vi
stringlengths
846
10.5k
en
stringlengths
799
10.5k
Trần Huy Thuận Ngu lâu! Biết, nói không biết - ấy là biết! (Lão Tử) Ngu si hưởng thái bình (Lời cổ) Ngu đồng nghĩa với dại. Ngược với ngu, dại là khôn. Vâng, “rồng vàng tắm nước ao tù, người khôn ở với người ngu bực mình!”. Lại nữa: “Làm tớ thằng khôn còn hơn làm thầy thằng dại!”. Ca dao xưa đã khẳng định như vậy. Ranh giới giữa ngu và dại là ngố. Dân An Nam ta xưa kia vốn rất tự tin, người ngoại quốc nào sang đến đất nước này cũng bị gọi là ngố: Tầu thì có ngố Tàu, Tây thì có Tây ngố, Nga ngố! Để diễn tả cái sự ngu, dại, ngố, người xưa đã có rất nhiều hình tượng: dại như vích, ngu như lợn, ngu như bò, ngu như chó... Khi chê bai ai đó một cách nhẹ nhàng, thì nói: “Sao mà cậu dại như con vích vậy?”; hoặc “trông cứ như thằng Tây ngố ấy!”. Còn khi đã ví ai đó “ngu như chó” có nghĩa là đã tức về cái sự ngu của người ấy lắm rồi, tức đến tột đỉnh rồi, không thể chịu được nữa! Suốt nhiều thế kỉ, dân ta đã dùng những từ ngữ đó để nói về cái sự ngu, sự dại, sự ngố. Như vậy tưởng là đã quá đủ rồi, không khiến ai phải sáng tác thêm làm gì! Vậy mà mấy thập niên gần đây lại nảy nòi ra một hình tượng hoàn toàn mới: Ngu lâu! Mới nghe thì chả ra làm sao cả, chả có gì đặc biệt cả. Ấy thế mà càng ngẫm, càng thấy thấm thía. Ôi! Sao mà nó đúng đến dễ sợ vậy? Nếu tìm ra được tác giả đích thực của câu nói này, chắc đến phải đề nghị trao tặng bằng “tiến sĩ ngôn ngữ danh dự” cho người đó mất thôi (tiến sĩ danh dự thì không phải làm luận án, không mất công thi cử; hệ quả là không sợ bị gọi là học giả, bằng thật, cũng không bị nghi ngờ chạy điểm, cóp bài!). Ngu lâu là sự ngu tệ hại nhất trong các loại ngu - tệ hại nằm ngay trong hai cái từ nghe có vẻ vô hại và hơi du dương ấy! Người ngu lâu là người chủ quan nhất trong những người chủ quan: Ngu mà chả bao giờ cho mình là ngu; ngay khi đã nhận ra mình ngu lâu, mà vẫn cứ tiếp tục ngu, cứ ngu một cách vô tư trong suốt cả cuộc đời, ngu như kẻ “mộng du... ngu”, ngu triền miên và đôi khi còn đắc chí nữa! Cái tệ hại của ngu lâu là nó kìm hãm tất cả, cả người bị gọi là ngu lẫn người có liên quan đến anh ta! Đó là sự khác biệt cụ thể nhất của ngu lâu so với ngu như lợn, như bò, hay như chó! Ngược với ngu là khôn. Song hành với khôn thường là ngoan! Cuộc đời có nhiều minh chứng (tuy không là tất cả) rằng kẻ khôn, thường là kẻ ngoan, chí ít cũng là kẻ biết cách ngoan! Dân gian gọi những kẻ khôn như thế là “khôn long khôn lỏi”, “khôn lọc khôn lõi”! Khi ở đâu đó hình thành hai ba phe phái, mà người phe mình khó thắng người phe đối thủ, thì cách lựa chọn đúng đắn nhất của mỗi phe, là dồn sự ủng hộ của mình cho kẻ ngoan, tức kẻ dễ sai khiến. Thế là ngoan nghiễm nhiên được đa số phiếu! Thực tế cuộc đời cho thấy, đã có không ít kẻ NGOAN leo lên đến tột đỉnh của sự “vinh quang” (!). Cha ông ta, nhiều khi khiêm tốn cũng tự nhận mình không khôn: “Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ Người khôn, người đến chốn lao xao!” Nhưng đấy chỉ là một cách mỉa mai đời mà thôi. Các cụ đâu có dại? Năm tháng nếm trải mọi cay đắng, ngọt bùi của cuộc sống, mới rút ra được sự “dại” đó. Lớp hậu thế, nhất là khi còn đang ở thời buổi đua chen, đang ở tuổi hăng thi thố để “thiên hạ biết mình là ai”, thì học được chữ “dại” của các cụ là khó lắm lắm! Những kẻ ngu lâu, đâu có được cái cốt cách dại đó của cha ông! “Khôn ngoan đến cửa quan mới biết!” là một kinh nghiệm đánh giá khôn - dại. Kinh nghiệm này cần nhìn ở cả hai phía: phía quan và phía dân. Được làm quan mà không biết tận hưởng lộc vua là dại, không khôn! Là dân mà đến chỗ công đường không biết biến báo, chạy vạy, không biết phong bao phong bì, có sao khai thật vậy, thì cũng là kẻ khờ khạo, chứ không khôn! Ở cái thành phố tôi, có tay Nghĩa xe bò nổi tiếng một thời. Anh ta chỉ làm nghề kéo xe bò thôi, vậy mà xây được nhà lầu lúc nào không hay! Cái thời mà tất cả đều là nhà cấp bốn (một tầng trệt, lợp ngói), thậm chí còn tranh tre nứa lá, mà nghe tin Nghĩa ngố xây nhà lầu, lấy mẫu tận Thủ đô, thì chả ngạc nhiên làm sao được? Thực khách dự bữa tiệc mừng nhà mới đều là những người khôn ngoan, rất muốn được Nghĩa ngố giải thích. Rượu vào rồi, Nghĩa mới thủng thẳng: “Có gì đâu, thiên hạ, kể cả các bác đây cũng vậy, đều chỉ thích khoe khôn, chẳng ai chịu nhận mình dại. Thế là Nghĩa này nhận mình dại, mình ngố! Mà đã ngố thì chả thằng khôn nào lại đi tranh giành thiệt hơn với ngố cả, đúng không? Thế là ngố đây vơ tất! Hóa ra chính thiên hạ dại, chính các bác dại, các bác ngố! Ngay như cái việc hôm nay, chỉ Nghĩa ngố này mới dám cả gan làm ngôi nhà lầu to đoành thế này, lại đàng hoàng mở tiệc khao nữa; chứ các bác có của nhiều đến mấy, bố bảo cũng chả dám. Lại không bị thanh tra kiểm tra ngay tắp lự ấy à! Còn Ngố thì chả ai thèm để ý, chả ai thèm chấp! Ai đi chấp với thằng Ngố kéo xe bò cơ chứ?”. Kết thúc buổi tiệc, có người mừng Nghĩa hai câu: “Khôn như chúng tớ - là khôn dại Dại kiểu Nghĩa ngố - ấy dại khôn”! Vậy ra hai chữ khôn, dại ở đời, không phải là chuyện dễ nhận biết! Bởi vốn dĩ, xưa nay: Đời chỉ toàn những người tranh khôn, mấy ai tranh dại như anh Nghĩa ngố ở thành phố tôi? Phải chăng đó cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự ra đời của hai chữ “ngu lâu”. Và phải chăng cũng còn bởi lẽ những người ngu lâu như chính người viết bài này, đâu có bao giờ tự cho mình là không... khôn? Vâng! Không khôn thì, trước sóng gió cuộc đời, làm sao tồn tại đến tận bây giờ chứ? Mục lục Ngu lâu! Ngu lâu! Trần Huy ThuậnChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: Tác giả/ VNthuquan - Thư viện OnlineĐược bạn: Ct.Ly đưa lên vào ngày: 7 tháng 11 năm 2009
Tran Huy Thuan Sleep for a long time! Knowing, saying not knowing - that is knowing! (Lao Tzu) Ignorance enjoys peace (Ancient saying) Stupidity is synonymous with foolishness. The opposite of foolishness is wisdom. Yes, "golden dragons bathe in stagnant pond water, wise people stay with stupid people and get upset!". Again: "It's better to be the servant of a wise man than the teacher of a fool!". Ancient folk songs affirmed that. The line between stupidity and stupidity is stupidity. Our An Nam people used to be very confident, every foreigner who came to this country was called stupid: Chinese had stupid Chinese, Westerners had Western stupid, Russian stupid! To describe stupidity, stupidity, stupidity, the ancients had many images: stupid as a turtle, stupid as a pig, stupid as a cow, stupid as a dog... When criticizing someone gently, say : “Why are you so stupid like a turtle?”; or “looks like a stupid Westerner!”. And when you compare someone to "stupid as a dog" it means you're so angry about that person's stupidity, you're so angry that you can't stand it anymore! For centuries, our people have used those words to talk about stupidity, foolishness, and stupidity. That seems like enough, no need to make anyone create more! Yet in recent decades, a completely new image has emerged: Stupidity! At first listen, it doesn't sound like anything, nothing special. Yet the more I think about it, the more profound it becomes. Oh! Why is it so terrifyingly true? If we can find the true author of this quote, we will probably have to offer to award that person an "honorary doctorate in linguistics" (honorary doctorate does not require a thesis, does not require work). no fear of being called a scholar, no real degree, no suspicion of plagiarism!). Prolonged stupidity is the worst of all types of stupidity - the worst lies right in those two harmless-sounding and slightly melodious words! People who are stupid for a long time are the most subjective among subjective people: Stupid but never consider themselves stupid; Even after realizing that I've been stupid for a long time, I still continue to be stupid, carelessly stupid my whole life, as stupid as someone who "sleepwalks... stupid", constantly stupid and sometimes even complacent. ! The bad thing about stupidity is that it holds everyone back, both the person being called stupid and the people related to him! That is the most specific difference between being stupid compared to being stupid like a pig, like a cow, or like a dog! The opposite of stupid is wise. Along with wisdom is often good! Life has many proofs (though not all) that wise people are often good people, at least people who know how to be good! People call smart people like that "wisdom", "wisdom, wisdom"! When two or three factions are formed somewhere, and it is difficult for one's own side to win against the opposing side's, the best choice for each faction is to give its support to the good guy, that is, the one who is easy to manipulate. So being obedient automatically gets the majority of votes! In reality, life shows that there have been many NICE people who have climbed to the pinnacle of "glory" (!). Our ancestors, many times, humbly admitted that they were not wise: "I was foolish, I looked for a deserted place. He was wise, but he went to a chaotic place!" But that's just an ironic way of life. Are you guys stupid? After years of experiencing all the bitterness and sweetness of life, only then can we learn that "foolishness". The next generation, especially when they are still in the age of competition, at an age where they are eager to compete so that "the world knows who they are", it is very difficult to learn the word "fool" from the elders! People who have been stupid for a long time do not have that foolish character of their ancestors! "If you're wise, you'll know when you get to the mandarin's door!" is an experience of wise and foolish evaluation. This experience needs to be looked at from both sides: the officials' side and the people's side. Being an official without knowing how to enjoy the king's fortune is foolish, not wise! As a citizen, if you go to public places and don't know how to report, run around, don't know what envelopes are in, how can you tell the truth, then you're still stupid, not smart! In my city, there was a guy named Nghia who was famous for a while. He only worked as a cart puller, but he built a high-rise house without even realizing it! In a time when all were four-level houses (a ground floor, tiled roofs), and even had bamboo and leaf paintings, but hearing that Nghia Ngo built a high-rise house and took samples all the way to the capital, how could we be surprised? The diners attending the new house celebration party are all wise people who really want Nghia Ngo's explanation. Once the alcohol was in, Nghia bluntly said: "It's nothing, people, including you guys here, all just like to show off, no one is willing to admit that they're stupid. So Nghia admitted that he was stupid, that he was stupid! If you're stupid, no smart guy would compete with a stupid person, right? So I'm stupid here and take it all! Turns out it's the people who are stupid, it's you guys who are stupid, you guys are stupid! Just like today, only this stupid Nghia would dare to build such a big house and even properly hold a banquet; No matter how much money you guys have, Dad said you wouldn't dare. You weren't immediately checked by the inspector! As for Idiot, no one cares, no one cares! Who would compete with Ngo pulling a cart?" At the end of the party, someone congratulated Nghia with two sentences: "Clever like us - is smart. Stupid like Nghia is stupid - that's foolish and smart"! So the two words wise and foolish in life are not easy to recognize! Because inherently, in the past: Life is only full of smart people, how many people compete foolishly like the stupid Nghia in my city? Is that also one of the reasons that led to the birth of the word "stupid long". And is it also because people who have been stupid for a long time like the person writing this article, never consider themselves not... wise? Yes! If you are not wise, how can you survive until now in the face of life's ups and downs? Table of contents Sleep for a long time! Sleep for a long time! Tran Huy ThuanWelcome to read books from the book project for mobile devices. Source: author: Nguyen Kim Vy. Final words: Thank you for reading the entire story. Source: editor: Nguyen Kim Vy. Source: Author/ VNthuquan - Online Library Posted by: Ct.Ly on: November 7, 2009
nhiều tác giả Nguyên Hồng Tác giả, tác phẩm Nguyên Hồng(1918-1982)Tên thật: Nguyễn Nguyên Hồng, sinh ngày 5 tháng 11 năm 1918 tại thành phố Nam Định. Mất ngày 2 tháng 5 năm 1982 tại Yên Thế (Bắc Giang). Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội viên sáng lập Hội Nhà văn Việt Nam (1957).Sinh trưởng trong một gia đình nghèo, sớm mồ côi cha, ngay từ nhỏ, Nguyên Hồng đã phải cùng mẹ ra Hải Phòng lần hồi kiếm sống trong các xóm thợ nghèo. Ông dạy học tư và viết văn. Những năm 1937 - 1939, ông tham gia phong trào mặt trận dân chủ Hải Phòng. Sáng tác của Nguyên Hồng trước Cách mạng thường đăng trên các báo, tạp chí: Tiểu thuyết thứ bảy, Đông phương… Tháng 9 năm 1939, ông bị Pháp bắt. Năm 1940 ra tù ông lại bị thực dân Pháp đưa đi trại tập trung ở Bắc Mê (Hà Giang) và sau đó bị quản thúc ở Nam Định (11-1941). Năm 1943, Nguyên Hồng tham gia đội Văn hóa cứu quốc bí mật và Tạp chí Tiền phong. Nguyên Hồng tham gia tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 ở Hà Nội. Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, ông hoạt động ở đội văn nghệ Việt Nam (từ 1947 - 1957), tham gia biên tập tạp chí Văn nghệ và trong ban phụ trách Trường văn nghệ nhân dân ở Việt Bắc. Ông là Uỷ viên Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam (khoá I và II). Biên tập viên tạp chí Văn nghệ và trong ban phụ trách tuần báo Văn. Nguyên Hồng còn tham gia phụ trách trường bồi dưỡng lực lượng viết văn trẻ (của Hội Nhà văn Việt Nam), Ban Văn học công nhân và là Chủ tịch Hội Văn nghệ Hải Phòng. Những năm cuối đời Nguyên Hồng về sống, sáng tác tại Tân Yên (Hà Bắc) và mất tại đó. Nhà văn đã được tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học - nghệ thuật (đợt I, 1996). Những tác phẩm đã xuất bản: Bỉ Vỏ (tiểu thuyết, 1938); Bảy Hựu (truyện ngắn, 1941); Những ngày thơ ấu (truyện ngắn, 1941); Qua những màn tối (truyện, 1942); Cuộc sống (tiểu thuyết, 1942); Quán nải (tiểu thuyết, 1943); Đàn chim non (tiểu thuyết, 1943); Hơi thở tàn (tiểu thuyết, 1943); Hai dòng sữa (truyện ngắn, 1943); Vực thẳm (truyện vừa, 1944); Miếng bánh (truyện ngắn, 1945); Ngọn lửa (truyện vừa, 1945); Địa ngục và lò lửa (truyện ngắn, 1946 - 1961); Đất nước yêu dấu (ký, 1949); Đêm giải phóng (truyện vừa, 1951); Giữ thóc (truyện vừa, 1955); Giọt máu (truyện ngắn, 1956); Trời xanh (thơ,1960); Sóng gầm (tiểu thuyết, 1961); Sức sống của ngòi bút (tạp văn, 1963); Cơn bão đã đến (tiểu thuyết, 1963); Bước đường viết văn của tôi (hồi ký, 1971); Cháu gái người mãi võ họ Hoa (truyện thiếu nhi, 1972); Thời kỳ đen tối (tiểu thuyết, 1973); Một tuổi thơ văn (hồi ký, 1973); Sông núi quê hương, Khi đứa con ra đời (tiểu thuyết, 1976); Những nhân vật ấy đã sống với tôi (hồi ký, 1978); Tù nhà nợ nước (tập I trong bộ tiểu thuyết Núi rừng Yên Thế 1981); Núi rừng Yên Thế (tiểu thuyết, tập II, 1993); Tuyển tập Nguyên Hồng (3 tập, tập I: 1983, tập II: 1984, tập III: 1995). Mục lục Nguyên Hồng Nguyên Hồng nhiều tác giảChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: bạn: Thái Nhi đưa lên vào ngày: 9 tháng 11 năm 2004
many authors Nguyen Hong Author, work Nguyen Hong (1918-1982) Real name: Nguyen Nguyen Hong, born November 5, 1918 in Nam Dinh city. Died on May 2, 1982 in Yen The (Bac Giang). Member of the Communist Party of Vietnam. Founding member of the Vietnam Writers' Association (1957). Growing up in a poor family, orphaned early in life, from a young age, Nguyen Hong had to go with his mother to Hai Phong to earn a living in poor worker's villages. He teaches privately and writes. In the years 1937 - 1939, he participated in the Hai Phong democratic front movement. Nguyen Hong's works before the Revolution were often published in newspapers and magazines: Saturday Novel, Oriental... In September 1939, he was arrested by the French. In 1940, when he was released from prison, the French colonialists sent him to a concentration camp in Bac Me (Ha Giang) and then was placed under house arrest in Nam Dinh (November 1941). In 1943, Nguyen Hong joined the Secret National Salvation Culture team and Tien Phong Magazine. Nguyen Hong participated in the August 1945 general uprising in Hanoi. During the resistance war against the French, he was active in the Vietnamese arts team (from 1947 - 1957), participated in editing Van Nghe magazine and was in charge of the People's Arts School in Viet Bac. He is a member of the Executive Committee of the Vietnam Writers Association (terms I and II). Editor of Van Nghe magazine and in charge of Van weekly magazine. Nguyen Hong is also in charge of the school to train young writers (of the Vietnam Writers Association), the Workers' Literature Committee and is the Chairman of the Hai Phong Arts Association. In the last years of his life, Nguyen Hong lived and composed in Tan Yen (Ha Bac) and died there. The writer was awarded the Ho Chi Minh Prize for Literature and Arts (phase I, 1996). Published works: Belgian Shell (novel, 1938); Bay Huu (short story, 1941); Childhood Days (short story, 1941); Through the Darkness (story, 1942); Life (novel, 1942); The Shop (novel, 1943); The Young Birds (novel, 1943); The Dead Breath (novel, 1943); Two Rivers of Milk (short story, 1943); The Abyss (medium story, 1944); A Piece of Cake (short story, 1945); The Fire (medium story, 1945); Hell and the Furnace (short story, 1946 - 1961); Beloved Country (signed, 1949); Liberation Night (medium story, 1951); Keeping Rice (medium story, 1955); Drops of Blood (short story, 1956); Blue Sky (poetry, 1960); Roaring Waves (novel, 1961); The vitality of the pen (magazine, 1963); The Storm Has Come (novel, 1963); My journey as a writer (memoir, 1971); The Martial Artist's Granddaughter of the Hoa Family (children's story, 1972); Dark Times (novel, 1973); A literary childhood (memoir, 1973); Rivers and Mountains of Homeland, When a Child is Born (novel, 1976); Those characters lived with me (memoir, 1978); Prisoners who owe money to the country (volume I in the novel Yen The Mountains and Forests 1981); Yen The Mountains and Forests (novel, volume II, 1993); Nguyen Hong Collection (3 volumes, volume I: 1983, volume II: 1984, volume III: 1995). Table of contents Nguyen Hong Nguyen Hong many authorsWelcome to read books from the book project for mobile devicesSource: author: Nguyen Kim Vy. Final words: Thank you for reading the entire story. Source: editor: Nguyen Kim Vy. Source: friend: Thai Nhi posted on: November 9, 2004
nhiều tác giả Nguyên Sa Đôi dòng tiểu sử Nguyên Sa tên thật Trần Bích Lan, sinh năm 1932 tại Hà Nội. Du học Pháp từ thuở niên thiếu và đậu cử nhân văn chương, Nguyên Sa về Việt Nam sau hiệp định Genève năm 1954 và làm ngạc nhiên nhiều người vì khả năng xử dụng tiếng Việt tuyệt vời của ông. Ông sinh sống bằng nghề giáo sư dạy Triết và rất thành công.Thơ Nguyên Sa trữ tình, lãng mạn, giàu nhạc điệu, chất chứa sáng tạo trong ngôn ngữ cũng như hình ảnh, đôi khi pha lẫn thi tứ triết học. Ông sang Mỹ năm 1975 và từ đó làm báo. Ông đã từ trần ngày 18-4-1998 tại Orange County, nam California, Hoa Kỳ, hưởng thọ 68 tuổi.Tác phẩm tiêu biểu: Thơ Nguyên Sa (1958), các tập biên khảo Quan Điểm Văn Học và Triết Học, Một Bông Hồng cho Văn Nghệ..., truyện Gõ Đầu Trẻ, tập truyện Mây Bay Đi. Mục lục Nguyên Sa Nguyên Sa nhiều tác giảChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: Yến VânĐược bạn: đưa lên vào ngày: 5 tháng 10 năm 2004
many authors Nguyen Sa A few lines of biography Nguyen Sa's real name is Tran Bich Lan, born in 1932 in Hanoi. Studying in France since he was a teenager and earning a bachelor's degree in literature, Nguyen Sa returned to Vietnam after the Geneva Accords in 1954 and surprised many people with his excellent ability to use Vietnamese. He made a living as a philosophy professor and was very successful. Nguyen Sa's poetry is lyrical, romantic, rich in music, contains creativity in language as well as images, sometimes mixed with philosophical poetry. He came to America in 1975 and has been working as a journalist ever since. He passed away on April 18, 1998 in Orange County, southern California, USA, at the age of 68. Typical works: Nguyen Sa's Poetry (1958), edited volumes of Literary and Philosophical Perspectives, One A Rose for Literature..., the story Knock on Children's Head, the story collection Clouds Fly Away. Table of contents Nguyen Sa Nguyen Sa many authorsWelcome to read books from the book project for mobile devicesSource: author: Nguyen Kim Vy. Final words: Thank you for reading the entire story. Source: editor: Nguyen Kim Vy. Source: Yen Van Uploaded by friend: October 5, 2004
nhiều tác giả Nguyễn Bá Học Đôi nét về tác giả Nguyễn Bá Học sinh 1857, mất 1921. Quê ở Nhân Chính, Thanh Xuân, Hà Nội. Nổi tiếng tinh thông Hán học, sau cũng nhanh chóng chuyển sang Tây học. Từng dạy học ở Sơn Tây, Nam Định, Hà Nội.Ngoài truyện ngắn ông còn viết một số bài báo bàn về giáo dục.Các tác phẩm của ông chủ yếu in trên tạp chí Nam Phong. nhiều tác giả Nguyễn Bá Học Sinh 1903, tại Xuân Cầu, Nghĩa Trụ, Văn Giang tỉnh Bắc Ninh, nay là tỉnh Hưng Yên, trong một gia đình Nho học, mất năm 1977 tại Hà Nội. Nguyễn Công Hoan viết văn từ năm 17 tuổi, năm 20 tuổi xuất bản tập truyện ngắn Kiếp hồng nhan, và năm 32 tuổi (1935), nổi tiếng với tập truyện ngắn Kép Tư Bền. Trước cách mạng tháng Tám ông làm nghề dạy học thường bị Pháp theo dõi phải đổi trường nhiều lần. Sau cách mạng tháng Tám ông hăng hái tham gia kháng chiến, trên lĩnh vực văn hoá văn nghệ: Chủ bút báo Vệ quốc quân, Chủ tịch đầu tiên của Hội Nhà văn Việt Nam... Nguyễn Công Hoan đã được Nhà nước trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật (đợt 1, 1996). Sự nghiệp văn học của Nguyễn Công Hoan khá đồ sộ với hàng trăm truyện ngắn và nhiều tiểu. Các tác phẩm của ông đã được tái bản nhiều lần và hiện được chọn lại trong bộ Tuyển tập Nguyễn Công Hoan (3 tập, Nxb. Văn học, 1983 - 1986). Mục lục Đôi nét về tác giả Nguyễn Bá Học nhiều tác giảChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: Được bạn: Thành Viên VNthuquan đưa lên vào ngày: 27 tháng 12 năm 2003
many authors Nguyen Ba Hoc A bit about the author Nguyen Ba Student, born in 1857, died in 1921. Hometown in Nhan Chinh, Thanh Xuan, Hanoi. Famous for his mastery of Chinese studies, he quickly switched to Western studies. Used to teach in Son Tay, Nam Dinh, Hanoi. In addition to short stories, he also wrote a number of articles discussing education. His works are mainly published in Nam Phong magazine. many authors Nguyen Ba Hoc Born in 1903, in Xuan Cau, Nghia Tru, Van Giang, Bac Ninh province, now Hung Yen province, in a Confucian family, died in 1977 in Hanoi. Nguyen Cong Hoan has been writing since he was 17 years old, at the age of 20 he published the short story collection Kiep Hong Nhan, and at the age of 32 (1935), he became famous for his short story collection Kep Tu Ben. Before the August Revolution, he worked as a teacher and was often monitored by the French and forced him to change schools many times. After the August Revolution, he enthusiastically participated in the resistance war, in the field of culture and arts: Editor of the National Guard newspaper, first President of the Vietnam Writers' Association... Nguyen Cong Hoan was awarded by the State. Ho Chi Minh Prize for Literature and Arts (1st round, 1996). Nguyen Cong Hoan's literary career is quite voluminous with hundreds of short stories and many novels. His works have been republished many times and are currently re-selected in the collection Nguyen Cong Hoan (3 volumes, Literature Publishing House, 1983 - 1986). Table of contents A bit about the author Nguyen Ba Hoc many authorsWelcome to read books from the book project for mobile devicesSource: author: Nguyen Kim Vy. Final words: Thank you for reading the entire story. Source: editor: Nguyen Kim Vy. Source: Posted by: Member VNthuquan on: December 27, 2003
nhiều tác giả Nguyễn Bá Lân Sự nghiệp và nhân cách Nguyễn Bá Lân Nguyễn Bá Lân sinh năm Canh Thìn (1700) tại xã Cổ Đô, huyện Tiên Phong (cũ), trấn Sơn Tây xưa (nay thuộc huyện Ba Vì, tỉnh Hà Tây). Thân sinh ông là Nguyễn Công Hoàn nổi tiếng một thời về văn chương, được xếp hàng thứ ba trong "tứ hổ" ở kinh thành Thăng Long xưa (nhất Quỳnh, nhị Nhan, tam Hoàn, tứ Tuấn). Ông Hoàn học giỏi, nhưng lại lận đận về đường khoa cử, không đỗ đạt gì, chỉ chuyên nghề dạy học, các chức tước của ông như Đại lý tự thừa, Hiển cung đại phu, Đông Các đại học sĩ, Kim tử vinh lộc đại phu, Hàn lâm viện Thừa chỉ... đều do có con là Nguyễn Bá Lân thăng chức lớn nên cha được phong tặng theo tục lệ ngày trước.Nguyễn Bá Lân học với cha từ năm 15 tuổi, được cha rèn cặp rất nghiêm khắc. Cách dạy con của ông đồ Hoàn khá đặc biệt, không chuộng nhồi nhét bắt học nhiều như các thầy đồ khác, mà có sự chọn lọc trên cơ sở cuộc đời dạy học của bản thân mình. Từ khi còn ít tuổi, Nguyễn Bá Lân vốn rất ham đọc sách và ham tìm hiểu thế giới bên ngoài. Chuyện kể lại rằng thường ngày trên án của ông lúc nào bên trái cũng đặt bản đồ, bên phải đặt sách vở, để khi đọc sách nếu cần thì tra cứu.Có một điều rất độc đáo trong cách dạy học của cha Nguyễn Bá Lân, đó là tìm cách phát huy tính năng động sáng tạo, bồi dưỡng óc thông minh nhanh nhạy của người học trò - mà cũng chính là con mình, trên một tinh thần thi đua bình đẳng với con, nếu mình bị thua thì cũng đòi hỏi được xử trí công bằng, không chút phân biệt. Được cha trực tiếp dạy dỗ một cách chu đáo, lại vốn có tư chất thông minh, Nguyễn Bá Lân tiến bộ rất nhanh. Năm 18 tuổi, tức là chỉ ba năm sau khi học với cha, ông đã đỗ đầu kỳ thi Hương, để hai năm sau lại đỗ kỳ thi Hội, rồi kỳ thi Đình, đỗ đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân năm Tân Hợi (1731) vào lúc ông 31 tuổi, cái tuổi "tam thập nhi lập" đã chín chắn để hành động.Nguyễn Bá Lân bước vào đường làm quan cũng khá đặc biệt. Đỗ Tiến sĩ, chỉ một thời gian sau ông đã được cử làm Giám khảo kỳ thi Hội. Để rồi sau đó, do có nhiều công lao chiến tích, lại là người cẩn thận, siêng năng, thanh liêm, ngay thẳng, không xu nịnh, ông nhanh chóng được thăng nhiều chức, cả văn lẫn võ. Từ chức Phiên tào ở phủ chúa Trịnh Giang, đến đầu đời Cảnh Hưng (1740 - 1786) đã làm Tả chấp pháp ở Bộ Hình; năm 1744 bổ làm lưu thủ trấn Hưng Hóa, sau làm đốc trấn Cao Bằng, tại cả hai nhiệm sở trên ông đều có công lớn trong việc giữ gìn trật tự trị an trên vùng biên giới. Năm 1756, ông được triệu về kinh đô Thăng Long nhận chức Thiêm đô ngự sử, vào phủ Chúa giữ chức Bồi tụng (chức thứ hai sau Tham tụng), tước Lễ Trạch hầu, kiêm giữ chức Tế tửu Quốc Tử Giám (Hiệu trưởng). Năm 1765, ông về hưu mới được ít lâu đã được chúa Trịnh Doanh mời ra giúp việc từ tụng, xét xử án từ. Đến năm 1770, ông dâng khải xin về hưu vì tuổi già, chúa Trịnh Sâm không chuẩn y mà vẫn giữ ông lại Kinh đô để hỏi ý kiến khi cần thiết. Sau đó, ông được khôi phục làm Thượng thư bộ Lễ, rồi Thượng thư bộ Hộ, hàm Thiếu bảo, được liệt vào bậc Ngũ lão hầu. Chúa Trịnh Tông vẫn còn triệu ông vào hỏi việc lúc ông đã 84 tuổi. Hai năm sau ông mất, thọ 86 tuổi, linh cữu được rước về an táng ở quê nhà. Khi ông mất được tặng chức Thái tể, tước Quận công.Nguyễn Bá Lân trọn đời mang hết tài năng và đức hạnh của mình ra giúp dân, giúp nước trên mọi cương vị, văn võ song toàn, văn hóa - giáo dục uyên bác. Cho nên không lấy gì làm lạ khi thấy những danh nhân đương thời đều nói về ông với những lời trân trọng nhất. Phan Huy Chú nhận xét: "Khi bàn việc, ông giữ lòng trung thực, không che chở bênh vực ai, chúa khen là ngay thẳng dám nói". Sử sách của Quốc sử quán triều Nguyễn về sau cũng viết: "Nguyễn Bá Lân... làm quan thanh liêm, cẩn thận, ra trấn Cao Bằng vỗ về nhân dân, dẹp yên giặc cướp, tỏ rõ công lao, vào triều tham dự chính sự thì giữ đúng pháp luật, không hề a dua..." (Đại Nam nhất thống chí). "Bá Lân là người có văn học, chất phác, thẳng thắn, mạnh dạn dám nói" (Cương mục).Đóng góp của ông về mặt văn học cũng đáng kể. Riêng với bài phú Nôm Ngã Ba Hạc, bằng những hình ảnh mạnh mẽ, có phần tinh nghịch. Về phú còn có nhiều bài chữ Hán, như Giai cảnh hứng tình, Dịch đình dương xa, Trương Hàn tư thuần lư... Nguyễn Bá Lân còn có một số bài thơ vịnh sử, được tuyển vào cuốn Vịnh sử thi quyển, Quốc âm thi và Mao thi ngâm vịnh thực lục. Mục lục Nguyễn Bá Lân Nguyễn Bá Lân nhiều tác giảChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: bạn: Thái Nhi đưa lên vào ngày: 24 tháng 9 năm 2004
many authors Nguyen Ba Lan Nguyen Ba Lan's career and personality Nguyen Ba Lan was born in the year of Canh Thin (1700) in Co Do commune, Tien Phong district (old), ancient Son Tay town (now Ba Vi district, Ha Tay province). His father, Nguyen Cong Hoan, was once famous for his literature, ranked third among the "four tigers" in the ancient capital Thang Long (Nhat Quynh, Nhi Nhan, Tam Hoan, Tu Tuan). Mr. Hoan was good at studying, but he struggled in the entrance examination, did not pass anything, only specialized in teaching, his titles were such as Tu Thua Agent, Hien Cung Doctor, Dong Cac Academician, Kim Tu Vinh. Doctor's fortune, Academy of Thua Chi... were all due to having his son Nguyen Ba Lan promoted to a great position, so his father was awarded the title according to previous customs. Nguyen Ba Lan studied with his father from the age of 15, and was trained very well by his father. strict. Mr. Hoan's way of teaching his children is quite special, he does not like to cram and force him to learn as much as other teachers, but is selective based on his own teaching life. Since he was young, Nguyen Ba Lan has always loved reading and learning about the outside world. The story is told that every day, on his desk, he always puts a map on the left and books on the right, so that when reading, he can look up if necessary. There is something very unique about Father Nguyen Ba Lan's teaching style. , which is to find ways to promote the creative dynamism and foster the quick intelligence of the student - who is also your child, in the spirit of equal competition with your child. If you lose, you will also win. Questions are treated fairly and without discrimination. Directly and thoughtfully taught by his father and inherently intelligent, Nguyen Ba Lan progressed very quickly. At the age of 18, just three years after studying with his father, he passed the Huong exam first, then two years later passed the Hoi exam, then the Dinh exam, and passed third place with a doctorate in the year Tan Hoi. (1731) when he was 31 years old, the age of "thirty years of independence" was ripe for action. Nguyen Ba Lan entering the path of becoming a mandarin was also quite special. Do Doctor, only a short time later he was appointed as an examiner for the Association exam. Then, because he had many achievements and was careful, diligent, honest, upright, and did not flatter, he was quickly promoted to many positions, both literary and martial. Resigning from the position of Viceroy in Lord Trinh Giang's palace, at the beginning of Canh Hung's life (1740 - 1786), he became a law enforcer at the Ministry of Justice; In 1744, he was appointed governor of Hung Hoa town, then governor of Cao Bang town. In both posts, he made great contributions to maintaining order and security in the border areas. In 1756, he was summoned to the capital Thang Long to receive the position of Emperor Thiem, entered the Lord's Palace to hold the position of Complainant (the second position after the Attorney General), the title of Le Trach Marquis, and also held the position of Te Tuu Quoc Tu Giam (Principal). ). In 1765, not long after he retired, he was invited by Lord Trinh Doanh to help recite and judge the court case. In 1770, he submitted a proposal to retire due to old age, but Lord Trinh Sam did not approve but kept him in the capital to consult when necessary. After that, he was restored to the position of Minister of Rites, then Minister of Household, with the rank of Young Treasure, and was listed as the Fifth Marquis. Lord Trinh Tong still summoned him to ask questions when he was 84 years old. Two years later, he passed away at the age of 86. His coffin was brought back to be buried in his hometown. When he died, he was awarded the title of Crown Prince and the title of Duke. Nguyen Ba Lan spent his entire life bringing all his talents and virtues to help the people and the country in every position, perfect in literature and martial arts, and knowledgeable in culture and education. . So it is not surprising to see contemporary famous people speaking about him with the most respectful words. Phan Huy Chu commented: "When discussing matters, he remained honest and did not defend or defend anyone. God praises him for his honesty and daring to speak." The history books of the National History Institute of the Nguyen Dynasty later also wrote: "Nguyen Ba Lan... worked as an honest and careful mandarin, went to Cao Bang town to comfort the people, quelled bandits, showed his merits, and entered the court to become corrupt. When participating in political affairs, we must comply with the law and not commit crimes..." (Dai Nam Nhat Thong Chi). "Ba Lan is a literary man, simple, straightforward, and bold to speak" (Cuong Muc). His literary contributions are also significant. Particularly with the Nom poem Nga Ba Hac, with strong, somewhat mischievous images. About Phu, there are also many Chinese poems, such as Giai Canh of Excitement, Dich Dinh Duong Xa, Truong Han Tu Pure Lu... Nguyen Ba Lan also has a number of historical poems, which were included in the book Vinh epic vol, Quoc Am Thi and Mao Thi recite Vinh Thuc Luc. Table of contents Nguyen Ba Lan Nguyen Ba Lan many authorsWelcome to read books from the book project for mobile devicesSource: author: Nguyen Kim Vy. Final words: Thank you for reading the entire story. Source: editor: Nguyen Kim Vy. Source: friend: Thai Nhi posted on: September 24, 2004
nhiều tác giả Nguyễn Công Hoan Tác giả - Tác Phẩm Nguyễn Công Hoan ( 1903 - 1977 ) Sinh 1903, tại Xuân Cầu, Nghĩa Trụ, Văn Giang tỉnh Bắc Ninh, nay là tỉnh Hưng Yên, trong một gia đình Nho học, mất năm 1977 tại Hà Nội. Nguyễn Công Hoan viết văn từ năm 17 tuổi, năm 20 tuổi xuất bản tập truyện ngắn Kiếp hồng nhan, và năm 32 tuổi (1935), nổi tiếng với tập truyện ngắn Kép Tư Bền. Sự nghiệp văn học của Nguyễn Công Hoan khá đồ sộ với hàng trăm truyện ngắn và nhiều tiểu thuyết . Các tác phẩm của ông đã được tái bản nhiều lần và hiện được chọn lại trong bộ Tuyển tập Nguyễn Công Hoan (3 tập, Nxb. Văn học, 1983 - 1986). 01.Răng con chó của nhà tư sản 02.Oẳn tà rroằn 03.Thật là phúc 04.Hai thằng khốn nạn 05.Ngựa người và người ngựa 06.Thế là mợ nó đi tây 07.Xin chữ cụ nghè 08.Thằng ăn cắp 09.Báo hiếu: trả nghĩa cha 10.Báo hiếu: trả nghĩa mẹ 11.Vợ 12.Cụ Chánh Bá mất giày 16.Xuất giá tòng phu 17.Đào kép mới 18.Phành phạch 19.Tôi cũng không hiểu tại làm sao (I) 20.Tôi cũng không hiểu tại làm sao (II 21.Chiếc quan tài 22.Đồng hào có ma 23.Ngậm cười 24.Thịt người chết 25.Sáu mạng người 26.Con ngựa già 27.Tinh thần thể dục 28.Hai cái bụng 29.Sáng, chị phu mỏ 30.Người vợ lẽ bạn tôi 31.Công dụng của cái miệng 32.Người thứ ba . Mục lục Nguyễn Công Hoan Nguyễn Công Hoan nhiều tác giảChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: Vnthuquan - Thư viện OnlineĐược bạn: Ct.Ly đưa lên vào ngày: 3 tháng 10 năm 2005
many authors Nguyen Cong Hoan Author - Works Nguyen Cong Hoan ( 1903 - 1977 ) Born in 1903, in Xuan Cau, Nghia Tru, Van Giang, Bac Ninh province, now Hung Yen province, in a Confucian family, died in 1977 in Hanoi. Nguyen Cong Hoan has been writing since he was 17 years old, at the age of 20 he published the short story collection Kiep Hong Nhan, and at the age of 32 (1935), he became famous for his short story collection Kep Tu Ben. Nguyen Cong Hoan's literary career is quite voluminous with hundreds of short stories and many novels. His works have been republished many times and are currently re-selected in the collection Nguyen Cong Hoan (3 volumes, Literature Publishing House, 1983 - 1986). 01.The bourgeoisie's dog's teeth 02.Scissors and scissors 03.What a blessing 04.Two bastards 05.Horse man and horse man 06.So his aunt went to the west 07.Prayed for his grandmother's words 08.The guy who eats stealing 09. Filial piety: repaying father's kindness 10. Filial piety: repaying mother's kindness 11. Wife 12. Mr. Chanh Ba lost his shoes 16. Repaying his wife's price 17. Digging a new couple 18. Flattering 19. I also don't understand why. why (I) 20.I don't understand why (II 21.The coffin 22.The field has ghosts 23.Laughing 24.The flesh of the dead 25.Six lives 26.The old horse 27.The spirit sex 28. Two bellies 29. Morning, the miner 30. My friend's concubine 31. Uses of the mouth 32. Third person . Table of contents Nguyen Cong Hoan Nguyen Cong Hoan many authorsWelcome to read books from the book project for mobile devicesSource: author: Nguyen Kim Vy. Final words: Thank you for reading the entire story. Source: editor: Nguyen Kim Vy. Source: Vnthuquan - Online Library Uploaded by friend: Ct.Ly on: October 3, 2005
nhiều tác giả Nguyễn Công Trứ Tiểu sử Nguyễn Công Trứ (1778 - 1859), tự Tồn Chất biệt hiệu Hy Văn, nguyên quán ở làng Uy Viễn, huyện Nghi Xuân, trấn Nghệ An (nay thuộc tỉnh Nghệ An), song ông được sinh tại xã Địa Linh, huyện Quỳnh Côi, Thái Bình. Ông xuất thân trong gia đình quan lại, có truyền thống văn thơ. Cha ông là Đức Ngạn Hầu Nguyễn Công Tấn. Mẹ là ái nữ của quan Quản nội thị Cảnh Bá Nhạc ở Sơn Nam. Chị là Năng văn nữ sĩ rất giỏi văn thơ, từng được vua Minh Mạng ban 4 chữ "tiết hạnh khả phong".Tuy xuất thân từ dòng dõi thế phiệt nhưng Nguyễn Công Trứ phải sống trong cảnh hàn vi vì gia sản bị chiến tranh tàn phá. Từ nhỏ, ông đã có chí học hành mong giúp dân, giúp nước.Tương truyền rằng, một lần có việc đi xa, trời rét. Nguyễn Công Trứ vào quán nước bên đường nghỉ chân. Gặp lúc đại binh của Tả quân Lê Văn Duyệt đi tập về, mọi người sợ hãi nép vào một góc, riêng ông vẫn đắp chiếu nằm trên ổ rơm ngủ. Quân lính đánh thức ông dậy, Lê Văn Duyệt thấy ông là học trò nho nhã, liền bảo Nguyễn Công Trứ thử vịnh cảnh "nằm ổ rơm đắp chiếu", nếu hay sẽ được tha. Ông ứng khẩu đọc."Ba vạn anh hùng đè xuống dướiChín lần thiên tử dội lên trên" (ý chỉ rơm là "anh hùng rơm", chiếu ví với chiếu chỉ của vua). Lê Văn Duyệt khen hay, thưởng tiền và thả cho.Năm Gia Long ra Bắc thành (1804) có trú lại Nghệ An ít ngày. Nguyễn Công Trứ đến bái yết và dâng lên vua tập Thái Bình thập sách (Mười kế sách giữ nước nhà thái bình) của mình soạn, đề cập đến vấn đề phát triển nông nghiệp để phục hưng kinh tế. Theo ông "muốn an định xã hội và đưa đời sống dân lên một hoàn cảnh tốt đẹp và cao cả hơn thì phải phát triển nghề nông, lấy nông nghiệp và kinh tế làm căn bản (canh nông vi bản).Mãi đến năm 41 tuổi (1819), Nguyễn Công Trứ mới đậu Giải nguyên kỳ thi Hương và làm quan liên tiếp ba đời vua Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị. Năm 1827, Nguyễn Công Trứ nhận lệnh cùng Thống quản Phạm Văn Ly cầm quân trấn áp cuộc nổi dậy của Phan Bá Vành. Từ dó Nguyễn Công Trứ mới thấy miền duyên hải Ninh Bình, Nam Định, Hải Dương có nhiều đất phì nhiêu bỏ hoang bèn nghĩ ra kế hoạch khẩn hoang vùng đất này. Năm 1828 Nguyễn Công Trứ được thăng Hình bộ thị lang (trông coi việc hình án ở dinh Tổng trấn Bắc thành) kiêm doanh Điện sứ. Nguyễn Công Trứ đi kinh lý khắp bãi bồi duyên hải, từ vẽ bản đồ, phát trâu bò, nông cụ cho dân để khẩn hoang. Chỉ trong 2 năm, Nguyễn Công Trứ lập ra hai huyện Tiền Hải (Thái Bình) và Kim Sơn (Ninh Bình) cùng hai tổng Hoàng Thu và Minh Nhất (ven bờ biển Thái Bình, Ninh Bình), khai khẩn được 33.570 ha đất. Năm 1852 đời Tự Đức thứ 5, nhân dân ở hai huyện Kim Sơn và Tiền Hải cùng nhau xây dựng sinh từ, thờ Nguyễn Công Trứ ngay lúc ông còn sống (75 tuổi).Năm 1832, lúc Nguyễn Công Trứ làm Bố chánh rồi Tổng đốc Hải Yên (Hải Dương, Quảng Yên), ông tiếp tục khẩn hoang được 3.500 ha ven biển ở đây. Sau đó, năm 1838 - 1839, Nguyễn Công Trứ còn chiêu dụ được người Hoa để khai khẩn trên 700 ha, lập thành làng Hưng Hóa. Năm 1833, Nguyễn Công Trứ làm Tham tán quân vụ đi trấn áp cuộc nổi dậy của Nông Văn Vận suốt 2 năm mới xong và được phong Binh bộ thượng thư và vẫn ở Hải Yên làm Tổng đốc. Sau vì để xổng một trọng tù, Nguyễn Công Trứ bị giáng bốn cấp, đổi về kinh. Năm 1840 ông làm Đô ngự sử, chủ khảo trường thi Hà Nội. Sau đó lại cùng Nguyễn Tri Phương, Phạm Văn Điễn dẹp tan cuộc xâm nhập lãnh thổ Việt Nam của quân Xiêm, kế đó Nguyễn Công Trứ cùng Doãn Uẩn đánh tan liên quân Xiêm - Chân Lạp. Năm 1843 vừa được thăng Binh bộ Tham tri ông bị vu cáo, triều đình cách hết chức tước, phát đi làm lính biên thùy ở Quảng Ngãi. Đến năm 1845, Nguyễn Công Trứ mới được bổ làm Chủ sự Bộ Hình ở kinh đô, rồi quyền án sát Quảng Ngãi, dần dần đổi về làm Phủ thừa Thừa Thiên và 1847 làm Phủ Doãn Thừa Thiên. Trong 28 năm làm quan, Nguyễn Công Trứ bị giáng chức và cách chức đến 5 lần, nặng nhất là lần bị tước hết chức làm lính thú, nhưng lúc nào cũng giữ được chí khí.Năm Tự Đức nguyên niên (1848), Nguyễn Công Trứ tròn 70 tuổi, xin về hưu, sống ở quê nhà đến khi mất (1859).Nguyễn Công Trứ sáng tác rất nhiều, hầu hết bằng chữ Nôm, nhưng phần lớn đã bị thất lạc, hiện chỉ còn khoảng 150 bài gồm đủ các thể loại, nhưng nhiều nhất và thành công nhất là những bài thuộc thể hát nói. Thơ văn của ông ca tụng chí làm trai và công danh, vai trò nhà nho và đặc biệt ca ngợi con người hành động, nhập thế, con người trung hiếu:"Đã mang tiếng ở trong trời đấtPhải có danh gì với núi sông..." (Đi thi tự Vịnh)Năm 1858 thực dân Pháp tấn công Đà Nẵng, lúc đó dù đã 80 tuổi ông vẫn xin vua Tự Đức đi tòng quân: "Thân già này còn thở ngày nào xin hiến dâng cho nước ngày ấy". Nhưng sau đó không lâu, vào ngày 14-11 năm Mậu Ngọ (1859) ông từ trần. Mục lục Nguyễn Công Trứ Nguyễn Công Trứ nhiều tác giảChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: bạn: Thái Nhi đưa lên vào ngày: 24 tháng 9 năm 2004
many authors Nguyen Cong Tru Story Nguyen Cong Tru (1778 - 1859), nicknamed Ton Chat, nicknamed Hy Van, was originally from Uy Vien village, Nghi Xuan district, Nghe An town (now in Nghe An province), but he was born in Dia Linh commune, Quynh district. Coi, Thai Binh. He came from a family of mandarins with a tradition of writing and poetry. His father was Duc Ngan Marquis Nguyen Cong Tan. Her mother was the daughter of the mandarin Canh Ba Nhac in Son Nam. She is a talented female writer, talented in poetry, and was once given the four words "highly virtuous and able to be honored" by King Minh Mang. Although she came from a wealthy family, Nguyen Cong Tru had to live in poverty because her family was war-torn. devastated. From a young age, he had the will to study and hope to help the people and the country. Legend has it that one time he had to go far away and it was cold. Nguyen Cong Tru went to a roadside restaurant to rest. When the great soldier of the Left Army Le Van Duyet returned from training, everyone hid in fear in a corner, but he still slept on a mat and slept on a bed of straw. The soldiers woke him up. Le Van Duyet saw that he was an elegant student, so he told Nguyen Cong Tru to try "lying on a bed of straw and covering himself with a mat", and if he was good, he would be spared. He read off-the-cuff, "Thirty thousand heroes pressed down, Nine times the gods bounced up" (meaning "straw heroes", the edict is compared to the king's edict). Le Van Duyet praised him well, rewarded him with money and released him. When Gia Long left for the North (1804), he stayed in Nghe An for a few days. Nguyen Cong Tru came to pay his respects and presented to the king the collection of Thai Binh ten books (Ten strategies to keep the country at peace) that he composed, addressing the issue of agricultural development for economic revival. According to him, "if we want to stabilize society and bring people's lives to a better and nobler situation, we must develop agriculture, taking agriculture and economics as the basis (micro-scale farming). Until the year 41 At the age of 1819, Nguyen Cong Tru had just passed the Perfume exam and served as a mandarin for three consecutive generations of King Gia Long, Minh Mang, and Thieu Tri. In 1827, Nguyen Cong Tru received orders to join Governor Pham Van Ly to lead the suppression Phan Ba ​​Vanh's uprising. From then on, Nguyen Cong Tru saw that the coastal areas of Ninh Binh, Nam Dinh, and Hai Duong had a lot of abandoned fertile land, so he came up with a plan to reclaim this land Promoted to the Ministry of Justice (in charge of criminal justice at the Governor's Palace in the North) and General of the Palace, Nguyen Cong Tru traveled throughout the coastal mudflats, drawing maps and distributing cattle and agricultural tools to the people for emergency purposes. In just 2 years, Nguyen Cong Tru established two districts of Tien Hai (Thai Binh) and Kim Son (Ninh Binh) and two cantons of Hoang Thu and Minh Nhat (on the coast of Thai Binh and Ninh Binh), reclaiming 33,570 acres. hectares of land. In 1852, during the 5th reign of Tu Duc, people in two districts of Kim Son and Tien Hai together built temples and worshiped Nguyen Cong Tru while he was still alive (75 years old). In 1832, when Nguyen Cong Tru became the Chief Minister. Governor of Hai Yen (Hai Duong, Quang Yen), he continued to reclaim 3,500 hectares of coastal area here. Then, in 1838 - 1839, Nguyen Cong Tru also recruited the Chinese to clear over 700 hectares, establishing Hung Hoa village. In 1833, Nguyen Cong Tru worked as a Military Affairs Counselor to suppress Nong Van Van's uprising for 2 years before completing it and was appointed Minister of the Army and remained in Hai Yen as General Governor. After letting a heavy prisoner escape, Nguyen Cong Tru was demoted four ranks and returned to the capital. In 1840, he became the imperial historian and examiner of the Hanoi exam school. After that, together with Nguyen Tri Phuong and Pham Van Dien, they defeated the Siamese army's invasion of Vietnamese territory. Next, Nguyen Cong Tru and Doan Uan defeated the Siamese - Chan Lap coalition. In 1843, as soon as he was promoted to the Military Staff, he was falsely accused, the court stripped him of all his titles, and sent him to work as a border soldier in Quang Ngai. In 1845, Nguyen Cong Tru was appointed Head of the Ministry of Criminal Justice in the capital, then took charge of the Quang Ngai Police Department, gradually changed to the Thua Thien Palace and in 1847 became the Doan Thua Thien Palace. During his 28 years as a mandarin, Nguyen Cong Tru was demoted and dismissed five times, the most serious being the time he was stripped of all his positions as a soldier, but always maintained his morale. In the year of Tu Duc (1848), Nguyen Cong Tru turned 70 years old, asked to retire, and lived in his hometown until his death (1859). Nguyen Cong Tru composed a lot, mostly in Nom, but most of it has been lost, currently only about 150 songs remain, including All genres, but the most numerous and most successful are songs of the spoken word genre. His poems praise the will to be a man and his reputation, his role as a Confucian scholar, and especially praise the man of action, the worldly man, the man of filial piety: "If you have a reputation in heaven and earth, what reputation should you have with the mountains and rivers?" .." (Going to Vinh's poem) In 1858, the French colonialists attacked Da Nang. At that time, even though he was 80 years old, he still asked King Tu Duc to join the army: "If this old body still breathes, I will dedicate it to the country that day." ". But not long after, on November 14, Mau Ngo year (1859), he passed away. Table of contents Nguyen Cong Tru Nguyen Cong Tru many authorsWelcome to read books from the book project for mobile devicesSource: author: Nguyen Kim Vy. Final words: Thank you for reading the entire story. Source: editor: Nguyen Kim Vy. Source: friend: Thai Nhi posted on: September 24, 2004
Khuyết Danh Nguyễn Du (1766-1820) Tác giả - Tác phẩm Nguyễn Du và truyện Kiều Nguyễn Du tự là Tố Như, hiệu là Thanh Hiên, biệt hiệu là Hồng Sơn lạp hộ, người xã Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Nghệ Tĩnh. Là dòng dõi trâm anh thế phiệt: cha là Xuân Quận Công Nguyễn Nghiễm, từng làm tới Tể Tướng triều Lê mạt; mẹ là người vợ thứ ba, nhũ danh Trần Thị Tần người Kinh Bắc; anh là Toản Quận Công Nguyễn Khản cũng làm tới Tham Tụng, Thái Bảo trong triều. Sinh ra trong một gia đình quan lại, có truyền thống văn học, năng khiếu thơ văn của Nguyễn Du sớm có điều kiện nảy nở và phát triển. Từ nhỏ ông đã nổi tiếng thông minh dĩnh ngộ. Năm 1783, Nguyễn Du thi hương đậu Tam Trường. Vì lẽ gì không rõ, ông không tiếp tục thi lên nữa. Năm 1789, Nguyễn Huệ kéo binh ra Bắc, đại thắng quân Thanh. Nguyễn Du, vì tư tưởng trung quân phong kiến, không chịu ra làm quan cho nhà Tây Sơn. Năm 1802, Nguyễn Ánh lật đổ Tây Sơn Nguyễn Quang Toản, vời Nguyễn Du ra làm quan; ông từ mãi mà không được nên miễn cưỡng tuân mệnh. Năm 1805, ông được thăng Đông Các điện học sĩ, tước Du Đức Hầu. Năm 1813, thăng Cần Chánh điện học sĩ, được cử làm Chánh Sứ đi Trung Quốc. Sau khi về nước, năm 1815, ông được thăng Lễ Bộ Hữu Tham Tri. Đường công danh của Nguyễn Du với nhà Nguyễn chẳng có mấy trở ngại. Ông thăng chức nhanh và giữ chức trọng, song chẳng mấy khi vui, thường u uất bất đắc chí. Theo Đại Nam Liệt Truyện: "Nguyễn Du là người ngạo nghễ, tự phụ, song bề ngoài tỏ vẻ giữ gìn, cung kính, mỗi lần vào chầu vua thì ra dáng sợ sệt như không biết nói năng gì... Năm 1820, Minh Mạng lên ngôi, cử ông đi sứ lần nữa, nhưng lần này chưa kịp đi thì ông đột ngột qua đời. Đại Nam Liệt Truyện viết: "Đến khi đau nặng, ông không chịu uống thuốc, bảo người nhà sờ tay chân. Họ thưa đã lạnh cả rồi. Ông nói "được" rồi mất; không trối lại điều gì." Tác phẩm tiêu biểu Ngoài Truyện Kiều nổi tiếng ra, Nguyễn Du còn để lại - Văn Tế Thập Loại Chúng Sinh - Văn Tế Sống Hai Cô Gái Trường Lưu - Thác Lời Trai Phường Nón (bằng chữ Nôm) và ba tập thơ chữ Hán: - Thanh Hiên Thi Tập, - Nam Trung Tạp Ngâm, và - Bắc Hành Tạp Lục. Ðoạn Trường Tân Thanh (Truyện Kiều) Kiệt tác của đại thi hào Nguyễn Du là một truyện thơ nôm viết bằng thể lục bát, dựa theo tác phẩm Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân, Trung Quốc, gồm 3.254 câu thơ. Hàng trăm năm qua, Truyện Kiều đã sống chan hoà trong đời sống của toàn dân tộc. Không riêng gì Văn học Việt Nam, mà trong Văn học thế giới cũng hiếm có tác phẩm nào chinh phục được rộng rãi tình cảm của đông đảo người đọc, từ già đến trẻ, từ người có học đến quần chúng bình dân trước đây phần lớn bị thất học, như Truyện Kiều. Sở dĩ như thế là vì ngoài nội dung phong phú và sâu sắc của nó, Truyện Kiều còn là một tác phẩm chứa đựng tinh hoa của ngôn ngữ dân TỘC. Ở TRUYỆN KIỀU, NGÔN NGỮ BÁC HỌC VÀ NGÔN NGỮ BÌNH DÂN đã kết hợp với nhau, bổ sung cho nhau và phát huy cao độ những mặt tích cực của nó. Một trong những thành công khác về mặt nghệ thuật của Truyện Kiều là sự tài tình của nhà thơ trong cách sử dụng điển cố, điển tích. Hơn 100 điển tích được cập nhật trong chuyên mục này sẽ giúp bạn đọc hiểu thêm về tác phẩm Truyện Kiều cũng như ngòi bút tài hoa của nhà thơ Nguyễn Du. Nhận xét về Nguyễn Du và Truyện Kiều Tiên Phong Mộng Liên Đường Chủ Nhân: "... Xem chỗ giấc mộng đoạn trường tỉnh dậy mà căn duyên vẩn gỡ chưa rồi; khúc đàn bạc mệnh gảy xong mà oán hận vẩn còn chưa hả, thì dẩu đời xa người khuất, không được mục kích tận nơi, nhưng lời văn tả ra hình như máu chảy ở đầu ngọn bút, nước mắt thắm ở trên tờ giấy, khiến ai đọc đến cũng phải thấm thía ngậm ngùi, đau đớn như đứt ruột. Thế thì gọi tên là Đoạn Trường Tân Thanh cũng phải." "Ta nhân lúc đọc hết cả một lượt, mới lấy làm lạ rằng: Tố Như tử dụng tâm đã khổ, tự sự đã khéo, tả cảnh đã hệt, đàm tình đã thiết, nếu không phải có con mắt trông thấu cả sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt cả nghìn đời, thì tài nào có cái bút lực ấy... Phong Tuyết chủ nhân: "Đem bút mực tả lên trên tờ giấy nào những câu vừa lâm ly, vừa ủy mị, vừa đốn tỏa, vừa giải thư, vẽ hệt ra người tài mệnh trong mười mấy năm trời, cũng là vì cái cảnh lịch duyệt của người ấy có lâm ly, ủy mị, đốn tỏa, giải thư, mới có cái văn tả hệt ra như vậy... Phạm Quỳnh: "Truyện Kiều còn, tiếng ta còn; tiếng ta còn, nước ta còn... Dương Quảng Hàm: "trên từ các bậc văn nhân thi sĩ, dưới đến các kẻ thường dân phụ nhụ, ai cũng thích đọc, thích ngâm và thuộc được ít nhiều... Ca dao: Đàn ông chớ kể Phan Trần Đàn bà chớ kể Thúy Vân Thúy Kiều... Huỳnh Thúc Kháng: "(Truyện Kiều) về mặt mỹ thuật rõ là cực tốt, mà ở trong đựng những vật có chất độc... Georges Boudared: "Few poets in the world have been able to acquire a profound resonnance among their people like Nguyễn Du in Việt Nam. His Tale of Kiều is a classic of Vietnamese literature, but a kind of classic that is well-known to all people without exception" Ít nhà thơ trên thế giới có khả năng đạt được tếng vang sâu đậm trong dân chúng của mình như Nguyễn Du ở Việt Nam. Truyện Kiều của ông là cuốn sách kinh điển của văn chương Việt Nam nhưng là một thứ kinh điển mọi người đều biết không một ngoại lệ nào. Bản chụp chữ Nôm: Trăm năm trong cõi người ta, Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau. Trải qua một cuộc bể dâu, Những điều trông thấy mà đau đớn lòng. Lạ gì bỉ sắc tư phong, Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen. Cảo thơm lần giở trước đèn, Phong tình có lục còn truyền sử xanh. Rằng năm Gia Tĩnh triều Minh, Bốn phương phẳng lặng, hai kinh vững vàng. Có nhà viên ngoại họ Vương, Gia tư nghĩ cũng thường thường bực trung. Một trai con thứ rốt lòng, Vương Quan là chữ, nối dòng nho gia. Đầu lòng hai ả tố nga, Thúy Kiều là chị, em là Thúy Vân. Thư mục - Bibliographie Bản chụp chữ Nôm lấy từ trang Internet Truyện Thúy Kiều, Nguyễn Du, Bùi Kỷ và Trần Trọng Kim hiệu đính và chú giải, Nhà xuất bản Văn Hóa Thông Tin, 1995, Saigon, Việt Nam Từ điển Truyện Kiều, Ðào Duy Anh, Nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội, 1993, Hà Nội, Việt Nam Truyện Kiều và tuổi trẻ, The Tale of Kieu and youth, Kieu et la Jeunesse, Lê Hữu Mục - Phạm Thị Nhung - Ðặng Quốc Cơ, Làng Văn xuất bản, 1998, Paris, France Kim-Vân-Kiêu, traduit du vietnamien par Xuân-Phúc et Xuân-Việt, Connaissance de l Orient, Gallimard/UNESCO, 1961, Paris, France The Tale of Kieu, Nguyễn Du, A Bilingual Edition, Translated by Huỳnh Sanh Thông, Yale University Press, 1983, New Haven and London, United States of America Mille ans de littérature vietnamienne, Une anthologie, Edition établie par Nguyễn Khắc Viện et Hữu Ngọc, Editions Philippe Picquier, 1996, France Nguyễn Du toàn tập, Nguyễn Quảng Tuân, Mai Quốc Liên khảo đính và chú giải, Nhà xuất bản Văn Học, 1996, Việt Nam Mục lục Nguyễn Du (1766-1820) Nguyễn Du (1766-1820) Khuyết DanhChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: VNTQĐược bạn: Ct.Ly đưa lên vào ngày: 24 tháng 10 năm 2005
