gốc làm nảy sinh, lan truyền đại dịch HIV/AIDS – một hiểm hoạ toàn cầu chưa có thuốc chữa. Hiện nay, nước ta có trên 130.000 người nhiễm HIV/AIDS thì có 75% là do tiêm chích ma tuý. Các chất ma tuý ảnh hưởng đến hệ thống hoocmon sinh sản, làm giảm khả năng sinh hoạt tình dục, ảnh hưởng đến quá trình hình thành các giao tử, tạo cơ hội cho các gen độc có điều kiện hoạt hoá, dẫn tới suy yếu nòi giống.
Xã hội ngày càng phát triển thì càng ngày xuất hiện nhiều tệ nạn xã hội, không chỉ gây mất an ninh, trật tự mà còn đe dọa đến sự an toàn của người dân. Chúng ta biết con người ngày nay mỗi ngày chết rất nhiều, không chỉ những người già đau ốm chết mà còn là những người trẻ tuổi, đầu xanh chết. lí do họ chết sớm là do sa vào các tệ nạn xã hội. các tệ nạn xã hội nguy hiểm ngày nay như ma túy, uống rượu bia,… một trong những tệ nạn xã hội không chỉ ảnh hưởng đến bản thân người dùng mà còn ảnh hưởng đến môi trường và những người xung quanh. Trong chương trình ngữ văn lớp 10, ta sẽ bắt gặp bài viết số 4 lớp 10 đề 2 Viết một bài thuyết minh về tác hại của ma túy(hoặc của rượu, của thuốc lá) đối với đời sống con người). Dưới đây là hai bài văn thuyết minh về tác hại của ma túy. Hy vọng các bạn sẽ hoàn thành bài tập thật tốt. Giữa sự đầy đủ nhưng quay cuồng của cuộc sống thường ngày người ta thật khó thoát ra khỏi những cạm bẫy, cám dỗ tai hại và một trong số đó không thể kể đến tệ nạn nghiện ma túy. Tác hại của ma túy luôn là mối quan tâm, lo ngại của cả cộng đồng nhưng nó chẳng những không giảm đi mà ngày càng để lại cuộc sống con người những hậu quả nặng nề. Hình ảnh của ma túy vốn đã chẳng còn mấy xa lạ với bất cứ ai. Ma túy là tên gọi chung của các chất kích thích mà sử dụng nhiều lần có thể gây nghiện, có nguồn gốc tự nhiên hoặc nhân tạo. Vốn từng được sử dụng như một loại thuốc quan trọng, nhưng giờ đây nó đã bị lạm dụng, trở thành một thứ công cụ tiêu khiển thỏa mãn cảm giác nhất thời sau đó thì để lại những di chứng nặng nề. Với sự phát triến mạnh mẽ của công nghệ hiện đại, ma túy ngày một biến tướng, tồn tại dưới nhiều dạng bột, đá, lá,… và ngày một để lại tác hại nặng nề. Ma túy không phải chỉ tồn tại trong những góc hẻm tối, trong mỗi ống bơm kim tiêm nhọn hoắt mà nó vẫn gần gũi với cuộc sống thường ngày hơn chúng ta tưởng. Những loại ma túy mặc dù được hợp pháp hóa như rượu, bia, thuốc lá, nhưng nó vẫn đem đến tác hại ghê gớm đến sức khỏe con người. Nhưng đem đến tác hại hơn cả, đe dọa đến đời sống xã hội phải kể đến những loại ma túy bất hợp pháp: thuốc phiện, cần sa, heroin,…Ma túy đem đến những ảo giác thần tiên cho con người, đưa họ thoát ra khỏi những gánh nặng lo toan cơm áo gạo tiền. Và cũng chính từ đây chuỗi bi kịch kéo dài bắt đầu. Mở đầu chính là sức khỏe của chính người sử dụng.. Càng dùng thuốc, thời gian thèm thuốc ngày một kéo dài, quyết liệt. Chính vì thế mà sức khỏe ngày một đi xuống, dựa dẫm vào thuốc, đẩy họ vào trạng thái mệt nhọc, mơ màng, lúc tỉnh lúc mơ. Đâu chỉ là người nghiện mà ngay chính cả gia đình của họ cũng phải đối mặt với khó khăn. Có ai mà không nhói lòng khi tận mắt chứng kiến cảnh con cháu mình đau đớn trong cơn thèm thuốc. Mỗi lần dùng thuốc, người nghiện nào đâu có tình táo. Họ mê man trong những giấc mơ, khao khát viển vông của chính mình. Và đã không có ít lần, những ảo giác ấy đã bóp nghẹt chính cuộc đời họ: ngỡ mình là siêu nhân mà nhảy xuống từ tòa nhà cao tầng, trèo lên cột điện thậm chí là làm tổn thương cả mọi người xung quanh khi cứ ngỡ mình đang trong một trận game kịch tính mất mạng có thể hồi sinh. Không ít mái nhà yên ấm vì thế mà đổ vỡ, hạnh phúc yên ấm sụp đổ bởi sự kiệt quệ kinh tế do ma túy gây ra. Mỗi người là một phần của cộng đồng, xã hội vì thế cũng không tránh khỏi hệ lụy. Muốn chơi ma túy thì phải có tiền, càng nghiện thì lại càng cần tiền từ đây mà dẫn đến đủ nạn trộm cắp, giết người, cướp của. Ai cũng lo sợ, nghi ngờ, cảnh giác lẫn nhau. Và mỗi ngày sức nặng của căn bệnh thế kỉ HIV/ AIDS càng như treo lơ lửng trong lòng đời sống chật chội của con người. Biết tác hại là như vậy những vẫn có không ít những con người xa lầy vào ma túy. Có thể là do ăn chơi trác táng nhưng cũng không thể thiếu đi trách nhiệm của cộng động khi lãng quên, vô cảm bỏ rơi lại những con người ấy phía sau. Đôi khi còn bởi chính sự thiếu hiểu biết, nhẹ dạ, cả tin của một bộ phận con người đã khiến cho mối nguy hại ma túy ngày một thêm trầm trong. Và để giải quyết mối hiểm họa này không gì khác là cần đến sự quan tâm, chú ý của cả xã hôi. Chúng ta nên không ngừng trau dồi kiến thức, cảnh giác trước cám dỗ, đồng thời nhắc nhở, tuyên truyền ý thức phòng tránh ma túy cho mọi người. Còn những người đã chót lầm lỡ, thay vì xa lánh chúng ta nên giúp đỡ họ cai nghiện, quan tâm, giúp đỡ họ hòa nhập vào cuộc sống để giảm thiểu tối đa hậu quả của ma túy gây nên. Ma túy không chỉ còn là vấn nạn cấp thiết cần được giải quyết trong quy mô một vùng quốc gia, lãnh thổ nữa mà nó đã lan rộng ra mang tầm quốc tế, đòi hỏi nhân loại phải trăn trở suy nghĩ. Vì vậy, mỗi chúng ta không chỉ nên biết nâng cao ý thức của riêng mình mà còn là cả mọi người xung quanh để bảo vệ chính cuộc sống tốt đẹp của chúng ta ngày hôm nay. Xã hội ngày càng phát triển bên cạnh những mặt tích cực của công nghệ thông tin thì chúng ta đang ngày càng phải đối mặt với những tệ nạn xã hội hoành hành, trong đó phải kể tới ma túy. Ma túy là chất gây nghiện gây tác hại khôn lường đến con người và xã hội. Theo kết quả rà soát đến tháng 9/2015, toàn quốc có hơn 204000 người nghiện ma túy có hồ sơ quản lý của lực lượng Công an, tăng gần 23000 người (tăng 12%) so với cuối năm 2013. Theo báo cáo của Bộ Lao động-Thương binh và xã hội, mỗi người nghiện ma túy sử dụng khoảng 230000 đồng/ngày, do đó số tiền thiệt hại là rất lớn. Bên cạnh đó, những năm gần đây người nghiện ma túy của Việt Nam luôn luôn gia tăng. Ma túy là gì khiến bao người dấn thân vào nó đến vậy? Ma tuý, hiểu đơn giản là các chất gây nghiện, chất hướng thần, có nguồn gốc tự nhiên hoặc tổng hợp, được quy định trong danh mục do Chính phủ ban hành. Các chất này khi xâm nhập vào cơ thể người sẽ làm thay đổi trạng thái ý thức và sinh lý, có thể dẫn đến nghiện và từ đó gây tác hại về nhiều mặt đối với xã hội. Một số loại ma tuý thường gặp như thuốc phiện, mooc phin, heroin, cần sa, ma tuý tổng hợp,… Trong hai mươi năm qua (tháng 3/1997- tháng 3/2017), lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy toàn quốc đã triệt phá trên 172000 chuyên án, bắt giữ trên 283000 đối tượng phạm tội về ma túy, thu giữ hơn 3179 kg heroin, 4558 kg thuốc phiện, hơn 1 tấn ma túy đá, 1,7 triệu viên ma túy tổng hợp, 30 tấn cần sa khô, hơn 4 tấn cần sa tươi, trên 2 tấn lá khát, cỏ Mỹ, 87 kg cocain,… Số liệu trên như một tiếng chuông báo động cảnh tỉnh cho tất cả mọi người, cho toàn thể nhân loại về tác hại cũng như sự phát triển chóng mặt của nạn nghiện ma túy. Ma tuý gây ra rất nhiều tác hại khôn lường. Trước hết, nó ảnh hưởng trực tiếp đến bản thân người sử dụng. Ma túy làm huỷ hoại sức khoẻ, làm mất khả năng lao động, học tập, làm cho thần kinh người nghiện bị tổn hại. Đặc biệt, ma tuý khi dùng quá liều có thể nguy cơ cao dẫn đến cái chết. Người nghiện ma tuý có thể mang vi-rút HIV và lây truyền cho người thân của họ. Người nghiện ma túy luôn sống trong cảm giác đê mê, họ dễ bị ảo giác, ảo tưởng và không làm chủ được hành động của bản thân. Bởi vậy người nghiện ma túy dễ dàng bị bào mòn nhân cách, rối loạn hành vi, có lối sống buông thả, dễ vi phạm pháp luật. Người nghiện ma túy bị người xung quanh xa lánh hoặc dễ bị người khác lợi dụng, học tập giảm sút hoặc bỏ học, ảnh hưởng đến tương lai. Không chỉ vậy, ma túy còn gây ảnh hưởng đến gia đình. Nghiện ma tuý làm tiêu hao tiền bạc của bản thân và gia đình. Người nghiện ma túy mỗi ngày cần ít nhất từ 50000-100000 đồng,thậm chí 1000000 – 2000000 đồng/ngày để mua thuốc. Vì vậy khi lên cơn nghiện mà không có tiền trong tay, người nghiện ma tuý có thê tiêu tốn hết tiền của, tài sản, đồ đạc của gia đình, thế chấp mọi thứ trong gia đình vào việc mua ma tuý để thoả mãn cơn nghiện của mình. Nhiều thanh niên để có tiền sử dụng ma tuý đã trộm cắp, hành nghề mại dâm, thậm chí giết người, cướp của. Gia đình của người nghiện ma túy lúc nào cũng trong cảm giác canh cánh lo sợ, ngày ngày tốn thời gian, chi phí chăm sóc và điều trị các bệnh của người nghiện do ma tuý gây ra. Đặc biệt, ma túy cũng là nguyên nhân gây đảo lộn sự phát triển của cả xã hội. Nghiện ma túy gây mất trật tự an toàn xã hội, gia tăng các tệ nạn xã hội: lừa đảo, trộm cắp, giết người, mại dâm,… Đất nước có nạn nghiện ma túy anh hưởng đến đạo đức, thuần phong mỹ tục lâu đời của dân tộc đồng thời làm giảm sút sức lao động sản xuất trong xã hội. Ma tuý chính là nguồn gốc làm nảy sinh, lan truyền đại dịch HIV/AIDS – một hiểm hoạ toàn cầu chưa có thuốc chữa. Hiện nay, nước ta có trên 130.000 người nhiễm HIV/AIDS thì có 75% là do tiêm chích ma tuý. Các chất ma tuý ảnh hưởng đến hệ thống hoocmon sinh sản, làm giảm khả năng sinh hoạt tình dục, ảnh hưởng đến quá trình hình thành các giao tử, tạo cơ hội cho các gen độc có điều kiện hoạt hoá, dẫn tới suy yếu nòi giống.
Xã hội ngày càng phát triển thì càng ngày xuất hiện nhiều tệ nạn xã hội, không chỉ gây mất an ninh, trật tự mà còn đe dọa đến sự an toàn của người dân. Chúng ta biết con người ngày nay mỗi ngày chết rất nhiều, không chỉ những người già đau ốm chết mà còn là những người trẻ tuổi, đầu xanh chết. lí do họ chết sớm là do sa vào các tệ nạn xã hội. các tệ nạn xã hội nguy hiểm ngày nay như ma túy, uống rượu bia,… một trong những tệ nạn xã hội không chỉ ảnh hưởng đến bản thân người dùng mà còn ảnh hưởng đến môi trường và những người xung quanh. Trong chương trình ngữ văn lớp 10, ta sẽ bắt gặp bài viết số 4 lớp 10 đề 2 Viết một bài thuyết minh về tác hại của ma túy(hoặc của rượu, của thuốc lá) đối với đời sống con người). Dưới đây là hai bài văn thuyết minh về tác hại của ma túy. Hy vọng các bạn sẽ hoàn thành bài tập thật tốt. Giữa sự đầy đủ nhưng quay cuồng của cuộc sống thường ngày người ta thật khó thoát ra khỏi những cạm bẫy, cám dỗ tai hại và một trong số đó không thể kể đến tệ nạn nghiện ma túy. Tác hại của ma túy luôn là mối quan tâm, lo ngại của cả cộng đồng nhưng nó chẳng những không giảm đi mà ngày càng để lại cuộc sống con người những hậu quả nặng nề. Hình ảnh của ma túy vốn đã chẳng còn mấy xa lạ với bất cứ ai. Ma túy là tên gọi chung của các chất kích thích mà sử dụng nhiều lần có thể gây nghiện, có nguồn gốc tự nhiên hoặc nhân tạo. Vốn từng được sử dụng như một loại thuốc quan trọng, nhưng giờ đây nó đã bị lạm dụng, trở thành một thứ công cụ tiêu khiển thỏa mãn cảm giác nhất thời sau đó thì để lại những di chứng nặng nề. Với sự phát triến mạnh mẽ của công nghệ hiện đại, ma túy ngày một biến tướng, tồn tại dưới nhiều dạng bột, đá, lá,… và ngày một để lại tác hại nặng nề. Ma túy không phải chỉ tồn tại trong những góc hẻm tối, trong mỗi ống bơm kim tiêm nhọn hoắt mà nó vẫn gần gũi với cuộc sống thường ngày hơn chúng ta tưởng. Những loại ma túy mặc dù được hợp pháp hóa như rượu, bia, thuốc lá, nhưng nó vẫn đem đến tác hại ghê gớm đến sức khỏe con người. Nhưng đem đến tác hại hơn cả, đe dọa đến đời sống xã hội phải kể đến những loại ma túy bất hợp pháp: thuốc phiện, cần sa, heroin,…Ma túy đem đến những ảo giác thần tiên cho con người, đưa họ thoát ra khỏi những gánh nặng lo toan cơm áo gạo tiền. Và cũng chính từ đây chuỗi bi kịch kéo dài bắt đầu. Mở đầu chính là sức khỏe của chính người sử dụng.. Càng dùng thuốc, thời gian thèm thuốc ngày một kéo dài, quyết liệt. Chính vì thế mà sức khỏe ngày một đi xuống, dựa dẫm vào thuốc, đẩy họ vào trạng thái mệt nhọc, mơ màng, lúc tỉnh lúc mơ. Đâu chỉ là người nghiện mà ngay chính cả gia đình của họ cũng phải đối mặt với khó khăn. Có ai mà không nhói lòng khi tận mắt chứng kiến cảnh con cháu mình đau đớn trong cơn thèm thuốc. Mỗi lần dùng thuốc, người nghiện nào đâu có tình táo. Họ mê man trong những giấc mơ, khao khát viển vông của chính mình. Và đã không có ít lần, những ảo giác ấy đã bóp nghẹt chính cuộc đời họ: ngỡ mình là siêu nhân mà nhảy xuống từ tòa nhà cao tầng, trèo lên cột điện thậm chí là làm tổn thương cả mọi người xung quanh khi cứ ngỡ mình đang trong một trận game kịch tính mất mạng có thể hồi sinh. Không ít mái nhà yên ấm vì thế mà đổ vỡ, hạnh phúc yên ấm sụp đổ bởi sự kiệt quệ kinh tế do ma túy gây ra. Mỗi người là một phần của cộng đồng, xã hội vì thế cũng không tránh khỏi hệ lụy. Muốn chơi ma túy thì phải có tiền, càng nghiện thì lại càng cần tiền từ đây mà dẫn đến đủ nạn trộm cắp, giết người, cướp của. Ai cũng lo sợ, nghi ngờ, cảnh giác lẫn nhau. Và mỗi ngày sức nặng của căn bệnh thế kỉ HIV/ AIDS càng như treo lơ lửng trong lòng đời sống chật chội của con người. Biết tác hại là như vậy những vẫn có không ít những con người xa lầy vào ma túy. Có thể là do ăn chơi trác táng nhưng cũng không thể thiếu đi trách nhiệm của cộng động khi lãng quên, vô cảm bỏ rơi lại những con người ấy phía sau. Đôi khi còn bởi chính sự thiếu hiểu biết, nhẹ dạ, cả tin của một bộ phận con người đã khiến cho mối nguy hại ma túy ngày một thêm trầm trong. Và để giải quyết mối hiểm họa này không gì khác là cần đến sự quan tâm, chú ý của cả xã hôi. Chúng ta nên không ngừng trau dồi kiến thức, cảnh giác trước cám dỗ, đồng thời nhắc nhở, tuyên truyền ý thức phòng tránh ma túy cho mọi người. Còn những người đã chót lầm lỡ, thay vì xa lánh chúng ta nên giúp đỡ họ cai nghiện, quan tâm, giúp đỡ họ hòa nhập vào cuộc sống để giảm thiểu tối đa hậu quả của ma túy gây nên. Ma túy không chỉ còn là vấn nạn cấp thiết cần được giải quyết trong quy mô một vùng quốc gia, lãnh thổ nữa mà nó đã lan rộng ra mang tầm quốc tế, đòi hỏi nhân loại phải trăn trở suy nghĩ. Vì vậy, mỗi chúng ta không chỉ nên biết nâng cao ý thức của riêng mình mà còn là cả mọi người xung quanh để bảo vệ chính cuộc sống tốt đẹp của chúng ta ngày hôm nay. Xã hội ngày càng phát triển bên cạnh những mặt tích cực của công nghệ thông tin thì chúng ta đang ngày càng phải đối mặt với những tệ nạn xã hội hoành hành, trong đó phải kể tới ma túy. Ma túy là chất gây nghiện gây tác hại khôn lường đến con người và xã hội. Theo kết quả rà soát đến tháng 9/2015, toàn quốc có hơn 204000 người nghiện ma túy có hồ sơ quản lý của lực lượng Công an, tăng gần 23000 người (tăng 12%) so với cuối năm 2013. Theo báo cáo của Bộ Lao động-Thương binh và xã hội, mỗi người nghiện ma túy sử dụng khoảng 230000 đồng/ngày, do đó số tiền thiệt hại là rất lớn. Bên cạnh đó, những năm gần đây người nghiện ma túy của Việt Nam luôn luôn gia tăng. Ma túy là gì khiến bao người dấn thân vào nó đến vậy? Ma tuý, hiểu đơn giản là các chất gây nghiện, chất hướng thần, có nguồn gốc tự nhiên hoặc tổng hợp, được quy định trong danh mục do Chính phủ ban hành. Các chất này khi xâm nhập vào cơ thể người sẽ làm thay đổi trạng thái ý thức và sinh lý, có thể dẫn đến nghiện và từ đó gây tác hại về nhiều mặt đối với xã hội. Một số loại ma tuý thường gặp như thuốc phiện, mooc phin, heroin, cần sa, ma tuý tổng hợp,… Trong hai mươi năm qua (tháng 3/1997- tháng 3/2017), lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy toàn quốc đã triệt phá trên 172000 chuyên án, bắt giữ trên 283000 đối tượng phạm tội về ma túy, thu giữ hơn 3179 kg heroin, 4558 kg thuốc phiện, hơn 1 tấn ma túy đá, 1,7 triệu viên ma túy tổng hợp, 30 tấn cần sa khô, hơn 4 tấn cần sa tươi, trên 2 tấn lá khát, cỏ Mỹ, 87 kg cocain,… Số liệu trên như một tiếng chuông báo động cảnh tỉnh cho tất cả mọi người, cho toàn thể nhân loại về tác hại cũng như sự phát triển chóng mặt của nạn nghiện ma túy. Ma tuý gây ra rất nhiều tác hại khôn lường. Trước hết, nó ảnh hưởng trực tiếp đến bản thân người sử dụng. Ma túy làm huỷ hoại sức khoẻ, làm mất khả năng lao động, học tập, làm cho thần kinh người nghiện bị tổn hại. Đặc biệt, ma tuý khi dùng quá liều có thể nguy cơ cao dẫn đến cái chết. Người nghiện ma tuý có thể mang vi-rút HIV và lây truyền cho người thân của họ. Người nghiện ma túy luôn sống trong cảm giác đê mê, họ dễ bị ảo giác, ảo tưởng và không làm chủ được hành động của bản thân. Bởi vậy người nghiện ma túy dễ dàng bị bào mòn nhân cách, rối loạn hành vi, có lối sống buông thả, dễ vi phạm pháp luật. Người nghiện ma túy bị người xung quanh xa lánh hoặc dễ bị người khác lợi dụng, học tập giảm sút hoặc bỏ học, ảnh hưởng đến tương lai. Không chỉ vậy, ma túy còn gây ảnh hưởng đến gia đình. Nghiện ma tuý làm tiêu hao tiền bạc của bản thân và gia đình. Người nghiện ma túy mỗi ngày cần ít nhất từ 50000-100000 đồng,thậm chí 1000000 – 2000000 đồng/ngày để mua thuốc. Vì vậy khi lên cơn nghiện mà không có tiền trong tay, người nghiện ma tuý có thê tiêu tốn hết tiền của, tài sản, đồ đạc của gia đình, thế chấp mọi thứ trong gia đình vào việc mua ma tuý để thoả mãn cơn nghiện của mình. Nhiều thanh niên để có tiền sử dụng ma tuý đã trộm cắp, hành nghề mại dâm, thậm chí giết người, cướp của. Gia đình của người nghiện ma túy lúc nào cũng trong cảm giác canh cánh lo sợ, ngày ngày tốn thời gian, chi phí chăm sóc và điều trị các bệnh của người nghiện do ma tuý gây ra. Đặc biệt, ma túy cũng là nguyên nhân gây đảo lộn sự phát triển của cả xã hội. Nghiện ma túy gây mất trật tự an toàn xã hội, gia tăng các tệ nạn xã hội: lừa đảo, trộm cắp, giết người, mại dâm,… Đất nước có nạn nghiện ma túy anh hưởng đến đạo đức, thuần phong mỹ tục lâu đời của dân tộc đồng thời làm giảm sút sức lao động sản xuất trong xã hội. Ma tuý chính là nguồn gốc làm nảy sinh, lan truyền đại dịch HIV/AIDS – một hiểm hoạ toàn cầu chưa có thuốc chữa. Hiện nay, nước ta có trên 130.000 người nhiễm HIV/AIDS thì có 75% là do tiêm chích ma tuý. Các chất ma tuý ảnh hưởng đến hệ thống hoocmon sinh sản, làm giảm khả năng sinh hoạt tình dục, ảnh hưởng đến quá trình hình thành các giao tử, tạo cơ hội cho các gen độc có điều kiện hoạt hoá, dẫn tới suy yếu nòi giống.
Xã hội ngày càng phát triển thì càng ngày xuất hiện nhiều tệ nạn xã hội, không chỉ gây mất an ninh, trật tự mà còn đe dọa đến sự an toàn của người dân. Chúng ta biết con người ngày nay mỗi ngày chết rất nhiều, không chỉ những người già đau ốm chết mà còn là những người trẻ tuổi, đầu xanh chết. lí do họ chết sớm là do sa vào các tệ nạn xã hội. các tệ nạn xã hội nguy hiểm ngày nay như ma túy, uống rượu bia,… một trong những tệ nạn xã hội không chỉ ảnh hưởng đến bản thân người dùng mà còn ảnh hưởng đến môi trường và những người xung quanh. Trong chương trình ngữ văn lớp 10, ta sẽ bắt gặp bài viết số 4 lớp 10 đề 2 Viết một bài thuyết minh về tác hại của ma túy(hoặc của rượu, của thuốc lá) đối với đời sống con người). Dưới đây là hai bài văn thuyết minh về tác hại của ma túy. Hy vọng các bạn sẽ hoàn thành bài tập thật tốt. Giữa sự đầy đủ nhưng quay cuồng của cuộc sống thường ngày người ta thật khó thoát ra khỏi những cạm bẫy, cám dỗ tai hại và một trong số đó không thể kể đến tệ nạn nghiện ma túy. Tác hại của ma túy luôn là mối quan tâm, lo ngại của cả cộng đồng nhưng nó chẳng những không giảm đi mà ngày càng để lại cuộc sống con người những hậu quả nặng nề. Hình ảnh của ma túy vốn đã chẳng còn mấy xa lạ với bất cứ ai. Ma túy là tên gọi chung của các chất kích thích mà sử dụng nhiều lần có thể gây nghiện, có nguồn gốc tự nhiên hoặc nhân tạo. Vốn từng được sử dụng như một loại thuốc quan trọng, nhưng giờ đây nó đã bị lạm dụng, trở thành một thứ công cụ tiêu khiển thỏa mãn cảm giác nhất thời sau đó thì để lại những di chứng nặng nề. Với sự phát triến mạnh mẽ của công nghệ hiện đại, ma túy ngày một biến tướng, tồn tại dưới nhiều dạng bột, đá, lá,… và ngày một để lại tác hại nặng nề. Ma túy không phải chỉ tồn tại trong những góc hẻm tối, trong mỗi ống bơm kim tiêm nhọn hoắt mà nó vẫn gần gũi với cuộc sống thường ngày hơn chúng ta tưởng. Những loại ma túy mặc dù được hợp pháp hóa như rượu, bia, thuốc lá, nhưng nó vẫn đem đến tác hại ghê gớm đến sức khỏe con người. Nhưng đem đến tác hại hơn cả, đe dọa đến đời sống xã hội phải kể đến những loại ma túy bất hợp pháp: thuốc phiện, cần sa, heroin,…Ma túy đem đến những ảo giác thần tiên cho con người, đưa họ thoát ra khỏi những gánh nặng lo toan cơm áo gạo tiền. Và cũng chính từ đây chuỗi bi kịch kéo dài bắt đầu. Mở đầu chính là sức khỏe của chính người sử dụng.. Càng dùng thuốc, thời gian thèm thuốc ngày một kéo dài, quyết liệt. Chính vì thế mà sức khỏe ngày một đi xuống, dựa dẫm vào thuốc, đẩy họ vào trạng thái mệt nhọc, mơ màng, lúc tỉnh lúc mơ. Đâu chỉ là người nghiện mà ngay chính cả gia đình của họ cũng phải đối mặt với khó khăn. Có ai mà không nhói lòng khi tận mắt chứng kiến cảnh con cháu mình đau đớn trong cơn thèm thuốc. Mỗi lần dùng thuốc, người nghiện nào đâu có tình táo. Họ mê man trong những giấc mơ, khao khát viển vông của chính mình. Và đã không có ít lần, những ảo giác ấy đã bóp nghẹt chính cuộc đời họ: ngỡ mình là siêu nhân mà nhảy xuống từ tòa nhà cao tầng, trèo lên cột điện thậm chí là làm tổn thương cả mọi người xung quanh khi cứ ngỡ mình đang trong một trận game kịch tính mất mạng có thể hồi sinh. Không ít mái nhà yên ấm vì thế mà đổ vỡ, hạnh phúc yên ấm sụp đổ bởi sự kiệt quệ kinh tế do ma túy gây ra. Mỗi người là một phần của cộng đồng, xã hội vì thế cũng không tránh khỏi hệ lụy. Muốn chơi ma túy thì phải có tiền, càng nghiện thì lại càng cần tiền từ đây mà dẫn đến đủ nạn trộm cắp, giết người, cướp của. Ai cũng lo sợ, nghi ngờ, cảnh giác lẫn nhau. Và mỗi ngày sức nặng của căn bệnh thế kỉ HIV/ AIDS càng như treo lơ lửng trong lòng đời sống chật chội của con người. Biết tác hại là như vậy những vẫn có không ít những con người xa lầy vào ma túy. Có thể là do ăn chơi trác táng nhưng cũng không thể thiếu đi trách nhiệm của cộng động khi lãng quên, vô cảm bỏ rơi lại những con người ấy phía sau. Đôi khi còn bởi chính sự thiếu hiểu biết, nhẹ dạ, cả tin của một bộ phận con người đã khiến cho mối nguy hại ma túy ngày một thêm trầm trong. Và để giải quyết mối hiểm họa này không gì khác là cần đến sự quan tâm, chú ý của cả xã hôi. Chúng ta nên không ngừng trau dồi kiến thức, cảnh giác trước cám dỗ, đồng thời nhắc nhở, tuyên truyền ý thức phòng tránh ma túy cho mọi người. Còn những người đã chót lầm lỡ, thay vì xa lánh chúng ta nên giúp đỡ họ cai nghiện, quan tâm, giúp đỡ họ hòa nhập vào cuộc sống để giảm thiểu tối đa hậu quả của ma túy gây nên. Ma túy không chỉ còn là vấn nạn cấp thiết cần được giải quyết trong quy mô một vùng quốc gia, lãnh thổ nữa mà nó đã lan rộng ra mang tầm quốc tế, đòi hỏi nhân loại phải trăn trở suy nghĩ. Vì vậy, mỗi chúng ta không chỉ nên biết nâng cao ý thức của riêng mình mà còn là cả mọi người xung quanh để bảo vệ chính cuộc sống tốt đẹp của chúng ta ngày hôm nay. Xã hội ngày càng phát triển bên cạnh những mặt tích cực của công nghệ thông tin thì chúng ta đang ngày càng phải đối mặt với những tệ nạn xã hội hoành hành, trong đó phải kể tới ma túy. Ma túy là chất gây nghiện gây tác hại khôn lường đến con người và xã hội. Theo kết quả rà soát đến tháng 9/2015, toàn quốc có hơn 204000 người nghiện ma túy có hồ sơ quản lý của lực lượng Công an, tăng gần 23000 người (tăng 12%) so với cuối năm 2013. Theo báo cáo của Bộ Lao động-Thương binh và xã hội, mỗi người nghiện ma túy sử dụng khoảng 230000 đồng/ngày, do đó số tiền thiệt hại là rất lớn. Bên cạnh đó, những năm gần đây người nghiện ma túy của Việt Nam luôn luôn gia tăng. Ma túy là gì khiến bao người dấn thân vào nó đến vậy? Ma tuý, hiểu đơn giản là các chất gây nghiện, chất hướng thần, có nguồn gốc tự nhiên hoặc tổng hợp, được quy định trong danh mục do Chính phủ ban hành. Các chất này khi xâm nhập vào cơ thể người sẽ làm thay đổi trạng thái ý thức và sinh lý, có thể dẫn đến nghiện và từ đó gây tác hại về nhiều mặt đối với xã hội. Một số loại ma tuý thường gặp như thuốc phiện, mooc phin, heroin, cần sa, ma tuý tổng hợp,… Trong hai mươi năm qua (tháng 3/1997- tháng 3/2017), lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy toàn quốc đã triệt phá trên 172000 chuyên án, bắt giữ trên 283000 đối tượng phạm tội về ma túy, thu giữ hơn 3179 kg heroin, 4558 kg thuốc phiện, hơn 1 tấn ma túy đá, 1,7 triệu viên ma túy tổng hợp, 30 tấn cần sa khô, hơn 4 tấn cần sa tươi, trên 2 tấn lá khát, cỏ Mỹ, 87 kg cocain,… Số liệu trên như một tiếng chuông báo động cảnh tỉnh cho tất cả mọi người, cho toàn thể nhân loại về tác hại cũng như sự phát triển chóng mặt của nạn nghiện ma túy. Ma tuý gây ra rất nhiều tác hại khôn lường. Trước hết, nó ảnh hưởng trực tiếp đến bản thân người sử dụng. Ma túy làm huỷ hoại sức khoẻ, làm mất khả năng lao động, học tập, làm cho thần kinh người nghiện bị tổn hại. Đặc biệt, ma tuý khi dùng quá liều có thể nguy cơ cao dẫn đến cái chết. Người nghiện ma tuý có thể mang vi-rút HIV và lây truyền cho người thân của họ. Người nghiện ma túy luôn sống trong cảm giác đê mê, họ dễ bị ảo giác, ảo tưởng và không làm chủ được hành động của bản thân. Bởi vậy người nghiện ma túy dễ dàng bị bào mòn nhân cách, rối loạn hành vi, có lối sống buông thả, dễ vi phạm pháp luật. Người nghiện ma túy bị người xung quanh xa lánh hoặc dễ bị người khác lợi dụng, học tập giảm sút hoặc bỏ học, ảnh hưởng đến tương lai. Không chỉ vậy, ma túy còn gây ảnh hưởng đến gia đình. Nghiện ma tuý làm tiêu hao tiền bạc của bản thân và gia đình. Người nghiện ma túy mỗi ngày cần ít nhất từ 50000-100000 đồng,thậm chí 1000000 – 2000000 đồng/ngày để mua thuốc. Vì vậy khi lên cơn nghiện mà không có tiền trong tay, người nghiện ma tuý có thê tiêu tốn hết tiền của, tài sản, đồ đạc của gia đình, thế chấp mọi thứ trong gia đình vào việc mua ma tuý để thoả mãn cơn nghiện của mình. Nhiều thanh niên để có tiền sử dụng ma tuý đã trộm cắp, hành nghề mại dâm, thậm chí giết người, cướp của. Gia đình của người nghiện ma túy lúc nào cũng trong cảm giác canh cánh lo sợ, ngày ngày tốn thời gian, chi phí chăm sóc và điều trị các bệnh của người nghiện do ma tuý gây ra. Đặc biệt, ma túy cũng là nguyên nhân gây đảo lộn sự phát triển của cả xã hội. Nghiện ma túy gây mất trật tự an toàn xã hội, gia tăng các tệ nạn xã hội: lừa đảo, trộm cắp, giết người, mại dâm,… Đất nước có nạn nghiện ma túy anh hưởng đến đạo đức, thuần phong mỹ tục lâu đời của dân tộc đồng thời làm giảm sút sức lao động sản xuất trong xã hội. Ma tuý chính là nguồn gốc làm nảy sinh, lan truyền đại dịch HIV/AIDS – một hiểm hoạ toàn cầu chưa có thuốc chữa. Hiện nay, nước ta có trên 130.000 người nhiễm HIV/AIDS thì có 75% là do tiêm chích ma tuý. Các chất ma tuý ảnh hưởng đến hệ thống hoocmon sinh sản, làm giảm khả năng sinh hoạt tình dục, ảnh hưởng đến quá trình hình thành các giao tử, tạo cơ hội cho các gen độc có điều kiện hoạt hoá, dẫn tới suy yếu nòi giống.
Ca dao là cây đàn muôn điệu của người dân xưa. Đây là thể loại trữ tình bằng văn vần diễn tả đời sống nội tâm con người. Ca dao là lời thơ dân ca, kết tinh tài năng, trí tuệ, tình cảm của người nghệ sĩ dân gian trong các sáng tác của mình, là mẫu mực để văn học viết học hỏi. Tiếng nói tình cảm trong ca dao có thể khơi lên từ một tâm trạng của cá nhân nhưng những cũng bậc cảm xúc ấy lại trở thành tiếng nói chung của tất cả mọi người, tất cả những người cùng cảnh ngộ, tâm trạng, nỗi niềm. Một số lượng trong ca dao Việt Nam nói chung là ca dao hài hước. Ở đó có tiếng cười tự trào hài hước, cười mình, cười người, cười đời, song sau cùng, tất cả đều thể hiện chân thực nhất tâm hồn con người. Bài ca dao “Cưới nàng anh toan dẫn voi…” là một tiêu biểu. Trong chương trình Ngữ Văn 10 có đề văn phân tích bài ca dao “Cưới nàng anh toan dẫn voi”, đòi hỏi chúng ta phải nắm bắt được tinh thần chung nhất của bài ca dao, tiếng cười dí dóm trong bài ca dao và thông điệp rút ra qua bài ca dao. Dưới đây là bài văn mẫu phân tích bài ca dao “Cưới nàng anh toan dẫn voi” để người đọc có hướng tiếp cận khi làm đề văn này. Ca dao muôn đời là tiếng nói hồn nhiên nhất của tâm hồn người lao động. Người xưa mượn ca dao như một cách kí gửi lòng mình. Phong tục cưới xin cũng là một đề tài quen thuộc mà ca dao hướng tới. Với lối nói hóm hỉnh, ca dao đã tái hiện chân thực cảnh xin cưới và thách cưới qua bài ca dao sau: Bài ca dao là tiếng cười tự trào đầy yêu đời, lạc quan của người nông dân trước cảnh nghèo. Song chọn đúng cảnh cưới để bộc lộ chính tâm hồn mình, lấy cái nghèo để cười, để vui. Phải chăng, khi con người ta tự cười chính mình cũng chính là lúc tâm hồn họ được bộc lộ rõ nhất? Chuyện dẫn cưới là chuyện vui. Câu chuyện vui ấy mà buồn nhưng buồn mà lại hóa vui. Buồn chuyện dẫn cưới sao nhiều điều phải suy nghĩ thế! Đó là lẽ thường của người dân nghèo. Họ nghèo, sao đủ sính lễ để đi xin cưới? Nhiều đôi trai gái vì món đồ dẫn cưới quá nặng mà phải đứt gánh giữa đường. Nhưng ở bài ca dao này, câu chuyện dẫn cưới đã được giải quyết một cách khéo léo mà rất mực tự nhiên, hợp tình, hợp lí. Trước sự việc hệ trọng của đời mình, hai người đã tâm sự, bàn bạc với nhau trước khi chính thức đi đến đám cưới trong nay mai. Chàng trai là người đầu tiên mở lời trước, bộc lộ những suy nghĩ, trăn trở của mình: Lời nói khoa trương, phóng đại của chàng trai được hé mở với động từ “toan” cùng các lễ vật sang trọng: “dẫn voi, dẫn trâu, dẫn bò”. Chàng trai đã tưởng tượng ra những lễ vật linh đình, nhưng mỗi lần nói là mỗi lần thay đổi và đưa ra những lí lẽ khéo léo: dẫn voi – quốc cấm, dẫn trâu – họ máu hàn, dẫn bò – họ nhà nàng co gân. Nhưng lí lẽ này không phải là ngoa, nó hoàn toàn có thể chấp nhận được. Nhà chàng trai nghèo không thể có đủ đầy những sính lễ sao sang kia, anh đã mượn cách nói phủ định để khéo léo nói về gia cảnh mình. Chàng giải thích lí do không dẫn các lễ vật cao sang kia một cách khôn ngoan: vì tôn trọng luật pháp, phần vì lo lẳng cho sức khỏe họ hàng nhà gái. Một chàng rể thật chu đáo và hết mực lo lắng cho mọi người! Lối nói khoa trương ấy có mức độ giảm dần: “voi – trâu – bò – chuột”. Dẫn cưới bằng con chuột không có nghĩa là chàng trai coi thường người con gái, anh đã đưa ra lí do rằng chúng giống nhau: đều là thú bốn chân. Cô gái bình tĩnh, thản nhiên, không chối bỏ, không từ chối mà cảm thông và đầy chia sẻ: Cô gái hiểu cho gia cảnh chàng trai. Cùng cảnh lao động nghèo nên họ cảm thông cho nhau. Họ đến với nhau bằng nghĩa tình chứ không phải vì vụ lợi vật chất. Bằng tấm lòng chân thành của mình, cô gái ôn tồn giãi bày ý định của mình: Một lời thách cưới thật bình dân! Thách như thế không có nghĩa là cô không tôn trọng lệ làng. Làng là những vị chức sắc tổ chức và chứng giám cho hôn lễ của hai người, cô gái dành cho những củ to, củ ngon. Những củ nhỏ hơn mời họ hàng bởi họ cũng đều là phận con đen, dân đỏ, đồng cảnh nghèo đói nên họ sẽ cảm thông và hiểu cho. Trẻ con vô tư, hồn nhiên, với những củ mẻ, chúng sẽ ăn mà không đòi hỏi gì hơn nữa. Lễ vật mà cô thách cưới giản dị quá, bình thường quá! Câu nói của cô như mở lòng, mở dạ cho chàng trai, khiến chàng thoát khỏi tình thế phân vân, lúng túng. Hai tiếng “chàng ơi” nghe chất chứa yêu thương, trìu mến. Một nhà khoai lang – nghe tưởng quá nhiều nhưng đó là thứ lễ vật mà chàng trai có thể dễ dàng kiếm được. Chàng trai, cô gái đã bước qua rào cản của lễ vật sang trọng, lớn lao để đến với nhau bằng tình nghĩa đáng trọng, bằng tình yêu chân thành.
Folk songs are the musical instruments of ancient people. This is a lyrical genre in rhyme that describes people's inner life. Folk songs are folk poems, crystallizing the talent, intelligence, and emotions of folk artists in their compositions, and are a model for written literature to learn from. The emotional voice in folk songs can arise from an individual's mood, but those same emotions become the common voice of everyone, everyone with the same situation, mood, and feelings. . A number of Vietnamese folk songs are generally humorous folk songs. There is humorous self-deprecating laughter, laughing at oneself, laughing at others, laughing at the world, but in the end, all of them truly express the human soul. The folk song "To marry her, I intend to lead an elephant..." is a typical example. In the Literature 10 program, there is an essay analyzing the folk song "Marrying her, I intend to lead an elephant", requiring us to grasp the most general spirit of the folk song, the witty laughter in the folk song, and the common knowledge of the folk song. message drawn through folk songs. Below is a sample essay analyzing the folk song "Marrying a girl, I intend to lead an elephant" so that readers have an approach when writing this essay. Folk songs are forever the most innocent voice of the workers' souls. Ancient people borrowed folk songs as a way to express their feelings. Wedding customs are also a familiar topic that folk songs focus on. With a humorous way of speaking, the folk song truly recreates the scene of the wedding proposal and wedding invitation through the following folk song: The folk song is the self-satisfied laughter full of love for life and optimism of farmers in the face of poverty. But choose the right wedding scene to express your own soul, use poverty to laugh and have fun. Is it true that when people laugh at themselves, that's when their souls are revealed most clearly? Wedding planning is a fun story. The story is happy but sad but sad but happy. It's sad that there are so many things to think about when planning a wedding! That is common sense for poor people. They are poor, how can they afford the bride price to ask for a wedding? Many couples have to break their burden because the wedding items are too heavy in the middle of the road. But in this folk song, the story of leading the wedding has been solved skillfully but very naturally, appropriately and reasonably. Faced with an important event in their lives, the two confided and discussed with each other before officially getting married in the near future. The boy was the first to speak, revealing his thoughts and concerns: The boy's flamboyant and exaggerated words were revealed with the verb "toan" and luxurious offerings: "leading the elephant, leading the buffalo, leading the cow". The young man imagined lavish offerings, but each time he spoke, he changed and gave clever arguments: bringing an elephant - national ban, bringing a buffalo - a cold-blooded family, bringing a cow - her family has a family name. close. But this argument is not an exaggeration, it is completely acceptable. The poor boy's family could not afford all the lavish gifts, so he used negative language to cleverly talk about his family situation. He wisely explained the reason for not bringing those luxurious gifts: out of respect for the law, partly out of concern for the health of the bride's relatives. A son-in-law who is so thoughtful and deeply concerned for everyone! That rhetoric has a decreasing level: "elephant - buffalo - cow - mouse". Offering a mouse for wedding does not mean that the boy despises the girl, he gave the reason that they are the same: they are all four-legged animals. The girl is calm, calm, does not deny, does not refuse but is sympathetic and full of sharing: The girl understands the boy's family situation. In the same situation of poor labor, they sympathize with each other. They come together out of love, not out of material gain. With her sincerity, the girl calmly expressed her intentions: A truly popular wedding invitation! Such a challenge doesn't mean she doesn't respect village rules. Village dignitaries organize and witness the wedding of two people, and the girl gives big, delicious tubers. The smaller tubers invite relatives because they are all black people, red people, and poor people, so they will sympathize and understand. Children are carefree and innocent, with broken tubers, they will eat them without asking for anything more. The gift she challenged her to marry was so simple, so normal! Her words seemed to open the boy's heart and mind, causing him to escape from a confused and uncertain situation. The two words "my dear" sound filled with love and affection. A sweet potato house - sounds like too much, but it's an offering that the boy can easily earn. The boy and girl have overcome the barrier of luxurious and grand gifts to come together with respect and sincere love.
Ca dao là cây đàn muôn điệu của người dân xưa. Đây là thể loại trữ tình bằng văn vần diễn tả đời sống nội tâm con người. Ca dao là lời thơ dân ca, kết tinh tài năng, trí tuệ, tình cảm của người nghệ sĩ dân gian trong các sáng tác của mình, là mẫu mực để văn học viết học hỏi. Tiếng nói tình cảm trong ca dao có thể khơi lên từ một tâm trạng của cá nhân nhưng những cũng bậc cảm xúc ấy lại trở thành tiếng nói chung của tất cả mọi người, tất cả những người cùng cảnh ngộ, tâm trạng, nỗi niềm. Một số lượng trong ca dao Việt Nam nói chung là ca dao hài hước. Ở đó có tiếng cười tự trào hài hước, cười mình, cười người, cười đời, song sau cùng, tất cả đều thể hiện chân thực nhất tâm hồn con người. Bài ca dao “Cưới nàng anh toan dẫn voi…” là một tiêu biểu. Trong chương trình Ngữ Văn 10 có đề văn phân tích bài ca dao “Cưới nàng anh toan dẫn voi”, đòi hỏi chúng ta phải nắm bắt được tinh thần chung nhất của bài ca dao, tiếng cười dí dóm trong bài ca dao và thông điệp rút ra qua bài ca dao. Dưới đây là bài văn mẫu phân tích bài ca dao “Cưới nàng anh toan dẫn voi” để người đọc có hướng tiếp cận khi làm đề văn này. Ca dao muôn đời là tiếng nói hồn nhiên nhất của tâm hồn người lao động. Người xưa mượn ca dao như một cách kí gửi lòng mình. Phong tục cưới xin cũng là một đề tài quen thuộc mà ca dao hướng tới. Với lối nói hóm hỉnh, ca dao đã tái hiện chân thực cảnh xin cưới và thách cưới qua bài ca dao sau: Bài ca dao là tiếng cười tự trào đầy yêu đời, lạc quan của người nông dân trước cảnh nghèo. Song chọn đúng cảnh cưới để bộc lộ chính tâm hồn mình, lấy cái nghèo để cười, để vui. Phải chăng, khi con người ta tự cười chính mình cũng chính là lúc tâm hồn họ được bộc lộ rõ nhất? Chuyện dẫn cưới là chuyện vui. Câu chuyện vui ấy mà buồn nhưng buồn mà lại hóa vui. Buồn chuyện dẫn cưới sao nhiều điều phải suy nghĩ thế! Đó là lẽ thường của người dân nghèo. Họ nghèo, sao đủ sính lễ để đi xin cưới? Nhiều đôi trai gái vì món đồ dẫn cưới quá nặng mà phải đứt gánh giữa đường. Nhưng ở bài ca dao này, câu chuyện dẫn cưới đã được giải quyết một cách khéo léo mà rất mực tự nhiên, hợp tình, hợp lí. Trước sự việc hệ trọng của đời mình, hai người đã tâm sự, bàn bạc với nhau trước khi chính thức đi đến đám cưới trong nay mai. Chàng trai là người đầu tiên mở lời trước, bộc lộ những suy nghĩ, trăn trở của mình: Lời nói khoa trương, phóng đại của chàng trai được hé mở với động từ “toan” cùng các lễ vật sang trọng: “dẫn voi, dẫn trâu, dẫn bò”. Chàng trai đã tưởng tượng ra những lễ vật linh đình, nhưng mỗi lần nói là mỗi lần thay đổi và đưa ra những lí lẽ khéo léo: dẫn voi – quốc cấm, dẫn trâu – họ máu hàn, dẫn bò – họ nhà nàng co gân. Nhưng lí lẽ này không phải là ngoa, nó hoàn toàn có thể chấp nhận được. Nhà chàng trai nghèo không thể có đủ đầy những sính lễ sao sang kia, anh đã mượn cách nói phủ định để khéo léo nói về gia cảnh mình. Chàng giải thích lí do không dẫn các lễ vật cao sang kia một cách khôn ngoan: vì tôn trọng luật pháp, phần vì lo lẳng cho sức khỏe họ hàng nhà gái. Một chàng rể thật chu đáo và hết mực lo lắng cho mọi người! Lối nói khoa trương ấy có mức độ giảm dần: “voi – trâu – bò – chuột”. Dẫn cưới bằng con chuột không có nghĩa là chàng trai coi thường người con gái, anh đã đưa ra lí do rằng chúng giống nhau: đều là thú bốn chân. Cô gái bình tĩnh, thản nhiên, không chối bỏ, không từ chối mà cảm thông và đầy chia sẻ: Cô gái hiểu cho gia cảnh chàng trai. Cùng cảnh lao động nghèo nên họ cảm thông cho nhau. Họ đến với nhau bằng nghĩa tình chứ không phải vì vụ lợi vật chất. Bằng tấm lòng chân thành của mình, cô gái ôn tồn giãi bày ý định của mình: Một lời thách cưới thật bình dân! Thách như thế không có nghĩa là cô không tôn trọng lệ làng. Làng là những vị chức sắc tổ chức và chứng giám cho hôn lễ của hai người, cô gái dành cho những củ to, củ ngon. Những củ nhỏ hơn mời họ hàng bởi họ cũng đều là phận con đen, dân đỏ, đồng cảnh nghèo đói nên họ sẽ cảm thông và hiểu cho. Trẻ con vô tư, hồn nhiên, với những củ mẻ, chúng sẽ ăn mà không đòi hỏi gì hơn nữa. Lễ vật mà cô thách cưới giản dị quá, bình thường quá! Câu nói của cô như mở lòng, mở dạ cho chàng trai, khiến chàng thoát khỏi tình thế phân vân, lúng túng. Hai tiếng “chàng ơi” nghe chất chứa yêu thương, trìu mến. Một nhà khoai lang – nghe tưởng quá nhiều nhưng đó là thứ lễ vật mà chàng trai có thể dễ dàng kiếm được. Chàng trai, cô gái đã bước qua rào cản của lễ vật sang trọng, lớn lao để đến với nhau bằng tình nghĩa đáng trọng, bằng tình yêu chân thành.
Folk songs are the musical instruments of ancient people. This is a lyrical genre in rhyme that describes people's inner life. Folk songs are folk poems, crystallizing the talent, intelligence, and emotions of folk artists in their compositions, and are a model for written literature to learn from. The emotional voice in folk songs can arise from an individual's mood, but those same emotions become the common voice of everyone, everyone with the same situation, mood, and feelings. . A number of Vietnamese folk songs are generally humorous folk songs. There is humorous self-deprecating laughter, laughing at oneself, laughing at others, laughing at the world, but in the end, all of them truly express the human soul. The folk song "To marry her, I intend to lead an elephant..." is a typical example. In the Literature 10 program, there is an essay analyzing the folk song "Marrying her, I intend to lead an elephant", requiring us to grasp the most general spirit of the folk song, the witty laughter in the folk song, and the common knowledge of the folk song. message drawn through folk songs. Below is a sample essay analyzing the folk song "Marrying a girl, I intend to lead an elephant" so that readers have an approach when writing this essay. Folk songs are forever the most innocent voice of the workers' souls. Ancient people borrowed folk songs as a way to express their feelings. Wedding customs are also a familiar topic that folk songs focus on. With a humorous way of speaking, the folk song truly recreates the scene of the wedding proposal and wedding invitation through the following folk song: The folk song is the self-satisfied laughter full of love for life and optimism of farmers in the face of poverty. But choose the right wedding scene to express your own soul, use poverty to laugh and have fun. Is it true that when people laugh at themselves, that's when their souls are revealed most clearly? Wedding planning is a fun story. The story is happy but sad but sad but happy. It's sad that there are so many things to think about when planning a wedding! That is common sense for poor people. They are poor, how can they afford the bride price to ask for a wedding? Many couples have to break their burden because the wedding items are too heavy in the middle of the road. But in this folk song, the story of leading the wedding has been solved skillfully but very naturally, appropriately and reasonably. Faced with an important event in their lives, the two confided and discussed with each other before officially getting married in the near future. The boy was the first to speak, revealing his thoughts and concerns: The boy's flamboyant and exaggerated words were revealed with the verb "toan" and luxurious offerings: "leading the elephant, leading the buffalo, leading the cow". The young man imagined lavish offerings, but each time he spoke, he changed and gave clever arguments: bringing an elephant - national ban, bringing a buffalo - a cold-blooded family, bringing a cow - her family has a family name. close. But this argument is not an exaggeration, it is completely acceptable. The poor boy's family could not afford all the lavish gifts, so he used negative language to cleverly talk about his family situation. He wisely explained the reason for not bringing those luxurious gifts: out of respect for the law, partly out of concern for the health of the bride's relatives. A son-in-law who is so thoughtful and deeply concerned for everyone! That rhetoric has a decreasing level: "elephant - buffalo - cow - mouse". Offering a mouse for wedding does not mean that the boy despises the girl, he gave the reason that they are the same: they are all four-legged animals. The girl is calm, calm, does not deny, does not refuse but is sympathetic and full of sharing: The girl understands the boy's family situation. In the same situation of poor labor, they sympathize with each other. They come together out of love, not out of material gain. With her sincerity, the girl calmly expressed her intentions: A truly popular wedding invitation! Such a challenge doesn't mean she doesn't respect village rules. Village dignitaries organize and witness the wedding of two people, and the girl gives big, delicious tubers. The smaller tubers invite relatives because they are all black people, red people, and poor people, so they will sympathize and understand. Children are carefree and innocent, with broken tubers, they will eat them without asking for anything more. The gift she challenged her to marry was so simple, so normal! Her words seemed to open the boy's heart and mind, causing him to escape from a confused and uncertain situation. The two words "my dear" sound filled with love and affection. A sweet potato house - sounds like too much, but it's an offering that the boy can easily earn. The boy and girl have overcome the barrier of luxurious and grand gifts to come together with respect and sincere love.
Bốn mùa xuân hạ thu đông luôn tuần hoàn như lẽ tự nhiên nó vốn có và cuộc sống con người vẫn trôi đi theo quy luật của cuộc đời. Và các bạn biết không, có những khoảnh khắc tưởng như bình thường mà lại hóa diệu kì, có khoảnh khắc khiến cho thiên nhiên và con người cũng phải đổi thay. Đó chính là thời khắc chuyển mùa. Sự chuyển giao của tiết trời, khí hậu, có khi là cành cây khô bỗng xanh trở lại, cũng khiến con người ta phải rung động. Để viết được một bài văn cảm nghĩ về thiên nhiên và con người lúc giao mùa, các bạn cần cho mọi người biết, đó là sự chuyển giao giữa mùa gì sang mùa gì, khí hậu, thiên nhiên, cảnh vật thay đổi thế nào, cuộc sống con người có gì khác? Các bạn cũng có thể viết ra những cảm nhận hay kỉ niệm riêng của mình trong khoảnh khắc đó để bài văn thêm sinh động. Và đặc biệt, các bạn hãy nhớ đây là một bài văn cảm nhận, luôn phải chú ý đó là cảm xúc riêng nhất của mình nhé. Chúc các bạn thành công! Đã từng có một Hữu Thỉnh “giật mình” trước khoảnh khắc thu về, một Xuân Diệu đắm say lúc xuân sang. Phải chăng, chính thời khắc giao mùa ấy mới là lúc con người ta rung động nhất? Và với riêng tôi, điều kì diệu nhất chính là lúc nàng xuân đưa bước chân đến với trần gian khi mùa đông vẫn còn ngậm ngùi chia tay hạ giới. Thiên nhiên và con người trong khoảnh khắc ấy thật đặc biệt. Đó là một buổi sáng cuối năm, người ta đã treo ngoài đường đầy những câu đối đỏ, những hoa đào hoa mai. Tôi vẫn còn cuộn tròn trong chiếc chăn bông, bởi đêm qua, gió vẫn rít qua khung cửa sổ, cái lạnh vẫn còn khiến người ta phải run lên từng hồi. Mẹ gọi tôi dậy để giúp mẹ đi mua sắm chuẩn bị cho dịp tết. Ngay từ khoảnh khắc bước chân ra ngoài sân, tôi đã thấy một điều gì thật lạ. Hình như, xuân đã về thật rồi! Tôi hít thật sâu, cảm nhận trọn vẹn bầu không khí trong lành ấy. Trời vẫn lạnh, nhưng nó không còn cắt da cắt thịt như trước nữa. Dường như vị nắng đã lan tỏa đâu đây. Nắng đậu trên nhành cây, trên mái hiên hay trên bàn tay tôi đang mở rộng. Ồ, thì ra xuân đưa nắng đến thật rồi. Nắng như nàng thiếu nữ còn ngại ngùng ngó qua làn mây. Chút nắng ấy nhẹ lắm, dường như phải nhìn thật kĩ mới có thể cảm nhận. Nắng mới ấy còn chưa kịp tỏa rộng khắp không gian, tôi lại cảm nhận được làn da mình hơi ươn ướt, lòng chợt phơi phới vì hạt mưa xuân đầu tiên. Mưa không đủ mạnh để làm ướt con đường làng, nhưng đủ để ta thấy được, xuân đã về thật rồi. Là mùa đầu tiên, là mùa của hạnh phúc bắt đầu với nắng và mưa thật dịu nhẹ. Lúc này, tôi mới chợt nhận ra khu vườn của mình đã bắt đầu thay đổi. Cây cối không còn khẳng khiu như ngày hôm qua nữa, xuân đến mang cho nó một sức sống mới. Những chồi non mới nhú lên được một chút, như ngại ngùng với thế giới xung quanh. Màu xanh đã bắt đầu điểm khắp khu vườn, báo hiệu cho những điều mới mẻ. Và nhìn kìa, những chú chim non đang rúc đầu trong lòng mẹ một cách ngon lành. Những chú chim đi tránh rét đã bắt đầu quay về với bầu trời xanh. Cả không gian nhộn nhịp với màu xanh của chồi non, màu vàng nhạt của nắng và tiếng chim hát khúc ca mùa xuân. Mọi thứ dường như đã sẵn sàng để đón chào một mùa xuân mới. Trên đường đi chợ, tôi mới thực sự cảm nhận được bước đi của mùa xuân. Xuân về trên con đường làng xanh màu cỏ, đậu trên những mái nhà ngói đỏ, hay rạng rõ trên khuôn mặt con người. Làng quê nhỏ hôm nay không còn vắng vẻ như những ngày lạnh nữa. Người ta mang chổi ra để dọn dẹp khoảng sân trước nhà, có nhà lại gọi con cháu ra để tỉa cây, để trang trí cây đào cây quất. Xuân mang đến một sinh khí mới cho cả quê hương. Và đặc sản của mùa xuân cũng đã về đến từng nhà. Những người lớn ngồi bên hiên nhà gói bánh chưng, trẻ con ríu rít xung quanh để giúp đỡ, để cười đùa. Tiếng cười cứ thế vang lên mãi làm mùa xuân cũng náo nức về nhanh hơn. Nhưng mùa xuân đến, tôi cũng chợt giật mình vì điều gì đó. Có phải xuân làm cho khuôn mặt của những kiếp lang thang cơ nhỡ, những người không thể đoàn tụ với gia đình thêm trùng xuống? Xuân mang đến thêm khó khăn cho những gia đình nghèo, khi phải lo cho con tấm áo mới, phải có mâm cơm tươm tất cúng tổ tiên. Và cũng khi mùa xuân, ta giật mình nhận ra cha mẹ già thêm một tuổi, và ngày ta xa họ càng gần. Xuân là thế, không chỉ có nắng mà vẫn còn mưa, không chỉ có hạnh phúc mà còn mang cả nỗi buồn. Với riêng tôi, khoảnh khắc chuyển từ đông sang xuân thực sự là kì diệu. Cảm nhận được rằng, những kỉ niệm của năm cũ vẫn còn vấn vương, những niềm vui nỗi buồn cũ vẫn thấp thoáng đâu đây. Nhưng cũng tự lòng mình phải biết rằng, cần hướng đến những điều mới mẻ, cần nỗ lực, cần cố gắng nhiều hơn. Hay nói đúng hơn, đó là khoảnh khắc của trưởng thành! Bạn biết không, cuộc đời của chúng ta là hữu hạn, chẳng biết sẽ còn mấy lần được sống trong khoảnh khắc ấy nữa. Hãy cứ yêu lấy những lúc giao mùa, để biết rằng xung quanh mình có thiên nhiên, cuộc sống, có những hạnh phúc giản đơn mà chân quý như vậy. Những giai điệu ngọt ngào và lãng mạn của nhạc sĩ Trần Quang Lộc dường như đã in sâu và tiềm thức, trái tim và làm say đắm biết bao thế hệ con người Việt Nam mỗi độ thu về. Không chỉ là mùa thu Hà Nội mà cái khoảnh khắc đất trời dịu dàng chuyển mình từ hạ sang thu quá đỗi đẹp ấy từ lâu đã trở thành nguồn cảm hứng bất tận cho thi ca nhạc họa. Khi cái nắng oi ả nóng bức của mùa hạ dần dịu xuống và thay vào đó là những làn gió mềm mại thở vào đất trời một cảm giác trong trẻo, dễ chịu, ấy là mùa thu đã nhẹ nhàng chớm sang. Thu về không còn ánh nắng chói chang cùng tiếng ve kêu râm ran khắp các con ngõ nhỏ nữa. Từng đám mây trắng lãng đãng trôi lững lờ trên bầu trời dường như trong xanh và cao hơn, thấp thoáng đâu đó là những tia nắng lấp lánh nhảy nhót qua kẽ lá. Nếu ví mùa hạ là một cô gái sôi nổi, rực rỡ và đầy năng lượng thì mùa thu lại giống hệt như một nàng thiếu nữ dịu dàng, e ấp, có chút ngượng ngùng của tuổi mới lớn nhưng lại vô cùng tinh tế, yêu kiều. Không tràn trề sức sống như mùa xuân, không náo nhiệt sôi động như những ngày hè và cũng chẳng thu mình lại suy tư trầm ngâm như mùa đông, thu sang mang một vẻ đẹp vô cùng riêng biệt. Thích biết bao cái cảm giác mỗi buổi sớm mai thức dậy ngắm những hạt sương long lanh đọng trên lá cây bàng trước nhà và hít thở bầu không khí trong trẻo thấm đẫm hơi sương ấy. Thu về mang theo cái se se lạnh vô cùng đặc trưng của làn gió heo may. Phả trong không gian ấy làm sao có thể quên được hương hoa sữa nồng nàn, ngọt ngào vấn vít làm cho ta bồi hồi xao xuyến và nhung nhớ đến lạ. Đất trời lắc mình chớm sang thu nên đâu đó vẫn còn vương lại những đốm hoa phượng đỏ ngày hè, dãy bằng lăng dọc hai bên đường tôi đi học mỗi ngày đã không còn sắc tím ngắt đến nao lòng nữa mà thay vào đó là chút tím đã phai màu mơ màng, nhẹ nhàng. Mùa thu dịu dàng đến, nhường chỗ cho những đóa sen trắng sen hồng đang dần úa tàn trong hồ là sắc trắng tinh khôi của những bông cúc nở rộ.Tôi vẫn còn nhớ như in những ngày bé theo mẹ ra chợ, cứ bắt gặp những khóm cúc trắng ngà tinh khôi trên những gánh hàng rong của cô bán hàng, ấy là mùa thu đang đến gần, rất gần. Những bông cúc được hái từ vườn, phơi khô rồi xao lên pha thành ấm trà hoa cúc thì cái hương thơm dịu nhẹ mà ngan ngát thấm đượm từng vị thu ấy có lẽ cả đời ta cũng không thể nào quên được. Thời khắc đất trời và thiên nhiên giao mình chuyển mùa sang thu nên dường như tâm trạng của con người cũng bất giác trùng xuống. Không còn là nhịp sống ồn ào, hối hả, vội vã nữa, ai cũng dường như sống chậm lại, tĩnh lặng hơn để cảm nhận và tận hưởng cái khoảnh khắc êm ái, dịu dàng man mác này.Chẳng thế mà người ta vẫn luôn nói mùa thu là mùa của hoài niệm, của những nỗi nhớ không tên, có lẽ bởi vì thu sang mang theo cái không gian lãng đãng và mơ màng quá nên con người tự nhiên cũng lắng mình lại để nghe tiếng lá cây xào xạc, để cảm nhận từng cơn gió thoảng qua mơn man mùi hoa sữa dịu ngọt.
Bốn mùa xuân hạ thu đông luôn tuần hoàn như lẽ tự nhiên nó vốn có và cuộc sống con người vẫn trôi đi theo quy luật của cuộc đời. Và các bạn biết không, có những khoảnh khắc tưởng như bình thường mà lại hóa diệu kì, có khoảnh khắc khiến cho thiên nhiên và con người cũng phải đổi thay. Đó chính là thời khắc chuyển mùa. Sự chuyển giao của tiết trời, khí hậu, có khi là cành cây khô bỗng xanh trở lại, cũng khiến con người ta phải rung động. Để viết được một bài văn cảm nghĩ về thiên nhiên và con người lúc giao mùa, các bạn cần cho mọi người biết, đó là sự chuyển giao giữa mùa gì sang mùa gì, khí hậu, thiên nhiên, cảnh vật thay đổi thế nào, cuộc sống con người có gì khác? Các bạn cũng có thể viết ra những cảm nhận hay kỉ niệm riêng của mình trong khoảnh khắc đó để bài văn thêm sinh động. Và đặc biệt, các bạn hãy nhớ đây là một bài văn cảm nhận, luôn phải chú ý đó là cảm xúc riêng nhất của mình nhé. Chúc các bạn thành công! Đã từng có một Hữu Thỉnh “giật mình” trước khoảnh khắc thu về, một Xuân Diệu đắm say lúc xuân sang. Phải chăng, chính thời khắc giao mùa ấy mới là lúc con người ta rung động nhất? Và với riêng tôi, điều kì diệu nhất chính là lúc nàng xuân đưa bước chân đến với trần gian khi mùa đông vẫn còn ngậm ngùi chia tay hạ giới. Thiên nhiên và con người trong khoảnh khắc ấy thật đặc biệt. Đó là một buổi sáng cuối năm, người ta đã treo ngoài đường đầy những câu đối đỏ, những hoa đào hoa mai. Tôi vẫn còn cuộn tròn trong chiếc chăn bông, bởi đêm qua, gió vẫn rít qua khung cửa sổ, cái lạnh vẫn còn khiến người ta phải run lên từng hồi. Mẹ gọi tôi dậy để giúp mẹ đi mua sắm chuẩn bị cho dịp tết. Ngay từ khoảnh khắc bước chân ra ngoài sân, tôi đã thấy một điều gì thật lạ. Hình như, xuân đã về thật rồi! Tôi hít thật sâu, cảm nhận trọn vẹn bầu không khí trong lành ấy. Trời vẫn lạnh, nhưng nó không còn cắt da cắt thịt như trước nữa. Dường như vị nắng đã lan tỏa đâu đây. Nắng đậu trên nhành cây, trên mái hiên hay trên bàn tay tôi đang mở rộng. Ồ, thì ra xuân đưa nắng đến thật rồi. Nắng như nàng thiếu nữ còn ngại ngùng ngó qua làn mây. Chút nắng ấy nhẹ lắm, dường như phải nhìn thật kĩ mới có thể cảm nhận. Nắng mới ấy còn chưa kịp tỏa rộng khắp không gian, tôi lại cảm nhận được làn da mình hơi ươn ướt, lòng chợt phơi phới vì hạt mưa xuân đầu tiên. Mưa không đủ mạnh để làm ướt con đường làng, nhưng đủ để ta thấy được, xuân đã về thật rồi. Là mùa đầu tiên, là mùa của hạnh phúc bắt đầu với nắng và mưa thật dịu nhẹ. Lúc này, tôi mới chợt nhận ra khu vườn của mình đã bắt đầu thay đổi. Cây cối không còn khẳng khiu như ngày hôm qua nữa, xuân đến mang cho nó một sức sống mới. Những chồi non mới nhú lên được một chút, như ngại ngùng với thế giới xung quanh. Màu xanh đã bắt đầu điểm khắp khu vườn, báo hiệu cho những điều mới mẻ. Và nhìn kìa, những chú chim non đang rúc đầu trong lòng mẹ một cách ngon lành. Những chú chim đi tránh rét đã bắt đầu quay về với bầu trời xanh. Cả không gian nhộn nhịp với màu xanh của chồi non, màu vàng nhạt của nắng và tiếng chim hát khúc ca mùa xuân. Mọi thứ dường như đã sẵn sàng để đón chào một mùa xuân mới. Trên đường đi chợ, tôi mới thực sự cảm nhận được bước đi của mùa xuân. Xuân về trên con đường làng xanh màu cỏ, đậu trên những mái nhà ngói đỏ, hay rạng rõ trên khuôn mặt con người. Làng quê nhỏ hôm nay không còn vắng vẻ như những ngày lạnh nữa. Người ta mang chổi ra để dọn dẹp khoảng sân trước nhà, có nhà lại gọi con cháu ra để tỉa cây, để trang trí cây đào cây quất. Xuân mang đến một sinh khí mới cho cả quê hương. Và đặc sản của mùa xuân cũng đã về đến từng nhà. Những người lớn ngồi bên hiên nhà gói bánh chưng, trẻ con ríu rít xung quanh để giúp đỡ, để cười đùa. Tiếng cười cứ thế vang lên mãi làm mùa xuân cũng náo nức về nhanh hơn. Nhưng mùa xuân đến, tôi cũng chợt giật mình vì điều gì đó. Có phải xuân làm cho khuôn mặt của những kiếp lang thang cơ nhỡ, những người không thể đoàn tụ với gia đình thêm trùng xuống? Xuân mang đến thêm khó khăn cho những gia đình nghèo, khi phải lo cho con tấm áo mới, phải có mâm cơm tươm tất cúng tổ tiên. Và cũng khi mùa xuân, ta giật mình nhận ra cha mẹ già thêm một tuổi, và ngày ta xa họ càng gần. Xuân là thế, không chỉ có nắng mà vẫn còn mưa, không chỉ có hạnh phúc mà còn mang cả nỗi buồn. Với riêng tôi, khoảnh khắc chuyển từ đông sang xuân thực sự là kì diệu. Cảm nhận được rằng, những kỉ niệm của năm cũ vẫn còn vấn vương, những niềm vui nỗi buồn cũ vẫn thấp thoáng đâu đây. Nhưng cũng tự lòng mình phải biết rằng, cần hướng đến những điều mới mẻ, cần nỗ lực, cần cố gắng nhiều hơn. Hay nói đúng hơn, đó là khoảnh khắc của trưởng thành! Bạn biết không, cuộc đời của chúng ta là hữu hạn, chẳng biết sẽ còn mấy lần được sống trong khoảnh khắc ấy nữa. Hãy cứ yêu lấy những lúc giao mùa, để biết rằng xung quanh mình có thiên nhiên, cuộc sống, có những hạnh phúc giản đơn mà chân quý như vậy. Những giai điệu ngọt ngào và lãng mạn của nhạc sĩ Trần Quang Lộc dường như đã in sâu và tiềm thức, trái tim và làm say đắm biết bao thế hệ con người Việt Nam mỗi độ thu về. Không chỉ là mùa thu Hà Nội mà cái khoảnh khắc đất trời dịu dàng chuyển mình từ hạ sang thu quá đỗi đẹp ấy từ lâu đã trở thành nguồn cảm hứng bất tận cho thi ca nhạc họa. Khi cái nắng oi ả nóng bức của mùa hạ dần dịu xuống và thay vào đó là những làn gió mềm mại thở vào đất trời một cảm giác trong trẻo, dễ chịu, ấy là mùa thu đã nhẹ nhàng chớm sang. Thu về không còn ánh nắng chói chang cùng tiếng ve kêu râm ran khắp các con ngõ nhỏ nữa. Từng đám mây trắng lãng đãng trôi lững lờ trên bầu trời dường như trong xanh và cao hơn, thấp thoáng đâu đó là những tia nắng lấp lánh nhảy nhót qua kẽ lá. Nếu ví mùa hạ là một cô gái sôi nổi, rực rỡ và đầy năng lượng thì mùa thu lại giống hệt như một nàng thiếu nữ dịu dàng, e ấp, có chút ngượng ngùng của tuổi mới lớn nhưng lại vô cùng tinh tế, yêu kiều. Không tràn trề sức sống như mùa xuân, không náo nhiệt sôi động như những ngày hè và cũng chẳng thu mình lại suy tư trầm ngâm như mùa đông, thu sang mang một vẻ đẹp vô cùng riêng biệt. Thích biết bao cái cảm giác mỗi buổi sớm mai thức dậy ngắm những hạt sương long lanh đọng trên lá cây bàng trước nhà và hít thở bầu không khí trong trẻo thấm đẫm hơi sương ấy. Thu về mang theo cái se se lạnh vô cùng đặc trưng của làn gió heo may. Phả trong không gian ấy làm sao có thể quên được hương hoa sữa nồng nàn, ngọt ngào vấn vít làm cho ta bồi hồi xao xuyến và nhung nhớ đến lạ. Đất trời lắc mình chớm sang thu nên đâu đó vẫn còn vương lại những đốm hoa phượng đỏ ngày hè, dãy bằng lăng dọc hai bên đường tôi đi học mỗi ngày đã không còn sắc tím ngắt đến nao lòng nữa mà thay vào đó là chút tím đã phai màu mơ màng, nhẹ nhàng. Mùa thu dịu dàng đến, nhường chỗ cho những đóa sen trắng sen hồng đang dần úa tàn trong hồ là sắc trắng tinh khôi của những bông cúc nở rộ.Tôi vẫn còn nhớ như in những ngày bé theo mẹ ra chợ, cứ bắt gặp những khóm cúc trắng ngà tinh khôi trên những gánh hàng rong của cô bán hàng, ấy là mùa thu đang đến gần, rất gần. Những bông cúc được hái từ vườn, phơi khô rồi xao lên pha thành ấm trà hoa cúc thì cái hương thơm dịu nhẹ mà ngan ngát thấm đượm từng vị thu ấy có lẽ cả đời ta cũng không thể nào quên được. Thời khắc đất trời và thiên nhiên giao mình chuyển mùa sang thu nên dường như tâm trạng của con người cũng bất giác trùng xuống. Không còn là nhịp sống ồn ào, hối hả, vội vã nữa, ai cũng dường như sống chậm lại, tĩnh lặng hơn để cảm nhận và tận hưởng cái khoảnh khắc êm ái, dịu dàng man mác này.Chẳng thế mà người ta vẫn luôn nói mùa thu là mùa của hoài niệm, của những nỗi nhớ không tên, có lẽ bởi vì thu sang mang theo cái không gian lãng đãng và mơ màng quá nên con người tự nhiên cũng lắng mình lại để nghe tiếng lá cây xào xạc, để cảm nhận từng cơn gió thoảng qua mơn man mùi hoa sữa dịu ngọt.
Bốn mùa xuân hạ thu đông luôn tuần hoàn như lẽ tự nhiên nó vốn có và cuộc sống con người vẫn trôi đi theo quy luật của cuộc đời. Và các bạn biết không, có những khoảnh khắc tưởng như bình thường mà lại hóa diệu kì, có khoảnh khắc khiến cho thiên nhiên và con người cũng phải đổi thay. Đó chính là thời khắc chuyển mùa. Sự chuyển giao của tiết trời, khí hậu, có khi là cành cây khô bỗng xanh trở lại, cũng khiến con người ta phải rung động. Để viết được một bài văn cảm nghĩ về thiên nhiên và con người lúc giao mùa, các bạn cần cho mọi người biết, đó là sự chuyển giao giữa mùa gì sang mùa gì, khí hậu, thiên nhiên, cảnh vật thay đổi thế nào, cuộc sống con người có gì khác? Các bạn cũng có thể viết ra những cảm nhận hay kỉ niệm riêng của mình trong khoảnh khắc đó để bài văn thêm sinh động. Và đặc biệt, các bạn hãy nhớ đây là một bài văn cảm nhận, luôn phải chú ý đó là cảm xúc riêng nhất của mình nhé. Chúc các bạn thành công! Đã từng có một Hữu Thỉnh “giật mình” trước khoảnh khắc thu về, một Xuân Diệu đắm say lúc xuân sang. Phải chăng, chính thời khắc giao mùa ấy mới là lúc con người ta rung động nhất? Và với riêng tôi, điều kì diệu nhất chính là lúc nàng xuân đưa bước chân đến với trần gian khi mùa đông vẫn còn ngậm ngùi chia tay hạ giới. Thiên nhiên và con người trong khoảnh khắc ấy thật đặc biệt. Đó là một buổi sáng cuối năm, người ta đã treo ngoài đường đầy những câu đối đỏ, những hoa đào hoa mai. Tôi vẫn còn cuộn tròn trong chiếc chăn bông, bởi đêm qua, gió vẫn rít qua khung cửa sổ, cái lạnh vẫn còn khiến người ta phải run lên từng hồi. Mẹ gọi tôi dậy để giúp mẹ đi mua sắm chuẩn bị cho dịp tết. Ngay từ khoảnh khắc bước chân ra ngoài sân, tôi đã thấy một điều gì thật lạ. Hình như, xuân đã về thật rồi! Tôi hít thật sâu, cảm nhận trọn vẹn bầu không khí trong lành ấy. Trời vẫn lạnh, nhưng nó không còn cắt da cắt thịt như trước nữa. Dường như vị nắng đã lan tỏa đâu đây. Nắng đậu trên nhành cây, trên mái hiên hay trên bàn tay tôi đang mở rộng. Ồ, thì ra xuân đưa nắng đến thật rồi. Nắng như nàng thiếu nữ còn ngại ngùng ngó qua làn mây. Chút nắng ấy nhẹ lắm, dường như phải nhìn thật kĩ mới có thể cảm nhận. Nắng mới ấy còn chưa kịp tỏa rộng khắp không gian, tôi lại cảm nhận được làn da mình hơi ươn ướt, lòng chợt phơi phới vì hạt mưa xuân đầu tiên. Mưa không đủ mạnh để làm ướt con đường làng, nhưng đủ để ta thấy được, xuân đã về thật rồi. Là mùa đầu tiên, là mùa của hạnh phúc bắt đầu với nắng và mưa thật dịu nhẹ. Lúc này, tôi mới chợt nhận ra khu vườn của mình đã bắt đầu thay đổi. Cây cối không còn khẳng khiu như ngày hôm qua nữa, xuân đến mang cho nó một sức sống mới. Những chồi non mới nhú lên được một chút, như ngại ngùng với thế giới xung quanh. Màu xanh đã bắt đầu điểm khắp khu vườn, báo hiệu cho những điều mới mẻ. Và nhìn kìa, những chú chim non đang rúc đầu trong lòng mẹ một cách ngon lành. Những chú chim đi tránh rét đã bắt đầu quay về với bầu trời xanh. Cả không gian nhộn nhịp với màu xanh của chồi non, màu vàng nhạt của nắng và tiếng chim hát khúc ca mùa xuân. Mọi thứ dường như đã sẵn sàng để đón chào một mùa xuân mới. Trên đường đi chợ, tôi mới thực sự cảm nhận được bước đi của mùa xuân. Xuân về trên con đường làng xanh màu cỏ, đậu trên những mái nhà ngói đỏ, hay rạng rõ trên khuôn mặt con người. Làng quê nhỏ hôm nay không còn vắng vẻ như những ngày lạnh nữa. Người ta mang chổi ra để dọn dẹp khoảng sân trước nhà, có nhà lại gọi con cháu ra để tỉa cây, để trang trí cây đào cây quất. Xuân mang đến một sinh khí mới cho cả quê hương. Và đặc sản của mùa xuân cũng đã về đến từng nhà. Những người lớn ngồi bên hiên nhà gói bánh chưng, trẻ con ríu rít xung quanh để giúp đỡ, để cười đùa. Tiếng cười cứ thế vang lên mãi làm mùa xuân cũng náo nức về nhanh hơn. Nhưng mùa xuân đến, tôi cũng chợt giật mình vì điều gì đó. Có phải xuân làm cho khuôn mặt của những kiếp lang thang cơ nhỡ, những người không thể đoàn tụ với gia đình thêm trùng xuống? Xuân mang đến thêm khó khăn cho những gia đình nghèo, khi phải lo cho con tấm áo mới, phải có mâm cơm tươm tất cúng tổ tiên. Và cũng khi mùa xuân, ta giật mình nhận ra cha mẹ già thêm một tuổi, và ngày ta xa họ càng gần. Xuân là thế, không chỉ có nắng mà vẫn còn mưa, không chỉ có hạnh phúc mà còn mang cả nỗi buồn. Với riêng tôi, khoảnh khắc chuyển từ đông sang xuân thực sự là kì diệu. Cảm nhận được rằng, những kỉ niệm của năm cũ vẫn còn vấn vương, những niềm vui nỗi buồn cũ vẫn thấp thoáng đâu đây. Nhưng cũng tự lòng mình phải biết rằng, cần hướng đến những điều mới mẻ, cần nỗ lực, cần cố gắng nhiều hơn. Hay nói đúng hơn, đó là khoảnh khắc của trưởng thành! Bạn biết không, cuộc đời của chúng ta là hữu hạn, chẳng biết sẽ còn mấy lần được sống trong khoảnh khắc ấy nữa. Hãy cứ yêu lấy những lúc giao mùa, để biết rằng xung quanh mình có thiên nhiên, cuộc sống, có những hạnh phúc giản đơn mà chân quý như vậy. Những giai điệu ngọt ngào và lãng mạn của nhạc sĩ Trần Quang Lộc dường như đã in sâu và tiềm thức, trái tim và làm say đắm biết bao thế hệ con người Việt Nam mỗi độ thu về. Không chỉ là mùa thu Hà Nội mà cái khoảnh khắc đất trời dịu dàng chuyển mình từ hạ sang thu quá đỗi đẹp ấy từ lâu đã trở thành nguồn cảm hứng bất tận cho thi ca nhạc họa. Khi cái nắng oi ả nóng bức của mùa hạ dần dịu xuống và thay vào đó là những làn gió mềm mại thở vào đất trời một cảm giác trong trẻo, dễ chịu, ấy là mùa thu đã nhẹ nhàng chớm sang. Thu về không còn ánh nắng chói chang cùng tiếng ve kêu râm ran khắp các con ngõ nhỏ nữa. Từng đám mây trắng lãng đãng trôi lững lờ trên bầu trời dường như trong xanh và cao hơn, thấp thoáng đâu đó là những tia nắng lấp lánh nhảy nhót qua kẽ lá. Nếu ví mùa hạ là một cô gái sôi nổi, rực rỡ và đầy năng lượng thì mùa thu lại giống hệt như một nàng thiếu nữ dịu dàng, e ấp, có chút ngượng ngùng của tuổi mới lớn nhưng lại vô cùng tinh tế, yêu kiều. Không tràn trề sức sống như mùa xuân, không náo nhiệt sôi động như những ngày hè và cũng chẳng thu mình lại suy tư trầm ngâm như mùa đông, thu sang mang một vẻ đẹp vô cùng riêng biệt. Thích biết bao cái cảm giác mỗi buổi sớm mai thức dậy ngắm những hạt sương long lanh đọng trên lá cây bàng trước nhà và hít thở bầu không khí trong trẻo thấm đẫm hơi sương ấy. Thu về mang theo cái se se lạnh vô cùng đặc trưng của làn gió heo may. Phả trong không gian ấy làm sao có thể quên được hương hoa sữa nồng nàn, ngọt ngào vấn vít làm cho ta bồi hồi xao xuyến và nhung nhớ đến lạ. Đất trời lắc mình chớm sang thu nên đâu đó vẫn còn vương lại những đốm hoa phượng đỏ ngày hè, dãy bằng lăng dọc hai bên đường tôi đi học mỗi ngày đã không còn sắc tím ngắt đến nao lòng nữa mà thay vào đó là chút tím đã phai màu mơ màng, nhẹ nhàng. Mùa thu dịu dàng đến, nhường chỗ cho những đóa sen trắng sen hồng đang dần úa tàn trong hồ là sắc trắng tinh khôi của những bông cúc nở rộ.Tôi vẫn còn nhớ như in những ngày bé theo mẹ ra chợ, cứ bắt gặp những khóm cúc trắng ngà tinh khôi trên những gánh hàng rong của cô bán hàng, ấy là mùa thu đang đến gần, rất gần. Những bông cúc được hái từ vườn, phơi khô rồi xao lên pha thành ấm trà hoa cúc thì cái hương thơm dịu nhẹ mà ngan ngát thấm đượm từng vị thu ấy có lẽ cả đời ta cũng không thể nào quên được. Thời khắc đất trời và thiên nhiên giao mình chuyển mùa sang thu nên dường như tâm trạng của con người cũng bất giác trùng xuống. Không còn là nhịp sống ồn ào, hối hả, vội vã nữa, ai cũng dường như sống chậm lại, tĩnh lặng hơn để cảm nhận và tận hưởng cái khoảnh khắc êm ái, dịu dàng man mác này.Chẳng thế mà người ta vẫn luôn nói mùa thu là mùa của hoài niệm, của những nỗi nhớ không tên, có lẽ bởi vì thu sang mang theo cái không gian lãng đãng và mơ màng quá nên con người tự nhiên cũng lắng mình lại để nghe tiếng lá cây xào xạc, để cảm nhận từng cơn gió thoảng qua mơn man mùi hoa sữa dịu ngọt.
Bốn mùa xuân hạ thu đông luôn tuần hoàn như lẽ tự nhiên nó vốn có và cuộc sống con người vẫn trôi đi theo quy luật của cuộc đời. Và các bạn biết không, có những khoảnh khắc tưởng như bình thường mà lại hóa diệu kì, có khoảnh khắc khiến cho thiên nhiên và con người cũng phải đổi thay. Đó chính là thời khắc chuyển mùa. Sự chuyển giao của tiết trời, khí hậu, có khi là cành cây khô bỗng xanh trở lại, cũng khiến con người ta phải rung động. Để viết được một bài văn cảm nghĩ về thiên nhiên và con người lúc giao mùa, các bạn cần cho mọi người biết, đó là sự chuyển giao giữa mùa gì sang mùa gì, khí hậu, thiên nhiên, cảnh vật thay đổi thế nào, cuộc sống con người có gì khác? Các bạn cũng có thể viết ra những cảm nhận hay kỉ niệm riêng của mình trong khoảnh khắc đó để bài văn thêm sinh động. Và đặc biệt, các bạn hãy nhớ đây là một bài văn cảm nhận, luôn phải chú ý đó là cảm xúc riêng nhất của mình nhé. Chúc các bạn thành công! Đã từng có một Hữu Thỉnh “giật mình” trước khoảnh khắc thu về, một Xuân Diệu đắm say lúc xuân sang. Phải chăng, chính thời khắc giao mùa ấy mới là lúc con người ta rung động nhất? Và với riêng tôi, điều kì diệu nhất chính là lúc nàng xuân đưa bước chân đến với trần gian khi mùa đông vẫn còn ngậm ngùi chia tay hạ giới. Thiên nhiên và con người trong khoảnh khắc ấy thật đặc biệt. Đó là một buổi sáng cuối năm, người ta đã treo ngoài đường đầy những câu đối đỏ, những hoa đào hoa mai. Tôi vẫn còn cuộn tròn trong chiếc chăn bông, bởi đêm qua, gió vẫn rít qua khung cửa sổ, cái lạnh vẫn còn khiến người ta phải run lên từng hồi. Mẹ gọi tôi dậy để giúp mẹ đi mua sắm chuẩn bị cho dịp tết. Ngay từ khoảnh khắc bước chân ra ngoài sân, tôi đã thấy một điều gì thật lạ. Hình như, xuân đã về thật rồi! Tôi hít thật sâu, cảm nhận trọn vẹn bầu không khí trong lành ấy. Trời vẫn lạnh, nhưng nó không còn cắt da cắt thịt như trước nữa. Dường như vị nắng đã lan tỏa đâu đây. Nắng đậu trên nhành cây, trên mái hiên hay trên bàn tay tôi đang mở rộng. Ồ, thì ra xuân đưa nắng đến thật rồi. Nắng như nàng thiếu nữ còn ngại ngùng ngó qua làn mây. Chút nắng ấy nhẹ lắm, dường như phải nhìn thật kĩ mới có thể cảm nhận. Nắng mới ấy còn chưa kịp tỏa rộng khắp không gian, tôi lại cảm nhận được làn da mình hơi ươn ướt, lòng chợt phơi phới vì hạt mưa xuân đầu tiên. Mưa không đủ mạnh để làm ướt con đường làng, nhưng đủ để ta thấy được, xuân đã về thật rồi. Là mùa đầu tiên, là mùa của hạnh phúc bắt đầu với nắng và mưa thật dịu nhẹ. Lúc này, tôi mới chợt nhận ra khu vườn của mình đã bắt đầu thay đổi. Cây cối không còn khẳng khiu như ngày hôm qua nữa, xuân đến mang cho nó một sức sống mới. Những chồi non mới nhú lên được một chút, như ngại ngùng với thế giới xung quanh. Màu xanh đã bắt đầu điểm khắp khu vườn, báo hiệu cho những điều mới mẻ. Và nhìn kìa, những chú chim non đang rúc đầu trong lòng mẹ một cách ngon lành. Những chú chim đi tránh rét đã bắt đầu quay về với bầu trời xanh. Cả không gian nhộn nhịp với màu xanh của chồi non, màu vàng nhạt của nắng và tiếng chim hát khúc ca mùa xuân. Mọi thứ dường như đã sẵn sàng để đón chào một mùa xuân mới. Trên đường đi chợ, tôi mới thực sự cảm nhận được bước đi của mùa xuân. Xuân về trên con đường làng xanh màu cỏ, đậu trên những mái nhà ngói đỏ, hay rạng rõ trên khuôn mặt con người. Làng quê nhỏ hôm nay không còn vắng vẻ như những ngày lạnh nữa. Người ta mang chổi ra để dọn dẹp khoảng sân trước nhà, có nhà lại gọi con cháu ra để tỉa cây, để trang trí cây đào cây quất. Xuân mang đến một sinh khí mới cho cả quê hương. Và đặc sản của mùa xuân cũng đã về đến từng nhà. Những người lớn ngồi bên hiên nhà gói bánh chưng, trẻ con ríu rít xung quanh để giúp đỡ, để cười đùa. Tiếng cười cứ thế vang lên mãi làm mùa xuân cũng náo nức về nhanh hơn. Nhưng mùa xuân đến, tôi cũng chợt giật mình vì điều gì đó. Có phải xuân làm cho khuôn mặt của những kiếp lang thang cơ nhỡ, những người không thể đoàn tụ với gia đình thêm trùng xuống? Xuân mang đến thêm khó khăn cho những gia đình nghèo, khi phải lo cho con tấm áo mới, phải có mâm cơm tươm tất cúng tổ tiên. Và cũng khi mùa xuân, ta giật mình nhận ra cha mẹ già thêm một tuổi, và ngày ta xa họ càng gần. Xuân là thế, không chỉ có nắng mà vẫn còn mưa, không chỉ có hạnh phúc mà còn mang cả nỗi buồn. Với riêng tôi, khoảnh khắc chuyển từ đông sang xuân thực sự là kì diệu. Cảm nhận được rằng, những kỉ niệm của năm cũ vẫn còn vấn vương, những niềm vui nỗi buồn cũ vẫn thấp thoáng đâu đây. Nhưng cũng tự lòng mình phải biết rằng, cần hướng đến những điều mới mẻ, cần nỗ lực, cần cố gắng nhiều hơn. Hay nói đúng hơn, đó là khoảnh khắc của trưởng thành! Bạn biết không, cuộc đời của chúng ta là hữu hạn, chẳng biết sẽ còn mấy lần được sống trong khoảnh khắc ấy nữa. Hãy cứ yêu lấy những lúc giao mùa, để biết rằng xung quanh mình có thiên nhiên, cuộc sống, có những hạnh phúc giản đơn mà chân quý như vậy. Những giai điệu ngọt ngào và lãng mạn của nhạc sĩ Trần Quang Lộc dường như đã in sâu và tiềm thức, trái tim và làm say đắm biết bao thế hệ con người Việt Nam mỗi độ thu về. Không chỉ là mùa thu Hà Nội mà cái khoảnh khắc đất trời dịu dàng chuyển mình từ hạ sang thu quá đỗi đẹp ấy từ lâu đã trở thành nguồn cảm hứng bất tận cho thi ca nhạc họa. Khi cái nắng oi ả nóng bức của mùa hạ dần dịu xuống và thay vào đó là những làn gió mềm mại thở vào đất trời một cảm giác trong trẻo, dễ chịu, ấy là mùa thu đã nhẹ nhàng chớm sang. Thu về không còn ánh nắng chói chang cùng tiếng ve kêu râm ran khắp các con ngõ nhỏ nữa. Từng đám mây trắng lãng đãng trôi lững lờ trên bầu trời dường như trong xanh và cao hơn, thấp thoáng đâu đó là những tia nắng lấp lánh nhảy nhót qua kẽ lá. Nếu ví mùa hạ là một cô gái sôi nổi, rực rỡ và đầy năng lượng thì mùa thu lại giống hệt như một nàng thiếu nữ dịu dàng, e ấp, có chút ngượng ngùng của tuổi mới lớn nhưng lại vô cùng tinh tế, yêu kiều. Không tràn trề sức sống như mùa xuân, không náo nhiệt sôi động như những ngày hè và cũng chẳng thu mình lại suy tư trầm ngâm như mùa đông, thu sang mang một vẻ đẹp vô cùng riêng biệt. Thích biết bao cái cảm giác mỗi buổi sớm mai thức dậy ngắm những hạt sương long lanh đọng trên lá cây bàng trước nhà và hít thở bầu không khí trong trẻo thấm đẫm hơi sương ấy. Thu về mang theo cái se se lạnh vô cùng đặc trưng của làn gió heo may. Phả trong không gian ấy làm sao có thể quên được hương hoa sữa nồng nàn, ngọt ngào vấn vít làm cho ta bồi hồi xao xuyến và nhung nhớ đến lạ. Đất trời lắc mình chớm sang thu nên đâu đó vẫn còn vương lại những đốm hoa phượng đỏ ngày hè, dãy bằng lăng dọc hai bên đường tôi đi học mỗi ngày đã không còn sắc tím ngắt đến nao lòng nữa mà thay vào đó là chút tím đã phai màu mơ màng, nhẹ nhàng. Mùa thu dịu dàng đến, nhường chỗ cho những đóa sen trắng sen hồng đang dần úa tàn trong hồ là sắc trắng tinh khôi của những bông cúc nở rộ.Tôi vẫn còn nhớ như in những ngày bé theo mẹ ra chợ, cứ bắt gặp những khóm cúc trắng ngà tinh khôi trên những gánh hàng rong của cô bán hàng, ấy là mùa thu đang đến gần, rất gần. Những bông cúc được hái từ vườn, phơi khô rồi xao lên pha thành ấm trà hoa cúc thì cái hương thơm dịu nhẹ mà ngan ngát thấm đượm từng vị thu ấy có lẽ cả đời ta cũng không thể nào quên được. Thời khắc đất trời và thiên nhiên giao mình chuyển mùa sang thu nên dường như tâm trạng của con người cũng bất giác trùng xuống. Không còn là nhịp sống ồn ào, hối hả, vội vã nữa, ai cũng dường như sống chậm lại, tĩnh lặng hơn để cảm nhận và tận hưởng cái khoảnh khắc êm ái, dịu dàng man mác này.Chẳng thế mà người ta vẫn luôn nói mùa thu là mùa của hoài niệm, của những nỗi nhớ không tên, có lẽ bởi vì thu sang mang theo cái không gian lãng đãng và mơ màng quá nên con người tự nhiên cũng lắng mình lại để nghe tiếng lá cây xào xạc, để cảm nhận từng cơn gió thoảng qua mơn man mùi hoa sữa dịu ngọt.
Thi ca Việt Nam từ thuở sơ khai mở đầu với những câu ca dao, dân ca ngọt ngào, tình tứ đến văn học trung đại là sự phát triển và lên ngôi của thơ Đường luật trang trọng, mực thước. Tuy vậy, văn học vẫn giữ được nét dân giã, thuần Việt của nó qua những câu thơ Nôm của Nguyễn Trãi, Hồ Xuân Hương, với thể lục bát trong những câu thơ Kiều của Nguyễn Du và còn cả khúc ngâm với những đại diện tiêu biểu có thể kể tới: Nguyễn Gia Thiều và Đoàn Thị Điểm. “Cung oán ngâm khúc” của Nguyễn Gia Thiều đã trở thành một trong những khúc ngâm giá trị và đặc sắc nhất. Trong chương trình lớp 10, chúng ta sẽ được phân tích một trích đoạn trong “Cung oán ngâm”: “Nỗi sầu oán của người cung nữ”. Chú ý khi phân tích chia luận điểm và các ý cho rõ ràng và hợp lí, có thể mở rộng và liên hệ với những tác giả, tác phẩm khác để tăng thêm độ sâu, độ rộng cho bài viết. Các bạn có thể tham khảo bài phân tích sau trước khi viết. Chúc các bạn học tập tốt! Tự bào giờ đến bây giờ, thơ ca vẫn luôn có sức đồng cảm mãnh liệt, là niềm an ủi cho con người trong mọi hoàn cảnh. Từ ca dao – dân ca của dân gian tiếng lòng của người bình dân như lúa lâu ngày chịu hạn nay gặp mưa rào, văn học trung đại phát triển phong phú và toàn diện để đáp ứng nhu cầu giãi bày của con người. Trong đó có sự xuất hiện của thể loại ngâm với thơ song thất lục bát. Một trong những khúc ngâm được biết đến nhiều nhất chính là “Cung oán ngâm” của Ngyễn Gia Thiều. Đoạn trích “Nỗi sầu oán của người cung nữ” là một trong những trích đoạn tiêu biểu. Tác phẩm “Cung oán ngâm” ra đời vào cuối thế kỉ XIX, khi xã hội Việt Nam đang đi vào suy thoái với lối sống hưởng thụ, ăn chơi xa đọa của vua chúa và sự lầm than của sinh linh trong nhân gian. Những số phận bất hạnh không chỉ có người nông dân mà còn có những cung nữ. Chế độ cung nữ là sản phẩm tội ác của vua chúa hàng nghìn năm dưới chế độ phong kiến. Vua chúa tự đặt ra quyền tuyển hàng trăm, hàng ngàn thiếu nữ vào cung. Tuổi xuân của người con gái, hạnh phúc của cả một đời người khi vào cung bỗng hóa phù du, mong manh, khó nắm bắt. Cất lên từ thể thơ song thất lục bát, Nguyễn Gia Thiều đã nói hộ nỗi niềm của bao người phụ nữ bất hạnh ấy. Đầu tiên là những câu thơ về tình cảnh lẻ loi, buồn tủi của người cung nữ được vẽ đối lập với cuộc sống xa hoa, tráng lệ nơi cung cấm. Không gian sống của họ là “cung quế” cách biệt với thế giới bên ngoài, thời gian: đêm khuya. Đây là khoảng thời gian để nhân vật xuất hiện, nhắc người cung nữ nhớ về những gì đã có, cả những ám ảnh về niềm hi vọng, đợi chờ rồi sự thất vọng trong tình cảnh đơn chiếc. Hình ảnh người phụ nữ hiện lên với “âm thầm chiếc bóng”- cô đơn lặng lẽ, với “trông ngóng lần lần”- chờ đợi một cái gì xa xôi, biết là xa vời nhưng vẫn không thôi ngóng đợi. Câu thơ đã cụ thể hóa sự ngóng đợi hết đêm này đến đêm khác, không dứt. Để rồi, một lúc nàng cũng phải cất lời oán trách “Khoảnh làm chi bấy chúa xuân”. Lời thơ đọc lên có âm điệu đay nghiến, hơn hết là xót xa của nhân vật trữ tình trong tình cảnh thê thảm của mình. Cuộc sống của họ được tận hưởng những vật chất sang trọng, sa hoa: “đãi nguyệt, gác thừa lương, gương loan, …”. Đặt các từ Hán Việt sang trọng trên với những từ nôm na: “đứng ngồi, thức ngủ, bẻ nửa, xé đôi” như làm nổi bật sự đối lập giữa cuộc sống lộng lẫy, đủ đầy với sự lạnh lẽo, tồi tàn, buốt giá trong tâm hồn con người. Người cung nữ vò võ một mình chỉ biết làm bạn với gió trăng. Và những dòng sau là tâm trạng của người chinh phụ. Nỗi niềm hiện lên trực tiếp qua những từ “ủ dột, bâng khuâng, buồn bã, ủ ê” và gián tiếp qua những điển cố “hồn bướm, giấc mai”. Đó là trạng thái vơ vẩn, ngẩn ngơ, mơ màng vì những tàn phá của nỗi đau tinh thần. Đặc biệt là phép tiểu đối: “ngấn phượng liễu”- ‘dấu dương xa” gợi về quá khứ đầm ấm, hạnh phúc mà người cung nữ từng được yêu chiều, sủng ái- nay chỉ còn trong mộng tưởng, vừa nhớ mà vừa đau; “Chòm rêu lỗ chỗ- đám cỏ quanh co”: dấu hiệu của hạnh phúc đã bị rêu phong phủ lối- thực tại phũ phàng mà người cung nữ đã bị bỏ quên. Hình ảnh ước lệ xen với tượng trưng: “gối loan tuyết đóng, chăn cù giá đông”: gối hạnh phúc có cảnh tuyết đóng, chăn đắp cho ấm mà vẫn giá băng. Bởi cái lạnh dấy lên từ tận đáy lòng, cô đơn dù chăn ấm nệm êm thì vẫn không thể hạnh phúc. Tâm trạng con người diễn biến theo chiều bi kịch, càng lúc càng nặng nề. Giọng văn réo rắt phù hợp với nỗi oán hờn. Dòng tâm trạng của người cung nữ tiếp tục trong nỗi buồn tủi, nỗi oán trông chờ đợi. Cũng là lời than oán nhưng khác với người chinh phụ, giọng của người cung nữ mới thật gay gắt và quyết liệt. Mỗi khổ thơ diễn tả những nỗi buồn tủi khác nhau: “Ngày sáu khắc, đêm năm canh” như muốn nhấn mạnh lại mực độ chờ đợi, khắc khoải. Mong tin nhắn mà vắng, ngóng tiếng xa mà chỉ có tiếng chuông chùa- nghịch cảnh nhức nhối tâm can, khắc sâu thêm nỗi cô đơn, rợn ngợp. Đèn đốt lên cho sáng mà lại càng cô đơn, hương thắp lên cho ấm mà càng âm u. Cái u ám, lạnh lẽo trong lòng lan ra cả cảnh vật. Rồi những từ ngữ tiếp: “biếng, tủi, sầu,…” biểu hiện tâm trạng chán chường, buồn tủi, nhấn mạnh thực tế phũ phàng: trăng trong, tranh đẹp- tất cả đều vô nghĩa trong chờ đợi vô vọng. Buồn, khắc khoải, ngẩn ngơ là hành trình phát triển của tâm trạng theo chiều tiêu cực, băn khoăn, thao thức đến mất hết ý chí, tinh thần. Bên cạnh lời than trách còn có nỗi lo âu: “Hoa này bướm nỡ thờ ơ/Để gầy bông thắm để xơ nhụy vàng”- lo một ngày nhan sắc tàn phai, hi vọng trở lại với hạnh phúc không còn nữa. Ba khổ thơ khắc họa đầy tinh tế sự thất vọng nặng nề, cô đơn sầu tủi và sầu oán gay gắt trong cảnh chờ đợi. Nỗi oán giận từ tâm trí phát ra phản ứng quyết liệt: Thời gian nghệ thuật lặp lại: “Đêm năm canh…” – cảm giác giằng giặc không thể kết thúc. Điệp ngữ “giết nhau” gây ấn tượng mạnh về sự tàn bạo, độc ác. Người ta giết nhau bằng dao kiếm tưởng như đã là tận cùng của nỗi đau nhưng vẫn chỉ là thuần túy về thể xác. Giết nhau bằng nỗi u sầu, tự đày đọa trong cảnh chăn đơn gối chiếc khiến người ta chết dần chết mòn- đó mới là sự tàn phá kinh hoàng, là nỗi đau không thể hàn gắn. Câu thơ như lời trách móc nhẹ nhàng mà hằn học, khiến lời thơ đọc lên mà nhức nhối tâm can. “Độc chưa” là lời than hay là câu hỏi? Câu hỏi tu từ “Xe thế này có dở dang không?” như lời trách, bực mình, phẫn nộ- tâm lí của người bị đẩy vào đường cùng ngõ hẹp.
From early childhood, Vietnamese poetry started with sweet and romantic folk songs and folk songs to medieval literature, which was the development and rise to the throne of solemn, formal Tang poetry. However, literature still retains its folk and pure Vietnamese features through the Nom verses of Nguyen Trai and Ho Xuan Huong, the 6-eight form in Nguyen Du's Kieu verses and also the recitatives with representatives. Typical examples include: Nguyen Gia Thieu and Doan Thi Diem. Nguyen Gia Thieu's "The Palace of Resentment" has become one of the most valuable and unique songs. In the 10th grade program, we will analyze an excerpt from "The Palace of Resentment": "The Sorrow of the Palace Maid". Pay attention when analyzing and dividing arguments and ideas clearly and logically. You can expand and connect with other authors and works to increase the depth and breadth of the article. You can refer to the following analysis before writing. Hope you learn well! Until now, poetry still has strong sympathy and is a comfort to people in all circumstances. From folk songs and folk songs to the hearts of ordinary people, like rice that has been subjected to drought for a long time and now meets with heavy rains, medieval literature developed richly and comprehensively to meet people's need for expression. Among them, there is the appearance of the recitative genre with song-that-six-eight poetry. One of the best known songs is "Cung Resentment" by Nguyen Gia Thieu. The excerpt "The sorrow of the palace maid" is one of the typical excerpts. The work "Cung Resentment" was born at the end of the 19th century, when Vietnamese society was going into decline with the indulgent, debauchery lifestyle of kings and the misery of living beings in the human world. Unfortunate fates not only belong to farmers but also to palace maids. The concubine regime is the product of the crimes of kings for thousands of years under the feudal regime. Kings and lords set themselves the right to recruit hundreds, thousands of young women into the palace. A girl's youth, the happiness of her entire life, when entering the palace suddenly become fleeting, fragile, and difficult to grasp. Drawing from the poetic form of two-seven-six-eights, Nguyen Gia Thieu spoke for the feelings of many unfortunate women. First, the verses about the lonely and sad situation of the palace maids are drawn in contrast to the luxurious and magnificent life in the forbidden palace. Their living space is a "cinnamon palace" isolated from the outside world, time: late at night. This is the time for the character to appear, reminding the palace maid of what she had, including the obsessions of hope, waiting, and disappointment in a single situation. The image of a woman appears with a "silent shadow" - quiet loneliness, with "long wait" - waiting for something far away, knowing it is far away but still not stopping waiting. The poem concretizes the endless waiting night after night. Then, at one point, she had to complain, "What are you doing, Lord Spring?" The poem read has a bitter tone, above all the sadness of the lyrical character in his tragic situation. Their lives are enjoyed by luxurious and luxurious materials: "treating the moon, keeping excess salary, loaning mirrors, ...". Putting the above luxurious Sino-Vietnamese words with simple words: "standing, sitting, waking up, breaking in half, tearing in half" as if to highlight the contrast between a splendid, full life and the cold, shabby, cold in the human soul. The palace maid struggled alone, only knowing how to be friends with the wind and moon. And the following lines are the mood of the conqueror. Feelings appear directly through the words "moody, wistful, sad, gloomy" and indirectly through the examples "butterfly soul, dream". It is a state of confusion, stupor, and dreaminess due to the ravages of mental pain. Especially the diminutive spell: "phoenix willow" - 'distant positive sign' evokes the warm and happy past in which the palace maid was once loved and favored - now only in dreams, both remembering and painful; "The patch of moss with holes - the crooked grass": a sign of happiness that has been covered by moss - the harsh reality that the palace maid has forgotten. The conventional image is interspersed with symbolism: "the pillow spreads the snow, the blanket tickles the winter": the happy pillow has a snowy scene, the blanket is warm but still freezing. Because the cold rises from the bottom of my heart, loneliness, even if I have a warm blanket and a soft mattress, still cannot be happy. The human mood evolves in a tragic direction, becoming more and more serious. The rumbling voice matches the resentment. The palace maid's mood continued in sadness, resentment and anticipation. It's also a complaint, but unlike the conqueror's wife, the palace maid's voice is harsh and fierce. Each stanza describes different sadnesses: “Six watches in the day, five watches in the night” seems to emphasize the level of waiting and anxiety. Hoping for messages but there are no messages, waiting for distant sounds but there is only the sound of temple bells - adversity aches the heart, deepening the loneliness and overwhelm. The lamp is lit for brightness but it becomes even more lonely, the incense is lit for warmth but it is even more gloomy. The gloom and coldness in my heart spread to the whole landscape. Then the next words: "lazy, sad, sad,..." express a mood of boredom and sadness, emphasizing the harsh reality: the clear moon, beautiful paintings - all are meaningless in a hopeless wait. Sadness, restlessness, and bewilderment are the development journey of the mood in a negative direction, anxiety, restlessness to the point of losing all will and spirit. Besides the complaint, there is also the worry: "This flower is indifferent to the butterflies/Let the beautiful flower thin and the yellow pistil become thin" - worried that one day its beauty will fade and the hope of returning to happiness will no longer exist. The three stanzas of the poem delicately portray the heavy disappointment, loneliness, sadness and bitter resentment in the waiting scene. Resentment from the mind emits a fierce reaction: Artistic time repeats: "Five watches at night..." - the feeling that the struggle between the enemy cannot end. The alliteration "kill each other" gives a strong impression of brutality and cruelty. People killing each other with knives and swords seems to be the end of their pain, but it is still purely physical. Killing each other with melancholy, self-exiled in single bed, causing people to slowly die - that is horrifying destruction, a pain that cannot be healed. The poem is like a gentle yet vicious rebuke, making the lyrics painful to read when read. Is “Is it toxic yet” a complaint or a question? Rhetorical question "Is a car like this unfinished?" like blame, frustration, indignation - the psychology of a person pushed into a dead end.