Noname Nguyen Du (1766-1820) Author - Works Nguyen Du and the story of Kieu Nguyen Du's self is To Nhu, nickname is Thanh Hien, nickname is Hong Son lap ho, from Tien Dien commune, Nghi Xuan district, Nghe Tinh province. He is a descendant of a wealthy tycoon: his father is Xuan Cong Nguyen Nghiem, who once served as Prime Minister of the late Le Dynasty; mother is the third wife, nee Tran Thi Tan from Kinh Bac; His name is Toan District Cong Nguyen Khan, who also worked for Tham Tung and Thai Bao in the court. Born into a mandarin family with a literary tradition, Nguyen Du's poetic talent soon had the conditions to flourish and develop. From a young age, he was famous for his intelligence and enlightenment. In 1783, Nguyen Du took the Tam Truong bean flavor contest. For unknown reasons, he did not continue taking the exam. In 1789, Nguyen Hue pulled his army to the North and defeated the Qing army. Nguyen Du, because of his feudal loyalist ideology, refused to become an official for the Tay Son dynasty. In 1802, Nguyen Anh overthrew Tay Son Nguyen Quang Toan, appointing Nguyen Du as mandarin; He refused but couldn't, so he reluctantly obeyed. In 1805, he was promoted to Dong Cac Palace scholar, with the title Du Duc Hau. In 1813, he was promoted to Can Chanh Dien scholar and was appointed Chief Envoy to China. After returning home, in 1815, he was promoted to the rank of Patriarch. Nguyen Du's career path with the Nguyen dynasty did not have many obstacles. He was promoted quickly and held important positions, but was rarely happy and often depressed and frustrated. According to Dai Nam Liet Truyen: "Nguyen Du was an arrogant and conceited person, but on the outside he appeared to be respectful and respectful. Every time he went to visit the king, he looked scared as if he didn't know what to say... In 1820, Minh Mang ascended the throne and sent him on a mission again, but this time before he could leave, he suddenly died. Dai Nam Liet Truyen wrote: "When he was seriously ill, he refused to take medicine and told his family to touch his hands and feet. They said it was already cold. He said "yes" and then lost; Not leaving anything behind." Typical works In addition to the famous Tale of Kieu, Nguyen Du also left behind - The Ten Kinds of Living Beings' Literature - The Life of Two Truong Luu Girls' Life - Waterfall of Words of Non Ward (in Nom) and three collections of poems in Chinese: - Thanh Hien Thi Tap, - Nam Trung Tap Ngam, and - Doan Truong Tan Thanh (The Tale of Kieu) The masterpiece of the great poet Nguyen Du is a poem in Vietnamese. Luc Bat, based on the work Kim Van Kieu by Thanh Tam Tai Nhan, China, includes 3,254 verses. For hundreds of years, The Tale of Kieu has lived harmoniously in the life of the entire nation, not just Vietnamese Literature In World Literature, there are few works that have conquered the hearts and minds of a large number of readers, from old to young, from educated people to the formerly uneducated masses, such as The reason for this is because in addition to its rich and profound content, The Tale of Kieu is also a work containing the quintessence of the ethnic language in KIEU'S STORY, ACADEMIC LANGUAGE AND POPULAR LANGUAGE. have combined with each other, complemented each other and highly promoted its positive aspects. One of the other artistic successes of The Tale of Kieu is the poet's ingenuity in using classic stories and legends. More than 100 historical stories updated in this section will help readers understand more about the work The Tale of Kieu as well as the talented pen of poet Nguyen Du. Comments on Nguyen Du and The Tale of Kieu Tien Phong's Dream of Lien Duong Master: "... Look at the part where the dream of ending a long time wakes up but the fate is still undone; the fateful lute is played but the resentment is still there, huh? After a lifetime of being far away from the deceased, without being able to see them in person, the words described seem like blood flowing from the tip of the pen, tears on the paper, making anyone who reads it feel deeply sad and painful. gutted. Then the name is Doan Truong Tan Thanh." "When I read it all at once, I was surprised that To Nhu had used his heart to suffer, narrated skillfully, described scenes exactly, discussed love well, if he didn't have eyes that could see through all six realms. , thinking in my heart for a thousand lifetimes, how could I have that kind of pen power... Owner Phong Tuyet: "Use pen and ink to write on a piece of paper sentences that are both heartbreaking, sentimental, cutting, and Explaining the book, it depicts a person who has had a fortune for more than ten years. It is also because of that person's historical scene that includes separation, sentimentality, cutting down, and solving the book, that there is such an exact description... Pham Quynh: "The Tale of Kieu is still alive, our language is still alive; our language is still alive, our country is still alive... Duong Quang Ham: "From above from writers and poets, from below to ordinary people and women, everyone likes to read, I like to recite and memorize a few things... Folk songs: Men should not tell Phan Tran Women should not tell Thuy Van Thuy Kieu... Huynh Thuc Khang: "(The Tale of Kieu) is clearly very good in terms of aesthetics, but in containing poisonous objects... Georges Boudared: "Few poets in the world have been able to acquire a profound resonnance among their people like Nguyen Du in Vietnam. His Tale of Kieu is a classic of Vietnamese literature, but a kind of classic that is well-known to everyone without exception." Few poets in the world have the ability to achieve such a deep resonance among their people as Nguyen Du in Vietnam. His Tale of Kieu is a classic book of Vietnamese literature, but it is a classic that everyone knows without exception They hate each other. After going through a divorce, the things they see are painful. It's strange that the beauty of the sky is so habitual that rosy cheeks are flirting with each other in front of the lamp Green history says that in the year of Gia Tinh in the Ming Dynasty, the four directions were calm and the two kingdoms were stable. There was a family member named Vuong, and the family was often angry Confucius family. The first two girls were Nga, Thuy Kieu was the older sister, the younger was Thuy Van. Bibliography - Nom copy taken from the Internet page Thuy Kieu's Story, edited and annotated by Nguyen Du, Bui Ky and Tran Trong Kim. , Culture and Information Publishing House, 1995, Saigon, Vietnam Dictionary of The Tale of Kieu, Dao Duy Anh, Social Science Publishing House, 1993, Hanoi, Vietnam The Tale of Kieu and youth, The Tale of Kieu and youth, Kieu et la Jeunesse, Le Huu Muc - Pham Thi Nhung - Dang Quoc Co, Lang Van published, 1998, Paris, France Kim-Van-Kieu, traduit du vietnamien par Xuan-Phuc et Xuan-Viet, Connaissance de l Orient, Gallimard/UNESCO, 1961, Paris, France The Tale of Kieu, Nguyen Du, A Bilingual Edition, Translated by Huynh Sanh Thong, Yale University Press, 1983, New Haven and London, United States of America Mille ans de littérature vietnamienne, Une anthologie, Edition établie par Nguyen Khac Vien et Huu Ngoc, Editions Philippe Picquier, 1996, France Nguyen Du's complete collection, Nguyen Quang Tuan, Mai Quoc Lien's references and annotations, Literature Publishing House, 1996, Vietnam Table of contents Nguyen Du (1766-1820) Nguyen Du (1766-1820) AnonymousWelcome to read books from the book project for mobile devices. Source: author: Nguyen Kim Vy. Final words: Thank you for reading the entire story. Source: editor: Nguyen Kim Vy. Source: VNTQ Posted by friend: Ct.Ly on: October 24, 2005
nhiều tác giả Nguyễn Du Đại thi hào dân tộc Ít có tác phẩm ngay khi ra đời cho đến mãi mãi về sau vẫn được nhân dân cả nước yêu chuộng như Truyện Kiều. Không phải chỉ yêu thích mà còn gửi gắm niềm tin. Niềm tin khẳng định sức mạnh ngôn ngữ và văn hóa dân tộc. Niềm tin chia sẻ kinh nghiệm văn chương, nghệ thuật. Nhưng nhất là niềm tin về tình yêu và cuộc sống. Truyện Kiều đã là một bài ca tình yêu và là một cuốn sách Đời.Một tác phẩm như thế đã là một công trình vĩ đại, một vinh dự tuyệt vời. Truyện Kiều là một tác phẩm có giá trị như một thông điệp cho con người giao cảm với thế giới vô hình, dạt dào xúc động, mơ mà như thực, ảo huyền mà minh bạch lạ lùng. Và cũng là một bản tổng kết cuộc đời, tổng kết nhưng là cáo trạng, cáo trạng về cuộc đời bao nhiêu nỗi thương tâm (bách niên đa thiểu thương tâm sự). ở kia: "Những điều trông thấy mà đau đớn lòng!". ở đây lại là một "trường dạ tối tăm trời đất!". Tác phẩm ấy là bài Văn tế thập loại chúng sinh, với cái tên quen thuộc: Bài ca chiêu hồn.Cả hai tác phẩm đó đều của chung một tác giả: Nguyễn Du. Đến nay, thời gian ra đời của các tác phẩm chữ Nôm, chữ Hán (Thanh hiên thi tập, Nam trung tạp ngâm, Bắc hành tạp lục) đều chỉ bằng vào dự cảm khoa học. Truyện Kiều vẫn chưa tìm được bản in trước nhất. Cả ba tập thơ chữ Hán mới góp được hai trăm bốn chín bài, nhờ công sức sưu tầm của nhiều người.Cuộc đời Nguyễn Du - tác giả của những thiên tuyệt bút ấy - không nhiều bí ẩn, không lắm giai thoại, nhưng luôn luôn đặt ra những câu hỏi không dễ dàng giải đáp. Quê cha ở làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, Hà Tĩnh, quê mẹ ở làng Hoa Thiều (nay thuộc huyện Tiên Sơn, Bắc Ninh), và nơi sinh lại ở phường Bích Câu - Thăng Long. Văn chương vượt hẳn người đời, nhưng học vị chỉ ở mức tam trường (tú tài) sau kỳ thi ở Sơn Nam (1783). Con người chuyên nghiệp thi thư mà biết cầm gươm, dạo đàn, thích đi chài, đi săn, và thích hát dân ca phường vải. Gia đình thuộc lớp quý tộc. Cha là Nguyễn Nghiễm, anh là Nguyễn Khản đều đỗ tiến sĩ, làm quan đến Tham tụng (Tể tướng) triều Lê. Bố vợ là Đoàn Nguyễn Thục, cũng đỗ Hoàng Giáp, làm quan Đông các. Nhưng bản thân Nguyễn Du về đời sống vật chất lại quá nghèo nàn. Mười một tuổi mồ côi cha, 13 tuổi mẹ chết, suốt đời trai trẻ ăn nhờ, ở đậu, hoặc ở nhà anh, hoặc ở quê vợ. Do tình hình đất nước biến động, chính quyền Lê - Trịnh sụp đổ, Tây Sơn quét sạch giặc Thanh, họ Nguyễn Tiên Điền cũng tiêu điều: "Hồng Lĩnh vô gia, huynh đệ tán!". Nguyễn Du trải qua 10 năm gió bụi. Đến năm 1802, ông mới ra làm quan triều Nguyễn, được thăng thưởng rất nhanh, từ Tri huyện lên đến Tham tri (1815). Có được cử làm chánh sứ sang Trung Quốc (1813). Nhưng gia cảnh vẫn bần hàn thiếu thốn: "Mười miệng đói kêu ngoài cõi Bắc, Một mình bệnh rụi góc thành Nam". Phải chăng do thực tế này mà nhà thơ cảm thông được với những nạn nhân trong xã hội?Không có tài liệu cho biết, Nguyễn Du nhận ai là người tri kỷ. Thơ ông nhắc nhiều nhất đến những người phụ nữ đau khổ, tủi hờn. Cô Cầm ở Thăng Long, cô Nguyệt ở Triều Khẩu, cô gái hầu ở nhà người em. Giai thoại có nói đến quan hệ của ông với cô gái lái đò, với tài nữ Xuân Hương một thời nào đó. Ông mất vì một bệnh dịch, ra đi không trối trăng gì.Câu hỏi về Nguyễn Du còn được đặt ra ở nhiều bình diện. Đi tìm chứng cứ về ông, hậu thế luôn luôn gặp những băn khoăn. Gia phả chép một đằng, liệt truyện lại ghi theo đằng khác. Ông thật thà đi theo nhà Nguyễn hay ông về với Gia Long mà luôn luôn day dứt vì phụ nghĩa nhà Lê? Ông khư khư ôm mối cô trung mù quáng, hay ông cũng không hẳn vô tình với sự nghiệp của nhà Tây Sơn? Ông là nho sĩ, thấm nhuần tam giáo, khuôn mình trong giới hạn thời đại với những lý thuyết về nghiệp báo, về mệnh trời? Hay ông đã từng trong vô thức, dứt khoát với cái gốc nho gia Phật tử mà gắn bó với tầng lớp thị dân, tương tự như bao nhà văn phương Tây, cuộc sống thuộc về phong kiến, quý tộc mà tinh thần lại đi tiên phong cho cách mạng tư sản? Những cuộc "đi tìm Nguyễn Du" hàng trăm năm nay vẫn luôn luôn phải quan tâm đến các vấn đề ấy. Mà hình như Nguyễn Du đoán trước được điều này. Đoán trước mà không nói. Chẳng thế mà ông đã viết:Ngã hữu thốn tâm vô dư ngũ,Hồng Sơn sơn hạ Quế giang thâm.(Tấc lòng không nói cùng ai được,Dưới núi Hồng Sơn biển Quế sâu!).Tuy nhiên, chẳng phải vì thế mà Nguyễn Du trở nên khó hiểu. Có những điều phải tìm tòi, nghiên cứu, tranh luận gần xa. Nhưng Nguyễn Du vẫn đến với nhân dân bao đời nay trong cả một bầu tâm sự cảm thông sâu sắc. Đó là một khát vọng của nhân cách tạo nên trong sóng gió của đời, thấm nhuần bản chất của nhân dân, của dân tộc. Đó cũng là một con người nhân bản, tự phần sâu kín nhất, đau nỗi đau bãi biển nương dâu mà đòi lên án chế độ bạo tàn, đòi cho con người có hạnh phúc, tình yêu, tự do và công lý. Đó cũng là một ngòi bút phanh phui được thế lực đồng tiền, vạch trần những kẻ "nhai xé thịt người mà không lòi nanh vuốt". Đó cũng là một tài năng sáng tạo bậc thầy, đã có bút pháp nghệ thuật điêu luyện: xây dựng nhân vật điển hình, điều khiển ngôn ngữ nhạc điệu, tạo cho cấu trúc tác phẩm dồi dào chất kịch, truyền cho hình tượng tác phẩm đậm đà chất thơ. Không phải chỉ ở Truyện Kiều mà cả ở thơ chữ Hán, thơ Nôm của Nguyễn Du đều thấy chỗ đậm, chỗ nhạt những yếu tố hoặc biểu hiện của chủ nghĩa cổ điển, chủ nghĩa lãng mạn và chủ nghĩa hiện thực trong văn học. Vinh dự của Nguyễn Du trong địa hạt này còn vượt khá nhiều tác giả xưa nay. Chỉ riêng với một Truyện Kiều, văn học nghệ thuật Việt Nam trở nên thêm phong phú. Ca nhạc dân gian có giọng "lẩy Kiều". Sân khấu dân gian có "trò Kiều". Hội họa có nhiều tranh Kiều. Và Truyện Kiều từ xưa đến nay đã là đầu đề của nhiều trang bình luận và bút chiến. Thơ vịnh Kiều nhiều không kể xiết. Tuồng Kiều, phim Kiều xuất hiện. Và tiếng nói hằng ngày của nhân dân có thêm nhiều thành ngữ rút từ Truyện Kiều. Kiều đi vào mọi nẻo đường sinh hoạt: "Từ án sách đến bờ tre, xưởng máy; Ra chiến trường vẫn thấy tiếng Kiều ngân" là như vậy.Năm 1965, Nguyễn Du được Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chính thức làm lễ kỷ niệm. Hội đồng Hòa bình thế giới ghi tên ông trong danh sách những nhà văn hóa quốc tế trên trái đất này. Nhà lưu niệm Nguyễn Du được xây dựng ở Tiên Điền. Trường viết văn để đào tạo những cây bút mới mang tên Nguyễn Du. Chúng ta đã có nhiều sách chú giải, nghiên cứu Đoạn trường tân thanh, có Từ điển Truyện Kiều, có tiểu thuyết Ba trăm năm lẻ. Nhưng vấn đề "Nguyễn Du và Truyện Kiều" thì đến bao giờ cho hết? Cuộc đi tìm Nguyễn Du sẽ mãi là những gắng công của nhiều thế hệ. Ta cần có thơ Nguyễn Du trong cuộc đời, cần có tình Nguyễn Du trong sự sống, nên càng cần hiểu biết về ông. Nỗi sầu của ông mênh mông, tấm lòng của ông rộng lớn, ngòi bút của ông thần kỳ, chính ông cũng không nhận ra mà vẫn chờ đợi những ứng đáp của nhiều thế hệ hậu sinh tri kỷ:... Hận xưa khôn hỏi trời già,Nỗi oan phong vận mình ta buộc ràng,Ba trăm năm lẻ mơ màng...Biết ai hậu thế khóc chàng Tố Như? Mục lục Nguyễn Du Nguyễn Du nhiều tác giảChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: bạn: Thái Nhi đưa lên vào ngày: 24 tháng 9 năm 2004
nhiều tác giả Nguyễn Du Đại thi hào dân tộc Ít có tác phẩm ngay khi ra đời cho đến mãi mãi về sau vẫn được nhân dân cả nước yêu chuộng như Truyện Kiều. Không phải chỉ yêu thích mà còn gửi gắm niềm tin. Niềm tin khẳng định sức mạnh ngôn ngữ và văn hóa dân tộc. Niềm tin chia sẻ kinh nghiệm văn chương, nghệ thuật. Nhưng nhất là niềm tin về tình yêu và cuộc sống. Truyện Kiều đã là một bài ca tình yêu và là một cuốn sách Đời.Một tác phẩm như thế đã là một công trình vĩ đại, một vinh dự tuyệt vời. Truyện Kiều là một tác phẩm có giá trị như một thông điệp cho con người giao cảm với thế giới vô hình, dạt dào xúc động, mơ mà như thực, ảo huyền mà minh bạch lạ lùng. Và cũng là một bản tổng kết cuộc đời, tổng kết nhưng là cáo trạng, cáo trạng về cuộc đời bao nhiêu nỗi thương tâm (bách niên đa thiểu thương tâm sự). ở kia: "Những điều trông thấy mà đau đớn lòng!". ở đây lại là một "trường dạ tối tăm trời đất!". Tác phẩm ấy là bài Văn tế thập loại chúng sinh, với cái tên quen thuộc: Bài ca chiêu hồn.Cả hai tác phẩm đó đều của chung một tác giả: Nguyễn Du. Đến nay, thời gian ra đời của các tác phẩm chữ Nôm, chữ Hán (Thanh hiên thi tập, Nam trung tạp ngâm, Bắc hành tạp lục) đều chỉ bằng vào dự cảm khoa học. Truyện Kiều vẫn chưa tìm được bản in trước nhất. Cả ba tập thơ chữ Hán mới góp được hai trăm bốn chín bài, nhờ công sức sưu tầm của nhiều người.Cuộc đời Nguyễn Du - tác giả của những thiên tuyệt bút ấy - không nhiều bí ẩn, không lắm giai thoại, nhưng luôn luôn đặt ra những câu hỏi không dễ dàng giải đáp. Quê cha ở làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, Hà Tĩnh, quê mẹ ở làng Hoa Thiều (nay thuộc huyện Tiên Sơn, Bắc Ninh), và nơi sinh lại ở phường Bích Câu - Thăng Long. Văn chương vượt hẳn người đời, nhưng học vị chỉ ở mức tam trường (tú tài) sau kỳ thi ở Sơn Nam (1783). Con người chuyên nghiệp thi thư mà biết cầm gươm, dạo đàn, thích đi chài, đi săn, và thích hát dân ca phường vải. Gia đình thuộc lớp quý tộc. Cha là Nguyễn Nghiễm, anh là Nguyễn Khản đều đỗ tiến sĩ, làm quan đến Tham tụng (Tể tướng) triều Lê. Bố vợ là Đoàn Nguyễn Thục, cũng đỗ Hoàng Giáp, làm quan Đông các. Nhưng bản thân Nguyễn Du về đời sống vật chất lại quá nghèo nàn. Mười một tuổi mồ côi cha, 13 tuổi mẹ chết, suốt đời trai trẻ ăn nhờ, ở đậu, hoặc ở nhà anh, hoặc ở quê vợ. Do tình hình đất nước biến động, chính quyền Lê - Trịnh sụp đổ, Tây Sơn quét sạch giặc Thanh, họ Nguyễn Tiên Điền cũng tiêu điều: "Hồng Lĩnh vô gia, huynh đệ tán!". Nguyễn Du trải qua 10 năm gió bụi. Đến năm 1802, ông mới ra làm quan triều Nguyễn, được thăng thưởng rất nhanh, từ Tri huyện lên đến Tham tri (1815). Có được cử làm chánh sứ sang Trung Quốc (1813). Nhưng gia cảnh vẫn bần hàn thiếu thốn: "Mười miệng đói kêu ngoài cõi Bắc, Một mình bệnh rụi góc thành Nam". Phải chăng do thực tế này mà nhà thơ cảm thông được với những nạn nhân trong xã hội?Không có tài liệu cho biết, Nguyễn Du nhận ai là người tri kỷ. Thơ ông nhắc nhiều nhất đến những người phụ nữ đau khổ, tủi hờn. Cô Cầm ở Thăng Long, cô Nguyệt ở Triều Khẩu, cô gái hầu ở nhà người em. Giai thoại có nói đến quan hệ của ông với cô gái lái đò, với tài nữ Xuân Hương một thời nào đó. Ông mất vì một bệnh dịch, ra đi không trối trăng gì.Câu hỏi về Nguyễn Du còn được đặt ra ở nhiều bình diện. Đi tìm chứng cứ về ông, hậu thế luôn luôn gặp những băn khoăn. Gia phả chép một đằng, liệt truyện lại ghi theo đằng khác. Ông thật thà đi theo nhà Nguyễn hay ông về với Gia Long mà luôn luôn day dứt vì phụ nghĩa nhà Lê? Ông khư khư ôm mối cô trung mù quáng, hay ông cũng không hẳn vô tình với sự nghiệp của nhà Tây Sơn? Ông là nho sĩ, thấm nhuần tam giáo, khuôn mình trong giới hạn thời đại với những lý thuyết về nghiệp báo, về mệnh trời? Hay ông đã từng trong vô thức, dứt khoát với cái gốc nho gia Phật tử mà gắn bó với tầng lớp thị dân, tương tự như bao nhà văn phương Tây, cuộc sống thuộc về phong kiến, quý tộc mà tinh thần lại đi tiên phong cho cách mạng tư sản? Những cuộc "đi tìm Nguyễn Du" hàng trăm năm nay vẫn luôn luôn phải quan tâm đến các vấn đề ấy. Mà hình như Nguyễn Du đoán trước được điều này. Đoán trước mà không nói. Chẳng thế mà ông đã viết:Ngã hữu thốn tâm vô dư ngũ,Hồng Sơn sơn hạ Quế giang thâm.(Tấc lòng không nói cùng ai được,Dưới núi Hồng Sơn biển Quế sâu!).Tuy nhiên, chẳng phải vì thế mà Nguyễn Du trở nên khó hiểu. Có những điều phải tìm tòi, nghiên cứu, tranh luận gần xa. Nhưng Nguyễn Du vẫn đến với nhân dân bao đời nay trong cả một bầu tâm sự cảm thông sâu sắc. Đó là một khát vọng của nhân cách tạo nên trong sóng gió của đời, thấm nhuần bản chất của nhân dân, của dân tộc. Đó cũng là một con người nhân bản, tự phần sâu kín nhất, đau nỗi đau bãi biển nương dâu mà đòi lên án chế độ bạo tàn, đòi cho con người có hạnh phúc, tình yêu, tự do và công lý. Đó cũng là một ngòi bút phanh phui được thế lực đồng tiền, vạch trần những kẻ "nhai xé thịt người mà không lòi nanh vuốt". Đó cũng là một tài năng sáng tạo bậc thầy, đã có bút pháp nghệ thuật điêu luyện: xây dựng nhân vật điển hình, điều khiển ngôn ngữ nhạc điệu, tạo cho cấu trúc tác phẩm dồi dào chất kịch, truyền cho hình tượng tác phẩm đậm đà chất thơ. Không phải chỉ ở Truyện Kiều mà cả ở thơ chữ Hán, thơ Nôm của Nguyễn Du đều thấy chỗ đậm, chỗ nhạt những yếu tố hoặc biểu hiện của chủ nghĩa cổ điển, chủ nghĩa lãng mạn và chủ nghĩa hiện thực trong văn học. Vinh dự của Nguyễn Du trong địa hạt này còn vượt khá nhiều tác giả xưa nay. Chỉ riêng với một Truyện Kiều, văn học nghệ thuật Việt Nam trở nên thêm phong phú. Ca nhạc dân gian có giọng "lẩy Kiều". Sân khấu dân gian có "trò Kiều". Hội họa có nhiều tranh Kiều. Và Truyện Kiều từ xưa đến nay đã là đầu đề của nhiều trang bình luận và bút chiến. Thơ vịnh Kiều nhiều không kể xiết. Tuồng Kiều, phim Kiều xuất hiện. Và tiếng nói hằng ngày của nhân dân có thêm nhiều thành ngữ rút từ Truyện Kiều. Kiều đi vào mọi nẻo đường sinh hoạt: "Từ án sách đến bờ tre, xưởng máy; Ra chiến trường vẫn thấy tiếng Kiều ngân" là như vậy.Năm 1965, Nguyễn Du được Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chính thức làm lễ kỷ niệm. Hội đồng Hòa bình thế giới ghi tên ông trong danh sách những nhà văn hóa quốc tế trên trái đất này. Nhà lưu niệm Nguyễn Du được xây dựng ở Tiên Điền. Trường viết văn để đào tạo những cây bút mới mang tên Nguyễn Du. Chúng ta đã có nhiều sách chú giải, nghiên cứu Đoạn trường tân thanh, có Từ điển Truyện Kiều, có tiểu thuyết Ba trăm năm lẻ. Nhưng vấn đề "Nguyễn Du và Truyện Kiều" thì đến bao giờ cho hết? Cuộc đi tìm Nguyễn Du sẽ mãi là những gắng công của nhiều thế hệ. Ta cần có thơ Nguyễn Du trong cuộc đời, cần có tình Nguyễn Du trong sự sống, nên càng cần hiểu biết về ông. Nỗi sầu của ông mênh mông, tấm lòng của ông rộng lớn, ngòi bút của ông thần kỳ, chính ông cũng không nhận ra mà vẫn chờ đợi những ứng đáp của nhiều thế hệ hậu sinh tri kỷ:... Hận xưa khôn hỏi trời già,Nỗi oan phong vận mình ta buộc ràng,Ba trăm năm lẻ mơ màng...Biết ai hậu thế khóc chàng Tố Như? Mục lục Nguyễn Du Nguyễn Du nhiều tác giảChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: bạn: Thái Nhi đưa lên vào ngày: 24 tháng 9 năm 2004
nhiều tác giả Nguyễn Gia Thiều Tác giả Cung oán ngâm khúc Văn học Việt Nam thế kỷ 18 đạt những thành tựu rực rỡ vì đã chứng kiến sự ra đời nhiều tác phẩm Nôm xuất sắc ở cả hai mặt: nội dung phản ánh thời đại sâu sắc và trình độ nghệ thuật điêu luyện. Một trong những tác giả có công lao đóng góp vào thành tựu ấy là Nguyễn Gia Thiều.Thời đại Nguyễn Gia Thiều sống là thời đại có nhiều biến động. Loạn lạc, đói kém khắp nơi. Vua chúa quan lại ăn chơi trụy lạc, tranh chấp, loại trừ nhau. Dân nghèo bị đàn áp, bóc lột. Binh sĩ bỏ thây ở các chiến trường. Trong triều đình, ngoài thôn xóm, từ quý tộc đến bình dân đều cảm thấy hãi hùng, bế tắc. Sự lo lắng về thân phận con người mặc nhiên được đặt ra cho những ai có ý thức quan tâm đến hiện thực bất bình và vấn đề nhân đạo. Tác phẩm Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn (có nhiều bản dịch) đã là một tiếng nói phản đối chiến tranh. Cung oán ngâm khúc góp thêm lời tố cáo cuộc sống chán chường mệt mỏi, bất bình vì những cay nghiệt: Cảnh phù du trông thấy mà đau!Nguyễn Gia Thiều là con của quận chúa Quỳnh Liên. Ông gọi chúa Trịnh Cương là ông ngoại. Cha ông là một võ quan, được phong tước Đạt vũ hầu. Ông được lui tới trong phủ chúa, do đó được nhìn thấy tận mắt cảnh ngộ của những cung nữ bị bỏ rơi. Ông đã dùng lối văn độc thoại, làm lời một cung phi tài sắc trình bày tâm trạng và nỗi đau đớn bị vua ruồng bỏ. Người phụ nữ trong khúc ngâm đã lên tiếng. Nàng ý thức rõ rệt về phẩm chất, tài năng của mình, nàng tố cáo cuộc sống phè phỡn xa hoa của bọn vua chúa, biến người cung nữ thành thứ đồ chơi. Nàng miêu tả nỗi thê thảm trong cuộc sống cô đơn, tù túng. Từ sự phản ánh hiện thực với lòng phẫn nộ và sự oán hờn như vậy, nàng triết lý về cuộc đời ảo mộng, dối trá, phù du và tuyệt vọng:Trăm năm còn có gì đâu,Chẳng qua một nấm cỏ khâu xanh rì. ở đây, Nguyễn Gia Thiều đã mượn lời cung nữ để nói lên tâm sự bế tắc của mình, cũng là sự bế tắc của lớp nhà nho thời đại ông, chán chường và mệt mỏi.Nghệ thuật Cung oán ngâm khúc về mặt cấu trúc cũng như về mặt ngôn từ đều sắc sảo. Không gian Cung oán ngâm khúc là không gian bưng bít của chốn tiêu phòng lạnh lẽo. Thời gian Cung oán ngâm khúc chủ yếu là mùa thu và bóng đêm. Cảnh trong Cung oán ngâm khúc là cảnh lồng qua màn sương hồi ức và tưởng tượng. Đặc biệt, lối biểu hiện bằng cảm giác là cách viết độc đáo của Nguyễn Gia Thiều có lẽ là lần đầu tiên xuất hiện trong văn học Việt Nam, rất tập trung và cô đọng. Những hình dung từ về xúc giác, thị giác, thích giác chọn lọc tài tình, bất ngờ mà đúng chỗ, đã gây được ấn tượng mạnh mẽ cho người đọc. Vần điệu song thất lục bát nhuần nhuyễn, phép đối ngẫu được tôn trọng chặt chẽ. Hơi văn, giọng văn réo rắt não nùng, thích hợp với nội dung và tâm trạng con người trong khúc ngâm.Nguyễn Gia Thiều là một tài năng đa dạng. Ông thuộc gia đình quý tộc, xuất thân là quan võ. Năm 1782, ông giữ chức Tổng binh ở Hưng Hóa, phong tước Ôn Như hầu, nhưng ông lại xin thôi, về sống cuộc đời tài tử, làm thơ, uống rượu và cả đi tu (ông có hiệu là Như ý Thiền). Ông là một thi nhân mà cũng là một nhạc sĩ. Ông đã sáng tác các bản nhạc Sơn trung âm, Sở từ điệu. Ông vẽ đẹp, có bức tranh Tổng sơn đồ được vua Lê khen thưởng. Ông cũng am tường cả về kiến trúc, Tháp chùa Thiên Tích (Bắc Ninh) đã được xây dựng dưới sự điều khiển của ông. Quãng cuối đời, ông có được triều Tây Sơn mời ra cộng tác, nhưng đã chối từ, về sống ở quê nhà: làng Liễu Ngạn, huyện Siêu Loại (nay là huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh) cho đến khi mất. Mục lục Nguyễn Gia Thiều Nguyễn Gia Thiều nhiều tác giảChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: bạn: Thái Nhi đưa lên vào ngày: 24 tháng 9 năm 2004
many authors Nguyen Gia Thieu The author of Palace of resentment recites the song Vietnamese literature in the 18th century achieved brilliant achievements because it witnessed the birth of many excellent Nom works in both aspects: content deeply reflecting the era and artistic virtuosity. One of the authors who contributed to that achievement was Nguyen Gia Thieu. The era in which Nguyen Gia Thieu lived was an era of many changes. Chaos and famine everywhere. Kings, lords, and mandarins indulged in debauchery, disputed, and eliminated each other. Poor people are oppressed and exploited. Soldiers left their bodies on battlefields. In the royal court and in the villages, from nobles to commoners, everyone felt scared and deadlocked. Concern about the human condition is automatically posed to those who are consciously concerned about the reality of grievances and humanitarian issues. Dang Tran Con's work Chinh Phu Ngam (with many translations) was a voice against the war. Cung resentful song adds a denunciation of a life of boredom and fatigue, discontent because of harshness: The ephemeral scene is painful to see! Nguyen Gia Thieu is the son of Princess Quynh Lien. He called Lord Trinh Cuong his grandfather. His father was a military mandarin and was awarded the title Dat Vu Marquis. He was able to visit the lord's palace, so he saw firsthand the plight of the abandoned maids. He used a monologue style as a talented concubine's words to express his feelings and pain of being abandoned by the king. The woman in the song spoke up. She was clearly aware of her qualities and talents. She denounced the lavish and lavish lives of kings and turned their maids into toys. She describes the misery of a lonely, cramped life. From the reflection of reality with such anger and resentment, she philosophizes about a life of illusion, lies, ephemeralness and despair: There is nothing left after a hundred years, It's nothing more than a green mushroom of sewn grass. . Here, Nguyen Gia Thieu borrowed the words of the palace maid to express his feelings of deadlock, also the deadlock of the Confucian class of his time, bored and tired. The Art of Palace of Recitation is structurally sound. as well as being sharp in terms of language. The space of Palace of resentment and soaking songs is the hidden space of a cold room. The time for Gong Yen Khuc Khuc is mainly autumn and night. The scene in Palace of Resentment is a scene framed through the mist of memories and imagination. In particular, the way of expressing feelings is Nguyen Gia Thieu's unique writing style, perhaps the first to appear in Vietnamese literature, very focused and succinct. The word images of touch, sight, and taste, cleverly selected, unexpected and in the right place, have made a strong impression on readers. The rhyme is smooth, the parallelism is strictly respected. Slightly poetic, the voice is melancholy and sad, suitable for the content and human mood in the poem. Nguyen Gia Thieu is a diverse talent. He belonged to a noble family and was originally a military mandarin. In 1782, he held the position of General of the Army in Hung Hoa and was awarded the title of On Nhu Marquis, but he resigned and returned to living the life of an amateur, writing poetry, drinking wine and even becoming a monk (his nickname was Nhu Y Thien). He is a poet and also a musician. He composed the music Son Trung Am and So Tu Tone. He painted well and had a painting of the Total Painted Do that was rewarded by King Le. He was also knowledgeable about architecture. Thien Tich Pagoda Tower (Bac Ninh) was built under his control. At the end of his life, he was invited by the Tay Son dynasty to collaborate, but refused and returned to live in his hometown: Lieu Ngan village, Sieu Loai district (now Thuan Thanh district, Bac Ninh province) until his death. Table of contents Nguyen Gia Thieu Nguyen Gia Thieu many authorsWelcome to read books from the book project for mobile devicesSource: author: Nguyen Kim Vy. Final words: Thank you for reading the entire story. Source: editor: Nguyen Kim Vy. Source: friend: Thai Nhi posted on: September 24, 2004
nhiều tác giả Nguyễn Huy Lượng Tiểu sử Nguyễn Huy Lượng (?- 1808)Nhà thơ Việt Nam. Chưa rõ năm sinh. Nguyên quán làng Phú Thị, huyện Gia Lâm, sau dời sang làng Lương Xã, huyện Chương Mỹ, nay thuộc Hà Tây. Ông đỗ Hương cống, làm quan nhà Lê chức Phụng Nghi - một chức quan nhỏ trong Bộ Lễ. Sau làm quan nhà Tây Sơn, đóng góp nhiều công sức với chức Hữu thị lang Bộ Hộ (nên thường gọi là Hữu hộ Lượng), tước Chương Lĩnh Hầu. Năm 1802, triều Tây Sơn sụp đổ, ông bị bắt; ít lâu, ông được nhà Nguyễn thu dụng, làm Tri phủ Xuân Trường. Sau đó ông bị giết trong một trường hợp bức tử vào năm 1808. Sáng tác của Nguyễn Huy Lượng đều viết bằng chữ Nôm, thường là thể phú. Ông nổi tiếng với bài "Tụng Tây Hồ phú", "Văn tế trận vong tướng sĩ"... nhiều tác giả Nguyễn Huy Lượng Xem cái rổ kia kìa Anh chàng nọ được nhà láng giềng đồng ý gả con gái cho, nhưng ông nhạc còn muốn thử thách vài lần nữa, để xem cái tài học hành của anh ra sao. Thực ra thì anh cũng vào loại chăm chỉ thôi, chứ cái tài hoa, mẫn tiệp thì anh thiếu hẳn. Thế mà ngày mai đây, đã phải đến ứng đối ở nhà ông bố vợ tương lai rồi. Ông già này hẹn tổ chức một bữa tiệc mời các thầy nho sĩ quanh thành Thăng Long đến dự, để nhân tiện giới thiệu và cũng kiểm tra luôn chàng rể thí sinh này.Chàng trai tìm đến cậu Lượng, nhờ cậu nghĩ hộ cách đối phó thế nào cho qua phút thử thách. Cậu Lượng cười:- Thôi, bác đừng lo nghĩ quá. Hôm ấy đi với bác, có gì tôi sẽ "gà" cho.- "Gà" thế nào được? Ngay giữa đám đông, mười mắt trông vào như thế thì gà làm sao cho khỏi lộ. Có khi bác làm cho tôi lòi cái dốt ra.- Bậy, ai lại thế. Tôi dặn bác điều này. Nếu ông già có giở chữ nghĩa gì thì bác cứ trả lời lơ lửng rồi tôi sẽ pha thêm cho. Nhớ là nói rất ít, nói một hai chữ thôi cũng được.Anh bạn tuy thuận theo mẹo mực này, nhưng vẫn cứ lo lắng, thấp thỏm. Quả nhiên, hôm đến dự tiệc, ông nhạc tương lai của anh đọc một câu đối. Ông nói với mọi người:- Câu đối dân gian thôi ạ! Nhưng tôi nghĩ mãi không ra. Nhân được các thầy quá bộ đến chơi, xin nhờ tài văn chương của các thầy.Nói là nhờ thầy, song ông lại đưa mảnh giấy viết về câu đối cho chàng rể tương lai. Rõ ràng ông ta có ý bắt anh đối cho mọi người đều nghe. Câu đối viết:Giậu rào mắt cáo, mèo chui lọt.Quả là dân gian, mà lại cũng oái oăm. Đã giậu lại rào, đã mèo lại cáo. Mắt cáo cũng có hai nghĩa: mắt con cáo, và hình dáng cách thức tấm phên. Anh em nho sĩ nhìn vào vế đối, lẩm nhẩm rồi cũng lắc đầu cảm thấy khó. Chàng rể dự bị kia càng hoang mang hơn. Cậu Lượng ngồi bên cạnh nói nhỏ:- Ông ấy ra cái dậu đấy, đối đi thôi!Đối đi! Nhưng đối cái gì mới được chứ. Nhìn quanh nhìn quẩn, chợt thấy cái rổ thủng úp bên gốc cây ngoài vườn, anh ta nói liều:- Xem cái rổ kia kìa!Cả đám tiệc thiếu cái bò ra mà cười. Anh chàng này nói năng, đối đáp gì mà cù nhầy như vậy. Ông cụ cũng ngạc nhiên, nhìn trân trân vào anh ta. Cậu Lượng, trái lại gật gù và thốt lên:- Hay quá!Một anh khác hỏi ngay:- Bác thấy hay chỗ nào? Đại huynh đây có đối đáp gì đâu mà bảo là hay?Cậu Lượng đứng dậy:- Xin phép cụ và xin phép chư hiền. Tôi thấy hay thực. Anh bạn tôi vốn tính khiêm nhường ít nói, nhưng đã nói là sâu sắc, tài tình. Cùng học với nhau, tôi biết tính anh nên mới hiểu được cái tài xuất sắc của anh. Dạ thưa cụ, như cụ ra về cái giậu, mà bạn tôi lại đối lại bằng cái rổ thì thật là thâm thúy giỏi giang. Dạ, giậu rào mắt cáo, mèo chui lọt, thì cái rổ bị rách một chỗ như thế kia, chẳng thành ra: "Rổ nứt lòng tôm, tép nhảy qua". Còn gì hay hơn nữa!Tất nhiên cả đám cũng đều phải công nhận là tuyệt tác. Buổi tiệc vui hẳn lên, ông cụ cũng thỏa mãn vì kiếm được rể hay chữ, xứng đôi với con gái mình. Đám cưới không bao lâu được tổ chức và cậu Lượng cố nhiên được đền ơn xứng đáng.Cậu Lượng ấy là người làng Phú Thụy, huyện Gia Lâm (Hà Nội) thuộc dòng họ Nguyễn Huy, vốn nổi tiếng thần đồng. Lớn lên thi đỗ hương cống, được làm quan với triều Lê, sau theo giúp Tây Sơn, đồng thời với các ông Ngô Thì Nhậm, Phan Huy ích. Năm 1805, giữ chức hữu thị lang bộ Hội, đã làm bài Tụng tây hồ phú để ca ngợi đất nước, ca ngợi Thăng Long thịnh cường rực rỡ dưới triều Tây Sơn. Cho đến nay, giá trị văn chương của bài phú Tây Hồ này vẫn được đánh giá cao, và cùng tồn tại với tác giả của nó: Chương lĩnh hầu Nguyễn Huy Lượng. Mục lục Tiểu sử Xem cái rổ kia kìa Nguyễn Huy Lượng nhiều tác giảChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: bạn: đưa lên vào ngày: 12 tháng 4 năm 2004
many authors Nguyen Huy Luong Story Nguyen Huy Luong (? - 1808) Vietnamese poet. Year of birth unknown. Originally from Phu Thi village, Gia Lam district, later moved to Luong Xa village, Chuong My district, now in Ha Tay. He passed the Huong Tri exam and became a Le Dynasty mandarin with the position of Phung Nghi - a minor official in the Ministry of Rites. After becoming an official of the Tay Son dynasty, he contributed a lot of effort with the position of Huu Thi lang of the Household (so often called Huu Ho Luong), titled Chuong Linh Hau. In 1802, the Tay Son dynasty collapsed and he was arrested; Not long after, he was recruited by the Nguyen Dynasty to become the Governor of Xuan Truong. He was later killed in a case of forced suicide in 1808. Nguyen Huy Luong's compositions were all written in Nom, often in the phu form. He is famous for his songs "Chanting the West Lake Phu", "Organizing the death of soldiers"... many authors Nguyen Huy Luong Look at that basket there The guy had the neighbor's permission to marry his daughter, but his grandfather wanted to test him a few more times to see how good his academic talent was. Actually, he is also the hard-working type, but he lacks talent and diligence. But tomorrow, I have to go meet my future father-in-law's house. This old man arranged to organize a party to invite Confucian scholars around Thang Long city to attend, to introduce and also test this candidate's son-in-law. The young man came to Mr. Luong, asking him to think of a way to deal with him. How to overcome challenging moments. Mr. Luong smiled: - Well, don't worry too much. That day I'm going with you, if there's anything I'll "chicken" for you. - How can "chicken" be? Right in the middle of the crowd, with ten eyes watching like that, how can the chicken not be exposed? Sometimes you make me show my ignorance. - No, who would do that? I tell you this. If the old man has any nonsense, just answer vaguely and I'll add more. Remember to say very little, just one or two words is enough. Although my friend followed this tip, he was still worried and anxious. Sure enough, the day he came to the party, his future husband-in-law read a couplet. He told everyone: - Just a folk couplet! But I couldn't figure it out. When the visiting teachers came to visit, he asked for his literary talent. He said it was thanks to the teacher, but he gave a piece of paper about parallel sentences to the future son-in-law. It was clear that he intended to force him to tell everyone. The couplet reads: In a lattice fence, a cat can sneak through. It's truly folk, but also weird. The fence has been fenced, the cat has been foxed. Fox eyes also have two meanings: fox eyes, and the shape of the panel. The Confucian scholars looked at the argument, mumbled, then shook their heads and felt it was difficult. The other bridegroom was even more confused. Mr. Luong sat next to him and whispered: - He's coming out of the hedge, let's deal with it! Deal with it! But for what? Looking around, he suddenly saw a leaky basket leaning against a tree in the garden. He said boldly: - Look at that basket! The whole party crawled out and laughed. This guy speaks and responds like that. The old man was also surprised and stared at him. Mr. Luong, on the other hand, nodded and exclaimed: - Great! Another guy immediately asked: - What do you find interesting? This big brother has no answer to say it's good? Mr. Luong stood up: - Please allow me and ask your permission. I find it really cool. My friend is naturally humble and quiet, but his words are profound and ingenious. Studying together, I knew his personality so I understood his outstanding talent. Yes, sir, if you go back to the hedge, but my friend counters with a basket, that's really profound and talented. Yes, in a lattice fence, if a cat can get through, then the basket is torn in one place like that, it doesn't turn out: "The basket cracks the shrimp's insides, the shrimp jumps through". What could be better! Of course, everyone had to admit that it was a masterpiece. The party was much more fun, and the old man was also satisfied because he had found a well-educated son-in-law, worthy of his daughter. The wedding was not long ago and Mr. Luong was certainly rewarded. Mr. Luong was from Phu Thuy village, Gia Lam district (Hanoi) and belonged to the Nguyen Huy family, famous for his prodigy. When he grew up, he passed the tribute exam, became a mandarin in the Le dynasty, and later helped Tay Son, at the same time as Mr. Ngo Thi Nham and Phan Huy Ich. In 1805, holding the position of official minister of the Association, he composed the poem "Ty Ho Phu" to praise the country and praise Thang Long's brilliant prosperity under the Tay Son dynasty. Up to now, the literary value of this Tay Ho poem is still highly appreciated, and coexists with its author: Chuong Truong Hau Nguyen Huy Luong. Table of contents Story Look at that basket there Nguyen Huy Luong many authorsWelcome to read books from the book project for mobile devicesSource: author: Nguyen Kim Vy. Final words: Thank you for reading the entire story. Source: editor: Nguyen Kim Vy. Source: you: posted on: April 12, 2004
nhiều tác giả Nguyễn Huy Thiệp Tác giả - tác phẩm "Đặc điểm lớn nhất của xứ sở này là nhược tiểu. Đây là một cô gái đồng trinh bị nền văn minh Trung Hoa cưỡng hiếp. Cô gái ấy vừa thích thú, vừa nhục nhã, vừa căm thù nó. Vua Gia Long hiểu điều ấy và đấy là nỗi cay đắng lớn nhất mà ông cùng cộng đồng phải chịu đựng. Nguyễn Du thì khác, ông không hiểu điều ấỵ Nguyễn Du là đứa con của cô gái đồng trinh kia, dòng máu chứa đầy điển tích của tên đàn ông khốn nạn đã cưỡng hiếp mẹ mình. Nguyễn Du ngập trong mớ bùng nhùng của đời sống, còn vua Gia Long đứng cao hẳn ngoài đời sống ấỵ Người mẹ của Nguyễn Du (tức nền chính trị đương thời) giấu giếm con mình sự ê chề và chịu đựng với tinh thần cao cả, kiềm chế. Phải ba trăm năm sau người ta mới thấy điều này vô nghĩa Nguyễn Huy Thiệp sinh ngày 29 tháng 4 năm 1950, quê quán: Thanh Trì, Hà Nộị Thuở nhỏ ông cùng gia đình lưu lạc khắp nông thôn đồng bằng Bắc Bộ, từ Thái Nguyên qua Phú Thọ, Vĩnh Yên ... Nông thôn và những người lao động vì thế để lại nhiều dấu ấn khá đậm nét trong nhiều sáng tác của ông. ``Mẹ tôi là nông dân, còn tôi sinh ra ở nông thôn Nguyễn Huy Thiệp chịu ảnh hưởng giáo dục chủ yếu của ông ngoại, vốn là người am hiểu nho học và mẹ, vốn là người sùng đạo Phật. Năm 1960, ông cùng gia đình về quê quán và định cư ở xóm Cò, làng Khương Hạ Nguyễn Huy Thiệp là một bông hoa nở muộn trên văn đàn. Vài truyện ngắn của ông xuất hiện lần đầu tiên trên báo Văn Nghệ của Hội Nhà Văn Việt Nam năm 1986. Chỉ một vài năm sau đó, cả làng văn học trong lẫn ngoài nước xôn xao những cuộc tranh luận về các tác phẩm của ông. ``Có người lên án anh gay gắt, thậm chí coi văn chương của anh có những khuynh hướng thấp hèn. Người khác lại hết lời ca ngợi anh và cho rằnh anh có trách nhiệm cao với cuộc sống hiện nay (Lời cuối sách của NXB Đa Nguyên) Sở trường của Nguyễn Huy Thiệp là truyện ngắn, có thể tạm được phân loại như sau: về lịch sử và văn học: Kiếm Sắc, Vàng Lửa, Phẩm Tiết, Nguyễn Thị Lộ, Mưa Nhã Nam, Chút Thoáng Xuân Hương ... truyện ngắn mang hơi hướm huyền thoại hoặc "cổ tích": Những Ngọn Gió Hua Tát, Con Gái Thủy Thần, Giọt Máu, Muối Của Rừng, Chảy Đi Sông Ơi, Trương Chi ... về xã hội VN đương đại: Không Có Vua, Tướng Về Hưu, Cún, Sang Sông, Tội Ác và Trừng Phạt ...; về đồng quê và những người dân lao động: Thương Nhớ Đồng Quê, Những Bài Học Nông Thôn, Những Người Thợ Xẻ ... Ngoài ra, Nguyễn Huy Thiệp còn viết nhiều kịch, tiêu biểu là Xuân Hồng, Còn Lại Tình Yêu, Gia Đình (hay Quỷ Ở Với Người, dựa theo truyện ngắn Không Có Vua), Nhà Tiên Tri, Hoa Sen Nở Ngày 29 Tháng 4 ...; và nhiều thơ (chưa xuất bản tập thơ nào, song thơ xuất hiện khá nhiều trong các truyện ngắn của ông). Năm 1994, Nguyễn Huy Thiệp gác bút và xoay ra mở nhà hàng ở Hà Nội tên là Hoa Ban, rất ăn khách. Mục lục Nguyễn Huy Thiệp Nguyễn Huy Thiệp nhiều tác giảChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: Được bạn: Thành Viên VNthuquan đưa lên vào ngày: 27 tháng 12 năm 2003
many authors Nguyen Huy Thiep Author - work "The biggest feature of this country is weakness. This is a virgin girl who was raped by Chinese civilization. That girl both enjoyed it, humiliated it, and hated it. King Gia Long understood this. That and that was the greatest bitterness that he and his community had to endure. Nguyen Du was different. He did not understand that Nguyen Du was the child of that virgin girl, his bloodline was full of the man's legacy. The bastard raped his mother. Nguyen Du was immersed in the turmoil of life, while King Gia Long stood tall above that life. Nguyen Du's mother (ie contemporary politics) hid her shame from her son. and endured with a noble and restrained spirit. It took three hundred years for people to see this nonsense. Nguyen Huy Thiep was born on April 29, 1950, hometown: Thanh Tri, Hanoi. When he was young, he was with his family. wandering throughout the countryside of the Northern Delta, from Thai Nguyen to Phu Tho, Vinh Yen... The countryside and the workers thus left many quite bold marks in many of his works. ``My mother is a farmer, and I was born in rural Nguyen Huy Thiep, influenced mainly by my grandfather, who was knowledgeable about Confucianism, and my mother, who was a devout Buddhist. In 1960, he and his family returned to his hometown and settled in Co hamlet, Khuong Ha village. Nguyen Huy Thiep is a late blooming flower on the literary scene. Some of his short stories first appeared in the Van Nghe newspaper of the Vietnam Writers' Association in 1986. Just a few years later, both domestic and foreign literary circles were abuzz with debates about his works. . ``Some people harshly criticized him, even considered his literature to have vile tendencies. Others praised him and said that he had a high responsibility for today's life (Last words of the book from Da Nguyen Publishing House). Nguyen Huy Thiep's forte is short stories, which can be temporarily classified as follows: about history and literature: Sharp Sword, Golden Fire, Pham Tiet, Nguyen Thi Lo, Nha Nam Rain, Little Xuan Huong... short stories with a bit of a legendary or "fairy" feel: The Winds of Hua Tat, Son Girl of the Water God, Drop of Blood, Salt of the Forest, Flowing to the River, Truong Chi... about contemporary Vietnamese society: There is no King, Retired Generals, Puppies, Crossing the River, Crime and Punishment...; about the countryside and working people: Missing the Countryside, Rural Lessons, The Ripper... In addition, Nguyen Huy Thiep also wrote many plays, notably Xuan Hong, Remaining Love, The Family (or The Devil With You, based on the short story There Is No King), The Prophet, The Lotus Blooms On April 29 ...; and many poems (no poetry collection has been published yet, but poetry appears quite a lot in his short stories). In 1994, Nguyen Huy Thiep put down his pen and opened a restaurant in Hanoi called Hoa Ban, which was very popular. Table of contents Nguyen Huy Thiep Nguyen Huy Thiep many authorsWelcome to read books from the book project for mobile devicesSource: author: Nguyen Kim Vy. Final words: Thank you for reading the entire story. Source: editor: Nguyen Kim Vy. Source: Posted by: Member VNthuquan on: December 27, 2003
nhiều tác giả Nguyễn Huệ Người anh hùng áo vải Quang Trung hoàng đế Nguyễn Huệ Quang Trung Nguyễn Huệ là người anh hùng áo vải đã đánh đổ cả hai tập đoàn thống trị phản động ở Đàng Trong và Đàng Ngoài, người đã lập nên những chiến công hiển hách chống quân xâm lược Xiêm và Mãn Thanh, thực hiện được khát vọng thống nhất đất nước của dân tộc vào cuối thế kỷ thứ 18.Tổ tiên xưa của Nguyễn Huệ là họ Hồ ở làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, trấn Nghệ An. Sau có một chi dời vào huyện Hưng Nguyên và huyện Nghi Xuân. Theo các cụ ở Hưng Thái, Hưng Nguyên cho biết thì họ Hồ ở Hưng Thái hằng năm thường có sang Nghi Xuân nhận họ. Trong trận tấn công ra Bắc vào tháng 6 năm ất Mùi (1655), quân Nguyễn chiếm được 7 huyện Nam sông Lam (Nghệ An), bắt dân đưa vào Đàng Trong khai hoang. Sách cũ đều nói tổ bốn đời của Nguyễn Huệ cũng ở trong số di dân ấy, lúc đầu đến ở ấp Tây Sơn Nhất thuộc huyện Quy Ninh, phủ Quy Nhơn. Đến đời Nguyễn Phi Phúc (có sách chép là Hồ Phi Phúc) mới dời đến ở ấp Kiên Thành, huyện Tuy Viễn, nay là làng Kiên Mỹ, xã Bình Thành, huyện Tây Sơn, tỉnh Nghĩa Bình. Nguyễn Phi Phúc và vợ là Nguyễn Thị Đông sinh ra Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ, Nguyễn Huệ và một người con gái.Nguyễn Huệ sinh năm 1753. Thuở nhỏ Nguyễn Huệ còn có tên là Thơm, sau gọi là Bình. Cả ba anh em đều theo học thầy Hiến, một nhà nho bất đắc chí, vì phản đối chính sách hà ngược của Trương Phúc Loan nên bỏ trốn vào Quy Nhơn mở trường dạy học ở ấp Yên Thái.Theo Hoa Bằng trong Quang Trung anh hùng dân tộc thì Nguyễn Huệ tóc quăn, da sần, mắt như chớp sáng, tiếng nói sang sảng như tiếng chuông, nhanh nhẹn, khỏe mạnh, can đảm. Sách Tây Sơn thuật lược còn miêu tả đôi mắt Quang Trung "ban đêm khi ngồi không có đèn thì ánh sáng từ mắt soi sáng cả chiếu".Mùa xuân năm 1771, đất Tây Sơn sôi động, lá cờ nghĩa bằng lụa đỏ dài 10 m được dựng lên với khẩu hiệu lấy của nhà giàu chia cho dân nghèo và lời hịch kể tội Trương Phúc Loan được truyền đi khắp nơi. Các tầng lớp nhân dân người Kinh, người Thượng đều hăng hái tham gia. Từ cuộc khởi nghĩa Tây Sơn này, Nguyễn Huệ trở thành lãnh tụ kiệt xuất của phong trào nông dân thế kỷ 18 và cũng trở thành người anh hùng dân tộc vĩ đại:Mà nay áo vải cờ đào,Giúp dân dựng nước xiết bao công trình.(Ai tư vãn - LÊ NGỌC hÂN)Nguyễn Huệ là nhà quân sự thiên tài. Trong hoạt động quân sự, ông chủ động tập trung lực lượng đánh vào những mục tiêu chiến lược trọng yếu nhất và hành động liên tục, bất ngờ, chớp nhoáng, quyết liệt làm cho đối phương không kịp đối phó.Năm 1777, Nguyễn Huệ đem quân vào Gia Định đánh tan sào huyệt của quân Nguyễn, bắt giết được Nguyễn Phúc Dương và Nguyễn Phúc Thuần. Sau chiến thắng, ông giao quyền cai quản Gia Định cho các tướng rồi trở lại Quy Nhơn.Năm 1785, được tin báo quân Xiêm xâm lược, Nguyễn Huệ đem đại binh vào Gia Định. Trong mấy trận đầu, quân Tây Sơn rút lui để nhử giặc vào trận địa mai phục sẵn. Quân Xiêm kéo vào Rạch Gầm và Xoài Mút (phía tây Mỹ Tho) bị phục binh Tây Sơn ở các mặt cùng đổ ập ra tiến công bất ngờ, quyết liệt. 5 vạn quân thủy bộ cùng 300 chiến thuyền bị đánh tan tác, chỉ còn vài nghìn tên sống sót chạy trốn về nước theo đường núi.Đến trận đại phá 20 vạn quân Thanh đầu năm 1789 thì thật là kỳ diệu. Cuối năm 1788, quân Thanh do Tôn Sĩ Nghị chỉ huy đã chiếm Thăng Long. Tiền đội quân Thanh thọc sâu đến tận Hà Nam. Quanh Thăng Long dày đặc một hệ thống những đồn kiên cố ở Hạ Hồi, Ngọc Hồi, Khương Thượng... để bảo vệ.Ngày 21 tháng 12 năm 1788, nhận được tin báo khẩn cấp của Ngô Văn Sở, ngay ngày hôm sau, tại Phú Xuân, Nguyễn Huệ làm lễ lên ngôi hoàng đế, lấy niên hiệu là Quang Trung, rồi lập tức thống lĩnh đại quân tiến ra bắc.Ngày 15-1-1789, quân Tây Sơn đã tập kết ở Tam Điệp. Khi cho quân ăn Tết trước ở đây, Quang Trung tuyên bố: "Nay hãy làm lễ ăn Tết Nguyên Đán trước, đợi đến sang xuân, ngày ta vào Thăng Long sẽ mở tiệc lớn. Các ngươi hãy ghi nhớ lấy lời ta xem có đúng thế không?".Trong trận này, với chiến lược đánh nhanh thắng nhanh, Quang Trung chọn thời gian và không gian hoàn toàn bất ngờ đối với quân Thanh đang kiêu căng, tự mãn với những thắng lợi bước đầu và mải mê chuẩn bị ăn Tết.Đêm 30 Tết, quân chủ lực Tây Sơn vượt sông Đáy tiêu diệt đồn tiền tiêu của địch, mở đầu cuộc tiến công. Ngày 3 Tết vây đồn Hạ Hồi, uy hiếp buộc địch đầu hàng. Ngày 5 Tết, mở trận quyết chiến ở đồn Ngọc Hồi. Bằng trận Ngọc Hồi - Đầm Mực, quân Tây Sơn đã đập tan cứ điểm then chốt nhất của địch. Sau đó đồn Khương Thượng nhanh chóng bị tiêu diệt, tướng Sầm Nghi Đống tự tử, Tôn Sĩ Nghị bỏ chạy. Trưa ngày 5 Tết Kỷ Dậu, vua Quang Trung cùng tướng sĩ chiến bào nhuộm đen khói súng tiến vào Thăng Long.Nguyễn Huệ cọ̀n là nhà chính trị sáng suốt. Từ mục tiêu trước mắt của phong trào nông dân là đánh đổ chế độ áp bức Trịnh - Nguyễn, Nguyễn Huệ đã vươn lên nhận thức được nhiệm vụ dân tộc là thống nhất đất nước và đánh đuổi ngoại xâm. Ông phê phán tội ác chia cắt đất nước: "Mỗi họ tự gây dựng bờ cõi riêng mình, kỷ cương, trời đất một phen đổ nát không dựng lên được..." (Chiếu lên ngôi).Năm 1786, Nguyễn Huệ đem quân ra bắc với khẩu hiệu "Phù Lê diệt Trịnh", cô lập triệt để quân Trịnh nên lấy được Bắc Hà một cách dễ dàng. Nguyễn Huệ nói với Nguyễn Hữu Chỉnh: "Ta đem mấy vạn quân ra đây, chỉ đánh một trận mà dẹp yên được cả thiên hạ... Ví phỏng ta muốn xưng đế, xưng vương gì mà chẳng được. Sở dĩ ta nhường nhịn không ở những ngôi ấy, là hậu đãi nhà Lê đó thôi!" (Hoàng Lê nhất thống chí). Nhưng Nguyễn Huệ cũng biết trong nhân dân và nho sĩ Bắc Hà cọ̀n nhiều người luyến tiếc nhà Lê nên ông bằng lòng lấy công chúa Ngọc Hân nhà Lê rồi lui về Thuận Hóa. Năm 1787, sau khi sai Vũ Văn Nhậm đem quân ra bắc giết Nguyễn Hữu Chỉnh, Nguyễn Huệ vẫn để cho Lê Duy Cẩn làm giám quốc bù nhìn. Nguyễn Huệ chỉ chính thức lên ngôi hoàng đế thay nhà Lê khi Lê Chiêu Thống lộ rõ bộ mặt phản quốc, rước quân Thanh vào giày xéo đất nước.Thành công của Nguyễn Huệ về chính trị c̣òn ở việc ông được nhân tài trong nước ủng hộ. Về võ tướng có Trần Quang Diệu, Vũ Văn Dũng, Đặng Tiến Đông, Ngô Văn Sở... Ra Thăng Long, Nguyễn Huệ thu phục được Ngô Thì Nhậm, Phan Huy ích, Nguyễn Thế Lịch, Đoàn Nguyễn Tuấn, La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp... là những kẻ sĩ đất bắc chí có thực tài, biết thời thế. ở Phú Xuân, Nguyễn Huệ được sự cộng tác hết ḷòng của Trần Văn Kỳ, một bậc danh sĩ nổi tiếng ở đất Đàng Trong, người có công lớn giúp Nguyễn Huệ tổ chức bộ máy cai trị và giới thiệu cho Nguyễn Huệ những nhân tài trong nước.Về mặt đối ngoại, Nguyễn Huệ rất khôn khéo trong cách ứng xử với bọn phong kiến phương bắc. Tuy đã:Đánh cho nó chích luân bất phản,Đánh cho nó phiến giáp bất hoàn Nhưng sau chiến thắng, Nguyễn Huệ vẫn chủ động cầu hòa, bề ngoài xin thần thuộc để dập tắt ý đồ phục thù của nhà Thanh và buộc chúng phải chính thức công nhận Quang Trung làm "quốc vương", từ bỏ dã tâm thu nạp bọn lưu vong phản quốc, lấy cớ xâm lược nước ta một lần nữa.Năm 1789, khi cuộc kháng chiến vừa kết thúc, Quang Trung đã ban bố Chiếu khuyến nông nhằm phục hồi dân phiêu tán, khai khẩn ruộng đất bỏ hoang. Đồng thời ra lệnh bãi bỏ nhiều thứ thuế công thương nghiệp nặng nề trước đây, mở rộng việc buôn bán làm ăn cho thương nhân và thợ thủ công. Quan hệ buôn bán với nước ngoài được mở mang.Quang Trung cũng ra sức xây dựng và phát triển nền văn hóa dân tộc, ban bố Chiếu lập học, khuyến khích các xã mở trường học. Tiếng nói dân tộc được coi trọng. Quang Trung muốn đưa chữ Nôm lên địa vị chữ viết chính thức của quốc gia. Lập Viện Sùng chính để dịch sách chữ Hán ra chữ Nôm. Các văn kiện của Nhà nước dần dần viết bằng chữ Nôm.Khi dân làng Văn Chương (Hà Nội) xin dựng lại bia tiến sĩ ở Văn Miếu, Quang Trung tự tay phê vào lá đơn như sau:Nay mai dựng lại nước nhà,Bia nghè lại dựng trên ṭa muôn giàn. Nhưng tiếc thay, khi đất nước đang trên bước chuyển mình đầy triển vọng thì ngày 16-9-1792, Quang Trung đột ngột từ trần, lúc đó ông mới 39 tuổi. Mục lục Nguyễn Huệ Nguyễn Huệ nhiều tác giảChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: bạn: Thái Nhi đưa lên vào ngày: 24 tháng 9 năm 2004