Nếu như Nguyễn Du được xem là đại thi hào không chỉ của văn học Việt Nam mà còn là của văn học thế giới thì Truyện kiều là kiệt tác làm nên tên tuổi đó của ông. Lật dở từng trang Truyện Kiều, người đọc như có cảm giác đang chứng kiến cuộc đời đầy đau thương, mát mát của thân phận nàng Kiều. Đoạn trích “Nỗi thương mình” như cứa vào long người những vết thương sâu khi Thúy Kiều rơi vào cảnh khốn cùng, bi đát. “Nỗi thương mình” kể về chuỗi ngày nhiều đau đớn và nước mắt của Thúy Kiều mắc lừa Sở Khanh và bị bán vào lầu xanh, dưới bàn tay của mụ Tú Bà ghê tởm. Cuộc đời nhơ nhớp, ô nhục của Thúy Kiều bắt đầu từ đây. Bằng niềm xót thương vô hạn cho nhân vật của mình, Nguyễn Du như nhỏ máu trên từng trang viết khi kể về cuộc đời Thúy Kiều. Dưới đây là bài văn mẫu phân tích đoạn trích “Nỗi thương mình” để các bạn tham khảo. Để làm bài văn này cần biết chia bố cục để phân tích cho phù hợp, chỉ ra nỗi xót xa của nàng Kiều và tấm lòng nhân đạo của Nguyễn Du. Đại thi hào Nguyễn Du viết nên kiệt tác Truyện Kiều giống như đã đóng góp viên ngọc sáng trong nền văn học Việt Nam. Lật dở từng trang truyện Kiều giống như từng chặng đường đời của người con gái “hồng nhan bạc mệnh” thân phận chịu nhiều đau thương, mất mát. Đoạn trích “Nỗi thương mình” là đoạn trích bi ai nhân nhất về nàng Kiều khiến người đọc không khỏi xót xa. Đoạn trích được chia là ba phần. Phần một chỉ với bốn câu thôi mà đã thâu tóm được khắp cả cuộc sống hoang đàng, thác loạn chốn lầu xanh: Cuộc sống nơi lầu xanh được miêu tả bằng những hình ảnh ước lệ, điển cố, điển tích. Ở đó có đủ loại người “Tống Ngọc”, “Trường Khanh”, có những kĩ nữ mời chào khách bốn phương “Lá gió cành chim” và cũng không thiếu những cảnh đùa cợt, sỗ sàng “Bướm lả ong lơi”. Biện pháp đảo trật tự từ, đan chéo, tạo sự đối xứng khiến âm điệu câu thơ như đay nghiến, như dằn xuống. Ẩn chứa trong đó là hình ảnh nàng Kiều với tâm trạng ngao ngán, ê chề. Những từ chỉ không gian, thời gian “tháng”, “đêm”, “sớm”, “tối”, kết hợp với những từ chỉ mức độ tuyệt đối “biết bao”, “đầy”, “suốt” cùng biện pháp đối ở hai câu thơ bát, gợi ra cuộc sống triền miên, chìm đắm, ngàu qua ngày, tràn ngập không gian, kéo dài thời gian. Ẩn sau đó là tâm trạng chua xót của Thúy Kiều cho thân phận. Nguyễn Du đã thể hiện thật chân tình tâm trạng đau buồn, tủi hổ đến ê chề của Thúy Kiều khi phải đối diện với chính lòng mình: Nơi lầu xanh, người kĩ nữ lấy đêm làm ngày, triền miên trong cơn say từ nơi này đến nơi khác. Khi tỉnh rượu thì cũng là lúc đêm tàn. Và lúc ấy, Thúy Kiều chợt “giật mình”. “Giật mình” vì cảnh sống xô bồ kia không phải là của mình. Điệp từ mình tạo cho câu thơ nhịp ngắt 2/4/2, khiến lời thơ như đay đi đay lại như một nỗi vật vã. Trong đêm khuya, chỉ trơ trọi một mình, nàng cảm thấy cô đơn vô cùng. Sau câu thơ đặc tả nỗi niềm cô đơn và cô đúc tột độ đời sống tinh thần của Kiều là những câu thơ miêu tả thực tại phũ phàng, nhơ nhớp. Và ở đây Kiều hoàn toàn tỉnh táo, thấy rõ thực tại: Những mình nào biết có xuân là gì”Những câu hỏi tu từ gợi sắc thái cảm thán. Mỗi câu hỏi lại đi kèm với một từ “sao” như một điệp khúc dai dẳng, như một nhát dao cứa vào tâm can của nàng. Nghệ thuật đối lập giữa quá khứ và thực tại, đối lập giữa cảnh sống quá khứ và hiện tại. Quá khứ êm đẹp “Êm đềm trướng rủ màn che” đối lập với hiện tại “tan tác như hoa giữa đường”. Quá khứ ấy chỉ được nhắc đến trong một câu thơ còn hiện tại lại dùng đến năm câu, phải chăng Kiều đã ý thức được số phận của mình. Thực tại quá khứ đã chôn vùi quá khứ tươi đẹp. Hình ảnh so sánh cùng với việc sử dụng từ ngữ một cách sáng tạo “bướm chán ong chường”, “dày gió dạn sương”. Người đọc như hình dung thân phận của Kiều như một đóa hoa bị dày xéo, ý thức rõ tấm thân nhơ nhớp, khuôn mặt bẽ bàng. Nguyễn Du viết những câu thơ này dựa vào nền tảng, vững chắc, xuất phát từ giá trị nhân đạo truyền thống của văn học. Ẩn chứa đằng sau câu thơ không chỉ là tâm trạn của Thúy Kiều mà còn là tâm trạng của chính tác giả: đau nỗi đau người như đau nỗi đau mình. Không chỉ thương thân, Kiều còn thương cho cả chính lòng mình. Thương không chỉ bởi lòng mình chồng chất những buồn sầu mà sâu sa hơn, thương vì tâm hồn mình phải lạc loài, lạc lõng, đơn côi giữa một chốn phù hoa ngỡ đầy rẫy niềm vui nhưng thực chất chỉ là những thứ giả dối: Cảnh có đủ phong, hoa, tuyết, nguyệt, tượng trưng cho vẻ đẹp bốn mùa như: xuân có hoa; hè có gió; thu có trăng; đông có tuyết. Nhưng trước những cảnh đẹp đó, Kiều dửng dưng, thờ ơ bởi con tim nàng đã bị nỗi đau khổ quá mức làm cho giá lạnh. Ở lầu xanh cũng có đủ các thú vui như cầm, kì, thi, họa, nhưng đối với Kiều thì cảnh vật, con người và những thú vui ấy giờ đây đối với nàng đều trở nên vô nghĩa. Nguyễn Du không chỉ nắm bắt được những diễn biến tinh vi trong tâm trạng người con gái bất hạnh, mà còn rút ra được quy luật tâm lý phổ biến:
If Nguyen Du is considered a great poet not only of Vietnamese literature but also of world literature, then The Tale of Kieu is the masterpiece that made his name. Turning each page of Kieu's Tale, the reader feels like they are witnessing the painful and cool life of Kieu's identity. The excerpt "My Pity" seems to cut deep wounds into the human body when Thuy Kieu falls into a miserable and tragic situation. "My Pity" tells the story of a series of days of pain and tears when Thuy Kieu was tricked by So Khanh and sold into prostitution, at the hands of the disgusting woman Tu Ba. Thuy Kieu's dirty and disgraceful life begins here. With infinite compassion for his character, Nguyen Du seemed to drip blood on every page when telling about Thuy Kieu's life. Below is a sample essay analyzing the excerpt "My Pity" for your reference. To write this essay, you need to know how to divide the structure to analyze appropriately, pointing out Kieu's grief and Nguyen Du's humanity. The great poet Nguyen Du wrote the masterpiece The Tale of Kieu as if he had contributed a shining pearl in Vietnamese literature. Turning each page of Kieu's story is like each life journey of a "beautiful and ill-fated" girl who has suffered a lot of pain and loss. The excerpt "My pity" is the most tragic excerpt about Kieu, making the reader feel sad. The excerpt is divided into three parts. Part one, with just four sentences, captures the entire wild and chaotic life of the brothel: Life in the green house is described by conventional images, legends, and stories. There are all kinds of people there, "Tong Ngoc", "Truong Khanh", there are prostitutes who invite guests from all over "Wind Leaves and Bird Branches" and there is also no shortage of joking and rude scenes "Butterflies flirt with bees". The method of reversing the word order, criss-crossing, and creating symmetry makes the tone of the verse seem harsh and depressed. Hidden in it is the image of Kieu with a bored and dejected mood. Words indicating space and time "month", "night", "morning", "evening", combined with words indicating absolute level "how much", "full", "all the time" and the opposite measure. In the two verses of the poem, it suggests a constant, immersive life, passing day by day, filling space, prolonging time. Hidden behind that is Thuy Kieu's bitterness about her fate. Nguyen Du sincerely expressed Thuy Kieu's feelings of sadness, shame and humiliation when faced with her own heart: In the brothel, the prostitute turns night into day, constantly in a drunken stupor from one place to another. When I woke up, it was also the end of the night. And at that moment, Thuy Kieu was suddenly "startled". "Shocked" because that hustle and bustle of life is not mine. The alliteration I created gives the poem a rhythm of 2/4/2, making the lyrics go back and forth like a struggle. Late at night, alone, she felt extremely lonely. After the verses that describe Kieu's extreme loneliness and isolation in her spiritual life, there are verses that describe the harsh, dirty reality. And here Kieu is completely awake, seeing reality clearly: "But we don't know what spring is" Rhetorical questions evoke expressions of exclamation. Each question was accompanied by the word "star" like a persistent refrain, like a knife cutting into her heart. Art contrasts between the past and reality, contrasts between past and present life scenes. The peaceful past "Peaceful and draped" contrasts with the present "dispersing like flowers in the middle of the road". That past is only mentioned in one verse, but in the present five verses are used. Is it possible that Kieu is aware of her fate? The reality of the past has buried the beautiful past. Comparative images with creative use of words "butterflies are bored of bees", "dense wind and frost". The reader seems to imagine Kieu's status as a trampled flower, clearly aware of her dirty body and humiliated face. Nguyen Du wrote these verses based on a solid foundation, stemming from the traditional humanitarian values ​​of literature. Hidden behind the poem is not only Thuy Kieu's state of mind but also the author's own state of mind: feeling pain from others is like feeling pain from yourself. Not only does Kieu love herself, she also loves her own heart. I love you not only because my heart is filled with sadness, but even more deeply, I love you because my soul is lost, lost, lonely in a vain place that seems to be full of joy but is actually just lies: The scene has enough wind, flowers, snow, and moon, symbolizing the beauty of the four seasons such as: spring with flowers; windy summer; autumn has the moon; winter has snow. But in front of those beautiful scenes, Kieu was indifferent and indifferent because her heart had been frozen by excessive suffering. In the green building, there are also all kinds of pleasures such as piano, chess, exams, and painting, but for Kieu, the scenery, people, and those pleasures have now become meaningless to her. Nguyen Du not only captured the subtle developments in the unhappy girl's mood, but also drew a common psychological law:
Nếu như Nguyễn Du được xem là đại thi hào không chỉ của văn học Việt Nam mà còn là của văn học thế giới thì Truyện kiều là kiệt tác làm nên tên tuổi đó của ông. Lật dở từng trang Truyện Kiều, người đọc như có cảm giác đang chứng kiến cuộc đời đầy đau thương, mát mát của thân phận nàng Kiều. Đoạn trích “Nỗi thương mình” như cứa vào long người những vết thương sâu khi Thúy Kiều rơi vào cảnh khốn cùng, bi đát. “Nỗi thương mình” kể về chuỗi ngày nhiều đau đớn và nước mắt của Thúy Kiều mắc lừa Sở Khanh và bị bán vào lầu xanh, dưới bàn tay của mụ Tú Bà ghê tởm. Cuộc đời nhơ nhớp, ô nhục của Thúy Kiều bắt đầu từ đây. Bằng niềm xót thương vô hạn cho nhân vật của mình, Nguyễn Du như nhỏ máu trên từng trang viết khi kể về cuộc đời Thúy Kiều. Dưới đây là bài văn mẫu phân tích đoạn trích “Nỗi thương mình” để các bạn tham khảo. Để làm bài văn này cần biết chia bố cục để phân tích cho phù hợp, chỉ ra nỗi xót xa của nàng Kiều và tấm lòng nhân đạo của Nguyễn Du. Đại thi hào Nguyễn Du viết nên kiệt tác Truyện Kiều giống như đã đóng góp viên ngọc sáng trong nền văn học Việt Nam. Lật dở từng trang truyện Kiều giống như từng chặng đường đời của người con gái “hồng nhan bạc mệnh” thân phận chịu nhiều đau thương, mất mát. Đoạn trích “Nỗi thương mình” là đoạn trích bi ai nhân nhất về nàng Kiều khiến người đọc không khỏi xót xa. Đoạn trích được chia là ba phần. Phần một chỉ với bốn câu thôi mà đã thâu tóm được khắp cả cuộc sống hoang đàng, thác loạn chốn lầu xanh: Cuộc sống nơi lầu xanh được miêu tả bằng những hình ảnh ước lệ, điển cố, điển tích. Ở đó có đủ loại người “Tống Ngọc”, “Trường Khanh”, có những kĩ nữ mời chào khách bốn phương “Lá gió cành chim” và cũng không thiếu những cảnh đùa cợt, sỗ sàng “Bướm lả ong lơi”. Biện pháp đảo trật tự từ, đan chéo, tạo sự đối xứng khiến âm điệu câu thơ như đay nghiến, như dằn xuống. Ẩn chứa trong đó là hình ảnh nàng Kiều với tâm trạng ngao ngán, ê chề. Những từ chỉ không gian, thời gian “tháng”, “đêm”, “sớm”, “tối”, kết hợp với những từ chỉ mức độ tuyệt đối “biết bao”, “đầy”, “suốt” cùng biện pháp đối ở hai câu thơ bát, gợi ra cuộc sống triền miên, chìm đắm, ngàu qua ngày, tràn ngập không gian, kéo dài thời gian. Ẩn sau đó là tâm trạng chua xót của Thúy Kiều cho thân phận. Nguyễn Du đã thể hiện thật chân tình tâm trạng đau buồn, tủi hổ đến ê chề của Thúy Kiều khi phải đối diện với chính lòng mình: Nơi lầu xanh, người kĩ nữ lấy đêm làm ngày, triền miên trong cơn say từ nơi này đến nơi khác. Khi tỉnh rượu thì cũng là lúc đêm tàn. Và lúc ấy, Thúy Kiều chợt “giật mình”. “Giật mình” vì cảnh sống xô bồ kia không phải là của mình. Điệp từ mình tạo cho câu thơ nhịp ngắt 2/4/2, khiến lời thơ như đay đi đay lại như một nỗi vật vã. Trong đêm khuya, chỉ trơ trọi một mình, nàng cảm thấy cô đơn vô cùng. Sau câu thơ đặc tả nỗi niềm cô đơn và cô đúc tột độ đời sống tinh thần của Kiều là những câu thơ miêu tả thực tại phũ phàng, nhơ nhớp. Và ở đây Kiều hoàn toàn tỉnh táo, thấy rõ thực tại: Những mình nào biết có xuân là gì”Những câu hỏi tu từ gợi sắc thái cảm thán. Mỗi câu hỏi lại đi kèm với một từ “sao” như một điệp khúc dai dẳng, như một nhát dao cứa vào tâm can của nàng. Nghệ thuật đối lập giữa quá khứ và thực tại, đối lập giữa cảnh sống quá khứ và hiện tại. Quá khứ êm đẹp “Êm đềm trướng rủ màn che” đối lập với hiện tại “tan tác như hoa giữa đường”. Quá khứ ấy chỉ được nhắc đến trong một câu thơ còn hiện tại lại dùng đến năm câu, phải chăng Kiều đã ý thức được số phận của mình. Thực tại quá khứ đã chôn vùi quá khứ tươi đẹp. Hình ảnh so sánh cùng với việc sử dụng từ ngữ một cách sáng tạo “bướm chán ong chường”, “dày gió dạn sương”. Người đọc như hình dung thân phận của Kiều như một đóa hoa bị dày xéo, ý thức rõ tấm thân nhơ nhớp, khuôn mặt bẽ bàng. Nguyễn Du viết những câu thơ này dựa vào nền tảng, vững chắc, xuất phát từ giá trị nhân đạo truyền thống của văn học. Ẩn chứa đằng sau câu thơ không chỉ là tâm trạn của Thúy Kiều mà còn là tâm trạng của chính tác giả: đau nỗi đau người như đau nỗi đau mình. Không chỉ thương thân, Kiều còn thương cho cả chính lòng mình. Thương không chỉ bởi lòng mình chồng chất những buồn sầu mà sâu sa hơn, thương vì tâm hồn mình phải lạc loài, lạc lõng, đơn côi giữa một chốn phù hoa ngỡ đầy rẫy niềm vui nhưng thực chất chỉ là những thứ giả dối: Cảnh có đủ phong, hoa, tuyết, nguyệt, tượng trưng cho vẻ đẹp bốn mùa như: xuân có hoa; hè có gió; thu có trăng; đông có tuyết. Nhưng trước những cảnh đẹp đó, Kiều dửng dưng, thờ ơ bởi con tim nàng đã bị nỗi đau khổ quá mức làm cho giá lạnh. Ở lầu xanh cũng có đủ các thú vui như cầm, kì, thi, họa, nhưng đối với Kiều thì cảnh vật, con người và những thú vui ấy giờ đây đối với nàng đều trở nên vô nghĩa. Nguyễn Du không chỉ nắm bắt được những diễn biến tinh vi trong tâm trạng người con gái bất hạnh, mà còn rút ra được quy luật tâm lý phổ biến:
If Nguyen Du is considered a great poet not only of Vietnamese literature but also of world literature, then The Tale of Kieu is the masterpiece that made his name. Turning each page of Kieu's Tale, the reader feels like they are witnessing the painful and cool life of Kieu's identity. The excerpt "My Pity" seems to cut deep wounds into the human body when Thuy Kieu falls into a miserable and tragic situation. "My Pity" tells the story of a series of days of pain and tears when Thuy Kieu was tricked by So Khanh and sold into prostitution, at the hands of the disgusting woman Tu Ba. Thuy Kieu's dirty and disgraceful life begins here. With infinite compassion for his character, Nguyen Du seemed to drip blood on every page when telling about Thuy Kieu's life. Below is a sample essay analyzing the excerpt "My Pity" for your reference. To write this essay, you need to know how to divide the structure to analyze appropriately, pointing out Kieu's grief and Nguyen Du's humanity. The great poet Nguyen Du wrote the masterpiece The Tale of Kieu as if he had contributed a shining pearl in Vietnamese literature. Turning each page of Kieu's story is like each life journey of a "beautiful and ill-fated" girl who has suffered a lot of pain and loss. The excerpt "My pity" is the most tragic excerpt about Kieu, making the reader feel sad. The excerpt is divided into three parts. Part one, with just four sentences, captures the entire wild and chaotic life of the brothel: Life in the green house is described by conventional images, legends, and stories. There are all kinds of people there, "Tong Ngoc", "Truong Khanh", there are prostitutes who invite guests from all over "Wind Leaves and Bird Branches" and there is also no shortage of joking and rude scenes "Butterflies flirt with bees". The method of reversing the word order, criss-crossing, and creating symmetry makes the tone of the verse seem harsh and depressed. Hidden in it is the image of Kieu with a bored and dejected mood. Words indicating space and time "month", "night", "morning", "evening", combined with words indicating absolute level "how much", "full", "all the time" and the opposite measure. In the two verses of the poem, it suggests a constant, immersive life, passing day by day, filling space, prolonging time. Hidden behind that is Thuy Kieu's bitterness about her fate. Nguyen Du sincerely expressed Thuy Kieu's feelings of sadness, shame and humiliation when faced with her own heart: In the brothel, the prostitute turns night into day, constantly in a drunken stupor from one place to another. When I woke up, it was also the end of the night. And at that moment, Thuy Kieu was suddenly "startled". "Shocked" because that hustle and bustle of life is not mine. The alliteration I created gives the poem a rhythm of 2/4/2, making the lyrics go back and forth like a struggle. Late at night, alone, she felt extremely lonely. After the verses that describe Kieu's extreme loneliness and isolation in her spiritual life, there are verses that describe the harsh, dirty reality. And here Kieu is completely awake, seeing reality clearly: "But we don't know what spring is" Rhetorical questions evoke expressions of exclamation. Each question was accompanied by the word "star" like a persistent refrain, like a knife cutting into her heart. Art contrasts between the past and reality, contrasts between past and present life scenes. The peaceful past "Peaceful and draped" contrasts with the present "dispersing like flowers in the middle of the road". That past is only mentioned in one verse, but in the present five verses are used. Is it possible that Kieu is aware of her fate? The reality of the past has buried the beautiful past. Comparative images with creative use of words "butterflies are bored of bees", "dense wind and frost". The reader seems to imagine Kieu's status as a trampled flower, clearly aware of her dirty body and humiliated face. Nguyen Du wrote these verses based on a solid foundation, stemming from the traditional humanitarian values ​​of literature. Hidden behind the poem is not only Thuy Kieu's state of mind but also the author's own state of mind: feeling pain from others is like feeling pain from yourself. Not only does Kieu love herself, she also loves her own heart. I love you not only because my heart is filled with sadness, but even more deeply, I love you because my soul is lost, lost, lonely in a vain place that seems to be full of joy but is actually just lies: The scene has enough wind, flowers, snow, and moon, symbolizing the beauty of the four seasons such as: spring with flowers; windy summer; autumn has the moon; winter has snow. But in front of those beautiful scenes, Kieu was indifferent and indifferent because her heart had been frozen by excessive suffering. In the green building, there are also all kinds of pleasures such as piano, chess, exams, and painting, but for Kieu, the scenery, people, and those pleasures have now become meaningless to her. Nguyen Du not only captured the subtle developments in the unhappy girl's mood, but also drew a common psychological law:
Nguyễn Du là nhà thơ nhân đạo chủ nghĩa tiêu biểu của văn học Việt Nam. Ông có đóng góp to lớn đối với văn học dân tộc, đặc biệt nhất là kiệt tác “Truyện Kiều”. Đoạn trích “Trao duyên” trong “Truyện Kiều” mở đầu cho chuỗi ngày bất hạnh, lưu lạc của cuộc đời Thúy Kiều sau gia biến. Kiều nghĩ mình không giữ trọn lời đính ước với người yêu nên đã nhờ cậy em là Thúy Vân thay mình gắn bó với chàng Kim. Dưới đây là bài làm chi tiết mong rằng với cách làm này thì các bạn sẽ có một định hướng đúng và làm bài một cách tốt nhất. Để triển khai đề bài này, ta sẽ phân tích từng khổ thơ, nêu nội dung, nghệ thật của mỗi khổ và tư tưởng của nhà thơ. Tên thực của “Truyện Kiều” là “Đoạn trường tân thanh”, thường được hiểu là “tiếng kêu đứt ruột”. Trong đó có vô vàn tiếng kêu đau thương và “Trao duyên” có lẽ là tiếng kêu đứt ruột đầu tiên mở màn cho một chuỗi dài những đau thương chất chồng lên cuộc đời truân chuyên của người con gái tài sắc. Nếu Thúy Kiều đứt ruột trao duyên, thì Nguyễn Du cũng đã viết nên cảnh “Trao duyên” bằng những lời thơ tan nát can tràng. “Trao duyên” được mở đầu bằng hai câu thơ mà khi nói về vẻ đẹp của ngôn ngữ “Truyện Kiều” ít ai không nhắc đến. Nó giản đơn như những lời nói thông thường mà chân xác như mọi câu thơ hàm súc nhất: Tại sao lại dùng “cậy” mà không dùng “nhờ”, giáo sư Lê Trí Viễn giải thích ngoài lí do thanh điệu “trắc” gây một điểm nhấn lắng đọng cho câu thơ, còn vì chữ “cậy” bao hàm cái ý hy vọng tha thiết của một lời trối trăng, có ý nương tựa, gửi gắm, tin tưởng nơi quan hệ ruột thịt. Nếu dùng “nhờ” thì bấy nhiêu ý nghĩa sẽ nhạt hết. Còn nói “chịu” nghĩ là sự bắt buộc, còn “nhận” là tùy ở người nghe. Trong trường hợp này, Kiều muốn em không được từ chối lời đề nghị của mình. Lời lẽ thắt buộc được lựa chọn chính xác, chặt chẽ. Ở đây vị thế có sự thay đổi, thể hiện qua hai chữ ‘lạy” và “thưa”. Đó là tư thế của người chịu ơn với ân nhân của mình. Kiều van nài em bằng tất cả nỗi đau và niềm tin của mình. Ở đó có cả tư thế của người chị và người van xin. Lời thưa của Thúy Kiều rất rõ ràng, vắt tắt, dứt khoát: Người xưa xem tình yêu là một gánh nặng, nghĩa vụ cho nên mới nói “gánh tương tư”. Mà giữa đường đứt gánh thì dang dở vô cùng. Hình ảnh thơ đã nói rõ tình trạng bất lực của Thúy Kiều. Mọi việc phó thác cho em gánh. Thúy Kiều thấu hiểu cảm giác và tình cảnh thiệt thòi của em nên nói thẳng ra. “Mặc em” có nghĩa là phó mặc cho em đó, dở hay gì em cũng phải gánh vác cho chị. Câu thơ còn mang giọng điệu người chị phó thác cho em nên càng thêm sức nặng. Bốn câu thơ đã nói hết tình trông cậy, uỷ thác và nài ép, không cho em chối từ. Nhờ cậy xong Kiều mới nói lí do: Nội dung thông báo cụ thể, rõ ràng, nhưng sự trùng điệp ba chữ “khi”: khi gặp, khi ngày, khi đêm đã nói lên sự thề ước nhiều lần sâu nặng, không thể nuốt lời, nên phải nhờ em. Từ đây Kiều chuyển sang phân tích ý nghĩa: Tuổi trẻ còn lâu dài, vì thương chị mà thay chị nốì tình với Kim Trọng thì chị dẫu chết cũng hả dạ, vì có được tiếng thơm là người có tình nghĩa với chàng. Nhưng điều đặc biệt là từ đây trở đi Kiều coi mình như đã chết, như người chết. Câu “Ngày xuân em hãy còn dài” có nghĩa là “Ngày xuân của chị đã hết rồi”, chị chỉ còn “thịt nát xương mòn” và “ngậm cười chín suối”, nơi cõi chết, chín suối (cửu tuyền) là nơi đất rất sâu, chỗ người ta mai táng người chết. Đoạn “Trao duyên” phải là một cuộc đối thoại, chuyện trò. Nhưng thực tế lại diễn ra như một cuộc độc thoại. Thúy Vân hầu như không lên tiếng. Nàng im lặng chịu lời. Và thế là Kiều phải làm nốt cái phần việc cuối cùng và khó khăn nhất: trao lại kỉ vật cho Vân. Bắt đầu từ giây phút này đây, chàng Kim sẽ vĩnh viễn thuộc về người khác. Câu thơ như một nỗi nghẹn ngào: Hai chữ “của chung” chất chứa bao đau xót. Kỉ vật tình yêu chỉ thiêng liêng khi nó là tín vật, là nhân chứng thầm kín của riêng hai người. Còn từ bây giờ, nó đã thành “của chung”. Người ta đã nhận ra nỗi xót lòng ẩn trong chữ ấy. Nhưng câu thơ còn giấu trong nhịp điệu của nó một nỗi đau khác, cũng hết sức sâu kín của nàng Kiều. Nguyễn Du có không ít những câu bát dùng hai chữ “này”, lối điệp từ ấn tượng. Hai chữ “này” nằm trong điểm nhấn ngữ điệu, nên lời thơ cất lên bỗng như dằn lòng, như day dở. Nó gợi ra thoáng giằng co giữa tình cảm và lý trí. Lý trí đã quyết định trao duyên, trao kỷ vật, song tình cảm vẫn như cố trì hoãn, níu giữ. Cố dằn lòng mà không thể cầm lòng. Ngay sau giây phút dặn dò, sự hụt hẫng, thiếu vắng, mất mát đã choáng ngợp trong tâm trí. Vì đã mất người, kỳ vật hôm nay bỗng chốc trở thành “ngày xưa”: Lời thề nguyền vừa qua có mấy ngày, nhưng trong khoảnh khắc, sự trống vắng khiến kỉ niệm bị đẩy về “ngày xưa”. Tất cả trở nên huyền hoặc, khó nắm bắt. Kiều nói với Thúy Vân: Thúy Kiều mong được người ở lại cảm thông, chia sẻ. Những chữ “xót người”, “ắt lòng” vang lên nghe thật xót xa. Người “mệnh bạc” đặt tương phản với “nên vợ nên chồng”. Đối lập với số phận hẩm hiu của Kiều và cuộc sống hạnh phúc của Vân và Kim. Còn gì đau đớn hơn khi hình dung ở tương lai có hạnh phúc của Vân và Kim, còn nàng thì thịt nát, xương tan. Nơi đó là tương lai mịt mù khi trong hạnh phúc của người không có mình. Nơi đó Kiều phải sống cô đơn, trong sự chao đảo giữa mất và còn, cho đi và nhận lại, quá khứ và hiện tại. Quá khứ là tình chị, hiện tại là duyên em. Kiều tưởng tượng ra cái chết của mình: Hóa ra linh hồn Kiều dù có chết nhưng không siêu thoát, vì nặng tương tư. Trở về vì lời thề chưa trả, còn nặng trĩu mối tình. Khi tình yêu trao đi, mối duyên đã đứt thì cuộc đời và tương lai trở thành giấc mộng hãi hùng. Tình yêu không còn, ý nghĩa sự sống đã mất, Kiều cảm thấy đau đớn và bất lực. Quên mất thực tại để chìm sâu vào trong lòng, đấy là lúc bi kịch dâng lên trầm trọng. Kiều như thanh minh, tạ lỗi với chàng Kim. Mong muốn ở chàng một sự cảm thông, thấu hiểu: Nghĩ về quá khứ mà không thôi thổn thức. Nghĩ đến hiện tại “trâm gãy, gương tan” mà phũ phàng, đau đớn. Nghĩ về tương lai “Mai sau… dạ đài cách mặt khuất lời” mà càng bội phần đau đớn. Muôn vàn ái ân phút này đã hóa thành muôn vàn đau đớn. Ngán ngẩm cho số kiếp đen bạc của mình, nàng cất lên tiếng than thân của đàn bà. Nàng sa vào mặc cảm phũ phàng, tội lỗi. Mở đầu lạy em gái, kết thúc lạy người yêu. Nàng thấy mình là kẻ bội tình và những mong được tha thứ:
Nguyen Du is a typical humanitarian poet of Vietnamese literature. He made great contributions to national literature, most notably the masterpiece "The Tale of Kieu". The excerpt "Giving love" in "The Story of Kieu" begins the series of unhappy and wandering days of Thuy Kieu's life after her family's upheaval. Kieu thought she hadn't kept her engagement with her lover, so she asked her sister, Thuy Van, to be with Kim on her behalf. Below is a detailed assignment. I hope that with this method, you will have the right direction and do the exam in the best way. To develop this topic, we will analyze each stanza, stating the content and art of each stanza and the poet's thoughts. The real name of "The Tale of Kieu" is "Doan Truong Tan Thanh", often understood as "a gut-wrenching cry". There were countless cries of pain and "Giving love" was probably the first gut-wrenching cry that opened a long series of pains piled up in the troubled life of the talented girl. If Thuy Kieu broke her heart and gave love, then Nguyen Du also wrote the scene "Giving love" with heart-breaking poetry. "Giving Love" opens with two verses that few people fail to mention when talking about the beauty of the language of "The Tale of Kieu". It is as simple as ordinary words but as true as any of the most profound verses: Why use "rely" and not "thanks", professor Le Tri Vien explained, in addition to the reason that the tone "trac" creates a quiet highlight for the poem, also because the word "rely" implies the meaning of hope. The earnest hope of a last word, with the intention to rely on, confide in, and trust in a close relationship. If we use "thanks" then the meaning will be lost. Saying "receive" is considered mandatory, while "receive" depends on the listener. In this case, Kieu wants her not to refuse her offer. The binding words are chosen precisely and closely. Here the position changes, expressed through the words 'prostrate' and 'sir'. That is the posture of a grateful person towards his benefactor. Kieu begged me with all her pain and faith. There are both the postures of the sister and the supplicant. Thuy Kieu's words were very clear, concise, and decisive: The ancients saw love as a burden and obligation, so they said "the burden of longing". But in the middle of the road, the burden is extremely unfinished. The poetic image clearly states Thuy Kieu's helplessness. Everything is entrusted to me. Thuy Kieu understood her feelings and disadvantaged situation so she spoke frankly. “Let me” means to leave it to me, no matter what, I have to shoulder the responsibility for you. The poem also has the tone of an older sister entrusting her younger sister, so it has even more weight. The four verses express all the hope, entrustment and insistence, not allowing me to refuse. After asking, Kieu told the reason: The content of the announcement was specific and clear, but the repetition of the three words "when": when we met, when day, when night showed that we had sworn many times so deeply that we couldn't keep our words, so we had to ask you. From here Kieu moves on to analyze the meaning: Youth lasts a long time. Because he loves his sister, if he takes his place in love with Kim Trong, she will be happy even if she dies, because she has the reputation of being affectionate towards him. But the special thing is that from now on, Kieu considers herself dead, like a dead person. The sentence "Your spring days are still long" means "My spring days are over", I only have "broken flesh and worn bones" and "nine streams of laughter", in the realm of death, nine streams (nine springs) are The land is very deep, where people bury the dead. The section "Giving love" must be a dialogue and conversation. But reality happens like a monologue. Thuy Van hardly spoke. She silently obeyed. And so Kieu had to do the last and most difficult part: handing over the souvenir to Van. Starting from this moment, Kim will forever belong to someone else. The poem is like a choking feeling: The two words "common property" contain so much pain. A love memento is only sacred when it is a token, a secret witness of just two people. From now on, it has become "common property". People have recognized the sadness hidden in that word. But the poem also hides in its rhythm another, also very deep, pain of Kieu. Nguyen Du has many verses using the two words "this", an impressive alliteration. The two words "this" are in the accent of the intonation, so the poem's lyrics suddenly sound like a feeling of regret, like a broken heart. It evokes a slight tension between emotion and reason. Reason has decided to give love and souvenirs, but emotions still seem to try to delay and hold on. Tried to hold back but couldn't hold back. Right after the moment of warning, the disappointment, absence, and loss overwhelmed my mind. Because of the loss of people, today's wonders suddenly become "the old days": The vows were a few days ago, but in that moment, the emptiness pushed the memories back to the "old days". Everything becomes mysterious and difficult to grasp. Kieu told Thuy Van: Thuy Kieu hopes that the people who stay will sympathize and share. The words "pity" and "heartfelt" sound truly pitiful. People with "lucky destiny" are contrasted with "becoming husband and wife". Contrast with Kieu's sad fate and Van and Kim's happy life. There is nothing more painful than imagining that in the future there will be happiness for Van and Kim, while she will have broken flesh and broken bones. That place is a dark future when there is no one in your happiness. There Kieu must live alone, in the fluctuation between loss and survival, giving and receiving, past and present. The past is my love, the present is your destiny. Kieu imagines her death: It turns out that Kieu's soul, even though it died, could not escape because it was heavy with love. Returned because of the unrequited vow, still burdened with love. When love is given away and the relationship is broken, life and the future become a terrifying dream. Love is no longer there, the meaning of life is lost, Kieu feels pain and helplessness. Forget reality and sink deep into your heart, that's when tragedy deepens. Kieu clarified and apologized to Kim. Wishing him sympathy and understanding: Thinking about the past without stopping sobbing. Thinking about the present "broken brooch, broken mirror" is harsh and painful. Thinking about the future, "In the future... I'll be out of sight and out of my mind" makes me even more painful. A lot of love at this moment has turned into a lot of pain. Fed up with her fate, she let out a woman's lament. She fell into a sense of shame and guilt. Start bowing to your sister, end bowing to your lover. She sees herself as a betrayer and hopes to be forgiven:
Nguyễn Du là nhà thơ nhân đạo chủ nghĩa tiêu biểu của văn học Việt Nam. Ông có đóng góp to lớn đối với văn học dân tộc, đặc biệt nhất là kiệt tác “Truyện Kiều”. Đoạn trích “Trao duyên” trong “Truyện Kiều” mở đầu cho chuỗi ngày bất hạnh, lưu lạc của cuộc đời Thúy Kiều sau gia biến. Kiều nghĩ mình không giữ trọn lời đính ước với người yêu nên đã nhờ cậy em là Thúy Vân thay mình gắn bó với chàng Kim. Dưới đây là bài làm chi tiết mong rằng với cách làm này thì các bạn sẽ có một định hướng đúng và làm bài một cách tốt nhất. Để triển khai đề bài này, ta sẽ phân tích từng khổ thơ, nêu nội dung, nghệ thật của mỗi khổ và tư tưởng của nhà thơ. Tên thực của “Truyện Kiều” là “Đoạn trường tân thanh”, thường được hiểu là “tiếng kêu đứt ruột”. Trong đó có vô vàn tiếng kêu đau thương và “Trao duyên” có lẽ là tiếng kêu đứt ruột đầu tiên mở màn cho một chuỗi dài những đau thương chất chồng lên cuộc đời truân chuyên của người con gái tài sắc. Nếu Thúy Kiều đứt ruột trao duyên, thì Nguyễn Du cũng đã viết nên cảnh “Trao duyên” bằng những lời thơ tan nát can tràng. “Trao duyên” được mở đầu bằng hai câu thơ mà khi nói về vẻ đẹp của ngôn ngữ “Truyện Kiều” ít ai không nhắc đến. Nó giản đơn như những lời nói thông thường mà chân xác như mọi câu thơ hàm súc nhất: Tại sao lại dùng “cậy” mà không dùng “nhờ”, giáo sư Lê Trí Viễn giải thích ngoài lí do thanh điệu “trắc” gây một điểm nhấn lắng đọng cho câu thơ, còn vì chữ “cậy” bao hàm cái ý hy vọng tha thiết của một lời trối trăng, có ý nương tựa, gửi gắm, tin tưởng nơi quan hệ ruột thịt. Nếu dùng “nhờ” thì bấy nhiêu ý nghĩa sẽ nhạt hết. Còn nói “chịu” nghĩ là sự bắt buộc, còn “nhận” là tùy ở người nghe. Trong trường hợp này, Kiều muốn em không được từ chối lời đề nghị của mình. Lời lẽ thắt buộc được lựa chọn chính xác, chặt chẽ. Ở đây vị thế có sự thay đổi, thể hiện qua hai chữ ‘lạy” và “thưa”. Đó là tư thế của người chịu ơn với ân nhân của mình. Kiều van nài em bằng tất cả nỗi đau và niềm tin của mình. Ở đó có cả tư thế của người chị và người van xin. Lời thưa của Thúy Kiều rất rõ ràng, vắt tắt, dứt khoát: Người xưa xem tình yêu là một gánh nặng, nghĩa vụ cho nên mới nói “gánh tương tư”. Mà giữa đường đứt gánh thì dang dở vô cùng. Hình ảnh thơ đã nói rõ tình trạng bất lực của Thúy Kiều. Mọi việc phó thác cho em gánh. Thúy Kiều thấu hiểu cảm giác và tình cảnh thiệt thòi của em nên nói thẳng ra. “Mặc em” có nghĩa là phó mặc cho em đó, dở hay gì em cũng phải gánh vác cho chị. Câu thơ còn mang giọng điệu người chị phó thác cho em nên càng thêm sức nặng. Bốn câu thơ đã nói hết tình trông cậy, uỷ thác và nài ép, không cho em chối từ. Nhờ cậy xong Kiều mới nói lí do: Nội dung thông báo cụ thể, rõ ràng, nhưng sự trùng điệp ba chữ “khi”: khi gặp, khi ngày, khi đêm đã nói lên sự thề ước nhiều lần sâu nặng, không thể nuốt lời, nên phải nhờ em. Từ đây Kiều chuyển sang phân tích ý nghĩa: Tuổi trẻ còn lâu dài, vì thương chị mà thay chị nốì tình với Kim Trọng thì chị dẫu chết cũng hả dạ, vì có được tiếng thơm là người có tình nghĩa với chàng. Nhưng điều đặc biệt là từ đây trở đi Kiều coi mình như đã chết, như người chết. Câu “Ngày xuân em hãy còn dài” có nghĩa là “Ngày xuân của chị đã hết rồi”, chị chỉ còn “thịt nát xương mòn” và “ngậm cười chín suối”, nơi cõi chết, chín suối (cửu tuyền) là nơi đất rất sâu, chỗ người ta mai táng người chết. Đoạn “Trao duyên” phải là một cuộc đối thoại, chuyện trò. Nhưng thực tế lại diễn ra như một cuộc độc thoại. Thúy Vân hầu như không lên tiếng. Nàng im lặng chịu lời. Và thế là Kiều phải làm nốt cái phần việc cuối cùng và khó khăn nhất: trao lại kỉ vật cho Vân. Bắt đầu từ giây phút này đây, chàng Kim sẽ vĩnh viễn thuộc về người khác. Câu thơ như một nỗi nghẹn ngào: Hai chữ “của chung” chất chứa bao đau xót. Kỉ vật tình yêu chỉ thiêng liêng khi nó là tín vật, là nhân chứng thầm kín của riêng hai người. Còn từ bây giờ, nó đã thành “của chung”. Người ta đã nhận ra nỗi xót lòng ẩn trong chữ ấy. Nhưng câu thơ còn giấu trong nhịp điệu của nó một nỗi đau khác, cũng hết sức sâu kín của nàng Kiều. Nguyễn Du có không ít những câu bát dùng hai chữ “này”, lối điệp từ ấn tượng. Hai chữ “này” nằm trong điểm nhấn ngữ điệu, nên lời thơ cất lên bỗng như dằn lòng, như day dở. Nó gợi ra thoáng giằng co giữa tình cảm và lý trí. Lý trí đã quyết định trao duyên, trao kỷ vật, song tình cảm vẫn như cố trì hoãn, níu giữ. Cố dằn lòng mà không thể cầm lòng. Ngay sau giây phút dặn dò, sự hụt hẫng, thiếu vắng, mất mát đã choáng ngợp trong tâm trí. Vì đã mất người, kỳ vật hôm nay bỗng chốc trở thành “ngày xưa”: Lời thề nguyền vừa qua có mấy ngày, nhưng trong khoảnh khắc, sự trống vắng khiến kỉ niệm bị đẩy về “ngày xưa”. Tất cả trở nên huyền hoặc, khó nắm bắt. Kiều nói với Thúy Vân: Thúy Kiều mong được người ở lại cảm thông, chia sẻ. Những chữ “xót người”, “ắt lòng” vang lên nghe thật xót xa. Người “mệnh bạc” đặt tương phản với “nên vợ nên chồng”. Đối lập với số phận hẩm hiu của Kiều và cuộc sống hạnh phúc của Vân và Kim. Còn gì đau đớn hơn khi hình dung ở tương lai có hạnh phúc của Vân và Kim, còn nàng thì thịt nát, xương tan. Nơi đó là tương lai mịt mù khi trong hạnh phúc của người không có mình. Nơi đó Kiều phải sống cô đơn, trong sự chao đảo giữa mất và còn, cho đi và nhận lại, quá khứ và hiện tại. Quá khứ là tình chị, hiện tại là duyên em. Kiều tưởng tượng ra cái chết của mình: Hóa ra linh hồn Kiều dù có chết nhưng không siêu thoát, vì nặng tương tư. Trở về vì lời thề chưa trả, còn nặng trĩu mối tình. Khi tình yêu trao đi, mối duyên đã đứt thì cuộc đời và tương lai trở thành giấc mộng hãi hùng. Tình yêu không còn, ý nghĩa sự sống đã mất, Kiều cảm thấy đau đớn và bất lực. Quên mất thực tại để chìm sâu vào trong lòng, đấy là lúc bi kịch dâng lên trầm trọng. Kiều như thanh minh, tạ lỗi với chàng Kim. Mong muốn ở chàng một sự cảm thông, thấu hiểu: Nghĩ về quá khứ mà không thôi thổn thức. Nghĩ đến hiện tại “trâm gãy, gương tan” mà phũ phàng, đau đớn. Nghĩ về tương lai “Mai sau… dạ đài cách mặt khuất lời” mà càng bội phần đau đớn. Muôn vàn ái ân phút này đã hóa thành muôn vàn đau đớn. Ngán ngẩm cho số kiếp đen bạc của mình, nàng cất lên tiếng than thân của đàn bà. Nàng sa vào mặc cảm phũ phàng, tội lỗi. Mở đầu lạy em gái, kết thúc lạy người yêu. Nàng thấy mình là kẻ bội tình và những mong được tha thứ:
Nguyen Du is a typical humanitarian poet of Vietnamese literature. He made great contributions to national literature, most notably the masterpiece "The Tale of Kieu". The excerpt "Giving love" in "The Story of Kieu" begins the series of unhappy and wandering days of Thuy Kieu's life after her family's upheaval. Kieu thought she hadn't kept her engagement with her lover, so she asked her sister, Thuy Van, to be with Kim on her behalf. Below is a detailed assignment. I hope that with this method, you will have the right direction and do the exam in the best way. To develop this topic, we will analyze each stanza, stating the content and art of each stanza and the poet's thoughts. The real name of "The Tale of Kieu" is "Doan Truong Tan Thanh", often understood as "a gut-wrenching cry". There were countless cries of pain and "Giving love" was probably the first gut-wrenching cry that opened a long series of pains piled up in the troubled life of the talented girl. If Thuy Kieu broke her heart and gave love, then Nguyen Du also wrote the scene "Giving love" with heart-breaking poetry. "Giving Love" opens with two verses that few people fail to mention when talking about the beauty of the language of "The Tale of Kieu". It is as simple as ordinary words but as true as any of the most profound verses: Why use "rely" and not "thanks", professor Le Tri Vien explained, in addition to the reason that the tone "trac" creates a quiet highlight for the poem, also because the word "rely" implies the meaning of hope. The earnest hope of a last word, with the intention to rely on, confide in, and trust in a close relationship. If we use "thanks" then the meaning will be lost. Saying "receive" is considered mandatory, while "receive" depends on the listener. In this case, Kieu wants her not to refuse her offer. The binding words are chosen precisely and closely. Here the position changes, expressed through the words 'prostrate' and 'sir'. That is the posture of a grateful person towards his benefactor. Kieu begged me with all her pain and faith. There are both the postures of the sister and the supplicant. Thuy Kieu's words were very clear, concise, and decisive: The ancients saw love as a burden and obligation, so they said "the burden of longing". But in the middle of the road, the burden is extremely unfinished. The poetic image clearly states Thuy Kieu's helplessness. Everything is entrusted to me. Thuy Kieu understood her feelings and disadvantaged situation so she spoke frankly. “Let me” means to leave it to me, no matter what, I have to shoulder the responsibility for you. The poem also has the tone of an older sister entrusting her younger sister, so it has even more weight. The four verses express all the hope, entrustment and insistence, not allowing me to refuse. After asking, Kieu told the reason: The content of the announcement was specific and clear, but the repetition of the three words "when": when we met, when day, when night showed that we had sworn many times so deeply that we couldn't keep our words, so we had to ask you. From here Kieu moves on to analyze the meaning: Youth lasts a long time. Because he loves his sister, if he takes his place in love with Kim Trong, she will be happy even if she dies, because she has the reputation of being affectionate towards him. But the special thing is that from now on, Kieu considers herself dead, like a dead person. The sentence "Your spring days are still long" means "My spring days are over", I only have "broken flesh and worn bones" and "nine streams of laughter", in the realm of death, nine streams (nine springs) are The land is very deep, where people bury the dead. The section "Giving love" must be a dialogue and conversation. But reality happens like a monologue. Thuy Van hardly spoke. She silently obeyed. And so Kieu had to do the last and most difficult part: handing over the souvenir to Van. Starting from this moment, Kim will forever belong to someone else. The poem is like a choking feeling: The two words "common property" contain so much pain. A love memento is only sacred when it is a token, a secret witness of just two people. From now on, it has become "common property". People have recognized the sadness hidden in that word. But the poem also hides in its rhythm another, also very deep, pain of Kieu. Nguyen Du has many verses using the two words "this", an impressive alliteration. The two words "this" are in the accent of the intonation, so the poem's lyrics suddenly sound like a feeling of regret, like a broken heart. It evokes a slight tension between emotion and reason. Reason has decided to give love and souvenirs, but emotions still seem to try to delay and hold on. Tried to hold back but couldn't hold back. Right after the moment of warning, the disappointment, absence, and loss overwhelmed my mind. Because of the loss of people, today's wonders suddenly become "the old days": The vows were a few days ago, but in that moment, the emptiness pushed the memories back to the "old days". Everything becomes mysterious and difficult to grasp. Kieu told Thuy Van: Thuy Kieu hopes that the people who stay will sympathize and share. The words "pity" and "heartfelt" sound truly pitiful. People with "lucky destiny" are contrasted with "becoming husband and wife". Contrast with Kieu's sad fate and Van and Kim's happy life. There is nothing more painful than imagining that in the future there will be happiness for Van and Kim, while she will have broken flesh and broken bones. That place is a dark future when there is no one in your happiness. There Kieu must live alone, in the fluctuation between loss and survival, giving and receiving, past and present. The past is my love, the present is your destiny. Kieu imagines her death: It turns out that Kieu's soul, even though it died, could not escape because it was heavy with love. Returned because of the unrequited vow, still burdened with love. When love is given away and the relationship is broken, life and the future become a terrifying dream. Love is no longer there, the meaning of life is lost, Kieu feels pain and helplessness. Forget reality and sink deep into your heart, that's when tragedy deepens. Kieu clarified and apologized to Kim. Wishing him sympathy and understanding: Thinking about the past without stopping sobbing. Thinking about the present "broken brooch, broken mirror" is harsh and painful. Thinking about the future, "In the future... I'll be out of sight and out of my mind" makes me even more painful. A lot of love at this moment has turned into a lot of pain. Fed up with her fate, she let out a woman's lament. She fell into a sense of shame and guilt. Start bowing to your sister, end bowing to your lover. She sees herself as a betrayer and hopes to be forgiven:
Ca dao là tiếng nói tình cảm, cảm xúc của đời sống tâm hồn diễn tả đời sống tình cảm, cảm xúc của người dân như tình cảm gia đình, tình bạn, tình yêu. Qua ca dao, người hát như hát lên nỗi lòng mình, người nghe như đang nghe thấu nỗi niềm của mình. Những người cùng cảnh ngộ dùng chung câu hát của nhau coi đó là tâm sự của mình. Ca dao là tấm gương soi của tâm hồn dân tộc, những lời ca yêu thương tình nghĩa cất lên từ cuộc đời xót xa cay đắng, những nỗi niềm đau khổ của số kiếp bất hạnh, lời ca hài hước thể hiện tinh thần lạc quan. Bên cạnh những câu ca dao than thân thì cũng có những câu câ dao nói về tình yêu nam nữ. Một trong những bài ca dao nói về tình yêu nam nữ rất hay là “Khăn thương nhớ ai”. Chủ đề “Phân tích bài ca dao Khăn thương nhớ ai” được nhắc đến rất nhiều trong chương trình ngữ văn của bậc trung học cơ sở. Nhưng trong chương trình Ngữ Văn 10 ta cũng vẫn bắt gặp. Dưới đây là bài viết mẫu hay nhất mà các bạn có thể tham khảo. Nỗi nhớ trong tình yêu là một đề tài quen thuộc trong thế giới ca dao. Khi thì nghẹn ngùng, bẽn lẽn, khi thì làm con người ta muốn cháy hết mình trong tình yêu. Và nỗi nhớ của cô gái trong bài ca dao “ Khăn thương nhớ ai” như một khúc nhạc da diết trầm bổng réo rắt đến nao lòng. Nỗi nhớ khắc khoải da diết khiến cho nhân vật trữ tình phải cất lên những câu hỏi dồn dập không có câu trả lời. Nỗi nhớ bị nén chặt trong lòng rồi lại trào ra mênh mông, mãnh liệt. Chủ thể ở đây là cô gái đang sống trong tâm trạng nhớ thương người yêu không nguôi: Nỗi nhớ thương trong tình yêu của người con gái được bộc lộ gián tiếp qua những hình ảnh tượng trưng, biện pháp nhân hóa, ẩn dụ, hình thức lặp kèm theo những câu hỏi tu từ. Hình ảnh “ khăn” được nhắc đến đầu tiên và cũng nhiều nhất trong bài. Giống như áo khăn vốn là vật dụng gần gũi và thường là vật trao duyên ấp iu kỉ niệm. Cấu trúc vắt dòng, lặp lại từ “ khăn” ở đầu mỗi câu thơ khiến cho câu ca dao vang lên như nỗi nhớ thương triền mien, dằng dặc khắc khoải, khôn nguôi. Chiếc khăn không thể làm nên câu chuyện về tình thương nỗi nhớ. Chiếc khăn là người bạn đối với người con gái mà nhiều lần làm rơi xuống đất lại nhặt lên. Chiếc khăn như chứng nhân của tình yêu thay người nói hộ nỗi lòng, an ủi động viên người đang yêu. Đó là một chuỗi hành động tự nhiên, vô thức gắn liền với chiếc khăn như là sự lí giải cho nỗi nhớ khiến người ta không thể tự chủ được trong hành vi. Nỗi nhớ mang màu sắc nữ tính nói lên không chỉ tấm lòng mà cả nhân cách, vẻ đẹp tâm hồn của người đang nhớ, biết trân trọng, nâng niu nỗi nhớ, biết ghi lại nỗi nhớ trong lòng. Nếu sáu câu thơ đầu gợi tả nỗi nhớ trải dài, lan tỏa trong không gian thì sáu câu thơ cuối được đong đếm bằng thời gian, chuyển từ ngày sang đêm. Cấu trúc thương nhớ vẫn được giữ lại và nhân lên. Nỗi nhớ được gửi vào “ ngọn đèn”. Ngọn đèn gắn với khoảng thời gian ưu tư sần muộn khi đêm đến. Trong không gian vò võ của đêm khuya, khi ngọn đèn cháy sáng ở đầu ngọn bấc nỗi nhớ cũng cháy rực trong lòng cô gái trẻ. Chừng nào ngọn lửa của tình yêu còn cháy thì ngọn đèn chưa tắt. Đèn chẳng tắt vì con người còn trằn trọc thâu đêm. Đèn thương nhớ ai hay cô gái thương nhớ ai. “ Ai” chỉ có thể là chàng trai, người đà chiếm trọn vẹn trái tim của cô gái. Nỗi nhớ được đo bằng thời gian là nỗi nhớ sâu sắc, nỗi nhớ không bao giờ lụi tắt luôn thường trực trong trái tim của người đang yêu. Nỗi nhớ còn được bộc lộ qua con mắt. Mượn đôi mắt để giãi bày tình cảm, cô gái trẻ đã không kìm giữ được tình cảm của mình. Qua con mắt thấy được cả khung trời yêu thương: “ Mắt ngủ không yên” là hình ảnh người con gái trằn trọc, khôn nguôi. Nỗi nhớ trong tiềm thức. Hỏi khăn, hỏi đèn, hỏi mắt cũng là để hỏi chính mình. 5 lần câu hỏi vang lên cũng là 5 lần từ “ai” xoáy vào lòng mình, mãnh liệt không dứt.
Folk songs are the emotional and emotional voice of the soul's life, expressing the emotional life and emotions of people such as family feelings, friendship, and love. Through folk songs, the singer seems to be singing their own feelings, and the listener seems to be hearing their feelings. People in the same situation share each other's lyrics and consider it their confidence. Folk songs are a mirror of the nation's soul, songs of love and gratitude arise from a life of sadness and bitterness, the pain and suffering of unfortunate lives, humorous lyrics express a spirit of optimism. . In addition to folk songs about self-pity, there are also folk songs about love between men and women. One of the very good folk songs about love between men and women is "Khan and miss someone". The topic "Analysis of the folk song Who misses you when the scarf is missing" is mentioned a lot in the literature program of middle school. But in the Literature 10 program we still encounter it. Below is the best sample article that you can refer to. Nostalgia in love is a familiar topic in the world of folk songs. Sometimes it's choking and shy, other times it makes people want to burn themselves out in love. And the girl's nostalgia in the folk song "Who do you miss?" is like a melodious piece of music that resonates and resonates to the heart. The intense nostalgia causes the lyrical character to ask endless questions without answers. Memories are compressed tightly in my heart and then spill out in an immense, intense way. The subject here is a girl who is living in a state of endlessly missing her lover: The girl's longing for love is indirectly revealed through symbolic images, personification, metaphors, and repetition accompanied by rhetorical questions. The image "scarf" is mentioned first and most often in the article. Like scarves, which are intimate items and are often a gift to cherish cherished memories. The line-squeezing structure and repetition of the word "towel" at the beginning of each verse make the folk song resonate like a longing, aching, and inconsolable longing. A scarf cannot make a story about love and nostalgia. The scarf is a friend to the girl who repeatedly drops it to the ground and picks it up again. The scarf is like a witness of love that speaks for the person's heart, comforting and encouraging the person in love. It is a series of natural, unconscious actions associated with the scarf as an explanation for the nostalgia that makes people unable to control their behavior. Nostalgia with a feminine color speaks not only of the heart but also of the personality and beauty of the soul of the person who is remembering, knows how to appreciate and cherish the nostalgia, and knows how to record the nostalgia in her heart. If the first six verses describe nostalgia stretching and spreading in space, the last six verses are measured in time, moving from day to night. The memory structure is still retained and multiplied. Nostalgia is sent into the "lamp". The lamp is associated with the late, sad time when night comes. In the dark space of the night, when the lamp burned brightly at the tip of the wick, nostalgia also burned brightly in the young girl's heart. As long as the fire of love is still burning, the lamp will not go out. The lights don't go out because people still toss and turn all night. The lamp misses someone or the girl misses someone. “Who” can only be the boy, the person who completely captures the girl's heart. Nostalgia measured by time is a deep nostalgia, a nostalgia that never fades away and is always present in the heart of the lover. Nostalgia is also expressed through the eyes. Borrowing her eyes to express her feelings, the young girl could not hold back her feelings. Through my eyes I can see the whole sky of love: "Eye restlessly sleeping" is the image of a restless, inconsolable girl. Nostalgia in the subconscious. Asking for towels, asking for lights, asking for eyes is also to ask yourself. The 5 times the question rang out was also the 5 times the word "who" pierced my heart, intensely and endlessly.
Ca dao là tiếng nói tình cảm, cảm xúc của đời sống tâm hồn diễn tả đời sống tình cảm, cảm xúc của người dân như tình cảm gia đình, tình bạn, tình yêu. Qua ca dao, người hát như hát lên nỗi lòng mình, người nghe như đang nghe thấu nỗi niềm của mình. Những người cùng cảnh ngộ dùng chung câu hát của nhau coi đó là tâm sự của mình. Ca dao là tấm gương soi của tâm hồn dân tộc, những lời ca yêu thương tình nghĩa cất lên từ cuộc đời xót xa cay đắng, những nỗi niềm đau khổ của số kiếp bất hạnh, lời ca hài hước thể hiện tinh thần lạc quan. Bên cạnh những câu ca dao than thân thì cũng có những câu câ dao nói về tình yêu nam nữ. Một trong những bài ca dao nói về tình yêu nam nữ rất hay là “Khăn thương nhớ ai”. Chủ đề “Phân tích bài ca dao Khăn thương nhớ ai” được nhắc đến rất nhiều trong chương trình ngữ văn của bậc trung học cơ sở. Nhưng trong chương trình Ngữ Văn 10 ta cũng vẫn bắt gặp. Dưới đây là bài viết mẫu hay nhất mà các bạn có thể tham khảo. Nỗi nhớ trong tình yêu là một đề tài quen thuộc trong thế giới ca dao. Khi thì nghẹn ngùng, bẽn lẽn, khi thì làm con người ta muốn cháy hết mình trong tình yêu. Và nỗi nhớ của cô gái trong bài ca dao “ Khăn thương nhớ ai” như một khúc nhạc da diết trầm bổng réo rắt đến nao lòng. Nỗi nhớ khắc khoải da diết khiến cho nhân vật trữ tình phải cất lên những câu hỏi dồn dập không có câu trả lời. Nỗi nhớ bị nén chặt trong lòng rồi lại trào ra mênh mông, mãnh liệt. Chủ thể ở đây là cô gái đang sống trong tâm trạng nhớ thương người yêu không nguôi: Nỗi nhớ thương trong tình yêu của người con gái được bộc lộ gián tiếp qua những hình ảnh tượng trưng, biện pháp nhân hóa, ẩn dụ, hình thức lặp kèm theo những câu hỏi tu từ. Hình ảnh “ khăn” được nhắc đến đầu tiên và cũng nhiều nhất trong bài. Giống như áo khăn vốn là vật dụng gần gũi và thường là vật trao duyên ấp iu kỉ niệm. Cấu trúc vắt dòng, lặp lại từ “ khăn” ở đầu mỗi câu thơ khiến cho câu ca dao vang lên như nỗi nhớ thương triền mien, dằng dặc khắc khoải, khôn nguôi. Chiếc khăn không thể làm nên câu chuyện về tình thương nỗi nhớ. Chiếc khăn là người bạn đối với người con gái mà nhiều lần làm rơi xuống đất lại nhặt lên. Chiếc khăn như chứng nhân của tình yêu thay người nói hộ nỗi lòng, an ủi động viên người đang yêu. Đó là một chuỗi hành động tự nhiên, vô thức gắn liền với chiếc khăn như là sự lí giải cho nỗi nhớ khiến người ta không thể tự chủ được trong hành vi. Nỗi nhớ mang màu sắc nữ tính nói lên không chỉ tấm lòng mà cả nhân cách, vẻ đẹp tâm hồn của người đang nhớ, biết trân trọng, nâng niu nỗi nhớ, biết ghi lại nỗi nhớ trong lòng. Nếu sáu câu thơ đầu gợi tả nỗi nhớ trải dài, lan tỏa trong không gian thì sáu câu thơ cuối được đong đếm bằng thời gian, chuyển từ ngày sang đêm. Cấu trúc thương nhớ vẫn được giữ lại và nhân lên. Nỗi nhớ được gửi vào “ ngọn đèn”. Ngọn đèn gắn với khoảng thời gian ưu tư sần muộn khi đêm đến. Trong không gian vò võ của đêm khuya, khi ngọn đèn cháy sáng ở đầu ngọn bấc nỗi nhớ cũng cháy rực trong lòng cô gái trẻ. Chừng nào ngọn lửa của tình yêu còn cháy thì ngọn đèn chưa tắt. Đèn chẳng tắt vì con người còn trằn trọc thâu đêm. Đèn thương nhớ ai hay cô gái thương nhớ ai. “ Ai” chỉ có thể là chàng trai, người đà chiếm trọn vẹn trái tim của cô gái. Nỗi nhớ được đo bằng thời gian là nỗi nhớ sâu sắc, nỗi nhớ không bao giờ lụi tắt luôn thường trực trong trái tim của người đang yêu. Nỗi nhớ còn được bộc lộ qua con mắt. Mượn đôi mắt để giãi bày tình cảm, cô gái trẻ đã không kìm giữ được tình cảm của mình. Qua con mắt thấy được cả khung trời yêu thương: “ Mắt ngủ không yên” là hình ảnh người con gái trằn trọc, khôn nguôi. Nỗi nhớ trong tiềm thức. Hỏi khăn, hỏi đèn, hỏi mắt cũng là để hỏi chính mình. 5 lần câu hỏi vang lên cũng là 5 lần từ “ai” xoáy vào lòng mình, mãnh liệt không dứt.
Folk songs are the emotional and emotional voice of the soul's life, expressing the emotional life and emotions of people such as family feelings, friendship, and love. Through folk songs, the singer seems to be singing their own feelings, and the listener seems to be hearing their feelings. People in the same situation share each other's lyrics and consider it their confidence. Folk songs are a mirror of the nation's soul, songs of love and gratitude arise from a life of sadness and bitterness, the pain and suffering of unfortunate lives, humorous lyrics express a spirit of optimism. . In addition to folk songs about self-pity, there are also folk songs about love between men and women. One of the very good folk songs about love between men and women is "Khan and miss someone". The topic "Analysis of the folk song Who misses you when the scarf is missing" is mentioned a lot in the literature program of middle school. But in the Literature 10 program we still encounter it. Below is the best sample article that you can refer to. Nostalgia in love is a familiar topic in the world of folk songs. Sometimes it's choking and shy, other times it makes people want to burn themselves out in love. And the girl's nostalgia in the folk song "Who do you miss?" is like a melodious piece of music that resonates and resonates to the heart. The intense nostalgia causes the lyrical character to ask endless questions without answers. Memories are compressed tightly in my heart and then spill out in an immense, intense way. The subject here is a girl who is living in a state of endlessly missing her lover: The girl's longing for love is indirectly revealed through symbolic images, personification, metaphors, and repetition accompanied by rhetorical questions. The image "scarf" is mentioned first and most often in the article. Like scarves, which are intimate items and are often a gift to cherish cherished memories. The line-squeezing structure and repetition of the word "towel" at the beginning of each verse make the folk song resonate like a longing, aching, and inconsolable longing. A scarf cannot make a story about love and nostalgia. The scarf is a friend to the girl who repeatedly drops it to the ground and picks it up again. The scarf is like a witness of love that speaks for the person's heart, comforting and encouraging the person in love. It is a series of natural, unconscious actions associated with the scarf as an explanation for the nostalgia that makes people unable to control their behavior. Nostalgia with a feminine color speaks not only of the heart but also of the personality and beauty of the soul of the person who is remembering, knows how to appreciate and cherish the nostalgia, and knows how to record the nostalgia in her heart. If the first six verses describe nostalgia stretching and spreading in space, the last six verses are measured in time, moving from day to night. The memory structure is still retained and multiplied. Nostalgia is sent into the "lamp". The lamp is associated with the late, sad time when night comes. In the dark space of the night, when the lamp burned brightly at the tip of the wick, nostalgia also burned brightly in the young girl's heart. As long as the fire of love is still burning, the lamp will not go out. The lights don't go out because people still toss and turn all night. The lamp misses someone or the girl misses someone. “Who” can only be the boy, the person who completely captures the girl's heart. Nostalgia measured by time is a deep nostalgia, a nostalgia that never fades away and is always present in the heart of the lover. Nostalgia is also expressed through the eyes. Borrowing her eyes to express her feelings, the young girl could not hold back her feelings. Through my eyes I can see the whole sky of love: "Eye restlessly sleeping" is the image of a restless, inconsolable girl. Nostalgia in the subconscious. Asking for towels, asking for lights, asking for eyes is also to ask yourself. The 5 times the question rang out was also the 5 times the word "who" pierced my heart, intensely and endlessly.
Đất nước ta đang trên đà đi lên công nghiệp hóa và hiện đại hóa, các nhà máy, cơ quan, xí nghiệp, các cơ sở sản xuất…mọc lên ngày càng nhiều và vấn đề ô nhiễm môi trường là điều không thể tránh khỏi. Ô nhiễm môi trường giờ đây đang trở thành vấn nạn đối với toàn cầu. Mỗi công nhân, mỗi quốc gia không ngừng ra sức có những biện pháp hữu hiệu để bảo vệ môi trường. Bác Hồ từng căn dặn: “Mùa xuân là Tết trồng cây / Làm cho đất nước càng ngày càng xuân”. Quả là như vậy, cây xanh luôn có một vai trò to lớn giúp cân bằng hệ sinh thái và ngăn chặn sự ô nhiễm môi trường. Trong chương trình Ngữ Văn 10 có bài viết số 4 lớp 10 đề 1: Viết một bài văn thuyết minh về vai trò của cây cối (hoặc của rừng, của các loài động vật hoang dã, của nhiên liệu sạch) trong việc bảo vệ môi trường đòi hỏi người viết phải phát hiện và nêu ra lợi ích to lớn của cây xanh, tác động của cây xanh đối với môi trường. Dưới đây là bài văn mẫu bài viết số 4 lớp 10 đề 1: Viết một bài văn thuyết minh về vai trò của cây cối (hoặc của rừng, của các loài động vật hoang dã, của nhiên liệu sạch) trong việc bảo vệ môi trường để chúng ta có thể tham khảo và có một định hướng khi làm bài. Ngày nay, ô nhiễm môi trường không chỉ là mối nguy hại của một xã hội mà nó trở thành vấn nạn của toàn cầu. Từ lâu, các chuyên gia, nhà nghiên cứu đã không ngừng tìm cách giảm ô nhiễm môi trường. Trồng cây gây rừng là một cách thực sự hữu ích. Chúng ta không thể phủ định vai trò của cây xanh trong việc làm giảm ô nhiễm môi trường. Cây xanh có vai trò vô cùng to lớn trong cuộc sống của chúng ta. Từ xa xưa đến nay, cuộc sống của loài người luôn gắn bó và không thể tách rời khỏi thiên nhiên, con người dựa vào thiên nhiên để sống. Cây xanh và môi trường tác động qua lại lẫn nhau, bổ sung và hỗ trợ nhau trong sự phát triển hài hòa của xã hội. Cây xanh đóng vai trò vô cùng to lớn trong việc bảo vệ môi trường. Chúng ta đều biết hiện nay ô nhiễm môi trường đang là vấn đề hết sức đáng lo ngại ở hầu hết các quốc gia trên thế giới. Hiện tượng trái đất nóng lên, ô nhiễm tiếng ồn, ánh sáng, khói bụi từ các nhà máy, xí nghiệp, giao thông,… tất cả gây nhiều ảnh hưởng xấu tới đời sống và nguy hiểm trực tiếp đến sức khỏe người dân. Cây xanh được coi là lá phổi xanh của xã hội. Trồng nhiều cây xanh giúp cung cấp một lượng lớn oxy cho chúng ta thở. Trung bình cứ một cây xanh quang hợp có thể cung cấp đủ lượng oxy cho bốn người. Đồng thời chúng cũng hấp thụ C02, amoniac, S02, Nox, bụi bẩn,… từ đó làm trong lành hơn bầu khí quyển xung quanh. Chúng ta cũng không thể phủ nhận rằng cây xanh giúp làm mát đường phố. Trồng nhiều cây xanh ở các khu dân cư đông đúc sẽ không chỉ giúp cho không khí ở đó trong lành hơn, mà cây xanh tạo bóng mát ngăn chặn ánh nắng mặt trời, các tia cực tím, hạn chế tác hại của các bức xạ mặt trời lên con người. Cây hấp thụ các khí độc thải ra từ khói xe cộ, quán ăn, bụi bẩn nhà máy, rác thải, và nhiệt từ chính con người tỏa ra, từ đó giúp giảm bớt nhiệt. Ngày nay, ở các đường phố lớn nhỏ, con người tích cực trồng cây hai ven đường như một cách giảm nhiệt mùa hè. Không chỉ có vậy, cây xanh cofa giúp bảo tồn năng lượng. Theo một số nghiên cứu, nếu bạn trồng khoảng ba cây quanh một ngôi nhà, bạn sẽ giảm bớt được 50% nhu cầu sử dụng điều hòa. Một cây có thể làm giảm nhiệt, dịu mát cho mười phòng. Bằng cách giảm bớt nhu cầu sử dụng năng lượng, chúng ta không chỉ tiết kiệm được tiền điện mà còn giúp giảm bớt lượng C02 thải ra từ các nhà máy sản xuất điện. Trồng nhiều cây xanh xung quanh ngôi nhà sẽ giúp bạn điều hòa được không khí ngôi nhà mình, giúp giảm nhiệt và không khí mát mẻ, trong lành hơn, giúp bạn có được một giấc ngủ thật ngon. Theo nguyên lý sống của cây thì ban ngày nó nhả ra khí oxi mà hấp thụ khí CO2 vì thế cho nên những chất độc hại trong không khí hầu như là được hút sạch trả lại cho con người một bầu không khí trong lành khỏe mạnh. Một lợi ích không thể không thể kể tới chính là cây xanh bảo vệ mạch nước ngầm. Theo những chứng minh khoa học thì cây xanh với những chiếc lá của mình sẽ ngăn chặn cho mưa rơi xuống đất nhanh chóng không những làm xói mòn đất mà còn trôi tuột đi không giữ lại được nguồn nước ngầm. Chính vì thế mà những tán lá kia làm giảm đi điều đó, những hạt nước sau khi rơi xuống bị là cản lại chảy từ lá xuống cành sau đó thấm dần vào đất. Vậy nên mạch nước nguồn của chúng ta được đảm bảo. Không những thế chảy qua lá và thấm vào đất những chất độc hại đã bị lưu trên mặt đất nguồn nước ngầm trở nên sạch sẽ hơn. Cây xanh có vai trò vô cùng quan trọng trong việc bảo vệ môi trường. Mỗi chúng ta cần chung tay bảo vệ cây xanh, tích cực trồng cây gây rừng để môi trường sống luôn xanh, sạch, đẹp. Vạn vật tạo hóa sinh ra đều mang đến một sinh mệnh, vai trò khác nhau để góp phần làm nên thế giới tươi đẹp. Con người ta được sống và được hưởng mọi ưu đãi của mẹ thiên nhiên rất nhiều. Có thể nói rừng đóng một vai trò quan trọng trong cuộc sống loài người là lá phổi xanh của mỗi chúng ta Trước hết chúng ta cần hiểu thế nào là rừng? Rừng là một hệ sinh thái bao gồm quần thể thực vật rừng, động vật rừng, đất rừng và các yếu tố môi trường khác tạo thành một chỉnh thể thống nhất và có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Rừng còn là một quần lạc sinh địa, nó được tạo nên bởi nhiều thành phần mà cây là thành phần chính. Ngay từ thuở sơ khai, con người đã có những khái niệm cơ bản nhất về rừng. Rừng là nơi cung cấp mọi thứ phục vụ cuộc sống của họ. Lịch sử càng phát triển, những khái niệm về rừng được tích lũy, hoàn thiện thành những học thuyết về rừng. Như chúng ta đã biết, thành phần chính của rừng là cây xanh. Mà cây xanh lại có tác dụng rất lớn đối với môi trường sống. Không đơn thuần là tạo bóng mát, làm đẹp phố phường mà hơn hết cây xanh điều hòa khí hậu giúp cho không khí trong lành, làm sạch bầu khí quyển. Cây cối hấp thụ và phản xạ năng lượng mặt trời chiếu xuống đất làm giảm đi sức nóng của trái đất, những khúc xạ của các tia cực tím cũng được làm dịu đi. Khối lượng khí cacbonic khổng lồ trên trái đất cũng được cây xanh hấp thụ, giảm đi nguy cơ gây ra hiệu ứng nhà kính. Đồng thời cây xanh còn thải ra khí oxi trong quá trình hô hấp, quang hợp từ đó mà các loài động vật, con người có thể sống và tồn tại. Hãy thử tượng tưởng xem nếu như trái đất này không có cây xanh thì chắc chắn xung quanh ta sẽ chỉ là một bầu không khí bụi bặm, ô nhiễm nắng, nóng hoặc mưa lạnh giá, hạn hán ngập lụt sẽ giày xéo lên cuộc sống của người dân và ta cảm thấy cuộc sống này thật tẻ nhạt biết nhường nào. Nói cách khác không có cây xanh sự sống của con người sẽ chấm dứt. Không phải tự nhiên mà người ta ví rừng là lá phổi xanh của Trái Đất. Rừng là tài sản vô giá của con người. Và rừng cũng có mặt ở khắp mọi vùng của mảnh đất hình chữ S này. Mỗi cây xanh cũng chính là những cánh rừng thu nhỏ. Rừng là thảm thực vật của những cây thân gỗ trên bề mặt Trái Đất, giữ vai trò to lớn đối với con người như: cung cấp nguồn gỗ, củi, điều hòa khí hậu, tạo ra oxy, điều hòa nước, nơi cư trú động thực vật và tàng trữ các nguồn gen quý hiếm. Rừng là nguồn gen vô tận của con người, là nới cư trú của các loài động thực vật quý hiếm. Tìm đến thiên nhiên hoang sơ sẽ giúp ta giải tỏa căng thẳng, tạm quên đi những bộn bề, nhỏ nhặt trong cuộc sống đời thường.
Đất nước ta đang trên đà đi lên công nghiệp hóa và hiện đại hóa, các nhà máy, cơ quan, xí nghiệp, các cơ sở sản xuất…mọc lên ngày càng nhiều và vấn đề ô nhiễm môi trường là điều không thể tránh khỏi. Ô nhiễm môi trường giờ đây đang trở thành vấn nạn đối với toàn cầu. Mỗi công nhân, mỗi quốc gia không ngừng ra sức có những biện pháp hữu hiệu để bảo vệ môi trường. Bác Hồ từng căn dặn: “Mùa xuân là Tết trồng cây / Làm cho đất nước càng ngày càng xuân”. Quả là như vậy, cây xanh luôn có một vai trò to lớn giúp cân bằng hệ sinh thái và ngăn chặn sự ô nhiễm môi trường. Trong chương trình Ngữ Văn 10 có bài viết số 4 lớp 10 đề 1: Viết một bài văn thuyết minh về vai trò của cây cối (hoặc của rừng, của các loài động vật hoang dã, của nhiên liệu sạch) trong việc bảo vệ môi trường đòi hỏi người viết phải phát hiện và nêu ra lợi ích to lớn của cây xanh, tác động của cây xanh đối với môi trường. Dưới đây là bài văn mẫu bài viết số 4 lớp 10 đề 1: Viết một bài văn thuyết minh về vai trò của cây cối (hoặc của rừng, của các loài động vật hoang dã, của nhiên liệu sạch) trong việc bảo vệ môi trường để chúng ta có thể tham khảo và có một định hướng khi làm bài. Ngày nay, ô nhiễm môi trường không chỉ là mối nguy hại của một xã hội mà nó trở thành vấn nạn của toàn cầu. Từ lâu, các chuyên gia, nhà nghiên cứu đã không ngừng tìm cách giảm ô nhiễm môi trường. Trồng cây gây rừng là một cách thực sự hữu ích. Chúng ta không thể phủ định vai trò của cây xanh trong việc làm giảm ô nhiễm môi trường. Cây xanh có vai trò vô cùng to lớn trong cuộc sống của chúng ta. Từ xa xưa đến nay, cuộc sống của loài người luôn gắn bó và không thể tách rời khỏi thiên nhiên, con người dựa vào thiên nhiên để sống. Cây xanh và môi trường tác động qua lại lẫn nhau, bổ sung và hỗ trợ nhau trong sự phát triển hài hòa của xã hội. Cây xanh đóng vai trò vô cùng to lớn trong việc bảo vệ môi trường. Chúng ta đều biết hiện nay ô nhiễm môi trường đang là vấn đề hết sức đáng lo ngại ở hầu hết các quốc gia trên thế giới. Hiện tượng trái đất nóng lên, ô nhiễm tiếng ồn, ánh sáng, khói bụi từ các nhà máy, xí nghiệp, giao thông,… tất cả gây nhiều ảnh hưởng xấu tới đời sống và nguy hiểm trực tiếp đến sức khỏe người dân. Cây xanh được coi là lá phổi xanh của xã hội. Trồng nhiều cây xanh giúp cung cấp một lượng lớn oxy cho chúng ta thở. Trung bình cứ một cây xanh quang hợp có thể cung cấp đủ lượng oxy cho bốn người. Đồng thời chúng cũng hấp thụ C02, amoniac, S02, Nox, bụi bẩn,… từ đó làm trong lành hơn bầu khí quyển xung quanh. Chúng ta cũng không thể phủ nhận rằng cây xanh giúp làm mát đường phố. Trồng nhiều cây xanh ở các khu dân cư đông đúc sẽ không chỉ giúp cho không khí ở đó trong lành hơn, mà cây xanh tạo bóng mát ngăn chặn ánh nắng mặt trời, các tia cực tím, hạn chế tác hại của các bức xạ mặt trời lên con người. Cây hấp thụ các khí độc thải ra từ khói xe cộ, quán ăn, bụi bẩn nhà máy, rác thải, và nhiệt từ chính con người tỏa ra, từ đó giúp giảm bớt nhiệt. Ngày nay, ở các đường phố lớn nhỏ, con người tích cực trồng cây hai ven đường như một cách giảm nhiệt mùa hè. Không chỉ có vậy, cây xanh cofa giúp bảo tồn năng lượng. Theo một số nghiên cứu, nếu bạn trồng khoảng ba cây quanh một ngôi nhà, bạn sẽ giảm bớt được 50% nhu cầu sử dụng điều hòa. Một cây có thể làm giảm nhiệt, dịu mát cho mười phòng. Bằng cách giảm bớt nhu cầu sử dụng năng lượng, chúng ta không chỉ tiết kiệm được tiền điện mà còn giúp giảm bớt lượng C02 thải ra từ các nhà máy sản xuất điện. Trồng nhiều cây xanh xung quanh ngôi nhà sẽ giúp bạn điều hòa được không khí ngôi nhà mình, giúp giảm nhiệt và không khí mát mẻ, trong lành hơn, giúp bạn có được một giấc ngủ thật ngon. Theo nguyên lý sống của cây thì ban ngày nó nhả ra khí oxi mà hấp thụ khí CO2 vì thế cho nên những chất độc hại trong không khí hầu như là được hút sạch trả lại cho con người một bầu không khí trong lành khỏe mạnh. Một lợi ích không thể không thể kể tới chính là cây xanh bảo vệ mạch nước ngầm. Theo những chứng minh khoa học thì cây xanh với những chiếc lá của mình sẽ ngăn chặn cho mưa rơi xuống đất nhanh chóng không những làm xói mòn đất mà còn trôi tuột đi không giữ lại được nguồn nước ngầm. Chính vì thế mà những tán lá kia làm giảm đi điều đó, những hạt nước sau khi rơi xuống bị là cản lại chảy từ lá xuống cành sau đó thấm dần vào đất. Vậy nên mạch nước nguồn của chúng ta được đảm bảo. Không những thế chảy qua lá và thấm vào đất những chất độc hại đã bị lưu trên mặt đất nguồn nước ngầm trở nên sạch sẽ hơn. Cây xanh có vai trò vô cùng quan trọng trong việc bảo vệ môi trường. Mỗi chúng ta cần chung tay bảo vệ cây xanh, tích cực trồng cây gây rừng để môi trường sống luôn xanh, sạch, đẹp. Vạn vật tạo hóa sinh ra đều mang đến một sinh mệnh, vai trò khác nhau để góp phần làm nên thế giới tươi đẹp. Con người ta được sống và được hưởng mọi ưu đãi của mẹ thiên nhiên rất nhiều. Có thể nói rừng đóng một vai trò quan trọng trong cuộc sống loài người là lá phổi xanh của mỗi chúng ta Trước hết chúng ta cần hiểu thế nào là rừng? Rừng là một hệ sinh thái bao gồm quần thể thực vật rừng, động vật rừng, đất rừng và các yếu tố môi trường khác tạo thành một chỉnh thể thống nhất và có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Rừng còn là một quần lạc sinh địa, nó được tạo nên bởi nhiều thành phần mà cây là thành phần chính. Ngay từ thuở sơ khai, con người đã có những khái niệm cơ bản nhất về rừng. Rừng là nơi cung cấp mọi thứ phục vụ cuộc sống của họ. Lịch sử càng phát triển, những khái niệm về rừng được tích lũy, hoàn thiện thành những học thuyết về rừng. Như chúng ta đã biết, thành phần chính của rừng là cây xanh. Mà cây xanh lại có tác dụng rất lớn đối với môi trường sống. Không đơn thuần là tạo bóng mát, làm đẹp phố phường mà hơn hết cây xanh điều hòa khí hậu giúp cho không khí trong lành, làm sạch bầu khí quyển. Cây cối hấp thụ và phản xạ năng lượng mặt trời chiếu xuống đất làm giảm đi sức nóng của trái đất, những khúc xạ của các tia cực tím cũng được làm dịu đi. Khối lượng khí cacbonic khổng lồ trên trái đất cũng được cây xanh hấp thụ, giảm đi nguy cơ gây ra hiệu ứng nhà kính. Đồng thời cây xanh còn thải ra khí oxi trong quá trình hô hấp, quang hợp từ đó mà các loài động vật, con người có thể sống và tồn tại. Hãy thử tượng tưởng xem nếu như trái đất này không có cây xanh thì chắc chắn xung quanh ta sẽ chỉ là một bầu không khí bụi bặm, ô nhiễm nắng, nóng hoặc mưa lạnh giá, hạn hán ngập lụt sẽ giày xéo lên cuộc sống của người dân và ta cảm thấy cuộc sống này thật tẻ nhạt biết nhường nào. Nói cách khác không có cây xanh sự sống của con người sẽ chấm dứt. Không phải tự nhiên mà người ta ví rừng là lá phổi xanh của Trái Đất. Rừng là tài sản vô giá của con người. Và rừng cũng có mặt ở khắp mọi vùng của mảnh đất hình chữ S này. Mỗi cây xanh cũng chính là những cánh rừng thu nhỏ. Rừng là thảm thực vật của những cây thân gỗ trên bề mặt Trái Đất, giữ vai trò to lớn đối với con người như: cung cấp nguồn gỗ, củi, điều hòa khí hậu, tạo ra oxy, điều hòa nước, nơi cư trú động thực vật và tàng trữ các nguồn gen quý hiếm. Rừng là nguồn gen vô tận của con người, là nới cư trú của các loài động thực vật quý hiếm. Tìm đến thiên nhiên hoang sơ sẽ giúp ta giải tỏa căng thẳng, tạm quên đi những bộn bề, nhỏ nhặt trong cuộc sống đời thường.
Đất nước ta đang trên đà đi lên công nghiệp hóa và hiện đại hóa, các nhà máy, cơ quan, xí nghiệp, các cơ sở sản xuất…mọc lên ngày càng nhiều và vấn đề ô nhiễm môi trường là điều không thể tránh khỏi. Ô nhiễm môi trường giờ đây đang trở thành vấn nạn đối với toàn cầu. Mỗi công nhân, mỗi quốc gia không ngừng ra sức có những biện pháp hữu hiệu để bảo vệ môi trường. Bác Hồ từng căn dặn: “Mùa xuân là Tết trồng cây / Làm cho đất nước càng ngày càng xuân”. Quả là như vậy, cây xanh luôn có một vai trò to lớn giúp cân bằng hệ sinh thái và ngăn chặn sự ô nhiễm môi trường. Trong chương trình Ngữ Văn 10 có bài viết số 4 lớp 10 đề 1: Viết một bài văn thuyết minh về vai trò của cây cối (hoặc của rừng, của các loài động vật hoang dã, của nhiên liệu sạch) trong việc bảo vệ môi trường đòi hỏi người viết phải phát hiện và nêu ra lợi ích to lớn của cây xanh, tác động của cây xanh đối với môi trường. Dưới đây là bài văn mẫu bài viết số 4 lớp 10 đề 1: Viết một bài văn thuyết minh về vai trò của cây cối (hoặc của rừng, của các loài động vật hoang dã, của nhiên liệu sạch) trong việc bảo vệ môi trường để chúng ta có thể tham khảo và có một định hướng khi làm bài. Ngày nay, ô nhiễm môi trường không chỉ là mối nguy hại của một xã hội mà nó trở thành vấn nạn của toàn cầu. Từ lâu, các chuyên gia, nhà nghiên cứu đã không ngừng tìm cách giảm ô nhiễm môi trường. Trồng cây gây rừng là một cách thực sự hữu ích. Chúng ta không thể phủ định vai trò của cây xanh trong việc làm giảm ô nhiễm môi trường. Cây xanh có vai trò vô cùng to lớn trong cuộc sống của chúng ta. Từ xa xưa đến nay, cuộc sống của loài người luôn gắn bó và không thể tách rời khỏi thiên nhiên, con người dựa vào thiên nhiên để sống. Cây xanh và môi trường tác động qua lại lẫn nhau, bổ sung và hỗ trợ nhau trong sự phát triển hài hòa của xã hội. Cây xanh đóng vai trò vô cùng to lớn trong việc bảo vệ môi trường. Chúng ta đều biết hiện nay ô nhiễm môi trường đang là vấn đề hết sức đáng lo ngại ở hầu hết các quốc gia trên thế giới. Hiện tượng trái đất nóng lên, ô nhiễm tiếng ồn, ánh sáng, khói bụi từ các nhà máy, xí nghiệp, giao thông,… tất cả gây nhiều ảnh hưởng xấu tới đời sống và nguy hiểm trực tiếp đến sức khỏe người dân. Cây xanh được coi là lá phổi xanh của xã hội. Trồng nhiều cây xanh giúp cung cấp một lượng lớn oxy cho chúng ta thở. Trung bình cứ một cây xanh quang hợp có thể cung cấp đủ lượng oxy cho bốn người. Đồng thời chúng cũng hấp thụ C02, amoniac, S02, Nox, bụi bẩn,… từ đó làm trong lành hơn bầu khí quyển xung quanh. Chúng ta cũng không thể phủ nhận rằng cây xanh giúp làm mát đường phố. Trồng nhiều cây xanh ở các khu dân cư đông đúc sẽ không chỉ giúp cho không khí ở đó trong lành hơn, mà cây xanh tạo bóng mát ngăn chặn ánh nắng mặt trời, các tia cực tím, hạn chế tác hại của các bức xạ mặt trời lên con người. Cây hấp thụ các khí độc thải ra từ khói xe cộ, quán ăn, bụi bẩn nhà máy, rác thải, và nhiệt từ chính con người tỏa ra, từ đó giúp giảm bớt nhiệt. Ngày nay, ở các đường phố lớn nhỏ, con người tích cực trồng cây hai ven đường như một cách giảm nhiệt mùa hè. Không chỉ có vậy, cây xanh cofa giúp bảo tồn năng lượng. Theo một số nghiên cứu, nếu bạn trồng khoảng ba cây quanh một ngôi nhà, bạn sẽ giảm bớt được 50% nhu cầu sử dụng điều hòa. Một cây có thể làm giảm nhiệt, dịu mát cho mười phòng. Bằng cách giảm bớt nhu cầu sử dụng năng lượng, chúng ta không chỉ tiết kiệm được tiền điện mà còn giúp giảm bớt lượng C02 thải ra từ các nhà máy sản xuất điện. Trồng nhiều cây xanh xung quanh ngôi nhà sẽ giúp bạn điều hòa được không khí ngôi nhà mình, giúp giảm nhiệt và không khí mát mẻ, trong lành hơn, giúp bạn có được một giấc ngủ thật ngon. Theo nguyên lý sống của cây thì ban ngày nó nhả ra khí oxi mà hấp thụ khí CO2 vì thế cho nên những chất độc hại trong không khí hầu như là được hút sạch trả lại cho con người một bầu không khí trong lành khỏe mạnh. Một lợi ích không thể không thể kể tới chính là cây xanh bảo vệ mạch nước ngầm. Theo những chứng minh khoa học thì cây xanh với những chiếc lá của mình sẽ ngăn chặn cho mưa rơi xuống đất nhanh chóng không những làm xói mòn đất mà còn trôi tuột đi không giữ lại được nguồn nước ngầm. Chính vì thế mà những tán lá kia làm giảm đi điều đó, những hạt nước sau khi rơi xuống bị là cản lại chảy từ lá xuống cành sau đó thấm dần vào đất. Vậy nên mạch nước nguồn của chúng ta được đảm bảo. Không những thế chảy qua lá và thấm vào đất những chất độc hại đã bị lưu trên mặt đất nguồn nước ngầm trở nên sạch sẽ hơn. Cây xanh có vai trò vô cùng quan trọng trong việc bảo vệ môi trường. Mỗi chúng ta cần chung tay bảo vệ cây xanh, tích cực trồng cây gây rừng để môi trường sống luôn xanh, sạch, đẹp. Vạn vật tạo hóa sinh ra đều mang đến một sinh mệnh, vai trò khác nhau để góp phần làm nên thế giới tươi đẹp. Con người ta được sống và được hưởng mọi ưu đãi của mẹ thiên nhiên rất nhiều. Có thể nói rừng đóng một vai trò quan trọng trong cuộc sống loài người là lá phổi xanh của mỗi chúng ta Trước hết chúng ta cần hiểu thế nào là rừng? Rừng là một hệ sinh thái bao gồm quần thể thực vật rừng, động vật rừng, đất rừng và các yếu tố môi trường khác tạo thành một chỉnh thể thống nhất và có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Rừng còn là một quần lạc sinh địa, nó được tạo nên bởi nhiều thành phần mà cây là thành phần chính. Ngay từ thuở sơ khai, con người đã có những khái niệm cơ bản nhất về rừng. Rừng là nơi cung cấp mọi thứ phục vụ cuộc sống của họ. Lịch sử càng phát triển, những khái niệm về rừng được tích lũy, hoàn thiện thành những học thuyết về rừng. Như chúng ta đã biết, thành phần chính của rừng là cây xanh. Mà cây xanh lại có tác dụng rất lớn đối với môi trường sống. Không đơn thuần là tạo bóng mát, làm đẹp phố phường mà hơn hết cây xanh điều hòa khí hậu giúp cho không khí trong lành, làm sạch bầu khí quyển. Cây cối hấp thụ và phản xạ năng lượng mặt trời chiếu xuống đất làm giảm đi sức nóng của trái đất, những khúc xạ của các tia cực tím cũng được làm dịu đi. Khối lượng khí cacbonic khổng lồ trên trái đất cũng được cây xanh hấp thụ, giảm đi nguy cơ gây ra hiệu ứng nhà kính. Đồng thời cây xanh còn thải ra khí oxi trong quá trình hô hấp, quang hợp từ đó mà các loài động vật, con người có thể sống và tồn tại. Hãy thử tượng tưởng xem nếu như trái đất này không có cây xanh thì chắc chắn xung quanh ta sẽ chỉ là một bầu không khí bụi bặm, ô nhiễm nắng, nóng hoặc mưa lạnh giá, hạn hán ngập lụt sẽ giày xéo lên cuộc sống của người dân và ta cảm thấy cuộc sống này thật tẻ nhạt biết nhường nào. Nói cách khác không có cây xanh sự sống của con người sẽ chấm dứt. Không phải tự nhiên mà người ta ví rừng là lá phổi xanh của Trái Đất. Rừng là tài sản vô giá của con người. Và rừng cũng có mặt ở khắp mọi vùng của mảnh đất hình chữ S này. Mỗi cây xanh cũng chính là những cánh rừng thu nhỏ. Rừng là thảm thực vật của những cây thân gỗ trên bề mặt Trái Đất, giữ vai trò to lớn đối với con người như: cung cấp nguồn gỗ, củi, điều hòa khí hậu, tạo ra oxy, điều hòa nước, nơi cư trú động thực vật và tàng trữ các nguồn gen quý hiếm. Rừng là nguồn gen vô tận của con người, là nới cư trú của các loài động thực vật quý hiếm. Tìm đến thiên nhiên hoang sơ sẽ giúp ta giải tỏa căng thẳng, tạm quên đi những bộn bề, nhỏ nhặt trong cuộc sống đời thường.
Đất nước ta đang trên đà đi lên công nghiệp hóa và hiện đại hóa, các nhà máy, cơ quan, xí nghiệp, các cơ sở sản xuất…mọc lên ngày càng nhiều và vấn đề ô nhiễm môi trường là điều không thể tránh khỏi. Ô nhiễm môi trường giờ đây đang trở thành vấn nạn đối với toàn cầu. Mỗi công nhân, mỗi quốc gia không ngừng ra sức có những biện pháp hữu hiệu để bảo vệ môi trường. Bác Hồ từng căn dặn: “Mùa xuân là Tết trồng cây / Làm cho đất nước càng ngày càng xuân”. Quả là như vậy, cây xanh luôn có một vai trò to lớn giúp cân bằng hệ sinh thái và ngăn chặn sự ô nhiễm môi trường. Trong chương trình Ngữ Văn 10 có bài viết số 4 lớp 10 đề 1: Viết một bài văn thuyết minh về vai trò của cây cối (hoặc của rừng, của các loài động vật hoang dã, của nhiên liệu sạch) trong việc bảo vệ môi trường đòi hỏi người viết phải phát hiện và nêu ra lợi ích to lớn của cây xanh, tác động của cây xanh đối với môi trường. Dưới đây là bài văn mẫu bài viết số 4 lớp 10 đề 1: Viết một bài văn thuyết minh về vai trò của cây cối (hoặc của rừng, của các loài động vật hoang dã, của nhiên liệu sạch) trong việc bảo vệ môi trường để chúng ta có thể tham khảo và có một định hướng khi làm bài. Ngày nay, ô nhiễm môi trường không chỉ là mối nguy hại của một xã hội mà nó trở thành vấn nạn của toàn cầu. Từ lâu, các chuyên gia, nhà nghiên cứu đã không ngừng tìm cách giảm ô nhiễm môi trường. Trồng cây gây rừng là một cách thực sự hữu ích. Chúng ta không thể phủ định vai trò của cây xanh trong việc làm giảm ô nhiễm môi trường. Cây xanh có vai trò vô cùng to lớn trong cuộc sống của chúng ta. Từ xa xưa đến nay, cuộc sống của loài người luôn gắn bó và không thể tách rời khỏi thiên nhiên, con người dựa vào thiên nhiên để sống. Cây xanh và môi trường tác động qua lại lẫn nhau, bổ sung và hỗ trợ nhau trong sự phát triển hài hòa của xã hội. Cây xanh đóng vai trò vô cùng to lớn trong việc bảo vệ môi trường. Chúng ta đều biết hiện nay ô nhiễm môi trường đang là vấn đề hết sức đáng lo ngại ở hầu hết các quốc gia trên thế giới. Hiện tượng trái đất nóng lên, ô nhiễm tiếng ồn, ánh sáng, khói bụi từ các nhà máy, xí nghiệp, giao thông,… tất cả gây nhiều ảnh hưởng xấu tới đời sống và nguy hiểm trực tiếp đến sức khỏe người dân. Cây xanh được coi là lá phổi xanh của xã hội. Trồng nhiều cây xanh giúp cung cấp một lượng lớn oxy cho chúng ta thở. Trung bình cứ một cây xanh quang hợp có thể cung cấp đủ lượng oxy cho bốn người. Đồng thời chúng cũng hấp thụ C02, amoniac, S02, Nox, bụi bẩn,… từ đó làm trong lành hơn bầu khí quyển xung quanh. Chúng ta cũng không thể phủ nhận rằng cây xanh giúp làm mát đường phố. Trồng nhiều cây xanh ở các khu dân cư đông đúc sẽ không chỉ giúp cho không khí ở đó trong lành hơn, mà cây xanh tạo bóng mát ngăn chặn ánh nắng mặt trời, các tia cực tím, hạn chế tác hại của các bức xạ mặt trời lên con người. Cây hấp thụ các khí độc thải ra từ khói xe cộ, quán ăn, bụi bẩn nhà máy, rác thải, và nhiệt từ chính con người tỏa ra, từ đó giúp giảm bớt nhiệt. Ngày nay, ở các đường phố lớn nhỏ, con người tích cực trồng cây hai ven đường như một cách giảm nhiệt mùa hè. Không chỉ có vậy, cây xanh cofa giúp bảo tồn năng lượng. Theo một số nghiên cứu, nếu bạn trồng khoảng ba cây quanh một ngôi nhà, bạn sẽ giảm bớt được 50% nhu cầu sử dụng điều hòa. Một cây có thể làm giảm nhiệt, dịu mát cho mười phòng. Bằng cách giảm bớt nhu cầu sử dụng năng lượng, chúng ta không chỉ tiết kiệm được tiền điện mà còn giúp giảm bớt lượng C02 thải ra từ các nhà máy sản xuất điện. Trồng nhiều cây xanh xung quanh ngôi nhà sẽ giúp bạn điều hòa được không khí ngôi nhà mình, giúp giảm nhiệt và không khí mát mẻ, trong lành hơn, giúp bạn có được một giấc ngủ thật ngon. Theo nguyên lý sống của cây thì ban ngày nó nhả ra khí oxi mà hấp thụ khí CO2 vì thế cho nên những chất độc hại trong không khí hầu như là được hút sạch trả lại cho con người một bầu không khí trong lành khỏe mạnh. Một lợi ích không thể không thể kể tới chính là cây xanh bảo vệ mạch nước ngầm. Theo những chứng minh khoa học thì cây xanh với những chiếc lá của mình sẽ ngăn chặn cho mưa rơi xuống đất nhanh chóng không những làm xói mòn đất mà còn trôi tuột đi không giữ lại được nguồn nước ngầm. Chính vì thế mà những tán lá kia làm giảm đi điều đó, những hạt nước sau khi rơi xuống bị là cản lại chảy từ lá xuống cành sau đó thấm dần vào đất. Vậy nên mạch nước nguồn của chúng ta được đảm bảo. Không những thế chảy qua lá và thấm vào đất những chất độc hại đã bị lưu trên mặt đất nguồn nước ngầm trở nên sạch sẽ hơn. Cây xanh có vai trò vô cùng quan trọng trong việc bảo vệ môi trường. Mỗi chúng ta cần chung tay bảo vệ cây xanh, tích cực trồng cây gây rừng để môi trường sống luôn xanh, sạch, đẹp. Vạn vật tạo hóa sinh ra đều mang đến một sinh mệnh, vai trò khác nhau để góp phần làm nên thế giới tươi đẹp. Con người ta được sống và được hưởng mọi ưu đãi của mẹ thiên nhiên rất nhiều. Có thể nói rừng đóng một vai trò quan trọng trong cuộc sống loài người là lá phổi xanh của mỗi chúng ta Trước hết chúng ta cần hiểu thế nào là rừng? Rừng là một hệ sinh thái bao gồm quần thể thực vật rừng, động vật rừng, đất rừng và các yếu tố môi trường khác tạo thành một chỉnh thể thống nhất và có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Rừng còn là một quần lạc sinh địa, nó được tạo nên bởi nhiều thành phần mà cây là thành phần chính. Ngay từ thuở sơ khai, con người đã có những khái niệm cơ bản nhất về rừng. Rừng là nơi cung cấp mọi thứ phục vụ cuộc sống của họ. Lịch sử càng phát triển, những khái niệm về rừng được tích lũy, hoàn thiện thành những học thuyết về rừng. Như chúng ta đã biết, thành phần chính của rừng là cây xanh. Mà cây xanh lại có tác dụng rất lớn đối với môi trường sống. Không đơn thuần là tạo bóng mát, làm đẹp phố phường mà hơn hết cây xanh điều hòa khí hậu giúp cho không khí trong lành, làm sạch bầu khí quyển. Cây cối hấp thụ và phản xạ năng lượng mặt trời chiếu xuống đất làm giảm đi sức nóng của trái đất, những khúc xạ của các tia cực tím cũng được làm dịu đi. Khối lượng khí cacbonic khổng lồ trên trái đất cũng được cây xanh hấp thụ, giảm đi nguy cơ gây ra hiệu ứng nhà kính. Đồng thời cây xanh còn thải ra khí oxi trong quá trình hô hấp, quang hợp từ đó mà các loài động vật, con người có thể sống và tồn tại. Hãy thử tượng tưởng xem nếu như trái đất này không có cây xanh thì chắc chắn xung quanh ta sẽ chỉ là một bầu không khí bụi bặm, ô nhiễm nắng, nóng hoặc mưa lạnh giá, hạn hán ngập lụt sẽ giày xéo lên cuộc sống của người dân và ta cảm thấy cuộc sống này thật tẻ nhạt biết nhường nào. Nói cách khác không có cây xanh sự sống của con người sẽ chấm dứt. Không phải tự nhiên mà người ta ví rừng là lá phổi xanh của Trái Đất. Rừng là tài sản vô giá của con người. Và rừng cũng có mặt ở khắp mọi vùng của mảnh đất hình chữ S này. Mỗi cây xanh cũng chính là những cánh rừng thu nhỏ. Rừng là thảm thực vật của những cây thân gỗ trên bề mặt Trái Đất, giữ vai trò to lớn đối với con người như: cung cấp nguồn gỗ, củi, điều hòa khí hậu, tạo ra oxy, điều hòa nước, nơi cư trú động thực vật và tàng trữ các nguồn gen quý hiếm. Rừng là nguồn gen vô tận của con người, là nới cư trú của các loài động thực vật quý hiếm. Tìm đến thiên nhiên hoang sơ sẽ giúp ta giải tỏa căng thẳng, tạm quên đi những bộn bề, nhỏ nhặt trong cuộc sống đời thường.
Nguyễn Trãi được biết đến trong lịch sử là một anh hùng dân tộc, một danh nhân văn hóa kiệt xuất, nhân vật toàn tài số một của Việt Nam thời phong kiến. Trong lĩnh vực thi ca, ông cũng là một nhà thơ trung đại đầy tài hoa. Phạm Đình Hổ xem văn chương của ông “có khí lực dồi dào, đọc không chán miệng”. Còn cố thủ tướng Phạm Văn Đồng thì nhìn nhận văn chương Nguyễn Trãi “đạt đến đỉnh cao của nghệ thuật, đều hay và đẹp lạ thường”. Một trong những tác phẩm làm bất hủ tài và tâm của ông chính là “Bình Ngô đại cáo”. Đây được coi là bản tuyên ngôn thứ hai của dân tộc, cùng với “Nam quốc sơn hà” của Lí Thường Kiệt (?) và Bản tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh. Trong chương trình lớp 10, các bạn sẽ làm bài phân tích để tiếp cận áng văn bất hủ này. Với tác phẩm dài, cần phân tích rõ ràng, chia ý cụ thể để làm nổi bật tư tưởng, vấn đề mà tác giả hướng đến. Sau đây sẽ là bài viết mẫu các bạn có thể tham khảo. Chúc các bạn học tập tốt! Đọc thơ Nguyễn Trãi, Xuân Diệu cảm nhận: “Trán thi sĩ chạm mây nhưng ruột thơ thì cháy lên một ngọn đời hồng rất ấm”. Cái hay trong những câu thơ của Nguyễn Trãi là dẫu mang tầm vóc của một vị anh hùng dân tộc nhưng vẫn chạm đến trái tim người đọc bởi sự xuyên thấm và chân thực của nó. Một trong những tác phẩm đi vào lòng người đọc bao thế hệ của ông, là một “thiên cổ hùng văn”, đó chính là “Bình Ngô đại cáo”. Cuối tháng 12 năm Đinh Mùi “Vua đã bình được giặc Ngô, đại cáo thiên hạ” (trích “Đại Việt sử kí toàn thư”), Nguyễn Trãi thay mặt Lê Lợi viết bài cáo để tổng kết lại một chặng đường lịch sử, ôn lại những năm tháng gian khổ, những chiến công hiển hách và ban cố cho toàn dân được biết. Tác phẩm được viết theo thể cáo, một thể loại văn chương chính luận có nguồn gốc ở Trung Quốc thời trung cổ ban cố những sự kiện có ý nghĩa lịch sử to lớn. Bài cáo là sự kết hợp tuyệt diệu giữa mục đích chính trị với nghệ thuật văn chương, sự giao thoa của hai nguồn cảm hứng: chính trị và sáng tạo nghệ thuật. Đầu tiên, tác giả đã nêu lên luận đề chính nghĩa của dân tộc. Luận đè chính nghĩa trước hết được phát biểu qua tư tưởng nhân nghĩa mở đầu bài cáo: Nhân nghĩa vốn là tư tưởng Nho giáo có ý nghĩa về chính trị, đạo đức, chỉ mối quan hệ tốt đẹp giữa con người với con người trên cơ sở tình thương, đạo lí. Quan niệm ấy có ý nghĩa tích cực nhưng chỉ giới hạn trong những mối quan hệ cụ thể và hạn chế ở lớp trên, không phải là tư tưởng cho lớp “dân đen con đỏ”. Nhưng đến Nguyễn Trãi, ông đã kế thừa tư tưởng nhân nghĩa tốt đẹp trên cơ sở đó còn phát huy truyền thống đạo đức nhân hậu của dân tộc Việt, trở thành một tư tưởng nhân nghĩa toàn diện: Nhân nghĩa- yêu nước, thương dân- sợi chỉ đỏ xâu chuỗi toàn bộ tư tưởng trong văn thơ ông; đường lối chính trị đúng đắn trong toàn bộ sự nghiệp Nguyễn Trãi: lấy dân làm gốc. Với Nguyễn Trãi, cơ bản nhất của Nguyễn Trãi là “yếu tại an dân”. Muốn dân yên ổn, khi có kẻ muốn phá hoại cuộc sống nhân dân thì điều lo lắng trước hết của đội quân nhân nghĩa, của những người vì thương xót nhân dân mà dấy binh khởi nghĩa là làm thế nào để trừ khử quân bạo ngược. Đó chình là “nghĩa”. Từ đó đề ra mục đính rõ ràng của cuộc chiến: vì thương dân mà diệt trừ tàn bạo. Quan niệm của Nguyễn Trãi đã có sự phát triển tư tưởng vượt tầm thời đại, trong chiến tranh cũng như trong thời bình: luôn lấy dân làm gốc. Tiếp đó, tác giả khẳng định tư cách tồn tại của nền độc lập dân tộc: Đó là sự thật lịch sử có tính chất hiển nhiên: “từ trước, vốn, đã chia”. Chủ quyền đất nước được phát biểu sâu sắc và đầy đủ, toàn diện trên các phương diện: lãnh thổ, phong tục tập quán, lịch sử các thời, nhân tài hào kiệt. Với cảm hứng yêu nước, tự hào dân tộc chính đáng, Nguyễn Trãi đã nói về đất nước một cách chính đáng: Giọng điệu vang lên đầy kiêu hãnh, tự hào. Tự hào về lãnh thổ, cương vực độc lập với Trung Hoa, về “núi sông bờ cõi”- non sông mĩ lệ, là rừng vàng biển bạc, đồng ruộng phì nhiêu mà mỗi tấc đất là tấc vàng. Để rồi sau này, trong “Đất nước”, Nguyễn Đình Thi khẳng định: Ta còn tự hào về phong tục tập quán riêng, thể hiện sức mạnh dân tộc từ cái răng cái tóc, từ nếp ăn, nếp mặc đến cái chắp tay trước bàn thờ tổ tiên; tự hào về giống nòi vẻ vang, tinh hoa là người hào kiệt. Nếu “Nam quốc sơn hà” còn phải dựa vào sách trời, “Hịch tướng sĩ” dựa vào bổng lộc tướng sĩ mang tính lợi ích thì “Bình Ngô đại cáo” dựa vào những yếu tố vĩnh hằng, cao cả, được lịch sử chứng minh. Tư tưởng độc lập dân chủ vừa toàn diện, tiến bộ lại vừa sâu sắc, có khả năng thuyết phục lớn. Tiếp theo, Nguyễn Trãi soi chiếu luận đề chính nghĩa vào thực tế lịch sử để thấy: kẻ thù đã làm những hành động trái nhân nghĩa. Đứng trên lập trường nhân nghĩa vì dân, tác giả đã nhìn suốt hành trình 20 năm ròng tham chiến, câu văn giọng nghẹn ngào, căm tức không cùng. Những câu văn đầy máu, thấm đẫm nước mắt và sự xót thương khôn cùng: Nguyễn Trãi đã phác lên bức tranh khổ cực của nhân dân khi giặc Minh xâm chiếm: người lên núi đào vàng, kẻ xuống biển mà ngọc, tình cảnh chia lìa, nheo nhóc, khốn cùng: vợ mất chồng, con mất cha, nặng nề những nỗi cơ cực người bị đẩy vào cảnh phu phen, ngành nghề bị tiêu hủy, … Hơn thế nữa chúng còn hủy diệt sự sống, sinh linh. Để viết lên những câu văn cô đọng như vậy, hẳn Nguyễn Trãi phải kìm nén đau thương nhiều lắm mới có thể nhìn thẳng vào sự thật, ghi thấu vào xương tủy. 16 câu thơ là những trang đầy máu và nước mắt không ngừng nghĩ về đất nước, người dân trong những giờ khắc bi thảm. Không hết, tác giả phải nén lại trong hai câu giàu tình khái quát: Và tác giả khẳng định, chúng ta chiến đấu để bảo vệ chính nghĩa qua diễn biến cuộc khởi nghĩa. Giai đoạn đầu gắn với hình tượng người lãnh tụ Lê Lợi- linh hồn của cuộc khởi nghĩa. Người chủ tướng xuất thân bình thường, xưng hô khiêm nhường, địa bàn hẻo lánh, Những người có quyết tâm, ý chí và lí tưởng chiến đấu: có những trằn trọc suy tư. Tuy nhiên, cuộc khởi nghĩa được tiến hành trong điều kiện vô cùng khó khăn: thế lực không cân sức, thiếu nhân tài hào kiệt, binh mã, tư trang. Nhưng vượt lên với ý chí kiên định, Lê Lợi vẫn thu phục được lòng người để tạo nên một khối đoàn kết: “Nhân dân bốn cỏi một nhà, dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới Tướng sĩ một lòng phụ tử, hoà nước sông chén rượu ngọt ngào.” Và các nghĩa quân Lam Sơn đã mang vào trận chiến sức mạnh kì diệu: “Dĩ đại nghĩa nhi thắng hung tàn, Dĩ chí nhân nhi dị cường bạo.” Tác giả dùng cả đoạn văn dài để nói về cuộc kháng chiến- khúc khải hoàn ca về với những thắng lợi táo bạo, bất ngờ với cảm hứng chủ đạo là tự hào, tự tôn dân tộc: Những câu thơ sử dụng hàng loạt động từ mạnh liên tiếp tạo những rung chuyển dồn dập. Câu văn biền ngẫu đăng đối cùng thủ pháp đối lập, nhíp điệu khi nhanh khi chậm, sôi nổi tạo nên một khúc ca khải hoàn. Cách kết thúc chiến tranh, khi giặc bị đẩy vào thế cùng lực kiệt thì những người lãnh đạo đã sáng suốt kết thúc cảnh binh đao trong hòa bình để mở đường hiếu sinh. Đó cũng là biểu hiện của sự nhân nghĩa. Cuối cùng là lời kết luận của Nguyễn Trãi:
Nguyễn Trãi được biết đến trong lịch sử là một anh hùng dân tộc, một danh nhân văn hóa kiệt xuất, nhân vật toàn tài số một của Việt Nam thời phong kiến. Trong lĩnh vực thi ca, ông cũng là một nhà thơ trung đại đầy tài hoa. Phạm Đình Hổ xem văn chương của ông “có khí lực dồi dào, đọc không chán miệng”. Còn cố thủ tướng Phạm Văn Đồng thì nhìn nhận văn chương Nguyễn Trãi “đạt đến đỉnh cao của nghệ thuật, đều hay và đẹp lạ thường”. Một trong những tác phẩm làm bất hủ tài và tâm của ông chính là “Bình Ngô đại cáo”. Đây được coi là bản tuyên ngôn thứ hai của dân tộc, cùng với “Nam quốc sơn hà” của Lí Thường Kiệt (?) và Bản tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh. Trong chương trình lớp 10, các bạn sẽ làm bài phân tích để tiếp cận áng văn bất hủ này. Với tác phẩm dài, cần phân tích rõ ràng, chia ý cụ thể để làm nổi bật tư tưởng, vấn đề mà tác giả hướng đến. Sau đây sẽ là bài viết mẫu các bạn có thể tham khảo. Chúc các bạn học tập tốt! Đọc thơ Nguyễn Trãi, Xuân Diệu cảm nhận: “Trán thi sĩ chạm mây nhưng ruột thơ thì cháy lên một ngọn đời hồng rất ấm”. Cái hay trong những câu thơ của Nguyễn Trãi là dẫu mang tầm vóc của một vị anh hùng dân tộc nhưng vẫn chạm đến trái tim người đọc bởi sự xuyên thấm và chân thực của nó. Một trong những tác phẩm đi vào lòng người đọc bao thế hệ của ông, là một “thiên cổ hùng văn”, đó chính là “Bình Ngô đại cáo”. Cuối tháng 12 năm Đinh Mùi “Vua đã bình được giặc Ngô, đại cáo thiên hạ” (trích “Đại Việt sử kí toàn thư”), Nguyễn Trãi thay mặt Lê Lợi viết bài cáo để tổng kết lại một chặng đường lịch sử, ôn lại những năm tháng gian khổ, những chiến công hiển hách và ban cố cho toàn dân được biết. Tác phẩm được viết theo thể cáo, một thể loại văn chương chính luận có nguồn gốc ở Trung Quốc thời trung cổ ban cố những sự kiện có ý nghĩa lịch sử to lớn. Bài cáo là sự kết hợp tuyệt diệu giữa mục đích chính trị với nghệ thuật văn chương, sự giao thoa của hai nguồn cảm hứng: chính trị và sáng tạo nghệ thuật. Đầu tiên, tác giả đã nêu lên luận đề chính nghĩa của dân tộc. Luận đè chính nghĩa trước hết được phát biểu qua tư tưởng nhân nghĩa mở đầu bài cáo: Nhân nghĩa vốn là tư tưởng Nho giáo có ý nghĩa về chính trị, đạo đức, chỉ mối quan hệ tốt đẹp giữa con người với con người trên cơ sở tình thương, đạo lí. Quan niệm ấy có ý nghĩa tích cực nhưng chỉ giới hạn trong những mối quan hệ cụ thể và hạn chế ở lớp trên, không phải là tư tưởng cho lớp “dân đen con đỏ”. Nhưng đến Nguyễn Trãi, ông đã kế thừa tư tưởng nhân nghĩa tốt đẹp trên cơ sở đó còn phát huy truyền thống đạo đức nhân hậu của dân tộc Việt, trở thành một tư tưởng nhân nghĩa toàn diện: Nhân nghĩa- yêu nước, thương dân- sợi chỉ đỏ xâu chuỗi toàn bộ tư tưởng trong văn thơ ông; đường lối chính trị đúng đắn trong toàn bộ sự nghiệp Nguyễn Trãi: lấy dân làm gốc. Với Nguyễn Trãi, cơ bản nhất của Nguyễn Trãi là “yếu tại an dân”. Muốn dân yên ổn, khi có kẻ muốn phá hoại cuộc sống nhân dân thì điều lo lắng trước hết của đội quân nhân nghĩa, của những người vì thương xót nhân dân mà dấy binh khởi nghĩa là làm thế nào để trừ khử quân bạo ngược. Đó chình là “nghĩa”. Từ đó đề ra mục đính rõ ràng của cuộc chiến: vì thương dân mà diệt trừ tàn bạo. Quan niệm của Nguyễn Trãi đã có sự phát triển tư tưởng vượt tầm thời đại, trong chiến tranh cũng như trong thời bình: luôn lấy dân làm gốc. Tiếp đó, tác giả khẳng định tư cách tồn tại của nền độc lập dân tộc: Đó là sự thật lịch sử có tính chất hiển nhiên: “từ trước, vốn, đã chia”. Chủ quyền đất nước được phát biểu sâu sắc và đầy đủ, toàn diện trên các phương diện: lãnh thổ, phong tục tập quán, lịch sử các thời, nhân tài hào kiệt. Với cảm hứng yêu nước, tự hào dân tộc chính đáng, Nguyễn Trãi đã nói về đất nước một cách chính đáng: Giọng điệu vang lên đầy kiêu hãnh, tự hào. Tự hào về lãnh thổ, cương vực độc lập với Trung Hoa, về “núi sông bờ cõi”- non sông mĩ lệ, là rừng vàng biển bạc, đồng ruộng phì nhiêu mà mỗi tấc đất là tấc vàng. Để rồi sau này, trong “Đất nước”, Nguyễn Đình Thi khẳng định: Ta còn tự hào về phong tục tập quán riêng, thể hiện sức mạnh dân tộc từ cái răng cái tóc, từ nếp ăn, nếp mặc đến cái chắp tay trước bàn thờ tổ tiên; tự hào về giống nòi vẻ vang, tinh hoa là người hào kiệt. Nếu “Nam quốc sơn hà” còn phải dựa vào sách trời, “Hịch tướng sĩ” dựa vào bổng lộc tướng sĩ mang tính lợi ích thì “Bình Ngô đại cáo” dựa vào những yếu tố vĩnh hằng, cao cả, được lịch sử chứng minh. Tư tưởng độc lập dân chủ vừa toàn diện, tiến bộ lại vừa sâu sắc, có khả năng thuyết phục lớn. Tiếp theo, Nguyễn Trãi soi chiếu luận đề chính nghĩa vào thực tế lịch sử để thấy: kẻ thù đã làm những hành động trái nhân nghĩa. Đứng trên lập trường nhân nghĩa vì dân, tác giả đã nhìn suốt hành trình 20 năm ròng tham chiến, câu văn giọng nghẹn ngào, căm tức không cùng. Những câu văn đầy máu, thấm đẫm nước mắt và sự xót thương khôn cùng: Nguyễn Trãi đã phác lên bức tranh khổ cực của nhân dân khi giặc Minh xâm chiếm: người lên núi đào vàng, kẻ xuống biển mà ngọc, tình cảnh chia lìa, nheo nhóc, khốn cùng: vợ mất chồng, con mất cha, nặng nề những nỗi cơ cực người bị đẩy vào cảnh phu phen, ngành nghề bị tiêu hủy, … Hơn thế nữa chúng còn hủy diệt sự sống, sinh linh. Để viết lên những câu văn cô đọng như vậy, hẳn Nguyễn Trãi phải kìm nén đau thương nhiều lắm mới có thể nhìn thẳng vào sự thật, ghi thấu vào xương tủy. 16 câu thơ là những trang đầy máu và nước mắt không ngừng nghĩ về đất nước, người dân trong những giờ khắc bi thảm. Không hết, tác giả phải nén lại trong hai câu giàu tình khái quát: Và tác giả khẳng định, chúng ta chiến đấu để bảo vệ chính nghĩa qua diễn biến cuộc khởi nghĩa. Giai đoạn đầu gắn với hình tượng người lãnh tụ Lê Lợi- linh hồn của cuộc khởi nghĩa. Người chủ tướng xuất thân bình thường, xưng hô khiêm nhường, địa bàn hẻo lánh, Những người có quyết tâm, ý chí và lí tưởng chiến đấu: có những trằn trọc suy tư. Tuy nhiên, cuộc khởi nghĩa được tiến hành trong điều kiện vô cùng khó khăn: thế lực không cân sức, thiếu nhân tài hào kiệt, binh mã, tư trang. Nhưng vượt lên với ý chí kiên định, Lê Lợi vẫn thu phục được lòng người để tạo nên một khối đoàn kết: “Nhân dân bốn cỏi một nhà, dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới Tướng sĩ một lòng phụ tử, hoà nước sông chén rượu ngọt ngào.” Và các nghĩa quân Lam Sơn đã mang vào trận chiến sức mạnh kì diệu: “Dĩ đại nghĩa nhi thắng hung tàn, Dĩ chí nhân nhi dị cường bạo.” Tác giả dùng cả đoạn văn dài để nói về cuộc kháng chiến- khúc khải hoàn ca về với những thắng lợi táo bạo, bất ngờ với cảm hứng chủ đạo là tự hào, tự tôn dân tộc: Những câu thơ sử dụng hàng loạt động từ mạnh liên tiếp tạo những rung chuyển dồn dập. Câu văn biền ngẫu đăng đối cùng thủ pháp đối lập, nhíp điệu khi nhanh khi chậm, sôi nổi tạo nên một khúc ca khải hoàn. Cách kết thúc chiến tranh, khi giặc bị đẩy vào thế cùng lực kiệt thì những người lãnh đạo đã sáng suốt kết thúc cảnh binh đao trong hòa bình để mở đường hiếu sinh. Đó cũng là biểu hiện của sự nhân nghĩa. Cuối cùng là lời kết luận của Nguyễn Trãi:
Nhắc đến những áng thơ Đường diễm lệ một thời, chúng ta không thể không nhắc đến những nhà thơ đã đi vào lịch sử với những áng thơ bất hủ một thời và cũng là muôn đời. Đó là một Thi Thánh- Đỗ Phủ, Thi Phật- Vương Duy, Thi Quỷ- Lý Hạ. Và còn một bậc tiên nhân nữa, nếu không nhắc đến ở đây chính là một sự thiếu sót rất lớn, đó là Thi Tiên- Lý Bạch. Những vần thơ thấm đẫm phong cách trữ tình, phong thái siêu trần, thoát tục của ông, từ hàng ngàn năm qua, đã in sâu vào lòng độc giả Á Đông. Những tác phẩm của Lý Bạch đều là những bài tuyệt tác kinh điển nhưng xưa nay không ai dám học, vì không thể học theo nổi. Một trong những bài thơ ấy chính là bài thơ “Hoàng Hạc Lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng”. Trong chương trình lớp 10, các bạn sẽ phân tích bài thơ trên. Với bài phân tích, làm theo đúng các phần và phân tích theo trình tự các câu thơ, chú ý phân chia ý cho phù hợp. Các bạn có thể tham khảo bài văn phân tích sau đây. Chúc các bạn học tập tốt! Những cuộc chia li bao giờ cũng để lại trong lòng người đi kẻ ở những tiếc thương và nỗi niềm vô hạn. Ta chợt nhận ra trong số “nghìn nhà thơ” Đường ai cũng từng trải qua một lần li- hợp như thế. Phải chăng vì thế mà cái lẽ vô thường ở đời lại có sức ám ảnh lớn với những nhà thơ, để viết lên những kiệt tác về đề tài này. Một trong số những bài thơ không thể không nhắc đến chính là bài thơ “Hoàng Hạc Lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng” của Lý Bạch. Được coi là Thi Tiên của thơ ca Trung Quốc, Lý Bạch đã có nhiều đóng góp cho thơ ca không chỉ thời Đường mà còn cả mai sau nữa. Nếu Đỗ Phủ được mệnh danh là nhà thơ hiện thực thì Lý Bạch là một nhà thơ lãng mạn tiêu biểu với trí tưởng tượng bay bổng, bút pháp tài hoa. Ông hay viết về thiên nhiên, chiến tranh, tình yêu và cả tình bạn. Một trong những khía cạnh mà ông khai thác là sự biệt li. Những bài thơ tống biệt ngoài việc thể hiện tình bạn còn kết hợp thể hiện những tư tưởng, tình cảm của người viết. Qua bài thơ, ta có thể thấy được diện mạo tinh thần khá đầy đủ của nhà thơ. Hai câu đầu là bức tranh hiện thực chia li rất cụ thể, sinh động: Chỉ có vài từ mà tất cả các yếu tố đều xuất hiện: người tiễn- Lý Bạch; người đi- Mạnh Hạo Nhiên; nơi đến: Dương Châu- chốn phồn hoa đô hội bậc nhất thời Đường; nơi đi- lầu Hoàng Hạc, gắn liền với truyền thuyết người bay về cõi tiên vẽ hạc vàng bay đi- vẻ đẹp siêu thoát, thanh tịnh, dễ gợi những chiêm nghiệm sâu lắng về cuộc đời; thời gian: giữa tháng ba nở đầy hoa khói, giữa mùa xuân đang độ phồn thịnh và khung cảnh vạn vật đều tươi sáng. Cảnh chia li trong con mắt hữu tình và lãng mạn của người tác giả thật đẹp, dẫu có chút buồn cổ kính nhưng vẫn tươi sáng, mĩ lệ. Câu thơ nếu chỉ giản đơn để tái hiện khung cảnh chia li thôi thì cần chi đến ngòi bút của Thi Tiên? Ở đó còn gửi gắm vào khung cảnh niềm yêu mến bạn đầy trìu mến. “Cố” không chỉ là cũ, là cái đã qua mà còn là những gì bền chặt, vĩnh cửu, đã được thử thách qua thời gian. Thế nên, không phải ngẫu nhiên mà có cố nhân, có hương, … Từ “cố” được nhắc đến đầy trân trọng, gửi gắm tình cảm yêu mến, gắn bó, trân trọng hướng về Mạnh Hạo Nhiên. Động từ “từ” được sử dụng khá đắt, mang giá trị biểu cảm cao. “Từ” là dã từ, tạ từ- hành động tiễn bạn đầy cung kính, ân cần. Câu thơ đọc lên trong âm hưởng thâm trầm, trang trọng, lắng sâu, phù hợp với tình cảm thiêng liêng, sâu lắng. Việc chọn hai không gian giàu tính biểu tượng còn là sự gửi gắm nỗi niềm tâm sự của hồn thơ. Hoàng Hạc Lâu- không gian nhuốm màu tiên cảnh, thoát tục, dễ gợi nỗi niềm cô đơn. Không gian ấy dễ làm thức dậy những suy tư, đau đáu về cuộc đời. “Dương Châu”- nơi đông đúc, nhộn nhịp, lôi cuốn người ta nhập cuộc. Nhà thơ đúng ở một nơi vắng lặng, thanh cao dõi bạn đi về phía đông vui, phồn hoa, lo liệu bạn có giữ được mình không? Nỗi buồn xa bạn dần trở thành nỗi lo mất bạn. Khéo léo chọn điểm nhìn trên cao- lầu Hoàng Hạc để nhìn xa hơn, lâu hơn là lưu luyến của tình bạn không dời. Nếu hai câu đầu được xem là “lệ cú” (câu đẹp) song hai câu cuối mới là linh hồn của cả bài thơ. Hai câu thơ của bài thơ tống biệt, tả cảnh mà dùng cảnh để biểu đạt tình: Cánh buồm lẻ loi là dấu hiệu duy nhất để nhà thơ nhận ra bạn nhưng chẳng mấy chốc nó đã vượt khỏi tầm mắt: xa dần, hút dần trong không gian vô tận, chỉ còn lại bóng ảnh và dòng Trường Giang chảy vào cõi trời, chỉ còn lại bên lầu Hoàng Hạc một thi nhân đứng đó cô đơn, bơ vơ với nỗi sầu dâng ngập tâm hồn. Bài thơ kết lại trong cái nhìn xa thăm thẳm, mênh mông và vô cùng- cái nhìn rất xa, rất lâu và rất sâu, vừa là cảnh mà vừa là tình. Là cái tình của người ở lại mênh mông như nước và thăm thẳm như sông, là nỗi hẫng hụt của một tính bạn khi phải dời xa. Cái tài của Lý Bạch ở đây là cách sử dụng bút pháp “họa vân hiển nguyệt”- không nói mà nói rất nhiều. Chỉ một từ “cô” chính là nhãn tự làm nổi bật bài thơ, gánh hai mươi bảy chữ còn lại. Một cánh buồm nơi Trường Giang tấp nập là sự phi logic bề mặt để tạo nên logic bề sâu, là cái có lí của tình cảm. Tình cảm gắn bó, thắm thiết khiến cho người tiễn đưa hoàn toàn quên đi ngoại cảnh để lưu giữ tình bạn trong thâm tâm. Cánh buồm là mảng trắng, rồi vệt trắng, và điểm trắng dưới bầu trời xanh biếc, mặt nước xanh thẳm càng trở nên nổi bật và sáng rõ hơn. Hai câu cuối, bên ngoài như vẫn hướng về người ra đi song lại chính là tâm tình của kẻ ở lại. Bên ngoài như là lời thơ tả cảnh thuần túy song thực chất thấm đẫm tình.
Referring to the once beautiful Duong poems, we cannot help but mention the poets who have gone down in history with their timeless and eternal poems. They are a Holy Poet - Do Phu, a Buddhist Poet - Vuong Duy, a Demon Poet - Ly Ha. And there is another immortal, not mentioning it here would be a huge omission, that is Thi Tien - Ly Bach. His poems imbued with lyrical style, his sublime, escapist style have, for thousands of years, been deeply imprinted in the hearts of Asian readers. Ly Bach's works are all classic masterpieces, but no one has dared to study them because they cannot follow them. One of those poems is the poem "Hoang Hac Lau Song Manh Hao Nhien Chi Quang Lang". In the 10th grade program, you will analyze the above poem. With the analysis essay, follow the correct parts and analyze the order of the verses, paying attention to dividing ideas accordingly. You can refer to the following analytical article. Hope you learn well! Separations always leave in the hearts of those who leave and leave behind infinite sadness and sadness. I suddenly realized that among the "thousands of poets" in Duong, everyone had experienced such a separation. Is that why the impermanence of life has a great obsession with poets, writing masterpieces on this topic? One of the poems that cannot be ignored is the poem "Hoang Hac Lau Song Manh Hao Nhien Chi Quang Lang" by Ly Bach. Considered the Poet Immortal of Chinese poetry, Li Bai made many contributions to poetry not only during the Tang Dynasty but also in the future. If Du Phu is known as a realistic poet, then Ly Bach is a typical romantic poet with a flying imagination and talented writing style. He often writes about nature, war, love and friendship. One of the aspects he explores is separation. Farewell poems, in addition to expressing friendship, also express the writer's thoughts and feelings. Through the poem, we can see the poet's complete spiritual appearance. The first two sentences are a very specific and vivid picture of separation: There are only a few words where all the elements appear: sender- Ly Bach; walking person- Manh Hao Nhien; Destination: Duong Chau - the most prosperous urban place of the Tang Dynasty; The place to go - Hoang Hac pavilion, associated with the legend of a person flying to the fairy world and drawing a golden crane - the beauty is transcendent, pure, easily evoking deep contemplations about life; Time: mid-March full of smoky flowers, mid-spring is prosperous and everything is bright. The separation scene in the author's charming and romantic eyes is beautiful, although a bit sad and ancient, it is still bright and beautiful. If the poem is only simple to recreate the scene of separation, then why does it need Thi Tien's pen? There is also an affectionate love for you in the scene. "Tried" is not only old, something that has passed, but also something that is strong, eternal, and has been tested over time. Therefore, it is not a coincidence that there are ancestors, incense,... The word "grandfather" is mentioned respectfully, conveying feelings of love, attachment, and respect towards Manh Hao Nhien. The verb "from" is used quite expensively and has high expressive value. “Tu” is a kind word, a farewell - the act of sending a friend off respectfully and considerately. The poem is read in a deep, solemn, and profound tone, in accordance with sacred and profound feelings. Choosing two spaces rich in symbolism is also a way to convey the feelings and emotions of the poetic soul. Hoang Hac Lau - a space tinged with fairyland, escapist, easily evoking feelings of loneliness. That space easily awakens thoughts and pain about life. "Duong Chau" - a crowded, bustling place, attracting people to participate. The poet is right in a quiet, noble place, watching you go towards the joyful, prosperous east, wondering if you can keep yourself? The sadness of being away from you gradually becomes the worry of losing you. Cleverly choosing a high viewing point - Hoang Hac Tower to see farther and longer is the lingering attachment of friendship. If the first two lines are considered "le cu" (beautiful sentences), the last two lines are the soul of the whole poem. The two lines of the farewell poem describe the scene and use the scene to express feelings: The lonely sail was the only sign for the poet to recognize his friend, but soon it was out of sight: gradually farther away, gradually absorbed in endless space, leaving only the shadow and the Truong Giang River flowing into heaven. , only left on the Hoang Hac floor, a poet standing there alone, helpless with sadness filling his soul. The poem ends in a deep, immense and infinite view - a very far, very long and very deep look, both a scene and a love. It is the love of the person who stays as vast as water and deep as a river, it is the disappointment of a friend when having to leave. Ly Bach's talent here is the way he uses the "painting clouds and moon" style of writing - not talking but saying a lot. Just one word "she" is the label that makes the poem stand out, carrying the remaining twenty-seven words. A sail in the bustling Truong Giang is the surface illogic to create a deep logic, the rationality of emotions. The close and intimate feelings make the send-off completely forget the external environment to keep the friendship deep in their hearts. The sail was a white patch, then a white streak, and then a white spot under the blue sky, the deep blue water surface became even more prominent and brighter. The last two sentences, on the surface, still seem to be directed towards the person who left, but are actually the feelings of the person who remains. On the outside, it seems like a pure poetic description of a scene, but in reality it is imbued with love.
Nhắc đến những áng thơ Đường diễm lệ một thời, chúng ta không thể không nhắc đến những nhà thơ đã đi vào lịch sử với những áng thơ bất hủ một thời và cũng là muôn đời. Đó là một Thi Thánh- Đỗ Phủ, Thi Phật- Vương Duy, Thi Quỷ- Lý Hạ. Và còn một bậc tiên nhân nữa, nếu không nhắc đến ở đây chính là một sự thiếu sót rất lớn, đó là Thi Tiên- Lý Bạch. Những vần thơ thấm đẫm phong cách trữ tình, phong thái siêu trần, thoát tục của ông, từ hàng ngàn năm qua, đã in sâu vào lòng độc giả Á Đông. Những tác phẩm của Lý Bạch đều là những bài tuyệt tác kinh điển nhưng xưa nay không ai dám học, vì không thể học theo nổi. Một trong những bài thơ ấy chính là bài thơ “Hoàng Hạc Lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng”. Trong chương trình lớp 10, các bạn sẽ phân tích bài thơ trên. Với bài phân tích, làm theo đúng các phần và phân tích theo trình tự các câu thơ, chú ý phân chia ý cho phù hợp. Các bạn có thể tham khảo bài văn phân tích sau đây. Chúc các bạn học tập tốt! Những cuộc chia li bao giờ cũng để lại trong lòng người đi kẻ ở những tiếc thương và nỗi niềm vô hạn. Ta chợt nhận ra trong số “nghìn nhà thơ” Đường ai cũng từng trải qua một lần li- hợp như thế. Phải chăng vì thế mà cái lẽ vô thường ở đời lại có sức ám ảnh lớn với những nhà thơ, để viết lên những kiệt tác về đề tài này. Một trong số những bài thơ không thể không nhắc đến chính là bài thơ “Hoàng Hạc Lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng” của Lý Bạch. Được coi là Thi Tiên của thơ ca Trung Quốc, Lý Bạch đã có nhiều đóng góp cho thơ ca không chỉ thời Đường mà còn cả mai sau nữa. Nếu Đỗ Phủ được mệnh danh là nhà thơ hiện thực thì Lý Bạch là một nhà thơ lãng mạn tiêu biểu với trí tưởng tượng bay bổng, bút pháp tài hoa. Ông hay viết về thiên nhiên, chiến tranh, tình yêu và cả tình bạn. Một trong những khía cạnh mà ông khai thác là sự biệt li. Những bài thơ tống biệt ngoài việc thể hiện tình bạn còn kết hợp thể hiện những tư tưởng, tình cảm của người viết. Qua bài thơ, ta có thể thấy được diện mạo tinh thần khá đầy đủ của nhà thơ. Hai câu đầu là bức tranh hiện thực chia li rất cụ thể, sinh động: Chỉ có vài từ mà tất cả các yếu tố đều xuất hiện: người tiễn- Lý Bạch; người đi- Mạnh Hạo Nhiên; nơi đến: Dương Châu- chốn phồn hoa đô hội bậc nhất thời Đường; nơi đi- lầu Hoàng Hạc, gắn liền với truyền thuyết người bay về cõi tiên vẽ hạc vàng bay đi- vẻ đẹp siêu thoát, thanh tịnh, dễ gợi những chiêm nghiệm sâu lắng về cuộc đời; thời gian: giữa tháng ba nở đầy hoa khói, giữa mùa xuân đang độ phồn thịnh và khung cảnh vạn vật đều tươi sáng. Cảnh chia li trong con mắt hữu tình và lãng mạn của người tác giả thật đẹp, dẫu có chút buồn cổ kính nhưng vẫn tươi sáng, mĩ lệ. Câu thơ nếu chỉ giản đơn để tái hiện khung cảnh chia li thôi thì cần chi đến ngòi bút của Thi Tiên? Ở đó còn gửi gắm vào khung cảnh niềm yêu mến bạn đầy trìu mến. “Cố” không chỉ là cũ, là cái đã qua mà còn là những gì bền chặt, vĩnh cửu, đã được thử thách qua thời gian. Thế nên, không phải ngẫu nhiên mà có cố nhân, có hương, … Từ “cố” được nhắc đến đầy trân trọng, gửi gắm tình cảm yêu mến, gắn bó, trân trọng hướng về Mạnh Hạo Nhiên. Động từ “từ” được sử dụng khá đắt, mang giá trị biểu cảm cao. “Từ” là dã từ, tạ từ- hành động tiễn bạn đầy cung kính, ân cần. Câu thơ đọc lên trong âm hưởng thâm trầm, trang trọng, lắng sâu, phù hợp với tình cảm thiêng liêng, sâu lắng. Việc chọn hai không gian giàu tính biểu tượng còn là sự gửi gắm nỗi niềm tâm sự của hồn thơ. Hoàng Hạc Lâu- không gian nhuốm màu tiên cảnh, thoát tục, dễ gợi nỗi niềm cô đơn. Không gian ấy dễ làm thức dậy những suy tư, đau đáu về cuộc đời. “Dương Châu”- nơi đông đúc, nhộn nhịp, lôi cuốn người ta nhập cuộc. Nhà thơ đúng ở một nơi vắng lặng, thanh cao dõi bạn đi về phía đông vui, phồn hoa, lo liệu bạn có giữ được mình không? Nỗi buồn xa bạn dần trở thành nỗi lo mất bạn. Khéo léo chọn điểm nhìn trên cao- lầu Hoàng Hạc để nhìn xa hơn, lâu hơn là lưu luyến của tình bạn không dời. Nếu hai câu đầu được xem là “lệ cú” (câu đẹp) song hai câu cuối mới là linh hồn của cả bài thơ. Hai câu thơ của bài thơ tống biệt, tả cảnh mà dùng cảnh để biểu đạt tình: Cánh buồm lẻ loi là dấu hiệu duy nhất để nhà thơ nhận ra bạn nhưng chẳng mấy chốc nó đã vượt khỏi tầm mắt: xa dần, hút dần trong không gian vô tận, chỉ còn lại bóng ảnh và dòng Trường Giang chảy vào cõi trời, chỉ còn lại bên lầu Hoàng Hạc một thi nhân đứng đó cô đơn, bơ vơ với nỗi sầu dâng ngập tâm hồn. Bài thơ kết lại trong cái nhìn xa thăm thẳm, mênh mông và vô cùng- cái nhìn rất xa, rất lâu và rất sâu, vừa là cảnh mà vừa là tình. Là cái tình của người ở lại mênh mông như nước và thăm thẳm như sông, là nỗi hẫng hụt của một tính bạn khi phải dời xa. Cái tài của Lý Bạch ở đây là cách sử dụng bút pháp “họa vân hiển nguyệt”- không nói mà nói rất nhiều. Chỉ một từ “cô” chính là nhãn tự làm nổi bật bài thơ, gánh hai mươi bảy chữ còn lại. Một cánh buồm nơi Trường Giang tấp nập là sự phi logic bề mặt để tạo nên logic bề sâu, là cái có lí của tình cảm. Tình cảm gắn bó, thắm thiết khiến cho người tiễn đưa hoàn toàn quên đi ngoại cảnh để lưu giữ tình bạn trong thâm tâm. Cánh buồm là mảng trắng, rồi vệt trắng, và điểm trắng dưới bầu trời xanh biếc, mặt nước xanh thẳm càng trở nên nổi bật và sáng rõ hơn. Hai câu cuối, bên ngoài như vẫn hướng về người ra đi song lại chính là tâm tình của kẻ ở lại. Bên ngoài như là lời thơ tả cảnh thuần túy song thực chất thấm đẫm tình.