nhiều tác giả Nguyễn Huệ Người anh hùng áo vải Quang Trung hoàng đế Nguyễn Huệ Quang Trung Nguyễn Huệ là người anh hùng áo vải đã đánh đổ cả hai tập đoàn thống trị phản động ở Đàng Trong và Đàng Ngoài, người đã lập nên những chiến công hiển hách chống quân xâm lược Xiêm và Mãn Thanh, thực hiện được khát vọng thống nhất đất nước của dân tộc vào cuối thế kỷ thứ 18.Tổ tiên xưa của Nguyễn Huệ là họ Hồ ở làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, trấn Nghệ An. Sau có một chi dời vào huyện Hưng Nguyên và huyện Nghi Xuân. Theo các cụ ở Hưng Thái, Hưng Nguyên cho biết thì họ Hồ ở Hưng Thái hằng năm thường có sang Nghi Xuân nhận họ. Trong trận tấn công ra Bắc vào tháng 6 năm ất Mùi (1655), quân Nguyễn chiếm được 7 huyện Nam sông Lam (Nghệ An), bắt dân đưa vào Đàng Trong khai hoang. Sách cũ đều nói tổ bốn đời của Nguyễn Huệ cũng ở trong số di dân ấy, lúc đầu đến ở ấp Tây Sơn Nhất thuộc huyện Quy Ninh, phủ Quy Nhơn. Đến đời Nguyễn Phi Phúc (có sách chép là Hồ Phi Phúc) mới dời đến ở ấp Kiên Thành, huyện Tuy Viễn, nay là làng Kiên Mỹ, xã Bình Thành, huyện Tây Sơn, tỉnh Nghĩa Bình. Nguyễn Phi Phúc và vợ là Nguyễn Thị Đông sinh ra Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ, Nguyễn Huệ và một người con gái.Nguyễn Huệ sinh năm 1753. Thuở nhỏ Nguyễn Huệ còn có tên là Thơm, sau gọi là Bình. Cả ba anh em đều theo học thầy Hiến, một nhà nho bất đắc chí, vì phản đối chính sách hà ngược của Trương Phúc Loan nên bỏ trốn vào Quy Nhơn mở trường dạy học ở ấp Yên Thái.Theo Hoa Bằng trong Quang Trung anh hùng dân tộc thì Nguyễn Huệ tóc quăn, da sần, mắt như chớp sáng, tiếng nói sang sảng như tiếng chuông, nhanh nhẹn, khỏe mạnh, can đảm. Sách Tây Sơn thuật lược còn miêu tả đôi mắt Quang Trung "ban đêm khi ngồi không có đèn thì ánh sáng từ mắt soi sáng cả chiếu".Mùa xuân năm 1771, đất Tây Sơn sôi động, lá cờ nghĩa bằng lụa đỏ dài 10 m được dựng lên với khẩu hiệu lấy của nhà giàu chia cho dân nghèo và lời hịch kể tội Trương Phúc Loan được truyền đi khắp nơi. Các tầng lớp nhân dân người Kinh, người Thượng đều hăng hái tham gia. Từ cuộc khởi nghĩa Tây Sơn này, Nguyễn Huệ trở thành lãnh tụ kiệt xuất của phong trào nông dân thế kỷ 18 và cũng trở thành người anh hùng dân tộc vĩ đại:Mà nay áo vải cờ đào,Giúp dân dựng nước xiết bao công trình.(Ai tư vãn - LÊ NGỌC hÂN)Nguyễn Huệ là nhà quân sự thiên tài. Trong hoạt động quân sự, ông chủ động tập trung lực lượng đánh vào những mục tiêu chiến lược trọng yếu nhất và hành động liên tục, bất ngờ, chớp nhoáng, quyết liệt làm cho đối phương không kịp đối phó.Năm 1777, Nguyễn Huệ đem quân vào Gia Định đánh tan sào huyệt của quân Nguyễn, bắt giết được Nguyễn Phúc Dương và Nguyễn Phúc Thuần. Sau chiến thắng, ông giao quyền cai quản Gia Định cho các tướng rồi trở lại Quy Nhơn.Năm 1785, được tin báo quân Xiêm xâm lược, Nguyễn Huệ đem đại binh vào Gia Định. Trong mấy trận đầu, quân Tây Sơn rút lui để nhử giặc vào trận địa mai phục sẵn. Quân Xiêm kéo vào Rạch Gầm và Xoài Mút (phía tây Mỹ Tho) bị phục binh Tây Sơn ở các mặt cùng đổ ập ra tiến công bất ngờ, quyết liệt. 5 vạn quân thủy bộ cùng 300 chiến thuyền bị đánh tan tác, chỉ còn vài nghìn tên sống sót chạy trốn về nước theo đường núi.Đến trận đại phá 20 vạn quân Thanh đầu năm 1789 thì thật là kỳ diệu. Cuối năm 1788, quân Thanh do Tôn Sĩ Nghị chỉ huy đã chiếm Thăng Long. Tiền đội quân Thanh thọc sâu đến tận Hà Nam. Quanh Thăng Long dày đặc một hệ thống những đồn kiên cố ở Hạ Hồi, Ngọc Hồi, Khương Thượng... để bảo vệ.Ngày 21 tháng 12 năm 1788, nhận được tin báo khẩn cấp của Ngô Văn Sở, ngay ngày hôm sau, tại Phú Xuân, Nguyễn Huệ làm lễ lên ngôi hoàng đế, lấy niên hiệu là Quang Trung, rồi lập tức thống lĩnh đại quân tiến ra bắc.Ngày 15-1-1789, quân Tây Sơn đã tập kết ở Tam Điệp. Khi cho quân ăn Tết trước ở đây, Quang Trung tuyên bố: "Nay hãy làm lễ ăn Tết Nguyên Đán trước, đợi đến sang xuân, ngày ta vào Thăng Long sẽ mở tiệc lớn. Các ngươi hãy ghi nhớ lấy lời ta xem có đúng thế không?".Trong trận này, với chiến lược đánh nhanh thắng nhanh, Quang Trung chọn thời gian và không gian hoàn toàn bất ngờ đối với quân Thanh đang kiêu căng, tự mãn với những thắng lợi bước đầu và mải mê chuẩn bị ăn Tết.Đêm 30 Tết, quân chủ lực Tây Sơn vượt sông Đáy tiêu diệt đồn tiền tiêu của địch, mở đầu cuộc tiến công. Ngày 3 Tết vây đồn Hạ Hồi, uy hiếp buộc địch đầu hàng. Ngày 5 Tết, mở trận quyết chiến ở đồn Ngọc Hồi. Bằng trận Ngọc Hồi - Đầm Mực, quân Tây Sơn đã đập tan cứ điểm then chốt nhất của địch. Sau đó đồn Khương Thượng nhanh chóng bị tiêu diệt, tướng Sầm Nghi Đống tự tử, Tôn Sĩ Nghị bỏ chạy. Trưa ngày 5 Tết Kỷ Dậu, vua Quang Trung cùng tướng sĩ chiến bào nhuộm đen khói súng tiến vào Thăng Long.Nguyễn Huệ cọ̀n là nhà chính trị sáng suốt. Từ mục tiêu trước mắt của phong trào nông dân là đánh đổ chế độ áp bức Trịnh - Nguyễn, Nguyễn Huệ đã vươn lên nhận thức được nhiệm vụ dân tộc là thống nhất đất nước và đánh đuổi ngoại xâm. Ông phê phán tội ác chia cắt đất nước: "Mỗi họ tự gây dựng bờ cõi riêng mình, kỷ cương, trời đất một phen đổ nát không dựng lên được..." (Chiếu lên ngôi).Năm 1786, Nguyễn Huệ đem quân ra bắc với khẩu hiệu "Phù Lê diệt Trịnh", cô lập triệt để quân Trịnh nên lấy được Bắc Hà một cách dễ dàng. Nguyễn Huệ nói với Nguyễn Hữu Chỉnh: "Ta đem mấy vạn quân ra đây, chỉ đánh một trận mà dẹp yên được cả thiên hạ... Ví phỏng ta muốn xưng đế, xưng vương gì mà chẳng được. Sở dĩ ta nhường nhịn không ở những ngôi ấy, là hậu đãi nhà Lê đó thôi!" (Hoàng Lê nhất thống chí). Nhưng Nguyễn Huệ cũng biết trong nhân dân và nho sĩ Bắc Hà cọ̀n nhiều người luyến tiếc nhà Lê nên ông bằng lòng lấy công chúa Ngọc Hân nhà Lê rồi lui về Thuận Hóa. Năm 1787, sau khi sai Vũ Văn Nhậm đem quân ra bắc giết Nguyễn Hữu Chỉnh, Nguyễn Huệ vẫn để cho Lê Duy Cẩn làm giám quốc bù nhìn. Nguyễn Huệ chỉ chính thức lên ngôi hoàng đế thay nhà Lê khi Lê Chiêu Thống lộ rõ bộ mặt phản quốc, rước quân Thanh vào giày xéo đất nước.Thành công của Nguyễn Huệ về chính trị c̣òn ở việc ông được nhân tài trong nước ủng hộ. Về võ tướng có Trần Quang Diệu, Vũ Văn Dũng, Đặng Tiến Đông, Ngô Văn Sở... Ra Thăng Long, Nguyễn Huệ thu phục được Ngô Thì Nhậm, Phan Huy ích, Nguyễn Thế Lịch, Đoàn Nguyễn Tuấn, La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp... là những kẻ sĩ đất bắc chí có thực tài, biết thời thế. ở Phú Xuân, Nguyễn Huệ được sự cộng tác hết ḷòng của Trần Văn Kỳ, một bậc danh sĩ nổi tiếng ở đất Đàng Trong, người có công lớn giúp Nguyễn Huệ tổ chức bộ máy cai trị và giới thiệu cho Nguyễn Huệ những nhân tài trong nước.Về mặt đối ngoại, Nguyễn Huệ rất khôn khéo trong cách ứng xử với bọn phong kiến phương bắc. Tuy đã:Đánh cho nó chích luân bất phản,Đánh cho nó phiến giáp bất hoàn Nhưng sau chiến thắng, Nguyễn Huệ vẫn chủ động cầu hòa, bề ngoài xin thần thuộc để dập tắt ý đồ phục thù của nhà Thanh và buộc chúng phải chính thức công nhận Quang Trung làm "quốc vương", từ bỏ dã tâm thu nạp bọn lưu vong phản quốc, lấy cớ xâm lược nước ta một lần nữa.Năm 1789, khi cuộc kháng chiến vừa kết thúc, Quang Trung đã ban bố Chiếu khuyến nông nhằm phục hồi dân phiêu tán, khai khẩn ruộng đất bỏ hoang. Đồng thời ra lệnh bãi bỏ nhiều thứ thuế công thương nghiệp nặng nề trước đây, mở rộng việc buôn bán làm ăn cho thương nhân và thợ thủ công. Quan hệ buôn bán với nước ngoài được mở mang.Quang Trung cũng ra sức xây dựng và phát triển nền văn hóa dân tộc, ban bố Chiếu lập học, khuyến khích các xã mở trường học. Tiếng nói dân tộc được coi trọng. Quang Trung muốn đưa chữ Nôm lên địa vị chữ viết chính thức của quốc gia. Lập Viện Sùng chính để dịch sách chữ Hán ra chữ Nôm. Các văn kiện của Nhà nước dần dần viết bằng chữ Nôm.Khi dân làng Văn Chương (Hà Nội) xin dựng lại bia tiến sĩ ở Văn Miếu, Quang Trung tự tay phê vào lá đơn như sau:Nay mai dựng lại nước nhà,Bia nghè lại dựng trên ṭa muôn giàn. Nhưng tiếc thay, khi đất nước đang trên bước chuyển mình đầy triển vọng thì ngày 16-9-1792, Quang Trung đột ngột từ trần, lúc đó ông mới 39 tuổi. Mục lục Nguyễn Huệ Nguyễn Huệ nhiều tác giảChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: bạn: Thái Nhi đưa lên vào ngày: 24 tháng 9 năm 2004
nhiều tác giả Nguyễn Nhật Ánh Vài nét về nhà văn Nguyễn Nhật Ánh Có lẽ trong số chúng ta không ai lại không một lần đọc những câu chuyện dí dỏm, nhẹ nhàng của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh. Nào là "Buổi chiều Windows", "Trại hoa vàng", "Cô gái đến từ hôm qua", "Phòng trọ ba người", "Bồ câu không đưa thư"... đến bộ truyện dài nhiều tập "Kính vạn hoa". Những nhân vật của Nhật Ánh đều nghịch ngợm nhưng hồn nhiên vô tư, với tình bạn trong sáng và cả những rung cảm rất chân thật theo kiểu "tình học trò" ! Những nhân vật ấy không hề xa lạ hay đến từ một xứ sở nào khác mà đích thực là họ đều bước ra từ cuộc sống của mỗi người chúng ta. Bởi vậy, một lần đọc truyện của Nguyễn Nhật Ánh bạn sẽ thấy quen thuộc ngay với những con người với những tính cách, những câu chuyện trong từng trang sách ấy...Nguyễn Nhật Ánh cũng là tên thật của nhà văn sinh năm 1955 tại Quảng Nam này. Tốt nghiệp ngành Sư phạm, đi Thanh niên xung phong, từng dạy học và hiện nay là phóng viên phụ trách trang thiếu nhi của báo Sài Gòn Giải Phóng. Chưa hết, nếu bạn nào để ý một chút thì sẽ biết rằng đây cũng chính là anh Bồ Câu luôn trả lời những thắc mắc trên chuyên mục Hôn nhân & gia đình của báo Thanh niên hàng tuần. Thế nhưng Nhật Ánh ra mắt độc giả lần đầu tiên vào năm 13 tuổi là một bài thơ và tác phẩm đầu tiên in thành sách cũng là một tập thơ "Thành phố tháng tư" in chung với Lê Thị Kim tại NXB Tác phẩm mới. Trở thành nhà văn được yêu thích nhất trong năm của bạn đọc báo Tuổi Trẻ (1989, 1990), báo Bạn Ngọc (1991), báo Mực Tím (1996, 1997, 1998)... Đến năm 1995, được Hội Nhà văn TP.HCM chọn là một trong 20 nhà văn trẻ tiêu biểu trong 20 năm (1975 - 1995) sau cuộc trưng cầu ý kiến của Thành Đoàn TP.HCM và báo Tuổi Trẻ tổ chức.Không chỉ làm say mê những người đọc ở lứa tuổi thanh thiếu niên mà ngay cả những bậc trung niên như "Chuyện cổ tích dành cho người lớn", Nguyễn Nhật Ánh thật sự đã để lại một dấu ấn trong lòng độc giả Việt Nam. Mục lục Nguyễn Nhật Ánh Nguyễn Nhật Ánh nhiều tác giảChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: Được bạn: Thành Viên VNthuquan đưa lên vào ngày: 27 tháng 12 năm 2003
many authors Nguyen Nhat Anh Some information about writer Nguyen Nhat Anh Perhaps there is no one among us who has not once read the witty and gentle stories of writer Nguyen Nhat Anh. These include "Windows Afternoon", "Yellow Flower Farm", "The Girl from Yesterday", "Room for Three", "Doves Don't Carry Mail"... to the multi-episode series "Kaleidoscope". ". Nhat Anh's characters are all mischievous but innocent and carefree, with pure friendship and very genuine "student love" vibes! These characters are not strange or from another country, but they actually come from the lives of each of us. Therefore, once you read Nguyen Nhat Anh's story, you will immediately feel familiar with the people with the personalities and stories in each page of the book... Nguyen Nhat Anh is also the real name of the writer born in 1955. here in Quang Nam. Graduated from Pedagogy, joined Youth Volunteers, taught and is currently a reporter in charge of the children's page of Saigon Giai Phong newspaper. And yet, if you pay a little attention, you will know that this is the same Mr. Dou who always answers questions in the Marriage & family of Thanh Nien Weekly newspaper. However, Nhat Anh first introduced herself to readers at the age of 13 with a poem and her first work published in book form was also a collection of poems "April City" published with Le Thi Kim at New Works Publishing House. Became the most favorite writer of the year for readers of Tuoi Tre newspaper (1989, 1990), Ben Ngoc newspaper (1991), Muc Tim newspaper (1996, 1997, 1998)... By 1995, recognized by the Writers' Association. Ho Chi Minh City selected it as one of the 20 typical young writers in 20 years (1975 - 1995) after a referendum organized by the Ho Chi Minh City Youth Union and Tuoi Tre newspaper. Not only captivating readers of all ages teenagers but even middle-aged people like "Fairy tales for adults", Nguyen Nhat Anh has truly left a mark in the hearts of Vietnamese readers. Table of contents Nguyen Nhat Anh Nguyen Nhat Anh many authorsWelcome to read books from the book project for mobile devicesSource: author: Nguyen Kim Vy. Final words: Thank you for reading the entire story. Source: editor: Nguyen Kim Vy. Source: Posted by: Member VNthuquan on: December 27, 2003
nhiều tác giả Nguyễn Thi Tác giả, tác phẩm Ông còn có bút danh khác: Nguyễn Ngọc Tấn. Tên thật Nguyễn Hoàng Ca. Sinh ngày 15-5-1928, hy sinh ngày 9-5-1968 tại đường Minh Phụng (nay là đường Nguyễn Thi - thành phố Hồ Chí Minh) trong cuộc tổng tiến công Mậu Thân. Quê gốc xã Hải Anh, huyện Hải Hậu, Nam Hà nhưng từ tuổi thiếu niên đã phải phiêu bạt vào Sài Gòn kiếm sống. Kháng chiến chống Pháp bùng nổ, đầu quân làm công tác tuyên huấn và quản lý văn công ở quân khu miền Đông. Tập kết ra Bắc là đội trưởng đội văn công sư đoàn 330, sau chuyển về tham gia ban biên tập đầu tiên của Tạp chí Văn nghệ quân đội. Từ 1962 trở lại chiến trường miền Nam, phụ trách tờ Văn nghệ quân giải phóng cho đến khi hy sinh. Là người viết văn xuôi, đồng thời Nguyễn Thi còn là người làm thơ, vẽ tranh, trình bày báo, soạn nhạc. ạng được Giải thưởng Nguyễn Đình Chiểu (1965) với tập truyện Người mẹ cầm súng. Hội viên hội nhà văn Việt Nam lớp đầu tiên. Đã xuất bản: Trăng sáng (truyện ngắn, 1960), Đôi bạn (truyện ngắn, 1962), Người mẹ cầm súng (truyện ký, 1965), Truyện và ký (1969), Năm tháng Mục lục Nguyễn Thi Nguyễn Thi nhiều tác giảChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: bạn: Thái Nhi đưa lên vào ngày: 9 tháng 11 năm 2004
many authors Nguyen Thi Author, work He also has another pen name: Nguyen Ngoc Tan. Real name Nguyen Hoang Ca. Born on May 15, 1928, died on May 9, 1968 at Minh Phung Street (now Nguyen Thi Street - Ho Chi Minh City) during the Mau Than general offensive. Originally from Hai Anh commune, Hai Hau district, Nam Ha, but since he was a teenager, he had to venture to Saigon to make a living. The resistance war against the French broke out, leading soldiers to do propaganda and public affairs management in the Eastern military region. Gathering to the North, he was the captain of the 330th Division's literature team, then moved back to join the first editorial board of the Military Arts Magazine. From 1962, he returned to the Southern battlefield and was in charge of the Liberation Army Literature newspaper until his death. As a prose writer, Nguyen Thi is also a poet, painter, newspaper editor, and music composer. He won the Nguyen Dinh Chieu Award (1965) for his story collection Mother with a Gun. Member of the first class of Vietnamese Writers Association. Published: Bright Moon (short story, 1960), The couple (short story, 1962), The mother with a gun (autobiography, 1965), Stories and memoirs (1969), Five months Table of contents Nguyen Thi Nguyen Thi many authorsWelcome to read books from the book project for mobile devicesSource: author: Nguyen Kim Vy. Final words: Thank you for reading the entire story. Source: editor: Nguyen Kim Vy. Source: friend: Thai Nhi posted on: November 9, 2004
Thanh Đa Nguyễn Thị Châu Giang: Tác Giả - Tác Phẩm Trở về tình yêu Nguyễn Thị Châu Giang không còn là gương mặt lạ trong làng văn và làng vẽ nước nhà. Cầm bút và thành công từ rất sớm, giờ đây, cập kề tuổi tam thập, văn và tranh của Giang cũng lớn dần lên và mang màu sắc thiếu phụ đa đoan ngày càng đậm nét. Nữ họa sĩ trẻ, biên tập viên văn học NXB Kim Đồng, từng liên tục "ẵm" các giải thưởng văn học ở khắp trong Nam ngoài Bắc. Năm 1990, mới 15 tuổi, Nguyễn Thị Châu Giang đã đoạt giải nhì trong cuộc thi Sáng tác và bình luận văn học. Hai lần cô được giải nhất trong cuộc thi Hương đầu mùa (1993 và 1994). Cũng trong năm 1994, cô được nhận giải Tác phẩm tuổi xanh do Báo Tiền phong tổ chức.... Rồi cô được lĩnh giải thưởng cuộc thi sáng tác cho thiếu nhi do NXB Trẻ tổ chức. Tiếp theo, trong cuộc vận động sáng tác cho thiếu nhi do NXB Kim Đồng tổ chức, Nguyễn Thị Châu Giang lại được nhận giải nhờ truyện Tóc ngắn. Một câu chuyện sinh động và đằm thắm về lứa tuổi học trò những năm cuối cấp. Văn Nguyễn Thị Châu Giang hóm hỉnh, dung dị nhưng lại đậm đà những suy tư của một nữ tính hay nghĩ ngợi. Câu chuyện cô kể có nhiều tình tiết dường như lấy từ chính những ký ức thơ ấu vẫn còn tươi rói trong tâm hồn hay rung động và dễ cảm nhận của chính cô. Đọc truyện của cô, độc giả nhỏ tuổi như đang thấy mình, còn người lớn tuổi bỗng dưng ngậm ngùi như chợt thấm thía cái cõi thơ cũ đã quá xa rồi... Rồi cùng năm tháng, văn và tranh của Nguyễn Thị Châu Giang cũng lớn dần lên và mang màu sắc thiếu phụ đa đoan ngày càng đậm nét. Đặc biệt, tập truyện ngắn Trở về tình yêu mới được NXB Phụ nữ ấn hành năm 2004 đã "hội tụ" những trải nghiệm đa chiều của một người phụ nữ giàu khát khao và nghĩ ngợi, biết mọi sự rồi nhưng vẫn muốn làm cho cuộc đời đổi khác: "Em tự hỏi vì sao em lại yêu anh dù biết chuyện tình của chúng mình sẽ không đi đến đâu. Dù trái đất có nhỏ lại thì anh vẫn xa em... Em cứ tự hỏi sao em lại nhớ anh dù biết thế giới rộng lớn này không còn chỗ nào dành riêng cho hai ta..." (truyện ngắn Trở về tình yêu). Dường như khi đã yên bề gia thất, tâm hồn nhiều hứng khởi của Nguyễn Thị Châu Giang lại càng dễ hồi hộp hơn với những tín hiệu đôi khi xa vắng của tình yêu. Cô vẫn không muốn tin rằng, hạnh phúc yên bình của hôn nhân thực sự chỉ ảo tưởng đối với người nghệ sĩ... Trên phương diện mỹ thuật, Nguyễn Thị Châu Giang cũng đã gặt hái không ít thành công. Cô là một trong không nhiều họa sĩ trẻ từng không chỉ một lần được mời đi sáng tác và triển lãm ở nước ngoài. Tranh của cô vừa chân thực vừa dễ gây "chấn động" bởi cái nhìn vừa non xanh vừa bạo dạn vào tình yêu và hạnh phúc. Những gam màu chói chang của cô đôi khi lùa người xem tới những thiên đường không có thực của thị giác, buộc chúng ta phải ngậm ngùi mà cố gắng vươn lên theo những giai điệu vĩ cầm da diết và đôi khi thảng thốt Thanh Đa Mục lục Nguyễn Thị Châu Giang: Nguyễn Thị Châu Giang: Thanh ĐaChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: Nhân DânĐược bạn: Ct.Ly đưa lên vào ngày: 21 tháng 5 năm 2005
Thanh Da Nguyen Thi Chau Giang: Author - Works Return to love Nguyen Thi Chau Giang is no longer a strange face in the country's literary and painting village. Having picked up a pen and achieved success very early, now, approaching the age of thirty, Giang's writing and paintings are also growing up and taking on an increasingly bold, womanly color. The young female artist, literary editor of Kim Dong Publishing House, has continuously "held" literary awards throughout the South and the North. In 1990, at just 15 years old, Nguyen Thi Chau Giang won second prize in the Literary Composition and Commentary contest. Twice she won first prize in the first season Perfume contest (1993 and 1994). Also in 1994, she received the Green Youth Works award organized by Tien Phong Newspaper.... Then she received the award for the children's writing contest organized by Tre Publishing House. Next, in the children's writing campaign organized by Kim Dong Publishing House, Nguyen Thi Chau Giang received an award again for her story Short Hair. A lively and passionate story about students in their final years of high school. Van Nguyen Thi Chau Giang is witty and simple, but imbued with the thoughts of a thoughtful woman. The story she told had many details that seemed to be taken from her own childhood memories that were still fresh in her own vibrating and perceptive soul. Reading her stories, young readers feel like they see themselves, while older people suddenly feel sad, as if suddenly penetrating the old poetic world that is too far away... Then, over the years, Nguyen Thi Chau Giang's writings and paintings is also growing up and taking on an increasingly bold, womanly color. In particular, the short story collection Return to Love, published by the Women's Publishing House in 2004, "converges" the multi-dimensional experiences of a woman rich in desires and thoughts, knowing everything but still wanting to do it. life changes: "I wonder why I love you even though I know our love story won't go anywhere. Even if the world gets smaller, you'll still be far away from me... I keep wondering why I remember Even though I know that this vast world has no place left for the two of us..." (short story Return to Love). It seems that when she is in peace, Nguyen Thi Chau Giang's excited soul becomes even more nervous with the sometimes distant signs of love. She still doesn't want to believe that the peaceful happiness of marriage is really just an illusion for the artist... In terms of art, Nguyen Thi Chau Giang has also achieved a lot of success. She is one of the few young artists who has been invited to compose and exhibit abroad more than once. Her paintings are both realistic and shocking because of her young and bold look at love and happiness. Her dazzling colors sometimes transport viewers to unreal visual paradises, forcing us to sadly try to follow Thanh Da's melancholy and sometimes startling violin melodies. Table of contents Nguyen Thi Chau Giang: Nguyen Thi Chau Giang: Thanh DaWelcome to read books from the book project for mobile devices. Source: author: Nguyen Kim Vy. Final words: Thank you for reading the entire story. Source: editor: Nguyen Kim Vy. Source: Nhan Dan Posted by friend: Ct.Ly on: May 21, 2005
nhiều tác giả Nguyễn Trường Tộ Người đi trước thời đại Nguyễn Trường Tộ sinh năm 1828, ở làng Bùi Chu, huyện Hưng Nguyên, Nghệ An, trong một gia đình theo đạo Gia tô, nhưng Nguyễn Trường Tộ học thông tứ thư ngũ kinh của Nho giáo. Năm 27 tuổi, ông được giám mục Gauthier đưa vào chủng viện Tân ấp thuộc xứ đạo Xã Đoài để dạy chữ Hán cho giám mục, và được giám mục dạy lại cho chữ Pháp cũng như kiến thức khoa học châu Âu. Năm 1858, giám mục Gauthier đưa Nguyễn Trường Tộ sang Pháp để tạo điều kiện học tập, nâng cao kiến thức nhiều mặt.Hơn hai năm ở Paris, chẳng những ông hiểu biết nhiều về khoa học - kỹ thuật, có trình độ như một kiến trúc sư, một người biết khai mỏ, mà còn đọc rộng về các mặt chính trị, kinh tế, quân sự, ngoại giao, pháp luật, v.v... và tìm hiểu được một số hoạt động công nghệ của nước Pháp.Trên đường đi sang Pháp và trở về Việt Nam, Nguyễn Trường Tộ còn có dịp ghé qua Rome, dừng chân ở Singapore và Hongkong.Năm 1861, Nguyễn Trường Tộ trở về Tổ quốc, phải cập bến Sài Gòn, khi tỉnh thành Gia Định đã bị quân viễn chinh Pháp và Tây Ban Nha chiếm đóng.Gần ba năm sống trong lòng địch, Nguyễn Trường Tộ bất đắc dĩ phải làm việc với quân Pháp, phiên dịch các công hàm trao đổi giữa triều đình Huế với Soái thủ Pháp ở Gia Định. Nhiều lần ông sửa bớt chữ nghĩa trong công hàm của đôi bên, tránh những lời lẽ quá khích, xúc phạm tới triều đình hoặc phương hại cho việc "tạm hòa". Nhiều lần ông tìm cách thông báo cho các sứ thần của triều đình như Nguyễn Bá Nghi, Phan Thanh Giản, Phạm Phú Thứ một số âm mưu quỷ kế của giặc Pháp.Năm 1863, Nguyễn Trường Tộ tìm cách thoát ra khỏi khu vực chiếm đóng của quân Pháp, liên hệ được với triều đình Huế. Từ đây cho đến cuối đời ông viết hàng loạt điều trần, luận văn, tờ bẩm, trình nhiều kiến nghị có tầm chiến lược nhằm canh tân đất nước, tạo thế vươn lên cho dân tộc để giữ nền độc lập một cách khôn khéo mà vững chắc.Hơn sáu mươi di thảo của Nguyễn Trường Tộ đã sưu tầm được, bàn về nhiều phương diện:- Về mặt kinh tế, Nguyễn Trường Tộ vạch ra đường lối làm cho "nước giàu mà dân cũng giàu". Ông khuyên triều đình ra sức mở mang nghề nghiệp, học cách làm ăn của các nước văn minh Tây Âu, tránh bế quan tỏa cảng, mời các công ty kinh doanh nước ngoài đến giúp Việt Nam khai thác tài lợi để có thêm của cải và học cho được kỹ thuật cũng như cách làm ăn tiên tiến của họ. Có như vậy mới giữ được độc lập trong tư thế làm chủ đón khách... (xem Dụ tài tế cấp bẩm từ).- Về mặt văn hóa - xã hội, Nguyễn Trường Tộ khuyên triều đình tìm mọi cách nâng cao văn hóa đất nước theo hướng coi trọng khoa học - kỹ thuật, để sớm nâng cao đời sống của nhân dân. Ông phê phán tình trạng kinh đô Huế luộm thuộm, mất vệ sinh, công thự dột nát, lương bổng quan lại quá ít ỏi,v.v... Ông nêu hàng loạt vấn đề quan trọng như: nên sáp nhập các tỉnh để giảm bớt số quan lại và có điều kiện tăng lương cho quan lại nhằm giảm tệ tham nhũng, khuyến khích tính liêm khiết; đề nghị sửa đổi chính sách thuế, đánh thuế nhà giàu nặng hơn nhà nghèo, đánh mạnh vào xa xỉ phẩm, mặt khác không nên cấm dân dùng đồ đẹp, đồ sang khiến cho văn vật ngày càng kém, áo xiêm ngày càng tồi; đề nghị sửa đổi chế độ thi cử, chú trọng bồi dưỡng nhân tài về nhiều mặt, thành lập các môn học thực dụng, dùng quốc âm trong công văn thay cho chữ Hán, lập địa đồ quốc gia và các tỉnh, kiểm kê dân số, lập trại tế bần, viện dục anh (nhà trẻ), v.v... (xem Điều trần về cải cách phong tục, Học tập bồi dưỡng nhân tài, Tế cấp bát điếu...).- Về mặt ngoại giao, Nguyễn Trường Tộ phân tích cho triều đình thấy rõ cục diện chính trị trên toàn thế giới, để biết ứng xử một cách linh hoạt (xem Thiên hạ đại thế luận). Ông chỉ ra những mâu thuẫn giữa Pháp với Anh và Tây Ban Nha và khuyên triều đình nên chủ động mở rộng bang giao với nhiều nước, nhất là với nước Anh, để chế ngự bớt tham vọng và khả năng xâm lược của Pháp. Khi nước Pháp có sự biến lớn năm 1870 - 1871, vua Napoléon III mất ngôi, chế độ cộng hòa Pháp phục hồi, Nguyễn Trường Tộ nêu một loạt kiến nghị, hướng dẫn triều đình xúc tiến ngoại giao trực tiếp với Chính phủ Pháp, khéo léo đối phó, ngăn chặn bọn chỉ huy quân viễn chinh Pháp ở Soái phủ Sài Gòn, nhằm tìm cách thu hồi lại sáu tỉnh đã bị chiếm (xem Lục lợi từ và các tờ bẩm cuối năm 1866 đến tháng 2-1871).- Về mặt quân sự, Nguyễn Trường Tộ tuy là một người "chủ hòa", nhưng không có tư tưởng "chủ hàng" hoặc hòa bình vô nguyên tắc. Năm 1867, ông khuyên triều đình "ra sức cải tu võ bị", đề phòng quân Pháp từ Nam Kỳ đánh lan ra cả nước. Ông là người đầu tiên nêu lên một chính sách quân sự có hệ thống như: trọng võ ngang trọng văn, quý trọng người lính, ưu đãi sĩ quan, biên soạn lý luận binh pháp, đào tạo cán bộ chỉ huy, tạo dựng một quốc thể về mặt binh bị, chuẩn bị điều kiện tác chiến trong thành phố, tìm cách dùng người trong vùng địch chiếm, v.v...Ngoài những bản điều trần và luận văn tạo nên một công trình trí tuệ vĩ đại vô giá, Nguyễn Trường Tộ còn để lại một số hoạt động thực tiễn xuất sắc như: Năm 1862 - 1863, ông thiết kế xây dựng tòa nhà nguyện của dòng tu nữ ở Sài Gòn. Năm 1864 - 1866, ông thiết kế xây dựng bốn ngôi nhà trong giáo khu Xã Đoài. Mấy công trình này của ông thuộc về những công trình kiến trúc đầu tiên theo kiểu châu Âu ở Việt Nam giữa thế kỷ 19. Cũng giữa những năm 60 thế kỷ 19, khi hoạt động ở quê nhà, ông đã giúp Tổng đốc Nghệ An Hoàng Tá Viêm đào Kênh Sắt, một công trình xưa kia Cao Biền rồi Hồ Quý Ly dự định làm mà không làm nổi. Ngoài ra, ông còn vận động dân chúng ở Xuân Mỹ, quê hương bên nhà vợ ông, cùng nhau dời làng từ trong núi rừng đầy lam chướng ra nơi thoáng đãng, thuận lợi canh tác.Trí tuệ lỗi lạc của Nguyễn Trường Tộ đã vượt hẳn lên trên tầm thời đại giữa thế kỷ 19 ở Việt Nam. Vua Tự Đức tuy đã có lúc triệu ông "vào kinh để hỏi việc lớn" và phái ông sang Pháp thuê thầy thợ, mua sách vở, máy móc, định du nhập kỹ thuật (năm 1866 - 1867), nhưng nói chung, triều đình nhà Nguyễn cũng như các nho sĩ, văn thân thời ấy chưa hiểu nổi luồng tư tưởng của ông, nên chưa coi trọng đúng mức những kiến nghị cách tân của ông. Trí tuệ lỗi lạc của Nguyễn Trường Tộ bị lãng quên như một luồng ánh sáng rọi vào đám sương mù dày đặc.Ông chết âm thầm ở làng quê Bùi Chu ngày 10 tháng 10 năm Tự Đức thứ 24, tức 23 tháng 11 năm 1871. Mục lục Nguyễn Trường Tộ Nguyễn Trường Tộ nhiều tác giảChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: bạn: Thái Nhi đưa lên vào ngày: 24 tháng 9 năm 2004
many authors Nguyen Truong To A person ahead of his time Nguyen Truong To was born in 1828, in Bui Chu village, Hung Nguyen district, Nghe An, in a family following Catholicism, but Nguyen Truong To studied the four books and five classics of Confucianism. At the age of 27, Bishop Gauthier sent him to Tan Hamlet seminary in Xa Doai parish to teach Chinese characters to the bishop, and the bishop taught him French as well as European scientific knowledge. In 1858, Bishop Gauthier took Nguyen Truong To to France to create conditions for him to study and improve his knowledge in many aspects. After more than two years in Paris, he not only understood a lot about science and technology, but was also qualified as a architect, a person who knows how to mine, but also reads widely about politics, economics, military, diplomacy, law, etc. and learns about some technological activities of France. Above On the way to France and back to Vietnam, Nguyen Truong To also had the opportunity to visit Rome and stop in Singapore and Hong Kong. In 1861, Nguyen Truong To returned to the Fatherland and had to land in Saigon, when Gia Dinh province had occupied by the French and Spanish expeditionary forces. After nearly three years of living in enemy territory, Nguyen Truong To reluctantly had to work with the French army, translating diplomatic notes exchanged between the Hue court and the French Marshal in Gia Lai. Dinh. Many times he edited the words in the diplomatic notes of both sides, avoiding words that were too aggressive, offensive to the court or harmful to the "temporary peace". Many times he sought to inform royal envoys such as Nguyen Ba Nghi, Phan Thanh Gian, and Pham Phu Thu about some of the French enemy's cunning plots. In 1863, Nguyen Truong To tried to escape from the occupied area. stationed by the French army, contacted the Hue court. From now until the end of his life, he wrote a series of hearings, theses, and memos, presenting many strategic recommendations to reform the country, creating a rising position for the nation to wisely maintain independence. More than sixty manuscripts of Nguyen Truong To have been collected, discussing many aspects: - In terms of economics, Nguyen Truong To outlined the way to make "the country rich and the people rich". He advised the court to strive to expand its profession, learn the business practices of civilized Western European countries, avoid seclusion, and invite foreign business companies to help Vietnam exploit its resources to gain more wealth. and learn their advanced techniques and ways of doing business. Only then will we be able to maintain our independence in the position of being the master of welcoming guests... (see Du Tai Te granting the word).- In terms of culture and society, Nguyen Truong To advised the court to find every way to improve culture. The country follows the direction of attaching importance to science and technology, to soon improve the people's lives. He criticized the sloppy, unsanitary state of Hue capital, dilapidated public buildings, low salaries of mandarins, etc. He raised a series of important issues such as: the provinces should be merged to reduce the number of mandarins and have conditions to increase salaries for mandarins to reduce corruption and encourage integrity; Proposing to amend the tax policy, taxing the rich more heavily than the poor, taxing luxury goods more heavily, on the other hand, we should not prohibit people from using beautiful and luxurious things, causing literature to become increasingly poor and Siamese clothes to become worse and worse; Proposing to amend the examination system, focusing on cultivating talents in many aspects, establishing practical subjects, using national sounds in official documents instead of Chinese characters, making maps of the country and provinces, and counting the population. numbers, setting up hospices, nursing homes (kindergartens), etc. (see Hearing on customs reform, Studying and fostering talents, Offering alms bowls...).- In terms of diplomacy, Nguyen Truong To clearly analyzed the political situation around the world for the court to know how to react flexibly (see The great world essay). He pointed out the conflicts between France and England and Spain and advised the court to proactively expand relations with many countries, especially England, to tame France's ambition and ability to invade. When France had a major change in 1870 - 1871, King Napoleon III lost his throne and the French republican regime was restored, Nguyen Truong To made a series of recommendations, instructing the court to promote direct diplomacy with the French Government. skillfully coped with and stopped the commanders of the French expeditionary force at the Saigon Palace, seeking to reclaim the six provinces that had been captured (see Luc Loi Tu and reports from late 1866 to February 1871). - In terms of military, although Nguyen Truong To was a "pacifist", he did not have the ideology of "shipping" or unprincipled peace. In 1867, he advised the court to "make every effort to improve military equipment" to prevent the French army from spreading from Cochinchina to the whole country. He was the first person to propose a systematic military policy such as: valuing martial arts, valuing soldiers, giving preferential treatment to officers, compiling military theory, training commanding officers, and creating a nation in terms of military equipment, preparing combat conditions in the city, finding ways to use people in enemy-occupied areas, etc. In addition to the testimony and theses, which created a great and invaluable intellectual work, Nguyen Truong To also left behind a number of excellent practical activities such as: In 1862 - 1863, he designed and built the chapel of the nun's order in Saigon. In 1864 - 1866, he designed and built four houses in Xa Doai diocese. These works of his belong to the first European-style architectural works in Vietnam in the mid-19th century. Also in the mid-60s of the 19th century, while working in his hometown, he helped the Governor of Nghe An Hoang Ta Viem dug the Iron Canal, an ancient project in Cao Bien that Ho Quy Ly planned to do but couldn't. In addition, he also mobilized people in Xuan My, his wife's hometown, to move the village together from the mountains and forests full of mud to an open, convenient place for farming. Nguyen Truong To's brilliant intelligence has far surpassing the era of the mid-19th century in Vietnam. Although King Tu Duc at one time summoned him "to the capital to ask about important matters" and sent him to France to hire workers, buy books, machines, and intend to import technology (in 1866 - 1867), in general, the court The Nguyen family as well as the Confucian scholars and writers at that time did not understand his line of thought, so they did not attach due importance to his innovative proposals. Nguyen Truong To's brilliant intelligence was forgotten like a beam of light shining into a thick fog. He died silently in Bui Chu village on October 10, the 24th year of Tu Duc, November 23, 1871. Table of contents Nguyen Truong To Nguyen Truong To many authorsWelcome to read books from the book project for mobile devicesSource: author: Nguyen Kim Vy. Final words: Thank you for reading the entire story. Source: editor: Nguyen Kim Vy. Source: friend: Thai Nhi posted on: September 24, 2004
nhiều tác giả Nguyễn Tất Nhiên Đôi dòng tiểu sử Ông tên thật là Nguyễn Hoàng Hải, sinh ngày 30-5-1952 tại xã Bình Trước, quận Đức Tu, tỉnh Biên Hòa. Sau 5-1975 sống tại Hoa Kỳ. Mất ngày 3-8-1992 tại California. Lúc còn trẻ ông còn có biệt danh là Hải Khùng. Theo lời nhà thơ Thái Thụy Vy (người cùng quê với ông) "hồi chưa nổi tiếng, trời nắng chang chang mà anh ưa mặc cái manteau mua ở khu Dân sinh, mồ hôi nhễ nhại, ưa đạp xe đạp đi cua cô em Bắc Kỳ nho nhỏ tên Duyên; anh nhỏ hơn tôi đúng một con giáp, tuổi Thìn; anh thường làm thơ in ronéo đi phát không cho nữ sinh, họ đều quăng vào thùng rác, đến lúc Vĩnh Phúc và Nguyễn Xuân Hoàng dạy trường Ngô Quyền gửi đăng ở tạp chí Sáng Tạo của Mai Thảo, được Phạm Duy và Nguyễn Đức Quang phổ các bản "Thà như giọt mưa vỡ trên tượng đá", "Trúc đào", "Vì tôi là linh mục"," Em hiền như ma soeur", "Kià cô em Bắc kỳ nho nhỏ","Hai năm tình lận đận" thì nữ sinh ùn ùn kiếm mua thơ anh; Nguyễn Tất Nhiên sau lấy Minh Thủy, xóm Cây Me, chú út tôi là Kiến trúc sư Đỗ Hữu Nam lấy chị thứ ba là Minh Vân ....... Lúc Nguyễn Tất Nhiên quyên sinh trước cửa chùa Việt Nam, California, anh chưa được trông thấy tác phẩm "Minh Khúc" của anh ra đời. Quyễn thơ nầy đang bị tranh chấp giữa Minh Thủy và gia đình Nguyễn Ngọc (cha của Nguyễn Tất Nhiên) chưa ngã ngũ"Tác phẩm đã in: nàng thơ trong mắt (1966, cùng với Đinh Thiên Phương)dấu mưa qua đất (1968, cùng với bút đoàn Tiếng Tâm Tình)thiên Tai (Thơ, 1970)thơ Nguyễn Tất Nhiên (Thơ góp nhặt từ 1969-1980, nhà xuất bản Nam Á - Paris in lần đầu tiên)những năm tình lận đận ( tập nhạc 1977-1984, nhà xuất bản Tiếng Hoài Nam) chuông mơ (Thơ từ năm 1972-1987, nhà xuất bản Văn Nghệ - California) Mục lục Nguyễn Tất Nhiên Nguyễn Tất Nhiên nhiều tác giảChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: Thư Viện Việt NamĐược bạn: đưa lên vào ngày: 5 tháng 10 năm 2004
many authors Nguyen Tat Nhien A few lines of biography His real name is Nguyen Hoang Hai, born on May 30, 1952 in Binh Truoc commune, Duc Tu district, Bien Hoa province. After May 1975, he lived in the United States. Died on August 3, 1992 in California. When he was young, he also had the nickname Hai Khuong. According to poet Thai Thuy Vy (who lives in the same hometown as him), "when he was not famous, the sun was so hot that he liked to wear a manteau he bought in the People's Area, sweat profusely, and like to ride his bike to go with the Bac girl." Little Ky's name is Duyen; he's one zodiac sign younger than me, born in the year of the Dragon; he often writes poems in print and gives them away to the girls, but they all throw them in the trash, when Vinh Phuc and Nguyen Xuan Hoang teach at Ngo Quyen school. Submitted for publication in Mai Thao's Creative magazine, published by Pham Duy and Nguyen Duc Quang in the versions "It's better than a raindrop breaking on a stone statue", "Truc Tre", "Because I am a priest", "You are as gentle as a ghost". sister", "For a little Northern girl", "Two years of difficult love", female students flocked to buy his poems; Nguyen Tat Nhien later married Minh Thuy, Cay Me village, my youngest uncle is Architect Do Huu Nam married his third sister, Minh Van ....... When Nguyen Tat Nhien committed suicide in front of the Vietnamese temple, California, he had not yet seen his poem "Minh Khuc" being born Disputed between Minh Thuy and Nguyen Ngoc's family (Nguyen Tat Nhien's father) has not yet settled"Printed works: muse in the eyes (1966, with Dinh Thien Phuong) rain trail through the land (1968, with pen Voice of the Heart group)natural disasters (Poems, 1970)Nguyen Tat Nhien's poems (Poems collected from 1969-1980, published for the first time by Nam A - Paris publishing house)years of troubled love (music collection 1977-1984, publisher published in Hoai Nam) dream bell (Poetry from 1972-1987, Van Nghe Publishing House - California) Table of contents Nguyen Tat Nhien Nguyen Tat Nhien many authorsWelcome to read books from the book project for mobile devicesSource: author: Nguyen Kim Vy. Final words: Thank you for reading the entire story. Source: editor: Nguyen Kim Vy. Source: Vietnam Library Uploaded by friend: October 5, 2004
nhiều tác giả Nguyễn Văn Tố Cụ Nguyễn Văn Tố (1889-1947), hiệu là Ứng Hòe, là trí thức yêu nước, Trưởng ban thường trực Quốc hội, Bộ trưởng Bộ Cứu tế xã hội đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, đã hy sinh tại Bắc Kạn năm 1947. Gần 60 năm sau, công đức của cụ ngày càng được lớp người sau tìm hiểu tri ân, công cuộc tìm kiếm hài cốt cụ được Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Văn An cùng nhiều trí thức, nhà hoạt động xã hội tiếp tục khơi mở trở lại dù gặp rất nhiều khó khăn. Cụ Nguyễn Văn Tố sinh 5-6-1889 trong một gia đình nho giáo, gốc người Hà Nội ở 32 phố Bát Sứ (quận Hoàn Kiếm). Tốt nghiệp trường thông ngôn, cụ đến làm thư ký tòa soạn bộ kỷ yếu (D.P.B.C.H.V). Từ nhân viên phụ tá, sau cụ lên chức chủ sự Học viện Viễn Đông Bác Cổ, một cơ quan nghiên cứu lịch sử, văn hóa của người Pháp ở 26 phố Lý Thường Kiệt. Ngoài thời gian làm việc ở công sở, cụ thường viết bài in trên các báo chí tiếng Việt như tạp chí Tri Tân, Đông Thanh, Thanh Nghị… và các báo tiếng Pháp về nhiều lĩnh vực như lịch sử, văn học, ngôn ngữ, khảo cổ, nghệ thuật… Cụ đã soạn thảo được hai bộ sử học đồ sộ “Đại Nam dật sử”, “Sử ta so với sử Tàu” rất công phu, nghiên cứu, đối chiếu nhiều nguồn thư tịch tranh luận kịch liệt với các nhà sử học Pháp ở Đông Dương để làm sáng tỏ chân lý một cách khoa học. Rất tiếc bộ “Sử ta so với sử Tàu” cụ mới soạn đến cuối đời nhà Lý, sau đó ít lâu thì cụ bị hy sinh nên còn dang dở.Cụ không những uyên thâm Hán học mà tinh thông cả Tây học. Ngay cả với ông Nguyễn Thiện Lâu, giáo sư trường Khải Định (Huế) có 5 bằng cử nhân KHXH, khi nhờ cụ xem bản thảo, cụ cũng gạch đỏ, ghi rõ lỗi thuộc loại nào khiến ông Lâu cũng phải tâm phục, khẩu phục. Người Pháp cũng rất kính nể ông. Bơ-gia-xi-ê (Bezacier), chuyên viên khảo cổ học người Pháp cũng phải nhờ cụ Tố sửa chữa bài. Ông Xơ-đét (Coedès), Giám đốc Viện, khi đưa bài cho cụ, nói hẳn với cụ rằng “có sai cứ sửa… Nếu sau này có ai chỉ trích một điểm gì là lỗi tại ông đấy”.Cụ Nguyễn Văn Tố đã cùng lớp trí thức đầu thế kỷ như các ông Trương Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của, Nguyễn Văn Vĩnh, Phan Kế Bính, Lương Văn Can, Nguyễn Quyền, Vũ Đình Hòe… phát động công cuộc Cách mạng chữ quốc ngữ. Lúc đó trình độ dân trí bởi vậy rất thấp. Tập kỷ yếu của Nha học chính Đông Pháp năm 1938 đã viết: “95% dân chúng Việt Nam không biết một thứ chữ gì”.Đầu năm 1938, theo đề nghị của đồng chí Trường Chinh, Xứ ủy Bắc kỳ quyết định vận động một tổ chức công khai chống nạn mù chữ (Những sự kiện lịch sử Đảng, tập 1) và giao cho đồng chí Trần Huy Liệu, chủ bút báo Tin tức, Đặng Thai Mai, Võ Nguyên Giáp, giáo sư trường tư thục Thăng Long tập hợp một số trí thức tiêu biểu có uy tín như Bùi Kỷ, Hoàng Xuân Hãn, Quản Xuân Nam, Lê Thước… họp tại nhà ông Phan Thanh bàn bạc thành lập một tổ chức lấy tên là Hội truyền bá học quốc ngữ (TBQN) và nhất trí cử cụ Nguyễn Văn Tố làm Hội trưởng, đặt trụ sở tại Hội quán Trí Tri ở phố Hàng Quạt (phố Hàng Đàn cũ) số nhà 59, nay là 47.Sau 6 ngày độc lập (2-9), tức ngày 8-9-1945, Chính phủ ra sắc lệnh thành lập Nha bình dân học vụ để tiêu diệt giặc dốt. “Trong toàn cõi Việt Nam sẽ thiết lập cho nông dân và thợ thuyền những lớp học bình dân buổi tối” (sắc lệnh số 19).Tuy nhiên, sự nghiệp của học giả Nguyễn Văn Tố không chỉ là vậy. Tinh thần yêu nước của nhà chí sĩ này còn tỏa sáng trong sự nghiệp chính trị. Cách mạng Tháng Tám mới thành công, bộn bề khó khăn, thù trong, giặc ngoài, Chủ tịch Hồ Chí Minh và cụ Nguyễn Văn Tố mới có dịp gặp nhau. Mến vì đức, trọng vì tài, Bác Hồ mời cụ Tố ra giúp nước. Cụ Tố nhậm chức Bộ trưởng Cứu tế - xã hội (nay là Bộ LĐ-TB-XH) trong Chính phủ Hồ Chí Minh. Sau Tổng tuyển cử Quốc hội đầu tiên, cụ trúng cử đại biểu Quốc hội với tư cách là đại biểu tỉnh Nam Định. Ngày 2-3-1946, trong kỳ họp thứ nhất Quốc hội khóa I, toàn thể đại biểu nhất trí bầu cụ làm Trưởng ban thường trực Quốc hội (tức Chủ tịch Quốc hội) và cho đến 8-11-1946, cụ Bùi Bằng Đoàn thay thế. Ngày 3-11-1946, cụ lại giữ chức Bộ trưởng không bộ trong Chính phủ.Ngày 7-10-1947, giặc Pháp cho quân nhảy dù xuống Bắc Kạn âm mưu tiêu diệt đầu não kháng chiến, cụ bị chúng bắt và giết. “… Thấy cụ là người chững chạc, nói tiếng Pháp yêu cầu chấm dứt chiến tranh xâm lược. Lúc biết đó không phải là Chủ tịch Hồ Chí Minh, chúng đã bắn chết khi ông già tìm cách chạy thoát. Đó là cụ Trưởng ban thường trực Quốc hội, nhân sĩ yêu nước tâm huyết và có uy tín. Cụ Tố hy sinh là một tổn thất lớn cho ta” (Hồi ký “Chiến đấu trong vòng vây” Võ Nguyên Giáp).Qua năm 1948, sau khi đánh tan âm mưu tấn công của thực dân Pháp, Nhà nước ta tổ chức lễ truy điệu cụ Tố. Trong bài truy điệu, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dành những lời trân trọng, thống thiết, sâu sắc để tưởng nhớ cụ:“… Nhớ cụ xưaVăn chương thuần túy học vấn cao sâuThái độ hiền từ, tính tình thanh khiếtMở mang văn hóa, cụ dốc một lòngPhú quý, công danh cụ nào có thiếtCụ dù hy sinh, tinh thần cụ ngàn thu sẽ vẻ vang bất diệtChính phủ khôn xiết buồn rầu, đồng bào khôn xiết nỗi lòng thương tiếc”.Đó là tấm lòng của Bác Hồ đối với nhà yêu nước - liệt sĩ Bộ trưởng Bộ Cứu tế - xã hội đầu tiên của đất nước (nay là Bộ LĐ-TB-XH).57 năm đã trôi qua, việc tìm kiếm phần mộ cụ của Bộ LĐ-TB-XH hầu như rơi vào im lặng. Nhưng tấm lòng người dân hình như lúc nào cũng tưởng nhớ công lao đóng góp cho đất nước, cho dân tộc của nhà học giả, nhà trí thức yêu nước Nguyễn Văn Tố. Câu lạc bộ UNESCO “chiến sĩ diệt dốt” Nguyễn Văn Tố đã nêu sáng kiến “mỗi người một giọt đồng” vào việc đúc tượng cụ. Bức tượng đồng của cụ đã được đặt trang trọng tại Trung tâm giáo dục thường xuyên Nguyễn Văn Tố, cũng là trụ sở ngày trước của Hội TBQN (47 Hàng Quạt) và ngày 26-6-2001 được Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Văn An rước về đặt tại phòng bảo tàng của Quốc hội. Đó là việc làm rất đáng trân trọng.Ngày 27-5-2004, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Văn An đã bày tỏ sự tán thành việc tìm mộ cụ, Quốc hội sẽ sẵn lòng hỗ trợ một số điều kiện cần thiết.Việc tìm kiếm phần mộ cụ quả thật muôn vàn khó khăn, phỏng đoán nhiều, tư liệu chính xác không có. Nhưng vì lòng ngưỡng mộ cụ khôn nguôi, nay lại có Quốc hội làm hậu thuẫn và Bộ LĐ-TB-XH chắc sẽ vào cuộc tìm kiếm phần mộ của vị Bộ trưởng liệt sĩ đầu tiên của ngành mình lại có sự phối hợp giữa Hội lịch sử Việt Nam, các cụ trong CLB và của các tầng lớp nhân dân, đặc biệt của lãnh đạo tỉnh Bắc Kạn, chắc chắn việc tìm kiếm phần mộ của cụ Tố sẽ được thuận lợi hơn nhiều và đạt kết quả tốt đẹp trước dịp kỷ niệm 60 năm ngày cụ đã hy sinh như một người Anh hùng (7-10-1947 - 7-10-2007).NGUYỄN THÌN XUÂN Mục lục Nguyễn Văn Tố Nguyễn Văn Tố nhiều tác giảChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: bạn: Thái Nhi đưa lên vào ngày: 19 tháng 9 năm 2004
nhiều tác giả Nguyễn Văn Tố Cụ Nguyễn Văn Tố (1889-1947), hiệu là Ứng Hòe, là trí thức yêu nước, Trưởng ban thường trực Quốc hội, Bộ trưởng Bộ Cứu tế xã hội đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, đã hy sinh tại Bắc Kạn năm 1947. Gần 60 năm sau, công đức của cụ ngày càng được lớp người sau tìm hiểu tri ân, công cuộc tìm kiếm hài cốt cụ được Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Văn An cùng nhiều trí thức, nhà hoạt động xã hội tiếp tục khơi mở trở lại dù gặp rất nhiều khó khăn. Cụ Nguyễn Văn Tố sinh 5-6-1889 trong một gia đình nho giáo, gốc người Hà Nội ở 32 phố Bát Sứ (quận Hoàn Kiếm). Tốt nghiệp trường thông ngôn, cụ đến làm thư ký tòa soạn bộ kỷ yếu (D.P.B.C.H.V). Từ nhân viên phụ tá, sau cụ lên chức chủ sự Học viện Viễn Đông Bác Cổ, một cơ quan nghiên cứu lịch sử, văn hóa của người Pháp ở 26 phố Lý Thường Kiệt. Ngoài thời gian làm việc ở công sở, cụ thường viết bài in trên các báo chí tiếng Việt như tạp chí Tri Tân, Đông Thanh, Thanh Nghị… và các báo tiếng Pháp về nhiều lĩnh vực như lịch sử, văn học, ngôn ngữ, khảo cổ, nghệ thuật… Cụ đã soạn thảo được hai bộ sử học đồ sộ “Đại Nam dật sử”, “Sử ta so với sử Tàu” rất công phu, nghiên cứu, đối chiếu nhiều nguồn thư tịch tranh luận kịch liệt với các nhà sử học Pháp ở Đông Dương để làm sáng tỏ chân lý một cách khoa học. Rất tiếc bộ “Sử ta so với sử Tàu” cụ mới soạn đến cuối đời nhà Lý, sau đó ít lâu thì cụ bị hy sinh nên còn dang dở.Cụ không những uyên thâm Hán học mà tinh thông cả Tây học. Ngay cả với ông Nguyễn Thiện Lâu, giáo sư trường Khải Định (Huế) có 5 bằng cử nhân KHXH, khi nhờ cụ xem bản thảo, cụ cũng gạch đỏ, ghi rõ lỗi thuộc loại nào khiến ông Lâu cũng phải tâm phục, khẩu phục. Người Pháp cũng rất kính nể ông. Bơ-gia-xi-ê (Bezacier), chuyên viên khảo cổ học người Pháp cũng phải nhờ cụ Tố sửa chữa bài. Ông Xơ-đét (Coedès), Giám đốc Viện, khi đưa bài cho cụ, nói hẳn với cụ rằng “có sai cứ sửa… Nếu sau này có ai chỉ trích một điểm gì là lỗi tại ông đấy”.Cụ Nguyễn Văn Tố đã cùng lớp trí thức đầu thế kỷ như các ông Trương Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của, Nguyễn Văn Vĩnh, Phan Kế Bính, Lương Văn Can, Nguyễn Quyền, Vũ Đình Hòe… phát động công cuộc Cách mạng chữ quốc ngữ. Lúc đó trình độ dân trí bởi vậy rất thấp. Tập kỷ yếu của Nha học chính Đông Pháp năm 1938 đã viết: “95% dân chúng Việt Nam không biết một thứ chữ gì”.Đầu năm 1938, theo đề nghị của đồng chí Trường Chinh, Xứ ủy Bắc kỳ quyết định vận động một tổ chức công khai chống nạn mù chữ (Những sự kiện lịch sử Đảng, tập 1) và giao cho đồng chí Trần Huy Liệu, chủ bút báo Tin tức, Đặng Thai Mai, Võ Nguyên Giáp, giáo sư trường tư thục Thăng Long tập hợp một số trí thức tiêu biểu có uy tín như Bùi Kỷ, Hoàng Xuân Hãn, Quản Xuân Nam, Lê Thước… họp tại nhà ông Phan Thanh bàn bạc thành lập một tổ chức lấy tên là Hội truyền bá học quốc ngữ (TBQN) và nhất trí cử cụ Nguyễn Văn Tố làm Hội trưởng, đặt trụ sở tại Hội quán Trí Tri ở phố Hàng Quạt (phố Hàng Đàn cũ) số nhà 59, nay là 47.Sau 6 ngày độc lập (2-9), tức ngày 8-9-1945, Chính phủ ra sắc lệnh thành lập Nha bình dân học vụ để tiêu diệt giặc dốt. “Trong toàn cõi Việt Nam sẽ thiết lập cho nông dân và thợ thuyền những lớp học bình dân buổi tối” (sắc lệnh số 19).Tuy nhiên, sự nghiệp của học giả Nguyễn Văn Tố không chỉ là vậy. Tinh thần yêu nước của nhà chí sĩ này còn tỏa sáng trong sự nghiệp chính trị. Cách mạng Tháng Tám mới thành công, bộn bề khó khăn, thù trong, giặc ngoài, Chủ tịch Hồ Chí Minh và cụ Nguyễn Văn Tố mới có dịp gặp nhau. Mến vì đức, trọng vì tài, Bác Hồ mời cụ Tố ra giúp nước. Cụ Tố nhậm chức Bộ trưởng Cứu tế - xã hội (nay là Bộ LĐ-TB-XH) trong Chính phủ Hồ Chí Minh. Sau Tổng tuyển cử Quốc hội đầu tiên, cụ trúng cử đại biểu Quốc hội với tư cách là đại biểu tỉnh Nam Định. Ngày 2-3-1946, trong kỳ họp thứ nhất Quốc hội khóa I, toàn thể đại biểu nhất trí bầu cụ làm Trưởng ban thường trực Quốc hội (tức Chủ tịch Quốc hội) và cho đến 8-11-1946, cụ Bùi Bằng Đoàn thay thế. Ngày 3-11-1946, cụ lại giữ chức Bộ trưởng không bộ trong Chính phủ.Ngày 7-10-1947, giặc Pháp cho quân nhảy dù xuống Bắc Kạn âm mưu tiêu diệt đầu não kháng chiến, cụ bị chúng bắt và giết. “… Thấy cụ là người chững chạc, nói tiếng Pháp yêu cầu chấm dứt chiến tranh xâm lược. Lúc biết đó không phải là Chủ tịch Hồ Chí Minh, chúng đã bắn chết khi ông già tìm cách chạy thoát. Đó là cụ Trưởng ban thường trực Quốc hội, nhân sĩ yêu nước tâm huyết và có uy tín. Cụ Tố hy sinh là một tổn thất lớn cho ta” (Hồi ký “Chiến đấu trong vòng vây” Võ Nguyên Giáp).Qua năm 1948, sau khi đánh tan âm mưu tấn công của thực dân Pháp, Nhà nước ta tổ chức lễ truy điệu cụ Tố. Trong bài truy điệu, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dành những lời trân trọng, thống thiết, sâu sắc để tưởng nhớ cụ:“… Nhớ cụ xưaVăn chương thuần túy học vấn cao sâuThái độ hiền từ, tính tình thanh khiếtMở mang văn hóa, cụ dốc một lòngPhú quý, công danh cụ nào có thiếtCụ dù hy sinh, tinh thần cụ ngàn thu sẽ vẻ vang bất diệtChính phủ khôn xiết buồn rầu, đồng bào khôn xiết nỗi lòng thương tiếc”.Đó là tấm lòng của Bác Hồ đối với nhà yêu nước - liệt sĩ Bộ trưởng Bộ Cứu tế - xã hội đầu tiên của đất nước (nay là Bộ LĐ-TB-XH).57 năm đã trôi qua, việc tìm kiếm phần mộ cụ của Bộ LĐ-TB-XH hầu như rơi vào im lặng. Nhưng tấm lòng người dân hình như lúc nào cũng tưởng nhớ công lao đóng góp cho đất nước, cho dân tộc của nhà học giả, nhà trí thức yêu nước Nguyễn Văn Tố. Câu lạc bộ UNESCO “chiến sĩ diệt dốt” Nguyễn Văn Tố đã nêu sáng kiến “mỗi người một giọt đồng” vào việc đúc tượng cụ. Bức tượng đồng của cụ đã được đặt trang trọng tại Trung tâm giáo dục thường xuyên Nguyễn Văn Tố, cũng là trụ sở ngày trước của Hội TBQN (47 Hàng Quạt) và ngày 26-6-2001 được Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Văn An rước về đặt tại phòng bảo tàng của Quốc hội. Đó là việc làm rất đáng trân trọng.Ngày 27-5-2004, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Văn An đã bày tỏ sự tán thành việc tìm mộ cụ, Quốc hội sẽ sẵn lòng hỗ trợ một số điều kiện cần thiết.Việc tìm kiếm phần mộ cụ quả thật muôn vàn khó khăn, phỏng đoán nhiều, tư liệu chính xác không có. Nhưng vì lòng ngưỡng mộ cụ khôn nguôi, nay lại có Quốc hội làm hậu thuẫn và Bộ LĐ-TB-XH chắc sẽ vào cuộc tìm kiếm phần mộ của vị Bộ trưởng liệt sĩ đầu tiên của ngành mình lại có sự phối hợp giữa Hội lịch sử Việt Nam, các cụ trong CLB và của các tầng lớp nhân dân, đặc biệt của lãnh đạo tỉnh Bắc Kạn, chắc chắn việc tìm kiếm phần mộ của cụ Tố sẽ được thuận lợi hơn nhiều và đạt kết quả tốt đẹp trước dịp kỷ niệm 60 năm ngày cụ đã hy sinh như một người Anh hùng (7-10-1947 - 7-10-2007).NGUYỄN THÌN XUÂN Mục lục Nguyễn Văn Tố Nguyễn Văn Tố nhiều tác giảChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: bạn: Thái Nhi đưa lên vào ngày: 19 tháng 9 năm 2004
nhiều tác giả Nguyễn Xí Ngày xưa, có người Nguyễn Xí ở làng Sái Xá, huyện Chân Phúc, tỉnh Thanh Hóa. Thân phụ Nguyễn Xí gặp buổi cuối đời nhà Trần, trong nước loạn lạc, không muốn ra làm quan, tu ở chùa làng, gọi là Hòa Nam thiền sư. Mỗi đêm đến gà gáy thì thức dậy đánh chuông tụng kinh.Có hàng thịt lợn ở cạnh chùa, hễ cứ nghe tiếng chuông thì thức dậy giết lợn. Một hôm, nhà hàng thịt mua nhằm phải con lợn cái chửa, định để sáng mai làm thịt bán. Đêm hôm ấy, nhà sư nằm mơ thấy một người đàn bà đến kêu khóc rằng: "Xin ông đêm nay đừng đánh chuông vội, cứu lấy tám chín mẹ con tôi". Nhà sư ngạc nhiên không biết sự gì, nhưng cũng nghe lời không đánh chuông. Nhà hàng thịt vì thế dậy trưa, thì con lợn cái đã đẻ ra tám con. Nhà sư thấy vậy lấy làm kỳ, mới mua cả đàn lợn ấy thả vào trong núi.Được vài tháng, nhà sư bị hổ bắt mất, cắn chết bỏ dưới sườn núi. Sáng mai người nhà đi tìm, thấy mối đùn đất lấp lên thành mồ rồi. Có người biết địa lý, xem hình thế chỗ ấy cho là mả hổ táng.Con nhà sư ấy là Nguyễn Xí bấy giờ đã mười bảy tuổi, vốn có sức khỏe hơn người, học nghề võ đã giỏi, nhưng vì nhà nghèo khó, phải ra tỉnh Thanh Hóa bán dầu kiếm ăn.Một hôm đi qua huyện Lam Sơn, trời đã tối, chung quanh không có nhà cửa nào, chỉ có một ngọn miếu thờ thần, mới vào nghỉ trong miếu ấy. Canh ba văng vẳng tiếng xe ngựa rầm rầm, và nghe có tiếng ông thần nói rằng: "Hôm nay trên Thiên đình hội các bách thần, định lập thiên tử nước Nam, việc ấy quan hệ to mời ngài đi với tôi nhân thể". Thần núi đáp: "Tôi bận có quý khách dưới trần trọ đây không sao đi được, ông có nghe được điều gì xin về nói cho biết". Cuối canh tư, lại nghe có tiếng nói: "Thiên Đình đã định xong ngôi Hoàng Đế nước Nam rồi, tức là người ở Lam Sơn, huyện Thụy Nguyên, họ Lê tên Lợi. Thượng đế cho đến giờ thân, ngày thân, tháng thân, thì khởi binh, mười năm mới yên thiên hạ". Nguyễn Xí nghe rõ ràng câu ấy, gà gáy thức dậy tìm đến làng Lam Sơn, hỏi vào nhà Lê Lợi, kẻ rõ lại chuyện đã nghe.Lê Lợi bấy giờ đã có đông thủ hạ, sắp sửa muốn ra dẹp giặc, nghe nói thế bèn khởi binh ngay tháng bảy năm ấy. Nguyễn Xí theo Lê Lợi đánh nhau với quân nhà Minh, trong mười nam trời lập nên rất nhiều công trạng. Đến khi thiên hạ bình định, Lê Thái Tổ cho Nguyễn Xí là sáng nghiệp đệ nhất công thần, và phong làm Nguyễn Quốc công, cho đổi quốc tính làm họ Lê.Nguyễn Xí làm quan trải ba triều: Thái Tổ, Thái Tôn, Nhân Tôn, khi có giặc giã thì đi dẹp, khi thường thì lại vào túc vệ trong cung cấm. Khi vua Nhân Tôn bị Nghi Dân (con vua Thái Tôn bị phế không được lập) cướp ngôi, Nguyễn Xí đem binh dẹp loạn, giết được bọn đồ đảng của Nghi Dân rồi đón Bình Xuyên Vương lập lên, tức là vua Lê Thánh Tôn. Nguyễn Xí vì có công ấy lại được làm chức Thái Úy Vương Quốc công.Bấy giờ Nguyễn Xí có mười hai người con, cũng được phong tước làm quan tại triều, quyền thế lớn nhất thời ấy. Vua thấy thanh thế Nguyễn Xí lừng lẫy quá, sai đào con sông Cấm Giang ở Sai Xá để triệt long mạch làng ấy, thần long chảy ra huyết ba ngày. Mục lục Nguyễn Xí Nguyễn Xí nhiều tác giảChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: Được bạn: Hùng đưa lên vào ngày: 27 tháng 12 năm 2003
many authors Nguyen Xi In the past, there were Nguyen Xi people in Sai Xa village, Chan Phuc district, Thanh Hoa province. Nguyen Xi's father met at the end of the Tran Dynasty, the country was in chaos, did not want to become an official, and became a monk in the village temple, called Hoa Nam Zen Master. Every night when the rooster crows, you wake up and ring the bell to chant prayers. There is a pork shop next to the temple. Whenever you hear the bell, you wake up and kill pigs. One day, the meat restaurant bought a pregnant female pig, intending to slaughter it for sale the next morning. That night, the monk dreamed of a woman crying, "Please don't ring the bell too quickly tonight, save my eight or nine children." The monk was surprised and did not know what happened, but he obeyed and did not ring the bell. So when the butcher restaurant woke up at noon, the female pig had given birth to eight cubs. Seeing this, the monk was surprised so he bought a whole herd of pigs and released them into the mountain. After a few months, the monk was captured by a tiger, bitten to death and left under the mountainside. The next morning, the family went to look for him and saw that termites had covered the grave with soil. Some people know geography and, looking at pictures, think that the place is a tiger's tomb. That monk's son, Nguyen Xi, was seventeen years old at that time, had better health than others, and was good at learning martial arts, but because his family was poor, had to go to Thanh Hoa province to sell oil to make a living. One day, passing through Lam Son district, it was dark, there were no houses around, only a temple worshiping the gods, so I went to rest in that temple. In the third watch, there was the rumbling sound of carriages, and I heard a god's voice say: "Today in Heaven, a gathering of hundreds of gods, intending to establish the Emperor of the Southern Kingdom, that is important, please come with me." . The mountain god replied: "I'm busy with guests staying here and can't go. If you've heard anything, please tell me." At the end of the fourth watch, a voice was heard again: "Heaven has already decided on the throne of the Emperor of the South, that is, the person from Lam Son, Thuy Nguyen district, surnamed Le, name Loi. God until his death, day, month. own body, then raise an army, ten years will bring peace to the world." Nguyen Xi heard that sentence clearly, the rooster woke up and went to Lam Son village, asked into Le Loi's house, and the person who knew it told him what he had heard. Le Loi now had many subordinates, about to go out to suppress the enemy, it was said So he started his army in July of that year. Nguyen Xi followed Le Loi to fight the Ming Dynasty army, in ten years of heaven and earth, he achieved many achievements. When the world was pacified, Le Thai To considered Nguyen Xi the number one meritorious mandarin, and gave him the title Nguyen Quoc Cong, and changed his nationality to the surname Le. Nguyen Xi served as mandarin during three dynasties: Thai To, Thai Ton, Nhan Ton, when there is an enemy, he goes to suppress it. When it's normal, he goes to guard the forbidden palace. When King Nhan Ton was usurped by Nghi Dan (the son of King Thai Ton, who was deposed and not allowed to be established), Nguyen Xi brought troops to suppress the rebellion, killed Nghi Dan's followers, then welcomed Binh Xuyen Vuong to establish him, that is, King Le Thanh Ton. . Because of his merits, Nguyen Xi was given the position of Crown Prince of the Kingdom. At that time, Nguyen Xi had twelve children and was also awarded the title of mandarin at court, the greatest power at that time. The king saw that Nguyen Xi's reputation was so great, so he ordered the Cam Giang river to be dug in Sai Xa to eliminate the dragon vein in that village. The dragon's blood flowed out for three days. Table of contents Nguyen Xi Nguyen Xi many authorsWelcome to read books from the book project for mobile devicesSource: author: Nguyen Kim Vy. Final words: Thank you for reading the entire story. Source: editor: Nguyen Kim Vy. Source: Posted by friend: Hung on: December 27, 2003
nhiều tác giả Nguyễn Đình Chiểu Nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu "Trên trời có những vì sao có ánh sáng khác thường, nhưng con mắt của chúng ta phải chăm chú nhìn thì mới thấy, và càng nhìn thì càng thấy sáng. Văn thơ của Nguyễn Đình Chiểu cũng vậy". Nguyễn Đình Chiểu sinh ngày 1-7-1822 tại làng Tân Khánh, tổng Bình Trị Thượng, phủ Tân Bình, tỉnh Gia Định (nay thuộc thành phố Hồ Chí Minh). Năm 12 tuổi ông đã phải chịu nhiều khổ cực vất vả. Cha là Nguyễn Đình Huy, người tỉnh Thừa Thiên, làm thư lại ở Gia Định, bị cách chức. Nguyễn Đình Chiểu chạy ra Huế, học nhờ một người bạn cũ của cha. Khoảng năm 1840, Nguyễn Đình Chiểu trở về nam và sau đó thi đỗ tú tài. Năm 1846, ông ra Huế chờ khoa thi Hội. Nhưng sắp đến kỳ thi thì được tin mẹ mất, ông phải bỏ thi về chịu tang. Trên đường về bị ốm nặng, mù cả hai mắt.Mẹ mất, mắt bị mù, vợ chưa cưới bội ước, bao nhiêu đau khổ dồn dập nhưng Nguyễn Đình Chiểu vẫn không nản. Ông mở trường dạy học. Học trò theo học rất đông và từ đó người ta thường gọi ông là ông Đồ Chiểu. Trong khoảng thời gian này ông viết truyện Lục Vân Tiên. "Phải hiểu đúng Lục Vân Tiên thì mới thấy hết giá trị của bản trường ca này. Đúng, đây là một bản trường ca ca ngợi chính nghĩa, những đạo đức đáng quý trọng ở đời, ca ngợi những người trung nghĩa... Các nhân vật của Lục Vân Tiên, Nguyệt Nga, Tiểu đồng là những người đáng kính, đáng yêu, trọng nghĩa khinh tài, trước sau một lòng, mặc dầu khổ cực, gian nguy, quyết phấn đấu vì nghĩa lớn".Chỉ mười năm sau, giặc Pháp đã giày xéo lên quê hương. Thành Gia Định bị hạ, cuộc đánh chiếm Nam Kỳ của giặc bắt đầu. Ông đồ nghèo mù lòa ấy lúc ở Cần Giuộc, khi ở Bến Tre, dạy học, làm thuốc, sáng tác, sống trong cảnh nghèo nàn thanh bạch, nêu cao khí tiết của một chiến sĩ kiên trung. Ông sáng tác truyện Dương Từ - Hà Mậu chống tà giáo. Quân Pháp lần lượt đánh chiếm Chí Hòa, Mỹ Tho, Biên Hòa, Cần Giuộc. Nguyễn Đình Chiểu làm bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc ca ngợi các nghĩa sĩ chống thực dân Pháp xâm lược. Thế nhưng do thái độ nhu nhược và đầu hàng của nhà Nguyễn, các tỉnh miền Đông và miền Tây Nam Kỳ lần lượt rơi vào tay giặc. Nghĩa quân khắp nơi vùng lên: khởi nghĩa của Trương Định ở Gò Công, Thủ Khoa Huân ở Mỹ Tho, Phan Liệm và Phan Tôn ở Bến Tre, Nguyễn Trung Trực ở Rạch Giá... Không thể trực tiếp cầm gươm giết giặc, ông góp ý kiến cho các lãnh tụ nghĩa quân dùng ngòi bút ca ngợi, những chiến sĩ đã hy sinh cho đất nước, vạch trần tội ác của bọn bán nước và cướp nước, kêu gọi mọi người không hợp tác với giặc.Mùa hè năm 1862, sau khi đến thăm Đồ Chiểu, thủ lĩnh nghĩa quân Trương Định không theo lệnh vua mà ở lại An Giang dựng cờ chống thực dân Pháp.Danh tiếng của Nguyễn Đình Chiểu từ đó ngày một vang dội. Nhân dân Bến Tre rất tin nghe ông. Thấy thế, chủ tỉnh Bến Tre là Pông-sông, một tên thực dân xảo quyệt, tìm đến để mua chuộc ông. Được báo trước nhưng Nguyễn Đình Chiểu vẫn hỏi:- Pông-sông à? Pông-sông là người hay là... ai?Tên thực dân bị đòn phủ đầu nhưng vẫn ngậm bồ hòn làm ngọt vồn vã.- Pông-sông chủ tỉnh Bến Tre, bạn của ông đó.Đồ Chiểu thẳng thắn trả lời:- Đâu phải! Ông khác, tôi khác chứ.Pông-sông lảng sang các chuyện khác. Nguyễn Đình Chiểu ậm ừ cho qua chuyện. Thấy không dụ dỗ được con người khí tiết, Pông-sông cáo từ ra về.Cuối đời, Nguyễn Đình Chiểu sáng tác Ngư tiều y thuật vấn đáp. Tác phẩm nói về y học phổ thông dưới hình thức một chuyện kể, qua đó tác giả đã phản ánh tâm sự của mình trong những ngày đau thương trên đất nước bị giặc chiếm đóng và hy vọng một ngày Tổ quốc được giải phóng.Ngày 3-7 năm 1888, Nguyễn Đình Chiểu mất. Nhân dân vô cùng đau xót, rất nhiều người để tang ông Đồ Chiểu mất đi nhưng "đời sống và sự nghiệp của Nguyễn Đình chiểu là một tấm gương sáng, nêu cao địa vị và tác dụng của văn học, nghệ thuật, nêu cao sứ mạng của người chiến sĩ trên mặt trận văn hóa và tư tưởng". nhiều tác giả Nguyễn Đình Chiểu Tác Giả - Tác Phẩm Tiểu sử Nguyễn Đình Chiểu Nguyễn Đình chiểu tự Mạnh Trạch, hiệu Trọng Phủ, sau khi mù lấy hiệu Hối Trai. Sinh ngày 13 tháng 5, năm Nhâm Ngọ, tức ngày 1st July 1822 ở làng tân Khánh, tổng Bình Trị Thượng, huyện Bình Dương, phủ Tân Bình, tình Gia Định (thuộc Sài Gòn nay). Mất ngày 24 tháng 5 năm Mậu Tý, tức ngày 3rd July 1888, ở làng An Bình Đông, huyện Bảo An phủ Hoắng Trị, tỉnh Vĩnh Long nay là làng An Đức, tổng Bảo An, quận Ba Tri, tỉnh Bến Tre. Cha là Nguyễn Đình Huy, người xã Bồ Điền, huyện Phong, tỉnh Thưà Thiên (Huế). Làm Thơ lại, văn thư Hán ty cuả Tả Quân Lê Văn Duyệt (mộ ông là: Lăng Ông Bà Chiểu). Mẹ là Trương thị Thiệt, người làng Tân Thới, tổng Long Tuy Thượng, tỉnh Gia Định (nay là Sài Gòn). Nguyễn Đình Chiểu là con đầu lòng cuả Thiệt, mà là con dòng thứ cuả Nguyễn Đình Huy. Dòng chính cuả ông và bà Phan Thị Hữu có một trai là Nguyễn Đình Lân và một gái là Nguyễn Thị Phu. Nguyễn Đình Chiểu có ba em gái và ba em trai; là Thị Thục, Thị Nữ, Thị Thành và Đình Tựu, Đình Tự, và Đình Huân. Thời tuổi trẻ Năm Quý Tỵ, 1833, Tả Quân Lê Văn Duyệt mất, Vệ Khôi dấy loạn giết Bạch Xuân Nguyên là cha bà Hoàng phi cuả vua Minh Mạng, các quan tòng chính bỏ chạy, Nguyễn Đình Huy cũng trốn về Huế, bị tuớc chức. Ông trở vào Sài Gòn đắc Đình Chiểu về Thừa Thiên, gửi gắm cho một người bạn làm Thái Phó, để hầu hạ điếu đốm cho được gần guĩ học tập văn chương. Khi ấy Đình Chiểu mưới hai tuổi. Tám năm sau, Đình Chiểu trở về quê mẹ. Qua năm Quý Mão, 1843, đời Thiệu Trị, thi hương trường Gia Định đỗ Tú Tài. Năm hai mươi bốn tuổi, Đình Chiểu ra Huế chờ khoa Ất Dậu, quyết chí thi đỗ Cử Nhân, để vào xuân vi, đính thí. Nhưng kỳ thi chưa tới, lại đuợc tin mẹ mất ngaỳ rằm tháng mười một năm Giáp Thân, 10 December 1848, Đình Chiểu phải trở về cư tang. Lòng hiếu tử, dặm quan hà, trắc dĩ vời trông, khôn ngăn huyết lụy. Nội thương đã công phạt, ngoại cảm lại xâm nhập, bệnh xưng hai mắt. Dọc đường Đình Chiểu nghe danh một ông thầy tên Trung , vốn giòng Ngự Y, đến xin tạm trú cầu điều trị. Bệnh tình quá nặng, nên vô khả nại hà. Đình Chiểu đành mù đến chết. May mắn ở đó Đình Chiểu được thầy Trung dạy học thuốc. Lục Vân TiênNăm sau cề đến nhà, xa gần sĩ tử nghe danh đến xin thọ nghiệp rất đông. Từ ấy nổi danh "Đồ Chiểu". Truyện "Lục Vân Tiên" và truyện "Dương Tử Hà Mậu" có lẻ đặt ra trong thời kỳ nầy. Trong đám học trò cuả Đồ Chiểu có Lê Tăng Quýnh, người làng Thanh Ba, huyện Phước Lộc (Cần Giuộc, tỉnh Long An), kính yêu và cảm cảnh thầy, cầu cha mẹ gả em gái là Lê Thị Điền. Tấm thân tàn ngồi dạy học ngỡ là an; hay đâu năm Mậu Ngũ, 1858, Tự Đức thứ XI, binh Pháp lại hạ thành Gia Định. Đồ Chiểu bỏ chạy về quê vợ, lại tiếp tục dạy học. Kịp đến khi Cần Giuộc bị thất thủ, 1861, Đồ Chiểu chạy đi Ba Tri. Truyện Văn Tế Nghiã Sĩ Cần Giuộc và Ngư Tiều Vấn Đáp có lẻ làm ra từ thời kỳ này. Ba Tri là nơi chân trời góc biển trong cõi đất Việt. Đồ Chiểu quyết tìm chốn cung tịch để tồn tâm dưỡng tánh. Nhưng lòng đau vì non nước đã khôn nguôi, lại tiếp lấy việc năm Đinh Mão, 1867, Phan Thanh Giản tuẫn tiết mà luôn ba tỉnh phía Tây sau ba tỉnh phiá Đông Việt Nam, thuộc trọn chủ quyền của Pháp. Ngay giữa năm ấy tại Sài Gòn, truyện Lục Vân Tiên đuợc in ra bẳng chữ Quốc Ngữ, là mẫu tự La-Tin a, b, c,...hiện nay. Bản chánh do Đồ Chiểu viết bằng chữ Nôm. Cuốn nầy được người Pháp tên G. Janneau sao lục và chú thích. Đồ Chiểu nếu có hay biết việc xuất bản ấy hẳn là chẳng chững không chú ý mà cũng không bằng lòng.!!!! Có một điều, con ông là Nguyễn Đình Chiêm, nói ông không ưa chữ Quốc Ngữ vì: "tôi vì đâu mà phải đến góc biển chân trời". Đến nổi không xài sàn phẩm cuả giặc Pháp như "xà phòng"..... Mục lục Nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu Tác Giả - Tác Phẩm Nguyễn Đình Chiểu nhiều tác giảChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: bạn: Thái Nhi đưa lên vào ngày: 24 tháng 9 năm 2004
nhiều tác giả Nguyễn Đình Chiểu Nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu "Trên trời có những vì sao có ánh sáng khác thường, nhưng con mắt của chúng ta phải chăm chú nhìn thì mới thấy, và càng nhìn thì càng thấy sáng. Văn thơ của Nguyễn Đình Chiểu cũng vậy". Nguyễn Đình Chiểu sinh ngày 1-7-1822 tại làng Tân Khánh, tổng Bình Trị Thượng, phủ Tân Bình, tỉnh Gia Định (nay thuộc thành phố Hồ Chí Minh). Năm 12 tuổi ông đã phải chịu nhiều khổ cực vất vả. Cha là Nguyễn Đình Huy, người tỉnh Thừa Thiên, làm thư lại ở Gia Định, bị cách chức. Nguyễn Đình Chiểu chạy ra Huế, học nhờ một người bạn cũ của cha. Khoảng năm 1840, Nguyễn Đình Chiểu trở về nam và sau đó thi đỗ tú tài. Năm 1846, ông ra Huế chờ khoa thi Hội. Nhưng sắp đến kỳ thi thì được tin mẹ mất, ông phải bỏ thi về chịu tang. Trên đường về bị ốm nặng, mù cả hai mắt.Mẹ mất, mắt bị mù, vợ chưa cưới bội ước, bao nhiêu đau khổ dồn dập nhưng Nguyễn Đình Chiểu vẫn không nản. Ông mở trường dạy học. Học trò theo học rất đông và từ đó người ta thường gọi ông là ông Đồ Chiểu. Trong khoảng thời gian này ông viết truyện Lục Vân Tiên. "Phải hiểu đúng Lục Vân Tiên thì mới thấy hết giá trị của bản trường ca này. Đúng, đây là một bản trường ca ca ngợi chính nghĩa, những đạo đức đáng quý trọng ở đời, ca ngợi những người trung nghĩa... Các nhân vật của Lục Vân Tiên, Nguyệt Nga, Tiểu đồng là những người đáng kính, đáng yêu, trọng nghĩa khinh tài, trước sau một lòng, mặc dầu khổ cực, gian nguy, quyết phấn đấu vì nghĩa lớn".Chỉ mười năm sau, giặc Pháp đã giày xéo lên quê hương. Thành Gia Định bị hạ, cuộc đánh chiếm Nam Kỳ của giặc bắt đầu. Ông đồ nghèo mù lòa ấy lúc ở Cần Giuộc, khi ở Bến Tre, dạy học, làm thuốc, sáng tác, sống trong cảnh nghèo nàn thanh bạch, nêu cao khí tiết của một chiến sĩ kiên trung. Ông sáng tác truyện Dương Từ - Hà Mậu chống tà giáo. Quân Pháp lần lượt đánh chiếm Chí Hòa, Mỹ Tho, Biên Hòa, Cần Giuộc. Nguyễn Đình Chiểu làm bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc ca ngợi các nghĩa sĩ chống thực dân Pháp xâm lược. Thế nhưng do thái độ nhu nhược và đầu hàng của nhà Nguyễn, các tỉnh miền Đông và miền Tây Nam Kỳ lần lượt rơi vào tay giặc. Nghĩa quân khắp nơi vùng lên: khởi nghĩa của Trương Định ở Gò Công, Thủ Khoa Huân ở Mỹ Tho, Phan Liệm và Phan Tôn ở Bến Tre, Nguyễn Trung Trực ở Rạch Giá... Không thể trực tiếp cầm gươm giết giặc, ông góp ý kiến cho các lãnh tụ nghĩa quân dùng ngòi bút ca ngợi, những chiến sĩ đã hy sinh cho đất nước, vạch trần tội ác của bọn bán nước và cướp nước, kêu gọi mọi người không hợp tác với giặc.Mùa hè năm 1862, sau khi đến thăm Đồ Chiểu, thủ lĩnh nghĩa quân Trương Định không theo lệnh vua mà ở lại An Giang dựng cờ chống thực dân Pháp.Danh tiếng của Nguyễn Đình Chiểu từ đó ngày một vang dội. Nhân dân Bến Tre rất tin nghe ông. Thấy thế, chủ tỉnh Bến Tre là Pông-sông, một tên thực dân xảo quyệt, tìm đến để mua chuộc ông. Được báo trước nhưng Nguyễn Đình Chiểu vẫn hỏi:- Pông-sông à? Pông-sông là người hay là... ai?Tên thực dân bị đòn phủ đầu nhưng vẫn ngậm bồ hòn làm ngọt vồn vã.- Pông-sông chủ tỉnh Bến Tre, bạn của ông đó.Đồ Chiểu thẳng thắn trả lời:- Đâu phải! Ông khác, tôi khác chứ.Pông-sông lảng sang các chuyện khác. Nguyễn Đình Chiểu ậm ừ cho qua chuyện. Thấy không dụ dỗ được con người khí tiết, Pông-sông cáo từ ra về.Cuối đời, Nguyễn Đình Chiểu sáng tác Ngư tiều y thuật vấn đáp. Tác phẩm nói về y học phổ thông dưới hình thức một chuyện kể, qua đó tác giả đã phản ánh tâm sự của mình trong những ngày đau thương trên đất nước bị giặc chiếm đóng và hy vọng một ngày Tổ quốc được giải phóng.Ngày 3-7 năm 1888, Nguyễn Đình Chiểu mất. Nhân dân vô cùng đau xót, rất nhiều người để tang ông Đồ Chiểu mất đi nhưng "đời sống và sự nghiệp của Nguyễn Đình chiểu là một tấm gương sáng, nêu cao địa vị và tác dụng của văn học, nghệ thuật, nêu cao sứ mạng của người chiến sĩ trên mặt trận văn hóa và tư tưởng". nhiều tác giả Nguyễn Đình Chiểu Tác Giả - Tác Phẩm Tiểu sử Nguyễn Đình Chiểu Nguyễn Đình chiểu tự Mạnh Trạch, hiệu Trọng Phủ, sau khi mù lấy hiệu Hối Trai. Sinh ngày 13 tháng 5, năm Nhâm Ngọ, tức ngày 1st July 1822 ở làng tân Khánh, tổng Bình Trị Thượng, huyện Bình Dương, phủ Tân Bình, tình Gia Định (thuộc Sài Gòn nay). Mất ngày 24 tháng 5 năm Mậu Tý, tức ngày 3rd July 1888, ở làng An Bình Đông, huyện Bảo An phủ Hoắng Trị, tỉnh Vĩnh Long nay là làng An Đức, tổng Bảo An, quận Ba Tri, tỉnh Bến Tre. Cha là Nguyễn Đình Huy, người xã Bồ Điền, huyện Phong, tỉnh Thưà Thiên (Huế). Làm Thơ lại, văn thư Hán ty cuả Tả Quân Lê Văn Duyệt (mộ ông là: Lăng Ông Bà Chiểu). Mẹ là Trương thị Thiệt, người làng Tân Thới, tổng Long Tuy Thượng, tỉnh Gia Định (nay là Sài Gòn). Nguyễn Đình Chiểu là con đầu lòng cuả Thiệt, mà là con dòng thứ cuả Nguyễn Đình Huy. Dòng chính cuả ông và bà Phan Thị Hữu có một trai là Nguyễn Đình Lân và một gái là Nguyễn Thị Phu. Nguyễn Đình Chiểu có ba em gái và ba em trai; là Thị Thục, Thị Nữ, Thị Thành và Đình Tựu, Đình Tự, và Đình Huân. Thời tuổi trẻ Năm Quý Tỵ, 1833, Tả Quân Lê Văn Duyệt mất, Vệ Khôi dấy loạn giết Bạch Xuân Nguyên là cha bà Hoàng phi cuả vua Minh Mạng, các quan tòng chính bỏ chạy, Nguyễn Đình Huy cũng trốn về Huế, bị tuớc chức. Ông trở vào Sài Gòn đắc Đình Chiểu về Thừa Thiên, gửi gắm cho một người bạn làm Thái Phó, để hầu hạ điếu đốm cho được gần guĩ học tập văn chương. Khi ấy Đình Chiểu mưới hai tuổi. Tám năm sau, Đình Chiểu trở về quê mẹ. Qua năm Quý Mão, 1843, đời Thiệu Trị, thi hương trường Gia Định đỗ Tú Tài. Năm hai mươi bốn tuổi, Đình Chiểu ra Huế chờ khoa Ất Dậu, quyết chí thi đỗ Cử Nhân, để vào xuân vi, đính thí. Nhưng kỳ thi chưa tới, lại đuợc tin mẹ mất ngaỳ rằm tháng mười một năm Giáp Thân, 10 December 1848, Đình Chiểu phải trở về cư tang. Lòng hiếu tử, dặm quan hà, trắc dĩ vời trông, khôn ngăn huyết lụy. Nội thương đã công phạt, ngoại cảm lại xâm nhập, bệnh xưng hai mắt. Dọc đường Đình Chiểu nghe danh một ông thầy tên Trung , vốn giòng Ngự Y, đến xin tạm trú cầu điều trị. Bệnh tình quá nặng, nên vô khả nại hà. Đình Chiểu đành mù đến chết. May mắn ở đó Đình Chiểu được thầy Trung dạy học thuốc. Lục Vân TiênNăm sau cề đến nhà, xa gần sĩ tử nghe danh đến xin thọ nghiệp rất đông. Từ ấy nổi danh "Đồ Chiểu". Truyện "Lục Vân Tiên" và truyện "Dương Tử Hà Mậu" có lẻ đặt ra trong thời kỳ nầy. Trong đám học trò cuả Đồ Chiểu có Lê Tăng Quýnh, người làng Thanh Ba, huyện Phước Lộc (Cần Giuộc, tỉnh Long An), kính yêu và cảm cảnh thầy, cầu cha mẹ gả em gái là Lê Thị Điền. Tấm thân tàn ngồi dạy học ngỡ là an; hay đâu năm Mậu Ngũ, 1858, Tự Đức thứ XI, binh Pháp lại hạ thành Gia Định. Đồ Chiểu bỏ chạy về quê vợ, lại tiếp tục dạy học. Kịp đến khi Cần Giuộc bị thất thủ, 1861, Đồ Chiểu chạy đi Ba Tri. Truyện Văn Tế Nghiã Sĩ Cần Giuộc và Ngư Tiều Vấn Đáp có lẻ làm ra từ thời kỳ này. Ba Tri là nơi chân trời góc biển trong cõi đất Việt. Đồ Chiểu quyết tìm chốn cung tịch để tồn tâm dưỡng tánh. Nhưng lòng đau vì non nước đã khôn nguôi, lại tiếp lấy việc năm Đinh Mão, 1867, Phan Thanh Giản tuẫn tiết mà luôn ba tỉnh phía Tây sau ba tỉnh phiá Đông Việt Nam, thuộc trọn chủ quyền của Pháp. Ngay giữa năm ấy tại Sài Gòn, truyện Lục Vân Tiên đuợc in ra bẳng chữ Quốc Ngữ, là mẫu tự La-Tin a, b, c,...hiện nay. Bản chánh do Đồ Chiểu viết bằng chữ Nôm. Cuốn nầy được người Pháp tên G. Janneau sao lục và chú thích. Đồ Chiểu nếu có hay biết việc xuất bản ấy hẳn là chẳng chững không chú ý mà cũng không bằng lòng.!!!! Có một điều, con ông là Nguyễn Đình Chiêm, nói ông không ưa chữ Quốc Ngữ vì: "tôi vì đâu mà phải đến góc biển chân trời". Đến nổi không xài sàn phẩm cuả giặc Pháp như "xà phòng"..... Mục lục Nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu Tác Giả - Tác Phẩm Nguyễn Đình Chiểu nhiều tác giảChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: bạn: Thái Nhi đưa lên vào ngày: 24 tháng 9 năm 2004
Tiểu sử Nguyễn Đình Chiểu Nguyễn Đình Chiểu, tự Mạnh Trạch, hiệu Trọng Phủ, Hối Trai, sinh ngày 01.7.1822 tại Gia Định, Sài Gòn. Thân sinh thầy đồ Chiểu là Nguyễn Đình Huy, người xã Bồ Điền, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên là Thơ lại Văn hàn ty của Tổng trấn Lê Văn Duyệt. Mẹ là Trương Thị Thiệt, người Gia Định. Tuổi niên thiếu, Nguyễn Đình Chiểu từng chứng kiến cảnh loạn lạc của xã hội lúc bấy giờ. Những cuộc nổi dậy của đồng bào các dân tộc bị triều đình Huế đàn áp, đặc biệt là cuộc khởi nghĩa của Lê Văn Khôi tại Gia Định. Cuộc nổi dậy này đã gây ra những bão táp kinh hoàng trực tiếp đến gia đình Nguyễn Đình Chiểu. Nguyễn Đình Huy bỏ trốn ra Huế, bị cách chức, sau đó trở vào Nam đón Nguyễn Đình Chiểu, đem gửi cho một người bạn để ăn học. Cuộc sống 8 năm ở Huế đã giúp ông nhận rõ hơn sự thối nát và phức tạp của triều đình, đồng thời có điều kiện để tiếp thu truyền thống văn hoá dân tộc ở đất kinh đô. Năm 1843, ông thi đỗ tú tài ở Trường thi Gia Định. Năm 25 tuổi, ông trở ra Huế học tập, chờ khoa thi năm Kỷ Dậu (1849), nhưng chưa kịp thi thì có tin mẹ mất. Trên đường trở về quê chịu tang mẹ, vì quá lo buồn, khóc thương, ông lâm bệnh và mù cả hai mắt. Về đến Gia Định, sau khi mãn tang mẹ, ông tổ chức dạy học, bốc thuốc chữa bệnh và sáng tác thơ văn. Nhờ sống gắn bó với nhân dân, ông có điều kiện hiểu đồng bào của mình sâu sắc hơn. Chính trong thời gian này, Nguyễn Đình Chiểu sáng tác truyện thơ "Lục Vân Tiên". Tác phẩm đề cập đến vấn đề đạo nghĩa ở đời, mang dấu ấn tự truyện, đã được nhanh chóng phổ biến rộng rãi. Một người học trò của ông là Lê Tăng Quýnh, vừa trọng nể tài năng và nhân cách, lại vừa thương cảm hoàn cảnh của thầy, đã đem gả người em gái là Lê Thị Điền cho ông. Ngày 17.2.1858, giặc Pháp chiếm thành Gia Định. Ông cùng gia đình chạy về quê vợ ở làng Thanh Ba, huyện Cần Giuộc. Cũng tại nơi đây, ông đã sáng tác áng văn bất hủ "Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc" ngợi ca chiến công anh hùng của những người "dân ấp dân lân" trong trận tấn công đồn Tây Dương, mà người bạn đồng khoa với ông là Đỗ Trình Thoại đã hy sinh cùng với 7 nghĩa quân khác. Tác phẩm "Dương Từ - Hà Mậu" dài 3.448 câu thơ mang nội dung phê phán âm mưu lợi dụng tôn giáo của kẻ địch, lên án những người thờ ơ, vô trách nhiệm trước cảnh nước mất nhà tan cũng được sáng tác tại đây. Khi 3 tỉnh miền Đông rơi vào tay quân Pháp, không chịu sống trong vùng chiếm đóng của giặc, Nguyễn Đình Chiểu cùng gia đình xuôi thuyền về làng An Đức, tổng Bảo An, tỉnh Vĩnh Long, nay là huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre. Tại đây, ông tiếp tục dạy học trò, bốc thuốc chữa bệnh cho dân, đồng thời vẫn giữ mối liên hệ chặt chẽ với những sĩ phu yếu nước như Phan Văn Trị, Nguyễn Thông và lực lượng kháng chiến. Khi được tin Trương Định hy sinh (19.8.1864), nhà thơ xúc động, viết bài Văn tế và Mười hai bài thơ liên hoàn điếu người anh hùng. Mười bài thơ điếu Đốc binh Phan Tòng hy sinh trong trận Giồng Gạch (1868) vốn gốc là hương sư, bạn bè thân thiết với ông, lời lẽ rất thống thiết, có những câu thơ tâm huyết như lời thề tạc vào đá: "Tinh thần hai chữ pha sương tuyết, khí phách ngàn thu rỡ núi non". Khi Phan Thanh Giản uống thuốc độc tự tử sau khi để mất 3 tỉnh miền Tây, ông làm thơ điếu họ Phan với ít nhiều ngụ ý phê phán. Thời gian này, Nguyễn Đình Chiểu sáng tác nhiều thơ văn bi tráng nhất, tiếc thương những đồng bào, bạn bè, nghĩa sĩ đã ngã xuống vì sự nghiệp độc lập, tự do của Tổ quốc. Nổi bật là thiên hùng bút "Văn tế nghĩa sĩ trận vong Lục tỉnh". Tất cả tâm huyết của nhà thơ như dồn vào những câu đau xé lòng người: "Dân sa nước lửa bấy chầy, giặc ép mỡ dầu hết sức". Đồng bào ở đây kể lại rằng chính ông đứng ra làm lễ tế những nghĩa sĩ Lục tỉnh ngay tại chợ Ba Tri. Khi đọc xong bài điếu, nước mắt chảy ràn rụa và ông lăn kềnh ra nằm bất tỉnh. Tác phẩm "Ngư tiều y thuật vấn đáp" được viết vào giai đoạn cuối đời với một bút pháp già dặn hơn và một niềm tâm sự sâu lắng, xót xa hơn trước cảnh đất nước bị “dưa chia, khăn xé”, nhưng không hề tuyệt vọng. Bến Tre không phải là nơi sinh của nhà thơ, nhưng lại là nơi được ông chọn để sống, hoạt động trong suốt 26 năm đầy biến cố phức tạp vào giai đoạn cuối đời và đã vĩnh viễn gởi xương cốt tại đây. Người ta kể lại rằng ngày đưa đám ma ông, cả cánh đồng An Bình Đông, nay là An Đức, trắng xóa khăn tang của những bạn bè, học trò, con cháu xa gần, những thân chủ được ông chữa khỏi bệnh và những đồng bào quanh vùng hoặc đã chịu ơn ông, hoặc vì mến mộ, cảm phục một tâm hồn lớn, một nhân cách lớn. Mục lục Nguyễn Đình Chiểu Nguyễn Đình Chiểu Tiểu sửChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: vietsciences.netĐược bạn: Ct.Ly đưa lên vào ngày: 6 tháng 7 năm 2006
Story Nguyen Dinh Chieu Nguyen Dinh Chieu, alias Manh Trach, alias Trong Phu, Hoi Trai, was born on July 1, 1822 in Gia Dinh, Saigon. Master Chieu's father was Nguyen Dinh Huy, a native of Bo Dien commune, Phong Dien district, Thua Thien province, and was the Tho Van Han company of Governor Le Van Duyet. Her mother is Truong Thi Thiet, from Gia Dinh. As a teenager, Nguyen Dinh Chieu witnessed the chaos of society at that time. The uprisings of ethnic minorities were suppressed by the Hue court, especially the uprising of Le Van Khoi in Gia Dinh. This uprising caused terrible storms that directly affected Nguyen Dinh Chieu's family. Nguyen Dinh Huy fled to Hue, was dismissed, then returned to the South to pick up Nguyen Dinh Chieu, and sent him to a friend to study. Living for 8 years in Hue helped him better understand the corruption and complexity of the royal court, and at the same time had the conditions to absorb national cultural traditions in the capital. In 1843, he passed the baccalaureate exam at Gia Dinh Examination School. At the age of 25, he returned to Hue to study, waiting for the exam in the year of the Rooster (1849), but before he could take the exam, there was news that his mother had passed away. On the way back to his hometown to mourn his mother, because he was so worried and sad and cried, he fell ill and lost both eyes. Returning to Gia Dinh, after his mother's funeral, he organized teaching classes, dispensed medicine and composed poetry. Thanks to living closely with the people, he was able to understand his people more deeply. It was during this time that Nguyen Dinh Chieu composed the poetic story "Luc Van Tien". The work deals with moral issues in life, has autobiographical imprints, and was quickly widely popularized. One of his students, Le Tang Quynh, both respected his teacher's talent and personality and sympathized with his plight, and gave him his younger sister, Le Thi Dien, in marriage. On February 17, 1858, the French invaded Gia Dinh citadel. He and his family fled to his wife's hometown in Thanh Ba village, Can Giuoc district. Also here, he composed the immortal essay "Can Giuoc Martyr's Oration" praising the heroic victory of the "people of the village and the lion" in the attack on the Tay Duong post, which his fellow student of Mr. Do Trinh Thoai died along with 7 other insurgents. The work "Duong Tu - Ha Mau", 3,448 verses long, criticizes the enemy's plot to take advantage of religion and condemns those who are indifferent and irresponsible in the face of the loss of their country and their homes. It was also composed here. . When the three Eastern provinces fell into the hands of the French army and refused to live in the enemy's occupied area, Nguyen Dinh Chieu and his family sailed to An Duc village, Bao An canton, Vinh Long province, now Ba Tri district, Ben province. Bamboo. Here, he continued to teach students, dispense medicine to treat people's illnesses, and at the same time maintained close connections with weak scholars such as Phan Van Tri, Nguyen Thong and the resistance forces. When he heard the news of Truong Dinh's death (August 19, 1864), the poet was moved and wrote a funeral and twelve consecutive poems eulogizing the hero. Ten poems eulogizing General Phan Tong who died in the Giong Gach battle (1868), which was originally a monk and a close friend of him, the words are very poignant, there are passionate verses like an oath carved into stone: " The spirit of the two words mixed with frost and snow, the spirit of thousands of autumn and mountains. When Phan Thanh Gian committed suicide by drinking poison after losing three Western provinces, he wrote a poem eulogizing the Phan family with more or less critical implications. During this time, Nguyen Dinh Chieu composed the most tragic poems, mourning the compatriots, friends, and martyrs who fell for the cause of independence and freedom of the Fatherland. Outstanding is the heroic essay "Eticles of martyrs in the battle of Luc Province". All the poet's enthusiasm seems to be focused on these heart-wrenching sentences: "The people fall into water and fire, the enemy presses the fat and oil with all their might." People here recall that he personally performed the sacrifice for the martyrs of Luc Province right at Ba Tri market. When he finished reading the eulogy, tears flowed freely and he fell over and lay unconscious. The work "Fish Tieu Doctor's Questions and Answers" was written at the end of his life with a more mature style of writing and a deeper, more sorrowful confide in the scene of the country being "divided and torn apart", but not no despair. Ben Tre is not the poet's birthplace, but it is the place he chose to live and work during the 26 years full of complicated events at the end of his life and has permanently deposited his bones here. It is said that on the day of his funeral, the entire field of An Binh Dong, now An Duc, was white with funeral scarves of friends, students, descendants from near and far, the clients he cured and those who died. The people around the area were either indebted to him, or because they admired and admired a great soul and great personality. Table of contents Nguyen Dinh Chieu Nguyen Dinh Chieu BiographyWelcome to read the titles from the book project for mobile devices. Source: author: Nguyen Kim Vy. Final words: Thank you for reading the entire story. Source: editor: Nguyen Kim Vy. Source: vietsciences.net Posted by: Ct.Ly on: July 6, 2006
nhiều tác giả Nguyễn Đình Thi Tiểu sử Nguyễn Đình Thi là một tài năng phong phú và đa dạng. Ông gặt hái thành công ở hầu hết các lĩnh vực âm nhạc, tiểu thuyết, thơ ca, kịch... Ông vừa từ trần hồi 16 giờ 45, ngày 18-4 tại Bệnh viện Hữu nghị Việt - Xô, Hà Nội. Nguyễn Đình Thi năm nay 79 tuổi, tính tuổi mụ thì cũng đã bước vào tuổi 80. Nhưng dáng anh, giọng anh, phong cách sống của anh... lúc nào cũng trẻ, khiến ta khó có thể ngờ được anh đã bước vào tuổi "xưa nay hiếm", và bất thần, đến một lúc nào đó, anh có thể ra đi! Vậy mà, giây phút đó đã điểm, sau một thời gian dài anh đã phải vào nằm trong viện, vì căn bệnh quái ác: ung thư di căn lên não. Ngay những ngày đã không còn được khỏe nữa, vẻ tươi tắn, lịch thiệp, thông minh - vẫn chưa lúc nào rời bỏ anh. Sự điềm đạm, từng trải trong anh làm tất cả những ai ít tuổi hơn anh, đến với anh, đều cảm thấy có gì rất yên tâm, rất dễ cảm thông, gần gũi.Cách đây mấy tháng, anh đã phải nằm viện một lần. Căn bệnh động đến não làm anh có lúc nhớ nhớ, quên quên. Nhưng khi vào thăm anh, tôi nhớ, anh vẫn rất tỉnh táo để nói về công việc nơi anh phụ trách, về thơ, mà anh rất tâm đắc, về một ông bạn già, nhà văn Nhật Bản mới có thư và ảnh gửi thăm anh. Thế rồi, giữa hai đợt phải vào nhập viện, anh khỏe lại và đã đi dự Đại hội Văn học - nghệ thuật Quảng Ninh, thăm vùng mỏ mà anh xiết bao yêu mến từ thời còn trẻ. Tại đại hội ấy, anh đã phát biểu một bài ứng khẩu thật sâu sắc, thật tình cảm, vẫn đúng cái chất hùng biện kiểu Nguyễn Đình Thi, không lẫn vào đâu được. Có lẽ đấy là lần cuối cùng tôi nghe anh phát biểu trước công chúng rộng lớn, với chất lửa da diết của tâm hồn lôi cuốn mọi người. Hôm nay, tất cả đã trở thành quá khứ. Tập thơ Sóng reo, tập thơ cuối của đời anh, kết thúc bằng những câu thơ:Nước mưa đọng đầy mí mắtNgoảnh trông lại đã bạc đầuThoáng đời người tiếng cười khócBay vào vô tận sóng reo! Có thể coi đó là những câu thơ tiên liệu trước của anh, thật bình thản, điềm tĩnh.Nguyễn Đình Thi học ở Hà Nội và tham gia hoạt động yêu nước từ trong phong trào học sinh Hà Nội. Anh đã bị Pháp bắt giam tại Hà Nội năm 1942, tại Nam Định năm 1944 .Năm 1945, anh tham gia đoàn đại biểu văn hóa cứu quốc đi dự Quốc dân Đại hội tại Tân Trào và được cử vào Ủy ban Giải phóng Dân tộc Việt Nam. Sau cách mạng, anh là đại biểu Quốc hội trẻ nhất khóa Quốc hội đầu tiên của đất nước. Anh đã từng làm Tổng thư ký Hội Văn hóa cứu quốc, gia nhập quân đội là chính trị viên tiểu đoàn thuộc Đại đoàn 308 và tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ. Sau kháng chiến chống Pháp, Nguyễn Đình Thi là Tổng thư ký Hội Nhà văn Việt Nam từ 1958 đến 1990. Từ năm 1995, anh là Chủ tịch Ủy ban toàn quốc của Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam.Là một người đa tài, vừa là nhà văn, nhà thơ, nhạc sĩ, nhà biên kịch, anh đã để lại cho đời hàng mấy chục tác phẩm đầy tâm huyết, là những cống hiến có giá trị cho nền văn học - nghệ thuật hiện đại của đất nước ta. Chúng ta có thể kể: Xung kích, Vào lửa, Mặt trận trên cao, Vỡ bờ... trong lĩnh vực văn xuôi; Người chiến sĩ, Bài thơ Hắc Hải, Dòng sông trong xanh, Sóng reo... trong lĩnh vực thơ; Con nai đen, Hoa và Ngần, Giấc mơ, Rừng trúc, Nguyễn Trãi ở Đông Quan, Tiếng sóng... trong lĩnh vực kịch. Và những bài hát của Nguyễn Đình Thi đã trở thành vô cùng quen thuộc hơn nửa thế kỷ nay, từ Diệt phát xít đến Người Hà Nội... mà ngày ngày, giai điệu những bài hát đã trở thành nhạc hiệu trên đài.Nguyễn Đình Thi không kiêu căng và tự mãn với tất cả những gì anh đã có. Cuối đời, anh viết thật chân thành và khiêm tốn về mình. Sự chân thành của anh làm chúng ta rơi nước mắt. Anh đã sống, đã yêu, đã từng trải đến vậy, thế mà anh lại tự thốt ra:"Tôi không nói được mình đã trải đờiKhông nói được mình đã hiểu ngườiKhông dám nói mình đã biết yêuKhông dám nói mình đã biết sống!" Những câu thơ trên anh đều viết trước khi ra đi không lâu. Chúng ta kính cẩn nghiêng mình trước anh, một tâm hồn tinh tế, khoáng đạt, một nghệ sĩ lớn, luôn luôn tự đòi hỏi sự hoàn thiện ở mình. Anh để lại cho chúng ta những bài học lớn để làm nghệ sĩ và làm người. Mục lục Nguyễn Đình Thi Nguyễn Đình Thi nhiều tác giảChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: bạn: Thái Nhi đưa lên vào ngày: 24 tháng 9 năm 2004
many authors Nguyen Dinh Thi Story Nguyen Dinh Thi is a rich and diverse talent. He achieved success in most fields of music, novels, poetry, drama... He just passed away at 4:45 p.m., April 18, at the Vietnam-Soviet Friendship Hospital, Hanoi. Nguyen Dinh Thi is 79 years old this year. Counting his mother's age, he is already 80 years old. But his appearance, his voice, his lifestyle... are always young, making it hard to believe that he has entered the world. age "has never been rare", and suddenly, at some point, he can leave! Yet, that moment came, after a long time he had to be hospitalized, because of a terrible disease: cancer metastasized to the brain. Even in the days when he was no longer healthy, his freshness, politeness, and intelligence - never left him. His calmness and experience make everyone who comes to him feel very secure, easy to sympathize with, and close to. A few months ago, he had to stay in the hospital for a while. time. The disease affected his brain, causing him to sometimes remember and forget. But when I visited him, I remember, he was still very alert to talk about the work where he was in charge, about poetry, which he was very interested in, about an old friend, a Japanese writer who had just sent letters and photos to visit. Older brother. Then, between the two hospitalizations, he recovered and went to the Quang Ninh Literature and Arts Congress, visiting the mining area he had loved so much since his youth. At that congress, he gave an impromptu speech that was profound, emotional, and still had the unmistakable eloquence of Nguyen Dinh Thi. Perhaps that was the last time I heard him speak to a large public, with the fiery fire of his soul that captivated everyone. Today, everything has become a thing of the past. The poetry collection Waves Roar, the last poetry collection of his life, ends with the verses: Rainwater fills the eyelids. Looking back, the hair turns white. A glimpse of life's laughter and tears. Flying into endless waves! It can be seen as his prescient verses, so calm and collected. Nguyen Dinh Thi studied in Hanoi and participated in patriotic activities from the Hanoi student movement. He was arrested by the French in Hanoi in 1942, in Nam Dinh in 1944. In 1945, he joined the national salvation cultural delegation to attend the National Congress in Tan Trao and was appointed to the National Liberation Committee. Vietnam. After the revolution, he was the youngest National Assembly delegate in the country's first National Assembly. He once worked as the General Secretary of the National Salvation Cultural Association, joined the army as a battalion political officer of the 308th Battalion and participated in the Dien Bien Phu campaign. After the resistance war against the French, Nguyen Dinh Thi was General Secretary of the Vietnam Writers' Association from 1958 to 1990. Since 1995, he has been Chairman of the National Committee of the Vietnam Literature and Arts Association. A multi-talented person, As well as being a writer, poet, musician, and screenwriter, he left behind dozens of passionate works, which are valuable contributions to the modern literature and art of our country. . We can mention: Assault, Into the Fire, High Front, Breaking the Shore... in the field of prose; The Soldier, The Black Sea Poem, The Clear Blue River, The Ringing Waves... in the field of poetry; Black Deer, Flowers and Ngan, Dreams, Bamboo Forest, Nguyen Trai in Dong Quan, The Sound of Waves... in the field of drama. And Nguyen Dinh Thi's songs have become extremely familiar for more than half a century, from Destroying the Fascists to Hanoi People... and day by day, the melodies of the songs have become soundtracks on the radio. Nguyen Dinh Thi is not arrogant and complacent with everything he has. At the end of his life, he wrote sincerely and humbly about himself. His sincerity makes us cry. He has lived, loved, and experienced so much, yet he said to himself: "I can't say I've experienced life. I can't say I've understood you. I don't dare say I know how to love. I can't say I know how to live!" He wrote the above verses not long before he left. We respectfully bow before him, a delicate, generous soul, a great artist, always demanding perfection of himself. He left us great lessons to be artists and people. Table of contents Nguyen Dinh Thi Nguyen Dinh Thi many authorsWelcome to read books from the book project for mobile devicesSource: author: Nguyen Kim Vy. Final words: Thank you for reading the entire story. Source: editor: Nguyen Kim Vy. Source: friend: Thai Nhi posted on: September 24, 2004
nhiều tác giả Nguyễn Đức Thọ Tác giả - tác phẩm NGUYỄN ĐỨC THỌ, Nhà văn(Bút danh khác: Khánh Hương)* Tên khai sinh: Nguyễn Đức Thọ, sinh ngày 27-7-1955 tại xã Hưng Khánh, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An. Thuở bé sống ở thành phố Vinh, hiện sống và viết tại Đồng Nai. Trình độ văn hóa: Đại học Văn. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam (1991).* Nguyễn Đức Thọ từng là phóng viên, biên tập viên báo Văn nghệ Đồng Nai, Phó Tổng biên tập báo Sông Phố, hiện là Phó Chủ tịch Hội Văn nghệ Đồng Nai.* Tác phẩm đã xuất bản: Đêm dưới núi đá chồng (truyện ngắn, 1985); Dấu chân Tiên (truyện ngắn, 1993). Hồi ức làng Che (truyện ngắn, 1999).- Nhà văn đã nhận được các giải thưởng: - Giải ba báo văn nghệ với truyện ngắn Hồi ức làng Che năm 1989; Giải nhất cuộc thi truyện ngắn báo Tuổi trẻ năm 1989. Giải nhì báo Người Hà Nội năm 1996. Mục lục Nguyễn Đức Thọ Nguyễn Đức Thọ nhiều tác giảChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: bạn: Thái Nhi đưa lên vào ngày: 1 tháng 11 năm 2004
many authors Nguyen Duc Tho Author - work NGUYEN DUC THO, Writer (Another pen name: Khanh Huong)* Birth name: Nguyen Duc Tho, born on July 27, 1955 in Hung Khanh commune, Hung Nguyen district, Nghe An province. As a child, I lived in Vinh city, now I live and write in Dong Nai. Educational level: University of Literature. Member of the Vietnam Writers Association (1991).* Nguyen Duc Tho used to be a reporter, editor of Dong Nai Arts newspaper, Deputy Editor-in-Chief of Song Pho newspaper, currently Vice Chairman of Dong Nai Arts Association.* Author Published works: Night under the rocky mountain (short story, 1985); Fairy Footprints (short story, 1993). Memories of Che Village (short story, 1999).- The writer has received awards: - Third prize in arts newspaper with the short story Memories of Che Village in 1989; First prize in the short story contest of Tuoi Tre newspaper in 1989. Second prize of Nguoi Hanoi newspaper in 1996. Table of contents Nguyen Duc Tho Nguyen Duc Tho many authorsWelcome to read books from the book project for mobile devicesSource: author: Nguyen Kim Vy. Final words: Thank you for reading the entire story. Source: editor: Nguyen Kim Vy. Source: friend: Thai Nhi posted on: November 1, 2004
Trương Thái Du Nguyễn Ức Trai - Hãy kể tội ta nghe!- Bẩm… bẩm…- Khó lắm phải không? Quân tử chỉ quen tự tâng công nhỉ? Bọn Nho giả chúng ngươi hèn mạt lắm. Ta có lột mũ đứa nào mà đái vào chưa?- Bẩm hoàng thượng, tiểu thần đáng chết.- Chết… ha ha ha ha… Công ngươi chưa xứng để được ban cái chết. Hãy nghĩ thêm nhiều kế yên dân, lạc quốc rồi hẵng chết. Tuyệt đối đừng nhúng mũi vào việc hoàng gia mà mang nhục.- Thần không dám.- Đám giải còn sống cả chứ.- Bẩm, chưa có cái xác nào dạt vào bờ. Chắc chúng thoải mái vì thủy văn nơi đây chẳng khác gì ở Lam kinh.- Trước đoan ngọ một hôm băm nhuyễn lá ngón với rau má, rau muống để giảm bớt độc tố, vo viên cho thợ lặn rải xuống đáy hồ. Sẽ có vài con giải trúng độc trồi lên đớp bóng. Lúc điều khiển thuyền rồng, cố lướt qua chỗ giải nổi. - Sợ bá quan nhận ra mai mềm của giải, họ bảo đấy không phải rùa trong tứ linh thì hoàng thượng sẽ khó xử.- Ta đã chào rùa thần rồi thì đố đứa nào dám nói ngược. Hơn nữa thuyền mở dây sau mấy tuần rượu mạnh, khó ai còn tỉnh táo.***- Sự nghiệp của ta, được – mất xem xét thỏa chưa?- Bẩm… Bệ hạ còn lâu mới muôn tuổi. Căn bệnh xoàng thôi, xin đừng nghĩ ngợi.- An dân dễ hơn lấy lòng kẻ sĩ, ngươi biết tâm sự của ta mà. Sao năm ấy ngươi vào gặp ta xong lại bỏ đi. Đợi thời, ta làm Tuần kiểm. Dù gì ta cũng từng mang mĩ danh Kim Ngô Tướng quân dưới cờ Trần Quí Khoách.- Thần có mắt như mù.- Đến khi ta xưng vương, ngươi mới tỏ chí của ta. Ôi! Kẻ sĩ nước Nam này thật tệ. Ta cứ phải nặng lòng…- Chúng thần có lỗi với nhà vua. Chúng thần tham sống sợ chết, hay tự huyễn trên mấy con chữ, nhiều khi toàn là đám chữ được mua bằng tiền hoặc viết nơi đầu gối.- Ngươi sẽ chết vì tham. Ngươi không thể sánh với Trương Lương được. Cũng có thể tham làm việc nghĩa. Tất nhiên là việc nghĩa trong con mắt nhà ngươi. Đầu óc ngươi bận rộn với sự chê bai, coi thường kẻ khác. Chắng ích lợi gì cả. Ngươi muốn tạo cảm giác hơn người ư? Lộ rõ là ngươi đang tự nghi ngờ khả năng của mình…- Đã lưu danh thiên cổ rồi, xin chúa thượng thảnh thơi.- Đôi lúc ta hơi thiếu tự tin. Chuyện đem giải ở Lam Kinh ra thả xuống Lục Thủy chẳng hạn.- Đấy là việc hòa hợp với tầm nhìn hãn hữu của thời đại. Bệ hạ bất tử vì dân tộc này bất tử. Bệ hạ thành anh hùng bởi sự nghiệp bệ hạ tạo nên ứng với tiêu chuẩn anh hùng của tâm thức đại chúng. Người đã lật đổ ách thống trị của Minh triều, đã chiến thắng đoàn quân xâm lăng hung bạo. Thế là quá đủ. Nước ta còn nhỏ lắm. Mai này dù có một nhân vật vĩ đại nào đó mở rộng biên cương gấp rưỡi, gấp đôi, mà thiếu tiêu chuẩn “chiến thắng Bắc triều” thì lịch sử cũng xem ông ta là giẻ rách, không hơn một nhúm lâu la, giặc cướp đâu. Đó là sự bất công ấu trĩ trường cửu. Và đó cũng là vách mũi, là nô huyệt của trăm họ. Kẻ sĩ chúng thần đã nguyện làm chiếc cật nứa già vót nhọn để xỏ vào đấy, rồi lại làm sợi thừng bền chắc buộc nọc tre già, thì hà cớ gì bệ hạ chẳng an thư tự tại lưng trâu, thổi sáo điệu bồng lai bên cánh đồng thơm mùi lúa mới?- Các ngươi nói láo giỏi quá, có lúc ta tưởng mình là tiên thật! May mà ta chưa thành man trá, dẫu đã không ít lần giấu giếm những gì thuộc về con người thường phàm.- …- Lắt léo phải chăng là lẽ sống của bọn có chữ? - Dạ bẩm, thần không hiểu ‎í hoàng thượng.- Ngươi đừng giả chết bắt quạ nữa. Mấy đoạn thần thoại trong “Lam Sơn thực lục” ngươi khéo hạ thấp văn phong để đời sau nếu không xem là ngụy thư, cũng chẳng nỡ coi tác giả là bồi bút. Thanh cao đến thế là cùng.- Thần cắn rơm cắn cỏ xin bệ hạ bỏ ngoài tai lời sàm tấu.- Ta biết ngươi cũng sẽ bất tử. Ngươi sẽ vĩnh viễn là biểu tượng của kẻ sĩ bất toại, bất mãn. Vương quyền cổ kim, nhẹ thì vung roi đe nẹt kẻ sĩ, nhưng thỏa hiệp mới là trường kế. Kẻ sĩ là người của kẻ chợ, không thể xây dựng được bá đồ trên ngôi làng lớn mang tên quốc gia đâu. Lại càng không thay đổi được thể chế. Ta và ngươi là hai mặt của một chiếc lá. Thế mà ngươi từng dám viết tên ta và tên ngươi bằng mỡ trên một mặt, rồi cho kiến đục và thả trên nguồn sông suối. Ta tha chết cho ngươi vì ngươi không hiểu Quân và Thần chỉ có thể Cộng khổ. Chớ hoang tưởng Đồng cam. Quên khắc cốt điều này, ngươi sẽ bị tru di dưới đao búa của con cháu ta.***- Sao đêm rằm mà đèn đuốc sáng thế?- Ông ngủ đi. Quân canh nhiều lắm, chắc mai có việc lớn.- Sao khuê ở phương nào?- Trăng còn thẹn với đèn, nói chi đến sao!- Chúng sắp giết ta?- Vua vừa lên ngôi, có lẽ nào.- …- Ông ơi, bà Lộ nhà ông là rắn thật ư? Ngoài chợ người ta kể thế này…- Nực cười quá. Chúng sợ cái chết của ta làm lòng dân bất an chăng. Chúng thực hiện âm mưu giết vua, hại người trung nghĩa y hệt nghi án truyện Chu Tuệ - Kiều Oanh giết Thái tử bên Tàu. - Chúng tôi ngoài đời dân dã, mấy ai biết đến tên ông.- Thế ư. Thái tổ mắng ta đúng đấy. Kẻ sĩ cứ vơ hết vào mình. Ta chỉ là con tốt vô tình bị cuốn vào trận mạc tranh giành quyền lực tối cao nơi cung cấm. Vậy nên chúng sẽ giết ta thật nhanh để dẹp mọi thị phi, ngờ vực. Này, lão quân cai ngục, anh có biết chuyện Rùa thần đòi gươm Thái tổ không?- Vâng, trời đất tất phải có điềm lành đón hòa bình. - Thái tổ ơi, sao người bất công với thần quá. Bình Ngô xong, thần chỉ được xếp hàng giữa bọn thuộc lại nhì nhằng. Đáng lí lúc ấy ta phải làm Phạm Lãi của nước Nam. Can dự chi thêm huyền thoại thần qui. Hôm nay nhìn ba đời vươn cổ chờ chết mà tràn hận. Hậu nhân ai là người cởi trói minh oan cho ta khỏi cũi lồng rắn độc. Một đời phò tá rồng phượng, đâu ngờ lại thác đi trong gian lưới ác xà!- Ông nói toàn chữ nhà quan, tôi không hiểu, nhưng nghe giọng ai lụy lắm.- Ta vướng họa cũng vì nghiệp sách đèn. Xa lạ với từ chương như anh lại hay.- Tôi gác ngục từ chế độ cũ. Xưa chúng giết người làm phản cũng nhiều. Ít ai kêu oan. Họ đáng kính và hiên ngang. Từ ngày vua trả kiếm, máu vẫn chảy mà dây oan cứ nối dài mãi.- Ta đã linh cảm một kết cục xấu nên chọn tên tự là Ức Trai. Song xấu tệ thế này thật không tưởng. - Tôi ngu muội tạm hiểu Ức Trai nghĩa là kẻ chay tịnh chịu oan ức.- Không, Ức là bị đè nén.Ngày 16 tháng 8 năm Nhâm Tuất, tức 19 tháng 9 năm 1442, Nguyễn Trãi, văn hào, thi hào, nhà tư tưởng lỗi lạc của dân tộc Việt Nam rơi đầu giữa pháp trường. Trong kháng chiến chống giặc Ngô, là thư kí của Lê Lợi, Nguyễn Trãi đã cùng vua thực hiện thành công chiến thuật đánh vào lòng người rất khôn khéo. Tuy nhiên đóng góp lớn lao nhất của Nguyễn Trãi với nhà Lê lại nổi bật ở vở kịch trả gươm. Huyền thoại hoàn kiếm là món mẹo chính trị cao tay, định danh vị, chính thống hóa ách đô hộ nhân dân Việt Nam của một triều đình phong kiến kéo dài nhiều trăm năm.Thảo điền tháng 01.2007 Mục lục Nguyễn Ức Trai Nguyễn Ức Trai Trương Thái DuChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: Tác giả / VNthuquan - Thư viện OnlineĐược bạn: Ct.Ly đưa lên vào ngày: 13 tháng 3 năm 2008