Referring to the once beautiful Duong poems, we cannot help but mention the poets who have gone down in history with their timeless and eternal poems. They are a Holy Poet - Do Phu, a Buddhist Poet - Vuong Duy, a Demon Poet - Ly Ha. And there is another immortal, not mentioning it here would be a huge omission, that is Thi Tien - Ly Bach. His poems imbued with lyrical style, his sublime, escapist style have, for thousands of years, been deeply imprinted in the hearts of Asian readers. Ly Bach's works are all classic masterpieces, but no one has dared to study them because they cannot follow them. One of those poems is the poem "Hoang Hac Lau Song Manh Hao Nhien Chi Quang Lang". In the 10th grade program, you will analyze the above poem. With the analysis essay, follow the correct parts and analyze the order of the verses, paying attention to dividing ideas accordingly. You can refer to the following analytical article. Hope you learn well! Separations always leave in the hearts of those who leave and leave behind infinite sadness and sadness. I suddenly realized that among the "thousands of poets" in Duong, everyone had experienced such a separation. Is that why the impermanence of life has a great obsession with poets, writing masterpieces on this topic? One of the poems that cannot be ignored is the poem "Hoang Hac Lau Song Manh Hao Nhien Chi Quang Lang" by Ly Bach. Considered the Poet Immortal of Chinese poetry, Li Bai made many contributions to poetry not only during the Tang Dynasty but also in the future. If Du Phu is known as a realistic poet, then Ly Bach is a typical romantic poet with a flying imagination and talented writing style. He often writes about nature, war, love and friendship. One of the aspects he explores is separation. Farewell poems, in addition to expressing friendship, also express the writer's thoughts and feelings. Through the poem, we can see the poet's complete spiritual appearance. The first two sentences are a very specific and vivid picture of separation: There are only a few words where all the elements appear: sender- Ly Bach; walking person- Manh Hao Nhien; Destination: Duong Chau - the most prosperous urban place of the Tang Dynasty; The place to go - Hoang Hac pavilion, associated with the legend of a person flying to the fairy world and drawing a golden crane - the beauty is transcendent, pure, easily evoking deep contemplations about life; Time: mid-March full of smoky flowers, mid-spring is prosperous and everything is bright. The separation scene in the author's charming and romantic eyes is beautiful, although a bit sad and ancient, it is still bright and beautiful. If the poem is only simple to recreate the scene of separation, then why does it need Thi Tien's pen? There is also an affectionate love for you in the scene. "Tried" is not only old, something that has passed, but also something that is strong, eternal, and has been tested over time. Therefore, it is not a coincidence that there are ancestors, incense,... The word "grandfather" is mentioned respectfully, conveying feelings of love, attachment, and respect towards Manh Hao Nhien. The verb "from" is used quite expensively and has high expressive value. “Tu” is a kind word, a farewell - the act of sending a friend off respectfully and considerately. The poem is read in a deep, solemn, and profound tone, in accordance with sacred and profound feelings. Choosing two spaces rich in symbolism is also a way to convey the feelings and emotions of the poetic soul. Hoang Hac Lau - a space tinged with fairyland, escapist, easily evoking feelings of loneliness. That space easily awakens thoughts and pain about life. "Duong Chau" - a crowded, bustling place, attracting people to participate. The poet is right in a quiet, noble place, watching you go towards the joyful, prosperous east, wondering if you can keep yourself? The sadness of being away from you gradually becomes the worry of losing you. Cleverly choosing a high viewing point - Hoang Hac Tower to see farther and longer is the lingering attachment of friendship. If the first two lines are considered "le cu" (beautiful sentences), the last two lines are the soul of the whole poem. The two lines of the farewell poem describe the scene and use the scene to express feelings: The lonely sail was the only sign for the poet to recognize his friend, but soon it was out of sight: gradually farther away, gradually absorbed in endless space, leaving only the shadow and the Truong Giang River flowing into heaven. , only left on the Hoang Hac floor, a poet standing there alone, helpless with sadness filling his soul. The poem ends in a deep, immense and infinite view - a very far, very long and very deep look, both a scene and a love. It is the love of the person who stays as vast as water and deep as a river, it is the disappointment of a friend when having to leave. Ly Bach's talent here is the way he uses the "painting clouds and moon" style of writing - not talking but saying a lot. Just one word "she" is the label that makes the poem stand out, carrying the remaining twenty-seven words. A sail in the bustling Truong Giang is the surface illogic to create a deep logic, the rationality of emotions. The close and intimate feelings make the send-off completely forget the external environment to keep the friendship deep in their hearts. The sail was a white patch, then a white streak, and then a white spot under the blue sky, the deep blue water surface became even more prominent and brighter. The last two sentences, on the surface, still seem to be directed towards the person who left, but are actually the feelings of the person who remains. On the outside, it seems like a pure poetic description of a scene, but in reality it is imbued with love.
Việt Nam là đất nước có truyền thống, bề dày về lịch sử, trong suốt chiều dài của quá trình dựng nước và giữ nước ông dân tộc ta đã trải qua bao nhiêu thăng trầm, biến cố. Và cùng với sự phát triển của lịch sử đấu tranh là sự phát triển của lịch sử văn học. Thật đúng là thời đại nào văn học ấy luôn ra đời để phục vụ dân tộc. Các tác phẩm văn học cũng như là thứ vũ khí để chiến đấu chống giặc ngoại xâm. Trong lịch sử văn học trung đại Việt Nam, có một thời kì đó là thời kì Đông A, khi mà các nhà văn, nhà thơ lớn đều hướng ngòi bút của mình đến phản ánh sự oai hùng của dân tộc, ca ngợi sức mạnh, ca ngợi triều đại và lòng tự hào trước những chiến thắng lừng lẫy. Cũng trong phong trào văn học mang hào khí Đông A ấy, nhà thơ Đặng Dung đã viết ra một tác phẩm nổi tiếng “Cảm hoài”. Đây là một dạng bài phân tích quen thuộc của Ngữ Văn lớp 10. Dưới đây là bài viết mẫu hay nhất mà các bạn có thể tham khảo để làm tốt hơn. Trong lịch sử nước nhà, thời đại nhà Trần là một trong những thời đại lịch sử phát triển nhất trong khá nhiều lĩnh vực khác nhau. Nhắc đến nhà Trần là nhắc đến hào khí Đông A. Trong không khí hào hùng của thời đại, các tác phẩm văn học ra đời, hấp thụ bầu không khí ấy, đem đến cho thế hệ trẻ những vần thơ. Trong đó không thể không nhắc đến bài thơ “ Cảm hoài” của Đặng Dung. Ngay mở đầu bài thơ, Đặng Dung đã thể hiện được khát vọng được cống hiến tài năng, sức lực cho dân, cho nước nhưng đồng thời cũng thể hiện sự bất lực của mình khi tuổi tác đã lớn: “Thế sự du du nại lão hà, Vô cùng thiên địa nhập hàn ca” Là một con người luôn có ý thức trước trách nhiệm với đất nước, với dân tộc nên lúc nào Đặng Dung cũng mang trong mình khát khao được cống hiến, khát khao được mang sức lực của mình ra để giúp dân, giúp nước. Nhưng bi kịch uổi tác khiến cho con người ta dù con nhiều nghĩa khí còn dâng cao cũng khó lòng đảm đương nổi. Tác giả cảm thấy vô cùng tiếc nuối, ngậm ngùi, bất lực. Điều quan trọng là ông đã ý thức được vấn đề tuổi tác đặt trong mối tương quan với việc đời việc nước. Nhiệm vụ đặt ra thì rất lớn mà điều kiệ thực hiện thì gian nan bị trói buộc trong giới hạn của cuộc đời. Soi vào cuộc đời đó là nhiệm vụ nâng đỡ giang sơn đang nghiêng lệch, tiêu diệt giặc ngoại xâm. Nhưng bị kịch tuổi tác vẫn khiến nhà thơ phải thốt lên “ biết làm sao đây”. Đây không chỉ là lời than mà cũng là hiệm vụ mà tác giả đặt ra với tuổi già. Nhất định không thể buông xuôi, làm ngơ trước cuộc dời dằng dặc. Với thực tế đó, lẽ sống chính là vũ khí chiến đấu. Buông vũ khí chính là đầu hàng số phận, có tội với nhân dân. Chính điều này làm cho Đặng Dung tuổi đã già mà vẫn nung nấu trăn trở. “Vô cùng thiên địa nhập hàm ca” tức cuộc đời rộng lớn vô cùng, đành thu cả vào cuộc say ca. Trước những khát khao lớn, nhưng vì bất lực trước tuổi già nên nhà thơ chỉ có thể tự thu mình vào những cuộc say ca, như để tìm đến một thú vui mà tạm quên đi những nỗi khắc khoải trong lòng. Băn khoăn của con người ham sống, ham đấu tranh, quan trọng hơn là vẽ ra được quan niệm sống đẹp của con người say sưa chiếm lĩnh thế giới để vượt lên giới hạn của đời người. Hai câu trong phần “thực” đối nhau, nêu bật “gặp thời” và “thất thế” đối với người anh hùng. Như một chiêm nghiệm lịch sử đầy cay đắng: Xưa nay thời và thế là yếu tố quyết định đến sự thành công hay thất bại của con người. Nguyễn Trãi đã từng nói điều này: Ý thứ được tầm quan trọng của thời và thế, trong câu thơ của mình Đặng Dung có nhắc đến người câu cá và bán thịt nhưng không phải nói chuyện những kẻ bất tài tầm thường, cũng có thể thành công mà để nói những anh hùng không gặp thời lỡ vận là điều hiển nhiên. Trí tuệ dân gian từ xưa đến nay cũng ý thức sâu sắc về điều này: “ Ông thời đi khỏi ông giỏi bó tay”. Vì vậy gặp thời người bình thường cũng có thể lập nên nghiệp lớn. Mất thời không thế dẫu là người tài ba cũng nuốt hận mà thôi. Tận sau trong thân tâm nhà thơ là mong muốn được giúp nhà vua chống đỡ, nâng đỡ giang sơn nghiêng lệch: Ở những câu thơ này nhà thơ Đặng Dung lại thể hiện khát vọng lớn trong suốt cuộc đời mình, đó chính là dốc lòng giúp đỡ vua chúa, những mong làm nên được nghiệp lớn. Dù sức tài lực kiệt, dù thời vận không đến nhưng không gì có thể ngăn cản được ý chí tâm huyết và khát vọng người anh hùng trong sự nghiệp kinh bang cứu thế. Nhưng “thiên hà”, con sông rộng lớn với muôn vàn tinh tú, chỉ tồn tại trên bầu trời hoặc trong giấc mơ của những người mang chí lớn mà thôi. Mãi đến lúc ra đi ông vẫn mong tìm cho bằng được đường khai thông thiên hà xuống trần gian, cho nền hòa bình, độc lập trở về cùng đất Việt. Bế tắc này cũng là bế tắc chung của thực tế xã hội lúc bấy giờ. Như bao người nam nhi, Đặng Dung cũng có những khát vọng lớn lao muốn cứu nước nhưng không thể thực hiện được:
Vietnam is a country with a rich tradition and history. Throughout the process of building and defending the country, our people have gone through many ups and downs and events. And along with the development of the history of struggle comes the development of literary history. It is true that in any era, literature is always born to serve the nation. Literary works are also weapons to fight against foreign invaders. In the history of Vietnamese medieval literature, there was a period, the Dong A period, when great writers and poets turned their pens to reflect the nation's majesty and praise the nation's strength. , praising the dynasty and taking pride in its glorious victories. Also in that literary movement with Dong A spirit, poet Dang Dung wrote a famous work "Feeling Noi". This is a familiar type of analysis essay for Grade 10 Literature. Below is the best sample essay that you can refer to to do better. In the country's history, the Tran Dynasty was one of the most developed historical eras in many different fields. Mentioning the Tran Dynasty means mentioning the heroic spirit of Dong A. In the heroic atmosphere of the era, literary works were born, absorbing that atmosphere, bringing poetry to the young generation. It is impossible not to mention the poem "Feeling nostalgic" by Dang Dung. Right at the beginning of the poem, Dang Dung expressed his desire to contribute his talent and strength to the people and the country, but at the same time he also expressed his helplessness as he grew older: "The world's troubles are endless, old man, Infinite heaven and earth enter the cold song" As a person who is always conscious of his responsibility to the country and the nation, Dang Dung always carries within himself the desire to contribute, the desire to bring his strength to help the people and the country. But the tragedy of life makes it difficult for people, even if they have high moral values, to cope. The author feels extremely regretful, sad, and helpless. The important thing is that he was aware of the issue of age in relation to life and state affairs. The task set is huge but the conditions for its implementation are arduous and bound within the limits of life. Looking at that life is the task of supporting the tilted country and destroying foreign invaders. But the age drama still makes the poet say "what can I do?" This is not only a lament but also a task that the author sets for old age. We definitely cannot give up and ignore the long journey. With that reality, life is the weapon of war. Giving up arms is surrendering to fate, a crime against the people. This is what makes Dang Dung, even at an old age, still worried. "Entertainment of heaven and earth entering the song" means that life is so vast that we can only absorb it into the song of drunkenness. Faced with great desires, but because he was helpless in the face of old age, the poet could only confine himself to drunken singing, as if to find a hobby and temporarily forget the worries in his heart. The concerns of people who want to live and fight, more importantly, portray the beautiful concept of life of people who passionately dominate the world to overcome the limits of human life. The two sentences in the "real" part are opposite each other, highlighting "time is up" and "failure" for the hero. As a bitter historical contemplation: Time and place have always been the deciding factors in a person's success or failure. Nguyen Trai once said this: Realizing the importance of time and place, in his poem Dang Dung mentioned fishermen and butchers, but he was not talking about ordinary incompetent people who can also succeed, but about heroes. Not having bad luck is obvious. Folk wisdom from ancient times to present is also deeply aware of this: "When you leave, you will be helpless." Therefore, at times, ordinary people can also create great karma. Such a waste of time and space, even a talented person, can only swallow his hatred. Deep inside the poet's mind is the desire to help the king support and support the tilted country: In these verses, poet Dang Dung expressed his great aspiration throughout his life, which was to devote himself to helping kings, hoping to achieve great karma. Even though the resources are exhausted, even if the time is not right, nothing can stop the dedicated will and desire of a hero in the cause of saving the world. But the "galaxy", the vast river with countless stars, only exists in the sky or in the dreams of those with great ambition. Until he left, he still hoped to find a way to open the galaxy to earth, for peace and independence to return to Vietnam. This deadlock was also the general deadlock of social reality at that time. Like many men, Dang Dung also had great aspirations to save the country but could not achieve it:
Việt Nam là đất nước có truyền thống, bề dày về lịch sử, trong suốt chiều dài của quá trình dựng nước và giữ nước ông dân tộc ta đã trải qua bao nhiêu thăng trầm, biến cố. Và cùng với sự phát triển của lịch sử đấu tranh là sự phát triển của lịch sử văn học. Thật đúng là thời đại nào văn học ấy luôn ra đời để phục vụ dân tộc. Các tác phẩm văn học cũng như là thứ vũ khí để chiến đấu chống giặc ngoại xâm. Trong lịch sử văn học trung đại Việt Nam, có một thời kì đó là thời kì Đông A, khi mà các nhà văn, nhà thơ lớn đều hướng ngòi bút của mình đến phản ánh sự oai hùng của dân tộc, ca ngợi sức mạnh, ca ngợi triều đại và lòng tự hào trước những chiến thắng lừng lẫy. Cũng trong phong trào văn học mang hào khí Đông A ấy, nhà thơ Đặng Dung đã viết ra một tác phẩm nổi tiếng “Cảm hoài”. Đây là một dạng bài phân tích quen thuộc của Ngữ Văn lớp 10. Dưới đây là bài viết mẫu hay nhất mà các bạn có thể tham khảo để làm tốt hơn. Trong lịch sử nước nhà, thời đại nhà Trần là một trong những thời đại lịch sử phát triển nhất trong khá nhiều lĩnh vực khác nhau. Nhắc đến nhà Trần là nhắc đến hào khí Đông A. Trong không khí hào hùng của thời đại, các tác phẩm văn học ra đời, hấp thụ bầu không khí ấy, đem đến cho thế hệ trẻ những vần thơ. Trong đó không thể không nhắc đến bài thơ “ Cảm hoài” của Đặng Dung. Ngay mở đầu bài thơ, Đặng Dung đã thể hiện được khát vọng được cống hiến tài năng, sức lực cho dân, cho nước nhưng đồng thời cũng thể hiện sự bất lực của mình khi tuổi tác đã lớn: “Thế sự du du nại lão hà, Vô cùng thiên địa nhập hàn ca” Là một con người luôn có ý thức trước trách nhiệm với đất nước, với dân tộc nên lúc nào Đặng Dung cũng mang trong mình khát khao được cống hiến, khát khao được mang sức lực của mình ra để giúp dân, giúp nước. Nhưng bi kịch uổi tác khiến cho con người ta dù con nhiều nghĩa khí còn dâng cao cũng khó lòng đảm đương nổi. Tác giả cảm thấy vô cùng tiếc nuối, ngậm ngùi, bất lực. Điều quan trọng là ông đã ý thức được vấn đề tuổi tác đặt trong mối tương quan với việc đời việc nước. Nhiệm vụ đặt ra thì rất lớn mà điều kiệ thực hiện thì gian nan bị trói buộc trong giới hạn của cuộc đời. Soi vào cuộc đời đó là nhiệm vụ nâng đỡ giang sơn đang nghiêng lệch, tiêu diệt giặc ngoại xâm. Nhưng bị kịch tuổi tác vẫn khiến nhà thơ phải thốt lên “ biết làm sao đây”. Đây không chỉ là lời than mà cũng là hiệm vụ mà tác giả đặt ra với tuổi già. Nhất định không thể buông xuôi, làm ngơ trước cuộc dời dằng dặc. Với thực tế đó, lẽ sống chính là vũ khí chiến đấu. Buông vũ khí chính là đầu hàng số phận, có tội với nhân dân. Chính điều này làm cho Đặng Dung tuổi đã già mà vẫn nung nấu trăn trở. “Vô cùng thiên địa nhập hàm ca” tức cuộc đời rộng lớn vô cùng, đành thu cả vào cuộc say ca. Trước những khát khao lớn, nhưng vì bất lực trước tuổi già nên nhà thơ chỉ có thể tự thu mình vào những cuộc say ca, như để tìm đến một thú vui mà tạm quên đi những nỗi khắc khoải trong lòng. Băn khoăn của con người ham sống, ham đấu tranh, quan trọng hơn là vẽ ra được quan niệm sống đẹp của con người say sưa chiếm lĩnh thế giới để vượt lên giới hạn của đời người. Hai câu trong phần “thực” đối nhau, nêu bật “gặp thời” và “thất thế” đối với người anh hùng. Như một chiêm nghiệm lịch sử đầy cay đắng: Xưa nay thời và thế là yếu tố quyết định đến sự thành công hay thất bại của con người. Nguyễn Trãi đã từng nói điều này: Ý thứ được tầm quan trọng của thời và thế, trong câu thơ của mình Đặng Dung có nhắc đến người câu cá và bán thịt nhưng không phải nói chuyện những kẻ bất tài tầm thường, cũng có thể thành công mà để nói những anh hùng không gặp thời lỡ vận là điều hiển nhiên. Trí tuệ dân gian từ xưa đến nay cũng ý thức sâu sắc về điều này: “ Ông thời đi khỏi ông giỏi bó tay”. Vì vậy gặp thời người bình thường cũng có thể lập nên nghiệp lớn. Mất thời không thế dẫu là người tài ba cũng nuốt hận mà thôi. Tận sau trong thân tâm nhà thơ là mong muốn được giúp nhà vua chống đỡ, nâng đỡ giang sơn nghiêng lệch: Ở những câu thơ này nhà thơ Đặng Dung lại thể hiện khát vọng lớn trong suốt cuộc đời mình, đó chính là dốc lòng giúp đỡ vua chúa, những mong làm nên được nghiệp lớn. Dù sức tài lực kiệt, dù thời vận không đến nhưng không gì có thể ngăn cản được ý chí tâm huyết và khát vọng người anh hùng trong sự nghiệp kinh bang cứu thế. Nhưng “thiên hà”, con sông rộng lớn với muôn vàn tinh tú, chỉ tồn tại trên bầu trời hoặc trong giấc mơ của những người mang chí lớn mà thôi. Mãi đến lúc ra đi ông vẫn mong tìm cho bằng được đường khai thông thiên hà xuống trần gian, cho nền hòa bình, độc lập trở về cùng đất Việt. Bế tắc này cũng là bế tắc chung của thực tế xã hội lúc bấy giờ. Như bao người nam nhi, Đặng Dung cũng có những khát vọng lớn lao muốn cứu nước nhưng không thể thực hiện được:
Vietnam is a country with a rich tradition and history. Throughout the process of building and defending the country, our people have gone through many ups and downs and events. And along with the development of the history of struggle comes the development of literary history. It is true that in any era, literature is always born to serve the nation. Literary works are also weapons to fight against foreign invaders. In the history of Vietnamese medieval literature, there was a period, the Dong A period, when great writers and poets turned their pens to reflect the nation's majesty and praise the nation's strength. , praising the dynasty and taking pride in its glorious victories. Also in that literary movement with Dong A spirit, poet Dang Dung wrote a famous work "Feeling Noi". This is a familiar type of analysis essay for Grade 10 Literature. Below is the best sample essay that you can refer to to do better. In the country's history, the Tran Dynasty was one of the most developed historical eras in many different fields. Mentioning the Tran Dynasty means mentioning the heroic spirit of Dong A. In the heroic atmosphere of the era, literary works were born, absorbing that atmosphere, bringing poetry to the young generation. It is impossible not to mention the poem "Feeling nostalgic" by Dang Dung. Right at the beginning of the poem, Dang Dung expressed his desire to contribute his talent and strength to the people and the country, but at the same time he also expressed his helplessness as he grew older: "The world's troubles are endless, old man, Infinite heaven and earth enter the cold song" As a person who is always conscious of his responsibility to the country and the nation, Dang Dung always carries within himself the desire to contribute, the desire to bring his strength to help the people and the country. But the tragedy of life makes it difficult for people, even if they have high moral values, to cope. The author feels extremely regretful, sad, and helpless. The important thing is that he was aware of the issue of age in relation to life and state affairs. The task set is huge but the conditions for its implementation are arduous and bound within the limits of life. Looking at that life is the task of supporting the tilted country and destroying foreign invaders. But the age drama still makes the poet say "what can I do?" This is not only a lament but also a task that the author sets for old age. We definitely cannot give up and ignore the long journey. With that reality, life is the weapon of war. Giving up arms is surrendering to fate, a crime against the people. This is what makes Dang Dung, even at an old age, still worried. "Entertainment of heaven and earth entering the song" means that life is so vast that we can only absorb it into the song of drunkenness. Faced with great desires, but because he was helpless in the face of old age, the poet could only confine himself to drunken singing, as if to find a hobby and temporarily forget the worries in his heart. The concerns of people who want to live and fight, more importantly, portray the beautiful concept of life of people who passionately dominate the world to overcome the limits of human life. The two sentences in the "real" part are opposite each other, highlighting "time is up" and "failure" for the hero. As a bitter historical contemplation: Time and place have always been the deciding factors in a person's success or failure. Nguyen Trai once said this: Realizing the importance of time and place, in his poem Dang Dung mentioned fishermen and butchers, but he was not talking about ordinary incompetent people who can also succeed, but about heroes. Not having bad luck is obvious. Folk wisdom from ancient times to present is also deeply aware of this: "When you leave, you will be helpless." Therefore, at times, ordinary people can also create great karma. Such a waste of time and space, even a talented person, can only swallow his hatred. Deep inside the poet's mind is the desire to help the king support and support the tilted country: In these verses, poet Dang Dung expressed his great aspiration throughout his life, which was to devote himself to helping kings, hoping to achieve great karma. Even though the resources are exhausted, even if the time is not right, nothing can stop the dedicated will and desire of a hero in the cause of saving the world. But the "galaxy", the vast river with countless stars, only exists in the sky or in the dreams of those with great ambition. Until he left, he still hoped to find a way to open the galaxy to earth, for peace and independence to return to Vietnam. This deadlock was also the general deadlock of social reality at that time. Like many men, Dang Dung also had great aspirations to save the country but could not achieve it:
Ca dao ra đời từ rất sớm và lưu truyền cho đến ngày nay. Ca dao đã thấm vào ta qua những làn điệu quê hương gần gũi, thân quen. Ca dao là nguồn sữa tinh thần nuôi dưỡng trẻ thơ qua lời hát ru, là hình thức trò chuyện tâm tình của các chàng trai cô gái, là tiếng nói biết ơn, tự hào về công đức của tổ tiên và anh linh của những người đã khuất, là phương tiện bộc lộ nỗi tức giận hay lòng hân hoan của người lao động, trong gia đình, xã hội. Than thân là một trong những chủ đề quan trọng trong ca dao Việt Nam. Chùm ca dao này có số lượng bài khá lớn. Đó là những câu ca dao được cất lên từ những kiếp người đau khổ lầm than trong xã hội cũ. Trong chương trình Ngữ Văn 10 ta cũng bắt gặp đề bài phân tích bài ca dao “ thân em như tấm lụa đào”. Dưới đây là bài văn phân tích bài ca dao hay nhất để các bạn có thể tham khảo để đạt kết quả học tập thật tốt. Trong xã hội xưa người phụ nữ luôn là những người bé cổ thấp họng phải chịu nhiều thiệt thòi. Họ không dám cất lên tiếng nói đòi quyền sống, quyền đấu tranh. Thân phận người phụ nữ đã đi vào văn học dân gian xưa qua những bài ca dao quen thuộc: Ca dao là hình thức sinh hoạt văn hóa dân gian rất phổ biến, đúc kết trong đó nhiều tình cảm và cũng là lời than thân trách phận. Các tác giả dân gian có lẽ đã thấu suốt được nỗi đau đó, thông cảm với thân phận người phụ nữ. Bài ca dao mở đầu bằng công thứ quen thuộc “thân em” tựa như những khúc tự hát buồn. Ta còn bắt gặp ở trong rất nhiều bài ca dao khác, trở thành tiếng nói thân phận chung của người phụ nữ xuất hiên trong xã hội xưa. Bài ca dao là sự tự ý thức về thân phận mình giữa cuộc đời người phụ nữ tự ví mình với những vật nhỏ bé “ tấm lụa đào” gợi vẻ dịu dàng, duyên dáng. Lụa là thứ vải quý qua đó cho thấy vẻ đẹp duyên dáng, trẻ trung nữ tính của người phụ nữ. Người phụ nữ rất có ý thức về giá trị của mình, tự khẳng định bản thân. Hai câu ca dao tưởng đây là lời ca ngợi vẻ đẹp của người phụ nữ, tuy nhiên dải lụa đào đẹp. sang trọng, kiêu hãnh như thế lại bị đặt vào giữa chợ, trở thành đối tượng sở hữu của nhiều người có nhu cầu mua bán. Hình ảnh khiến người đọc thấm thía số phận lệ thuộc, bị định đoạt, nổi trôi, mong manh của người phụ nữ. Thân phận của người phụ nữ đã được văn học thành văn nhắc đến. Hồ Xuân Hương thì đồng cảm với phận bảy nổi ba chìm của thân em vừa trắng lại vừa tròn. Nguyễn Du thương xót thốt lên: “ Đau đớn thay phận đàn bà” và Tú Xương cũng thổn thức khi viết về bà Tú: “ Lặn lội thân cò khi quãng vắng.”
Folk songs were born very early and have been passed down to this day. Folk songs have penetrated into us through close and familiar homeland melodies. Folk songs are a source of spiritual milk that nourishes children through lullabies, are a form of emotional conversation for boys and girls, are a voice of gratitude and pride in the merits of ancestors and heroic spirits of those who deceased, is a means of expressing the anger or joy of workers, in the family, and in society. Grief is one of the important themes in Vietnamese folk songs. This collection of folk songs has quite a large number of songs. These are folk songs sung from the lives of miserable people in the old society. In the Literature 10 program, we also came across the topic of analyzing the folk song "Your body is like peach silk". Below is the best folk song analysis essay for you to refer to to achieve good study results. In ancient society, women were always small-minded and suffered many disadvantages. They do not dare to raise their voices demanding the right to live and the right to fight. The fate of women has entered ancient folk literature through familiar folk songs: Folk songs are a very popular form of folk culture, summarizing many emotions and also expressing self-pity. Folk authors may have understood that pain and sympathized with the plight of women. The folk song opens with the familiar phrase "your body" like a sad self-song. We also encounter it in many other folk songs, becoming the common voice of women appearing in ancient society. The folk song is a self-awareness of one's own status in the midst of a woman's life, comparing herself to small things "peach silk" that suggest gentleness and grace. Silk is a precious fabric that shows the graceful, youthful and feminine beauty of a woman. Women are very conscious of their value and assert themselves. These two folk songs seem to be praising a woman's beauty, but the peach silk is beautiful. Such luxury and pride were placed in the middle of the market, becoming the object of ownership for many people who wanted to buy and sell. The image makes readers deeply understand the dependent, determined, floating, and fragile fate of women. The status of women has been mentioned in written literature. Ho Xuan Huong sympathizes with the ups and downs of her body, which is both white and round. Nguyen Du pitifully exclaimed: "How painful is the fate of women" and Tu Xuong also sobbed when writing about Mrs. Tu: "Diving like a stork when away."
Ca dao ra đời từ rất sớm và lưu truyền cho đến ngày nay. Ca dao đã thấm vào ta qua những làn điệu quê hương gần gũi, thân quen. Ca dao là nguồn sữa tinh thần nuôi dưỡng trẻ thơ qua lời hát ru, là hình thức trò chuyện tâm tình của các chàng trai cô gái, là tiếng nói biết ơn, tự hào về công đức của tổ tiên và anh linh của những người đã khuất, là phương tiện bộc lộ nỗi tức giận hay lòng hân hoan của người lao động, trong gia đình, xã hội. Than thân là một trong những chủ đề quan trọng trong ca dao Việt Nam. Chùm ca dao này có số lượng bài khá lớn. Đó là những câu ca dao được cất lên từ những kiếp người đau khổ lầm than trong xã hội cũ. Trong chương trình Ngữ Văn 10 ta cũng bắt gặp đề bài phân tích bài ca dao “ thân em như tấm lụa đào”. Dưới đây là bài văn phân tích bài ca dao hay nhất để các bạn có thể tham khảo để đạt kết quả học tập thật tốt. Trong xã hội xưa người phụ nữ luôn là những người bé cổ thấp họng phải chịu nhiều thiệt thòi. Họ không dám cất lên tiếng nói đòi quyền sống, quyền đấu tranh. Thân phận người phụ nữ đã đi vào văn học dân gian xưa qua những bài ca dao quen thuộc: Ca dao là hình thức sinh hoạt văn hóa dân gian rất phổ biến, đúc kết trong đó nhiều tình cảm và cũng là lời than thân trách phận. Các tác giả dân gian có lẽ đã thấu suốt được nỗi đau đó, thông cảm với thân phận người phụ nữ. Bài ca dao mở đầu bằng công thứ quen thuộc “thân em” tựa như những khúc tự hát buồn. Ta còn bắt gặp ở trong rất nhiều bài ca dao khác, trở thành tiếng nói thân phận chung của người phụ nữ xuất hiên trong xã hội xưa. Bài ca dao là sự tự ý thức về thân phận mình giữa cuộc đời người phụ nữ tự ví mình với những vật nhỏ bé “ tấm lụa đào” gợi vẻ dịu dàng, duyên dáng. Lụa là thứ vải quý qua đó cho thấy vẻ đẹp duyên dáng, trẻ trung nữ tính của người phụ nữ. Người phụ nữ rất có ý thức về giá trị của mình, tự khẳng định bản thân. Hai câu ca dao tưởng đây là lời ca ngợi vẻ đẹp của người phụ nữ, tuy nhiên dải lụa đào đẹp. sang trọng, kiêu hãnh như thế lại bị đặt vào giữa chợ, trở thành đối tượng sở hữu của nhiều người có nhu cầu mua bán. Hình ảnh khiến người đọc thấm thía số phận lệ thuộc, bị định đoạt, nổi trôi, mong manh của người phụ nữ. Thân phận của người phụ nữ đã được văn học thành văn nhắc đến. Hồ Xuân Hương thì đồng cảm với phận bảy nổi ba chìm của thân em vừa trắng lại vừa tròn. Nguyễn Du thương xót thốt lên: “ Đau đớn thay phận đàn bà” và Tú Xương cũng thổn thức khi viết về bà Tú: “ Lặn lội thân cò khi quãng vắng.”
Folk songs were born very early and have been passed down to this day. Folk songs have penetrated into us through close and familiar homeland melodies. Folk songs are a source of spiritual milk that nourishes children through lullabies, are a form of emotional conversation for boys and girls, are a voice of gratitude and pride in the merits of ancestors and heroic spirits of those who deceased, is a means of expressing the anger or joy of workers, in the family, and in society. Grief is one of the important themes in Vietnamese folk songs. This collection of folk songs has quite a large number of songs. These are folk songs sung from the lives of miserable people in the old society. In the Literature 10 program, we also came across the topic of analyzing the folk song "Your body is like peach silk". Below is the best folk song analysis essay for you to refer to to achieve good study results. In ancient society, women were always small-minded and suffered many disadvantages. They do not dare to raise their voices demanding the right to live and the right to fight. The fate of women has entered ancient folk literature through familiar folk songs: Folk songs are a very popular form of folk culture, summarizing many emotions and also expressing self-pity. Folk authors may have understood that pain and sympathized with the plight of women. The folk song opens with the familiar phrase "your body" like a sad self-song. We also encounter it in many other folk songs, becoming the common voice of women appearing in ancient society. The folk song is a self-awareness of one's own status in the midst of a woman's life, comparing herself to small things "peach silk" that suggest gentleness and grace. Silk is a precious fabric that shows the graceful, youthful and feminine beauty of a woman. Women are very conscious of their value and assert themselves. These two folk songs seem to be praising a woman's beauty, but the peach silk is beautiful. Such luxury and pride were placed in the middle of the market, becoming the object of ownership for many people who wanted to buy and sell. The image makes readers deeply understand the dependent, determined, floating, and fragile fate of women. The status of women has been mentioned in written literature. Ho Xuan Huong sympathizes with the ups and downs of her body, which is both white and round. Nguyen Du pitifully exclaimed: "How painful is the fate of women" and Tu Xuong also sobbed when writing about Mrs. Tu: "Diving like a stork when away."
Chinh phụ ngâm được sáng tác vào đầu những năm 40 của thế kỉ XVIII khi có chiến tranh, chính sự liên miên, nhiều cuộc khởi nghĩa nông dân nổi dậy. Tác phẩm cũng thu hút được nhiều người dịch. Tâm tình người chinh phụ tiêu biểu cho nỗi nhớ mong chồng, khát khao cuộc sống gia đình bình dị và ước mong về một ngày đoàn tụ vợ chồng. Đặt trong tương quan chung, ước mơ của người chinh phụ cũng hiền hoà, dung dị, gần gũi hơn so với người cung nữ. Đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ cho thấy rõ tâm trạng cô đơn của người vợ nhớ chồng ra trận và nghệ thuật miêu tả tâm trạng bậc thầy của hai tác giả Đặng – Đoàn, trong đó phải kể đến nghệ thuật diễn Nôm đặc biệt xuất sắc của nữ sĩ Đoàn Thị Điểm. Từ tâm trạng đau buồn của người chinh phụ phải sống trong tình cảnh lẻ loi, đoạn trích thể hiện tinh thần phảng phất chiến tranh phi nghĩa. Dưới đây là bài viết mẫu hay nhất phân tích tâm trạng mà các bạn có thể tham khảo. Trong văn học trung đại, để lên án sự suy tàn của xã hội phong kiến, đồng thời ngợi ca khát khao hạnh phúc của con người, nhiều thi nhân gửi tâm sự, nỗi bất bình của mình vào các bài thơ, khúc ngâm. Đặng Trần Côn cảm thông sâu sắc trước số phận những người phụ nữ có chồng đi lính mà làm nên tuyệt tác “Chinh phụ ngâm”. Đoạn trích “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ” thuộc tác phẩm trên đã chạm đến trái tim người đọc khi tái hiện hoàn cảnh cô độc. Mở đầu đoạn trích, tác giả đã khắc họa bức chân dung tâm trạng của người chinh phụ trong tình cảnh cô đơn, lẻ loi, ngày qua ngày mong ngóng tin chồng: “Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen Ngoài rèm thước chẳng mách tin Trong rèm dường đã có đèn biết chăng?” Trước hết đó là sự ý thức về con người cá nhân chiếu ứng trong các quan hệ với cảnh vật và con người, đặt trong tương quan với thời gian và không gian. Nhân vật chủ thể trữ tình – người chinh phụ xuất hiện như có như không, vừa tỉnh thức trong từng bước đi, từng động tác buông thả tấm rèm nhưng liền đó lại quên tất thảy, thờ ơ với tất thảy. Nhìn bề ngoài đó là cuộc sống an nhàn thảnh thơi nhưng thực tế người thiếu phụ đang phải sống trong cảnh sống tội nghiệp đáng thương chồng đi biền biệt tuổi xuân phai tàn. Nàng đợi tin lành của chim thước sẽ xoa dịu nỗi bất an, nhưng chim thước không tới. Nàng lại trỏ bóng đèn, hỏi đèn mà hỏi lòng. Nàng nhận ra rằng càng hi vọng, mòn mỏi trông chờ nàng càng hụt hẫng, tuyệt vọng. Khát khao sum vầy đoàn tụ, khát khao hơi ấm gia đình khó có thể thực hiện được. Ba lần từ “chẳng” xuất hiện là 3 lần nhân vật trữ tình rơi vào sự thất vọng, tuyệt vọng, vô vọng của nỗi buồn đau, cô lẻ. Người chinh phụ đành trở về thấm thía nỗi vô vọng của mình. Thì hình ảnh ẩn dụ ngọn đèn của người chinh phụ soi bóng trong đêm lại là sự hiện diện của lẻ loi, đơn chiếc, trống trải. Ngay đến cảnh vật và sự sống bên ngoài cũng nhuốm vẻ tang thương, vô cảm, chập chờn bất định, không dễ nắm bắt với những “gà eo óc gáy sương”, “hoè phất phơ rủ bóng”… Bên cạnh đó, dòng thời gian tâm lý cũng chuyển hoá thành sự đợi chờ mòn mỏi, thời gian đầy ắp tâm trạng đơn côi nhưng không có sự sống, không sự kiện, không thấy đâu bóng dáng hoạt động của con người: Khắc chờ đằng đẵng như niên, Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa. Một ngày không còn được đo bằng vài canh, mấy khắc, mà được tính đếm bằng cả năm dài “đằng đẵng”. Từ láy “đằng đẵng” kéo dài thời gian, kéo dài nỗi buồn và tình cảnh lẻ loi của người phụ nữ có chồng ra trận. So sánh với bản chữ hán của Đặng Trần Côn “Sầu tự hải/ Khắc như niên”, ta thấy Đoàn Thị Điểm không chỉ trung thành với nguyên tác mà còn có những sáng tạo riêng trong quá trình dịch, giúp người đọc dễ hiểu, dễ đồng cảm hơn với nhân vật trữ tình. Những gắng gượng để vượt thoát khỏi sự cô đơn cũng đi vào tuyệt vọng. Trong cái cô đơn ấy người chinh phụ đã đốt hương để xua đi cái giá băng, gượng soi gương để tìm kiếm hình ảnh nhưng dường như những mong muốn đều không được đền đáp. Sau trạng thái bế tắc đến cao độ âm điệu của những câu thơ trở nên nhẹ nhõm hơn, câu thơ tươi sáng hơn: “Lòng này gửi gió đông có tiện, Nghìn vàng xin gửi đến non Yên Non Yên dù chẳng tới miền, Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu, Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong.” Lòng này hay nghìn vàng là để nói tấm lòng tha thiết trân trọng đáng giá nghìn vàng. Điệp từ “gửi” bộc lộ sự tha thiết, khát vọng mãnh liệt của người chinh phụ những mong được sẻ chia cùng chồng. Nỗi lòng của ngườ chinh phụ gửi đến Non Yên là một địa danh, có tên cụ thể nhưng không ai biết nó ở đâu, cách đây bao xa. Phải chăng đó chỉ là một hình ảnh tượng trưng cho sự xa xôi cách trở giữa hai con người, cho sự vô vọng của người chinh phụ, cho sự vô vọng của một tình cảm thủy chung, trọn vẹn được gửi đi mà chẳng thể nhận được hồi đáp. Trong ngổn ngang thắc mắc, nàng lại trở về với bế tắc. Tính từ “đau đáu” gợi nỗi đau nhức nhối, âm ỉ, nỗi nhớ triền miên khôn nguôi của người chinh phụ, gợi lên cả nỗi lo liệu người chồng đang ở biên ải có được bình an, sớm về đoàn tụ. Cảnh vật “cành cây”, “sương”, “mưa” đều thấm đượm nỗi bi ai, sầu khổ, khiến người phụ nữ nhỏ bé càng thêm cô độc, thiểu não.
Chinh Phu Ngam was composed in the early 40s of the 18th century when there were wars, constant politics, and many peasant uprisings. The work also attracted many translators. The concubine's feelings represent her longing for her husband, her desire for a simple family life, and her wish for one day reuniting her husband and wife. Put in general terms, the conqueror's wife's dream is also more gentle, simple, and closer than that of the palace maid. The excerpt "The Lonely Situation of a Conqueror's Wife" clearly shows the lonely mood of a wife who misses her husband going to war and the masterful art of describing the mood of two authors Dang - Doan, including the art of Nom acting. especially excellent work by female artist Doan Thi Diem. From the sad mood of the conqueror who had to live in a lonely situation, the excerpt shows the subtle spirit of unjust war. Below is the best sample article analyzing mood that you can refer to. In medieval literature, to condemn the decline of feudal society and at the same time praise people's desire for happiness, many poets expressed their feelings and grievances in poems and recitations. Dang Tran Con deeply sympathized with the fate of the women whose husbands were soldiers and created the masterpiece "Chinh Phu Ngam". The excerpt "The Lonely Situation of the Conqueror's Wife" from the above work touches the reader's heart when recreating the lonely situation. At the beginning of the excerpt, the author portrays the mood of the conqueror in a lonely, lonely situation, day after day waiting for news of her husband: “Walking on the deserted porch, silently sowing step by step Sitting with thin curtains, inviting people to chat Outside the curtain, there is no news There seems to be a light in the curtain?" First of all, it is the awareness of the individual person in relationships with landscapes and people, placed in relation to time and space. The lyrical subject character - the conqueror appears as if it were nothing, just awake in every step, every movement of letting go of the curtain, but then immediately forgets everything, is indifferent to everything. On the surface it seems like a peaceful and carefree life, but in reality the young woman is living in a pitiful life where her husband is gone and her youth is fading away. She waited for the ruler's good news to ease her anxiety, but the ruler did not come. She pointed at the light bulb again, asking the light and asking her heart. She realized that the more she hoped and waited, the more disappointed and desperate she became. The desire for reunion and family warmth is difficult to fulfill. The three times the word "no" appears is three times the lyrical character falls into disappointment, despair, hopelessness of sadness and loneliness. The conqueror had to return home, deeply aware of her hopelessness. The metaphorical image of the conqueror's lamp shining in the night is the presence of loneliness, loneliness, and emptiness. Even the scenery and life outside are tinged with sadness, emotionlessness, wavering uncertainty, not easy to grasp with the "roosters with frosty waists and brains" and "fluttering shadows"... Besides, the Psychological time also transforms into tired waiting, time filled with loneliness but no life, no events, no trace of human activity: Waiting as long as years, Grief is as deep as a distant sea. A day is no longer measured in a few hours or a few minutes, but is counted in a long "long" year. The word "endless" prolongs time, prolongs the sadness and loneliness of a woman whose husband goes to war. Comparing with the Chinese version of Dang Tran Con's "Sad Tu Hai / Carving Nhu Nien", we see that Doan Thi Diem is not only faithful to the original but also has her own creativity in the translation process, helping readers understand easily. Easier to sympathize with the lyrical character. Efforts to escape loneliness also lead to despair. In that loneliness, the conqueror burned incense to dispel the ice, tried to look in the mirror to look for images, but it seemed that her wishes were not rewarded. After the state of deadlock, the tone of the verses becomes lighter and brighter: “This heart is sent to the east wind, Thousands of gold please send to Yen mountain Even though Non Yen has not been to the region, I miss you so deeply that my way to heaven The sky is so deep and unfathomable, Missing him is so painful." This heart or thousand gold is to say that a heart that earnestly cherishes is worth a thousand gold. The word "send" reveals the earnestness and strong desire of the wife who hopes to share with her husband. The conquest's wife's heart sent to Non Yen is a place, with a specific name but no one knows where it is or how far away it is. Is it just an image that symbolizes the distance between two people, the hopelessness of a conqueror, the hopelessness of a faithful, complete love sent without being able to receive it? be responded. Amidst the confusion, she returned to a deadlock. The adjective "painful" evokes the aching, dull pain, the constant and endless nostalgia of the conqueror's wife, and evokes the worry of whether her husband who is at the border will be safe and reunite soon. The scenes of "tree branches", "mist", and "rain" are all imbued with sadness and sadness, making the little woman even more lonely and depressed.
Nguyễn Du là con người có trái tim nhân hậu. Nhà thơ đã từng khẳng định: “ Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài”. Mộng Liên Đường chủ nhân trong lời tựa “ Truyện Kiều” cũng đã đề cao tấm lòng nhân ái của Nguyễn Du đối với con người và cuộc đời: Lời văn tỏ ra hình như máu chảy ở đầu ngọn bút, nước mắt thấm trên tờ giấy, khiến ai đọc đến cũng phải thấm thía, ngậm ngùi đau đớn đến đứt ruột. Điều gì đã tạo nên một thiên tài Nguyễn Du? Có lẽ đó là do tấm lòng nhân đạo, đồng cảm sâu sắc với con người đặc biệt là những người phụ nữ, phản ánh thân phận thấp hèn của người phụ nữ trong xã hội, cho dù là người phụ nữ có nhan sắc. Đồng cảm với những khát vọng chân chính của con người: khát vọng về quyền sống, về tự do, về công lí, tình yêu, hạnh phúc. Trong chương trình Ngữ Văn 10 ta bắt gặp đề bài cảm nhận bài thơ “ Độc tiểu thanh kí” của Nguyễn Du. Với bài thơ nay, các bạn có thể chia ra để phân tích teo kết cấu đề, thực, luận, kết nhé. Dưới đây là bài viết mẫu hay nhất mà các bạn có thể tham khảo. Nguyễn Du là một đại thi hào dân tộc, ông là nhà thơ hiện thực và nhân đạo lớn nhất trong văn học Việt Nam thế kỷ XVIII – nửa đầu thế kỷ XIX. Ông đã để lại cho đời một sự nghiệp sáng tác văn học đồ sộ ghi dấu ấn trong lòng người đọc. trong đó bài “ Độc tiểu thanh kí” là bài thơ để lại nhiều cảm xúc cho người đọc nhất, bởi tâm trạng xót thương của tác giả về những số phận lênh đênh. Hai câu mở đầu tác giả đã giới thiệu về cảnh đẹp của vườn hoa bên Tây Hồ, nơi mà nàng Tiểu Thanh đã từng sống: “Tây Hồ hoa uyển tẫn thành khư Độc điếu song tiền nhất chỉ thư.” Không gian Tây Hồ vẫn còn đây, khuôn viên của một vườn hoa với những bông hoa thắm đẹp giờ đã không còn nữa. Vườn hoa đã thành gò hoang, gò hoang vắng đã thay thế cho vườn hoa. Cái “hữu” đã thành cái không, cái “đẹp” đã bị thay bởi cái “tàn tạ” hủy diệt. Từ “tẫn” mang ý nghĩa phủ định tuyệt đối; đã thay đối hết không còn một dấu vết gì nữa. Đứng ở hiện tại Nguyễn Du bâng khuâng nuối tiếc cái đẹp trong quá khứ. Câu thơ vừa là lời cảm khái trước vẻ đẹp của Tây Hồ bị hủy hoại nhưng cũng là những chiêm nghiệm của nhà thơ về dâu bể của cuộc đời. Cảnh đẹp Tây Hồ cũng đã gợi nhắc đến nàng Tiểu Thanh một người tài hoa đã sống những năm cuối đời ở đây và gửi thân mãi mãi nơi này. Nhà thơ đã ngồi một mình bên cửa sổ, lặng lẽ cảm thương cho số phận của Tiểu Thanh. Câu thơ đã khắc vào lòng người một cảnh ngộ đơn độc không có người se chia phải tìm về quá khứ. Chính nỗi đau và sự cô đơn đã trở thành sợi dây kết nối hai con người xa lạ, vượt thời gian không gian để tri âm với nhau. Hình ảnh “ mảnh giấy tàn” là hình ảnh khơi gợi cảm hứng của Nguyễn Du đến số phận cuộc đời Tiểu Thanh: “Chi phấn hữu thần liên tử hậu Văn chương vô mệnh lụy phần dư”. Son, phấn là những vật dụng trang điểm gắn liền với người phụ nữ, hình ảnh ẩn dụ cho nhan sắc, vẻ đẹp của Tiểu Thanh. Nhà thơ mượn hai hình ảnh “son phấn” và “văn chương” để diễn tả cho những đau đớn dày vò về thể xác và tinh thần của Tiểu Thanh gửi gắm vào những dòng thơ. Hai câu thơ đã cho thấy nàng Tiểu Thanh vừa tuyệt sắc, tuyệt tài, số phận ngang trái đồng thời tác giả cũng lên án xã hội bất nhân đã không tạo cho một môi trường thực sự nhân văn tiến bộ. Điều quan trọng là Tiểu Thanh giỏi làm thơ nhưng thơ bị đem đốt và bản thân nàng yếu mệnh chết sớm. Thương cảm với nàng Tiểu Thanh giỏi làm thơ là Nguyễn Du trân trọng người nghệ sĩ, thấy ý nghĩa xã hội trong sự cống hiến của người nghệ sĩ. Từ câu chuyện nàng Tiểu Thanh giỏi làm thơ 200 năm trước sang hai câu luận nó đã tỏa sáng cuộc đời chung của những khách văn chương: “Cổ kim hận sự thiên nan vấn Phong vận kì oan ngã tự cư”. Từ nỗi oan của Tiểu Thanh đã thành nỗi oan nỗi hận của những người tài hoa. Hận là người có sắc, có tài đều không gặp may mắn, đều đoản mệnh hoặc bị dập vùi. Nỗi hận ấy là hóa giải thành ra câu hỏi muôn đời không có lời đáp “ thiên nan vấn”. Nguyễn Du cũng tự nhận thấy mình là người có tài mà cuộc đời long đong tự nhận là thể hiện ý thức cá nhân sâu sắc ý thức cả về tài năng và nỗi đau. Từ nỗi xót đau trong quá khứ đến hiện tại, trước nỗi đau của những người tài hoa trong đó có mình, tác giả đã không thể kìm nén những tâm sự của riêng mình, bật ra dưới hình thức câu hỏi tu từ, hướng về hậu thế. Đến hai câu kết, là nỗi khát mong của người nghệ sĩ muôn đời mong được tri âm, đồng cảm: “Bất tri tam bách dư niên hậu Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như”. 300 năm là khoảng thời gian xác định nhưng rất dài. Nó là khoảng thời gian đủ để mọi việc lui vào quá khứ cái còn cái mất. Cả câu thơ là hơn 300 năm sau liệu trên thế gian này có người nào khóc Tố Như. Ông khắc khoải mong chờ một sự cảm thông của hậu thế. Vậy là từ số phận của nàng Tiểu Thanh, Nguyễn Du liên tưởng tới số phận mình. Chiếc gạch nối xuyên thời gian, không gian ấy có ý nghĩa như một yêu cầu phổ quát đặt ra cho mọi dân tộc, mọi thời đại về thái độ nhân hậu, trước hết là sự cảm thông đối với cái đẹp, sự hoàn thiện hoàn mĩ thể chất và tâm hồn con người. Nguyễn Du là con người bị bế tắc, mong được giải thoát mà vẫn không tìm thấy đường ra. “ Khấp” là đến tận cùng của sự đau thương. Khấp là khóc cho Nguyễn Du cũng như bao người tài hoa như ông. Bài thơ là lời kí thác tâm sự của Nguyễn Du, con người đầy tài năng, hoài bão lớn mà luôn gặp hoạn nạn, trắc trở trên con đường đời gập ghềnh giữa đêm đen xã hội phong kiến. Con người ấy giàu lòng yêu thương nhân hậu, luôn khao khát sự cảm thông của người đời.
Nguyen Du is a person with a kind heart. The poet once asserted: "The word heart is equal to the three words talent." Mong Lien Duong, the owner, in the preface of "The Tale of Kieu" also highlighted Nguyen Du's compassion for people and life: The writing seems like blood flowing at the tip of the pen, tears seeping on the paper. , makes everyone who reads it feel deeply sad and painful. What made Nguyen Du a genius? Perhaps it is due to her humanitarian heart and deep sympathy for people, especially women, reflecting the lowly status of women in society, even if they are beautiful women. Sympathize with the true aspirations of people: the desire for the right to life, for freedom, for justice, for love, for happiness. In the Literature 10 program, we came across a review of the poem "Doc Tieu Thanh Ky" by Nguyen Du. With this poem, you can divide it up to analyze the structure: theme, fact, argument, and conclusion. Below is the best sample article that you can refer to. Nguyen Du is a great national poet, he is the greatest realistic and humanitarian poet in Vietnamese literature of the 18th century - the first half of the 19th century. He left behind a massive literary career that left a mark in the hearts of readers. Among them, the poem "Doc Tieu Thanh Ky" is the poem that leaves the most emotions for the reader, because of the author's pitiful mood about the adrift fates. In the opening two sentences, the author introduces the beautiful scene of the flower garden by Tay Ho, where Tieu Thanh once lived: “The flowers of the West Lake are fading into ruins One single song, two money, one book." Tay Ho space is still here, the campus of a flower garden with beautiful flowers is no longer there. The flower garden has become a deserted mound, the deserted mound has replaced the flower garden. The "existence" has become nothingness, the "beauty" has been replaced by "ruin" and destruction. The word "tanh" carries an absolute negative meaning; It's all changed and there's no trace left. Standing in the present, Nguyen Du wistfully regrets the beauty of the past. The poem is both a tribute to the beauty of the destroyed Tay Ho, but also the poet's contemplations about the chaos of life. The beautiful scenery of Tay Ho also reminds of Tieu Thanh, a talented person who lived the last years of her life here and sent her family here forever. The poet sat alone by the window, quietly sympathizing with Tieu Thanh's fate. The poem engraved in people's hearts a lonely situation with no one to share with them and having to look back to the past. It is pain and loneliness that have become the thread that connects two strange people, transcending time and space to commune with each other. The image of "a piece of broken paper" is the image that inspired Nguyen Du to the fate of Tieu Thanh's life: “The godly lotus pollen is the post-mortem Literature has no fate or residue." Lipstick and powder are makeup items associated with women, metaphors for Tieu Thanh's beauty. The poet borrowed the two images "makeup" and "literature" to describe Tieu Thanh's physical and mental torment and put them into the lines of poetry. The two verses show that Tieu Thanh is both beautiful, talented, and has a cruel fate. At the same time, the author also condemns the inhumane society for not creating a truly progressive humane environment. The important thing is that Tieu Thanh was good at writing poetry, but the poetry was burned and she herself was destined to die early. Sympathizing with Tieu Thanh, who is good at writing poetry, Nguyen Du appreciates the artist and sees social significance in the artist's contributions. From the story of Tieu Thanh, who was good at writing poetry 200 years ago, to two essays, it has illuminated the common life of literary guests: “Ancient and ancient times hate the problem Interview self settled down for an injustice". From Tieu Thanh's injustice, it became the injustice and hatred of talented people. Hate that people with beauty and talent are unlucky, have short lives or are crushed. That hatred is resolved into an eternal, unanswered question. Nguyen Du also sees himself as a talented person whose long life claims to show a deep personal awareness of both talent and pain. From the pain of the past to the present, facing the pain of talented people including himself, the author could not suppress his own feelings, which burst out in the form of rhetorical questions, pointing towards a posteriori. The two concluding sentences represent the eternal artist's longing for gratitude and sympathy: “I don't know the three-hundred-year remainder People in the world are waiting for To Nhu". 300 years is a definite but very long period of time. It is enough time for everything to fade into the past, the remaining and the lost. The whole verse is about more than 300 years later, will there be anyone in this world crying for To Nhu? He anxiously waited for the sympathy of posterity. So from Tieu Thanh's fate, Nguyen Du thought about his own fate. That hyphen across time and space is meaningful as a universal requirement for all peoples and all times regarding a benevolent attitude, first of all sympathy for beauty and perfection. physical beauty and human soul. Nguyen Du is a person stuck in a deadlock, hoping to be freed but still unable to find a way out. “Khap” is the end of pain. Weeping means crying for Nguyen Du as well as many talented people like him. The poem is the confidant of Nguyen Du, a man full of talent and great ambition but always encountering hardships and difficulties on the bumpy path of life in the dark night of feudal society. That person is rich in love and kindness, always longing for people's sympathy.
Nguyễn Du là con người có trái tim nhân hậu. Nhà thơ đã từng khẳng định: “ Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài”. Mộng Liên Đường chủ nhân trong lời tựa “ Truyện Kiều” cũng đã đề cao tấm lòng nhân ái của Nguyễn Du đối với con người và cuộc đời: Lời văn tỏ ra hình như máu chảy ở đầu ngọn bút, nước mắt thấm trên tờ giấy, khiến ai đọc đến cũng phải thấm thía, ngậm ngùi đau đớn đến đứt ruột. Điều gì đã tạo nên một thiên tài Nguyễn Du? Có lẽ đó là do tấm lòng nhân đạo, đồng cảm sâu sắc với con người đặc biệt là những người phụ nữ, phản ánh thân phận thấp hèn của người phụ nữ trong xã hội, cho dù là người phụ nữ có nhan sắc. Đồng cảm với những khát vọng chân chính của con người: khát vọng về quyền sống, về tự do, về công lí, tình yêu, hạnh phúc. Trong chương trình Ngữ Văn 10 ta bắt gặp đề bài cảm nhận bài thơ “ Độc tiểu thanh kí” của Nguyễn Du. Với bài thơ nay, các bạn có thể chia ra để phân tích teo kết cấu đề, thực, luận, kết nhé. Dưới đây là bài viết mẫu hay nhất mà các bạn có thể tham khảo. Nguyễn Du là một đại thi hào dân tộc, ông là nhà thơ hiện thực và nhân đạo lớn nhất trong văn học Việt Nam thế kỷ XVIII – nửa đầu thế kỷ XIX. Ông đã để lại cho đời một sự nghiệp sáng tác văn học đồ sộ ghi dấu ấn trong lòng người đọc. trong đó bài “ Độc tiểu thanh kí” là bài thơ để lại nhiều cảm xúc cho người đọc nhất, bởi tâm trạng xót thương của tác giả về những số phận lênh đênh. Hai câu mở đầu tác giả đã giới thiệu về cảnh đẹp của vườn hoa bên Tây Hồ, nơi mà nàng Tiểu Thanh đã từng sống: “Tây Hồ hoa uyển tẫn thành khư Độc điếu song tiền nhất chỉ thư.” Không gian Tây Hồ vẫn còn đây, khuôn viên của một vườn hoa với những bông hoa thắm đẹp giờ đã không còn nữa. Vườn hoa đã thành gò hoang, gò hoang vắng đã thay thế cho vườn hoa. Cái “hữu” đã thành cái không, cái “đẹp” đã bị thay bởi cái “tàn tạ” hủy diệt. Từ “tẫn” mang ý nghĩa phủ định tuyệt đối; đã thay đối hết không còn một dấu vết gì nữa. Đứng ở hiện tại Nguyễn Du bâng khuâng nuối tiếc cái đẹp trong quá khứ. Câu thơ vừa là lời cảm khái trước vẻ đẹp của Tây Hồ bị hủy hoại nhưng cũng là những chiêm nghiệm của nhà thơ về dâu bể của cuộc đời. Cảnh đẹp Tây Hồ cũng đã gợi nhắc đến nàng Tiểu Thanh một người tài hoa đã sống những năm cuối đời ở đây và gửi thân mãi mãi nơi này. Nhà thơ đã ngồi một mình bên cửa sổ, lặng lẽ cảm thương cho số phận của Tiểu Thanh. Câu thơ đã khắc vào lòng người một cảnh ngộ đơn độc không có người se chia phải tìm về quá khứ. Chính nỗi đau và sự cô đơn đã trở thành sợi dây kết nối hai con người xa lạ, vượt thời gian không gian để tri âm với nhau. Hình ảnh “ mảnh giấy tàn” là hình ảnh khơi gợi cảm hứng của Nguyễn Du đến số phận cuộc đời Tiểu Thanh: “Chi phấn hữu thần liên tử hậu Văn chương vô mệnh lụy phần dư”. Son, phấn là những vật dụng trang điểm gắn liền với người phụ nữ, hình ảnh ẩn dụ cho nhan sắc, vẻ đẹp của Tiểu Thanh. Nhà thơ mượn hai hình ảnh “son phấn” và “văn chương” để diễn tả cho những đau đớn dày vò về thể xác và tinh thần của Tiểu Thanh gửi gắm vào những dòng thơ. Hai câu thơ đã cho thấy nàng Tiểu Thanh vừa tuyệt sắc, tuyệt tài, số phận ngang trái đồng thời tác giả cũng lên án xã hội bất nhân đã không tạo cho một môi trường thực sự nhân văn tiến bộ. Điều quan trọng là Tiểu Thanh giỏi làm thơ nhưng thơ bị đem đốt và bản thân nàng yếu mệnh chết sớm. Thương cảm với nàng Tiểu Thanh giỏi làm thơ là Nguyễn Du trân trọng người nghệ sĩ, thấy ý nghĩa xã hội trong sự cống hiến của người nghệ sĩ. Từ câu chuyện nàng Tiểu Thanh giỏi làm thơ 200 năm trước sang hai câu luận nó đã tỏa sáng cuộc đời chung của những khách văn chương: “Cổ kim hận sự thiên nan vấn Phong vận kì oan ngã tự cư”. Từ nỗi oan của Tiểu Thanh đã thành nỗi oan nỗi hận của những người tài hoa. Hận là người có sắc, có tài đều không gặp may mắn, đều đoản mệnh hoặc bị dập vùi. Nỗi hận ấy là hóa giải thành ra câu hỏi muôn đời không có lời đáp “ thiên nan vấn”. Nguyễn Du cũng tự nhận thấy mình là người có tài mà cuộc đời long đong tự nhận là thể hiện ý thức cá nhân sâu sắc ý thức cả về tài năng và nỗi đau. Từ nỗi xót đau trong quá khứ đến hiện tại, trước nỗi đau của những người tài hoa trong đó có mình, tác giả đã không thể kìm nén những tâm sự của riêng mình, bật ra dưới hình thức câu hỏi tu từ, hướng về hậu thế. Đến hai câu kết, là nỗi khát mong của người nghệ sĩ muôn đời mong được tri âm, đồng cảm: “Bất tri tam bách dư niên hậu Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như”. 300 năm là khoảng thời gian xác định nhưng rất dài. Nó là khoảng thời gian đủ để mọi việc lui vào quá khứ cái còn cái mất. Cả câu thơ là hơn 300 năm sau liệu trên thế gian này có người nào khóc Tố Như. Ông khắc khoải mong chờ một sự cảm thông của hậu thế. Vậy là từ số phận của nàng Tiểu Thanh, Nguyễn Du liên tưởng tới số phận mình. Chiếc gạch nối xuyên thời gian, không gian ấy có ý nghĩa như một yêu cầu phổ quát đặt ra cho mọi dân tộc, mọi thời đại về thái độ nhân hậu, trước hết là sự cảm thông đối với cái đẹp, sự hoàn thiện hoàn mĩ thể chất và tâm hồn con người. Nguyễn Du là con người bị bế tắc, mong được giải thoát mà vẫn không tìm thấy đường ra. “ Khấp” là đến tận cùng của sự đau thương. Khấp là khóc cho Nguyễn Du cũng như bao người tài hoa như ông. Bài thơ là lời kí thác tâm sự của Nguyễn Du, con người đầy tài năng, hoài bão lớn mà luôn gặp hoạn nạn, trắc trở trên con đường đời gập ghềnh giữa đêm đen xã hội phong kiến. Con người ấy giàu lòng yêu thương nhân hậu, luôn khao khát sự cảm thông của người đời.
Nguyen Du is a person with a kind heart. The poet once asserted: "The word heart is equal to the three words talent." Mong Lien Duong, the owner, in the preface of "The Tale of Kieu" also highlighted Nguyen Du's compassion for people and life: The writing seems like blood flowing at the tip of the pen, tears seeping on the paper. , makes everyone who reads it feel deeply sad and painful. What made Nguyen Du a genius? Perhaps it is due to her humanitarian heart and deep sympathy for people, especially women, reflecting the lowly status of women in society, even if they are beautiful women. Sympathize with the true aspirations of people: the desire for the right to life, for freedom, for justice, for love, for happiness. In the Literature 10 program, we came across a review of the poem "Doc Tieu Thanh Ky" by Nguyen Du. With this poem, you can divide it up to analyze the structure: theme, fact, argument, and conclusion. Below is the best sample article that you can refer to. Nguyen Du is a great national poet, he is the greatest realistic and humanitarian poet in Vietnamese literature of the 18th century - the first half of the 19th century. He left behind a massive literary career that left a mark in the hearts of readers. Among them, the poem "Doc Tieu Thanh Ky" is the poem that leaves the most emotions for the reader, because of the author's pitiful mood about the adrift fates. In the opening two sentences, the author introduces the beautiful scene of the flower garden by Tay Ho, where Tieu Thanh once lived: “The flowers of the West Lake are fading into ruins One single song, two money, one book." Tay Ho space is still here, the campus of a flower garden with beautiful flowers is no longer there. The flower garden has become a deserted mound, the deserted mound has replaced the flower garden. The "existence" has become nothingness, the "beauty" has been replaced by "ruin" and destruction. The word "tanh" carries an absolute negative meaning; It's all changed and there's no trace left. Standing in the present, Nguyen Du wistfully regrets the beauty of the past. The poem is both a tribute to the beauty of the destroyed Tay Ho, but also the poet's contemplations about the chaos of life. The beautiful scenery of Tay Ho also reminds of Tieu Thanh, a talented person who lived the last years of her life here and sent her family here forever. The poet sat alone by the window, quietly sympathizing with Tieu Thanh's fate. The poem engraved in people's hearts a lonely situation with no one to share with them and having to look back to the past. It is pain and loneliness that have become the thread that connects two strange people, transcending time and space to commune with each other. The image of "a piece of broken paper" is the image that inspired Nguyen Du to the fate of Tieu Thanh's life: “The godly lotus pollen is the post-mortem Literature has no fate or residue." Lipstick and powder are makeup items associated with women, metaphors for Tieu Thanh's beauty. The poet borrowed the two images "makeup" and "literature" to describe Tieu Thanh's physical and mental torment and put them into the lines of poetry. The two verses show that Tieu Thanh is both beautiful, talented, and has a cruel fate. At the same time, the author also condemns the inhumane society for not creating a truly progressive humane environment. The important thing is that Tieu Thanh was good at writing poetry, but the poetry was burned and she herself was destined to die early. Sympathizing with Tieu Thanh, who is good at writing poetry, Nguyen Du appreciates the artist and sees social significance in the artist's contributions. From the story of Tieu Thanh, who was good at writing poetry 200 years ago, to two essays, it has illuminated the common life of literary guests: “Ancient and ancient times hate the problem Interview self settled down for an injustice". From Tieu Thanh's injustice, it became the injustice and hatred of talented people. Hate that people with beauty and talent are unlucky, have short lives or are crushed. That hatred is resolved into an eternal, unanswered question. Nguyen Du also sees himself as a talented person whose long life claims to show a deep personal awareness of both talent and pain. From the pain of the past to the present, facing the pain of talented people including himself, the author could not suppress his own feelings, which burst out in the form of rhetorical questions, pointing towards a posteriori. The two concluding sentences represent the eternal artist's longing for gratitude and sympathy: “I don't know the three-hundred-year remainder People in the world are waiting for To Nhu". 300 years is a definite but very long period of time. It is enough time for everything to fade into the past, the remaining and the lost. The whole verse is about more than 300 years later, will there be anyone in this world crying for To Nhu? He anxiously waited for the sympathy of posterity. So from Tieu Thanh's fate, Nguyen Du thought about his own fate. That hyphen across time and space is meaningful as a universal requirement for all peoples and all times regarding a benevolent attitude, first of all sympathy for beauty and perfection. physical beauty and human soul. Nguyen Du is a person stuck in a deadlock, hoping to be freed but still unable to find a way out. “Khap” is the end of pain. Weeping means crying for Nguyen Du as well as many talented people like him. The poem is the confidant of Nguyen Du, a man full of talent and great ambition but always encountering hardships and difficulties on the bumpy path of life in the dark night of feudal society. That person is rich in love and kindness, always longing for people's sympathy.
Từ những ngày tháng đầu tiên trên trái đất, trong lịch sử loài người, văn học đã xuất hiện và trở thành món ăn tinh thần không thể thiếu. Đó là những câu chuyện sử thi hào hùng ngợi ca con người và sức mạnh của cộng đồng, bộ tộc trước thiên nhiên và các thế lực đên tối. Nếu ở Hy Lạp, chúng ta có sử thi “Iliad” và “Odyssey” là những bản hùng ca về con người trong chiến trận và trong cả cuộc sống hòa bình thì với người Ấn Độ, những câu chuyện “Ramayana” và “Mahabharata” là những bản hùng ca bất hủ của họ. Sử thi “Ramayana” hấp dẫn người đọc bởi câu chuyện về những kì tích của hoàng tử Rama. Một trong những mẩu chuyện hấp dẫn của sử thi có thể kể đến “Rama buộc tội”. Trong chương trình Ngữ Văn 10, các bạn sẽ gặp yêu cầu tóm tắt đoạn trích “Rama buộc tội”. Chú ý tóm tắt những diễn biến chính nhất, bỏ qua những chi tiết và lời nói không cần thiết trong văn bản, vì tóm tắt cần ngắn gọn và dễ hiểu. Các bạn có thể tham khảo bài tóm tắt sau đây. Chúc các bạn học tập tốt!
From the first days on earth, in human history, literature has appeared and become an indispensable spiritual food. These are heroic, epic stories praising people and the strength of communities and tribes in the face of nature and dark forces. If in Greece, we have the epics "Iliad" and "Odyssey" which are epic poems about people in battle and in peaceful life, then for Indians, the stories "Ramayana" and "Mahabharata" ” are their immortal epics. The epic "Ramayana" attracts readers with the story of the exploits of Prince Rama. One of the fascinating stories of the epic can be mentioned "Rama Accuses". In Literature 10, you will be asked to summarize the excerpt "Rama accuses". Pay attention to summarizing the most important developments, omitting unnecessary details and words in the text, because the summary needs to be short and easy to understand. You can refer to the following summary. Hope you learn well!
Nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ đã từng viết: Tuổi thơ mỗi người đều gắn với những ngày tháng vui chơi hồn nhiên, với những kỉ niệm không thể quên và cả những câu chuyện lớn lên cùng tâm hồn, theo năm tháng. Những câu chuyện cổ tích như nguồn suối tươi trong, mát lành nuôi dưỡng biết bao thể hệ lớn lên, sống và tin tưởng vào sức mạnh của cái thiện, của cái tốt trong cuộc sống. Một trong những câu chuyện có sức ảnh hưởng lớn chính là truyện cổ tích “Tấm Cám”. Trong chương trình lớp 10, khi tiếp cận tác phẩm, các bạn sẽ phải tóm tắt văn bản đầu tiên. Một trong những lưu ý khi tóm tắt tác phẩm là cần ngắn gọn, đầy đủ sự kiện, không thừa những chi tiết không cần thiết. Và khi kể bằng ngôi của nhân vật Tấm, giọng điệu và cách tóm tắt cũng cần thay đổi một chút. Sau đây là bài tóm tắt các bạn có thể tham khảo. Chúc các bạn học tập tốt! Tấm là tên của mẹ đặt cho tôi trước khi bà qua đời trong khi tôi còn chưa kịp nhớ mặt mẹ. Cha tôi cũng ra đi mấy năm sau đó. Tôi sống cùng với dì và em cùng cha khác mẹ- em Cám. Những năm tháng ấy, tôi luôn tất bật, làm việc chăm chỉ cho dì và em. Còn Cám thì được ăn sung mặc sướng mà không phải làm bất cứ thứ gì. Một lần, dì hứa sẽ thưởng cho ai hớt được nhiều tép hơn một chiếc yếm đỏ. Tôi đã chăm chỉ làm việc và hớt đầy một giỏ nhưng vì bị Cám lừa mất hết. Lúc đau khổ thì chính Bụt đã cho tôi một hi vọng- con cá bống cuối cùng còn sót lại. Tôi rất yêu thương cá, mỗi bữa đều để lại cho em một bát và gọi lên ăn bằng một câu hát. Nhưng một lần đi chăn trâu xa theo lời mẹ dặn, tôi trở về và không thấy cá đâu, chỉ còn một cục máu. Nhờ có sự chỉ dẫn của Bụt, tôi đã nhờ chú gà tìm thấy xương cá và đem chôn vào bốn lọ bốn chân tường. Đến ngày vua mở hội, tôi cũng muốn sửa soạn đi nhưng dì lại bảo phải nhặt cho xong mớ gạo lẫn thóc mới được đi. Nhờ có Bụt, đàn chim sẻ giúp tôi nhặt thóc và tôi có cả quần áo mới từ bốn chiếc lọ kia. Trong lúc đi chơi, tôi làm rơi chiếc giày xuống nước. Về nhà mới hay tin vua kén người đi vừa chiếc giày làm vợ. Dì và Cám sau khi không vừa thì ngạc nhiên khi tôi đi vừa nó.
Poet Lam Thi My Da once wrote: Everyone's childhood is associated with days of innocent play, with unforgettable memories and stories of growing up with the soul, over the years. Fairy tales are like fresh, cool springs that nourish countless generations to grow, live and believe in the power of goodness and goodness in life. One of the most influential stories is the fairy tale "Tam Cam". In the 10th grade program, when approaching the work, you will have to summarize the text first. One of the things to note when summarizing a work is that it needs to be brief, full of events, without unnecessary details. And when told in the person of the character Tam, the tone and summary also need to change a bit. Below is a summary you can refer to. Hope you learn well! Tam is the name my mother gave me before she passed away while I could not even remember her face. My father also passed away a few years later. I live with my aunt and my half-sister - Cam. During those years, I was always busy, working hard for my aunt and younger brother. As for Cam, she can eat and wear well without having to do anything. One time, she promised to reward whoever picked the most shrimps with a red bib. I worked hard and filled a basket, but because Cam tricked me, I lost it all. When I was suffering, it was Buddha who gave me hope - the last remaining goby fish. I love fish very much, every meal I leave a bowl for her and call her to eat with a song. But one time I went away to herd buffaloes as my mother told me to, I came back and saw no fish, only a clot of blood. Thanks to the Buddha's instructions, I asked the chicken to find the fish bones and bury them in four four-legged jars. When the day the king opened the festival, I also wanted to prepare to go, but my aunt said I had to finish picking up all the rice and paddy before I could go. Thanks to the Buddha, the sparrows helped me pick up rice and I got new clothes from the four jars. While going out, I dropped my shoe into the water. When I got home, I learned that the king was picky about who could fit the shoes as his wife. After Aunt and Cam didn't fit it, they were surprised when I could fit it.
Nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ đã từng viết: Tuổi thơ mỗi người đều gắn với những ngày tháng vui chơi hồn nhiên, với những kỉ niệm không thể quên và cả những câu chuyện lớn lên cùng tâm hồn, theo năm tháng. Những câu chuyện cổ tích như nguồn suối tươi trong, mát lành nuôi dưỡng biết bao thể hệ lớn lên, sống và tin tưởng vào sức mạnh của cái thiện, của cái tốt trong cuộc sống. Một trong những câu chuyện có sức ảnh hưởng lớn chính là truyện cổ tích “Tấm Cám”. Trong chương trình lớp 10, khi tiếp cận tác phẩm, các bạn sẽ phải tóm tắt văn bản đầu tiên. Một trong những lưu ý khi tóm tắt tác phẩm là cần ngắn gọn, đầy đủ sự kiện, không thừa những chi tiết không cần thiết. Và khi kể bằng ngôi của nhân vật Tấm, giọng điệu và cách tóm tắt cũng cần thay đổi một chút. Sau đây là bài tóm tắt các bạn có thể tham khảo. Chúc các bạn học tập tốt! Tấm là tên của mẹ đặt cho tôi trước khi bà qua đời trong khi tôi còn chưa kịp nhớ mặt mẹ. Cha tôi cũng ra đi mấy năm sau đó. Tôi sống cùng với dì và em cùng cha khác mẹ- em Cám. Những năm tháng ấy, tôi luôn tất bật, làm việc chăm chỉ cho dì và em. Còn Cám thì được ăn sung mặc sướng mà không phải làm bất cứ thứ gì. Một lần, dì hứa sẽ thưởng cho ai hớt được nhiều tép hơn một chiếc yếm đỏ. Tôi đã chăm chỉ làm việc và hớt đầy một giỏ nhưng vì bị Cám lừa mất hết. Lúc đau khổ thì chính Bụt đã cho tôi một hi vọng- con cá bống cuối cùng còn sót lại. Tôi rất yêu thương cá, mỗi bữa đều để lại cho em một bát và gọi lên ăn bằng một câu hát. Nhưng một lần đi chăn trâu xa theo lời mẹ dặn, tôi trở về và không thấy cá đâu, chỉ còn một cục máu. Nhờ có sự chỉ dẫn của Bụt, tôi đã nhờ chú gà tìm thấy xương cá và đem chôn vào bốn lọ bốn chân tường. Đến ngày vua mở hội, tôi cũng muốn sửa soạn đi nhưng dì lại bảo phải nhặt cho xong mớ gạo lẫn thóc mới được đi. Nhờ có Bụt, đàn chim sẻ giúp tôi nhặt thóc và tôi có cả quần áo mới từ bốn chiếc lọ kia. Trong lúc đi chơi, tôi làm rơi chiếc giày xuống nước. Về nhà mới hay tin vua kén người đi vừa chiếc giày làm vợ. Dì và Cám sau khi không vừa thì ngạc nhiên khi tôi đi vừa nó.
Poet Lam Thi My Da once wrote: Everyone's childhood is associated with days of innocent play, with unforgettable memories and stories of growing up with the soul, over the years. Fairy tales are like fresh, cool springs that nourish countless generations to grow, live and believe in the power of goodness and goodness in life. One of the most influential stories is the fairy tale "Tam Cam". In the 10th grade program, when approaching the work, you will have to summarize the text first. One of the things to note when summarizing a work is that it needs to be brief, full of events, without unnecessary details. And when told in the person of the character Tam, the tone and summary also need to change a bit. Below is a summary you can refer to. Hope you learn well! Tam is the name my mother gave me before she passed away while I could not even remember her face. My father also passed away a few years later. I live with my aunt and my half-sister - Cam. During those years, I was always busy, working hard for my aunt and younger brother. As for Cam, she can eat and wear well without having to do anything. One time, she promised to reward whoever picked the most shrimps with a red bib. I worked hard and filled a basket, but because Cam tricked me, I lost it all. When I was suffering, it was Buddha who gave me hope - the last remaining goby fish. I love fish very much, every meal I leave a bowl for her and call her to eat with a song. But one time I went away to herd buffaloes as my mother told me to, I came back and saw no fish, only a clot of blood. Thanks to the Buddha's instructions, I asked the chicken to find the fish bones and bury them in four four-legged jars. When the day the king opened the festival, I also wanted to prepare to go, but my aunt said I had to finish picking up all the rice and paddy before I could go. Thanks to the Buddha, the sparrows helped me pick up rice and I got new clothes from the four jars. While going out, I dropped my shoe into the water. When I got home, I learned that the king was picky about who could fit the shoes as his wife. After Aunt and Cam didn't fit it, they were surprised when I could fit it.
Bài làm Tôi chính là Trọng Thủy một trong ba nhân vật chính trọng truyền thuyết An Dương Vương – Mị Châu- Trọng Thủy. Tôi vốn dĩ là con của vau nước Nam Hải, cha của tôi chính là vua Triệu Đà người luôn nhăm nhe muốn chiếm được nước Âu Lạc. Nhưng sau nhiều năm giao tranh xâm lược quân của cha tôi đều nhận được những kết thúc bi thảm. Cha tôi đã không còn muốn dùng vũ lực để thôn tính nước Âu Lạc nữa mà ông muốn dùng kế để có thể thỏa mãn lòng tham của mình. Chính vì ước mơ thôn tính muốn làm bá chủ thiên hạ mà cha tôi đã biến tôi thành một lá bài năm trong tay ông để giúp ông chèo lên đỉnh cao quyền lực. Ông muốn tôi trở thành con rể của An Dương Vương, kế hôn với Mị Châu và đi tìm ra bí ẩn quân cơ của nước Âu Lạc. Tôi vì phận làm con không thể cãi lời cha nên đành tuân lệnh vua cha của mình cưới Mị Châu làm vợ rồi đi ở rể tại nước Âu Lạc. Tôi và Mị Châu sau khi kết hôn đã có những ngày tháng vui vẻ hạnh phúc bên nhau, với tôi Mị Châu thật sự là một người vợ hiền thục, đảm đang, tháo vát, xinh đẹp và biết nghe lời chồng. Tôi thầm cảm ơn sự se duyên cua số phận đã cho tôi gặp được người con gái tốt như vậy, nhưng khi tôi đang hân hoan trong hạnh phúc thì cha tôi cho người tới bảo tôi đừng vì vui duyên mới mà lơ là nhiệm vụ chính của mình ở đất nước Âu Lạc này. Tôi đàng nghe lời vua cha tìm cách lân la rồi dò hỏi Mị Châu về bí mật quân cơ của nước Âu Lạc. Xem thêm: Soạn bài Hiền tài là nguyên khí của quốc gia lớp 10 hay đầy đủ nhất Mị Châu là cô gái hiền lành yêu chồng và tin tưởng ở tôi tuyệt đối nên nàng không ngần ngại mang bí mật quốc gia của mình ra để nói với tôi. Nàng bảo tôi sở dĩ nước Âu Lạc không bao giờ bại trận bởi cha nàng có một chiếc nỏ thần. Chiếc nỏ đó có khả năng bắn ra hàng trăm mũi tên một lúc và tiêu diệt được nhiều kẻ thù. Chiếc nỏ thần đó được giữ ở một nơi vô cùng quan trọng không ai vào được trừ vua cha của nàng và nàng. Kể lại truyện An Dương Vương Mị Châu Trọng Thủy bằng lời của Trọng Thủy Tôi chờ một ngày vua An Dương Vương đi vắng rồi giả vờ tò mò muốn xem chiếc nỏ thần đó như thế nào và yêu cầu vợ tôi Mị Châu dẫn đi xem. Cuối cùng thì tôi cũng tận mắt nhìn thấy được chiếc nỏ thần đó như thê nào và biết được nó giấu ở đâu. Lợi dụng sơ hở của vua An Dương Vương tôi đã ăn cắp chiếc nỏ thần rồi về nước của mình dâng lên vua cha của tôi hoàn thành công việc của mình. Tôi biết trước sau gì vua cha của tôi cũng mang quân sáng đánh chiếm nước Âu Lạc nên tôi đã tặng cho vợ của mình là Mị Châu một chiếc áo lông ngỗng dặn dò nàng rằng nếu có binh biến hãy mặc chiếc áo này lên người và đi tới đâu hãy rải những sợ lông trên đường để tôi có thể tìm thấy nàng. Xem thêm: Giải bài tập Ngữ văn lớp 11: Luyện tập thao tác lập luận so sánh Rồi mọi việc diễn ra đúng như những gì tôi dự đoán cha tôi sau khi có chiếc nỏ thần trong tay đã nhanh chóng đánh chiếm nước Âu Lạc, và vua An Dương Vương vì không biết chiếc nỏ thần đã mất nên không có chuẩn bị phòng ngự nhanh chóng thất trận. Vua An Dương Vương nhảy lên ngựa cùng còn gái của mình là vợ tôi Mị Châu chạy ra khỏi thành. Mị Châu nhớ lời tôi dặn trước khi chia tay nên nàng đi tới đâu cũng nhổ một nhúm lông dải ra đất để tôi biết đường mà tìm thấy nàng. Nhưng tôi thật không ngờ khi tôi tìm thấy nàng bên giếng ngọc thì chỉ thấy xác của nàng và cha nàng mà thôi, nhìn vết kiếm tôi có thể đoán được vua An Dương Vương cha vợ tôi đã giết vợ tôi Mị Châu rồi tự sát. Tôi ôm thi thể vợ mà khóc rất nhiều tôi cảm thấy mình chính là thủ phạm giết vợ đẩy nàng tới cái chết oan khuất này, nên cuối cùng tôi nhảy xuống giếng ngọc gần đó tự vẫn để đi theo nàng.
Assignment I am Trong Thuy, one of the three main characters in the legend of An Duong Vuong - My Chau - Trong Thuy. I was originally the son of the king of Nam Hai, my father was King Trieu Da, who always wanted to conquer Au Lac. But after many years of fighting and invading, my father's army met tragic ends. My father no longer wanted to use force to annex Au Lac country, but he wanted to use strategies to satisfy his greed. Because of the dream of annexation and dominating the world, my father turned me into a card in his hand to help him rise to the pinnacle of power. He wanted me to become the son-in-law of An Duong Vuong, marry My Chau and find out the military secrets of Au Lac country. As a son, I could not disobey my father, so I obeyed my father's orders to marry Mi Chau and then live with my son-in-law in Au Lac country. After getting married, Mi Chau and I had happy and joyful days together. To me, Mi Chau is truly a gentle, capable, resourceful, beautiful and obedient wife to her husband. I silently thanked the fate that allowed me to meet such a good girl, but when I was rejoicing in happiness, my father sent someone to tell me not to neglect my main duties because of the joy of new fate. in this country of Au Lac. I listened to my father's words and tried to find a way to go around and ask My Chau about the military secrets of Au Lac country. See more: Prepare lesson Talent is the vital energy of a nation for grade 10 or the most complete Mi Chau is a gentle girl who loves her husband and trusts me absolutely, so she did not hesitate to tell me her national secret. She told me the reason Au Lac was never defeated was because her father had a magic crossbow. That crossbow was capable of shooting hundreds of arrows at once and destroying many enemies. That magic crossbow was kept in an extremely important place that no one could enter except her father and her king. Retell the story of An Duong Vuong My Chau Trong Thuy in Trong Thuy's words I waited for a day when King An Duong Vuong was away, then pretended to be curious to see what that magic crossbow was like and asked my wife My Chau to take me to see it. I finally saw with my own eyes what that magic crossbow looked like and knew where it was hidden. Taking advantage of King An Duong Vuong's loophole, I stole the magic crossbow and returned to my country to present it to my father to complete my work. I knew that sooner or later my father, the king, would lead his army to invade Au Lac, so I gave my wife, My Chau, a goose feather coat, telling her that if there was a mutiny, she should wear this coat and wear it. Wherever I go, spread feathers on the road so I can find her. See more: Solving 11th grade Literature exercises: Practice comparative reasoning operations Then everything happened exactly as I predicted, after having the magic crossbow in his hand, he quickly conquered Au Lac country, and King An Duong Vuong, not knowing that the magic crossbow was lost, did not prepare a defense. The throne quickly lost the battle. King An Duong Vuong jumped on the horse with his daughter, my wife My Chau, running out of the citadel. Mi Chau remembered what I told her before we broke up, so wherever she went, she pulled out a bunch of feathers on the ground so I would know how to find her. But I really didn't expect that when I found her by the jade well, I would only see her and her father's bodies. Looking at the sword marks, I could guess that King An Duong Vuong, my father-in-law, had killed my wife Mi Chau and then committed suicide. I hugged my wife's body and cried a lot. I felt like I was the culprit who killed my wife and pushed her to this unjust death, so in the end I jumped into a nearby jade well and committed suicide to follow her.
Bài làm Thưa các bạn tôi chính là Tấm nhân vật chính trong truyện cổ tích Tấm Cám mà các bạn vẫn thường được nghe kể. Hôm nay tôi muốn chính mình tự kể về câu chuyện của cuộc đời mình một cách trung thực và công tâm nhất không bị tam sao thất bản và có những tình tiết đồn thổi như mọi người thường hay suy diễn. Tôi sinh ra đã sớm mồ côi mẹ, rồi cha của tôi đã kết hôn với một người phụ nữ cùng làng. Sau khi tục huyền mẹ kế của tôi có thai ngay lập tức và sinh ra một người con gái được đặt tên là Cám. Năm tôi lên bảy tuổi thì cha tôi qua đời bỏ lại tôi một mình bơ vơ trên cõi đời này không ai thương xót. Tôi sống với kế mẫu và em gái cùng cha khác mẹ, dù người kế mẫu này không ưa tôi lắm bởi khác máu tanh lòng nhưng tôi vẫn yêu thương bà và em gái của mình bởi tôi chẳng có ai là người thân ngoài họ cả. Trong gia đình tôi thường được kế mẫu sai làm những việc nội chợ, lau dọn nhà cửa, rồi việc đồng áng, có bất kỳ việc gì cũng tới tay tôi bởi tôi thấy mọi người thường khen tôi đảm đang tháo vát. Còn em Cám của tôi do nhỏ tuổi nhất nhà lại được cưng chiều nên nó chẳng biết làm việc gì. Mẹ có giao việc gì nó làm cũng hỏng cả nên dần dần nó được mẹ cho ngồi chơi còn tôi thì làm hết. Nhiều khi tôi cũng tủi thân thương cho phận côi cút của mình, nhưng rồi những suy nghĩ tiêu cực đó cũng nhanh chóng đi qua. Một lần kế mẫu sai tôi và em Cám đi bắt cua ốc về nấu canh cho gia đình ăn tối. Tôi sợ mẹ mắng nên làm việc chăm chỉ lắm dù mùa này không phải mùa tôm tép, nhưng tôi chăm chỉ nên cũng bắt được đầy một giỏ. Còn em Cám nó nhìn thấy hoa thơm, cảnh đẹp mải mê ngắn nhìn nên chẳng bắt được con nào. Nhưng con bé láu cá hơn tôi, nó dụ cho tôi xuống ao tắm rồi ở trên bờ nó lấy hết tôm cá của tôi trút sang giỏ nó rồi đi về nhà trước lập thành tích với mẹ. Khi nó đi rồi tôi lên bờ nhìn thấy cái giỏ của mình trống trơn tôi hiểu ra những gì mà Cám đã làm với mình, nhưng tôi không giận em ấy .Tôi chỉ sợ hãi mà thôi bởi tôi biết nếu tôi về nhà với cái giỏ trống không như vậy thì mẹ kế tôi sẽ mắng tôi rất lâu, thậm chí bà còn cho tôi ăn đòn nữa lần nào mẹ kế đánh tôi cũng đau nhức mấy ngày chưa khỏi. Nghĩ vậy tôi buồn lắm và ngồi khóc, nhưng thật may mắn lúc đó có một ông lão râu tóc bạc phơ hiện lên và hỏi tôi rằng “Vì sao con khóc” tôi đã kể cho ông lão phúc hậu đó nghe câu chuyện của mình, ông lão đã bảo tôi rằng hãy nhìn vào giỏ mang con cá bống về nuôi nó sẽ làm bạn với tôi giúp tôi sau này. Dù không biết thực hư thế nào nhưng tôi cũng làm theo lời ông lão mang con cá bống về nuôi ngày ngày gọi nó lên ăn cơm bằng câu thần chú mà ông lão dậy mình. Xem thêm: Em hãy tả cảnh bình minh trong vườn nhà em Đóng vai nhân vật Tấm kể lại truyện Tấm Cám Một thời gian sau, cá bống tôi nuôi trong giếng lớn nhanh lắm. Một ngày nọ mẹ kế tôi bảo tôi đi chợ xa đi lâu hãy về, tôi làm theo đi chợ làng bên tới mãi xế trưa mới về nhà. Khi tôi về nhà tới bữa cơm mang cơm cho cá bống thì không thấy bống đâu nữa. Tôi chỉ nhìn thấy mấy cục máu nổi trên mặt giếng mà thôi. Tôi biết cá bống của tôi không còn nữa nên buồn lắm tôi khóc. Ông lão lại hiện lên và bảo tôi tìm xương cá bống cho vào cai lọ rồi chôn ở chân giường nơi tôi nằm. Năm đó ngày hội làng đến tôi và em Cám cùng muốn đi xem hội, nhưng mẹ kế bảo tôi phải ở nhà trông nhà và làm hết việc mà bà giao cho xong rồi mới được đi. Cám đi chảy hội trước, còn mình tôi bơ vợ ngồi nhặt thóc khỏi đấu gạo. Tôi buồn lắm bởi tôi rất muốn đi xem hội mà việc này tỉ mỉ quá chả biết tới khi nào xong nên chắc tôi chẳng thể đi xem hội được. Tôi vừa làm vừa khóc thì ông lão lần trước xuất hiện kêu đàn chim sẻ tới giúp tôi, rồi ông bảo tôi lấy lộ xương cá bống lên sẽ có quần áo đẹp, giầy mới cho tôi đi chơi hội. Tôi vui lắm làm theo lời ông và cuối cùng tôi cũng được đi chảy hội làng. Khi tôi đi qua khúc sông vô tình rơi một chiếc hài, chẳng ai ngờ chiếc hài của tôi được nhà vua nhặt được ngài đem lòng tương tư người chủ nhân chiếc hài nên tìm bằng được người con gái đi vừa chiếc hài xinh xắn đo. Ngài ra mệnh lệnh ai đi vừa sẽ làm vợ ngài, chiếc hài là của tôi tôi đi vừa là điều dễ hiểu. Tôi đã trở thành hoàng hậu như vậy đó. Xem thêm: Cảm nhận của em về cảnh đánh nhau với cố xay gió của Đôn-ki-hô-tê Năm đó, ngày giỗ của cha tôi tôi về nhà cúng cha, khi mẹ kế bảo tôi trèo lên cây cau tôi nghe theo thì ở dưới mẹ kế tôi và em Cám chặt đổ cây cau khiến tôi ngã xuống ao và chết đuối. Em Cám tôi liền vào cung thay thế thôi làm hoàng hậu, đến khi chết rồi tôi mới hiểu được tâm địa của mẹ kế. Tôi đã từng yêu thương họ nhưng họ không hề coi tôi là người thân, linh hồn tôi chết oan nên không siêu thoát được. Tôi biến thành chim vàng anh bay vào cung không cho mẹ kế và Cám thực hiện được âm mưu của mình. Ngày ngày chồng tôi yêu con chim vàng anh chính là tôi lắm. Thấy vậy em Cám giết tôi ăn thịt vứt lông chim đi. Tôi biến thành hai cây xoan đào mát mẻ chồng tôi ngày nào cũng mắc võng ra chơi. Em Cám khó chịu nên chặt hai cây xoan đào làm thành khung dệt vải. Nhưng khi nó ngồi vào dệt tôi luôn phát ra những tiếng kêu ma mị làm nó có tật giật mình. Nó đốt khung dệt vải, tôi biến thành cây thị và hóa thân thành một quả thị vô cùng đẹp mặt hương thơm bay xa. Một hôm có bà cụ bán nước đi qua thấy tôi thơm qua nên xin tôi rụng vào túi của bà để bà mang về nhà ngửi. Tôi thương bà cụ bán nước không con cháu sống côi cút một mình nên rụng vào túi của bà. Ngày ngày bà cụ bán nước đi làm tôi ở nhà chui từ quả thị ra và làm việc nhà nấu cơm, quét dọn nhà cửa vườn tược cho bà.
Assignment Dear friends, I am the main character Tam in the fairy tale Tam Cam that you often hear about. Today I want to tell the story of my life in the most honest and fair way, without any untruths and rumored details as people often speculate. I was born without a mother, and then my father married a woman from the same village. After the marriage, my stepmother immediately became pregnant and gave birth to a daughter named Cam. When I was seven years old, my father passed away, leaving me alone and helpless in this world with no one to pity me. I live with my step-mother and half-sister. Even though this step-mother doesn't like me very much because of our blood differences, I still love her and my younger sister because I don't have anyone other than them as relatives. In my family, I am often asked by my nanny to do chores in the market, clean the house, and then work in the fields. Any task comes to me because I see people often compliment me on being resourceful. As for my brother Cam, because he is the youngest in the family and is pampered, he doesn't know what to do. No matter what my mother assigned him to do, he failed, so gradually he was allowed to sit and play while I did all the work. Many times I feel sorry for myself as an orphan, but those negative thoughts quickly pass. One time, my stepmother sent Cam and me to catch crabs and snails to cook soup for the family for dinner. I was afraid that my mother would scold me, so I worked very hard even though this was not shrimp season, but I worked hard so I caught a full basket. As for Cam, he was so absorbed in seeing the fragrant flowers and beautiful scenery that he couldn't catch any fish. But the girl was more cunning than me, she lured me into the pond to bathe, then on the shore she took all my fish and shrimp, poured them into her basket and then went home first to make a record with her mother. When he left, I went to shore and saw my basket was empty. I realized what Cam had done to me, but I wasn't angry with her. I was just scared because I knew if I went home with the basket If it was empty like that, my stepmother would scold me for a long time. She would even give me a spanking. Every time my stepmother beat me, the pain wouldn't go away for several days. Thinking about that, I felt very sad and cried, but luckily, at that time, an old man with white hair and beard appeared and asked me, "Why are you crying?" I told that kind old man my story. The old man told me to look in the basket and bring the goby back to raise, it will be my friend in the future. Even though I didn't know the truth, I followed the old man's instructions and brought the goby home to raise and call it up to eat every day using the spell the old man taught me. See more: Describe the sunrise in your garden Play the role of Tam retelling the story of Tam Cam Some time later, the gobies I raised in the well grew very quickly. One day my stepmother told me to go to the market after a long time and come back. I did so and went to the market in the next village until noon before returning home. When I got home and brought rice to the goby, I didn't see the goby anywhere. I only saw a few clots of blood floating on the surface of the well. I knew my goby fish was gone, so I was so sad that I cried. The old man appeared again and told me to find goby fish bones, put them in a jar and bury them at the foot of the bed where I lay. That year, when the village festival came, Cam and I both wanted to go to the festival, but my stepmother told me to stay home and look after the house and do all the work she assigned before I could go. Cam went to the meeting first, while I alone sat and picked rice out of the rice bowl, ignoring my wife. I'm very sad because I really want to go to the festival, but this is so detailed and I don't know when it will be finished, so I probably won't be able to go to the festival. As I worked and cried, the old man from last time appeared and called the sparrows to help me. Then he told me to expose the bones of the goby fish and there would be nice clothes and new shoes for me to go to the festival. I was happy to do as he said and I was finally able to go to the village festival. When I was passing by the river, I accidentally dropped a slipper. No one expected that my slipper would be picked up by the king. He fell in love with the slipper's owner, so he found a girl who was wearing the lovely slipper. He commanded that whoever goes will be his wife, the shoe is mine and I go both, which is understandable. That's how I became a queen. See more: My feelings about Don Quixote's fight scene with the windmill That year, on the anniversary of my father's death, I went home to worship him. When my stepmother told me to climb the areca tree, I obeyed. Below, my stepmother and Cam cut down the areca tree, causing me to fall into the pond and drown. My sister Cam immediately went to the palace to replace me as queen. It wasn't until she died that I understood my stepmother's mind. I used to love them, but they never considered me a relative. My soul died unjustly so it could not escape. I turned into an oriole and flew into the palace to prevent my stepmother and Cam from carrying out their plot. Every day my husband loves the golden bird that is me. Seeing that, Cam killed me and ate the meat and threw away the feathers. I turned into two cool peach trees. My husband hung up his hammock every day to play. Cam was upset so she cut down two peach trees to make a weaving frame. But when he sits down to weave, I always make ghostly sounds that startle him. It burned the weaving loom, I turned into an apricot tree and transformed into an extremely beautiful fruit with a long-lasting fragrance. One day, an old lady selling water came by and saw that I smelled good, so she asked me to put it in her bag so she could take it home to smell it. I feel sorry for the old woman who sells water and has no children or grandchildren and lives alone, so she falls into her pocket. Every day the old lady sold water and went to work. I stayed at home and crawled out of the market and did the housework, cooking, cleaning the house and garden for her.
Bài làm Có ai đó nói rằng: Văn học chính là người thư ký trung thành của thời đại. Qủa không sai chút nào vì văn học luôn phản ánh cũng như khắc họa xã hội, con người trong thời đại đó. Truyện cười là một trong những thể loại truyện kể dân gian vô cùng đặc sắc, truyện lên án, phê phán được một xã hội đồng tiền mà lấn áp đi tất cả. Một trong số truyện cười đó không thể không nhắc đến truyện Nhưng nó phải bằng hai mày. Khi đọc truyện cười Nhưng nó phải bằng hai mày chúng ta đều nhận thấy được nó dường giống như một màn kịch rất ngắn nhưng hấp dẫn với sự xuất hiện của ba nhân vật đó là Cải và Ngô và quan xử kiện. Cũng giống như các truyện cười khác thì ngay từ phần mở đầu của bài thì tác giả dân gian như cũng đã giới thiệu về một viên lí trưởng có tài xử kiện giỏi ở một làng kia. Cách giới thiệu phiếm chỉ cũng không khác gì những câu truyện cổ tích. Việc sử dụng từ phiếm chỉ nhưng cũng đã tăng được ý nghĩa khái quát và mang tính phổ biến ở nhiều vùng, nhiều đối tượng Tình tiết và diễn biến của sự việc được kể rất ngắn gọn trong truyện cười. Nhân vật Cải và Ngô đánh nhau rồi mang nhau ra kiện. Lúc đó Cải sợ kém thế cho nên cũng đã nhanh trí lót trước thầy lý năm đồng. Ngô lúc này cũng đã biện chè lá những mười đồng. Cứ theo mạch kể của câu truyện chúng ta đã tìm thấy tình huống có vấn đề đồng thời cũng lại buộc người nghe phải chú ý xem trong tình huống nà thì một thầy lý vô nổi tiếng xử kiện giỏi sẽ xử vụ kiện này như thế nào? Xem thêm: Em hãy giải thích câu tục ngữ: Tiên học lễ hậu học văn Trong khi xử kiện thầy lí cho Ngô thắng, còn Cải lúc đó bị lôi ra đánh mười roi. Điều này khiến cho Cải đã lo lót thầy trước và được thầy nhận lễ cho nên Cải vô cùng bất ngờ từ thế chủ động sang thế bị động trước lời phán xét của thầy lý xử kiện. Khi bất ngờ đó được thực thì thì Cải nhanh chóng xòa năm ngón tay và ngắn mặt nhìn thầy lý. Đọc đến đây ai cũng đã hiểu được hàm ý của nhân vật Cải vì Cải đã lót tay, đi thầy lý trước rồi. Trong truyện thì lẽ phải ở đây cũng được xem xét bằng tiền. Phân tích truyện cười Nhưng Nó Phải Bằng Hai Mày Cho đến đây mâu thuẫn dường như cũng đã lên đến cao trào Bởi Cải dường như đã lật bài ngựa. Người đọc cũng không biết và tò mò không biết thầ lý sẽ xử phạt ra sao. Thế rồi cao trào lại bất ngờ đáp lại hành động kì quặc của Cải đó chính là hành động cũng kì quặc của thầy lí. Tác giả dân gian thật tài tình biết bao nhiêu bởi sự kết hợp từ lời nói và hành động giữa hai nhân vật cũng đã tạo nên một tín hiệu đặc biệt, đó chính là một thứ mật ngữ mà chỉ có người trong cuộc mới có thể hiểu được. Thêm vào đó thì lời được phát ngôn công khai cho tất cả mọi người cùng nghe. Còn về mật ngữ thì chỉ có hai người trong cuộc mới biết được rõ. Ta nhận thấy được hành động kì quặc đó được giải mã bởi lời nói của thầy lí không quên kèm theo hành động đó là thầy lí cũng xòe năm ngón tay trái và từ từ úp lên trên năm ngón tay phải mặt nói rằng: Tao biết mày phải…..nhưng nó lại phải…..bằng hai mày. Xem thêm: Phân tích nhân vật Hộ trong truyện ngắn đời thừa của Nam Cao, bài mẫu 2 Với đoạn cao trào này thì ta nhận thấy được tay – tiền – lẽ phải lại có một mối quan hệ mật thiết. Hình ảnh ngón tay cũng đã lại thể hiện được số lượng, còn tiền là dùng để đo lẽ phải. Khi tiền càng nhiều thì lẽ phải cũng càng nghiên về đó và ngược lại. Cho nên khi Cải có 5 đồng nhưng Ngô có 10 đồng thì lẽ phải chắc chắn về phía Ngô. Truyện khiến chúng ta phải bật cười thế nhưng đằng sau tiếng cười đó lại là một sự chế giễu và nói ra một sự bất công trong xã hội lúc bấy giờ – một xã hội nói như Vũ Trọng Phụng đó là “một xã hội chó đểu”.
Assignment Someone said: Literature is the faithful secretary of the era. The result is not wrong at all because literature always reflects and depicts society and people in that era. Jokes are one of the most unique genres of folk tales, stories that condemn and criticize a society where money overwhelms everything. One of those jokes cannot help but mention the story But it must be equal to two eyebrows. When reading the joke But it must be equal to two eyebrows, we all realize that it seems like a very short but attractive play with the appearance of three characters: Cai and Ngo and the judge. Just like other funny stories, right from the beginning of the article, the folk author seems to have introduced a chief officer with good legal skills in a certain village. The way of introducing gossip is no different from fairy tales. The use of the word is trivial but has also increased its general meaning and is popular in many regions and subjects The details and developments of the incident are told very briefly in the joke. Characters Cai and Ngo fight and then sue each other. At that time, Cai was afraid that he would be inferior, so he quickly paid five dong in front of the teacher. The corn at this time also had tea leaves costing ten dong. According to the narrative flow of the story, we have found a problematic situation and at the same time forced the listener to pay attention to see how a lawyer famous for being good at handling lawsuits would handle this case in this situation. ? See more: Please explain the proverb: First, learn rituals, then learn literature During the trial, the judge let Ngo win, while Cai was dragged out and beaten ten times. This caused Cai to bribe the teacher first and receive the ceremony, so Cai was extremely surprised from the active position to the passive position before the judge's judgment. When that surprise was realized, Cai quickly spread his five fingers and looked at the teacher. Reading up to this point, everyone can understand the meaning of the character Cai because Cai has bribed him and gone to the lawyer first. In the story, righteousness here is also considered in terms of money. Analysis of jokes But It Must Be Equal to You Up to this point, the conflict seems to have reached a climax because Cai seems to have flipped the horse's cards. The reader also doesn't know and is curious about how the judge will punish him. Then the climax unexpectedly responded to Cai's strange action which was also the teacher's strange action. The folk author is so ingenious because the combination of words and actions between the two characters also creates a special signal, which is a secret language that only insiders can understand. understand. In addition, the words are spoken publicly for everyone to hear. As for the secret language, only the two people involved know it clearly. We realized that that strange action was decoded by the teacher's words, not forgetting that along with that action, the teacher also spread out the five fingers of his left hand and slowly placed it over the five fingers of his right hand, saying: I know. you have to…..but it has to…..be equal to the two of you. See more: Analysis of the character Ho in Nam Cao's short story The Excessive Life, sample article 2 With this climax, we realize that hands - money - righteousness have a close relationship. The image of fingers also represents quantity, while money is used to measure reason. The more money there is, the more common sense also leans towards it and vice versa. So when Cai has 5 coins but Ngo has 10 coins, the truth is definitely on Ngo's side. The story makes us laugh, but behind that laughter is a mockery and speaks out about an injustice in society at that time - a society as Vu Trong Phung said, it was "a scoundrel society." ”.
Bài làm Mỗi chúng ta khi sinh ra đời đều có những người bạn có những người bạn tốt giúp chúng ta trưởng thành trở thành một người có trách nhiệm với cuốc sống, có định hướng cho tương lai của mình trở nên tốt đẹp hơn. Những người bạn xấu có khả năng lôi kéo chúng ta vào các tệ nạn xã hội biến chúng ta trở thành những người hư hỏng trong cuộc sống và đánh mất đi những tương lai tốt đẹp của mình. Trong kho tàng những câu ca dao tục ngữ của dân tộc ta, ông cha ta đã để lại cho con cháu mình một câu nói bất hủ rằng “Gần mực thì đen gần đèn thì rạng” với câu nói này ông cha ta muốn nhắn gửi tới con cháu của mình hãy biết chọn bạn mà chơi, chọn nơi mà sống bởi bạn bè và môi trường xã hội xung quanh mình sẽ có tác động tới cuộc sống của chúng ta. Trải qua rất nhiều năm thì câu tục ngữ “Gần mực thì đen gần đèn thì sáng” vẫn luôn có giá trị đúng đắn của mình. Câu tục ngữ như một lời khuyên chúng ta phải biết lựa chọn cách sống tích cực, lựa chọn những người bạn tốt để học tập những điều tích cực từ họ, khiến chúng ta cũng học tập được những điều tốt đẹp từ tính cách của họ. Xem thêm: Giải thích câu tục ngữ: Rồng đến nhà tôm Bình luận câu tục ngữ Gần mực thì đen gần đèn thì sáng Câu tục ngữ “Gần mực thì đen gần đèn thì sáng” chính là một bài học, một giá trị sống kinh nghiệm quý báu của mà ông bà đã truyền dạy lại cho chúng ta. Nêu sống trong một môi trường tốt được gần gũi những người bạn tốt chăm chỉ học hành, hiếu lễ với cha mẹ và thầy cô giáo thì chúng ta cũng sẽ nhiễm đức tính tốt đẹp từ những người bạn xung quanh mình. Còn khi chúng ta ở cạnh những người bạn xấu, giống như gần mực có thể chúng ta sẽ bị lây những vết đen lên áo, lên sách vở mặt mũi của mình. Những điều tốt đẹp trong cuộc sống như ánh sáng của ngọn đèn, những cái hay cái đẹp sẽ soi sáng tâm hồn ta đưa ta tới những giá trị chân thiện mỹ trong cuộc sống khiến chúng ta trở nên tốt đẹp hơn. Sống có lý tưởng có ước mơ hoài bão. Một mối quan hệ tốt đẹp, môi trường sống lành mạnh có thể làm thay đổi cuộc sống của mỗi chúng ta làm cho chúng ta trở nên tốt đẹp hơn, sống lương thiện ngay thẳng hơn và sống có lý tưởng tốt đẹp hơn. Tuy nhiên bất kỳ một câu nói nào cũng có những mặt đúng và mặt hạn chế của nó. Câu tục ngữ “Gần mực thì đen gần đèn thì sáng” dù đúng với mỗi chúng ta nhưng không đúng trong mọi hoàn cảnh. Có nhiều người trong xã hội dù gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn. Rất nhiều người dù sinh ra trong một gia đình cha mẹ không làm gương tốt cho con, nhưng họ vẫn sống tốt đẹp vươn lên trong cuộc sống trở thành những con người có ích cho xã hội. Xem thêm: Tóm tắt đoạn trích Chiến thắng Mtao Mxây lớp 10 Có nhiều cá nhân tuy sống trong một môi trường toàn những người lười học, ham chơi thường rủ nhau trốn học đua đòi nhưng vẫn có những bạn học sinh học giỏi chăm ngoan, gương mẫu không hề bị những bạn ham chơi lôi kéo sa ngã trở nên hư hỏng. Trong cuộc sống con người cần nhất chính là có ý chí, ý chí quyết định việc chúng ta trở nên hư hỏng, hay tốt đẹp, dù con người ta có sống trong hoàn cảnh sống như thế nào nhưng nếu chúng ta có ý chí có lòng quyết tâm thì chúng ta vẫn sẽ luôn sống tốt đẹp. Câu tục ngữ “Gần mực thì đen” gần đèn thì rạng” chính là một câu tục ngữ quý báu là một lời khuyên vô cùng thấu tình đạt lý mà ông bà ta muốn gửi tới con cháu của mình. Tuy nhiên cũng có những người vượt lên được hoàn cảnh, có bản lĩnh sống hơn người không một hoàn cảnh sống nào có thể nhấn chìm được họ biến họ trở nên đen đen tối. Cũng có nhiều người bản chất của họ đã xấu xa tăm tối thì dù có được ở gần những người lương thiện, chăm chỉ bản chất ấy cũng không thay đổi.
Assignment Each of us, when born into the world, has friends who have good friends who help us grow into a person who is responsible for life and has an orientation for a better future. Bad friends have the ability to drag us into social evils, turning us into spoiled people in life and losing our good futures. In the treasure trove of folk songs and proverbs of our people, our ancestors left behind an immortal saying for their descendants: "Near the ink, it's black. Near the light, it's bright." With this saying, our ancestors wanted to send a message. To our children and grandchildren, we should know how to choose friends to play with, choose where to live because our friends and the social environment around us will have an impact on our lives. Over many years, the proverb "Near the ink, it's black, close to the light, it's bright" has always had its true value. The proverb is like advice that we must choose a positive way of life, choose good friends to learn positive things from them, allowing us to also learn good things from their personalities. . See more: Explanation of the proverb: The dragon comes to the shrimp house Comment on the proverb Near the ink, it is black. Near the lamp, it is bright The proverb "Near the ink is black, close to the light is bright" is a lesson, a valuable life experience that our grandparents have taught us. If we live in a good environment, are close to good friends who study hard, and are respectful to our parents and teachers, we will also inherit good qualities from the friends around us. And when we are around bad friends, like being around ink, we can get black stains on our clothes, books, and face. Good things in life are like the light of a lamp, beautiful things will illuminate our souls, bringing us to the values ​​of truth, goodness and beauty in life, making us better. Live with ideals and dreams and ambitions. A good relationship and a healthy living environment can change each of our lives, making us better, living more honestly and with better ideals. However, any saying has its correct sides and limitations. The proverb "Near the ink, it's black, close to the light, it's bright" although true for each of us, is not true in all situations. There are many people in society who, despite being near mud, do not smell of mud. Many people, even though they were born into a family where parents did not set a good example for their children, still lived well and rose in life to become useful people for society. See more: Summary of the victory of Mtao Mxay grade 10 There are many individuals who live in an environment full of lazy and playful people who often invite each other to skip school and compete, but there are still good students who study hard and are good role models, not being dragged down by playful friends. become damaged. In life, people need the most is to have a will, the will determines whether we become bad or good, no matter what kind of life situation we live in, but if we have the will, we can be good. With determination, we will always live well. The proverb "Close to ink, it's black," close to the light, it's bright" is a precious proverb and extremely sensible advice that our grandparents want to send to their children and grandchildren. However, there are also people who can overcome their circumstances and have more courage to live than others. No life situation can submerge them and turn them into darkness. There are also many people whose nature is already evil and dark, even if they are around honest, hard-working people, that nature will not change.
Bài làm Từ xưa cho tới nay ông bà ta luôn coi trọng việc ăn ở, cư xử lễ nghĩa hàng ngày của một con người, bởi chính thông qua những hành động lời nói cử chỉ hàng ngày dù nhỏ bé nhưng sẽ cho thấy nhân cách cũng như tính nết của một côn người. Từ đó ông bà ta đã có câu nói “Học ăn, học nói, học gói, học mở” để khuyên nhủ bậc con cháu của mình,nên chú ý về việc cần chú ý tới những việc nhỏ nhặt nhất từ lời ăn tiếng nói hàng ngày cũng cần phải học. Câu tục ngữ này muốn dạy chúng ta phải sống sao cho tế nhị, lịch sự thể hiện được rằng mình là con người biết hiếu lễ, có học thức biết cách đối nhân xử thế trong cuộc sống. Không nên ăn uống phàm phu tục tử, hoặc vừa ăn vừa nhai lớn, cười nó vô ý vô tứ ở những nơi công cộng, khi ăn uống dù là việc rất nhỏ chỉ cần nhai và nuốt ai cũng làm được nhưng nết ăn uống, lại thể hiện tính nết, nhân cách của một con người. Ông bà thường nói ăn thì phải trông nồi mà ngồi thì trông hướng… Trong cuộc sống lời nói tưởng như một thứ gì đó vô thưởng vô phạt nhưng lại có giá trị ý nghĩa riêng vô cùng to lớn. Chính vì vậy ông bà ta thường nói lựa lời mà nói cho vừa lòng của nhau, hoặc lời nói tựa gói vàng.. .nhằm thể hiện sự quan trọng của lời nói trong những giao tiếp ứng xử của cuộc sống. Lời nói có khi nâng người ta lên, cũng có khi lời nói dìm người ta xuống tới tận bùn đen. Lời nói đóng một vai trò to lớn trong cuộc sống chính vì vậy lựa chon lời ăn tiếng nói là vô cùng cần thiết. Xem thêm: Soạn bài Các hình thức kết cấu của văn bản thuyết minh lớp 10 Học ăn học nói học gói học mở Câu tục ngữ “Học ăn học nói học gói học mở” là một câu nói vô cùng chân lý và thấm thía. Nó dạy cho mỗi chúng ta dù làm việc lớn hay việc nhỏ cũng cẩn phải giữ được cốt cách phẩm chất của mình không nên hồ đồ làm việc theo cảm tính để trở thành con người không biết cư xử thiếu tế nhị trong cuộc sống. Bất kỳ một khía cạnh nào của cuộc sống chúng ta cũng cần phải học để hoàn thiện bản thân mình, biến mình thành một con người có đủ nhân, chí, dũng … xứng đáng là mần non tương lai của đất nước góp phần xây dựng đất nước ta vững manh hợn. Trong cuộc sống muốn đạt được hiệu quả tốt trong giao tiếp trong mọi chuyện dù là làm ăn buôn bán kinh doanh hay trong việc ứng xử với người thân bạn bè xung quanh mình thì con người cũng cần phải học tập rất nhiều, không thể bạ đâu nói đấy, ăn uống không ý tứ không biết nhìn trước ngó sau chỉ nghĩ tới bản thân mình. Đối với những người bề trên trong giao tiếp ứng xử ta cần phải hiếu kính, tôn trọng việc đó thể hiện qua ngôn ngữ qua những cử chỉ hành động dù là nhỏ nhặt nhưng lại nói lên văn hóa ứng xử của mỗi chúng ta. Khi nói chuyện với người trên ta cần phải biết câu nào nên nói ra câu nào là cấm kỵ không nên nói bởi có những câu nói ta nói với bạn bè bằng ngang phải lứa, cùng tuổi thì không sao. Nhưng nếu nói với người lớn tuổi thì sẽ là hỗn hào, xấc láo… Chính vì vây dù chỉ là ăn, là nói nhưng cũng cần phải học hỏi rất nhiều. Xem thêm: Tưởng tượng câu chuyện sau khi Trọng Thủy tự tử và gặp Mị Châu ở thủy cung Câu tục ngữ “Học ăn học nói học gói học mở” chính là một lời dạy một lời khuyên nhằm giúp cho con cháu chúng ta cần phải biết ứng xử văn mình, có học thức, đừng làm những điều thất lễ, thiếu văn hóa với người khác, ứng xử thiếu văn minh nơi công cộng. Mỗi chúng ta nếu muốn thành công trong cuộc sống ngoài việc học tập tích lũy tri thức thì chúng ta cần phải học làm người để có được một cách ứng xử lịch thiệp có văn hóa được người khác yêu mến. Điều đó dễ dàng tạo thành lợi thế cho chúng ta trong việc gây được thiện cảm với người xung quanh, làm việc gì cũng dẽ dàng hơn.
Assignment From ancient times until now, our grandparents have always attached great importance to a person's daily living and polite behavior, because it is through daily actions, words and gestures, no matter how small, that will show personality as well as character. character of a person. Since then, our grandparents have had the saying "Learn to eat, learn to speak, learn to package, learn to open" to advise their children and grandchildren to pay attention to the smallest things from speech and language. You also need to study every day. This proverb wants to teach us to live tactfully and politely, showing that we are respectful, educated people who know how to treat people in life. You should not eat or drink by ordinary people, or chew loudly while eating, or laugh carelessly in public places. When eating and drinking, even if it is a very small thing, just chewing and swallowing, anyone can do it, but eating habits, shows the character and personality of a person. Grandparents often say that when you eat, you have to look after the pot, but when you sit, you have to look at the direction... In life, words seem like something innocuous but have extremely great personal value. That's why our grandparents often choose their words to please each other, or their words are like a packet of gold... to show the importance of words in life's interactions. Sometimes words lift people up, sometimes they sink people down to the black mud. Words play a huge role in life, so choosing the right words is extremely necessary. See more: Lesson preparation Structural forms of expository text for grade 10 Learning to eat, learn to speak, learning packages, school open The proverb "Learn to eat, learn to speak, learn to package, learn to open" is an extremely true and profound saying. It teaches each of us, whether we do big or small things, to maintain our core qualities and not to be confused by our emotions and become people who do not know how to behave tactfully in life. In any aspect of life, we need to learn to improve ourselves, turning ourselves into a person with enough humanity, will, courage... worthy of being the future of the country, contributing to building the country. Our country is stronger and stronger. In life, if you want to achieve good results in communication in everything, whether in business or in dealing with relatives and friends around you, people also need to learn a lot, they cannot fail. That's not to say, eat and drink carelessly, don't know what to look forward to, only think about yourself. When dealing with superiors, we need to be respectful and respectful, which is expressed through language through small gestures and actions that speak to each of us's behavioral culture. When talking to someone above us, we need to know which sentences should be said and which are taboo sentences that should not be said because there are sentences that are okay if we say to friends of the same age. But if you talk to older people, it will be arrogant and insolent... That's why even if it's just eating or talking, you still need to learn a lot. See more: Imagine the story after Trong Thuy committed suicide and met Mi Chau at the aquarium The proverb "Learn to eat, learn to speak, learn to learn in an open package" is a teaching and advice to help our children and grandchildren need to know how to behave civilly, be educated, and not do rude or uncultured things. with others, behave uncivilized in public. If each of us wants to be successful in life, in addition to studying and accumulating knowledge, we need to learn to be human in order to have a polite and cultured way of behaving that is loved by others. That easily creates an advantage for us in gaining sympathy from those around us, making everything easier.