Trương Thái Du Nguyễn Ức Trai - Hãy kể tội ta nghe!- Bẩm… bẩm…- Khó lắm phải không? Quân tử chỉ quen tự tâng công nhỉ? Bọn Nho giả chúng ngươi hèn mạt lắm. Ta có lột mũ đứa nào mà đái vào chưa?- Bẩm hoàng thượng, tiểu thần đáng chết.- Chết… ha ha ha ha… Công ngươi chưa xứng để được ban cái chết. Hãy nghĩ thêm nhiều kế yên dân, lạc quốc rồi hẵng chết. Tuyệt đối đừng nhúng mũi vào việc hoàng gia mà mang nhục.- Thần không dám.- Đám giải còn sống cả chứ.- Bẩm, chưa có cái xác nào dạt vào bờ. Chắc chúng thoải mái vì thủy văn nơi đây chẳng khác gì ở Lam kinh.- Trước đoan ngọ một hôm băm nhuyễn lá ngón với rau má, rau muống để giảm bớt độc tố, vo viên cho thợ lặn rải xuống đáy hồ. Sẽ có vài con giải trúng độc trồi lên đớp bóng. Lúc điều khiển thuyền rồng, cố lướt qua chỗ giải nổi. - Sợ bá quan nhận ra mai mềm của giải, họ bảo đấy không phải rùa trong tứ linh thì hoàng thượng sẽ khó xử.- Ta đã chào rùa thần rồi thì đố đứa nào dám nói ngược. Hơn nữa thuyền mở dây sau mấy tuần rượu mạnh, khó ai còn tỉnh táo.***- Sự nghiệp của ta, được – mất xem xét thỏa chưa?- Bẩm… Bệ hạ còn lâu mới muôn tuổi. Căn bệnh xoàng thôi, xin đừng nghĩ ngợi.- An dân dễ hơn lấy lòng kẻ sĩ, ngươi biết tâm sự của ta mà. Sao năm ấy ngươi vào gặp ta xong lại bỏ đi. Đợi thời, ta làm Tuần kiểm. Dù gì ta cũng từng mang mĩ danh Kim Ngô Tướng quân dưới cờ Trần Quí Khoách.- Thần có mắt như mù.- Đến khi ta xưng vương, ngươi mới tỏ chí của ta. Ôi! Kẻ sĩ nước Nam này thật tệ. Ta cứ phải nặng lòng…- Chúng thần có lỗi với nhà vua. Chúng thần tham sống sợ chết, hay tự huyễn trên mấy con chữ, nhiều khi toàn là đám chữ được mua bằng tiền hoặc viết nơi đầu gối.- Ngươi sẽ chết vì tham. Ngươi không thể sánh với Trương Lương được. Cũng có thể tham làm việc nghĩa. Tất nhiên là việc nghĩa trong con mắt nhà ngươi. Đầu óc ngươi bận rộn với sự chê bai, coi thường kẻ khác. Chắng ích lợi gì cả. Ngươi muốn tạo cảm giác hơn người ư? Lộ rõ là ngươi đang tự nghi ngờ khả năng của mình…- Đã lưu danh thiên cổ rồi, xin chúa thượng thảnh thơi.- Đôi lúc ta hơi thiếu tự tin. Chuyện đem giải ở Lam Kinh ra thả xuống Lục Thủy chẳng hạn.- Đấy là việc hòa hợp với tầm nhìn hãn hữu của thời đại. Bệ hạ bất tử vì dân tộc này bất tử. Bệ hạ thành anh hùng bởi sự nghiệp bệ hạ tạo nên ứng với tiêu chuẩn anh hùng của tâm thức đại chúng. Người đã lật đổ ách thống trị của Minh triều, đã chiến thắng đoàn quân xâm lăng hung bạo. Thế là quá đủ. Nước ta còn nhỏ lắm. Mai này dù có một nhân vật vĩ đại nào đó mở rộng biên cương gấp rưỡi, gấp đôi, mà thiếu tiêu chuẩn “chiến thắng Bắc triều” thì lịch sử cũng xem ông ta là giẻ rách, không hơn một nhúm lâu la, giặc cướp đâu. Đó là sự bất công ấu trĩ trường cửu. Và đó cũng là vách mũi, là nô huyệt của trăm họ. Kẻ sĩ chúng thần đã nguyện làm chiếc cật nứa già vót nhọn để xỏ vào đấy, rồi lại làm sợi thừng bền chắc buộc nọc tre già, thì hà cớ gì bệ hạ chẳng an thư tự tại lưng trâu, thổi sáo điệu bồng lai bên cánh đồng thơm mùi lúa mới?- Các ngươi nói láo giỏi quá, có lúc ta tưởng mình là tiên thật! May mà ta chưa thành man trá, dẫu đã không ít lần giấu giếm những gì thuộc về con người thường phàm.- …- Lắt léo phải chăng là lẽ sống của bọn có chữ? - Dạ bẩm, thần không hiểu ‎í hoàng thượng.- Ngươi đừng giả chết bắt quạ nữa. Mấy đoạn thần thoại trong “Lam Sơn thực lục” ngươi khéo hạ thấp văn phong để đời sau nếu không xem là ngụy thư, cũng chẳng nỡ coi tác giả là bồi bút. Thanh cao đến thế là cùng.- Thần cắn rơm cắn cỏ xin bệ hạ bỏ ngoài tai lời sàm tấu.- Ta biết ngươi cũng sẽ bất tử. Ngươi sẽ vĩnh viễn là biểu tượng của kẻ sĩ bất toại, bất mãn. Vương quyền cổ kim, nhẹ thì vung roi đe nẹt kẻ sĩ, nhưng thỏa hiệp mới là trường kế. Kẻ sĩ là người của kẻ chợ, không thể xây dựng được bá đồ trên ngôi làng lớn mang tên quốc gia đâu. Lại càng không thay đổi được thể chế. Ta và ngươi là hai mặt của một chiếc lá. Thế mà ngươi từng dám viết tên ta và tên ngươi bằng mỡ trên một mặt, rồi cho kiến đục và thả trên nguồn sông suối. Ta tha chết cho ngươi vì ngươi không hiểu Quân và Thần chỉ có thể Cộng khổ. Chớ hoang tưởng Đồng cam. Quên khắc cốt điều này, ngươi sẽ bị tru di dưới đao búa của con cháu ta.***- Sao đêm rằm mà đèn đuốc sáng thế?- Ông ngủ đi. Quân canh nhiều lắm, chắc mai có việc lớn.- Sao khuê ở phương nào?- Trăng còn thẹn với đèn, nói chi đến sao!- Chúng sắp giết ta?- Vua vừa lên ngôi, có lẽ nào.- …- Ông ơi, bà Lộ nhà ông là rắn thật ư? Ngoài chợ người ta kể thế này…- Nực cười quá. Chúng sợ cái chết của ta làm lòng dân bất an chăng. Chúng thực hiện âm mưu giết vua, hại người trung nghĩa y hệt nghi án truyện Chu Tuệ - Kiều Oanh giết Thái tử bên Tàu. - Chúng tôi ngoài đời dân dã, mấy ai biết đến tên ông.- Thế ư. Thái tổ mắng ta đúng đấy. Kẻ sĩ cứ vơ hết vào mình. Ta chỉ là con tốt vô tình bị cuốn vào trận mạc tranh giành quyền lực tối cao nơi cung cấm. Vậy nên chúng sẽ giết ta thật nhanh để dẹp mọi thị phi, ngờ vực. Này, lão quân cai ngục, anh có biết chuyện Rùa thần đòi gươm Thái tổ không?- Vâng, trời đất tất phải có điềm lành đón hòa bình. - Thái tổ ơi, sao người bất công với thần quá. Bình Ngô xong, thần chỉ được xếp hàng giữa bọn thuộc lại nhì nhằng. Đáng lí lúc ấy ta phải làm Phạm Lãi của nước Nam. Can dự chi thêm huyền thoại thần qui. Hôm nay nhìn ba đời vươn cổ chờ chết mà tràn hận. Hậu nhân ai là người cởi trói minh oan cho ta khỏi cũi lồng rắn độc. Một đời phò tá rồng phượng, đâu ngờ lại thác đi trong gian lưới ác xà!- Ông nói toàn chữ nhà quan, tôi không hiểu, nhưng nghe giọng ai lụy lắm.- Ta vướng họa cũng vì nghiệp sách đèn. Xa lạ với từ chương như anh lại hay.- Tôi gác ngục từ chế độ cũ. Xưa chúng giết người làm phản cũng nhiều. Ít ai kêu oan. Họ đáng kính và hiên ngang. Từ ngày vua trả kiếm, máu vẫn chảy mà dây oan cứ nối dài mãi.- Ta đã linh cảm một kết cục xấu nên chọn tên tự là Ức Trai. Song xấu tệ thế này thật không tưởng. - Tôi ngu muội tạm hiểu Ức Trai nghĩa là kẻ chay tịnh chịu oan ức.- Không, Ức là bị đè nén.Ngày 16 tháng 8 năm Nhâm Tuất, tức 19 tháng 9 năm 1442, Nguyễn Trãi, văn hào, thi hào, nhà tư tưởng lỗi lạc của dân tộc Việt Nam rơi đầu giữa pháp trường. Trong kháng chiến chống giặc Ngô, là thư kí của Lê Lợi, Nguyễn Trãi đã cùng vua thực hiện thành công chiến thuật đánh vào lòng người rất khôn khéo. Tuy nhiên đóng góp lớn lao nhất của Nguyễn Trãi với nhà Lê lại nổi bật ở vở kịch trả gươm. Huyền thoại hoàn kiếm là món mẹo chính trị cao tay, định danh vị, chính thống hóa ách đô hộ nhân dân Việt Nam của một triều đình phong kiến kéo dài nhiều trăm năm.Thảo điền tháng 01.2007 Mục lục Nguyễn Ức Trai Nguyễn Ức Trai Trương Thái DuChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: Tác giả / VNthuquan - Thư viện OnlineĐược bạn: Ct.Ly đưa lên vào ngày: 13 tháng 3 năm 2008
Nguyễn Ngọc Tư Nguyệt - người bạn không biết viết văn Với bạn học cũ, tôi luôn luôn dựng lên cảnh ngày gặp nhau thật huy hoàng, bữa đó có thể là ngày họp lớp, đá m học trò xưa vừa ă n tiệc đứ ng vừa nhắc kỷ niệm ngày xưa. Nhưng tưởng tượng cách xa thực tế, tôi gặp Giàu ở bến tàu, nó chạy xe ôm, gặp lúc nó đ ang đỏ mặt tía tai dành khách, nó giật giỏ xách tôi, thiếu đ iều bồng tôi qu ă ng lên xe của nó. Tôi gặp Tiên đ ang làm kế toán viên của ngân hàng, bữa tôi lại làm thủ tục vay vốn, nó cứ càu nhàu, sao cái hình trong giấy không giống người ngoài đờ i, còn mụt ruồi dưới cằm đâ u? Bữa gặp Nguyệt cũng bất ngờ, tôi uốn tóc ở tiệm cạnh nhà Nguyệt, nó nhận ra tôi trước, chạy ào qua, nắm tay tôi lắc lia lắc lịa, mừng thôi là mừng, trong lúc con bạn nó đ ang ngượng nghịu với cái đầ u chôm bôm, tóc tai cuốn từng cuốn như chả giò ( Đá ng lẽ mình nên xuất hiện trước mặt nó bằng dáng vẻ thanh lịch, tươm tất hơn mới phải - người viết v ă n mà). Nó bảo, trời ơi, đú ng là con Tư thiệt rồi, lâu quá không gặp. Rồi nó kéo tôi về nhà mình, tất tả bưng ly nuớc lọc ra, miệng ríu rít hỏi tôi lúc này làm nghề gì, tôi nói viết v ă n, nó à ra rồi nói với cái giọng tội nghiệp xót xa cho phận con bạn bẽ bàng: - Vậy à, ờ, ráng đ i, ai biểu hồi đó mầy giỏi v ă n làm chi. Lời của nó thiết tha đế n nỗi làm tôi tin rằng mình tội nghiệp thiệt, thấy thương quá đ i. Người không viết v ă n sướng hơn mình nhiều. Thì chuyện của Nguyệt chứng minh đ iều đó , nó sống vui lạ lùng. Nó bảo, trái tim của nó chia ba phần tươi đỏ , "Cuộc đờ i tao dành cho ảnh phần nhiều. Phần cho con, phần để cho... phim" (tôi ngờ rằng nó cải biên thơ của Tố Hữu). Hai mươi ba tuổi nó lấy chồng, lấy ngay người yêu đầ u tiên và duy nhất, không phải tơ tưởng chọn lựa người này người kia, không phải lúc nào cũng lơ mơ, thấy thằng nào cười đẹ p đẹ p là... muốn yêu thêm nữa. Nguyệt thì chỉ cần ch ă m ch ă m thương một mình chồng, rồi bây giờ thêm đứ a con trai vừa đủ tuổi vô mẫu giáo. Chuyện chi xài trong nhà thì không phải lo, anh chồng làm chủ một cửa hàng máy v ă n phòng gánh hết. Một ngày Nguyệt lo cơm hai bữa, lo tắm cho con cũng hai lần thêm một lần lo chuyện ngủ cho chồng (nói tới chuyện này nó cười lỏn lẻn bí ẩn lắm). Nó giỏi giang, chu đáo , làm việc nào ra việc ấy (chắc là vì không biết viết v ă n như tôi?). Nấu món nào chồng cũng thích, bạn bè chồng tới nhà hai n ă m sau còn nhắc bữa ă n cá lóc luộc mẻ nghe ngon tới bây giờ. Chủ nhật này làm bánh xèo, Chủ nhật sau nấu bánh canh, Nguyệt đ em cho cha mẹ hai bên, ông bà già cảm độ ng quá chừng, con nhỏ thiệt siêng, hiếu thảo, ngoài chợ bán thiếu gì, làm chi cho cực, con. Nó cười, ra chợ mua không có lòng bằng chính mình bỏ công làm. Họ hàng hai bên có giỗ quảy, nhắn là nó tới, phụ nấu nướng một tay. Một ngày bình thường bắt đầ u từ việc đư a con đ i nhà trẻ, nấu cơm xong, thời gian chờ chồng tan sở, nó ủi đồ lớn đồ nhỏ trong nhà, thay dây thun lưng quần cho con, đơ m lại nút áo chồng, rãnh nữa coi phim bộ Đà i Loan. Nó nói nó không thích phim Mỹ, khó hiểu lắm, hỏng giống phim Đà i Loan, coi lần nào cũng khóc muốn chết. Tánh nó là vậy, trong sáng, chân chất, chuyện trong phim mà nó đ inh ninh như ở ngoài đờ i, như thể xảy ra ở trong xóm nó, kế nhà nó. Cảm giác đó lâu rồi tôi không còn nữa, tôi rành sáu câu cách xếp đặ t, dàn dựng bi kịch, nghề viết v ă n cũng gần giống vậy mà. Nên Nguyệt tội nghiệp tôi là phải rồi. Làm sao tôi có thể sống thanh thản, thoải mái như nó, thí dụ như đ i chợ, gặp đứ a bé ă n xin, nó thương quá móc tiền ra cho rồi thôi, Nguyệt chẳng cần tự hỏi chắc có một bi kịch nào đó trong nhà đứ a trẻ đã đẩ y nó ra đườ ng. Không biết cuộc sống nó thế nào, đê m nay nó ngủ đâ u? Tương lai nó sẽ ra sao? Nguyệt nhìn con chim bay qua mà không phải nghĩ tầm phào, tại sao con chim nó bay có một mình, chắc ba mẹ nó bị bắn rồi, lúc này người ta s ă n chim, hủy hoại môi trường dữ lắm. Những bữa tối nó thanh thản dạo phố với chồng, con, ghé ngã N ă m chợ mua bong bóng bay, hay ă n cháo trắng hột vịt muối, tóm lại là không suy nghĩ gì hết, vui trọn cả tấm lòng. Còn tôi lúc nào cũng nghĩ nhiều lắm, toàn chuyện trời ơi đấ t hỡi, nghĩ coi ông nọ gặp rồi yêu bà kia như thế nào, nghĩ coi anh lính đó sẽ chết như thế nào, con nhỏ nầy hành độ ng làm sao khi thấy ba nó lấy má ghẻ... Nguyệt thì không biết viết v ă n, hồi nhỏ, nó dốt nhất môn nầy. Cô Thủy chê nó thiệt tình quá, không biết tưởng tượng mộng mơ, bay bổng. Vậy mà hay, tâm hồn ở dưới đấ t nên nó biết thịt heo đù i trước mềm hơn đù i sau, cá kèo kho xổi ngon hơn kho mặn, còn cá chốt rửa bằng dầu ă n vừa sạch nhớt vừa mềm, hâm mấy lửa vẫn ngon như thường, nó biết gạo Tài Nguyên ngon cơm hơn Nàng Gáo, quần áo đổ đố ng ở chợ phường vừa tốt vừa rẻ. Nó biết nhiều sự kiện của đầ u trên xóm dưới, nhờ thu lượm đượ c của con nhỏ làm móng dạo, rồi quan tâm, bàn tán như thể chuyện của nhà mình. Nên lần gặp lại này, toàn là Nguyệt nói, tỉ tỉ chuyện dưới đấ t trên trời, luôn cả chuyện chính trị, nó chê tổng thống Mỹ không đẹ p trai, mặt mày xương xẩu, quạu quọ, nó thương chủ tịch M vừa mất chức, tội nghiệp, hồi trước giờ nhờ ổng mà cả xóm ít khi cúp đ iện, đườ ng sá cũng đượ c sửa đà ng hoàng. Rồi Nguyệt nói dài tới chuyện nhà, chuyện nó nhằn chồng đ i nhậu khuya, thằng con hồi hôm này đá i dầm nhưng tuyệt không nói tới v ă n chương, chẳng hỏi nhau lúc này viết đượ c không, nhiều ít, truyện vừa rồi đạ t không, rồi chê bủng chê beo tiểu thuyết mới của ông C nào đó như am hiểu lý luận phê bình lắm. Nó nói lúc rảnh quá chừng nó cũng đọ c sách, sao không thấy ghi tên Tư, tôi hỏi nó đọ c sách gì, Nguyệt kể ra nào là "Tình như mây khói", "Yêu mãi người ơi", "Mai em theo chồng"... loại sách vừa dễ hiểu vừa có chữ bự coi không mỏi mắt. Tôi cười cười, con Nguyệt thắc mắc "Nhớ hồi nhỏ mầy thèo lẻo nhất lớp, bây giờ sao khôn quá trời, bắt người khác nói không à". Tôi cũng giật mình, ờ, ờ mình hỏng biết nói gì, rồi nhìn vẻ mặt lấp lánh cười của nó mà buồn, bao giờ, chừng nào mình mới đượ c sống vui giống vậy? Tôi biểu Nguyệt cứ nói đ i, mình thích nghe hơn. Bởi có những chuyện tôi biết thì tôi để dành... viết hết rồi. Bi kịch ở chỗ là cuộc đờ i nầy không chỉ có bấy nhiêu thôi. Còn nhiều thứ, ngoài v ă n chương thi phú ra, thí dụ như bạn bè. Con Nguyệt khoe, gặp đượ c nhiều bạn bè cũ lắm. Như mới vừa đ i đá m cưới con Thảo "khoai lang" nè, coi ú vậy lấy đượ c chồng đẹ p trai, ờ, bữa đó còn ngồi chung Thúy "ở dơ", bây giờ đ iệu dữ à, mấy ngón tay lúc nào cũng nhón nhón vảnh vảnh thấy cười lắm. Như mới gặp thằng Nguyên hồi hôm qua nè, nó ẵm con đ i chích ngừa ở dưới phường, thằng nhỏ giống hệt nó, tròn vo, ú quây. Như thằng Nghĩa ngày nào cũng lùa hai con bò của ông nội nó ngang nhà, Nguyệt rủ nó ghé uống nước rồi đ i nhưng Nghĩa mắc cỡ, cầm cây roi quất con bò chạy cà cồng cà cưỡng, lầm lũi đ i mất. Như hôm qua gặp ba cặp vợ chồng Nguyệt, Mỹ, Tho rủ nhau đ i nhậu ốc lác luộc sả, ốc bươu nướng, mấy đứ a nhỏ khoái lắm. "Ủa, Tư, mầy hỏng gặp tụi nó hả?", Nguyệt hỏi, giọng tiếc hùi hụi. Tôi bảo không, à, có, mà không, tôi không có bạn, lúc bạn cần, bạn tìm thì tôi đ ang bận viết cái gì đó nên không thể phân tâm mà bỏ đ i chơi, đế n lúc tôi rảnh rang, sực nhớ, chợt thèm gặp một người nào đó để nhậu, nói chuyện chơi thì không còn ai cả. Có gặp thì cũng như gặp Nguyệt bây giờ, lượng sượng, không biết nói chuyện gì, giống như một đứ a ở trên trời, một đứ a dưới đấ t, có chuyện gì chung đâ u. Nguyệt thì chẳng bao giờ cô đơ n như thế. Nó để dành cả tâm hồn không vướng bận để quan tâm, chia sẻ, chu toàn hết thảy chuyện lặt vặt của cuộc đờ i. Còn tôi thì đ ang đứ ng trên biển v ă n chương mênh mang chưa thấy đâ u là bờ bến, đườ ng đờ i cũng dở sống dở chín, chưa đâ u tới đâ u, hai vai không trọn vai nào. Bữa gặp Nguyệt về, tôi ngơ ngẩn hết mấy ngày. Nhớ cái cảnh nó vừa chổng mông lau nhà vừa nghe nhạc, loại nhạc mang âm hưởng dân ca lời lẽ cực kỳ dễ hiểu kiểu như "Nhà anh, giậu đổ bìm leo mà nhà em rào mấy lượt rào, hỏi chớ con đườ ng mòn nào xui hai đứ a gặp nhau...". Cứ đê m về tôi mong đượ c nằm mơ, mong thấy vía mình vừa chơi ô tô với con vừa kể cho chồng nghe một câu chuyện gì đó thật hay lượm ở ngoài chợ cá, vừa kể hai đứ a vừa cười ngắc nga ngắc nghẻo. Xong rồi coi Lưu Tuyết Hoa trong phim "Xóm vắng" vừa khóc với Tần Hán vừa hát "Buồn lòng tôi hát câu dân ca xưa để vơi nỗi sầu... Mấy ai qua cầu mà mong về đư ợc người ơi..." bằng tiếng của ca sỹ Cẩm Ly (vô lý vậy mới gọi là mơ chứ). Nhưng chờ hoài không thấy... Cuộc sống đó , không ít người vẫn "khi dễ" là nhàm chán, cạn èo, tầm thường... Rồi một đô i lần trong đờ i chợt rưng rưng nhận ra, muốn sống vậy cũng không dễ. Mục lục Nguyệt - người bạn không biết viết văn Nguyệt - người bạn không biết viết văn Nguyễn Ngọc TưChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.Đánh máy: thuvu Nguồn: Nhà xuất bản Văn Nghệ TPHCM - thuvuĐược bạn: Thành viên VNTQ đưa lên vào ngày: 28 tháng 11 năm 2007
Nguyễn Ngọc Tư Nguyệt - người bạn không biết viết văn Với bạn học cũ, tôi luôn luôn dựng lên cảnh ngày gặp nhau thật huy hoàng, bữa đó có thể là ngày họp lớp, đá m học trò xưa vừa ă n tiệc đứ ng vừa nhắc kỷ niệm ngày xưa. Nhưng tưởng tượng cách xa thực tế, tôi gặp Giàu ở bến tàu, nó chạy xe ôm, gặp lúc nó đ ang đỏ mặt tía tai dành khách, nó giật giỏ xách tôi, thiếu đ iều bồng tôi qu ă ng lên xe của nó. Tôi gặp Tiên đ ang làm kế toán viên của ngân hàng, bữa tôi lại làm thủ tục vay vốn, nó cứ càu nhàu, sao cái hình trong giấy không giống người ngoài đờ i, còn mụt ruồi dưới cằm đâ u? Bữa gặp Nguyệt cũng bất ngờ, tôi uốn tóc ở tiệm cạnh nhà Nguyệt, nó nhận ra tôi trước, chạy ào qua, nắm tay tôi lắc lia lắc lịa, mừng thôi là mừng, trong lúc con bạn nó đ ang ngượng nghịu với cái đầ u chôm bôm, tóc tai cuốn từng cuốn như chả giò ( Đá ng lẽ mình nên xuất hiện trước mặt nó bằng dáng vẻ thanh lịch, tươm tất hơn mới phải - người viết v ă n mà). Nó bảo, trời ơi, đú ng là con Tư thiệt rồi, lâu quá không gặp. Rồi nó kéo tôi về nhà mình, tất tả bưng ly nuớc lọc ra, miệng ríu rít hỏi tôi lúc này làm nghề gì, tôi nói viết v ă n, nó à ra rồi nói với cái giọng tội nghiệp xót xa cho phận con bạn bẽ bàng: - Vậy à, ờ, ráng đ i, ai biểu hồi đó mầy giỏi v ă n làm chi. Lời của nó thiết tha đế n nỗi làm tôi tin rằng mình tội nghiệp thiệt, thấy thương quá đ i. Người không viết v ă n sướng hơn mình nhiều. Thì chuyện của Nguyệt chứng minh đ iều đó , nó sống vui lạ lùng. Nó bảo, trái tim của nó chia ba phần tươi đỏ , "Cuộc đờ i tao dành cho ảnh phần nhiều. Phần cho con, phần để cho... phim" (tôi ngờ rằng nó cải biên thơ của Tố Hữu). Hai mươi ba tuổi nó lấy chồng, lấy ngay người yêu đầ u tiên và duy nhất, không phải tơ tưởng chọn lựa người này người kia, không phải lúc nào cũng lơ mơ, thấy thằng nào cười đẹ p đẹ p là... muốn yêu thêm nữa. Nguyệt thì chỉ cần ch ă m ch ă m thương một mình chồng, rồi bây giờ thêm đứ a con trai vừa đủ tuổi vô mẫu giáo. Chuyện chi xài trong nhà thì không phải lo, anh chồng làm chủ một cửa hàng máy v ă n phòng gánh hết. Một ngày Nguyệt lo cơm hai bữa, lo tắm cho con cũng hai lần thêm một lần lo chuyện ngủ cho chồng (nói tới chuyện này nó cười lỏn lẻn bí ẩn lắm). Nó giỏi giang, chu đáo , làm việc nào ra việc ấy (chắc là vì không biết viết v ă n như tôi?). Nấu món nào chồng cũng thích, bạn bè chồng tới nhà hai n ă m sau còn nhắc bữa ă n cá lóc luộc mẻ nghe ngon tới bây giờ. Chủ nhật này làm bánh xèo, Chủ nhật sau nấu bánh canh, Nguyệt đ em cho cha mẹ hai bên, ông bà già cảm độ ng quá chừng, con nhỏ thiệt siêng, hiếu thảo, ngoài chợ bán thiếu gì, làm chi cho cực, con. Nó cười, ra chợ mua không có lòng bằng chính mình bỏ công làm. Họ hàng hai bên có giỗ quảy, nhắn là nó tới, phụ nấu nướng một tay. Một ngày bình thường bắt đầ u từ việc đư a con đ i nhà trẻ, nấu cơm xong, thời gian chờ chồng tan sở, nó ủi đồ lớn đồ nhỏ trong nhà, thay dây thun lưng quần cho con, đơ m lại nút áo chồng, rãnh nữa coi phim bộ Đà i Loan. Nó nói nó không thích phim Mỹ, khó hiểu lắm, hỏng giống phim Đà i Loan, coi lần nào cũng khóc muốn chết. Tánh nó là vậy, trong sáng, chân chất, chuyện trong phim mà nó đ inh ninh như ở ngoài đờ i, như thể xảy ra ở trong xóm nó, kế nhà nó. Cảm giác đó lâu rồi tôi không còn nữa, tôi rành sáu câu cách xếp đặ t, dàn dựng bi kịch, nghề viết v ă n cũng gần giống vậy mà. Nên Nguyệt tội nghiệp tôi là phải rồi. Làm sao tôi có thể sống thanh thản, thoải mái như nó, thí dụ như đ i chợ, gặp đứ a bé ă n xin, nó thương quá móc tiền ra cho rồi thôi, Nguyệt chẳng cần tự hỏi chắc có một bi kịch nào đó trong nhà đứ a trẻ đã đẩ y nó ra đườ ng. Không biết cuộc sống nó thế nào, đê m nay nó ngủ đâ u? Tương lai nó sẽ ra sao? Nguyệt nhìn con chim bay qua mà không phải nghĩ tầm phào, tại sao con chim nó bay có một mình, chắc ba mẹ nó bị bắn rồi, lúc này người ta s ă n chim, hủy hoại môi trường dữ lắm. Những bữa tối nó thanh thản dạo phố với chồng, con, ghé ngã N ă m chợ mua bong bóng bay, hay ă n cháo trắng hột vịt muối, tóm lại là không suy nghĩ gì hết, vui trọn cả tấm lòng. Còn tôi lúc nào cũng nghĩ nhiều lắm, toàn chuyện trời ơi đấ t hỡi, nghĩ coi ông nọ gặp rồi yêu bà kia như thế nào, nghĩ coi anh lính đó sẽ chết như thế nào, con nhỏ nầy hành độ ng làm sao khi thấy ba nó lấy má ghẻ... Nguyệt thì không biết viết v ă n, hồi nhỏ, nó dốt nhất môn nầy. Cô Thủy chê nó thiệt tình quá, không biết tưởng tượng mộng mơ, bay bổng. Vậy mà hay, tâm hồn ở dưới đấ t nên nó biết thịt heo đù i trước mềm hơn đù i sau, cá kèo kho xổi ngon hơn kho mặn, còn cá chốt rửa bằng dầu ă n vừa sạch nhớt vừa mềm, hâm mấy lửa vẫn ngon như thường, nó biết gạo Tài Nguyên ngon cơm hơn Nàng Gáo, quần áo đổ đố ng ở chợ phường vừa tốt vừa rẻ. Nó biết nhiều sự kiện của đầ u trên xóm dưới, nhờ thu lượm đượ c của con nhỏ làm móng dạo, rồi quan tâm, bàn tán như thể chuyện của nhà mình. Nên lần gặp lại này, toàn là Nguyệt nói, tỉ tỉ chuyện dưới đấ t trên trời, luôn cả chuyện chính trị, nó chê tổng thống Mỹ không đẹ p trai, mặt mày xương xẩu, quạu quọ, nó thương chủ tịch M vừa mất chức, tội nghiệp, hồi trước giờ nhờ ổng mà cả xóm ít khi cúp đ iện, đườ ng sá cũng đượ c sửa đà ng hoàng. Rồi Nguyệt nói dài tới chuyện nhà, chuyện nó nhằn chồng đ i nhậu khuya, thằng con hồi hôm này đá i dầm nhưng tuyệt không nói tới v ă n chương, chẳng hỏi nhau lúc này viết đượ c không, nhiều ít, truyện vừa rồi đạ t không, rồi chê bủng chê beo tiểu thuyết mới của ông C nào đó như am hiểu lý luận phê bình lắm. Nó nói lúc rảnh quá chừng nó cũng đọ c sách, sao không thấy ghi tên Tư, tôi hỏi nó đọ c sách gì, Nguyệt kể ra nào là "Tình như mây khói", "Yêu mãi người ơi", "Mai em theo chồng"... loại sách vừa dễ hiểu vừa có chữ bự coi không mỏi mắt. Tôi cười cười, con Nguyệt thắc mắc "Nhớ hồi nhỏ mầy thèo lẻo nhất lớp, bây giờ sao khôn quá trời, bắt người khác nói không à". Tôi cũng giật mình, ờ, ờ mình hỏng biết nói gì, rồi nhìn vẻ mặt lấp lánh cười của nó mà buồn, bao giờ, chừng nào mình mới đượ c sống vui giống vậy? Tôi biểu Nguyệt cứ nói đ i, mình thích nghe hơn. Bởi có những chuyện tôi biết thì tôi để dành... viết hết rồi. Bi kịch ở chỗ là cuộc đờ i nầy không chỉ có bấy nhiêu thôi. Còn nhiều thứ, ngoài v ă n chương thi phú ra, thí dụ như bạn bè. Con Nguyệt khoe, gặp đượ c nhiều bạn bè cũ lắm. Như mới vừa đ i đá m cưới con Thảo "khoai lang" nè, coi ú vậy lấy đượ c chồng đẹ p trai, ờ, bữa đó còn ngồi chung Thúy "ở dơ", bây giờ đ iệu dữ à, mấy ngón tay lúc nào cũng nhón nhón vảnh vảnh thấy cười lắm. Như mới gặp thằng Nguyên hồi hôm qua nè, nó ẵm con đ i chích ngừa ở dưới phường, thằng nhỏ giống hệt nó, tròn vo, ú quây. Như thằng Nghĩa ngày nào cũng lùa hai con bò của ông nội nó ngang nhà, Nguyệt rủ nó ghé uống nước rồi đ i nhưng Nghĩa mắc cỡ, cầm cây roi quất con bò chạy cà cồng cà cưỡng, lầm lũi đ i mất. Như hôm qua gặp ba cặp vợ chồng Nguyệt, Mỹ, Tho rủ nhau đ i nhậu ốc lác luộc sả, ốc bươu nướng, mấy đứ a nhỏ khoái lắm. "Ủa, Tư, mầy hỏng gặp tụi nó hả?", Nguyệt hỏi, giọng tiếc hùi hụi. Tôi bảo không, à, có, mà không, tôi không có bạn, lúc bạn cần, bạn tìm thì tôi đ ang bận viết cái gì đó nên không thể phân tâm mà bỏ đ i chơi, đế n lúc tôi rảnh rang, sực nhớ, chợt thèm gặp một người nào đó để nhậu, nói chuyện chơi thì không còn ai cả. Có gặp thì cũng như gặp Nguyệt bây giờ, lượng sượng, không biết nói chuyện gì, giống như một đứ a ở trên trời, một đứ a dưới đấ t, có chuyện gì chung đâ u. Nguyệt thì chẳng bao giờ cô đơ n như thế. Nó để dành cả tâm hồn không vướng bận để quan tâm, chia sẻ, chu toàn hết thảy chuyện lặt vặt của cuộc đờ i. Còn tôi thì đ ang đứ ng trên biển v ă n chương mênh mang chưa thấy đâ u là bờ bến, đườ ng đờ i cũng dở sống dở chín, chưa đâ u tới đâ u, hai vai không trọn vai nào. Bữa gặp Nguyệt về, tôi ngơ ngẩn hết mấy ngày. Nhớ cái cảnh nó vừa chổng mông lau nhà vừa nghe nhạc, loại nhạc mang âm hưởng dân ca lời lẽ cực kỳ dễ hiểu kiểu như "Nhà anh, giậu đổ bìm leo mà nhà em rào mấy lượt rào, hỏi chớ con đườ ng mòn nào xui hai đứ a gặp nhau...". Cứ đê m về tôi mong đượ c nằm mơ, mong thấy vía mình vừa chơi ô tô với con vừa kể cho chồng nghe một câu chuyện gì đó thật hay lượm ở ngoài chợ cá, vừa kể hai đứ a vừa cười ngắc nga ngắc nghẻo. Xong rồi coi Lưu Tuyết Hoa trong phim "Xóm vắng" vừa khóc với Tần Hán vừa hát "Buồn lòng tôi hát câu dân ca xưa để vơi nỗi sầu... Mấy ai qua cầu mà mong về đư ợc người ơi..." bằng tiếng của ca sỹ Cẩm Ly (vô lý vậy mới gọi là mơ chứ). Nhưng chờ hoài không thấy... Cuộc sống đó , không ít người vẫn "khi dễ" là nhàm chán, cạn èo, tầm thường... Rồi một đô i lần trong đờ i chợt rưng rưng nhận ra, muốn sống vậy cũng không dễ. Mục lục Nguyệt - người bạn không biết viết văn Nguyệt - người bạn không biết viết văn Nguyễn Ngọc TưChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.Đánh máy: thuvu Nguồn: Nhà xuất bản Văn Nghệ TPHCM - thuvuĐược bạn: Thành viên VNTQ đưa lên vào ngày: 28 tháng 11 năm 2007
Lê Du Miên Nguyệt Lạc 1. Bác sĩ Ðình uể oải cởi chiếc áo choàng trắng, treo lên gía . Ông trông có vẻ rất mệt mỏi sau một cuộc giải phẫu kéo dài .Ông lại gần cửa sổ kéo tấm màn nhìn ra ngoài . Chiều ở bệnh viện thật buồn, những sợi nắng còn sót lại của một ngày vướng trên những tàng cây tạo ra những bông hoa nhạt nhòa trên sân với vài chiếc lá vàng đầu mùa thu vừa rụng xuống, cô đơn ...Ðình nghĩ cô đơn như đời ông ...Ông miên man nhớ lại câu chuyện vừa xẩy ra tuần trước ... - Anh lại phá con gái em . Câu nói của Huyền, Huyền của hơn ba mươi năm trước, tưởng như đã nguyệt phai theo thời gian nào ngờ ... Câu trách nhẹ nhàng nhưng đối với Ðình nó như một con dao cùn cắm giữa tim ông . Nó dằn vặt ông ngày đêm hơn một tuần qua và chắc nó sẽ còn kéo dài mãi, làm xáo trộn mọi tính toán cho đời ông vốn đã luống tuổi . Ðình nghĩ chắc là mình sẽ cô đơn suốt đời . 2. Hơn ba mươi năm trước Ðình quen Huyền trong một lần Huyền cùng đoàn học sinh sinh viên Saigon tới Tổng y viện Cộng hoà để uỷ lạo các thương bệnh binh ...và Ðình thì đã được Tổng y viện giao cho trách nhiệm hướng dẫn phái đoàn đi thăm tùng khu trại nơi những thương binh đang nằm điều trị . Ðình đã mê ngay đôi mắt buồn như ...muôn thuở của Huyền ...Rồi những ngày kế tiếp là nhũng hẹn hò, những đắm say của tình yêu .Gia đình hai bên đã có dự tính đám cưới cho họ ...Nhưng cuộc đời thật chả ai ngờ , khi niềm vui chưa trọn thì nỗi buồn đã kéo đến, đất nước đổi thay . Ðình khăn gói lên đường tập trung cải tạo , và từ đó Ðình đã mất liên lạc với Huyền ...Cuộc sống cơ cực và lam lũ lao động trong tù cải tạo đã làm cho Ðình dần quên, quên mất cuộc tình thơ mộng ngày nào . 3. Rồi cuối cùng thì Ðình cũng được thả ra và ông đã qua định cư tại Mỹ theo diện HO .Cuộc sống mới thật xa lạ , Ðình đã cố gắng kiên trì để thích hợp với hoàn cảnh mới nên ông đã gạt bỏ mọi quan hệ trai gái cho tới một ngày ông lang thang trên net bắt gặp một bài thơ thật hay, thật lạ ,ký tên Sơ Huyền . Cái tên Huyền và bài thơ dễ thương đã làm Ðình chú ý và ông đã tìm cách làm quen . Những cú phone đã làm họ gần nhau hơn, thân thiện hơn , và tuần trước đây Ðình đã bay đi Georgia để gặp người con gái tên Sơ Huyền . Cả hai đều ngỡ ngàng khi gặp nhau . Ðình thì thấy cô bé sao có khuôn mặt quen qúa , cái ánh mắt buồn muôn thuở như đánh thức ký ức ông , ông mơ màng nhớ lại thuở nào ... - Huyền cứ nghĩ anh gìa lắm . Ðâu ngờ trông anh cũng ... Ðình cười thật dòn : - ...cũng già thiệt phải không ? - Ðâu có , em không có ý nói như vậy . Huyền cũng cười, nụ cười ôi sao mà quen thế . Ðình nói với Huyền mà như nói với ai : - Em vẫn nụ cười đó, vẫn ánh mắt đó ... - Anh nói sao .? Bộ anh đã gặp em ở đâu rồi ... - À ...không ,không ... Họ nói chuyệ miên man bên bờ hồ mặt nước phẳng lặng, thỉnh thoảng một đàn vịt nước vỗ cánh bay lên rồi bày khác từ đâu xà đến ...buổi chiều đang thầm thì tình khúc thu mơ . Ðình thấy lòng mình rộn rã một niềm vui , niềm vui của hơn ba chục năm trước ở hướng trời Ðông , niềm vui đã làm ông quên một lúc là mình đã gìa . 4. Sau vài lần gặp nhau ...Sơ Huyền mời Ðình về nhà cô bé .Theo Huyền bước vào nhà . Ðình chợt khựng lại khi nhìn thấy người đàn bà mà Sơ Huyền vừa giới thiệu là Mẹ . Ðình bối rối ngồi xuống sô pha tay mân mê ly nước . - Anh ...sao vậy ? Không nói gì hết ...Anh ngồi nói chuyện với Mẹ em nhé , em lên phòng thay đồ . Sơ Huyền có vẻ ngạc nhiên nhỏ nhẹ nói ,rồi bước lên thang lầụ Mẹ Huyền thì có vẻ bình tĩnh hơn : -Anh Ðình à ...Ở Việt Nam quê anh ở đâu nhỉ ? Ðình gượng gạo : - Dạ ...Ở Saigon ạ - Trước Anh làm ở Tổng y viện Cộng hoà phải không ? Ðình thật sự lúng túng thì ra bà ta đã nhận ra mình rồi . Ðình lấy lại sư tự nhiên hằng ngày : - Lâu qúa mới gặp lại Huyền . Hơn ba chục năm rồi mà mới gặp tôi đã nhận ra ngay ...Ngày đó tôi đã mất liên lạc với Huyền ... - Chuyện đó mình nói sau nha ...bây giờ anh vẫn còn độc thân ? - Vẫn như ngày nào ... - Anh có biết anh bao nhiêu tuổi rồi không ? Anh lại phá con gái em . "Anh lại phá con gái em " . Mới gặp lại nhau mà em đã trách anh bằng giọng hờn dỗi năm xưa ...Ðình cũng thấy sượng sùng, ông chả biết phải trả lời làm sao . ......... ...... Ngày hôm sau Ðình đã bay về Portland ngay và cũng không một lần dám nhấc phone mặc dù phone reng nhiều lần . - Huyền ơi, anh thật sự không hề có ý định phá em . Em thừa biết anh thật lòng . Ngày xưa nếu thời thế không đổi thay thì có lẽ chúng ta đã nên duyên vợ chồng và ngày nay nếu chẳng gặp cảnh éo le thì biết đâu mình lại chả gá nghĩa trăm năm . Mình có tình nhưng lại chẳng có duyên . Chỉ trách con đường chỉ tình duyên trên bàn tay anh nó không suông sẻ , nó ngoằn nguèo và cụt lủn, để đến tuổi này lại phải chạy trốn tình yêu như kẻ tội đồ . Biết giải thích với em thế nào đây ... Ðình ngồi lẩm bẩm một mình trong lúc ngoài kia mặt trời đã khuất sau rặng thông xa , những hoa nắng nhợt nhạt trên sân cũng tan biến, màn đêm bắt đầu bao phủ khu bệnh viện Eastmoreland buồn tẻ , những ngọn đèn đường cũng bắt đầu hắt ra những tia sáng vàng vọt . Ðình mệt mỏi đứng lên bước ra khỏi phòng , leo lên xe ...Ðình tự hỏi lòng mình biết đi về đâu khi trước mặt là con đường cụt . Chiếc xe lao đi rồi khựng lại , ngập ngừng .Chiếc cell phone lai vang lên những hồi chuông vội vã ... (viết cho người cùng ngồi bên hồ ) Mục lục Nguyệt Lạc Nguyệt Lạc Lê Du MiênChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: GiaomuaĐược bạn: Ct.Ly đưa lên vào ngày: 3 tháng 6 năm 2005
Le Du Mien Nguyet Lac 1. Doctor Dinh lazily took off his white coat and hung it on the rack. He looked very tired after a long surgery. He approached the window and pulled the curtain to look out. The afternoon at the hospital was very sad, the remaining rays of the day's sunlight caught on the trees, creating faded flowers on the yard with a few yellow leaves in early autumn that had just fallen, lonely...Dinh thought about her. as simple as his life... He kept recalling the story that happened just last week... - You destroyed my daughter again. Huyen's words, Huyen from more than thirty years ago, seem to have faded with time... The reprimand was gentle, but for Dinh it was like a blunt knife stuck in his heart. It has tormented him day and night for more than a week and will probably last forever, disturbing all calculations for his already aging life. Dinh thought he would be alone for the rest of his life. 2. More than thirty years ago, Dinh met Huyen when Huyen and a group of Saigon students went to the Republic General Hospital to comfort wounded and sick soldiers... and Dinh was assigned by the General Hospital to guide led the delegation to visit the camp where wounded soldiers were being treated. Dinh immediately fell in love with Huyen's sad eyes like... forever... Then the next days were dates, passionate love. Both families had planned a wedding for them... But life is truly unpredictable, when joy is not yet complete, sadness comes and the country changes. Dinh packed his bags and set off to focus on re-education, and from then on, Dinh lost contact with Huyen... The miserable life and hard labor in a re-education camp made Dinh gradually forget and forget the romantic love of those days. any . 3. Finally, Dinh was released and he settled in the US under HO status. The new life was strange, Dinh tried persistently to adapt to the new situation, so he put aside all concerns. until one day he was wandering around the internet and came across a beautiful, strange poem, signed So Huyen. The name Huyen and the cute poem caught Dinh's attention and he tried to get to know her. The phone calls made them closer and friendlier, and last week Dinh flew to Georgia to meet a girl named So Huyen. Both were surprised to see each other. Dinh saw that the girl had such a familiar face, her eternal sad eyes seemed to awaken his memories, he vaguely remembered the old days... - Huyen thought he was very old. Unexpectedly, he also looks... Dinh smiled crisply: - ... really old, right? - No, I didn't mean to say that. Huyen also smiled, her smile was oh so familiar. Dinh spoke to Huyen as if speaking to someone: - You still have that smile, still those eyes... - What do you say? Where have I seen you before... - Oh...no, no... They talked endlessly on the shore of the lake with the calm water surface, occasionally a flock of water ducks flapped their wings and flew up from somewhere else. The snake comes... in the afternoon, whispering a dreamy love song. Dinh felt his heart filled with joy, the joy of more than thirty years ago in the East, a joy that made him forget for a moment that he was old. 4. After meeting each other a few times...Sister Huyen invited Dinh to her home. Theo Huyen entered the house. Dinh suddenly stopped when he saw the woman that So Huyen had just introduced as Mother. Confused, Dinh sat down on the sofa, fiddling with a glass of water. - You...what's wrong? Don't say anything... I'll sit down and talk to my mother. I'll go to the room to change. Sister Huyen seemed surprised and spoke softly, then walked up the stairs. Huyen's mother seemed calmer: -Mr. Dinh...Where is your hometown in Vietnam? Dinh forced himself: - Yes...In Saigon - Previous You work at the Republic General Hospital, right? Dinh was really confused when she realized she had recognized him. Dinh regained his natural senses every day: - It's been a long time since I last saw Huyen. It's been more than thirty years, but I immediately realized when we first met...That day I lost contact with Huyen... - I'll talk about that later...are you still single now? - Still the same as ever... - Do you know how old you are? You destroyed my daughter again. "You destroyed my daughter again". We just met again and you blamed me in your old sulky voice...Dinh also felt embarrassed, he didn't know how to respond. ......... ...... The next day, Dinh flew back to Portland and never once dared to pick up the phone even though it rang many times. - Huyen, I really have no intention of breaking you. I know you're sincere. In the past, if times hadn't changed, maybe we would have been married, and today, if we didn't encounter difficult situations, maybe we wouldn't have been married for a hundred years. I have love but no fate. I only blame the path of love on my hand for not being smooth, it's zigzag and short, so that at this age I have to run away from love like a criminal. How can I explain it to you... Dinh sat muttering to himself while outside, the sun disappeared behind the distant pine trees, the pale flowers on the yard also disappeared, and darkness began to cover the hospital area. Eastmoreland was dull, the street lights also began to give off yellow rays of light. Dinh tiredly stood up, walked out of the room, climbed into the car...Dinh wondered where to go when in front of him was a dead end road. The car sped away and then stopped, hesitantly. The hybrid cell phone rang hastily ringing... (written to the person sitting by the lake) Table of contents Nguyet Lac Nguyet Lac Le Du MienWelcome to read the titles from the book project for mobile devices. Source: executive: Nguyen Kim Vy. Final words: Thank you for reading the entire story. Source: editor: Nguyen Kim Vy. Source: Giaomua Uploaded by friend: Ct.Ly on: June 3, 2005
Khuyết Danh Nguồn gốc sinh tử Bóng hồng vừa gác núi. Chim chóc từng đàn lũ lượt bay về tổ, kêu la rộn rịp. Trên con đường mòn khúc khuỷu, các bác tiều vội vã cất gánh củi lên vai trở về làng mạc. Tiếng náo động vắng dần. Quang cảnh rừng rú mỗi lúc càng tĩnh mịch. Thỉnh thoảng một vài tiếng chuông chùa ngân nga từ xa vọng lại, dường như để thúc hối những người còn chậm bước chưa ra khỏi cảnh hoang liêu ghê rợn của núi rừng. Một vài tiếng hú kêu vang và sâu tậ trong hốc núi càng làm cho những kẻ lạc loài khiếp đảm. Các loài thú dữ đã bắt đầu cuộc săn mồi thường bữa, chốc chốc điểm lên những tiếng rống ghê người của chúa tể sơn lâm. Từ trong thảo am bê mé núi, một vị Thiền sư lưng mang dây bố, tay chống gậy tre, lần bước trên con đường mòn, tiến dần về phía xóm nhà cạnh mé rừng. Trời vừa sắp tối, vị Thiền sư đến nơi và đi ngay vào cổng, tìm lại nhà hai vợ chồng vị cư sĩ đã thọ giáo với ngàị Sau những lời chào hỏi, hai vợ chồng vị cư sĩ trải chiếu hoa mời ngài an tọạ Trà nước xong, Thiền sư liền bảo: - Từ ngày hai ông bà đã thọ giáo theo Phật đến giờ, tôi thường tới lui để thúc nhắc. Độ này việc tu niệm của ông bà được khá lắm, thật tôi rất lấy làm vui mừng. Song sự đời có hiệp phải có tan, hôm nay tôi đến đây để thăm và cũng để tỏ lòng từ giã hai ông bà. Ngày mai này tôi sẽ lên đường đặng đi giáo hóa một nơi khác. Có lẽ cách nhau lâu, vì vậy tôi không dám hẹn ngày tái ngộ. Trước khi lên đường, tôi xin dặn lại ít lời rất thiết, có thể là châm ngôn tu tập hằng ngàỵ Hai ông bà phải cố gắng niệm Phật đừng để lãng quên, nếu chẳng may có gặp việc gì xảy ra chênh mếch trong gia đình, ngoài xã hội, nên kiên nhẫn bỏ qua, tự an ủi lấy lòng. Giả như một trong hai người lâm bịnh nặng sắp đến giờ hấp hối, người mạnh cần nhất phải cho tĩnh tâm, sửa sang Phật tượng, hộ niệm cho nhau đến phút cuối cùng; đừng nên than khóc, van kêu, làm cho người chết phải bối rối, loạn niệm, khó được vãng sanh. Đây là một rối, loạn niệm, khó được vãng sanh. Đây là một việc khó, mà nhiều người tu hành đã vấp phải. Nên tôi xin căn dặn hai ông bà hãy ghi nhớ. Được vậy, dù tôi ở cách xa, vẫn yên hóa đạo. Dặn dò, chỉ bảo đâu đó xong xuôi, rạng ngày vị Thiền Sư lên đường... Ngày tháng qua mau, phút chốc đã được hai thu, nhờ y theo lời dạy của vị Thiền Sư mà thời gian qua, hai vợ chồng vị cư sĩ ăn ở với nhau rất thuận hòa, hằng ngày làm phước, bố-thí tụng kinh, niệm Phật chuyên cần, lối xóm nhiều người cảm mến. Một hôm người chồng bị chứng thương hàn đau nặng. Người vợ chạy thuốc tìm thầy đã hết hơi mà bịnh đâu vẫn còn nguyên đấỵ Cuối cùng, có một vị danh y đại tài đã được mời đến do công lao của người anh họ chẳng nại xa xôi rước về. Sau khi bắt mạch xong, vị danh y bảo: - Bệnh này không qua khỏi ngày nay, vì mạch đã hết. Vậy bà đừng nên chạy chữa làm gì nữa cho tốn công hao của, hãy lo liệu những vật dưỡng già mà thôi. Người vợ lúc bấy giờ đã tuyệt vọng, tâm thần bà rối loạn, quên hẳn lời dặn bảo của vị Thiền Sư; người chồng cứ nằm mê man mãi. Trong tình cảnh này, vì thương chồng, vì tủi phận, người vợ chỉ có nước gục mặt bên chồng khóc kể liên miên. Mãi đến khi người chồng mở đôi mắt thất thần nhìn vợ lần cuối cùng, mà người vợ còn ghé mặt sát mặt chồng nức nở van kêu: - Mình ơi! Mình nỡ nào chết đi để một mình tôi ở lại sống cô độc lẻ loi; hồi nào khổ sở có nhau, vui buồn cùng chịu, ngày nay mình bỏ tôi mình đi một mình! Mình ơi!. Tội nghiệp người chồng vì nghe lời lẽ quá bi ai của vợ, cảm tình ân ái bất giác nổi lên, nhìn vợ mà hai hàng lệ thắm tuôn ra, nghẹn thở... rồi trút linh hồn. Thần thức ông xuất ra nơi mắt. Người vợ vì gục mặt vào mặt chồng mà khóc, nên thần thức chui ngay vào lỗ mũi vợ, hóa thành một con sâu. Chồng mất rồi, vợ lo tròn bổn phận, chôn cất xong xuôi, đám ma cũng khá lớn, những ơn nghĩa lối xóm cũng lo tròn. Đến khi bà con ai về nhà nấy, bấy giờ bốn bề lặng ngắt, người vợ vì thương chồng bạc phận, xét nỗi cô đơn hiu quạnh, lại thêm lỗ mũi mỗi ngày một lớn và đau nhức vô cùng. Nàng cứ ngày đêm kêu gào than khóc, làm cho những kẻ ở gần, ai cũng phải động lòng thương xót kẻ xấu duyên, bạc phận. Một hôm, vị Thiền Sư trở lại và ghé thăm. Nàng vừa thấy Ngài đã hối hả chạy ra khóc than, kể lể... Vị Thiền Sư ôn tồn bảo: - Bà hãy nín, sống chết là lẽ thường, hễ có sanh là có tử. Người tu hành khi bỏ được thân khổ này như quẳng được cái gánh nặng, bà nên mừng giùm chớ sao lại khóc? Bà còn than khóc thế là bà chưa hiểu đạọ Xinh khuyên bà hãy nghe tôi, có thương nhớ nên để lòng, lo tu hành cho khuây lãng, nếu còn nặng lòng ái ân thì khiếp sau lại gặp nhau nữa, vay trả, trả vay thành một chuỗi oan gia vô cùng tận. Sau khi nghe vị Thiền sư khuyên bảo, như giải được sự đau buồn, nàng liền sửa lại mái tóc, rồi tình cờ khịt mũi mạnh văng ra một con sâu khá lớn. Thiền sư cả cười bảo: - Ở đời ít ai có nghĩa hơn bà, ai đời thương chồng mà khóc đến có sâu trong lỗ mũi. Nàng thẹn quá, toan lấy chân dậm chết con sâu. Vị Thiền Sư vội vàng khoát tay bảo: - Đừng, bà đừng nên làm thế, vì con sâu ấy là chồng bà vậy. Nàng lạ lùng hỏi: - Bạch thầy, chồng tôi suốt đời niệm Phật làm phước, tại sao chết lại sanh vào loài sâu bọ như thế? Thiền Sư bảo: - Bà đã quên lời tôi dặn, khi chồng bà chết bà không lo tụng kinh niệm Phật và khuyên bảo chồng bà khởi chánh niệm, bà lại còn đem tình ân ái kể khóc than, nên chồng bà khi sắp mất, bị lòng thương vợ, nặng tình ân ái mà lãng quên chánh niệm. Vì vậy nên thần thức luyến ái không thể vượt lên cao, mà phải chui vào mũi bà thành sâu thành bọ. Than ôi! Uổng một kẻ tu hành, đã mong thoát kiếp luân hồi lại còn bị ái ân cột chặt. Thật có khác nào con cò muốn cất cánh bay cao để thoát ngoài dò, bẫy; nhưng khốn nỗi nó còn bị sợi dây vô tình cột chặt vào chân. Thế có tội nghiệp không? Thiền Sư lại đến gần con sâu khẽ bảo: - Người trước cũng nghe lời ta chăm chỉ tu hành lẽ ra thời đã được công đức lành mà sanh thiên hay vãng sanh Cực-lạc, song vì tình ân ái của vộ chồng người có còn sâu thẳm ngàn trùng, thành ra khi trút hơi cuối cùng mà còng gây nghiệp chướng nặng nề phải thành loài sâu bọ, thật đáng thương thay! Con sâu năm im từ nãy giờ, dường như nó cũng tự biết hổ thẹn ăn năn. Thiền Sư chú nguyện cho và nhớ công đức lành đã tạo từ trước, nên con sâu quằn quại một lúc rồi chết, thần thức lại sanh vào cõi người. Người vợ đã tự hối và phát nguyện tu hành, niệm Phật, trì chí không thối lui, kết quả bà được vãn sanh. Người ta cũng không phải chỉ có một đời sống ngắn ngủi mở đầu trên cái nôi và chấm hết trên cái mồ. Lọt lòng và nhắm mắt chỉ là bình minh và đêm tối của một thời gian lặng lẽ trôi, không bao giờ tạm ngừng, không có đầu, không có đuôi. Mục lục Nguồn gốc sinh tử Nguồn gốc sinh tử Khuyết DanhChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.Sưu tầm : Leo Nguồn: Được bạn: Ct.Ly đưa lên vào ngày: 1 tháng 11 năm 2009
Khuyết Danh Nguồn gốc sinh tử Bóng hồng vừa gác núi. Chim chóc từng đàn lũ lượt bay về tổ, kêu la rộn rịp. Trên con đường mòn khúc khuỷu, các bác tiều vội vã cất gánh củi lên vai trở về làng mạc. Tiếng náo động vắng dần. Quang cảnh rừng rú mỗi lúc càng tĩnh mịch. Thỉnh thoảng một vài tiếng chuông chùa ngân nga từ xa vọng lại, dường như để thúc hối những người còn chậm bước chưa ra khỏi cảnh hoang liêu ghê rợn của núi rừng. Một vài tiếng hú kêu vang và sâu tậ trong hốc núi càng làm cho những kẻ lạc loài khiếp đảm. Các loài thú dữ đã bắt đầu cuộc săn mồi thường bữa, chốc chốc điểm lên những tiếng rống ghê người của chúa tể sơn lâm. Từ trong thảo am bê mé núi, một vị Thiền sư lưng mang dây bố, tay chống gậy tre, lần bước trên con đường mòn, tiến dần về phía xóm nhà cạnh mé rừng. Trời vừa sắp tối, vị Thiền sư đến nơi và đi ngay vào cổng, tìm lại nhà hai vợ chồng vị cư sĩ đã thọ giáo với ngàị Sau những lời chào hỏi, hai vợ chồng vị cư sĩ trải chiếu hoa mời ngài an tọạ Trà nước xong, Thiền sư liền bảo: - Từ ngày hai ông bà đã thọ giáo theo Phật đến giờ, tôi thường tới lui để thúc nhắc. Độ này việc tu niệm của ông bà được khá lắm, thật tôi rất lấy làm vui mừng. Song sự đời có hiệp phải có tan, hôm nay tôi đến đây để thăm và cũng để tỏ lòng từ giã hai ông bà. Ngày mai này tôi sẽ lên đường đặng đi giáo hóa một nơi khác. Có lẽ cách nhau lâu, vì vậy tôi không dám hẹn ngày tái ngộ. Trước khi lên đường, tôi xin dặn lại ít lời rất thiết, có thể là châm ngôn tu tập hằng ngàỵ Hai ông bà phải cố gắng niệm Phật đừng để lãng quên, nếu chẳng may có gặp việc gì xảy ra chênh mếch trong gia đình, ngoài xã hội, nên kiên nhẫn bỏ qua, tự an ủi lấy lòng. Giả như một trong hai người lâm bịnh nặng sắp đến giờ hấp hối, người mạnh cần nhất phải cho tĩnh tâm, sửa sang Phật tượng, hộ niệm cho nhau đến phút cuối cùng; đừng nên than khóc, van kêu, làm cho người chết phải bối rối, loạn niệm, khó được vãng sanh. Đây là một rối, loạn niệm, khó được vãng sanh. Đây là một việc khó, mà nhiều người tu hành đã vấp phải. Nên tôi xin căn dặn hai ông bà hãy ghi nhớ. Được vậy, dù tôi ở cách xa, vẫn yên hóa đạo. Dặn dò, chỉ bảo đâu đó xong xuôi, rạng ngày vị Thiền Sư lên đường... Ngày tháng qua mau, phút chốc đã được hai thu, nhờ y theo lời dạy của vị Thiền Sư mà thời gian qua, hai vợ chồng vị cư sĩ ăn ở với nhau rất thuận hòa, hằng ngày làm phước, bố-thí tụng kinh, niệm Phật chuyên cần, lối xóm nhiều người cảm mến. Một hôm người chồng bị chứng thương hàn đau nặng. Người vợ chạy thuốc tìm thầy đã hết hơi mà bịnh đâu vẫn còn nguyên đấỵ Cuối cùng, có một vị danh y đại tài đã được mời đến do công lao của người anh họ chẳng nại xa xôi rước về. Sau khi bắt mạch xong, vị danh y bảo: - Bệnh này không qua khỏi ngày nay, vì mạch đã hết. Vậy bà đừng nên chạy chữa làm gì nữa cho tốn công hao của, hãy lo liệu những vật dưỡng già mà thôi. Người vợ lúc bấy giờ đã tuyệt vọng, tâm thần bà rối loạn, quên hẳn lời dặn bảo của vị Thiền Sư; người chồng cứ nằm mê man mãi. Trong tình cảnh này, vì thương chồng, vì tủi phận, người vợ chỉ có nước gục mặt bên chồng khóc kể liên miên. Mãi đến khi người chồng mở đôi mắt thất thần nhìn vợ lần cuối cùng, mà người vợ còn ghé mặt sát mặt chồng nức nở van kêu: - Mình ơi! Mình nỡ nào chết đi để một mình tôi ở lại sống cô độc lẻ loi; hồi nào khổ sở có nhau, vui buồn cùng chịu, ngày nay mình bỏ tôi mình đi một mình! Mình ơi!. Tội nghiệp người chồng vì nghe lời lẽ quá bi ai của vợ, cảm tình ân ái bất giác nổi lên, nhìn vợ mà hai hàng lệ thắm tuôn ra, nghẹn thở... rồi trút linh hồn. Thần thức ông xuất ra nơi mắt. Người vợ vì gục mặt vào mặt chồng mà khóc, nên thần thức chui ngay vào lỗ mũi vợ, hóa thành một con sâu. Chồng mất rồi, vợ lo tròn bổn phận, chôn cất xong xuôi, đám ma cũng khá lớn, những ơn nghĩa lối xóm cũng lo tròn. Đến khi bà con ai về nhà nấy, bấy giờ bốn bề lặng ngắt, người vợ vì thương chồng bạc phận, xét nỗi cô đơn hiu quạnh, lại thêm lỗ mũi mỗi ngày một lớn và đau nhức vô cùng. Nàng cứ ngày đêm kêu gào than khóc, làm cho những kẻ ở gần, ai cũng phải động lòng thương xót kẻ xấu duyên, bạc phận. Một hôm, vị Thiền Sư trở lại và ghé thăm. Nàng vừa thấy Ngài đã hối hả chạy ra khóc than, kể lể... Vị Thiền Sư ôn tồn bảo: - Bà hãy nín, sống chết là lẽ thường, hễ có sanh là có tử. Người tu hành khi bỏ được thân khổ này như quẳng được cái gánh nặng, bà nên mừng giùm chớ sao lại khóc? Bà còn than khóc thế là bà chưa hiểu đạọ Xinh khuyên bà hãy nghe tôi, có thương nhớ nên để lòng, lo tu hành cho khuây lãng, nếu còn nặng lòng ái ân thì khiếp sau lại gặp nhau nữa, vay trả, trả vay thành một chuỗi oan gia vô cùng tận. Sau khi nghe vị Thiền sư khuyên bảo, như giải được sự đau buồn, nàng liền sửa lại mái tóc, rồi tình cờ khịt mũi mạnh văng ra một con sâu khá lớn. Thiền sư cả cười bảo: - Ở đời ít ai có nghĩa hơn bà, ai đời thương chồng mà khóc đến có sâu trong lỗ mũi. Nàng thẹn quá, toan lấy chân dậm chết con sâu. Vị Thiền Sư vội vàng khoát tay bảo: - Đừng, bà đừng nên làm thế, vì con sâu ấy là chồng bà vậy. Nàng lạ lùng hỏi: - Bạch thầy, chồng tôi suốt đời niệm Phật làm phước, tại sao chết lại sanh vào loài sâu bọ như thế? Thiền Sư bảo: - Bà đã quên lời tôi dặn, khi chồng bà chết bà không lo tụng kinh niệm Phật và khuyên bảo chồng bà khởi chánh niệm, bà lại còn đem tình ân ái kể khóc than, nên chồng bà khi sắp mất, bị lòng thương vợ, nặng tình ân ái mà lãng quên chánh niệm. Vì vậy nên thần thức luyến ái không thể vượt lên cao, mà phải chui vào mũi bà thành sâu thành bọ. Than ôi! Uổng một kẻ tu hành, đã mong thoát kiếp luân hồi lại còn bị ái ân cột chặt. Thật có khác nào con cò muốn cất cánh bay cao để thoát ngoài dò, bẫy; nhưng khốn nỗi nó còn bị sợi dây vô tình cột chặt vào chân. Thế có tội nghiệp không? Thiền Sư lại đến gần con sâu khẽ bảo: - Người trước cũng nghe lời ta chăm chỉ tu hành lẽ ra thời đã được công đức lành mà sanh thiên hay vãng sanh Cực-lạc, song vì tình ân ái của vộ chồng người có còn sâu thẳm ngàn trùng, thành ra khi trút hơi cuối cùng mà còng gây nghiệp chướng nặng nề phải thành loài sâu bọ, thật đáng thương thay! Con sâu năm im từ nãy giờ, dường như nó cũng tự biết hổ thẹn ăn năn. Thiền Sư chú nguyện cho và nhớ công đức lành đã tạo từ trước, nên con sâu quằn quại một lúc rồi chết, thần thức lại sanh vào cõi người. Người vợ đã tự hối và phát nguyện tu hành, niệm Phật, trì chí không thối lui, kết quả bà được vãn sanh. Người ta cũng không phải chỉ có một đời sống ngắn ngủi mở đầu trên cái nôi và chấm hết trên cái mồ. Lọt lòng và nhắm mắt chỉ là bình minh và đêm tối của một thời gian lặng lẽ trôi, không bao giờ tạm ngừng, không có đầu, không có đuôi. Mục lục Nguồn gốc sinh tử Nguồn gốc sinh tử Khuyết DanhChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.Sưu tầm : Leo Nguồn: Được bạn: Ct.Ly đưa lên vào ngày: 1 tháng 11 năm 2009
Đàm Hạnh Ngàn lần thương nhớ con gọi: Mẹ ơi! Con bước chân ra khỏi đất Sài Gòn, bước chân ra khỏi mảnh đất đã cưu mang, nuôi sống con. Con trở về với quê hương của mình_đất Nghệ An_nơi con chôn nhau cắt rốn. Đã 10 năm tròn rồi mẹ nhỉ! Con rời khỏi vòng tay yêu thương của mẹ, con bôn ba lên tận nơi đất khách quê người này để tự nuôi sống bản thân. Và hôm nay, con đã thật sự trưởng thành. Con trở về, trở về với ngày xưa yêu dấu, về với những kỉ niệm tuổi thơ đã chết lặng trong con… Con sắp xếp hành lí và ra ga. Mưa. Cơn mưa Sài Gòn tiễn con như ngày đầu tiên con đặt chân đến. Cơn mưa dai dẳng, làm cho bao kỷ niệm tưởng chừng đã ngủ yên trong con được trỗi dậy. Tay con như run lên khi nhớ về cái ngày ấy, cái ngày khủng khiếp trong cuộc đời con…. Con chọn cho mình một chiếc vé ở toa thường, con muốn tạo cho mình cái cảm giác thân thuộc, đúng như cái ngày con rời mảnh đất Nghệ An. Ngồi trên chiếc ghế đã bạc màu, ngả người ra phía sau, con biết rằng con đã thật sự thay đổi. Con nhìn lại Sài Gòn, nhìn lại cái không khí ồn ào náo nhiệt mà mất mấy tháng trời con mới thích nghi được. Con đang dần xa nó, xa đi cái dáng vẻ của “Sài Gòn nhuộm sắc”. Con mỉm cười. Và cũng không quên nói một lời cảm ơn nơi đã cho con cuộc đời thứ 2. Đến sân ga Đà Nẵng, con bước xuống tàu và nhanh chóng bắt chuyến xe buýt đầu tiên để kịp thời gian về Nghệ An. Ngồi trên xe, lâu lắm mới tới nơi, nhưng con không tài nào ngủ được dù chỉ là một chút. Con hồi hộp, sung sướng khi nhìn ngắm lại toàn cảnh quê hương từ lúc sáng sớm cho đến khi bầu trời đã nhá nhem tối qua tấm kính xe buýt còn vương chút bụi đường.Vẫn con đường ấy, vẫn những hàng cây ấy mẹ ạ! Không có gì thay đổi nhiều lắm kể từ lúc con đi. Cảnh vật chào đón con như chào đón một người bạn tri kỷ đã lâu mới gặp. Một cõi thiêng liêng có núi non trùng điệp, có cây, có hoa, có chiếc cầu nhỏ bắc qua dòng suối, có hồ tạo cảnh hình một lá sen, có nước mát trong làm dịu đi cái nóng bức của mùa hè…Vậy mà con đã bỏ đi, bỏ đi để quên tất cả, quên đi cả những thứ con không hề muốn. Bánh xe buýt đã ngừng quay. Cuối cùng, nó cũng đưa được con đến nơi con cần đến. Chân con chạm phải đất Nghệ An, thân xác con đang được bao bọc bởi không khí Nghệ An. Con đã trở về. Con lần theo lối sỏi quen, quay về căn nhà cũ mà gia đình ta đã từng chung sống. Xóm làng đâu ai nhận ra con mẹ ạ! Người ta nhìn con như nhìn một cô gái 25 tuổi đang đi tìm người quen. Đâu ai biết con chính là cô nhóc ngày xưa, cô nhóc đã từng được mọi người yêu quý. Chân con không thể nhấc lên được, con chết lặng. Trước mắt con là ngôi nhà mà con đã từng sống suốt 15 năm tuổi thơ. Ngôi nhà cũ lắm rồi vì con biết chắc rằng nó cũng chẳng được ai chú ý tới mà tu sữa. Nhưng có những thứ vẫn không hề thay đổi, mái ngói vẫn đỏ, hai cây cau bên nhà vẫn cao tít, ao sen vẫn ngát mùi hương. Con cứ đứng vậy mãi, đứng đến khi những kỉ niệm ấu thơ lại ùa về trong con, dù có những thứ con chẳng hề muốn nhớ đến. Con nhớ về khoảng sân thân thuộc mà con với tụi bạn đã chọn làm “căn cứ”. Ngày nào cũng vậy lũ chúng con nô đùa, nghịch ngợm. Rồi chúng con thi nhau làm diều, tìm một khoảng đất trống và cứ thế những cánh diều nương theo gió bay lên tận trời cao, mang theo cả ước mơ, hoài bão của chúng con. Tối về chúng con lại tụm nhau lại đi bẻ bắp trộm, bao nhiêu lần bị rượt bắt mà chúng con có chừa đâu. Chúng con vùi bắp vào trong đống lửa vừa mới nhen, rồi lại ăn lại hát. Ấm cúng lắm, vui lắm mẹ ạ! Nhưng, những tháng ngày ấy đâu phải là quá nhiều với con. Con nghĩ gia đình mình hạnh phúc. Con tin điều ấy. Bởi con biết rằng con chính là kết tinh giữa tình yêu của cha và mẹ. Nhưng, con vô tình đâu hề biết cái tình yêu đó đã mất hẳn trong cái gia đình này. Con nhớ về cái đêm ấy, cái đêm định mệnh trong cuộc đời con. Con đang chìm sâu trong giấc ngủ thì con giật mình tỉnh giấc khi nghe tiếng hét của cha và pha lẫn vào đó là tiếng khóc nức nở của mẹ. Cha đánh mẹ. Con đâu hiểu chuyện gì xảy ra, con vẫn còn quá bé để nhận thức được chuyện ấy. Mẹ lê tấm thân gầy của mẹ sang giường con, mẹ ôm con vào lòng, vỗ về đứa con gái yêu của mẹ. Mẹ bảo sẽ không sao. Con lại tin lời mẹ nói, không hỏi han, con lại chìm sâu vào giấc ngủ trong vòng tay êm ấm của mẹ. Sáng mai thức dậy, cũng như mỗi buổi sáng khác, con lắng nghe tiếng chim chào ngày mới, lắng nghe những âm thanh của buổi bình minh nhưng con biết có một cái gì đó khang khác. Đó là mẹ. Con chạy khắp nhà gọi mẹ không biết bao nhiêu lần. Chạy từ làng trên đến xóm dưới với hy vọng thấy được bóng dáng của mẹ. Nhưng chỉ là vô vọng. Mẹ bỏ con đi mất rồi. Mẹ bỏ đứa con gái của mẹ ở lại. Mẹ không thương con nữa sao. Con khóc. Không biết con phải rơi bao nhiêu nước mắt mẹ mới chịu quay về với con. Rồi một năm sau, cha đưa con tới một ngôi nhà xa lạ, giàu sang và đầy đủ hơn so với nhà mình trước kia. Cha giới thiệu con với một người phụ nữ mà con chẳng hề quen biết. Cha xoa đầu con và nói rằng người phụ nữ ấy sẽ chăm sóc con thay mẹ. Cha đùa phải không mẹ, làm gì có chuyện trên đời này có người sẽ thay thế được mẹ trong lòng con. Mẹ ơi! Con không chịu được. Con muốn tìm mẹ. Con chạy ra giữa trời đêm, màn đêm huyền diệu ôm ấp lấy con nhưng vẫn không đủ để xoa đi nỗi đau trong lòng con. Không một lời từ biệt như mẹ trước kia, con ra đi. Với ít tiền dành dụm được con lên tàu, đi đến nơi phồn hoa, nhộn nhịp_đất Sài Gòn, với hy vọng mẹ đang chờ con ở nơi đó. Con sống cuộc sống hết sức cực khổ, hết bưng bê lại sang rửa chén. Chỉ mới 15 tuổi đầu mà con đã phải tự kiếm sống nuôi bản thân. Nhiều lúc quá mệt mỏi con lại khẽ gọi mẹ ơi, nhưng con sẽ không bao giờ khóc nữa vì con đã tự hứa với lòng mình lúc mẹ ra đi cũng là lúc con sẽ rơi giọt nước mắt cuối cùng trong cuộc đời con. Con phải cứng rắn hơn rất nhiều mới có thể tồn tại ở thế giới quá đỗi xa lạ này. Bà chủ quán tốt bụng đã nhận nuôi con, cho con ăn học. Ban ngày con đi học, chiều về con phụ bà bán bún, ngày tháng cứ thế trôi qua… Con đậu đại học và tốt nghiệp. Rồi cũng đến lúc con xin được việc làm, con lại tìm mẹ, mẹ ơi. Mẹ, sao mẹ lại để con lại một mình, sao không mang con theo với, dù có cơ cực như thế nào con cũng chịu được mà mẹ. Mỗi lần nhớ tới mẹ là mỗi lần tim con lại đau nhói, con gọi mẹ không biết bao nhiêu lần nhưng mà có thấy mẹ đâu. Người ta cưu mang con cho con ăn học, đến lúc con có thể đền ơn thì người ta lại bỏ con ra đi. Bà lão bán bún đó cũng già lắm rồi mẹ ạ. Mà con người thì làm sao có thể đi ngược lại với tự nhiên được mẹ nhỉ? Sao ai cũng quay lưng lại với con, sao không ở bên con. Con sợ cô đơn. Mẹ là người hiểu điều đó hơn ai hết mà mẹ. Và giờ đây con đứng trước ngôi nhà, nơi mà trước đây con cùng mẹ vui đùa. Con nghĩ rằng mẹ cũng sẽ như con, cũng sẽ nhớ về mảnh đất Nghệ An này mà quay lại. Lúc đó con có thể gặp được mẹ, mẹ nhỉ! Dù cho cuộc sống có ra sao thì mẹ vẫn là tất cả của cuộc đời con. Con sẽ luôn gọi tên mẹ: Mẹ ơi! Mục lục Ngàn lần thương nhớ con gọi: Mẹ ơi! Ngàn lần thương nhớ con gọi: Mẹ ơi! Đàm HạnhChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: Tác giả VNthuquan - Thư viện OnlineĐược bạn: Ct.Ly đưa lên vào ngày: 15 tháng 2 năm 2010
Đàm Hạnh Ngàn lần thương nhớ con gọi: Mẹ ơi! Con bước chân ra khỏi đất Sài Gòn, bước chân ra khỏi mảnh đất đã cưu mang, nuôi sống con. Con trở về với quê hương của mình_đất Nghệ An_nơi con chôn nhau cắt rốn. Đã 10 năm tròn rồi mẹ nhỉ! Con rời khỏi vòng tay yêu thương của mẹ, con bôn ba lên tận nơi đất khách quê người này để tự nuôi sống bản thân. Và hôm nay, con đã thật sự trưởng thành. Con trở về, trở về với ngày xưa yêu dấu, về với những kỉ niệm tuổi thơ đã chết lặng trong con… Con sắp xếp hành lí và ra ga. Mưa. Cơn mưa Sài Gòn tiễn con như ngày đầu tiên con đặt chân đến. Cơn mưa dai dẳng, làm cho bao kỷ niệm tưởng chừng đã ngủ yên trong con được trỗi dậy. Tay con như run lên khi nhớ về cái ngày ấy, cái ngày khủng khiếp trong cuộc đời con…. Con chọn cho mình một chiếc vé ở toa thường, con muốn tạo cho mình cái cảm giác thân thuộc, đúng như cái ngày con rời mảnh đất Nghệ An. Ngồi trên chiếc ghế đã bạc màu, ngả người ra phía sau, con biết rằng con đã thật sự thay đổi. Con nhìn lại Sài Gòn, nhìn lại cái không khí ồn ào náo nhiệt mà mất mấy tháng trời con mới thích nghi được. Con đang dần xa nó, xa đi cái dáng vẻ của “Sài Gòn nhuộm sắc”. Con mỉm cười. Và cũng không quên nói một lời cảm ơn nơi đã cho con cuộc đời thứ 2. Đến sân ga Đà Nẵng, con bước xuống tàu và nhanh chóng bắt chuyến xe buýt đầu tiên để kịp thời gian về Nghệ An. Ngồi trên xe, lâu lắm mới tới nơi, nhưng con không tài nào ngủ được dù chỉ là một chút. Con hồi hộp, sung sướng khi nhìn ngắm lại toàn cảnh quê hương từ lúc sáng sớm cho đến khi bầu trời đã nhá nhem tối qua tấm kính xe buýt còn vương chút bụi đường.Vẫn con đường ấy, vẫn những hàng cây ấy mẹ ạ! Không có gì thay đổi nhiều lắm kể từ lúc con đi. Cảnh vật chào đón con như chào đón một người bạn tri kỷ đã lâu mới gặp. Một cõi thiêng liêng có núi non trùng điệp, có cây, có hoa, có chiếc cầu nhỏ bắc qua dòng suối, có hồ tạo cảnh hình một lá sen, có nước mát trong làm dịu đi cái nóng bức của mùa hè…Vậy mà con đã bỏ đi, bỏ đi để quên tất cả, quên đi cả những thứ con không hề muốn. Bánh xe buýt đã ngừng quay. Cuối cùng, nó cũng đưa được con đến nơi con cần đến. Chân con chạm phải đất Nghệ An, thân xác con đang được bao bọc bởi không khí Nghệ An. Con đã trở về. Con lần theo lối sỏi quen, quay về căn nhà cũ mà gia đình ta đã từng chung sống. Xóm làng đâu ai nhận ra con mẹ ạ! Người ta nhìn con như nhìn một cô gái 25 tuổi đang đi tìm người quen. Đâu ai biết con chính là cô nhóc ngày xưa, cô nhóc đã từng được mọi người yêu quý. Chân con không thể nhấc lên được, con chết lặng. Trước mắt con là ngôi nhà mà con đã từng sống suốt 15 năm tuổi thơ. Ngôi nhà cũ lắm rồi vì con biết chắc rằng nó cũng chẳng được ai chú ý tới mà tu sữa. Nhưng có những thứ vẫn không hề thay đổi, mái ngói vẫn đỏ, hai cây cau bên nhà vẫn cao tít, ao sen vẫn ngát mùi hương. Con cứ đứng vậy mãi, đứng đến khi những kỉ niệm ấu thơ lại ùa về trong con, dù có những thứ con chẳng hề muốn nhớ đến. Con nhớ về khoảng sân thân thuộc mà con với tụi bạn đã chọn làm “căn cứ”. Ngày nào cũng vậy lũ chúng con nô đùa, nghịch ngợm. Rồi chúng con thi nhau làm diều, tìm một khoảng đất trống và cứ thế những cánh diều nương theo gió bay lên tận trời cao, mang theo cả ước mơ, hoài bão của chúng con. Tối về chúng con lại tụm nhau lại đi bẻ bắp trộm, bao nhiêu lần bị rượt bắt mà chúng con có chừa đâu. Chúng con vùi bắp vào trong đống lửa vừa mới nhen, rồi lại ăn lại hát. Ấm cúng lắm, vui lắm mẹ ạ! Nhưng, những tháng ngày ấy đâu phải là quá nhiều với con. Con nghĩ gia đình mình hạnh phúc. Con tin điều ấy. Bởi con biết rằng con chính là kết tinh giữa tình yêu của cha và mẹ. Nhưng, con vô tình đâu hề biết cái tình yêu đó đã mất hẳn trong cái gia đình này. Con nhớ về cái đêm ấy, cái đêm định mệnh trong cuộc đời con. Con đang chìm sâu trong giấc ngủ thì con giật mình tỉnh giấc khi nghe tiếng hét của cha và pha lẫn vào đó là tiếng khóc nức nở của mẹ. Cha đánh mẹ. Con đâu hiểu chuyện gì xảy ra, con vẫn còn quá bé để nhận thức được chuyện ấy. Mẹ lê tấm thân gầy của mẹ sang giường con, mẹ ôm con vào lòng, vỗ về đứa con gái yêu của mẹ. Mẹ bảo sẽ không sao. Con lại tin lời mẹ nói, không hỏi han, con lại chìm sâu vào giấc ngủ trong vòng tay êm ấm của mẹ. Sáng mai thức dậy, cũng như mỗi buổi sáng khác, con lắng nghe tiếng chim chào ngày mới, lắng nghe những âm thanh của buổi bình minh nhưng con biết có một cái gì đó khang khác. Đó là mẹ. Con chạy khắp nhà gọi mẹ không biết bao nhiêu lần. Chạy từ làng trên đến xóm dưới với hy vọng thấy được bóng dáng của mẹ. Nhưng chỉ là vô vọng. Mẹ bỏ con đi mất rồi. Mẹ bỏ đứa con gái của mẹ ở lại. Mẹ không thương con nữa sao. Con khóc. Không biết con phải rơi bao nhiêu nước mắt mẹ mới chịu quay về với con. Rồi một năm sau, cha đưa con tới một ngôi nhà xa lạ, giàu sang và đầy đủ hơn so với nhà mình trước kia. Cha giới thiệu con với một người phụ nữ mà con chẳng hề quen biết. Cha xoa đầu con và nói rằng người phụ nữ ấy sẽ chăm sóc con thay mẹ. Cha đùa phải không mẹ, làm gì có chuyện trên đời này có người sẽ thay thế được mẹ trong lòng con. Mẹ ơi! Con không chịu được. Con muốn tìm mẹ. Con chạy ra giữa trời đêm, màn đêm huyền diệu ôm ấp lấy con nhưng vẫn không đủ để xoa đi nỗi đau trong lòng con. Không một lời từ biệt như mẹ trước kia, con ra đi. Với ít tiền dành dụm được con lên tàu, đi đến nơi phồn hoa, nhộn nhịp_đất Sài Gòn, với hy vọng mẹ đang chờ con ở nơi đó. Con sống cuộc sống hết sức cực khổ, hết bưng bê lại sang rửa chén. Chỉ mới 15 tuổi đầu mà con đã phải tự kiếm sống nuôi bản thân. Nhiều lúc quá mệt mỏi con lại khẽ gọi mẹ ơi, nhưng con sẽ không bao giờ khóc nữa vì con đã tự hứa với lòng mình lúc mẹ ra đi cũng là lúc con sẽ rơi giọt nước mắt cuối cùng trong cuộc đời con. Con phải cứng rắn hơn rất nhiều mới có thể tồn tại ở thế giới quá đỗi xa lạ này. Bà chủ quán tốt bụng đã nhận nuôi con, cho con ăn học. Ban ngày con đi học, chiều về con phụ bà bán bún, ngày tháng cứ thế trôi qua… Con đậu đại học và tốt nghiệp. Rồi cũng đến lúc con xin được việc làm, con lại tìm mẹ, mẹ ơi. Mẹ, sao mẹ lại để con lại một mình, sao không mang con theo với, dù có cơ cực như thế nào con cũng chịu được mà mẹ. Mỗi lần nhớ tới mẹ là mỗi lần tim con lại đau nhói, con gọi mẹ không biết bao nhiêu lần nhưng mà có thấy mẹ đâu. Người ta cưu mang con cho con ăn học, đến lúc con có thể đền ơn thì người ta lại bỏ con ra đi. Bà lão bán bún đó cũng già lắm rồi mẹ ạ. Mà con người thì làm sao có thể đi ngược lại với tự nhiên được mẹ nhỉ? Sao ai cũng quay lưng lại với con, sao không ở bên con. Con sợ cô đơn. Mẹ là người hiểu điều đó hơn ai hết mà mẹ. Và giờ đây con đứng trước ngôi nhà, nơi mà trước đây con cùng mẹ vui đùa. Con nghĩ rằng mẹ cũng sẽ như con, cũng sẽ nhớ về mảnh đất Nghệ An này mà quay lại. Lúc đó con có thể gặp được mẹ, mẹ nhỉ! Dù cho cuộc sống có ra sao thì mẹ vẫn là tất cả của cuộc đời con. Con sẽ luôn gọi tên mẹ: Mẹ ơi! Mục lục Ngàn lần thương nhớ con gọi: Mẹ ơi! Ngàn lần thương nhớ con gọi: Mẹ ơi! Đàm HạnhChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: Tác giả VNthuquan - Thư viện OnlineĐược bạn: Ct.Ly đưa lên vào ngày: 15 tháng 2 năm 2010
DK Loan Ngàn Năm Vẫn Đợi Đột nhiên tôi ngưng viết! Không có một yếu tố nào rõ rệt để giải thích cho việc tôi ngưng viết. Tôi chỉ ngưng viết, ngưng khơi khơi vậy thôi. Tôi ngồi hằng giờ trước máy, nhìn chiếc bàn phiếm như một người bệnh nặng sắp chết nhìn tô phở nóng hổi, thơm lừng mùi bò! Đầu tiên tôi nghĩ đến việc cầu cứu với hai bật tiền bối. Một người là nhà báo, kiêm nhân viên giao dịch và lấy quảng cáo của một tờ báo rất ăn khách tại thành phố tôi đang cư ngụ. Còn người kia nguyên là giáo sư môn lý luận văn học của trường chuyên đào tạo các nhà văn trong nước. Một sáng thứ bảy, tôi mời hai ông đến một tiệm phở ngon có tiếng trong vùng. Tôi vô đề ngay trước khi mục ăn phở bắt đầu. Tôi nói mục đích tôi mời hai ông ra đây là xin hai ông cho tôi một lời khuyên hữu dụng để tôi có thể viết văn trở lại. Ông nhà báo không ngần ngại cho ý kiến trước tiên. Theo ông thì tôi đang thiếu đề tài để viết, hoặc là đề tài của tôi quá hạn hẹp để cho tôi có hứng khởi tiếp tục viết. Nhưng tôi lịch sự bác bỏ ngay ý kiến của ông nhà báo. Thứ nhất là những truyện tôi đang viết dỡ dang, đã lên dàn bài và ý tứ đầy cả ra đấy, nhưng tôi vẫn không viết được. Thứ nhì là xung quanh tôi có biết bao nhiêu thứ để tôi có thể lấy làm đề tài. Ngay như trong hảng sản xuất đồ nhựa mà tôi đang làm, hàng ngày xẩy ra biết bao nhiêu chuyện dở khóc dở cười, cũng đủ đề tài để cho tôi viết hơn chục cái truyện ngắn. Khi ông nhà báo lắc đầu chào thua thì ông cựu giáo sư môn lý luận văn học bắt đầu cuộc thẩm vấn. Ông hỏi tôi đã học viết văn ở một trường chính quy nào chưa. Tôi lắc đầu. Ông hỏi tiếp, tôi có thường đọc những sách báo liên quan đến bộ môn phê bình văn học hay không, thì tôi cũng lắc đầu. Sau mấy cái lắc đầu nữa của tôi, thì ông tuyên bố lý do làm tôi ngưng viết: tôi đang rơi vào tình trạng khủng hoản phương hướng sáng tác. Để giải quyết vấn đề thì theo ông, tôi nhất định phải kinh qua một khoá đào tạo chính quy. Ông cho biết dù đã về hưu, nhưng với uy tính và tầm mức ảnh hưởng của ông, thì ông vẫn có thể giới thiệu cho tôi theo một khoá đào tạo ngắn hạng tại trường viết văn ông đã từng giảng dạy. Tôi hỏi khoá học bao lâu thì ông cho biết là học toàn thời chỉ mất một năm. Tôi cảm ơn sự nhiệt thành của ông, nhưng nếu phải về nước một năm để học thì e rằng cá nhân tôi sẽ lâm vào cơn khủng hoản tài chính mất thôi. Vấn đề xem như đến hồi bế tắc thì ba tô phở thơm phức mùi bò được đem ra. Hai bật tiền bối thong thả thưởng thức món phở. Riêng tôi thì không còn bụng nào để ăn, dù chỉ cho vơi một nửa tô phở để gọi là giử lễ với hai ông. Nhưng tôi vẫn không bỏ cuộc. Tôi cầu cứu đến một nhà văn ở tận bên Mỹ. Ông nhà văn nầy là chổ quen biết thân tình với ông chú ruột của tôi. Tuy ông đã có vài tác phẩm được một nhà xuất bản uy tín ở hải ngoại ấn hành, nhưng ông không phải là một nhà văn nổi tiếng. Tôi có đọc truyện ông viết. Tôi thấy văn ông không có gì đặc sắc, truyện cũng không có nhiều tình tiết ly kỳ và đôi khi ông viết hơi dài dòng. Nhưng văn ông viết ra sao, đối với tôi không có gì quang trọng. Quang trọng là tôi muốn nghe ông, với tư cách một nhà văn cho tôi một lời khuyên để tôi có thể viết văn trở lại. Tôi điện thoại cho ông vào ngày thứ bảy. Để tránh cho ông khỏi ngỡ ngàn trước sự đường đột của tôi, tôi tự giới thiệu mình là cháu của người bạn già cố tri của ông. Rồi tôi vắn tắc kể lại tình trạng ngưng viết thật thê thảm của tôi cho ông nghe. Nghe xong, ông ôn tồn khuyên tôi đừng quá quan tâm đến bố cục mà chỉ cần viết theo dòng suy tưởng trong đầu. Theo ông thì viết trước đã, cốt truyện tính sau. Tôi nói với ông là tôi không thể làm được như vậy. Tôi giải thích cho ông rõ, là khi tôi ngồi xuống viết thì trong đầu tôi không phải chỉ có một dòng ý tưởng duy nhất mà có khi đến ba bốn ý tưởng cùng xuất hiện một lúc. Và cũng có rất nhiều lần, đang viết truyện nầy, trong đầu tôi lại nẩy ra một ý mới cho truyện nọ. Nói tóm lại, ý tưởng trong đầu tôi rất dồi dào nhưng cũng rất hỗn độn. Nghe đến đây thì ông nhà văn phát cấu, ông không còn giử ý tứ nữa, phán luôn một câu: "Nói như chú mầy thì hết thuốc chửa rồi. Theo tao thấy thì đầu óc chú mầy chỉ hợp với việc buôn bán chứ không phải để viết văn!". Tôi thấy buồn. Tôi thấy người ta viết dễ dàng lắm kia mà! Có nhiều người cứ chừng như vài tuần là có một truyện ngắn hay ra gì để đăng lên báo mạng. Không lý nào tôi lại không viết được! Có lẽ đoán được tôi không vui, nên ông hứa là sẽ giới thiệu cho tôi một nhà văn khác để tôi tham khảo ý kiến. Nhưng ông yêu cầu tôi phải đợi đúng một tuần để ông liên lạc trước với ông nhà văn kia. Người mà ông nhà văn bên Mỹ giới thiệu cho tôi là một nhà văn lớn trong nước. Một trong những tác phẩm của ông nhà văn nầy đã một thời làm xôn xao dư luận văn đàn, cả trong lẫn ngoài nước. Chính tôi cũng rất thích đọc những truyện của ông viết. Và dĩ nhiên không cần phải khen, văn ông viết rất hay. Tôi chờ đúng một tuần rồi gọi điện thoại cho ông. Hôm đó là ngày chúa nhật. Buổi sáng tôi gọi cho ông thì máy điện thoại di động của ông bị bận. Buổi trưa tôi gọi lại lần nữa thì ông đã tắt máy. Lần thứ ba tôi gọi vào khoảng sáu giờ chiều thì thật may mắn, ông bấm máy trả lời. Không để mất một giây phút quý báu nào của ông, tôi vào đề ngay chứ không dám nói dông dài, dù chỉ là một câu xã giao cho phải phép. Khi vừa nghe tôi tự giới thiệu xong thì ông ngắt lời tôi ngay. Ông nói hối hả và hào hứng: "Tớ nói cho nhà anh biết nhá, văn chưa chín thì viết tất không ra, cứ cố lại sượng mất thôi!". Tôi nghe rõ tiếng cười sảng khoái của ông trong điện thoại, và hình như ông đang ở trong một quán ăn vì tôi có nghe cả tiếng lao xao đàng hát xung quanh ông. Ông bảo tôi cứ chờ, chờ cho đến một lúc một nào đó thì tự khắc sẽ viết được trở lại, còn nhỡ mà không viết được luôn thì thôi, chứ không việc gì phải lo toán lên như vậy. Ông còn nói thêm là đã có nhiều năm, đến một chữ ông cũng không viết ra được, chứ đừng nói chi đến một truyện ngắn. Cuối cùng ông nói với tôi: "Thôi chào nhá, tớ bận lắm, đang chén dồi chó đây!". Tôi gác điện thoại, ngồi thừ người suy nghĩ. Có lẽ tôi không còn cách nào khác hơn là chờ đợi. Tôi sẽ chờ! Nhưng biết chờ đến bao giờ? Melbourne, tháng 9 năm 2005. © DK Loan 2005 Mục lục Ngàn Năm Vẫn Đợi Ngàn Năm Vẫn Đợi DK LoanChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.Đánh máy: DK Loan Nguồn: Vnthuquan - Thư viện OnlineĐược bạn: Ct.Ly đưa lên vào ngày: 8 tháng 9 năm 2005
DK Loan Thousand Years Still Waiting Suddenly I stopped writing! There is no obvious factor to explain my stopping writing. I just stopped writing, stopped writing, that's all. I sat for hours in front of the computer, looking at the gossip table like a seriously ill person about to die looking at a hot bowl of pho, fragrant with the smell of beef! First I thought of asking for help from my two seniors. One person is a journalist, also a trader, and takes advertising from a very popular newspaper in the city where I live. The other is a former professor of literary theory at a school specializing in training domestic writers. One Saturday morning, I invited two men to a famous delicious pho restaurant in the area. I got lost right before the pho section started. I said the purpose of inviting you two here is to ask you to give me some useful advice so I can write again. The journalist did not hesitate to give his opinion first. According to him, I lack a topic to write about, or my topic is too limited for me to be inspired to continue writing. But I politely immediately rejected the journalist's opinion. Firstly, there are stories I'm in the middle of writing, with an outline and ideas all written out, but I still can't write them. Second, there are so many things around me that I can use as a topic. Even in the plastic factory where I work, so many funny and sad things happen every day, enough topics for me to write more than a dozen short stories. When the journalist shook his head in defeat, the former professor of literary theory began the interrogation. He asked me if I had studied writing at any formal school. I shook my head. He continued asking if I often read books and articles related to literary criticism. I also shook my head. After a few more shakes of my head, he announced the reason why I stopped writing: I was in a crisis of creative direction. To solve the problem, according to him, I must undergo a formal training course. He said that even though he was retired, with his prestige and influence, he could still introduce me to a short training course at the writing school he once taught. I asked how long the course was and he told me that studying full-time only takes one year. I thank you for your enthusiasm, but if I had to return home for a year to study, I'm afraid I would personally fall into a financial crisis. The matter seemed to have reached a deadlock when three bowls of fragrant beef-smelling pho were brought out. The two seniors leisurely enjoyed pho. As for me, I don't have any stomach left to eat, even if I only give half a bowl of pho as a courtesy to the two men. But I still don't give up. I asked for help from a writer in America. This writer is a close acquaintance of my uncle. Although he has had several works published by a reputable overseas publisher, he is not a famous writer. I read the story he wrote. I don't think his writing is anything special, his stories don't have many thrilling details, and sometimes he writes a bit too long. But what he wrote is not important to me. The important thing is that I want to hear you, as a writer, give me some advice so I can write again. I phoned him on Saturday. To avoid him being surprised by my suddenness, I introduced myself as the nephew of his old friend. Then I briefly recounted my miserable situation of stopping writing to him. After listening, he gently advised me not to care too much about the layout but to just write according to the thoughts in my head. According to him, write first, plot later. I told him I couldn't do that. I explained to him clearly that when I sit down to write, I don't have just one stream of ideas in my head, but sometimes three or four ideas appear at the same time. And there are many times, while writing this story, a new idea for that story comes to my mind. In short, the ideas in my head are very abundant but also very chaotic. Hearing this, the writer broke down, he no longer kept his wits about him, and said one sentence: "If you say it like you, you've run out of medicine. As far as I can see, your mind is only suitable for business, not business." must be for writing!". I feel sad. I think it's so easy for people to write! There are many people who come up with a good short story every few weeks to post on an online newspaper. There's no way I can't write! Perhaps guessing that I was unhappy, he promised to introduce me to another writer for me to consult. But he asked me to wait exactly one week for him to contact the other writer first. The person the American writer introduced to me was a great writer in the country. One of this writer's works once caused a stir in literary circles, both at home and abroad. I also really enjoy reading his stories. And of course there is no need to praise, his writing is very good. I waited exactly a week then called him. That day was Sunday. When I called him in the morning, his cell phone was busy. At noon, when I called again, he hung up. The third time I called around six o'clock in the afternoon, luckily, he answered the phone. Without wasting a single moment of his precious time, I immediately got to the topic and did not dare to say anything long, even if it was just a polite conversation. As soon as he heard me introduce myself, he immediately interrupted me. He spoke hurriedly and excitedly: "Let me tell you, if your writing is not yet mature, you won't be able to write anything. If you try, you will be embarrassed!". I clearly heard his cheerful laughter on the phone, and it seemed like he was in a restaurant because I could hear the hustle and bustle of singing around him. He told me to just wait, wait until a certain time and then I will automatically be able to write again. If I can't write, then that's fine, but there's no need to worry about math like that. He also added that for many years, he could not write a single word, let alone a short story. Finally he said to me: "Hello, I'm very busy, I'm eating sausage!". I hung up the phone and sat there thinking. Maybe I have no choice but to wait. I will wait! But how long to wait? Melbourne, September 2005. © DK Loan 2005 Table of contents Thousand Years Still Waiting Thousand Years Still Waiting DK LoanWelcome to read books from the book project for mobile devices. Source: author: Nguyen Kim Vy. Final words: Thank you for reading the entire story. Source: author: Nguyen Kim Vy. Typing: DK Loan Source: Vnthuquan - Online Library Uploaded by friend: Ct.Ly on: September 8, 2005
Cấn Vân Khánh Ngày anh im lặng TP:Một ngày như ngày hôm nay, hôm qua, và hôm kia em sống. Em không tin mình vẫn đang còn tỉnh táo, điều sẽ xảy ra với em, lần lượt và nối tiếp nhau, khi em nhìn chiếc điện thoại để ở đầu giường không có tin nhắn của anh vào buổi sáng.Những thói quen đôi khi trở nên tồi tệ, khi em bắt đầu phải tập lại chúng như một sự thiết lập trật tự đã đảo lộn. Mỗi giai đoạn trong đời sống của em, em lại phải duy trì những thói quen nào đó, rồi vô tình thay đổi chúng vì một sự can thiệp nào đó.Có lẽ em phải tập lại ngay từ thính giác và khứu giác, em sẽ không vùi đầu vào gối ngửi mùi chiếc gối bên cạnh em nữa, chiếc gối anh đã gối đầu lên đó, vào lúc nửa đêm khi anh đã ngủ say và bỗng nhiên mùi tóc anh đánh thức em trở dậy. Thật buồn cười, em nhạy cảm đến thế, thì làm sao có thể quên anh.Em nhận ra hôm nay là Chủ nhật, ngày rảnh rỗi nhất trong tuần, sao em vẫn nằm mãi, mở to mắt nhìn lên ngọn đèn chùm trên trần nhà. Mình đi đâu bây giờ, có nhất thiết em phải đi đâu hay không? Em hình dung cảnh anh săn đón em hồi mới quen nhau, từ 8 giờ sáng đỗ xe dưới khu chung cư, kiên nhẫn đợi em tắm gội, là lượt, trang điểm và chọn mùi nước hoa.Thậm chí có hôm anh đợi em tròn một tiếng đồng hồ, nhưng chỉ có tuần đầu tiên anh đợi em như thế, đến khi anh làm cho em thích mê anh rồi thì chỉ cần anh nhăn mặt, càu nhàu, em đã cuống cuồng cho mỗi lần hẹn hò.Giã từ lười biếng, em dậy từ sớm vào nhà tắm và sau khi đã hoàn tất mọi việc em sẽ ngồi đợi anh như một con búp bê an phận. Có lẽ anh chưa bao giờ biết được, vì anh em có thể dậy từ lúc 6 giờ. Vì anh, em có thể làm tất cả, thậm chí quá sức với trí tưởng tượng của mình.Chủ nhật tuần này, không có ai đợi em dưới kia. Em không có cảm giác đói. Một ai đó đã gọi điện cho em, sẽ chẳng phải là anh, em biết. Sau cái đêm cả hai cùng rất say ấy, có sao đâu, buồn quá cũng uống thật nhiều mà vui quá thì cũng uống thật nhiều. Anh đưa em về và cõng em lên cầu thang, hình như em lảm nhảm và hát những câu vô nghĩa, hình như em lặp đi lặp lại câu nói “Em yêu anh”.Anh có nhớ không. Anh sẽ nhớ và anh phải nhớ đó là đêm cuối cùng của chúng ta. Làm sao em biết tất cả lại kết thúc đơn giản như thế, kết thúc ấy cũng giống như người ta bứt đi một chiếc lá xanh non để nhựa ứa trên cành. Đứa bạn gái thân của em hẹn em ở siêu thị gần nhà, chỉ cần bước qua đường là tới mà sao em đã cảm thấy ngại ngần. Em quyết tâm đứng dậy và rửa mặt, tròng chiếc váy hoa vào người, em đã gầy đi. Thật tội nghiệp, em cảm nhận rõ xương hông của mình khi em chống nạnh nhìn xuống đường phố. Làm sao em còn ý thức được lòng kiêu hãnh của mình? Những bóng người nhỏ nhoi chìm vào màu sắc hỗn độn. Anh đang làm gì khi không em?Em đã gọi anh ba lần, kể từ nụ hôn cuối cùng của anh trên thân thể em vào buổi sáng, khi anh thôi nằm quay lưng lại với em để em áp môi vào tấm lưng trần của anh, để em nhìn rõ màu đỏ trên môi anh, và anh ôm em bình thản ngủ thêm. Còn em chỉ biết nằm co quắp, nín thở không dám cựa quậy vì sợ anh bị đánh thức. Em đã gọi anh vào ngay buổi tối hôm đó, khi em bị sốt, những hồi chuông vang lên không người nghe. Em đợi anh gọi lại cho em như anh vẫn thường làm, nhưng anh không gọi. Em bực bội và tức giận, đợi mãi, rồi cảm giác ấy cũng tan biến nhường chỗ cho việc hoảng hốt và lo sợ. Chuyện gì xảy ra với anh thế? Em đến công ty, bật máy tính, em thấy nick anh sáng trưng trên cửa sổ chat. Nick em cũng sáng trưng. Nhưng anh không gọi em.Em sống tạm, vui tạm, ăn tạm trong một ngày. Một ai đó rủ em đi ăn trưa, một đồng nghiệp mới, anh ta mặc chiếc sơ mi xanh nhạt đến vô vọng. Suốt bữa ăn em ngồi lặng lẽ, che đậy nỗi u buồn u ám bằng nụ cười nhạt nhẽo. Anh ta gắp đồ ăn cho em và khen em rất đẹp khi cười.Bầu không khí giữa đám đông ngộp thở, em ra về thật sớm và bắt đầu dằn vặt chính mình. Em có lỗi gì ? Em đi mãi, rất lâu giữa thành phố. Đến lúc mẹ em gọi điện, mẹ hỏi bao giờ anh tính chuyện với em, sớm hay là muộn? Ba mươi chín hôm không đủ để quyết định cho một đám cưới, nhưng anh đã muốn cưới em. Anh thực sự đã nói với em như vậy.Tất cả đã trở nên mất phương hướng, khi em tiếp tục gọi cho anh cuộc gọi cuối cùng và điện thoại của anh ở trong tình trạng không thể nào liên lạc. Buồn cười thật, bắt đầu hoảng hốt là em bắt đầu thấy mình mất trí. Nhưng ký ức về anh lại hiện ra mồn một.Em bước xuống đường, đứa bé hàng xóm lẫm chẫm sà vào lòng em, trên tay cầm rất nhiều kẹo mút xanh đỏ. Em buộc phải mỉm cười và nhận lấy một chiếc, em ngậm nó trong miệng và cảm thấy chóng mặt khi không nghĩ tình trạng của mình lại tồi tệ đến thế. Em băng qua đường trong một buổi sáng không có anh. Thành phố vẫn cuồng quay, chỉ có em cảm thấy mình ngưng thở.Đứa bạn em vác bụng bầu đứng đợi em trước cổng siêu thị, mặt đỏ ửng rạng ngời hạnh phúc, như ngày hôm qua em đã hình dung một ngày kia em cũng giống như thế, sẽ sống một cuộc đời khác, sẽ từ giã cuộc sống độc thân, nấu nướng một mình, ăn tối một mình, cô độc một mình, anh sẽ thay đổi cuộc đời em, nhưng hôm nay anh đã im lặng.Em bước vào siêu thị, tất cả các mặt hàng đang trong mùa giảm giá, những đồ vật dành cho các bà các cô nội trợ. Em có cần gì đâu. Trong khi đứa bạn em hăm hở ngắm nghía từng bộ ly tách sáng bong lấp lánh, em đi qua từng gian hàng đông đúc với gương mặt thờ ơ, bản nhạc cô ca sỹ Nhật cất lên giai điệu buồn bã khiến em đau lòng.Giá như em có thể nhìn thấy anh, ngay bây giờ, giá như em biết được, vì sao anh rời xa em, tháng trước, cũng ở siêu thị này, chúng ta đi lạc và đã tìm thấy nhau nhờ điện thoại, anh đã cầm tay em rất chặt. Nhưng giờ đây, chiếc điện thoại không còn tác dụng, vì anh tự tách anh ra khỏi em mất rồi.Thêm một cú điện thoại, người đồng nghiệp mới mời em đi uống cà phê, đàn ông thời kỳ ve vãn, ai cũng như ai. Em lạnh lùng từ chối, em không thể dối lòng rằng em vẫn lạc quan và còn niềm tin vào tình yêu, khi em đang đứng đây, buông tay rơi vào một thế giới xa lạ, thế giới không có người đàn ông mà trong cơn say, em đã nói yêu anh. Người say không biết nói dối. Anh cũng không nói dối, anh chỉ ra đi trong im lặng mà thôi.Cấn Vân Khánh Mục lục Ngày anh im lặng Ngày anh im lặng Cấn Vân KhánhChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: tienphong.vnĐược bạn: Thanh Vân đưa lên vào ngày: 19 tháng 5 năm 2009
Can Van Khanh The day he was silent TP: A day like today, yesterday, and the day before yesterday I lived. I can't believe I'm still awake, things will happen to me, one after another, when I look at the phone by the bed with no messages from you in the morning. Habits sometimes become So worse, when you start having to practice them again, it's like the established order has been upset. At each stage in my life, I have to maintain certain habits, and then accidentally change them because of some intervention. Maybe I have to retrain right from hearing and smell, I will Don't bury your head in the pillow and smell the pillow next to me, the pillow I laid my head on, in the middle of the night when I was fast asleep and suddenly the smell of your hair woke me up again. It's funny, I'm so sensitive, how can I forget you? I realize today is Sunday, the most free day of the week, why do I still lie down, eyes wide open, looking up at the chandelier on the ceiling? home. Where should I go now? Do I have to go anywhere? I imagine you hunting for me when we first met, parking at 8 a.m. under the apartment complex, patiently waiting for you to shower, iron, put on makeup and choose perfume. There were even days when you waited for me to turn around. an hour, but only the first week I waited for you like that, until you made me fall in love with you, all you had to do was frown and grumble, and I was frantic for every date. Goodbye to laziness. Lazy, I wake up early to go to the bathroom and after finishing everything I will sit and wait for you like a peaceful doll. Maybe you never know, because you can wake up at 6 o'clock. Because of you, I can do everything, even beyond my imagination. This Sunday, there is no one waiting for me down there. I don't feel hungry. Someone called me, it wouldn't have been you, I know. After that night we were both very drunk, it's okay, if we're sad we drink a lot but if we're happy we drink a lot. I took you home and carried you up the stairs. It seemed like you were babbling and singing meaningless sentences. It seemed like you were repeating the words "I love you" over and over again. Do you remember? I will remember and I must remember it was our last night. How did I know it would all end so simply, that ending would be like someone pulling off a young green leaf and letting the sap ooze out of the branch. My close girlfriend asked me on a date at the supermarket near my house. I just had to cross the street to get there, but I felt hesitant. I was determined to get up and wash my face, put on a floral dress, I was already skinny. Poor thing, she clearly felt her hip bones as she put her hands on her hips and looked down at the street. How can I still be aware of my pride? Small human figures sink into chaotic colors. What are you doing without me? I've called you three times, since your last kiss on my body in the morning, when I stopped lying with my back to you so you could press your lips against my bare back. , let me clearly see the red color on your lips, and you hug me calmly to sleep more. As for me, I could only lie curled up, holding my breath, not daring to move for fear of waking him up. I called you that very evening, when I had a fever, the bells rang unheard. I waited for you to call me back like you usually do, but you didn't. I was frustrated and angry, waiting forever, then that feeling disappeared and gave way to panic and fear. What happened to you? I went to the company, turned on the computer, and saw your username shining brightly in the chat window. Nick is also bright. But you don't call me. I live for a while, have fun for a while, eat for a day. Someone asked me out to lunch, a new colleague, he was wearing a hopelessly light blue shirt. During the meal I sat quietly, covering up my sadness with a bland smile. He brought me food and complimented me on my beautiful smile. The atmosphere in the crowd was suffocating, I left early and began to torment myself. What's wrong with me? I walked forever, for a long time in the middle of the city. When my mother called, she asked when you were planning to talk to me, sooner or later? Thirty-nine days is not enough to decide on a wedding, but I want to marry you. I really told you that. It all became disorienting, when you kept calling me the last call and my phone was in an unreachable state. It's funny, when I start to panic, I start to feel like I'm losing my mind. But the memory of you appeared clearly again. I walked down the street, the neighbor's child crawled into my arms, holding many red and green lollipops in his hand. I forced myself to smile and took one, I held it in my mouth and felt dizzy not thinking my condition was that bad. I crossed the street one morning without you. The city was still spinning, only I felt like I couldn't breathe. My friend was carrying her pregnant belly and waiting for me in front of the supermarket gate, her face red and radiant with happiness, just like yesterday I imagined that one day I would also be happy. Just like that, will live a different life, will say goodbye to single life, cook alone, eat dinner alone, be alone, I will change your life, but today you are silent. I walked into the supermarket, all the items were on sale, items for housewives. I don't need anything. While my friend eagerly looked at each set of sparkling glasses, I walked through each crowded stall with an indifferent face, the sad melody of the Japanese singer's music made my heart ache. like you can see me, right now, if only you knew, why you left me, last month, also in this supermarket, we got lost and found each other thanks to the phone, you took My hands are very tight. But now, the phone is no longer effective, because I have separated myself from you. Another phone call, a new colleague invites me out for coffee, men in the flirting period, everyone is like this. Who. I coldly refused, I couldn't lie to myself that I was still optimistic and still had faith in love, when I was standing here, letting go of my hands and falling into a strange world, a world without a man but in the throes of despair. drunk, I said I love you. Drunk people don't know how to lie. He didn't lie, he just left in silence. Can Van Khanh Table of contents The day he was silent The day he was silent Can Van KhanhWelcome to read the first books from the book project for mobile devices. Source: author: Nguyen Kim Vy. Final words: Thank you for reading the entire story. Source: editor: Nguyen Kim Vy. Source: tienphong.vn Posted by friend: Thanh Van on: May 19, 2009
Mầu Hoa Khế Ngày Của Mẹ Các con tôi đã thầm thì to nhỏ hơn cả tháng trời để mang đến cho tôi một bất ngờ trong ngày lễ Mẹ , ngày đó lại cũng chính là ngày tôi đi tham dự một lễ cưới . Tôi đã có mặt tại một hòn đảo của đất nước Mexico là Cabo San lucas . Thời gian sau này tôi ít khi đi đâu xa bởi những niềm vui nho nhỏ trong cuộc sống đang loanh quanh bên cạnh tôi . Tâm hồn bình yên nhìn tháng ngày nhẹ nhàng như màu nắng ban mai , màu lá xanh non còn đẫm ướt sương đêm cũng ngan ngát trong cõi lòng những âm điệu hư vô . Có người hỏi tôi " trong cuộc sống điều gì làm cho chị ghét nhất ? " . Chịu thôi tôi không biết phải trả lời như thế nào , bởi những gì đã làm cho tôi đau khổ cũng đã qua đi từ lâu lắm , đã nhạt nhoà đã phôi pha . Còn hiện tại tôi cố để tìm một điều để ghét cũng không biết tìm ở nơi đâu , còn tương lai ? tôi nghỉ với cách sống , với lối suy nghỉ của tôi hiện giờ tôi chỉ có thêm bạn và tuyệt nhiên chẳng bao giờ có kẻ để mình căm ghét . Khi phải ghét một người tôi nghỉ tội cho bản thân mình trước hết , tôi sợ nhất trong tấm gương phản chiếu lại mà người đó không phải là tôi và tôi bắt chước nhạc sĩ Đức Huy để ca cẩm ... Tôi yêu, xem một cuốn truyện hay, Tiếng chim hót đầu ngày, và yêu biển vắng Tôi yêu, ly cà phê buổi sáng, con đường ngập lá vàng .... Tôi yêu, những gì đến tự nhiên, Những câu nói thành thật và yêu ngày nắng ...Tôi theo chân các con đến nơi đây , để nhìn thấy trên môi con nụ cười thật đẹp , nhìn vào mắt các con dịu dàng ấm áp thương yêu . Cũng may chuyến bay không dài nên khi đến nơi không cảm thấy mệt mỏi . Trên đường xe taxi đưa về khách sạn , đoạn đường khá xa hai bên cây cối héo úa khô cằn , núi non cao ngất . Tôi nhìn không ra sự sống vươn lên nơi đây , tôi bỗng nhớ về quê hương với câu hát " quê hương tôi nghèo lắm ai ơi ...mùa đông thiếu áo ... hè thời thiếu ăn " vậy mà khi tôi trở về quê trên con đường làng đất đỏ sình lầy lồi lõm , về dưới cơn mưa tím thẩm bầu trời tôi vẫn nhìn thấy trong cái tận cùng của sự khốn khổ sức sống vẫn nẩy mầm trên từng thửa mạ , trên từng khóm chuối trên từng vòng khoai vòng sắn trên những liếp rau má xanh rì viên quanh bờ ao . Nơi đây hoạ may lắm mới thoáng thấy vài bụi cây còn xanh , vài bụi hoa vàng đẹp hoang dại lạc lõng giữa một vùng trời hiu hắt nắng cháy . Con đường vẫn tiếp tục trãi dài một bên nhà cửa cũ kỷ ,sự đặc biệt nổi bật nhất là dọc ven bờ biển những dãy nhà xây to cao ngất ngưỡng , lối kiến trúc của dân tộc người Mexico không theo hiện đại , những toà nhà màu sắc của cát của đất sét chưa nung và màu gạch đỏ làm khung viền . Thật lạ sao trước mắt tôi cứ lãng vảng những vách núi sắc cạnh , sỏi đá lởm chởm và cây cối trơ xương . Người tài xế bỏ xuống 2 người khách cùng chung xe ở một khách sạn khác , ông nói tiếng Anh xin phép được đi tắt qua con đường đất bụi nhỏ để đưa tới khách sạn của chúng tôi ,con đường ngắn này làm cho tôi có cảm giác như đang đi trên con đường gập ghềnh đầy ổ gà sau khi chấm dứt chiến tranh . Cánh cổng sắt được mở ra , bên trong chạy dọc theo con đường những bông hoa được chăm tỉa vén khéo kỷ càng , xe ngừng lại trước đại sảnh của khách sạn to cao rộng hun hút tầm nhìn , hai bên hai chậu to trồng hai cây xương rồng cao chọc lên trời , phía trước tượng đồng sắt một người ăn mặc theo giống dân mọi da đỏ cầm cây giáo dài trong tay , dưới chân ông là một vòng tròn to cát vàng trên đó được trồng một loại cây giống cành lá cứng ngắt chỉa nhọn như mũi dao tôi nhìn thấy không đẹp gì cả nhưng mà sống được trong cát chắc phải có dây mơ rễ má với cây xương rồng . Sau khi đeo vào cổ tay một sợi dây giống như chiếc vòng màu đồng đậm trên đó có ghi tên khách sạn dấu hiệu cho biết mình là những người khách chính thức của hôm nay và mang nó cho đến ngày trả phòng để ra về , sợi dây giống như cái thẻ visa mình có thể đi tới bất cứ nhà hàng nào trong phạm vi khách sạn sẽ được ăn uống thoái mái không cần trả tiền . Một thế giới khác đang làm cho tôi hết sức ngỡ ngàng , thế giới trong những cuốn phim nói về những người quí tộc đang diễn ra trước tầm mắt , những người khách trên khắp thế giới hội tụ về đây .Khách sạn xây theo lối kiến trúc của người Trung Đông có những chóp tròn màu đỏ chính giữa vút nhọn một thanh sắt sáng ngời chỉa thẳng lên trời . Người hầu phòng cúi đầu lễ phép đưa chúng tôi đi qua một dãy hành lang dài chẳng khác nào chúng tôi đang đi trong một cung điện vua chúa ngày xưa . Căn phòng tôi chọn có một góc nhỏ nhìn ra biển và ngọn núi phia xa , tiếng sóng vỗ ầm ầm liên tục vang dội tận bên trong phòng ngủ . Mỗi buổi sáng thức dậy bước ra bên ngoài , tôi chỉ biết nói đúng là thiên đàng nơi hạ giới ...nhưng mà thôi cái tôi muốn nói ở đây là sự khác biệt trước và sau cánh cửa sắt khép kín an ninh của khách sạn . Hai thế giới như hai sự đối nghịch của đen và trắng , của đỉnh cao và vực sâu . Buổi chiều tôi nằm nghe sóng vỗ cứ mơ hồ và nghỉ như mình đang bước vào một phim trường , đang đóng vai trò của một công nương được nuông chìu trên từng mỗi nơi đến . Những nhân viên nơi đây được huấn luyện rất lễ phép , họ là những người dân sống trên đảo phần đông đi làm việc trong những khách sạn với giá lương rất thấp , thấp nhất thế giới tôi nghỉ như vậy .Và trong cái không gian rộng lớn này , tôi ngồi bất cứ nơi đâu khi cần cũng có người để ý mang đến thức ăn và thức uống . Tất cả ...tất cả thật đầy đủ tiện nghi thêm phong cảnh thật tuyệt nhưng sao tôi không cười vui thoải mái , cứ mỗi khi nhìn những người làm việc bắt đầu từ sáng tinh mơ cho đến khuya hôm lòng tôi cứ cảm thấy như có một nỗi buồn thật hết sức vô cớ . Tới ngày lễ Mẹ tôi biết ở nhà các em đang làm tiệc chúc mừng cho Mạ tôi , tôi gọi phôn hỏi Mạ có vui không ? , Mạ có trách con vắng mặt không ? . Mạ tôi cười nói rằng " thấy con vui thì cũng giống như Mạ vui " . Ba tôi đưa tay dành phôn để nói với tôi và vẫn nói một câu nói cũ đã bao nhiêu năm qua ... ...nước bao giờ cũng chảy xuống con ơi ... Tối nay các con đã đặt nhà hàng ngay tại khách sạn để chúc mừng tôi trong ngày lễ Mẹ .Tôi cầm trong tay cây bông hồng màu đỏ thắm đưa lên môi hôn khi nghỉ đến nụ cười dịu hiền của Mẹ với niềm hạnh phúc vô bờ ... Mầu Hoa Khế May 12.2010 Mục lục Ngày Của Mẹ Ngày Của Mẹ Mầu Hoa KhếChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: Tác giả/ VNthuquan - Thư viện OnlineĐược bạn: Thanh Vân đưa lên vào ngày: 15 tháng 5 năm 2010
Starflower color Mother's Day My children had been whispering loudly for over a month to bring me a surprise on Mother's Day, which was also the day I was going to attend a wedding. I was on an island in Mexico, Cabo San Lucas. In the future, I rarely go far because the little joys in life are always around me. A peaceful soul looks at the days as gentle as the morning sunlight, the green leaves still wet with night dew also filled the heart with the sounds of nothingness. Someone asked me "What do you hate the most in life?". I don't know how to answer, because what made me suffer has passed a long time ago, has faded and faded away. As for now, I'm trying to find something to hate but don't know where to look. What about the future? I think with my way of life, with my way of thinking now, I only have more friends and absolutely never have anyone to hate. When I have to hate someone, I blame myself first, I'm most afraid of the mirror reflecting back that person is not me and I imitate musician Duc Huy to complain... I love, watch a Good storybook, The sound of birds singing at the beginning of the day, and love the deserted sea I love, the morning cup of coffee, the road filled with yellow leaves.... I love, what comes naturally, Honest sayings and loving sunny days ...I followed my children to this place, to see the beautiful smile on their lips, to look into their gentle, warm and loving eyes. Luckily the flight wasn't long so when we arrived we didn't feel tired. On the way the taxi took us back to the hotel, the road was quite far on both sides with withered and dry trees and towering mountains. I couldn't see the life growing here, I suddenly remembered my hometown with the song "My hometown is very poor...in winter there is a lack of clothes...in the summer there is a lack of food" but when I returned to my hometown On the muddy red dirt village road, back under the dark purple rain and sky, I still see that in the depths of misery, life is still sprouting on each rice field, on each banana clump, on each potato ring. cassava on rows of green pennywort growing around the edge of the pond. Here, you are very lucky to catch a glimpse of a few green bushes, a few wild beautiful yellow flower bushes, lost in the midst of a gloomy sky under the scorching sun. The road continues to stretch along one side of old houses, the most striking feature is along the coast the towering rows of houses, the architecture of the Mexican people is not modern, the buildings the sand color of the unburned clay and the red brick color of the frame. It's strange how sharp cliffs, jagged rocks, and skeletal trees continue to appear before my eyes. The driver dropped off 2 passengers in the same car at another hotel. He spoke English and asked permission to take a shortcut through a small dusty dirt road to our hotel. This short road made me feel I feel like I'm walking on a bumpy road full of potholes after the end of the war. The iron gate was opened, inside ran along the road the flowers were meticulously manicured, the car stopped in front of the hotel's lobby, tall and wide, absorbing the view, on both sides were two large pots planted with two trees. The cactus towered high into the sky. In front of the bronze statue was a man dressed like an Indian holding a long spear in his hand. At his feet was a large circle of golden sand on which was planted a kind of tree with hard branches and leaves. I don't see anything beautiful with sharp points like the tip of a knife, but if one can live in the sand, there must be a vine of roots and cacti. After wearing a string like a dark bronze bracelet with the hotel name written on it as a sign that you are today's official guests, wear it until the check-out day to leave. Just like a visa card, you can go to any restaurant within the hotel and eat comfortably without paying. Another world is making me extremely surprised, the world in movies about noble people is happening before my eyes, guests from all over the world are gathering here. The hotel is built in the architectural style. Middle Eastern bamboo has round red tips in the middle of a sharp, shining iron bar pointing straight to the sky. The maid bowed his head politely and led us through a long hallway as if we were walking in an old king's palace. The room I chose had a small corner overlooking the sea and mountains in the distance. The roaring sound of waves continuously echoed inside the bedroom. Every morning when I wake up and step outside, I can only say it's heaven on earth...but what I want to say here is the difference before and after the hotel's closed iron security door. . The two worlds are like two opposites of black and white, of peaks and valleys. In the afternoon, I lay there listening to the waves lazily and felt like I was entering a movie set, playing the role of a pampered princess at each destination. The staff here are trained to be very polite, they are people living on the island, most of them work in hotels with very low wages, the lowest in the world I think. And in a large space. At this age, wherever I sit, when needed, someone will pay attention and bring me food and drinks. Everything... everything is so fully equipped and the scenery is so wonderful, but why don't I smile happily? Every time I look at the people working from early morning until late at night, I feel like There is a sadness that is completely without cause. On the day of the holiday, my mother knew that the children at home were holding a party to celebrate my mother. I called and asked her if she was happy? , Do you blame me for being absent? . My mother smiled and said, "Seeing you happy makes me happy too". My father raised his hand to use the phone to talk to me and kept saying the same old saying from many years ago... ...water always flows down, my children... Tonight you have booked a restaurant right at the hotel. hotel to congratulate me on Mother's Day. I held a crimson rose in my hand and brought it to my lips to kiss as I thought of Mother's gentle smile with boundless happiness... Color of Starflower May 12, 2010 Table of contents Mother's Day Mother's Day Mau Hoa KheWelcome you to read the first book from the book project for mobile devices. Source: executive: Nguyen Kim Vy. Final words: Thank you for reading the entire story. Source: editor: Nguyen Kim Vy. Source: Author/ VNthuquan - Online Library Posted by friend: Thanh Van on: May 15, 2010