Bài làm Trong cuộc sống của mỗi con người chúng ta sẽ có những lúc chúng ta gặp những khó khăn sóng gió mà những kiến thức trong sách vở không giúp chúng ta giải quyết được những khó khăn của mình. Những khó khăn đó chỉ có thể giải quyết được bằng những kinh nghiệm trong thức tế cuộc sống mà thôi. Chính vì vậy ông bà ta thường khuyên con cháu mình rằng “Đi một ngày đàng học một sàng khôn” với mong ước con cháu của mình hãy đi ra ngoài học hỏi thật nhiều kiến thức từ thực tế cuộc sống từ đó sẽ đúc kết được những kinh nghiệm cho riêng mình. Câu tục ngữ “Đi một ngày đàng học một sàng khôn” này nếu được diễn giải theo ý nghĩa thuần túy giản đơn nhất đó chính là việc chúng ta đi ra ngoài khi đi một ngày đàng sẽ học thêm được một sàng kiến thức. Sàng chính là một dụng cụ trong nông nghiệp mà ông bà ta thường dùng đựng các đồ nông sản như thóc, đỗ, lạc… Thông qua câu tục ngữ ông cha ta thời xưa muốn con cháu mình hãy năng động hơn trong cuộc sống, chịu khó đi nhiều nơi và học tập những kiến thức sống những cái hay cái đẹp của thiên hạ về làm kinh nghiệm quý báu cho riêng mình. Bởi trong cuộc sống con người có rất nhiều kiến thức chỉ có thể học từ thực tiễn cuộc sống không phải chỉ học qua sách vở là đã đủ, có nhiều kinh nghiệm cuộc sống chỉ khi nào chúng ta thật sự hiểu được hết cuộc sống thì mới hiểu được ý nghĩa của nó. Xem thêm: Phân tích bài thơ “Con cò mà đi ăn đêm” Bình luận câu tục ngữ Đi một ngày đàng học một sàng khôn Mỗi con người chúng ta nếu muốn thành công, muốn thực hiện được những ước mơ lý tưởng sống của mình, thì không nên chỉ ngồi trong xó nhà mà suy nghĩ về tương lai hoặc dệt lên những ước mơ hoài bão lớn lao mà không bao giờ dám thực hiện, để cho ước mơ của mình thành hiện thực. Nếu chúng ta nếu chúng ta chỉ suốt ngày quanh quẩn ở nhà thì không thể nào học hỏi được những điều hay lẽ phải trong cuộc sống, từ thiên hạ để phát triển khả năng của chính rồi từ đó sẽ giúp cho chúng ta thực hiện được những ước mơ của chính mình. Khi chúng ta đi ra ngoài cuộc sống chúng ta có thể học từ những người xung quanh của mình những điều hay, những kinh nghiệm sống quý báu để chúng ta có thể pháp huy được những kinh nghiệm của mình áp dụng vào cuộc sống. Nguồn kiến thức của cuộc sống là vô hạn nếu chúng ta chịu khó đi ra ngoài và học tập kinh nghiệm sống của những người xung quanh thì chúng ta sẽ có được nhiều kiến thức bổ ích. Câu tục ngữ “Đi một ngày đàng học một sàng khôn” đó chính là một lời khuyên đúng đắn có ích mà chúng ta nên học tập bởi đó là một câu nói ý nghĩa muốn khuyên con cháu mình nên mở rộng mối quan hệ, mở rộng nguồn kiến thức để tiếp thu được những điều tốt đẹp từ cuộc sống bên ngoài. Xem thêm: Viết đoạn văn tả lớp em đang học Trong lịch sử của dân tộc ta nếu như ngày xưa Bác Hồ không bôn ba khắp nơi đi nhiều nước trên thế giới thì không thể nào tiếp thu được con đường cách mạng tháng 10 Nga, dân tộc Việt Nam cũng không tìm thấy con đường giải phóng cho mình để có thể tiêu diệt được hai kẻ thù lớn mạnh là Pháp và Mỹ. Khi chúng ta đi ra ngoài sẽ có thể thấy nhiều bài học sống khác nhau, thấy những con người khác nhau và tìm được cho mình một lối sống phù hợp. Trong cuộc sống có rất nhiều con người nhân hậu luôn mở lòng mình để giúp đỡ cho những người xung quanh với tấm lòng bình đẳng bác ái. Câu tục ngữ “Đi một ngày đàng học một sàng khôn” chính là chân lý để chúng ta noi theo và học tập một truyền thống tốt đẹp quý báu của ông bà ta truyền lại cho con cháu của mình. Nếu bạn muốn thành công muốn thực hiện được những ước mơ hoài bão của mình thì không có gì ngoài việc bạn phải đi ra khỏi nhà và học những điều hay lẽ phải từ cuộc sống rồi từ đó thực hiện những ước mơ của mình.
Assignment In the lives of each of us, there will be times when we encounter difficulties and the knowledge in books does not help us solve our difficulties. Those difficulties can only be resolved through real life experiences. That's why our grandparents often advise their children and grandchildren that "One day of learning is a whole lot of wisdom" with the hope that their children and grandchildren will go out and learn a lot of knowledge from real life and from there they will be able to draw conclusions. experiences for yourself. This proverb "If you go out for a day, you will learn a sieve of wisdom", if interpreted in its purest and simplest meaning, it means that when we go out for a day, we will learn a sieve of knowledge. Sieve is an agricultural tool that our grandparents often use to store agricultural products such as rice, beans, peanuts... Through the proverb, our ancestors in ancient times wanted their children and grandchildren to be more active in life, willing to go to many places and learn the knowledge of life, the beauty of the world, and make it their own valuable experience. me. Because in human life there is a lot of knowledge that can only be learned from real life, not just learning through books is enough. Having a lot of life experiences is only when we truly understand all of life. only understand its meaning. See more: Analysis of the poem "The stork that goes out to eat at night" Comment on the proverb: Take a day's journey and learn a sieve of wisdom If each of us wants to be successful and realize our ideal life dreams, we should not just sit in the corner of the house thinking about the future or weaving great dreams and ambitions without ever thinking about it. Now dare to do it, let your dream come true. If we just stay at home all day, we will not be able to learn good things in life, from people to develop our own abilities and then help us achieve our goals. your own dreams. When we go out in life, we can learn from the people around us good things and valuable life experiences so that we can apply our experiences to life. The source of knowledge in life is limitless. If we take the time to go out and learn from the life experiences of those around us, we will gain a lot of useful knowledge. The proverb "One day's journey to learn one's wisdom" is a correct and useful advice that we should learn because it is a meaningful saying that advises our children and grandchildren to expand their relationships and open up their relationships. Expand your knowledge source to absorb good things from outside life. See more: Write a paragraph describing the class you are studying In the history of our nation, if in the past Uncle Ho had not traveled everywhere to many countries around the world, he would not have been able to absorb the path of the Russian October Revolution, and the Vietnamese people would not have found a way to solve the problem. launch yourself to be able to destroy two powerful enemies, France and America. When we go out, we can see many different life lessons, see different people and find a suitable lifestyle for ourselves. In life, there are many kind people who always open their hearts to help those around them with a heart of equality and charity. The proverb "One day's journey, one day's journey, one sieve of wisdom" is the truth for us to follow and learn from a beautiful, precious tradition that our grandparents passed on to their children and grandchildren. If you want to be successful and realize your dreams, there is nothing but you have to go out of your home and learn good things from life and then realize your dreams.
Bài làm Trong kho tàng cao dao dân ca của Việt Nam có nhiều câu nói mà người xưa thường đúc kết tích lũy những kinh nghiệm của mình gửi lại cho con cháu mai sau như một món quà vô giá có ý nghĩa vô cùng to lớn. Trong đó, có câu tục ngữ “Ăn cỗ đi trước lội nước theo sau” câu nói này nhằm khuyên nhủ con cháu mình khả năng ứng biến khi có những sóng gió xảy ra. Nhưng câu tục ngữ này đem sử dụng so sánh với những gì xảy ra trong bối cảnh cuộc sống hiện đại hôm nay thì không còn đúng đắn mà nó có nhiều điều đáng để cho chúng ta phải suy nghĩ. Câu tục ngữ chính là một sự phê phán với những kẻ cơ hội chỉ nhăm nhe chú ý tới lợi ích của mình mà không bao giờ muốn mình phải chịu thiệt thòi phải xông pha mở đường. Nếu ai cũng ích kỷ như vậy thì cuộc sống sẽ toàn những kẻ cơ hội ích kỷ hèn nhát mà thôi. Trong cuộc sống ông bà ta thường khuyên con cháu mình những chân lý tốt đẹp, như uống nước thì phải nhớ nguồn hoặc nhưng tư tưởng thể hiện tình thần đoàn kết yêu thương chia sẻ lẫn nhau trong cuộc sống nhưng câu tục ngữ “Ăn cỗ đi trước lội nước theo sau” không nằm trong những câu tục ngữ đáng để cho chúng ta phải học tập noi theo bởi nó chính là một câu tục ngữ mỉa mai châm biếm, nếu chúng ta học tập theo câu tục ngữ này thì sẽ chỉ học được thói khôn lỏi, khôn vặt ích kỷ mà thôi. Xem thêm: Viết đoạn văn bình luận chủ đề: Biết và hiểu là cần để làm theo, đi theo, nhưng phải biết tưởng tượng mới sáng tạo được cái mới Bình luận câu tục ngữ Ăn cỗ đi trước lội nước theo sau Câu tục ngữ “Ăn cỗ đi trước lội nước theo sau” theo nghĩa đen thì ám chỉ khi chúng ta đi ăn cỗ thì nên đi sớm sẽ có thể ăn được món ăn ngon nóng hổi,còn lội nước theo sau vì nếu đi trước nếu nước sau thì có thể ảnh hưởng tới tính mạng của mình. Nếu xét trong diện hẹp chỉ xét theo nghĩa đơn giản thuần túy của câu tục ngữ thì sẽ thấy rằng câu nói này có thể áp dụng được trong một số trường hợp cụ thể và chỉ nên hiểu theo nghĩa hẹp mà thôi, bởi nó cũng có giá trị đúng đắn của riêng mình. Nhưng nếu xét theo nghĩa rộng của câu tục ngữ sẽ cho chúng ta thấy được những mặt hạn chế của câu tục ngữ “Ăn cỗ đi trước lội nước theo sau” Câu nói này nếu nhân rộng ra thì sẽ cho chúng ta thấy một con người khôn vặt, nhỏ mọn và ích kỷ chỉ biết nhăm nhe nghĩ tới lợi ích của bản thân mình mà không quan tâm tới lợi ích của người xung quanh hoặc làm ảnh hưởng tới lợi ích của người xung quanh để mình có lợi . Luôn đẩy những việc khó khăn gian khổ cho người khác còn mình thì hưởng an nhàn sung sướng. Nhưng nếu ai cũng nghĩ ích kỷ chỉ quan tâm tới cuộc sống của mình mà không quan tâm tới người xung quanh, không muốn là người xông pha đi vào những chỗ nguy hiểm thì ai sẽ là người lội nước đi trước. Trong khi đó trong làng xã có hội hè đình đám ai cũng nhăm nhe đi trước để được ăn cỗ ngon thì chẳng ai chịu đi muộn đến sau sẽ gây ra tình trang quá tải khó sắp xếp chỗ ngồi cho khách tới ăn cỗ. Xem thêm: Suy nghĩ về lòng yêu nước và trách nhiệm của thế hệ trẻ Nếu một xã hội mà con người ai cũng chỉ quan tâm khôn vặt chỉ chăm lo cho cuộc sống của mình như vậy thì cuộc sống sẽ không có những người biết sống đẹp, biết chia sẻ những gì mình có với sự khó khăn của người khác. Mỗi chúng ta cần phải biết hy sinh vì những lợi ích chung vì những người xung quanh của mình, không nên chỉ quan tâm tới lợi ích của riêng mình. Câu tục ngữ còn phê phán những con người hám lợi luôn chỉ cầu may mắn cho mình còn mặc kệ những người xugn quanh đùn đẩy trách nhiệm nặng nhọc cho người khác. Những con người như vậy không thể tồn tại trong một xã hội đoàn kết biết yêu thương sẻ chia lẫn nhau. Câu tục ngữ “Ăn cỗ đi trước lội nước theo sau” chính là một câu tục ngữ muốn mỉa mai những kẻ mánh khóe, chỉ chờ cơ hội để trục lợi cho cá nhân của mình mà không quan tâm tới những lợi ích chung. Nhưng con người như vậy cần phải được loại bỏ ra khỏi cuộc sống xã hội của chúng ta. Những con người như vậy sẽ bị mọi người xa lánh,đơn độc bởi chính sự ích kỷ của họ.
Assignment In the treasury of Vietnamese folk songs, there are many sayings that the ancients often summarized and passed on to their future descendants as priceless gifts of great significance. Among them, there is a proverb "Eat the food, go first, wade in the water, follow" This saying is to advise our children and grandchildren to be able to improvise when storms occur. But this proverb when compared with what happens in the context of modern life today is no longer correct, but it has many things worth thinking about. The proverb is a criticism of opportunists who only pay attention to their own interests and never want to suffer the disadvantage of having to rush in and pave the way. If everyone was that selfish, life would be full of selfish and cowardly opportunists. In life, grandparents often advise their children and grandchildren about good truths, such as remembering the source when drinking water, or ideas that express the spirit of solidarity, love, and sharing with each other in life, such as the proverb "Eat a feast." Go ahead and follow the water" is not one of the proverbs worth learning to follow because it is an ironic proverb. If we study this proverb, it will only Just learn to be clever and selfish. See more: Write a paragraph commenting on the topic: Knowing and understanding is necessary to follow, but you must know how to imagine to create new things Comment on the proverb: Eat the feast, go first, wade in the water, and follow The proverb "Eat the feast first, wade in the water and follow" literally means that when we go out to eat, we should go early to be able to eat delicious hot food, and wade in the water and follow because if we go first, we will not be able to eat. The next step can affect your life. If we consider in a narrow sense only the pure and simple meaning of the proverb, we will see that this saying can be applied in a number of specific cases and should only be understood in a narrow sense, because it also has own true values. But if we consider the broad meaning of the proverb, it will show us the limitations of the proverb "Eat the meal first, wade in the water later" If this statement is expanded, it will show us a cunning, petty and selfish person who only cares about his own benefits without caring about the benefits of those around him or affecting him. Affect the interests of those around you to benefit yourself. Always push the difficult and arduous tasks to others while you enjoy peace and happiness. But if everyone thinks selfishly, they only care about their own lives and don't care about those around them, and don't want to be the one to rush into dangerous places, then who will be the one to wade through the water first. Meanwhile, in a village where there is a famous festival, everyone wants to go first to have a delicious meal, but no one is willing to come late, which will cause overcrowding and make it difficult to arrange seats for guests to eat. See more: Thinking about patriotism and responsibility of the young generation If there was a society where everyone only cares about their own lives, then life would not have people who know how to live beautifully, who know how to share what they have with the difficulties of others. . Each of us needs to know how to sacrifice for the common good of those around us, and not only care about our own interests. The proverb also criticizes mercenary people who always only pray for luck for themselves and ignore those around them, pushing heavy responsibilities onto others. Such people cannot exist in a united society that knows how to love and share with each other. The proverb "Eat first, walk in the water and follow" is a proverb that wants to sarcasm those who are tricksters, just waiting for an opportunity to profit for themselves without paying attention to the common interests. But such people need to be eliminated from our social life. Such people will be shunned by everyone and alone because of their selfishness.
Bài làm Trong kho tàng ca dao tục ngữ của nước ta có rất nhiều câu nói hay mà ông bà ta thường gửi tới nhằm khuyên nhủ con cái của mình lấy đó là bài học đúc kết cho những kinh nghiệm sống của mình, lấy đó làm khuôn mẫu cho ứng xử trong xã hội cuộc sống. Câu tục ngữ “Ăn cây nào rào cây ấy” nhằm khuyên nhủ mỗi chúng ta phải biết vun vén chăm sóc cho những gì mình đang có, đáng làm thì mới mong gặt hái được nhiều thành công và đạt được thành quả như mong đợi. Câu tục ngữ “Ăn cây nào rào cây ấy” có những mặt đúng đắn bởi nó bởi nếu chúng ta làm việc, học tập trong bất kỳ một môi trường nào nếu như không biết chăm sóc, vun vén cho thành quả lao động của mình, cho tập thể nơi mà mình đang sống thì sẽ không bao giờ đạt được thành quả như mong muốn. Càng những gì mình phải chăm sóc vun xới tốn nhiều công sức và nhiệt huyết thì khi gặt hái được nhiều hoa thơm quả ngọt chúng ta càng trân trọng những thành quả của mình. Khi chúng ta trồng một cái cây nếu chúng ta không vun xới, rào vào cho nó thì thành quả lao động của chúng ta sẽ bị động hoang dã phá hủy. Bình luận câu tục ngữ Ăn cây nào rào cây ấy Câu tục ngữ “Ăn cây nào rào cây ấy” hoàn toàn đúng với những người lao động nông dân ngày xưa thì câu nói này hoàn toàn đúng với cuộc sống của chúng ta.Với nước ta là một nền văn minh lúa nước hơn 70% người dân của chúng ta đều làm việc đồng áng gắn liền với đồng ruồng, chăm sóc cây trồng…chính vì vậy việc chăm sóc vun xới cho thành quả của mình là hoàn toàn đúng. Câu tục ngữ chính là sự vun vén, chăm sóc của người nông dân về những thành quả của mình không để cho người khác phá hoại tới những thành quả của mình trở thành tốn công vô ích. Xem thêm: Chính tả: Nghe – viết: Âm thanh thành phố – Phân biệt ui/uôi, d/gi/r, ăt/ăc Trong cuộc sống con người câu tục ngữ “Ăn cây nào rào cây ấy” không hoàn toàn đúng đắn bởi nó có chút ích kỷ và không có sự chia sẻ tương tác giữa con người với con người dành cho nhau. Nếu mở rộng câu nói ấy thì mỗi con người chúng ta sẽ chỉ quan tâm tới lợi ích của cá nhân mình mà không quan tâm tới những gì người xung quanh. Nếu lối sống ấy được hình thành thì con người ta dần dần hình thành lối sống ích kỷ vô cảm trước cuộc sống Với tinh thần của câu tục ngữ “Ăn cây nào rào cây ấy” sẽ thành lối sống ích kỷ mất đoàn kết, không biết chia sẻ, không có sự đồng cảm giúp đỡ với những người xung quanh trong cộng đồng của mình. Nếu con người chúng ta chỉ biết nghĩ tới câu tục ngữ “Ăn cây nào rào cây ấy” thì conn người sẽ sống ki bo chỉ biết bo bo giữ của cho riêng mình và sống theo lối sống chỉ chăm sóc lợi ích của mình còn của người xung quanh thì mặc kệ dù có bị phá hủy hỏng hóc thì cũng mặc kệ không quan tâm chăm sóc. Cái gì vì lợi ích của mình thì quan tâm vun xới, chăm sóc vô cùng tỉ mỉ, nhưng những gì không liên quan tới lợi ích của mình thì bỏ bừa bãi, quăng quật không quan tâm tới nó sống vô trách nhiệm ích kỷ, lối sống này vô cùng đáng lên án bởi nó làm cho chúng ta sống vô tâm trước cuộc sống. Xem thêm: Soạn bài Chọn sự việc chi tiết tiêu biểu trong văn tự sự lớp 10 đầy đủ hay nhất Trong cuộc sống xã hôi hiện đại mỗi chúng ta đều là một cá nhân trong một tập thể nào đó, con người chúng ta đều có nhiều mối quan hệ nếu chúng ta không sống vì mọi người mà chỉ quan tâm tới lợi ích của mình. Nếu như tất cả con người sống trong xã hội chỉ luôn quan tâm tới những lợi ích của mình mà không quan tâm tới những người xung quanh thì cuộc sống thật sự đáng buồn và đáng sợ biết bao. Một xã hội phát triển là một xã hội mà những cá nhân trong đó đều cùng phát triển còn nếu con người chỉ quan tâm tới mình mà không quan tâm tới xung quanh tới cái chung thì vô tình chung sẽ làm cho xã hội bị đẩy lùi. Một đất nước muốn ngày càng giàu có, lớn mạnh thì phải đoàn kết cùng nhau hát triển tạo ra thật nhiều của cải cho xã hội ngày càng phát triển lớn mạnh giàu có hơn. Quan điểm của câu tục ngữ “Ăn cây nào rào cây ấy” cần phải loại bỏ khỏi cuộc sống của mỗi chúng ta để cùng nhau phát triển giàu mạnh hơn.
Assignment In our country's treasure trove of folk songs and proverbs, there are many beautiful sayings that our grandparents often send to advise their children to take them as lessons for their own life experiences, and to use them as models. for behavior in social life. The proverb "Eat a tree you will fence" is intended to advise each of us to know how to cultivate and take care of what we have, worth doing in order to expect to reap much success and achieve the expected results. The proverb "Eat a tree you will fence" has its correct aspects because if we work and study in any environment if we do not know how to care for and cultivate the fruits of our labor. , for the group where we live, we will never achieve the desired results. The more effort and enthusiasm we have to take care of and cultivate, the more we will appreciate our achievements when we reap many fragrant flowers and fruits. When we plant a tree, if we do not cultivate and fence it, the fruits of our labor will be destroyed by the wild. Comment on the proverb "Eat a tree, fence a tree". The proverb "Eat a tree, fence a tree" is completely true for the peasant workers of the past, this saying is completely true for our lives. Our country is a wet rice civilization of more than 70%. Our people all work in the fields, taking care of the crops... that's why it's absolutely right to take care of your own achievements. The proverb is that the farmer's nurturing and caring for his achievements does not let others destroy his achievements, making it a waste of effort. See more: Spelling: Listening - writing: City sounds - Distinguishing ui/uoi, d/gi/r, at/ac In human life, the proverb "Eat a tree, fence a tree" is not entirely correct because it is a bit selfish and there is no shared interaction between people and each other. If we expand that statement, each of us will only care about our own personal interests and not care about what people around us do. If that lifestyle is formed, people will gradually form a selfish lifestyle indifferent to life In the spirit of the proverb "Eat a tree, fence a tree" will lead to a selfish lifestyle of disunity, not knowing how to share, and not having empathy to help those around you in your community. If we humans only know how to think about the proverb "Eat a tree, fence around a tree", then people will live a frugal life, only knowing how to protect their own property and live a lifestyle that only takes care of their own interests and property. People around you don't care if it's destroyed or damaged. Whatever is for your own benefit, you should cultivate and take care of it meticulously, but what is not related to your benefit should be left haphazardly, thrown away without caring about it, and living irresponsibly and selfishly. This lifestyle is extremely condemnable because it makes us live indifferently to life. See more: Essay preparation Choose typical detailed events in the best complete 10th grade narrative In modern social life, each of us is an individual in a certain group. We humans have many relationships if we do not live for everyone but only care about our own interests. If all people living in society only care about their own interests and do not care about those around them, how sad and scary life would truly be. A developed society is a society in which the individuals in it all develop together. If people only care about themselves and do not care about their surroundings or the common good, then the common will will cause the society to be pushed back. . If a country wants to become increasingly rich and strong, it must unite and develop together to create a lot of wealth for society to grow stronger and richer. The perspective of the proverb "If you eat a tree, you will fence" needs to be eliminated from each of our lives to grow richer and stronger together.
Bài làm Từ thời xa xưa ông bà ta đã nhìn nhận vào đánh giá con người vô cùng đúng đắn. Ông cha thường coi trọng nội dung hơn hình thức, quan trọng là cái nết na tính cách hiền lương hơn là vẻ đẹp bên ngoài. Vì vậy mới có câu nói “Tốt gỗ hơn tốt nước sơn” đó chính là một cách để đánh giá cho phẩm chất nhân cách của co người thời xưa. Câu tục ngữ “Tốt gỗ hơn tốt nước sơn” thật ngắn gọn xúc tích nhưng lại mang tới cho chúng ta nhiều bài học kinh nghiệm sống quý giá bởi đó chính là một lời khuyên chân thành giản dị mà ông cha ta đã đúc kết qua nhiều thê hệ. Trong cuộc sống hàng ngày tốt gỗ hơn tốt nước sơn thể hiện qua việc chúng ta lựa chọn đồ gỗ, giường tủ, bàn ghế, khi chúng ta chọn một bộ đồ gỗ chất liệu gỗ tốt bền chắc thì sử dụng sẽ được lâu dài hơn rất nhiều việc chúng ta chỉ lựa chọn hình thực đẹp bên ngoài mà chất liệu gỗ không tốt chỉ là gỗ công nghiệp, gỗ ép hoặc gỗ tạp thì chỉ được được một thời gian ngắn đồ dùng của chúng ta phải thay thế bằng một cái mới, vừa tốn tiền vừa mất thời gian. Tốt gỗ là gì? Tốt gõ đó chính là một món đồ gia dụng làm bằng một cây gỗ tốt lâu năm, thớ thịt chắc chắn thì sẽ sử dụng được lâu bền. Còn nếu xét nghĩa rộng hơn tốt gỗ chính là con người, mỗi con người quan trọng nhất là tính cách tâm hồn bên trong chứ không phải là vẻ đẹp hình thức bên ngoài. Tốt nước sơn là gì? Đó chính là hình thức bên ngoài, là nước sơn màu sáng loáng trên những đồ vật được làm bằng gỗ nước sơn sáng bóng khiến cho những đồ gia dụng của chúng ta trở nên bắt mắt hấp dẫn người nhìn hơn. Còn con người nếu có vẻ đẹp hình thức thường thu hút người khác hơn tạo nên sự hấp dẫn ban đầu. Nhiều loại đồ gỗ được làm từ loại gỗ kém chất lượng nhưng lại được sơn một nước sơn sáng loáng bắt mắt đánh lừa người tiêu dùng, khiến cho người tiêu dùng bị nước sơn sáng bóng kia mê hoặc mà mua nhầm một món đồ kém chất lượng. Đối với con người nếu chúng ta chỉ nhăm nhe quan tâm tới hình thức bên ngoài mà không quan tâm tới nội dung tính cách bên trọng, cứ thấy vẻ đẹp bên ngoài là hấp dẫn và muốn tiếp xúc, làm thân, kết bạn, thì sớm muộn chúng ta sẽ phải nhận những hậu quả đáng tiếc. Xem thêm: Giải thích câu tục ngữ mà em tâm đắc nhất lớp 7 - Ăn quả nhớ kẻ trồng cây Bình luận câu tục ngữ Tốt gỗ hơn tốt nước sơn Câu tục ngữ “Tốt gỗ hơn tốt nước sơn” chính là một câu nói muốn khuyên con người chúng ta hãy thận trọng trước những thứ có vẻ đẹp bên ngoài bắt mắt mà nội dung bên trong không ra gì. Cũng như việc lựa chọn bạn bè, bạn đời điều quan trọng nhất là nội dung tính cách con người bên trong không phải là vẻ đẹp hình thức bên ngoài.Một người dù có đẹp tới đâu nhưng nếu không có đức tính nhân hậu, lương thiện, biết chia sẻ thì cũng không thể là một người tốt. Một con người đẹp nhưng lại sống ích kỷ, đố kỵ , giả đối, lừa lọc thì đó thật sự là một con người chúng ta cần phải tránh xa, nếu không muốn nhận lấy những bài học đau thương cho mình. Câu tục ngữ này thật sự là một bài học đúng đắn, mọi sự vật hiện tượng chúng ta cần phải xem rõ bản chất bên trong, khi lựa chọn bất cứ một điều gì chúng ta cũng cần phải quan trọng nội dung bên trong chứ không phải chỉ nhìn ngắm vẻ đẹp bên ngoài mà đã vội vàng quyết định. Nếu chúng ta mua nhần một mòn đồ gỗ kém chất lượng chúng ta có thể mất tiền, nhưng nếu chọn nhầm người, nhầm bạn, thì chúng ta sẽ mất nhiều thứ hơn. Bất cứ một vẻ đẹp hình thức nào rồi cũng theo thời gian mà tàn phai, cũ kỹ đi nhưng chỉ có vẻ đẹp bên trong thì còn mãi không bao giờ phai nhạt đi mà thôi. Chúng ta thấy được câu tục ngữ “Tốt gỗ hơn tốt nước sơn” chính là một phương châm sống mà ông cha ta phải rèn luyện đúc kết cả một đời người mới có thể rút ra bài học sâu sắc thấm thía tới như vậy. Xem thêm: Phân tích tác phẩm Uy-Lít-Xơ trở về Mỗi chúng ta đừng vì mải mê chạy theo hình thức bên ngoài của mọi vật mà quên đi vẻ đẹp của bên trọng của những điều tốt đẹp nết na phẩm hanh nhân cách của một con người. Bởi những điều bên trong đó mới tạo nên giá trị vững vàng cho con người, cũng như một món đồ gỗ thì chất liệu gỗ chính là cốt lõi của sản phẩm. Tuy nhiên, trong cuộc sống hiện đại chúng ta cần phải mở rộng hơn nếu như một món sản phẩm tốt nhưng vẻ ngoài thật sự xù xì xấu xí thì ít được người để ý bởi họ chưa nhìn ra vẻ đẹp tiềm ẩn bên trong khối gỗ xù xì kia. Chính vì vậy muốn được chú ý được yêu mến chúng ta cũng cần phải cho người ta thấy được những phẩm chất tốt đẹp bên trong mình.
Assignment Since ancient times, our grandparents have recognized and evaluated people extremely correctly. Fathers often value content more than form, and are more important than good character and kindness than external beauty. That's why there is a saying "Good wood is better than good paint" which is a way to evaluate the personality qualities of ancient people. The proverb "Good wood is better than good paint" is short and concise but brings us many valuable life lessons because it is a simple, sincere advice that our ancestors have learned. many generations. In everyday life, good wood is better than good paint, which is reflected in our choice of wooden furniture, beds, cabinets, tables and chairs. When we choose a set of wooden furniture made of good and durable wood, it will last longer. In many cases, we only choose a beautiful exterior, but the wood material is not good, just industrial wood, pressed wood or mixed wood, then it only lasts for a short time and our furniture has to be replaced with a new one. , both a waste of money and a waste of time. What is good wood? Good wood is a household item made of good old wood with strong fibers that will last for a long time. If we consider a broader meaning, good wood is a person, the most important thing for each person is their inner soul and personality, not their external beauty. What is good paint? It is the appearance, the shiny paint on objects made of wood, the shiny paint makes our household appliances more eye-catching and attractive to viewers. As for people, if they have physical beauty, they often attract others more, creating the initial attraction. Many types of wooden furniture are made from poor quality wood but are painted with an eye-catching shiny paint that deceives consumers, causing consumers to be fascinated by the shiny paint and mistakenly buy a poor quality item. quantity. For humans, if we only care about external appearance without paying attention to the content of inner personality, just find external beauty attractive and want to contact, become close, and make friends, then Sooner or later we will have to receive unfortunate consequences. See more: Explain the proverb that I like the most in grade 7 - When you eat fruit, remember the person who planted the tree Comment on the proverb Better wood is better than good paint The proverb "Better wood than good paint" is a saying that advises us humans to be cautious of things that have eye-catching external beauty but have nothing on the inside. Just like choosing friends and life partners, the most important thing is the content of a person's inner personality, not the external beauty. No matter how beautiful a person is, if they do not have the qualities of kindness and honesty, being kind and knowing how to share cannot be a good person. A beautiful person who is selfish, jealous, fake, and deceitful is truly a person we need to stay away from, if we do not want to receive painful lessons for ourselves. This proverb is truly a true lesson. We need to see clearly the inner nature of all things and phenomena. When choosing anything, we need to pay attention to the content inside, not the content. I had to just look at the external beauty and make a hasty decision. If we buy a piece of poor quality wooden furniture, we may lose money, but if we choose the wrong person, the wrong friend, we will lose more. Any form of beauty will fade and become old over time, but only inner beauty will never fade away. We see that the proverb "Better wood than good paint" is a life motto that our ancestors had to practice for a lifetime to be able to learn such a profound lesson. See more: Analysis of the work Uy-Lit-Xu Returns Each of us should not be so engrossed in chasing after the external appearance of things that we forget the inner beauty of the good things and the dignity of a human being. Because it is the things inside that create solid value for people, just like a piece of wooden furniture, the wood material is the core of the product. However, in modern life we ​​need to be more open. If a product is good but has a really rough and ugly appearance, few people will notice it because they do not see the hidden beauty inside the block of wood. that rough. That's why, if we want to be noticed and loved, we also need to show people the good qualities within us.
Bài làm Ông cha ta từ xưa tới nay vẫn thường truyền dạy cho con cháu của mình nhiều bài học kinh nghiệm dành cho con cháu của mình. Những bài học kinh nghiệm mà ông cha đã truyền lại cho con cháu luôn có những giá trị vô cùng to lớn. Ông cha ta thường dạy con cháu mình tinh thần tương thân tương ái, ăn ở hiền lành. Câu tục ngữ “Ở hiền gặp lành” nhằm giáo dục con cháu mình phải ăn ở hiền lành phúc đức, đó chính là chân lý sống đáng quý, mỗi chúng ta nên ghi nhớ lời dạy của ông cha ta để lại. Ở hiền gặp lành là gì? Ở hiền có nghĩa là một người ăn ở hiền lành, nhân hậu phúc đức thì nhất định sẽ gặp được những điều tốt đẹp hiền lành trong cuộc sống, đối xử với những người xung quanh mình thật lòng, hiền lương bằng tấm lòng bao dung. Những người hiền lành sẽ khôn bao giờ làm hại người khác từ suy nghĩ tới việc làm họ luôn bao dung nhân hậu với người khác, luôn nghĩ tới lợi ích của tập thể chứ không tư lợi cho cá nhân mình âm mưu thủ đoạn. “Ở hiền gặp lành” đó là khi chúng ta làm những điều tốt đẹp thì con người chúng ta sẽ gặp được những điều may mắn, phước lành trong cuộc sống. Khi chúng ta có lòng nhân hậu biết giúp đỡ người khác khi họ gặp cảnh lâm nguy thì sẽ có ngày nào đó nếu không may chúng ta gặp khó khăn lâm nguy sẽ được người khác giúp đỡ. Ông bà ta muốn thông qua câu tục ngữ “Ở hiền gặp lành” để gửi gắm những suy nghĩ của mình tới con cháu muốn con cháu mình luôn sống hiền lành nhân hậu, biết chia sẻ những khó khăn với những người xung quanh. Xem thêm: Viết bài văn ngắn bàn về việc tại sao phải nâng cao ý thức chấp hành luật lệ giao thông Bình luận câu tục ngữ Ở hiền gặp lành Trong cuộc sống sẽ có nhiều lúc chúng ta cần biết giúp đỡ người khác những hoàn cảnh sống nhiều khó khăn, những nạn nhận chịu tổn thương trong chiến tranh, những người nghèo có mảnh đời bất hạnh cần những bàn tay của người khác giúp đỡ, những lúc như vậy nếu chúng ta chìa bàn tay của mình ra đối với họ thì chúng ta đã làm được một việc tốt tích thêm công đức cho mình và con cái của mình sau này. Những người ở hiền là những người luôn sẵn sàng giúp đỡ người khác mà không mong muốn không cần sự đền đáp nào cả, không đòi hỏi tư lợi họ làm việc tốt chỉ xuất phát từ trái tim nhân hậu lương thiện của mình mà thôi. Tuy nhiên, trong cuộc sống không phải lúc nào ở hiền cũng sẽ gặp lành, mỗi chúng ta cần phải biết trao đi lòng tốt của mình một cách đúng lúc, bởi có nhiều kẻ gian luôn muốn lợi dụng lòng tốt của người khác để kiếm lợi. Nếu chúng ta tiếp tay cho họ có nghĩa chúng ta sẽ là đồng phạm với họ. Với những cái xấu cái ác trong cuộc sống chúng ta cần phải loại bỏ nó để cuộc sống trở nên trong sạch tốt đẹp hơn. Câu tục ngữ “Ở hiền gặp lành” luôn luôn là một chân lý đúng đắn nhưng cần phải áp dụng vào từng tình huống cụ thể, không nên sử dụng sai người sai mục đích. Nếu chúng ta thấy một tên phạm tội đang bị công an truy đuổi và hắn cầu xin ta bao che cho hắn nếu chúng ta giúp đỡ hắn không phải là ở hiền gặp lành, mà chúng ta đang tiếp tay cho tội ác. Chỉ khi chúng ta sử dụng lòng tốt tình thương của mình đúng nơi đúng chỗ thì mới phát huy hiệu quả của nó. Với những người khó khăn hoặc những nạn nhân gặp tai nạn trên đường phố chúng ta không nên tiếc một cuộc điện thoại để kêu cấp cứu giúp họ, hoặc tìm cách giúp đỡ nạn nhân trong lúc khó khăn nguy hiểm tới tính mạng…như vậy mới là ở hiền gặp lành. Đối với những người xung quanh chúng ta nên sống hòa nhã không nên ganh đua bon chen, đó kỵ hiềm khích lẫn nhau, mà đối xử với họ bằng sự chân thành, sự tử tế đới mơi là ở hiền.
Assignment Our ancestors from past to present have often taught their children many lessons and experiences. The lessons that parents have passed on to their children and grandchildren always have great value. Our ancestors often taught their children the spirit of solidarity and kindness. The proverb "Be kind and be good" aims to educate our children and grandchildren to be virtuous and virtuous. That is a precious truth of life. Each of us should remember the teachings left by our ancestors. What is goodness when good comes? Being gentle means that a person who is gentle, kind and virtuous will definitely encounter good and gentle things in life, and will treat the people around him honestly and kindly with a tolerant heart. . Gentle people will never harm others from thought to action. They are always tolerant and kind to others, always thinking about the benefits of the group, not plotting tricks for their own personal gain. "When we are good, good comes" means that when we do good things, we humans will encounter luck and blessings in life. When we have a kind heart and know how to help others when they are in danger, one day, if unfortunately we are in difficulty and in danger, others will help us. Our grandparents want to use the proverb "Be kind and be kind" to convey their thoughts to their children and grandchildren. They want their children and grandchildren to always live a gentle and kind life, knowing how to share difficulties with those around them. See more: Write a short essay discussing why it is important to raise awareness of obeying traffic rules Comment on the proverb Where goodness meets goodness In life there will be many times when we need to know how to help others in difficult living situations, victims of war, poor people with unfortunate lives who need the helping hands of others. At such times, if we extend our hands to them, we have done a good deed and accumulated more merit for ourselves and our children in the future. Kind people are people who are always ready to help others without expecting anything in return, without asking for personal gain, they do good deeds only from their kind and honest hearts. However, in life, being kind does not always bring good things. Each of us needs to know how to give our kindness at the right time, because there are many crooks who always want to take advantage of the kindness of others to make money. profit. If we assist them, it means we will be their accomplices. With the bad and evil things in life we ​​need to eliminate them so that life becomes cleaner and better. The proverb "Good people bring goodness" is always a correct truth, but it needs to be applied to each specific situation, and should not be used by the wrong person for the wrong purpose. If we see a criminal being chased by the police and he begs us to cover for him if we help him, we are not doing good, but we are aiding in crime. Only when we use our kindness and love in the right place will it be effective. For people in difficulty or victims of accidents on the street, we should not hesitate to call an ambulance to help them, or find ways to help victims in times of difficulty and danger to their lives... like that. It's the kindness that meets goodness. With the people around us, we should live in harmony, not compete with each other, that is, avoid and antagonize each other, but treat them with sincerity and kindness, which is simply being gentle.
Bài làm Khi xã hội của chúng ta ngày càng phát triển thì kéo theo sự phát triển đó là rất nhiều tệ nạn xã hội có thể làm ảnh hưởng tới nhân cách đạo đức của các bạn trẻ chúng ta. Những người trẻ thường là những người ham học những cái mới, tính tình còn suy nghĩ chưa chín chắn sốc nổi nên thường thích thể hiện cái tôi cá nhân của mình. Các bạn trẻ cũng thường dễ bị cám dỗ lôi kéo vào các tệ nạn xã hội khiến cho các bạn dần dần sa ngã tuột dốc và đánh mất đi tương lai của tươi đẹp của mình. Vì vậy chúng ta cần nói Không với các tệ nạn xã hội Các tệ nạn xã hội không bao giờ loại trừ bất kỳ một ai nếu chúng ta không cương quyết tránh xa nó, không mạnh mẽ nói không vói các tệ nạn xã hội, thì tới một lúc nào đó chính chúng ta sẽ trở thành nạn nhân của các loại tệ nạn xã hội. Hiện nay, có rất nhiều tệ nạn xã hội nguy hiểm có khả năng tàn phá sức khỏe và tâm hồn của các bạn trẻ một cách nhanh chóng và ghê gớm như ma túy, game online, các loại chất kích thich như cồn, thuốc lá, cờ bạc.. Những loại tệ nạn xã hội này đều đáng nguy hiểm và biến một con người khỏe mạnh trở thành nô lệ của nó. Biến một người học sinh chăm ngoan học giỏi, hiếu lễ với thầy cô trở thành một học trò cá biệt, nỗi đau trong lòng thầy cô cha mẹ…Khi một con người bị lây nhiễm các tệ nạn xã hội thì thường đánh mất đi những phẩm chất tốt đẹp của mình. Họ không còn được mọi người yêu mến, dần dần biến chất, từ một người trung thực ngay thẳng, hiền lành, chăm ngoan, họ dần dần biến thành một kẻ gian dối, thường xuyên lừa dối bạn bè thầy cô, cha mẹ của mình. Khi họ đã dính vào các tệ nạn xã hội thì thường bê trễ học hành, và nhu cầu về tiền bạc tăng cao. Lúc đầu để có tiền họ sẽ nói dối cha mẹ để xin tiền, sau nữa họ bắt đầu vay mượn bạn bè của mình, rồi để có tiền đáp ứng cho những thói hư tật xấu của mình, đáp ứng cho nhu cầu của các tệ nạn xã hội họ có thể ăn căm, ăn trộm trở thành những con người đáng sợ trong xã hội. Xem thêm: Viết đoạn văn bình luận theo chủ đề: “Mọi người lao động trong xã hội hiện đại đều phải có trình độ văn hoá tương ứng với kĩ thuật công nghệ hiện đại” Hãy nói không với các tệ nạn xã hội Sức mạnh của tệ nạn xã hội là vô cùng lớn nó hủy hoại tâm hồn, nhân cách, sức khỏe, tương lai của một con người. Khi một người đã dính vào các tệ nạn xã hội thường con người đó không còn giữ được sự tôn nghiêm của mình nưa. Họ trở thành một thành phần đáng sợ bị xã hội lên án và xa lánh. Họ trở thành một phần tử làm nhiễu loạn cuộc sông bình yên của những người dân lương thiện. Tất cả các loại tệ nạn xã hội đều nguy hiểm và có sức tàn phá vô cùng mạnh mẽ. Khi là học sinh còn ngồi trên ghế nhà trường là thế hệ trụ cột của tương lai, là những chủ nhân mai sau của đất nước ta, thì chúng ta cần phải nói không với các tệ nạn xã hội. Hãy tránh xa sự cám dỗ của các tệ nạn xã hội, không để cho các thành phần xấu lôi kéo mình vào con đường sai trái. Bởi khi đã sa chân vào dù chỉ một lần bạn muốn rút chân ra cũng khó. Chính vì vậy mỗ chúng ta phải tỉnh táo để làm chủ tương lai, làm chủ vận mệnh và cuộc sống của chính mình. Mỗi chúng ta hãy phát huy vai trò bản lĩnh của mình để không bao giờ sa ngã vào các tệ nạn xã hội. Một xã hội văn minh là một xã hội mà mỗi người dân đều sống lành mạnh, sống có ích cho xã hội và nói không với các tệ nạn xã hội. Muốn xây dựng một cuộc sống như vậy mỗi chúng ta cần phải hiểu rõ tác hại của tệ nạn xã hội và thái độ tự phòng tránh miễn nhiễm với các tệ nạn xã hội không nên để cho các thói hư tật xấu mua chuộc lôi kéo mình. Xem thêm: Bài Tả quả chuối lớp 5 hay nhất Bên cạnh đó gia đình nhà trường cần phải có nhiều biện pháp giáo dục, tuyên truyền cho học sinh của mình thấy rõ được tác hại của các tệ nạn xã hội để các bạn học sinh tự ý thức được và tránh xa nó. Trong thực tiễn cuộc sống nhiều gia đình đã vô cùng ngỡ ngàng đau xót khi thấy con em mình rơi vào các tệ nạn xã hội, và phạm tội vô cùng nguy hiểm. Nhưng họ không bao giờ ngờ được rằng con em mình lại có thể hành động như vậy, điều đó cho thấy sự quan tâm theo dõi bám sát tâm lý của con trẻ của các bậc phụ huynh chưa thật sự tốt. Họ luôn để con em mình tự phát triểm và chỉ mải mê chạy theo cuộc sống mưu sinh mặc con mình muốn làm gì thì làm, chỉ tới khi xảy ra chuyện thì họ mới ngỡ ngàng hối hận thì đã muộn màng.
Assignment As our society increasingly develops, with that development come many social evils that can affect the moral character of our young people. Young people are often eager to learn new things, and their thinking is immature, so they often like to express their personal ego. Young people are often easily lured into social evils, causing them to gradually fall downhill and lose their beautiful future. So we need to say No to social evils Social evils never exclude anyone. If we are not determined to stay away from them, if we do not strongly say no to social evils, then at some point we ourselves will become victims. of all kinds of social evils. Currently, there are many dangerous social evils that can quickly and terribly destroy the health and soul of young people such as drugs, online games, and stimulants such as alcohol and tobacco. , gambling... These types of social evils are dangerous and turn a healthy person into their slave. Turning a diligent student who studies well and is respectful to teachers into a special student, the pain in the hearts of teachers and parents... When a person is infected with social evils, he often loses the his good qualities. They are no longer loved by everyone, and gradually degenerate, from an honest, gentle, and obedient person, they gradually turn into a liar, often deceiving their friends, teachers, and parents. me. When they are involved in social evils, they often miss their studies, and their need for money increases. At first, to have money, they will lie to their parents to ask for money, then they will start borrowing from their friends, then to have money to pay for their bad habits and meet the needs of their peers. Social victims can eat hate, steal and become scary people in society. See more: Write a commentary on the topic: "All workers in modern society must have a cultural level corresponding to modern technology" Say no to social evils The power of social evils is extremely great, it destroys a person's soul, personality, health, and future. When a person is involved in social evils, that person can no longer maintain his dignity. They become a fearful group condemned and shunned by society. They become an element that disturbs the peaceful life of honest people. All types of social evils are dangerous and extremely destructive. As students still in school, we are the backbone generation of the future, the future owners of our country, then we need to say no to social evils. Stay away from the temptation of social evils, don't let bad elements lure you down the wrong path. Because once you get in even once, it's difficult to get out. That's why we must be alert to control our future, our own destiny and our own lives. Let each of us promote our bravery to never fall into social evils. A civilized society is a society in which every person lives healthily, lives usefully for society and says no to social evils. To build such a life, each of us needs to clearly understand the harmful effects of social evils and have an attitude of self-prevention and immunity from social evils, so we should not let bad habits bribe and entice us. . See more: The best description of a banana for grade 5 In addition, school families need to take many educational and propaganda measures to clearly show their students the harmful effects of social evils so that students can be self-aware and stay away from them. In real life, many families are extremely surprised and saddened when they see their children falling into social evils and committing extremely dangerous crimes. But they never expected that their children could act like that, which shows that parents' attention to closely monitoring their children's psychology is not really good. They always let their children develop on their own and are just engrossed in pursuing a living, letting their children do whatever they want. Only when something happens do they feel surprised and regret it, and it's too late.
Bài làm Món bánh xèo của người Miền Nam có từ rất lâu đời và là một món ăn vô cùng quen thuộc với người dân Nam Bộ nói riêng và người dân Việt Nam nói chung. Chiếc bánh xèo thường được ăn vào mùa mưa giúp cho người ăn ấm bụng hơn. Bánh xèo của từng vùng thì có mùi vị hơi khác nhau một chút, những người dân miề tây thì bánh xèo thường được tráng khá to như một chiếc bánh đa. Người miền trung thì chiếc bánh xèo nhỏ hơn một chút và thường có vị cay hơn chiếc bánh xèo của người Miền Nam, còn người miền Bắc chiếc bánh xèo thường được cuộn tròn lại rồi cắt ra thành từng miếng nhỏ để người ăn có thể dễ dàng ăn từng miếng nhỏ. Nguyên liệu làm thành chiếc bánh xèo khá cầu kỳ được tạo thành bột gạo nhưng mùi vị thì tùy vùng, gia vị có thể có vị cay mặn ngọt tùy theo sở thích ăn uống của từng miền. Nhưng đa số người ta thường làm bánh xèo nhên thịt bò, thịt lợn, hoặc nhân tôm, có nhiều nơi bánh xèo còn trộn thêm nắm, mọc nhĩ, giá đỗ nhiều hành tươi tạo nêm mùi vị dễ ăn hơn. Giới thiệu về món bánh xèo miền Nam Ở từng vùng miền khác nhua chiếc bánh xèo thường có mùi vị đặc trưng của vùng miền đó thể hiện được hương vị vă hóa của họ. Đồng thời cũng thể hiện được thói quen ăn uống của vùng miền. Người miền Nam thường thích ăn vị hơi cay và ngọt, người miền trung thì thường có nhiều loại gia vị đi kèm, rau thơm rau húng, người miền Bắc thì không thích ăn vị ngọt nhiều nên giảm đi vị ngọt, Khi ăn bánh xèo người ta thường cuộn với bánh tráng, kèm theo rau thơm tạo nên hương vị dễ ăn và không ngán. Để làm được một chiếc bánh xèo phải trải qua rất nhiều công đoạn nghệ thuật. Trong đó khâu tạo bột là quan trọng nhất, kết hợp nước cốt dừa để tạo nên bột tạo độ ngậy cho bánh xèo, nhân của bánh làm từ thịt xay, trọn với mọc nhĩ, nấm hương, tạo cho nhân thơm ngon và không bị béo. Khi làm nhân bánh người làm thường nêm nếm gia vị cho vưa miệng hoặc hơi nhạt một chút để khi ăn người ăn có thể chấm nước chấm. Xem thêm: Tuần 9: Luyện từ và câu (Thiên nhiên) Khách ăn bánh xèo đúng điệu, thường phải dùng tay gói, người ăn phải trải chiếc lá non trên tay rồi bỏ bánh xèo kết hợp với các loại rau sống cuộn tròn lại rồi chấm nước chấm được pha từ nước mắm, chan, tỏi, ớt, đường, tiêu… rồi cho vào miệng thưởng thức vị ngon của bánh.
Assignment Banh Xeo of the Southern people has been around for a long time and is an extremely familiar dish to Southern people in particular and Vietnamese people in general. Banh xeo is often eaten in the rainy season to help people feel warmer. Banh xeo in each region has a slightly different flavor. For people in the West, banh xeo is often rolled quite large like a rice cake. For people in the Central region, banh xeo is a bit smaller and often more spicy than banh xeo in the South, while for people in the North, banh xeo is often rolled up and then cut into small pieces so that people can easily eat it. Easily eat small pieces. The ingredients used to make banh xeo are quite sophisticated and are made from rice flour, but the flavor depends on the region, and the spices can be spicy, salty, or sweet depending on each region's food preferences. But most people often make banh xeo filled with beef, pork, or shrimp. There are many places where the banh xeo is also mixed with rice balls, sprouts, bean sprouts, and fresh onions to create a flavor that is easier to eat. Introducing Southern pancakes In each different region, banh xeo often has a typical flavor of that region that represents their cultural flavor. At the same time, it also shows the eating habits of the region. People in the South often like to eat slightly spicy and sweet flavors, people in the Central region often have many accompanying spices, herbs and basil, Northern people do not like to eat too much sweetness so the sweetness is reduced. When eating banh xeo People often roll it with rice paper, accompanied by herbs, creating a flavor that is easy to eat and not boring. To make a banh xeo, you have to go through many artistic stages. In which the step of creating the dough is the most important, combining coconut milk to create the dough to create a rich texture for the banh xeo, the filling of the cake is made from ground meat, complete with sprouts, shiitake mushrooms, making the filling delicious and not sticky. fat. When making cake filling, people often season to taste or slightly bland so that when eating, people can dip in the dipping sauce. See more: Week 9: Practice words and sentences (Nature) Guests eat banh xeo properly, often having to wrap it with their hands. The eater must spread a young leaf on their hand and then put the banh xeo, combine it with raw vegetables, roll it up and dip it in a dipping sauce made from fish sauce, lemongrass, garlic, etc. Chili, sugar, pepper... then put it in your mouth to enjoy the delicious taste of the cake.
Bài làm Khi nói về nhan sắc của một người phụ nữ ông bà ta thường có câu nói bất hủ rằng “Cái nết đánh chết cái đẹp” nhằm đề cao tới tính tình đức hạnh, nhân cách của người con gái hơn là vẻ đẹp hình thức bên ngoài. Câu nói “Cái nết đánh chết cái đẹp” được hiểu như thế nào cho đúng? Cái nết đó chính là phần tính cách, đạo đức nhân phẩm của con người. Nó chính là phần nội dung làm nên nhân cách giá trị của một con người đó có phải là một con người lương thiện, hiền lành tử tế hay không. Còn cái đẹp đó chính là phần hình thức bên ngoài, đó chính là tượng mạo mà người ta có thể nhìn thấy, cao thấp, béo gầy, xinh, xấu… Trong câu nói “Cái nết đánh chết cái đẹp” ông cha ta đã có ý muốn đề cao phần nội dung bên trong hơn những gì được thể hiện ra bên ngoài. Cái phần tính cách của con người mới chính là phần mà mỗi chúng ta quan tâm, còn hình thức bên ngoài đẹp hay xấu không nói lên bản chất của một con người. Để sống lâu dài, có thể hòa hợp hay cùng nhau sẻ chia tâm sự vui buồn thì phần bên trong, tính nết mới là phần quan trọng và làm nên giá trị cốt lõi của một con người. Còn hình thức bên ngoài chỉ là một chút choáng ngập trước vẻ đẹp mà thôi. Bình luận câu nói Cái nết đánh chết cái đẹp Câu nói này khiến cho chúng ta hiểu rằng cái nết hơn hẳn cái đẹp. Một con người dù đẹp tới mấy những bản chất tâm địa xấu xa, hẹp hòi, ích kỷ lười biếng.. thì không thể nào sánh bằng một con người chăm chỉ, hiền lành, nhân hậu, biết ứng xử, biết đối nhân xử thế chia sẻ vui buồn với những người xung quanh mình. Một con người tốt hay xấu, đều không thể phán xét qua vẻ bề ngoài của họ mà cần có thời gian, cần phải tiếp xúc và tìm hiểu đời sống nội tâm bên trong họ thì mới rõ được xấu tốt ra sao. Câu tục ngữ này chính là một bài học bổ ích, một cách nhìn người đúc kết qua nhiều kinh nghiệm của thế hệ trước để lại. Đó là một kết luận vô cùng sâu sắc, đáng để cho chúng ta phải suy nghĩ rất nhiều nhất là trong thời kỳ hiện đại khi mà những hoa hậu, những người đẹp được lên ngôi được người ta tôn sùng, ái mộ, thì cái nết lại càng cần hơn bao giờ hết. Xem thêm: Thuyết minh về tác hại của ma túy rượu thuốc lá đối với đời sống con người - BÀI VIẾT SỐ 4 LỚP 10 ĐỀ 2 Một cô hoa hậu rất đẹp nhưng lại sống thực dụng luôn tìm cách giật chồng người khác để kiếm lợi cho mình, sống dựa giẫm vào người khác, ích kỷ, hẹp hòi từ bỏ cả cha mẹ ruột của mình vì họ quá nghèo khổ. Một cô hoa hậu như vậy có đáng để chúng ta tôn trọng ngưỡng mộ hay không. Trong khi đó biết bao nhiêu người bình thường thầm lặng làm những việc tốt giúp đỡ cho những trẻ em nghèo có hoàn cảnh khó khăn, thương yêu hiếu kính với cha mẹ người thân, làm được nhiều hoạt động tốt cho xã hội, có tấm lòng nhân ái. Một người như vậy dù không là hoa hậu không nổi tiếng vì sắc đẹp nghiên nước nghiêng thành của mình thì cũng đáng để chúng ta tôn trọng, kính nể. Một người đẹp nhưng lại sống không có nhân cách đạo đức suy đồi, thì thật không đáng một chút nào một con người như vậy dù nhan sắc có chim sa cá lặn thì cũng chỉ đáng vứt đi mà thôi. Trong xã hội hiện đại ngày nay dường như có nhiều cô gái như vậy họ lợi dụng mình co nhan sắc mà làm những việc thật đáng lên án. Những người đó dường như đã quên đi giá trị sống mà ông cha ta truyền dạy một câu nói bất hủ không bao giờ cũ “Cái nết đánh chết cái đẹp” Giá trị của một con người đó chính là khi họ có một tâm hồn lương thiện, họ tích lũy được tri thức tự lập trên đôi chân của mình. Họ sống có ích cống hiến cho gia đình và xã hội không sống như một cây tầm gửi bám vào người khác không tạo nên những thị phi ở đời. Một người như vậy thật đáng quý biết bao.
Assignment When talking about a woman's beauty, our grandparents often have the immortal saying that "Nice kills beauty" in order to emphasize a girl's virtuous character and personality rather than her external beauty. outside. How is the saying "Freshness kills beauty" understood correctly? That trait is part of a person's personality, morality and dignity. It is the content that makes up the valuable personality of a person, whether he or she is an honest, gentle, kind person or not. And that beauty is the external form, it is the appearance that people can see, tall, short, fat, thin, pretty, ugly... In the saying "Desire kills beauty", our ancestors wanted to promote the inner content more than what is expressed on the outside. The part of a person's personality is the part that each of us cares about, and whether the external appearance is beautiful or ugly does not indicate the nature of a person. To live a long life, be able to be in harmony or share joys and sorrows together, the inner part and character are the important part and make up the core value of a person. The external appearance is just a little overwhelmed by beauty. Comment on the saying "Frustration kills beauty". This saying makes us understand that character is better than beauty. No matter how beautiful a person is, his or her evil, narrow-minded, selfish, lazy nature cannot compare to a hard-working, gentle, kind-hearted person who knows how to behave and treat people. So share joys and sorrows with those around you. Whether a person is good or bad, you cannot judge by their appearance. It takes time, contact and understanding of their inner life to understand how good or bad they are. This proverb is a useful lesson, a way of looking at people summarized through many experiences left by previous generations. That is an extremely profound conclusion, worthy of us thinking a lot, especially in the modern era when beauty queens and beauties are crowned and respected and admired by people. is needed more than ever. See more: Explanation about the harmful effects of drugs, alcohol and tobacco on human life - ARTICLE NO. 4 GRADE 10 TOPIC 2 A beauty queen who is very beautiful but has a pragmatic life, always looking for ways to steal other people's husbands to make her own profit, living dependent on others, selfish and narrow-minded, even abandoning her biological parents because they were too poor. Is such a beauty queen worthy of our respect and admiration? Meanwhile, so many ordinary people quietly do good deeds to help poor children in difficult circumstances, love and respect parents and relatives, do many good activities for society, and have good hearts. Kindness. Even if such a person is not a beauty queen or famous for her stunning beauty, she still deserves our respect and admiration. A person who is beautiful but lives without a degenerate moral character is not worthy at all. Such a person, no matter how beautiful she is, is just worth throwing away. In today's modern society, there seem to be many girls like that who take advantage of their beauty to do things that are truly condemnable. Those people seem to have forgotten the value of life that our ancestors taught us, an immortal saying that never gets old, "Freshness kills beauty." The value of a person is when they have an honest soul, they accumulate knowledge and are independent on their feet. They live a useful life and contribute to their family and society, not living like a mistletoe clinging to others and not creating trouble in life. How precious is such a person.
Bài làm Thói ăn chơi đua đòi là một hiện tượng đang phê phán trong cuộc sống hiện đại, nhưng nó đang là một tệ nạn diễn ra trong giới trẻ hôm nay. Nó chính là một thói ăn chơi đang chê trách của những người trẻ hôm nay, khi các bạn sống thiếu trách nhiệm với tương lai của mình. Thói ăn chơi đua đòi là gì? Đó chính là cách sống của những người trẻ khi họ quen sống hưởng thụ trở thành những người chỉ biết ăn chơi, đua đòi vòi vĩnh dù hoàn cảnh gia đình của mình không giàu có những luôn muốn đua đòi ăn chơi theo những bạn có tiền. Nếu thấy bạn của mình được mua sắm một món đồ hàng hiệu nào đó, thì cũng muốn tìm cách có tiền để mua cho bằng được. Thói ăn chơi đua đòi dường như đã ngấm vào trong tâm hồn của rất nhiều bạn trẻ, khiến cho các bạn đánh mất đi lý tưởng sống đúng đắn của riêng mình. Các bạn không hiểu rõ được giá trị cuộc sống năm ở đâu mà luôn đánh giá con người qua vẻ bên ngoài của người khác. Thấy một người ăn mặc đẹp có điện thoại đắt tiền, có xe đẹp là ngay lập tức về nhà đòi bố mẹ mua sắm cho mình, mà không hiểu được hoàn cảnh gia đình mình. Nhiều ông bố bà mẹ vô cùng thương con làm mọi thứ chỉ mong con cái của mình bằng bạn bằng bè, khiến cho con cái của họ trở nên hư hỏng, quen thói đua đòi và hay đòi hỏi bắt cha mẹ phải chiều theo ý của mình. Nhiều bạn trẻ còn đang ngồi trên ghế nhà trường chưa hề làm ra tiền nhưng luôn sử dụng những món hàng đồ dùng đắt tiền, đầu tóc thì nhuộm nhiều màu quần áo, rách te tua, khuyên tai, khuyên mũi… họ tưởng như vậy là đẳng cấp, là biết ăn chơi, hưởng thụ cuộc sống còn những người ăn mặc giản dị, chăm chỉ học hành là những kẻ nghèo hèn, cù lần dốt nát. Xem thêm: Phân tíchhai khổ đầu bài thơ Vội Vàng của Xuân Diệu Bình luận về thói ăn chơi đua đòi Nhiều bạn cho đó là mốt và thường chạy theo mốt một cách lố lăng mà không biết nó có hợp với mình hay không. Các bạn đó chưa làm ra tiền chỉ quen dùng tiền của cha mẹ, mà cha mẹ các bạn kiếm tiền cũng đâu có dễ dàng gì, đáng lẽ làm phận con chúng ta phải biết thương bố mẹ chia sẻ những khó khăn với cha mẹ của mình. Nhưng các bạn đó lại không thấu hiểu những nhọc nhằn mà cha mẹ phải gánh nặng trên đôi vai. Họ thường trốn học rủ nhau đi ăn chơi, đua xe, chơi game… Nhiều người con nhà giàu được cha mẹ cưng chiều thành những cậu ấm cô chiêu, được cha mẹ mua cho những món hàng đắt tiền từ nước ngoài mang vệ, nên họ cho đố là hạnh phúc và thường thể hiện đẳng cấp của mình mang ra khoe khoang với bạn bè cùng lớp. Vô tình chung nhưng bạn đó đã khiến cho phong trào đua đòi trở nên phát triển hơn, những bạn không có món hàng đó sẽ cảm thấy mình kém cỏi, không sang chảnh, không được cha mẹ yêu thương, thiếu may mắn trong cuộc sống… Có nhiều người vì cha mẹ không có tiền để đáp ứng những yêu cầu mong muốn sử dụng hàng hiệu, ăn chơi, nên những người đó đã sa ngã vào con đường tội lỗi, trộm cắp, cờ bạc. Lúc đầu là trộm cắp của cha mẹ, sau là của người thân bạn bè hàng xóm, dần dần họ thành những con người biến chất trong xã hội. Xem thêm: Phân tích bài thơ cảm xúc mùa thu (Thu hứng) của Đỗ Phủ Thói quen ăn chơi đua đòi chính là một đức tính xấu cần phải loại bỏ ra khỏi cuộc sông của thế hệ trẻ chúng ta. Chúng ta cần phải sống có ý nghĩa, sống đẹp sống có ích sống có ước mơ hoài bão như những gì ông bà ta đã dạy dỗ con cháu mình cần phải biết chia sẻ với những người có hoàn cảnh khó khăn trong cuộc sống, lá lành biết đùm lá rách, những trái tim nhân hậu luôn làm nên yêu thương cho cuộc sống tạo nên những bản tình ca đẹp giữa cuộc đời.
Assignment The habit of playing around is a phenomenon that is being criticized in modern life, but it is an evil happening among today's youth. It is a disparaging habit of today's young people, when they live irresponsibly towards their future. What is competitive eating habits? That is the way of life of young people when they are used to enjoying life and become people who only know how to play and play, even though their family situation is not rich, they always want to compete and play after those who have money. . If you see your friend buying a branded item, you'll also want to find a way to have money to buy it. The habit of playing and competing seems to have seeped into the souls of many young people, causing them to lose their own ideals of living properly. You do not clearly understand the value of life, but always judge people by the appearance of others. When you see a well-dressed person with an expensive phone or a nice car, you immediately go home and ask your parents to buy it for you, without understanding your family situation. Many parents who love their children very much do everything they can to make their children equal to their friends, causing their children to become spoiled, accustomed to being demanding and demanding that their parents follow their wishes. me. Many young people who are still in school have never made money but always use expensive items, their hair is dyed many colors, their clothes are tattered, earrings, nose rings... they think so. is class, knows how to have fun and enjoy life, while those who dress simply and study hard are poor, dull and ignorant. See more: Analysis of the first two stanzas of the poem Voi Vang by Xuan Dieu Comment on competitive play habits Many people think it's a fashion and often follow it ridiculously without knowing whether it suits them or not. Those people haven't made any money and are only used to using their parents' money, and it's not easy for their parents to make money. As children, we should know how to love our parents and share the difficulties with our parents. me. But those people do not understand the hardships that their parents have to bear on their shoulders. They often skip school and invite each other to go out to eat, race cars, play games... Many rich children are pampered by their parents and become lonely children, their parents buy them expensive foreign goods, so they consider themselves happy and often show off their class. brag to your classmates. Unintentionally, that person has made the racing movement become more developed. Those who do not have that item will feel inferior, not luxurious, not loved by their parents, and unlucky in life. … There are many people who, because their parents do not have the money to meet the demands of using branded goods and having fun, fall into the path of crime, theft, and gambling. At first they stole from their parents, then from their relatives and neighbors, gradually they became degenerate people in society. See more: Analysis of the emotional poem Autumn (Autumn Inspired) by Do Phu The habit of playing and competing is a bad quality that needs to be eliminated from the lives of our young generation. We need to live meaningfully, live beautifully, live usefully, live with dreams and ambitions like what our grandparents taught our children and grandchildren, we need to know how to share with people in difficult circumstances in life, Good people know how to protect torn leaves, kind hearts always make love for life, creating beautiful love songs in life.
Bài làm Từ xa xưa ông cha ta luôn đề cao những phẩm chất cao quý của con người luôn đề cao trong cuộc sống của chúng ta. Câu tục ngữ “Có chí thì nên” là câu nói luôn luôn đúng bởi con người muốn làm việc gì đều phải có ý chí, phải có lòng quyết tâm thì mới mong thành công. Câu tục trên thể hiện nghị lực của con người trong cuộc sống, đó chính là lời khuyên vô cùng đúng đắn cho mỗi chúng ta bởi trong cuộc sống luôn có những sống gió thác ghềnh xảy ra để thành công mỗi con người cần phải nỗ lực hết mình trong cuộc sống, phải có lòng dũng cảm, ý chí cao thì mới mong thành công. Có chí thì nên là gì? Có chí chính là có những ý chí tinh thần nghị lực sống trong cuộc sống. Nó giúp con người vượt qua được những sóng gió, rủi ro trong thử thách trong cuộc sống của mình và hướng tới đích và tiến tới thành công. Từ thời xa xưa ý chí chính là một nghị lực sống của con người Việt Nam. Trong những cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ dân tộc Việt Nam chúng ta luôn phát huy được ý chí của mình, tinh thần quả cảm kiên cường, vượt lên mọi khó khăn thử thách để chiến thắng những kẻ thù lớn mạnh nhất. Dù người dân Việt Nam chúng ta phải chịu nhiều khó khăn gian khổ nhưng không bao giờ lùi bước không hề lùi bước, chúng ta đã kiên cường vượt qua những khó khăn thử thách của mình để giành được thắng lợi vẻ vang cho dân tộc. Mang lại hòa bình cho dân tộc của chúng ta, để có được chiến thắng đó nhờ ý chí và tinh thần kiên cường quả cảm của mỗi người dân yêu nước. Trong thời chiến người dân của chúng ta đã phát huy cao độ tinh thần có chí thì nên, nhưng trong thời bình người dân của chúng ta lại càng kiên cường anh dũng hơn bao giờ hết trong cuộc sống hàng ngày có rất nhiều người chiến sĩ, những anh hùng lao động, những tâm gương sáng về ý chí vượt lên số phận khiến chúng ta phải kính nể thán phục. Xem thêm: Kể chuyện về một danh nhân mà em ngưỡng mộ Bình luận câu tục ngữ có chí thì nên Trong những tấm gương về tinh thần “Có chí thì nên” đó có người thầy đáng kính Nguyễn Ngọc Ký một con người khiến cho chúng ta luôn thán phục, ngưỡng mộ bởi thầy Nguyễn Ngọc Ký sinh ra đã chịu nhiều bất hạnh trong cuộc sống khi mà thầy bị liệt cả hai tay. Nhưng bằng tinh thần vươn lên số phận của mình thầy Nguyễn Ngọc Ký đã sử dụng đôi chân thuần thục thành thạo như chính đôi tay. Thầy cũng chăm chỉ luyện chữ học viết và học hành chăm chỉ trở thành người thầy đáng kính của biết bao nhiêu thế hệ học trò. Thầy Nguyễn Ngọc Ký còn được vinh dự nhận Huân Chương anh hùng lao động do nhà nước trao tặng. Để có được những thành tựu đáng ngưỡng mộ như vậy tất cả đều nhờ ý chí nghị lực sống phi thường của thầy, nhờ sự nỗ lực vươn lên, vượt qua những rào cản những khó khăn trong cuộc sống mà thầy đã trở thành một tấm gương sáng cho nhiều thế hệ noi theo.Bên cạnh thầy giáo Nguyễn Ngọc Ký có có rất nhiều những bạn học sinh dù hoàn cảnh gia đình gặp nhiều khó khăn nhưng các bạn luôn đạt thành tích cao trong các kỳ thì đại học với những diểm số khiến nhiều người phải trầm trô thán phục
Assignment Since ancient times, our ancestors have always emphasized noble human qualities in our lives. The proverb "If there is a will, there is a way" is always true because people who want to do anything must have will and determination to succeed. The above proverb shows human determination in life. It is extremely correct advice for each of us because in life there are always ups and downs. To be successful, each person needs to make an effort. To do your best in life, you must have courage and high will to succeed. If you have a will, what should you do? Having will means having the will and spirit to live in life. It helps people overcome the turbulence and risks of challenges in their lives and move towards their goals and progress towards success. Since ancient times, willpower has been the living energy of Vietnamese people. In the resistance wars against the French colonialists and the American imperialists, the Vietnamese people have always promoted their will and courageous and resilient spirit, overcoming all difficulties and challenges to defeat powerful enemies. best. Even though we Vietnamese people had to endure many hardships, we never backed down, we resiliently overcame our difficulties and challenges to win a glorious victory for our nation. Bring peace to our people, and achieve that victory thanks to the will and courageous spirit of every patriot. During wartime, our people have highly developed their spirit of will, but in peacetime our people are more resilient and heroic than ever. In daily life, there are many soldiers. , labor heroes, shining examples of will to overcome fate that make us admire and admire. See more: Tell a story about a famous person you admire Comment on the proverb where there is a will there is a way Among the examples of the spirit of "If there is a will, there is a way" is the respected teacher Nguyen Ngoc Ky, a person who makes us always admire and admire because teacher Nguyen Ngoc Ky was born and suffered many misfortunes in life. when he was paralyzed in both hands. But with the spirit of rising to his destiny, teacher Nguyen Ngoc Ky used his feet as skillfully as his hands. He also diligently practiced writing and studied hard to become a respected teacher of many generations of students. Teacher Nguyen Ngoc Ky was also honored to receive the Hero of Labor Medal awarded by the state. To have such admirable achievements is all thanks to the teacher's extraordinary will and energy to live, thanks to his efforts to rise up and overcome barriers and difficulties in life, he has become a role model. a shining example for many generations to follow. Besides teacher Nguyen Ngoc Ky, there are many students who, despite difficult family circumstances, always achieve high results in their university exams with excellent grades. number that makes many people admire
Bài làm Con người Việt Nam chúng ta từ thời xưa cho tới thời nay luôn đề cao tinh thần đoàn kết tương thân tương ái. Đó là một truyền thống quý báu của ông cha ta để lại cho con cháu ngày hôm nay, do vậy trong kho tàng cao dao có rất nhiều câu nói viết lên lòng thương người, sẻ chia giúp đỡ lẫn nhau của người xưa. Trong đó nổi bật lên là câu nói “Lá lành đùm lá rách” Câu tục ngữ “Lá lành đùm lá rách” thể hiện trong việc người nông dân gói bánh khi có một tờ là bị rách họ không vội vàng vứt bỏ tờ lá rách đó đi mà nâng niu sử dụng và để cho chiếc bánh vẫn hoàn hảo họ lấy một chiếc lá lành lặn gói thêm vào bên ngoài chiếc lá rách. Hành động này vừa thể hiện sự thông minh tiết kiệm của người lao động vừa thể hiện tinh thần đoàn kết tương trợ lẫn nhau khi gặp khó khăn hoan nạn của những người lao động. Chỉ với một hình ảnh giản dị, đời thường như vậy nhưng lại gợi lên trong lòng chúng ta nhiều suy nghĩ về tình thương và lòng trắc ẩn trong cuộc sống. Người nông dân ta ngày xưa muốn mượn hình ảnh chiếc bánh, mượn hình ảnh chiếc lá lành đùm bọc chiếc lá rách để nói lên những ý nghĩa trong cuộc sống. Mỗi con người khi sinh ra không lựa chọn được cuộc sống của mình có những điều làm chúng ta bất ngờ, sóng gió cuộc sống khó khăn khi đau ốm, tai nạn, rủi ro do thiên tai khiến chúng ta mất đi nhà cửa, cơm không no áo không lành. Những lúc nha vậy chúng ta thật sự cần những tấm lòng nhân ái biết sẻ chia với những người đồng bào của mình trong hoàn cảnh khó khăn. Xem thêm: Phân tích bài ca dao “Thân em như củ ấu gai ruột trong thì trắng vỏ ngoài thì đen" lớp 10 Bình luận câu tục ngữ Lá lành đùm lá rách Câu tục ngữ “lá lành đùm là rách” nói lên đao lý làm người về lòng nhân ái thương người của những người nông dân lao động của nước ta. Câu tục ngữ trên là hoàn toàn đúng đắn nó chính là một chân lý sống đầy lương thiện, nhân ái mà ông bà ta từ xa xưa đã muốn gửi tặng cho con cháu thế hệ tương lai của mình. Mỗi con người chúng ta là tổng hòa của các mối quan hệ xã hội khi chúng ta đưa tay mình ra giúp đỡ những người có hoàn cảnh khó khăn, thì đó là lúc chúng ta tạo cho mình một tương lại rộng mở hơn, bởi cuộc sống luôn chứa đựng bất ngờ biết đâu một ngày nào đó chúng ta lại cần nhờ tới người khác giúp mình. Cuộc sống của con người luôn nhiều khó khăn sóng gió nhưng nếu chúng ta biết nương tựa vào nhau cùng nhau sẻ chia mọi khó khăn trong cuộc sống thì những sóng gió kia sẽ trở nên nhỏ bé hơn. Hàng xóm làng giềng những người tối lửa tắt đèn nếu ai gặp khó khăn thì chúng ta nên giúp đỡ bởi tình cảm đồng bào tình cảm hàng xóm là những tình cảm quý báu giữa con người dành cho con người. Khi chúng ta sống biết yêu thương nhau biết nhường cơm sẻ áo cho nhau, chia sẻ những khó khăn hoạn nạn thì là lúc chúng ta tạo nên tình đoàn kết vô cùng lớn mạnh trong cuộc sống của chúng ta. Xem thêm: Đề kiểm tra cuối kì II – Đề 19 – Tiếng Việt 4 Tình thương lòng nhân ái chính là một truyền thống vô cùng đáng quý của mỗi người dân lao động Việt Nam. Đất nước chúng ta đã trải qua nhiều khó khăn gian khổ nếu chúng ta không đoàn kết thì sẽ không bao giờ có những điều tốt đẹp như ngày hôm nay. Tình thương được thể hiện thông qua sự sẻ chia của những người dna chúng ta khi mà đồng bảo miền Trung gặp rủi ro mưa bão, hãy những ngày thương binh liệt sĩ, ngày vì người nghèo, quỹ trái tim cho em… tất cả những hoạt động ý nghĩa đó đều xuất phát từ tình thương giữa con người dành cho con người, từ việc sẻ chia, lá lành đùm lá rách…
Assignment We Vietnamese people, from ancient times to today, have always emphasized the spirit of solidarity and love. It is a precious tradition left by our ancestors to our descendants today, so in the treasure trove of folk tales there are many sayings about the compassion, sharing and helping each other of the ancients. Among them, the saying "Good leaves cover torn leaves" stands out. The proverb "Good leaves protect torn leaves" is reflected in the way farmers wrap cakes and when one leaf is torn, they do not rush to throw away that torn leaf but cherish and use it so that the cake remains perfect. They took a healthy leaf and wrapped it on top of the torn leaf. This action not only shows the intelligence and thriftiness of the workers but also shows the spirit of solidarity and mutual support when facing difficulties and hardships of the workers. Just such a simple, everyday image evokes in our hearts many thoughts about love and compassion in life. Our farmers in the past wanted to borrow the image of a cake, borrow the image of a healthy leaf covering a torn leaf to express the meanings in life. Every human being is born without being able to choose his or her life, there are things that surprise us, turbulence and difficulty in life when illness, accidents, and risks due to natural disasters cause us to lose our homes and food. If you don't have enough, your clothes won't heal. At times like these, we really need compassionate hearts that know how to share with our fellow citizens in difficult circumstances. See more: Analysis of the folk song "My body is like a thorny water chestnut, the inside is white, the outside is black" grade 10 Comment on the proverb: Good leaves protect torn leaves The proverb "a healthy leaf is torn" speaks to the human philosophy of the compassion and love of the working farmers of our country. The above proverb is completely correct. It is a truth of living full of honesty and kindness that our ancestors from ancient times wanted to give to their children and future generations. Each of us is a combination of social relationships. When we extend our hands to help those in difficult circumstances, that is when we create for ourselves a more open future, because life Life always contains surprises, maybe one day we will need to ask others to help us. Human life is always full of difficulties and turbulence, but if we learn to rely on each other and share all the difficulties in life, those turbulences will become smaller. Neighbors, neighbors, people who turn off their lights, if anyone is in trouble, we should help because the love of our fellow countrymen and the love of our neighbors are precious feelings between people for people. When we live loving each other, giving each other food, sharing clothes, sharing difficulties and tribulations, we create extremely strong solidarity in our lives. See more: Final exam II - Topic 19 - Vietnamese 4 Love and kindness are an extremely precious tradition of every Vietnamese working person. Our country has gone through many hardships and hardships. If we were not united, we would never have good things like today. Love is expressed through the sharing of our DNA people when the Central region is in danger of storms, on war invalids and martyrs days, days for the poor, heart funds for children... all the Those meaningful activities all come from the love between people for people, from sharing, good leaves covering torn leaves...
Bài làm Phạm Tiến Duật từ lâu đã được biết đến là một trong những nhà thơ trẻ tiêu biểu trong những năm kháng chiến chống Mĩ. Là một người lính chính vì thế mà nhà thơ có được phong cách trẻ sôi nổi, hồn nhiên mà sâu sắc ở trong thơ. Viết về hình ảnh những người lính trong sáng tác của ông không thể không kể đến là “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”. Có lẽ rằng trên chiến trường thì hình ảnh của những chiếc xe không có kính – hình ảnh thơ độc đáo đã in sâu vào trong trí nhớ của Phạm Tiến Duật. Với hình ảnh của chiếc xe không kính như đã khiến cho nhan đề bài thơ trở nên hết sức đặc biệt – ta như nhận thấy được tác giả như cũng sắp viết ra một câu truyện dài và vô cùng đặc sắc vậy. Qủa thực cũng chính hình ảnh đó như đã làm nổi bật lên được hình tượng của những người lính trẻ, họ là những người lính lái xe đã anh dũng, bỏ cả tuổi thanh xuân của mình để nghe theo tiếng gọi của Tổ quốc. Không có kính không phải vì xe không có kính Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi Thật ấn tượng biết bao nhiêu ngay từ ngôn từ, phong cách, nội dung cho đến cả nhịp điệu thơ đều rất tự nhiên và vô cùng mộc mạc, có sức gợi tả, gợi cầm. Câu thơ trên cũng đã làm hiện lên trước mắt người đọc một hình ảnh lạ lùng và mang được sự tếu táo, đó là hình ảnh của những chiếc xe không kính. Mặt khác, ta như nhận thấy được cả lời giải thích của tác giả về những chiếc xe vô cùng đặc biệt ấy cũng được Phậm Tiến Duật miêu tả cũng rất đỗi chân thực đến gần như là lột trần ra một chiếc xe này cũng đã bị phá huỷ bởi chính hình ảnh bom giật, bom rung. Không chỉ vậy ta nhận thấy được có các những động từ mạnh làm nổi bật hình ảnh và ý thơ. Thêm vào đó thì hai câu thơ thật tự nhiên, không có hình ảnh hoa mĩ, cũng chẳng phải hình ảnh tráng lệ, không có hình ảnh tượng trưng, giọng thơ được sử dụng có chút gì đó ngang tàng tạo nên điểm khởi đầu chứa được biết bao nhiêu ấn tượng trong bài thơ. Tiếp đến là khổ cuối cùng của bài cũng đã lại khiến cho Phạm Tiến Duật tái hiện lên hình ảnh chiếc xe như một dụ ý nghệ thuật độc đáo. Xem thêm: Phân tích, so sánh lời ca của “khách” kết thúc bài Phú sông Bạch Đằng với bài thơ Sông Bạch Đằng (Bạch Đằng giang) của Nguyễn sưởng (bản dịch): “Mồ thù như núi, cỏ cây tươi…Nửa do sông núi, nửa do người.” Không có kính rồi xe không có đèn Không có mui xe, thùng xe có xước Có thể nói rằng cũng chính với những chiếc xe ấy bị biến dạng, cũng đã bị phá huỷ gần như là toàn bộ. Thế rồi bom đạn, chiến tranh mới khốc liệt và nguy hiểm biết bao nhiêu. Ngay cả sắt thép còn như thế nữa thì huống chi con người bằng da bằng thịt.Tuy khó khăn và thiếu thốn, luôn đối mặt với sự hiểm nguy thì những cỗ xe kia cũng cứ vẫn hiện lên một cách rất độc đáo và cũng lại rất có hồn, rất ngang tàng. Cũng không quá chút nào khi nói rằng hình ảnh chiếc xe không kinh như đã trở thành biểu tượng trong những năm tháng kháng chiến chống Mĩ. Thông qua hình ảnh xe không kính thì còn nổi bật được hình ảnh của người chiến sĩ lái xe cũng thật hiên ngang, mưu tríc và dũng cảm. Ung dung buồng lái ta ngồi Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng. Phân tích Bài thơ về tiểu đội xe không kính Sử dụng nhịp thơ ngắn, nhanh và phần điệp từ nhìn lặp lại tạo nên tiết tấu hết sức sinh động cho câu thơ. Tiếp đó ta lại nhận thấy được đó cũng chính là một lời kể về những sự vật được nhìn thấy trên đường thông qua đoạn thơ sau: Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim Thấy sao trời và đột ngột cánh chim Như sa như ùa vào buồng lái. Hình ảnh của những người lính lái xe vẫn ung dung, vẫn cứ nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng. Thêm vào đó ta nhận thấy được nhịp thơ mà nhịp nhàng, sôi nổi như lời ca, tiếng hát như lại càng khiến không khí bài thơ thật vui tươi, sôi động. Xem thêm: Soạn bài Trình bày một vấn đề lớp 10 hay đầy đủ nhất Có thể nói khi mà chiếc xe đã bị phá huỷ, nát tan đến như vậy thì biết bao khó khăn đã nảy sinh cũng chỉ vì xe không có kính mà thành: Không có kính, ừ thì có bụi, Bụi phun tóc trắng như người già Không có kính, ừ thì ướt áo Mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời Thật bất ngờ khi không có kính thì tác giả lại có bụi rồi có mưa tuôn, mưa xối coi những khó khăn này trở thành động lực để luôn lạc quan yêu đời. Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha. ….Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi. Sử dụng giọng thơ âm vang rộn rã, tràn đầy sức sống sôi nổi của tuổi mười tám, đôi mươi. Ta như nhận thấy được hình ảnh của những người lính trẻ ấy thật kiên cường và trẻ trung, hóm hỉnh. Không chỉ dừng lại ở đó thơi đâu, những người họ còn là những người đồng chí gắn bó keo sơn và có tình cảm thật khăng khít. Và cũng không có kính nên họ mới có thể Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi Hình ảnh gia đình – hình ảnh gợi thương gợi nhớ khiến cho con người, cho những người lính Trường Sơn ấy, cũng mang trong mình dòng máu nóng, đó mà một dòng máu sôi sục khát vọng giải phóng miền Nam để có thể giải phóng đất nước: Xem thêm: Văn mẫu lớp 6: Tả cơn mưa rào quê em Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước Chỉ cần trong xe có một trái tim. Hình ảnh chiếc xe như đã bị chiến tranh làm phá hủy đến không có kính, bao nhiêu khó khăn đó như cũng qua hết bởi chỉ cần trong xe có một trái tim là đủ. Tình yêu tổ quốc đã thể hiện vô cùng rõ ràng và khiến cho chúng ta nhận thấy được tình yêu tổ quốc, yêu đồng bào, yêu gia đình đã biến thành sức mạnh để có thể giúp người lính có thêm ý chí để có thể vượt lên trên tất cả vì tự do của đất nước.
Assignment Pham Tien Duat has long been known as one of the typical young poets during the years of resistance against America. As a soldier, that's why the poet has a vibrant, innocent and profound youthful style in his poetry. Writing about the image of soldiers in his works, one cannot help but mention "The poem about the squad of cars without windows". Perhaps on the battlefield, the image of cars without glass - a unique poetic image was deeply imprinted in Pham Tien Duat's memory. The image of the car without windows makes the poem's title very special - we can see that the author is about to write a long and extremely unique story. Indeed, that same image seems to highlight the image of young soldiers, they are heroic drivers, giving up their youth to listen to the call of the Fatherland. Not having glasses doesn't mean the car doesn't have glasses Shock bombs, shaking bombs, broken glass It's so impressive that the words, style, content, and rhythm of the poem are all very natural and extremely rustic, with descriptive and evocative power. The above verse also brings to the reader's eyes a strange and humorous image, which is the image of cars without windows. On the other hand, we can see that the author's explanation about those very special cars is also described very realistically by Pham Tien Duat, to the point of almost revealing that this car has been damaged. destroyed by the image of shock bombs and vibrating bombs. Not only that, we can see that there are strong verbs that highlight images and poetic ideas. In addition, the two verses are very natural, without flowery images, nor magnificent images, without symbolic images, and the poetic voice used is a bit arrogant, creating a meaningful starting point. know how many impressions are in the poem. Next, the last stanza of the article also caused Pham Tien Duat to recreate the image of a car as a unique artistic example. See more: Analyze and compare the lyrics of the "guest" at the end of the poem Phu Bach Dang River with the poem Bach Dang River (Bach Dang Giang) by Nguyen Suong (translation): "The enemy's grave is like a mountain, the grass and trees are fresh... Half due to mountains and rivers, half due to people.” There are no glasses and the car has no lights There is no hood, the trunk has scratches It can be said that the same cars that were deformed were also almost completely destroyed. Then bombs and war became so fierce and dangerous. Even iron and steel are like that, let alone people made of flesh and blood. Despite difficulties and deprivation, always facing danger, those chariots still appear in a very unique and unique way. very soulful, very arrogant. It is not an exaggeration to say that the image of the car was not as terrifying as it became a symbol during the years of resistance against the US. Through the image of the car without glass, the image of the soldier driving the car is also very brave, cunning and brave. I sit leisurely in the cockpit Looking at the ground, looking at the sky, look directly. Analysis of the poem about a squad of cars without windows Using short, fast poetic rhythm and repeating visual refrains creates a very lively rhythm for the verse. Next, we realize that it is also a narrative about things seen on the road through the following poem: Seeing the wind coming in rubbed my eyes bitterly See the road running straight to the heart Seeing stars and suddenly bird wings The sand seemed to rush into the cockpit. Images of soldiers driving leisurely, still looking at the ground, looking at the sky, looking straight ahead. In addition, we can see that the rhythm of the poem is as rhythmic and vibrant as the lyrics, and the singing makes the atmosphere of the poem even more joyful and vibrant. See more: Prepare a lesson to present a 10th grade problem in the most complete way It can be said that when the car was destroyed and crushed like that, so many difficulties arose just because the car had no glass: No glasses, yes there is dust, The dust sprayed my hair as white as an old person Without glasses, yes, my shirt is wet It's raining, it's pouring like it's outside Surprisingly, without glasses, the author has dust and then pouring rain. The pouring rain sees these difficulties as motivation to always be optimistic and love life. No need to wash, light a cigarette Looking at each other with smiling faces. ….No need to change, drive another hundred kilometers The rain stopped, the wind blew and it dried quickly. Using a vibrant, resonant poetic voice, full of the vibrant vitality of eighteen and twenty years old. We can see the image of those young soldiers as resilient, youthful, and witty. Not only that, they are also close comrades and have very close feelings. And they don't have glasses so they can Shaking hand through the broken glass window The image of the family - a nostalgic image that makes people, those Truong Son soldiers, also have hot blood in them, a blood boiling with the desire to liberate the South so that they can liberate the South. country: See more: Grade 6 sample essay: Describe a heavy rain in your hometown The car is still running because the South is ahead As long as there is a heart in the car. The image of the car as if it had been destroyed by war without any glass, all those difficulties seemed to have passed because just having a heart in the car was enough. Love for the country has been shown extremely clearly and has made us realize that love for the country, love for compatriots, love for family has turned into strength that can help soldiers have more will to overcome. above all for the country's freedom.
Hướng dẫn Ẩn dụ là gọi tên sự vật, hiện tượng này bằng tên sự vật, hiện tượng khác khi giữa chúng có nét tương đồng nhằm tăng sức gợi hình, gợi cảm cho sự diễn đạt. Ví dụ: 1.Người Cha mái tóc bạc Đốt lửa cho anh nằm Rồi Bác đi dém chăn Từng người từng người một…. ( ” Đêm nay Bác không ngủ ” – Minh Huệ ) -> Người Cha, Bác => Hồ Chí Minh. 2.Ngoài thềm rơi chiếc lá đa Tiếng rơi rất mỏng như là rơi nghiêng ( ” Đêm Côn Sơn” – Trần Đăng Khoa ) -> rơi rất nhẹ -> rơi rất mỏng ( chuyển đổi cảm giác từ thính giác qua thị giác ) Tại sao gọi ẩn dụ là ví ngầm? Ví là ví von, so sánh. Ví ngầm là cách so sánh, hoặc không dùng từ so sánh (như, tựa, là,..), hoặc không cho xuất hiện sự vật được đưa ra so sánh. Ví dụ: + Mặt tươi như hoa, da trắng mịn như phấn (so sánh) + Mặt hoa, da phấn (ẩn dụ) Các kiểu ẩn dụ: Có 4 kiểu ẩn dụ thường gặp là: + Ẩn dụ hình thức + Ẩn dụ cách thức + Ẩn dụ phẩm chất + Ẩn dụ chuyển đổi cảm giác Ngoài ra còn ẩn dụ hình tượng: Kho thu phong nguyệt đầy qua nóc, Thuyền chở yên hà nặng vạy thẹn. ( “Thuật hứng” 24 – Nguyễn Trãi) Kho và thuyền là hai ẩn dụ nói về tâm hồn của Nguyễn Trãi. Phong nguyệt ( gió trăng), yên hà (khói ráng) là những vẻ đẹp cuae thiên nhiên. Nguyễn Trãi đã sử dụng ẩn dụ để tự hào biểu lộ tâm hồn trong sáng, thanh cao, giàu tình yêu thiên nhiên của mình khi trở về Côn Sơn. Giá trị và ý nghĩa: Lúc nói và viết, nghệ thuật sử dụng ẩn dụ không chỉ làm cho cách diễn đạt giàu hình tượng và biểu cảm mà còn làm cho ngôn ngữ hàm súc hơn, tinh tế hơn, tinh luyện hơn. Ví dụ: Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ…
Instruct A metaphor is to name one thing or phenomenon by the name of another when there are similarities between them in order to increase the evocative and evocative power of the expression. For example: 1. The father has silver hair Light a fire for him to lie down on Then Uncle went to bed One by one one by one…. (“Uncle won't sleep tonight” – Ming Hui) -> Father, Uncle => Ho Chi Minh. 2.A banyan leaf fell on the porch The sound of falling was very thin, like it was falling sideways (“Night of Con Son” – Tran Dang Khoa) -> falls very lightly -> falls very thin (conversion of sensation from hearing to vision) Why call the metaphor a hidden wallet? A simile is a simile, a comparison. Implicit comparison is a way of comparison, either not using comparative words (like, title, is, etc.), or not showing the thing being compared. For example: + Face as fresh as a flower, skin as white and smooth as powder (comparison) + Flowery face, powdery skin (metaphor) Types of metaphors: There are four common types of metaphors: + Formal metaphor + Method metaphor + Metaphor of quality + Metaphors transform feelings There are also figurative metaphors: Warehouses of wind and moon fill the roof, The boat carrying Yen Ha is extremely heavy. (“The Art of Inspiration” 24 – Nguyen Trai) Warehouse and boat are two metaphors about Nguyen Trai's soul. Phong, moon (moon breeze), yen ha (smoke) are the beauties of nature. Nguyen Trai used metaphor to proudly express his pure, noble soul, rich in love for nature when returning to Con Son. Value and meaning: When speaking and writing, the art of using metaphors not only makes the expression richer in imagery and expression but also makes the language more concise, more refined, and more refined. For example: Every day the sun passes over the mausoleum Seeing a red sun in the steering so…
Hướng dẫn Tóm tắt nội dung chính của Truyện Kiều của Nguyễn Du Truyện Kiều gồm có 3254 câu nội dung chính như sau: Đoạn mở bài (câu 1-38): Tác giả đem cái thuyết “tài mệnh tương đố” (tài và mệnh ghét nhau) nêu lên làm luận đề cuốn truyện. Rồi tác giả nói gia thế và tả tài sắc hai chị em Thúy Kiều. I.- Thúy Kiều và Kim Trọng đính ước với nhau (câu 39-528). – Thúy Kiều cùng hai em là Thúy Vân và Vương Quan, nhân đi chơi thanh minh, gặp mả Đạm Tiên là một người kỹ nữ xưa có tài sắc mà số mệnh không ra gì; lúc sắp về, lại gặp Kim Trọng, hai bên bắt đầu yêu nhau. Kiều về nhà, nghĩ đến thân thế Đạm Tiên mà lo cho hậu vận của mình; lại nhớ đến Kim Trọng, không biết duyên phận sẽ ra thế nào. Kim Trọng từ khi biết Kiều cũng đem lòng tưởng nhớ, rồi tìm đến ở cạnh nhà Kiều, nhân thế mà hai bên gặp nhau và thề nguyền gắn bó với nhau. II.- Vương ông mắc oan. Thúy Kiều bán mình (câu 529-864). – Sau khi Kim Trọng từ biệt Kiều về hộ tang chú thì bỗng Vương ông bị thằng bán tơ vu oan phải bắt. Kiều muốn có tiền để chuộc tội cha, phải bán mình cho Mã Giám sinh và theo về Lâm tri. III.- Kiều ở thanh lâu (câu 865-1274). – Mã Giám sinh nói dối là mua Kiều làm thiếp; thực ra, hắn chỉ là tay sai của Tú bà, một mụ chủ một ngôi hàng thanh lâu. Khi đến Lâm tri, Kiều biết mình bị lừa, toan bề tự vận. Tú bà mới dỗ ngọt cho Kiều ra ở lầu Ngưng bích nghỉ ngơi, hứa sẽ tìm nơi xứng đáng gả cho. Tú bà bèn lập mưu sai Sở Khanh làm ra mặt nghĩa hiệp rủ Kiều đi trốn. Đến nửa đường, Sở Khanh bỏ Kiều, Kiều bị Tú bà bắt về, ép phải ra tiếp khách. IV. Kiều vào tay Hoạn thư (câu 1275-1992). – Kiều ở thanh lâu ba năm. Sau gặp một người làng chơi là Thúc sinh lấy Kiều làm thiếp. Nhưng vợ cả Thúc sinh là Hoạn thư được tin, nổi ghen, sai người, nhân khi Thúc sinh đi vắng, đến bắt Thúy Kiều đem về nhà hành hạ khổ sở. V. Kiều lấy Từ Hải (câu 1993-2736). – Kiều bỏ nhà Hoạn thư trốn đi đến ở chùa bà vãi Giác Duyên, được ít lâu bà cho Kiều sang ở nhà một người đàn bà thường đến lễ chùa là Bạc bà. Không ngờ Bạc bà cũng một phường với Tú bà, giả làm lễ cưới Kiều cho cháu mình là Bạc Hạnh để đem bán Kiều cho một hàng thanh lâu ở châu Thai. Thế là Kiều lại phải vào thanh lâu lần thứ hai. Được ít lâu, Kiều gặp một người tướng giặc là Từ Hải lấy làm vợ. Kiều nhân dịp báo ơn xưa, trả oán cũ. Nhưng không bao lâu Từ Hải mắc lừa bị giết chết. Kiều bèn đâm đầu xuống sông Tiền đường, nhưng nhờ có bà vãi Giác Duyên vớt lên đem đến ở trong am của bà. VI. Kim, Kiều tái hợp (câu 2737-3240). – Kim Trọng, sau khi về hộ tang chú, trở lại tìm Kiều; nghe tin Kiều phải bán mình, mới nghe lời Kiều dặn lúc ra đi, lấy Thúy Vân. Sau, cùng với Vương Quan đi thi đỗ, được bổ làm quan, mới dò la tin tức Kiều, rồi gặp bà vãi Giác Duyên đưa đến chỗ Kiều ở. Hai bên được đoàn tụ cùng nhau.
Instruct Summary of the main content of The Tale of Kieu by Nguyen Du The Tale of Kieu includes 3254 sentences with the following main content: Introductory paragraph (sentences 1-38): The author brings up the theory of "comparable fortunes" (talent and destiny hate each other) as the thesis of the story. Then the author talked about the family background and described the talents of the two sisters Thuy Kieu. I.- Thuy Kieu and Kim Trong got engaged (verses 39-528). – Thuy Kieu and her two younger siblings, Thuy Van and Vuong Quan, while going out to visit Thanh Minh, met the grave of Dam Tien, an ancient courtesan with great talent and beauty but with an unfortunate fate; When he was about to return, he met Kim Trong again, and the two sides began to love each other. Kieu returned home, thinking about Dam Tien's life and worrying about her future; Remembering Kim Trong again, I don't know what fate will bring. When Kim Trong knew Kieu, he also remembered her and came to live next to Kieu's house. Because of this, the two sides met and swore to stay close to each other. II.- The king was wronged. Thuy Kieu sold herself (verses 529-864). – After Kim Trong said goodbye to Kieu and went to attend his uncle's funeral, suddenly Vuong was falsely accused by a silk seller and had to be arrested. Kieu wanted money to atone for her father's sins, so she had to sell herself to Ma Giam Sinh and follow Lam Tri. III.- Kieu in Thanh Lau (verses 865-1274). – Ma Giam Sinh lied and said he bought Kieu as a concubine; In fact, he is just a henchman of Tu Ba, the owner of a restaurant. When she arrived at Lam Tri, Kieu knew she had been tricked and attempted to commit suicide. Mrs. Tu then coaxed Kieu to go to the Ngung Bich building to rest, promising to find a worthy place to marry her. Mrs. Tu then devised a plan to have So Khanh pretend to be chivalrous and invite Kieu to escape. Halfway there, So Khanh abandoned Kieu. Kieu was caught by Mrs. Tu and forced to go out to receive guests. IV. Kieu fell into the hands of Hoan Thu (verses 1275-1992). – Kieu stayed at Thanh Lau for three years. After meeting a villager, Thuc Sinh took Kieu as his concubine. But when Thuc Sinh's first wife, Hoan Thu, heard the news, she became jealous and sent someone, while Thuc Sinh was away, to arrest Thuy Kieu and bring her home to torture her. V. Kieu married Tu Hai (verses 1993-2736). – Kieu ran away from Hoan Thu's house and went to live at the pagoda of Mrs. Giac Duyen. After a while, she let Kieu stay at the house of a woman who often came to worship at the pagoda, Mrs. Bac. Unexpectedly, Mrs. Bac was also in the same ward as Tu Ba. She pretended to marry Kieu for her nephew Bac Hanh in order to sell Kieu to a bar shop in Chau Thai. So Kieu had to go back to the castle for the second time. Not long after, Kieu met an enemy general named Tu Hai and married him. Kieu took the opportunity to repay old gratitude and repay old resentment. But Tu Hai was soon tricked and killed. Kieu then plunged into the Tien Duong River, but thanks to Giac Duyen's grandmother, he picked it up and brought it to her hermitage. BECAUSE. Kim and Kieu reunite (verses 2737-3240). – Kim Trong, after returning to attend his uncle's funeral, returned to look for Kieu; Hearing that Kieu had to sell herself, she listened to Kieu's instructions when she left and married Thuy Van. Afterwards, together with Vuong Quan, he passed the exam and was appointed as an official. He searched for news about Kieu, then met Mrs. Giac Duyen and took her to Kieu's place. The two sides are reunited together.
Hướng dẫn Tóm Tắt Tam Quốc diễn nghĩa.La Quán Trung Để tiện cho việc dạy – học đoạn trích “Hồi Trống Cổ Thành “và “Tào Tháo uống rượu luận anh hùng” trong SGK Ngữ Văn 10, Admin cập nhật bản tóm tắt tiểu thuyết Tam Quốc diễn nghĩa. Thầy cô và các bạn học sinh có thể tham khảo tại đây: Truyện lấy bối cảnh vào thời suy vi của nhà Hán khi mà những hoàng đế cuối cùng của nhà Hán quá tin dùng giới hoạn quan mà gạt bỏ những bề tôi trung trực. Triều đình ngày càng bê tha, hư nát, khiến kinh tế suy sụp và an ninh bất ổn. Đến đời Hán Linh Đế, loạn giặc Khăn Vàng nổ ra do Trương Giác, một người đã học được nhiều ma thuật và bùa phép chữa bệnh, cầm đầu. Hà Tiến chỉ huy các quan đại thần chẳng mấy chốc dập tắt được quân nổi loạn. Hà Tiến là anh rể vua và nhờ đó mà nhậm được chức đại tướng quân của triều đình. Tuy nhiên, Hà Tiến lại mắc mưu của đám hoạn quan, bị chúng lừa vào cung và giết chết. Liền sau đó các quan đại thần nổi giận chạy vào cung giết sạch đám hoạn quan này. Trong số các quan lại cứu vua có Đổng Trác là thứ sử Tây Lương. Đổng Trác nhân cơ hội này vào cung bảo vệ vua. Sau đó ông ta phế truất Thiếu Đế và lập Trần Lưu Vương lên làm hoàng đế, rồi làm tướng quốc nắm hết quyền triều chính vào tay mình. Hành vi tàn bạo, lộng quyền của Đổng Trác khiến quan lại vô cùng phẫn nộ, họ hội quân với Viên Thiệu và lập mưu khiến Đổng Trác dời đô từ Lạc Dương về Trường An. Cuối cùng Đổng Trác bị giết bởi chính người con nuôi của ông ta là Lữ Bố, một chiến binh dũng mãnh, do cùng giành giật một người con gái đẹp là Điêu Thuyền. Trong lúc đó, trong các quan lại lục đục nội bộ với nhau, Tôn Kiên, cha của Tôn Sách và Tôn Quyền, lợi dụng lúc lộn xộn, đã lấy được ngọc tỷ triều đình. Không còn triều đình trung ương vững mạnh, các quan lại quay về địa phương của mình và bắt đầu giao chiến với nhau. Nhiều anh hùng như Tào Tháo và Lưu Bị, mặc dù chưa chính thức được ban tước và quân, cũng bắt đầu xây dựng lực lượng riêng. Nhân vật Tào Tháo trong Kinh Kịch. Theo truyền thống, khuôn mặt ông ta được tô trắng để tượng trưng cho tính cách gian hùng. Quyền lực của Tào Tháo ngày một mạnh lên sau một loạt những sự kiện sau đó. Trong chiến dịch quân sự đánh Viên Thiệu, chiến thắng quyết định của Tào Tháo là tại trận Quan Độ. Thất bại của Viên Thiệu đã đặt cơ sở cho Tào Tháo củng cố quyền lực tuyệt đối khắp miền bắc Trung Quốc. Trong lúc đó, Lưu Bị đã lập được căn cứ ở Nhữ Nam và tự đem quân đi tấn công Tào Tháo nhưng bị thất bại. Lưu Bị bèn tới Kinh Châu nhờ Lưu Biểu là một người anh họ xa của Lưu Bị cho lánh nạn. Tại đó Lưu Bị, sau ba lần đến thăm lều cỏ của Gia Cát Lượng, đã chiêu mộ được ông ta làm mưu sĩ. Hai lần đầu tiên, Gia Cát lấy cớ đi có việc để từ chối gặp khách. Chỉ có lần cuối cùng vì cảm kích bởi sự chân thành và kiên trì của Lưu Bị mà Gia Cát Lượng mới quyết định theo phò tá. Chẳng may Lưu Biểu mất, để lại Kinh Châu cho hai con trai nhỏ. Sau khi trừ được Viên Thiệu, Tào Tháo lập tức nhòm ngó về phía nam. Ông ta tự đem quân đi chiếm Tân Dã. Lưu Bị được lòng dân chúng thành Tân Dã nên trước viễn cảnh bị xâm chiếm, toàn bộ dân trong thành một lòng xin đi theo Lưu Bị. Lưu Bị đành đưa dân Tân Dã về thành Tương Dương của người con thứ của Lưu Biểu, tại đây Lưu Bị bị từ chối không cho vào thành. Không còn cách nào khác ông phải tiếp tục nam tiến xuống Giang Hạ (江夏), là thành của Lưu Kỳ người con trưởng của Lưu Biểu. Ở Giang Hạ, Lưu Bị cuối cùng cũng tạm có được một chỗ đặt chân để chống lại cuộc tấn công dữ dội của Tào Tháo. Còn ở phía tây nam, Tôn Quyền vừa mới lên nắm quyền sau cái chết của người anh là Tôn Sách. Cả Tào Tháo lẫn Lưu Bị đều định liên kết với Tôn Quyền. Tuy nhiên, Gia Cát Lượng tự mình đến quận Sài Tang (柴桑) và thuyết được Tôn Quyền hợp tác với Lưu Bị. Liên minh này đã dẫn đến thất bại thảm hại nhất của Tào Tháo tại trận Xích Bích Nơi từng diễn ra trận Xích Bích Với ý định loại trừ Lưu Bị, người mà Tôn Quyền cho là một mối đe dọa tiềm tàng, ông ta bày mưu gả em gái cho Lưu Bị. Sau đó, Lưu Bị mắc mưu sang Sài Tang để làm lễ cưới. Tuy nhiên, Tôn Quyền rất nghe lời mẹ Ngô Quốc Thái Phu Nhân; bà này rất quý Lưu Bị và không cho ai hãm hại Lưu Bị. Cũng do mưu lược của Gia Cát Lượng mà Lưu Bị cuối cùng đã thoát được quay về Giang Hạ cùng với người vợ mới. Tình trạng giằng co giữa ba thế lực vẫn bế tắc cho đến khi Tào Tháo chết vào năm 219 (có lẽ do u não). Năm sau đó, con thứ của Tào Tháo là Tào Phi ép phế Hiến Đế và lập ra nhà Ngụy. Đáp lại, Lưu Bị tự xưng đế Thục Hán (để chứng tỏ vẫn mang dòng máu quý tộc nhà Hán nhưng đặt đô tại Thành Đô Thục). Lúc này, Tôn Quyền lại ngả về phía Ngụy. Ông ta chịu để Tào Phi phong vương nước Ngô. Tôn Quyền làm việc này nhằm tập trung lực lượng chống Lưu Bị, người đã từng khởi binh đánh Ngô để trả thù cho Quan Vũ bị Tôn Quyền giết chết. Một loạt những sai lầm mang tính chiến lược do hành động nóng vội của Lưu Bị đã dẫn đến thất bại của quân Thục. Tuy nhiên, Lục Tốn (陆逊), quân sư phía Ngô đã từng chĩa mũi nhọn tấn công về phía Thục, đã ngưng không tiếp tục dấn sâu về phía tây. Vì tin vào đòn trừng phạt của Lục Tốn, Tào Phi phát động một cuộc xâm lược vào nước Ngô vì cho rằng như vậy quân Ngô vẫn còn ở ngoài nước. Cuộc tấn công đã bị đè bẹp bởi sự kháng cự quyết liệt của quân Ngô cùng với bệnh dịch bùng phát phía bên quân Ngụy. Trong lúc đó tại nước Thục, Lưu Bị bị bệnh chết và để lại con trai Lưu Thiện còn nhỏ dại, phó thác cho Gia Cát Lượng chăm sóc. Nắm bắt cơ hội này, Tào Phi gắng mua chuộc một số lực lượng, trong đó có Tôn Quyền và các bộ tộc thiểu số để tấn công nước Thục. Một sứ giả của Thục thuyết được Tôn Quyền lui quân, nhưng Gia Cát Lượng vẫn phải lo xử lý quân của các bộ tộc thiểu số. Một trong những mưu lược tài ba cuối cùng của Gia Cát Lượng là tiến hành chiến dịch thu phục Mạnh Hoạch, thủ lĩnh bộ tộc người Man (蛮族). Gia Cát Lượng đã bảy lần bắt sống Mạnh Hoạch, lần nào cũng cho thả ra nguyên vẹn. Mạnh Hoạch vì cảm động bởi mưu trí và lòng nhân từ của Gia Cát Lượng nên đã thề mãi mãi gắn bó với nhà Thục. Trong lúc này, Tào Phi cũng lâm bệnh mà chết. Gia Cát Lượng liền nhìn về phía bắc. Tuy thế, ông không còn sống được bao lâu nữa. Chiến thắng đáng kể cuối cùng của ông chống lại quân Ngụy có lẽ là chiêu hàng được Khương Duy về phía mình. Khương Duy trước đó là một tướng bên Ngụy, về tài năng có thể nói là một chín một mười nếu so với Gia Cát Lượng. Khương Duy tiếp tục tiến hành chiến dịch của Gia Cát Lượng chống lại nhà Ngụy tới một kết cục khá cay đắng, ngay cả sau khi Lưu Thiện đầu hàng. Khương Duy bày mưu kích động xung đột giữa hai tướng lớn phía Ngụy. Kế sách này đã tiến rất sát đến thành công. Thật không may, bệnh tim bộc phát ngay giữa trận đánh cuối cùng. Ông liền dùng kiếm tự vận, đánh dấu kháng cự cuối cùng của nhà Thục. Cuộc chiến kéo dài nhiều năm giữa Ngụy và Thục thì phía Ngụy liên tục đổi ngôi. Nhà họ Tào ngày một yếu thế. Cuối cùng, vào thời Tào Hoán, cháu đại thần Tư Mã Ý là Tư Mã Viêm bắt Tào Hoán nhường ngôi giống như Tào Phi đã từng ép Hiến Đế, tức là Tấn Vũ Đế. Tấn Vũ Đế sau đó lập ra nhà Tấn vào năm 265. Vua cuối cùng của Ngô là Tôn Hạo (孙皓) đến năm 280 bị Tấn Vũ Đế chinh phục. Cả ba vua cuối cùng của ba nước là Tào Hoán, Lưu Thiện và Tôn Hạo, được sống cho đến tận cuối đời. Và thế là thời đại Tam Quốc cuối cùng cũng chấm dứt sau gần một thế kỷ đầy xung đột.
Hướng dẫn Tóm Tắt Tam Quốc diễn nghĩa.La Quán Trung Để tiện cho việc dạy – học đoạn trích “Hồi Trống Cổ Thành “và “Tào Tháo uống rượu luận anh hùng” trong SGK Ngữ Văn 10, Admin cập nhật bản tóm tắt tiểu thuyết Tam Quốc diễn nghĩa. Thầy cô và các bạn học sinh có thể tham khảo tại đây: Truyện lấy bối cảnh vào thời suy vi của nhà Hán khi mà những hoàng đế cuối cùng của nhà Hán quá tin dùng giới hoạn quan mà gạt bỏ những bề tôi trung trực. Triều đình ngày càng bê tha, hư nát, khiến kinh tế suy sụp và an ninh bất ổn. Đến đời Hán Linh Đế, loạn giặc Khăn Vàng nổ ra do Trương Giác, một người đã học được nhiều ma thuật và bùa phép chữa bệnh, cầm đầu. Hà Tiến chỉ huy các quan đại thần chẳng mấy chốc dập tắt được quân nổi loạn. Hà Tiến là anh rể vua và nhờ đó mà nhậm được chức đại tướng quân của triều đình. Tuy nhiên, Hà Tiến lại mắc mưu của đám hoạn quan, bị chúng lừa vào cung và giết chết. Liền sau đó các quan đại thần nổi giận chạy vào cung giết sạch đám hoạn quan này. Trong số các quan lại cứu vua có Đổng Trác là thứ sử Tây Lương. Đổng Trác nhân cơ hội này vào cung bảo vệ vua. Sau đó ông ta phế truất Thiếu Đế và lập Trần Lưu Vương lên làm hoàng đế, rồi làm tướng quốc nắm hết quyền triều chính vào tay mình. Hành vi tàn bạo, lộng quyền của Đổng Trác khiến quan lại vô cùng phẫn nộ, họ hội quân với Viên Thiệu và lập mưu khiến Đổng Trác dời đô từ Lạc Dương về Trường An. Cuối cùng Đổng Trác bị giết bởi chính người con nuôi của ông ta là Lữ Bố, một chiến binh dũng mãnh, do cùng giành giật một người con gái đẹp là Điêu Thuyền. Trong lúc đó, trong các quan lại lục đục nội bộ với nhau, Tôn Kiên, cha của Tôn Sách và Tôn Quyền, lợi dụng lúc lộn xộn, đã lấy được ngọc tỷ triều đình. Không còn triều đình trung ương vững mạnh, các quan lại quay về địa phương của mình và bắt đầu giao chiến với nhau. Nhiều anh hùng như Tào Tháo và Lưu Bị, mặc dù chưa chính thức được ban tước và quân, cũng bắt đầu xây dựng lực lượng riêng. Nhân vật Tào Tháo trong Kinh Kịch. Theo truyền thống, khuôn mặt ông ta được tô trắng để tượng trưng cho tính cách gian hùng. Quyền lực của Tào Tháo ngày một mạnh lên sau một loạt những sự kiện sau đó. Trong chiến dịch quân sự đánh Viên Thiệu, chiến thắng quyết định của Tào Tháo là tại trận Quan Độ. Thất bại của Viên Thiệu đã đặt cơ sở cho Tào Tháo củng cố quyền lực tuyệt đối khắp miền bắc Trung Quốc. Trong lúc đó, Lưu Bị đã lập được căn cứ ở Nhữ Nam và tự đem quân đi tấn công Tào Tháo nhưng bị thất bại. Lưu Bị bèn tới Kinh Châu nhờ Lưu Biểu là một người anh họ xa của Lưu Bị cho lánh nạn. Tại đó Lưu Bị, sau ba lần đến thăm lều cỏ của Gia Cát Lượng, đã chiêu mộ được ông ta làm mưu sĩ. Hai lần đầu tiên, Gia Cát lấy cớ đi có việc để từ chối gặp khách. Chỉ có lần cuối cùng vì cảm kích bởi sự chân thành và kiên trì của Lưu Bị mà Gia Cát Lượng mới quyết định theo phò tá. Chẳng may Lưu Biểu mất, để lại Kinh Châu cho hai con trai nhỏ. Sau khi trừ được Viên Thiệu, Tào Tháo lập tức nhòm ngó về phía nam. Ông ta tự đem quân đi chiếm Tân Dã. Lưu Bị được lòng dân chúng thành Tân Dã nên trước viễn cảnh bị xâm chiếm, toàn bộ dân trong thành một lòng xin đi theo Lưu Bị. Lưu Bị đành đưa dân Tân Dã về thành Tương Dương của người con thứ của Lưu Biểu, tại đây Lưu Bị bị từ chối không cho vào thành. Không còn cách nào khác ông phải tiếp tục nam tiến xuống Giang Hạ (江夏), là thành của Lưu Kỳ người con trưởng của Lưu Biểu. Ở Giang Hạ, Lưu Bị cuối cùng cũng tạm có được một chỗ đặt chân để chống lại cuộc tấn công dữ dội của Tào Tháo. Còn ở phía tây nam, Tôn Quyền vừa mới lên nắm quyền sau cái chết của người anh là Tôn Sách. Cả Tào Tháo lẫn Lưu Bị đều định liên kết với Tôn Quyền. Tuy nhiên, Gia Cát Lượng tự mình đến quận Sài Tang (柴桑) và thuyết được Tôn Quyền hợp tác với Lưu Bị. Liên minh này đã dẫn đến thất bại thảm hại nhất của Tào Tháo tại trận Xích Bích Nơi từng diễn ra trận Xích Bích Với ý định loại trừ Lưu Bị, người mà Tôn Quyền cho là một mối đe dọa tiềm tàng, ông ta bày mưu gả em gái cho Lưu Bị. Sau đó, Lưu Bị mắc mưu sang Sài Tang để làm lễ cưới. Tuy nhiên, Tôn Quyền rất nghe lời mẹ Ngô Quốc Thái Phu Nhân; bà này rất quý Lưu Bị và không cho ai hãm hại Lưu Bị. Cũng do mưu lược của Gia Cát Lượng mà Lưu Bị cuối cùng đã thoát được quay về Giang Hạ cùng với người vợ mới. Tình trạng giằng co giữa ba thế lực vẫn bế tắc cho đến khi Tào Tháo chết vào năm 219 (có lẽ do u não). Năm sau đó, con thứ của Tào Tháo là Tào Phi ép phế Hiến Đế và lập ra nhà Ngụy. Đáp lại, Lưu Bị tự xưng đế Thục Hán (để chứng tỏ vẫn mang dòng máu quý tộc nhà Hán nhưng đặt đô tại Thành Đô Thục). Lúc này, Tôn Quyền lại ngả về phía Ngụy. Ông ta chịu để Tào Phi phong vương nước Ngô. Tôn Quyền làm việc này nhằm tập trung lực lượng chống Lưu Bị, người đã từng khởi binh đánh Ngô để trả thù cho Quan Vũ bị Tôn Quyền giết chết. Một loạt những sai lầm mang tính chiến lược do hành động nóng vội của Lưu Bị đã dẫn đến thất bại của quân Thục. Tuy nhiên, Lục Tốn (陆逊), quân sư phía Ngô đã từng chĩa mũi nhọn tấn công về phía Thục, đã ngưng không tiếp tục dấn sâu về phía tây. Vì tin vào đòn trừng phạt của Lục Tốn, Tào Phi phát động một cuộc xâm lược vào nước Ngô vì cho rằng như vậy quân Ngô vẫn còn ở ngoài nước. Cuộc tấn công đã bị đè bẹp bởi sự kháng cự quyết liệt của quân Ngô cùng với bệnh dịch bùng phát phía bên quân Ngụy. Trong lúc đó tại nước Thục, Lưu Bị bị bệnh chết và để lại con trai Lưu Thiện còn nhỏ dại, phó thác cho Gia Cát Lượng chăm sóc. Nắm bắt cơ hội này, Tào Phi gắng mua chuộc một số lực lượng, trong đó có Tôn Quyền và các bộ tộc thiểu số để tấn công nước Thục. Một sứ giả của Thục thuyết được Tôn Quyền lui quân, nhưng Gia Cát Lượng vẫn phải lo xử lý quân của các bộ tộc thiểu số. Một trong những mưu lược tài ba cuối cùng của Gia Cát Lượng là tiến hành chiến dịch thu phục Mạnh Hoạch, thủ lĩnh bộ tộc người Man (蛮族). Gia Cát Lượng đã bảy lần bắt sống Mạnh Hoạch, lần nào cũng cho thả ra nguyên vẹn. Mạnh Hoạch vì cảm động bởi mưu trí và lòng nhân từ của Gia Cát Lượng nên đã thề mãi mãi gắn bó với nhà Thục. Trong lúc này, Tào Phi cũng lâm bệnh mà chết. Gia Cát Lượng liền nhìn về phía bắc. Tuy thế, ông không còn sống được bao lâu nữa. Chiến thắng đáng kể cuối cùng của ông chống lại quân Ngụy có lẽ là chiêu hàng được Khương Duy về phía mình. Khương Duy trước đó là một tướng bên Ngụy, về tài năng có thể nói là một chín một mười nếu so với Gia Cát Lượng. Khương Duy tiếp tục tiến hành chiến dịch của Gia Cát Lượng chống lại nhà Ngụy tới một kết cục khá cay đắng, ngay cả sau khi Lưu Thiện đầu hàng. Khương Duy bày mưu kích động xung đột giữa hai tướng lớn phía Ngụy. Kế sách này đã tiến rất sát đến thành công. Thật không may, bệnh tim bộc phát ngay giữa trận đánh cuối cùng. Ông liền dùng kiếm tự vận, đánh dấu kháng cự cuối cùng của nhà Thục. Cuộc chiến kéo dài nhiều năm giữa Ngụy và Thục thì phía Ngụy liên tục đổi ngôi. Nhà họ Tào ngày một yếu thế. Cuối cùng, vào thời Tào Hoán, cháu đại thần Tư Mã Ý là Tư Mã Viêm bắt Tào Hoán nhường ngôi giống như Tào Phi đã từng ép Hiến Đế, tức là Tấn Vũ Đế. Tấn Vũ Đế sau đó lập ra nhà Tấn vào năm 265. Vua cuối cùng của Ngô là Tôn Hạo (孙皓) đến năm 280 bị Tấn Vũ Đế chinh phục. Cả ba vua cuối cùng của ba nước là Tào Hoán, Lưu Thiện và Tôn Hạo, được sống cho đến tận cuối đời. Và thế là thời đại Tam Quốc cuối cùng cũng chấm dứt sau gần một thế kỷ đầy xung đột.
Hướng dẫn Để tiện cho việc dạy – học đoạn trích “Hồi Trống Cổ Thành “và “Tào Tháo uống rượu luận anh hùng” trong SGK Ngữ Văn 10, Admin cập nhật bản tóm tắt tiểu thuyết Tam Quốc diễn nghĩa. Thầy cô và các bạn học sinh có thể tham khảo tại đây: Truyện lấy bối cảnh vào thời suy vi của nhà Hán khi mà những hoàng đế cuối cùng của nhà Hán quá tin dùng giới hoạn quan mà gạt bỏ những bề tôi trung trực. Triều đình ngày càng bê tha, hư nát, khiến kinh tế suy sụp và an ninh bất ổn. Đến đời Hán Linh Đế, loạn giặc Khăn Vàng nổ ra do Trương Giác, một người đã học được nhiều ma thuật và bùa phép chữa bệnh, cầm đầu. Hà Tiến chỉ huy các quan đại thần chẳng mấy chốc dập tắt được quân nổi loạn. Hà Tiến là anh rể vua và nhờ đó mà nhậm được chức đại tướng quân của triều đình. Tuy nhiên, Hà Tiến lại mắc mưu của đám hoạn quan, bị chúng lừa vào cung và giết chết. Liền sau đó các quan đại thần nổi giận chạy vào cung giết sạch đám hoạn quan này. Trong số các quan lại cứu vua có Đổng Trác là thứ sử Tây Lương. Đổng Trác nhân cơ hội này vào cung bảo vệ vua. Sau đó ông ta phế truất Thiếu Đế và lập Trần Lưu Vương lên làm hoàng đế, rồi làm tướng quốc nắm hết quyền triều chính vào tay mình. Hành vi tàn bạo, lộng quyền của Đổng Trác khiến quan lại vô cùng phẫn nộ, họ hội quân với Viên Thiệu và lập mưu khiến Đổng Trác dời đô từ Lạc Dương về Trường An. Cuối cùng Đổng Trác bị giết bởi chính người con nuôi của ông ta là Lữ Bố, một chiến binh dũng mãnh, do cùng giành giật một người con gái đẹp là Điêu Thuyền. Trong lúc đó, trong các quan lại lục đục nội bộ với nhau, Tôn Kiên, cha của Tôn Sách và Tôn Quyền, lợi dụng lúc lộn xộn, đã lấy được ngọc tỷ triều đình. Không còn triều đình trung ương vững mạnh, các quan lại quay về địa phương của mình và bắt đầu giao chiến với nhau. Nhiều anh hùng như Tào Tháo và Lưu Bị, mặc dù chưa chính thức được ban tước và quân, cũng bắt đầu xây dựng lực lượng riêng. Nhân vật Tào Tháo trong Kinh Kịch. Theo truyền thống, khuôn mặt ông ta được tô trắng để tượng trưng cho tính cách gian hùng. Quyền lực của Tào Tháo ngày một mạnh lên sau một loạt những sự kiện sau đó. Trong chiến dịch quân sự đánh Viên Thiệu, chiến thắng quyết định của Tào Tháo là tại trận Quan Độ. Thất bại của Viên Thiệu đã đặt cơ sở cho Tào Tháo củng cố quyền lực tuyệt đối khắp miền bắc Trung Quốc. Trong lúc đó, Lưu Bị đã lập được căn cứ ở Nhữ Nam và tự đem quân đi tấn công Tào Tháo nhưng bị thất bại. Lưu Bị bèn tới Kinh Châu nhờ Lưu Biểu là một người anh họ xa của Lưu Bị cho lánh nạn. Tại đó Lưu Bị, sau ba lần đến thăm lều cỏ của Gia Cát Lượng, đã chiêu mộ được ông ta làm mưu sĩ. Hai lần đầu tiên, Gia Cát lấy cớ đi có việc để từ chối gặp khách. Chỉ có lần cuối cùng vì cảm kích bởi sự chân thành và kiên trì của Lưu Bị mà Gia Cát Lượng mới quyết định theo phò tá. Chẳng may Lưu Biểu mất, để lại Kinh Châu cho hai con trai nhỏ. Sau khi trừ được Viên Thiệu, Tào Tháo lập tức nhòm ngó về phía nam. Ông ta tự đem quân đi chiếm Tân Dã. Lưu Bị được lòng dân chúng thành Tân Dã nên trước viễn cảnh bị xâm chiếm, toàn bộ dân trong thành một lòng xin đi theo Lưu Bị. Lưu Bị đành đưa dân Tân Dã về thành Tương Dương của người con thứ của Lưu Biểu, tại đây Lưu Bị bị từ chối không cho vào thành. Không còn cách nào khác ông phải tiếp tục nam tiến xuống Giang Hạ (江夏), là thành của Lưu Kỳ người con trưởng của Lưu Biểu. Ở Giang Hạ, Lưu Bị cuối cùng cũng tạm có được một chỗ đặt chân để chống lại cuộc tấn công dữ dội của Tào Tháo. Còn ở phía tây nam, Tôn Quyền vừa mới lên nắm quyền sau cái chết của người anh là Tôn Sách. Cả Tào Tháo lẫn Lưu Bị đều định liên kết với Tôn Quyền. Tuy nhiên, Gia Cát Lượng tự mình đến quận Sài Tang (柴桑) và thuyết được Tôn Quyền hợp tác với Lưu Bị. Liên minh này đã dẫn đến thất bại thảm hại nhất của Tào Tháo tại trận Xích Bích Nơi từng diễn ra trận Xích Bích Với ý định loại trừ Lưu Bị, người mà Tôn Quyền cho là một mối đe dọa tiềm tàng, ông ta bày mưu gả em gái cho Lưu Bị. Sau đó, Lưu Bị mắc mưu sang Sài Tang để làm lễ cưới. Tuy nhiên, Tôn Quyền rất nghe lời mẹ Ngô Quốc Thái Phu Nhân; bà này rất quý Lưu Bị và không cho ai hãm hại Lưu Bị. Cũng do mưu lược của Gia Cát Lượng mà Lưu Bị cuối cùng đã thoát được quay về Giang Hạ cùng với người vợ mới. Tình trạng giằng co giữa ba thế lực vẫn bế tắc cho đến khi Tào Tháo chết vào năm 219 (có lẽ do u não). Năm sau đó, con thứ của Tào Tháo là Tào Phi ép phế Hiến Đế và lập ra nhà Ngụy. Đáp lại, Lưu Bị tự xưng đế Thục Hán (để chứng tỏ vẫn mang dòng máu quý tộc nhà Hán nhưng đặt đô tại Thành Đô Thục). Lúc này, Tôn Quyền lại ngả về phía Ngụy. Ông ta chịu để Tào Phi phong vương nước Ngô. Tôn Quyền làm việc này nhằm tập trung lực lượng chống Lưu Bị, người đã từng khởi binh đánh Ngô để trả thù cho Quan Vũ bị Tôn Quyền giết chết. Một loạt những sai lầm mang tính chiến lược do hành động nóng vội của Lưu Bị đã dẫn đến thất bại của quân Thục. Tuy nhiên, Lục Tốn (陆逊), quân sư phía Ngô đã từng chĩa mũi nhọn tấn công về phía Thục, đã ngưng không tiếp tục dấn sâu về phía tây. Vì tin vào đòn trừng phạt của Lục Tốn, Tào Phi phát động một cuộc xâm lược vào nước Ngô vì cho rằng như vậy quân Ngô vẫn còn ở ngoài nước. Cuộc tấn công đã bị đè bẹp bởi sự kháng cự quyết liệt của quân Ngô cùng với bệnh dịch bùng phát phía bên quân Ngụy. Trong lúc đó tại nước Thục, Lưu Bị bị bệnh chết và để lại con trai Lưu Thiện còn nhỏ dại, phó thác cho Gia Cát Lượng chăm sóc. Nắm bắt cơ hội này, Tào Phi gắng mua chuộc một số lực lượng, trong đó có Tôn Quyền và các bộ tộc thiểu số để tấn công nước Thục. Một sứ giả của Thục thuyết được Tôn Quyền lui quân, nhưng Gia Cát Lượng vẫn phải lo xử lý quân của các bộ tộc thiểu số. Một trong những mưu lược tài ba cuối cùng của Gia Cát Lượng là tiến hành chiến dịch thu phục Mạnh Hoạch, thủ lĩnh bộ tộc người Man (蛮族). Gia Cát Lượng đã bảy lần bắt sống Mạnh Hoạch, lần nào cũng cho thả ra nguyên vẹn. Mạnh Hoạch vì cảm động bởi mưu trí và lòng nhân từ của Gia Cát Lượng nên đã thề mãi mãi gắn bó với nhà Thục. Trong lúc này, Tào Phi cũng lâm bệnh mà chết. Gia Cát Lượng liền nhìn về phía bắc. Tuy thế, ông không còn sống được bao lâu nữa. Chiến thắng đáng kể cuối cùng của ông chống lại quân Ngụy có lẽ là chiêu hàng được Khương Duy về phía mình. Khương Duy trước đó là một tướng bên Ngụy, về tài năng có thể nói là một chín một mười nếu so với Gia Cát Lượng. Khương Duy tiếp tục tiến hành chiến dịch của Gia Cát Lượng chống lại nhà Ngụy tới một kết cục khá cay đắng, ngay cả sau khi Lưu Thiện đầu hàng. Khương Duy bày mưu kích động xung đột giữa hai tướng lớn phía Ngụy. Kế sách này đã tiến rất sát đến thành công. Thật không may, bệnh tim bộc phát ngay giữa trận đánh cuối cùng. Ông liền dùng kiếm tự vận, đánh dấu kháng cự cuối cùng của nhà Thục. Cuộc chiến kéo dài nhiều năm giữa Ngụy và Thục thì phía Ngụy liên tục đổi ngôi. Nhà họ Tào ngày một yếu thế. Cuối cùng, vào thời Tào Hoán, cháu đại thần Tư Mã Ý là Tư Mã Viêm bắt Tào Hoán nhường ngôi giống như Tào Phi đã từng ép Hiến Đế, tức là Tấn Vũ Đế. Tấn Vũ Đế sau đó lập ra nhà Tấn vào năm 265. Vua cuối cùng của Ngô là Tôn Hạo (孙皓) đến năm 280 bị Tấn Vũ Đế chinh phục. Cả ba vua cuối cùng của ba nước là Tào Hoán, Lưu Thiện và Tôn Hạo, được sống cho đến tận cuối đời. Và thế là thời đại Tam Quốc cuối cùng cũng chấm dứt sau gần một thế kỷ đầy xung đột.
Hướng dẫn Để tiện cho việc dạy – học đoạn trích “Hồi Trống Cổ Thành “và “Tào Tháo uống rượu luận anh hùng” trong SGK Ngữ Văn 10, Admin cập nhật bản tóm tắt tiểu thuyết Tam Quốc diễn nghĩa. Thầy cô và các bạn học sinh có thể tham khảo tại đây: Truyện lấy bối cảnh vào thời suy vi của nhà Hán khi mà những hoàng đế cuối cùng của nhà Hán quá tin dùng giới hoạn quan mà gạt bỏ những bề tôi trung trực. Triều đình ngày càng bê tha, hư nát, khiến kinh tế suy sụp và an ninh bất ổn. Đến đời Hán Linh Đế, loạn giặc Khăn Vàng nổ ra do Trương Giác, một người đã học được nhiều ma thuật và bùa phép chữa bệnh, cầm đầu. Hà Tiến chỉ huy các quan đại thần chẳng mấy chốc dập tắt được quân nổi loạn. Hà Tiến là anh rể vua và nhờ đó mà nhậm được chức đại tướng quân của triều đình. Tuy nhiên, Hà Tiến lại mắc mưu của đám hoạn quan, bị chúng lừa vào cung và giết chết. Liền sau đó các quan đại thần nổi giận chạy vào cung giết sạch đám hoạn quan này. Trong số các quan lại cứu vua có Đổng Trác là thứ sử Tây Lương. Đổng Trác nhân cơ hội này vào cung bảo vệ vua. Sau đó ông ta phế truất Thiếu Đế và lập Trần Lưu Vương lên làm hoàng đế, rồi làm tướng quốc nắm hết quyền triều chính vào tay mình. Hành vi tàn bạo, lộng quyền của Đổng Trác khiến quan lại vô cùng phẫn nộ, họ hội quân với Viên Thiệu và lập mưu khiến Đổng Trác dời đô từ Lạc Dương về Trường An. Cuối cùng Đổng Trác bị giết bởi chính người con nuôi của ông ta là Lữ Bố, một chiến binh dũng mãnh, do cùng giành giật một người con gái đẹp là Điêu Thuyền. Trong lúc đó, trong các quan lại lục đục nội bộ với nhau, Tôn Kiên, cha của Tôn Sách và Tôn Quyền, lợi dụng lúc lộn xộn, đã lấy được ngọc tỷ triều đình. Không còn triều đình trung ương vững mạnh, các quan lại quay về địa phương của mình và bắt đầu giao chiến với nhau. Nhiều anh hùng như Tào Tháo và Lưu Bị, mặc dù chưa chính thức được ban tước và quân, cũng bắt đầu xây dựng lực lượng riêng. Nhân vật Tào Tháo trong Kinh Kịch. Theo truyền thống, khuôn mặt ông ta được tô trắng để tượng trưng cho tính cách gian hùng. Quyền lực của Tào Tháo ngày một mạnh lên sau một loạt những sự kiện sau đó. Trong chiến dịch quân sự đánh Viên Thiệu, chiến thắng quyết định của Tào Tháo là tại trận Quan Độ. Thất bại của Viên Thiệu đã đặt cơ sở cho Tào Tháo củng cố quyền lực tuyệt đối khắp miền bắc Trung Quốc. Trong lúc đó, Lưu Bị đã lập được căn cứ ở Nhữ Nam và tự đem quân đi tấn công Tào Tháo nhưng bị thất bại. Lưu Bị bèn tới Kinh Châu nhờ Lưu Biểu là một người anh họ xa của Lưu Bị cho lánh nạn. Tại đó Lưu Bị, sau ba lần đến thăm lều cỏ của Gia Cát Lượng, đã chiêu mộ được ông ta làm mưu sĩ. Hai lần đầu tiên, Gia Cát lấy cớ đi có việc để từ chối gặp khách. Chỉ có lần cuối cùng vì cảm kích bởi sự chân thành và kiên trì của Lưu Bị mà Gia Cát Lượng mới quyết định theo phò tá. Chẳng may Lưu Biểu mất, để lại Kinh Châu cho hai con trai nhỏ. Sau khi trừ được Viên Thiệu, Tào Tháo lập tức nhòm ngó về phía nam. Ông ta tự đem quân đi chiếm Tân Dã. Lưu Bị được lòng dân chúng thành Tân Dã nên trước viễn cảnh bị xâm chiếm, toàn bộ dân trong thành một lòng xin đi theo Lưu Bị. Lưu Bị đành đưa dân Tân Dã về thành Tương Dương của người con thứ của Lưu Biểu, tại đây Lưu Bị bị từ chối không cho vào thành. Không còn cách nào khác ông phải tiếp tục nam tiến xuống Giang Hạ (江夏), là thành của Lưu Kỳ người con trưởng của Lưu Biểu. Ở Giang Hạ, Lưu Bị cuối cùng cũng tạm có được một chỗ đặt chân để chống lại cuộc tấn công dữ dội của Tào Tháo. Còn ở phía tây nam, Tôn Quyền vừa mới lên nắm quyền sau cái chết của người anh là Tôn Sách. Cả Tào Tháo lẫn Lưu Bị đều định liên kết với Tôn Quyền. Tuy nhiên, Gia Cát Lượng tự mình đến quận Sài Tang (柴桑) và thuyết được Tôn Quyền hợp tác với Lưu Bị. Liên minh này đã dẫn đến thất bại thảm hại nhất của Tào Tháo tại trận Xích Bích Nơi từng diễn ra trận Xích Bích Với ý định loại trừ Lưu Bị, người mà Tôn Quyền cho là một mối đe dọa tiềm tàng, ông ta bày mưu gả em gái cho Lưu Bị. Sau đó, Lưu Bị mắc mưu sang Sài Tang để làm lễ cưới. Tuy nhiên, Tôn Quyền rất nghe lời mẹ Ngô Quốc Thái Phu Nhân; bà này rất quý Lưu Bị và không cho ai hãm hại Lưu Bị. Cũng do mưu lược của Gia Cát Lượng mà Lưu Bị cuối cùng đã thoát được quay về Giang Hạ cùng với người vợ mới. Tình trạng giằng co giữa ba thế lực vẫn bế tắc cho đến khi Tào Tháo chết vào năm 219 (có lẽ do u não). Năm sau đó, con thứ của Tào Tháo là Tào Phi ép phế Hiến Đế và lập ra nhà Ngụy. Đáp lại, Lưu Bị tự xưng đế Thục Hán (để chứng tỏ vẫn mang dòng máu quý tộc nhà Hán nhưng đặt đô tại Thành Đô Thục). Lúc này, Tôn Quyền lại ngả về phía Ngụy. Ông ta chịu để Tào Phi phong vương nước Ngô. Tôn Quyền làm việc này nhằm tập trung lực lượng chống Lưu Bị, người đã từng khởi binh đánh Ngô để trả thù cho Quan Vũ bị Tôn Quyền giết chết. Một loạt những sai lầm mang tính chiến lược do hành động nóng vội của Lưu Bị đã dẫn đến thất bại của quân Thục. Tuy nhiên, Lục Tốn (陆逊), quân sư phía Ngô đã từng chĩa mũi nhọn tấn công về phía Thục, đã ngưng không tiếp tục dấn sâu về phía tây. Vì tin vào đòn trừng phạt của Lục Tốn, Tào Phi phát động một cuộc xâm lược vào nước Ngô vì cho rằng như vậy quân Ngô vẫn còn ở ngoài nước. Cuộc tấn công đã bị đè bẹp bởi sự kháng cự quyết liệt của quân Ngô cùng với bệnh dịch bùng phát phía bên quân Ngụy. Trong lúc đó tại nước Thục, Lưu Bị bị bệnh chết và để lại con trai Lưu Thiện còn nhỏ dại, phó thác cho Gia Cát Lượng chăm sóc. Nắm bắt cơ hội này, Tào Phi gắng mua chuộc một số lực lượng, trong đó có Tôn Quyền và các bộ tộc thiểu số để tấn công nước Thục. Một sứ giả của Thục thuyết được Tôn Quyền lui quân, nhưng Gia Cát Lượng vẫn phải lo xử lý quân của các bộ tộc thiểu số. Một trong những mưu lược tài ba cuối cùng của Gia Cát Lượng là tiến hành chiến dịch thu phục Mạnh Hoạch, thủ lĩnh bộ tộc người Man (蛮族). Gia Cát Lượng đã bảy lần bắt sống Mạnh Hoạch, lần nào cũng cho thả ra nguyên vẹn. Mạnh Hoạch vì cảm động bởi mưu trí và lòng nhân từ của Gia Cát Lượng nên đã thề mãi mãi gắn bó với nhà Thục. Trong lúc này, Tào Phi cũng lâm bệnh mà chết. Gia Cát Lượng liền nhìn về phía bắc. Tuy thế, ông không còn sống được bao lâu nữa. Chiến thắng đáng kể cuối cùng của ông chống lại quân Ngụy có lẽ là chiêu hàng được Khương Duy về phía mình. Khương Duy trước đó là một tướng bên Ngụy, về tài năng có thể nói là một chín một mười nếu so với Gia Cát Lượng. Khương Duy tiếp tục tiến hành chiến dịch của Gia Cát Lượng chống lại nhà Ngụy tới một kết cục khá cay đắng, ngay cả sau khi Lưu Thiện đầu hàng. Khương Duy bày mưu kích động xung đột giữa hai tướng lớn phía Ngụy. Kế sách này đã tiến rất sát đến thành công. Thật không may, bệnh tim bộc phát ngay giữa trận đánh cuối cùng. Ông liền dùng kiếm tự vận, đánh dấu kháng cự cuối cùng của nhà Thục. Cuộc chiến kéo dài nhiều năm giữa Ngụy và Thục thì phía Ngụy liên tục đổi ngôi. Nhà họ Tào ngày một yếu thế. Cuối cùng, vào thời Tào Hoán, cháu đại thần Tư Mã Ý là Tư Mã Viêm bắt Tào Hoán nhường ngôi giống như Tào Phi đã từng ép Hiến Đế, tức là Tấn Vũ Đế. Tấn Vũ Đế sau đó lập ra nhà Tấn vào năm 265. Vua cuối cùng của Ngô là Tôn Hạo (孙皓) đến năm 280 bị Tấn Vũ Đế chinh phục. Cả ba vua cuối cùng của ba nước là Tào Hoán, Lưu Thiện và Tôn Hạo, được sống cho đến tận cuối đời. Và thế là thời đại Tam Quốc cuối cùng cũng chấm dứt sau gần một thế kỷ đầy xung đột.
Hướng dẫn Truyện Kiều ( Đoạn trường tân thanh) là tác phẩm quá quen thuộc trong chương trình Ngữ văn. Nhưng đa số các em học sinh chưa hiểu về nguồn gốc cái tên này. Ngày xưa Nguyễn Du đặt tên tác phẩm của mình là Đoạn trường tân thanh. Ông không hề biết đến cái tên Truyện Kiều như ngày nay chúng ta gọi. Vậy tên gọi Đoạn trường tân thanh nghĩa là gì? có thể cắt nghĩa tên gọi tác phẩm như sau: Đoạn: đứt Trường: ruột Tân: mới Thanh: âm thanh, tiếng kêu ->> tiếng kêu mới về nỗi đau đứt ruột Đó là cách giải nghĩa từng từ trong nhan đề. Vậy vì sao lại gọi là tiếng kêu mới? tiếng kêu cũ là gì? Tên gọi Đoạn trường tân thanh bắt nguồn từ 2 điển cố ở Trung Quốc Điển cố 1: có ông họ Trương ở Phúc Kiến vào rừng bắt được mấy con vượn con mang về nhà. Vượn mẹ đi kiếm mồi về thấy mất con nên đi tìm. Ông họ trương muốn bắt vượn mẹ nên mang vượn con ra đánh để chúng kêu khóc, mục đích để dụ vượn mẹ về.Vượn mẹ theo tiếng kêu gào của lũ con nên tìm đến, nhiều lần nhao vào cứu con nhưng không được. Ngày thứ 3 ông tiếp tục đánh lũ vượn con, vượn mẹ leo trên cây caonhinf xuống nhưng không làm gì được. nó kêu lên 1 tiếng thê thảm rồi chết.Ông mang xác vuộn mẹ về, mổ bụng ra xem thì thấy ruột đứt ra từng đoạn một.Vượn mẹ vì thương con mà đứt ruột chết. Câu chuyện nêu bật nỗi đau đứt ruột khi chứng kiến đàn con bị hành hạ, đánh đập. Điển cố 2: Vua Đường vũ Tông có người cung nữ tên Mạnh Tài Nhân hát hay múa giỏi. Cô gái này hay múa hát cho vua xem, được vua sùng ái. Nhà vua lâm bệnh nặng, cô vào múa hát vĩnh biệt nhà vua. Khi hát xong Mạnh Tài Nhân chết đứng. Khám tử thi thấy ruột đứt ra từng đoạn.Nhà vua băng hà, quan tài không khiêng đi được.Người ta khâm liệm 2 người và đặt 2 quan tài bên cạnh nhau thì lúc đó quan tài nhà vua mới khiêng đi được. câu chuyện nhấn mạnh tình cảm vợ chồng và nỗi đau đứt ruột khi chứng kiến cảnh chồng đau đớn.
Instruct The Tale of Kieu (Doan Truong Tan Thanh) is a very familiar work in the Literature program. But most students do not understand the origin of this name. In the past, Nguyen Du named his work Doan Truong Tan Thanh. He did not know the name The Tale of Kieu as we call it today. So what does the name Doan Truong Tan Thanh mean? The title of the work can be explained as follows: Fragment: broken Field: intestines Tan: new Sound: sound, cry ->> new cries of gut-wrenching pain That is the interpretation of each word in the title. So why is it called a new cry? What is the old cry? The name Doan Truong Tan Thanh originates from two classic stories in China Case 1: A man with the surname Truong in Fujian went into the forest and caught a few baby gibbons and brought them home. The mother ape came back from looking for food and found her baby missing, so she went looking for it. Mr. Truong wanted to catch the mother gibbon, so he brought the baby gibbons out to beat them to make them cry, with the purpose of luring the mother gibbon back. The mother gibbon followed the cries of her children so she came and tried many times to save her children but could not. On the third day, he continued to beat the baby gibbons. The mother gibbon climbed down from the tall tree but could do nothing. It let out a pitiful cry and died. He brought the mother's body back, cut open its abdomen and saw that the intestines were broken into pieces. Out of love for her child, the mother ape's intestines ruptured and died. The story highlights the heartbreaking pain of witnessing children being abused and beaten. Legend 2: King Vu Tong had a maid named Manh Tai Nhan who was good at singing and dancing. This girl often danced and sang for the king and was admired by the king. The king fell seriously ill, so she danced and sang goodbye to the king. When he finished singing, Manh Tai Nhan stopped dead. The autopsy showed that the intestines were broken into pieces. The king passed away and the coffin could not be carried. They shrouded the two people and placed the two coffins next to each other, only then could the king's coffin be carried. The story emphasizes the love between husband and wife and the heartbreaking pain of witnessing her husband in pain.
Hướng dẫn Ôn tập về các thao tác nghị luận: Phân tích, tổng hơp, diễn dịch, quy nạp, so sánh Các em thân mến! Đề thi Ngữ văn theo hướng đổi mới có 2 phần, trong đó phần đọc hiểu chiếm khoảng 3- 4 điểm, phần làm văn khoảng 6-7 điểm. Đề đọc hiểu yêu cầu học sinh phải có kiến thức và năng lực cảm thụ nhất định.Câu hỏi phần đọc hiểu rất rộng, trong đó thường có câu: văn bản trên sử dụng thao tác nghị luận nào? Để trả lời tốt câu hỏi này các em cần ôn lại lí thuyết về các thao tác nghị luận. Mục Lục Khái niệm thao tác nghị luận dùng để chỉ những hoạt động nghị luận được thực hiện theo đúng các qui trình và các yêu cầu kĩ thuật nhất định. – Có nhiều thao tác nghị luận khác nhau. Những thao tác thường gặp nhất là: Đem chia điều cần bàn luận thành các mặt, các bộ phận, các nhân tố để xem xét một cách kĩ càng, cặn kẽ. Đem các mặt, các nhân tố riêng rẽ của điều cần bàn luận kết hợp lại thành một chỉnh thể thống nhất. sau đó đưa ra nhận xét, đánh giá khái quát về vấn đề Từ nhiều cái riêng suy ra cái chung, từ nhiều sự vật cá biệt suy ra nguyên lí phổ biến. ->> câu chủ đề nằm ở cuối đoạn Từ cái chung, cái phổ biến, suy ra kết luận về những cái riêng, có tính cá biệt, đặc thù.- >> câu chủ đề nằm ở đầu đoạn Đối chiếu hai (hoặc hơn hai) sự vật có liên quan với nhau theo những tiêu chuẩn nhất định, nhằm xác định sự giống nhau, khác nhau và các mối liên hệ giữa chúng, từ đó hình thành nhận thức về sự vật.So sánh còn nhằm mục đích tìm ra sự hơn kém, nổi trội của đối tượng. Trong văn chương, so sánh còn có nhiều tác dụng tu từ Như vậy để có thể bàn luận thành công, người làm văn cần vận dụng các thao tác phù hợp với mục đích nghị luận và đặc điểm của từng thao tác. Bài 1- Trong đoạn văn dẫn dưới đây, tác giả đã sử dụng thao tác nghị luận cụ thể nào? Như nước Đại Việt ta từ trước, Vốn xưng nền văn hiến đã lậu. Núi sông, bờ cõi đã chia, Phong tục Bắc Nam cũng khác. Tử Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời gây nền độc lập, Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương. Tuy mạnh yếu nhiều lúc khác nhau, Song hào kiệt đời nào cũng có. Vậy nên: Lưu Cung tham công nên thất bại Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô, Sông Bạch đằng giết tươi Ô Mã. Việc xưa xem xét, Chứng cớ còn ghi. ( Bình Ngô Đại cáo-Nguyễn trãi) Gợi ý: 1.Từ đầu => Song hào kiệt…: tác giả đã chứng minh cho luận điểm “Nước đại Việt ta thực sự là một nước đọc lập, có chủ quyền, bằng cách chia luận điểm đó thành các mặt, rồi xem xét kĩ càng từng mặt. -Có nền văn hiến lâu đời -Có núi sông, bờ cõi riêng – Văn hoá, phong tục khác biệt – Người anh hùng tài giỏi khiến Tổ quốc bao đời nay có thể làm một phương (các đế nhất phương) trường tồn trong lịch sử => Thao tác phân tích. 2.Trong nửa sau đoạn trích, tác giả đã dẫn ra một loạt chiến công oanh liệt khác nhau ở các thời đại khác nhau, rồi khẳng định đanh thép một điểm chung: đó là những chứng cớ hiển nhiên, còn ghi khắc trong quá khứ. => Thao tác qui nạp. 3.Hai nửa đoạn trích được nối với nhau bằng từ “Vậy nên”. Tác giả đã thực hiện quá trình suy luận đi từ nguyên lí chung đến hệ quả không thể nào bác bỏ: Một đất nước đã có truyền thống văn hiến như nước Đại Việt tất yếu phải chiến thắng oanh liệt giặc ngoại xâm = > Vậy diễn dịch chính là thao tác chủ yếu được sử dụng trong đoạn trích này. Bài tập 2: Viết một bài (hoặc một đoạn) văn nghị luận), đề tài tự chọn; trong đó sử dụng ít nhất 2 trong 5 thao tác đã học Bài tập 3: phân tích hiệu quả của biện pháp so sánh trong những câu thơ sau ( Tố Hữu ) Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ Mặt trời chân lý chói qua tim Hồn tôi là một vườn hoa lá Rất đậm hương và rộn tiếng chim. Gợi ý: so sánh hồn tôi- vườn hoa lá
Instruct Review of argumentative operations: Analysis, synthesis, deduction, induction, comparison My children! The innovation-oriented Literature exam has 2 parts, of which the reading comprehension part is about 3-4 points, the writing part is about 6-7 points. Reading comprehension questions require students to have certain knowledge and perceptual abilities. Reading comprehension questions are very broad, often asking: What argumentative operations does the above text use? To answer this question well, you need to review the theory of argumentative operations. Table of contents The concept of deliberative operations refers to deliberative activities that are carried out in accordance with certain procedures and technical requirements. – There are many different discussion operations. The most common operations are: Divide what needs to be discussed into aspects, parts, and factors to consider carefully and thoroughly. Bring the separate aspects and elements of what needs to be discussed together into a unified whole. Then give comments and general assessments of the problem From many particular things, deduce the general, from many individual things, deduce universal principles. ->> topic sentence is at the end of the paragraph From the general and universal things, draw conclusions about the particular, individual and specific things.- >> topic sentence is at the beginning of the paragraph Compare two (or more) related things according to certain standards, in order to determine the similarities, differences and relationships between them, thereby forming an awareness of the things.So Comparison also aims to find the superiority and superiority of the object. In literature, comparison also has many rhetorical effects Thus, to be able to discuss successfully, writers need to apply actions appropriate to the purpose of discussion and the characteristics of each action. Lesson 1- In the passage cited below, what specific argumentative operation did the author use? Like our Dai Viet country from before, Capital claims to be a pirated civilization. Mountains and rivers, borders have been divided, North and South customs are also different. Tu Trieu, Dinh, Ly, and Tran for generations built independence. Along with Han, Tang, Song, and Yuan, each side declared their own emperor. Although strong and weak at times, There are always heroes in every generation. So that: Liu Gong was greedy for work and failed Trieu Tiet likes to be great and must perish Ham Tu Gate captured Toa Do alive, Bach Dang River killed O Ma. The past is considered, The evidence is still recorded. (Binh Ngo Dai Cao-Nguyen Trai) Suggest: 1.From the beginning => Song of heroes...: the author has proven the thesis "Our great country of Vietnam is truly an independent, sovereign country, by dividing that thesis into aspects, then examining it carefully." each face. -Has a long-standing culture -It has its own mountains and rivers, its own land – Different cultures and customs – The talented hero who made the Fatherland for generations able to make one direction (one direction) last forever in history => Analytical operations. 2.In the second half of the excerpt, the author cited a series of different heroic victories in different eras, then firmly affirmed a common point: these are obvious evidence, still engraved in the past. past. => Inductive operation. 3.The two halves of the excerpt are connected by the word “Therefore”. The author has carried out a process of reasoning from general principles to irrefutable consequences: A country with a cultural tradition like Dai Viet must inevitably defeat foreign invaders. = > So interpretation is the main operation used in this excerpt. Exercise 2: Write an article (or paragraph) on a topic of your choice; which uses at least 2 of the 5 learned operations Exercise 3: Analyze the effectiveness of comparison in the following verses (To Huu) From then on, I was filled with summer sunshine The sun of truth shines through the heart My soul is a flower garden Very fragrant and full of bird sounds. Suggestion: compare my soul - a garden of flowers and leaves
Hướng dẫn Luyện tập về phong cách ngôn ngữ nghệ thuật Ngôn ngữ nghệ thuật: là ngôn ngữ được dùng trong các tác phẩm văn chương, không chỉ có chức năng thông tin mà còn thỏa mãn nhu cầu thẩm mỹ của con người. Nó là ngôn ngữ được tổ chức, sắp đặt, lựa chọn, tinh luyện từ ngôn ngữ thông thường và đạt được hiệu quả nghệ thuật- thẩm mĩ. – Ngôn ngữ trong các văn bản nghệ thuật bao gồm: + Ngôn ngữ tự sự (trong truyện, tiểu thuyết, bút kí, phóng sự…) + Ngôn ngữ trong thơ 9trong ca dao, vè, thơ…) + Ngôn ngữ sân khấu (trong kịch, chèo, tuồng…) Phong cách ngôn ngữ nghệ thuật mang 3 đặc trưng: 1- Tính hình tượng: Ngôn ngữ nghệ thuật không trực tiếp thể hiện tư tưởng, tình cảm, mà thể hiện thông qua hình ảnh hoặc hình tượng ở ngôn ngữ VD câu ca dao: Hỡi cô tát nước bên đàng Sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi? Câu ca dao nêu ở trên: thể hiện cái đẹp trong lao động thông qua hình tượng “múc ánh trăng vàng”. Nhờ hình tượng mà ngôn ngữ nghệ thuật thường có tính đa nghĩa, hàm súc. 2- Tính truyền cảm: Ngôn ngữ nghệ thuật không chỉ bộc lộ cảm xúc, tình cảm của tác giả mà còn khơi gợi ở người đọc, người nghe những cảm xúc thẩm mĩ. VD: VD câu ca dao trên gợi ở người nghe những rung động trước vẻ đẹp của con người và thiên nhiên trong lao động sản xuất nông nghiệp. 3- Tính cá thể hoá: Ngôn ngữ nghệ thuật tạo được vẻ riêng của nhân vật, của tác giả, của từng sự vật, hiện tượng không trùng lặp. VD: Câu ca dao trên đã chọn được một hình ảnh độc đáo “múc ánh trăng vàng” để nói lên vẻ đẹp trong lao động Luyện tập: 1- Bài tập 1: Phân tích đặc trưng của phong cách ngôn ngữ nghệ thuật thể hiện qua bài thơ sau: Quả sấu non trên cao Chót trên cành cao vót Mấy quả sấu con con Như mấy chiếc khuy lục Trên áo trời xanh non Trời rộng lớn muôn trùng Đóng khung vào cửa sổ Làm mấy quả sấu tơ Càng nhỏ xinh hơn nữa Trái con chưa đủ nặng Để đeo oằn cành cong Nhánh hãy giơ lên thẳng Trông ngây thơ lạ lùng. Cứ như thế trên trời Giữa vô biên ánh nắng Mấy chú quả sấu non Giỡn cả cùng mây trắng Mấy hôm trước còn hoa Mới thơm đầy ngào ngạt Thoáng như một nghi ngờ Trái đã liền có thật Ôi! từ không đến có Xảy ra như thế nào? Nay má hây hây gió Trên lá xanh rào rào Một ngày một lớn hơn Nấn từng vòng nhựa một Một sắc nhựa chua giòn Ôm đọng tròn quanh hột. Trái non như thách thức Trăm thứ giặc, thứ sâu Thách kẻ thù sự sống Phá đời không dễ đâu. Chao! Cái quả sấu non Chưa ăn mà đã giòn Nó lớn như trời vậy Và sẽ thành ngọt ngon. (Xuân Diệu) Gợi ý bài tập: Bài thơ thể hiện những đặc trưng của ngôn ngữ nghệ thuật qua những phương diện sau: – Về chức năng: + Bài thơ làm nhiệm vụ cung cấp hiểu biết về quả sấu, tuy rằng vẫn có ít nhiều thông tin về quả sấu: vị trí, quá trình phát triển, màu sắc, độ chua giòn. + Chức năng chủ yếu là chức năng thẩm mĩ: từ hình tượng quả sấu để nói về sự sống, về quá trình hình thành, phát triển, bảo vệ sự sống nói chung và con người nói riêng. – Hình tượng trung tâm: là hình tượng quả sấu non. Đó là hình tượng cụ thể, sinh động nhưng qua đó nói lên nhiều ý nghĩa khái quát sâu xa. Tính hình tượng có quan hệ mật thiết với tính hàm súc. – Hình tượng quả sấu non được tạo nên bởi những chi tiết cụ thể, sinh động: hình dáng, vị trí, màu sắc, mùi vị… Những điều đó cũng bộc lộ tính cá thể không lẫn với hình tượng khác. – Bài thơ tràn đầy cảm xúc thẩm mĩ: nâng niu quí trọng cái đẹp dù nhỏ bé, mộc mạc, đơn sơ. 2- Bài tập 2: So sánh 2 văn bản sau về các phương diện: – Nội dung thông tin về cây xấu hổ: Văn bản nào có nhiều nội dung, tri thức cụ thể về cây xấu hổ? – Nội dung biểu cảm: Văn bản nào biểu cảm mhững cảm xúc, tình cảm về cây xấu hổ và cả cảm xúc của cây xấu hổ? – Hình tượng cây xấu hổ ở văn bản nào sinh động hơn, mang cá tính rõ nét, có ý nghĩa cao xa hơn? – Từ đó xác định phong cách ngôn ngữ của 2 văn bản? a- “Cây xấu hổ … Cây nhỏ mọc hoang, thân có gai, lá kép lông chim khép lại khi đụng đến, hoa màu đỏ tía”. b- Cây xấu hổ Bờ đường 9 có lùm cây xấu hổ Chiến sĩ đi qua ai cũng mỉm cười Giữa một vùng lửa cháy bom rơi Tất cả lộ nguyên hình trần trụi Cây xấu hổ với màu xanh bối rối Tự giấu mình trong lá kép lim dim. Chiến sĩ đi qua đây, ai cũng bước rất êm Khi bất chợt thoảng một bàn chân lạ Cây vội vã nhắm nghìn con mắt lá Nhựa dồn lên cành khẽ ngả như chào. Người đi qua rồi bóng dáng cứ theo sau Anh lính trẻ bỗng quay đầu tủm tỉm Cây đã hé những mắt tròn chúm chím Đang thập thò nghịch ngợm nhìn theo. Phút lạ lùng trời đất trong veo Anh nghe có tiếng reo thầm gặp gỡ Nhiều dáng điệu thoảng qua trong trí nhớ Rất thân quen mà chẳng gọi lên lời. Giữa một vùng lửa cháy bom rơi Cây hiện lên như một niềm ấp ủ Anh lính trẻ hái một cành xấu hổ Ướp vào trong trang sổ của mình Và chuyện này chỉ có cây biết với anh. (Anh Ngọc) Gợi ý: Hai văn bản cùng có một đề tài về câu xấu hổ. Nhưng khác nhau về chức năng và những đặc trưng cơ bản: – Văn bản a là văn bản khoa học – một mục trong từ điển tiếng Việt. + Nó có chức năng chủ yếu là thông qua việc giải thích nghĩa của từ mà cung cấp thông tin về loại cây xấu hổ: + Kích thước, tính chất, đặc điểm về thân, về lá, về hoa. Nó không quan tâm đến mặt thẩm mĩ cũng như sắc thái cảm xúc. + Nó thông tin trực tiếp mà không qua hình tượng nào khác. – Văn bản b: + Ngoài việc đề cập một số thông tin về cây xấu hổ (nơi sống, đặc điểm nổi bật về lá) thì quan trọng là thực hiện chức nawmg thẩm mĩ: nói lên cái đẹp giản dị, ngộ nghĩnh, vui tươi của cuộc sống, bất chấp hoàn cảnh khốc liệt của chiến tranh. + Hình tượng trung tâm là hình tượng cây xấu hổ, đó là hình tượng của sự sống, của con người vui tươi, hồn nhiên, yêu đời, chất chứa một cảm xúc tinh tế, dí dỏm. + Đó cũng là hình tượng mang tính cụ thể và tính cá thể, không thể lẫn lộn với hình tượng khác. Bài thơ để lại một ấn tượng khó quên đó là hình tượng cây xấu hổ.
Instruct Practice artistic language style Artistic language: is the language used in literary works, which not only has an informational function but also satisfies people's aesthetic needs. It is a language that is organized, arranged, selected, refined from ordinary language and achieves artistic and aesthetic effects. – Language in artistic texts includes: + Narrative language (in stories, novels, memoirs, reports...) + Language in poetry (in folk songs, rhymes, poems...) + Stage language (in plays, cheo, tuong...) The artistic language style has 3 characteristics: 1- Iconography: Artistic language does not directly express thoughts and feelings, but rather through images or images in language. Example of folk song: Hey lady, splashing water on the side She scooped gold stars moonlight poured away? The folk song mentioned above: shows beauty in labor through the image of "scooping up the golden moonlight". Thanks to images, artistic language is often multi-meaning and concise. 2- Inspiration: Artistic language not only reveals the author's emotions and feelings but also evokes aesthetic emotions in readers and listeners. For example: For example, the folk song above evokes in listeners the vibrations of the beauty of people and nature in agricultural production. 3- Personalization: Artistic language creates the unique look of the character, the author, and each object and phenomenon without duplication. For example: The folk song above has chosen a unique image "scooping up the golden moonlight" to express the beauty in labor. Practice: 1- Exercise 1: Analyze the characteristics of artistic language style expressed in the following poem: Young crocodile fruit on high At the top of a tall branch Some baby crocodiles Like green buttons On the shirt, the sky is blue The sky is vast and immense Frame to the window Make some silk mulberries Even smaller and more beautiful The fruit is not heavy enough To wear bent branches Branch should be held up straight Looks strangely innocent. Just like that in heaven In the midst of boundless sunlight Some young crocodiles Playing with white clouds A few days ago there were still flowers It smells fresh and sweet A glimpse of doubt The fruit was immediately real Oh! from nothing to yes How did it happen? Now my cheeks are happy On green leaves One day bigger and bigger Press each plastic ring one by one A crisp, sour resin color Wrap around the seed. Young fruit is like a challenge Hundreds of enemies and worms Challenge the enemy of life Destroying life is not easy. Wow! Young crocodile fruit Haven't eaten yet but it's already crispy It's as big as the sky And it will be sweet and delicious. (Xuan Dieu) Exercise suggestions: The poem demonstrates the characteristics of artistic language through the following aspects: – About function: + The poem is responsible for providing knowledge about the crocodile fruit, although there is still some information about the crocodile fruit: location, development process, color, crispy acidity. + The main function is an aesthetic function: from the image of the crocodile to talk about life, the process of formation, development, and protection of life in general and humans in particular. – Central image: is the image of a young crocodile fruit. It is a specific and vivid image, but it conveys many profound general meanings. Iconicity is closely related to conciseness. – The image of a young crocodile is created by specific, vivid details: shape, position, color, taste... These things also reveal individuality that is not mixed with other images. – The poem is full of aesthetic emotions: cherishing and appreciating beauty even though it is small, rustic, and simple. 2- Exercise 2: Compare the following two documents in terms of aspects: – Information content about the shame tree: Which text has a lot of specific content and knowledge about the shame tree? – Expressive content: Which text expresses emotions and feelings about the tree of shame and also the feelings of the tree of shame? – In which text is the image of the shame tree more vivid, has a clearer personality, and has a higher meaning? – From there determine the linguistic style of the two texts? a- "Embarrassed tree... Small tree growing wild, thorny stem, pinnately compound leaves that close when touched, purple-red flowers." b- Shame tree On the bank of Route 9 there is a grove of embarrassing trees Soldiers passing by all smiled In the middle of a fire zone, bombs fell All revealed their naked form Embarrassed tree with confused green color Hiding itself in half-closed leaves. Soldiers passed here, everyone walked very smoothly When suddenly a strange foot appeared The tree quickly closed its thousand leaf eyes The sap piled up on the branches gently bowed as if to say hello. People pass by and silhouettes follow The young soldier suddenly turned his head and smiled The tree has opened its round eyes Looking mischievously away. A strange moment when the sky and earth were clear He heard a silent shout of meeting Many gestures flashed in my memory Very familiar but not called out. In the middle of a fire zone, bombs fell The tree appears as a cherished feeling The young soldier picked a branch in shame Marinate it in your notebook page And only the tree knows this to you. (Mr. Ngoc) Suggest: The two texts have the same topic about shame. But different in function and basic features: – Text a is a scientific text – an entry in the Vietnamese dictionary. + It's main function is to explain the meaning of words and provide information about the type of shame plant: + Size, properties, stem, leaf and flower characteristics. It doesn't care about aesthetics or emotional nuance. + It communicates directly without using any other images. – Document b: + In addition to mentioning some information about the shame plant (where it lives, outstanding leaf characteristics), it is important to perform an aesthetic function: expressing the simple, funny, joyful beauty of life. , despite the dire circumstances of war. + The central image is the image of the shame tree, which is the image of life, of a joyful, innocent, life-loving person, containing a delicate, witty emotion. + It is also an image that is specific and individual, cannot be confused with other images. The poem leaves an unforgettable impression with the image of the tree of shame.
Hướng dẫn Hướng dẫn ôn thi tuyển sinh vào 10 môn ngữ văn 2016- 2017 Các em thân mến, thời gian gần đây, đề thi tuyển sinh vào lớp 10 môn ngữ văn có nhiều thay đổi. Một số em chưa biết cách ôn tập. Ở bài viết này, Admin sẽ hướng dẫn các em ôn tập theo cấu trúc đề thi mới nhất của Sở GD- ĐT Ninh Bình. Đề thi áp dụng cho học sinh tỉnh Ninh Bình năm học mới 2016-2017. Yêu cầu: Đề thi được thiết lập theo thang năng lực với 4 mức độ từ dễ đến khó: Nhận biết- thông hiểu- vận dụng thấp – vận dụng cao. Cấu trúc đề thi như sau: mỗi đề thi có 2 phần, phần đọc hiểu 3 điểm, phần tạp lập văn bản 7 điểm. Phần đọc hiểu sẻ trích một ngữ liệu và yêu cầu học sinh trả lời các câu hỏi xoay quanh ngữ liệu đó. Ngữ liệu được trích dẫn bao gồm các loại văn bản theo phong cách ngôn ngữ đã học ở chương trình ngữ văn THCS hiện hành. Văn bản có thể lấy trong SGK hoặc ngoài sách GK. Những văn bản lấy ngoài sách GK thì phải đồng dạng với các kiếu văn bản đã học. Để làm tốt phần đọc hiểu, các em cần ôn tập các kiến thức về biện pháp tu từ, phong cách ngôn ngữ văn bản, kiến thức về từ, câu, về phép liên kết,… Các em có thể tham khảo bài viết này của cô để nắm vững một số kiến thức trong tâm nhé Để làm tốt phần đọc hiểu trong môn ngữ văn Phần tạo lập văn bản: gồm1 câu nghị luận xã hội 3 điểm và 1 câu nghị luận văn học 4 điểm. Câu hỏi được ra theo hướng mở và tích hợp giữa nghị luận văn học và nghị luận xã hội, có liên hệ thực tế. Từ việc phân tích tác phẩm, đề bài yêu cầu học sinh mở rộng vấn đề liên hệ với thực tế đời sống. Đáp án của câu hỏi mở: không áp đặt nội dung trả lời nhưng phải bám sát chuẩn kiến thức kĩ năng. Đáp án chấp nhận những ý kiến trái chiều nhưng ý kiến ấy phải có cơ sở khoa học vững vàng. Kĩ năng bài viết: Học sinh vận dụng linh hoạt khả năng đọc hiểu văn bản, tích hợp kiến thức liên môn, các kiến thức về đời sống, về văn hoá xã hội để giải quyết một đề bài cụ thể. Phạm vi kiến thức: Các em cần ôn toàn bộ các tác phẩm trong chương trình ngữ văn 9, kể cả bài đọc thêm. Thông thường bài đọc thêm sẽ không có trong câu nghị luận văn học nhưng rất có thể sẽ được trích trong đề đọc hiểu. Về kiến thức đời sống xã hội: các em cần trang bị những kiến thức quen thuộc và phù hợp với lứa tuổi, phù hợp với vốn hiểu biết của bản thân như: vấn đề mội trường, giao thông, chủ đề tổ quốc, biển đảo, những vấn đề về văn hoá ứng xử, giao tiếp,… Các em cần cập nhật những sự kiện, sự việc, hiện tượng đời sống, tư tưởng đạo lý … nổi bật diễn ra trong đời sống đương đại.
Instruct Instructions for studying for entrance exams in 10 literature subjects 2016-2017 Dear students, recently, the entrance exam for grade 10 in literature has changed a lot. Some students don't know how to review. In this article, Admin will guide you to review according to the latest exam structure of the Department of Education and Training of Ninh Binh. The exam applies to students in Ninh Binh province for the new school year 2016-2017. Requirements: The exam is set according to a competency scale with 4 levels from easy to difficult: Recognition - understanding - low application - high application. The test structure is as follows: each test has 2 parts, the reading comprehension part is worth 3 points, the text composition part is worth 7 points. The reading comprehension section will extract a document and ask students to answer questions surrounding that document. The cited literature includes text types according to the language style learned in the current secondary school literature program. Text can be taken from textbooks or outside textbooks. Texts taken outside of textbooks must be similar to the text styles learned. To do well in the reading comprehension section, you need to review knowledge about rhetoric, text language style, knowledge about words, sentences, connections, etc. You can refer to this article to master some knowledge in your mind To do well in reading comprehension in literature Text creation section: includes 1 social essay sentence worth 3 points and 1 literary essay sentence worth 4 points. The questions are posed in an open and integrated way between literary discussion and social discussion, with practical connections. From analyzing the work, the topic requires students to expand the problem in relation to real life. Answers to open questions: no response content is imposed but must adhere to knowledge and skills standards. The answer accepts conflicting opinions, but those opinions must have a solid scientific basis. Writing skills: Students flexibly apply the ability to read and understand text, integrate interdisciplinary knowledge, knowledge about life, and about social culture to solve a specific topic. Scope of knowledge: Students need to review all works in the grade 9 literature program, including additional readings. Normally, the additional reading will not be included in the literary essay but will most likely be quoted in the reading comprehension question. Regarding social life knowledge: children need to be equipped with knowledge that is familiar and appropriate to their age and their own understanding such as: environmental issues, traffic, topics of the homeland, the sea. islands, issues of cultural behavior, communication, etc. They need to update outstanding events, events, life phenomena, moral ideas, etc. taking place in contemporary life.
Hướng dẫn Mục Lục Hướng dẫn cách nhận biết và phân biệt hai biện pháp tu từ Ẩn dụ và Hoán dụ, cách làm dạng bài tập phân tích biện pháp tu từ trong tiếng Việt. Thực chất Ẩn dụ là gọi tên sự vật hiện tượng này bằng tên của sự vật, hiện tượng khác có nét tương đồng với nó nhằm tăng sức gợi hình,gợi cảm cho sự diễn đạt. Hiểu nôm na ẩn dụ là biện pháp thay đổi tên gọi của một sự vật hiện tượng. Giữa sự vật được gọi tên( A) và sự vật bị ẩn đi ( B) có nét tương đồng nào đó. Có bốn kiểu ẩn dụ thường gặp: + Ẩn dụ hình thức – tương đồng về hình thức + Ẩn dụ cách thức – tương đồng về cách thức + Ẩn dụ phẩm chất – tương đồng về phẩm chất + Ẩn dụ chuyển đổi cảm giác – chuyển từ cảm giác này sang cảm giác khác, cảm nhận bằng giác quan khác. Thực chất Hoán dụ là gọi tên sự vật, hiện tượng bằng tên của một sự vật, hiện tượng khác có quan hệ gần gũi với nó nhằm tăng sức gợi hình, gợi cảm trong diễn đạt. Có bốn kiểu hoán dụ thường gặp: + Lấy một bộ phận để chỉ toàn thể: + Lấy vật chứa đựng chỉ vật bị chứa đựng: + Lấy dấu hiệu của sự vật để chỉ sự vật: + Lấy cái cụ thể để gọi cái trừu tượng Nhìn hai khái niệm trên đây, các em dễ nhầm lẫn ẩn dụ và hoán dụ. Điểm giống nhau giữa Ấn dụ và Hoán dụ: + Bản chất cùng là sự chuyển đổi tên gọi: gọi sự vật hiện tượng bằng một tên gọi khác. Lấy A để chỉ B + Cùng dựa trên quy luật liên tưởng. + Tác dụng của ẩn dụ và hoán dụ: Làm tăng sức gợi hình gợi cảm cho lời văn, biểu đạt cảm xúc Điểm khác biệt giữa Ẩn dụ và Hoán dụ + Cơ sở liên tưởng khác nhau: Ẩn dụ dựa vào sự liên tưởng tương đồng, tức là giữa A và B có điểm gì đó giống nhau, nên người ta dùng A để thay cho tên gọi B. Do đó, trong trường hợp này sự vật chuyển đổi tên gọi và sự vật được chuyển đổi tên gọi thường khác phạm trù hoàn toàn. Ví dụ: “Đầu tường lửa lựu lập lòe đơm bông” [Truyện Kiều – Nguyễn Du] Ở đây hoa lựu màu đỏ như lửa, bởi vậy lửa ( A) được dùng làm ẩn dụ chỉ hoa lựu (B) Hoán dụ dựa vào sự liên tưởng tương cận ( gẫn gũi ) giữa các đối tượng. Mối quan hệ giữa tên mới (A) và tên cũ (B) là mối quan hệ gần kề Ví dụ: Đầu xanh có tội tình gì Má hồng đến quá nửa thì chưa thôi” Đầu xanh: là bộ phận cơ thể người ( gần kề với người), được lấy làm hoán dụ chỉ người còn trẻ ( ví dụ tương tự: đầu bạc- người già) Má hồng: chỉ người con gái đẹp Như vậy, các em có thể hiểu nôm na là: Ẩn dụ và hoán dụ cùng chung cấu trúc nói A chỉ B nhưng khác nhau: – Ẩn dụ: A và B có quan hệ tương đồng [giống nhau] Xem thêm: Bài văn tự sự lớp 8: kể lại những kỷ niệm ngày đầu tiên em đi học– Hoán dụ: A và B có quan hệ gần gũi, hay đi liền với nhau. Trong đề đọc hiểu môn văn thường xuất hện câu hỏi: Tìm và phân tích biện pháp tu từ trong ngữ liệu trên Đối với dạng câu hỏi này, các em cần làm theo 3 bước sau đây: + Gọi tên biện pháp tu từ được sử dụng +Chỉ rõ từ ngữ, hình ảnh ẩn dụ hoặc hoán dụ ( tìm A) +Nêu hiệu quả nghệ thuật của biện pháp tu từ: hình ảnh, từ ngữ ấy có ý nghĩa như thế nào? Nó được dùng để chỉ đối tượng nào? ( tức là tìm B- sự vật chưa được nói đến ) Dùng ẩn dụ, hoán dụ như vậy có dụng ý gì trong biểu đạt cảm xúc, ý nghĩa?… Ví dụ minh hoạ: Bây giờ mận mới hỏi đào Vườn hồng đã có ai vào hay chưa Mận hỏi thì đào xin thưa Vườn hồng có lối nhưng chưa ai vào +Biện pháp ẩn dụ +Hình ảnh ẩn dụ: mận, đào, vườn hồng +Tác dụng: mận, đào,vườn hồng .là những hình ảnh ẩn dụ – những biểu tượng cho những người lao động ngày xưa, trong bài ca dao này, chúng được dùng để chỉ người con trai và người con gái trong tình yêu. Cách nói bóng gió phù hợp với sự kín đáo, tế nhị trong tình yêu. Ví dụ 2: Áo nâucùng với áo xanh Nông thôn cùng với thị thành đứng lên. +Biện pháp hoán dụ +Các từ in đậm được dùng để biểu thị những đối tượng có mối quan hệ gần gũi với nó. – Áo nâu: chỉ người nông dân; áo xanh: chỉ người công nhân; – Nông thôn: chỉ những người ở nông thôn; thành thị: chỉ những người sống ở thành thị. +Để hiểu được tác dụng của biện pháp hoán dụ trong câu thơ này, các em có thể so sánh với câu văn sau đây: Tất cả những người nông dân và người công nhân, những người ở nông thôn và thành thị đều đứng lên ->> Cách diễn đạt rườm rà, không mang tính nghệ thuật.
Instruct Table of contents Instructions on how to recognize and distinguish the two rhetorical devices Metaphor and Metonymy, how to do exercises analyzing rhetorical devices in Vietnamese. In essence, metaphor is to name this thing or phenomenon by the name of another thing or phenomenon that has similarities with it in order to increase the evocative and evocative power of the expression. Simply put, metaphor is a way to change the name of an object or phenomenon. There is some similarity between the named thing (A) and the hidden thing (B). There are four common types of metaphors: + Formal metaphor – similarity in form + Metaphor of manner – similarity of manner + Metaphor of qualities – similarities in qualities + Sensory conversion metaphor – moving from one feeling to another, feeling with another sense. In essence, metonymy is to name an object or phenomenon by the name of another object or phenomenon that is closely related to it in order to increase its evocative and evocative power in expression. There are four common types of metonymy: + Using a part to refer to the whole: + Taking the container to refer to the contained: + Taking signs of things to indicate things: + Take the concrete to call the abstract Looking at the two concepts above, children easily confuse metaphor and metonymy. Similarities between Allegory and Metonymy: + The same essence is the change of name: calling a phenomenon by a different name. Take A to refer to B + Based on the law of association. + Effects of metaphor and metonymy: Increase the evocative power of text and express emotions Difference between Metaphor and Metonymy + Different bases of association: Metaphors rely on similar associations, that is, there is something similar between A and B, so people use A to replace the name B. Therefore, in this case the thing changes its name and the event. The object whose name is changed is often a completely different category. For example: "The tip of the pomegranate firewall flickers and blooms" [The Story of Kieu - Nguyen Du] Here, pomegranate flowers are red like fire, so fire (A) is used as a metaphor for pomegranate flowers (B). Metonymy relies on the association (closeness) between objects. The relationship between the new name (A) and the old name (B) is an adjacency relationship For example: What's wrong with the green head? If your cheeks are half pink, it's not over yet." Green head: is a part of the human body (close to a person), used as a metonymy to refer to a young person (similar example: gray head - old person) Pink cheeks: indicates a beautiful girl Thus, you can roughly understand: Metaphor and metonymy share the same structure of saying A points to B but are different: – Metaphor: A and B have a similar [same] relationship. See more: Narrative essay for grade 8: recounting memories of your first day of school - Metonymy: A and B have a close relationship, or go together. In the reading comprehension test, the question often appears: Find and analyze rhetorical devices in the above corpus For this type of question, you need to follow the following 3 steps: + Name the rhetorical device used +Specify metaphorical or metonymic words and images (find A) + State the artistic effect of rhetoric: what are the meanings of those images and words? What object is it used to refer to? (i.e. find B- things that have not been mentioned) What is the purpose of using metaphors and metonymy like that in expressing emotions and meanings?... Illustrative example: Now plums ask for peaches Rose Garden has anyone in or not When plum asks, peach asks The rose garden has a path but no one has entered it yet + Metaphorical measures + Metaphorical images: plums, peaches, rose garden +Effect: plums, peaches, rose gardens are metaphorical images - symbols for ancient workers. In this folk song, they are used to refer to boys and girls in love. . The allusive way of speaking is suitable for discreetness and delicacy in love. Example 2: Brown shirt with blue shirt The countryside stands up together with the city. + Metaphorical method +Words in bold are used to denote objects that have a close relationship with it. – Brown shirt: indicates farmer; blue shirt: indicates worker; – Rural: only people living in rural areas; urban: only people living in urban areas. +To understand the effect of metonymy in this verse, you can compare it with the following sentence: All farmers and workers, people in rural and urban areas stood up. ->> The expression is cumbersome and not artistic.
Hướng dẫn Mục Lục Hướng dẫn phân biệt các hình thức trình bày đoạn văn. Có nhiều cách trình bày, trong đó có 7 cách chính sau: Diễn dịch, Quy nạp, tổng -phân -hợp, nêu phản đề, so sánh, phân tích nhân quả, vấn đáp Diễn dịch là từ một chân lí chung, quy luật chung mà suy ra các hệ luận, các biểu hiện cụ thể. Ví dụ: Đau thương bao giờ cũng là nguồn cảm hứng nhân đạo chủ nghĩa lớn lao của văn học nghệ thuật. Nguyễn Du, Tônxtôi, Lỗ Tấn… đã trở thành những nghệ sĩ lớn trước hết là vì hơn bất cứ ai họ đã thông cảm sâu sắc và đau đớn da diết những nỗi đau nhân tình trong thời đại họ… (Hoàng Ngọc Hiến) Câu thứ nhất là một nguyên lí phổ biến {bao giờ cũng là). Câu thứ hai là một nhận định mới về các nhà văn cụ thể được suy ra từ quan điểm của câu thứ nhất (nhấn mạnh trước hết). Quy nạp là từ những chứng cớ cụ thể mà rút ra những nhận định tổng quát. Ví dụ: Bộ Sử kí Tư Mã Thiên mà các nhà nho vẫn công nhận làm kiểu mẫu văn hay kia, nếu không phát sinh từ trong buồng gan uất ức của ông “Thái sử” thì ở đâu ra? Gần chúng ta hơn là các nhà tiền bối như là Nguyễn Du, Cao Bá Nhạ, Nguyễn Công Trú Yên Đổ, Tú Xương, Phan Sào Nam, Nguyễn Khắc Hiếu cũng vậy Những câu văn mà hiện còn truyền tụng cũng đều biểu hiện những) buồng tim đã chán chê hay tê tái với thế cuộc nhân tình: Không có một khối óc sôi nổi, không có một thế giới quan, nhân sinh quan sinh động thì không thể sản sinh được một áng danh văn. (Đặng Thai Mai) Phần đầu, tác giả nêu lên các luận cứ cụ thể, và phần cuối, quy nạp thành luận điểm. Ví dụ: Trong hoàn cảnh “trăm dâu đổ đầu tằm”, ta càng thấy chị Dậu thật là một người phụ nữ đảm đang, tháo vát. Một mình chị phải giải quyết mọi khó khăn đột xuất của gia đình, phải đương đầu với những thế lực tàn bạo: quan lại, cường hào, địa chủ và tay sai của chúng. Chị có khóc lóct có kêu trời, nhưng chị không nhắm mắt khoanh tay, mà tích cực tìm cách cứu được chồng ra khỏi cơn hoạn nạn. Hình ảnh chị Dậu hiện lên vững chãi như một chỗ dựa chắc chắn của cả gia đình. (Theo GS. Nguyễn Đăng Mạnh) Câu mở đầu đoạn văn trên nêu lên môt nhận định chung về nhân vật. Hai câu khai triển đoạn đưa ra các biểu hiện cụ thể minh họa cho nhận định chung ấy. Từ những chứng cớ cụ thể này, câu kết đoạn đúc kết thành một nhận định mới vừa phù hợp với nhận định ban đầu, vừa được nâng cao hơn. Đó là mô hình tổng hợp – phân tích – tổng hợp (tổng – phân – hợp). Mô hình tổng – phân – hợp cũng thường là mô hình cấu tạo của toàn bài văn nghị luận. Nêu phản đề là nêu ra một luận điểm giả định và phát triển nó cho đến tận cùng để chứng tỏ đó là luận điểm sai và từ đó mà khẳng định luận điểm của mình. Đây là cách lật ngược vấn đê để xem xét. Ví dụ: Giả sử, nếu không có Thơ mới thì sau Cách mạng tháng Tám, tình hình thơ ca sẽ ra thế nào? Chắc chắn là từ các thể thơ cũ, bát cú, tuyệt cú, cổ phong mà nhảy vọt lên để sớm có được những thành tựu như của Tố Hữu, Nguyễn Đình Thi, Chính Hữu… trong kháng chiến làn thứ nhất, là chuyện khó quan niệm nổi. Lịch sử là sợi dây chuyền mà mỗi khâu trong đó đều có vai trò trong quá trình phát triển. (Lê Đình KỊ) So sánh tương đồng là từ một chân lí đã biết suy ra một chân lí tương tự, có chung một lôgic bên trong. Ví dụ: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được’; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Lời bất hủ ấy trong bản Tuyên ngôn độc lập năm 1776 của nước Mĩ. Suy rộng ra, câu ấy có ý nghĩa là: tất cả các dân tộctrên thế giới đều sinh ra bình đẳng ; dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do ( Hồ Chí Minh) So sánh tương phản là đối chiếu các mặt trái ngược nhau đê’ làm nổi bật luận điểm. Ví dụ, để bênh vực cho sự xuất hiện của Thơ mới, diễn đạt những tình cảm mói mang màu sắc riêng của thời đại, Lưu Trọng Lư viết: Các cụ ưa những màu đỏ choét, ta lại ưa những màu xanh nhạt… Các cụ bâng khuâng vì tiếng trùng đêm khuya, ta nao nao vì tiếng gà lúc đúng ngọ. Nhìn một cô gái xinh xắn, ngây thơ, các cụ coi như đã làm một việc tội lỗi, ta thì cho là mát mẻ như đứng trước một cánh đồng xanh. Cái ái tình của các cụ thì chỉ là sự hôn nhân, nhưng đối với ta thì trăm hình muôn trạng: cái tình say đắm, cái tình thoảng qua, cái tình gần gụi, cái tình xa xôi…, cái tình trong giây phút, cái tình ngàn thu… Ví dụ: Câu chuyện lẽ ra chấm hết ở đó, nhưng dân chúng không chịu nhận cái tình thế đau đớn ấy, và có đem một nét huyền ảo để an ủi ta. Vì thế mới có đoạn thứ hai, kể chuyện nàng Trương xuống thủy cung, và sau lại còn gặp mặt chồng một lần nữa. (Nguyễn Đình Thi) Ví dụ Tính nhân dân bộc lộ một cách trực tiếp và dễ thấy nhất trong văn học dân gian, vì đây là những sáng tác tập thể, truyền miệng, “vô danh” của chính quần chúng, phản ánh chủ yếu sinh hoạt của những người lao động, nói lên tư tưỏng, tình cảm của họ, thể hiện cách suy nghĩ, cách diễn đạt, lời ăn tiếng nói của họ. (Nguyễn Văn Hạnh) Ví dụ: Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội thì phải tăng gia sản xuất. Muốn tăng gia sản xuất tốt thì phải có kĩ thuật cải tiến. Muốn sử dụng tốt kĩ thuật thì phải có văn hóa. Vì vậy, công việc bổ túc văn hóa là cực kì cần thiết. (Hồ Chí Minh) Vấn đáp là nêu câu hỏi rồi trả lời hoặc để người đọc tự trả lời. Ví dụ: Những câu thơ này của Nguyễn Du: Một vùng cỏ áy bóng tà Gió hiu hiu thổi một và bông lau thì có quan hệ gì với “đạo đức?” Câu thơ tưởng như chẳng dính líu gì đến đạo đức cả. Nó không dạy cho người ta phải làm việc này thiện, việc kia thiện. Nhưng một câu thơ như thế làm cho ngưòi ta nhìn thấy cảnh mà động lòng thương, nó cho ta thấy ngọn “gió hiu hiu thổi” và cảm thấy đằng sau đó còn có cái gì nữa. Con người đã giàu lòng thông cảm như thế, đã động lòng được với từng ngọn cỏ, lá cây, thì làm sao mà không động lòng thương những nỗi khổ của con người được? (Nguyễn Đình Thi) Câu hỏi trước nêu vấn đề. Câu hỏi sau đã hàm chứa một câu trả lờí, bởi vì không dễ trả lời phủ định được. TRÌNH TỰ LẬP LUẬN/CÁCH THỨC TRÌNH BÀY ĐOẠN VĂN Cách thức trình bày đoạn văn: Diễn dịch- quy nạp- song hành- móc xích- tổng phân hợp…
Instruct Table of contents Instructions on distinguishing between forms of paragraph presentation. There are many ways of presenting, including the following 7 main ways: Deduction, Induction, synthesis, synthesis, antithesis, comparison, cause and effect analysis, question and answer. Deduction is from a general truth, a general rule, to deduce specific consequences and manifestations. For example: Grief is always a great source of humanitarian inspiration for literature and art. Nguyen Du, Tony, Lu Tan... became great artists, first of all, because more than anyone else, they deeply sympathized and suffered deeply from the pain of love in their time... (Hoang Ngoc Hien) The first sentence is a universal principle {always is). The second sentence is a new observation about specific writers inferred from the perspective of the first sentence (first emphasis). Induction is from specific evidence to draw general statements. For example: The History of Sima Qian, which Confucian scholars still recognize as a model of good literature, if it did not arise from the frustrated heart of the "Great History", then where would it come from? Closer to us are predecessors such as Nguyen Du, Cao Ba Nha, Nguyen Cong Tru Yen Do, Tu Xuong, Phan Sao Nam, Nguyen Khac Hieu as well. The heart chamber is bored or numb with the world of love: Without a vibrant mind, without a worldview, a lively outlook on life, it is impossible to produce a famous piece of literature. (Dang Thai Mai) In the first part, the author states specific arguments, and in the last part, the author summarizes the thesis. For example: In the situation of "a hundred mulberries falling in love with silkworms", we see even more that Ms. Dau is truly a resourceful and resourceful woman. She alone had to solve all the family's unexpected difficulties and had to confront brutal forces: mandarins, tycoons, landlords and their henchmen. She cried and cried to heaven, but she did not close her eyes and fold her arms, but actively sought to save her husband from his trouble. The image of Ms. Dau appears firmly as a solid support for the whole family. (According to Professor Nguyen Dang Manh) The opening sentence of the paragraph above states a general statement about the character. The two sentences that develop the paragraph give specific expressions to illustrate that general statement. From these specific evidences, the conclusion of the paragraph is concluded into a new statement that is both consistent with the original statement and more advanced. That is the synthesis - analysis - synthesis model (sum - division - synthesis). The sum - division - union model is also often the structural model of the entire argumentative essay. Stating an antithesis is to state a hypothetical thesis and develop it to the end to prove that it is a false thesis and thereby confirm your thesis. This is a way to turn the problem upside down and consider it. For example: Suppose, if there were no New Poetry, what would the situation of poetry be like after the August Revolution? Certainly, jumping ahead from the old poetic forms, the eight-cue, the great-kut, and the ancient style to soon achieve achievements like those of To Huu, Nguyen Dinh Thi, Chinh Huu... in the first wave of resistance, is a difficult task. floating concept. History is a chain in which each step has a role in the development process. (Le Dinh KI) Analogous comparison is to infer a similar truth from a known truth, sharing the same internal logic. For example: “All people are born with equal rights. The Creator gave them rights that no one can violate'; Among those rights, there are the right to life, the right to liberty and the right to pursue happiness." Those immortal words in America's 1776 Declaration of Independence. Broadly speaking, that sentence means: all peoples in the world are born equal; Every nation has the right to life, the right to happiness and the right to freedom ( Ho Chi Minh) Comparing and contrasting is comparing opposite sides to highlight a point. For example, to defend the emergence of New Poetry, expressing new sentiments with unique colors of the times, Luu Trong Lu wrote: The elders like bright red colors, I like light green colors... The elders are anxious because of the sound of insects late at night, I am excited by the sound of roosters at noon. Looking at a pretty, innocent girl, the elders thought they had done something sinful, but we thought it was as cool as standing in front of a green field. The love of the elderly is just marriage, but for us, it comes in hundreds of forms: passionate love, fleeting love, close love, distant love..., love in a moment, eternal love... For example: The story should have ended there, but the people refused to accept that painful situation, and brought a magical touch to comfort us. That's why there is the second part, telling the story of Ms. Truong going to the aquarium, and later meeting her husband again. (Nguyen Dinh Thi) For example People's character is expressed most directly and visibly in folk literature, because these are collective, word of mouth, "anonymous" creations of the masses themselves, reflecting mainly the lives of working people. move, express their thoughts and feelings, express their way of thinking, expressing, and speaking. (Nguyen Van Hanh) For example: To build socialism, we must increase production. If you want to increase good production, you must have improved techniques. If you want to use technology well, you must have culture. Therefore, cultural enrichment work is extremely necessary. (Ho Chi Minh) Questioning is asking a question and then answering it or letting the reader answer it themselves. For example: These verses by Nguyen Du: A shadowy grassy area The wind blew gently and reeds What does that have to do with “morality?” The poem seems to have nothing to do with morality at all. It does not teach people to do this good thing or that good thing. But a poem like that makes people feel pity when they see the scene, it lets us see the "sadly blowing wind" and feel that there is something more behind it. Humans are so rich in sympathy and are touched by every blade of grass and leaf, so how can they not be moved by human suffering? (Nguyen Dinh Thi) The previous question raised the issue. The following question already contains an answer, because it is not easy to answer in the negative. ARGUMENT ORDER/PASSAGE PRESENTATION METHOD Ways of presenting the paragraph: Deduction - induction - parallelism - chaining - synthesis...
Hướng dẫn Phần 1: Kiến thức cơ bản về bài Phú sông Bạch Đằng- Trương Hán Siêu Phần 2: Tổng hợp các dạng đề thi về bài Phú sông Bạch Đằng- Trương Hán Siêu VỀ TÁC GIẢ Trương Hán Siêu (? -1354), tự là Tháng Phủ, người làng Phúc Thành, huyện Yên Ninh (nav thuộc thành phố Ninh Bình), vốn là người được Trần Hưng Đạo tin dùng. Ông tính tình cương trực, học vấn uyên thâm, nhân cách cao quý nên được các vua Trần tin cậy, nhân dân kính trọng. Thời Trần, ông giữ chức Hàn lâm học sĩ qua mấy triều. Năm 1351, ông được thăng Tham tri chính sự. Khi mất, ông được vua ban tước hiệu và cho thờ ở Văn Miếu (Hà Nội). Tác phẩm của ông để lại không nhiều, hiện còn bốn bài thơ và ba bài văn, trong đó có bài Phú sông Bạch Đằng. VỀ TÁC PHẨM Phú sông Bạch Đằng của Trương Hán Siêu là một trong nhiều tác phẩm thời đó viết về sông Bạch Đằng lịch sử – con sông gắn liền với tên tuổi Ngô Quyền năm 938 và đặc biệt là với “hai vị thánh quân” Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông và Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn trong lần thứ ba đánh tan giặc Mông – Nguyên (năm 1288). Phú sông Bạch Đằng của Trương Hán Siêu mang cảm hứng hào hùng và bi tráng. Đây là một tác phẩm đặc sắc của văn học trung đại Việt Nam. Phú sông Bạch Đằng được viết theo thể cổ phú. Bản dịch đưa vào SGK giữ được nguyên điệu, chỉ hai bài ca kết bài được Đông Châu Nguyễn Hữu Tiến và Bùi Văn Nguyên chuyển sang thể lục bát MỘT số KHÁI NIỆM CẦN LƯU Ý Phú là một loại văn cổ của Trung Quốc, vào Việt Nam từ sớm nhưng được vận dụng trong sáng tác từ thời Trần. Phú có thể được viết bằng văn vần, hoặc xen lẫn văn vần và văn xuôi nhằm miêu tả phong cảnh, kể sư viêc bàn chuyện đời,… Có hai thể phú: Bài Phú sông Bạch Đằng gồm bốn đoạn: BỐ cục của bài Phú sông Bạch Đằng mang đặc điểm tiêu biểu của bài phú cổ thể như đã nói ở trên. Hệ thống cấu tứ theo lối kể chuyện khách quan: tác giả để nhân vật “khách” đứng ra kẽ về những điều mình quan sát và suy nghĩ; hết lời kể thì “bô lão” ở địa phương kể cho “khách” nghe về chiến công thuở trước, sau đó là cất lời ca và “khách” cũng ca nối tiếp. “Khách” được giới thiệu tập trung ở đoạn 1 của bài phú. Hiện lên qua hàng loạt hình ảnh, hoạt động trải rộng về không gian, liên hoàn về thời gian (“giương buồm”, “lướt bể”, “sớm gõ thuyền”, “chiều lần thăm”,…) là một con người có tâm hồn phóng khoáng, tự do: Nơi có người đi, đấu mà chẳng biết. Đầm Vân Mộng chứa vài trăm trong dạ cũng nhiều, Mà tráng chí bốn phương vẫn còn tha thiết Đó cũng là một người thích ngao du sơn thuỷ, muốn đêh nhiều nơi, muôn đi nhiều chỗ không chỉ để thưởng ngoạn vẻ đẹp của non sông gấm vóc mà còn đê tìm hiểu lịch sử của dân tộc. Những nơi đêh và điểm dừng của “khách” được nhắc tới chỉ có tính khái quát, ước lệ ngụ ý nói rằng nhân vật “khách” học Tử Trường — Tư Mã Thiên thú tiêu dao, đến sông Bạch Đằng để nghiên cứu lịch sử dân tộc. Nhiều người bảo “khách” là “cái tôi” của Trương Hán Siêu, là sự phân thân của tác giả Phú sông Bạch Đằng. Có lẽ lúc viết bài phú này ông là trọng thần của nhà Trần, lúc vương triều đang có biểu hiện suy thoái? Cho nên, khi có dịp du ngoạn Bạch Đằng — một di tích lịch sử lừng danh, nơi quân ta đã hai lần chiến thắng quân xâm lược phương Bắc, Trương Hán Siêu vừa tự hào, vừa hoài niệm nhớ tiếc anh hùng xưa. Nếu ở phần trên, cách miêu tả mang tính ước lệ, thì đến đây, tác giả đưa người đọc về cảnh thực với những cái tên cụ thể: cửa Đại Than, bến Đông Triều, sông Bạch Đằng,… Con thuyền chở “khách” càng tiến sâu vào con sông Bạch Đằng, hình ảnh con sông, qua tâm trạng “khách”, vừa vĩ đại hoành tráng vừa hiu hắt, vắng lặng: Bát ngát sóng kình muôn dặm, Thướt tha đuôi trĩ một màu. Nước trờỉ: một sắc, phong cảnh: ba thu. Với sự hồi tưỏng của một kẻ sĩ nặng lòng ưu hoài trước thắng cảnh thiên nhiên mang đầy chiến tích, quá khứ vệ vang nhưng đau thương gắn với con sông Bạch Đằng như lại hiện về đến từng chi tiết: “Sông chìm giáo gãy, gò đầy xương khô”. Sự chuyển đổi cấu trúc mạch văn ỏ cuối đoạn 1 có liên quan hay là để thể hiện tâm trạng nhân vật “khách”? Có lẽ cả hai. Buồn vì cảnh tiiảm, đứng lặng giờ lâu. Thương nối anh hùng đâu vắng tá, Tiếc thay dấu vết luống còn lưu Trước cảnh sông Bạch Đằng, một tâm hồn phóng khoáng, một tính cách mạnh như “khách” trở nên ưu tư, đầy ắp hoài niệm và sững sờ tiếc nuối. Với một hồn thơ trác việt như Trương Hán Siêu, nhân vật “khách” vốn khô khan và có tính công thức — theo đặc trưng thể phú, trở thành một tính cách sinh động bộn bề tâm trạng. a) Đoạn trên nhân vật “khách” kể về những điều mình quan sát, suy nghĩ khi ngược bến Đông Triều đến sông Bạch Đằng. Đến đây, “khách” gặp và được nghe các “bô lão” địa phương kể lại các chiến công của quân dân ta trên sông Bạch Đằng. Hình ảnh các “bô lão” ồ đoạn 2 xuât hiện một cách tự nhiên, tạo không khí đối đáp giữa vị “khách” với nhân dân ven sông Bạch Đằng cũng rất tự nhiên. Theo lời kể của các “bô lão”, hai chiến công vang dội thời Ngô Quyền (938) và thời Trần Hưng Đạo được gợi lên bằng lời lẽ trang trọng, những kì tích trên sông được liệt kê trùng điệp: Đây là nơi chiến địa buổi Trùng Hưng nhị thánh bắt Ô Mã, Cũng là bãi đất xưa, thuở trước Ngô chúa phá Hoằng Thao Không khí chiến trận được miêu tả bằng hình ảnh đối nhau, miêu tả thế giằng co quyết liệt giữa quân ta và quân xâm lược: Thuyền bè muôn đội tinh kì phấp phới, Hùng hổ sáu quân, giáo gươm sáng chói. Ánh nhật nguyệt chừ phải mờ, Bầu ứời đất chừ sắp đổi. Sự thất bại thảm hại của bọn xâm lược được tác giả (qua lời kể của các “bô lão”) diễn tả bằng những hình ảnh, điển tích gắn liền với một số sự kiện và nhân vật lịch sử Trung Quốc (trận Xích Bích, trận Hợp Phì, Lã Vọng, Hàn Tín,…) nhằm so sánh và đề cao tầm vóc của dân tộc và tài trí của các bậc quân vương đất Việt. Kết quả là, nhờ có chiến thắng năm 938 trên sông Bạch Đằng mà Ngô Quyền đưa nước ta thoát khỏi ngàn năm Bắc thuộc, bước vào thời kì độc lập. Và cũng trên dòng sông này (sau chiên công của Ngô Quyền mây trăm năm), nhà Trần đưa chế độ phong kiên nước ta phát triển hưng thịnh. Đoạn 2 có âm hưởng như một bài anh hùng ca. b) Các “bô lão” bình luận về nguyên nhân của các chiến công trên sông Bạch Đằng Các “bô lão” nêu lên ba yêu tô’ cơ bản làm nên chiên thắng, đặc biệt là ba lần đánh tan quân Mông – Nguyên: + Địa lợi: “Trời đất cho nơi hiểm trở”. + Nhân hoà: “Nhân tài giữ cuộc điện an”, tức là có nhiều người tài giỏi thuận lòng giúp nên giữ được nước, giữ được triều đại (như Lã Vọng giúp lập ra nhà Chu, Hàn Tín giúp lập nên nhà Hán), ơ đây ngầm chỉ vai trò quân sư của Thái sư Trần Quang Khải và vai trò thông lĩnh quân sự của Quốc công tiết chê Hưng Đạo Đại Vương Trần Quổíc Tuấn. +Thiên thời: “BỞi đại vương coi thế giặc nhàn”. Chi tiết này nhắc lại câu trả lời của Hưng Đạo Vương khi vua Trần Nhân Tông hỏi ông trước nguy cơ quân Mông Nguyên lần thứ ba xâm lược nước ta. Thực tế lịch sử chứng minh đúng như vậy: quân ta càng đánh càng trưởng thành, binh hùng tướng mạnh; lần thứ ba lực lượng quân xâm lược yêu đi nhiều ; vì vậy, chỉ cần một trận quyết định đánh tan thuyền lương của giặc trên sông Bạch Đằng là đại thắng. . Kết thúc đoạn 3, tác giả viết: Đến bên sông chừ hổ mặt Nhớ người xưa chừ lệ chan. Theo cấu tứ của phú thì đây là lời của các “bô lão” nói với “khách”. Nhưng trước con sông lịch sử Bạch Đằng, dường như “chủ” (các “bô lão”) và “khách” có chung một niềm hoài cảm. Niềm tự hào về những chiến công lịch sử hào hùng gắn liền với niềm tự hào về truyền thống nhân nghĩa của dân tộc. Đoạn kết bài Phú sông Bạch Đằng thể hiện rõ niềm tự hào về truyền thống đạo lí của dân tộc Việt Nam qua hai lời ca: lời ca của các “bô lão” và lời ca của “khách”. Giặc tan muôn thuở thăng bình BỞi đâu đất hiểm cốt mình đức cao. Đó là một quan niệm tiến bộ, có ý nghĩa nhân văn của tác giả. (Tài liệu trong sách tham khảo, tác giả Nguyễn Kim Phong chủ biên, NXB GD) CÁC DẠNG ĐỀ THI VỀ BÀI PHÚ SÔNG BẠCH ĐẰNG -TRƯƠNG HÁN SIÊU Dạng 1: Cảm nhận, phân tích đoạn trích. Trong bài phú, đoạn nào cũng quan trọng, trong đó các em chú ý đoạn 3 và 4 nhiều hơn. Dạng 2: Nghị luận ý kiến bàn về tác phẩm: Đề bài trích dẫn 1 ý kiến, 1 nhận định yêu cầu học sinh chứng minh nhận định đó. Dạng 3: Cảm nhận về 1 khía cạnh thuộc nội dung hoặc nghệ thuật của văn bản, ví dụ: tư tưởng nhân văn, lòng yêu nước thể hiện như thế nào trong bài phú? Dạng 4: Văn thuyết minh: Đề bài yêu cầu viết bài văn thuyết minh về Trương Hán Siêu và bài Phú sông Bạch Đằng. Dạng 5: Một số câu hỏi phụ, liên hệ thực tế… Trong những dạng bài tập trên thì dạng 4 sác xuất thi và kiểm tra nhiều hơn, vì kì 2 lớp 10 học văn thuyết minh.
Hướng dẫn Phần 1: Kiến thức cơ bản về bài Phú sông Bạch Đằng- Trương Hán Siêu Phần 2: Tổng hợp các dạng đề thi về bài Phú sông Bạch Đằng- Trương Hán Siêu VỀ TÁC GIẢ Trương Hán Siêu (? -1354), tự là Tháng Phủ, người làng Phúc Thành, huyện Yên Ninh (nav thuộc thành phố Ninh Bình), vốn là người được Trần Hưng Đạo tin dùng. Ông tính tình cương trực, học vấn uyên thâm, nhân cách cao quý nên được các vua Trần tin cậy, nhân dân kính trọng. Thời Trần, ông giữ chức Hàn lâm học sĩ qua mấy triều. Năm 1351, ông được thăng Tham tri chính sự. Khi mất, ông được vua ban tước hiệu và cho thờ ở Văn Miếu (Hà Nội). Tác phẩm của ông để lại không nhiều, hiện còn bốn bài thơ và ba bài văn, trong đó có bài Phú sông Bạch Đằng. VỀ TÁC PHẨM Phú sông Bạch Đằng của Trương Hán Siêu là một trong nhiều tác phẩm thời đó viết về sông Bạch Đằng lịch sử – con sông gắn liền với tên tuổi Ngô Quyền năm 938 và đặc biệt là với “hai vị thánh quân” Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông và Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn trong lần thứ ba đánh tan giặc Mông – Nguyên (năm 1288). Phú sông Bạch Đằng của Trương Hán Siêu mang cảm hứng hào hùng và bi tráng. Đây là một tác phẩm đặc sắc của văn học trung đại Việt Nam. Phú sông Bạch Đằng được viết theo thể cổ phú. Bản dịch đưa vào SGK giữ được nguyên điệu, chỉ hai bài ca kết bài được Đông Châu Nguyễn Hữu Tiến và Bùi Văn Nguyên chuyển sang thể lục bát MỘT số KHÁI NIỆM CẦN LƯU Ý Phú là một loại văn cổ của Trung Quốc, vào Việt Nam từ sớm nhưng được vận dụng trong sáng tác từ thời Trần. Phú có thể được viết bằng văn vần, hoặc xen lẫn văn vần và văn xuôi nhằm miêu tả phong cảnh, kể sư viêc bàn chuyện đời,… Có hai thể phú: Bài Phú sông Bạch Đằng gồm bốn đoạn: BỐ cục của bài Phú sông Bạch Đằng mang đặc điểm tiêu biểu của bài phú cổ thể như đã nói ở trên. Hệ thống cấu tứ theo lối kể chuyện khách quan: tác giả để nhân vật “khách” đứng ra kẽ về những điều mình quan sát và suy nghĩ; hết lời kể thì “bô lão” ở địa phương kể cho “khách” nghe về chiến công thuở trước, sau đó là cất lời ca và “khách” cũng ca nối tiếp. “Khách” được giới thiệu tập trung ở đoạn 1 của bài phú. Hiện lên qua hàng loạt hình ảnh, hoạt động trải rộng về không gian, liên hoàn về thời gian (“giương buồm”, “lướt bể”, “sớm gõ thuyền”, “chiều lần thăm”,…) là một con người có tâm hồn phóng khoáng, tự do: Nơi có người đi, đấu mà chẳng biết. Đầm Vân Mộng chứa vài trăm trong dạ cũng nhiều, Mà tráng chí bốn phương vẫn còn tha thiết Đó cũng là một người thích ngao du sơn thuỷ, muốn đêh nhiều nơi, muôn đi nhiều chỗ không chỉ để thưởng ngoạn vẻ đẹp của non sông gấm vóc mà còn đê tìm hiểu lịch sử của dân tộc. Những nơi đêh và điểm dừng của “khách” được nhắc tới chỉ có tính khái quát, ước lệ ngụ ý nói rằng nhân vật “khách” học Tử Trường — Tư Mã Thiên thú tiêu dao, đến sông Bạch Đằng để nghiên cứu lịch sử dân tộc. Nhiều người bảo “khách” là “cái tôi” của Trương Hán Siêu, là sự phân thân của tác giả Phú sông Bạch Đằng. Có lẽ lúc viết bài phú này ông là trọng thần của nhà Trần, lúc vương triều đang có biểu hiện suy thoái? Cho nên, khi có dịp du ngoạn Bạch Đằng — một di tích lịch sử lừng danh, nơi quân ta đã hai lần chiến thắng quân xâm lược phương Bắc, Trương Hán Siêu vừa tự hào, vừa hoài niệm nhớ tiếc anh hùng xưa. Nếu ở phần trên, cách miêu tả mang tính ước lệ, thì đến đây, tác giả đưa người đọc về cảnh thực với những cái tên cụ thể: cửa Đại Than, bến Đông Triều, sông Bạch Đằng,… Con thuyền chở “khách” càng tiến sâu vào con sông Bạch Đằng, hình ảnh con sông, qua tâm trạng “khách”, vừa vĩ đại hoành tráng vừa hiu hắt, vắng lặng: Bát ngát sóng kình muôn dặm, Thướt tha đuôi trĩ một màu. Nước trờỉ: một sắc, phong cảnh: ba thu. Với sự hồi tưỏng của một kẻ sĩ nặng lòng ưu hoài trước thắng cảnh thiên nhiên mang đầy chiến tích, quá khứ vệ vang nhưng đau thương gắn với con sông Bạch Đằng như lại hiện về đến từng chi tiết: “Sông chìm giáo gãy, gò đầy xương khô”. Sự chuyển đổi cấu trúc mạch văn ỏ cuối đoạn 1 có liên quan hay là để thể hiện tâm trạng nhân vật “khách”? Có lẽ cả hai. Buồn vì cảnh tiiảm, đứng lặng giờ lâu. Thương nối anh hùng đâu vắng tá, Tiếc thay dấu vết luống còn lưu Trước cảnh sông Bạch Đằng, một tâm hồn phóng khoáng, một tính cách mạnh như “khách” trở nên ưu tư, đầy ắp hoài niệm và sững sờ tiếc nuối. Với một hồn thơ trác việt như Trương Hán Siêu, nhân vật “khách” vốn khô khan và có tính công thức — theo đặc trưng thể phú, trở thành một tính cách sinh động bộn bề tâm trạng. a) Đoạn trên nhân vật “khách” kể về những điều mình quan sát, suy nghĩ khi ngược bến Đông Triều đến sông Bạch Đằng. Đến đây, “khách” gặp và được nghe các “bô lão” địa phương kể lại các chiến công của quân dân ta trên sông Bạch Đằng. Hình ảnh các “bô lão” ồ đoạn 2 xuât hiện một cách tự nhiên, tạo không khí đối đáp giữa vị “khách” với nhân dân ven sông Bạch Đằng cũng rất tự nhiên. Theo lời kể của các “bô lão”, hai chiến công vang dội thời Ngô Quyền (938) và thời Trần Hưng Đạo được gợi lên bằng lời lẽ trang trọng, những kì tích trên sông được liệt kê trùng điệp: Đây là nơi chiến địa buổi Trùng Hưng nhị thánh bắt Ô Mã, Cũng là bãi đất xưa, thuở trước Ngô chúa phá Hoằng Thao Không khí chiến trận được miêu tả bằng hình ảnh đối nhau, miêu tả thế giằng co quyết liệt giữa quân ta và quân xâm lược: Thuyền bè muôn đội tinh kì phấp phới, Hùng hổ sáu quân, giáo gươm sáng chói. Ánh nhật nguyệt chừ phải mờ, Bầu ứời đất chừ sắp đổi. Sự thất bại thảm hại của bọn xâm lược được tác giả (qua lời kể của các “bô lão”) diễn tả bằng những hình ảnh, điển tích gắn liền với một số sự kiện và nhân vật lịch sử Trung Quốc (trận Xích Bích, trận Hợp Phì, Lã Vọng, Hàn Tín,…) nhằm so sánh và đề cao tầm vóc của dân tộc và tài trí của các bậc quân vương đất Việt. Kết quả là, nhờ có chiến thắng năm 938 trên sông Bạch Đằng mà Ngô Quyền đưa nước ta thoát khỏi ngàn năm Bắc thuộc, bước vào thời kì độc lập. Và cũng trên dòng sông này (sau chiên công của Ngô Quyền mây trăm năm), nhà Trần đưa chế độ phong kiên nước ta phát triển hưng thịnh. Đoạn 2 có âm hưởng như một bài anh hùng ca. b) Các “bô lão” bình luận về nguyên nhân của các chiến công trên sông Bạch Đằng Các “bô lão” nêu lên ba yêu tô’ cơ bản làm nên chiên thắng, đặc biệt là ba lần đánh tan quân Mông – Nguyên: + Địa lợi: “Trời đất cho nơi hiểm trở”. + Nhân hoà: “Nhân tài giữ cuộc điện an”, tức là có nhiều người tài giỏi thuận lòng giúp nên giữ được nước, giữ được triều đại (như Lã Vọng giúp lập ra nhà Chu, Hàn Tín giúp lập nên nhà Hán), ơ đây ngầm chỉ vai trò quân sư của Thái sư Trần Quang Khải và vai trò thông lĩnh quân sự của Quốc công tiết chê Hưng Đạo Đại Vương Trần Quổíc Tuấn. +Thiên thời: “BỞi đại vương coi thế giặc nhàn”. Chi tiết này nhắc lại câu trả lời của Hưng Đạo Vương khi vua Trần Nhân Tông hỏi ông trước nguy cơ quân Mông Nguyên lần thứ ba xâm lược nước ta. Thực tế lịch sử chứng minh đúng như vậy: quân ta càng đánh càng trưởng thành, binh hùng tướng mạnh; lần thứ ba lực lượng quân xâm lược yêu đi nhiều ; vì vậy, chỉ cần một trận quyết định đánh tan thuyền lương của giặc trên sông Bạch Đằng là đại thắng. . Kết thúc đoạn 3, tác giả viết: Đến bên sông chừ hổ mặt Nhớ người xưa chừ lệ chan. Theo cấu tứ của phú thì đây là lời của các “bô lão” nói với “khách”. Nhưng trước con sông lịch sử Bạch Đằng, dường như “chủ” (các “bô lão”) và “khách” có chung một niềm hoài cảm. Niềm tự hào về những chiến công lịch sử hào hùng gắn liền với niềm tự hào về truyền thống nhân nghĩa của dân tộc. Đoạn kết bài Phú sông Bạch Đằng thể hiện rõ niềm tự hào về truyền thống đạo lí của dân tộc Việt Nam qua hai lời ca: lời ca của các “bô lão” và lời ca của “khách”. Giặc tan muôn thuở thăng bình BỞi đâu đất hiểm cốt mình đức cao. Đó là một quan niệm tiến bộ, có ý nghĩa nhân văn của tác giả. (Tài liệu trong sách tham khảo, tác giả Nguyễn Kim Phong chủ biên, NXB GD) CÁC DẠNG ĐỀ THI VỀ BÀI PHÚ SÔNG BẠCH ĐẰNG -TRƯƠNG HÁN SIÊU Dạng 1: Cảm nhận, phân tích đoạn trích. Trong bài phú, đoạn nào cũng quan trọng, trong đó các em chú ý đoạn 3 và 4 nhiều hơn. Dạng 2: Nghị luận ý kiến bàn về tác phẩm: Đề bài trích dẫn 1 ý kiến, 1 nhận định yêu cầu học sinh chứng minh nhận định đó. Dạng 3: Cảm nhận về 1 khía cạnh thuộc nội dung hoặc nghệ thuật của văn bản, ví dụ: tư tưởng nhân văn, lòng yêu nước thể hiện như thế nào trong bài phú? Dạng 4: Văn thuyết minh: Đề bài yêu cầu viết bài văn thuyết minh về Trương Hán Siêu và bài Phú sông Bạch Đằng. Dạng 5: Một số câu hỏi phụ, liên hệ thực tế… Trong những dạng bài tập trên thì dạng 4 sác xuất thi và kiểm tra nhiều hơn, vì kì 2 lớp 10 học văn thuyết minh.