Đinh lê vũ Ngày Gió Ngày gió, buổi sáng thức dậy thật sớm, vừa mở cửa bước ra sân, em đã thấy một cảnh tượng hoang tàn. Trong sân nước đọng thành từng vũng, toàn xác lá rơi và cành cây gãy. Cây ổi trước sân nhà ngày thường trông cao to là thế, bây giờ lá rụng xác xơ. Mẹ thầm thì, giọng đầy vẻ âu lo : “Mưa gió thế này, nước lụt dâng cao chứ chẳng chơi.”, rồi nhắc : “Sáng nay lúc nào ngớt mưa, con ra chợ mua cho mẹ vài chục cân gạo về để sẵn đó chứ không mai mốt gạo tăng giá, không chen chân nổi với người ta...”. Mẹ bỏ lửng câu nói, quày quả bỏ vào nhà. Ở nhà chỉ có hai mẹ con, không có đàn ông, cái gì mẹ cũng lo xa... Em xách chổi ra quét sân, nhận ra trong xác lá rơi và cành cây gãy, có cả những trái ổi non, chợt thấy ngỡ ngàng. Đã ngơt mưa, nhưng vẫn còn gió mạnh, những đám mây đen cứ vùn vụt lướt qua, làm thành những mảng đen kịt cuộn lại, liên tục thay đổi hình dáng. Những ngày thời tiết như thế này, em thấy lười học kinh khủng, cứ muốn đạp xe đi loanh quanh dọc theo con đường bờ sông, để gió mơn man da mặt, làn tóc đến lạnh buốt mới thôi. Thói quen này, em học được từ ngày có anh, bây giờ thì không còn anh nữa, em vẫn không sao bỏ được. Cũng như không sao dứt được anh thường trực hiện diện ra khỏi ý nghĩ của mình... Ngày gió, nỗi nhớ anh trỗi dậy cồn cào, em lại muốn lôi xe đạp ra, đạp xuống con đường dọc bờ sông... Trong nhà, mẹ lục tục choàng áo len, chiếc áo len cũ màu đỏ, kỷ vật còn sót lại của cuộc sống vợ chồng ngắn ngủi của mẹ với ba. Mẹ kể : ba ra đi cũng một ngày trời gió, dáng xách va ly khòm khòm, nặng trĩu để rồi mãi mãi không về trong một tai nạn máy bay. Em biết, mẹ lại nhớ ba khi mang chiếc áo len đỏ ra mặc. Bao nhiêu năm qua rồi, vẫn thế, mẹ càng thêm còm cõi với màu áo len đỏ trong những ngày gió. Em nghe mẹ ho khan, chợt thấy thương mẹ hơn bao giờ hết... Đã gần hai năm rồi kể từ ngày anh đi. Anh đi, cũng bằng chiếc phi cơ trắng lạnh trong một ngày đầy gió. Anh bảo : “Anh đi học, chỉ vài năm thôi.” rồi đi với lời hứa hẹn một ngày về xa mù mịt. Em đã cố tin vào những điều anh nói : “Lúc nào em thấy buồn, cứ thả nỗi buồn theo gió mang đến anh, thế nào anh cũng nhận được...”, tin giữa anh và em có sợi dây thần giao cách cảm vô hình, và cả bài hát anh hát tặng em trong buổi liên hoan bạn bè tổ chức chia tay anh : “Những buồn đau đã qua rồi, tựa thoáng mù sương cuối khung trời, để gió đưa vào lãng quên...” để rồi bất lực nhìn những yêu dấu ngày cũ đang dần dần tuột khỏi tay mình. Ngày gió, em thường chạy một mạch ra bờ sông, làm theo lời anh, đứng giang tay, mở rộng lòng ra, buồn bã nhận ra rằng gió đã chẳng mang đi được điều gì hết, anh có biết ? Những lúc như vậy, em chẳng hề muốn khóc đâu, bặm môi lại, mà sao nghe môi mình mặn chát... Em vẫn đi về trên con đường quen thuộc, hai hàng cây long não có vòm lá xanh ngút, ngày gió, thảng thốt nghe tiếng gió ầm ừ đuổi nhau trên những ngọn cây, tiếng cành cây gãy rơi xuống khô khốc, vụn vỡ, chợt thấy nhớ mong vô cùng một chiếc dù xanh bất ngờ từ sau lưng đưa tới che mưa cho em và giọng cười anh hồn hậu, nồng ấm. Thư anh viết về bây giờ, chỉ toàn kể chuyện ngôi trường học ấm cúng, đi đâu cũng thấy lò sưởi, những buổi picnic trược tuyết ngoài trời, vốc từng nắm tuyết trắng tinh ném vào nhau, cô bạn tóc vàng cùng lớp anh có tiếng cười vang khanh khách... Biết anh còn nhớ những ngày gió nơi thành phố cũ, có mưa rát mặt, có bờ sông mùa lụt nước dâng và nỗi âu lo cơm áo nhọc nhằn của mẹ... Ngày gió, có một người mặc áo mưa, ngồi bó gối trên chiếc ghế đá quen bên bờ sông xưa, nhớ anh, lòng chợt ngậm ngùi khi mơ hồ gió đọc cho nghe một câu thơ ngày cũ : “Trời mùa đông ngày ngắn tình dài...” Mục lục Ngày Gió Ngày Gió Đinh lê vũChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: Đinh Lê VũĐược bạn: Ct.Ly đưa lên vào ngày: 7 tháng 5 năm 2005
Dinh Le Vu Windy Day On a windy day, I woke up early in the morning. As soon as I opened the door and stepped out into the yard, I saw a scene of desolation. In the yard, water stood in puddles, filled with fallen leaves and broken branches. The guava tree in front of the house usually looks so tall and big, but now its leaves are falling and ragged. Mom whispered, her voice full of worry: "With this wind and rain, the flood water will rise." Then reminded: "When the rain stops this morning, go to the market to buy a few dozen pounds of rice for me to have ready." That's it, rice prices will increase in the future, we won't be able to compete with others...". Mom left the sentence unfinished, picked up the fruit and left it in the house. At home there were only the two of us, no man, mother was worried about everything... I took a broom to sweep the yard, realized that among the fallen leaves and broken branches, there were also young guavas, suddenly surprised. Surprise. The rain had stopped, but there was still a strong wind. Dark clouds kept passing by, forming dark, rolling patches that continuously changed shape. On days with weather like this, I feel terribly lazy to study, I just want to ride my bike around along the riverside road, letting the wind caress my face and hair until it's cold. I learned this habit from the day I had you, but now I don't have you anymore, I still can't give it up. It's like I can't get your ever-present presence out of my thoughts... On windy days, my longing for you rises, I want to take out my bike and pedal down the road along the river... In At home, my mother kept wearing a sweater, an old red sweater, a souvenir left over from her short married life with her father. Mom said: Dad left on a windy day, carrying a hunched, heavy suitcase, only to never return in a plane crash. I know, my mother remembered my father when she brought out the red sweater to wear. Many years have passed, and still the same, my mother becomes even more frail wearing a red sweater on windy days. I heard my mother cough and suddenly felt more sorry for her than ever... It's been almost two years since you left. He left, also by a cold white plane on a windy day. He said: "I went to school, just for a few years." then left with the promise of a dark and distant return one day. I tried to believe in what you said: "Whenever you feel sad, just let your sadness be carried to me by the wind, you will receive it...", believe that there is a telepathic bond between you and me. invisible, and also the song I sang to you at the party my friends organized to say goodbye to me: "The sadness has passed, like a mist at the end of the sky, let the wind take it into oblivion..." to then helplessly watched the beloved old days gradually slipping out of my hands. On windy days, I often run all the way to the riverbank, do as you say, stand with my arms outstretched, open my heart, sadly realizing that the wind has not carried anything away, do you know? At times like that, I don't want to cry, I press my lips together, but why do my lips feel salty... I still walk home on the familiar road, two rows of camphor trees with green foliage, on windy days, I was startled to hear the sound of the wind chasing each other in the treetops, the sound of branches breaking and falling dry and broken. Suddenly I felt a great longing for a green umbrella that suddenly came from behind to cover me from the rain and the sound of laughter. He is kind and warm. The letters he wrote about now only told stories about the cozy school, the fireplaces everywhere he went, the outdoor skiing picnics, grabbing handfuls of pure white snow and throwing them at each other, the blonde girl in his class who had laughter echoed loudly... I know you still remember the windy days in the old city, the rain that burned your face, the river banks in the flood season and the worries of your mother's hard work... On windy days, there was a The man wearing a raincoat, sitting with his knees tied up on a familiar stone bench by the old riverbank, missed him. His heart suddenly felt sad when the wind vaguely read to him an old verse: "In winter, days are short, love is long..." Table of contents Windy Day Windy Day Dinh Le VuWelcome to read books from the book project for mobile devices. Source: executive: Nguyen Kim Vy. Final words: Thank you for reading the entire story. Source: editor: Nguyen Kim Vy. Source: Dinh Le Vu Posted by friend: Ct.Ly on: May 7, 2005
Nguyễn Thị Thanh Bình Ngày hai mốt tuổi Tôi bảo "Hôm qua con thấy họ bán hai lồng vẹt ở đường Bạch Đằng. Vẹt bé tí, đẹp lắm mẹ ạ!". Em út tôi cũng hào hứng "Mình nuôi và dạy nó nói được đấy!" Mẹ cau mặt "Dạy dỗ gì, như chúng mày đấy, nói rã cả họng mà có ăn ai đâu. Cho đi học, tốn cơm tốn gạo mà vẫn hỗn láo như ranh ấy thì dạy dỗ được ai?". Tôi cắn môi im lặng, cái bong bóng mưa mỏng manh lấp lánh ngũ sắc đột nhiên vỡ tung thành muôn mảnh nhỏ bắn thẳng vào tim tôi, nhẹ nhàng nhưng đau nhói. Mẹ ấn mạnh con dao phay xuống thân chuối, nghe xoèn xoẹt gờn gợn. "Con với cái... " Tôi bỏ đi, quấn theo chân là câu nói dang dở của mẹ, là ánh mắt em út, là tiếng kêu réo của con lợn choai đến giờ ăn. Bố ngồi ở bàn nước, nhìn tôi không nói gì. Tôi luôn mang ơn bố bởi sự im lặng. Căn gác nhỏ là chỗ của tôi, ở đấy, tôi có thể cắn cho môi mình bật máu và dốc hết nước mắt vào trong, ở đấy tôi có thể cho mình trở về với một thời xa xăm, bình yên và khó với. Em kế tôi đi học về, nó tru tréo "Xe để ngang dọc thế này à. Không cho ai để nữa sao ? Nhiều quá thì vứt me... " Tôi chạy xuống, em út đang đẩy xe đạp của tôi vào sát tường "Bà làm gì trên ấy, đồ đạc của tôi mà mất gì... ". "Đủ rồi đấy!" Bố giận dữ lên tiếng, nó liếc tôi, ôm cặp hậm hực vào nhà. Mấy con lợn vẫn chưa được ăn, không ngừng kêu réo. Bếp tắt, khói mù mịt. Buổi trưa oi ả đến nghẹt thở. 2. Tôi nhớ rất rõ ngày tôi rời quê. Năm ấy tôi chưa tròn 12 tuổi. "Tuổi ấy có thể trông em, nấu cơm cho mẹ được rồi!" Bố nói thế và đón tôi đi vào một nơi xa lắc. Tôi còn hai đứa em, đứa thua tôi 3 tuổi, đứa kém tôi 9 tuổi. Bố đi công tác xa, mẹ đi làm, tôi phải ở nhà trông em và cơm nước. Ngay hôm đầu tiên em kế tôi đã cáu kỉnh "Chị làm gì với cái bếp mà lâu vậy ? Bộ từ bé chị chưa thấy cái bếp dầu sao?" Tôi thật thà lắc đầu, ở quên toàn đun bằng rơm rạ, lá tre khô, khi nào bận quá mới đun bằng những cành tre bé tẹo. Dầu thắp đèn còn không có nữa là bếp dầu. "Xong chưa ? Còn ngồi thiền nữa hả?" Em đặt nồi cơm lên bếp, tôi xòe bàn tay lem nhem dầu ra, nhận thấy rằng cuộc sống nơi này không phải dành cho tôi, và dù miễn cưỡng tôi cũng không thích hợp với nó. Nhưng tôi vẫn lớn lên, và nhạy cảm với tất cả những gì xảy ra quanh mình. 3. Em út hát "Ba thương con vì con giống mẹ, mẹ thương con vì con giống ba... " Tôi thừ người, còn tôi thì sao ? Tôi không giống bố, cũng không giống mẹ thì ai là người thương tôi ? Ông bà ngoại yêu quý tôi nhưng ông bà lại ở quá xa. Vòng tay ông bà dù muốn cũng không thể với tới tôi, và tôi không còn bé để có những nỗi buồn giản đơn để ông bà dỗ dành bằng kẹo. Nỗi buồn của tôi giờ to lớn lắm. Tôi kết bạn với tất cả những người tôi gặp và cũng quên họ nhanh chóng, bởi họ không giống tôi, họ có quá nhiều thứ trong khi tôi chẳng có gì. Tôi lại không dám nhìn vào mặt họ để nhớ. ? Vì thế, họ cứ lướt qua tôi, lặng lẽ như một dòng suối nhỏ và tôi là viên cuội nằm sát mép bờ. Mẹ tôi cho rằng tôi quá dễ dãi trong quan hệ và đem những kinh nghiệm cùng những tấm gương tày liếp ra để răn đe tôi. Em kế tôi cũng đã lớn, nó nhìn tôi như nhìn một người khác lạ với tia mắt xoi mói, bới móc "Bọn con trai ấy tìm thấy gì ở chị kia chứ? Chị cứ chia xẻ trái tim mình cho tất cả đi, để rồi đến một lúc nào đó chị sẽ không còn gì để mà chia nữa đâu!" Tôi nhìn cái áo khoét rộng cổ, hở tay của nó, không nói gì. Tôi chưa cho ai cái gì hết và tôi biết chưa bao giờ nó nói với bạn bè là nó có một người chị, tôi cũng thế. Tôi đi học, một người quen tìm đến nhà. Tôi không biết chuyện gì đã xảy ra. Khi tôi về, bố bảo "Mày không có nề nếp gì cả, mày bỏ ngay cái thói tự do, phóng khoáng ấy đi!" Mẹ thêm "Con này mang tính nết của rừng rú!" "Hay do chúng ta cho nó sống ở quê, nó quen thói tự do ấy rồi!" Tôi bật cười khan, tưởng mình sắp ngất đi vì đau đớn, niềm tin cay xè trong mắt, mặn đắng trong mồm. Tuổi thơ của tôi, thiên đường và máu thịt của tôi đang bị người ta vò cho nhàu nhĩ trước khi ném nó xuống đất. Tôi không bảo vệ được chúng bởi quá yếu đuối và nhút nhát. Về quê ư ? Lối về chốn bình yên xưa đã xa khuất rồi, tôi không còn ai để được yêu thương và an ủi. Con bạn bảo "Bỏ nhà đến tao ở! Người như mày không chết được đâu!" Tôi lại bật cười, con bạn này đâu có thân, có gần gũi với tôi ? 4. Tôi chơi với Lê, thân hơn bất kỳ ai nhưng chưa một lần cho Lê biết nhà. Chúng tôi thường gặp nhau trong một quán cafe ở cuối con hẻm nhỏ bé tí, hơi tối và âm ẩm mùi rêu. Ngồi nhìn nhau, chuyện dăm ba câu rồi chia tay, thế là quá đủ. Tôi sợ phải nhìn Lê bằng con mắt khác của những kẻ bàng quan, tôi muốn giữ Lê cho riêng mình. Tôi không cảm thấy đau đớn khi nghe em tôi giễu cợt "Bằng tuổi chị mà không có bồ là dở lắm!" Em út hỏi "Thế chị ba có bồ chưa?" "Cả đống, thiếu điều xỏ chuỗi phơi khô nữa thôi!" Em út bật cười "Chị cứ làm như bồ là nấm mèo không bằng!" Tôi không biết thế nào mới gọi là bồ nhưng khi nghĩ đến Lê tôi luôn ấm lòng với cảm giác dịu êm. Để chứng minh, hôm sau em tôi đưa về một thằng con trai tóc dài phủ gáy. Mẹ lầm bầm lúc xuống bếp pha nước "Con trai gì trông như tướng cướp, tay vàng khói thuốc!" Tôi lấy ống thổi lửa nấu nốt nồi canh, nghe mẹ đon đả: "Cháu ở lại ăn cơm với gia đình!" Thằng con trai ấy lí nhí điều gì và tiếng bố đĩnh đạc "ừ thôi cháu về, lúc nào rảnh rỗi lên thăm hai bác". Tôi múc canh ra tô, em tôi chạy xộc xuống "Chị không còn chỗ nào đứng hay sao ? Lần sau làm ơn... " Thì ra nó cũng nhìn thấy ánh mắt thằng con trai ấy liếc tôi vội vã lúc mới đến. Tôi bảo "Cậu ấy không biết chị là ai đấy thôi!" Nó hứ dài bỏ đi, muôi canh rót vào tay tôi bỏng rát. Lúc ngủ trưa, nó lấy gối đặt cuối giường tuyên bố trở đầu trở đuôi "Chị đừng có gác chân lên mặt tôi đấy!" Quả thật tôi hay có thói quen gác chân lên chăn. Hồi còn ở quê, ngủ với bà, tôi hay thục chân vào giữa hai chân bà rồi ngoáy dù lúc ấy tôi đang ngủ say. Đến giờ tôi vẫn chưa bỏ được. 5. Mẹ cho tôi một ít tiền "Cầm lấy mà tiêu vặt!" Tôi ngơ ngác nhìn mấy tờ bạc "Con xin!" "Con gái lớn rồi, đừng làm gì nông nổi quá trớn, con phải làm gương cho các em!" Nước mắt tôi cứ trào ra, không ngăn được. Gặp em út trên gác, tôi hỏi "Em nhờ chị giảng bài à?" "Không, em lên bơm mực - rồi nó cười toe toét - Em thấy chị dạo này khác làm sao á!" Lê bảo "Em phải sôi nổi lên một tí, nhiều lúc em cười mà mắt như có đám tang ấy!" và nắm chặt tay tôi.Tôi bối rối rụt tay về "Có bỏ em lên bếp gas cũng khó mà sôi dược. Hay chúng mình thôi đi!" Lê bỏ đi, hấp tấp và buồn rầu. Tôi sợ mình sẽ làm tổn thương anh, vậy chúng tôi chia tay từ bây giờ sẽ dễ dàng và đỡ đau đớn hơn. Nhưng tôi chắc mình sẽ khó mà quên Lê được như tôi đã từng quên những người khác, bởi tôi đã nhìn vào mắt Lê để tìm kiếm mình và Lê đã trải lòng ra trước tôi. Tôi ngồi trong quán suốt buổi chiều, ly cafe đã lạnh tanh và lờ mờ đóng váng lại. Tôi chẳng còn gì để giữ cũng như để mất, tôi đã là kẻ trắng tay rồi, chợt tôi nhớ Lê đến quay quắt, thèm được nhìn vào mắt anh, một lần nư!~a, dù là lần cuối cùng cũng được. Được nói với anh một câu thôi rồi hẵng chia xa... 6. Tôi đến quán cafe cũ, tỉ mỉ nhổ từng đám rêu đã trổ hoa, và lấy chúng chơi đá gà, bên nào đứt đầu coi như thua. Tay phải là Lê tay trái là tôi, không biết từ bao giờ trong tôi đã có sự phân định rạch ròi ấy! Lê ơi! "Về chưa em?" Tôi giật mình, đường phố đã sáng đèn và Lê đang ở cạnh tôi. "Em không muốn về, em muốn ngồi đây để nghĩ!" Anh không nói, lôi tôi đứng dậy, tôi vùng vằng "Anh về đi, anh tìm thấy gì ở tôi mà quay lại, cho tôi được yên!" Lê lầm lì đi cạnh tôi, tôi thấy tuổi thơ của mình đang chắp cánh bay, tôi thấy tôi của hôm nay và trong những bóng mờ của tương lai, tôi thấy Lê ở trong đó. Lê đưa tôi về nhà tôi đang ăn cơm, tiếng tivi với tiếng cười nói vang ra nghe ấm áp lạ kỳ. Tôi thèm được sà vào ngồi cạnh mẹ, chìa cái bát không ra, bảo "Con xin mẹ bát cơm!" rồi tiện tay búng tai em út một cái cho nó kêu váng lên, và sau đó tiếng cằn nhằn be bé của mẹ. Tôi bảo "Em về!" Lê gật "ừ, chúc em hạnh phúc, duy có điều mong em nhớ đến trò chơi hôm nay và hôm qua!". Tôi sững người, bật khóc trong tay Lê. Tôi đã 21 tuổi, tuổi không dành cho những trò chơi... NTTB - (Đại học Duy Tân - Đà Nẵng)Hết Mục lục Ngày hai mốt tuổi Ngày hai mốt tuổi Nguyễn Thị Thanh BìnhChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: may4phuong.netĐược bạn: mickey đưa lên vào ngày: 5 tháng 4 năm 2004
Nguyễn Thị Thanh Bình Ngày hai mốt tuổi Tôi bảo "Hôm qua con thấy họ bán hai lồng vẹt ở đường Bạch Đằng. Vẹt bé tí, đẹp lắm mẹ ạ!". Em út tôi cũng hào hứng "Mình nuôi và dạy nó nói được đấy!" Mẹ cau mặt "Dạy dỗ gì, như chúng mày đấy, nói rã cả họng mà có ăn ai đâu. Cho đi học, tốn cơm tốn gạo mà vẫn hỗn láo như ranh ấy thì dạy dỗ được ai?". Tôi cắn môi im lặng, cái bong bóng mưa mỏng manh lấp lánh ngũ sắc đột nhiên vỡ tung thành muôn mảnh nhỏ bắn thẳng vào tim tôi, nhẹ nhàng nhưng đau nhói. Mẹ ấn mạnh con dao phay xuống thân chuối, nghe xoèn xoẹt gờn gợn. "Con với cái... " Tôi bỏ đi, quấn theo chân là câu nói dang dở của mẹ, là ánh mắt em út, là tiếng kêu réo của con lợn choai đến giờ ăn. Bố ngồi ở bàn nước, nhìn tôi không nói gì. Tôi luôn mang ơn bố bởi sự im lặng. Căn gác nhỏ là chỗ của tôi, ở đấy, tôi có thể cắn cho môi mình bật máu và dốc hết nước mắt vào trong, ở đấy tôi có thể cho mình trở về với một thời xa xăm, bình yên và khó với. Em kế tôi đi học về, nó tru tréo "Xe để ngang dọc thế này à. Không cho ai để nữa sao ? Nhiều quá thì vứt me... " Tôi chạy xuống, em út đang đẩy xe đạp của tôi vào sát tường "Bà làm gì trên ấy, đồ đạc của tôi mà mất gì... ". "Đủ rồi đấy!" Bố giận dữ lên tiếng, nó liếc tôi, ôm cặp hậm hực vào nhà. Mấy con lợn vẫn chưa được ăn, không ngừng kêu réo. Bếp tắt, khói mù mịt. Buổi trưa oi ả đến nghẹt thở. 2. Tôi nhớ rất rõ ngày tôi rời quê. Năm ấy tôi chưa tròn 12 tuổi. "Tuổi ấy có thể trông em, nấu cơm cho mẹ được rồi!" Bố nói thế và đón tôi đi vào một nơi xa lắc. Tôi còn hai đứa em, đứa thua tôi 3 tuổi, đứa kém tôi 9 tuổi. Bố đi công tác xa, mẹ đi làm, tôi phải ở nhà trông em và cơm nước. Ngay hôm đầu tiên em kế tôi đã cáu kỉnh "Chị làm gì với cái bếp mà lâu vậy ? Bộ từ bé chị chưa thấy cái bếp dầu sao?" Tôi thật thà lắc đầu, ở quên toàn đun bằng rơm rạ, lá tre khô, khi nào bận quá mới đun bằng những cành tre bé tẹo. Dầu thắp đèn còn không có nữa là bếp dầu. "Xong chưa ? Còn ngồi thiền nữa hả?" Em đặt nồi cơm lên bếp, tôi xòe bàn tay lem nhem dầu ra, nhận thấy rằng cuộc sống nơi này không phải dành cho tôi, và dù miễn cưỡng tôi cũng không thích hợp với nó. Nhưng tôi vẫn lớn lên, và nhạy cảm với tất cả những gì xảy ra quanh mình. 3. Em út hát "Ba thương con vì con giống mẹ, mẹ thương con vì con giống ba... " Tôi thừ người, còn tôi thì sao ? Tôi không giống bố, cũng không giống mẹ thì ai là người thương tôi ? Ông bà ngoại yêu quý tôi nhưng ông bà lại ở quá xa. Vòng tay ông bà dù muốn cũng không thể với tới tôi, và tôi không còn bé để có những nỗi buồn giản đơn để ông bà dỗ dành bằng kẹo. Nỗi buồn của tôi giờ to lớn lắm. Tôi kết bạn với tất cả những người tôi gặp và cũng quên họ nhanh chóng, bởi họ không giống tôi, họ có quá nhiều thứ trong khi tôi chẳng có gì. Tôi lại không dám nhìn vào mặt họ để nhớ. ? Vì thế, họ cứ lướt qua tôi, lặng lẽ như một dòng suối nhỏ và tôi là viên cuội nằm sát mép bờ. Mẹ tôi cho rằng tôi quá dễ dãi trong quan hệ và đem những kinh nghiệm cùng những tấm gương tày liếp ra để răn đe tôi. Em kế tôi cũng đã lớn, nó nhìn tôi như nhìn một người khác lạ với tia mắt xoi mói, bới móc "Bọn con trai ấy tìm thấy gì ở chị kia chứ? Chị cứ chia xẻ trái tim mình cho tất cả đi, để rồi đến một lúc nào đó chị sẽ không còn gì để mà chia nữa đâu!" Tôi nhìn cái áo khoét rộng cổ, hở tay của nó, không nói gì. Tôi chưa cho ai cái gì hết và tôi biết chưa bao giờ nó nói với bạn bè là nó có một người chị, tôi cũng thế. Tôi đi học, một người quen tìm đến nhà. Tôi không biết chuyện gì đã xảy ra. Khi tôi về, bố bảo "Mày không có nề nếp gì cả, mày bỏ ngay cái thói tự do, phóng khoáng ấy đi!" Mẹ thêm "Con này mang tính nết của rừng rú!" "Hay do chúng ta cho nó sống ở quê, nó quen thói tự do ấy rồi!" Tôi bật cười khan, tưởng mình sắp ngất đi vì đau đớn, niềm tin cay xè trong mắt, mặn đắng trong mồm. Tuổi thơ của tôi, thiên đường và máu thịt của tôi đang bị người ta vò cho nhàu nhĩ trước khi ném nó xuống đất. Tôi không bảo vệ được chúng bởi quá yếu đuối và nhút nhát. Về quê ư ? Lối về chốn bình yên xưa đã xa khuất rồi, tôi không còn ai để được yêu thương và an ủi. Con bạn bảo "Bỏ nhà đến tao ở! Người như mày không chết được đâu!" Tôi lại bật cười, con bạn này đâu có thân, có gần gũi với tôi ? 4. Tôi chơi với Lê, thân hơn bất kỳ ai nhưng chưa một lần cho Lê biết nhà. Chúng tôi thường gặp nhau trong một quán cafe ở cuối con hẻm nhỏ bé tí, hơi tối và âm ẩm mùi rêu. Ngồi nhìn nhau, chuyện dăm ba câu rồi chia tay, thế là quá đủ. Tôi sợ phải nhìn Lê bằng con mắt khác của những kẻ bàng quan, tôi muốn giữ Lê cho riêng mình. Tôi không cảm thấy đau đớn khi nghe em tôi giễu cợt "Bằng tuổi chị mà không có bồ là dở lắm!" Em út hỏi "Thế chị ba có bồ chưa?" "Cả đống, thiếu điều xỏ chuỗi phơi khô nữa thôi!" Em út bật cười "Chị cứ làm như bồ là nấm mèo không bằng!" Tôi không biết thế nào mới gọi là bồ nhưng khi nghĩ đến Lê tôi luôn ấm lòng với cảm giác dịu êm. Để chứng minh, hôm sau em tôi đưa về một thằng con trai tóc dài phủ gáy. Mẹ lầm bầm lúc xuống bếp pha nước "Con trai gì trông như tướng cướp, tay vàng khói thuốc!" Tôi lấy ống thổi lửa nấu nốt nồi canh, nghe mẹ đon đả: "Cháu ở lại ăn cơm với gia đình!" Thằng con trai ấy lí nhí điều gì và tiếng bố đĩnh đạc "ừ thôi cháu về, lúc nào rảnh rỗi lên thăm hai bác". Tôi múc canh ra tô, em tôi chạy xộc xuống "Chị không còn chỗ nào đứng hay sao ? Lần sau làm ơn... " Thì ra nó cũng nhìn thấy ánh mắt thằng con trai ấy liếc tôi vội vã lúc mới đến. Tôi bảo "Cậu ấy không biết chị là ai đấy thôi!" Nó hứ dài bỏ đi, muôi canh rót vào tay tôi bỏng rát. Lúc ngủ trưa, nó lấy gối đặt cuối giường tuyên bố trở đầu trở đuôi "Chị đừng có gác chân lên mặt tôi đấy!" Quả thật tôi hay có thói quen gác chân lên chăn. Hồi còn ở quê, ngủ với bà, tôi hay thục chân vào giữa hai chân bà rồi ngoáy dù lúc ấy tôi đang ngủ say. Đến giờ tôi vẫn chưa bỏ được. 5. Mẹ cho tôi một ít tiền "Cầm lấy mà tiêu vặt!" Tôi ngơ ngác nhìn mấy tờ bạc "Con xin!" "Con gái lớn rồi, đừng làm gì nông nổi quá trớn, con phải làm gương cho các em!" Nước mắt tôi cứ trào ra, không ngăn được. Gặp em út trên gác, tôi hỏi "Em nhờ chị giảng bài à?" "Không, em lên bơm mực - rồi nó cười toe toét - Em thấy chị dạo này khác làm sao á!" Lê bảo "Em phải sôi nổi lên một tí, nhiều lúc em cười mà mắt như có đám tang ấy!" và nắm chặt tay tôi.Tôi bối rối rụt tay về "Có bỏ em lên bếp gas cũng khó mà sôi dược. Hay chúng mình thôi đi!" Lê bỏ đi, hấp tấp và buồn rầu. Tôi sợ mình sẽ làm tổn thương anh, vậy chúng tôi chia tay từ bây giờ sẽ dễ dàng và đỡ đau đớn hơn. Nhưng tôi chắc mình sẽ khó mà quên Lê được như tôi đã từng quên những người khác, bởi tôi đã nhìn vào mắt Lê để tìm kiếm mình và Lê đã trải lòng ra trước tôi. Tôi ngồi trong quán suốt buổi chiều, ly cafe đã lạnh tanh và lờ mờ đóng váng lại. Tôi chẳng còn gì để giữ cũng như để mất, tôi đã là kẻ trắng tay rồi, chợt tôi nhớ Lê đến quay quắt, thèm được nhìn vào mắt anh, một lần nư!~a, dù là lần cuối cùng cũng được. Được nói với anh một câu thôi rồi hẵng chia xa... 6. Tôi đến quán cafe cũ, tỉ mỉ nhổ từng đám rêu đã trổ hoa, và lấy chúng chơi đá gà, bên nào đứt đầu coi như thua. Tay phải là Lê tay trái là tôi, không biết từ bao giờ trong tôi đã có sự phân định rạch ròi ấy! Lê ơi! "Về chưa em?" Tôi giật mình, đường phố đã sáng đèn và Lê đang ở cạnh tôi. "Em không muốn về, em muốn ngồi đây để nghĩ!" Anh không nói, lôi tôi đứng dậy, tôi vùng vằng "Anh về đi, anh tìm thấy gì ở tôi mà quay lại, cho tôi được yên!" Lê lầm lì đi cạnh tôi, tôi thấy tuổi thơ của mình đang chắp cánh bay, tôi thấy tôi của hôm nay và trong những bóng mờ của tương lai, tôi thấy Lê ở trong đó. Lê đưa tôi về nhà tôi đang ăn cơm, tiếng tivi với tiếng cười nói vang ra nghe ấm áp lạ kỳ. Tôi thèm được sà vào ngồi cạnh mẹ, chìa cái bát không ra, bảo "Con xin mẹ bát cơm!" rồi tiện tay búng tai em út một cái cho nó kêu váng lên, và sau đó tiếng cằn nhằn be bé của mẹ. Tôi bảo "Em về!" Lê gật "ừ, chúc em hạnh phúc, duy có điều mong em nhớ đến trò chơi hôm nay và hôm qua!". Tôi sững người, bật khóc trong tay Lê. Tôi đã 21 tuổi, tuổi không dành cho những trò chơi... NTTB - (Đại học Duy Tân - Đà Nẵng)Hết Mục lục Ngày hai mốt tuổi Ngày hai mốt tuổi Nguyễn Thị Thanh BìnhChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: may4phuong.netĐược bạn: mickey đưa lên vào ngày: 5 tháng 4 năm 2004
Mikhail Bulgakov Ngày hội với giang mai Vào ngày hội phụ nữ, mà hàng năm chúng ta vẫn tổ chức đều đặn mồng 8 tháng 3, cánh cửa phòng đọc thư viện làng Lac - Tưzma (làng này nằm dưới sự bảo trợ ân cần của cung đường sắt Kazan) mở ra để y sĩ trạm y tế địa phương - ta cứ gọi ông ta là Ivan Ivanovitr - bước vào.Nếu như ta không biết rằng vào ngày 8 tháng 3 không một công dân có ý thức nào có thể xuất hiện dưới bộ dạng một kẻ say, nhất là lại đi nói chuyện thời sự, nhất nữa lại tại phòng đọc thư viện; nếu như ta không biết rằng y sĩ Ivan Ivanovitr không bao giờ cho vào miệng lấy một giọt rượu nào; - nếu như không có những điều đó thì ta có thể đánh cuộc rằng Ivan Ivanovitr đang say tuyệt đối, say quá thể!Đôi mắt ông ta trông giống như hai cái nút li-e của chai rượu chát Nga cỡ một phần ba lít, còn thân nhiệt chắc không quá 30 độ. Và trong phòng đọc lan tỏa một mùi cồn nồng nặc đến đỗi chủ tọa cuộc họp phải ngừng ngay việc đang hút dở điếu thuốc của mình và giới thiệu Ivan Ivanovitr bằng những lời lẽ như sau:- Xin giới thiệu đồng chí Ivan Ivanovitr trình bày báo cáo về ngày Quốc tế phụ nữ!Tràn trề cảm hứng cồn, sau lần tấn công thứ ba, Ivan Ivanovitr đã chiếm lĩnh được bục diễn giả và bắt đầu bài nói của mình:- Trước khi trình bày về ngày Quốc tế phụ nữ, chúng ta hãy nói vài lời về các căn bệnh hoa liễu!Lời mở đầu đã đưa lại một thành công mỹ mãn: toàn bộ phòng đọc lập tức trở nên im phăng phắc, và trong sự im lặng tuyệt đối đó một bóng đèn điện chợt nổ bung.- Vâng, à... thưa các quý nữ lao động quốc tế quý mến của tôi! - Nặng nhọc lấy hơi, y sĩ nói tiếp: - Đấy, tôi đang nhìn thấy trước mặt tôi 80 đơn vị mặt của quý vị...- Bốn mươi, - chủ tọa hội nghị liếc nhìn vào tờ danh sách, ngạc nhiên nói.- Bốn mươi, như thế thì càng tệ hơn... tức là càng tốt hơn, - diễn giả tiếp tục, - tôi thấy rất thương các quý vị, thưa các bà các chị các em đàn... xin lỗi! - ... các chị em phụ nữ... Bởi vì dân số ở trong tỉnh ta càng ít thì, như thống kê cho thấy, càng ít người mắc bệnh hoa liễu, và ngược lại. Và nói riêng, là bệnh giang mai... Đó là một mối đe dọa khủng khiếp đối với giai cấp vô sản, nó không thương tiếc một ai... Xin hỏi, có ai biết giang mai là cái gì không nhỉ?- Đồng chí Ivan Ivanovitr! - chủ tọa kêu lên.- Ông im miệng lấy một lúc đi nào. Đừng ngắt lời tôi. Giang mai, - vừa nấc, diễn giả vừa nói tiếp bằng giọng lè nhè, - là một căn bệnh cực kỳ dễ lây nhiễm! Các chị em ngồi đây mà nghĩ rằng mình an toàn ư? (y sĩ bật lên tiếng cười dữ tợn...) Hừm... Bé cái nhầm! Một cô nàng hôm nay xăng xái mang băng đỏ đi lại ở đây, vui mừng đón những ngày mồng Tám với tháng Ba và đủ mọi thứ lễ liếc tương tự, sau đó đi kết hôn, và thế rồi vào một ngày đẹp trời đứng rửa mặt, hỉ mũi - và bụp! Cả cái mũi nằm nguyên trong chậu rửa mặt, còn trên mặt, thay vào mũi, xin lỗi, là một cái lỗ!Tiếng ồn ào dậy lên khắp tất cả các dãy ghế, và một trong số các bà các chị các em, mặt trắng bệch như tờ giấy, bỏ chạy ra ngoài cửa.- Đồng chí Ivan Ivanovitr! - chủ tọa kêu lên.- Xin lỗi. Tôi được phân công, và tôi nói... Các vị nghĩ rằng sự trinh tiết sẽ bảo đảm an toàn cho các vị ư? Hô-hô-hô!... Mà trong số các vị có còn nhiều không những người trinh ti...- Đồng chí Ivan Ivanovitr! - chủ tọa kêu to.Thêm hai trong số các bà các chị các em vừa bỏ chạy ra cửa vừa kinh hoàng ngoái nhìn lên bục diễn giả.- Các vị đến đây, chẳng hạn, và thùng nước sôi kia... nói thí dụ thế... Trời nóng, tất nhiên, - diễn giả nới rộng cổ áo sơ mi, nói tiếp, - rồi, tất nhiên, các vị cầm lấy cốc... Trên tường treo khẩu hiệu "Không uống nước lã" và các khẩu hiệu khác của Comintern, còn trước đó một người mắc bệnh giang mai đã uống vào chiếc cốc đó, bằng đôi môi của mình... Chẳng hạn chủ tọa của chúng ta...Chủ tọa hộc lên không thành lời.20 chị em nữ lao động quốc tế kinh tởm lấy khăn tay lau môi, còn ai không có khăn thì lau bằng gấu váy.- Gì mà ông gào lên thế? - y sĩ hỏi chủ tọa.- Tôi không mắc bệnh giang mai! - chủ tọa hét to và trở nên giống hệt một trái nham lê.- Hâm!... ấy là tôi nói thí dụ... Hoặc chẳng hạn chị này, - y sĩ chỉ ngón tay run rẩy vào đâu đó xuống hàng ghế thứ nhất, ngay lập tức toàn bộ hàng ghế sau những tiếng loạt xoạt váy áo trở nên trống không.- Khi một cô gái ngày 8 tháng Ba... đến tuổi phát dục... xin lỗi về cách diễn đạt, - từ trên bục, diễn giả tiếp tục ngân nga, người đẫm mồ hôi vì nóng bức, - thì cô ta nghĩ gì nào?- Đồ bẩn thỉu! - một giọng nói the thé vang lên ở hàng ghế cuối.- Điều duy nhất mà cô ta mơ ước vào những đêm sáng trăng - là tìm cách đến với bạn tình của mình, - y sĩ báo cáo, hoàn toàn cả người như chảy nhễu nhện ra theo các đường chỉ.Đến đây thì trong phòng bắt đầu vang lên những tiếng rên rỉ và tiếng nghiến răng ken két. Các hàng ghế bị xô đẩy ầm ĩ và trở nên trống trơn. Tất cả các bà các chị các em xô nhau chạy ra ngoài, nhiều người vừa chạy vừa khóc nức nở.Trong phòng chỉ còn lại hai người - y sĩ và chủ tọa.- Mà bạn tình của cô ta, - y sĩ vẫn tiếp tục kể lể và nhìn vào mặt chủ tọa, - thưa cô em nữ lao động quí mến của tôi, hắn mê mải làm tình và các thứ tồi bại khác.- Tôi không phải là nữ lao động! - chủ tọa hét lên.- Xin hỏi, đồng chí là đàn ông? - y sĩ hỏi, mắt đờ đẫn lấc láo.- Đàn ông! - chủ tọa cảm thấy bị xúc phạm hét.- Không giống thế! - y sĩ nấc lên.- Ivan Ivanovitr, anh biết không, anh say như một đồ vô lại! - giận đến run rẩy cả người, chủ tọa hét. - Anh, xin lỗi, đã phá hỏng ngày hội của tôi! Tôi sẽ kiện anh lên Trung ương và thậm chí lên cấp cao hơn nữa!- Chà, xin mời, - y sĩ nói, ngồi xuống một chiếc ghế bành và đi vào giấc ngủ. Mục lục Ngày hội với giang mai Ngày hội với giang mai Mikhail BulgakovChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.Đoàn Tử Huyến dịch từ tiếng Nga Nguồn: VnexpressĐược bạn: ms đưa lên vào ngày: 18 tháng 10 năm 2004
Mikhail Bulgakov Festival with syphilis On the women's festival, which we still organize every year on March 8, the door of the library reading room of the village of Lac - Tuzma (this village is under the kind patronage of the Kazan railway) opens to The local clinic doctor - let's call him Ivan Ivanovitch - walked in. If we didn't know that on March 8th no sensible citizen could appear drunk, especially going to talk about current events, especially in the library reading room; if we didn't know that the physician Ivan Ivanovitch never put a drop of wine in his mouth; - If it weren't for those things, we can bet that Ivan Ivanovitr is absolutely drunk, extremely drunk! His eyes look like two corks from a one-third liter bottle of Russian wine. Body temperature should not exceed 30 degrees. And in the reading room there was such a strong smell of alcohol that the chairman of the meeting had to immediately stop smoking his cigarette and introduce Ivan Ivanovitr with the following words: - Please introduce comrade Ivan Ivanovitr. report on International Women's Day! Full of inspiration, after the third attack, Ivan Ivanovitch occupied the podium and began his speech:- Before presenting on International Women's Day , let's say a few words about venereal diseases! The opening statement brought a great success: the entire reading room immediately became silent, and in that absolute silence an electric light bulb suddenly exploded. - Yes, ah... my dear international working ladies! - Taking a heavy breath, the doctor continued: - There, I'm seeing 80 of your facial units in front of me... - Forty, - the conference chairman glanced at the list and said in surprise. .- Forty, that's worse... that is, better, - the speaker continued, - I feel very sorry for you, ladies and gentlemen... sorry! - ... women... Because the smaller the population in our province, the fewer people, as statistics show, with venereal diseases, and vice versa. And in particular, syphilis... It is a terrible threat to the proletariat, it shows no mercy to anyone... May I ask, does anyone know what syphilis is?- Comrade Ivan Ivanovitch! - the chairman exclaimed. - Please shut up for a moment. Don't interrupt me. Syphilis, - hiccuping, the speaker continued in a drawl, - is an extremely contagious disease! Ladies, do you sit here and think you're safe? (The doctor burst into a fierce laugh...) Hmm... You're wrong! A girl today is walking around here wearing a red ribbon, happily celebrating the 8th and March days and all kinds of similar ceremonies, then getting married, and then one fine day standing in the bathroom. face, blow your nose - and poof! The whole nose was still in the sink, and on the face, instead of the nose, sorry, there was a hole! Noise rose up in all the rows, and one of the ladies, white as a sheet of paper, he ran out the door. - Comrade Ivan Ivanovitr! - the chairman exclaimed. - Sorry. I was assigned, and I said... You think virginity will keep you safe? Ho-ho-ho!... And are there still many virgins among you... - Comrade Ivan Ivanovitch! - the chairman shouted loudly. Two more of you ladies ran to the door and looked back at the speaker's podium in horror. - You come here, for example, and that barrel of boiling water... tell me. For example... It's hot, of course, - the speaker loosened his shirt collar and continued, - then, of course, you take the cup... On the wall hangs the slogan "Don't drink cold water" and other slogans of the Comintern, and before that a person with syphilis drank from that cup, with his lips... For example, our chairman... The chairman gasped speechlessly.20 Disgusted international female workers used handkerchiefs to wipe their lips, and those who didn't have towels wiped them with the hem of their skirts. - Why are you screaming? - the doctor asked the chairman. - I don't have syphilis! - the chairman shouted loudly and became exactly like a cranberry. - Ham!... that's what I said for example... Or for example this lady, - the doctor pointed a trembling finger somewhere down the row of seats. first, immediately the entire row of seats behind the rustling of dresses became empty.- When a girl on March 8... reached puberty... sorry for the expression, - from On the podium, the speaker continued to hum, sweating from the heat, - what was she thinking? - Dirty! - a high-pitched voice rang out in the last row. - The only thing she dreams of on moonlit nights - is to find a way to reach her partner, - the doctor reported, completely exhausted. Spiders dripped out along the lines. At this point, the room began to echo with moans and grinding teeth. The rows of seats were pushed around noisily and became empty. All the women and children rushed out, many of them ran and cried. There were only two people left in the room - the doctor and the chairperson. - And her partner, - the doctor continued. continued talking and looked at the chairman's face, - my dear working woman, he is engrossed in making love and other bad things. - I am not a working woman! - the chairman shouted. - May I ask, are you a man? - the doctor asked, his eyes dull and insolent. - Men! - the chairman felt insulted and shouted. - Not like that! - the doctor hiccuped. - Ivan Ivanovitr, you know, you are drunk like a scoundrel! - Angry to the point of shaking, the chairman shouted. - I'm sorry, I ruined my festival! I will sue you to the Central Government and even higher levels! - Well, please, - the doctor said, sitting down in an armchair and going to sleep. Table of contents Festival with syphilis Festival with syphilis Mikhail BulgakovWelcome to read the first books from the book project for mobile devicesSource: executive: Nguyen Kim Vy. Last words: Thank you for following the entire story. Source: onion: Nguyen Kim Vy. Translated from Russian by Doan Tu Huyen Source: Vnexpress Uploaded by friend: ms on: October 18, 2004
Cấn Vân Khánh Ngày kín Phố xá cũng giống như bản nhạc đầy thanh âm cuồng loạn, dịu dàng và hãi sợ. Khi đập vào mắt tôi là những công viên xanh ngắt, những toà nhà cao ngất, những khách sạn muôn vạn sắc màu. Tôi hình dung anh trong đó. Và nhận ra phố xá, đối với mình không phải là một nơi trú ẩn an toàn và tin cậy. Tôi đi gặp một người đàn ông, chính xác hơn là một chàng trai không phải chồng mình.Tôi mở mắt, thấy cả một quầng sáng xanh xao và buồn bã toả ra từ bốn phía, một cơn đau giằng xé từ phía bụng thốc lên cũng khó tả như cơn buồn nôn quặn thắt đêm qua hãy còn chờ trực nơi cổ họng. Tôi rùng mình vì ướt đẫm ở phía dưới. Máu ri rỉ chảy ra, thấm ướt và loang cả một vạt váy. Thì ra quầng sáng xanh xao ấy là những tia nắng buổi bình minh hắt qua ô cửa sổ trong một ngày sắp tới nhưng khi vừa mở mắt, tôi đã thấy nó giống như ảo ảnh của nỗi buồn từ những ngày qua tưởng chừng đã tan loãng vào đêm nhưng vẫn còn đọng lại. Tấm chăn bên cạnh tôi được gấp lại một cách cẩn thận, nó vuông vắn hơn mức độ cho phép, báo hiệu là anh đã đi rồi.Tôi có thể tưởng tượng là anh rón rén ra sao, để tránh tôi thức giấc. Dường như anh chuẩn bị mọi thứ rất lẹ làng, đến nỗi tôi không hề hay biết. Anh tự mình pha cà phê, tự mình là quần áo, ( cũng có thể anh không là quần áo), tự mình thắt cà vạt. Và đi khỏi nhà. Để anh không phải nói với tôi, dẫu chỉ một từ. Ngày cuối cùng anh nói chuyện với tôi, đó là câu: “ Đừng nấu cơm chiều cho anh nữa. Mất công! ”. Tôi nhớ mồn một giọng điệu của anh, không hẳn là xót xa cho tôi mỗi lần phải lao vào nấu nướng những món ăn anh yêu thích một cách say sưa rồi chờ đợi đến lả người vì đói khi anh không về và cũng không biết chính xác lúc nào anh về vì điện thoại của anh luôn tắt khi tôi gọi.Lúc ấy, tôi chỉ biết nhìn anh, đờ đẫn.Bắt đầu từ mấy tuần rồi nhỉ, ba hay bốn tuần? Anh chỉ trở về vào lúc đêm khuya rồi ra đi vào lúc sáng sớm?. Bắt đầu từ khi nào tôi chai lì với cảm giác cô đơn lạc lõng này? Tôi không buồn nhớ nữa. Tôi nghiêng người và quay lưng lại bức tường trắng tinh , căng mắt nhìn vết lõm dài trên tấm nệm bên cạnh mình. Thân thể anh, dường như còn hơi ấm phảng phất. Tôi quờ tay xuống, vuốt đi vuốt lại vết lõm ấy cho phẳng phiu, rồi gục đầu xuống gối. Cứ thế, tôi đổ ập xuống trong sự trống trải, hoang mang bao phủ như một lớp sương mờ đục lạnh lẽo và u tối.Sự cô đơn lấn át tôi hơn cả cơn đau thể xác.Tôi muốn ngủ. Giấc ngủ đối với tôi là một cái chết ngắn. Chết xong rồi lại muốn chết thêm lần nữa, anh sẽ không ngờ rằng một ngày của tôi lại gắn với chiếc giường này. Nhưng, liệu có cần thiết không? Với sự ngờ đó. Khi mà anh đã chán vợ đến mức chẳng thiết tha gì nữa. Cơn đau tiếp tục nhói lên, tôi nằm sõng xoài và kinh hãi khi tưởng tượng rằng mình đang sống một đời sống thực vật. Sự kinh hãi ấy khiến tôi nghiến răng, lấy hết sức bật dậy, chạy thục mạng vào nhà tắm. Tôi lục lọi băng vệ sinh và thay váy. Một chiếc váy mỏng tang tôi đã mặc nó trong đêm tân hôn .Khi soi gương với bộ dạng tử tế hơn, tôi mới nhận ra mình đang chìm đi, như một người tự dìm mình vào bể nước .Người ta có thể tìm quên nỗi buồn bằng rất nhiều cách. Nữa là tôi. Một người đàn bà son trẻ và nhàn rỗi biết mấy. Tôi đi ra phố. Phố xá cũng giống như bản nhạc đầy thanh âm cuồng loạn, dịu dàng và hãi sợ. Khi đập vào mắt tôi là những công viên xanh ngắt, những toà nhà cao ngất, những khách sạn muôn vạn sắc màu. Tôi hình dung anh trong đó. Và nhận ra phố xá, đối với mình không phải là một nơi trú ẩn an toàn và tin cậy. Tôi đi gặp một người đàn ông, chính xác hơn là một chàng trai không phải chồng mình. Một hoạ sỹ trẻ. “ Anh biết rằng, thế nào em cũng đến”. Hai tiếng anh, em nghe đến là kinh tởm. Anh ta kém mình gần chục tuổi. Tôi dường như là lầm bầm một mình. Căn phòng màu xanh, tất thảy đều xanh lá cây khiến tôi như trôi đi trong khu rừng rậm rạp nhiều cây xanh nhưng u buồn ảo não. Tôi cởi giầy, nửa nằm nửa ngồi trên sàn nhà lạnh lẽo. Khiến anh ta trở nên ngượng ngập và đầy thèm khát trong ánh mắt.“Anh biết rằng, cuối cùng, em đã nhận ra anh mới là tuyệt vời”. Anh ta bắt đầu mơn trớn tóc tôi, những lọn tóc đen nhánh buồn tênh. Những lọn tóc mà chồng tôi từng vò nhàu nó trong bao đêm , bằng môi, bằng mắt và bằng những khuỷu tay. Tôi nhắm chặt mắt lại, tê dại bởi ý nghĩ về anh, chứ không phải hơi ấm toả ra từ thân thể xa lạ kia đang ám chặt vào tôi. Hình như tôi đã rên lên vì chán nản. Thay vì sung sướng. Khi tôi nhoài người ra, kéo lại váy áo, xỏ giầy và lạnh nhạt bước qua cánh cửa. Để lại đằng sau một khuôn mặt trì độn , vêu vao vì tức tối . Người đàn bà khác người đàn ông ở chỗ, họ chỉ hiến dâng khi họ yêu. Cho dù có cô đơn đến đâu, cũng không thể khoả lấp bằng thân xác một kẻ nào. Hơn bao giờ hết , tôi đã nhận ra điều đó. Đêm nay, tôi quyết tâm đợi chờ anh, trong sự giam hãm chính mình.Thật không gì đau buồn bằng việc suốt cuộc đời người ta phải sống bằng sự cố gắng. Tôi đi ra đi vào căn phòng rộng rãi hoang mang, nhìn đồng hồ và độc thoại .Tôi muốn nói với anh nhiều, nhiều lắm. Tôi cần phải nói. Tôi sẽ nói. “Anh đi đâu thế?”. ” Anh đi đâu mà đi cả ngày thế?”. Để rồi xem, anh sẽ nói gì với tôi. Để rồi xem. Cho dù có thể anh sẽ trố mắt ra, hoặc cười khanh khách trước sự trơ trẽn ấy. Thời gian trôi đi chậm rãi, khiến tôi muốn đốt cháy nó bằng giấc ngủ. Khi mà, kim giờ đã chỉ đến số 12. Tôi nằm xuống, và thực sự, giấc ngủ đã lại đến với tôi ngoài ý muốn . Cho đến khi tôi tỉnh giấc sau cơn mộng mị, tôi đã nhìn thấy người đàn ông mình yêu thương và thù hận hiện hữu ngay bên cạnh. Anh đang thức. Một tay anh cầm thuốc lá, một tay anh cầm điện thoại, hí hoáy và say mê nhắn tin. Tôi không cựa quậy, dù tôi bừng tỉnh. Tôi quan sát anh từng tí một, tôi nhìn lúm đồng tiền trên má anh hõm sâu khi anh nhếch môi cười mãn nguyện sau mỗi lần cái điện thoại rùng lên. Và bởi vì bóng tối nên anh không biết, tôi đã thức. Tôi gặm nhấm cảm giác nhìn anh một cách cay nghiệt và thoả mãn. Cảm giác ấy cũng giống như ánh mắt người thợ săn trong khoảnh khắc ngắm nghía một con mồi đẹp đẽ mà không thể nhả đạn. Nhưng ngay cả lúc này, tại sao tôi vẫn thấy mình ẩm ướt hơn vì khát khao anh. Điều này tôi không sao cắt nghĩa, với bất kỳ người đàn bà nào, tôi tin, trong chu kỳ cố định mỗi tháng của mình, trước sau họ cũng có những xúc cảm giống như tôi. ánh mắt tôi dừng lâu hơn ở những ngón tay anh. Mỗi lần yêu anh, tôi thường ngậm chúng thật lâu và có khi cắn mạnh, tôi luôn sung sướng khi làm anh kêu lên vì đau đớn. Và ngược lại.Anh trở mình.Tôi nhắm nghiền mắt, xoay lưng, sợ hãi như bị bắt quả tang. Tôi cảm thấy tay anh trên lưng tôi, xoa nhẹ, vỗ về. Thì ra hàng đêm, anh vẫn đụng vào tôi, với cái kiểu dỗ dành một đứa trẻ con à ơi hãy ngủ cho ngoan, mà tuyệt nhiên không có chút thèm thuồng. Tôi chợt nghĩ nếu lúc này mình mở to mắt, nhìn anh, thì chuyện gì sẽ xảy ra?Chuyện gì nhỉ?Một, hai, ba, bốn, năm, sáu, bảy, tám, chín…Tôi đếm để thi gan với chính mình, rồi chưa kịp mở mắt, chưa kịp kêu gào lên , thì anh đã tắt phụt ngọn đèn ngủ. Sau phút giây đờ người vì tuyệt vọng, tôi hốt hoảng xoay ngang xoay ngửa tìm lại thứ ánh sáng ban nãy, nhưng bất lực làm sao khi màn đêm trong nháy mắt như một tấm lụa tối tăm phủ lên mọi vật, choàng kín thân thể anh, đen kịt. Chỉ còn tiếng ngáy của anh vang lên đều đều giữa không gian tĩnh mịch. Chỉ còn nước mắt đầm đìa trên má tôi, vón lại thành những cục nấc nghẹn ứ nơi cuống phổi mà không thể nào phát ra thành tiếng. Mục lục Ngày kín Ngày kín Cấn Vân KhánhChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: TTVNO.orgĐược bạn: Ct.Ly đưa lên vào ngày: 28 tháng 5 năm 2007
Cấn Vân Khánh Ngày kín Phố xá cũng giống như bản nhạc đầy thanh âm cuồng loạn, dịu dàng và hãi sợ. Khi đập vào mắt tôi là những công viên xanh ngắt, những toà nhà cao ngất, những khách sạn muôn vạn sắc màu. Tôi hình dung anh trong đó. Và nhận ra phố xá, đối với mình không phải là một nơi trú ẩn an toàn và tin cậy. Tôi đi gặp một người đàn ông, chính xác hơn là một chàng trai không phải chồng mình.Tôi mở mắt, thấy cả một quầng sáng xanh xao và buồn bã toả ra từ bốn phía, một cơn đau giằng xé từ phía bụng thốc lên cũng khó tả như cơn buồn nôn quặn thắt đêm qua hãy còn chờ trực nơi cổ họng. Tôi rùng mình vì ướt đẫm ở phía dưới. Máu ri rỉ chảy ra, thấm ướt và loang cả một vạt váy. Thì ra quầng sáng xanh xao ấy là những tia nắng buổi bình minh hắt qua ô cửa sổ trong một ngày sắp tới nhưng khi vừa mở mắt, tôi đã thấy nó giống như ảo ảnh của nỗi buồn từ những ngày qua tưởng chừng đã tan loãng vào đêm nhưng vẫn còn đọng lại. Tấm chăn bên cạnh tôi được gấp lại một cách cẩn thận, nó vuông vắn hơn mức độ cho phép, báo hiệu là anh đã đi rồi.Tôi có thể tưởng tượng là anh rón rén ra sao, để tránh tôi thức giấc. Dường như anh chuẩn bị mọi thứ rất lẹ làng, đến nỗi tôi không hề hay biết. Anh tự mình pha cà phê, tự mình là quần áo, ( cũng có thể anh không là quần áo), tự mình thắt cà vạt. Và đi khỏi nhà. Để anh không phải nói với tôi, dẫu chỉ một từ. Ngày cuối cùng anh nói chuyện với tôi, đó là câu: “ Đừng nấu cơm chiều cho anh nữa. Mất công! ”. Tôi nhớ mồn một giọng điệu của anh, không hẳn là xót xa cho tôi mỗi lần phải lao vào nấu nướng những món ăn anh yêu thích một cách say sưa rồi chờ đợi đến lả người vì đói khi anh không về và cũng không biết chính xác lúc nào anh về vì điện thoại của anh luôn tắt khi tôi gọi.Lúc ấy, tôi chỉ biết nhìn anh, đờ đẫn.Bắt đầu từ mấy tuần rồi nhỉ, ba hay bốn tuần? Anh chỉ trở về vào lúc đêm khuya rồi ra đi vào lúc sáng sớm?. Bắt đầu từ khi nào tôi chai lì với cảm giác cô đơn lạc lõng này? Tôi không buồn nhớ nữa. Tôi nghiêng người và quay lưng lại bức tường trắng tinh , căng mắt nhìn vết lõm dài trên tấm nệm bên cạnh mình. Thân thể anh, dường như còn hơi ấm phảng phất. Tôi quờ tay xuống, vuốt đi vuốt lại vết lõm ấy cho phẳng phiu, rồi gục đầu xuống gối. Cứ thế, tôi đổ ập xuống trong sự trống trải, hoang mang bao phủ như một lớp sương mờ đục lạnh lẽo và u tối.Sự cô đơn lấn át tôi hơn cả cơn đau thể xác.Tôi muốn ngủ. Giấc ngủ đối với tôi là một cái chết ngắn. Chết xong rồi lại muốn chết thêm lần nữa, anh sẽ không ngờ rằng một ngày của tôi lại gắn với chiếc giường này. Nhưng, liệu có cần thiết không? Với sự ngờ đó. Khi mà anh đã chán vợ đến mức chẳng thiết tha gì nữa. Cơn đau tiếp tục nhói lên, tôi nằm sõng xoài và kinh hãi khi tưởng tượng rằng mình đang sống một đời sống thực vật. Sự kinh hãi ấy khiến tôi nghiến răng, lấy hết sức bật dậy, chạy thục mạng vào nhà tắm. Tôi lục lọi băng vệ sinh và thay váy. Một chiếc váy mỏng tang tôi đã mặc nó trong đêm tân hôn .Khi soi gương với bộ dạng tử tế hơn, tôi mới nhận ra mình đang chìm đi, như một người tự dìm mình vào bể nước .Người ta có thể tìm quên nỗi buồn bằng rất nhiều cách. Nữa là tôi. Một người đàn bà son trẻ và nhàn rỗi biết mấy. Tôi đi ra phố. Phố xá cũng giống như bản nhạc đầy thanh âm cuồng loạn, dịu dàng và hãi sợ. Khi đập vào mắt tôi là những công viên xanh ngắt, những toà nhà cao ngất, những khách sạn muôn vạn sắc màu. Tôi hình dung anh trong đó. Và nhận ra phố xá, đối với mình không phải là một nơi trú ẩn an toàn và tin cậy. Tôi đi gặp một người đàn ông, chính xác hơn là một chàng trai không phải chồng mình. Một hoạ sỹ trẻ. “ Anh biết rằng, thế nào em cũng đến”. Hai tiếng anh, em nghe đến là kinh tởm. Anh ta kém mình gần chục tuổi. Tôi dường như là lầm bầm một mình. Căn phòng màu xanh, tất thảy đều xanh lá cây khiến tôi như trôi đi trong khu rừng rậm rạp nhiều cây xanh nhưng u buồn ảo não. Tôi cởi giầy, nửa nằm nửa ngồi trên sàn nhà lạnh lẽo. Khiến anh ta trở nên ngượng ngập và đầy thèm khát trong ánh mắt.“Anh biết rằng, cuối cùng, em đã nhận ra anh mới là tuyệt vời”. Anh ta bắt đầu mơn trớn tóc tôi, những lọn tóc đen nhánh buồn tênh. Những lọn tóc mà chồng tôi từng vò nhàu nó trong bao đêm , bằng môi, bằng mắt và bằng những khuỷu tay. Tôi nhắm chặt mắt lại, tê dại bởi ý nghĩ về anh, chứ không phải hơi ấm toả ra từ thân thể xa lạ kia đang ám chặt vào tôi. Hình như tôi đã rên lên vì chán nản. Thay vì sung sướng. Khi tôi nhoài người ra, kéo lại váy áo, xỏ giầy và lạnh nhạt bước qua cánh cửa. Để lại đằng sau một khuôn mặt trì độn , vêu vao vì tức tối . Người đàn bà khác người đàn ông ở chỗ, họ chỉ hiến dâng khi họ yêu. Cho dù có cô đơn đến đâu, cũng không thể khoả lấp bằng thân xác một kẻ nào. Hơn bao giờ hết , tôi đã nhận ra điều đó. Đêm nay, tôi quyết tâm đợi chờ anh, trong sự giam hãm chính mình.Thật không gì đau buồn bằng việc suốt cuộc đời người ta phải sống bằng sự cố gắng. Tôi đi ra đi vào căn phòng rộng rãi hoang mang, nhìn đồng hồ và độc thoại .Tôi muốn nói với anh nhiều, nhiều lắm. Tôi cần phải nói. Tôi sẽ nói. “Anh đi đâu thế?”. ” Anh đi đâu mà đi cả ngày thế?”. Để rồi xem, anh sẽ nói gì với tôi. Để rồi xem. Cho dù có thể anh sẽ trố mắt ra, hoặc cười khanh khách trước sự trơ trẽn ấy. Thời gian trôi đi chậm rãi, khiến tôi muốn đốt cháy nó bằng giấc ngủ. Khi mà, kim giờ đã chỉ đến số 12. Tôi nằm xuống, và thực sự, giấc ngủ đã lại đến với tôi ngoài ý muốn . Cho đến khi tôi tỉnh giấc sau cơn mộng mị, tôi đã nhìn thấy người đàn ông mình yêu thương và thù hận hiện hữu ngay bên cạnh. Anh đang thức. Một tay anh cầm thuốc lá, một tay anh cầm điện thoại, hí hoáy và say mê nhắn tin. Tôi không cựa quậy, dù tôi bừng tỉnh. Tôi quan sát anh từng tí một, tôi nhìn lúm đồng tiền trên má anh hõm sâu khi anh nhếch môi cười mãn nguyện sau mỗi lần cái điện thoại rùng lên. Và bởi vì bóng tối nên anh không biết, tôi đã thức. Tôi gặm nhấm cảm giác nhìn anh một cách cay nghiệt và thoả mãn. Cảm giác ấy cũng giống như ánh mắt người thợ săn trong khoảnh khắc ngắm nghía một con mồi đẹp đẽ mà không thể nhả đạn. Nhưng ngay cả lúc này, tại sao tôi vẫn thấy mình ẩm ướt hơn vì khát khao anh. Điều này tôi không sao cắt nghĩa, với bất kỳ người đàn bà nào, tôi tin, trong chu kỳ cố định mỗi tháng của mình, trước sau họ cũng có những xúc cảm giống như tôi. ánh mắt tôi dừng lâu hơn ở những ngón tay anh. Mỗi lần yêu anh, tôi thường ngậm chúng thật lâu và có khi cắn mạnh, tôi luôn sung sướng khi làm anh kêu lên vì đau đớn. Và ngược lại.Anh trở mình.Tôi nhắm nghiền mắt, xoay lưng, sợ hãi như bị bắt quả tang. Tôi cảm thấy tay anh trên lưng tôi, xoa nhẹ, vỗ về. Thì ra hàng đêm, anh vẫn đụng vào tôi, với cái kiểu dỗ dành một đứa trẻ con à ơi hãy ngủ cho ngoan, mà tuyệt nhiên không có chút thèm thuồng. Tôi chợt nghĩ nếu lúc này mình mở to mắt, nhìn anh, thì chuyện gì sẽ xảy ra?Chuyện gì nhỉ?Một, hai, ba, bốn, năm, sáu, bảy, tám, chín…Tôi đếm để thi gan với chính mình, rồi chưa kịp mở mắt, chưa kịp kêu gào lên , thì anh đã tắt phụt ngọn đèn ngủ. Sau phút giây đờ người vì tuyệt vọng, tôi hốt hoảng xoay ngang xoay ngửa tìm lại thứ ánh sáng ban nãy, nhưng bất lực làm sao khi màn đêm trong nháy mắt như một tấm lụa tối tăm phủ lên mọi vật, choàng kín thân thể anh, đen kịt. Chỉ còn tiếng ngáy của anh vang lên đều đều giữa không gian tĩnh mịch. Chỉ còn nước mắt đầm đìa trên má tôi, vón lại thành những cục nấc nghẹn ứ nơi cuống phổi mà không thể nào phát ra thành tiếng. Mục lục Ngày kín Ngày kín Cấn Vân KhánhChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: TTVNO.orgĐược bạn: Ct.Ly đưa lên vào ngày: 28 tháng 5 năm 2007