Hướng dẫn 1, Sự cần thiết của việc tổ chức chuyên đề Văn học dân gian Chuyên đề Văn học dân gian theo quan niệm đổi mới phương pháp dạy học là môt hình thức tự học tích cực, bổ ích và có hiệu quả, nối liền bục giảng với thực tiễn đời sống; phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của học sinh. Vì thế chuyên đề Văn học dân gian không những là hoạt động giáo dục mà còn là hoạt động văn thể mĩ góp phần rèn luyện các kĩ năng cho học sinh. Chuyên đề Văn học dân gian càng cần thiết và bổ ích khi được áp dụng vào quá trình dạy học phần Văn học dân gian ở trường THPT vì những lí do sau: Thứ nhất, chuyên đề Văn học dân gian góp phần làm sáng tỏ những đặc trưng cơ bản của Văn học dân gian: tính tập thể, tính truyền miệng và gắn với các sinh hoạt cộng đồng. Ví dụ: Để làm rõ đặc điểm gắn với sinh hoạt xã hội của Văn học dân gian giáo viên phải lý giải về hoàn cảnh nảy sinh và môi trường diễn xướng; làm sáng tỏ tính dị bản thì so sánh nhiều văn bản khác nhau sẽ giúp giờ học sinh động, hiệu quả. Những thao tác này khó có thể thực hiện trong những tiết học đơn lẻ do hạn chế về thời gian. Thứ hai, chuyên đề văn học dân gian cho phép giáo viên khai thác tác phẩm văn học dân gian ở nhiều góc độ, thỏa mãn nhu cầu làm “Sống lại” tác phẩm Văn học dân gian trong môi trường diễn xướng, thông qua các hình thức trình diễn bằng lời, âm nhạc…. làm sáng lên những vẻ đẹp độc đáo của Văn học dân gian. Thứ ba, chuyên đề Văn học dân gian cho phép người dạy khắc phục những bất cập trong chương trình giữa thời gian cho phép và khối lượng kiến thức cần phải truyền đạt; có thể mở rộng và đào sâu những nội dung quan trọng, bổ sung những vẫn đề chưa được đặt ra trong chương trình cụ thể. Hoạt động chuyên đề Văn học dân gian giúp học sinh hiểu rõ thêm về vị trí, vai trò, giá trị của Văn học dân gian với đời sống văn hóa dân tộc để có thái độ trân trọng đối với di sản văn hóa tinh thần của dân tộc, từ đó thêm lòng say mê với Văn học dân gian. 2. Nội dung chuyên đề. Cơ sở hình thành chuyên đề: Bài 24, 25, 26, 27 – SGK Ngữ văn 10. Thời lượng: 5 tiết Tổ chức dạy học chuyên đề. Mục tiêu – Sau khi học xong chuyên đề học sinh có khả năng: Kiến thức – Hiểu rõ khái niệm ca dao. – Hiểu được, cảm nhận được nội dung tiếng hát than thân, tiếng hát yêu thương tình nghĩa và của người bình dân Việt Nam qua một số bài ca dao tiêu biểu với những đặc điểm nghệ thuật riêng. – Cảm nhận được tiếng cười lạc quan trong ca dao qua nghệ thuật trào lộng thông minh, hóm hỉnh của người bình dân mặc dù cuộc sống của họ còn nhiều lo toan, vất vả. Kỹ năng – Rèn kĩ năng tiếp cận và phân tích ca dao theo đặc trưng thể loại. – Sưu tầm tài liệu, có phương pháp tìm tòi, nghiên cứu và tích cực chủ động học tập. – Kĩ năng thuyết trình. – Kĩ năng nhận xét, phân tích, đánh giá. Thái độ – Trân trọng và yêu quý tâm hồn lạc quan và yêu đời của người bình dân qua ca dao. – Giáo dục cho HS thái độ trân trọng và có ý thức gìn giữ, bảo tồn di sản văn học dân gian của dân tộc, duy trì và phát triển bản sắc văn hóa của ông cha ta. Định hướng năng lực được hình thành cho HS. – Năng lực sử dụng tiếng Việt, năng lực tư duy, năng lực sử dụng công nghệ thông tin. – Năng lực giao tiếp và hợp tác, năng lực tự học, năng lực giải quyết vấn đề. Nội dung chuyên đề. Nội dung + Tiết 1: Ca dao than thân, yêu thương tình nghĩa + Tiết 2: Ca dao than thân, yêu thương tình nghĩa + Tiết 3: Ca dao hài hước + Tiết 4: Ca dao hài hước + Tiết 5: Thực hành diễn xướng dân gian một số bài ca dao đã học. Chuẩn bị của GV và HS. 1.Giáo viên: – Tục ngữ, ca dao, dân ca Việt Nam ( Vũ Ngọc Phan) – Bình giảng ca dao (Hoàng Tiến Tựu) – Thi pháp ca dao (Nguyễn Xuân Kính) – 2. Học sinh: – Sưu tầm thêm tư liệu, tranh ảnh có liên quan đến chuyên đề. – Chuẩn bị một số tiết mục diễn xướng dân gian: đồng dao, dân ca, hát đối đáp… III. Tiến trình dạy học cụ thể. Các bạn bấm vào link này để tải trọn vẹn chuyên đề nhé: Đây là tài liệu sưu tầm Xem thêm:
Instruct 1, The necessity of organizing the topic of Folk Literature The Folk Literature topic follows the concept of innovating teaching methods as an active, useful and effective form of self-study, connecting the classroom with real life; promote students' positivity and creativity. Therefore, the Folk Literature topic is not only an educational activity but also an aesthetic literary activity that contributes to training students' skills. The subject of Folk Literature is even more necessary and useful when applied to the process of teaching Folk Literature in high schools for the following reasons: Firstly, the topic Folk Literature contributes to clarifying the basic characteristics of Folk Literature: collectivity, oral tradition and association with community activities. For example: To clarify the characteristics associated with social activities of Folk Literature, teachers must explain the circumstances in which they arise and the performance environment; By clarifying the diversity of texts, comparing many different texts will help make class time more lively and effective. These operations are difficult to perform in single lessons due to time constraints. Second, the folk literature topic allows teachers to exploit folk literature works from many angles, satisfying the need to "relive" folk literature works in a performance environment, through performances. forms of performance by words, music... illuminates the unique beauty of Folk Literature. Third, the Folklore subject allows teachers to overcome inadequacies in the program between the time allowed and the amount of knowledge that needs to be imparted; can expand and deepen important content, supplementing issues that have not been raised in the specific program. Folklore thematic activities help students better understand the position, role, and value of Folklore in the nation's cultural life in order to have an respectful attitude toward the spiritual and cultural heritage of the nation. nation, thereby increasing his passion for Folk Literature. 2. Topical content. Basis for forming the topic: Lessons 24, 25, 26, 27 - Literature Textbook Grade 10. Duration: 5 hours Organize specialized teaching. Target – After completing the subject, students will be able to: Knowledge – Understand clearly the concept of folk songs. – Understand and feel the content of the singing of self-pity, the singing of love and gratitude of the Vietnamese common people through some typical folk songs with their own artistic characteristics. - Feel the optimistic laughter in folk songs through the intelligent and humorous satirical art of ordinary people even though their lives are still filled with worries and hardships. Skill – Practice skills in approaching and analyzing folk songs according to genre characteristics. – Collect documents, have methods to explore, research and actively learn. - Presentation skills. – Commenting, analyzing and evaluating skills. Attitude – Appreciate and love the optimistic and life-loving soul of ordinary people through folk songs. – Educate students to respect and consciously preserve and preserve the nation's folk literary heritage, maintain and develop the cultural identity of our ancestors. Capacity orientation is formed for students. – Ability to use Vietnamese, thinking ability, ability to use information technology. – Communication and cooperation capacity, self-study capacity, problem solving capacity. Topical content. Content + Lesson 1: Folk songs about self-pity, love and gratitude + Lesson 2: Folk songs about self-pity, love and gratitude + Lesson 3: Humorous folk songs + Lesson 4: Humorous folk songs + Lesson 5: Practice performing some learned folk songs. Preparation of teachers and students. 1.Teacher: – Vietnamese proverbs, folk songs, folk songs (Vu Ngoc Phan) – Commentary on folk songs (Hoang Tien Tuu) – Poetry of folk songs (Nguyen Xuan Kinh) – 2. Students: – Collect more documents and pictures related to the topic. – Prepare some folk performances: rhymes, folk songs, response singing... III. Specific teaching process. Please click on this link to download the entire topic: This is a collection document See more:
Hướng dẫn TRÌNH TỰ LẬP LUẬN/CÁCH THỨC TRÌNH BÀY ĐOẠN VĂN Đoạn văn có nhiều cách trình bày :Diễn dịch- quy nạp- song hành- móc xích- tổng phân hợp...Bài viết dưới đây khái quát lí thuyết và đoạn văn mẫu tham khảo cho học sinh để làm tốt bài thi môn Ngữ văn. 1. Đoạn văn diễn dịch (Có câu chủ đề): Đoạn diễn dịch là đoạn văn trong đó câu chủ đề mang ý nghĩa khái quát đứng ở đầu đoạn, các câu còn lại triển khai cụ thể ý của câu chủ đề, bổ sung, làm rõ cho câu chủ đề. Các câu triển khai được thực hiện bằng các thao tác giải thích, chứng minh, phân tích, bình luận, có thể kèm theo nhận xét, đánh giá và bộc lộ cảm nhận của người viết. VD: Một chiếc lá rụng có linh hồn riêng, một tâm tình riêng, một cảm giác riêng. Có chiếc tựa như mũi tên nhọn, từ cành cây rơi cắm phập xuống đất như cho xong chuyện, cho xong một đời lạnh lùng thản nhiên, không thương tiếc, không do dự vẩn vơ. Có chiếc lá như con chim bị lảo đảo mấy vòng trên không rồi cố gượng ngoi đầu lên, hay giữ thăng bằng cho tận tới cái giây nằm phơi trên mặt đất. Có chiếc lá nhẹ nhàng khoan khoái đùa bỡn, hay múa may với làn gió thoảng như thầm bảo rằng vẻ đẹp của vạn vật chỉ ở hiện tại: cả thời quá khứ dài dằng dặc của chiếc lá trên cành cây không bằng một vài giây bay lượn, nếu sự bay lượn ấy có vẻ đẹp nên thơ. Có chiếc lá như sợ hãi, ngần ngại rụt rè, rồi như gần tới mặt đất, còn cất mình muốn bay trở lại cành. Có chiếc lá đầy âu yếm rơi bám vào một bông hoa thơm, hay đến mơn trớn một ngọn cỏ xanh mềm mại. (Khái Hưng) 2. Đoạn văn qui nạp (Có câu chủ đề): Đoạn qui nạp là đoạn văn được trình bày đi từ các ý nhỏ đến ý lớn, từ các ý chi tiết đến ý khái quát, từ ý luận cứ cụ thể đến ý kết luận bao trùm. Theo cách trình bày này, câu chủ đề nằm ở vị trí cuối đoạn. Ở vị trí này, câu chủ đề không làm nhiệm vụ định hướng nội dung triển khai cho toàn đoạn mà lại làm nhiệm vụ khép lại nội dung cho đoạn ấy. Các câu trên được trình bày bằng các thao tác lập luận, minh họa, cảm nhận và rút ra nhận xét đánh giá chung. VD: Những đứa con từ khi sinh ra đến khi trưởng thành, phần lớn thời gian là gần gũi và thường là chịu ảnh hưởng từ người mẹ hơn từ cha. Chúng được mẹ cho bú sữa, bồng ẵm, dỗ dành, tắm giặt, ru ngủ, cho ăn uống, chăm sóc rất nhiều khi ốm đau…Với việc nhận thức thông qua quá trình bé tự quan sát, học hỏi tự nhiên hàng ngày và ảnh hưởng đặc biệt các đức của người mẹ, đã hình thành dần dần bản tính của đứa con theo kiểu “mưa dầm, thấm lâu”. Ngoài ra, những đứa trẻ thường là thích bắt chước người khác thông qua những hành động của người gần gũi nhất chủ yếu là người mẹ. Chính người phụ nữ là người chăm sóc và giáo dục con cái chủ yếu trong gia đình. (Trần Thanh Thảo) 3. Đoạn tổng – phân – hợp (Có câu chủ đề ở đầu và cuối đoạn văn): Đoạn tổng – phân – hợp là đoạn văn phối hợp diễn dịch với qui nạp. Câu mở đầu đoạn nêu ý khái quát bậc một, các câu tiếp theo triển khai cụ thể ý khái quát. Câu kết đoạn là ý khái quát bậc hai mang tính chất nâng cao, mở rộng. Những câu triển khai ý được thực hiện bằng các thao tác giải thích, chứng minh, phân tích, bình luận, nhận xét, đánh giá hoặc nêu suy nghĩ…để từ đó đề xuất nhận định đối với chủ đề, tổng hợp, khẳng định, năng cao vấn đề. VD: Thế đấy, biển luôn luôn thay đổi màu tùy theo sắc mây trời. Trời xanh thẳm, biển cũng xanh thẳm, như dâng cao lên, chắc nịch. Trời rải mây trắng nhạt, biển mơ màng dịu hơi sương. Trời âm u mây mưa, biển xám xịt, nặng nề. Trời ầm ầm dông gió, biển đục ngầu giận dữ…Như một con người biết buồn vui, biển lúc tẻ nhạt, lạnh lung, lúc sôi nổi, hả hê, lúc đăm chiêu, gắt gỏng. (Vũ Tú Nam) 4. Đoạn văn song hành (Không có câu chủ đề): Đây là đoạn văn có các câu triển khai nội dung song song nhau, không nội dung nào bao trùm lên nội dung nào. Mỗi câu trong đoạn văn nêu một khía cạnh của chủ đề đoạn văn, làm rõ cho nội dung đọan văn. VD: Trong tập “Nhật kí trong tù”(Hồ Chí Minh), có những bài phác họa sơ sài mà chân thực đậm đà, càng tìm hiểu càng thú vị như đang chiêm ngưỡng một bức tranh cổ điển. Có những bài cảnh lồng lộng sinh động như những tấm thảm thuê nền gấm chỉ vàng. Cũng có những bài làm cho người đọc nghĩ tới những bức tranh sơn mài thâm trầm, sâu sắc. (Lê Thị Tú An) 5. Đoạn văn móc xích: Đoạn văn có kết cấu móc xích là đoạn văn mà các ý gối đầu, đan xen nhau và thể hiện cụ thể bằng việc lặp lại một vài từ ngữ đã có ở câu trước vào câu sau. Đoạn móc xích có thể có hoặc không có câu chủ đề. VD: Đọc thơ Nguyễn Trãi, nhiều người đọc khó mà biết có đúng là thơ Nguyễn Trãi không. Đúng là thơ Nguyễn Trãi rồi thì cũng không phải là dễ hiểu đúng. Lại có khi chữ hiểu đúng, câu hiểu đúng mà toàn bài không hiểu. Không hiểu vì không biết chắc bài thơ bài thơ được viết ra lúc nào trong cuộc đời nhiều nổi chìm của Nguyễn Trãi. Cũng một bài thơ nếu viết năm 1420 thì có một ý nghĩa, nếu viết năm 1430 thì nghĩa khác hẳn. (Hoài Thanh) 6. Đoạn văn so sánh: Đoạn văn so sánh có sự đối chiếu để thấy cái giống nhau hoặc khác nhau giữa các đối tượng, các vấn đề,…để từ đó thấy được chân lí của luận điểm hoặc làm nổi bật luận điểm trong đoạn văn. Có hai kiểu so sánh khi viết đoạn văn là: so sánh tương đồng và so sánh tương phản. So sánh tương đồng: Đoạn văn có sự so sánh tương tự nhau dựa trên một ý tưởng. VD: Ngày trước ông cha ta có câu “Có công mài sắt có ngày nên kim”. Cụ Nguyễn Bá Học, một nho sĩ đầu thế kỉ XX cũng viết: “Đường đi không khó vì ngăn sông cách núi mà khó vì lòng người ngại núi e sông”. Sau này vào những năm bốn mươi giữa bóng tối ngục tù của Tưởng Giới Thạch, nhà thơ Hồ Chí Minh cũng đề cập tới tính kiên nhẫn, chấp nhận gian lao qua bài thơ “Nghe tiếng giã gạo”, trong đó có câu: “Gian nan rèn luyện mới thành công”. Câu thơ thể hiện phẩm chất tốt đẹp, ý chí của Hồ Chí Minh đồng thời còn là châm ngôn rèn luyện cho mỗi chúng ta. (Lê Bá Hân) So sánh tương phản: Đoạn văn có sự so sánh trái ngược nhau về nội dung, ý tưởng. VD: Trong cuộc sống không thiếu những người cho rằng cần học tập để thành tài, có tri thức hơn người khác mà không hề nghĩ tới việc rèn luyệnđạo đức, lễ nghĩa, vốn là giá trị cao quí nhất trong các giá trị của loài người. Những người luôn hợm mình, tự cao tự đại, nhiều khi trở thành những kẻ có hại cho xã hội. Đối với những người ấy, chúng ta cần giúp họ hiểu rõ lời dạy của người xưa: “Tiên học lễ, hậu học văn” (Nguyễn Quang Ninh) 7. Đoạn văn có kết cấu đòn bẩy, bắc cầu: Đoạn văn kết cấu đòn bẩy, bắc cầu là đoạn văn mở đầu nêu một nhận định, dẫn một câu chuyện hoặc một đoạn thơ văn, những dẫn chứng gần giống hoặc trái với ý tưởng (Chủ đề của đoạn) tạo thành điểm tựa, làm cơ sở để phân tích sâu sắc ý tưởng đề ra. VD: “Quen biết khắp thiên hạ, hiểu được mình có mấy người”. Bình thường chúng ta hay than vãn không tìm được người bạn hiểu được mình. Quả đúng như vậy, tri âm khó tìm, cuộc đời có thể có được người hiểu mình, thì không còn gì đáng tiếc! Nhưng, kết bạn không chỉ là việc của riêng đơn phương một người, mà tâm ý của cả hai phải hiểu rõ nhau, nếu chỉ một phía có tâm, một bên vô tâm thì sẽ khó thành bạn bè được. Một bên nghèo hèn, một bên giàu có, tình bạn cũng có cơ hội trải nghiệm đói no. Kết giao bạn bè, có thể cùng chung hoạn nạn, sinh tử không sợ mới có thể thấy rõ chân tình, mới đáng để ca tụng. (Đại sư Tinh Vân)
Hướng dẫn TRÌNH TỰ LẬP LUẬN/CÁCH THỨC TRÌNH BÀY ĐOẠN VĂN Đoạn văn có nhiều cách trình bày :Diễn dịch- quy nạp- song hành- móc xích- tổng phân hợp...Bài viết dưới đây khái quát lí thuyết và đoạn văn mẫu tham khảo cho học sinh để làm tốt bài thi môn Ngữ văn. 1. Đoạn văn diễn dịch (Có câu chủ đề): Đoạn diễn dịch là đoạn văn trong đó câu chủ đề mang ý nghĩa khái quát đứng ở đầu đoạn, các câu còn lại triển khai cụ thể ý của câu chủ đề, bổ sung, làm rõ cho câu chủ đề. Các câu triển khai được thực hiện bằng các thao tác giải thích, chứng minh, phân tích, bình luận, có thể kèm theo nhận xét, đánh giá và bộc lộ cảm nhận của người viết. VD: Một chiếc lá rụng có linh hồn riêng, một tâm tình riêng, một cảm giác riêng. Có chiếc tựa như mũi tên nhọn, từ cành cây rơi cắm phập xuống đất như cho xong chuyện, cho xong một đời lạnh lùng thản nhiên, không thương tiếc, không do dự vẩn vơ. Có chiếc lá như con chim bị lảo đảo mấy vòng trên không rồi cố gượng ngoi đầu lên, hay giữ thăng bằng cho tận tới cái giây nằm phơi trên mặt đất. Có chiếc lá nhẹ nhàng khoan khoái đùa bỡn, hay múa may với làn gió thoảng như thầm bảo rằng vẻ đẹp của vạn vật chỉ ở hiện tại: cả thời quá khứ dài dằng dặc của chiếc lá trên cành cây không bằng một vài giây bay lượn, nếu sự bay lượn ấy có vẻ đẹp nên thơ. Có chiếc lá như sợ hãi, ngần ngại rụt rè, rồi như gần tới mặt đất, còn cất mình muốn bay trở lại cành. Có chiếc lá đầy âu yếm rơi bám vào một bông hoa thơm, hay đến mơn trớn một ngọn cỏ xanh mềm mại. (Khái Hưng) 2. Đoạn văn qui nạp (Có câu chủ đề): Đoạn qui nạp là đoạn văn được trình bày đi từ các ý nhỏ đến ý lớn, từ các ý chi tiết đến ý khái quát, từ ý luận cứ cụ thể đến ý kết luận bao trùm. Theo cách trình bày này, câu chủ đề nằm ở vị trí cuối đoạn. Ở vị trí này, câu chủ đề không làm nhiệm vụ định hướng nội dung triển khai cho toàn đoạn mà lại làm nhiệm vụ khép lại nội dung cho đoạn ấy. Các câu trên được trình bày bằng các thao tác lập luận, minh họa, cảm nhận và rút ra nhận xét đánh giá chung. VD: Những đứa con từ khi sinh ra đến khi trưởng thành, phần lớn thời gian là gần gũi và thường là chịu ảnh hưởng từ người mẹ hơn từ cha. Chúng được mẹ cho bú sữa, bồng ẵm, dỗ dành, tắm giặt, ru ngủ, cho ăn uống, chăm sóc rất nhiều khi ốm đau…Với việc nhận thức thông qua quá trình bé tự quan sát, học hỏi tự nhiên hàng ngày và ảnh hưởng đặc biệt các đức của người mẹ, đã hình thành dần dần bản tính của đứa con theo kiểu “mưa dầm, thấm lâu”. Ngoài ra, những đứa trẻ thường là thích bắt chước người khác thông qua những hành động của người gần gũi nhất chủ yếu là người mẹ. Chính người phụ nữ là người chăm sóc và giáo dục con cái chủ yếu trong gia đình. (Trần Thanh Thảo) 3. Đoạn tổng – phân – hợp (Có câu chủ đề ở đầu và cuối đoạn văn): Đoạn tổng – phân – hợp là đoạn văn phối hợp diễn dịch với qui nạp. Câu mở đầu đoạn nêu ý khái quát bậc một, các câu tiếp theo triển khai cụ thể ý khái quát. Câu kết đoạn là ý khái quát bậc hai mang tính chất nâng cao, mở rộng. Những câu triển khai ý được thực hiện bằng các thao tác giải thích, chứng minh, phân tích, bình luận, nhận xét, đánh giá hoặc nêu suy nghĩ…để từ đó đề xuất nhận định đối với chủ đề, tổng hợp, khẳng định, năng cao vấn đề. VD: Thế đấy, biển luôn luôn thay đổi màu tùy theo sắc mây trời. Trời xanh thẳm, biển cũng xanh thẳm, như dâng cao lên, chắc nịch. Trời rải mây trắng nhạt, biển mơ màng dịu hơi sương. Trời âm u mây mưa, biển xám xịt, nặng nề. Trời ầm ầm dông gió, biển đục ngầu giận dữ…Như một con người biết buồn vui, biển lúc tẻ nhạt, lạnh lung, lúc sôi nổi, hả hê, lúc đăm chiêu, gắt gỏng. (Vũ Tú Nam) 4. Đoạn văn song hành (Không có câu chủ đề): Đây là đoạn văn có các câu triển khai nội dung song song nhau, không nội dung nào bao trùm lên nội dung nào. Mỗi câu trong đoạn văn nêu một khía cạnh của chủ đề đoạn văn, làm rõ cho nội dung đọan văn. VD: Trong tập “Nhật kí trong tù”(Hồ Chí Minh), có những bài phác họa sơ sài mà chân thực đậm đà, càng tìm hiểu càng thú vị như đang chiêm ngưỡng một bức tranh cổ điển. Có những bài cảnh lồng lộng sinh động như những tấm thảm thuê nền gấm chỉ vàng. Cũng có những bài làm cho người đọc nghĩ tới những bức tranh sơn mài thâm trầm, sâu sắc. (Lê Thị Tú An) 5. Đoạn văn móc xích: Đoạn văn có kết cấu móc xích là đoạn văn mà các ý gối đầu, đan xen nhau và thể hiện cụ thể bằng việc lặp lại một vài từ ngữ đã có ở câu trước vào câu sau. Đoạn móc xích có thể có hoặc không có câu chủ đề. VD: Đọc thơ Nguyễn Trãi, nhiều người đọc khó mà biết có đúng là thơ Nguyễn Trãi không. Đúng là thơ Nguyễn Trãi rồi thì cũng không phải là dễ hiểu đúng. Lại có khi chữ hiểu đúng, câu hiểu đúng mà toàn bài không hiểu. Không hiểu vì không biết chắc bài thơ bài thơ được viết ra lúc nào trong cuộc đời nhiều nổi chìm của Nguyễn Trãi. Cũng một bài thơ nếu viết năm 1420 thì có một ý nghĩa, nếu viết năm 1430 thì nghĩa khác hẳn. (Hoài Thanh) 6. Đoạn văn so sánh: Đoạn văn so sánh có sự đối chiếu để thấy cái giống nhau hoặc khác nhau giữa các đối tượng, các vấn đề,…để từ đó thấy được chân lí của luận điểm hoặc làm nổi bật luận điểm trong đoạn văn. Có hai kiểu so sánh khi viết đoạn văn là: so sánh tương đồng và so sánh tương phản. So sánh tương đồng: Đoạn văn có sự so sánh tương tự nhau dựa trên một ý tưởng. VD: Ngày trước ông cha ta có câu “Có công mài sắt có ngày nên kim”. Cụ Nguyễn Bá Học, một nho sĩ đầu thế kỉ XX cũng viết: “Đường đi không khó vì ngăn sông cách núi mà khó vì lòng người ngại núi e sông”. Sau này vào những năm bốn mươi giữa bóng tối ngục tù của Tưởng Giới Thạch, nhà thơ Hồ Chí Minh cũng đề cập tới tính kiên nhẫn, chấp nhận gian lao qua bài thơ “Nghe tiếng giã gạo”, trong đó có câu: “Gian nan rèn luyện mới thành công”. Câu thơ thể hiện phẩm chất tốt đẹp, ý chí của Hồ Chí Minh đồng thời còn là châm ngôn rèn luyện cho mỗi chúng ta. (Lê Bá Hân) So sánh tương phản: Đoạn văn có sự so sánh trái ngược nhau về nội dung, ý tưởng. VD: Trong cuộc sống không thiếu những người cho rằng cần học tập để thành tài, có tri thức hơn người khác mà không hề nghĩ tới việc rèn luyệnđạo đức, lễ nghĩa, vốn là giá trị cao quí nhất trong các giá trị của loài người. Những người luôn hợm mình, tự cao tự đại, nhiều khi trở thành những kẻ có hại cho xã hội. Đối với những người ấy, chúng ta cần giúp họ hiểu rõ lời dạy của người xưa: “Tiên học lễ, hậu học văn” (Nguyễn Quang Ninh) 7. Đoạn văn có kết cấu đòn bẩy, bắc cầu: Đoạn văn kết cấu đòn bẩy, bắc cầu là đoạn văn mở đầu nêu một nhận định, dẫn một câu chuyện hoặc một đoạn thơ văn, những dẫn chứng gần giống hoặc trái với ý tưởng (Chủ đề của đoạn) tạo thành điểm tựa, làm cơ sở để phân tích sâu sắc ý tưởng đề ra. VD: “Quen biết khắp thiên hạ, hiểu được mình có mấy người”. Bình thường chúng ta hay than vãn không tìm được người bạn hiểu được mình. Quả đúng như vậy, tri âm khó tìm, cuộc đời có thể có được người hiểu mình, thì không còn gì đáng tiếc! Nhưng, kết bạn không chỉ là việc của riêng đơn phương một người, mà tâm ý của cả hai phải hiểu rõ nhau, nếu chỉ một phía có tâm, một bên vô tâm thì sẽ khó thành bạn bè được. Một bên nghèo hèn, một bên giàu có, tình bạn cũng có cơ hội trải nghiệm đói no. Kết giao bạn bè, có thể cùng chung hoạn nạn, sinh tử không sợ mới có thể thấy rõ chân tình, mới đáng để ca tụng. (Đại sư Tinh Vân)
Hướng dẫn MỘT SỐ BIỆN PHÁP TU TỪ QUEN THUỘC So sánh: So sánh tư từ là cách công khai đối chiếu hai hay nhiều đối tượng có một nét tương đồng nào đó về hình thức bên ngoài hay tính chất bên trong để gợi ra hình ảnh cụ thể, những cảm xúc thẩm mĩ trong nhận thức của người đọc, người nghe. Tác dụng: Khiến đối tượng được miêu tả trở nên cụ thể, sinh động gợi lên những cảm xúc thẩm mĩ trong nhận thức người đọc. Bao giờ cũng công khai hai vế: Vế so sánh và vế được so sánh. Có những dạng sau: A như B VD: Cổ tay em trắng như ngà Đôi mắt em liếc như dao cau Miệng cười như thể hoa ngâu Cái khăn đội đầu như thể hoa sen. (Ca dao) A bao nhiêu B bấy nhiêu VD: Ai ơi chớ bỏ ruộng hoang Bao nhiêu tấc đất tấc vàng bấy nhiêu (Ca dao) A là B VD: Tâm hồn tôi là một buổi trưa hè Tỏa nằng xuống dòng song lấp loáng. (Tế Hanh) A (giấu đi từ so sánh) B VD: Bác ngồi đó, lớn mênh mông Trời xanh biển rộng ruộng đồng non nước (Tố Hữu) Ẩn dụ: Ẩn dụ là cách lâm thời lấy tên gọi biểu thị đối tượng này để chỉ đối tượng kia dựa vào nét tương đồng giữa hai đối tượng. Ẩn dụ tu từ cũng giống như so sánh tu từ do đó người ta còn gọi là so sánh ngầm. Tác dụng: Khiến đối tượng được miêu tả trở nên cụ thể, sinh động, gợi lên những cảm xúc thẩm mĩ trong nhận thức của người đọc. VD: Trong đạn bom đổ nát Bừng tươi nụ ngói hồng (Vũ Duy Thông) Hoán dụ: Hoán dụ là phương thức chuyển nghĩa bằng cách dùng một đặc điểm hay một nét tiêu biểu nào đó của một đối tượng để gọi tên chính đối tượng đó dựa vào mối quan hệ liên tưởng logic khách quan giữa hai đối tượng. Giống ẩn dụ tu từ, hoán dụ tu từ chỉ có một vế biểu hiện, vế được biểu hiện không phô ra. Tác dụng: Khiến đối tượng được miêu tả trở nên cụ thể, sinh động; gợi lên những cảm xúc thẩm mĩ trong nhận thức của người đọc. Một số mối quan hệ logic khách quan thường được dùng để cấu tạo nên hoán dụ tu từ. Quan hệ giữa cái cụ thể và cái trừu tượng VD: Trước bộ óc vĩ đại tôi cúi đầu, trước trái tim vĩ đại tôi quì gối. (W.Goeth) Quan hệ giữa bộ phận và toàn thể VD: Một tay gây dựng cơ đồ Bấy lâu bể Sở song Ngô tung hoành (Nguyễn Du) Quan hệ giữa cái đựng và vật đượcchứa đựng VD: Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông Một người chin nhớ mười mong một người. (Nguyễn Bính) Quan hệ giữa dấu hiệu của sự vật, hiện tượng và sự vật, hiện tượng VD: Áo trắng hỡi thuở tìm em không thấy Nắng mênh mang mấy nhịp Tràng Tiền Em rất thật mà nắng thì hư ảo Mặt trời lên từ phía nón em nghiêng (Thu Bồn) Nhân hóa: Nhân hóa là một biến thể của ẩn dụ tu từ, trong đó người ta lấy những từ ngữ biểu thị những thuộc tính, hoạt động của người dùng để biểu thị hoạt động của các đối tượng khác loại dựa trên nét tương đồng về thuộc tính, về hoạt động giữa ngưởi và đối tượng không phải là người. Tác dụng: Khiến đối tượng được miêu tả trở nên cụ thể, sinh động; gợi lên những cảm xúc thẩm mĩ trong nhận thức của người đọc. Gồm hai dạng sau: Dùng những từ chỉ tính chất, hoạt động của người để biểu thị những tính chất, hoạt động của đối tượng không phải là người. VD: Giấy đỏ buồn không thắm Mực đọng trong nghiêng sầu (Vũ Đình Liên) Xem đối tượng không phải là người như con người để tâm tình trò chuyện. VD: Trâu ơi, ta bảo trâu này Trâu ra ngoài ruộng trâu cày với ta Cấy cày vốn nghiệp nông gia Ta đây trâu đấy ai mà quản công Bao giờ cây lúa còn bông Thì còn ngọn cỏ ngoài đồng trâu ăn. (Ca dao) Thậm xưng (Khoa trương, phóng đại, ngoa dụ): Là biện pháp tu từ dùng sự cường điệu quy mô, tính chất, mức độ,… của đối tượng được miêu tả so với cách biểu hiện bình thường nhằm mục đích nhấn mạnh vào một bản chất nào đó của đối tượng được miêu tả. VD: Thò tay mà ngắt ngọn ngò Thương em đứt ruột giả đò ngó lơ. (Ca dao) Nói giảm (Nhã ngữ, Khinh từ): là biện pháp tu từ dùng hình thức biểu đạt giảm bớt mức độ hơn, nhẹ nhàng hơn, mềm mại hơn để thay thế cho sự biểu đạt bình thường cần phải lảng tránh do những nguyên nhân tình cảm. VD: Bác đã lên đường theo tổ tiên Mác Lê-nin thế giới người hiền (Tố Hữu) Các hình thức điệp: Điệp phụ âm đầu: là biện pháp tu từ dùng sự trùng điệp âm hưởng bằng cách lặp lại cùng một phụ âm đầu nhằm mục đích tăng sức biểu hiện, tăng nhạc tính của câu thơ. VD: Những đường Việt Bắc của ta Đêm đêm rầm rập nhưu là đất rung. (Tố Hữu) Điệp vần: là biện pháp tu từ dùng sự trùng điệp về âm hưởng bằng cách lặp lại những âm tiết có phần vần giống nhau, nhằm mục đích tăng sức biểu hiện, tăng nhạc tính của câu thơ. VD: Em không nghe mùa thu Dưới trăng mờ thổn thức Em không nghe rạo rực Hình ảnh kẻ chinh phu Trong lòng người cô phụ (Lưu Trọng Lư) Điệp thanh: là biện pháp tu từ dùng sự trùng điệp về âm hưởng bằng cách lặp đi lặp lại những thanh điệu cùng nhóm bằng hoặc nhóm trắc, nhằm mục đích tăng nhạc tính, tăng tính tạo hình và biểu cảm của câu thơ. VD: Sương nương theo trăng ngừng lưng trời Tương tư nâng lòng lên chơi vơi. (Xuân Diệu) Điệp ngữ Là biện pháp lặp đi lặp lại những từ ngữ nào đó nhằm mục đích mở rộng, nhấn mạnh ý nghĩa hoặc gợi ra những cảm xúc trong lòng người đọc. Phân loại; Điệp ngữ nối tiếp (từ được lặp lại nối tiếp) VD: Cùng trông lại mà cũng chẳng thấy Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu Ngàn dâu xanh ngắt một màu Lòng chàng ý thiếp ai sầu hon ai (Đoàn Thị Điểm) Điệp ngữ cách quãng (từ được lặp lại có ngăn cách bởi các từ khác) VD: Bố em đi cày về Đội sấm Đội chớp Đội cả trời mưa! (Trần Đăng Khoa) Điệp cấu trúc: là biện pháp lặp đi lặp lại một cấu trúc cú pháp, trong đó có láy đi láy lại một số từ nhất định và vừa triển khai được ý một cách hoàn chỉnh, vừa làm cho người nghe dễ nhớ, dễ hiểu; đồng thời bổ sung và phát triển cho ý hoàn chỉnh; tạo cho toàn câu văn, câu thơ một vẻ đẹp hài hòa, cân đối. VD: Anh trai cầm sung, chị gái cầm chông Mẹ địu em đi để đánh trận cuối Từ trên lưng mẹ em đến chiến trường Từ trong đói khổ em vào Trường Sơn. (Nguyễn Khoa Điềm) Các biện pháp tu từ đã học
Instruct SOME Familiar Rhetorical MEASURES Compare: Adverbial comparison is a way of openly comparing two or more objects that have a certain similarity in external form or internal properties to evoke specific images and aesthetic emotions in the person's perception. reader, listener. Effect: Makes the described object become specific and vivid, evoking aesthetic emotions in the reader's perception. Always make two sides public: the comparison side and the compared side. There are the following forms: A is like B For example: Your wrists are as white as ivory My eyes glare like scowling knives The mouth smiles like a daffodil The head scarf resembles a lotus flower. (Folk) As much A as B For example: Hey, don't leave the fields fallow How many feet underground, yellow feet much (Folk) A is B For example: My soul is a summer afternoon Shining down on the sparkling river. (Te Hanh) A (hide the word comparison) B For example: Uncle sat there, immense The sky is blue, the sea is wide, the fields are watery (To Huu) Metaphor: A metaphor is a temporary way of taking a name that represents one object to refer to another object based on the similarities between the two objects. Rhetorical metaphor is the same as rhetorical comparison, so it is also called implicit comparison. Effect: Makes the described object become specific and vivid, evoking aesthetic emotions in the reader's perception. For example: In the ruins of bombs Bright pink tile buds (Vu Duy Thong) Metonymy: Metonymy is a method of transferring meaning by using a characteristic or a typical feature of an object to name that object itself based on an objective logical association between the two objects. Like rhetorical metaphor, rhetorical metonymy has only one expressed side, the expressed side is not shown. Effect: Makes the described object become specific and vivid; evokes aesthetic emotions in the reader's perception. Some objective logical relationships are often used to construct rhetorical metonymy. The relationship between the concrete and the abstract Example: Before a great brain I bow my head, before a great heart I kneel. (W.Goeth) Relationship between parts and whole For example: Single-handedly built a fortune For a long time, the So and Ngo tanks were rampant (Nguyen Du) The relationship between the container and the contained object For example: Doai village misses Dong village A nine person misses ten people and longs for one person. (Nguyen Binh) Relationship between signs of things, phenomena and things, phenomena For example: White shirt, I couldn't find you when I looked for it The immense sunshine spans Trang Tien You are so real but the sun is so unreal The sun rises from the side where my hat is tilted (Thu Bon) Impersonal: Personification is a variation of rhetorical metaphor, in which people use words that represent the attributes and activities of users to represent the activities of objects of different types based on similarities in attributes. , about activities between humans and non-human objects. Effect: Makes the described object become specific and vivid; evokes aesthetic emotions in the reader's perception. Includes the following two forms: Use words that indicate the properties and activities of people to express the properties and activities of non-human objects. For example: Red paper petal sad Ink stagnates in the sadness (Vu Dinh Lien) View non-human subjects as human beings to confide in and converse with. For example: Buffalo, I say buffalo The buffalo went out into the buffalo fields to plow with me Plowing and plowing are the capital of farmers I am a buffalo, who cares? As long as the rice plant still has flowers There is still a blade of grass in the field for the buffalo to eat. (Folk) Exaggeration (Exaggeration, exaggeration, hyperbole): A rhetorical measure that uses exaggeration of the scale, nature, extent, etc. of the described object compared to normal expression for the purpose of emphasizing on a certain nature of the object being described. For example: Reach out and pluck the cilantro I feel so sorry for you that I pretend to ignore you. (Folk) Understatement (Courtesy, Condescension): is a rhetorical device that uses a form of expression that is less intense, gentler, and softer to replace normal expressions that need to be avoided due to various reasons. emotional. For example: He set out to follow his ancestors Marx Lenin world of good people (To Huu) Message forms: Initial consonant alliteration: is a rhetorical device that uses overlapping resonance by repeating the same initial consonant in order to increase the expressive power and musicality of the verse. For example: Our Viet Bac roads The night was so loud it was like the earth was shaking. (To Huu) Alliteration: is a rhetorical device that uses repetition of sounds by repeating syllables with the same rhyme, aiming to increase the expressive power and musicality of the verse. For example: I don't listen to autumn Under the blurry moon I don't hear excitement Image of a conqueror In the heart of a woman (Luu Trong Lu) Alliteration: is a rhetorical device that uses the repetition of sounds by repeating tones in the same flat or flat group, with the aim of increasing the musicality, shape and expressiveness of the verse. For example: The mist followed the moon and stopped the sky The feeling of love lifts the heart to play. (Xuan Dieu) Repetition It is a method of repeating certain words for the purpose of expanding, emphasizing meaning or evoking emotions in the reader's heart. Classify; Serial alliteration (words repeated in succession) For example: Looking back but not seeing it Seeing thousands of strawberries green and green Thousands of green strawberries are one color Who's heart is sadder than who else? (Doan Thi Diem) Spaced alliteration (words repeated separated by other words) For example: My father came back from plowing Thunder team Lightning team Even in the rain! (Tran Dang Khoa) Structural rhyme: is a method of repeating a syntactic structure, including repeating certain words over and over to both develop the idea completely and make it easy for the listener to remember and understand. ; At the same time, it complements and develops a complete idea; giving the entire sentence and poem a harmonious and balanced beauty. For example: The older brother holds a gun, the older sister holds a spear Mom carried me to the final battle From my mother's back to the battlefield From hunger and poverty, I entered Truong Son. (Nguyen Khoa Diem) Learned rhetorical devices
Hướng dẫn Mục Lục Bài viết hệ thống hóa kiến thức về từ và câu, phân loại, cách nhận diện từ và các kiểu câu trong tiếng Việt, Giúp làm tốt phần đọc hiểu trong môn Ngữ văn Từ xét về cấu tạo: Đặc điểm các từ: từ đơn, từ ghép, từ phức, từ láy. * Từ đơn: là từ được cấu tạo bởi một tiếng có nghĩa tạo thành. Có 2 loại từ đơn: từ đơn một âm tiết và từ đơn đa âm tiết. Tác dụng: dùng định danh sự vật, hiện tượng hoặc dùng để nêu đặc điểm tính chất trạng thái của sự vật; dùng để tạo từ ghép, từ láy làm cho vốn từ thêm phong phú VD: nhà, cửa, bàn, ghế, xe… * Từ phức: là từ được cấu tạo từ hai tiếng trở lên. Từ phức được chia ra làm hai loại là Từ ghép và Từ láy: – Từ ghép: là những từ có cấu tạo từ hai tiếng trở lên, giữa các tiếng có quan hệ với nhau về mặt nghĩa. + Tác dụng: dùng định danh sự vật, hiện tượng hoặc dùng để nêu đặc điểm tính chất trạng thái của sự vật + Căn cứ vào quan hệ về mặt nghĩa giữa các tiếng trong từ ghép, người ta chia làm hai loại: từ ghép đẳng lập và từ ghép chính phụ VD: Anh em, bố mẹ, nhà cửa, bàn ghế, quần áo… (từ ghép đẳng lập) Xe đạp, lốp xe, cây cối, đường xá (từ ghép chính phụ) – Từ láy: là những từ được cấu tạo bởi hai tiếng trở lên, giữa các tiếng có quan hệ với nhau về mặt âm. Trong từ láy chỉ có một tiếng gốc có nghĩa, các tiếng khác láy lại tiếng gốc. Phân loại từ láy: Láy bộ phận (láy âm và láy vần) và láy toàn bộ; láy đôi, láy ba, láy bốn. VD: lúng la lúng liếng, sạch sành sanh, long lanh, … Tác dụng: tạo nên những từ tượng thanh, tượng hình trong miêu tả, thơ ca… có tác dụng gợi hình gợi cảm. Từ xét về nguồn gốc – Từ mượn: gồm từ Hán Việt và từ mượn các nước khác VD: + Từ Hán Việt: hoàng hôn, nhân dân, quốc kì, quốc lộ… + Từ mượn các nước khác: gác ba ga, ba đờ xuy, ra đi ô, facebook, email… – Từ địa phương (phương ngữ): là từ dùng ở một địa phương nào đó (có từ toàn dân tương ứng). VD: Tía, mế, mô, rứa, mần răng, ni, nớ… – Biệt ngữ xã hội: là từ được dùng trong một tầng lớp xã hội nhất định. VD: Cớm, chõm, dân hai ngón, … Từ xét về nghĩa * Khái niệm: – Nghĩa của từ là nội dung (sự vật, tính chất, hoạt động, quan hệ..) mà từ biểu thị. – Một từ có thể có thể có nhiều nghĩa. Từ nhiều nghĩa là từ mang sắc thái ý nghĩa khác nhau do hiện tượng chuyển nghĩa từ. Phân loại từ tiếng Việt – Xét về từ loại: + Danh từ: là những từ chỉ người, vật; thường dùng làm chủ ngữ trong câu. – Động từ: là những từ dùng chỉ trạng thái, hành động của sự vật; thường dùng làm vị ngữ trong câu. + Tính từ: là những từ chỉ đặc điểm, tính chất của sự vật, hành động trạng thái; có thể làm chủ ngữ hoặc vị ngữ trong câu. + Đại từ: là những từ dùng để trỏ người, sự vật, hoạt động tính chất được nói đến trong một ngữ cảnh nhất định của lời nói hoặc dùng để hỏi. + Lượng từ: là những từ chỉ lượng ít hay nhiều của sự vật. + Chỉ từ: là những từ dùng để trỏ vào sự vật, nhằm xác định vị trí của sự vật trong không gian hoặc thời gian. + Quan hệ từ: là những từ dùng để biểu thị các ý nghĩa quan hệ như sở hữu, so sánh, nhân quả… giữa các bộ phận của câu hay giữa các câu với câu trong đoạn văn. + Trợ từ: là những từ chuyên đi kèm một từ ngữ trong câu để nhấn mạnh hoặc biểu thị thái độ đánh giá sự vật, sự việc được nói đến ở từ ngữ đó. + Thán từ: là những từ dùng để bộc lộ cảm xúc tình cảm cảu người nói hoặc dùng để gọi, đáp. + Tình thái từ: là những từ thêm vào câu để cấu tạo câu nghi vấn, câu cầu khiến, câu cảm thán và để biểu thị sắc thái tình cảm của người nói. – Các loại từ xét về nghĩa: + Từ đồng nghĩa: là những từ có nghĩa tương tự nhau. + Từ trái nghĩa: là những từ có nghĩa trái ngược nhau. + Từ đồng âm: là những từ có âm giống nhau nhưng nghĩa khác xa nhau. + Từ tượng hình: là từ gợi tả dáng vẻ, hình ảnh trạng thái của sự vật. + Từ tượng thanh: là từ mô phỏng âm thanh của tự nhiên hoặc của con người. Các thành phần cấu tạo câu * Thành phần chính: – Chủ ngữ: – Vị ngữ: * Thành phần phụ: – Trạng ngữ: là thành phần nhằm xác định thêm thời gian, nơi chốn, nguyên nhân, mục đích, cách thức… diễn ra sự việc nêu trong câu. – Thành phần biệt lập: là thành phần không tham gia vào việc diễn đạt nghĩa sự việc của câu (tình thái, cảm thán, gọi – đáp, phụ chú), bao gồm: + Phần phụ tình thái: dùng để thể hiện cách nhìn của người nói đối với sự việc được nói đến trong câu + Phần phụ cảm thán: được dùng để bộc lộ tâm lí của người nói (vui, buồn, mừng, giận…). + Thành phần phụ chú:được dùng để bổ sung một số chi tiết cho nội dung chính của câu. Thành phần phụ chú thường được đặt giữa hai dấu gạch ngang, hai dấu phẩy, hai dấu ngoặc đơn hoặc giữa một dấu gạch ngang với một dấu phẩy. Nhiều khi thành phần phụ chú còn được đặt sau dấu hai chấm. + Thành phần gọi đáp: được dùng để tọa lập hoặc duy trì mối quan hệ giao tiếp. + Khởi ngữ: là thành phần câu đứng trước chủ ngữ để nêu lên đề tài được nói đến trong câu. Các thành phần nghĩa của câu: * Nghĩa sự việc: – Câu biểu thị hành động. – Câu biểu thị tư thế. – Câu biểu thị sự tồn tại. – Câu biểu thị trạng thái, tính chất, đặc điểm. – Câu biểu thị quá trình. – Câu biểu thị quan hệ. * Nghĩa tình thái. – Tình cảm thái độ, sự đánh giá của người nói với sự việc được nói đến trong câu. – Tình cảm thái độ của người nói với người nghe. Phân loại câu * Câu phân loại theo cấu tạo ngữ pháp: Câu đặc biệt, câu đơn, câu phức, câu ghép. – Câu đặc biệt: là câu không xác định được thành phần chủ ngữ – vị ngữ của câu. VD: Mưa. Nắng. Gió. Sương. – Câu đơn: là câu được cấu tạo bởi một cụm chủ ngữ vị ngữ. VD: Hoa nở. – Câu ghép là câu có kết câu từ 2 cụm chủ ngữ – vị ngữ làm nòng cốt trở lên. VD: Gió thổi, mây bay. Có nhiều loại câu ghép: câu ghép đẳng lập, câu ghép chính phụ, câu ghép có quan hệ từ, câu ghép không có quan hệ từ. – Câu phức là câu có kết cấu từ 2 cụm chủ ngữ – vị ngữ trở lên nhưng trong đó chỉ có một cụm chủ vị làm nòng cốt còn các cụm chủ vị khác bị bao trong cụm chủ vị nòng cốt. VD: + Cái xe này, lốp bị hỏng. + Con mèo nhảy làm đổ lọ hoa. * Câu phân loại theo mục đích nói – Câu trần thuật: được dùng để miêu tả, kể, nhận xét sự vật. Cuối câu trần thuật người viết đặt dấu chấm. – Câu nghi vấn: được dùng trước hết với mục đích nêu lên điều chưa rõ (chưa biết còn hoài nghi) và cần được giải đáp. Cuối câu nghi vấn, người viết dùng dấu chấm hỏi. – Câu cầu khiến: Là câu dùng để ra lệnh, yêu cầu, đề nghị, khuyên bảo…đối với người tiếp nhận lời. Câu cầu khiến thường được dùng như những từ ngữ: hãy, đừng, chớ, thôi, nào….Cuối câu cầu khiến người viết đặt dấu chấm hay dấu chấm than. – Câu cảm thán: Dùng để bộc lộ trạng thái, cảm xúc của người nói … – Câu phủ định, câu khẳng định. ( Lược trích sáng kiến kinh nghiệm của cô giáo Mai Thị Thu Hà )
Hướng dẫn Mục Lục Bài viết hệ thống hóa kiến thức về từ và câu, phân loại, cách nhận diện từ và các kiểu câu trong tiếng Việt, Giúp làm tốt phần đọc hiểu trong môn Ngữ văn Từ xét về cấu tạo: Đặc điểm các từ: từ đơn, từ ghép, từ phức, từ láy. * Từ đơn: là từ được cấu tạo bởi một tiếng có nghĩa tạo thành. Có 2 loại từ đơn: từ đơn một âm tiết và từ đơn đa âm tiết. Tác dụng: dùng định danh sự vật, hiện tượng hoặc dùng để nêu đặc điểm tính chất trạng thái của sự vật; dùng để tạo từ ghép, từ láy làm cho vốn từ thêm phong phú VD: nhà, cửa, bàn, ghế, xe… * Từ phức: là từ được cấu tạo từ hai tiếng trở lên. Từ phức được chia ra làm hai loại là Từ ghép và Từ láy: – Từ ghép: là những từ có cấu tạo từ hai tiếng trở lên, giữa các tiếng có quan hệ với nhau về mặt nghĩa. + Tác dụng: dùng định danh sự vật, hiện tượng hoặc dùng để nêu đặc điểm tính chất trạng thái của sự vật + Căn cứ vào quan hệ về mặt nghĩa giữa các tiếng trong từ ghép, người ta chia làm hai loại: từ ghép đẳng lập và từ ghép chính phụ VD: Anh em, bố mẹ, nhà cửa, bàn ghế, quần áo… (từ ghép đẳng lập) Xe đạp, lốp xe, cây cối, đường xá (từ ghép chính phụ) – Từ láy: là những từ được cấu tạo bởi hai tiếng trở lên, giữa các tiếng có quan hệ với nhau về mặt âm. Trong từ láy chỉ có một tiếng gốc có nghĩa, các tiếng khác láy lại tiếng gốc. Phân loại từ láy: Láy bộ phận (láy âm và láy vần) và láy toàn bộ; láy đôi, láy ba, láy bốn. VD: lúng la lúng liếng, sạch sành sanh, long lanh, … Tác dụng: tạo nên những từ tượng thanh, tượng hình trong miêu tả, thơ ca… có tác dụng gợi hình gợi cảm. Từ xét về nguồn gốc – Từ mượn: gồm từ Hán Việt và từ mượn các nước khác VD: + Từ Hán Việt: hoàng hôn, nhân dân, quốc kì, quốc lộ… + Từ mượn các nước khác: gác ba ga, ba đờ xuy, ra đi ô, facebook, email… – Từ địa phương (phương ngữ): là từ dùng ở một địa phương nào đó (có từ toàn dân tương ứng). VD: Tía, mế, mô, rứa, mần răng, ni, nớ… – Biệt ngữ xã hội: là từ được dùng trong một tầng lớp xã hội nhất định. VD: Cớm, chõm, dân hai ngón, … Từ xét về nghĩa * Khái niệm: – Nghĩa của từ là nội dung (sự vật, tính chất, hoạt động, quan hệ..) mà từ biểu thị. – Một từ có thể có thể có nhiều nghĩa. Từ nhiều nghĩa là từ mang sắc thái ý nghĩa khác nhau do hiện tượng chuyển nghĩa từ. Phân loại từ tiếng Việt – Xét về từ loại: + Danh từ: là những từ chỉ người, vật; thường dùng làm chủ ngữ trong câu. – Động từ: là những từ dùng chỉ trạng thái, hành động của sự vật; thường dùng làm vị ngữ trong câu. + Tính từ: là những từ chỉ đặc điểm, tính chất của sự vật, hành động trạng thái; có thể làm chủ ngữ hoặc vị ngữ trong câu. + Đại từ: là những từ dùng để trỏ người, sự vật, hoạt động tính chất được nói đến trong một ngữ cảnh nhất định của lời nói hoặc dùng để hỏi. + Lượng từ: là những từ chỉ lượng ít hay nhiều của sự vật. + Chỉ từ: là những từ dùng để trỏ vào sự vật, nhằm xác định vị trí của sự vật trong không gian hoặc thời gian. + Quan hệ từ: là những từ dùng để biểu thị các ý nghĩa quan hệ như sở hữu, so sánh, nhân quả… giữa các bộ phận của câu hay giữa các câu với câu trong đoạn văn. + Trợ từ: là những từ chuyên đi kèm một từ ngữ trong câu để nhấn mạnh hoặc biểu thị thái độ đánh giá sự vật, sự việc được nói đến ở từ ngữ đó. + Thán từ: là những từ dùng để bộc lộ cảm xúc tình cảm cảu người nói hoặc dùng để gọi, đáp. + Tình thái từ: là những từ thêm vào câu để cấu tạo câu nghi vấn, câu cầu khiến, câu cảm thán và để biểu thị sắc thái tình cảm của người nói. – Các loại từ xét về nghĩa: + Từ đồng nghĩa: là những từ có nghĩa tương tự nhau. + Từ trái nghĩa: là những từ có nghĩa trái ngược nhau. + Từ đồng âm: là những từ có âm giống nhau nhưng nghĩa khác xa nhau. + Từ tượng hình: là từ gợi tả dáng vẻ, hình ảnh trạng thái của sự vật. + Từ tượng thanh: là từ mô phỏng âm thanh của tự nhiên hoặc của con người. Các thành phần cấu tạo câu * Thành phần chính: – Chủ ngữ: – Vị ngữ: * Thành phần phụ: – Trạng ngữ: là thành phần nhằm xác định thêm thời gian, nơi chốn, nguyên nhân, mục đích, cách thức… diễn ra sự việc nêu trong câu. – Thành phần biệt lập: là thành phần không tham gia vào việc diễn đạt nghĩa sự việc của câu (tình thái, cảm thán, gọi – đáp, phụ chú), bao gồm: + Phần phụ tình thái: dùng để thể hiện cách nhìn của người nói đối với sự việc được nói đến trong câu + Phần phụ cảm thán: được dùng để bộc lộ tâm lí của người nói (vui, buồn, mừng, giận…). + Thành phần phụ chú:được dùng để bổ sung một số chi tiết cho nội dung chính của câu. Thành phần phụ chú thường được đặt giữa hai dấu gạch ngang, hai dấu phẩy, hai dấu ngoặc đơn hoặc giữa một dấu gạch ngang với một dấu phẩy. Nhiều khi thành phần phụ chú còn được đặt sau dấu hai chấm. + Thành phần gọi đáp: được dùng để tọa lập hoặc duy trì mối quan hệ giao tiếp. + Khởi ngữ: là thành phần câu đứng trước chủ ngữ để nêu lên đề tài được nói đến trong câu. Các thành phần nghĩa của câu: * Nghĩa sự việc: – Câu biểu thị hành động. – Câu biểu thị tư thế. – Câu biểu thị sự tồn tại. – Câu biểu thị trạng thái, tính chất, đặc điểm. – Câu biểu thị quá trình. – Câu biểu thị quan hệ. * Nghĩa tình thái. – Tình cảm thái độ, sự đánh giá của người nói với sự việc được nói đến trong câu. – Tình cảm thái độ của người nói với người nghe. Phân loại câu * Câu phân loại theo cấu tạo ngữ pháp: Câu đặc biệt, câu đơn, câu phức, câu ghép. – Câu đặc biệt: là câu không xác định được thành phần chủ ngữ – vị ngữ của câu. VD: Mưa. Nắng. Gió. Sương. – Câu đơn: là câu được cấu tạo bởi một cụm chủ ngữ vị ngữ. VD: Hoa nở. – Câu ghép là câu có kết câu từ 2 cụm chủ ngữ – vị ngữ làm nòng cốt trở lên. VD: Gió thổi, mây bay. Có nhiều loại câu ghép: câu ghép đẳng lập, câu ghép chính phụ, câu ghép có quan hệ từ, câu ghép không có quan hệ từ. – Câu phức là câu có kết cấu từ 2 cụm chủ ngữ – vị ngữ trở lên nhưng trong đó chỉ có một cụm chủ vị làm nòng cốt còn các cụm chủ vị khác bị bao trong cụm chủ vị nòng cốt. VD: + Cái xe này, lốp bị hỏng. + Con mèo nhảy làm đổ lọ hoa. * Câu phân loại theo mục đích nói – Câu trần thuật: được dùng để miêu tả, kể, nhận xét sự vật. Cuối câu trần thuật người viết đặt dấu chấm. – Câu nghi vấn: được dùng trước hết với mục đích nêu lên điều chưa rõ (chưa biết còn hoài nghi) và cần được giải đáp. Cuối câu nghi vấn, người viết dùng dấu chấm hỏi. – Câu cầu khiến: Là câu dùng để ra lệnh, yêu cầu, đề nghị, khuyên bảo…đối với người tiếp nhận lời. Câu cầu khiến thường được dùng như những từ ngữ: hãy, đừng, chớ, thôi, nào….Cuối câu cầu khiến người viết đặt dấu chấm hay dấu chấm than. – Câu cảm thán: Dùng để bộc lộ trạng thái, cảm xúc của người nói … – Câu phủ định, câu khẳng định. ( Lược trích sáng kiến kinh nghiệm của cô giáo Mai Thị Thu Hà )
Hướng dẫn Mục Lục + Các cách thức xây dựng đoạn văn gồm có diễn dịch, quy nạp, móc xích, tổng phân hợp, song hành, rút gọn. Thông thường, có hai kiếu bài liên quan đến cách thức xây đựng đoạn văn: Kiểu bài thứ nhất là yêu cầu học sinh tìm ra cách thức xây dựng đoạn văn của một đoạn văn nhất định, kiếu bài thứ hai là yêu cầu học sinh xây dựng một đoạn văn mới theo một cách thức nhất đinh được đưa ra từ trước. + Để phân biệt các cách thức xây dựng đoạn văn, học sinh lưu ý hai điếm sau: Thứ nhất, học sinh tìm nội dung chính của đoạn văn. Việc tìm nội dung chính của đoạn văn được thực hiện bằng việc liên kết nội dung câu từ những từ quan trọng trong văn bản. Thứ hai, học sinh chú ý tìm câu chủ đề trong đoạn văn đó. Sau khi tìm được nội dung của đoạn trích, học sinh triển khai tim câu chủ đề của đoạn văn bằng cách “khớp” nội dung của đoạn trích với các câu của đoạn văn, xem câu nào phù hợp với nội dung được phản ánh nhất, câu đó sẽ là câu chủ đề. Đối với những đoạn văn được viết theo phong cách móc xích, song hành sẽ không có câu chủ đề thì học sinh cần tìm mối quan hệ giữa nội dung chính được phản ánh ở tất cả các câu văn. Thứ ba,tìm mối liên hệ giữa câu chủ đề với nội dung của văn bản và rút ra kết luận về kiểu đoạn văn. Ví dụ: Xét đoạn văn sau: Mũi Ngọc. Trên chỏm nó là một cái đồn. Dưới chân nó là một tí phố cụt của cây số cuối cùng thuộc đường số 4. Mười căn nhà ngói, mái thâm giòn, hòn ngói đực xoắn xuýt lấy hòn ngói cái. Chỉ có cái trạm hàng giang là còn cái màu ngói của một trụ sở mới. Nước thủy triều vẫn rút xuống. Tìm cái tàu thủy đón đoàn ra Cô Tô thì chưa thấy nó đâu cả. Cát ở đây vàng rộm hoàn toàn khác hẳn cát bãi Trà Cổ xam xám sền sệt. (Nguyễn Tuân, Cô Tô) Trong đoạn trích trên có những từ ngữ chính thể hiện nội dung của đoạn trích: Mũi Ngọc, cái đồn, phố, đường sô’4, căn nhà ngói, Cô Tô… Các từ ngữ chính đó thế hiện các khung cảnh của Mũi Ngọc. Từ những từ ngữ chính và nội dung được rút ra, đối chiếu với các câu trong đoạn trích, người đọc nhận thấy câu chủ đề của đoạn văn là “Mũi Ngọc” (câu đặc biệt). Từ đó kết luận đoạn văn trên viết theo phương thức diễn dịch. Như vậy, bản chất việc tìm ra cách thức xây dựng đoạn vàn chính là tìm ra mối quan hệ giữa câu chủ đề và các câu văn còn lại trong đoạn văn (tìm ra vị trí của nó trong đoạn văn đó), để làm được đó học sinh cần nắm được nội dung của đoạn văn một cách rõ ràng, có tiêu chí cụ thể thông qua các từ ngữ. Dạng bài thứ hai yêu cầu học sinh viết đoạn văn theo cách thức xây dựng đoạn Văn cho trước (thường chỉ yêu cầu học sinh xây dựng đoạn văn theo cách diễn dịch hoặc quy nạp). Đế làm được dạng bài này, học sinh chỉ cần xây dựng được câu chủ đê phu hợp và đặt vào vị trí thích hợp. Dưới đây là bài tập đế học sinh nhận dạng rõ hơn về đom vị kiến thức này: (1)Cái đòn gánh cong xuống vì hàng nặng, kĩu kịt trên mảnh vai nhỏ bé theo nhịp điệu của bước đi. Chịu khó, chịu khó từng tí một, hết bước nọ sang bước kia, cứ thế mà đi không nghĩ ngơ.i. Tâm thấy ngày nay cũng như mọi ngày, ngày mai cũng thế nữa; tất cả cuộc đời nàng lúc nào cũng chịu khó và hết sức, như tấm vải thô dệt đều nhau. Có phải đâu chỉ một mình cô; trong những lũy tre xanh kia, bao nhiêu người cũng như cô, cũng phải chịu khó và nhọc nhằn, để kiếm tiền nuôi chồng, nuôi con, nuôi các em. Tâm không chán nản cũng không tự kiêu, chỉ thấy yên tâm chắc chắn, như nhiều người khác cũng làm việc, cũng sống như nàng. (2) Tâm cứ bước đều chân và đến chợ vẫn còn sớm. Nàng bày hàng trên khoảng đất nàng vẫn ngồi xưa nay. Ánh sáng đầu tiên của mặt trời lấp lánh trên mặt kính các ô hàng. Các màu đua nhau thắm tươi dưới ngón tay xinh xắn của Tâm: những cuộn chỉ mượt, những cái cúc xà cừ, những gương lược sáng loáng. Cái gì cũng sạch sẽ ngăn nắp, nhỏ nhắn như công việc, như ý nghĩ của cô hàng xén. (Thạch Lam, Cô hàng xén) Đoạn (1) được viết theo phương thức xây dựng đoạn văn nào? Giải thích tại sao anh (chị) nhận biết được điều đó. Đáp án: Đoạn (1) được viết bằng phương thức quy nạp. Nguyên nhân: Câu cuối nêu lên nội dung của toàn đoạn, đó là nói về cuộc sống mòn mỏi, ngày này qua ngày khác của nhân vật Tâm và tâm trạng của chị. Các câu còn lại phục vụ cho nội dung chính này. Nguyễn Thế Hưng Xem thêm:
Instruct Table of contents + Ways to build paragraphs include deduction, induction, chaining, synthesis, parallelism, and reduction. Usually, there are two types of lessons related to how to construct paragraphs: The first type of lesson requires students to find out how to construct the paragraph of a certain paragraph, the second type of lesson requires students to Build a new paragraph in a certain way given before. + To distinguish between paragraph construction methods, students should note the following two points: First, students find the main content of the passage. Finding the main content of a paragraph is done by linking sentence content from important words in the text. Second, students pay attention to finding the topic sentence in that paragraph. After finding the content of the excerpt, students find the topic sentence of the paragraph by "matching" the content of the excerpt with the sentences of the paragraph, seeing which sentence best matches the content being reflected. , that sentence will be the topic sentence. For paragraphs written in a chained, parallel style that will not have a topic sentence, students need to find the relationship between the main content reflected in all sentences. Third, find the relationship between the topic sentence and the content of the text and draw conclusions about the type of paragraph. For example: Consider the following passage: Ngoc Cape. On top of it is a fort. At its feet is a little dead-end street of the last kilometer of road number 4. Ten tiled houses, with dark, brittle roofs, the male tile twisted with the female tile. Only the Hang Giang station still has the tile color of a new headquarters. The tide is still receding. Looking for the boat to take the group to Co To, I couldn't find it anywhere. The sand here is golden yellow and completely different from the gray and viscous sand of Tra Co beach. (Nguyen Tuan, Co To) In the above excerpt, there are main words that represent the content of the excerpt: Mui Ngoc, station, street, street number 4, tiled house, Co To... Those main words represent the scenery of Mui Ngoc. . From the main words and content extracted, compared with the sentences in the excerpt, the reader realizes that the topic sentence of the paragraph is "Nose Ngoc" (special sentence). From there, it is concluded that the above passage is written in a deductive method. Thus, the essence of finding a way to build a paragraph is to find the relationship between the topic sentence and the remaining sentences in the paragraph (find its position in that paragraph), in order to achieve this. Students need to understand the content of the passage clearly, with specific criteria through words. The second type of essay requires students to write a paragraph according to a given paragraph construction method (usually only asking students to construct a paragraph in a deductive or inductive way). To be able to do this type of lesson, students only need to construct a suitable topic sentence and place it in the appropriate position. Below is an exercise for students to better identify this knowledge unit: (1) The pole bends down because of the heavy load, hanging tightly on the small shoulder according to the rhythm of the step. Work hard, work hard little by little, from step to step, just keep going without thinking.i. The mind sees that today is the same as any other day, and tomorrow will be the same; All her life she has always worked hard and tried her best, like a coarse cloth woven evenly. It's not just her; In those green bamboo hedges, many people, like her, also have to endure hardship and hardship to earn money to support their husbands, children, and younger siblings. The mind is neither depressed nor arrogant, only feels secure, like many other people who work and live like her. (2) Tam kept walking steadily and arrived at the market still early. She set up shop on the space where she had always sat. The first light of the sun sparkled on the glass of the rows. The colors bloomed brightly under Tam's lovely fingers: silky threads, mother-of-pearl buttons, shiny comb mirrors. Everything is clean and tidy, small like work, like the thoughts of a shopkeeper. (Thach Lam, Shopkeeper) Paragraph (1) is written according to what paragraph construction method? Explain why you know that. Answer: Paragraph (1) is written using the inductive method. Reason: The last sentence states the content of the entire paragraph, which is about the weary, day-in-day-out life of the character Tam and her mood. The remaining sentences serve this main content. Nguyen The Hung See more:
Hướng dẫn + Các cách thức xây dựng đoạn văn gồm có diễn dịch, quy nạp, móc xích, tổng phân hợp, song hành, rút gọn. Thông thường, có hai kiếu bài liên quan đến cách thức xây đựng đoạn văn: Kiểu bài thứ nhất là yêu cầu học sinh tìm ra cách thức xây dựng đoạn văn của một đoạn văn nhất định, kiếu bài thứ hai là yêu cầu học sinh xây dựng một đoạn văn mới theo một cách thức nhất đinh được đưa ra từ trước. + Để phân biệt các cách thức xây dựng đoạn văn, học sinh lưu ý hai điếm sau: Thứ nhất, học sinh tìm nội dung chính của đoạn văn. Việc tìm nội dung chính của đoạn văn được thực hiện bằng việc liên kết nội dung câu từ những từ quan trọng trong văn bản. Thứ hai, học sinh chú ý tìm câu chủ đề trong đoạn văn đó. Sau khi tìm được nội dung của đoạn trích, học sinh triển khai tim câu chủ đề của đoạn văn bằng cách “khớp” nội dung của đoạn trích với các câu của đoạn văn, xem câu nào phù hợp với nội dung được phản ánh nhất, câu đó sẽ là câu chủ đề. Đối với những đoạn văn được viết theo phong cách móc xích, song hành sẽ không có câu chủ đề thì học sinh cần tìm mối quan hệ giữa nội dung chính được phản ánh ở tất cả các câu văn. Thứ ba,tìm mối liên hệ giữa câu chủ đề với nội dung của văn bản và rút ra kết luận về kiểu đoạn văn. Ví dụ: Xét đoạn văn sau: Mũi Ngọc. Trên chỏm nó là một cái đồn. Dưới chân nó là một tí phố cụt của cây số cuối cùng thuộc đường số 4. Mười căn nhà ngói, mái thâm giòn, hòn ngói đực xoắn xuýt lấy hòn ngói cái. Chỉ có cái trạm hàng giang là còn cái màu ngói của một trụ sở mới. Nước thủy triều vẫn rút xuống. Tìm cái tàu thủy đón đoàn ra Cô Tô thì chưa thấy nó đâu cả. Cát ở đây vàng rộm hoàn toàn khác hẳn cát bãi Trà Cổ xam xám sền sệt. (Nguyễn Tuân, Cô Tô) Trong đoạn trích trên có những từ ngữ chính thể hiện nội dung của đoạn trích: Mũi Ngọc, cái đồn, phố, đường sô’4, căn nhà ngói, Cô Tô… Các từ ngữ chính đó thế hiện các khung cảnh của Mũi Ngọc. Từ những từ ngữ chính và nội dung được rút ra, đối chiếu với các câu trong đoạn trích, người đọc nhận thấy câu chủ đề của đoạn văn là “Mũi Ngọc” (câu đặc biệt). Từ đó kết luận đoạn văn trên viết theo phương thức diễn dịch. Như vậy, bản chất việc tìm ra cách thức xây dựng đoạn vàn chính là tìm ra mối quan hệ giữa câu chủ đề và các câu văn còn lại trong đoạn văn (tìm ra vị trí của nó trong đoạn văn đó), để làm được đó học sinh cần nắm được nội dung của đoạn văn một cách rõ ràng, có tiêu chí cụ thể thông qua các từ ngữ. Dạng bài thứ hai yêu cầu học sinh viết đoạn văn theo cách thức xây dựng đoạn Văn cho trước (thường chỉ yêu cầu học sinh xây dựng đoạn văn theo cách diễn dịch hoặc quy nạp). Đế làm được dạng bài này, học sinh chỉ cần xây dựng được câu chủ đê phu hợp và đặt vào vị trí thích hợp. Dưới đây là bài tập đế học sinh nhận dạng rõ hơn về đom vị kiến thức này: (1)Cái đòn gánh cong xuống vì hàng nặng, kĩu kịt trên mảnh vai nhỏ bé theo nhịp điệu của bước đi. Chịu khó, chịu khó từng tí một, hết bước nọ sang bước kia, cứ thế mà đi không nghĩ ngơ.i. Tâm thấy ngày nay cũng như mọi ngày, ngày mai cũng thế nữa; tất cả cuộc đời nàng lúc nào cũng chịu khó và hết sức, như tấm vải thô dệt đều nhau. Có phải đâu chỉ một mình cô; trong những lũy tre xanh kia, bao nhiêu người cũng như cô, cũng phải chịu khó và nhọc nhằn, để kiếm tiền nuôi chồng, nuôi con, nuôi các em. Tâm không chán nản cũng không tự kiêu, chỉ thấy yên tâm chắc chắn, như nhiều người khác cũng làm việc, cũng sống như nàng. (2) Tâm cứ bước đều chân và đến chợ vẫn còn sớm. Nàng bày hàng trên khoảng đất nàng vẫn ngồi xưa nay. Ánh sáng đầu tiên của mặt trời lấp lánh trên mặt kính các ô hàng. Các màu đua nhau thắm tươi dưới ngón tay xinh xắn của Tâm: những cuộn chỉ mượt, những cái cúc xà cừ, những gương lược sáng loáng. Cái gì cũng sạch sẽ ngăn nắp, nhỏ nhắn như công việc, như ý nghĩ của cô hàng xén. (Thạch Lam, Cô hàng xén) Đoạn (1) được viết theo phương thức xây dựng đoạn văn nào? Giải thích tại sao anh (chị) nhận biết được điều đó. Đáp án: Đoạn (1) được viết bằng phương thức quy nạp. Nguyên nhân: Câu cuối nêu lên nội dung của toàn đoạn, đó là nói về cuộc sống mòn mỏi, ngày này qua ngày khác của nhân vật Tâm và tâm trạng của chị. Các câu còn lại phục vụ cho nội dung chính này. Nguyễn Thế Hưng Xem thêm:
Instruct + Ways to build paragraphs include deduction, induction, chaining, synthesis, parallelism, and reduction. Usually, there are two types of lessons related to how to construct paragraphs: The first type of lesson requires students to find out how to construct the paragraph of a certain paragraph, the second type of lesson requires students to Build a new paragraph in a certain way given before. + To distinguish between paragraph construction methods, students should note the following two points: First, students find the main content of the passage. Finding the main content of a paragraph is done by linking sentence content from important words in the text. Second, students pay attention to finding the topic sentence in that paragraph. After finding the content of the excerpt, students find the topic sentence of the paragraph by "matching" the content of the excerpt with the sentences of the paragraph, seeing which sentence best matches the content being reflected. , that sentence will be the topic sentence. For paragraphs written in a chained, parallel style that will not have a topic sentence, students need to find the relationship between the main content reflected in all sentences. Third, find the relationship between the topic sentence and the content of the text and draw conclusions about the type of paragraph. For example: Consider the following passage: Ngoc Cape. On top of it is a fort. At its feet is a little dead-end street of the last kilometer of road number 4. Ten tiled houses, with dark, brittle roofs, the male tile twisted with the female tile. Only the Hang Giang station still has the tile color of a new headquarters. The tide is still receding. Looking for the boat to take the group to Co To, I couldn't find it anywhere. The sand here is golden yellow and completely different from the gray and viscous sand of Tra Co beach. (Nguyen Tuan, Co To) In the above excerpt, there are main words that represent the content of the excerpt: Mui Ngoc, station, street, street number 4, tiled house, Co To... Those main words represent the scenery of Mui Ngoc. . From the main words and content extracted, compared with the sentences in the excerpt, the reader realizes that the topic sentence of the paragraph is "Nose Ngoc" (special sentence). From there, it is concluded that the above passage is written in a deductive method. Thus, the essence of finding a way to build a paragraph is to find the relationship between the topic sentence and the remaining sentences in the paragraph (find its position in that paragraph), in order to achieve this. Students need to understand the content of the passage clearly, with specific criteria through words. The second type of essay requires students to write a paragraph according to a given paragraph construction method (usually only asking students to construct a paragraph in a deductive or inductive way). To be able to do this type of lesson, students only need to construct a suitable topic sentence and place it in the appropriate position. Below is an exercise for students to better identify this knowledge unit: (1) The pole bends down because of the heavy load, hanging tightly on the small shoulder according to the rhythm of the step. Work hard, work hard little by little, from step to step, just keep going without thinking.i. The mind sees that today is the same as any other day, and tomorrow will be the same; All her life she has always worked hard and tried her best, like a coarse cloth woven evenly. It's not just her; In those green bamboo hedges, many people, like her, also have to endure hardship and hardship to earn money to support their husbands, children, and younger siblings. The mind is neither depressed nor arrogant, only feels secure, like many other people who work and live like her. (2) Tam kept walking steadily and arrived at the market still early. She set up shop on the space where she had always sat. The first light of the sun sparkled on the glass of the rows. The colors bloomed brightly under Tam's lovely fingers: silky threads, mother-of-pearl buttons, shiny comb mirrors. Everything is clean and tidy, small like work, like the thoughts of a shopkeeper. (Thach Lam, Shopkeeper) Paragraph (1) is written according to what paragraph construction method? Explain why you know that. Answer: Paragraph (1) is written using the inductive method. Reason: The last sentence states the content of the entire paragraph, which is about the weary, day-in-day-out life of the character Tam and her mood. The remaining sentences serve this main content. Nguyen The Hung See more:
Hướng dẫn Tiết: 80 Ngày soạn: TRUYỆN KIỀU Đây là giáo án soạn theo phương pháp cũ, cấu trúc cũ, thầy cô có thể xem những giáo án mới nhất, soạn theo định hướng phát triển năng lực, giáo án theo chủ đề tích hợp, xây dựng bài học theo tiến trình hoạt động của học sinh tại link dưới đây: Trọn bộ giáo án Ngữ văn soạn theo hướng đổi mới phương pháp dạy học, đổi mới kiểm tra đánh giá Giáo án ngữ văn 11 Giáo án ngữ văn 12 Gíup HS: -Hiểu được ảnh hưởng của hoàn cảnh xã hội và các nhân tốthuộc cuộc đời riêng đối với sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Du; nắm vững những điểm chính trong sự nghiệp sáng tác và những đặc trưng cơ bản về nội dung và nghệ thuật của thơ văn ông. – Nắm được một sốđặc điểm cơ bản về nội dung và nghệ thuật của Truyện Kiều qua Các đoạn trích. B- PHƯƠNG TIỆN THỰC HIỆN: -SGK, SGV – Sách thiết kế giáo án C-CÁCH THỨC TIẾN HÀNH – Gv tổ chức giờ dạy học theo cách kết hợp các hình thức trao đổi thảo luận, trả lời các câu hỏi. D- TIẾN TRÌNH DẠY HỌC – Em hãy nêu những nhân tố ảnh hưởng đến cđ ND?
Instruct Period: 80 Date of preparation: KIEU STORY This is a lesson plan prepared according to the old method, old structure, teachers can view the latest lesson plans, prepared according to the orientation of capacity development, lesson plans based on integrated topics, building lessons according to the activity process. Student activities at the link below: The entire Literature lesson plan is prepared in the direction of innovating teaching methods and innovating testing and assessment Literature lesson plan 11 Literature lesson plan 12 Help students: -Understand the influence of social circumstances and personal life factors on Nguyen Du's creative career; Master the main points of his creative career and the basic characteristics of the content and art of his poetry. – Grasp some basic characteristics of the content and art of The Tale of Kieu through excerpts. B- MEANS OF IMPLEMENTATION: -Textbooks, teachers – Lesson plan design books C-HOW TO PROCEED – The teacher organizes teaching hours in a way that combines forms of discussion and answering questions. D- TEACHING PROCESS – Please state the factors that influence ND community?
Hướng dẫn Giáo án Ngữ văn 10 theo chủ đề:Ca dao tiếng hát người dân lao động Chủ đề dạy học TIẾNG HÁT NGƯỜI DÂN LAO ĐỘNG Giáo Viên: Dương Diệu Hà Ngày soạn: 23/10/2016, Tuần: 9 Tiết PPCT: 25-26-27: Giới thiệu chung 4. Mục tiêu cần đạt: Về kiến thức: – Nhận biết được đặc trưng thể loại ca dao – Cảm nhận được nỗi niềm và tâm hồn người bình dân xưa qua những câu hát than thân, yêu thương tình nghĩa và ca dao hài hước. – Nhận thức rõ nghệ thuật đậm màu sắc dân gian trong ca dao Về kĩ năng: – Rèn luyện kĩ năng đọc – hiểu ca dao theo từng đặc trưng thể loại – Rèn luyện cho học sinh phát hiện, kĩ năng trình bày, kĩ năng phân loại, kĩ năng xây dựng kiến thức thành hệ thống và kĩ năng thực hành, ứng dụng kiến thức vào thực tiễn cuộc sống Về thái độ: – Biết quý mến tình cảm mà người dân bình dân gửi gắm qua các bài ca dao.n Đồng thời trân trọng tài năng của họ đã làm nên vẻ đẹp đa sắc cho kho tàng ca dao Việt Nam – Yêu quý và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống Về định hướng phát triển năng lực: – Năng lực sáng tạo: HS xác định được ý tưởng, tâm sự của tác giả dân gian được gửi gắm trong truyện; trình bày được suy nghĩ và cảm xúc của mình đối với giá trị nội dung và nghệ thuật của truyện. – Năng lực hợp tác: Thảo luận nhóm để thể hiện cảm nhận của cá nhân và lắng nghe ý kiến của bạn để tự điều chỉnh cá nhân mình. – Năng lực thưởng thức văn học/cảm thụ thẩm mỹ: HS nhận ra được những giá trị thẩm mỹ trong tác phẩm; hiểu được những giá trị của bản thân qua việc cảm hiểu tác phẩm; hình thành và nâng cao những xúc cảm thẩm mỹ… Phương pháp và kĩ thuật dạy học Phương pháp dạy học – Phương pháp đọc, chơi trò chơi, thảo luận, đóng vai, xử lí tình huống Kĩ thuật dạy học – Kĩ thuật chia nhóm, giao nhiệm vụ, đặt câu hỏi Chuẩn bị của giáo viên và học sinh A.chuẩn bị của giáo viên -Giáo án,các tài liệu tham khảo -Máy chiếu tranh ảnh -Hệ thống câu hỏi,dự kiến các tình huống xảy ra. B,chuẩn bị của học sinh -Soạn bai -tìm và đọc được một số bài ca dao các bài viết về ca dao đặc trưng của ca dao. -sưu tầm các tài liệu viết về ca dao thân yêu,yêu thương tình ngía,hài hước. II BẢNG MÔ TẢ CÁC MỨC ĐỘ NHẬN THỨC VÀ ĐỊNH HƯỚNG NĂNG LỰC CHÍNH ĐƯỢC HÌNH THÀNH THÔNG QUA CHỦ ĐỀ. III KẾ HOẠCH DẠY HỌC 1.Kế hoạch chung: 2 TỔ CHỨC DẠY HỌC ( TIẾT 2 + 3) a.hoạt động 1: hoạt động khởi động: TRÒ CHƠI Ô CHỮ -giáo viên chuẩn bị một ô chữ khổ to để trình chiếu hoặc treo lên bảng gồm các câu hỏi và gợi ý cho câu trả lời – ô chữ ca dao về đất nước *Hàng dọc: Ô chữ ( từ chìa khóa )gồm 7 chữ cái. *Hàng ngang: Câu số 1. gồm 4 chữ cái Bắc cạn có suối đãi …….. Có hồ ba bể, có nàng ao xanh Câu số 2 gồm 4 chữ cái Nước sông thao biết bao giờ cạn Núi ba vì ………vạn nào cây. Câu số 3 gồm 4 chữ cái Đường vô xứ ……quanh quanh Non xanh nước biếc như tranh họa đồ. Câu số 4 gồm 3 chữ cái Cần ……gạo trắng nước trong Ai đi đến đó lòng không muốn về. Câu số 5 gôm 3 chữ cái Cao nhất là núi lam ….. Có ông lê lợi trong ngàn bước ra. Câu 6 gồm 3 chữ cái Sâu nhất là sông Bạch Đằng Ba lần giặc đến ba lần giặc ….. Câu 7 gồm 4 chữ cái Tháp …..đẹp nhất bông sen Việt nam đẹp nhất có tên bác Hồ. *Đáp án: Từ chìa khóa Việt Nam *Cách tiến hành: – GV nêu câu hỏi gợi ys để học sinh giải từng ô chữ hàng ngang theo thứ tự – HS nào hoặc nhóm nào giải được trước thì ghi điểm. Kết thúc trò chơi, ai hoặc nhóm nào được ghi điểm nhiều nhất sẽ thắng. *Vào bài: – Các e có nhận xét gì về những ô hàng ngang? – Trò chơi ô chữ gợi cho e điều gì? Hoạt động 2: Hoạt động hình thành kiến thức mới c.Hoạt động 3: Hoạt động thực hành, ứng dụng – Các nhóm trình bày sản phẩm + Sưu tầm các bài ca dao cùng nội dung + Sưu tầm các làn điệu dân ca Hoạt động bổ sung Hình thức diễn xướng: Hát dân ca
Instruct Literature lesson plan for grade 10 on the topic: Folk songs and songs of working people Teaching topic SINGING OF WORKING PEOPLE Teacher: Duong Dieu Ha Date of preparation: October 23, 2016, Week: 9 PPCT period: 25-26-27: General introduction 4. Goals to achieve: About knowledge: – Recognize the characteristics of the folk song genre – Feel the feelings and souls of ancient common people through songs of self-pity, love, gratitude and humorous folk songs. – Be clearly aware of the colorful folk art in folk songs About skills: – Practice reading and understanding skills of folk songs according to each genre's characteristics – Train students to discover, present skills, classify skills, build knowledge into a system and practice skills, apply knowledge to real life About attitude: - Appreciate the feelings that ordinary people express through folk songs. At the same time, appreciate their talents that have created the colorful beauty of the treasure trove of Vietnamese folk songs. – Love and promote traditional cultural values Regarding capacity development orientation: – Creative ability: Students can identify the ideas and feelings of folk authors expressed in stories; Present your thoughts and feelings regarding the content and artistic value of the story. – Collaboration capacity: Group discussion to express personal feelings and listen to your opinions to make personal adjustments. – Ability to enjoy literature/aesthetic perception: Students can recognize aesthetic values ​​in works; understand your own values ​​through understanding the work; Form and enhance aesthetic emotions... Teaching methods and techniques Teaching methods – Methods of reading, playing games, discussing, role-playing, and handling situations Teaching techniques – Techniques for dividing groups, assigning tasks, and asking questions Preparation of teachers and students A. teacher preparation -Lesson plans and reference materials -Photo projector - Question system, expected situations. B,student preparation - Prepare articles -Find and read some folk songs and articles about typical folk songs. -Collect documents about beloved folk songs, love, romance, and humor. II TABLE DESCRIPTION OF MAIN COMPETENCIES AND AWARENESS LEVELS AND ORIENTATIONS FORMED THROUGH THE TOPIC. III TEACHING PLAN 1.General plan: 2 TEACHING ORGANIZATION (LESSON 2 + 3) a.activity 1: startup activity: PUZZLE -The teacher prepares a large crossword to display or hang on the board with questions and suggestions for answers. – crossword folk songs about the country * Vertical row: Crossword (key word) includes 7 letters. *Row: Sentence number 1. includes 4 letters In the North, there is a stream…….. There is a three-beam lake, there is a green pond Sentence number 2 includes 4 letters The river's water never dries up Three mountains because of………thousands of trees. Sentence number 3 includes 4 letters The road to the land ……around Green non specifically Graphic picturesque. Sentence number 4 includes 3 letters Need ……white rice with clear water Everyone who go to here do not lap to come back. Sentence number 5 contains 3 letters The highest is the blue mountain….. There was a man walking out in a thousand steps. Sentence 6 includes 3 letters The deepest is Bach Dang River Three times the enemy came three times the enemy….. Sentence 7 includes 4 letters The tower…..the most beautiful lotus The most beautiful Vietnam is named Uncle Ho. *Answer: Vietnamese key word *How to proceed: – The teacher asks suggestive questions for students to solve each horizontal crossword in order – The student or group that solves the problem first gets points. At the end of the game, the person or group with the most points wins. *Go to article: – What do you think about the horizontal boxes? – What does the crossword puzzle remind you of? Activity 2: Activity to create new knowledge c. Activity 3: Practical activities and applications – Groups present products + Collect folk songs with the same content + Collect folk songs Additional activities Performance form: Folk singing
Hướng dẫn Giáo án thao giảng bài Nhàn- Nguyễn Bỉnh Khiêm Soạn bài Nhàn Ngày soạn: 28/10/2016 Tiết 40 + G NHÀN Nguyễn Bỉnh Khiêm MỤC TIÊU BÀI HỌC Giúp học sinh: – Nguyễn Bỉnh Khiêm – một nhân cách thanh cao, chính trực; một nhân sĩ uyên bác – là một nhà thơ lớn của văn học trung đại – Triết lí Nhàn trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm thể hiện cách sống thanh cao, hoà hợp với tự nhiên và khinh thường danh lợi thể hiện qua những hìnhảnh thơ mộc mạc, bình dị Kiến thức trọng tâm: – Một tuyên ngôn về lối sống hoà hợp với thiên nhiên, đứng ngoài vòng danh lợi, giữ cốt cách thanh cao được thể hiện qua những rung động trữ tình, chất trí tuệ. – Ngôn ngữ mộc mạc, tự nhiên những ẩn ý thâm trầm, giàu tính trí tuệ. – Rèn kĩ năng đọc hiểu thơ Nôm Đường luật – Hiểu được triết lí Nhàn của thời đại Nguyễn Bỉnh Khiêm sống là một cách ứng xử với xã hội rối ren, tranh giành quyền lực và danh lợi – Thấy được những hạn chế của triết lí Nhàn trong cuộc sống hiệnđại và cần phải biết vận dụng triết lí này phù hợp với hoàn cảnh CHUẨN BỊ CỦA GIÁO VIÊN – HỌC SINH – Về phương pháp: Vấnđáp, thuyết giảng, lược đồ tư duy, Giáo án máy chiếu – Phương tiện dạy học: giáoán, sách giáo khoa, – Vở soạn, vở ghi, sách giáo khoa III. NỘI DUNG VÀ TIẾN TRÌNH GIỜ LÊN LỚP GIÁO VIÊN: giới thiệu bài mới bằng cách khái quát lại bối cảnh lịch sử xã hội Việt Nam giai đoạn thế kỉ XV – XVII (sử dụng lược đồ giới thiệu) Nguyễn Bỉnh Khiêm không chỉ là một nhân vật lịch sử có tầm ảnh hưởng trong suốt thế kỉ XVI đối với các tập đoàn phong kiến mà ông còn là một nhà thơ lớn của Dân tộc với những vần thơ mang cảm hứng thế sự và những triết lí về nhân sinh, xã hội. Cô cùng các em sẽ tìm hiểu một bài thơ Nôm của Nguyễn Bỉnh Khiểm để hiểu hơn vềông – một nhân cách chính trực thanh cao, coi thường dành lợi nhưng vẫn nặng lòng với thời cuộc với đất nước. Giáo viên yêu cầu Học sinh đọc thơ Câu hỏi: Em hiểu thế nào là Nhàn? Học sinh trả lời theo cách hiểu nội dung ý nghĩa từ Nhàn theo nghĩa từđiển. Giáo viên: Quan niệm Nhàn trong Nho giáo là phépứng xử với thời loạn của giới Nho sĩ, bất hợp tác với chính quyền thời loạn. Quan niệm Nhàn của Đạo và Phật là cái Nhàn tuyệt đối: “Vong hồ vật, vong hồ thiên. Kì danh vi vong kỉ, vong kỉ chi nhân, thị chi vị nhập vu thiên. (Quên thế giới bên ngoài, quên cả trời, đó gọi là quên bản thân mình. Người quên bản thân mình gọi là nhập vào cảnh giới trời)” àSoi chiếu vào các sáng tác của nho sĩ Việt ta thấy, hầu hết vẫn nằm trong vòng cương tỏa của chữ “nhàn” của Nho giáo: Khát khao sống nhàn, vui thú điền viên nhưng trong lòng vẫn luôn day dứt một “niềm ưu ái cũ”. Nhà nho đối diện với thiên nhiên để dốc bầu tâm sự, hòa mình với thiên nhiên để quên đi những day dứt, đau đớn vì cuộc đời. Hình tượng thiên nhiên khi đó trở thành bầu bạn, tri kỷ của nho sĩ. Trong tập thơ Bạch Vân quốc ngữ thi tập: – Nhàn: sống theo tự nhiên, hoà hợp với tự nhiên, trong sạch, phủ nhận danh lợià bản chất: Nhàn thân mà không nhàn tâm, vẫn lo âu việc nước, việc đời. – Ca ngợi con người thanh cao không màng danh lợi b. Con người – Học vấn uyên thâm – Thanh cao, chính trực – Nặng mối tiên ưu c. Sự nghiệp văn học – Bạch Vân am thi tập (700 bài) Bạch Vân quốc ngữ thi tập (~ 170 bài), ngoài ra có một số lời sấm kí lưu truyền trong dân gian – Nội dung: với các chủ đề triết lí, giáo huấn, thế sự à Nguyễn Bỉnh Khiêm là nhà thơ lớn của dân tộc. 2. Tác phẩm – Viết bằng chữ Nôm, thuộc Bạch Vân quốc ngữ thi tập, bài số 73 – Nhan đề do người đời sau đặt – Thể thơ Thất ngôn bát cú Đường luật – Chủ đề: triết lí Nhàn + Nhàn: Nhàn là cóít hoặc không có việc gì phải làm, phải lo nghĩ đến + Chữ Nhàn trong quan niệm thời trung đại: Nho giáo: “Nhàn” là một phương châm sống, một chuẩn tắc trong hành xử của tầng lớp Nho sĩ. “Nhàn chính là để giữ tròn thanh danh, khí tiết của bản thân trong thời trọc loạn. Đạo giáo – Phật giáo: là một trạng thái đạt đến cảnh giới tối cao, an tịnh, siêu thoát của “hư tâm”, “tâm phật”. → Trong thơ trung đại Việt Nam: Tư tưởng “nhàn” được thể hiện qua cách xuất – xử; hành – tàng của tầng lớp Nho sĩ trước thời cuộc, họ thường gửi gắm vào thiên nhiên tâm sự của bản thân về thế sự. → Trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nhàn là một nội dung lớn đồng thời là triết lí sống phổ biến của tầng lớp nho sĩ thế kỉ XVI Trong bài thơ chưa một lần tác giả nhắc hay viết chữ Nhàn nhưng ông đã thể hiện qua niệm của mình về chữ Nhàn, triết lí sống nhàn qua cách nói về cảnh vật. Câu hỏi: Cách dùng số từ, danh từ trong câu thơ thứ nhất và nhịp điệu trong hai câu thơ đầu có gì đáng chú ý. Từ đó em cảm nhận như thế nào về hoàn cảnh và cuộc sống của tác giả? – “Một mai, một cuốc, một cần câu” trở về với cuộc sống thuần hậu chất phác của một lão nông tri điềnđào giếng lấy nước uống và cày ruộng lấy cơm ăn. Tác giả sử dụng kết hợp khéo léo thủ pháp liệt kê các dụng cụ lao động cùng vớiđiệp từ “một” và nhịp thơ 2/2/3 cho thấy cuộc sống nơi thôn dã cái gì cũng có, tất cảđã sẵn sàng à Các vật dụng gắn liền với công việc lấm láp, vất vả của người nông dân đi vào thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm một cách tự nhiên, thư thái như chính tâm hồn của nhà thơ, giống như những vật dụngấy dùng để làm việc: Cày mây, cuốc nguyệt, gánh yên hà/ Nào của nào chẳng phải của ta? (Thơ Nôm bài 17) Con người tìm thấy niềm vui, sự thanh thàn trong cuộc sống, không gợi chút mưu tục. Một mình ta lựa chọn cách sống “thơ thẩn” mặc kệ ai kia “vui thú nào”. Tự mình lựa chọn cho mình một lối sống, một cách sống kệ ai có những thú riêng, âu đó cũng là bản lĩnh của kẻ sĩ trước thời cuộc. Câu hỏi: Em hiểu thế nào về nơi vắng vẻ – chốn lao xao? Từ đó em hiểu thế về cách nói: Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ/ Người khôn, người đến chốn lao xao? Gợiý: Học sinh giải nghĩa hai từ Vắng vẻ và lao xao Từ việc lựa chọn cho mình một cuộc sống bình dị hàng ngày, không vướng bận nhưng bọn chen, ganh đua danh lợi, Nguyễn Bình Khiêm còn thể hiện quan niệm sống thảnh thơi, an nhiên tự tại qua bốn câu thơ cuối để từđó toát lên vẻđẹp nhân cách của nhà thơ. Tuy nhiên, dường như ta vẫn có cảm giác hình nhưẩn sau cái vẻ thư thái sẵn sàng với mọi việc ruộng đồng của nhà nông ấy, còn có một chút gì hụt hẫng, mất mát của nhân vật trữ tình. Soi vào cuộc đời và thờiđại mà Nguyễn Bỉnh Khiêm sống, ta cảm nhận được việcông vềởẩn là cực chẳngđã, là giới hạn cuối cùng. Nguyễn Bỉnh Khiêm đã từng làẩn sĩ trước khi làm quan, năm 44 tuổi mớiđi thi đỗ trạng nguyên triều Mạc nhưng chỉ làm quan 8 năm sau khi dâng sớ chém 18 tên lộng thần không đượcông mới một lần nữa vềởẩn. Do vậy, Nguyễn Bỉnh Khiểmởẩn nhưng thực không ẩn. Vì các vua chúa phong kiến vẫn không ngừng đến gặpông xin kế sách. Không phải vô cớ màông “khoe” cảnhđiền viên ruộng vườn. Rõ là bề ngoài vui với cuộc sống nơi thôn dã nhưng trong lòng vẫn nặng mối tiên ưu Câu hỏi: Em thử cho biết những hình ảnh về sự vật nào được xuất hiện. Những sự vật và hình ảnh đó gợi cho em cảm nhận như thế nào về cách sống của nhà thơ? Nhàn là “Thu ăn măng trúc đông ăn giá”, mùa nào thức nấy. Những sản vật không phải cao lương mĩ vị mà đậm màu sắc thôn quê. Ngay cả việc ăn uống, tắm táp, làm lụng … đã trở thành nhàn trong cái nhìn của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Để có được sự an nhiên, tĩnh tại trong tâm hồn như vậy phải là một người có nhận thức sâu sắc của cuộc đời. Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng nhận thấy lòng tham chính là căn nguyên của tội lỗi. Bởi vậy mà ông hướng đến lối sống thanh bạch, giản dị, thuận theo tự nhiên Học sinh đọc chú thích trong sách giáo khoa về điển tích – Tác giả mượn điển tích của người xưa để nói điều mình suy nghĩa đây là thủ pháp quen thuộc của văn học trung đại. Nguyễn Bỉnh Khiêm coi công danh phú quý tựa như giấc chiêm bao, giống như phù du vậy. Khi thể hiện quan điểm của mình, Nguyễn Bỉnh Khiêm lựa chọn mình thế đứng bên ngoài của sự cám dỗ danh lợi, vinh hoa – phú quý, bộc lộ thái độ xem thường. Câu hỏi: Cả bài thơ là triết lí, suy nghĩ của Bạch Vân cư sĩ về chữ Nhàn. Căn cứ vào những hiểu biết về thời đại cũng như về Nguyễn Bỉnh Khiêm, em hãy cho biết do đâu mà Nguyễn Bỉnh Khiêm lựa chọn lối sống Nhàn? Giáo viên: Từ Nguyễn Trãi cho đến Nguyễn Bỉnh Khiêm đều tìm về cuộc sống thanh đạm, hoàhợp vói tự nhiên nhưng nhàn thân nhưng không nhàn tâm. Tuy gắn bó, hoà mình với cuộc sống nơi thôn dã nhưng xét đến cùngông vẫn đầy trăn trở trong lòng về thời cuộc rối ren, về việc con người dễ sa ngã vào vòng danh lợi. Nhàn là lối sống tích cực, là thái độ của giới trí thức thời Nguyễn Bỉnh Khiêm đối với thời cuộc để cố gắng giữ mình trong sạch, không bị cuốn vào vòng đấu giành quyền lực của các tậpđoàn phong kiến.Triết lý “nhàn dật” của Nguyễn Bỉnh Khiêm với hạt nhân “vô sự” chưa phải là giải pháp tối ưu để định hướng cho xã hội phát triển và đó cũng không phải là lối thoát của xã hội phong kiến Việt Nam thế kỉ XVI. Tuy nhiên, triết lý ấy đã thể hiện được nỗ lực cứu vãn xã hội của tầng lớp trí thức đương thời. Đó là điều đáng trân trọng. Giáo viên yêu cầu học sinh đọc ghi nhớ sách giáo khoa và chiếu slide chốt ý. – Bài tập vận dụng: Triết lí Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm là một phép ứng xử trước thời thế để giữ tròn thanh danh của tầng lớp Nho sĩ thế kỉ XVI-XVII. Em có suy nghĩ như thế nào về triết lí Nhàn đặt trong hoàn cảnh thời đại ngày nay? – Chuẩn bị bài: Phong cách ngôn ngữ sinh hoạt Rút kinh nghiệm giờ dạy:
Hướng dẫn Giáo án thao giảng bài Nhàn- Nguyễn Bỉnh Khiêm Soạn bài Nhàn Ngày soạn: 28/10/2016 Tiết 40 + G NHÀN Nguyễn Bỉnh Khiêm MỤC TIÊU BÀI HỌC Giúp học sinh: – Nguyễn Bỉnh Khiêm – một nhân cách thanh cao, chính trực; một nhân sĩ uyên bác – là một nhà thơ lớn của văn học trung đại – Triết lí Nhàn trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm thể hiện cách sống thanh cao, hoà hợp với tự nhiên và khinh thường danh lợi thể hiện qua những hìnhảnh thơ mộc mạc, bình dị Kiến thức trọng tâm: – Một tuyên ngôn về lối sống hoà hợp với thiên nhiên, đứng ngoài vòng danh lợi, giữ cốt cách thanh cao được thể hiện qua những rung động trữ tình, chất trí tuệ. – Ngôn ngữ mộc mạc, tự nhiên những ẩn ý thâm trầm, giàu tính trí tuệ. – Rèn kĩ năng đọc hiểu thơ Nôm Đường luật – Hiểu được triết lí Nhàn của thời đại Nguyễn Bỉnh Khiêm sống là một cách ứng xử với xã hội rối ren, tranh giành quyền lực và danh lợi – Thấy được những hạn chế của triết lí Nhàn trong cuộc sống hiệnđại và cần phải biết vận dụng triết lí này phù hợp với hoàn cảnh CHUẨN BỊ CỦA GIÁO VIÊN – HỌC SINH – Về phương pháp: Vấnđáp, thuyết giảng, lược đồ tư duy, Giáo án máy chiếu – Phương tiện dạy học: giáoán, sách giáo khoa, – Vở soạn, vở ghi, sách giáo khoa III. NỘI DUNG VÀ TIẾN TRÌNH GIỜ LÊN LỚP GIÁO VIÊN: giới thiệu bài mới bằng cách khái quát lại bối cảnh lịch sử xã hội Việt Nam giai đoạn thế kỉ XV – XVII (sử dụng lược đồ giới thiệu) Nguyễn Bỉnh Khiêm không chỉ là một nhân vật lịch sử có tầm ảnh hưởng trong suốt thế kỉ XVI đối với các tập đoàn phong kiến mà ông còn là một nhà thơ lớn của Dân tộc với những vần thơ mang cảm hứng thế sự và những triết lí về nhân sinh, xã hội. Cô cùng các em sẽ tìm hiểu một bài thơ Nôm của Nguyễn Bỉnh Khiểm để hiểu hơn vềông – một nhân cách chính trực thanh cao, coi thường dành lợi nhưng vẫn nặng lòng với thời cuộc với đất nước. Giáo viên yêu cầu Học sinh đọc thơ Câu hỏi: Em hiểu thế nào là Nhàn? Học sinh trả lời theo cách hiểu nội dung ý nghĩa từ Nhàn theo nghĩa từđiển. Giáo viên: Quan niệm Nhàn trong Nho giáo là phépứng xử với thời loạn của giới Nho sĩ, bất hợp tác với chính quyền thời loạn. Quan niệm Nhàn của Đạo và Phật là cái Nhàn tuyệt đối: “Vong hồ vật, vong hồ thiên. Kì danh vi vong kỉ, vong kỉ chi nhân, thị chi vị nhập vu thiên. (Quên thế giới bên ngoài, quên cả trời, đó gọi là quên bản thân mình. Người quên bản thân mình gọi là nhập vào cảnh giới trời)” àSoi chiếu vào các sáng tác của nho sĩ Việt ta thấy, hầu hết vẫn nằm trong vòng cương tỏa của chữ “nhàn” của Nho giáo: Khát khao sống nhàn, vui thú điền viên nhưng trong lòng vẫn luôn day dứt một “niềm ưu ái cũ”. Nhà nho đối diện với thiên nhiên để dốc bầu tâm sự, hòa mình với thiên nhiên để quên đi những day dứt, đau đớn vì cuộc đời. Hình tượng thiên nhiên khi đó trở thành bầu bạn, tri kỷ của nho sĩ. Trong tập thơ Bạch Vân quốc ngữ thi tập: – Nhàn: sống theo tự nhiên, hoà hợp với tự nhiên, trong sạch, phủ nhận danh lợià bản chất: Nhàn thân mà không nhàn tâm, vẫn lo âu việc nước, việc đời. – Ca ngợi con người thanh cao không màng danh lợi b. Con người – Học vấn uyên thâm – Thanh cao, chính trực – Nặng mối tiên ưu c. Sự nghiệp văn học – Bạch Vân am thi tập (700 bài) Bạch Vân quốc ngữ thi tập (~ 170 bài), ngoài ra có một số lời sấm kí lưu truyền trong dân gian – Nội dung: với các chủ đề triết lí, giáo huấn, thế sự à Nguyễn Bỉnh Khiêm là nhà thơ lớn của dân tộc. 2. Tác phẩm – Viết bằng chữ Nôm, thuộc Bạch Vân quốc ngữ thi tập, bài số 73 – Nhan đề do người đời sau đặt – Thể thơ Thất ngôn bát cú Đường luật – Chủ đề: triết lí Nhàn + Nhàn: Nhàn là cóít hoặc không có việc gì phải làm, phải lo nghĩ đến + Chữ Nhàn trong quan niệm thời trung đại: Nho giáo: “Nhàn” là một phương châm sống, một chuẩn tắc trong hành xử của tầng lớp Nho sĩ. “Nhàn chính là để giữ tròn thanh danh, khí tiết của bản thân trong thời trọc loạn. Đạo giáo – Phật giáo: là một trạng thái đạt đến cảnh giới tối cao, an tịnh, siêu thoát của “hư tâm”, “tâm phật”. → Trong thơ trung đại Việt Nam: Tư tưởng “nhàn” được thể hiện qua cách xuất – xử; hành – tàng của tầng lớp Nho sĩ trước thời cuộc, họ thường gửi gắm vào thiên nhiên tâm sự của bản thân về thế sự. → Trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nhàn là một nội dung lớn đồng thời là triết lí sống phổ biến của tầng lớp nho sĩ thế kỉ XVI Trong bài thơ chưa một lần tác giả nhắc hay viết chữ Nhàn nhưng ông đã thể hiện qua niệm của mình về chữ Nhàn, triết lí sống nhàn qua cách nói về cảnh vật. Câu hỏi: Cách dùng số từ, danh từ trong câu thơ thứ nhất và nhịp điệu trong hai câu thơ đầu có gì đáng chú ý. Từ đó em cảm nhận như thế nào về hoàn cảnh và cuộc sống của tác giả? – “Một mai, một cuốc, một cần câu” trở về với cuộc sống thuần hậu chất phác của một lão nông tri điềnđào giếng lấy nước uống và cày ruộng lấy cơm ăn. Tác giả sử dụng kết hợp khéo léo thủ pháp liệt kê các dụng cụ lao động cùng vớiđiệp từ “một” và nhịp thơ 2/2/3 cho thấy cuộc sống nơi thôn dã cái gì cũng có, tất cảđã sẵn sàng à Các vật dụng gắn liền với công việc lấm láp, vất vả của người nông dân đi vào thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm một cách tự nhiên, thư thái như chính tâm hồn của nhà thơ, giống như những vật dụngấy dùng để làm việc: Cày mây, cuốc nguyệt, gánh yên hà/ Nào của nào chẳng phải của ta? (Thơ Nôm bài 17) Con người tìm thấy niềm vui, sự thanh thàn trong cuộc sống, không gợi chút mưu tục. Một mình ta lựa chọn cách sống “thơ thẩn” mặc kệ ai kia “vui thú nào”. Tự mình lựa chọn cho mình một lối sống, một cách sống kệ ai có những thú riêng, âu đó cũng là bản lĩnh của kẻ sĩ trước thời cuộc. Câu hỏi: Em hiểu thế nào về nơi vắng vẻ – chốn lao xao? Từ đó em hiểu thế về cách nói: Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ/ Người khôn, người đến chốn lao xao? Gợiý: Học sinh giải nghĩa hai từ Vắng vẻ và lao xao Từ việc lựa chọn cho mình một cuộc sống bình dị hàng ngày, không vướng bận nhưng bọn chen, ganh đua danh lợi, Nguyễn Bình Khiêm còn thể hiện quan niệm sống thảnh thơi, an nhiên tự tại qua bốn câu thơ cuối để từđó toát lên vẻđẹp nhân cách của nhà thơ. Tuy nhiên, dường như ta vẫn có cảm giác hình nhưẩn sau cái vẻ thư thái sẵn sàng với mọi việc ruộng đồng của nhà nông ấy, còn có một chút gì hụt hẫng, mất mát của nhân vật trữ tình. Soi vào cuộc đời và thờiđại mà Nguyễn Bỉnh Khiêm sống, ta cảm nhận được việcông vềởẩn là cực chẳngđã, là giới hạn cuối cùng. Nguyễn Bỉnh Khiêm đã từng làẩn sĩ trước khi làm quan, năm 44 tuổi mớiđi thi đỗ trạng nguyên triều Mạc nhưng chỉ làm quan 8 năm sau khi dâng sớ chém 18 tên lộng thần không đượcông mới một lần nữa vềởẩn. Do vậy, Nguyễn Bỉnh Khiểmởẩn nhưng thực không ẩn. Vì các vua chúa phong kiến vẫn không ngừng đến gặpông xin kế sách. Không phải vô cớ màông “khoe” cảnhđiền viên ruộng vườn. Rõ là bề ngoài vui với cuộc sống nơi thôn dã nhưng trong lòng vẫn nặng mối tiên ưu Câu hỏi: Em thử cho biết những hình ảnh về sự vật nào được xuất hiện. Những sự vật và hình ảnh đó gợi cho em cảm nhận như thế nào về cách sống của nhà thơ? Nhàn là “Thu ăn măng trúc đông ăn giá”, mùa nào thức nấy. Những sản vật không phải cao lương mĩ vị mà đậm màu sắc thôn quê. Ngay cả việc ăn uống, tắm táp, làm lụng … đã trở thành nhàn trong cái nhìn của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Để có được sự an nhiên, tĩnh tại trong tâm hồn như vậy phải là một người có nhận thức sâu sắc của cuộc đời. Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng nhận thấy lòng tham chính là căn nguyên của tội lỗi. Bởi vậy mà ông hướng đến lối sống thanh bạch, giản dị, thuận theo tự nhiên Học sinh đọc chú thích trong sách giáo khoa về điển tích – Tác giả mượn điển tích của người xưa để nói điều mình suy nghĩa đây là thủ pháp quen thuộc của văn học trung đại. Nguyễn Bỉnh Khiêm coi công danh phú quý tựa như giấc chiêm bao, giống như phù du vậy. Khi thể hiện quan điểm của mình, Nguyễn Bỉnh Khiêm lựa chọn mình thế đứng bên ngoài của sự cám dỗ danh lợi, vinh hoa – phú quý, bộc lộ thái độ xem thường. Câu hỏi: Cả bài thơ là triết lí, suy nghĩ của Bạch Vân cư sĩ về chữ Nhàn. Căn cứ vào những hiểu biết về thời đại cũng như về Nguyễn Bỉnh Khiêm, em hãy cho biết do đâu mà Nguyễn Bỉnh Khiêm lựa chọn lối sống Nhàn? Giáo viên: Từ Nguyễn Trãi cho đến Nguyễn Bỉnh Khiêm đều tìm về cuộc sống thanh đạm, hoàhợp vói tự nhiên nhưng nhàn thân nhưng không nhàn tâm. Tuy gắn bó, hoà mình với cuộc sống nơi thôn dã nhưng xét đến cùngông vẫn đầy trăn trở trong lòng về thời cuộc rối ren, về việc con người dễ sa ngã vào vòng danh lợi. Nhàn là lối sống tích cực, là thái độ của giới trí thức thời Nguyễn Bỉnh Khiêm đối với thời cuộc để cố gắng giữ mình trong sạch, không bị cuốn vào vòng đấu giành quyền lực của các tậpđoàn phong kiến.Triết lý “nhàn dật” của Nguyễn Bỉnh Khiêm với hạt nhân “vô sự” chưa phải là giải pháp tối ưu để định hướng cho xã hội phát triển và đó cũng không phải là lối thoát của xã hội phong kiến Việt Nam thế kỉ XVI. Tuy nhiên, triết lý ấy đã thể hiện được nỗ lực cứu vãn xã hội của tầng lớp trí thức đương thời. Đó là điều đáng trân trọng. Giáo viên yêu cầu học sinh đọc ghi nhớ sách giáo khoa và chiếu slide chốt ý. – Bài tập vận dụng: Triết lí Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm là một phép ứng xử trước thời thế để giữ tròn thanh danh của tầng lớp Nho sĩ thế kỉ XVI-XVII. Em có suy nghĩ như thế nào về triết lí Nhàn đặt trong hoàn cảnh thời đại ngày nay? – Chuẩn bị bài: Phong cách ngôn ngữ sinh hoạt Rút kinh nghiệm giờ dạy:
Hướng dẫn Trọn bộ giáo án Ngữ văn 10. Soạn bài: Những yêu cầu về sử dụng tiếng Việt Ngày soạn:01/03/2016 Lớp dạy: 10B2 Ngày dạy: 8/03/2016 Tiết 73: NHỮNG YÊU CẦU VỀ SỬ DỤNG TIẾNG VIỆT MỤC TIÊU BÀI HỌC – Nắm được những yêu cầu về sử dụng tiếng Việt ở các phương diện: phát âm, chữ viết, dùng từ, ngữ pháp và phong cách ngôn ngữ. – Củng cố vững chắc kĩ năng viết đoạn văn, đồng thời thấy được mối quan hệ chặt chẽ giữa các kĩ năng đó với kĩ năng lập dàn ý. CHUẨN BỊ CỦA GV VÀ HS III. PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC – GV tổ chức giờ dạy theo cách kết hợp các phương pháp: gợi tìm, kết hợp các hình thức trao đổi, thảo luận, trả lời các câu hỏi. TIẾN TRÌNH DẠY HỌC Câu 1. Vì sao ngày nay chúng ta phải nêu cao ý thức chuẩn hóa tiêng Việt? *D. Vì tất cả những lí do trên. Câu 2. Đảm bảo những yêu cầu về sử dụng tiếng Việt sẽ đem lại những hiệu quả nào? *D. Cả A, B, C đều đúng. Vào bài: Ở tiết 64 “Khái quát lịch sử tiếng Việt”, chúng ta đã thấy ngôn ngữ của dân tộc Việt Nam giàu và đẹp như thế nào. Nhưng muốn ngôn ngữ của chúng ta luôn giàu và đẹp thì trước hết ta phải giữ gìn được sự trong sáng của tiếng Việt và muốn giữ gìn được sự trong sáng thì chúng ta phải tuân theo những yêu cầu chung khi sử dụng. Đó cũng chính là nội dung mà cô, trò chúng ta sẽ tìm hiểu ngày hôm nay qua bài “Những yêu cầu về sử dụng tiếng Việt” Củng cố, dặn dò * Củng cố – Nắm được nội dung bài học – Vận dụng vào việc nói và viết của bản thân trong thực tế. * Dặn dò – Học thuộc lý thuyết – Làm các bài tập còn lại trong SGK
Instruct Complete set of Grade 10 Literature lesson plans. Lesson preparation: Requirements for using Vietnamese Date of preparation: March 1, 2016 Class taught: 10B2 Teaching date: March 8, 2016 Section 73: REQUIREMENTS FOR USE OF VIETNAMESE LANGUAGE LESSON OBJECTIVES – Understand the requirements for using Vietnamese in aspects: pronunciation, writing, word usage, grammar and language style. – Firmly strengthen paragraph writing skills, and at the same time see the close relationship between those skills and outlining skills. PREPARATION OF TEACHERS AND STUDENTS III. TEACHING METHODS – Teachers organize teaching hours by combining methods: elicitation, combining forms of exchange, discussion, and answering questions. TEACHING PROCESS Question 1. Why today do we have to raise awareness of standardizing Vietnamese? *D. For all the above reasons. Question 2. What effects will ensuring the requirements for using Vietnamese bring? *D. Both the a, b, c are correct. Go to the lesson: In section 64 "An overview of the history of Vietnamese", we have seen how rich and beautiful the language of the Vietnamese people is. But if we want our language to always be rich and beautiful, we must first preserve the purity of Vietnamese, and if we want to preserve its purity, we must follow the general requirements when using it. That is also the content that our teachers and students will learn about today through the article "Requirements for using Vietnamese" Reinforce and advise * Consolidate – Understand the lesson content – Apply it to your own speaking and writing in practice. * Advice – Memorize theory – Do the remaining exercises in the textbook
Hướng dẫn CHỦ ĐỀ: CA DAO VIỆT NAM NGỮ VĂN 10 Chuẩn kiến thức kĩ năng + Năng lực thu thập thông tin liên quan đến văn bản. + Năng lực giải quyết những tình huống đặt ra trong các văn bản + Năng lực đọc – hiểu ca dao Việt Nam theo đặc điểm thể loại. + Năng lực trình bày suy nghĩ, cảm nhận của cá nhân về ý nghĩa của văn bản. + Năng lực hợp tác khi trao đổi, thảo luận về nội dung và nghệ thuật của văn bản. Bảng mô tả các mức độ đánh giá chủ đề: “Ca dao Việt Nam ” theo định hướng năng lực CÂU HỎI/BÀI TẬP MINH HỌA: Bài: Ca dao than thân, yêu thương tình nghĩa ( Bài 1, 4, 6) Bài: Ca dao hài hước (Bài 1, 2) ĐỀ KIỂM TRA MINH HỌA: Ma trận đề Đề kiểm tra Thời gian làm bài: 90 phút Phần I: Đọc – hiểu (3 điểm) Đọc và trả lời những câu hỏi sau: Anh sợ quốc cấm, nên voi không bàn. Dẫn trâu sợ họ máu hàn, Dẫn bò, sợ họ nhà nàng co gân. Miễn là có thú bốn chân. Dẫn con chuột béo, mời dân, mời làng Nỡ nào em lại phá ngang như là… Người ta thách lợn, thách gà, Nhà em thách cưới một nhà khoai lang: Củ to thì để mời làng Còn như củ nhỏ, họ hàng ăn chơi. Bao nhiêu củ mẻ chàng ơi! Để cho con trẻ ăn chơi giữ nhà; Bao nhiêu củ rím, củ hà, Để cho con lợn, con gà nó ăn…. Câu 2: Trong các lí do sau, lí do chính nào khiến chàng trai chọn “con chuột béo” để làm đồ dẫn cưới? Câu 3: Những biện pháp nghệ thuật nào được sử dụng trong bài ca dao trên? Câu 4: Ý nghĩa của lời thách cưới? Câu 5: Viết một đoạn văn ngắn (từ 5 đến 7 dòng) bình về tinh thần lạc quan của người bình dân trong bài ca dao trên? Phần II: Tự Luận (7 điểm) Cảm nhận về người phụ nữ xưa qua một số bài ca dao than thân. Hướng dẫn chấm Phần I: Đọc – hiểu Câu 1 (0,5 điểm): Phương án A Câu 2 (0,5 điểm): Phương án D Câu 3 (0,5 điểm): Phương án D Câu 4 (0,5 điểm): Phương án B Câu 5 (1,0 điểm): Mượn hình thức dẫn cưới và thách cưới bài ca dao đã mang đến một tiếng cười tiêu biểu của người bình dân trong xã hội cũ. Trước cuộc sống còn nhiều lo toan, vất vả và đầy rẫy những khó khăn, con người không hề bi quan, chán nản mà trái lại, họ đã vượt lên bằng triết lí lạc quan, vui vẻ. Đó là những tiếng cười động viên, chia sẻ, tiếng cười mua vui giải trí rất cần trong cuộc sống và cũng rất phù hợp với đặc tính hài hước, ưa trào lộng của nhân dân ta. Phần II: Tự luận 1.Yêu cầu về kỹ năng: – Thí sinh biết cách làm bài nghị luận văn học. – Vận dụng tốt các thao tác lập luận. – Không mắc lỗi chính tả, dùng từ, ngữ pháp. – Khuyến khích những bài viết sáng tạo. Trên cơ sở hiểu biết về thể loại ca dao, ca dao than thân, yêu thương tình nghĩa, thí sinh có thể cảm nhận về thân phận của người phụ nữ trong xã hội xưa: – Giới thiệu về ca dao: khái niệm, đặc điểm, – Ca dao than thân: thường tập trung phản ánh thân phận người phụ nữ – Hình tượng người phụ nữ trong ca dao than thân được thể hiện ở những phương diện: + Họ là những người bị coi thường trong chế độ xã hội phụ quyền với tư tưởng”trọng nam khinh nữ”. Qua những bài ca dao than thân về thân phận những người phụ nữ trong xã hội cũ, phần nào tôi hiểu được nỗi đau khổ mà họ phải chịu đựng. Trong xã hội ấy, họ bị tước đi những quyền lợi cơ bản của con người. Họ bị biến thành nô lệ cho những luật lệ, những ràng buộc nghiêm khắc của lễ giáo phong kiến và những quan niệm cổ hủ lạc hậu. Họ không có quyền quyết định số phận mình mà hoàn toàn phụ thuộc vào người khác bởi quy định “tam tòng” quá nghiêm khắc của Nho giáo “Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử” (ở nhà theo bố mẹ, lấy chồng nghe lời chồng, chồng chết phụ thuộc con). Điều giàng buộc ấy dẫn theo bao nhiêu bất hạnh của người phụ nữ, vì thế họ cất lên tiếng hát thân thở về thân phận của mình: Thân em như tấm lụa đào Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai. Thân em như hạt mưa sa Hạt vào giếng ngọc, hạt ra ruộng cày. Thân em như giếng giữa đàng Người không rửa mặt, người phàm rửa chân. + Họ so sánh “Thân em…” với rất nhiều thứ, thể hiện nhiều bình diện khác nhau song vẫn có một điểm chung là: khẳng định giá trị của bản thân và than về số phận phụ thuộc của mình. Dù là “tấm lụa đào” quý giá hay”giếng giữa đàng” mát trong thì họ vẫn không biết tương lai như thế nào. Những hình ảnh so sánh ấy làm nổi bật thân phận bơ vơ, bất trắc của họ. + Họ không thể tự quyết định số phận của mình. May mắn thì được chỗ yên lành hạnh phúc, bất hạnh thì bị rơi vào chốn lao đao và dù trong hoàn cảnh nào họ cũng phải chấp nhận bởi thân “các chậu chim lồng”: Cá cắn câu biết đâu mà gỡ Chim vào lồng biết thủa nào ra. + Vì phụ thuộc nên học phải lấy chồng khi còn ít tuổi, người phụ nữ là nạn nhân đau khổ nhất của nạn tảo hôn: Bướm vàng đậu đọt mù u Lấy chồng càng sớm, lời ru càng buồn. +Những cô gái bị ép gả khi còn tuổi niên thiếu đã dẫn đến những bi kịch số phận, đã có những câu ca dao tự trào đầy cay đắng xót xa: Lấy chồng từ thủa mười ba Đến khi mười tám thiếp đà năm con Vì nạn tảo hôn, vì những hủ tục lạc hậu ấy mà người con gái trong xã hội xưa không được hưởng tuổi thanh xuân. Chưa kịp lớn, chưa kịp hiểu cuộc đời thì họ đã phải gắn cuộc đời mình với con thơ, phải chịu cảnh làm dâu trăm chiều cay đắng. Bao nhiêu gánh nặng cuộc đời đè nặng lên đôi vai gầy guộc của người phụ nữ. Quá nhiều bất trắc đón đợi người phụ nữ trên con đường đời, vì thế họ luôn mang trong mình những nỗi lo âu, khắc khoải. Số phận bấp bênh, hạnh phúc mong manh quá đỗi. Có được người yêu thương chân thành đã khó, giữ được người ấy và được sống chung lại càng khó hơn bởi họ đâu có quyền tự lựa chọn hạnh phúc cho mình. Quan niệm “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy” đã tước đi của người con gái quyền được tự lựa chọn hạnh phúc cho mình. Bao nhiêu bất trắc, âu lo về số phận được gửi trong những câu ca dao đầy tâm sự: Thương anh không dám nói ra Sợ mẹ bằng đất, sợ cha bằng trời – Đánh giá chung: Thân phận yếu đuối của người phụ nữ trong xã hội xưa đã được thể hiện trong rất nhiều câu ca dao ca dao như thế. Thân phận con cò, con vạc lầm lũi, gầy guộc, vất vả kiếm sống, số phận lênh đênh đã trở thành một biểu tượng quen thuộc trong dân ca ca dao để chỉ người phụ nữ. Điều đó cho ta thấy, trong xã hội cũ, khi con người chưa có sự bình đẳng giới thì người phụ nữ phải chịu thiệt thòi như thế nào. – Liên hệ: Ngày nay, xã hội đã tiến bộ, nam nữ đã bình quyền, người phụ nữ đã được sống hạnh phúc hơn. Mặc dù không thể có sự bình đẳng tuyệt đối, nhưng người phụ nữ ngày nay đã được xã hội quan tâm đúng mực. Họ đã được phát huy hết khả năng của mình, được chủ động quyết định số phận của mình. Tuy đây đó còn nhiều bất công, người phụ nữ còn chịu thiệt thòi, song so với người phụ nữ thời xưa thì xã hội đã tiến một bước rất dài. Chúng ta sẽ loại bỏ dần những quan niệm lạc hậu, không phù hợp để người phụ nữ được quyền sống hạnh phúc, để những lời ca dao than thân được thay thế bằng những khúc ca vui. – Điểm 6-7: Viết về hình tượng người phụ nữ một cách thuyết phục, sâu sắc. Bố cục rõ ràng, lập luận chặt chẽ, diễn đạt lưu loát, có cảm xúc và sáng tạo; có thể còn vài sai sót về chính tả, dùng từ. – Điểm 4-5: Cơ bản làm rõ được hình tượng người phụ nữ trong ca dao than thân. Bố cục rõ ràng, lập luận tương đối chặt chẽ; còn mắc một số lỗi chính tả, dùng từ, ngữ pháp. – Điểm 2-3: Chưa làm rõ được hình tượng người phụ nữ trong ca dao than thân, phân tích còn sơ sài; mắc nhiều lỗi chính tả, dùng từ, ngữ pháp. – Điểm 1: Chưa hiểu đề, sai lạc kiến thức, mắc nhiều về diễn đạt. – Điểm 0: Không làm bài hoặc hoàn toàn lạc đề.
Hướng dẫn CHỦ ĐỀ: CA DAO VIỆT NAM NGỮ VĂN 10 Chuẩn kiến thức kĩ năng + Năng lực thu thập thông tin liên quan đến văn bản. + Năng lực giải quyết những tình huống đặt ra trong các văn bản + Năng lực đọc – hiểu ca dao Việt Nam theo đặc điểm thể loại. + Năng lực trình bày suy nghĩ, cảm nhận của cá nhân về ý nghĩa của văn bản. + Năng lực hợp tác khi trao đổi, thảo luận về nội dung và nghệ thuật của văn bản. Bảng mô tả các mức độ đánh giá chủ đề: “Ca dao Việt Nam ” theo định hướng năng lực CÂU HỎI/BÀI TẬP MINH HỌA: Bài: Ca dao than thân, yêu thương tình nghĩa ( Bài 1, 4, 6) Bài: Ca dao hài hước (Bài 1, 2) ĐỀ KIỂM TRA MINH HỌA: Ma trận đề Đề kiểm tra Thời gian làm bài: 90 phút Phần I: Đọc – hiểu (3 điểm) Đọc và trả lời những câu hỏi sau: Anh sợ quốc cấm, nên voi không bàn. Dẫn trâu sợ họ máu hàn, Dẫn bò, sợ họ nhà nàng co gân. Miễn là có thú bốn chân. Dẫn con chuột béo, mời dân, mời làng Nỡ nào em lại phá ngang như là… Người ta thách lợn, thách gà, Nhà em thách cưới một nhà khoai lang: Củ to thì để mời làng Còn như củ nhỏ, họ hàng ăn chơi. Bao nhiêu củ mẻ chàng ơi! Để cho con trẻ ăn chơi giữ nhà; Bao nhiêu củ rím, củ hà, Để cho con lợn, con gà nó ăn…. Câu 2: Trong các lí do sau, lí do chính nào khiến chàng trai chọn “con chuột béo” để làm đồ dẫn cưới? Câu 3: Những biện pháp nghệ thuật nào được sử dụng trong bài ca dao trên? Câu 4: Ý nghĩa của lời thách cưới? Câu 5: Viết một đoạn văn ngắn (từ 5 đến 7 dòng) bình về tinh thần lạc quan của người bình dân trong bài ca dao trên? Phần II: Tự Luận (7 điểm) Cảm nhận về người phụ nữ xưa qua một số bài ca dao than thân. Hướng dẫn chấm Phần I: Đọc – hiểu Câu 1 (0,5 điểm): Phương án A Câu 2 (0,5 điểm): Phương án D Câu 3 (0,5 điểm): Phương án D Câu 4 (0,5 điểm): Phương án B Câu 5 (1,0 điểm): Mượn hình thức dẫn cưới và thách cưới bài ca dao đã mang đến một tiếng cười tiêu biểu của người bình dân trong xã hội cũ. Trước cuộc sống còn nhiều lo toan, vất vả và đầy rẫy những khó khăn, con người không hề bi quan, chán nản mà trái lại, họ đã vượt lên bằng triết lí lạc quan, vui vẻ. Đó là những tiếng cười động viên, chia sẻ, tiếng cười mua vui giải trí rất cần trong cuộc sống và cũng rất phù hợp với đặc tính hài hước, ưa trào lộng của nhân dân ta. Phần II: Tự luận 1.Yêu cầu về kỹ năng: – Thí sinh biết cách làm bài nghị luận văn học. – Vận dụng tốt các thao tác lập luận. – Không mắc lỗi chính tả, dùng từ, ngữ pháp. – Khuyến khích những bài viết sáng tạo. Trên cơ sở hiểu biết về thể loại ca dao, ca dao than thân, yêu thương tình nghĩa, thí sinh có thể cảm nhận về thân phận của người phụ nữ trong xã hội xưa: – Giới thiệu về ca dao: khái niệm, đặc điểm, – Ca dao than thân: thường tập trung phản ánh thân phận người phụ nữ – Hình tượng người phụ nữ trong ca dao than thân được thể hiện ở những phương diện: + Họ là những người bị coi thường trong chế độ xã hội phụ quyền với tư tưởng”trọng nam khinh nữ”. Qua những bài ca dao than thân về thân phận những người phụ nữ trong xã hội cũ, phần nào tôi hiểu được nỗi đau khổ mà họ phải chịu đựng. Trong xã hội ấy, họ bị tước đi những quyền lợi cơ bản của con người. Họ bị biến thành nô lệ cho những luật lệ, những ràng buộc nghiêm khắc của lễ giáo phong kiến và những quan niệm cổ hủ lạc hậu. Họ không có quyền quyết định số phận mình mà hoàn toàn phụ thuộc vào người khác bởi quy định “tam tòng” quá nghiêm khắc của Nho giáo “Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử” (ở nhà theo bố mẹ, lấy chồng nghe lời chồng, chồng chết phụ thuộc con). Điều giàng buộc ấy dẫn theo bao nhiêu bất hạnh của người phụ nữ, vì thế họ cất lên tiếng hát thân thở về thân phận của mình: Thân em như tấm lụa đào Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai. Thân em như hạt mưa sa Hạt vào giếng ngọc, hạt ra ruộng cày. Thân em như giếng giữa đàng Người không rửa mặt, người phàm rửa chân. + Họ so sánh “Thân em…” với rất nhiều thứ, thể hiện nhiều bình diện khác nhau song vẫn có một điểm chung là: khẳng định giá trị của bản thân và than về số phận phụ thuộc của mình. Dù là “tấm lụa đào” quý giá hay”giếng giữa đàng” mát trong thì họ vẫn không biết tương lai như thế nào. Những hình ảnh so sánh ấy làm nổi bật thân phận bơ vơ, bất trắc của họ. + Họ không thể tự quyết định số phận của mình. May mắn thì được chỗ yên lành hạnh phúc, bất hạnh thì bị rơi vào chốn lao đao và dù trong hoàn cảnh nào họ cũng phải chấp nhận bởi thân “các chậu chim lồng”: Cá cắn câu biết đâu mà gỡ Chim vào lồng biết thủa nào ra. + Vì phụ thuộc nên học phải lấy chồng khi còn ít tuổi, người phụ nữ là nạn nhân đau khổ nhất của nạn tảo hôn: Bướm vàng đậu đọt mù u Lấy chồng càng sớm, lời ru càng buồn. +Những cô gái bị ép gả khi còn tuổi niên thiếu đã dẫn đến những bi kịch số phận, đã có những câu ca dao tự trào đầy cay đắng xót xa: Lấy chồng từ thủa mười ba Đến khi mười tám thiếp đà năm con Vì nạn tảo hôn, vì những hủ tục lạc hậu ấy mà người con gái trong xã hội xưa không được hưởng tuổi thanh xuân. Chưa kịp lớn, chưa kịp hiểu cuộc đời thì họ đã phải gắn cuộc đời mình với con thơ, phải chịu cảnh làm dâu trăm chiều cay đắng. Bao nhiêu gánh nặng cuộc đời đè nặng lên đôi vai gầy guộc của người phụ nữ. Quá nhiều bất trắc đón đợi người phụ nữ trên con đường đời, vì thế họ luôn mang trong mình những nỗi lo âu, khắc khoải. Số phận bấp bênh, hạnh phúc mong manh quá đỗi. Có được người yêu thương chân thành đã khó, giữ được người ấy và được sống chung lại càng khó hơn bởi họ đâu có quyền tự lựa chọn hạnh phúc cho mình. Quan niệm “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy” đã tước đi của người con gái quyền được tự lựa chọn hạnh phúc cho mình. Bao nhiêu bất trắc, âu lo về số phận được gửi trong những câu ca dao đầy tâm sự: Thương anh không dám nói ra Sợ mẹ bằng đất, sợ cha bằng trời – Đánh giá chung: Thân phận yếu đuối của người phụ nữ trong xã hội xưa đã được thể hiện trong rất nhiều câu ca dao ca dao như thế. Thân phận con cò, con vạc lầm lũi, gầy guộc, vất vả kiếm sống, số phận lênh đênh đã trở thành một biểu tượng quen thuộc trong dân ca ca dao để chỉ người phụ nữ. Điều đó cho ta thấy, trong xã hội cũ, khi con người chưa có sự bình đẳng giới thì người phụ nữ phải chịu thiệt thòi như thế nào. – Liên hệ: Ngày nay, xã hội đã tiến bộ, nam nữ đã bình quyền, người phụ nữ đã được sống hạnh phúc hơn. Mặc dù không thể có sự bình đẳng tuyệt đối, nhưng người phụ nữ ngày nay đã được xã hội quan tâm đúng mực. Họ đã được phát huy hết khả năng của mình, được chủ động quyết định số phận của mình. Tuy đây đó còn nhiều bất công, người phụ nữ còn chịu thiệt thòi, song so với người phụ nữ thời xưa thì xã hội đã tiến một bước rất dài. Chúng ta sẽ loại bỏ dần những quan niệm lạc hậu, không phù hợp để người phụ nữ được quyền sống hạnh phúc, để những lời ca dao than thân được thay thế bằng những khúc ca vui. – Điểm 6-7: Viết về hình tượng người phụ nữ một cách thuyết phục, sâu sắc. Bố cục rõ ràng, lập luận chặt chẽ, diễn đạt lưu loát, có cảm xúc và sáng tạo; có thể còn vài sai sót về chính tả, dùng từ. – Điểm 4-5: Cơ bản làm rõ được hình tượng người phụ nữ trong ca dao than thân. Bố cục rõ ràng, lập luận tương đối chặt chẽ; còn mắc một số lỗi chính tả, dùng từ, ngữ pháp. – Điểm 2-3: Chưa làm rõ được hình tượng người phụ nữ trong ca dao than thân, phân tích còn sơ sài; mắc nhiều lỗi chính tả, dùng từ, ngữ pháp. – Điểm 1: Chưa hiểu đề, sai lạc kiến thức, mắc nhiều về diễn đạt. – Điểm 0: Không làm bài hoặc hoàn toàn lạc đề.
Hướng dẫn Tài liệu Ngữ văn 10 theo định hướng phát triển năng lực: Truyện dân gian Việt Nam Mục Lục – Hiểu được những đặc sắc về nội dung và nghệ thuật của truyện dân gian (truyền thuyết, truyện cổ tích, truyện cười…) – Xác định được đặc trưng thể loại của truyện dân gian qua một số văn bản cụ thể – Biết cách đọc – hiểu truyện dân gian theo đặc trưng thể loại. – Năng lực thu thập thông tin liên quan đến văn bản. – Năng lực giải quyết những tình huống đặt ra trong văn bản – Năng lực đọc – hiểu truyện dân gian Việt Nam theo đặc trưng thể loại. – Năng lực trình bày suy nghĩ, cảm nhận của cá nhân về ý nghĩa của văn bản – Năng lực hợp tác khi trao đổi, thảo luận về nội dung, nghệ thuật của văn bản. Phần I: Đọc – hiểu (3,0 điểm) Đọc đoạn sau và trả lời câu hỏi: …Trọng Thủy nhận dấu lông ngỗng mà đuổi. Vua chạy tới bờ biển, đường cùng, không có thuyền qua bèn kêu rằng: “ Trời hại ta, sứ Thanh Giang ở đâu mau lại cứu”. Rùa Vàng hiện lên mặt nước, hét lớn: “ Kẻ ngồi sau lưng chính là giặc đó!”. Vua bèn tuốt kiếm chém Mị Châu, Mị Châu khấn rằng: “ Thiếp là phận gái, nếu có lòng phản nghịch mưu hại cha, chết đi sẽ biến thành cát bụi. Nếu một lòng trung hiếu mà bị người lừa dối thì chết đi sẽ biến thành châu ngọc để rửa sạch mối nhục thù”. Mị Châu chết ở bờ biển, máu chảy xuống nước, trai sò ăn phải đều biến thành hạt châu. Vua cầm sừng tê bảy tấc, Rùa Vàng rẽ nước dẫn nhà vua đi xuống biển… Câu 1: Kẻ ngồi sau lưng chính là giặc đó! Câu nói trên của Rùa Vàng có ý nghĩa gì? Câu 2: Tình thế bi kịch nhất của An Dương Vương trong đoạn trên là gì? Câu 3: Việc An Dương Vương chém đầu con gái mình là Mị Châu thể hiện điều gì? Câu 4: Dòng nào sau đây nêu nhận xét chính xác về nhân vật Mị Châu? Câu 5: Chỉ ra cốt lõi lịch sử của “Truyện An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thủy”? Phần II. Tự luận (7 điểm) Sau khi tự tử ở giếng Loa Thành, xuống thủy cung, Trọng Thủy đã tìm gặp lại Mị Châu. Hãy tưởng tượng và kể lại câu chuyện đó. HƯỚNG DẪN CHẤM
Instruct Literature document for grade 10 oriented towards capacity development: Vietnamese folk tales Table of contents – Understand the unique content and art of folk tales (legends, fairy tales, jokes...) – Identify the genre characteristics of folk tales through a number of specific texts – Know how to read and understand folk tales according to genre characteristics. – Ability to collect information related to documents. – Ability to solve situations posed in the text – Ability to read and understand Vietnamese folk tales according to genre characteristics. – Ability to present personal thoughts and feelings about the meaning of the text - Ability to cooperate when exchanging and discussing the content and art of the text. Part I: Reading – comprehension (3.0 points) Read the following passage and answer the question: ... Trong Thuy received the goose feather mark and chased him away. The king ran to the beach, the road was dead end, there was no boat passing by, so he called out: "God is harming me, where is the Thanh Giang envoy, please come and save me." The Golden Turtle appeared on the surface of the water, shouting loudly: "The person sitting behind is the enemy!". The king then drew his sword and slashed Mi Chau. Mi Chau prayed: "I am a woman. If I have a rebellious heart and plot to harm my father, when I die, I will turn into dust." If you are deceived by someone who is loyal to you, when you die, you will turn into pearls to wash away your hatred." Mi Chau died on the beach, her blood flowed into the water, and the shellfish she ate turned into pearls. The king held the seven-inch rhinoceros horn, the Golden Turtle parted the water and led the king down to the sea... Question 1: The person sitting behind is the enemy! What does the above statement of the Golden Turtle mean? Question 2: What is the most tragic situation of An Duong Vuong in the above paragraph? Question 3: What does An Duong Vuong beheading his daughter Mi Chau represent? Question 4: Which of the following lines accurately comments on the character Mi Chau? Question 5: Point out the historical core of "The Tale of An Duong Vuong and My Chau - Trong Thuy"? Part II. Essay (7 points) After committing suicide at Loa Thanh well, going down to the aquarium, Trong Thuy found Mi Chau again. Imagine and tell that story. MARKING INSTRUCTIONS
Hướng dẫn Đề kiểm tra Ngữ văn 10 theo định hướng phát triển năng lực học sinh. Chuẩn kiến thức kỹ năng – Hiểu được những nét đặc sắc về nội dung và nghệ thuật của các bài thơ trong chủ đề thơ trung đại từ thế kỷ X đến nửa đầu thế kỷ XIX – Hiểu một số đặc điểm cơ bản của thơ trung đại từ thế kỷ X đến nửa đầu TK XIX. – Nhận biết một số phương diện như đề tài, cảm hứng, thể loại, ngôn ngữ văn học trung đại. – Biết cách đọc hiểu một văn bản thơ trung đại từ thế kỷ X đến nửa đầu thế kỷ XIX. – Vận dụng được những hiểu biết về thơ trung đại và đọc hiểu những văn bản tương tự ngoài chương trình SGK. – Phát triển các năng lực: + Năng lực thu thập thông tin liên quan đến văn bản. + Năng lực giải quyết những tình huống đặt ra trong các văn bản. + Năng lực đọc hiểu thơ trung đại theo đặc điểm thể loại. + Năng lực trình bày suy nghĩ cảm nhận của cá nhân về ý nghĩa của văn bản. + Năng lực hợp tác khi trao đổi, thảo luận về nội dung và nghệ thuật của văn bản. Bảng mô tả các mức độ đánh giá chủ đề “ Thơ trung đại Việt Nam đại từ thế kỷ X đến nửa đầu thế kỷ XIX theo định hướng năng lực. Câu hỏi/Bài tập minh hoạ Văn bản: Tỏ lòng ( Phạm Ngũ Lão) Câu hỏi/Bài tập Văn bản: Cảnh ngày hè ( Nguyễn Trãi) Câu hỏi/Bài tập Văn bản: Nhàn (Nguyễn Bỉnh Khiêm) Câu hỏi/Bài tập Văn bản: Đọc Tiểu Thanh kí ( Nguyễn Du) Đề kiểm tra cho chủ đề: bài Tỏ lòng của Phạm Ngũ Lão. Ma trận đề kiểm tra: Đề kiểm tra Thời gian làm bài: 90 phút Phần I: (2điểm) a Nhân hóa và ẩn dụ b So sánh và cường điệu c So sánh và nhân hóa d Cường điệu và nhân hoá a; Chưa xứng đáng là đấng nam nhi, quân tử; c. Vỡ chưa trả xong nợ nước b..Chưa mưu lược, lập được công lớn như Vũ Hầu; d. Tất cả các phương án trên. Phần II: Tự luận (8 điểm) “Phạm Ngũ Lão tuy chỉ để lại hai bài thơ nhưng tên tuổi của ông vẫn thuộc hàng những tác giả danh tiếng nhất của văn học thời Trần bởi thơ của ông đó toát lên hào khớ Đông A – hào khí thời Trần – một trong những thời đại hào hùng nhất của lịch sử Việt Nam”. Hóy phõn tớch bài thơ Tỏ lòng của Phạm Ngũ Lão để làm sáng tỏ nhận định trên. Phần I: (3 điểm) Phần II. Tự luận: (8 điểm) 1. Yêu cầu về kĩ năng, hình thức – Biết cách làm bài nghị luận văn học. – Vận dụng tốt các thao tác lập luận vào kĩ năng tạo lập văn bản. – Không mắc lỗi chính tả, dùng từ, đặt câu, diễn đạt. – Có những cách viết sáng tạo, độc đáo. – Bố cục mạch lạc, diễn đạt lưu loát, biểu cảm. – Từ ngữ chính xác, có liên hệ, đối chiếu… – Trên cơ sở hiểu biết về tác giả và bài thơ học sinh có thể đưa ra cảm nhận, bày tỏ suy nghĩa của mình theo những cách khác nhau nhưng phải hợp lí, có sức thuyết phục. Sau đây là một số gợi ý: – Giới thiệu khỏi quát về tỏc giả Phạm Ngũ Lão và bài thơ Tỏ lòng – Nêu ra luận đề: hào khí Đông A ( hào khí thời Trần) *. Giới thiệu khái quát về đề tài Tỏ lòng (thuật hoài), nỗi lòng (cảm hoài) trong văn học trung đại *. Hào khí Đông A – Giải thích ngắn gọn khái niệm hào khí Đông A – Hào khí Đông A trong bài thơ Tỏ lòng được thể hiện qua: + Tầm vóc, tư thế, hành động của con người thời Trần lớn lao, kì vĩ. – Con người xuất hiện với một tư thế hiên ngang lẫm liệt mang tầm vóc vũ trụ, con người kĩ vĩ như át cả không gian bao la (chú ý phân tích không gian, thời gian kì vĩ để làm nổi bật hỡnh ảnh con người) – Có lí tưởng cao đẹp: có chí lớn lập công danh trong sự nghiệp cứu nước, cứu dân – Có nhân cách cao cả + Vẻ đẹp thời đại: Quân đội nhà Trần tượng trưng cho sức mạnh dân tộc, với khí thế hào hùng mang tinh thần quyết chiến, quyết thắng => Vẻ đẹp con người cá nhân và vẻ đẹp thời đại có sự hòa quyện – Thành công nghệ thuật của bài thơ (0,5 điểm): + Thủ pháp gợi, thiên về ấn tượng bao quát, đạt tới độ súc tích cao + Bút pháp nghệ thuật: mang tính sử thi với hình tượng thơ lớn lao, kĩ vĩ * Khẳng định bài thơ đó thể hiện được lí tưởng cao cả và khí phách anh hùng của tác giả – một vị tướng giỏi thời Trần đồng thời bài thơ cũng toát lên hào khí Đông A – hào khí thời Trần, hào khí của đội quân đó từng khắc lờn cánh tay hai chữ “Sát Thát”. – Điểm 7-8: đáp ứng tốt các yêu cầu nêu trên, có thể còn vài sai sót nhỏ về diễn đạt. – Điểm 5-6: đáp ứng phần lớn các yêu cầu trên, còn mắc nhiều lỗi về diễn đạt, chính tả. – Điểm 3-4: đáp ứng được một nửa các yêu cầu trên, cũn mắc nhiều lỗi về diễn đạt, chính tả… – Điểm 1-2: Không đáp ứng được một phần các yêu cầu trên, còn mắc nhiều lỗi về diễn đạt, chính tả…
Instruct The Grade 10 Literature test is oriented towards developing student capacity. Standard knowledge and skills – Understand the unique features of the content and art of poems on the topic of medieval poetry from the 10th century to the first half of the 19th century – Understand some basic characteristics of medieval poetry from the 10th century to the first half of the century XIX. – Identify some aspects such as theme, inspiration, genre, language medieval literature. – Know how to read and understand a medieval poetic text from the 10th century to the first half of the century nineteenth century. – Apply knowledge of medieval poetry and read and understand texts Similar versions outside the textbook program. – Develop capabilities: + Ability to collect information related to documents. + Ability to solve situations posed in documents. + Ability to read and understand medieval poetry according to genre characteristics. + Ability to present personal thoughts and feelings about the meaning of the text. + Collaborative ability when exchanging and discussing the content and art of the text. The table describes the levels of assessment of the topic "Vietnamese medieval poetry from the 10th century to the first half of the 19th century according to competency orientation." Questions/Illustrative exercises Text: Confession (Pham Ngu Lao) Questions/Exercises Text: Summer day scene (Nguyen Trai) Questions/Exercises Text: Nhan (Nguyen Binh Khiem) Questions/Exercises Text: Read Tieu Thanh Ky (Nguyen Du) Test for the topic: Expressing Your Heart by Pham Ngu Lao. Test matrix: Test subject Time to do all 90 minutes Part I: (2 points) a Personification and metaphor b Comparison and exaggeration c Comparison and personification d Hyperbole and personification a; Not worthy of being a man or a gentleman; c. Haven't paid the water debt yet b..Not yet able to strategize and achieve great achievements like Marquis Vu; d. All of the above. Part II: Essay (8 points) “Although Pham Ngu Lao only left behind two poems, his name is still among the most famous authors of Tran dynasty literature because his poetry exudes the pride of Dong A - the spirit of the Tran dynasty - one of the most famous literary works of the Tran Dynasty. the most heroic era of Vietnamese history". Let's take a look at the poem Expressing My Heart by Pham Ngu Lao to clarify the above statement. Part I: (3 points) Part II. Essay: (8 points) 1. Requirements for skills and form – Know how to write a literary essay. – Apply reasoning operations well to text creation skills. – Do not make mistakes in spelling, word usage, sentence formation, or expression. – There are creative and unique ways of writing. – Coherent layout, fluent and expressive expression. – Words are accurate, related, compared… – On the basis of understanding the author and the poem, students can express their feelings and thoughts in different ways but must be reasonable and convincing. Here are some suggestions: – A thorough introduction to the author Pham Ngu Lao and the poem To Express Your Heart – State the thesis: the pride of Dong A (the pride of the Tran dynasty) *. General introduction to the topics Expressing one's heart (narrative), feeling one's heart (feeling nostalgic) in medieval literature *. Dong A's pride – Briefly explain the concept of Dong A's aura – Dong A's arrogance in the poem Confession is expressed through: + The stature, posture, and actions of the people of the Tran Dynasty were great and majestic. – People appear with a majestic, majestic posture of cosmic proportions, a majestic person as if overwhelming the vast space (pay attention to analyzing the majestic space and time to highlight the human image ) – Have noble ideals: have great ambition to make a name for yourself in the cause of saving the country and people – Have noble personality + Beauty of the era: The Tran Dynasty's army symbolizes the nation's strength, with a heroic spirit carrying the spirit of determination to fight and victory. => The beauty of the individual and the beauty of the times are in harmony – Artistic success of the poem (0.5 points): + The evocative method favors a general impression, reaching a high level of conciseness + Artistic style: epic with great, skillful poetic imagery * Affirming that the poem demonstrates the noble ideals and heroic spirit of the author - a good general of the Tran Dynasty, and at the same time the poem also exudes the spirit of Dong A - the spirit of the Tran Dynasty, the spirit of the army. There were two words "Sat That" engraved on the arm. – Score 7-8: satisfies the above requirements well, there may be some minor errors in expression. – Score 5-6: meets most of the above requirements, but still has many errors in expression and spelling. – Score 3-4: meets half of the above requirements, also has many errors in expression, spelling... – Score 1-2: Does not meet part of the above requirements, also has many errors in expression, spelling...
Hướng dẫn Chuyên đề Ngữ văn 10 theo định hướng phát triển năng lực, chủ đề văn bản thuyết minh Mục Lục – Trình bày, phân tích được các hình thức kết cấu cơ bản của văn bản thuyết minh. – Xây dựng được kết cấu cho bài văn thuyết minh về các đối tượng theo kiểu giới thiệu, trình bày. – Thấy được sự cần thiết của việc lập dàn ý khi làm văn nói chung và viết bài làm văn thuyết minh nói riêng. – Hiểu thế nào là tính chuẩn xác, tính hấp dẫn của văn bản thuyết minh. – Hiểu rõ tầm quan trọng của phương pháp thuyết minh và những yêu cầu đối với việc vận dụng phương pháp thuyết minh. – Nắm được một số phương pháp thuyết minh cụ thể. – Tóm tắt được một văn bản thuyết minh có nội dung đơn giản về một sản vật, một danh lam thắng cảnh, một hiện tượng văn học. – Rèn kỹ năng nhận diện, phân tích và xây dựng kết cấu, bố cục văn bản thuyết minh theo ba kiểu vừa học. – Vận dụng các kỹ năng về văn thuyết minh và lập dàn ý cho một bài văn thuyết minh có đề tài gần gũi với cuộc sống hoặc công việc học tập. – Rèn kĩ năng và có ý thức viết văn bản thuyết minh có tính chuẩn xác và hấp dẫn. – Rèn luyện kỹ năng viết đoạn văn có liên kết câu và đúng kiểu bài văn thuyết minh. – Thích thú đọc và viết văn thuyết minh trong nhà trường cũng như theo yêu cầu của cuộc sống. Từ đó học sinh có thể hình thành các năng lực sau: + Năng lực thu thập thông tin liên quan đến văn bản. + Năng lực giải quyết những tình huống đặt ra trong văn bản. + Năng lực trình bày miệng, trình bày suy nghĩ, cảm nhận cá nhân về ý nghĩa của văn bản. + Năng lực hợp tác khi trao đổi, thảo luận về nội dung, nghệ thuật của văn bản. + Năng lực tạo lập văn bản. III. Câu hỏi/Bài tập minh họa: Bài: Tính chuẩn xác, hấp dẫn của văn bản thuyết minh ĐỀ KIỂM TRA: MA TRẬN ĐỀ ĐỀ VÀ HÌNH THỨC RA ĐỀ Hình thức: Tự luận; Thời gian 90 phút Đề: Đọc hiểu ( 3đ): Đọc đoạn văn thuyết minh sau và cho biết: “ Từ trong Đảo Ngọc giữa hồ, nhũng cây đa, cây si, cây sanh, cây đề và những cây gạo mà đầu đình làng nào cũng sum sê. Những gốc gạo hiền lành, xù xì như tảng đá vì những nhát dao tước vỏ cây từ thủa trong phố còn những cột đèn dầu thắp ở ngã tư dường thập đạo, người ta lấy vỏ gạo về làm thuốc bóp chân sái, tay gãy – những bài thuốc ai cũng thuộc” ( Cây Hồ Gươm-Tô Hoài) Anh (chị ) hãy viết bài văn dài khoảng 300 từ thuyết minh về tác giả Nguyễn Trãi. V.Hướng dẫn chấm, đáp án Đọc hiểu ( 3đ): Làm văn( 7đ):
Instruct Literature topic 10 is oriented towards capacity development and explanatory text topics Table of contents – Present and analyze the basic structural forms of explanatory text. – Build a structure for an expository essay about subjects in the style of introduction and presentation. – See the necessity of making an outline when writing essays in general and writing expository essays in particular. – Understand what is the accuracy and attractiveness of explanatory text. – Understand the importance of the explanatory method and the requirements for applying the explanatory method. – Grasp some specific explanatory methods. – Summarize an explanatory text with simple content about a product, a scenic spot, or a literary phenomenon. – Practice skills in identifying, analyzing and building structure and layout of explanatory text in the three styles just learned. – Apply expository writing skills and create an outline for an expository essay with a topic close to life or study. – Practice skills and awareness of writing accurate and attractive explanatory text. – Practice the skill of writing paragraphs with connected sentences and the right expository essay style. – Enjoy reading and writing expository texts in school as well as as required by life. From there, students can form the following competencies: + Ability to collect information related to documents. + Ability to solve situations posed in the text. + Oral presentation ability, presenting personal thoughts and feelings about the meaning of the text. + Collaborative ability when exchanging and discussing the content and art of the text. + Ability to create documents. III. Questions/Illustrative exercises: Lesson: Accuracy and attractiveness of explanatory text TEST TOPIC: PROBLEM MATRIX TOPICS AND PROBLEM FORMS Format: Essay; Duration 90 minutes Topic: Reading comprehension (3 points): Read the following explanatory text and say: “From the Pearl Island in the middle of the lake, the banyan trees, sapphire trees, sanh trees, banyan trees and rice trees that line every village communal house are lush. The gentle rice roots are as rough as rocks because of the knife cuts that stripped the bark from the old streets, while the oil lamp posts are lit at the crossroads, people take the rice husks to use as medicine to massage broken legs and arms - Medicines that everyone knows" (Sword Lake Tree - To Hoai) Please write an essay of about 300 words explaining author Nguyen Trai. V. Scoring instructions and answers Reading comprehension (3 points): Writing (7 points):
Hướng dẫn Giáo án theo định hướng phát triển năng lực: Tổng quan văn học Việt Nam Ngày soạn: 04/9/2016, Tuần: 2, Tiết PPCT: 1 Mục Lục Những bộ phận hợp thành, tiến trình phát triển của văn học Việt Nam và tư tưởng tình cảm của người Việt Nam trong văn học. Nhận diện nền văn học dân tộc, nêu được các thời kỳ lớn và các giai đoạn cụ thể trong các thời kỳ phát triển của văn học dân tộc. Hiểu và yêu mến tình cảm của con người Việt Nam được đúc kết qua nhiều thế hệ. – Năng lực hợp tác: Thảo luận nhóm để thể hiện cảm nhận của cá nhân và lắng nghe ý kiến của bạn để tự điều chỉnh cá nhân mình. – năng lực giải quyết vấn đề, năng lực giao tiếp, năng lực hợp tác… – Phương pháp đọc, gợi tìm, thuyết trình kết hợp trao đổi thảo luận. – Sgk. Giáo án, đọc tài liệu tham khảo. 3.1. Hoạt động khởi động: Lịch sử bất kì văn học dân tộc nào đều là lịch sử tâm hồn. Để hiểu một cách khái quát nhất về nền văn học dân tộc nước nhà. Chúng ta cùng tìm hiểu bài: Tổng quan văn học Việt Nam. 3.2. Hoạt động hình thành kiến thức mới 3.3. Hoạt động thực hành ứng dụng Bài tập: Những khác biệt của văn học trung đại và văn học hiện đại? 3.4. Hoạt động bổ sung So sánh sự giống và khác nhau giữa văn học dân gian và văn học viết? Hướng dẫn soạn bài tiếp theo
Instruct Competency development-oriented lesson plans: Overview of Vietnamese literature Date of preparation: September 4, 2016, Week: 2, PPCT period: 1 Table of contents The constituent parts, the development process of Vietnamese literature and the emotional thoughts of Vietnamese people in literature. Identify national literature, state the major periods and specific stages in the development periods of national literature. Understand and love the feelings of Vietnamese people that have been summarized over many generations. – Collaboration capacity: Group discussion to express personal feelings and listen to your opinions to make personal adjustments. – Problem solving capacity, communication capacity, cooperation capacity... – Reading, elicitation, presentation combined with discussion methods. – Textbook. Lesson plans, read reference materials. 3.1. Warm-up activity: The history of any national literature is the history of the soul. To gain a general understanding of the country's national literature. Let's learn about the article: Overview of Vietnamese literature. 3.2. Activities to create new knowledge 3.3. Practical application activities Exercise: What are the differences between medieval literature and modern literature? 3.4. Additional activities Compare the similarities and differences between folk literature and written literature? Instructions for preparing the next lesson
Hướng dẫn Trọn bộ giáo án Ngữ văn lớp 10-11-12. Giáo án bài Trao Duyên Ngữ văn 10. TRAO DUYÊN (Trích Truyện Kiều – Nguyễn Du) Mục Lục + Kiến thức: Giúp học sinh: – Hiểu được diễn biến tâm lí phức tạp của Kiều,qua đó hiểu được tình yêu sâu nặng,bi kịch và nỗi đau của Thúy Kiều trong đêm trao duyên. – Nắm được nghệ thuật đặc sắc trong việc miêu tả tâm lí nhân vật và cách sử dụng ngôn ngữ của Nguyễn Du. + Kỹ năng + Thái độ – Thái độ yêu thích văn chương, yêu thích Truyện Kiều hơn. – Diễn giải, đọc hiểu, giảng bình – SGK Ngữ văn 10, cơ bản tập 2 – SGV Ngữ văn 10, cơ bản tập 2 – Sách giáo khoa, Sách giáo viên, Giáo án – Sách giáo khoa, vở bài soạn – Đọc văn bản Câu hỏi: Em hãy trình bày một số sáng tác chính trong sự nghiệp văn học của Nguyễn Du? Ở tiết trước các em đã biết sơ qua về tác phẩm Truyện Kiều và toàn bộ tác phẩm là một bi kịch “Đây là một bi kịch nhỏ trong bi kịch lớn ấy”. Đêm cuối cùng Thúy Kiều đã quyết định bán mình chuộc cha nhưng trong lòng nàng vẫn canh cánh món nợ tình với Kim Trọng và nàng đã quyết định trao duyên cho em gái là Thúy Vân. Như vậy, bi kịch đầu tiên mà nàng phải gánh chịu thể hiện rõ nhất trong đoạn trích trao duyên và cảnh trao duyên đã diễn ra như thế nào thì tiết học hôm nay cô trò chúng ta sẽ cùng đi tìm hiểu. – Phân tích diễn biến tâm trạng của Thúy Kiều qua lời thoại của đoạn trích? – Các em thấy được tài năng nghệ thuật tuyệt vời của Nguyễn Du trong việc miêu tả diễn biến tâm lý nhân vật như thế nào? – Yêu cầu học sinh học thuộc đoạn trích. – Soạn đoạn “Nỗi thương mình” (Truyện Kiều).
Instruct Complete set of Literature lesson plans for grades 10-11-12. Lesson plan for the lesson "Giving Destiny" Literature 10. GIVE DOWN (Excerpt from The Tale of Kieu – Nguyen Du) Table of contents + Knowledge: Help students: – Understand the complex psychological developments of Kieu, thereby understanding the deep love, tragedy and pain of Thuy Kieu on the night of love. – Grasp the unique art of describing character psychology and using language by Nguyen Du. + Skills + Attitude – Attitude to love literature, love The Tale of Kieu more. – Interpretation, reading comprehension, commentary – Literature textbook grade 10, basic volume 2 – Literature teacher grade 10, basic episode 2 – Textbooks, Teacher's Books, Lesson Plans – Textbooks, exercise books – Read the text Question: Please present some of the main works in Nguyen Du's literary career? In the previous lesson, you learned briefly about the work The Tale of Kieu and the entire work is a tragedy "This is a small tragedy in that big tragedy". On the last night, Thuy Kieu decided to sell herself to redeem her father, but in her heart she still cherished her love debt to Kim Trong and she decided to give her sister, Thuy Van, her fate. Thus, the first tragedy that she suffered is most clearly shown in the excerpt of the exchange of love and how the scene of the exchange of love took place, we will learn together in today's class. – Analyze the evolution of Thuy Kieu's mood through the dialogue of the excerpt? – How do you see Nguyen Du's great artistic talent in depicting the psychological developments of characters? – Ask students to memorize the excerpt. – Prepare the paragraph "My pity" (The Story of Kieu).
Hướng dẫn Tài liệu tích hợp liên môn:Chủ đề Giáo dục địa phương,Danh nhân Trương Hán Siêu và tác phẩm Phú sông Bạch Đằng Chủ đề: Giáo dục địa phương: Danh nhân Trương Hán Siêu và tác phẩm Phú sông Bạch Đằng. Mục tiêu bài học: Giúp HS: – Có những hiểu biết về thời đại nhà Trần, cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông; vai trò của Ninh Bình trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên – Mông; cuộc đời và sự nghiệp của Trương Hán Siêu, đóng góp với đất nước. – Nắm được những nội dung cơ bản của tác phẩm “Phú sông Bạch Đằng”: suy ngẫm về lịch sử; tình yêu tha thiết với quê hương đất nước, tự hào về lịch sử; khẳng định vai trò của con người trong lịch sử. Nắm được đặc trưng của thể loại phú. – Rèn kĩ năng làm văn thuyết minh. – Rèn luyện kĩ năng làm việc nhóm, kĩ năng phân tích, tổng hợp, thuyết trình. – Bồi đắp tình yêu, trách nhiệm với quê hương đất nước; ý thức nỗ lực vươn lên trong cuộc sống. Nội dung tích hợp liên môn: – Lịch sử: Lịch sử 7, bài 13: Nước Đại Việt thế kỉ XIII; Lịch sử 7, bài 14: Ba lần kháng chiến chống quân Nguyên – Mông xâm lược; Lịch sử 10, bài 19: Những cuộc kháng chiến chống ngoại xâm thế kỉ X-XV. – Tiếng Anh: Tiếng Anh 10, bài 8, tiết 7: Thuyết trình về một số khía cạnh văn hoá của Việt Nam – Ngữ văn: Ngữ văn 10, bài: Phú sông Bạch Đằng. C.Cấu trúc bài học: III. Tác phẩm Phú sông Bạch Đằng. Dạy học theo dự án kết hợp dạy học theo nhóm và dạy học truyền thống – GV chia nhóm, giao công việc, hướng dẫn HS làm việc. – HS làm việc theo nhóm, tìm kiếm, thu thập thông tin, tổng hợp, viết báo cáo (dạng powerpoint) và trình bày sản phẩm. – GV chia nhóm HS trong tiết học, đưa ra câu hỏi gợi ý, HS thảo luận, trình bày. – GV bổ sung, nhận xét, chốt lại kiến thức. – Phát vấn – đàm thoại trong các câu hỏi liên hệ, mở rộng. Tiến trình dạy học Tiết 1: Hoạt động 1: Xác định chủ đề. (20 phút) Tiểu chủ đề 1: Một thời đại hào hùng (Sơ lược về triều đại nhà Trần và cuộc kháng chiến chống quân Nguyên – Mông xâm lược, đặc biệt là chiến công trên sông Bạch Đằng – Hoàn cảnh lịch sử gắn với cuộc đời của Trương Hán Siêu) Tiểu chủ đề 2: Vai trò của Ninh Bình trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên – Mông xâm lược. Tiểu chủ đề 3: Người con ưu tú của đất Ninh Bình (cuộc đời và sự nghiệp của Trương Hán Siêu) Tiểu chủ đề 4: Thể loại phú, các tác phẩm thơ ca viết về sông Bạch Đằng, hoàn cảnh sáng tác bài Phú sông Bạch Đằng. Tiểu chủ đề 5: Hình tượng nhân vật “khách” trong bài Phú sông Bạch Đằng: khát vọng và tâm sự. Tiểu chủ đề 6: Câu chuyện của các bô lão và ý nghĩa của các bài ca trong bài Phú sông Bạch Đằng. Hoạt động 2: Các nhóm xây dựng kế hoạch làm việc (25 phút) Hình thức: theo nhóm Kĩ thuật: tổ chức nhóm. *Xây dựng đề cương: – Các nhóm dưới sự hướng dẫn của GV sẽ cùng xây dựng phác thảo đề cương các vấn đề cần giải quyết đối với từng chủ đề. HS cùng nhóm thảo luận, thống nhất đề cương. Tiểu chủ đề 1:Một thời đại hào hùng. Vận dụng lí thuyết văn thuyết minh để xây dựng bài thuyết trình về: + Sơ lược về thời đại nhà Trần: thời gian tồn tại, các đời vua, những đóng góp. + Sơ lược về cuộc kháng chiến chống quân Nguyên – Mông: đã diễn ra mấy lần, ở đâu, kết quả, ý nghĩa; trận chiến trên sông Bạch Đằng đã diễn ra như thế nào: tại sao chọn sông Bạch Đằng, kết quả, nguyên nhân thắng lợi. + Bối cảnh thời đại có ảnh hưởng như thế nào đến con người Trương Hán Siêu? + Chiến thắng của nhà Trần gợi suy nghĩ gì về trách nhiệm của bản thân với đất nước? (Khuyến khích thể hiện nhận thức của bản thân bằng một vài bức tranh với chủ đề “Chung tay xây dựng, bảo vệ Tổ quốc”) Tiểu chủ đề 2:Vai trò của Ninh Bình trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên – Mông. Vận dụng lí thuyết văn thuyết minh xây dựng bài thuyết trình về: + Vị trí địa lí của Ninh Bình trong thời kì kháng chiến chống quân Nguyên-Mông. + Những đóng góp của Ninh Bình trong cuộc kháng chiến chống Nguyên – Mông. + Ảnh hưởng của quê hương Ninh Bình đến con người Trương Hán Siêu. + Mảnh đất Ninh Bình anh hùng gợi suy nghĩ gì về trách nhiệm của mỗi người với quê hương. Tiểu chủ đề 3:Người con ưu tú của đất Ninh Bình. Vận dụng lí thuyết văn thuyết minh và kiến thức Tiếng Anh để xây dựng bài thuyết trình (bằng Tiếng Việt và tiếng Anh) về: + Quê hương, gia đình của Trương Hán Siêu. Con đường học hành, đỗ đạt của Trương Hán Siêu. + Đóng góp của Trương Hán Siêu trong sự nghiệp chống xâm lược; đóng góp của Trương Hán Siêu với nền văn học nước nhà. + Sự ghi nhận và tưởng nhớ của nhân dân Ninh Bình đối với Trương Hán Siêu. (Đi thực tế tại đền thờ Trương Hán Siêu và trường THCS Trương Hán Siêu– Thành phố Ninh Bình). + Cuộc đời Trương Hán Siêu giúp em có được những bài học gì? Tiểu chủ đề 4:Thể loại phú, sáng tác về sông Bạch Đằng và hoàn cảnh ra đời của bài Phú sông Bạch Đằng. Vận dụng lí thuyết văn thuyết minh để xây dựng bài thuyết trình về: + Khái niệm, đặc trưng của thể loại phú. + Sưu tầm các sáng tác về sông Bạch Đằng trong văn học trung đại. + Hoàn cảnh ra đời của bài Phú sông Bạch Đằng. Hoàn cảnh ấy giúp người đọc hiểu thêm gì về nội dung bài phú. Tiểu chủ đề 5:Hình tượng nhân vật “khách” trong bài Phú sông Bạch Đằng: khát vọng và tâm sự tập trung vào các vấn đề sau: + Nhân vật “khách” trong thể phú thường là nhân vật như thế nào? + Liệt kê các hình ảnh xuất hiện trong đoạn mở đầu? Từ đó nhận xét về không gian, thời gian trong đoạn mở đầu? Các hình ảnh này là hình ảnh tượng trưng, ước lệ hay tả thực? Hé mở điều gì về tâm hồn của nhân vật khách? + “Khách” đi để thưởng ngoạn, ham vui hay còn nhằm mục đích gì khác? Câu nào thể hiện điều đó? (trích dẫn cụ thể và sử dụng kiến thức lịch sử để giải thích về nhân vật được nhắc đến trong câu) + Trong đoạn thơ nói về việc khách đến thăm sông Bạch Đằng, hãy so sánh hệ thống hình ảnh của đoạn thơ này với đoạn trước (tượng trưng, ước lệ hay tả thực)? Bức tranh thiên nhiên ở đây hiện lên như thế nào? + Tìm các từ ngữ, các câu thể hiện tâm trạng của nhân vật “khách”? Tâm trạng đó là gì? Hãy dùng những kiến thức về cuộc đời Trương Hán Siêu để cắt nghĩa, lí giải tâm trạng đó. + Tâm trạng của “khách” cho thấy “khách” là người như thế nào? (Khuyến khích minh hoạ cảm nhận về nhân vật khách thể hiện bằng tranh) Tiểu chủ đề 6: Câu chuyện của các bô lão và ý nghĩa các bài ca tập trung vào những vấn đề sau: + Nhân vật các bô lão xuất hiện vào thời khắc nào? Tạo ra nhân vật này, tác giả nhằm mục đích gì? + Em có hình dung gì về trận Bạch Đằng qua lời kể của các bô lão? (Sử dụng kiến thức lịch sử để so sánh trận đánh được kể lại với trận đánh được ghi lại trong lịch sử?) + Trận đánh đó được miêu tả bằng những biện pháp nghệ thuật nào? + Qua cách kể về trận đánh có thể thấy được tài đức của vua tôi nhà Trần ra sao? Thái độ, tâm trạng của các bô lão cũng là của “khách” như thế nào? + Trong lời bình luận về chiến thắng, các bô lão đã chỉ ra những nguyên nhân nào của thắng lợi? Nguyên nhân nào được nhấn mạnh? Sự nhấn mạnh như vậy thể hiện điều gì? + Cảm nhận về lời ca của khách, của các bô lão? Lời ca ấy khẳng định điều gì? Lưu ý:Cộng điểm sáng tạo cho các nhóm nếu có thêm sản phẩm là thơ, truyện ngắn, bài hát tự sáng tác về chủ đề dự án. * GV nhận xét, đánh giá bổ sung đề cương của các nhóm *GV cùng với HS thống nhất xác định các nguồn tài nguyên cung cấp thông tin cho hoạt động nhóm: sách Lịch sử về triều đại nhà Trần, SGK Lịch sử, sách địa lí về Ninh Bình, SGK Ngữ văn 10, thông tin trên mạng… GV hướng HS vào việc ghi chép rõ các nguồn thông tin trích dẫn. * Các nhóm phân công nhóm trưởng và công việc cho từng thành viên trong nhóm. * GV hướng dẫn cụ thể cách thức làm việc và những tiêu chí đánh giá cụ thể đối với từng cá nhân, từng nhóm: + Kết quả tự đánh giá từng thành viên trong nhóm (Do thư ký của từng nhóm tổng hợp) + Kết quả sản phẩm của từng nhóm *GV cũng chú ý các nhóm cần có sự trao đổi trong quá trình làm việc vì một số vấn đề cần sử dụng kiến thức từ nhóm khác để giải quyết; đặc biệt giữa các nhóm được phân công phản biện lẫn nhau. Hoạt động 3: Thực hiện dự án. (HS tiến hành làm việc ở nhà) Hình thức: theo nhóm. Kĩ thuật: dạy học dự án. – Các nhóm và các cá nhân làm việc trong thời gian 1 tuần theo sự phân công của nhóm. – Thu thập tài liệu, thông tin về triều đại nhà Trần, về địa phương Ninh Bình, về cuộc đời, sự nghiệp của Trương Hán Siêu, về tác phẩm Phú sông Bạch Đằng thông qua sách vở, qua mạng Internet. – Tổng hợp kết quả: các thành viên hoàn thành thu thập tài liệu, trình bày trước nhóm. Nhóm góp ý, bổ sung. – Xử lí toàn bộ thông tin thu thập được: các thành viên khớp các phần thông tin thành bản tổng hợp, sử dụng các thông tin để giải quyết các vấn đề trong chủ đề. – Nhóm thảo luận để thống nhất các vấn đề thành báo cáo hoàn chỉnh và đưa thông tin lên các slide để trình chiếu. Hoạt động 4: Trình bày sản phầm, thảo luận, thống nhất. (70 phút) Hoạt động 5: Đánh giá (15 phút) Hoạt động 6: Củng cố, hướng dẫn học bài (5 phút).
Hướng dẫn Tài liệu tích hợp liên môn:Chủ đề Giáo dục địa phương,Danh nhân Trương Hán Siêu và tác phẩm Phú sông Bạch Đằng Chủ đề: Giáo dục địa phương: Danh nhân Trương Hán Siêu và tác phẩm Phú sông Bạch Đằng. Mục tiêu bài học: Giúp HS: – Có những hiểu biết về thời đại nhà Trần, cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông; vai trò của Ninh Bình trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên – Mông; cuộc đời và sự nghiệp của Trương Hán Siêu, đóng góp với đất nước. – Nắm được những nội dung cơ bản của tác phẩm “Phú sông Bạch Đằng”: suy ngẫm về lịch sử; tình yêu tha thiết với quê hương đất nước, tự hào về lịch sử; khẳng định vai trò của con người trong lịch sử. Nắm được đặc trưng của thể loại phú. – Rèn kĩ năng làm văn thuyết minh. – Rèn luyện kĩ năng làm việc nhóm, kĩ năng phân tích, tổng hợp, thuyết trình. – Bồi đắp tình yêu, trách nhiệm với quê hương đất nước; ý thức nỗ lực vươn lên trong cuộc sống. Nội dung tích hợp liên môn: – Lịch sử: Lịch sử 7, bài 13: Nước Đại Việt thế kỉ XIII; Lịch sử 7, bài 14: Ba lần kháng chiến chống quân Nguyên – Mông xâm lược; Lịch sử 10, bài 19: Những cuộc kháng chiến chống ngoại xâm thế kỉ X-XV. – Tiếng Anh: Tiếng Anh 10, bài 8, tiết 7: Thuyết trình về một số khía cạnh văn hoá của Việt Nam – Ngữ văn: Ngữ văn 10, bài: Phú sông Bạch Đằng. C.Cấu trúc bài học: III. Tác phẩm Phú sông Bạch Đằng. Dạy học theo dự án kết hợp dạy học theo nhóm và dạy học truyền thống – GV chia nhóm, giao công việc, hướng dẫn HS làm việc. – HS làm việc theo nhóm, tìm kiếm, thu thập thông tin, tổng hợp, viết báo cáo (dạng powerpoint) và trình bày sản phẩm. – GV chia nhóm HS trong tiết học, đưa ra câu hỏi gợi ý, HS thảo luận, trình bày. – GV bổ sung, nhận xét, chốt lại kiến thức. – Phát vấn – đàm thoại trong các câu hỏi liên hệ, mở rộng. Tiến trình dạy học Tiết 1: Hoạt động 1: Xác định chủ đề. (20 phút) Tiểu chủ đề 1: Một thời đại hào hùng (Sơ lược về triều đại nhà Trần và cuộc kháng chiến chống quân Nguyên – Mông xâm lược, đặc biệt là chiến công trên sông Bạch Đằng – Hoàn cảnh lịch sử gắn với cuộc đời của Trương Hán Siêu) Tiểu chủ đề 2: Vai trò của Ninh Bình trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên – Mông xâm lược. Tiểu chủ đề 3: Người con ưu tú của đất Ninh Bình (cuộc đời và sự nghiệp của Trương Hán Siêu) Tiểu chủ đề 4: Thể loại phú, các tác phẩm thơ ca viết về sông Bạch Đằng, hoàn cảnh sáng tác bài Phú sông Bạch Đằng. Tiểu chủ đề 5: Hình tượng nhân vật “khách” trong bài Phú sông Bạch Đằng: khát vọng và tâm sự. Tiểu chủ đề 6: Câu chuyện của các bô lão và ý nghĩa của các bài ca trong bài Phú sông Bạch Đằng. Hoạt động 2: Các nhóm xây dựng kế hoạch làm việc (25 phút) Hình thức: theo nhóm Kĩ thuật: tổ chức nhóm. *Xây dựng đề cương: – Các nhóm dưới sự hướng dẫn của GV sẽ cùng xây dựng phác thảo đề cương các vấn đề cần giải quyết đối với từng chủ đề. HS cùng nhóm thảo luận, thống nhất đề cương. Tiểu chủ đề 1:Một thời đại hào hùng. Vận dụng lí thuyết văn thuyết minh để xây dựng bài thuyết trình về: + Sơ lược về thời đại nhà Trần: thời gian tồn tại, các đời vua, những đóng góp. + Sơ lược về cuộc kháng chiến chống quân Nguyên – Mông: đã diễn ra mấy lần, ở đâu, kết quả, ý nghĩa; trận chiến trên sông Bạch Đằng đã diễn ra như thế nào: tại sao chọn sông Bạch Đằng, kết quả, nguyên nhân thắng lợi. + Bối cảnh thời đại có ảnh hưởng như thế nào đến con người Trương Hán Siêu? + Chiến thắng của nhà Trần gợi suy nghĩ gì về trách nhiệm của bản thân với đất nước? (Khuyến khích thể hiện nhận thức của bản thân bằng một vài bức tranh với chủ đề “Chung tay xây dựng, bảo vệ Tổ quốc”) Tiểu chủ đề 2:Vai trò của Ninh Bình trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên – Mông. Vận dụng lí thuyết văn thuyết minh xây dựng bài thuyết trình về: + Vị trí địa lí của Ninh Bình trong thời kì kháng chiến chống quân Nguyên-Mông. + Những đóng góp của Ninh Bình trong cuộc kháng chiến chống Nguyên – Mông. + Ảnh hưởng của quê hương Ninh Bình đến con người Trương Hán Siêu. + Mảnh đất Ninh Bình anh hùng gợi suy nghĩ gì về trách nhiệm của mỗi người với quê hương. Tiểu chủ đề 3:Người con ưu tú của đất Ninh Bình. Vận dụng lí thuyết văn thuyết minh và kiến thức Tiếng Anh để xây dựng bài thuyết trình (bằng Tiếng Việt và tiếng Anh) về: + Quê hương, gia đình của Trương Hán Siêu. Con đường học hành, đỗ đạt của Trương Hán Siêu. + Đóng góp của Trương Hán Siêu trong sự nghiệp chống xâm lược; đóng góp của Trương Hán Siêu với nền văn học nước nhà. + Sự ghi nhận và tưởng nhớ của nhân dân Ninh Bình đối với Trương Hán Siêu. (Đi thực tế tại đền thờ Trương Hán Siêu và trường THCS Trương Hán Siêu– Thành phố Ninh Bình). + Cuộc đời Trương Hán Siêu giúp em có được những bài học gì? Tiểu chủ đề 4:Thể loại phú, sáng tác về sông Bạch Đằng và hoàn cảnh ra đời của bài Phú sông Bạch Đằng. Vận dụng lí thuyết văn thuyết minh để xây dựng bài thuyết trình về: + Khái niệm, đặc trưng của thể loại phú. + Sưu tầm các sáng tác về sông Bạch Đằng trong văn học trung đại. + Hoàn cảnh ra đời của bài Phú sông Bạch Đằng. Hoàn cảnh ấy giúp người đọc hiểu thêm gì về nội dung bài phú. Tiểu chủ đề 5:Hình tượng nhân vật “khách” trong bài Phú sông Bạch Đằng: khát vọng và tâm sự tập trung vào các vấn đề sau: + Nhân vật “khách” trong thể phú thường là nhân vật như thế nào? + Liệt kê các hình ảnh xuất hiện trong đoạn mở đầu? Từ đó nhận xét về không gian, thời gian trong đoạn mở đầu? Các hình ảnh này là hình ảnh tượng trưng, ước lệ hay tả thực? Hé mở điều gì về tâm hồn của nhân vật khách? + “Khách” đi để thưởng ngoạn, ham vui hay còn nhằm mục đích gì khác? Câu nào thể hiện điều đó? (trích dẫn cụ thể và sử dụng kiến thức lịch sử để giải thích về nhân vật được nhắc đến trong câu) + Trong đoạn thơ nói về việc khách đến thăm sông Bạch Đằng, hãy so sánh hệ thống hình ảnh của đoạn thơ này với đoạn trước (tượng trưng, ước lệ hay tả thực)? Bức tranh thiên nhiên ở đây hiện lên như thế nào? + Tìm các từ ngữ, các câu thể hiện tâm trạng của nhân vật “khách”? Tâm trạng đó là gì? Hãy dùng những kiến thức về cuộc đời Trương Hán Siêu để cắt nghĩa, lí giải tâm trạng đó. + Tâm trạng của “khách” cho thấy “khách” là người như thế nào? (Khuyến khích minh hoạ cảm nhận về nhân vật khách thể hiện bằng tranh) Tiểu chủ đề 6: Câu chuyện của các bô lão và ý nghĩa các bài ca tập trung vào những vấn đề sau: + Nhân vật các bô lão xuất hiện vào thời khắc nào? Tạo ra nhân vật này, tác giả nhằm mục đích gì? + Em có hình dung gì về trận Bạch Đằng qua lời kể của các bô lão? (Sử dụng kiến thức lịch sử để so sánh trận đánh được kể lại với trận đánh được ghi lại trong lịch sử?) + Trận đánh đó được miêu tả bằng những biện pháp nghệ thuật nào? + Qua cách kể về trận đánh có thể thấy được tài đức của vua tôi nhà Trần ra sao? Thái độ, tâm trạng của các bô lão cũng là của “khách” như thế nào? + Trong lời bình luận về chiến thắng, các bô lão đã chỉ ra những nguyên nhân nào của thắng lợi? Nguyên nhân nào được nhấn mạnh? Sự nhấn mạnh như vậy thể hiện điều gì? + Cảm nhận về lời ca của khách, của các bô lão? Lời ca ấy khẳng định điều gì? Lưu ý:Cộng điểm sáng tạo cho các nhóm nếu có thêm sản phẩm là thơ, truyện ngắn, bài hát tự sáng tác về chủ đề dự án. * GV nhận xét, đánh giá bổ sung đề cương của các nhóm *GV cùng với HS thống nhất xác định các nguồn tài nguyên cung cấp thông tin cho hoạt động nhóm: sách Lịch sử về triều đại nhà Trần, SGK Lịch sử, sách địa lí về Ninh Bình, SGK Ngữ văn 10, thông tin trên mạng… GV hướng HS vào việc ghi chép rõ các nguồn thông tin trích dẫn. * Các nhóm phân công nhóm trưởng và công việc cho từng thành viên trong nhóm. * GV hướng dẫn cụ thể cách thức làm việc và những tiêu chí đánh giá cụ thể đối với từng cá nhân, từng nhóm: + Kết quả tự đánh giá từng thành viên trong nhóm (Do thư ký của từng nhóm tổng hợp) + Kết quả sản phẩm của từng nhóm *GV cũng chú ý các nhóm cần có sự trao đổi trong quá trình làm việc vì một số vấn đề cần sử dụng kiến thức từ nhóm khác để giải quyết; đặc biệt giữa các nhóm được phân công phản biện lẫn nhau. Hoạt động 3: Thực hiện dự án. (HS tiến hành làm việc ở nhà) Hình thức: theo nhóm. Kĩ thuật: dạy học dự án. – Các nhóm và các cá nhân làm việc trong thời gian 1 tuần theo sự phân công của nhóm. – Thu thập tài liệu, thông tin về triều đại nhà Trần, về địa phương Ninh Bình, về cuộc đời, sự nghiệp của Trương Hán Siêu, về tác phẩm Phú sông Bạch Đằng thông qua sách vở, qua mạng Internet. – Tổng hợp kết quả: các thành viên hoàn thành thu thập tài liệu, trình bày trước nhóm. Nhóm góp ý, bổ sung. – Xử lí toàn bộ thông tin thu thập được: các thành viên khớp các phần thông tin thành bản tổng hợp, sử dụng các thông tin để giải quyết các vấn đề trong chủ đề. – Nhóm thảo luận để thống nhất các vấn đề thành báo cáo hoàn chỉnh và đưa thông tin lên các slide để trình chiếu. Hoạt động 4: Trình bày sản phầm, thảo luận, thống nhất. (70 phút) Hoạt động 5: Đánh giá (15 phút) Hoạt động 6: Củng cố, hướng dẫn học bài (5 phút).
Hướng dẫn XÂY DỰNG BÀI HỌC MINH HỌA THEO ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC BÀI: TRUYỆN AN DƯƠNG VƯƠNG VÀ MỊ CHÂU, TRỌNG THỦY Bước 1: Xác định vấn đề cần giải quyết trong bài học Đọc hiểu truyền thuyết An Dương Vương và Mị Châu, Trọng Thủy theo đặc trưng thể loại. Bước 2: Xây dựng nội dung bài học Văn bản: Truyện An Dương Vương và Mị Châu, Trọng Thủy. Bước 3. Xác định mục tiêu bài học – Kiến thức: + Những đặc sắc về nội dung và nghệ thuật của truyền thuyết An Dương Vương và Mị Châu, Trọng Thủy + Đặc điểm cơ bản của thể loại truyền thuyết. – Kỹ năng: + Huy động những hiểu biết về thể loại truyền thuyết để đọc hiểu văn bản theo đặc trưng thể loại. + Nhận diện đề tài, chủ đề, cảm hứng chủ đạo của tác phẩm. + Đọc hiểu văn bản theo đặc trưng thể loại: *Về nghệ thuật: – Tóm tắt cốt truyện. – Nhận diện và phân tích nhân vật. – Nêu và đánh giá các chi tiết kì ảo hoang đường trong truyên. – Phân tích, đánh giá nghệ thuật kể chuyện. * Về nội dung: – Nêu và nhận xét về hiện thực được phản ánhtrong tác phẩm. – Đánh giá về tư tưởng tình cảm của tác giả được thể hiện trong tác phẩm. + Vận dụng những kiến thức và kĩ năng đã học để đọc những truyền thuyết khác của VHDG Việt Nam; viết đoạn văn hoặc bài văn nghị luận về tác phẩm; rút ra những bài học về lý tưởng sống, cách sống từ truyền thuyết đã học và liên hệ vận dụng vào thực tiễn cuộc sống của bản thân. – Thái độ: + Có ý thức trách nhiệm công dân, tình yêu đất nước. + Cảnh giác trước những âm mưu của kẻ thù trong công cuộc giữ nước. + Biết dung hòa giữa các mối quan hệ riêng – chung: tình yêu cá nhân và bổn phận với dân tộc. Bước 4. Xác định và mô tả mức độ yêu cầu của mỗi loại câu hỏi/bài tập có thể sử dụng để kiểm tra, đánh giá năng lực và phẩm chất của học sinh trong dạy học. Bước 5. Biên soạn các câu hỏi/bài tập cụ thể theo các mức độ yêu cầu đã mô tả Bước 6. Thiết kế tiến trình dạy học Giáo án sưu tầm Trọn bộ giáo án ngữ văn theo chủ đề dạy học Giáo án ngữ văn 10 Giáo án ngữ văn 11
Instruct BUILDING ILLUSTRATIVE LESSONS ACCORDING TO CAPACITY DEVELOPMENT ORIENTATION ARTICLE: THE STORY OF AN DUONG Vuong and Mi Chau, Trong Thuy Step 1: Identify the problem that needs to be solved in the lesson Read and understand the legends of An Duong Vuong and My Chau and Trong Thuy according to genre characteristics. Step 2: Build lesson content Text: The story of An Duong Vuong and Mi Chau, Trong Thuy. Step 3. Determine lesson objectives - Knowledge: + Characteristics of content and art of the legends of An Duong Vuong and My Chau, Trong Thuy + Basic characteristics of the legend genre. - Skill: + Mobilize knowledge about the genre of legends to read and understand texts according to genre characteristics. + Identify the main theme, theme, and inspiration of the work. + Reading and understanding text according to genre characteristics: *About art: – Plot summary. – Identify and analyze characters. – State and evaluate the magical and mythical details in the story. – Analyze and evaluate the art of storytelling. * About content: – State and comment on the reality reflected in the work. – Evaluation of the author's thoughts and feelings expressed in the work. + Apply the knowledge and skills you have learned to read other legends of Vietnamese folklore; write a paragraph or essay about the work; Draw lessons about living ideals and ways of living from learned legends and apply them to your own real life. - Attitude: + Have a sense of civic responsibility and love for the country. + Be wary of enemy plots in the work of defending the country. + Know how to harmonize private and public relationships: personal love and duty to the nation. Step 4. Determine and describe the level of requirements of each type of question/exercise that can be used to test and evaluate students' abilities and qualities in teaching. Step 5. Compile specific questions/exercises according to the described levels of requirements Step 6. Design the teaching process Collected lesson plans Complete set of literature lesson plans according to teaching topics Literature lesson plan 10 Literature lesson plan 11
Hướng dẫn Soạn giáo án theo định hướng phát triển năng lực, xây dựng chủ đề dạy học CHỦ ĐỀ: LÀM VĂN NGHỊ LUẬN Bước 1:Xác định vấn đề cần giải quyết trong bài học Rèn luyện một số kĩ năng làm văn nghị luận. Bước 2:Xây dựng nội dung chủ đề bài học Gồm các đơn vị bài học: Lập dàn ý cho bài văn nghị luận; Lập luận trong văn nghị luận; Các thao tác nghị luận; Luyện tập viết đoạn văn nghị luận. Bài làm văn số 3; Trình bày một vấn đề. Bước 3:Xác định mục tiêu bài học – Kiến thức: dàn ý bài văn nghị luận, lập luận trong văn nghị luận, thao tác nghị luận, đoạn văn nghị luận, trình bày một vấn đề. – Kĩ năng: Kĩ năng lập dàn ý, sử dụng các tháo tác lập luận, viết đoạn văn nghị luận. Biết vận dụng kiến thức về văn nghị luận để đọc hiểu văn bản nghị luận. Viết được bài văn nghị luận hoàn chỉnh. – Thái độ: Có quan điểm, lập trường khoa học, rõ ràng, khách quan trước các vấn đề xã hội và văn học. Thái độ thẳng thắn, trung thực và hợp tác trong đối thoại, giao tiếp… Bước 4:Xác định và mô tả mức độ, yêu cầu của mỗi loại câu hỏi/bài tập có thể sử dụng để kiểm tra, đánh giá năng lực và phẩm chất của học sinh trong dạy học. Bước 5: Biên soạn các câu hỏi/ bài tập cụ thể theo các mức độ yêu cầu đã mô tả. Hệ thống câu hỏi cho bài Lập dàn ý bài văn Nghị luận. Hệ thống câu hỏi cho bài Lập luận trong văn Nghị luận Bước 6:Thiết kế tiến trình dạy học KIỂM TRA, ĐÁNH GIÁ Đọc đoạn trích sau và thực hiện yêu cầu: (1) Thật vậy, Nguyễn Du, đại thi hào của dân tộc từng viết: “Sách vở đầy bốn vách/ Có mấy cũng không vừa”. Đáng tiếc, cuộc sống hiện nay dường như “cái đạo” đọc sách cũng dần phôi pha. Sách in nhiều nơi không bán được, nhiều nhà xuất bản đóng cửa vì thua lỗ, đặc biệt sách bị cạnh tranh khốc liệt bởi những phương tiện nghe nhìn như ti vi, Ipad, điện thoại Smart, và hệ thống sách báo điện tử trên Internet. Nhiều gia đình giàu có thay tủ sách bằng tủ… rượu các loại. Các thư viện lớn của các thành phố hay của tỉnh cũng chỉ hoạt động cầm chừng, cố duy trì sự tồn tại. (2) Bỗng chợt nhớ khi xưa còn bé, với những quyển sách giấu trong áo, tôi có thể đọc sách khi chờ mẹ về, lúc nấu nồi cơm, lúc tha thẩn trong vườn, vắt vẻo trên cây, lúc chăn trâu, lúc chờ xe bus… Hay hình ảnh những công dân nước Nhật mỗi người một quyển sách trên tay lúc ngồi chờ tàu xe, xem hát, v.v… càng khiến chúng ta thêm yêu mến và khâm phục. Ngày nay, hình ảnh ấy đã bớt đi nhiều, thay vào đó là cái máy tính hay cái điện thoại di động. Song sách vẫn luôn cần thiết, không thể thiếu trong cuộc sống hiện nay… (Trích “Suy nghĩ về đọc sách” – Trần Hoàng Vy, Báo Giáo dục & Thời đại,13.4.2015) Câu 1. Xác định câu văn chứa chủ đề của đoạn trích trên. Cho biết chủ đề đoạn trích được triển khai theo hướng nào? Câu 2. Tác giả đã sử dụng thủ pháp nghệ thuật gì để triển khai, nối kết nội dung của hai đoạn văn (1) và (2)? Nêu tác dụng của thủ pháp nghệ thuật ấy. Câu 3. Tác giả đã sử dụng phương thức biểu đạt nào trong đoạn trích? Hãy giải thích vì sao tác giả lại cho rằng: “cuộc sống hiện nay dường như “cái đạo” đọc sách cũng dần phôi pha”? Câu 4: Từ nội dung của đoạn trích trên, hãy viết một đoạn văn dài khoảng 200 chữ, trình bày suy nghĩ của bản thân về những lợi ích của việc đọc sách. HƯỚNG DẪN CHẤM PHIẾU HỌC TẬP SỐ 1 Nhóm: Lớp: Trường: Bài học: Lập dàn ý cho bài văn nghị luận PHIẾU HỌC TẬP SỐ 2. Phiếu học tập số 1. – Nhóm 1: Luận điểm 1 (Sách là gì?), tìm các luận cứ để sáng tỏ luận điểm này? – Nhóm 2: Luận điểm 2 (Sách có tác dụng như thế nào?), tìm các luận cứ cho luận điểm này? – Nhóm 3: Luận điểm 3 (Thái độ đối với sách và việc đọc sách như thế nào?). PHIẾU HỌC TẬP SỐ 3. Nhóm 1: Lập dàn ý phần MB Nhóm 2: Tìm và sắp xếp luận cứ cho luận điểm 1: – Giải thích khái niệm “tài” và “đức” Nhóm 3: Lập dàn ý phần TB: Tìm và sắp xếp luận cứ cho luận điểm 2: Giải thích mối quan hệ của tài và đức. Nhóm 4: Lập dàn ý cho phần KB. PHIẾU HỌC TẬP SỐ 4. Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu bên dưới: Thơ văn không lưu truyền hết ở đời là vì nhiều lí do: Đối với thơ văn, cổ nhân ví như khoái chá, ví như gấm vóc; khoái chá là vị rất ngon trên đời, gấm vóc là mầu rất đẹp trên đời, phàm người có miệng, có mắt ai cũng quý trọng mà không vứt bỏ khinh thường. Đến như văn thơ, thì lại là sắc đẹp ngoài cả sắc đẹp, vị ngon ngoài cả vị ngon, không thể đem mắt tầm thường mà xem, miệng tầm thường mà nếm được. Chỉ thi nhân là có thể xem mà biết được sắc đẹp, ăn mà biết được vị ngon ấy thôi. Đấy là lí do thứ nhất làm cho thơ văn không lưu truyền hết ở trên đời. Nước ta từ nhà Lí, nhà Trần dựng nước đến nay, vẫn có tiếng là nước văn hiến,những bậc thi nhân, tài tử đều đem sở trườngcủa mình thổ lộ ra lời nói, lẽ nàokhông có người hay? Nhưng bậc danh nho làm quan to ở trong quán, các, hoặc vì bận việc không rỗi thì giờ để biên tập, còn viên quan nhàn tản chức thấp cùng những người phải lận đận về khoa trường, thì đều không để ý đến. Đấy là lí do thứ hai làm cho thơ văn không lưu truyền hết ở trên đời. Thỉnh thoảng, cũng có người thích thơ văn, nhưng lại ngại vì công việc nặng nề, tài lực kém cỏi, nên đều làm được nửa chừng rồi lại bỏ dở. Đấy là lí do thứ ba làm cho thơ văn không lưu truyền hết ở trên đời. Sách vở về đời Lí – Trần phần nhiều chỉ thấy công việc nhà chùa là được lưu hành, như thế đâu phải vì lòng tôn sùng Nho học không sâu sắc bằng tôn sùng Phật học, mà chỉ vì nhà chùa không ngăn cấm, cho nên sách được khắc vào ván để truyền mãi lại đời sau, còn như thơ văn, nếu chưa được lệnh vua, không dám khắc ván lưu hành. Đấy là lí do thứ tư làm cho thơvăn không lưu truyền hết ở trên đời. Vì bốn lí do kể trên bó buộc, trải qua mấy triều đại lâu dài, dẫu đến những vật bền như đá, như vàng, lại được quỷ thần phù hộ, cũng còn tan nát trôi chìm. Huống chi bản thảo sót lại, tờ giấy mỏng manh để trong cái níp cái hòm, trải qua mấy lần binh lửa, thì còn giữ mãi thế nào được mà không rách nát tan tành? (Tựa “Trích diễm thi tập” Hoàng Đức Lương, SGK Ngữ Văn 10, tập 2, NXB GD) Xác định câu chủ đề, luận điểm, luận cứ trong đoạn văn trên? Giáo án sưu tầm Trọn bộ giáo án ngữ văn theo chủ đề dạy học Giáo án ngữ văn 10 Giáo án ngữ văn 11
Instruct Prepare lesson plans according to the orientation of capacity development and develop teaching topics TOPIC: MAKING DISCUSSION WRITING Step 1: Identify the problem that needs to be solved in the lesson Practice some essay writing skills. Step 2: Build lesson topic content Includes lesson units: Prepare an outline for an argumentative essay; Argument in argumentative writing; Discussion operations; Practice writing argumentative paragraphs. Essay Không. 3; Present a problem. Step 3: Determine lesson objectives – Knowledge: outline of an argumentative essay, arguments in an argumentative essay, argumentative actions, argumentative paragraphs, presenting a problem. – Skills: Skills in making an outline, using argumentative tools, and writing argumentative paragraphs. Know how to apply knowledge about argumentative writing to read and understand argumentative texts. Write a complete argumentative essay. – Attitude: Having a scientific, clear and objective viewpoint and stance on social and literary issues. A straightforward, honest and cooperative attitude in dialogue and communication... Step 4: Identify and describe the level and requirements of each type of question/exercise that can be used to test and evaluate students' abilities and qualities in teaching. Step 5: Compile specific questions/exercises according to the required levels described. Question system for the article Outlining an Argumentative essay. Question system for the Argument essay in Essay writing Step 6: Design the teaching process CHECK Read the following excerpt and make the request: (1) Indeed, Nguyen Du, the nation's great poet, once wrote: "Books and books fill four walls/ No matter how many they are, they don't fit." Unfortunately, in today's life it seems that the "religion" of reading books is gradually fading away. Printed books in many places cannot be sold, many publishers close due to losses, especially books face fierce competition from audio-visual media such as television, iPad, Smart phones, and electronic book systems on the Internet. Internet. Many wealthy families replace bookcases with wine cabinets of all kinds. Large libraries of cities and provinces are only operating moderately, trying to maintain their existence. (2) Suddenly I remember when I was a child, with books hidden in my clothes, I could read books while waiting for my mother to come home, while cooking rice, lounging in the garden, hanging on trees, herding buffaloes, waiting for the bus... Or the image of Japanese citizens each with a book in hand while waiting for the train, watching a theater, etc... makes us love and admire them even more. Nowadays, that image is much less, replaced by a computer or a cell phone. But books are still necessary and indispensable in today's life... (Excerpt from "Thinking about reading" - Tran Hoang Vy, Education & Times Newspaper, April 13, 2015) Sentence 1. Identify the sentence containing the topic of the above excerpt. In which direction is the topic of the excerpt developed? Question 2. What artistic technique did the author use to develop and connect the content of two paragraphs (1) and (2)? State the effects of that artistic technique. Question 3. What method of expression did the author use in the excerpt? Please explain why the author thinks: "In today's life it seems that the "religion" of reading books is gradually fading away"? Question 4: From the content of the above excerpt, write a paragraph about 200 words long, presenting your thoughts about the benefits of reading books. MARKING INSTRUCTIONS STUDY SHEET NO. 1 Group: Class: School: Lesson: Create an outline for an argumentative essay STUDY SHEET NO. 2. Study sheet number 1. – Group 1: Argument 1 (What is a book?), find arguments to clarify this argument? – Group 2: Argument 2 (How effective are books?), find arguments for this argument? – Group 3: Argument 3 (What is the attitude towards books and reading?). STUDY SHEET NO. 3. Group 1: Make an outline for the MB section Group 2: Find and arrange arguments for thesis 1: – Explain the concepts of “talent” and “virtue” Group 3: Make an outline for section TB: Find and arrange arguments for thesis 2: Explain the relationship between talent and virtue. Group 4: Make an outline for the KB section. STUDY SHEET NO. 4. Read the following excerpt and fulfill the requirements below: Poetry is not passed down to life for many reasons: Regarding poetry, the ancients compared it to sweet soup and brocade; Sweet soup is the most delicious taste in the world, brocade is the most beautiful color in the world, everyone who has a mouth and eyes should cherish it without discarding it. When it comes to poetry, it is beauty beyond beauty, deliciousness beyond deliciousness, it cannot be seen with ordinary eyes, or tasted with ordinary mouths. Only poets can see and know the beauty, eat and know the delicious taste. That is the first reason why poetry is not completely passed down in the world. Our country, from the Ly and Tran dynasties until now, is still famous as a civilized country. Poets and actors have all expressed their strengths in words. Is it possible that there are no good people? But famous scholars who work as high-ranking mandarins in shops or restaurants, or are busy with work and have no time to edit, while leisurely low-ranking mandarins and those who have to work hard to return to the school, do not pay attention. That is the second reason why poetry is not completely passed down in the world. Occasionally, there are people who like poetry, but are afraid because the work is heavy and lack of resources, so they always finish it halfway and then give up. That is the third reason why poetry is not completely passed down in the world. Books about the Ly and Tran dynasties mostly only see temple work being circulated. This is not because the devotion to Confucianism is not as profound as the devotion to Buddhism, but only because the temples do not prohibit it, so Books were carved into boards to be passed down to future generations, but like poetry, unless ordered by the king, one did not dare to engrave them into circulation. That is the fourth reason why poetry is not completely passed down in the world. Because of the four reasons mentioned above, after several long dynasties, even durable objects like stone or gold, and blessed by ghosts and gods, still fall apart and sink. What's more, the remaining manuscript, the fragile piece of paper kept in a zip in a trunk, after going through several times of war and fire, how can it be kept forever without being torn to pieces? (Title "Excerpt from poetry collection" Hoang Duc Luong, Literature Textbook Grade 10, volume 2, Education Publishing House) Identify the topic sentence, thesis, and argument in the paragraph above? Collected lesson plans Complete set of literature lesson plans according to teaching topics Literature lesson plan 10 Literature lesson plan 11
Hướng dẫn Soạn giáo án theo chủ đề dạy học. Giáo án tích hợp liên môn Ngữ văn 10 Bài soạn: LÀM VĂN NGHỊ LUẬN Bước 1: Xác định vấn đề cần giải quyết trong bài học. Kĩ năng làm bài văn nghị luận. Bước 2: Xây dựng nội dung chủ đề bài học. Gồm các bài: Lập dàn ý bài văn nghị luận; Luyện tập viết đoạn văn nghị luận trong tổng số 04 bài về chủ đề văn nghị luận. Tích hợp các bài: Các thao tác nghị luận; Lập luận trong văn nghị luận, Trình bày một vấn đề. Bước 3: Xác định mục tiêu bài học. * Kiến thức: – Những đặc trưng cơ bản của văn nghị luận. – Cách thức lập dàn ý cho bài văn nghị luận. – Cách viết một đoạn văn nghị luận. * Kĩ năng: – Biết cách huy động kiến thức đã học về văn nghị luận để giải quyết vấn đề. – Biết cách lập được dàn ý cho bài văn nghị luận từ các thao tác cụ thể: tìm hiểu đề để xác định được vấn đề nghị luận; xây dựng được các luận điểm, luận cứ để làm rõ vấn đề nghị luận; triển khai các luận điểm, luận cứ thành một trình tự logic. – Biết cách sử dụng các thao tác lập luận, các phương thức biểu đạt, các biện pháp tu từ để viết đoạn văn nghị luận. * Thái độ: – Quan tâm đến các vấn đề của văn học và xã hội. – Có ý thức phát triển tư duy phản biệt và trình bày thuyết phục. – Có ý thức sử dụng ngôn từ trong viết văn bản. Bước 4: Xác định và mô tả mức độ yêu cầu của mỗi loại câu hỏi/ bài tập có thể sử dụng để kiểm tra, đánh giá năng lực và phẩm chất của học sinh trong dạy học. Bước 5: Biên soạn các câu hỏi/ bài tập cụ thể theo các mức độ yêu cầu đã mô tả Ngữ liệu mẫu: Đề 1-NLXH:“Người ta chỉ trở nên xấu xa trong con mắt ráo hoảnh của phường ích kỷ”( Nam Cao) Ý kiến của anh/chị về quan điểm trên. Đề 2-NLVH: Cảm nhận về nhân vật Ngô Tử Văn trong Chuyện chức phán sự đền Tản Viên của Nguyễn Dữ. Bài tập thực hành: Đề 1:“Nếu bạn yêu mình quá thì không có ai yêu bạn nữa” Ý kiến của anh/chị về quan điểm trên. Đề 2:Cảm nhận của anh/chị về bài thơ Cảnh ngày hè của Nguyễn Trãi. Bước 6: Thiết kế tiến trình dạy học. Giáo án sưu tầm Trọn bộ giáo án ngữ văn theo chủ đề dạy học Giáo án ngữ văn 10 Giáo án ngữ văn 11
Instruct Prepare lesson plans based on teaching topics. Interdisciplinary integrated lesson plan Literature 10 Essay: MAKING DISCUSSION WRITING Step 1: Identify the problem that needs to be solved in the lesson. Essay writing skills. Step 2: Build lesson topic content. Includes articles: Establishing an outline for an argumentative essay; Practice writing argumentative paragraphs in a total of 04 articles on the topic of argumentative essay. Integration of articles: Discussion operations; Argument in argumentative writing, Presenting an issue. Step 3: Determine lesson objectives. * Knowledge: – Basic characteristics of argumentative writing. – How to create an outline for an argumentative essay. – How to write an argumentative paragraph. * Skills: – Know how to mobilize knowledge learned about argumentative writing to solve problems. – Know how to create an outline for an argumentative essay from specific operations: research the topic to identify the argumentative problem; Build arguments and arguments to clarify discussion issues; Deploy arguments and arguments into a logical sequence. – Know how to use argumentative operations, expression methods, and rhetorical devices to write argumentative paragraphs. * Attitude: – Interested in literary and social issues. – Consciously develop critical thinking and persuasive presentations. – Be conscious of using language in writing. Step 4: Identify and describe the level of requirements for each type of question/exercise that can be used to test and evaluate students' abilities and qualities in teaching. Step 5: Compile specific questions/exercises according to the required levels described Sample corpus: Topic 1-NLXH: "People only become evil in the cruel eyes of selfish people" (Nam Cao) What is your opinion on the above point of view? Topic 2-NLVH: Feelings about the character Ngo Tu Van in The Story of the Judge of Tan Vien Temple by Nguyen Du. Practical exercise: Topic 1: "If you love yourself too much, no one will love you anymore" What is your opinion on the above point of view? Topic 2: Your feelings about the poem Summer Day Scene by Nguyen Trai. Step 6: Design the teaching process. Collected lesson plans Complete set of literature lesson plans according to teaching topics Literature lesson plan 10 Literature lesson plan 11
Hướng dẫn Xây dựng bài học theo chủ đề. Soạn giáo án theo định hướng phát triển năng lực học sinh: Soạn bài Truyện Kiều ( phần 1,tác giả),Soạn bài Trao duyên Ngữ văn 10 CHỦ ĐỀ TRUYỆN THƠ NÔM (Chương trình Ngữ văn 10) Mục Lục Từ kĩ năng đọc hiểu một số đoạn trích trong Truyện Kiều, hình thành kĩ năng đọc hiểu truyện thơ Nôm (bác học) Việt Nam. Chủ đề bao gồm 05 tiết (80, 81, 82, 83, 84), trong đó có văn bản Truyện Kiều (Phần tác giả) và các đoạn trích từ Truyện Kiều: Trao duyên, Chí khí anh hùng, Thề nguyền (Đọc thêm). Tích hợp các bài: Phong cách ngôn ngữ nghệ thuật, Thực hành các phép tu từ điệp, đối * Kiến thức – Những hiểu biết về truyện thơ Nôm Việt Nam: hoàn cảnh ra đời, phát triển, giá trị nội dung, nghệ thuật,… – Hiểu biết về đại thi hào dân tộc Nguyễn Du –.. * Kĩ năng – Kĩ năng tóm tắt truyện thơ, năng lực cảm thụ truyện thơ Nôm. – Đọc – hiểu Truyện Kiều đặc trưng thể loại: + Nhận diện và phân tích ý nghĩa của hình tượng thơ trong từng đoạn trích. + Nhận diện, phân tích tâm trạng, tình cảm của nhân vật trữ tình trong đoạn trích. + Nhận diện và phân tích các biện pháp nghệ thuật: Liệt kê, so sánh, ẩn dụ, hoán dụ,… qua các đoạn trích. + Đánh giá những sáng tạo độc đáo của Nguyễn Du. – Tạo lập văn bản nghị luận. – Củng cố kĩ năng thuyết minh về tác giả văn học. * Thái độ – Có ý thức sử dụng các thông tin về truyện thơ Nôm Việt Nam vào việc đọc hiểu tác phẩm văn học. – Yêu thích, say mê học Truyện Kiều. – Tự hào về nền văn học dân tộc, tự hào về Nguyễn Du và di sản văn học quý giá của ông, đặc biệt là Truyện Kiều. – Cảm nhận vẻ đẹp ngôn ngữ, nhận ra giá trị thẩm mỹ trong văn học, biết rung cảm và hướng thiện. – Có ý thức giữ gìn, góp phần phát triển các giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc hài hòa trong điều kiện hiện nay. * Năng lực chủ yếu cần hình thành – Tự học: huy động kiến thức (văn học, văn hóa, Nguyễn Du, Truyện Kiều, thực tiễn đời sống,…) – Cảm thụ thẩm mỹ – Hợp tác, giải quyết vấn đề – Tạo lập văn bản và thực hành Tiếng Việt Với bài Truyên Kiều (Phần tác giả) Với đoạn trích Trao duyên Tiết 1: Sơ lược về Truyện thơ Nôm Việt Nam và Truyện Kiều (phần tác giả) 1.1. Sơ lược truyện thơ Nôm GV trình chiếu một số bìa sách truyện thơ Nôm Kể tên các tác phẩm thơ dài, có cốt truyện viết bằng chữ Nôm mà em biết? Xác định giá trị nội dung chung của các tác phẩm trên? Xếp các tác phẩm đã tìm được theo 2 nhóm: Có tác giả và khuyết danh. Chỉ ra sự khác biệt của 2 nhóm này ngoài yếu tố người sáng tác (Ngôn ngữ, đề tài, nội dung) Thuyết minh về Nguyễn Du (đã giao bài trước) Tiết 2, 3. Đọc hiểu Trao duyên Tiết 4:Hướng dẫn đọc hiểu Chí khí anh hùng và đọc thêm Thề nguyền 4.1. Chí khí anh hùng: tập trung nội dung nghệ thuật xây dựng nhân vật người anh hùng lý tưởng (GV chuyển giao nhiệm vụ cho HS trước, theo gợi ý) Trước khi đọc 4.1.1. Xác định từ ngữ/hình ảnh/biện pháp nghệ thuật Nguyễn Du dùng để giới thiệu nhân vật Từ Hải? 4.1.2. Nhận xét ý nghĩa, giá trị của những hình ảnh đó? 4.1.3. Phân tích tác dụng của các biện pháp nghệ thuật trong việc khắc họa nhân vật? 4.1.4. Bút pháp nghệ thuật vừa phân tích trrên được gọi chung là bút pháp nghệ thuật gì/Thường được Nguyễn Du dùng miêu tả loại nhân vật nào? 4.1.5. Hãy nêu biểu hiện của Chí khí của người anh hùng Từ Hải trong đoạn trích?. 5.6. Hãy chọn và trình bày ngắn gọn suy nghĩ của em về một trong các biểu hiện đó? Theo em trong điều kiện xã hội hiện tại, biểu hiện đó của Từ Hải còn hợp lí không? Vì sao? (Chia nhóm). Trong khi đọc Giải quyết các câu hỏi Sau khi đọc Từ kết quả đọc hiểu trong khi đọc, mỗi Học sinh tự hoàn thiện câu hỏi 5.6 Vẽ tranh,… Chuyển thể đoạn trích 4.2. Thề nguyền Khát vọng tình yêu tự do qua đoạn trích. Tiết 6: Khái quát chủ đề và kiểm tra 6.1. Khái quát thông qua bài tập luyện tập (câu hỏi trắc nghiệm) Cách đọc hiểu truyện thơ Nôm (10p) 6.2. Kiểm tra (30p) Hãy tìm trong đoạn trích Thề nguyền những câu thơ thể hiện quan niệm tình yêu tiến bộ của Kiều thống nhất với đoạn trích Trao duyên. Phân tích để thấy bi kịch tình yêu của Thúy Kiều và tấm lòng nhân đạo sâu sắc của Nguyễn Du. 5 HOẠT ĐỘNG Tiết 2, 3: TRAO DUYÊN KẾT QUẢ CẦN ĐẠT Kiến thức – Bi kịch tình yêu, thân phận bất hạnh và sự hi sinh quên mình của Kiều vì hạnh phúc của ng­ười thân qua lời “trao duyên” đầy đau khổ. – Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật, sử dụng thành công lời độc thoại nội tâm. Kĩ năng Đọc – hiểu một đoạn trích Truyện Kiều theo đặc trưng Truyện thơ Nôm bác học. Thái độ – Hiểu, cảm thông với tâm trạng, bi kịch và trân trọng đức hi sinh quên mình của Thúy Kiều. – Trân trọng tài năng và tư tưởng nhân đạo cao cả của Nguyễn Du. – Có thái độ hành động phù hợp CHUẨN BỊ CỦA GIÁO VIÊN VÀ HỌC SINH – Đọc, nghiên cứu SGK, sách giáo viên và soạn bài. – Một số tranh ảnh minh họa (nếu có) – Bài giảng, máy chiếu. Soạn bài: Xem trước, xem kỹ hệ thống câu hỏi trong phần hướng dẫn học bài. TIẾN TRÌNH DẠY HỌC Giáo án sưu tầm Trọn bộ giáo án và chuyên đề dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh Giáo án ngữ văn 10 Giáo án ngữ văn 11
Instruct Build lessons by topic. Prepare lesson plans according to the orientation of developing student capacity: Prepare the lesson The Tale of Kieu (part 1, author), Prepare the lesson Giving Love Literature 10 THEME OF NOM POETRY STORY (Literature Program 10) Table of contents From the skill of reading and understanding some excerpts from The Tale of Kieu, the skill of reading and understanding Vietnamese Nom (scholarly) poetry is formed. The topic includes 05 sections (80, 81, 82, 83, 84), including the text of The Tale of Kieu (Author's part) and excerpts from The Tale of Kieu: Giving Love, Heroic Spirit, Vows (Read more). Integrating lessons: Artistic language style, Practicing antiphonal and antiphonal rhetoric * Knowledge – Understandings of Vietnamese Nom poetry stories: circumstances of birth, development, content value, art,... – Understanding about the great national poet Nguyen Du –.. * Skills – Skills to summarize poetic stories, ability to perceive Nom poetic stories. – Read and understand The Tale of Kieu with genre characteristics: + Identify and analyze the meaning of poetic images in each excerpt. + Identify and analyze the mood and feelings of the lyrical character in the excerpt. + Identify and analyze artistic devices: List, compare, metaphor, metonymy,... through excerpts. + Evaluate Nguyen Du's unique creations. – Create argumentative documents. – Strengthen explanatory skills about literary authors. * Attitude – Consciously use information about Vietnamese Nom poetry stories in reading and understanding literary works. – Loves and is passionate about studying The Tale of Kieu. – Proud of national literature, proud of Nguyen Du and his precious literary heritage, especially The Tale of Kieu. – Feel the beauty of language, recognize aesthetic value in literature, know how to feel good and be good. – Be conscious of preserving and contributing to the development of good traditional cultural values ​​of the nation in harmony with current conditions. * Key competencies need to be formed – Self-study: mobilize knowledge (literature, culture, Nguyen Du, Tale of Kieu, real life,...) – Aesthetic perception – Cooperate and solve problems – Create documents and practice Vietnamese With the article Truyen Kieu (Author's part) With the excerpt Giving grace Section 1: Overview of Vietnamese Nom Poetry Stories and Tales of Kieu (author's part) 1.1. Summary of Nom poetry The teacher displays some Nom poetry book covers Name the long poetic works with plots written in Nom that you know? Determine the value of the general content of the above works? Sort the found works into 2 groups: Authored and anonymous. Point out the differences between these two groups in addition to the creator factor (Language, topic, content) Explanation about Nguyen Du (previous assignment) Section 2, 3. Reading and understanding Giving grace Section 4: Instructions for reading and understanding the Hero's Spirit and reading more about the Oath 4.1. Heroic spirit: focus on artistic content to build an ideal hero character (teacher transfers tasks to students first, according to suggestions) Before reading 4.1.1. Identify the words/images/artistic measures Nguyen Du used to introduce the character Tu Hai? 4.1.2. Comment on the meaning and value of those images? 4.1.3. Analyze the effects of artistic methods in portraying characters? 4.1.4. The artistic style just analyzed above is generally called what artistic style/What type of character is Nguyen Du often used to describe? 4.1.5. Please state the expression of the hero Tu Hai's spirit in the excerpt?. 5.6. Please choose and briefly present your thoughts about one of those expressions? In your opinion, in the current social conditions, is Tu Hai's expression still reasonable? Why? (Divide into groups). While reading Solve questions After reading From the results of reading comprehension while reading, each student completes question 5.6 Draw a picture,… Adapted excerpt 4.2. Swear Desire for free love through excerpts. Section 6: Overview of the topic and testing 6.1. Overview through practice exercises (multiple choice questions) How to read and understand Nom poetry (10 minutes) 6.2. Test (30 minutes) Find in the excerpt "The Vow" the verses that express Kieu's progressive concept of love consistent with the excerpt "Giving Love". Analyze to see the love tragedy of Thuy Kieu and the profound humanity of Nguyen Du. 5 ACTIVITIES Lessons 2, 3: GIVING FATE NEEDED RESULTS Knowledge – Kieu's tragic love, unfortunate fate and selfless sacrifice for the happiness of her loved ones through a painful "exchange of love". – The art of describing character psychology, successfully using inner monologue. Skills Read - understand an excerpt from the Tale of Kieu according to the characteristics of scholarly Nom poems. Attitude – Understand, sympathize with Thuy Kieu's mood, tragedy and appreciate her selfless sacrifice. – Appreciate Nguyen Du's talent and noble humanitarian ideology. – Have appropriate action attitude PREPARATION OF TEACHERS AND STUDENTS – Read, study textbooks, teacher books and prepare lessons. – Some illustrations (if any) – Lectures, projectors. Prepare lessons: Preview and carefully review the question system in the study guide. TEACHING PROCESS Collected lesson plans Complete set of lesson plans and teaching topics oriented to develop student capacity Literature lesson plan 10 Literature lesson plan 11
Hướng dẫn Giáo án soạn theo định hướng phát triển năng lực, 4 bước, 5 hoạt động. Soạn bài Hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ theo phương pháp mới. Bộ giáo án Ngữ văn 10 chuẩn cấu trúc Tiết 3: Tiếng Việt HOẠT ĐỘNG GIAO TIẾP BẰNG NGÔN NGỮ Mục tiêu bài học – Nắm được những kiến thức cơ bản về hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ: Bản chất;Hai quá trình: tạo lập văn bản và lĩnh hội văn bản; Các nhân tố: nhân vật, hoàn cảnh, nội dung, mục đích, phương tiện và cách thức giao tiếp. – Xác định đúng các nhân tố trong hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ. – Nâng cao năng lực giao tiếp bằng ngôn ngữ: nghe, nói, đọc, viết. Có thái độ và hành vi phù hợp trong hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ. => Từ kiến thức, kĩ năng, thái độ như trên sẽ góp phần hình thành cho học sinh những năng lực, phẩm chất sau: + Năng lực: Hợp tác, giải quyết vấn đề, giao tiếp, sử dụng ngôn ngữ để tạo lập văn bản. + Phẩm chất: Có tính tự lập, tự chủ biết làm chủ cảm xúc, cách ứng xử với mọi người xung quanh. Phương tiện thực hiện – SGK Ngữ văn 10, tập 1, giáo án.. – SGK Ngữ văn 10, tập 1. – Bài soạn văn Hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ. Phương pháp, kĩ thuật dạy học – Nêu vấn đề, đặt câu hỏi, thảo luận nhóm, tích hợp kiến thức văn học với kiến thức Tiếng Việt. – Kĩ thuật đặt câu hỏi, khăn trải bàn, đọc hợp tác.. Tiến trình thực hiện – Nhắc HS trật tự. – Kiểm tra sĩ số: (Tài liệu sưu tầm ) Giáo án ngữ văn 11
Instruct The lesson plan is prepared according to the orientation of capacity development, with 4 steps and 5 activities. Lesson preparation Language communication activities using new methods. Literature lesson plan set for grade 10 with structural standards Lesson 3: Vietnamese LANGUAGE COMMUNICATION ACTIVITIES Lesson objectives – Grasp basic knowledge about language communication activities: Nature; Two processes: creating text and comprehending text; Factors: characters, circumstances, content, purpose, means and method of communication. – Correctly identify factors in language communication activities. – Improve language communication skills: listening, speaking, reading, writing. Have appropriate attitudes and behaviors in language communication activities. => From the above knowledge, skills, and attitudes, it will contribute to forming the following competencies and qualities for students: + Competencies: Collaborate, solve problems, communicate, use language to create documents. + Qualities: Being independent, self-controlled and able to control emotions and how to deal with people around. Means of implementation – Literature textbook grade 10, volume 1, lesson plan.. – Literature textbook grade 10, volume 1. – Essay preparation Language communication activities. Teaching methods and techniques – Raise problems, ask questions, discuss in groups, integrate literary knowledge with Vietnamese knowledge. – Questioning techniques, tablecloths, collaborative reading.. Progress – Remind students to be orderly. – Check numbers: (Collected documents) Literature lesson plan 11
Hướng dẫn Xây dựng chủ đề dạy học môn Ngữ văn. Soạn giáo án bài Ca Dao Ngữ văn lớp 10 theo định hướng phát triển năng lực. Giáo án đổi mới phương pháp dạy học, thiết kế bài học theo tiến trình hoạt động của học sinh. CHỦ ĐỀ: CA DAO Môn: Ngữ văn 10 BƯỚC 1: Xác định vấn đề cần giải quyết trong bài học Đọc hiểu văn bản thơ ca dân gian. BƯỚC 2: Xây dựng nội dung chủ đề dạy học Gồm: các vấn đề: – Ca dao than thân, yêu thương tình nghĩa. – Ca dao hài hước. BƯỚC 3: Xác định mục tiêu bài học BƯỚC 4: Xác định và mô tả mức độ yêu cầu của mỗi loại câu hỏi/ bài tập cốt lõi có thể sử dụng để kiểm tra, đánh giá năng lực và phẩm chất của học sinh trong dạy học. BƯỚC 5: Biên soạn các câu hỏi / bài tập cụ thể theo các mức độ yêu cầu đã mô tả. Chùm ca dao than thân yêu thương tình nghĩa.( Dạy bài 1, 4) Chùm ca dao hài hước BƯỚC 6: Thiết kế tiến trình dạy học – Xác định các văn bản được dùng dạy học đọc hiểu văn bản theo đặc trưng thể loại và vấn đề trọng tâm cần đọc hiểu ở mỗi văn bản: + Bài 1: Chùm ca dao than thân yêu thương tình nghĩa: Tập trung tìm hiểu ngôn ngữ thơ và tiếng hát than thân. + Bài 4: Chùm ca dao than thân yêu thương tình nghĩa: tập trung tìm hiểu thể thơ, ngôn ngữ thơ và tiếng hát yêu thương tình nghĩa của người dân lao động trong xã hội xưa. + Bài 1: Chùm ca dao hài hước: tập trung tìm hiểu kết cấu và vẻ đẹp tâm hồn của người lao động. + Bài 2: Chùm ca dao hài hước: tập trung tìm hiểu ngôn ngữ và vẻ đẹp tâm hồn của người lao động. – Xác định các văn bản được dùng để học sinh luyện tập/ tự học. Các bài 2,3,5, 6 trong chùm ca dao than thân yêu thương yêu thương tình nghĩa; các bài ca dao 3,4 chùm ca dao hài hước. Dự kiến trả lời: “ Thân em như hạt mưa sa…” “ Thân em như chổi đầu hè…” “Làm trai cho đáng nên trai Một trăm đám cỗ chẳng sai đám nào” “Chồng người bể Sở sông Ngô Chồng em ngồi bếp rang ngô cháy quần”… Dự kiến câu trả lời: – Câu 1,4,5à Ca dao. – Câu 2,3,6à Tục ngữ. Vì: Ca dao thiên về cảm xúc nói lên nỗi lòng của con người. Tục ngữ thiên về lý trí, trí tuệ đúc kết kinh nghiệm trong cuộc sống. Giáo án sưu tầm.
Instruct Develop topics for teaching Literature. Prepare lesson plans for Grade 10 Literature and Songs based on capacity development orientation. Lesson plans innovate teaching methods and design lessons according to students' progress. TOPIC: SONG Subject: Literature 10 STEP 1: Identify the problem that needs to be solved in the lesson Read and understand folk poetry texts. STEP 2: Develop teaching topic content Includes: issues: – Folk songs about self-pity, love and gratitude. – Humorous folk songs. STEP 3: Determine lesson objectives STEP 4: Identify and describe the level of requirements for each type of core question/exercise that can be used to test and evaluate students' abilities and qualities in teaching. STEP 5: Compile specific questions/exercises according to the required levels described. A bunch of folk songs about love and gratitude. (Teach lessons 1, 4) A series of humorous folk songs STEP 6: Design the teaching process – Identify texts used to teach reading comprehension according to genre characteristics and key reading comprehension issues in each text: + Lesson 1: A series of folk songs about lamenting love and gratitude: Focus on understanding the language of poetry and the singing of mourning. + Lesson 4: A series of folk songs about love and gratitude: focuses on understanding poetic form, poetic language and the love and gratitude singing of working people in ancient society. + Lesson 1: A series of humorous folk songs: focuses on understanding the structure and beauty of the workers' souls. + Lesson 2: A series of humorous folk songs: focusing on understanding the language and beauty of the soul of workers. – Identify texts used for students to practice/self-study. Songs 2, 3, 5, 6 in the series of folk songs about love, love, and gratitude; folk songs 3 or 4 humorous folk songs. Expected answer: “My body is like falling raindrops…” “My body is like a broom in early summer…” "Younger son should do for good One hundred feasts won't go wrong." “The husband is from the So Ngo river My husband sits in the kitchen, roasting corn and his pants burn"... Expected answer: – Verses 1,4,5a Folk songs. – Verses 2,3,6à Proverbs. Because: Folk songs are more about emotions that express people's feelings. Proverbs favor reason and wisdom, summarizing life's experiences. Collected lesson plans.
Hướng dẫn XÂY DỰNG BÀI HỌC MINH HỌA THEO ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC BÀI: THUẬT HOÀI Bước 1: xác định vấn đề cần giải quyết trong bài học Kĩ năng đọc hiểu một bài thơ trung đại của Việt Nam. Bước 2: xây dựng nội dung chủ đề bài học Văn bản thơ: Thuật hoài – Phạm Ngũ Lão. Bước 3: xác định mục tiêu bài học *Kiến thức: + Những đặc sắc về nội dung và nghệ thuật của bài thơ. + Đặc điểm cơ bản của thơ trữ tình trung đại Việt Nam. * Kĩ năng: + Huy động những tri thức về tác giả, hoàn cảnh sáng tác của tác phẩm, ngôn ngữ … để đọc hiểu văn bản. – Đọc hiểu văn bản theo đặc trưng thể loại: Nhận diện thể thơ và giải thích ý nghĩa của việc sử dụng thể thơ. + Nhận diện đề tài, chủ đề, cảm hứng chủ đạo của bài thơ. + Nhận diện và phân tích ý nghĩa của hình tượng thơ. + Nhận diện và phân tích tâm trạng, tình cảm của nhân vật trữ tình trong bài thơ. + Nhận diện, phân tích và đánh giá những nét đặc sắc về nghệ thuật của bài thơ trong chủ đề (hình ảnh, chi tiết, biện pháp tu từ, vần, nhịp…). – Đọc diễn cảm, đọc sáng tạo những câu thơ hay. – Khái quát những đặc điểm của thơ trung đại qua bài đọc. – Vận dụng những kiến thức và kĩ năng đã học để đọc những bài thơ trung đại khác của Việt Nam; nêu lên những kiến giải, suy nghĩ về các phương diện nội dung, nghệ thuật của các bài thơ; viết đoạn văn hoặc bài văn nghị luận về những bài thơ; rút ra những bài học về lí tưởng sống, cách sống từ những bài thơ đã đọc và liên hệ, vận dụng vào thực tiễn cuộc sống của bản thân. * Thái độ: – Yêu con người, yêu Tổ quốc. – Có ý thức xác định lẽ sống, lí tưởng sống cao đẹp. – Có ý thức trách nhiệm đối với đất nước trong hoàn cảnh hiện tại. * Định hướng góp phần hình thành các năng lực – Năng lực giao tiếp (nghe, nói, đọc, viết) – Năng lực thẩm mĩ (cảm thụ và sáng tạo) – Năng lực hợp tác – Năng lực tự học… Bước 4: xác định và mô tả mức độ yêu cầu của mỗi loại câu hỏi/bài tập cốt lõi có thể sử dụng để kiểm tra, đánh giá năng lực và phẩm chất của học sinh trong dạy học Bước 5: biên soạn các câu hỏi/bài tập cụ thể theo các mức độ yêu cầu đã mô tả: Bước 6: Thiết kế tiến trình dạy học: Xác định các văn bản được dùng dạy học đọc hiểu văn bản theo đặc trưng thể loại và vấn đề trọng tâm cần đọc hiểu văn bản: + Bài Tỏ lòng (Phạm Ngũ Lão): tập trung tìm hiểu thể thơ và cấu trúc. Hoạt động 1. Khởi động GV cho học sinh theo dõi một số bức tranh về thời đại nhà Trần, về Hưng Đạo Vương và yêu cầu trả lời các câu hỏi sau: – Bức tranh gợi cho anh/chị nhớ đến giai đoạn lịch sử nào của nước ta? – Những hiểu biết và cảm nhận của anh/chị về không khí thời đại ấy? + Cách thực hiện: HS làm việc cá nhân, trả lời câu hỏi trong khoảng 5 phút. Sau đó GV định hướng: Từ thời đại nhà Trần mang hào khí Đông A dẫn đến tác giả Phạm Ngũ Lão và tác phẩm Thuật hoài Hoạt động 2. Hình thành kiến thức (1) Hướng dẫn học sinh đọc hiểu văn bản “Tỏ lòng” (“Thuật hoài” – Phạm Ngũ Lão) * Trước khi đọc GV yêu cầu HS làm việc cá nhân, trả lời các câu hỏi sau: – Nêu những nét chính về tác giả Phạm Ngũ Lão. – Bài thơ được viết trong hoàn cảnh nào? – Em hiểu thế nào là “hào khí Đông A”? * Trong khi đọc – Nhan đề của bài thơ là gì? Giải thích ý nghĩa của nhan đề đó. – Bài thơ được viết bằng ngôn ngữ nào? Việc sử dụng ngôn ngữ đó có tác dụng gì? – Đọc phiên âm chữ Hán để xác định thể thơ. Dựa vào phiên âm chữ Hán, chỉ ra những đặc điểm về bố cục, vần, nhịp, niêm, đối… của thể thơ trong bài thơ. Em thấy việc sử dụng thể thơ đó có hợp lí không? Vì sao? – Nhân vật trữ tình trong bài thơ là ai? Những từ ngữ nào trong bài thơ giúp em xác định được nhân vật trữ tình? Cảm hứng chủ đạo của nhân vật trữ tình trong bài thơ là gì? – Câu thơ đầu mở ra hình ảnh nào? Hình ảnh ấy hiện lên như thế nào? Em ấn tượng với từ ngữ nào trong câu thơ này? Hãy cắt nghĩa, lí giải từ ngữ ấy. Nhan đề bài thơ là Tỏ lòng, vậy câu khai đã hướng đến, mở ra nhan đề bài thơ như thế nào? – Biện pháp tu từ nào được sử dụng trong câu thơ thứ hai? Biện pháp đó dùng để thể hiện hình tượng nào? – Nêu tác dụng của biện pháp tu từ đó và nêu cách hiểu của em về nội dung của câu thứ hai. Nguyên nhân nào thôi thúc người tráng sĩ thời Trần có được vẻ đẹp hiên ngang (ở câu 1), quân đội nhà Trần có được sức mạnh vô địch ấy (ở câu 2)? Nhận xét mối quan hệ nội dung giữa câu khai và câu thừa? – Câu thơ thứ ba gợi nhắc đến những câu da cao, câu thơ nào? “Thân nam nhi” ở đây là ai? Em hiểu “chưa trả xong nợ công danh” ở đây là gì? Câu thơ cho thấy tác giả tự ý thức về mình như thế nào? Em đánh giá như thế nào về sự tự ý thức đó của tác giả? – Câu thơ cuối bài có nét đặc sắc nghệ thuật nào? Phạm Ngũ Lão thẹn với ai? Vì sao Phạm Ngũ Lão thẹn với Vũ Hầu? Cái thẹn ấy có ý nghĩa như thế nào? – Phạm Ngũ Lão là người như thế nào? Người xưa nói “thi dĩ ngôn chí” – điều đó được thể hiện như thế nào trong tác phẩm? – Tư tưởng của nhà thơ được thể hiện rõ nhất trong câu/cặp câu thơ nào? Lí giải tư tưởng của nhà thơ trong câu/cặp câu thơ đó? Em có nhận xét gì về tư tưởng của tác giả được thể hiện trong bài thơ? * Sau khi đọc – Hãy đọc diễn cảm bài thơ. – Bài thơ giúp em hiểu thêm gì về tác giả? – Nếu ở vào hoàn cảnh tương tự của tác giả, em sẽ làm gì? – Tại sao là thơ tỏ chí, nói chí, tỏ lòng nhưng “Tỏ lòng” của Phạm Ngũ Lão không hề khô khan, cứng nhắc? – Tại sao nói “Thuật hoài” là chân dung tinh thần của tác giả đồng thời cũng là chân dung tinh thần của thời đại nhà Trần, rực ngời hào khí Đông A? Hoạt động 3: Luyện tập HS làm việc cá nhân, thực hành viết đoạn văn khoảng 5 dòng thể hiện cảm nhận vẻ đẹp nhân cách của tác giả Hoạt động 4: Vận dụng và mở rộng (HS thực hành ở nhà) Tìm hiểu một số văn bản thơ Chí làm trai – Nguyễn Công Trứ, Cảm hoài – Đặng Dung và viết đoạn văn bản khoảng 15 dòng trình bày suy nghĩ của anh/chị về lí tưởng sống của các bậc nam tử thời phong kiến. Từ đó liên hệ với thế hệ trẻ hiện nay. * Giáo án minh họa: Tiết …, Đọc hiểu văn bản: TỎ LÒNG – Phạm Ngũ Lão – (Ngữ văn 10, kì 1, 1 tiết) KẾT QUẢ CẦN ĐẠT/ MỤC TIÊU Sau bài học, HS đạt được: Kiến thức – Nhận diện được bố cục của văn bản Thuật hoài – Vẻ đẹp con người thời Trần với tầm vóc, khí thế, lý tưởng cao cả, vẻ đẹp của thời đại với khí thế hào hùng, tinh thần quyết chiến quyết thắng – Hình ảnh kì vĩ ; ngôn ngữ hàm súc, giàu tính biểu cảm Kĩ năng: – Rèn luyện kĩ năng đọc – hiểu một bài thơ Đường luật. III.Thái độ (giá trị): – Bồi dưỡng tình yêu con người, đất nước – Bồi dưỡng nhân cách sống có lí tưởng, có ý chí, quyết tâm thực hiện lí tưởng. Định hướng hình thành năng lực: – Năng lực giao tiếp: nghe, nói, đọc, viết. – Năng lực đọc – hiểu nội dung cơ bản và Đọc – hiểu cảm thụ văn học. – Năng lực thẩm mĩ – Năng lực hợp tác – Năng lực tự học…. CHUẨN BỊ CỦA GIÁO VIÊN VÀ HỌC SINH Chuẩn bị của giáo viên – Giáo án, thiết kế bài học – Thiết bị dạy học: Máy chiếu, bảng, phấn – Học liệu: Bài tập tình huống. Chuẩn bị của học sinh – Đọc trước văn bản và trả lời câu hỏi trong phần hướng dẫn học bài. – Tìm hiểu thông tin về tác giả Phạm Ngũ Lão – Sưu tầm tranh ảnh, tư liệu,… TIẾN TRÌNH DẠY HỌC Ổn định lớp Kiểm tra bài cũ (Không) Tiến trình bài học 3.Hướng dẫn HS tổng kết văn bản (1) Mục tiêu: – HS tổng kết nội dung và nghệ thuật của tác phẩm (2) Phương pháp/Kĩ thuật: Thảo luận, vấn đáp, thuyết trình. (3) Hình thức tổ chức hoạt động: Trong lớp. (4) Phương tiện dạy học: bảng phụ, SGK…. Bước 1. Giao nhiệm vụ GV:– Hướng dẫn HS tổng kết nội dung bài học. HS làm việc cá nhân, trả lời các câu hỏi: – Tại sao nói “Thuật hoài” là chân dung tinh thần của tác giả đồng thời cũng là chân dung tinh thần của thời đại nhà Trần, rực ngời hào khí Đông A? – Nêu những nét đặc sắc về nghệ thuật của tác phẩm? HS: – HS xem lại bài học Bước 2.Thực hiện nhiệm vụ HS: suy nghĩ và làm việc cá nhân GV: Trình chiếu câu hỏi trên các Slide. Bước 3.Thảo luận, trao đổi, báo cáo GV :- Lắng nghe câu trả lời. Ghi câu trả lời của HS lên bảng phụ. – Nhận xét, giảng bổ sung. HS: trình bày. Bước 4.Phương án KTĐG: Nêu nội dung và đặc sắc nghệ thuật của tác phẩm? III. Hoạt động 3: Luyện tập HS làm việc cá nhân, thực hành viết đoạn văn khoảng 5 dòng thể hiện cảm nhận vẻ đẹp nhân cách của tác giả Sau khi HS trả lời, GV chốt lại những kiến thức cơ bản, nhận xét về năng lực tạo lập văn bản của HS… – Về nội dung: – Về phương pháp: – Về phương tiện: – Về thời gian:
Hướng dẫn XÂY DỰNG BÀI HỌC MINH HỌA THEO ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC BÀI: THUẬT HOÀI Bước 1: xác định vấn đề cần giải quyết trong bài học Kĩ năng đọc hiểu một bài thơ trung đại của Việt Nam. Bước 2: xây dựng nội dung chủ đề bài học Văn bản thơ: Thuật hoài – Phạm Ngũ Lão. Bước 3: xác định mục tiêu bài học *Kiến thức: + Những đặc sắc về nội dung và nghệ thuật của bài thơ. + Đặc điểm cơ bản của thơ trữ tình trung đại Việt Nam. * Kĩ năng: + Huy động những tri thức về tác giả, hoàn cảnh sáng tác của tác phẩm, ngôn ngữ … để đọc hiểu văn bản. – Đọc hiểu văn bản theo đặc trưng thể loại: Nhận diện thể thơ và giải thích ý nghĩa của việc sử dụng thể thơ. + Nhận diện đề tài, chủ đề, cảm hứng chủ đạo của bài thơ. + Nhận diện và phân tích ý nghĩa của hình tượng thơ. + Nhận diện và phân tích tâm trạng, tình cảm của nhân vật trữ tình trong bài thơ. + Nhận diện, phân tích và đánh giá những nét đặc sắc về nghệ thuật của bài thơ trong chủ đề (hình ảnh, chi tiết, biện pháp tu từ, vần, nhịp…). – Đọc diễn cảm, đọc sáng tạo những câu thơ hay. – Khái quát những đặc điểm của thơ trung đại qua bài đọc. – Vận dụng những kiến thức và kĩ năng đã học để đọc những bài thơ trung đại khác của Việt Nam; nêu lên những kiến giải, suy nghĩ về các phương diện nội dung, nghệ thuật của các bài thơ; viết đoạn văn hoặc bài văn nghị luận về những bài thơ; rút ra những bài học về lí tưởng sống, cách sống từ những bài thơ đã đọc và liên hệ, vận dụng vào thực tiễn cuộc sống của bản thân. * Thái độ: – Yêu con người, yêu Tổ quốc. – Có ý thức xác định lẽ sống, lí tưởng sống cao đẹp. – Có ý thức trách nhiệm đối với đất nước trong hoàn cảnh hiện tại. * Định hướng góp phần hình thành các năng lực – Năng lực giao tiếp (nghe, nói, đọc, viết) – Năng lực thẩm mĩ (cảm thụ và sáng tạo) – Năng lực hợp tác – Năng lực tự học… Bước 4: xác định và mô tả mức độ yêu cầu của mỗi loại câu hỏi/bài tập cốt lõi có thể sử dụng để kiểm tra, đánh giá năng lực và phẩm chất của học sinh trong dạy học Bước 5: biên soạn các câu hỏi/bài tập cụ thể theo các mức độ yêu cầu đã mô tả: Bước 6: Thiết kế tiến trình dạy học: Xác định các văn bản được dùng dạy học đọc hiểu văn bản theo đặc trưng thể loại và vấn đề trọng tâm cần đọc hiểu văn bản: + Bài Tỏ lòng (Phạm Ngũ Lão): tập trung tìm hiểu thể thơ và cấu trúc. Hoạt động 1. Khởi động GV cho học sinh theo dõi một số bức tranh về thời đại nhà Trần, về Hưng Đạo Vương và yêu cầu trả lời các câu hỏi sau: – Bức tranh gợi cho anh/chị nhớ đến giai đoạn lịch sử nào của nước ta? – Những hiểu biết và cảm nhận của anh/chị về không khí thời đại ấy? + Cách thực hiện: HS làm việc cá nhân, trả lời câu hỏi trong khoảng 5 phút. Sau đó GV định hướng: Từ thời đại nhà Trần mang hào khí Đông A dẫn đến tác giả Phạm Ngũ Lão và tác phẩm Thuật hoài Hoạt động 2. Hình thành kiến thức (1) Hướng dẫn học sinh đọc hiểu văn bản “Tỏ lòng” (“Thuật hoài” – Phạm Ngũ Lão) * Trước khi đọc GV yêu cầu HS làm việc cá nhân, trả lời các câu hỏi sau: – Nêu những nét chính về tác giả Phạm Ngũ Lão. – Bài thơ được viết trong hoàn cảnh nào? – Em hiểu thế nào là “hào khí Đông A”? * Trong khi đọc – Nhan đề của bài thơ là gì? Giải thích ý nghĩa của nhan đề đó. – Bài thơ được viết bằng ngôn ngữ nào? Việc sử dụng ngôn ngữ đó có tác dụng gì? – Đọc phiên âm chữ Hán để xác định thể thơ. Dựa vào phiên âm chữ Hán, chỉ ra những đặc điểm về bố cục, vần, nhịp, niêm, đối… của thể thơ trong bài thơ. Em thấy việc sử dụng thể thơ đó có hợp lí không? Vì sao? – Nhân vật trữ tình trong bài thơ là ai? Những từ ngữ nào trong bài thơ giúp em xác định được nhân vật trữ tình? Cảm hứng chủ đạo của nhân vật trữ tình trong bài thơ là gì? – Câu thơ đầu mở ra hình ảnh nào? Hình ảnh ấy hiện lên như thế nào? Em ấn tượng với từ ngữ nào trong câu thơ này? Hãy cắt nghĩa, lí giải từ ngữ ấy. Nhan đề bài thơ là Tỏ lòng, vậy câu khai đã hướng đến, mở ra nhan đề bài thơ như thế nào? – Biện pháp tu từ nào được sử dụng trong câu thơ thứ hai? Biện pháp đó dùng để thể hiện hình tượng nào? – Nêu tác dụng của biện pháp tu từ đó và nêu cách hiểu của em về nội dung của câu thứ hai. Nguyên nhân nào thôi thúc người tráng sĩ thời Trần có được vẻ đẹp hiên ngang (ở câu 1), quân đội nhà Trần có được sức mạnh vô địch ấy (ở câu 2)? Nhận xét mối quan hệ nội dung giữa câu khai và câu thừa? – Câu thơ thứ ba gợi nhắc đến những câu da cao, câu thơ nào? “Thân nam nhi” ở đây là ai? Em hiểu “chưa trả xong nợ công danh” ở đây là gì? Câu thơ cho thấy tác giả tự ý thức về mình như thế nào? Em đánh giá như thế nào về sự tự ý thức đó của tác giả? – Câu thơ cuối bài có nét đặc sắc nghệ thuật nào? Phạm Ngũ Lão thẹn với ai? Vì sao Phạm Ngũ Lão thẹn với Vũ Hầu? Cái thẹn ấy có ý nghĩa như thế nào? – Phạm Ngũ Lão là người như thế nào? Người xưa nói “thi dĩ ngôn chí” – điều đó được thể hiện như thế nào trong tác phẩm? – Tư tưởng của nhà thơ được thể hiện rõ nhất trong câu/cặp câu thơ nào? Lí giải tư tưởng của nhà thơ trong câu/cặp câu thơ đó? Em có nhận xét gì về tư tưởng của tác giả được thể hiện trong bài thơ? * Sau khi đọc – Hãy đọc diễn cảm bài thơ. – Bài thơ giúp em hiểu thêm gì về tác giả? – Nếu ở vào hoàn cảnh tương tự của tác giả, em sẽ làm gì? – Tại sao là thơ tỏ chí, nói chí, tỏ lòng nhưng “Tỏ lòng” của Phạm Ngũ Lão không hề khô khan, cứng nhắc? – Tại sao nói “Thuật hoài” là chân dung tinh thần của tác giả đồng thời cũng là chân dung tinh thần của thời đại nhà Trần, rực ngời hào khí Đông A? Hoạt động 3: Luyện tập HS làm việc cá nhân, thực hành viết đoạn văn khoảng 5 dòng thể hiện cảm nhận vẻ đẹp nhân cách của tác giả Hoạt động 4: Vận dụng và mở rộng (HS thực hành ở nhà) Tìm hiểu một số văn bản thơ Chí làm trai – Nguyễn Công Trứ, Cảm hoài – Đặng Dung và viết đoạn văn bản khoảng 15 dòng trình bày suy nghĩ của anh/chị về lí tưởng sống của các bậc nam tử thời phong kiến. Từ đó liên hệ với thế hệ trẻ hiện nay. * Giáo án minh họa: Tiết …, Đọc hiểu văn bản: TỎ LÒNG – Phạm Ngũ Lão – (Ngữ văn 10, kì 1, 1 tiết) KẾT QUẢ CẦN ĐẠT/ MỤC TIÊU Sau bài học, HS đạt được: Kiến thức – Nhận diện được bố cục của văn bản Thuật hoài – Vẻ đẹp con người thời Trần với tầm vóc, khí thế, lý tưởng cao cả, vẻ đẹp của thời đại với khí thế hào hùng, tinh thần quyết chiến quyết thắng – Hình ảnh kì vĩ ; ngôn ngữ hàm súc, giàu tính biểu cảm Kĩ năng: – Rèn luyện kĩ năng đọc – hiểu một bài thơ Đường luật. III.Thái độ (giá trị): – Bồi dưỡng tình yêu con người, đất nước – Bồi dưỡng nhân cách sống có lí tưởng, có ý chí, quyết tâm thực hiện lí tưởng. Định hướng hình thành năng lực: – Năng lực giao tiếp: nghe, nói, đọc, viết. – Năng lực đọc – hiểu nội dung cơ bản và Đọc – hiểu cảm thụ văn học. – Năng lực thẩm mĩ – Năng lực hợp tác – Năng lực tự học…. CHUẨN BỊ CỦA GIÁO VIÊN VÀ HỌC SINH Chuẩn bị của giáo viên – Giáo án, thiết kế bài học – Thiết bị dạy học: Máy chiếu, bảng, phấn – Học liệu: Bài tập tình huống. Chuẩn bị của học sinh – Đọc trước văn bản và trả lời câu hỏi trong phần hướng dẫn học bài. – Tìm hiểu thông tin về tác giả Phạm Ngũ Lão – Sưu tầm tranh ảnh, tư liệu,… TIẾN TRÌNH DẠY HỌC Ổn định lớp Kiểm tra bài cũ (Không) Tiến trình bài học 3.Hướng dẫn HS tổng kết văn bản (1) Mục tiêu: – HS tổng kết nội dung và nghệ thuật của tác phẩm (2) Phương pháp/Kĩ thuật: Thảo luận, vấn đáp, thuyết trình. (3) Hình thức tổ chức hoạt động: Trong lớp. (4) Phương tiện dạy học: bảng phụ, SGK…. Bước 1. Giao nhiệm vụ GV:– Hướng dẫn HS tổng kết nội dung bài học. HS làm việc cá nhân, trả lời các câu hỏi: – Tại sao nói “Thuật hoài” là chân dung tinh thần của tác giả đồng thời cũng là chân dung tinh thần của thời đại nhà Trần, rực ngời hào khí Đông A? – Nêu những nét đặc sắc về nghệ thuật của tác phẩm? HS: – HS xem lại bài học Bước 2.Thực hiện nhiệm vụ HS: suy nghĩ và làm việc cá nhân GV: Trình chiếu câu hỏi trên các Slide. Bước 3.Thảo luận, trao đổi, báo cáo GV :- Lắng nghe câu trả lời. Ghi câu trả lời của HS lên bảng phụ. – Nhận xét, giảng bổ sung. HS: trình bày. Bước 4.Phương án KTĐG: Nêu nội dung và đặc sắc nghệ thuật của tác phẩm? III. Hoạt động 3: Luyện tập HS làm việc cá nhân, thực hành viết đoạn văn khoảng 5 dòng thể hiện cảm nhận vẻ đẹp nhân cách của tác giả Sau khi HS trả lời, GV chốt lại những kiến thức cơ bản, nhận xét về năng lực tạo lập văn bản của HS… – Về nội dung: – Về phương pháp: – Về phương tiện: – Về thời gian:
Hướng dẫn GIÁO ÁN HỘI GIẢNG CẤP TỈNH Tiết 78 Tác giả: NGUỄN DU MỤC TIÊU BÀI DẠY: Sau bài học, học sinh đạt được: Về kiến thức: Hiểu được: Những yếu tố góp phần làm nên thiên tài Nguyễn Du và sác tác chữ Hán trong sự nghiệp văn học vĩ đại của ông. Về kĩ năng: – Rèn luyện kĩ năng đọc hiểu tác gia văn học theo thời kì văn học. – Rèn luyện kĩ năng tư duy sáng tạo: phân tích, so sánh, bình luận. – Rèn luyện kĩ năng giao tiếp: trình bày một vấn đề, điều khiển chương trình… – Rèn luyện kĩ năng liên hệ, vận dụng kiến thức vào thực tế đời sống. – Coi trọng việc đọc hiểu văn bản thông tin về tác giả văn học để tích lũy tri thức và rèn luyện kỹ năng đọc hiểu văn bản. – Yêu quý và trân trọng tài năng, tấm lòng của nhà thơ, đồng cảm với cuộc đời Nguyễn Du – Năng lực chung: giải quyết vấn đề, tự học, ghi nhớ, giao tiếp, hợp tác. – Năng lực chuyên biệt: đọc hiểu tiểu sử, trình bày suy nghĩ, cảm nhận cá nhân. CHUẨN BỊ CỦA GIÁO VIÊN VÀ HỌC SINH: Chuẩn bị của giáo viên: Máy tính, máy chiếu, bút laze, bảng phụ. Phim ảnh có liên quan đến tác giả Nguyễn Du. Kế hoạch bài học, powerpoint, phiếu học tập, biên bản thảo luận nhóm. Chuẩn bị của học sinh Chuẩn bị bài ở nhà theo các yêu cầu sau: Đọc trước bài “Truyện Kiều – Nguyễn Du” trong sgk Ngữ văn 10 tập 2 và tìm hiểu các thông tin về tác gia Nguyễn Du trên các phương tiện (tủ sách thư viện, internet v.v…) Đặc điểm về lịch sử giai đoạn Nguyễn Du sống (1765 – 1820) III. PHƯƠNG PHÁP: – Phát vấn – Thảo luận nhóm – trình bày vấn đề. – Bình giảng TỔ CHỨC CÁC HOẠT ĐỘNG HỌC TẬP Ổn định lớp: Thời gian 2 phút – Kiểm tra sĩ số – Chia lớp thành 4 nhóm, cử nhóm trưởng và thư kí. Kiểm tra bài cũ: ( không KT) Tiến trình bài học Hoạt động 1: Khởi động Thời gian: 3phút (1) Phương pháp/Kĩ thuật dạy học: Chia lớp thành hai đội tham gia trò chơi “Ô chữ kỳ diệu”: Đây là một người con ưu tú được Unesco vinh danh là danh nhân văn hóa thế giới? (2) Hình thức tổ chức hoạt động: – Giáo viên chuẩn bị một ô chữ khổ to để trình chiếu hoặc treo lên bảng và các câu hỏi gợi ý để giải ô chữ. – Từng đội chơi sẽ chọn ô chữ hàng ngang cho đến khi tìm được từ khóa. Mỗi đáp án đúng sẽ được nhận 1 phần quà. – Thiết kế ô chữ: + Hàng ngang: Ô số 1: Điền từ còn thiếu vào câu hát sau? ( Đoạn nhạc) Ô số 2: Tên một thị xã của Hà Tĩnh mang tên một ngọn núi? Ô số 3: Người con gái được mệnh danh là “Tuyệt thế giai nhân”? Ô số 4: Vị vua được nhắc đến trong câu thơ sau là ai? “Anh hùng áo vải nêu chí khí Toàn dân hợp lực cứu núi sông” Ô số 5: Tên của vị vua có công thống nhất đất nước lập ra nhà Nguyễn ở thế kỷ XVIII? Ô số 6: Đây là quê của chị Hai Năm Tấn? Ô số 7: Một danh hiệu cao quý được Unesco vinh danh những cá nhân có đóng góp lớn cho cộng đồng? Ô số 8: Một di sản văn hóa phi vật thể của Việt Nam được Unesco vinh danh tháng 9 năm 2009? + Hàng dọc: NGUYỄN DU Hoạt động 2: Hình thành kiến thức Thời gian: 25phút (1) Phương pháp/Kĩ thuật dạy học: Chia lớp 4 nhóm, mỗi nhóm thảo luận một nội dung của bài học (2) Hình thức tổ chức hoạt động: -Gv: Phát các phiếu học tập với các yêu cầu cụ thể/ Chốt kiến thức cần nắm sau khi thống nhất thảo luận. – Hs: thảo luận nhóm trong vòng 5 phút: + Cử đại diện ghi biên bản thảo luận. + Nhóm làm việc theo phân công của nhóm trưởng. + Cử đại diện lên trình bày. + Các thành viên còn lại bổ sung (nếu có) + Cả lớp lắng nghe và phản biện / chất vấn (nếu có) Tiểu kết: Cuộc đời Nguyễn Du trải qua nhiều biến cố thăng trầm nhưng chính hoàn cảnh ấy tạo cho ông vốn sống phong phú, tâm hồn sâu sắc. Ñoù laø tieàn ñeà cho söï toång hôïp thieân taøi ngheä thuaät Nguyeãn Du. v Liên hệ: (GV giảng, không cần ghi chép) II. Sự nghiệp sáng tác: 1. Sáng tác bằng chữ Hán: Còn khoảng 249 bài a. Các sáng tác chính: – Thanh Hiên thi tập (78 bài), sáng tác ở Thái Bình và Tiên Điền. – Nam Trung tạp ngâm (40 bài), sáng tác khi làm quan ở Quảng Bình. – Bắc Hành tạp lục (131 bài), sáng tác khi đi sứ ở Trung Quốc. a. b. Nội dung: – Thanh Hiên thi tập và Nam Trung tạp ngâmTâm trạng buồn đau, day dứt, suy ngẫm về cuộc đời, xã hội. a. – Bắc Hành tạp lục: b. + Ca ngợi đồng cảm với các nhân cách cao thượng và phê phán những nhân vật phản diện. c. + Phê phán xã hội phong kiến chà đạp quyền sống con người. d. + Cảm thông với những thân phận nhỏ bé dưới đáy xã hội, bị đọa đày hắt hủi. e. Nghệ thuật: đạt đến độ uyên thâm và hàm súc sử dụng linh hoạt, thành công các thể thơ. Hoạt động 4: Hoạt động vận dụng và mở rộng: (1) Phương pháp/Kĩ thuật dạy học: Trao đổi, thảo luận. (2) Hình thức tổ chức hoạt động: – Gv: Giao bài tập về nhà. ( Hướng dẫn khi HS chưa rõ) – Viết bài thuyết minh về tác giả Nguyễn Du. – Em hãy sưu tầm các giai thoại liên quan đến Nguyễn Du? – Hs: thực hiện bài tập qua việc tìm kiếm thông tin qua các kênh khác nhau (sgk Ngữ văn 10 hk2, internet, tủ sách thư viện, báo đài..v.v….) V. PHỤ LỤC 1. Biên bản thảo luận nhóm BIÊN BẢN THẢO LUẬN NHÓM – Nhóm:………………………………………………………………………………………………………………………………… – Nhóm trưởng:………………………………………………….. phụ trách chung, phân công, thống nhất ý kiến. – Thư kí:………………………………………………………………………………………………….. ghi biên bản đầy đủ. * Vấn đề thảo luận:……………………………………………………………………………………………………………… * Phân công: Nhóm trưởng kí và ghi rõ họ tên
Instruct PROVINCIAL LEVEL LECTURE CURRICULUM Section 78 Author: NGUYEN DU LESSON OBJECTIVES: After the lesson, students will achieve: About knowledge: Understanding: Factors contributing to Nguyen Du's genius and writing Chinese characters in his great literary career. About skills: – Practice reading and comprehension skills of literary authors according to literary periods. – Practice creative thinking skills: analyze, compare, comment. – Practice communication skills: present a problem, control the program... – Practice communication skills and apply knowledge to real life. – Appreciate reading and understanding text information about literary authors to accumulate knowledge and practice reading comprehension skills. – Love and appreciate the poet's talent and heart, and sympathize with Nguyen Du's life – General abilities: problem solving, self-study, memory, communication, cooperation. – Special abilities: reading and understanding biographies, expressing personal thoughts and feelings. PREPARATION OF TEACHERS AND STUDENTS: Teacher preparation: Computer, projector, laser pen, extra board. Movies related to author Nguyen Du. Lesson plans, powerpoints, study sheets, group discussion minutes. Student preparation Prepare homework according to the following requirements: Read in advance the article "The Story of Kieu - Nguyen Du" in the Grade 10 Literature textbook, volume 2 and find out information about author Nguyen Du on various media (library bookshelves, internet, etc.) Historical characteristics of the period when Nguyen Du lived (1765 - 1820) III. METHOD: – Interviewing – Group discussion – present the problem. – Commentary ORGANIZING LEARNING ACTIVITIES Class stabilization: Time 2 minutes – Check numbers – Divide the class into 4 groups, appoint a group leader and secretary. Check old lessons: (no comments) Lesson progress Activity 1: Start up Time: 3 minutes (1) Teaching methods/techniques: Divide the class into two teams to participate in the game "Magical crossword": This is an outstanding son who was honored by Unesco as a world cultural celebrity? (2) Form of organization and operation: – The teacher prepares a large crossword to display or hang on the board and suggest questions to solve the crossword. – Each team will select horizontal crosswords until they find the keyword. Each correct answer will receive 1 gift. – Crossword design: + Horizontal row: Box 1: Fill in the missing word in the following sentence? ( Piece of music) Box 2: Is the name of a town in Ha Tinh named after a mountain? Box 3: The girl is known as "The Great Beauty"? Box 4: Who is the king mentioned in the following verse? “The hero in cloth shows his character "All people join forces to save mountains and rivers" Box 5: Name of the king who unified the country and founded the Nguyen Dynasty in the 18th century? Box 6: This is Ms. Hai Nam Tan's hometown? Box 7: A noble title awarded by Unesco to individuals who have made great contributions to the community? Box 8: An intangible cultural heritage of Vietnam honored by Unesco in September 2009? + Vertical row: NGUYEN DU Activity 2: Forming knowledge Time: 25 minutes (1) Teaching methods/techniques: Divide the class into 4 groups, each group discusses one content of the lesson (2) Form of organization and operation: -Teacher: Distribute study sheets with specific requirements/ Finalize the knowledge to be grasped after reaching agreement on discussion. – Students: group discussion within 5 minutes: + Appoint a representative to record the minutes of discussion. + The group works according to the group leader's assignment. + Send a representative to present. + Additional remaining members (if any) + The whole class listens and criticizes/questions (if any) Conclusion: Nguyen Du's life went through many ups and downs, but it was those circumstances that gave him a rich life and a deep soul. This is the money for Nguyen Du's total investment. v Contact: (Teacher lectures, no need to take notes) II. Creative career: 1. Composed in Chinese characters: There are about 249 songs left a. Main compositions: – Thanh Hien's poetry collection (78 songs), composed in Thai Binh and Tien Dien. – Nam Trung Tap Ngua (40 songs), composed while working as a mandarin in Quang Binh. – Bac Hanh Tap Luc (131 songs), composed while on a mission to China. a. b. Content: – Thanh Hien poetry tap and Nam Trung tap poetry Mood of sadness, torment, reflection on life and society. a. – Bac Hanh Tap Luc: b. + Praise and sympathize with noble personalities and criticize villains. c. + Criticizing feudal society that tramples on human rights to life. d. + Sympathize with the small people at the bottom of society, who are exiled and rejected. e. Art: reaching a level of profoundness and conciseness, using flexible and successful poetic forms. Activity 4: Application and extension activities: (1) Teaching methods/techniques: Exchange and discussion. (2) Form of organization and operation: – Teacher: Assign homework. (Instructions when students do not understand) – Write an explanatory essay about author Nguyen Du. – Please collect anecdotes related to Nguyen Du? – Students: do the exercise by searching for information through different channels (Literature textbook grade 10 hk2, internet, library bookshelves, newspapers, etc.) V. APPENDIX 1. Minutes of group discussion MINUTES OF GROUP DISCUSSION - Group:…………………………………………………………………………………………………………………………… …… – Group leader:………………………………………………….. in charge of general, assigning tasks and agreeing on opinions. – Secretary:……………………………………………………………………………………………….. takes full minutes. * Discussion issue:………………………………………………………………………………………………………………………………………… * Assignment: The group leader signs and writes his full name
Hướng dẫn Ngày soạn: 26/09/2017 MỤC TIÊU BÀI HỌC Kiến thức – Cảm nhận được tiếng hát than thân và lời ca yêu thuơng tình nghĩa của người bình dân trong XHPK. – Những đặc sắc của nghệ thuật dân gian trong việc thể hiện tâm hồn, tình cảm người lao động. Kỹ năng: đọc hiểu ca dao theo đặc trưng thi pháp thể loại Thái độ – Trân trọng vẻ đẹp tâm hồn của người lao động yêu quý những sáng tác của họ. Năng lực – Năng lực giải quyết vấn đề – Năng lực hợp tác – Năng lực tự quản bản thân – Năng lực thưởng thức văn học, cảm thụ văn chương – Năng lực giao tiếp tiếng Việt. CHUẨN BỊ CỦA GIÁO VIÊN VÀ HỌC SINH GV: SGK, SGV, kế hoạch dạy học, phiếu học tập HS: SGK bài soạn III. TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG DẠY – HỌC Hoạt động khởi động – Tổ chức trò chơi “Chung sức” GV mời 3 HS tham gia trò chơi. Mỗi em có 15 giây suy nghĩ và trả lời 5 câu hỏi (nội dung câu hỏi liên quan đến kiến thức đã học). Mỗi câu trả lời đúng được tối đa 5 điểm. Kết thúc trò chơi, ai có điểm cao nhất sẽ giành chiến thắng. – GV dẫn vào bài Hoạt động hình thành kiến thức H: Phần Tiểu dẫn cung cấp cho các em những thông tin gì? (Đặc điểm của thể loại ca dao). H: Trước khi tìm hiểu cụ thể, mời một em nhắc lại khái niệm “Ca dao”? GV giảng: Chúng ta đã từng biết đến bài ca dao quen thuộc: “Con cò bay lả bay la Bay từ cửa phủ bay ra cánh đồng” Đó chính là phần lời thơ (tức ca dao). H: Các em có thể hát bài ca dao đó để cảm nhận được làn điệu của ca dao trong hình thức diễn xướng? (Trong diễn xướng, ca dao không chỉ có phần lời thơ mà có cả làn điệu. Đó là những tiết tấu bổ sung thêm như “í a í a, tình tính tang, là rằng…”. Nó làm cho lời thơ thêm trữ tình và mềm mại. 1. Đặc điểm của ca dao a. Khái niệm – Ca dao là phần lời thơ của những bài hát dân gian. – Trong diễn xướng, ca dao thường gắn với làn điệu. GV giảng mở rộng và lấy ví dụ một số bài ca dao hài hước: Đó là những bài ca hóm hỉnh, trào lộng thông minh. Nhân gian cười cợt những thói hư tật xấu ở đời với mong muốn làm cho cuộc sống tốt đẹp hơn: Ba cô đội gạo lên chùa … Chồng người thổi sáo thổi tiêu … – Thuộc loại hình trữ tình. – Diễn tả đời sống tâm hồn, tư tưởng, tình cảm của nhân dân. – Ba chủ điểm: + Những tiếng hát than thân + Những lời ca yêu thương, tình nghĩa + Những bài ca hài hước. H: Vì sao ca dao lại có sự lặp lại một số hình ảnh, công thức mang đậm sắc thái dân gian? (Vì ca dao là tiếng nói của cộng đồng, là sản phẩm của quần chúng nhân dân lao động). – Thể thơ truyền thống: lục bát, lục bán biến thể, vãn bốn, vãn năm. – Ngôn ngữ: gần gũi, giản dị. – Hình ảnh so sánh, ẩn dụ, quen thuộc – Lặp lại một số công thức mang đậm sắc thái dân gian. – GV định hướng: + Mỗi một bài ca dao chính là tiếng nói tâm trạng của nhân vật trữ tình. Và nếu xét theo tiếng nói tâm trạng ấy thì 2 bài ca dao đầu tiên là những tiếng hát than thân. 4 bài ca dao cuối cùng là những tiếng hát yêu thương tình nghĩa. + Bài học thuộc phạm vi giảm tải, trong hai tiết học, chúng ta sẽ cùng nhau tìm hiểu 3 bài ca dao tiêu biểu, bài ca số 1, bài ca số 4 và bài ca dao số 6. Trong tiết học hôm nay, chúng ta sẽ tìm hiểu bài ca dao số 1. – 2 bài đầu: Những tiếng hát than thân – 4 bài cuối: Những tiếng hát yêu thương, tình nghĩa. H: Mời 1 HS đọc lại bài ca dao. HS thảo luận nhóm và ghi kết quả vào phiếu học tập. Đại diện các nhóm trình bày. Các HS khác lắng nghe, nhận xét, bổ sung. GV chốt kiến thức. H: Chủ thể trữ tình của bài ca dao trên là ai? (cô gái). Vì sao em lại xác định được? (Thân em). H: Nhưng có bạn lại cho rằng: “Thân em” là lời của một chàng trai? Nói như vậy, có thuyết phục không, vì sao? H: Lời của cô gái hướng đến ai? (Dường như lời than của cô gái hướng đến một đối tượng rất rộng, có thể là tất cả mọi người. Nhưng chữ “em” trong cụm từ “thân em” hình như đã hé mở đối tượng mà cô muốn hướng đến: có thể là lời tâm sự của cô gái với một người anh, một người chị thân thiết trong gia đình. Và cũng rất có thể, đó chính là lời giãi bày của cô gái với chàng trai – người mà cô gái đang thầm thương trộm nhớ. Hoặc đó là lời tự hỏi lòng mình của cô gái). H: Trong bài ca dao trên, tác giả dân gian đã sử dụng biện pháp tu từ nào? (so sánh). (Dựa vào từ so sánh “như”, ta dễ dàng phát hiện thấy: cô gái đã ví mình với tấm lụa đào). H: Hình ảnh tấm lụa đào gợi cho em những liên tưởng đến những vẻ đẹp, thuộc tính gì của chính nó? (Là một món đồ quí giá, mềm mại, óng ả, mượt mà). H: Ví mình với tấm lụa đào, tức là cô gái đã tìm thấy sự đồng điệu giữa mình và tấm lụa. Vậy, hình ảnh tấm lụa đào gợi lên những vẻ đẹp gì của cô gái trong bài ca dao? (Vẻ đẹp yểu điệu, duyên dáng của cô gái. Bên cạnh đó, “tấm lụa đào” mềm mại cũng gợi lên tâm hồn dịu dàng, thùy mị của người phụ nữ. Người con gái ý thức được vẻ đẹp, phẩm giá và tuổi xuân của cuộc đời mình. Nhưng, sự đối lập lại thể hiện ở vế thứ hai). H: Hình ảnh tấm lụa đào đang “phất phơ giữa chợ” trong vế thứ hai của bài ca dao gợi cho em liên tưởng đến điều gì về số phận của chính nó? (Số phận của nó bị định đoạt bởi người bán kẻ mua). H: Tương tự như vậy, hình ảnh “tấm lụa đào” đang “phất phơ giữa chợ” giúp em hình dung được số phận của cô gái như thế nào? (Cô gái tự ý thức được vẻ đẹp, tuổi xuân và giá trị của mình. Nhưng cô gái luôn phải lo nỗi lo về hạnh phúc bấp bênh, hạnh phúc có thể có, có thể không, hoàn toàn phụ thuộc vào sự may rủi. Đó cũng chính là nội dung lời than thân của cô gái trong bài ca dao). 1. Bài số 1 Thân em như tấm lụa đào Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai – Chủ thể trữ tình: cô gái – Đối tượng trữ tình: người anh/ chị, chàng trai… – Biện pháp nghệ thuật: So sánh + “Tấm lụa đào” → gợi tả vẻ đẹp ngoại hình, tâm hồn cô gái. + “Phất phơ giữa chợ” → gợi tả thân phận bất hạnh của cô gái. (Người phụ nữ trong xã hội xưa bị cột chặt vào đạo tam tòng, tứ đức và những lễ giáo phong kiến hà khắc, trọng nam khinh nữ. Do vậy, khi chuẩn bị bước vào cuộc đời tương lai, lứa tuổi đẹp nhất của cuộc đời mình, thì người phụ nữ không thể lựa chọn hạnh phúc, mà phải chấp nhận “cha mẹ đặt đâu, con ngồi đấy”. Đây chính là nỗi đau thân phận của người phụ nữ. Nỗi đau thân phận, bị phụ thuộc ấy trở đi trở lại trong nhiều bài ca cao có cùng motip. H: Từ việc phân tích biện pháp nghệ thuật, em hãy khái quát giá trị nội dung của bài ca dao? → Gía trị nội dung: – Thân phận của người phụ nữ trong xã hội phong kiến: bị lệ thuộc. – Khẳng định vẻ đẹp phẩm chất, tâm hồn của họ. Hoạt động luyện tập Trả lời câu hỏi trắc nghiệm: Câu 1: Đặc điểm nổi bật nhất của ca dao là gì? Những bài thơ hoặc những câu nói có vần điệu. Diễn tả cuộc sống thường nhật của con người. Đúc kết những kinh nghiệm đời sống thực tiễn. Diễn tả đời sống tâm hồn phong phú của người lao động. Câu 2: Phương thức biểu đạt chủ yếu của ca daolà? Tự sự Miêu tả Biểu cảm Nghị luận Câu 3: Nhân vật trữ tình thường gặp nhất trong ca dao là? Người đàn ông Người phụ nữ Trẻ em Người dân thường Câu 4:Ca dao không có đặc điểm nghệ thuật này? Sử dụng lối so sánh, ẩn dụ. Sử dụng phong phú phép lặp và điệp cấu trúc. Miêu tả nhân vật với tính cách phức tạp. Ngôn ngữ đời thường nhưng giàu giá trị biểu đạt. Hoạt động vận dụng Phương án 1: Hỏi 01 HS nữ: Theo em, người phụ nữ trong xã hội ngày nay, họ có nỗi lo về hạnh phúc như người phụ nữ trong bài ca dao hay không? Vì sao? Hỏi 01 HS nam: Trong tương lai, em sẽ có một người phụ nữ của đời mình, em sẽ làm gì để cô ấy được hạnh phúc? (liên hệ giáo dục). GV liên hệ, định hướng nhận thức cho HS. Phương án 2: Đọc bài ca dao sau và thực hiện yêu cầu nêu ở dưới Thương thay thân phận con tằm Kiếm ăn được mấy phải nằm nhả tơ. Thương thay con kiến li ti Kiếm ăn được mấy phải đi tìm mồi. Thương thay hạc lánh đường mây Chim bay mỏi cánh biết ngày nào thôi. Thương thay con quốc giữa trời Dầu kêu ra máu có người nào nghe. Câu 1: Bài ca dao có những hình ảnh gì? Được khắc họa như thế nào? Có những đặc điểm gì chung. Câu 2: Tác giả dân gian đã sử dụng biện pháp tu từ? Nêu ý tác dụng của việc sử dụng phép tu từ đó. Câu 3: Chủ đề của bài ca dao là gì? Hoạt động tìm tòi, mở rộng Sưu tầm, ghi chép lại những bài ca dao than thân Chuẩn bị bài theo PPCT. RÚT KINH NGHIỆM PHIẾU HỌC TẬP Đọc bài ca dao số 1 và thực hiện các yêu cầu bên dưới. Thời gian thảo luận: 5 phút Câu hỏi 1: Xác định nhân vật trữ tình của bài ca dao. Vì sao em xác định được? Câu hỏi 2: Xác định đối tượng trữ tình của bài ca dao. Câu hỏi 3: Bài ca dao sử dụng biện pháp tu từ gì? Phân tích tác dụng của biện pháp tu từ đó? Gợi ý: Tìm hiểu ý nghĩa của hình ảnh “tấm lụa đào” và “tấm lụa đào – phất phơ giữa chợ” trong quan hệ với nhân vật trữ tình của bài ca dao. Câu hỏi 4: Tìm ít nhất 4 bài ca dao bắt đầu bằng cụm từ “Thân em như”
Hướng dẫn Ngày soạn: 26/09/2017 MỤC TIÊU BÀI HỌC Kiến thức – Cảm nhận được tiếng hát than thân và lời ca yêu thuơng tình nghĩa của người bình dân trong XHPK. – Những đặc sắc của nghệ thuật dân gian trong việc thể hiện tâm hồn, tình cảm người lao động. Kỹ năng: đọc hiểu ca dao theo đặc trưng thi pháp thể loại Thái độ – Trân trọng vẻ đẹp tâm hồn của người lao động yêu quý những sáng tác của họ. Năng lực – Năng lực giải quyết vấn đề – Năng lực hợp tác – Năng lực tự quản bản thân – Năng lực thưởng thức văn học, cảm thụ văn chương – Năng lực giao tiếp tiếng Việt. CHUẨN BỊ CỦA GIÁO VIÊN VÀ HỌC SINH GV: SGK, SGV, kế hoạch dạy học, phiếu học tập HS: SGK bài soạn III. TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG DẠY – HỌC Hoạt động khởi động – Tổ chức trò chơi “Chung sức” GV mời 3 HS tham gia trò chơi. Mỗi em có 15 giây suy nghĩ và trả lời 5 câu hỏi (nội dung câu hỏi liên quan đến kiến thức đã học). Mỗi câu trả lời đúng được tối đa 5 điểm. Kết thúc trò chơi, ai có điểm cao nhất sẽ giành chiến thắng. – GV dẫn vào bài Hoạt động hình thành kiến thức H: Phần Tiểu dẫn cung cấp cho các em những thông tin gì? (Đặc điểm của thể loại ca dao). H: Trước khi tìm hiểu cụ thể, mời một em nhắc lại khái niệm “Ca dao”? GV giảng: Chúng ta đã từng biết đến bài ca dao quen thuộc: “Con cò bay lả bay la Bay từ cửa phủ bay ra cánh đồng” Đó chính là phần lời thơ (tức ca dao). H: Các em có thể hát bài ca dao đó để cảm nhận được làn điệu của ca dao trong hình thức diễn xướng? (Trong diễn xướng, ca dao không chỉ có phần lời thơ mà có cả làn điệu. Đó là những tiết tấu bổ sung thêm như “í a í a, tình tính tang, là rằng…”. Nó làm cho lời thơ thêm trữ tình và mềm mại. 1. Đặc điểm của ca dao a. Khái niệm – Ca dao là phần lời thơ của những bài hát dân gian. – Trong diễn xướng, ca dao thường gắn với làn điệu. GV giảng mở rộng và lấy ví dụ một số bài ca dao hài hước: Đó là những bài ca hóm hỉnh, trào lộng thông minh. Nhân gian cười cợt những thói hư tật xấu ở đời với mong muốn làm cho cuộc sống tốt đẹp hơn: Ba cô đội gạo lên chùa … Chồng người thổi sáo thổi tiêu … – Thuộc loại hình trữ tình. – Diễn tả đời sống tâm hồn, tư tưởng, tình cảm của nhân dân. – Ba chủ điểm: + Những tiếng hát than thân + Những lời ca yêu thương, tình nghĩa + Những bài ca hài hước. H: Vì sao ca dao lại có sự lặp lại một số hình ảnh, công thức mang đậm sắc thái dân gian? (Vì ca dao là tiếng nói của cộng đồng, là sản phẩm của quần chúng nhân dân lao động). – Thể thơ truyền thống: lục bát, lục bán biến thể, vãn bốn, vãn năm. – Ngôn ngữ: gần gũi, giản dị. – Hình ảnh so sánh, ẩn dụ, quen thuộc – Lặp lại một số công thức mang đậm sắc thái dân gian. – GV định hướng: + Mỗi một bài ca dao chính là tiếng nói tâm trạng của nhân vật trữ tình. Và nếu xét theo tiếng nói tâm trạng ấy thì 2 bài ca dao đầu tiên là những tiếng hát than thân. 4 bài ca dao cuối cùng là những tiếng hát yêu thương tình nghĩa. + Bài học thuộc phạm vi giảm tải, trong hai tiết học, chúng ta sẽ cùng nhau tìm hiểu 3 bài ca dao tiêu biểu, bài ca số 1, bài ca số 4 và bài ca dao số 6. Trong tiết học hôm nay, chúng ta sẽ tìm hiểu bài ca dao số 1. – 2 bài đầu: Những tiếng hát than thân – 4 bài cuối: Những tiếng hát yêu thương, tình nghĩa. H: Mời 1 HS đọc lại bài ca dao. HS thảo luận nhóm và ghi kết quả vào phiếu học tập. Đại diện các nhóm trình bày. Các HS khác lắng nghe, nhận xét, bổ sung. GV chốt kiến thức. H: Chủ thể trữ tình của bài ca dao trên là ai? (cô gái). Vì sao em lại xác định được? (Thân em). H: Nhưng có bạn lại cho rằng: “Thân em” là lời của một chàng trai? Nói như vậy, có thuyết phục không, vì sao? H: Lời của cô gái hướng đến ai? (Dường như lời than của cô gái hướng đến một đối tượng rất rộng, có thể là tất cả mọi người. Nhưng chữ “em” trong cụm từ “thân em” hình như đã hé mở đối tượng mà cô muốn hướng đến: có thể là lời tâm sự của cô gái với một người anh, một người chị thân thiết trong gia đình. Và cũng rất có thể, đó chính là lời giãi bày của cô gái với chàng trai – người mà cô gái đang thầm thương trộm nhớ. Hoặc đó là lời tự hỏi lòng mình của cô gái). H: Trong bài ca dao trên, tác giả dân gian đã sử dụng biện pháp tu từ nào? (so sánh). (Dựa vào từ so sánh “như”, ta dễ dàng phát hiện thấy: cô gái đã ví mình với tấm lụa đào). H: Hình ảnh tấm lụa đào gợi cho em những liên tưởng đến những vẻ đẹp, thuộc tính gì của chính nó? (Là một món đồ quí giá, mềm mại, óng ả, mượt mà). H: Ví mình với tấm lụa đào, tức là cô gái đã tìm thấy sự đồng điệu giữa mình và tấm lụa. Vậy, hình ảnh tấm lụa đào gợi lên những vẻ đẹp gì của cô gái trong bài ca dao? (Vẻ đẹp yểu điệu, duyên dáng của cô gái. Bên cạnh đó, “tấm lụa đào” mềm mại cũng gợi lên tâm hồn dịu dàng, thùy mị của người phụ nữ. Người con gái ý thức được vẻ đẹp, phẩm giá và tuổi xuân của cuộc đời mình. Nhưng, sự đối lập lại thể hiện ở vế thứ hai). H: Hình ảnh tấm lụa đào đang “phất phơ giữa chợ” trong vế thứ hai của bài ca dao gợi cho em liên tưởng đến điều gì về số phận của chính nó? (Số phận của nó bị định đoạt bởi người bán kẻ mua). H: Tương tự như vậy, hình ảnh “tấm lụa đào” đang “phất phơ giữa chợ” giúp em hình dung được số phận của cô gái như thế nào? (Cô gái tự ý thức được vẻ đẹp, tuổi xuân và giá trị của mình. Nhưng cô gái luôn phải lo nỗi lo về hạnh phúc bấp bênh, hạnh phúc có thể có, có thể không, hoàn toàn phụ thuộc vào sự may rủi. Đó cũng chính là nội dung lời than thân của cô gái trong bài ca dao). 1. Bài số 1 Thân em như tấm lụa đào Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai – Chủ thể trữ tình: cô gái – Đối tượng trữ tình: người anh/ chị, chàng trai… – Biện pháp nghệ thuật: So sánh + “Tấm lụa đào” → gợi tả vẻ đẹp ngoại hình, tâm hồn cô gái. + “Phất phơ giữa chợ” → gợi tả thân phận bất hạnh của cô gái. (Người phụ nữ trong xã hội xưa bị cột chặt vào đạo tam tòng, tứ đức và những lễ giáo phong kiến hà khắc, trọng nam khinh nữ. Do vậy, khi chuẩn bị bước vào cuộc đời tương lai, lứa tuổi đẹp nhất của cuộc đời mình, thì người phụ nữ không thể lựa chọn hạnh phúc, mà phải chấp nhận “cha mẹ đặt đâu, con ngồi đấy”. Đây chính là nỗi đau thân phận của người phụ nữ. Nỗi đau thân phận, bị phụ thuộc ấy trở đi trở lại trong nhiều bài ca cao có cùng motip. H: Từ việc phân tích biện pháp nghệ thuật, em hãy khái quát giá trị nội dung của bài ca dao? → Gía trị nội dung: – Thân phận của người phụ nữ trong xã hội phong kiến: bị lệ thuộc. – Khẳng định vẻ đẹp phẩm chất, tâm hồn của họ. Hoạt động luyện tập Trả lời câu hỏi trắc nghiệm: Câu 1: Đặc điểm nổi bật nhất của ca dao là gì? Những bài thơ hoặc những câu nói có vần điệu. Diễn tả cuộc sống thường nhật của con người. Đúc kết những kinh nghiệm đời sống thực tiễn. Diễn tả đời sống tâm hồn phong phú của người lao động. Câu 2: Phương thức biểu đạt chủ yếu của ca daolà? Tự sự Miêu tả Biểu cảm Nghị luận Câu 3: Nhân vật trữ tình thường gặp nhất trong ca dao là? Người đàn ông Người phụ nữ Trẻ em Người dân thường Câu 4:Ca dao không có đặc điểm nghệ thuật này? Sử dụng lối so sánh, ẩn dụ. Sử dụng phong phú phép lặp và điệp cấu trúc. Miêu tả nhân vật với tính cách phức tạp. Ngôn ngữ đời thường nhưng giàu giá trị biểu đạt. Hoạt động vận dụng Phương án 1: Hỏi 01 HS nữ: Theo em, người phụ nữ trong xã hội ngày nay, họ có nỗi lo về hạnh phúc như người phụ nữ trong bài ca dao hay không? Vì sao? Hỏi 01 HS nam: Trong tương lai, em sẽ có một người phụ nữ của đời mình, em sẽ làm gì để cô ấy được hạnh phúc? (liên hệ giáo dục). GV liên hệ, định hướng nhận thức cho HS. Phương án 2: Đọc bài ca dao sau và thực hiện yêu cầu nêu ở dưới Thương thay thân phận con tằm Kiếm ăn được mấy phải nằm nhả tơ. Thương thay con kiến li ti Kiếm ăn được mấy phải đi tìm mồi. Thương thay hạc lánh đường mây Chim bay mỏi cánh biết ngày nào thôi. Thương thay con quốc giữa trời Dầu kêu ra máu có người nào nghe. Câu 1: Bài ca dao có những hình ảnh gì? Được khắc họa như thế nào? Có những đặc điểm gì chung. Câu 2: Tác giả dân gian đã sử dụng biện pháp tu từ? Nêu ý tác dụng của việc sử dụng phép tu từ đó. Câu 3: Chủ đề của bài ca dao là gì? Hoạt động tìm tòi, mở rộng Sưu tầm, ghi chép lại những bài ca dao than thân Chuẩn bị bài theo PPCT. RÚT KINH NGHIỆM PHIẾU HỌC TẬP Đọc bài ca dao số 1 và thực hiện các yêu cầu bên dưới. Thời gian thảo luận: 5 phút Câu hỏi 1: Xác định nhân vật trữ tình của bài ca dao. Vì sao em xác định được? Câu hỏi 2: Xác định đối tượng trữ tình của bài ca dao. Câu hỏi 3: Bài ca dao sử dụng biện pháp tu từ gì? Phân tích tác dụng của biện pháp tu từ đó? Gợi ý: Tìm hiểu ý nghĩa của hình ảnh “tấm lụa đào” và “tấm lụa đào – phất phơ giữa chợ” trong quan hệ với nhân vật trữ tình của bài ca dao. Câu hỏi 4: Tìm ít nhất 4 bài ca dao bắt đầu bằng cụm từ “Thân em như”
Hướng dẫn CHỦ ĐỀ: HOẠT ĐỘNG GIAO TIẾP BẰNG NGÔN NGỮ Bước 1: Xác định vấn đề cần giải quyết trong bài học: -Những kiến thức cơ bản về hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ. Bước 2: Xây dựng nội dung chủ đề dạy học – Gồm bài: Hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ. – Tích hợp bài: Tổng quan văn học Việt Nam. Bước 3: Xác định mục tiêu bài học * Kiến thức: – Những kiến thức cơ bản về hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ. * Kĩ năng: – Nhận biết vai trò, đặc điểm của hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ. – Nâng cao những kĩ năng trong hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ, trong đó có kĩ năng sử dụng và lĩnh hội ngôn ngữ. – Lựa chọn và sử dụng ngôn ngữ phù hợp với các tình huống giao tiếp cụ thể. * Thái độ: – Có thái độ và hành vi phù hợp trong hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ. * Năng lực cần hình thành: – Năng lực giao tiếp – Năng lực giải quyết vấn đề – Năng lực sáng tạo – Năng lực hợp tác – Năng lực quản lí bản thân. Bước 4: xác định và mô tả mức độ yêu cầu ( nhận biết, thông hiểu, vận dụng, vận dụng cao) của mỗi loại câu hỏi/ bài tập có thể sử dụng để kiểm tra, đánh giá năng lực và phẩm chất của học sinh trong dạy học. – Vẽ sơ đồ thể hiện hai quá trình của hoạt động giao tiếp.. Bước 5: Biên soạn câu hỏi/ bài tập cụ thể theo mức độ yêu cầu đã mô tả – Nhân vật giao tiếp có đặc điểm gì? – Em hiểu như thế nào về hoàn cảnh giao tiếp, nội dung giao tiếp, mục đích giao tiếp, phương tiện và cách thức giao tiếp? Bước 6: Thiết kế tiến trình dạy học Hoạt động 1: Khởi động – GV gọi 1 HS để hỏi họ tên, tuổi, quê quán, sở thích, sự lựa chọn nghề nghiệp tương lai. – Sau đó GV gọi 1 HS khác nhận xét cuộc nói chuyện của giáo viên và bạn HS trên có phải là một hoạt động giao tiếp không? Nhân vật giao tiếp là những ai? Hia bên có quan hệ với nhau như thế nào? Giữa GV và HS có đổi vai cho nhau không? Hoạt động 2: Hình thành kiến thức GV yêu cầu HS đọc văn bản “Hội nghị Diêm Hồng” ở mục I.1 tr.14 (?) Nhân vật giao tiếp nào tham gia vào các hoạt động giao tiếp trên? (?) Cương vị của các nhân vật và quan hệ của họ như thế nào? (?) Các nhân vật giao tiếp lần lượt đổi vai cho nhau như thế nào? (?) Hoạt động giao tiếp diễn ra trong hoàn cảnh nào (ở đâu? Vào lúc nào? Khi đó ở nước ta có sự kiện lịch sử gì?) (?) Hoạt động giao tiếp trên hướng vào nội dung gì? (?) Mục đích của hoạt động giao tiếp ở đây là gì? (?) Mục đích đó có đạt được hay không. (?) Hoạt động giao tiếp ở đây diễn ra giữa các nhân vật giao tiếp nào? ( ai viết, ai đọc) (?) Đặc điểm của các nhân vật đó về lứa tuổi, vốn sống, trình độ hiểu biết, nghề nghiệp? (?) Hoạt động giao tiếp đó diễn ra trong hoàn cảnh nào? (?) Nội dung giao tiếp thuộc lĩnh vực nào? (?) Văn bản này nhằm mục đích gì? (?) Phương tiện giao tiếp và cách thức giao tiếp ở đây là gì? (?)Nêu khái niệm về hoạt động giao tiếp? (?)Hoạt động giao tiếp có vai trò như thế nào trong đời sống? (?)Hoạt động giao tiếp gồm những mục đích gì? (?) Xác định mục đích giao tiếp trong văn bản 1, văn bản 2 (SGK). (?) Xác định mục đích giao tiếp trong văn bản sau: Thuyền ơi có nhớ bến chăng Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền (?)Hoạt động giao tiếp bao gồm những quá trình nào? (?)Em hiểu như thế nào về quá trình tạo lập và quá trình lĩnh hội văn bản? (?) Em có nhận xét gì về mối quan hệ giữa hai quá trình của hoạt động giao tiếp? (?) Có những nhân tố nào tham gia vào hoạt động giao tiếp? (?) Nhân vật giao tiếp gồm những ai? (?) Nhân vật giao tiếp có đặc điểm gì? (?) Em hiểu như thế nào về hoàn cảnh giao tiếp, nội dung giao tiếp, mục đích giao tiếp, phương tiện và cách thức giao tiếp? (?) Theo em làm thế nào để nâng cao hiệu quả giao tiếp trong đời sống? I. Thế nào là hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ: 1. Văn bản thứ nhất: a. Nhân vật giao tiếp – Vua Trần và các bô lão trong hội nghị là nhân vật tham gia giao tiếp. – Vua cai quản đất nước, đứng đầu triều đình, là bề trên. – Các bô lão đại diện cho các tầng lớp nhân dân, là bề dưới àCác nhân vật giao tiếp có vị thế khác nhau nên ngôn ngữ giao tiếp khác nhau (từ xưng hô, từ thể hiện thái độ, các câu nói tỉnh lược.) b. Quá trình giao tiếp – Vua nói => các bô lão nghe => các bô lão nói (trả lời) => vua nghe. – Khi người nói (viết ) tạo ra văn bản nhằm biểu đạt nội dung tư tưởng tình cảm của mình thì người nghe (đọc ) tiến hành các hoạt động nghe (đọc ) để giải mã rồi lĩnh hội nội dung đó. Người nói và người nghe có thể đổi vai cho nhau. à HĐGT có hai quá trình: tạo lập văn bản và lĩnh hội văn bản. c. Hoàn cảnh giao tiếp – HĐGT diễn ra ở điện Diên Hồng. Lúc này, quân Nguyên Mông kéo 50 vạn quân ồ ạt sang xâm lược nước ta lần thứ 2. d. Nội dung giao tiếp – Bàn về nguy cơ đất nước bị giặc ngoại xâm và bàn bạc sách lược đối phó. e. Mục đích giao tiếp – Bàn bạc và thống nhất sách lược đối phó với quân giặc. à Cuộc giao tiếp đã đi đến thống nhất ý chí và hành động để chiến đấu bảo vệ tổ quốc, nghĩa là đã đạt được mục đích 2.Văn bản “Tổng quan văn học Việt Nam”: a. Nhân vật – Người viết sách: tác giả SGK, người viết có trình độ hiểu biết cao hơn, có vốn sống và nghề của họ là nghiên cứu, giảng dạy + Người đọc: Học sinh, trẻ tuổi hơn, vốn sống và trình độ hiểu biết thấp hơn. b. Hoàn cảnh – HĐGT thông qua văn bản đó được tiến hành trong hoàn cảnh “quy phạm” tức là có tổ chức, có mục đích, có nội dung và được thực hiện theo chương trình có tính pháp lí trong nhà trường. c. Nội dung – NDGT thuộc lĩnh vực văn học, về đề tài “ Tổng quan…” gồm những vấn đề cơ bản: + Các bộ phận hợp thành của nền VHVN + Quá trình phát triển của VH viết Việt Nam. + Con người VN qua văn học. d. Mục đích – Có hai khía cạnh: + Người viết: trình bày một cách tổng quát một số vấn đề cơ bản về văn học VN. + Người đọc: Thông qua đọc và học văn bản đó mà tiếp nhận, lĩnh hội những kiến thức cơ bản về VHVN trong tiến trình lịch sử.e. Phương tiện – Dùng nhiều thuật ngữ thuộc ngành KHXH, chuyên ngành ngữ văn. – Văn bản có kết cấu rõ ràng với các đề mục lớn nhỏ thể hiện tính mạch lạc, độc lập tương đối về nội dung của từng phần, chặt chẽ thống nhất trong nội dung toàn bài. 3. Kết luận – Khái niệm: HĐGT là hoạt động trao đổi thông tin của con người được tiến hành chủ yếu bằng phương tiện ngôn ngữ, nhằm thực hiện những mục đích về nhận thức, tình cảm, hành động,… – Hai quá trình trong HĐGT: + Người nói (viết) sản sinh lời nói, câu văn. còn gọi là tạo lập văn bản. + Người nghe (đọc) tiếp nhận và lĩnh hội. --> Quan hệ tương tác – Những nhân tố của HĐGT: + Nhân vật giao tiếp: Ai nói( viết)? Nói với ( viết cho) ai? + Hoàn cảnh giao tiếp: nói viết trong hoàn cảnh nào, ở đâu, khi nào? + Nội dung giao tiếp: nói/ viết về vấn đề gì, cái gì? + Mục đích giao tiếp: nói/ viết để làm gì, nhằm mục đích gì? + Phương tiện và cách thức giao tiếp: Nói/ viết như thế nào, bằng phương tiện gì? . III. Hoạt động 3. Luyện tập – GV yêu cầu HS phân tích các nhân tố giao tiếp trong hoạt động giao tiếp mua bán giữa người mua và người bán ở chợ? Hoạt động 4+5: Hoạt động vận dụng, mở rộng – Vẽ sơ đồ mô hình hóa hai quá trình của hoạt động giao tiếp – Phân tích các nhân tố giao tiếp trong câu ca dao sau: Đường xa thì thật là xa Mượn mình làm mối cho ta một người
Hướng dẫn CHỦ ĐỀ: HOẠT ĐỘNG GIAO TIẾP BẰNG NGÔN NGỮ Bước 1: Xác định vấn đề cần giải quyết trong bài học: -Những kiến thức cơ bản về hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ. Bước 2: Xây dựng nội dung chủ đề dạy học – Gồm bài: Hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ. – Tích hợp bài: Tổng quan văn học Việt Nam. Bước 3: Xác định mục tiêu bài học * Kiến thức: – Những kiến thức cơ bản về hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ. * Kĩ năng: – Nhận biết vai trò, đặc điểm của hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ. – Nâng cao những kĩ năng trong hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ, trong đó có kĩ năng sử dụng và lĩnh hội ngôn ngữ. – Lựa chọn và sử dụng ngôn ngữ phù hợp với các tình huống giao tiếp cụ thể. * Thái độ: – Có thái độ và hành vi phù hợp trong hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ. * Năng lực cần hình thành: – Năng lực giao tiếp – Năng lực giải quyết vấn đề – Năng lực sáng tạo – Năng lực hợp tác – Năng lực quản lí bản thân. Bước 4: xác định và mô tả mức độ yêu cầu ( nhận biết, thông hiểu, vận dụng, vận dụng cao) của mỗi loại câu hỏi/ bài tập có thể sử dụng để kiểm tra, đánh giá năng lực và phẩm chất của học sinh trong dạy học. – Vẽ sơ đồ thể hiện hai quá trình của hoạt động giao tiếp.. Bước 5: Biên soạn câu hỏi/ bài tập cụ thể theo mức độ yêu cầu đã mô tả – Nhân vật giao tiếp có đặc điểm gì? – Em hiểu như thế nào về hoàn cảnh giao tiếp, nội dung giao tiếp, mục đích giao tiếp, phương tiện và cách thức giao tiếp? Bước 6: Thiết kế tiến trình dạy học Hoạt động 1: Khởi động – GV gọi 1 HS để hỏi họ tên, tuổi, quê quán, sở thích, sự lựa chọn nghề nghiệp tương lai. – Sau đó GV gọi 1 HS khác nhận xét cuộc nói chuyện của giáo viên và bạn HS trên có phải là một hoạt động giao tiếp không? Nhân vật giao tiếp là những ai? Hia bên có quan hệ với nhau như thế nào? Giữa GV và HS có đổi vai cho nhau không? Hoạt động 2: Hình thành kiến thức GV yêu cầu HS đọc văn bản “Hội nghị Diêm Hồng” ở mục I.1 tr.14 (?) Nhân vật giao tiếp nào tham gia vào các hoạt động giao tiếp trên? (?) Cương vị của các nhân vật và quan hệ của họ như thế nào? (?) Các nhân vật giao tiếp lần lượt đổi vai cho nhau như thế nào? (?) Hoạt động giao tiếp diễn ra trong hoàn cảnh nào (ở đâu? Vào lúc nào? Khi đó ở nước ta có sự kiện lịch sử gì?) (?) Hoạt động giao tiếp trên hướng vào nội dung gì? (?) Mục đích của hoạt động giao tiếp ở đây là gì? (?) Mục đích đó có đạt được hay không. (?) Hoạt động giao tiếp ở đây diễn ra giữa các nhân vật giao tiếp nào? ( ai viết, ai đọc) (?) Đặc điểm của các nhân vật đó về lứa tuổi, vốn sống, trình độ hiểu biết, nghề nghiệp? (?) Hoạt động giao tiếp đó diễn ra trong hoàn cảnh nào? (?) Nội dung giao tiếp thuộc lĩnh vực nào? (?) Văn bản này nhằm mục đích gì? (?) Phương tiện giao tiếp và cách thức giao tiếp ở đây là gì? (?)Nêu khái niệm về hoạt động giao tiếp? (?)Hoạt động giao tiếp có vai trò như thế nào trong đời sống? (?)Hoạt động giao tiếp gồm những mục đích gì? (?) Xác định mục đích giao tiếp trong văn bản 1, văn bản 2 (SGK). (?) Xác định mục đích giao tiếp trong văn bản sau: Thuyền ơi có nhớ bến chăng Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền (?)Hoạt động giao tiếp bao gồm những quá trình nào? (?)Em hiểu như thế nào về quá trình tạo lập và quá trình lĩnh hội văn bản? (?) Em có nhận xét gì về mối quan hệ giữa hai quá trình của hoạt động giao tiếp? (?) Có những nhân tố nào tham gia vào hoạt động giao tiếp? (?) Nhân vật giao tiếp gồm những ai? (?) Nhân vật giao tiếp có đặc điểm gì? (?) Em hiểu như thế nào về hoàn cảnh giao tiếp, nội dung giao tiếp, mục đích giao tiếp, phương tiện và cách thức giao tiếp? (?) Theo em làm thế nào để nâng cao hiệu quả giao tiếp trong đời sống? I. Thế nào là hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ: 1. Văn bản thứ nhất: a. Nhân vật giao tiếp – Vua Trần và các bô lão trong hội nghị là nhân vật tham gia giao tiếp. – Vua cai quản đất nước, đứng đầu triều đình, là bề trên. – Các bô lão đại diện cho các tầng lớp nhân dân, là bề dưới àCác nhân vật giao tiếp có vị thế khác nhau nên ngôn ngữ giao tiếp khác nhau (từ xưng hô, từ thể hiện thái độ, các câu nói tỉnh lược.) b. Quá trình giao tiếp – Vua nói => các bô lão nghe => các bô lão nói (trả lời) => vua nghe. – Khi người nói (viết ) tạo ra văn bản nhằm biểu đạt nội dung tư tưởng tình cảm của mình thì người nghe (đọc ) tiến hành các hoạt động nghe (đọc ) để giải mã rồi lĩnh hội nội dung đó. Người nói và người nghe có thể đổi vai cho nhau. à HĐGT có hai quá trình: tạo lập văn bản và lĩnh hội văn bản. c. Hoàn cảnh giao tiếp – HĐGT diễn ra ở điện Diên Hồng. Lúc này, quân Nguyên Mông kéo 50 vạn quân ồ ạt sang xâm lược nước ta lần thứ 2. d. Nội dung giao tiếp – Bàn về nguy cơ đất nước bị giặc ngoại xâm và bàn bạc sách lược đối phó. e. Mục đích giao tiếp – Bàn bạc và thống nhất sách lược đối phó với quân giặc. à Cuộc giao tiếp đã đi đến thống nhất ý chí và hành động để chiến đấu bảo vệ tổ quốc, nghĩa là đã đạt được mục đích 2.Văn bản “Tổng quan văn học Việt Nam”: a. Nhân vật – Người viết sách: tác giả SGK, người viết có trình độ hiểu biết cao hơn, có vốn sống và nghề của họ là nghiên cứu, giảng dạy + Người đọc: Học sinh, trẻ tuổi hơn, vốn sống và trình độ hiểu biết thấp hơn. b. Hoàn cảnh – HĐGT thông qua văn bản đó được tiến hành trong hoàn cảnh “quy phạm” tức là có tổ chức, có mục đích, có nội dung và được thực hiện theo chương trình có tính pháp lí trong nhà trường. c. Nội dung – NDGT thuộc lĩnh vực văn học, về đề tài “ Tổng quan…” gồm những vấn đề cơ bản: + Các bộ phận hợp thành của nền VHVN + Quá trình phát triển của VH viết Việt Nam. + Con người VN qua văn học. d. Mục đích – Có hai khía cạnh: + Người viết: trình bày một cách tổng quát một số vấn đề cơ bản về văn học VN. + Người đọc: Thông qua đọc và học văn bản đó mà tiếp nhận, lĩnh hội những kiến thức cơ bản về VHVN trong tiến trình lịch sử.e. Phương tiện – Dùng nhiều thuật ngữ thuộc ngành KHXH, chuyên ngành ngữ văn. – Văn bản có kết cấu rõ ràng với các đề mục lớn nhỏ thể hiện tính mạch lạc, độc lập tương đối về nội dung của từng phần, chặt chẽ thống nhất trong nội dung toàn bài. 3. Kết luận – Khái niệm: HĐGT là hoạt động trao đổi thông tin của con người được tiến hành chủ yếu bằng phương tiện ngôn ngữ, nhằm thực hiện những mục đích về nhận thức, tình cảm, hành động,… – Hai quá trình trong HĐGT: + Người nói (viết) sản sinh lời nói, câu văn. còn gọi là tạo lập văn bản. + Người nghe (đọc) tiếp nhận và lĩnh hội. --> Quan hệ tương tác – Những nhân tố của HĐGT: + Nhân vật giao tiếp: Ai nói( viết)? Nói với ( viết cho) ai? + Hoàn cảnh giao tiếp: nói viết trong hoàn cảnh nào, ở đâu, khi nào? + Nội dung giao tiếp: nói/ viết về vấn đề gì, cái gì? + Mục đích giao tiếp: nói/ viết để làm gì, nhằm mục đích gì? + Phương tiện và cách thức giao tiếp: Nói/ viết như thế nào, bằng phương tiện gì? . III. Hoạt động 3. Luyện tập – GV yêu cầu HS phân tích các nhân tố giao tiếp trong hoạt động giao tiếp mua bán giữa người mua và người bán ở chợ? Hoạt động 4+5: Hoạt động vận dụng, mở rộng – Vẽ sơ đồ mô hình hóa hai quá trình của hoạt động giao tiếp – Phân tích các nhân tố giao tiếp trong câu ca dao sau: Đường xa thì thật là xa Mượn mình làm mối cho ta một người
Hướng dẫn Tiết 55 CÁC HÌNH THỨC KẾT CẤU CỦA VĂN BẢN THUYẾT MINH I.Mục tiêu bài học. 1.Kiến thức: Nắm vững khái niệm, các hình thức kết cấu của văn bản thuyết minh và biết cách xây dựng kết cấu của văn bản thuyết minh. 2.Kĩ năng: Có kĩ năng lựa chọn và xây dựng kết cấu phù hợp với đối tượng thuyết minh. 3.thái độ: Có ý thức vận dụng các dạng kết cấu để tạo lập hiệu quả các văn bản thuyết minh trong giao tiếp. Chuẩn bị bài học 1.Phương tiện dạy học: – HS: SGK, tranh ảnh, băng đĩa,clip… – GV: Giáo án, sgk,sgv,máy chiếu, … 2.Phương pháp dạy học: Truyền đạt trực tiếp, phân tích mẫu, thực hành, dạy học theo nhóm, nêu và giải quyết vấn đề, tự học…. TRƯỚC LỚP HỌC -Nhiệm vụ học tập cho hoạt động hình thành kiến thức: HS đọc hai văn bản Hội thổi cơm thi ở Đồng Vân ( Tổ 1-2 ) và Bưởi Phúc Trạch ( tổ 3-4 ). Xác định nội dung chính và trình tự sắp xếp. -Nhiệm vụ học tập cho hoạt động khởi động, luyện tập, vận dụng: 4 tổ lựa chọn đối tượng thuyết minh theo năng lực, sưu tầm tư liệu về đối tượng thuyết minh để chuẩn bị cho hoạt động luyện tập; Nhóm ( tổ ) 1-2: Thuyết minh về trường THPT Kim Xuyên có hình ảnh và thuyết minh bằng lời nói. Tham gia hoạt động khởi động: Nhóm ( tổ ) 3-4: Thuyết minh về một nét văn hóa độc đáo ở địa phương, có trình chiếu và thuyết minh bằng lời nói. Tham gia hoạt động vận dụng. Hình thức: Học theo lớp, theo nhóm III. Tổ chức hoạt động dạy học: Trong lớp học 1.HOẠT ĐỘNG KHỞI ĐỘNG: Vượt qua thử thách. – Mục đích: thu hút sự tập trung chú ý, tư duy, nhận thức, gợi hứng thú, chuẩn bị tâm thế; huy động kiến thức cũ, kiên thức liên quan làm hành trang để tiếp nhận kiến thức mới. -Phương pháp:trực quan, trải nghiệm. – Thời gian: 5 phút. – Một văn hóa có ở địa phương – Một đoạn quảng cáo nào đó mà em thích – Về mái trường THPT Kim Xuyên giàu văn hóa và truyền thống học tập. ( Nhắc HS nhớ từng nội dung văn bản ) GV: Định hướng HS nhớ lại kiến thức, trình bày suy nghĩ cá nhân cho câu hỏi: -Văn bản thuyết minh là gì? -Nêu những yêu cầu cơ bản của văn bản thuyết minh “? ( Căn bản HS đưa ra được những nội dung căn bản của văn bản thuyết minh và những yêu cầu của văn bản thuyết minh ) -Văn bản thuyết minh: Giới thiệu, trình bày chính xác khách quan về cấu tạo, tính chất, khách quan giá trị của sự vật hiện tượng, thuộc tự nhiên, xã hội, con người. -Yêu cầu: Tri thức cung cấp phải khách quan, xác thực, hữu ích với con người; trình bày chính xác, rõ ràng, chặt chẽ, hấp dẫn. 2.HOẠT ĐỘNG HÌNH THÀNH KIẾN THỨC MỚI. -Mục đích: hình thành cho HS khái niệm, yêu cầu, các hình thức kết cấu và cách xây dựng kết cấu của văn bản thuyết minh. –Phương pháp: truyền đạt trực tiếp, phân tích mẫu, dạy học theo nhóm, nêu và giải quyết vấn đề thảo luận. -Thời gian: 20 phút. Gv: Định hướng Dựa vào văn bản thuyết minh: Hội thổi cơm thi ở Đồng Vân Hỏi: – Em hiểu thế nào là kết cấu? Kết cấu của văn bản là gì? HS: Trình bày theo nhóm treo trình tự thời gian GV: Nêu vấn đề: Tại sao tác giả lại lựa chọn những nội dung chính đó? Tại sao lại sắp xếp kết cấu như vậy? HS: Lí giải ( Gv có thể kết hợp cùng HS lí giải vấn đề) Lễ hội: có hai phần lễ và hội.Hội thổi cơm là phần khai hội. Có thể nói Nội dung thuyết minh cần được sắp xếp theo trình tự thời gian, nội dung nào diễn ra trước thì thuyết minh trước, nội dung nào sau thì thuyết minh sau. GV: Kết cấu của văn bản thuyết minh cần đảm bảo yêu cầu gì? HS: phán đoán, suy luận GV kết luận GV trình chiếu các dạng kết cấu của văn bản thuyết minh. Yêu cầu HS xác định văn bản thuyết minh bưởi Phúc Trạch thuộc kết cấu nào? HS: Theo nhóm trình bày nội dung ( trình chiếu lên bảng theo yêu cầu về nhà ). Xác định dạng kết cấu. Cụ thể: -Đối tượng thuyết minh: Bưởi Phúc Trạch- trái cây nổi tiếng, -Mục đích thuyết minh: giúp người đọc đọc cảm nhận được hình dáng, màu sắc, hương vị hấp dẫn và sự bổ dưỡng của bưởi Phúc Trạch. -Nội dung chính: +Giới thiệu nguồn gốc, nét đọc đáo. + Mô tả đặc điểm: ngoài, bên trong, hương vị. +Giá trị: bổ dưỡng. + sự nổi tiếng. => Hình thức kết cấu theo trình tự thời gian. 1.Khái niệm a.Ví dụ: Kết cấu của văn bản Hội thổi cơm thi ở Đồng Vân *.Giới thiệu: Thời gian, địa điểm, nét độc đáo. *.Mô tả diễn biến: – Dâng hương khai hội: + Tiếng chiêng điểm ban hồi. + Các đội xếp hàng dâng hương. –Thi nấu cơm: + Chuẩn bị: lấy lửa, chuẩn bị gạo, lấy nước. + Thổi cơm: nồi cơm treo, cầm cần, cầm đuốc, lửa bập bùng. -Chấm thi: thời gian, tiêu chí chấm, cách thức chấm. *,Ý nghĩa của lễ hội: Lễ hội Thổi cơm thi ở Đồng Vân gắn liền với truyền thống đánh giặc của cha ông; là sân chơilanhf mạnh, bổ ích có tác dụng giữ gìn và phát huy truyền thống văn hóa của dân tộc. Văn bản được kết cấu theo trình tự thời gian. b.Khái niệm: kết cấu của văn bản thuyết minhlaf cách tổ chức, sắp xếp những nội dung cơ banrtheo một trình tự nào đó để giới thiệu về sự vật, hiện tượng của tự nhiên và xã hội con người. 2.Yêu cầu của văn bản thuyết minh: – Phù hợp với đối tượng thuyết minh, mục đích thuyết minh và người tiếp nhận. -Chặt chẽ, chính xác, khoa học II.Các dạng kết cấu của văn bản thuyết minh: -Theo trình tự thời gian: trình bày sự vật theo quá trình hình thành, vận động và phát triển. – Theo trình tự không gian: trình bày sự vật theo tổ chức vốn có của nó ( bên trên, bên dưới, bên trong, bên ngoài, hoặc theo trình tự quan sát ) -Theo trình tự logic: trình bày sự vật theo các mối quan hệ khác nhau ( nguyên nhân- kết quả, Chung – riêng, liệt kê các mặt, các phương diện,,,, ) -Theo trình tự hỗn hợp: trình bày sự vật với sự kết hợp nhiều trình tự khác nhau. 3.HOẠT ĐỘNG LUYỆN TẬP – Mục đích:Rèn luyện kĩ năng lựa chọn và xây dựng kết cấu của văn bản thuyết minh. – Phương pháp: Thực hành, dạy học bằng tình huống. ­-Thời gian: 15 phút. -Gv hướng dẫn HS đọc văn bản, thảo luận theo nhóm ( bàn ) xác định hình thức kết cấu nào là hợp lí? -Gv và HS cùng đưa ra kết luận Bài tập 1. -Chọn hình thức kết cấu 3 và 4 không chọn hình thức kết cấu 1 va 2. -Đâz chỉ là thuyết minh gới thiệu về bài thơ chứ không phải phân tích bài thơ nên không cần phải đi quá sâu vào từng câu, từng hình ảnh…. Bài tập 2 -Khi gới thiệu một di tích, một thắng cảnh đất nước có thể dựa trên các nội dung sau: +Địa điểm, nguồn gốc lịch sử của di tích. + Miêu tả vẻ đẹp của di tích. + Ý nghĩa, giá trị của di tích. -Có thể sắp xếp theo trình tự như trên nhưng khi miêu tả vẻ đẹp của di tích có thể sắp xếp theo trình tự không gian: xa- gần, ngoài-trong…. HOẠT ĐỘNG VẬN DỤNG. – Mục đích: Phát triển năng lực vận dụng kiến thức vào giải quyết các tình huống thực tiễn; năng lực tự học, năng lực nghiên cứu,sáng tạo; tăng cường tính thực tiễn cho bài học. – Phương pháp: Tự học, thuyết trình. -Thời gian: 5 phút. Gv cho HS trình chiếu đoạn Clip thuyết minh về mái trường THPT Kim Xuyên giàu văn hóa và truyền thống học tập. -Các tổ góp ý xây dựng cho đoạn Clip của nhóm được phân công thuyết minh về mái trường THPT Kim Xuyên giàu văn hóa và truyền thống học tập. Trình chiếu Clip thuyết minh về mái trường THPT Kim Xuyên giàu văn hóa và truyền thống học tập. SAU LỚP HỌC 5.HOẠT ĐỘNG TÌM TÒI, MỞ RỘNG. – Mục đích: Giúp HS tìm tòi, mở rộng kiến thức trong thực tiễn giao tiếp. ­- Phương pháp: Tự học, thực hành. -Thời gian: Làm ở nhà Nội dung yêu cầu: + Sưu tầm một văn bản thuyết minh trên truyền hình và chỉ ra kết cấu của văn bản đó. Lí giải rõ vì sao văn bản đó lại được kết cấu như vậy? Phát hiện điểm chưa hợp lí và nội dung cần bổ sung trong kết cấu nếu có. + Hãy xây dựng kết cấu và viết một văn bản thuyết minh mà em đã, sẽ sử dụng trong thực tiễn giao tiếp. + Nhiệm vụ nối tiếp: Thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu chuẩn bị cho bài: Lập dàn ý cho bài văn thuyết minh. Rút kinh nghiệm:
Hướng dẫn Tiết 55 CÁC HÌNH THỨC KẾT CẤU CỦA VĂN BẢN THUYẾT MINH I.Mục tiêu bài học. 1.Kiến thức: Nắm vững khái niệm, các hình thức kết cấu của văn bản thuyết minh và biết cách xây dựng kết cấu của văn bản thuyết minh. 2.Kĩ năng: Có kĩ năng lựa chọn và xây dựng kết cấu phù hợp với đối tượng thuyết minh. 3.thái độ: Có ý thức vận dụng các dạng kết cấu để tạo lập hiệu quả các văn bản thuyết minh trong giao tiếp. Chuẩn bị bài học 1.Phương tiện dạy học: – HS: SGK, tranh ảnh, băng đĩa,clip… – GV: Giáo án, sgk,sgv,máy chiếu, … 2.Phương pháp dạy học: Truyền đạt trực tiếp, phân tích mẫu, thực hành, dạy học theo nhóm, nêu và giải quyết vấn đề, tự học…. TRƯỚC LỚP HỌC -Nhiệm vụ học tập cho hoạt động hình thành kiến thức: HS đọc hai văn bản Hội thổi cơm thi ở Đồng Vân ( Tổ 1-2 ) và Bưởi Phúc Trạch ( tổ 3-4 ). Xác định nội dung chính và trình tự sắp xếp. -Nhiệm vụ học tập cho hoạt động khởi động, luyện tập, vận dụng: 4 tổ lựa chọn đối tượng thuyết minh theo năng lực, sưu tầm tư liệu về đối tượng thuyết minh để chuẩn bị cho hoạt động luyện tập; Nhóm ( tổ ) 1-2: Thuyết minh về trường THPT Kim Xuyên có hình ảnh và thuyết minh bằng lời nói. Tham gia hoạt động khởi động: Nhóm ( tổ ) 3-4: Thuyết minh về một nét văn hóa độc đáo ở địa phương, có trình chiếu và thuyết minh bằng lời nói. Tham gia hoạt động vận dụng. Hình thức: Học theo lớp, theo nhóm III. Tổ chức hoạt động dạy học: Trong lớp học 1.HOẠT ĐỘNG KHỞI ĐỘNG: Vượt qua thử thách. – Mục đích: thu hút sự tập trung chú ý, tư duy, nhận thức, gợi hứng thú, chuẩn bị tâm thế; huy động kiến thức cũ, kiên thức liên quan làm hành trang để tiếp nhận kiến thức mới. -Phương pháp:trực quan, trải nghiệm. – Thời gian: 5 phút. – Một văn hóa có ở địa phương – Một đoạn quảng cáo nào đó mà em thích – Về mái trường THPT Kim Xuyên giàu văn hóa và truyền thống học tập. ( Nhắc HS nhớ từng nội dung văn bản ) GV: Định hướng HS nhớ lại kiến thức, trình bày suy nghĩ cá nhân cho câu hỏi: -Văn bản thuyết minh là gì? -Nêu những yêu cầu cơ bản của văn bản thuyết minh “? ( Căn bản HS đưa ra được những nội dung căn bản của văn bản thuyết minh và những yêu cầu của văn bản thuyết minh ) -Văn bản thuyết minh: Giới thiệu, trình bày chính xác khách quan về cấu tạo, tính chất, khách quan giá trị của sự vật hiện tượng, thuộc tự nhiên, xã hội, con người. -Yêu cầu: Tri thức cung cấp phải khách quan, xác thực, hữu ích với con người; trình bày chính xác, rõ ràng, chặt chẽ, hấp dẫn. 2.HOẠT ĐỘNG HÌNH THÀNH KIẾN THỨC MỚI. -Mục đích: hình thành cho HS khái niệm, yêu cầu, các hình thức kết cấu và cách xây dựng kết cấu của văn bản thuyết minh. –Phương pháp: truyền đạt trực tiếp, phân tích mẫu, dạy học theo nhóm, nêu và giải quyết vấn đề thảo luận. -Thời gian: 20 phút. Gv: Định hướng Dựa vào văn bản thuyết minh: Hội thổi cơm thi ở Đồng Vân Hỏi: – Em hiểu thế nào là kết cấu? Kết cấu của văn bản là gì? HS: Trình bày theo nhóm treo trình tự thời gian GV: Nêu vấn đề: Tại sao tác giả lại lựa chọn những nội dung chính đó? Tại sao lại sắp xếp kết cấu như vậy? HS: Lí giải ( Gv có thể kết hợp cùng HS lí giải vấn đề) Lễ hội: có hai phần lễ và hội.Hội thổi cơm là phần khai hội. Có thể nói Nội dung thuyết minh cần được sắp xếp theo trình tự thời gian, nội dung nào diễn ra trước thì thuyết minh trước, nội dung nào sau thì thuyết minh sau. GV: Kết cấu của văn bản thuyết minh cần đảm bảo yêu cầu gì? HS: phán đoán, suy luận GV kết luận GV trình chiếu các dạng kết cấu của văn bản thuyết minh. Yêu cầu HS xác định văn bản thuyết minh bưởi Phúc Trạch thuộc kết cấu nào? HS: Theo nhóm trình bày nội dung ( trình chiếu lên bảng theo yêu cầu về nhà ). Xác định dạng kết cấu. Cụ thể: -Đối tượng thuyết minh: Bưởi Phúc Trạch- trái cây nổi tiếng, -Mục đích thuyết minh: giúp người đọc đọc cảm nhận được hình dáng, màu sắc, hương vị hấp dẫn và sự bổ dưỡng của bưởi Phúc Trạch. -Nội dung chính: +Giới thiệu nguồn gốc, nét đọc đáo. + Mô tả đặc điểm: ngoài, bên trong, hương vị. +Giá trị: bổ dưỡng. + sự nổi tiếng. => Hình thức kết cấu theo trình tự thời gian. 1.Khái niệm a.Ví dụ: Kết cấu của văn bản Hội thổi cơm thi ở Đồng Vân *.Giới thiệu: Thời gian, địa điểm, nét độc đáo. *.Mô tả diễn biến: – Dâng hương khai hội: + Tiếng chiêng điểm ban hồi. + Các đội xếp hàng dâng hương. –Thi nấu cơm: + Chuẩn bị: lấy lửa, chuẩn bị gạo, lấy nước. + Thổi cơm: nồi cơm treo, cầm cần, cầm đuốc, lửa bập bùng. -Chấm thi: thời gian, tiêu chí chấm, cách thức chấm. *,Ý nghĩa của lễ hội: Lễ hội Thổi cơm thi ở Đồng Vân gắn liền với truyền thống đánh giặc của cha ông; là sân chơilanhf mạnh, bổ ích có tác dụng giữ gìn và phát huy truyền thống văn hóa của dân tộc. Văn bản được kết cấu theo trình tự thời gian. b.Khái niệm: kết cấu của văn bản thuyết minhlaf cách tổ chức, sắp xếp những nội dung cơ banrtheo một trình tự nào đó để giới thiệu về sự vật, hiện tượng của tự nhiên và xã hội con người. 2.Yêu cầu của văn bản thuyết minh: – Phù hợp với đối tượng thuyết minh, mục đích thuyết minh và người tiếp nhận. -Chặt chẽ, chính xác, khoa học II.Các dạng kết cấu của văn bản thuyết minh: -Theo trình tự thời gian: trình bày sự vật theo quá trình hình thành, vận động và phát triển. – Theo trình tự không gian: trình bày sự vật theo tổ chức vốn có của nó ( bên trên, bên dưới, bên trong, bên ngoài, hoặc theo trình tự quan sát ) -Theo trình tự logic: trình bày sự vật theo các mối quan hệ khác nhau ( nguyên nhân- kết quả, Chung – riêng, liệt kê các mặt, các phương diện,,,, ) -Theo trình tự hỗn hợp: trình bày sự vật với sự kết hợp nhiều trình tự khác nhau. 3.HOẠT ĐỘNG LUYỆN TẬP – Mục đích:Rèn luyện kĩ năng lựa chọn và xây dựng kết cấu của văn bản thuyết minh. – Phương pháp: Thực hành, dạy học bằng tình huống. ­-Thời gian: 15 phút. -Gv hướng dẫn HS đọc văn bản, thảo luận theo nhóm ( bàn ) xác định hình thức kết cấu nào là hợp lí? -Gv và HS cùng đưa ra kết luận Bài tập 1. -Chọn hình thức kết cấu 3 và 4 không chọn hình thức kết cấu 1 va 2. -Đâz chỉ là thuyết minh gới thiệu về bài thơ chứ không phải phân tích bài thơ nên không cần phải đi quá sâu vào từng câu, từng hình ảnh…. Bài tập 2 -Khi gới thiệu một di tích, một thắng cảnh đất nước có thể dựa trên các nội dung sau: +Địa điểm, nguồn gốc lịch sử của di tích. + Miêu tả vẻ đẹp của di tích. + Ý nghĩa, giá trị của di tích. -Có thể sắp xếp theo trình tự như trên nhưng khi miêu tả vẻ đẹp của di tích có thể sắp xếp theo trình tự không gian: xa- gần, ngoài-trong…. HOẠT ĐỘNG VẬN DỤNG. – Mục đích: Phát triển năng lực vận dụng kiến thức vào giải quyết các tình huống thực tiễn; năng lực tự học, năng lực nghiên cứu,sáng tạo; tăng cường tính thực tiễn cho bài học. – Phương pháp: Tự học, thuyết trình. -Thời gian: 5 phút. Gv cho HS trình chiếu đoạn Clip thuyết minh về mái trường THPT Kim Xuyên giàu văn hóa và truyền thống học tập. -Các tổ góp ý xây dựng cho đoạn Clip của nhóm được phân công thuyết minh về mái trường THPT Kim Xuyên giàu văn hóa và truyền thống học tập. Trình chiếu Clip thuyết minh về mái trường THPT Kim Xuyên giàu văn hóa và truyền thống học tập. SAU LỚP HỌC 5.HOẠT ĐỘNG TÌM TÒI, MỞ RỘNG. – Mục đích: Giúp HS tìm tòi, mở rộng kiến thức trong thực tiễn giao tiếp. ­- Phương pháp: Tự học, thực hành. -Thời gian: Làm ở nhà Nội dung yêu cầu: + Sưu tầm một văn bản thuyết minh trên truyền hình và chỉ ra kết cấu của văn bản đó. Lí giải rõ vì sao văn bản đó lại được kết cấu như vậy? Phát hiện điểm chưa hợp lí và nội dung cần bổ sung trong kết cấu nếu có. + Hãy xây dựng kết cấu và viết một văn bản thuyết minh mà em đã, sẽ sử dụng trong thực tiễn giao tiếp. + Nhiệm vụ nối tiếp: Thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu chuẩn bị cho bài: Lập dàn ý cho bài văn thuyết minh. Rút kinh nghiệm:
Hướng dẫn TRƯỜNG THPT CHUYÊN – ĐẠI HỌC VINH Đề thi môn Ngữ văn- Khối 10 Câu 1 (8 điểm) Sống là chuyển động và hành động Trình bày suy nghĩ của anh/chị về vấn đề trên. Câu 2 (12 điểm) “Văn học làm cho con người thêm phong phú, tạo khả năng cho con người lớn lên, hiểu được con người nhiều hơn” (M.L.Kalinine). Anh/chị hiểu như thế nào về ý kiến trên? Hãy làm sáng tỏ vấn đề đó qua việc phân tích một số tác phẩm văn học dân gian trong chương trình Ngữ văn 10 nâng cao. ————————-Hết——————— Họ và tên người ra đề: Nguyễn Thị Kim Anh ĐÁP ÁN ĐỀ THI MÔN: NGỮ VĂN KHÔI 10 – Sống là gì. – Chuyển động và hành động không chỉ là vấn đề của cơ thể, sự dịch chuyển vị trí của con người trong không gian mà thực chất là nói tới sự chủ động, năng động trong cuộc sống, nói tới sự linh hoạt nhập cuộc và khả năng song hành cùng thời đại của mỗi con người. – Ý kiến trên có thể xem là phương châm sống đúng đắn và cần thiết đối với mỗi con người. Chúng ta cần kết hợp hài hòa hai yếu tố này. 1,5 – Tại sao sống là phải chuyển động và hành động? + Bản chất cuộc sống của con người là luôn phải có sự chuyển động, thay đổi về mọi mặt: Tư duy, nhận thức, hành động, ứng xử… + Xã hội luôn phát triển, vận động liên tục, đặc biệt ở thời hiện đại. Vì vậy, con người cũng phải liên tục chuyển động cho kịp với quỹ đạo cuộc sống. + Cuộc sống phức tạp với nhiều thách thức, cơ hội luôn đặt ra. Do đó, con người phải hành động phù hợp với tinh thần sẵn sàng nhập cuộc, nắm bắt thời cơ thực hiện kế hoạch trước mắt, điều chỉnh kế hoạch lâu dài… – Ý nghĩa của vấn đề: + Theo kịp với sự phát triển của xã hội, tránh tụt hậu. + Thực hiện được mục đích đặt ra, khẳng định được giá trị đích thực của cuộc sống, đạt được thành công… – Mở rộng Tuy nhiên: + Sự chuyển động phải mang tính chất tích cực, khác xa với lối ứng xử “gió chiều nào xoay chiều ấy”, a dua, xu thời. + Chuyển động, hành động phải dựa trên nền tảng tư duy biện chứng; không chỉ gắn với bước đi lớn mà còn có bước đi nhỏ, có khởi động, có tăng tốc và có nước rút. 4,0 1,0 – Hiểu ý nghĩa, tác dụng của vấn đề đối với việc tu dưỡng, phấn đấu của con người nói chung và của thanh niên hiện nay nói riêng. – Luôn có sự chuyển động không ngừng về mọi mặt, tích cực trong hành động. – Khắc phục thói quen và thái độ “há miệng chờ sung”; chuẩn bị tốt nhất về mọi mặt từ tinh thần đến kiến thức và các kỹ năng thiết yếu mà thời địa đòi hỏi. 1,5 II. Yêu cầu cụ thể: Thí sinh có thể trình bày theo nhiều cách khác nhau nhưng cần đảm bảo các yêu cầu sau: “Văn học làm cho con người thêm phong phú, tạo khả năng cho con người lớn lên, hiểu được con người nhiều hơn” – Văn học: Loại hình nghệ thuật ngôn từ, phản ánh hiện thực bằng cách sáng tạo các hình tượng nghệ thuật, qua đó bày tỏ quan điểm, thái độ của người nghệ sĩ với cuộc sống. – Lời nhận định của M. L. Kalinine đề cập đến những chức năng của văn học: + Làm cho con người thêm phong phú, tức là đem lại những nhận thức mới mẻ, sâu sắc về cuộc đời, giúp họ có thêm những trải nghiệm cuộc sống; làm nảy nở trong con người những tình cảm mới, rèn dũa những tình cảm cũ… + “Tạo khả năng để con người lớn lên”: Lớn lên về tri thức, nhân cách, tâm hồn; sống tốt đẹp hơn, biết ứng xử một cách nhân văn… + Hiểu được con người nhiều hơn: thấu hiểu bản chất của con người, qua đó thấu hiểu chính bản thân mình. 2,0 – Vì sao nói “Văn học làm cho con người thêm phong phú?” + Văn học là tấm gương phản ánh cuộc sống, là cuốn bách khoa toàn thư về cuộc sống. Qua văn học, con người có được những hiểu biết sâu sắc hơn về tự nhiên, về xã hội, về chính bản thân mình. + Mặt khác, văn học là “tiếng nói của tình cảm, là sự giãi bày và gửi gắm tâm tư”. Qua văn học, con người tìm thấy mình trong đó, cảm nhận được những cung bậc tình cảm đa dạng trong thế giới nội tâm con người, được giãi bày, được đồngcảm, được sẻ chia, được gợi ra những tình cảm chưa có, được trui rèn những tình cảm sẵn có. + Hơn thế nữa, mỗi tác phẩm văn học là một cuộc trải nghiệm nhiều hơn, sống nhiều hơn qua những cuộc đời khác nhau, được nhìn cuộc đời dưới nhiều lăng kính, được lắng nghe nhiều luồng tư tưởng, được đối thoại với nhà văn – Chính vì vậy, văn học “tạo khả năng giúp con người lớn lên” + Từ những trải nghiệm đó, văn học giúp con người lớn lên về mặt nhân cách, về mặt tâm hồn. Văn học, qua con đường tình cảm truyền đạt đến con người những bài học đạo đức, nhân sinh, những bài học tác động vào con đường tình cảm, trong quá trình chuyển từ giáo dục thành tự giáo dục. + Thật vậy, tìm đến tác phẩm văn học, người đọc đâu chỉ mong chờ một vài giây phút giải trí bâng quơ. Trang sách đóng lại, tác phẩm nghệ thuật mới mở ra, “Cuộc đời là điểm khởi đầu và là điểm đi tới của văn chương”, mỗi tác phẩm như một nấc thang nâng đỡ bước chân người đọc tách khỏi phần con để đi đến phần người, tiệm cận các giá trị Chân Thiện Mỹ mà họ hằng ngưỡng vọng. – Vì sao văn học giúp con ngườihiểu được con người nhiều hơn + Đối tượng phản ánh của văn học chính là con người trong các mối quan hệ xã hội, soi chiếu dưới lăng kinh thẩm mỹ. Văn học tìm hiểu những vẻ đẹp, những “hạt ngọc ẩn giấu trong tâm hồn con người” (Nguyễn Minh Châu), văn học khám phá những khát vọng muôn thuở của nhân loại, tìm lời giải đáp cho những trăn trở có tính nhân bản: vấn đề sống – chết, vấn đề chiến tranh – hòa bình, vấn đề ý nghĩa của cuộc sống… + Mục đích của quá trình ấy chính là để cho người đọc hiểu thêm về con người – cũng là hiểu thêm về chính mình. Chỉ khi hiểu biết sâu sắc về con người, mỗi cá nhân mới có thể trở thành một lực lượng vật chất tích cực, giúp văn học thực hiện sứ mệnh cải tạo cuộc sống. – Văn học có thiên chức lớn lao như vậy, nên người nghệ sĩ cũng phải có sự kết hợp giữa cái tâm và cái tài 2,0 Học sinh có thể chọn một số tác phẩm thuộc các thể loại khác nhau của văn học dân gian (sử thi, truyền thuyết, cổ tích, truyện cười, truyện thơ, ca dao, tục ngữ…) để phân tích làm rõ vấn đề trên các phương diện sau: 1.– Văn học làm cho con người thêm phong phú: + Văn học cung cấp cho con người tri thức về tự nhiên, xã hội, con người. + Văn học tạo cho con người những tình cảm mới mẻ mà họ chưa có, rèn luyện cho họ những tình cảm sẵn có. + Văn học giúp con người có thêm nhiều trả nghiệm sống thông qua việc nhập thân vào nhân vật. 2.– Qua đó, văn học giúp người đọc lớn hơn. + Họ nhận ra được hiện thực cuộc sống để hình thành các phẩm chất tốt đẹp, thanh lọc tâm hồn, hướng tới chân thiện mỹ. 3.– Văn học giúp người đọc hiểu thêm về con người + Vẻ đẹp của con người (trọng tâm là vẻ đẹp tâm hồn) + Bản chất của con người: khát vọng sống, khát vọng hòa bình, công lý, hạnh phúc; khao khát yêu thương, mong muốn sống một cuộc đời có ý nghĩa… + Hiểu về chính bản thân mình. 6,0 – Khẳng định lại tính đúng đắn của nhận định. – Khẳng định văn học dân gian là kho tàng quý giá, bộ bách khoa toàn thư cung cấp kiến thức phong phú trên mọi phương diện; bồi dưỡng tâm hồn, đạo đức cho con người. – Bài học sáng tạo và tiếp nhận: + Văn chương phải gắn bó với đời sống và có những tác động tích cực đến con người và xã hội + Để đạt được những điều tác giả nhận định nói, mỗi nhà văn còn cần một hình thức nghệ thuật phù hợp và độc đáo để làmnên hình hài sắc vóc cho tác phẩm văn học, giúp tác phẩm đến gần hơn với bạn đọc. + Đọc văn là quá trình tự nhận thức, tự giáo dục. Qua đó người đọc nâng cao hiểu biết và thanh lọc tâm hồn, bồi đắp đạo đức. 2,0
Hướng dẫn TRƯỜNG THPT CHUYÊN – ĐẠI HỌC VINH Đề thi môn Ngữ văn- Khối 10 Câu 1 (8 điểm) Sống là chuyển động và hành động Trình bày suy nghĩ của anh/chị về vấn đề trên. Câu 2 (12 điểm) “Văn học làm cho con người thêm phong phú, tạo khả năng cho con người lớn lên, hiểu được con người nhiều hơn” (M.L.Kalinine). Anh/chị hiểu như thế nào về ý kiến trên? Hãy làm sáng tỏ vấn đề đó qua việc phân tích một số tác phẩm văn học dân gian trong chương trình Ngữ văn 10 nâng cao. ————————-Hết——————— Họ và tên người ra đề: Nguyễn Thị Kim Anh ĐÁP ÁN ĐỀ THI MÔN: NGỮ VĂN KHÔI 10 – Sống là gì. – Chuyển động và hành động không chỉ là vấn đề của cơ thể, sự dịch chuyển vị trí của con người trong không gian mà thực chất là nói tới sự chủ động, năng động trong cuộc sống, nói tới sự linh hoạt nhập cuộc và khả năng song hành cùng thời đại của mỗi con người. – Ý kiến trên có thể xem là phương châm sống đúng đắn và cần thiết đối với mỗi con người. Chúng ta cần kết hợp hài hòa hai yếu tố này. 1,5 – Tại sao sống là phải chuyển động và hành động? + Bản chất cuộc sống của con người là luôn phải có sự chuyển động, thay đổi về mọi mặt: Tư duy, nhận thức, hành động, ứng xử… + Xã hội luôn phát triển, vận động liên tục, đặc biệt ở thời hiện đại. Vì vậy, con người cũng phải liên tục chuyển động cho kịp với quỹ đạo cuộc sống. + Cuộc sống phức tạp với nhiều thách thức, cơ hội luôn đặt ra. Do đó, con người phải hành động phù hợp với tinh thần sẵn sàng nhập cuộc, nắm bắt thời cơ thực hiện kế hoạch trước mắt, điều chỉnh kế hoạch lâu dài… – Ý nghĩa của vấn đề: + Theo kịp với sự phát triển của xã hội, tránh tụt hậu. + Thực hiện được mục đích đặt ra, khẳng định được giá trị đích thực của cuộc sống, đạt được thành công… – Mở rộng Tuy nhiên: + Sự chuyển động phải mang tính chất tích cực, khác xa với lối ứng xử “gió chiều nào xoay chiều ấy”, a dua, xu thời. + Chuyển động, hành động phải dựa trên nền tảng tư duy biện chứng; không chỉ gắn với bước đi lớn mà còn có bước đi nhỏ, có khởi động, có tăng tốc và có nước rút. 4,0 1,0 – Hiểu ý nghĩa, tác dụng của vấn đề đối với việc tu dưỡng, phấn đấu của con người nói chung và của thanh niên hiện nay nói riêng. – Luôn có sự chuyển động không ngừng về mọi mặt, tích cực trong hành động. – Khắc phục thói quen và thái độ “há miệng chờ sung”; chuẩn bị tốt nhất về mọi mặt từ tinh thần đến kiến thức và các kỹ năng thiết yếu mà thời địa đòi hỏi. 1,5 II. Yêu cầu cụ thể: Thí sinh có thể trình bày theo nhiều cách khác nhau nhưng cần đảm bảo các yêu cầu sau: “Văn học làm cho con người thêm phong phú, tạo khả năng cho con người lớn lên, hiểu được con người nhiều hơn” – Văn học: Loại hình nghệ thuật ngôn từ, phản ánh hiện thực bằng cách sáng tạo các hình tượng nghệ thuật, qua đó bày tỏ quan điểm, thái độ của người nghệ sĩ với cuộc sống. – Lời nhận định của M. L. Kalinine đề cập đến những chức năng của văn học: + Làm cho con người thêm phong phú, tức là đem lại những nhận thức mới mẻ, sâu sắc về cuộc đời, giúp họ có thêm những trải nghiệm cuộc sống; làm nảy nở trong con người những tình cảm mới, rèn dũa những tình cảm cũ… + “Tạo khả năng để con người lớn lên”: Lớn lên về tri thức, nhân cách, tâm hồn; sống tốt đẹp hơn, biết ứng xử một cách nhân văn… + Hiểu được con người nhiều hơn: thấu hiểu bản chất của con người, qua đó thấu hiểu chính bản thân mình. 2,0 – Vì sao nói “Văn học làm cho con người thêm phong phú?” + Văn học là tấm gương phản ánh cuộc sống, là cuốn bách khoa toàn thư về cuộc sống. Qua văn học, con người có được những hiểu biết sâu sắc hơn về tự nhiên, về xã hội, về chính bản thân mình. + Mặt khác, văn học là “tiếng nói của tình cảm, là sự giãi bày và gửi gắm tâm tư”. Qua văn học, con người tìm thấy mình trong đó, cảm nhận được những cung bậc tình cảm đa dạng trong thế giới nội tâm con người, được giãi bày, được đồngcảm, được sẻ chia, được gợi ra những tình cảm chưa có, được trui rèn những tình cảm sẵn có. + Hơn thế nữa, mỗi tác phẩm văn học là một cuộc trải nghiệm nhiều hơn, sống nhiều hơn qua những cuộc đời khác nhau, được nhìn cuộc đời dưới nhiều lăng kính, được lắng nghe nhiều luồng tư tưởng, được đối thoại với nhà văn – Chính vì vậy, văn học “tạo khả năng giúp con người lớn lên” + Từ những trải nghiệm đó, văn học giúp con người lớn lên về mặt nhân cách, về mặt tâm hồn. Văn học, qua con đường tình cảm truyền đạt đến con người những bài học đạo đức, nhân sinh, những bài học tác động vào con đường tình cảm, trong quá trình chuyển từ giáo dục thành tự giáo dục. + Thật vậy, tìm đến tác phẩm văn học, người đọc đâu chỉ mong chờ một vài giây phút giải trí bâng quơ. Trang sách đóng lại, tác phẩm nghệ thuật mới mở ra, “Cuộc đời là điểm khởi đầu và là điểm đi tới của văn chương”, mỗi tác phẩm như một nấc thang nâng đỡ bước chân người đọc tách khỏi phần con để đi đến phần người, tiệm cận các giá trị Chân Thiện Mỹ mà họ hằng ngưỡng vọng. – Vì sao văn học giúp con ngườihiểu được con người nhiều hơn + Đối tượng phản ánh của văn học chính là con người trong các mối quan hệ xã hội, soi chiếu dưới lăng kinh thẩm mỹ. Văn học tìm hiểu những vẻ đẹp, những “hạt ngọc ẩn giấu trong tâm hồn con người” (Nguyễn Minh Châu), văn học khám phá những khát vọng muôn thuở của nhân loại, tìm lời giải đáp cho những trăn trở có tính nhân bản: vấn đề sống – chết, vấn đề chiến tranh – hòa bình, vấn đề ý nghĩa của cuộc sống… + Mục đích của quá trình ấy chính là để cho người đọc hiểu thêm về con người – cũng là hiểu thêm về chính mình. Chỉ khi hiểu biết sâu sắc về con người, mỗi cá nhân mới có thể trở thành một lực lượng vật chất tích cực, giúp văn học thực hiện sứ mệnh cải tạo cuộc sống. – Văn học có thiên chức lớn lao như vậy, nên người nghệ sĩ cũng phải có sự kết hợp giữa cái tâm và cái tài 2,0 Học sinh có thể chọn một số tác phẩm thuộc các thể loại khác nhau của văn học dân gian (sử thi, truyền thuyết, cổ tích, truyện cười, truyện thơ, ca dao, tục ngữ…) để phân tích làm rõ vấn đề trên các phương diện sau: 1.– Văn học làm cho con người thêm phong phú: + Văn học cung cấp cho con người tri thức về tự nhiên, xã hội, con người. + Văn học tạo cho con người những tình cảm mới mẻ mà họ chưa có, rèn luyện cho họ những tình cảm sẵn có. + Văn học giúp con người có thêm nhiều trả nghiệm sống thông qua việc nhập thân vào nhân vật. 2.– Qua đó, văn học giúp người đọc lớn hơn. + Họ nhận ra được hiện thực cuộc sống để hình thành các phẩm chất tốt đẹp, thanh lọc tâm hồn, hướng tới chân thiện mỹ. 3.– Văn học giúp người đọc hiểu thêm về con người + Vẻ đẹp của con người (trọng tâm là vẻ đẹp tâm hồn) + Bản chất của con người: khát vọng sống, khát vọng hòa bình, công lý, hạnh phúc; khao khát yêu thương, mong muốn sống một cuộc đời có ý nghĩa… + Hiểu về chính bản thân mình. 6,0 – Khẳng định lại tính đúng đắn của nhận định. – Khẳng định văn học dân gian là kho tàng quý giá, bộ bách khoa toàn thư cung cấp kiến thức phong phú trên mọi phương diện; bồi dưỡng tâm hồn, đạo đức cho con người. – Bài học sáng tạo và tiếp nhận: + Văn chương phải gắn bó với đời sống và có những tác động tích cực đến con người và xã hội + Để đạt được những điều tác giả nhận định nói, mỗi nhà văn còn cần một hình thức nghệ thuật phù hợp và độc đáo để làmnên hình hài sắc vóc cho tác phẩm văn học, giúp tác phẩm đến gần hơn với bạn đọc. + Đọc văn là quá trình tự nhận thức, tự giáo dục. Qua đó người đọc nâng cao hiểu biết và thanh lọc tâm hồn, bồi đắp đạo đức. 2,0
Hướng dẫn DUYÊN HẢI VÀ ĐBBB LẦN THỨ XI TRƯỜNG PT VÙNG CAO VIỆT BẮC. TỈNH THÁI NGUYÊN ĐỀ THI ĐỀ XUẤT KHỐI 10 (Đề này có 01 trang, gồm 2 câu ) Câu 1: ( 8,0 điểm) Suy nghĩ của anh/chị về ý kiến sau của W. Churchill: “ Chính vì ngược gió chứ không phải theo chiều gió mà những con diều bay lên cao mãi” Câu 2: ( 12,0 điểm) “ Văn học chẳng những giúp ta nhận ra cái thiện và cái ác,cái đúng và cái sai ở đời, mà còn khơi dậy ở ta những tình cảm thẩm mĩ phong phú, đa dạng” ( SGK văn 10 tập 2, Phần Văn học nước ngoài và Lí luận văn học, Nxb Giáo dục, Sách chỉnh lí hợp nhất năm 2000, tr 113 ) Anh/ chị hiểu ý kiến trên như thế nào? Hãy làm sáng tỏ qua một số tác phẩm văn học trung đại trong chương trình Ngữ văn 10. ……………………..HẾT ………………………… HƯỚNG DẪN CHẤM ĐỀ THI ĐỀ XUẤT THI HSG CÁC TRƯỜNG THPT CHUYÊN KHU VỰC DUYÊN HẢI VÀ ĐBBB LẦN THỨ XI Môn Ngữ văn lớp 10 ( HƯỚNG DẪN CÓ 05 TRANG) * Câu 1 (8,0 điểm): Học sinh có thể làm theo nhiều cách khác nhau. Tuy nhiên cần đảm bảo những yêu cầu cơ bản sau: – Thí sinh biết cách làm bài nghị luận xã hội. – Có sự hiểu biết sâu sắc về kiến thức xã hội và biết cách vận dụng kiến thức xã hội vào bài văn một cách hợp lý. – Bài viết có bố cục rõ ràng, lập luận và dẫn chứng thuyết phục; diễn đạt mạch lạc. – Khuyến khích những bài viết sáng tạo. Thí sinh có thể bộc lộ quan điểm của bản thân theo những cách khác nhau nhưng cần chân thành, hợp lí và thuyết phục. Về cơ bản, cần đạt được một số ý chính sau: -“ ngược gió”: chỉ những trở ngại của hoàn cảnh, những khó khăn, trắc trở, nghịch cảnh con người không mong muốn – “ theo chiều gió”: chỉ những thuận lợi, suôn sẻ, dễ dàng của hoàn cảnh – “ con diều bay lên”: chỉ con người thành công Với cách nói đầy hình ảnh, tác giả đem tới triết lí sâu xa: trong cuộc sống nhiều khi những khó khăn, trở ngại là bàn đạp đưa con người đến thành công + Cuộc sống luôn tồn tại các mặt đối lập: thuận lợi-khó khăn; suôn sẻ, dễ dàng- trắc trở. Những trở ngại của cuộc sống kì diệu thay lại là chất xúc tác giúp con người đến mục tiêu. + Trải qua khó khăn, nghịch cảnh trong cuộc sống con người được tôi luyện rèn giũa ý chí, lòng can trường, mài sắc thêm quyết tâm, động lực vươn tới. Đối mặt với gian khó con người nhận ra và phát huy năng lực tiềm ẩn của chính mình. + Trải qua khó khăn con người sẽ thêm thấu hiểu những giá trị cao đẹp của cuộc đời, nếu chỉ “theo chiều gió” con diều không thể bay lên cao, thậm chí nó đáp mặt đất nhanh nhất. Không trải qua sóng gió con người dễ yếu mềm, đến khi chỉ gặp một chút trở ngại trong cuộc sống là đầu hang, nhụt chí buông xuôi, sống mất niềm tin, thậm chí đánh mất mình. + Làm thế nào để khi gặp khó khăn, trở ngại con người không đầu hàng? Ý kiến của W. Churchill sâu sắc đem đến cho mỗi người bài học về tinh thần tự vươn lên, cổ vũ mỗi người niềm tin vào bản thân, không ngừng phấn đấu, cố gắng để đạt được thành công.. Trong cuộc sống con người không ai mong muốn phải trải qua những khó khăn, chông gai để đến thành công.. Song “ Nếu tất cả đường đời đều trơn láng Thì chắc gì ta đã nhận ra ta” Biểu điểm: – Điểm 7- 8: Viết đúng kiểu bài nghị luận xã hội; trình bày vấn đề một cách sâu sắc, thuyết phục; văn phong chuẩn xác, biểu cảm; có thể mắc một vài lỗi nhỏ về chính tả và dùng từ. – Điểm 5- 6: Viết đúng kiểu bài nghị luận xã hội; trình bày vấn đề cơ bản rõ ràng nhưng chưa thật sâu sắc; mắc một số lỗi nhỏ về diễn đạt và chính tả. – Điểm 3- 4: Trình bày được khoảng một nửa yêu cầu về kiến thức; còn mắc lỗi về diễn đạt và chính tả. – Điểm 1- 2: Bài viết tỏ ra chưa hiểu rõ vấn đề, lúng túng trong cách giải quyết, mắc nhiều lỗi diễn đạt và chính tả. – Điểm 0: Bài viết lạc đề, hiểu sai vấn đề hoặc không viết gì. *Câu 2 (12,0 điểm) I.Yêu cầu về kĩ năng Biết cách đưa kiến thức lí luận văn học hợp lý. Yêu cầu về nội dung Thí sinh có thể trình bày theo nhiều cách khác nhau nhưng phải đảm bảo những ý cơ bản sau: Giải thích: + Văn học chẳng những giúp ta nhận ra cái thiện và cái ác,cái đúng và cái sai ở đời: văn học đáp ứng nhu cầu hiểu biết của con người, văn học thực sự trở thành “ cuốn sách giáo khoa của cuộc sống”,đồng thời có tác dụng rất lớn trong việc xây dựng nhân cách, giáo dục con người. Qua các tác phẩm người đọc hiểu đời, hiểu người thêm và làm phong phú thêm kinh nghiệm sống phong phú của mình + Văn học còn khơi dậy ở ta những tình cảm thẩm mĩ phong phú, đa dạng: nhờ có văn học mà đời sống tình cảm của con người ngày càng tinh tế, sâu sắc hơn. Cái hay, cái đẹp trong văn học tạo ra trong lòng người đọc những rung động thẩm mĩ, tình yêu đối với cái đẹp, thậm chí còn khơi dậy, kích thích năng lực sáng tạo, khám phá của mỗi người. Như vậy văn chương nghệ thuật luôn giữ gìn và bồi dưỡng chất nhân văn, chất người cho con người, giúp con người hiểu biết mình hơn, thông cảm với người khác, có một cuộc sống phong phú, tinh tế, có ý nghĩa. Bàn luận: Khẳng định ý kiến đúng: + Tác phẩm văn học là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Mọi sự phản ánh trong văn học luôn gắn với tư tưởng, tình cảm, quan điểm của người viết. Người sáng tác qua tác phẩm của mình bao giờ cũng muốn đề nghị với người đọc một vấn đề nào đó, nhằm gợi lên ở người đọc một cách sống. Bởi vậy qua văn học, con người sẽ nhận thức, lớn lên, trưởng thành hơn. + Văn học nghệ thuật tồn tại với tư cách là một hình thái nhận thức, có tác dụng soi sáng, mở rộng sự hiểu biết cho con người. Văn học đưa ta tới những chân trời hiểu biết mới, giúp ta hiểu hơn về cuộc sống con người ở mọi không gian và thời gian. Từ đó giúp ta soi chiếu, liên hệ, nhận thức về chính bản thân mình. Chứng minh: + Thí sinh chọn và phân tích một số tác phẩm văn học trung đại. Trong quá trình phân tích học sinh cần phải làm nổi bật rõ việc nhận thức được “ cái thiện”; “cái ác”; “cái đúng”; “cái sai” trong các tác phẩm đó như thế nào? Đã “ khơi dậy tình cảm thẩm mĩ” của con người ra sao? Bài học sáng tạo và tiếp nhận: + Nhận định có tính định hướng cho người sáng tác và tiếp nhận văn học: Biểu điểm: – Điểm 11 – 12: Bài viết đáp ứng đầy đủ các yêu cầu trên, sâu sắc, độc đáo; diễn đạt lưu loát, câu văn giàu hình ảnh, cảm xúc; có thể mắc một vài lỗi nhỏ về chính tả và dùng từ. – Điểm 9 – 10: Bài viết có nội dung tương đối đầy đủ (có thể còn thiếu một vài ý nhỏ); bố cục rõ ràng; diễn đạt trôi chảy; câu văn có hình ảnh, cảm xúc. Mắc một số lỗi nhỏ về chính tả, dùng từ, viết câu. – Điểm 7 – 8: bài viết đáp ứng khoảng 2/3 nội dung cơ bản của đáp án. Văn có thể chưa hay nhưng rõ ý. Mắc một số lỗi chính tả, dùng từ, viết câu. – Điểm 5 – 6: Bài viết đáp ứng khoảng ½ nội dung cơ bản của đáp án. Mắc nhiều lỗi hành văn, chính tả. – Điểm 3 – 4: Hiểu và trình bày vấn đề còn sơ sài; kết cấu không rõ ràng; còn mắc nhiều lỗi diễn đạt. – Điểm 1 – 2: Không hiểu đề, không có kĩ năng nghị luận, mắc quá nhiều lỗi diễn đạt. – Điểm 0: Lạc đề hoàn toàn hoặc không viết gì.
Hướng dẫn DUYÊN HẢI VÀ ĐBBB LẦN THỨ XI TRƯỜNG PT VÙNG CAO VIỆT BẮC. TỈNH THÁI NGUYÊN ĐỀ THI ĐỀ XUẤT KHỐI 10 (Đề này có 01 trang, gồm 2 câu ) Câu 1: ( 8,0 điểm) Suy nghĩ của anh/chị về ý kiến sau của W. Churchill: “ Chính vì ngược gió chứ không phải theo chiều gió mà những con diều bay lên cao mãi” Câu 2: ( 12,0 điểm) “ Văn học chẳng những giúp ta nhận ra cái thiện và cái ác,cái đúng và cái sai ở đời, mà còn khơi dậy ở ta những tình cảm thẩm mĩ phong phú, đa dạng” ( SGK văn 10 tập 2, Phần Văn học nước ngoài và Lí luận văn học, Nxb Giáo dục, Sách chỉnh lí hợp nhất năm 2000, tr 113 ) Anh/ chị hiểu ý kiến trên như thế nào? Hãy làm sáng tỏ qua một số tác phẩm văn học trung đại trong chương trình Ngữ văn 10. ……………………..HẾT ………………………… HƯỚNG DẪN CHẤM ĐỀ THI ĐỀ XUẤT THI HSG CÁC TRƯỜNG THPT CHUYÊN KHU VỰC DUYÊN HẢI VÀ ĐBBB LẦN THỨ XI Môn Ngữ văn lớp 10 ( HƯỚNG DẪN CÓ 05 TRANG) * Câu 1 (8,0 điểm): Học sinh có thể làm theo nhiều cách khác nhau. Tuy nhiên cần đảm bảo những yêu cầu cơ bản sau: – Thí sinh biết cách làm bài nghị luận xã hội. – Có sự hiểu biết sâu sắc về kiến thức xã hội và biết cách vận dụng kiến thức xã hội vào bài văn một cách hợp lý. – Bài viết có bố cục rõ ràng, lập luận và dẫn chứng thuyết phục; diễn đạt mạch lạc. – Khuyến khích những bài viết sáng tạo. Thí sinh có thể bộc lộ quan điểm của bản thân theo những cách khác nhau nhưng cần chân thành, hợp lí và thuyết phục. Về cơ bản, cần đạt được một số ý chính sau: -“ ngược gió”: chỉ những trở ngại của hoàn cảnh, những khó khăn, trắc trở, nghịch cảnh con người không mong muốn – “ theo chiều gió”: chỉ những thuận lợi, suôn sẻ, dễ dàng của hoàn cảnh – “ con diều bay lên”: chỉ con người thành công Với cách nói đầy hình ảnh, tác giả đem tới triết lí sâu xa: trong cuộc sống nhiều khi những khó khăn, trở ngại là bàn đạp đưa con người đến thành công + Cuộc sống luôn tồn tại các mặt đối lập: thuận lợi-khó khăn; suôn sẻ, dễ dàng- trắc trở. Những trở ngại của cuộc sống kì diệu thay lại là chất xúc tác giúp con người đến mục tiêu. + Trải qua khó khăn, nghịch cảnh trong cuộc sống con người được tôi luyện rèn giũa ý chí, lòng can trường, mài sắc thêm quyết tâm, động lực vươn tới. Đối mặt với gian khó con người nhận ra và phát huy năng lực tiềm ẩn của chính mình. + Trải qua khó khăn con người sẽ thêm thấu hiểu những giá trị cao đẹp của cuộc đời, nếu chỉ “theo chiều gió” con diều không thể bay lên cao, thậm chí nó đáp mặt đất nhanh nhất. Không trải qua sóng gió con người dễ yếu mềm, đến khi chỉ gặp một chút trở ngại trong cuộc sống là đầu hang, nhụt chí buông xuôi, sống mất niềm tin, thậm chí đánh mất mình. + Làm thế nào để khi gặp khó khăn, trở ngại con người không đầu hàng? Ý kiến của W. Churchill sâu sắc đem đến cho mỗi người bài học về tinh thần tự vươn lên, cổ vũ mỗi người niềm tin vào bản thân, không ngừng phấn đấu, cố gắng để đạt được thành công.. Trong cuộc sống con người không ai mong muốn phải trải qua những khó khăn, chông gai để đến thành công.. Song “ Nếu tất cả đường đời đều trơn láng Thì chắc gì ta đã nhận ra ta” Biểu điểm: – Điểm 7- 8: Viết đúng kiểu bài nghị luận xã hội; trình bày vấn đề một cách sâu sắc, thuyết phục; văn phong chuẩn xác, biểu cảm; có thể mắc một vài lỗi nhỏ về chính tả và dùng từ. – Điểm 5- 6: Viết đúng kiểu bài nghị luận xã hội; trình bày vấn đề cơ bản rõ ràng nhưng chưa thật sâu sắc; mắc một số lỗi nhỏ về diễn đạt và chính tả. – Điểm 3- 4: Trình bày được khoảng một nửa yêu cầu về kiến thức; còn mắc lỗi về diễn đạt và chính tả. – Điểm 1- 2: Bài viết tỏ ra chưa hiểu rõ vấn đề, lúng túng trong cách giải quyết, mắc nhiều lỗi diễn đạt và chính tả. – Điểm 0: Bài viết lạc đề, hiểu sai vấn đề hoặc không viết gì. *Câu 2 (12,0 điểm) I.Yêu cầu về kĩ năng Biết cách đưa kiến thức lí luận văn học hợp lý. Yêu cầu về nội dung Thí sinh có thể trình bày theo nhiều cách khác nhau nhưng phải đảm bảo những ý cơ bản sau: Giải thích: + Văn học chẳng những giúp ta nhận ra cái thiện và cái ác,cái đúng và cái sai ở đời: văn học đáp ứng nhu cầu hiểu biết của con người, văn học thực sự trở thành “ cuốn sách giáo khoa của cuộc sống”,đồng thời có tác dụng rất lớn trong việc xây dựng nhân cách, giáo dục con người. Qua các tác phẩm người đọc hiểu đời, hiểu người thêm và làm phong phú thêm kinh nghiệm sống phong phú của mình + Văn học còn khơi dậy ở ta những tình cảm thẩm mĩ phong phú, đa dạng: nhờ có văn học mà đời sống tình cảm của con người ngày càng tinh tế, sâu sắc hơn. Cái hay, cái đẹp trong văn học tạo ra trong lòng người đọc những rung động thẩm mĩ, tình yêu đối với cái đẹp, thậm chí còn khơi dậy, kích thích năng lực sáng tạo, khám phá của mỗi người. Như vậy văn chương nghệ thuật luôn giữ gìn và bồi dưỡng chất nhân văn, chất người cho con người, giúp con người hiểu biết mình hơn, thông cảm với người khác, có một cuộc sống phong phú, tinh tế, có ý nghĩa. Bàn luận: Khẳng định ý kiến đúng: + Tác phẩm văn học là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Mọi sự phản ánh trong văn học luôn gắn với tư tưởng, tình cảm, quan điểm của người viết. Người sáng tác qua tác phẩm của mình bao giờ cũng muốn đề nghị với người đọc một vấn đề nào đó, nhằm gợi lên ở người đọc một cách sống. Bởi vậy qua văn học, con người sẽ nhận thức, lớn lên, trưởng thành hơn. + Văn học nghệ thuật tồn tại với tư cách là một hình thái nhận thức, có tác dụng soi sáng, mở rộng sự hiểu biết cho con người. Văn học đưa ta tới những chân trời hiểu biết mới, giúp ta hiểu hơn về cuộc sống con người ở mọi không gian và thời gian. Từ đó giúp ta soi chiếu, liên hệ, nhận thức về chính bản thân mình. Chứng minh: + Thí sinh chọn và phân tích một số tác phẩm văn học trung đại. Trong quá trình phân tích học sinh cần phải làm nổi bật rõ việc nhận thức được “ cái thiện”; “cái ác”; “cái đúng”; “cái sai” trong các tác phẩm đó như thế nào? Đã “ khơi dậy tình cảm thẩm mĩ” của con người ra sao? Bài học sáng tạo và tiếp nhận: + Nhận định có tính định hướng cho người sáng tác và tiếp nhận văn học: Biểu điểm: – Điểm 11 – 12: Bài viết đáp ứng đầy đủ các yêu cầu trên, sâu sắc, độc đáo; diễn đạt lưu loát, câu văn giàu hình ảnh, cảm xúc; có thể mắc một vài lỗi nhỏ về chính tả và dùng từ. – Điểm 9 – 10: Bài viết có nội dung tương đối đầy đủ (có thể còn thiếu một vài ý nhỏ); bố cục rõ ràng; diễn đạt trôi chảy; câu văn có hình ảnh, cảm xúc. Mắc một số lỗi nhỏ về chính tả, dùng từ, viết câu. – Điểm 7 – 8: bài viết đáp ứng khoảng 2/3 nội dung cơ bản của đáp án. Văn có thể chưa hay nhưng rõ ý. Mắc một số lỗi chính tả, dùng từ, viết câu. – Điểm 5 – 6: Bài viết đáp ứng khoảng ½ nội dung cơ bản của đáp án. Mắc nhiều lỗi hành văn, chính tả. – Điểm 3 – 4: Hiểu và trình bày vấn đề còn sơ sài; kết cấu không rõ ràng; còn mắc nhiều lỗi diễn đạt. – Điểm 1 – 2: Không hiểu đề, không có kĩ năng nghị luận, mắc quá nhiều lỗi diễn đạt. – Điểm 0: Lạc đề hoàn toàn hoặc không viết gì.
Hướng dẫn KHU VỰC DUYÊN HẢI VÀ ĐỒNG BẰNG BẮC BỘ NĂM HỌC 2017 – 2018 ĐỀ THI MÔN: NGỮ VĂN LỚP 10 Thời gian 180 phút (không kể thời gian giao đề) (Đề thi có 01 trang) Câu 1 (8,0 điểm) “Những thách thức trong cuộc sống là để làm vững mạnh thêm niềm tin của chúng ta. Chúng không phải để vùi dập chúng ta” (Nick Vujicic). Anh/ chị có suy nghĩ như vậy không? Câu 2 (12,0 điểm) Nhận định về thơ có ý kiến cho rằng: “Thơ ca là âm nhạc của tâm hồn, nhất là những tâm hồn cao cả, đa cảm ” (Vôn – te) Anh/chị suy nghĩ thế nào về ý kiến trên? Bằng việc cảm nhận hai tác phẩm thơ ca tiêu biểu thuộc văn học trung đại trong chương trình Ngữ văn 10, hãy làm sáng tỏ. ………………….. HẾT………………….. GIÁO VIÊN RA ĐỀ Ngô Thị Minh Thủy KHU VỰC DUYÊN HẢI VÀ ĐỒNG BẰNG BẮC BỘ NĂM HỌC 2017 – 2018 HƯỚNG DẪN CHẤM MÔN: NGỮ VĂN LỚP 10 (HDC gồm 05 trang) HƯỚNG DẪN CHUNG – Giám khảo cần chủ động nắm bắt nội dung trình bày của học sinh để đánh giá tổng quát bài làm, tránh đếm ý cho điểm. Chú ý vận dụng linh hoạt và hợp lý Hướng dẫn chấm. – Đặc biệt trân trọng, khuyến khích những bài viết có nhiều sáng tạo, độc đáo trong nội dung và hình thức. – Điểm lẻ toàn bài tính đến 0.25 điểm ĐÁP ÁN VÀ BIỂU ĐIỂM Câu 1 (8.0 điểm) “Những thách thức trong cuộc sống là để làm vững mạnh thêm niềm tin của chúng ta. Chúng không phải để vùi dập chúng ta” (Nick Vujicic). Anh chị có suy nghĩ như vậy không? + Những thách thức trong cuộc sống: Cuộc sống không bằng phẳng, lắm chông gai, nhiều trắc trở: những khó khăn gian khổ, những vấp ngã, những bất hạnh… + Những thách thứclàm vững mạnh thêm niềm tin: củng cố niềm tin, bồi dưỡng ý chí, nghị lực, khát vọng. – Không vùi dập con người: Không thể khiến con người gục ngã, buông xuôi mất đi nghị lực, niềm tin. – Câu nói của Nick khích lệ động viên con người không đầu hàng trước những thử thách, những bất hạnh của cuộc sống, hãy giữ vững niềm tin, ý chí, khát vọng để vươn tới. + Thử thách là một phần tất yếu của cuộc sống. Nếu có khao khát vươn lên để đạt đến thành công, mỗi người buộc phải nỗ lực hết sức vượt qua, chiến thắng mọi trắc trở, bất hạnh của cuộc sống. + Khi nỗ lực chiến thắng thử thách, niềm tin, ý chí nghị lực càng được tôi rèn, càng tạo nên sức mạnh để ta vững vàng hơn trong cuộc sống b. Gục ngã hay đứng dậy trước những khó khăn đều phụ thuộc vào chính bản thân con người + Thử thách lớn nhất không phải từ bên ngoài ( những khó khăn bất hạnh, vấp ngã của cuộc sống) mà chính ở lòng người. Nếu con người có ý chí và nghị lực, không một thử thách nào có thể vùi dâp nổi con người.Vượt qua thử thách là sự khẳng định, hoàn thiện giá trị bản thân. + Nếu con người thiếu ý chí nghị lực niềm tin, con người sẽ dễ dàn đầu hàng gục ngã trước khó khăn bất hạnh của cuộc sống. + Sức mạnh của niềm tin, ý chí, nghị lực con người giúp con người khám phá được giá trị của chính bản thân mình. – Có lí tưởng, có mục tiêu cụ thể, có niềm tin vào bản thân, có tình yêu thương giúp đỡ của mọi người ta sẽ có ý chí, nghị lực, niềm tin để vượt qua và chiến thắng những thử thách của cuộc sống. Câu 2 ( 12,0 điểm): Nhận định về thơ có ý kiến cho rằng: “Thơ ca là âm nhạc của tâm hồn, nhất là những tâm hồn cao cả, đa cảm ” (Vôn – te) Anh(chị) suy nghĩ thế nào về ý kiến trên? Bằng việc cảm nhận hai tác phẩm tiêu biểu của văn học trung đại trong chương trình Ngữ văn 10 Nâng cao, hãy làm sáng tỏ. – Kết cấu bài văn chặt chẽ, bám sát vấn đề; hành văn mạch lạc, có hình ảnh, cảm xúc; hạn chế mắc lỗi chính tả, đặt câu, dùng từ. + Những tâm hồn cao cả, đa cảm luôn mang lại cho thơ những âm điệu phong phú, mới mẻ có chiều sâu làm nên sức hấp dẫn cho thơ => Nhận định đã khẳng định vai trò then chốt của cảm xúc và nhất là một tâm hồn nhạy cảm, một tấm lòng sâu nặng với đời sống thể hiện trong thơ. – Thơ ra đời từ những xúc cảm thẩm mĩ phong phú, mãnh liệt của người làm thơ trước cái đẹp muôn màu, trước muôn vàn trạng thái, cảnh ngộ gợi trăn trở, suy tư từ cuộc sống. – Ngôn ngữ thơ đã giúp những cung bậc cảm xúc ấy ngân lên trên trang thơ thành những giai điệu phong phú, cuốn hút và chinh phục lòng người mang theo sức sông tâm hồn của mỗi nhà thơ. b. Vẻ đẹp của những tâm hồn cao cả, đa cảm làm nên sức sống cho thơ – Tâm hồn nhà thơ chân chính luôn nhạy cảm của trước mọi vẻ đẹp của đời sống sẽ dẫn lối người đọc đến xứ sở của những đắm say và thái độ nâng niu cái đẹp. – Người nghệ sĩ ấy cũng luôn trĩu nặng suy tư trước nỗi đau và khát vọng của con người, trước vận mệnh dân tộc sẽ mang đến cho thơ không chỉ xúc cảm tha thiết mà còn cả một chiều sâu tư tưởng thấm thía thanh lọc con người. – Song, để sức lay động của câu thơ được thực sự chắp cánh bay cao cũng rất cần đến tài năng sáng tạo của người nghệ sĩ. + Vẻ đẹp của bài thơ đến từ sự đa cảm của tâm hồn thi nhân trong cội nguồn cảm hứng sáng tác hướng đến mọi sắc thái của đời sống; đến từ nội dung, tư tưởng sâu sắc xuất phát từ một tâm hồn cao cả nặng lòng với đất nước, nhân dân, với số phận con người. + Vẻ đẹp độc đáo đến từ những sáng tạo trong hình thức nghệ thuật tạo thành một chỉnh thể, vươn tới sự hoàn mĩ; mang đậm dấu ấn riêng đặc sắc gắn với vẻ đẹp của thơ ca Trung đại … + Với người sáng tác cần chú ý tới tính thẩm mĩ, vẻ đẹp phong phú, độc đáo của thơ. Muốn vậy nhà văn cần có một tâm hồn đẹp, tinh tế và tài hoa và có tầm tư tưởng sâu sắc trước cuộc đời
Instruct THE NORTHERN COAST AND DELTA AREA SCHOOL YEAR 2017 - 2018 SUBJECT EXAM: GRADE 10 LANGUAGE Duration 180 minutes (excluding exam time) (The exam has 01 page) Question 1 (8.0 points) “Challenges in life are meant to strengthen our faith. They are not meant to crush us” (Nick Vujicic). Do you think like that? Question 2 (12.0 points) Commenting on poetry, there is an opinion that: “Poetry is the music of the soul, especially noble and sentimental souls.” (Volts) What do you think about the above opinion? By experiencing two typical poetic works of medieval literature in the Literature 10 program, let's clarify. ………………….. RUN OUT OF………………….. TEACHER GIVES THE PROBLEM Ngo Thi Minh Thuy THE NORTHERN COAST AND DELTA AREA SCHOOL YEAR 2017 - 2018 GRADING INSTRUCTIONS: GRADE 10 LANGUAGE (HDC includes 05 pages) GENERAL GUIDANCE – Judges need to proactively grasp the content of the student's presentation to evaluate the overall work, avoiding counting points for scoring. Pay attention to flexible and reasonable application of the Marking Instructions. – Especially appreciate and encourage articles that are creative and unique in content and form. – The odd score for the entire lesson counts up to 0.25 points ANSWERS AND SCORE BAND Question 1 (8.0 points) “Challenges in life are meant to strengthen our faith. They are not meant to crush us” (Nick Vujicic). Do you think like that? + Challenges in life: Life is not flat, full of thorns, many obstacles: hardships, stumbles, misfortunes... + Challenges strengthen faith: strengthen faith, foster will, energy, and aspirations. – Don't bury people: Can't make people fall, give up, lose their strength and faith. – Nick's words encourage people not to surrender to the challenges and misfortunes of life, but to maintain faith, will, and aspirations to reach out. + Challenges are an inevitable part of life. If there is a desire to rise to success, each person must make every effort to overcome and overcome all obstacles and misfortunes of life. + When we strive to overcome challenges, our faith, willpower, and willpower are further forged, creating more strength for us to be more steadfast in life. b. Falling down or getting up in the face of difficulties depends on the person themselves + The biggest challenge does not come from the outside (the difficulties, misfortunes, and stumbles of life) but within the human heart. If a person has will and determination, no challenge can overwhelm him. Overcoming challenges is an affirmation and improvement of self-worth. + If people lack willpower and faith, they will easily surrender and fall before the difficulties and misfortunes of life. + The power of belief, will, and human energy helps people discover their own value. – Having ideals, having specific goals, having faith in yourself, and having the love and help of everyone, you will have the will, energy, and faith to overcome and win the challenges of life. . Question 2 (12.0 points): Commenting on poetry, there is an opinion that: “Poetry is the music of the soul, especially noble and sentimental souls.” (Volts) What do you think about the above opinion? By experiencing two typical works of medieval literature in the Advanced Literature 10 program, let's clarify. – Structure the essay tightly and closely to the problem; Writing is coherent, has images and emotions; Limit errors in spelling, sentence formation, and word usage. + Noble, sentimental souls always give poetry rich, new tones with depth that makes poetry attractive. => The observation affirms the key role of emotions and especially a sensitive soul and a deep heart for life expressed in poetry. – Poetry is born from the rich and intense aesthetic emotions of the poet in front of colorful beauty, in front of countless states and situations that evoke concern and reflection from life. - Poetic language has helped those emotional levels resonate on the poetic page into rich, attractive melodies that conquer people's hearts, carrying the soul of each poet. b. The beauty of noble, sentimental souls gives life to poetry – The soul of a true poet, always sensitive to all the beauty of life, will lead readers to the land of passion and the attitude of cherishing beauty. – That artist is also always pondering the pain and aspirations of people, the destiny of the nation, which will bring to his poetry not only passionate emotions but also a profound depth of thought that purifies people. People. – However, for the poem's moving power to truly take off, it also requires the artist's creative talent. + The beauty of the poem comes from the sentimentality of the poet's soul in the source of creative inspiration towards all nuances of life; comes from the content and profound thoughts coming from a noble soul with a heavy heart for the country, the people, and human destiny. + Unique beauty comes from creations in art forms that form a whole, reaching perfection; bearing a unique mark associated with the beauty of Medieval poetry... + For composers, it is necessary to pay attention to the aesthetics, rich beauty, and uniqueness of poetry. To do so, a writer needs to have a beautiful, sophisticated and talented soul and have a profound outlook on life
Hướng dẫn TRƯỜNG THPT CHUYÊN LÊ THÁNH TÔNG (Đề thi gồm 01 trang) KHU VỰC DUYÊN HẢI VÀ ĐỒNG BẰNG BẮC BỘ LẦN THỨ XI, NĂM HỌC 2017 – 2018 ĐỀ THI MÔN: NGỮ VĂN 10 Thời gian: 180 phút (Không kể thời gian giao đề) Câu 1. (8,0 điểm) Lúc mới đặt chân đến Princeton, khi được hỏi ông cần gì cho phòng làm việc, Albert Einstein trả lời: ‘‘Một cái bàn, tập giấy, cây viết và… một thùng rác thật to để chứa những sai lầm của tôi’’. Câu trả lời của Albert Einstein gợi cho em những suy nghĩ gì? Câu 2. (12,0 điểm) Bàn về nhà thơ và thơ, Chế Lan Viên viết: Ngồi lên chất liệu đời mình Rót vào đấy xăng của thời đại Rồi lấy mình ra làm lửa châm vào Bài thơ rực cháy Không còn chữ, còn câu, còn vần, còn âm điệu Mà là lửa, toàn bài là lửa Cho đến tro tàn từng chữ cũng thiêng liêng Lửa đa nghĩa, phóng ra ánh sáng hào quang đi bốn phía (Giàn hỏa) Hìnhảnh “lửa” đã gợi cho anh/chị những suy nghĩ gì? Hãy làm sáng tỏ những suy nghĩ ấy qua việc phân tích bài thơ Cảm hoài của Đặng Dung. ————– HẾT ————– Giáo viên ra đề: Nguyễn Hữu Vĩnh Điện Thoại: 0986.224.202 TRƯỜNG THPT CHUYÊN LÊ THÁNH TÔNG ——————– (HDC gồm 04 trang) KHU VỰC DUYÊN HẢI VÀ ĐỒNG BẰNG BẮC BỘ LẦN THỨ XI, NĂM HỌC 2017 – 2018 HƯỚNG DẪN CHẤM: NGỮ VĂN 10 Thời gian: 180 phút (Không kể thời gian giao đề) Câu 1 (8,0 điểm) – Biết cách làm bài văn nghị luận xã hội, vận dụng linh hoạt các thao tác lập luận, lựa chọn dẫn chứng tiêu biểu, thuyết phục để làm sáng tỏ yêu cầu của đề. – Bài viết có bố cục rõ ràng, diễn đạt mạch lạc, lập luận chặt chẽ, thuyết phục, không mắc các loại lỗi. Có thể trình bày theo nhiều cách khác nhau, nhưng cần nêu được các ý cơ bản sau: – “Một cái bàn, tập giấy, cây viết”: Là những vật dụng cần thiết để làm việc. – “và… một thùng rác thật to để chứa những sai lầm của tôi”: nghĩa là trong quá trình làm việc, Albert Einstein biết chắc chắc mắc rất nhiều sai lầm, thất bại. => Câu nói của Albert Einstein đã gợi ra những suy nghĩ về nhiều vấn đề trong quá trình học tập, nghiên cứu và làm việc. Đó là điều kiện để làm việc và tinh thần, thái độ đối với những sai lầm thất bại. – Để thực hiện công việc, con người luôn cần những phương tiện. Thế nhưng phương tiện không phải là yếu tố quyết định sự thành bại của công việc mà quan trọng nhất là tinh thần làm việc: niềm đam mê, óc sáng tạo… – Trong công việc, con người con người không thể hoàn toàn tránh được những sai lầm, thậm chí phải trải qua rất nhiều sai lầm rồi mới thành công. – Đa số con người thường sợ sai lầm. Và không ít người không nhận thức được sai lầm của mình, có người gục ngã trước những sai lầm, thất bại. – Nếu có cái nhìn tích cực, những sai lầm lại là những bài học sâu sắc, thiết thực nhất, có vai trò to lớn và ý nghĩa sâu sắc đối với sự thành công. – Cần hạn chế tối đa những sai lầm, nhất là những sai lầm ảnh hưởng nghiêm trọng đến bản thân, cộng động xã hội. – Cần có tinh thần làm việc tích cực bằng tất cả nhiệt huyết, niềm đam mê, óc sáng tạo, không quá đòi hỏi, câu nệ vào những phương tiện vật chất. – Cần nhận thức rõ những sai lầm của bản thân, sẵn sàng đối diện với nó và biết cách khắc phục để đạt được những thành công. III. Biểu điểm: – Điểm 7- 8: Bài viết đáp ứng tốt các yêu cầu trên. Hành văn có cảm xúc, lập luận thuyết phục. – Điểm 5- 6: Bài viết đáp ứng được những ý cơ bản, hầu như không mắc lỗi về kĩ năng và diễn đạt. – Điểm 3- 4: Bài viết chỉ trình bày được một nửa yêu cầu về kiến thức, còn mắc lỗi về kĩ năng và diễn đạt. – Điểm 1- 2: Bài viết chưa hiểu rõ về vấn đề hoặc không biết cách lập luận, mắc lỗi nhiều về kĩ năng và diễn đạt. – Điểm 0: Bài viết lạc đề hoàn toàn hoặc học sinh không viết bài. Câu 2 (12,0 điểm) – Biết cách làm bài nghị luận văn học; hiểu và giải quyết những vấn đề lí luận về quá trình sáng tạo của nhà văn và chức năng, giá trị của văn học; biết dùng những tác phẩm cụ thể để làm sáng tỏ những vấn đề lý luận đó. – Bài viết có bố cục rõ ràng, hệ thống luận điểm, luận cứ thuyết phục, trình bày sạch sẽ. Hành văn trôi chảy, linh hoạt, có chất văn, không mắc các loại lỗi. Thí sinh có thể làm bài theo nhiều cách khác nhau, song cần đảm bảo những nội dung cơ bản sau: – “lửa” chính là nội dung tư tưởng của tác phẩm. – “lửa” là sự kết tinh những tình cảm, suy tư, khát vọng của người nghệ sĩ trong mộthoàn cảnh lịch sử cụ thể. – “lửa” có chức năng tỏa sáng tâm hồn con người, thức tỉnh lương tri nhân loại. => Hìnhảnh “lửa” trong bài thơ là một hình tượng nghệ thuật đặc sắc giúp Chế Lan Viên bày tỏ những quan niệm của mình về những vấn đề đặc trưng của thơ, đó là quá trình sáng tác, nội dung tư tưởng và chức năng của thơ. – Hoàn cảnh xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XIV đầu thế kỷ XV:Cuối thế kỉ XIV, nhà Trần suy vong. Hồ Quý Ly đã cướp ngôi nhà Trần lập ra triều đại mới. Nhưng chẳng bao lâu sau, nhà Minh đem quân sang xâm lược. Nước ta bị quân giặc chiếm đóng, thành Thăng Long bị chúng đổi thành Đông Quan. Dân tộc ta chìm trong đau thương tang tóc. – Hoàn cảnh – cuộc đời của Đặng Dung:Ông là con trai của Đặng Tất, người theo phò vua Giản Định đế của nhà Hậu Trần, sau bị Giản Định đế giết chết cùng với tướng Nguyễn Cảnh Chân. Giận vì cha mình chết oan, Đặng Dung cùng Nguyễn Cảnh Dị (con của Nguyễn Cảnh Chân) rời đi, lập Trần Quý Khoáng tức vua Trùng Quang tiếp tục khởi nghĩa. Nhưng đại sự không thành, chẳng được bao lâu vua Trần và các tướng đều bị bắt và bị giải về Yên Kinh cả. Đi đến giữa đường, Trùng Quang Đế nhảy xuống biển tự tử, Đặng Dung cũng tự sát =>Cảm hoài được Đặng Dung viết trong những năm tháng cầm quân đánh giặc, cứu nước. Bài thơ là tiếng nói, là nỗi lòng của một thế hệ anh hùng cay đắng trước cảnh nước mất, nhân dân lầm than, quyết chiến đấu phục thù rửa hận. – Đó là ngọn lửa của tấm lòng trung quân ái quốc, tinh thần bất khuất chống giặc ngoại xâm:Hình ảnh người anh hùng mài gươm dưới ánh trăng đã “mấy độ”, trải qua nhiều năm tháng, mái tóc nay đã bạc, gợi lên màu sắc bi tráng. Trăng đã tà. Tuổi đã già. Thế mà “quốc thù ” vẫn đè nặng tâm hồn nhà thơ. – Đó là ngọn lửa của những hoài bão, khát vọng lớn lao của bậc anh hùng có hùng tâm tráng chí, xoay chuyển cả vũ trụ, chống đỡ trục quả đất, tức là mang sức mình ra để bảo vệ cho người dân, bảo vệ cho đất nước, giang san. – Đó là ngọn lửabi tráng của con người mang bi kịch cá nhân và thời đại: + Là người có ý thức trách nhiệm với đất nước, trong hoàn cảnh đất nước nhiễu nhương, bao nhiêu việc cần đến người anh hùng thế mà tuổi già lại đến. Đặng Dung mang bi kịch lực bất tòng tâm. +Khát khao đến một cuộc sống không còn binh lửa, chết chóc ấy nhưng nhà thơ cũng thể hiện sự bất lực khi không thể kéo sông Ngân xuống. + Thế sự đảo điên, thời vận thay đổi, cho nên dù là bậc anh hùng tài trí, Đặng Dung cũng đành “ẩm hận đa”… – Thổi bùng ngọn lửa yêu nước, tinh thần bất khuất trong trái tim bao thế hệ con người Việt Nam. – Đánh thức tinh thần trách nhiệm với đất nước, bồi dưỡng tâm hồn, nhân cách, xây dựng lẽ sống lý tưởng cao đẹp cho hậu thế. – Quan niệm của Chế Lan Viên đã nêu bật những yếu tố đặc trưng của thơ, thơ là giàn hỏa mà người nghệ sĩ tự dựng lên và tự thiêu để dâng cho đời một ngọn lửa thiêng – Tuy nhiên, trong quan niệm ấy, Chế Lan Viên không phải phủ nhận vai trò của ngôn ngữ và nghệ thuật thơ. một yếu tố quan trọng tạo nên những ngọn lửa thiêng. – Quan niệm của Chế Lan Viên là một định hướng cho người nghệ sĩ trong hành trình sáng tạo. Đây cũng là một căn cứ để người đọc tiếp nhận và đánh giá chính xác hơn về giá trị của một tác phẩm thơ. III. Biểu điểm: – Điểm 10- 12: Bài viết đáp ứng tốt các yêu cầu trên. Hành văn có cảm xúc, lập luận rõ ràng, phân tích bình luận có ý sâu sắc… – Điểm 7- 9: Bài viết đáp ứng được những ý cơ bản, hầu như không mắc lỗi về kĩ năng và diễn đạt. – Điểm 4- 6: Bài viết chỉ trình bày được một nửa yêu cầu về kiến thức, hoặc phân tích tác phẩm đơn thuần. Còn mắc lỗi về kĩ năng và diễn đạt. – Điểm 1- 3: Bài viết chưa hiểu rõ về vấn đề, chủ yếu diễn xuôi văn bản. Diễn đạt và kĩ năng viết văn nghị luận yếu. – Điểm 0: Bài viết lạc đề hoàn toàn hoặc học sinh không viết bài. * Lưu ý chung: – Giám khảo nắm yêu cầu của hướng dẫn chấm để đánh giá tổng quát bài làm của thí sinh. Cần khuyến khích những bài viết có chất văn, có những suy nghĩ sáng tạo.
Hướng dẫn TRƯỜNG THPT CHUYÊN LÊ THÁNH TÔNG (Đề thi gồm 01 trang) KHU VỰC DUYÊN HẢI VÀ ĐỒNG BẰNG BẮC BỘ LẦN THỨ XI, NĂM HỌC 2017 – 2018 ĐỀ THI MÔN: NGỮ VĂN 10 Thời gian: 180 phút (Không kể thời gian giao đề) Câu 1. (8,0 điểm) Lúc mới đặt chân đến Princeton, khi được hỏi ông cần gì cho phòng làm việc, Albert Einstein trả lời: ‘‘Một cái bàn, tập giấy, cây viết và… một thùng rác thật to để chứa những sai lầm của tôi’’. Câu trả lời của Albert Einstein gợi cho em những suy nghĩ gì? Câu 2. (12,0 điểm) Bàn về nhà thơ và thơ, Chế Lan Viên viết: Ngồi lên chất liệu đời mình Rót vào đấy xăng của thời đại Rồi lấy mình ra làm lửa châm vào Bài thơ rực cháy Không còn chữ, còn câu, còn vần, còn âm điệu Mà là lửa, toàn bài là lửa Cho đến tro tàn từng chữ cũng thiêng liêng Lửa đa nghĩa, phóng ra ánh sáng hào quang đi bốn phía (Giàn hỏa) Hìnhảnh “lửa” đã gợi cho anh/chị những suy nghĩ gì? Hãy làm sáng tỏ những suy nghĩ ấy qua việc phân tích bài thơ Cảm hoài của Đặng Dung. ————– HẾT ————– Giáo viên ra đề: Nguyễn Hữu Vĩnh Điện Thoại: 0986.224.202 TRƯỜNG THPT CHUYÊN LÊ THÁNH TÔNG ——————– (HDC gồm 04 trang) KHU VỰC DUYÊN HẢI VÀ ĐỒNG BẰNG BẮC BỘ LẦN THỨ XI, NĂM HỌC 2017 – 2018 HƯỚNG DẪN CHẤM: NGỮ VĂN 10 Thời gian: 180 phút (Không kể thời gian giao đề) Câu 1 (8,0 điểm) – Biết cách làm bài văn nghị luận xã hội, vận dụng linh hoạt các thao tác lập luận, lựa chọn dẫn chứng tiêu biểu, thuyết phục để làm sáng tỏ yêu cầu của đề. – Bài viết có bố cục rõ ràng, diễn đạt mạch lạc, lập luận chặt chẽ, thuyết phục, không mắc các loại lỗi. Có thể trình bày theo nhiều cách khác nhau, nhưng cần nêu được các ý cơ bản sau: – “Một cái bàn, tập giấy, cây viết”: Là những vật dụng cần thiết để làm việc. – “và… một thùng rác thật to để chứa những sai lầm của tôi”: nghĩa là trong quá trình làm việc, Albert Einstein biết chắc chắc mắc rất nhiều sai lầm, thất bại. => Câu nói của Albert Einstein đã gợi ra những suy nghĩ về nhiều vấn đề trong quá trình học tập, nghiên cứu và làm việc. Đó là điều kiện để làm việc và tinh thần, thái độ đối với những sai lầm thất bại. – Để thực hiện công việc, con người luôn cần những phương tiện. Thế nhưng phương tiện không phải là yếu tố quyết định sự thành bại của công việc mà quan trọng nhất là tinh thần làm việc: niềm đam mê, óc sáng tạo… – Trong công việc, con người con người không thể hoàn toàn tránh được những sai lầm, thậm chí phải trải qua rất nhiều sai lầm rồi mới thành công. – Đa số con người thường sợ sai lầm. Và không ít người không nhận thức được sai lầm của mình, có người gục ngã trước những sai lầm, thất bại. – Nếu có cái nhìn tích cực, những sai lầm lại là những bài học sâu sắc, thiết thực nhất, có vai trò to lớn và ý nghĩa sâu sắc đối với sự thành công. – Cần hạn chế tối đa những sai lầm, nhất là những sai lầm ảnh hưởng nghiêm trọng đến bản thân, cộng động xã hội. – Cần có tinh thần làm việc tích cực bằng tất cả nhiệt huyết, niềm đam mê, óc sáng tạo, không quá đòi hỏi, câu nệ vào những phương tiện vật chất. – Cần nhận thức rõ những sai lầm của bản thân, sẵn sàng đối diện với nó và biết cách khắc phục để đạt được những thành công. III. Biểu điểm: – Điểm 7- 8: Bài viết đáp ứng tốt các yêu cầu trên. Hành văn có cảm xúc, lập luận thuyết phục. – Điểm 5- 6: Bài viết đáp ứng được những ý cơ bản, hầu như không mắc lỗi về kĩ năng và diễn đạt. – Điểm 3- 4: Bài viết chỉ trình bày được một nửa yêu cầu về kiến thức, còn mắc lỗi về kĩ năng và diễn đạt. – Điểm 1- 2: Bài viết chưa hiểu rõ về vấn đề hoặc không biết cách lập luận, mắc lỗi nhiều về kĩ năng và diễn đạt. – Điểm 0: Bài viết lạc đề hoàn toàn hoặc học sinh không viết bài. Câu 2 (12,0 điểm) – Biết cách làm bài nghị luận văn học; hiểu và giải quyết những vấn đề lí luận về quá trình sáng tạo của nhà văn và chức năng, giá trị của văn học; biết dùng những tác phẩm cụ thể để làm sáng tỏ những vấn đề lý luận đó. – Bài viết có bố cục rõ ràng, hệ thống luận điểm, luận cứ thuyết phục, trình bày sạch sẽ. Hành văn trôi chảy, linh hoạt, có chất văn, không mắc các loại lỗi. Thí sinh có thể làm bài theo nhiều cách khác nhau, song cần đảm bảo những nội dung cơ bản sau: – “lửa” chính là nội dung tư tưởng của tác phẩm. – “lửa” là sự kết tinh những tình cảm, suy tư, khát vọng của người nghệ sĩ trong mộthoàn cảnh lịch sử cụ thể. – “lửa” có chức năng tỏa sáng tâm hồn con người, thức tỉnh lương tri nhân loại. => Hìnhảnh “lửa” trong bài thơ là một hình tượng nghệ thuật đặc sắc giúp Chế Lan Viên bày tỏ những quan niệm của mình về những vấn đề đặc trưng của thơ, đó là quá trình sáng tác, nội dung tư tưởng và chức năng của thơ. – Hoàn cảnh xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XIV đầu thế kỷ XV:Cuối thế kỉ XIV, nhà Trần suy vong. Hồ Quý Ly đã cướp ngôi nhà Trần lập ra triều đại mới. Nhưng chẳng bao lâu sau, nhà Minh đem quân sang xâm lược. Nước ta bị quân giặc chiếm đóng, thành Thăng Long bị chúng đổi thành Đông Quan. Dân tộc ta chìm trong đau thương tang tóc. – Hoàn cảnh – cuộc đời của Đặng Dung:Ông là con trai của Đặng Tất, người theo phò vua Giản Định đế của nhà Hậu Trần, sau bị Giản Định đế giết chết cùng với tướng Nguyễn Cảnh Chân. Giận vì cha mình chết oan, Đặng Dung cùng Nguyễn Cảnh Dị (con của Nguyễn Cảnh Chân) rời đi, lập Trần Quý Khoáng tức vua Trùng Quang tiếp tục khởi nghĩa. Nhưng đại sự không thành, chẳng được bao lâu vua Trần và các tướng đều bị bắt và bị giải về Yên Kinh cả. Đi đến giữa đường, Trùng Quang Đế nhảy xuống biển tự tử, Đặng Dung cũng tự sát =>Cảm hoài được Đặng Dung viết trong những năm tháng cầm quân đánh giặc, cứu nước. Bài thơ là tiếng nói, là nỗi lòng của một thế hệ anh hùng cay đắng trước cảnh nước mất, nhân dân lầm than, quyết chiến đấu phục thù rửa hận. – Đó là ngọn lửa của tấm lòng trung quân ái quốc, tinh thần bất khuất chống giặc ngoại xâm:Hình ảnh người anh hùng mài gươm dưới ánh trăng đã “mấy độ”, trải qua nhiều năm tháng, mái tóc nay đã bạc, gợi lên màu sắc bi tráng. Trăng đã tà. Tuổi đã già. Thế mà “quốc thù ” vẫn đè nặng tâm hồn nhà thơ. – Đó là ngọn lửa của những hoài bão, khát vọng lớn lao của bậc anh hùng có hùng tâm tráng chí, xoay chuyển cả vũ trụ, chống đỡ trục quả đất, tức là mang sức mình ra để bảo vệ cho người dân, bảo vệ cho đất nước, giang san. – Đó là ngọn lửabi tráng của con người mang bi kịch cá nhân và thời đại: + Là người có ý thức trách nhiệm với đất nước, trong hoàn cảnh đất nước nhiễu nhương, bao nhiêu việc cần đến người anh hùng thế mà tuổi già lại đến. Đặng Dung mang bi kịch lực bất tòng tâm. +Khát khao đến một cuộc sống không còn binh lửa, chết chóc ấy nhưng nhà thơ cũng thể hiện sự bất lực khi không thể kéo sông Ngân xuống. + Thế sự đảo điên, thời vận thay đổi, cho nên dù là bậc anh hùng tài trí, Đặng Dung cũng đành “ẩm hận đa”… – Thổi bùng ngọn lửa yêu nước, tinh thần bất khuất trong trái tim bao thế hệ con người Việt Nam. – Đánh thức tinh thần trách nhiệm với đất nước, bồi dưỡng tâm hồn, nhân cách, xây dựng lẽ sống lý tưởng cao đẹp cho hậu thế. – Quan niệm của Chế Lan Viên đã nêu bật những yếu tố đặc trưng của thơ, thơ là giàn hỏa mà người nghệ sĩ tự dựng lên và tự thiêu để dâng cho đời một ngọn lửa thiêng – Tuy nhiên, trong quan niệm ấy, Chế Lan Viên không phải phủ nhận vai trò của ngôn ngữ và nghệ thuật thơ. một yếu tố quan trọng tạo nên những ngọn lửa thiêng. – Quan niệm của Chế Lan Viên là một định hướng cho người nghệ sĩ trong hành trình sáng tạo. Đây cũng là một căn cứ để người đọc tiếp nhận và đánh giá chính xác hơn về giá trị của một tác phẩm thơ. III. Biểu điểm: – Điểm 10- 12: Bài viết đáp ứng tốt các yêu cầu trên. Hành văn có cảm xúc, lập luận rõ ràng, phân tích bình luận có ý sâu sắc… – Điểm 7- 9: Bài viết đáp ứng được những ý cơ bản, hầu như không mắc lỗi về kĩ năng và diễn đạt. – Điểm 4- 6: Bài viết chỉ trình bày được một nửa yêu cầu về kiến thức, hoặc phân tích tác phẩm đơn thuần. Còn mắc lỗi về kĩ năng và diễn đạt. – Điểm 1- 3: Bài viết chưa hiểu rõ về vấn đề, chủ yếu diễn xuôi văn bản. Diễn đạt và kĩ năng viết văn nghị luận yếu. – Điểm 0: Bài viết lạc đề hoàn toàn hoặc học sinh không viết bài. * Lưu ý chung: – Giám khảo nắm yêu cầu của hướng dẫn chấm để đánh giá tổng quát bài làm của thí sinh. Cần khuyến khích những bài viết có chất văn, có những suy nghĩ sáng tạo.
Hướng dẫn LÊ QUÝ ĐÔN ĐỀ ĐỀ XUẤT DUYÊN HẢI VÀ ĐỒNG BẰNG BẮC BỘ 2018 Môn: NGỮ VĂN 10 Thời gian: 180 phút (không kể thời gian giao đề) (Đề thi gồm 01 trang) Câu 1. (8,0 điểm) Hãy bày tỏ quan điểm của anh (chị) về ý kiến sau: Đối xử với bản thân bằng lí trí, đối xử với người khác bằng tấm lòng. Câu 2. (12,0 điểm) Bàn về Truyện Kiều, Mộng Liên Đường chủ nhân có nói: “Tố Như dụng tâm đã khổ, tự sự đã khéo, tả cảnh đã hệt, đàm tình đã thiết, nếu không phải là con mắt trông thấu sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt cả nghìn đời thì không tài nào có được bút lực ấy” Anh (chị) hãy bình luận ý kiến trên. ——————————–Hết——————————- Cán bộ coi thi không giải thích gìthêm. Người ra đề: Nguyễn Thị Hà Thu Đáp án – “Đối xử với bản thân bằng lí trí”: cái nhìn nghiêm khắc với bản thân, không được buông lỏng chính mình. – “Đối xử với người khác bằng tấm lòng”: đối đãi với người khác bằng tình yêu thương, độ lượng, vị tha. => Câu nói bàn về cách ứng xử nên có của mỗi người với chính bản thân và với người khác. – Vì sao nên đối xử với bản thân bằng lí trí? + Con người không ai hoàn hảo, cần được bồi đắp và rèn luyện, nếu quá tự mãn hoặc tự ti với bản thân thì đều không tốt, cần nhìn sâu bên trong điểm mạnh và thiếu sót đó. + Trong mỗi con người đều có phần con và phần người, mỗi chúng ta cần phải cảnh giác với phần con, tỉnh táo để soi xét chính mình. -Vì sao nên đối xử với người khác bằng tấm lòng? + Cảm thông, biết thấu hiểu và bao dung với người khác sẽ giúp ta xây dựng được những mối quan hệ bền chặt, làm cho người gần người hơn, xã hội ngày một tốt đẹp. + Biết sẻ chia, yêu thương người khác sẽ giúp bản thân luôn cảm thấy thanh thản, cảm nhận về cuộc đời ý nghĩa hơn. 2.5 2.5 + Không chỉ đối xử với bản thân bằng lí trí mà đôi khi cũng cần bao dung với chính mình, đừng quá hà khắc với bản thân. + Đối xử với người khác không chỉ bằng tấm lòng mà còn bằng lí trí tỉnh táo để tránh hiện tượng lòng tốt bị lợi dụng, hình thành nên lối sống ỷ lại ở người khác – “dụng tâm đã khổ”: “Truyện Kiều” là tâm huyết, là tiếng lòng của Nguyễn Du – “tự sự đã khéo, tả cảnh đã hệt, đàm tình đã thiết”: với “Truyện Kiều” tài năng của Nguyễn Du trên các phương diện nghệ thuật: tự sự, tả cảnh, trữ tình (miêu tả nội tâm) đã đạt đến đỉnh cao. – “con mắt trông thấu sáu cõi”: tầm bao quát hiện thực rộng lớn – “tấm lòng nghĩ thấu nghìn đời”: tác phẩm đã đặt ra những tư tưởng, triết lí vượt thời gian, mang tầm nhân loại =>Đề cao giá trị của “Truyện Kiều” cũng như tài năng và tấm lòng của Nguyễn Du. -“Truyện Kiều” thể hiện cái “dụng tâm đã khổ” của Nguyễn Du bởi tác phẩm là nỗi đau đớn lòng của tác giả trước những điều trông thấy, là sự xót xa cho những kiếp người. -“tự sự đã khéo”: so sánh với “Kim Vân Kiều truyện” để thấy sự sáng tạo trong cách kể chuyện của Nguyễn Du ( lước bỏ bớt chi tiết li kì, dung tục; thay đổi trật tự sự kiện; kể theo điểm nhìn bên trong, theo dòng tâm lí nhân vật…) -“tả cảnh đã hệt”: tác giả miêu tả thiên nhiên vừa là phông nền, bối cảnh không gian cho câu chuyện vừa mượn thiên nhiên để thể hiện tâm trạng. -“đàm tình đã thiết”: nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật sâu sắc -“con mắt trông thấu sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt cả nghìn đời: + Bức tranh hiện thực xã hội bao quát và rõ nét được thể hiện trong tác phẩm (xã hội chạy theo đồng tiền, bộ mặt quan lại, bọn buôn thịt bán người…) + Những vấn đề triết lí mang tầm thời đại: thân phận bé mọn của người phụ nữ, tài mệnh tương đố,… (Lưu ý: Hs vận dụng linh hoạt các đoạn trích đã học và đọc thêm để làm dẫn chứng minh họa) -Lí giải cơ sở tạo nên thiên tài Nguyễn Du (yếu tố thời đại, cuộc đời và con người…) – Khẳng định một tác phẩm có giá trị là sự kết hợp hòa quyện cả hai yếu tố tâm và tài của người nghệ sĩ.
Instruct LE QUY DON PROPOSAL NORTHERN COAST AND DELTA 2018 Subject: LANGUAGE 10 Time: 180 minutes (excluding exam time) (Exam includes 01 page) Question 1. (8.0 points) Please express your opinion on the following opinion: Treat yourself with reason, treat others with heart. Question 2. (12.0 points) Discussing the Tale of Kieu, Mong Lien Duong owner said: "To Nhu used her mind to suffer, narrated skillfully, described scenes accurately, discussed love passionately. If she didn't have eyes that see through the six realms and a heart that thinks for a thousand lifetimes, she wouldn't be able to have that writing power." ” Please comment your opinion above. -----------Run out of----------- The exam invigilator did not explain further. Author: Nguyen Thi Ha Thu Answer – “Treat yourself with reason”: a strict look at yourself, not letting yourself go. – “Treat others with heart”: treat others with love, generosity, and altruism. => The saying discusses how each person should behave towards themselves and others. – Why should we treat ourselves with reason? + No one is perfect, they need to be nurtured and trained. If you are too complacent or have low self-esteem, it is not good. You need to look deeply at those strengths and shortcomings. + In every person there is a child part and a human part. Each of us needs to be alert to the child part and be alert to examine ourselves. -Why should we treat others with kindness? + Sympathy, understanding and tolerance for others will help us build strong relationships, bring people closer, and society will become better and better. + Knowing how to share and love others will help you always feel at peace and have a more meaningful life. 2.5 2.5 + Not only treat yourself with reason, but sometimes you also need to be tolerant with yourself, don't be too harsh on yourself. + Treat others not only with your heart but also with your conscious mind to avoid the phenomenon of kindness being taken advantage of, forming a lifestyle of dependence on others. - "using your heart is suffering": "The Tale of Kieu" is the passion and heart of Nguyen Du - "The narrative is skillful, the scene description is the same, the love conversation is well established": with "The Story of Kieu" Nguyen Du's talent in artistic aspects: narrative, scene description, lyricism (inner description) has been demonstrated. reached its peak. – “the eye that sees through the six realms”: vast scope of reality - "The heart that thinks through thousands of generations": the work has set forth timeless ideas and philosophies that are of a human scale. => Appreciate the value of "The Tale of Kieu" as well as Nguyen Du's talent and heart. -"The Story of Kieu" represents Nguyen Du's "hard work and suffering" because the work is the author's heartache at what he sees, and his grief for human lives. -"skillful narrative": compare with "Kim Van Kieu Truyen" to see the creativity in Nguyen Du's storytelling (omitting thrilling and vulgar details; changing the order of events; telling according to internal point of view, according to the character's psychology...) -"describe the scene exactly": the author describes nature as both the backdrop and spatial context for the story and also borrows nature to express the mood. -“The love story is established”: the art of deeply depicting the psychology of characters -“The eyes see through the six realms, the heart thinks for a thousand lifetimes: + A broad and clear picture of social reality is shown in the work (society chasing money, the face of mandarins, meat traffickers...) + Contemporary philosophical issues: women's humble status, relative fortunes,... (Note: Students flexibly apply the excerpts they have learned and read more to illustrate) -Explain the basis for creating Nguyen Du's genius (factors of time, life and people...) – Affirming a valuable work is the combination of both the mind and talent of the artist.