Nguyên Đỗ Ngày Lễ Valentine 1 & 2 Ngày Lễ Valentine (1) Hằng năm cứ gần tới ngày 14 tháng 2, ở các nước Tây phương, các gian hàng trưng bày nhiều hàng hóa thiệp chúc cho mọi người lựa chọn gởi cho người thương mến của mình: người yêu cho người yêu, vợ cho chồng, chồng cho vợ, con cái cho cha mẹ, học trò cho thầy cô giáo... Tập quán hay này ngày nay đã đến với các nước phương Đông, Việt Nam... lan truyền qua hệ thống thông tin mạng lưới. Tôi xin tìm hiểu và trình bày nguồn gốc cũng như những phong tục liên quan tới ngày lễ Valentine này đã Việt hóa gọi là Lễ Tình Nhân, Lễ Tình Yêu... Vào thế kỷ thứ ba, từng bầy sói đói chạy rong quanh thành La Mã (Rome) bắt trộm cừu. Theo tin tưởng của các người chăn cừu thời bấy giờ, thần Lupercus là vị thần bảo vệ các mục tử và bầy cừu. Mỗi tháng Hai người La Mã tổ chức mừng Lễ Thần Bảo Vệ họ gọi là Lupercalia để kính Lupercus cầu mong thần sẽ canh giữ họ và bầy cừu được bình yên trong năm. Cũng trong ngày lễ này để kính nữ thần Juno Februata, vợ của thần Jupiter là vị thần lớn nhất trong các vị thần, tương đương như thần Zeus trong thần thoại Hy Lạp, tên các thiếu nữ được ghi và bỏ vào một hộp để chác chàng trai rút thăm. Những thanh niên thiếu nữ trúng thăm sẽ thành đôi bạn trong suốt năm, khởi đầu từ tháng Ba. Khi Ki - tô giáo bành trướng, các giáo sĩ tìm cách thay thế các phong tục này, lễ kính thần bảo vệ mục tử và bầy cừu được thay thế bằng lễ thánh Valentine. Các thanh niên nam nữ cũng rút thăm, nhưng thay vì tên bạn gái, bạn trai, thì các thanh niên sẽ rút thăm tên các thánh nam, các thiếu nữ rút thăm tên các thánh nữ, để noi gương các ngài trong suốt năm. Đến thế kỷ thứ tư thì tục lệ cũ lại trở lại, các thanh niên lại rút thăm tên các thanh nữ để làm bạn với nhau trong năm cho mãi tới thế kỷ 16 các giáo sĩ lại cố gắng tạo một tục lệ lành thánh như giáo hội đã làm vào thế kỷ thứ 3, nhưng cũng không thành công. Theo truyền thuyết Thiên Chúa giáo thì có bảy người mang tên Valentine, có những hành động tốt đáng kính. Một trong những truyền thuyết đó là thánh Valentine, một linh mục dưới triều đại hoàng đế Claudius. Ngài được kẻ giàu người nghèo, người trẻ người già, nam nữ nói chung từ tất cả mọi tầng lớp kính mến. Vào thời này hoàng đế Claudius đang bắt lính gắt gao để sai đi đánh các nước phương xa vì ít ai tình nguyện đi nại cớ vướng bận gia đình, vợ con. Hoàng đế tức giận ra lệnh đình chỉ chuyện lập gia đình và hủy bỏ các cuộc hứa hôn. Linh mục Valentine cho là sai trái và không công bằng, và ngài vẫn tiếp tục cử hành các hôn lễ. Hoàng đế biết được liền ra lệnh giam tù Ngài cho tới chết. Theo truyền thuyết khác, thì trong thời gian bị tù Ngài chữa bệnh mù của con gái viên coi tù và giúp cô vào đạo. Hoàng đế giận dữ sai quân lính đánh và chém đầu vào ngày 14 tháng 2 năm 269. Cũng có truyền thuyết từ trong tù Valentine thường thư từ liên lạc với cô gái viên coi tù, thường ký tên là từ Valentine của bạn. Có lẽ vì câu này mà sau này người ta thường viết thư chúc tụng, tỏ dấu yêu mến nhau, thường lấy câu này để gián tiếp tỏ tình yêu mến của mình với một người nào đó, từ Valentine của bạn, từ một người ái một bí mật,... Năm 496, giáo hoàng Gelasius tuyên bố mừng lễ thánh Valentine, quan thầy các cặp đính hôn, hay những người muốn lập gia đình. Trong dịp lễ này những người thân trao đổi thư từ yêu thương. Nói chung, tập tục này rất hay, tạo cơ hội cho mọi người tỏ lòng quí mến của mình đối với những người thân yêu, không cần đồ sộ, xa hoa, không cần phải loè loẹt, phung phí, chỉ một đôi dòng, một chút quan tâm, một chút thương yêu, quí mến cũng đủ! Chúc các bạn một ngày lễ Tình Thương, một mùa Thương Yêu, trọn đời Yêu Đương bên người yêu, người thân, vợ chồng, con cái và bạn hữu các nơi! Nguyên Đỗ Ngày Lễ Valentine (2)Hôm nay, ngày Lễ Valentine, những trường, sở tự nhiên rạng rỡ hẳn lên với những màu áo đỏ hồng của các cô sinh viên, nữ giáo sư, cũng như các nhân viên làm việc. Cứ chốc chốc lại có những chiếc xe đưa những bình hoa thật đẹp, những bình hoa hồng đỏ thắm và những bong bóng màu có in chữ Happy Valentine, Love giao cho người được tặng. Trông thật vui mắt và hồn tôi cũng rộn rã hơn, chợt nhớ đến một người, nhiều người quen biết ở xa, giờ này chắc cũng nhận những bình hoa thật đẹp, hay những cánh thiệp xinh xinh với những dòng chữ thân thương mang những thông điệp ngọt ngào của những người yêu, người thân, bạn bè... Tôi ngồi trong phòng ăn tập thể (cafeteria) đảo mắt nhìn quanh, phòng có khoảng 100 người, trong đó đa số là nữ, gần như người nào cũng mặc áo đỏ, có người mặc toàn bộ màu hồng, và hình như ai cũng cầm điện thoại tay nói chuyện với người thân, câu I love you ( Em yêu anh hay Anh yêu em) cứ như những điệp khúc được lập đi lập lại. Trông ai cũng vui vẻ hạnh phúc! Đi ngang văn phòng của một cô bạn, quen nhau cũng 3 năm rồi, có thể gọi mày tao được, cái gì cũng nói tôi nghe hết, tôi thấy trên bàn cô có một bình bông hồng lớn thật đẹp, tôi gõ cửa khen: -- Wow, cô hôm nay có bình hoa đẹp quá! Chúc mừng cô nha! -- Lại đây tao nói cho mày nghe, mày nghĩ tụi tao có điên khùng không, tao bỏ ra 70 Mỹ kim để mua hoa tặng cho chính mình để người ta khỏi xì xầm là chẳng có ai nhớ ai thương trong ngày Lễ Tình Yêu này. Bây giờ, nhìn bình hoa thấy là mình đã làm sai. Tôi cười, khen an ủi: -- Không, bình hoa đẹp lắm đó chứ, đáng đồng tiền bát gạo, một năm có một lần thôi mà! -- Số tiền có thể trả điện thoại tay hai tháng nói thả giàn đó mày, đúng là sai lầm! Là đồng nghiệp với nhau, chung lớp cổ ngữ với nhau mấy năm trước kia nên tôi xổ La ngữ đùa với cô nàng: -- Oh, errare humanum est! Có lầm lỗi mới là con người mà! Cô nàng nhìn tôi hỏi: -- Tối nay mày rảnh không? Đi ăn tiệm Avanti với tao nha! Tôi cười cười: -- You ask me out and take me to Avanti? Come on, you ve spoiled the fun! Mày mời tao hẹn mà dẫn tao đi tiệm Avanti (quán ăn Ý bình dân) à? Mày làm hư cuộc vui rồi! Thấy cô ta lúng túng, tôi nói: -- Tao chọc mày thôi, chứ chúng mình là bạn tốt, tao có ý kiến hay hơn, là gặp nhau ở Olive Garrden (cũng quán ăn Ý mà sang hơn) lúc 8 giờ tối nay, tao trả tiền lần này. Thường trai gái Mỹ hẹn nhau thì người thanh niên lái xe tới đón đưa tận nhà, tôi với cô này chỉ là bạn thường nên hẹn gặp nhau ở quán tức là chỉ tính cách đồng nghiệp, nói cho đúng hẹn ăn trưa thì thường, còn hẹn ăn tối với nhau chỉ với người thân lắm mới được. Người Mỹ đi ăn chung thường "go Dutch" ai ăn tiền người nấy trả, cô bạn này đã đi Tây và người Việt nam mình cũng chơi Tây lắm nên trả cho nhau trông hay hơn. Cô mừng rỡ ra mặt: -- Oh, cám ơn! Mày thật là một người bạn tốt! -- Da nada! (Tiếng Tây Ban Nha) Không có chi! Ciao! (Tiếng Ý) Chào! Tôi bước ra khỏi cửa, ngoảnh đầu nhìn lại thấy cô bạn còn nhìn bình hoa lẩm bẩm: -- It s a mistake! It s too expensive! (Sai lầm! Mắc quá!) -- Errare humanum est! Amare humanum est! Có sai mới là con người, có yêu mới là con người! Ngày Hoa Đỏ của tôi có những niềm vui nho nhỏ như thế đó! Ngày Tình Yêu ai cũng muốn được có người quan tâm, yêu thương mình! Tôi tự hỏi không biết có bao nhiêu người như cô này, phải ra tiệm hoa đặt mua trước để người ta đưa tới giao cho mình để họ không cảm thấy lẻ loi cô đơn trong một thế giới rộng thênh thang đến nỗi nhiều khi trống vắng, không ai biết ai! Nguyên Đỗ Mục lục Ngày Lễ Valentine 1 & 2 Ngày Lễ Valentine 1 & 2 Nguyên ĐỗChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.Đánh máy : Nguyên Đỗ Nguồn: bạn: TTL đưa lên vào ngày: 23 tháng 3 năm 2006
Nguyên Đỗ Ngày Lễ Valentine 1 & 2 Ngày Lễ Valentine (1) Hằng năm cứ gần tới ngày 14 tháng 2, ở các nước Tây phương, các gian hàng trưng bày nhiều hàng hóa thiệp chúc cho mọi người lựa chọn gởi cho người thương mến của mình: người yêu cho người yêu, vợ cho chồng, chồng cho vợ, con cái cho cha mẹ, học trò cho thầy cô giáo... Tập quán hay này ngày nay đã đến với các nước phương Đông, Việt Nam... lan truyền qua hệ thống thông tin mạng lưới. Tôi xin tìm hiểu và trình bày nguồn gốc cũng như những phong tục liên quan tới ngày lễ Valentine này đã Việt hóa gọi là Lễ Tình Nhân, Lễ Tình Yêu... Vào thế kỷ thứ ba, từng bầy sói đói chạy rong quanh thành La Mã (Rome) bắt trộm cừu. Theo tin tưởng của các người chăn cừu thời bấy giờ, thần Lupercus là vị thần bảo vệ các mục tử và bầy cừu. Mỗi tháng Hai người La Mã tổ chức mừng Lễ Thần Bảo Vệ họ gọi là Lupercalia để kính Lupercus cầu mong thần sẽ canh giữ họ và bầy cừu được bình yên trong năm. Cũng trong ngày lễ này để kính nữ thần Juno Februata, vợ của thần Jupiter là vị thần lớn nhất trong các vị thần, tương đương như thần Zeus trong thần thoại Hy Lạp, tên các thiếu nữ được ghi và bỏ vào một hộp để chác chàng trai rút thăm. Những thanh niên thiếu nữ trúng thăm sẽ thành đôi bạn trong suốt năm, khởi đầu từ tháng Ba. Khi Ki - tô giáo bành trướng, các giáo sĩ tìm cách thay thế các phong tục này, lễ kính thần bảo vệ mục tử và bầy cừu được thay thế bằng lễ thánh Valentine. Các thanh niên nam nữ cũng rút thăm, nhưng thay vì tên bạn gái, bạn trai, thì các thanh niên sẽ rút thăm tên các thánh nam, các thiếu nữ rút thăm tên các thánh nữ, để noi gương các ngài trong suốt năm. Đến thế kỷ thứ tư thì tục lệ cũ lại trở lại, các thanh niên lại rút thăm tên các thanh nữ để làm bạn với nhau trong năm cho mãi tới thế kỷ 16 các giáo sĩ lại cố gắng tạo một tục lệ lành thánh như giáo hội đã làm vào thế kỷ thứ 3, nhưng cũng không thành công. Theo truyền thuyết Thiên Chúa giáo thì có bảy người mang tên Valentine, có những hành động tốt đáng kính. Một trong những truyền thuyết đó là thánh Valentine, một linh mục dưới triều đại hoàng đế Claudius. Ngài được kẻ giàu người nghèo, người trẻ người già, nam nữ nói chung từ tất cả mọi tầng lớp kính mến. Vào thời này hoàng đế Claudius đang bắt lính gắt gao để sai đi đánh các nước phương xa vì ít ai tình nguyện đi nại cớ vướng bận gia đình, vợ con. Hoàng đế tức giận ra lệnh đình chỉ chuyện lập gia đình và hủy bỏ các cuộc hứa hôn. Linh mục Valentine cho là sai trái và không công bằng, và ngài vẫn tiếp tục cử hành các hôn lễ. Hoàng đế biết được liền ra lệnh giam tù Ngài cho tới chết. Theo truyền thuyết khác, thì trong thời gian bị tù Ngài chữa bệnh mù của con gái viên coi tù và giúp cô vào đạo. Hoàng đế giận dữ sai quân lính đánh và chém đầu vào ngày 14 tháng 2 năm 269. Cũng có truyền thuyết từ trong tù Valentine thường thư từ liên lạc với cô gái viên coi tù, thường ký tên là từ Valentine của bạn. Có lẽ vì câu này mà sau này người ta thường viết thư chúc tụng, tỏ dấu yêu mến nhau, thường lấy câu này để gián tiếp tỏ tình yêu mến của mình với một người nào đó, từ Valentine của bạn, từ một người ái một bí mật,... Năm 496, giáo hoàng Gelasius tuyên bố mừng lễ thánh Valentine, quan thầy các cặp đính hôn, hay những người muốn lập gia đình. Trong dịp lễ này những người thân trao đổi thư từ yêu thương. Nói chung, tập tục này rất hay, tạo cơ hội cho mọi người tỏ lòng quí mến của mình đối với những người thân yêu, không cần đồ sộ, xa hoa, không cần phải loè loẹt, phung phí, chỉ một đôi dòng, một chút quan tâm, một chút thương yêu, quí mến cũng đủ! Chúc các bạn một ngày lễ Tình Thương, một mùa Thương Yêu, trọn đời Yêu Đương bên người yêu, người thân, vợ chồng, con cái và bạn hữu các nơi! Nguyên Đỗ Ngày Lễ Valentine (2)Hôm nay, ngày Lễ Valentine, những trường, sở tự nhiên rạng rỡ hẳn lên với những màu áo đỏ hồng của các cô sinh viên, nữ giáo sư, cũng như các nhân viên làm việc. Cứ chốc chốc lại có những chiếc xe đưa những bình hoa thật đẹp, những bình hoa hồng đỏ thắm và những bong bóng màu có in chữ Happy Valentine, Love giao cho người được tặng. Trông thật vui mắt và hồn tôi cũng rộn rã hơn, chợt nhớ đến một người, nhiều người quen biết ở xa, giờ này chắc cũng nhận những bình hoa thật đẹp, hay những cánh thiệp xinh xinh với những dòng chữ thân thương mang những thông điệp ngọt ngào của những người yêu, người thân, bạn bè... Tôi ngồi trong phòng ăn tập thể (cafeteria) đảo mắt nhìn quanh, phòng có khoảng 100 người, trong đó đa số là nữ, gần như người nào cũng mặc áo đỏ, có người mặc toàn bộ màu hồng, và hình như ai cũng cầm điện thoại tay nói chuyện với người thân, câu I love you ( Em yêu anh hay Anh yêu em) cứ như những điệp khúc được lập đi lập lại. Trông ai cũng vui vẻ hạnh phúc! Đi ngang văn phòng của một cô bạn, quen nhau cũng 3 năm rồi, có thể gọi mày tao được, cái gì cũng nói tôi nghe hết, tôi thấy trên bàn cô có một bình bông hồng lớn thật đẹp, tôi gõ cửa khen: -- Wow, cô hôm nay có bình hoa đẹp quá! Chúc mừng cô nha! -- Lại đây tao nói cho mày nghe, mày nghĩ tụi tao có điên khùng không, tao bỏ ra 70 Mỹ kim để mua hoa tặng cho chính mình để người ta khỏi xì xầm là chẳng có ai nhớ ai thương trong ngày Lễ Tình Yêu này. Bây giờ, nhìn bình hoa thấy là mình đã làm sai. Tôi cười, khen an ủi: -- Không, bình hoa đẹp lắm đó chứ, đáng đồng tiền bát gạo, một năm có một lần thôi mà! -- Số tiền có thể trả điện thoại tay hai tháng nói thả giàn đó mày, đúng là sai lầm! Là đồng nghiệp với nhau, chung lớp cổ ngữ với nhau mấy năm trước kia nên tôi xổ La ngữ đùa với cô nàng: -- Oh, errare humanum est! Có lầm lỗi mới là con người mà! Cô nàng nhìn tôi hỏi: -- Tối nay mày rảnh không? Đi ăn tiệm Avanti với tao nha! Tôi cười cười: -- You ask me out and take me to Avanti? Come on, you ve spoiled the fun! Mày mời tao hẹn mà dẫn tao đi tiệm Avanti (quán ăn Ý bình dân) à? Mày làm hư cuộc vui rồi! Thấy cô ta lúng túng, tôi nói: -- Tao chọc mày thôi, chứ chúng mình là bạn tốt, tao có ý kiến hay hơn, là gặp nhau ở Olive Garrden (cũng quán ăn Ý mà sang hơn) lúc 8 giờ tối nay, tao trả tiền lần này. Thường trai gái Mỹ hẹn nhau thì người thanh niên lái xe tới đón đưa tận nhà, tôi với cô này chỉ là bạn thường nên hẹn gặp nhau ở quán tức là chỉ tính cách đồng nghiệp, nói cho đúng hẹn ăn trưa thì thường, còn hẹn ăn tối với nhau chỉ với người thân lắm mới được. Người Mỹ đi ăn chung thường "go Dutch" ai ăn tiền người nấy trả, cô bạn này đã đi Tây và người Việt nam mình cũng chơi Tây lắm nên trả cho nhau trông hay hơn. Cô mừng rỡ ra mặt: -- Oh, cám ơn! Mày thật là một người bạn tốt! -- Da nada! (Tiếng Tây Ban Nha) Không có chi! Ciao! (Tiếng Ý) Chào! Tôi bước ra khỏi cửa, ngoảnh đầu nhìn lại thấy cô bạn còn nhìn bình hoa lẩm bẩm: -- It s a mistake! It s too expensive! (Sai lầm! Mắc quá!) -- Errare humanum est! Amare humanum est! Có sai mới là con người, có yêu mới là con người! Ngày Hoa Đỏ của tôi có những niềm vui nho nhỏ như thế đó! Ngày Tình Yêu ai cũng muốn được có người quan tâm, yêu thương mình! Tôi tự hỏi không biết có bao nhiêu người như cô này, phải ra tiệm hoa đặt mua trước để người ta đưa tới giao cho mình để họ không cảm thấy lẻ loi cô đơn trong một thế giới rộng thênh thang đến nỗi nhiều khi trống vắng, không ai biết ai! Nguyên Đỗ Mục lục Ngày Lễ Valentine 1 & 2 Ngày Lễ Valentine 1 & 2 Nguyên ĐỗChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.Đánh máy : Nguyên Đỗ Nguồn: bạn: TTL đưa lên vào ngày: 23 tháng 3 năm 2006
Trần Thụy Kiều Loan Ngày Mai Ngày mai, em sẽ không có anh. Đó là sự thật, em nhắm mắt lại và tự nhủ như thế. Anh không còn là của riêng em nữa . Và em cũng biết rằng con đường này ngày mai sẽ dài hơn và rộng hơn. Anh hãy đi đi, đi cho hết quãng đường đã chọn, đừng quay lại nhìn em làm gì. Với anh bây giờ chỉ có tương lai và vô vàn niềm vui trước mắt. Em không là gì cả - đừng quay lại nhìn em. Lá rơi ... một chiếc... hai chiếc... nhiều quá em không thể nào đếm được, cũng như không thể nào đếm được những tình cảm anh đã dành cho em. Em thấy thương cho kỷ niệm của chính mình. Hình như bây giờ em đã lớn hơn một chút. Em biết mất anh em sẽ buồn lắm. Có sự chia ly nào mà đem lại niềm vui không anh? Anh hãy đến với những niềm vui mới đang chờ anh phía trước. Nơi đó anh sẽ gặp được nhiều người sôi nổi hơn em, cuồng nhiệt hơn em, và em tin rằng anh sẽ quên em thôi. Em không thể giúp gì cho anh. Càng không thể can dự vào cuộc đời anh và em chỉ có thể gởi đôi lời chúc tụng cho anh. Hãy đi đi, đừng quay nhìn lại, đừng nhìn giọt nước mắt cuối cùng của cuộc tình chúng tạ Đừng để lá phải rơi nhiều thêm nữa. Anh cứ đi trên con đường đang rộng mở đón bước chân anh, đừng nghĩ gì cho em. Đêm nay, đêm mai... em về bước chân chắc lẻ loi hơn, cô độc hơn nhưng em biết điều đó sẽ tốt hơn cho em và cho anh. Cuộc sống đôi lúc quá đắng cay mà em chỉ là một cô gái bình thường nhỏ nhoi. Thiếu vòng tay anh che chở mỗi đêm về nhưng em đã dư những điều nhận biết trong tình yêu. Cám ơn sự chia ly trong nỗi đau rất ngọt ngào này. Em đã chia sẻ cùng anh những tháng ngày khó khăn và bây giờ nó đã qua đi. Em tiễn đưa anh về nơi xa ấy. Cầu mong anh luôn có được niềm vui. Nếu anh hạnh phúc, đừng quay lại tìm em, anh nhé! Trần Thụy Kiều Loan Mục lục Ngày Mai Ngày Mai Trần Thụy Kiều LoanChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: Thời áo trắngĐược bạn: Thành Viên VNthuquan đưa lên vào ngày: 27 tháng 12 năm 2003
Tran Thuy Kieu Loan Tomorrow Tomorrow, I won't have you. It's true, I closed my eyes and told myself. You are no longer mine. And I also know that tomorrow this road will be longer and wider. Go ahead, go all the way, don't look back at me. For him now there is only the future and countless joys ahead. I'm nothing - don't look back at me. Falling leaves... one... two... so many I can't count them, just like I can't count the feelings you have for me. I feel sorry for my own memories. Looks like I'm a little older now. I know losing you will be very sad. Is there any parting that brings joy? Come to the new joys that are waiting for you ahead. There you will meet many people who are more vibrant than me, more passionate than me, and I believe you will forget me. I can't help you. I can't even interfere in your life and I can only send you a few words of congratulations. Go, don't look back, don't look at the last tear of our love. Don't let the leaves fall any more. Just keep walking on the path that is open to your footsteps, don't think anything of me. Tonight, tomorrow night... my steps will probably be more lonely, more lonely, but I know it will be better for me and for you. Life is sometimes so bitter and I'm just a small, ordinary girl. Without your arms to protect me every night, I still have enough knowledge of love. Thank you for the separation in this very sweet pain. I shared with you the difficult days and now they are over. I send you off to that far away place. I hope you always have joy. If you're happy, don't come back to find me, okay? Tran Thuy Kieu Loan Table of contents Tomorrow Tomorrow Tran Thuy Kieu Loan Welcome to read the first books from the book project for mobile devices. Source: author: Nguyen Kim Vy. Final words: Thank you for reading the entire story. Source: editor: Nguyen Kim Vy. Source: White shirt period Posted by: Member VNthuquan on: December 27, 2003
Linda Stafford Ngày mai có thể đã trẽ rồi Dịch giả: Trần Lê Thanh hà Đây là một câu chuyện làm bạn hiểu tại sao bạn nên sống mỗi ngày như là ngày cuối cùng… Có một thiếu niên bị ung thư giai đoạn cuối. Cậu chỉ mới mười bảy tuổi và có thể chết bất cứ lúc nào. Cậu luôn luôn ở nhà, được mẹ cậu chăm sóc. Một ngày kia cậu quyết định đi ra ngoài dù chỉ một lần. Cậu xin phép mẹ và bà đồng ý. Trong khi đi bộ dọc theo dãy nhà của mình, cậu thấy nhiều cửa tiệm. Cậu dừng lại ở một tiệm bán băng nhạc, nhìn vào và thấy một cô gái rất xinh trạc tuổi cậu, đó là tình yêu ngay cái nhìn đầu tiên và cậu bước vào. Cậu đến ngay quầy hàng của cô gái. Cô mỉm cười với cậu và hỏi:” Anh cần mua gì không?” Cậu chỉ có thể nghĩ đó là nụ cười đẹp nhất cậu từng thấy và lắp bắp:” À, ừm, tôi muốn mua một dĩa CD.” Cậu chộp lấy chiếc dĩa đầu tiên cậu nhìn thấy và trả tiền cho cô. “Anh có muốn tôi gói nó lại không?” cô gái mỉm cười hỏi. Cậu nói có và cô đi vào gian phòng phía sau để gói nó. Cậu nhận chiếc dĩa CD đã gói và đi bộ về nhà. Kể từ ngày đó cậu đến cửa tiệm mỗi ngày và mỗi ngày cậu mua một dĩa CD. Và mỗi ngày cô gái lại gói nó và cậu cất chúng vào tủ không mở ra. Cậu là một cậu trai rất nhút nhát và dù đã cố gắng hết sức cậu vẫn không đủ can đảm mời cô đi chơi. Mẹ cậu để ý thấy điều đó và động viên cậu. Ngày hôm sau cậu đi đến tiệm với sự quyết tâm, như những ngày trước cậu mua một dĩa CD và cô gái gói nó như thường lệ. Trong khi cô đang bận rộn, cậu đặt số điện thoại của cậu trên quầy hàng và chạy ra khỏi tiệm. Ngày hôm sau cậu không đến cửa tiệm và cô gái gọi điện cho cậu. Mẹ cậu trả lời, bà tự hỏi ai có thể gọi cho cậu. Chính là cô gái ở cửa tiệm băng nhạc! Cô xin nói chuyện với con trai bà và bà mẹ bắt đầu khóc. Cô gái hỏi bà có chuyện gì. “ Cháu không biết sao? Nó chết ngày hôm qua.” Đầu dây bên kia im lặng một lúc lâu… Buổi chiều hôm ấy bà mẹ cậu vào phòng cậu để nhớ đến con trai mình. Bàøquyết định bắt đầu với chiếc tủ của cậu và rất ngạc nhiên khi thấy một đống lớn những dĩa CD chưa mở gói trong giấy màu vui mắt. Bà tò mò vì có quá nhiều dĩa, và bà mở một gói. Khi xé gói ra, bà thấy một mảnh giấy viết: “Chào anh! Anh thật dễ thương, em rất thích gặp anh. Hôm nào chúng ta đi chơi với nhau nhé. Sophie.” Bà mẹ bắt đầu khóc trong khi mở một gói khác. Một gói nữa, rồi một gói nữa. Mỗi chiếc dĩa CD đơn đều có một mảnh giấy viết câu ấy. Bài học cho chúng ta: Cuộc sống là như vậy, đừng chần chừ không nói với những người đặc biệt bạn nghĩ gì về họ, ngày mai có thể đã quá trễ rồi. Mục lục Ngày mai có thể đã trẽ rồi Ngày mai có thể đã trẽ rồi Linda StaffordChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: Thư viện Ebook. comĐược bạn: Ct.Ly đưa lên vào ngày: 30 tháng 9 năm 2005
Linda Stafford Tomorrow it may already be late Translator: Tran Le Thanh ha Here is a story that makes you understand why you should live each day as if it were your last… There was a teenager who had terminal cancer. He was only seventeen years old and could die at any moment. He was always at home, cared for by his mother. One day he decided to go out just once. He asked his mother for permission and she agreed. While walking along his block, he saw many shops. He stopped at a music store, looked in and saw a very pretty girl about his age, it was love at first sight and he walked in. He went straight to the girl's stall. She smiled at him and asked: "Do you need to buy anything?" He could only think it was the most beautiful smile he had ever seen and stammered: “Ah, um, I want to buy a CD.” He grabbed the first plate he saw and paid her. “Do you want me to wrap it up?” the smiling girl asked. He said yes and she went into the back room to wrap it. He received the wrapped CD and walked home. From that day on he went to the store every day and every day he bought a CD. And every day the girl wrapped it up and he put it in the closet without opening it. He was a very shy boy and despite his best efforts, he still didn't have the courage to ask her out. His mother noticed that and encouraged him. The next day he went to the store with determination, like the previous days he bought a CD and the girl wrapped it as usual. While she was busy, he put his phone number on the counter and ran out of the store. The next day he didn't come to the store and the girl called him. His mother answered, she wondered who could be calling him. It's the girl at the music store! She asked to speak to her son and the mother began to cry. The girl asked her what was wrong. “Don't you know? It died yesterday.” The other end of the line was silent for a long time... That afternoon his mother came into his room to remember her son. She decided to start with his cabinet and was surprised to see a large pile of unopened CDs wrapped in brightly colored paper. She was curious because there were so many plates, and she opened a package. When she tore open the package, she saw a piece of paper that read: “Hello! You're so cute, I really enjoyed meeting you. Let's go out together someday. Sophie.” The mother started crying while opening another package. Another package, then another. Every single CD has a piece of paper with that sentence written on it. Lesson for us: Life is like that, don't hesitate to tell special people what you think about them, tomorrow it may be too late. Table of contents Tomorrow it may already be late Tomorrow it may already be late Linda StaffordWelcome to read the titles from the book project for mobile devices. Source: author: Nguyen Kim Vy. Final words: Thank you for reading the entire story. Source: editor: Nguyen Kim Vy. Source: Ebook Library. comUploaded by: Ct.Ly on: September 30, 2005
Đào Huy Kiên Ngày mai em đi H ôm nay như thường lệ tôi đón xe buýt từ trường về. Tôi chọn cho mình một chiếc ghế trống rồi lấy ipod ra nghe. Giờ này hãy còn vắng bởi tôi được nghỉ mấy tiết cuối chứ mọi khi phải đứng giữa nhung nhúc những người và người. Việc được ngồi ghế lúc này đối với một anh thanh niên như tôi quả là xa xỉ. Tôi ngồi tận hưởng cái hạnh phúc bình dị ấy. Từ một năm nay tôi đã học được cách cảm thấy hạnh phúc từ những điều cỏn con. Một bữa cơm tối mọi người ngồi ăn bên nhau và xem thời sự, tôi thấy vui. Một ngày đi học giảng đường đông đủ sinh viên, tôi thấy vui. Một buổi đi chơi với bạn bè uống trà sữa ở Feeling Tea khiến tôi hạnh phúc. Những hạnh phúc ấy tôi tìm ra chỉ sau khi nhận lấy những nỗi đau khi mối tình với em qua đi. Em đến rồi đi như một luồng gió mát thổi vào cuộc đời tôi nhưng những kí ức về em không bao giờ biến mất. Tôi tưởng thời gian sẽ xoá nhoà hình ảnh của em nhưng tôi đã nhầm. Đôi khi những kí ức về mối tình ngắn ngủi chưa đầy một tháng tưởng đã ngủ yên bỗng thức dậy đầy sức sống, đôi khi trong những giấc mơ tôi lại thấy cái ôm thật chặt từ sau lưng để rồi khi thức dậy thấy đắng ngắt ở trong lòng... Tôi vẫn ngồi nghe những ca khúc yêu thích của mình, mắt hướng ra ngoài cửa sổ nhìn cảnh vật trôi lùi về phía sau. Tôi lơ đãng không biết hồn mình đang ở đâu. Mắt tôi nhìn mà không nhìn, tai tôi nghe mà không nghe. Bỗng tôi giật mình khi nghe tiếng nói như phát ra từ xa xăm: “Em chào anh”. Tiếng nói ấy từ chiếc ghế cạnh tôi. Tôi không muốn quay lại. Giọng nói ngọt ngào ấy làm tôi sợ. Nhưng tôi vẫn quay lại và tôi thấy điều tôi không muốn thấy: em. - Lâu lắm rồi không gặp anh. - Ừ. Tôi nở một nụ cười nhẹ nhàng trên khuôn mặt bình thản dù lòng tôi như mặt biển trong cơn bão miền nhiệt đới. Tôi sợ. Những nỗi đau em gây ra thời gian vẫn chưa làm lành hết thì giờ đây em lại xuất hiện. Tôi lo những vết thương cũ lại mưng mủ và em sẽ gây ra những vết thương mới trong lòng tôi. Không chỉ là nỗi sợ hãi mà còn một cảm xúc nữa trong tôi là sự giận dữ. Em nói cứ như giữa tôi và em chưa từng có chuyện gì xảy ra, cứ như hai người bạn cũ lâu ngày không gặp, cứ như em chưa từng gây ra bao đau khổ, dằn vặt cho tôi. “Phải rồi, lâu lắm không gặp. Lâu lắm kể từ khi em gửi cho anh một dòng tin nhắn ngắn ngủi nói chia tay”, tôi nghĩ thầm. Tôi ngắm em. Một năm đã trôi qua nhưng em vẫn không thay đổi. Vẫn đôi mắt buồn đằng sau cặp kính gọng đen, vẫn phong cách ăn mặc ấy, chỉ có mái tóc ngắn khi xưa giờ em để dài hơn. - Anh có khoẻ không? - Anh vẫn khoẻ. Còn em? Tôi và em cứ nói những câu xã giao nghe mà phát buồn nôn. Cuộc gặp gỡ này không làm tôi thoải mái chút nào. Câu chuyện của tôi và em thỉnh thoảng bị những khoảng lặng chen vào. Đó là lúc một trong hai người định nói ra một điều gì nhưng lại thôi vì ngại gợi đến chuyện cũ. Sau một khoảng lặng như thế em nói: - Em sắp đi Phần Lan. Tôi cũng lờ mờ biết chuyện đấy. Đôi lần tôi cũng ghé qua blog của em. Em sắp đi du học sang cái xứ sở lạnh lẽo của băng và tuyết ấy. - Bao giờ em đi? - Ngày mai em đi. Sau câu nói đấy là một khoảng lặng dài. Tôi đeo lại tai nghe vào. Em lấy một tai nghe cùng rồi nhắm mắt ngả vào vai tôi. Tôi quên hết những giận hờn dành cho em, như em chưa từng khiến tôi đau đớn. Cảm giác giống với lần đầu gặp em, một thứ hạnh phúc tựa như pha lê, lung linh và dễ vỡ. Tôi bỗng chột dạ khi nghe bên tai mình ca khúc của Lê Hiếu: Sao không ôm anh như lần đầu tiên em đến? Sao không hôn anh như ngày nào còn lưu luyến? Sao không vui lên như một thời bao thương mến? Màu mắt em sao hôm nay muộn phiền? ... Ngày mai anh không còn em nữa, không cho ai là tất cả Để nỗi cô đơn theo anh đến một miền trời xa Để nhắc cho anh biết bao ngày hạnh phúc êm đềm Nhắc cho anh luôn còn lại một trái tim...yêu em Dường như chiếc ipod thấu hiểu tâm trạng tôi lúc này nên đã chọn đúng bài hát ấy. Tôi nhìn ra bên ngoài cửa kính. Không gian đang trôi ngược lại. Thời gian đang trôi ngược lại. Ca khúc ấy như chiếc chìa khoá mở cánh cửa thời gian đưa tôi về lần đầu gặp em. Cái ôm ấy như còn mơn man trên da thịt tôi, nụ hôn ấy như còn xôn xao trên bờ môi tôi. Em đang tựa đầu vào vai tôi ngủ. Tôi nhớ lại tất cả những gì đã cố chôn vùi. Nỗi đau mất em như còn nóng hổi trong lòng, nước mắt của ngày hôm ấy giờ chảy ngược vào trong tim tôi. Tôi quay lại ngắm em. Dường như em là điều bí ẩn cuộc đời đã mang đến cho tôi. Em là ai mà khiến tôi như vậy? Tôi đã từng mong không bao giờ gặp lại em nhưng giờ lại cảm thấy hụt hẫng khi ngày mai em đi đến một chân trời xa thật xa. - Dậy đi em, chuẩn bị đến nơi rồi- tôi lay em dậy. Em tỉnh dậy, không hề biết những suy tư phiền muộn của tôi trong lúc em ngủ. Em cười chào tôi bởi tôi sẽ xuống bến khác, bởi đây là lần cuối tôi gặp em: - Tạm biệt anh. - Bye. Tôi nở nụ cười vẫy tay chào. Em quay lưng bước xuống. Bất chợt tôi vùng khỏi chiếc ghế chạy về phía cửa. Chiếc xe buýt tiếp tục chuyển bánh đến bến đỗ tiếp theo của nó. Còn lại tôi và em. - Ơ anh xuống bến sau cơ mà- em ngạc nhiên hỏi. Tôi không trả lời, chỉ nhìn vào mắt em. Tôi gửi hết tâm sự của mình vào cái nhìn ấy. Rồi tôi nhẹ nhàng ôm lấy em. Tôi ôm em thật lâu. Tôi không biết nó kéo dài bao lâu, vài giây, vài phút hay vài tiếng bởi thời gian như ngừng hẳn lại. Tôi thì thầm vào tai em: - Có một con người trong anh... vẫn còn yêu em... Em không nói gì. Tôi cũng không cần em phải nói gì. Em chỉ lấy ra một mảnh giấy màu vàng ghi vài chữ gấp lại đưa cho tôi rồi nói: - Khi nào em đi rồi anh mới được mở ra nhé. Tôi cầm lấy mảnh giấy em trao. - Tạm biệt anh. - Tạm biệt em. Em bước đi. Tôi bước theo hướng ngược lại... Ngày hôm sau tôi bắt xe buýt ra Nội Bài với bó hoa trên tay. Tôi lò dò nhìn bảng điện tử. Đây rồi, chuyến Hà Nội- Frankfurt bay lúc 19h30. Em phải transit ở Frankfurt rồi mới đến Helsinki được. Từ đằng xa tôi đã nhìn thấy em cùng gia đình, bạn bè. Tôi ngại không muốn gặp, chỉ đứng từ xa ngắm cho đến khi em bước vào trong. Tôi lủi thủi bước đi trong ánh đèn mờ mờ rọi từ khu sân bay. Chợt có một tiếng rít, chiếc máy bay của em kiêu hãnh xé gió nhấc mình lên không trung. - Thế là em đã đi rồi đấy- tôi lẩm bẩm một mình. Bước lên chiếc xe buýt vắng vẻ, tôi ngồi xuống ghế, bó hoa tươi đặt ở ghế bên cạnh. Bỗng tôi sực nhớ ra, thọc tay vào túi quần lấy ra mảnh giấy màu vàng in nét chữ của em: “Hãy quên em đi nhé anh” Tôi nhớ lại những lời đã nói với em một năm trước: “Để quên một người... Cách tốt nhất... Là hãy yêu một người khác...” “Ngốc quá... Làm sao anh có thể yêu ai khác... Khi mãi mãi còn yêu em...” Tôi mỉm cười lôi ipod ra nghe bài hát yêu thích của mình: Ngày mai anh không còn em nữa, không cho ai là tất cả Để nỗi cô đơn theo anh đến một miền trời xa Để nhắc cho anh biết bao ngày hạnh phúc êm đềm Nhắc cho anh luôn còn lại một trái tim...yêu em Mục lục Ngày mai em đi Ngày mai em đi Đào Huy KiênChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: Tác giả/Diễn Đàn vnthuquanĐược bạn: NgụyXưa đưa lên vào ngày: 23 tháng 1 năm 2011
Đào Huy Kiên Ngày mai em đi H ôm nay như thường lệ tôi đón xe buýt từ trường về. Tôi chọn cho mình một chiếc ghế trống rồi lấy ipod ra nghe. Giờ này hãy còn vắng bởi tôi được nghỉ mấy tiết cuối chứ mọi khi phải đứng giữa nhung nhúc những người và người. Việc được ngồi ghế lúc này đối với một anh thanh niên như tôi quả là xa xỉ. Tôi ngồi tận hưởng cái hạnh phúc bình dị ấy. Từ một năm nay tôi đã học được cách cảm thấy hạnh phúc từ những điều cỏn con. Một bữa cơm tối mọi người ngồi ăn bên nhau và xem thời sự, tôi thấy vui. Một ngày đi học giảng đường đông đủ sinh viên, tôi thấy vui. Một buổi đi chơi với bạn bè uống trà sữa ở Feeling Tea khiến tôi hạnh phúc. Những hạnh phúc ấy tôi tìm ra chỉ sau khi nhận lấy những nỗi đau khi mối tình với em qua đi. Em đến rồi đi như một luồng gió mát thổi vào cuộc đời tôi nhưng những kí ức về em không bao giờ biến mất. Tôi tưởng thời gian sẽ xoá nhoà hình ảnh của em nhưng tôi đã nhầm. Đôi khi những kí ức về mối tình ngắn ngủi chưa đầy một tháng tưởng đã ngủ yên bỗng thức dậy đầy sức sống, đôi khi trong những giấc mơ tôi lại thấy cái ôm thật chặt từ sau lưng để rồi khi thức dậy thấy đắng ngắt ở trong lòng... Tôi vẫn ngồi nghe những ca khúc yêu thích của mình, mắt hướng ra ngoài cửa sổ nhìn cảnh vật trôi lùi về phía sau. Tôi lơ đãng không biết hồn mình đang ở đâu. Mắt tôi nhìn mà không nhìn, tai tôi nghe mà không nghe. Bỗng tôi giật mình khi nghe tiếng nói như phát ra từ xa xăm: “Em chào anh”. Tiếng nói ấy từ chiếc ghế cạnh tôi. Tôi không muốn quay lại. Giọng nói ngọt ngào ấy làm tôi sợ. Nhưng tôi vẫn quay lại và tôi thấy điều tôi không muốn thấy: em. - Lâu lắm rồi không gặp anh. - Ừ. Tôi nở một nụ cười nhẹ nhàng trên khuôn mặt bình thản dù lòng tôi như mặt biển trong cơn bão miền nhiệt đới. Tôi sợ. Những nỗi đau em gây ra thời gian vẫn chưa làm lành hết thì giờ đây em lại xuất hiện. Tôi lo những vết thương cũ lại mưng mủ và em sẽ gây ra những vết thương mới trong lòng tôi. Không chỉ là nỗi sợ hãi mà còn một cảm xúc nữa trong tôi là sự giận dữ. Em nói cứ như giữa tôi và em chưa từng có chuyện gì xảy ra, cứ như hai người bạn cũ lâu ngày không gặp, cứ như em chưa từng gây ra bao đau khổ, dằn vặt cho tôi. “Phải rồi, lâu lắm không gặp. Lâu lắm kể từ khi em gửi cho anh một dòng tin nhắn ngắn ngủi nói chia tay”, tôi nghĩ thầm. Tôi ngắm em. Một năm đã trôi qua nhưng em vẫn không thay đổi. Vẫn đôi mắt buồn đằng sau cặp kính gọng đen, vẫn phong cách ăn mặc ấy, chỉ có mái tóc ngắn khi xưa giờ em để dài hơn. - Anh có khoẻ không? - Anh vẫn khoẻ. Còn em? Tôi và em cứ nói những câu xã giao nghe mà phát buồn nôn. Cuộc gặp gỡ này không làm tôi thoải mái chút nào. Câu chuyện của tôi và em thỉnh thoảng bị những khoảng lặng chen vào. Đó là lúc một trong hai người định nói ra một điều gì nhưng lại thôi vì ngại gợi đến chuyện cũ. Sau một khoảng lặng như thế em nói: - Em sắp đi Phần Lan. Tôi cũng lờ mờ biết chuyện đấy. Đôi lần tôi cũng ghé qua blog của em. Em sắp đi du học sang cái xứ sở lạnh lẽo của băng và tuyết ấy. - Bao giờ em đi? - Ngày mai em đi. Sau câu nói đấy là một khoảng lặng dài. Tôi đeo lại tai nghe vào. Em lấy một tai nghe cùng rồi nhắm mắt ngả vào vai tôi. Tôi quên hết những giận hờn dành cho em, như em chưa từng khiến tôi đau đớn. Cảm giác giống với lần đầu gặp em, một thứ hạnh phúc tựa như pha lê, lung linh và dễ vỡ. Tôi bỗng chột dạ khi nghe bên tai mình ca khúc của Lê Hiếu: Sao không ôm anh như lần đầu tiên em đến? Sao không hôn anh như ngày nào còn lưu luyến? Sao không vui lên như một thời bao thương mến? Màu mắt em sao hôm nay muộn phiền? ... Ngày mai anh không còn em nữa, không cho ai là tất cả Để nỗi cô đơn theo anh đến một miền trời xa Để nhắc cho anh biết bao ngày hạnh phúc êm đềm Nhắc cho anh luôn còn lại một trái tim...yêu em Dường như chiếc ipod thấu hiểu tâm trạng tôi lúc này nên đã chọn đúng bài hát ấy. Tôi nhìn ra bên ngoài cửa kính. Không gian đang trôi ngược lại. Thời gian đang trôi ngược lại. Ca khúc ấy như chiếc chìa khoá mở cánh cửa thời gian đưa tôi về lần đầu gặp em. Cái ôm ấy như còn mơn man trên da thịt tôi, nụ hôn ấy như còn xôn xao trên bờ môi tôi. Em đang tựa đầu vào vai tôi ngủ. Tôi nhớ lại tất cả những gì đã cố chôn vùi. Nỗi đau mất em như còn nóng hổi trong lòng, nước mắt của ngày hôm ấy giờ chảy ngược vào trong tim tôi. Tôi quay lại ngắm em. Dường như em là điều bí ẩn cuộc đời đã mang đến cho tôi. Em là ai mà khiến tôi như vậy? Tôi đã từng mong không bao giờ gặp lại em nhưng giờ lại cảm thấy hụt hẫng khi ngày mai em đi đến một chân trời xa thật xa. - Dậy đi em, chuẩn bị đến nơi rồi- tôi lay em dậy. Em tỉnh dậy, không hề biết những suy tư phiền muộn của tôi trong lúc em ngủ. Em cười chào tôi bởi tôi sẽ xuống bến khác, bởi đây là lần cuối tôi gặp em: - Tạm biệt anh. - Bye. Tôi nở nụ cười vẫy tay chào. Em quay lưng bước xuống. Bất chợt tôi vùng khỏi chiếc ghế chạy về phía cửa. Chiếc xe buýt tiếp tục chuyển bánh đến bến đỗ tiếp theo của nó. Còn lại tôi và em. - Ơ anh xuống bến sau cơ mà- em ngạc nhiên hỏi. Tôi không trả lời, chỉ nhìn vào mắt em. Tôi gửi hết tâm sự của mình vào cái nhìn ấy. Rồi tôi nhẹ nhàng ôm lấy em. Tôi ôm em thật lâu. Tôi không biết nó kéo dài bao lâu, vài giây, vài phút hay vài tiếng bởi thời gian như ngừng hẳn lại. Tôi thì thầm vào tai em: - Có một con người trong anh... vẫn còn yêu em... Em không nói gì. Tôi cũng không cần em phải nói gì. Em chỉ lấy ra một mảnh giấy màu vàng ghi vài chữ gấp lại đưa cho tôi rồi nói: - Khi nào em đi rồi anh mới được mở ra nhé. Tôi cầm lấy mảnh giấy em trao. - Tạm biệt anh. - Tạm biệt em. Em bước đi. Tôi bước theo hướng ngược lại... Ngày hôm sau tôi bắt xe buýt ra Nội Bài với bó hoa trên tay. Tôi lò dò nhìn bảng điện tử. Đây rồi, chuyến Hà Nội- Frankfurt bay lúc 19h30. Em phải transit ở Frankfurt rồi mới đến Helsinki được. Từ đằng xa tôi đã nhìn thấy em cùng gia đình, bạn bè. Tôi ngại không muốn gặp, chỉ đứng từ xa ngắm cho đến khi em bước vào trong. Tôi lủi thủi bước đi trong ánh đèn mờ mờ rọi từ khu sân bay. Chợt có một tiếng rít, chiếc máy bay của em kiêu hãnh xé gió nhấc mình lên không trung. - Thế là em đã đi rồi đấy- tôi lẩm bẩm một mình. Bước lên chiếc xe buýt vắng vẻ, tôi ngồi xuống ghế, bó hoa tươi đặt ở ghế bên cạnh. Bỗng tôi sực nhớ ra, thọc tay vào túi quần lấy ra mảnh giấy màu vàng in nét chữ của em: “Hãy quên em đi nhé anh” Tôi nhớ lại những lời đã nói với em một năm trước: “Để quên một người... Cách tốt nhất... Là hãy yêu một người khác...” “Ngốc quá... Làm sao anh có thể yêu ai khác... Khi mãi mãi còn yêu em...” Tôi mỉm cười lôi ipod ra nghe bài hát yêu thích của mình: Ngày mai anh không còn em nữa, không cho ai là tất cả Để nỗi cô đơn theo anh đến một miền trời xa Để nhắc cho anh biết bao ngày hạnh phúc êm đềm Nhắc cho anh luôn còn lại một trái tim...yêu em Mục lục Ngày mai em đi Ngày mai em đi Đào Huy KiênChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: Tác giả/Diễn Đàn vnthuquanĐược bạn: NgụyXưa đưa lên vào ngày: 23 tháng 1 năm 2011
Lê Cát Tường Ngày Mới Lên Tôi là một kẻ không biết rõ mục đích sống của mình cho đến khi vô tình gặp em trong cao ốc này… Đến lần thứ ba đi cùng thang máy thì chúng tôi biết tên nhau. “Tôi tên Phong, bạn tên là gi?”. “Em tên Miên, làm ở lầu 12”. Vậy là Miên làm việc trên tôi hai lầu. Chiều thứ bảy, hai ly cà-phê và bài hát Tàn Tro vẳng trong quán. Chúng tôi biết thêm một chút về nhau. Bố mẹ Miên ở bên Mỹ, còn mình cô ở Sàigòn. Khi tôi hỏi ở lại làm gì, Miên chỉ khẽ bảo: “Sang đó sống mà lòng chưa dứt, chưa yên ổn thì qua làm chi hả anh”. Giọng Miên chùng xuống, êm êm hòa trong tiếng nhạc; “Trước kia em có yêu một người, giờ anh ấy đã yên ấm với gia đình. Hai năm rồi mà sao lòng em chưa yên”. Anh cứ tìm vui nơi khác, đừng thương tiếc em mà chi…, tiếng nhạc vẫn đều đều. *** “Anh kể về anh đi?”. “Anh à? Chẳng có gì đặc biệt, từ ngoài Bắc vào đây vì thích phiêu lưu. Chỉ có vậy thôi.” “Cứ như anh có khi lại hay, chằng khi nào thấy lòng bất ổn. Em lúc nào cũng cảm giác có một điều gì đó không yên, cứ sốt ruột mà chẳng biết vì cái gì. Công việc thế nào anh?”. “Chán nản, không như những gì mình muốn. vẫn biết cuộc sống như thế, nhưng nhiều khi lại thấy mình bơ vơ quá”. “Buồn cười thật phải không anh? Giá như mỗi người có thể san sẻ cho nhau một ít cuộc sống của mình. Thế còn bạn bè? Tụ tập cũng là một cách làm tan nỗi buồn đấy!”. “Bạn bè anh ở ngoài kia hết rồi. Từ khi vào đây, biết thì nhiều nhưng không chơi được với ai theo cách lúc trước nữa”. “Có phải vì công việc, toan tính, với lại niềm vui của từng người bây giờ khác nhau rồi, phải không anh?”. “Em nói đúng, có lẽ sẽ chẳng có thêm bạn thân được nữa. Thế còn bạn bè em?”. “Chúng nó có gia đình, con cái hết rồi? Bây giờ chẳng nhẽ bế con đến chơi với em à? Nhưng giờ cũng quen rồi. Thế anh ở với ai?”. “Anh thuê nhà ở một mình. Nó mang lại cảm giác tự do, nhưng cả cảm giác cô đơn nữa. mà thôi muộn rồi em, mình đi ăn cái gì chứ”. Quán ăn chiều thứ Bảy nhộn nhịp. Những cái bàn kê kiểu Nhật tạo cảm giác ấm cúng, gần gũi. “Uống chút rượu em nhé”. “Dạ vâng, nhưng chỉ một chút thôi, không ảnh hưởng đến sức khỏe”. *** Bữa cơm kết thúc cũng là lúc 8giờ tối. “Giờ em thích đi đâu?”. “Mình đi coi phim nha anh”. Rạp chiếu Thập diện mai phục, đông nghẹt người, từng đôi tình nhân khoác vai nói cười vui vẻ. Tôi và Miên nhẹ nhàng đi bên nhau. Miên khẽ níu áo tôi bước đi. Một cảm giác đễ chịu, thấy cuộc sống bớt buồn tẻ vây lấy tôi. Suốt buổi chiếu phim, chúng tôi không nói câu nào, chỉ thỉnh thoảng đến những đoạn xúc động, Miên níu áo tôi chặt hơn một chút. Tôi vừa xem phim vừa sợ Miên bỏ tay ra khỏi áo mình, sợ những điều bình thường nhất biến mất. Dù không muốn nhưng cũng đến lúc phim kết thúc. Bước ra khỏi rạp, Miên khẽ nói: “Như cô Mei này lại hay anh nhỉ, yêu một lần rồi chết, thế là mãi mãi có tình yêu”. Tôi không biết nói gì, bởi điều ám ảnh tôi khác với Miên. Tôi cần tìm thấy mục tiêu trong cuộc sống. “Nhà em ở đâu, để anh đưa về?”. “Anh đưa em về nhà anh đi”, Miên cúi đầu khẽ nói. Chỉ có tôi và Miên trong căn phòng nhỏ, tôi với tay mở nhạc. Chúng tôi nằm bên nhau, tay tôi khoác hờ qua vai Miên. “Anh…”, đôi môi Miên tìm môi tôi. Một cảm giác khao khát chợt trỗi dậy. Nụ hôn thật mềm mại, thật sâu, như trút hết suy nghĩ của tôi. Miên say mê với đôi môi tôi. Đôi mắt khép hờ, tôi chợt cảm thấy nụ hôn không dành cho mình. *** Miên chầm chậm cởi bỏ quần áo của em và tôi. Khi trên người không còn một chút gì che chắn, khi những lo toan về tình yêu hay cuộc sống được tháo bỏ, khi tôi là tôi và em là em, chúng tôi hòa làm một, tan ra trong nhau. Tôi thiếp đi. Ánh sáng của một ngày mới tràn qua khe cửa làm tôi tỉnh giấc. Sau cái dụi mắt, tôi nghĩ tới Miên, đưa mắt tìm kiếm nhưng không thấy em đâu cả. Chỉ có bức thư được chẹn dưới ổ bành mì: Anh, cảm ơn anh cho em được sống lại. Cho em hiểu mình còn muốn những điều gì ở cuộc sống. Mong anh sẽ tìm được niềm vui và mục đích sống. Anh sẽ không gặp lại được em nữa đâu. Tôi khẽ gấp bức thư lại, một cảm giác là lạ vừa chợt đến. Tôi thấy mọi buồn phiền không còn, dù chỉ là một chút. Có thể tôi không còn gặp em nữa, nhưng tôi sẽ nhớ mãi về em. Mục lục Ngày Mới Lên Ngày Mới Lên Lê Cát TườngChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.Đánh máy : mssthuan Nguồn: Theo TT&GĐĐược bạn: Ct.Ly đưa lên vào ngày: 9 tháng 12 năm 2006
Le Cat Tuong New Day I was a person who didn't know my purpose in life until I accidentally met you in this building... By the third time we were on the same elevator, we knew each other's names. "My name is Phong, what's your name?". "My name is Mien, I work on the 12th floor." So Mien works two floors above me. Saturday afternoon, two cups of coffee and the song Ashes echoed in the shop. We know a little more about each other. Mien's parents are in America, and she is alone in Saigon. When I asked why I was staying, Mien just quietly said: "If you go there to live but your heart is not satisfied, if you don't feel secure, then what's the point of coming over?" Mien's voice was low and gentle in the music; “I loved someone before, now he is at peace with his family. It's been two years, but why is my heart still not at peace? Just find fun somewhere else, don't feel sorry for me..., the music is still steady. *** “Tell me about yourself?”. "Hey darling? Nothing special, came here from the North because I love adventure. That's it." “It's like I'm sometimes aware, but I never feel unsettled. I always feel like something is wrong, I'm impatient but I don't know why. How is work? “Depressed, not what I wanted. I still know that life is like that, but sometimes I feel so helpless." “It's funny, isn't it? If only each person could share a little of their lives with each other. What about friends? Gathering is also a way to relieve sadness! “My friends are all out there. Since coming here, I know a lot but I can't play with anyone the way I did before." "Is it because everyone's work, plans, and joy are different now, right?". “You're right, I probably won't have any more close friends. What about your friends? “Do they have families and children? Now, why don't you bring your child to play with me? But now I'm used to it. So who are you staying with? “I rent a house alone. It brings a feeling of freedom, but also a feeling of loneliness. But it's late, let's go eat something." The restaurant is bustling on a Saturday afternoon. Japanese-style tables create a cozy and close feeling. "Drink some wine, please." "Yes, but just a little, it doesn't affect your health." *** The meal ends at 8pm. “Where do you want to go now?”. "Let's go see a movie." The Thap Faces Theater was in ambush, crowded with people, each couple of lovers talking and laughing happily. Mien and I walked gently together. Mien gently grabbed my shirt and walked away. A pleasant feeling, seeing life less boring surrounded me. During the movie screening, we didn't say a word, only occasionally during emotional parts, Mien clutched my shirt a little tighter. While watching the movie, I was afraid that Mien would remove her hand from her shirt, afraid that the most normal things would disappear. Even though I don't want to, it's time for the movie to end. Stepping out of the theater, Mien softly said: "Like this Mei or me, love once and then die, then there will be love forever." I don't know what to say, because what haunts me is different from Mien's. I need to find purpose in life. "Where is your house? Can I take you home?" "Let me take you home," Mien bowed her head and said softly. It was just me and Mien in the small room. I turned on the music. We lay next to each other, my arm loosely draped over Mien's shoulder. “I…”, Mien's lips found mine. A feeling of longing suddenly arose. The kiss was so soft, so deep, it seemed like it poured out all my thoughts. Mien is infatuated with my lips. My eyes were half closed, I suddenly felt that the kiss was not for me. *** Mien slowly took off her and my clothes. When there is no longer any protection on my body, when worries about love or life are removed, when I am me and you are you, we become one, melting into each other. I fell asleep. The light of a new day poured through the crack in the door, waking me up. After rubbing my eyes, I thought of Mien, looked around but couldn't see her anywhere. There was only a letter hidden under a loaf of bread: Brother, thank you for giving me life again. Let me understand what I still want in life. I hope you will find joy and purpose in life. I won't see you again. I gently folded the letter, a strange feeling suddenly came. I feel like all my sadness is gone, even if it's just a little bit. I may not see you anymore, but I will remember you forever. Table of contents New Day New Day Le Cat TuongWelcome to read the first books from the book project for mobile devices. Source: executive: Nguyen Kim Vy. Last words: Thank you for following the entire story. Source: onion: Nguyen Kim Vy. Typing: mssthuan Source: According to TT&GD Uploaded by friend: Ct.Ly on: December 9, 2006
Trần Lệ Thường Ngày nắng Tôi lột chiếc nón lá xuống cầm tay, đứng ngập ngừng trước cánh cổng màu xanh mở toang và hàng rào cây bùm sụm thấp lè tè có thể nhìn thấy rõ qua mãng sân lát gạch màu đỏ là ngôi nhà màu vôi, cửa kính xanh lấp lóa ánh nắng. Nắng lên cao, dọi bóng những cây mãng cầu bên hè xuống những chiếc băng đá. Nắng xuyên qua kẻ lá làm thành những chiếc hoa vàng trên mặt đất. Tôi bứt một trái bùm sụm chín cho vào miệng. Những trái bùm sụm chín đỏ nhỏ xíu có mùi vị ngọt chan chát, bất cứ đứa trẻ nào trông thấy cũng thích. Con Nhi nhà tôi cũng vậy. Quay qua quay lại, thoắt cái biến đi thì sẽ tìm thấy nó bên hàng rào nhà chú thím Út Cho đang vạch lá tìm trái chín. Nó bệnh rồi, nóng hầm hầm nằm li bì không muốn dậy đi hái trái bùm sụm nữa, để cho tụi thằng Bi, con Son dành hết.“Ủa! Đứng làm gì ở đây? Vô nhà chơi!” Thím Út đi đâu vừa về tới thấy tôi liền bảo. Tôi ngập ngừng. “Con… có chuyện muốn gặp thím”. “Ừ! Vô nhà đã. Chú Út chắc ở đàng sau vườn. Con Mỹ học buổi chiều, không có thím thì cứ vô chơi với nó. Sợ chó hả? Con Vàng hiền lắm”. “Dạ không! Con Vàng quen con, thấy con nó mừng”. Ngôi nhà này tôi và anh Đảnh vào ra không biết bao nhiêu lần mà mỗi lần đến tôi vẫn thấy ngại. Ngại vì khi đến tôi luôn mang theo sự cầu cạnh nhờ vả. Đôi khi anh Đảnh đến tiếp đào ao, kéo cá, làm cỏ,… Có chuyện gì cần thì chú Út lại gọi anh Đảnh. Anh Đảnh làm giỏi cũng có, còn vì chú thím thấy gia đình tôi quá khó khăn về kinh tế. Hai đứa con, thằng Chân đến tuổi vô lớp một rồi mà còn chưa đến trường, con Nhi bốn tuổi nay ốm mai đau hoài. Anh Đảnh làm thuê làm mướn đem tiền về. Nhưng không phải lúc nào anh cũng có việc làm.Thím Út im lặng khi nghe tôi muốn mượn một ít tiền để mua thuốc cho con Nhi. “Uống nước đi”. Thím đẩy ly nước lạnh về phía tôi. Cục nước đá nổi lên trong chiếc ly thủy tinh trong suốt. Cầm ly nước, tôi len lén nhìn thím nhưng nét mặt thím bình thản, không nói lên điều gì. Thím Út trạc năm mươi tuổi, cao lớn nhưng không đẩy đà như những phụ nữ nhiều tuổi khác, nước da ngâm ngâm đen, hàm răng trắng sáng, khi cười gương mặt thím trông thật rạng rỡ. Nghe nói thím là dân thành phố rất xinh đẹp, hát hay còn biết đàn nữa. Gặp chú Út Cho rồi về đây làm dâu, một vùng ven thành phố, thím đã trở nên một người phụ nữ đảm đang chân đất. Chú Út vì hoàn cảnh bắt buộc phải nghỉ học khi hết phổ thông để chăm sóc mảnh vườn ổi khô cằn thu hoạch chẳng được bao nhiêu. Ba chú sức khỏe kém ngày một yếu đi, thím Út về làm dâu không bao lâu thì ba Chú Út mất trong ngôi nhà lợp mái tole nóng bức. Chú Út đổi sang trồng mãng cầu ta, đào mấy cái ao, đìa thả cá, mở rộng chuồng heo và nuôi gà vịt.Uống một hớp nước thím Út đứng lên đi vào trong rồi trở ra với một rổ bánh lá dừa, mùi nếp chín thơm lừng. “Nè! Ăn bánh đi! Thím với Con Mỹ gói tối qua để tối nay thằng Thiện về thăm nhà ăn. Nó thích bánh lá dừa lắm. Ở thành phố ít khi nào nó mua. Nó chỉ thích bánh thím gói”. Tôi cầm lấy một cái lột lớp lá còn âm ấm. Chắc thím Út và Mỹ đã thức canh nồi bánh đến gần sáng. “Thiện sắp sửa tốt nghiệp Đại học rồi phải không thím?”, “Ờ! Năm sau! Chú Thím đang lo chuyện cưới vợ cho nó. Hai đứa nó đã thương nhau cũng đã lâu rồi”. Rồi thím kể tôi nghe chuyện Thiện muốn làm đám cưới thiệt lớn, rước ban nhạc ở thành phố về, thuê quay phim chụp ảnh, cả đoàn xe du lịch đi rước dâu, mời luôn cả thằng bạn từng đánh nhau thời trung học đi đám cưới… “Bộ tiền không có chỗ xài hả?” Chú Út nạt ngang cáu có”. Chủ yếu là tụi bây sống với nhau hòa thuận, hạnh phúc lâu dài. Chụp vài ba tấm ảnh kỷ niệm là được rồi…”. Chú thím Út rất nuông chiều con nhưng chuyện gì không thể thì đừng mong. Được cái Thiện, Mỹ đều ngoan, biết vâng lời, chăm chỉ học hành. Mỹ đang học lớp 12 sang năm lại đi Sài Gòn vào đại học. Thím nói thao thao mà quên lúc đó có tôi làm cỏ trong vườn cùng với mọi người. Thiện cười vớt vát. “Làm đám cưới lớn rồi sống không hạnh phúc sao? Ba!”. “Đám cưới đơn giản tụi bây không ăn đời ở kiếp với nhau được hả? Mày sợ không ai biết mày cưới vợ sao?” Chú nói. Chú không phải là một ông già nhà quê hủ lậu, chỉ là bản tánh khiêm tôn, giản dị, nghiêm chỉnh đến cứng ngắc. Có chuyện đi thành phố bằng xe gắn máy, thím Út không chịu đội nón bảo hiểm là chú không đi. Thím thì hay nói đùa. “Đi xe gắn máy gì bây ơi! Chỉ mau hơn xe đạp một chút”. Ý than phiền chú chạy chậm.“Thím nói thì bây cứ nói thím nói hoài, chưa già mà lẩm cẩm. Con thử nghỉ lại coi…” tôi chưa ăn hết cái bánh lá dừa thì thím Út nói, cũng vẫn giọng nói trầm trầm dịu dàng. “Một mình thằng Đảnh làm nuôi cả gia đình bốn người thì làm sao sống nỗi. Mà nếu có sống thì sống cũng như không phải chết. Con cái không học hành, nay ốm mai đau…”. Cũng vẫn chuyện thím biểu tôi cho thằng Chân đi học, đem con Nhi gởi mẫu giáo để tôi đi buôn bán. Học thức không có, nghề nghiệp cũng không, lập gia đình rồi tôi chỉ biết ở nhà giữ con. “Bây thấy dì Tư ngọt chưa? Lúc đầu có biết buôn bán gì đâu bây giờ đẩy xe rau cải nhẹ tênh, cuộc sống thoải mái, không chạy đầu này đầu kia vay tiền nữa. Dì Tư mới đổi chiếc tivi 12 inch, bỏ tivi cũ rồi. Ờ! Chiếc tivi hôm trước đem về có xem được không?” “Dạ được! Màn hình trong lắm. Mấy đứa trẻ nhà con rất thích”. Năm ngoái trúng mùa mãng cầu chú Thím mua tivi mới nên cho tôi chiếc tivi cũ rớt đời. “Chiều nói thằng Đảnh qua kéo cá với chú Út. Thím tính hỏi tháng này cá mới đủ ngày nhưng bây giờ muốn bán để cho con mượn một số tiền để làm vốn buôn bán…” Tôi ngồi im lặng nhìn con Vàng đang nằm dưới chân thím Út phe phẩy đuôi. Con chó này thím tìm thấy bên bờ kênh, nằm thoi thóp sắp chết. Nó có bộ lông màu vàng nên đặt tên là Vàng. Giờ này anh Đảnh đang ở nhà trông chừng hai đứa nhỏ chờ có ai đó kêu đi làm. Con Nhi bị bệnh chắc cũng không màng xem phim hoạt hình chú vịt Đô - Nan nữa. Thằng Chân có lẽ đang nghịch với quả bóng. Nó mơ lớn lên làm cầu thủ bóng đá. Tôi suy nghĩ miên man trong lúc thím nói: “Đừng ngại, cũng không cần phải nói ơn nghĩa gì. Xóm giềng với nhau. Người ta vấp ngã còn đứng lên được”. Tôi ngập ngừng “Con sợ… làm không được”. “Không sợ gì hết, mạnh dạn lên. Tập tành lần lần rồi sẽ quen. Cái gì không biết thì hỏi. Lát nữa thím bàn với chú Út. Bây biết tánh ổng rồi đó. Ổng sẽ ủng hộ thím hết mình”. Tôi nhớ năm làm đường trước nhà, nhà nào cũng dời vô hai mét. Chú dời hàng rào vô trước tiên còn đi từng nhà động viên mọi người. Dĩ nhiên chú cũng bị nhiều kẻ ganh ghét nói mắc mỏ, khích bác nhưng sau đó họ lại tìm đến chú xin lỗi. Chú đầy lòng vị tha bỏ qua hết không để tâm còn sẵn lòng giúp đỡ họ. Ở xóm này ai cũng biết gia đình chú cần cù làm ăn, nuôi dạy con nên người, chấp hành tốt chủ trương Nhà nước. Năm nào gia đình chú cũng được bình chọn là gia đình văn hóa tiêu biểu xuất sắc.“Nè! Cầm lấy ít tiền đưa con Nhi lên bệnh xá khám bệnh, mua gì ngon ngon nấu cho mấy đứa nhỏ ăn. Nghe lời thím đầu năm học này cho thằng Chân vô lớp một đi”. Tôi xúc động đến lặng người, nhớ đến giấc mơ làm cầu thủ của thằng chân mà ứa nước mắt. Tôi sẽ nghe lời thím Út, tập tành bán buôn để trở nên một người phụ nữ đảm đang, nuôi dạy con tốt để chúng nó có thể thực hiện được những ước mơ. “Chị kêu thằng Chân sang đây em dạy nó học”. Mỹ từ nhà trong đi ra nói rồi đưa cho tôi một hộp giấy cứng nhiều màu. “Chị đưa bộ chữ này cho thằng Chân ráp chữ. Có nhiều màu mấy đứa nhỏ rất thích”. “Cám ơn Mỹ nhiều nghen!”, “Tui nói thiệt lòng đó chớ. Mang ơn quá nhiều biết lấy gì trả”. “Chị tin là có kiếp sau không? Em chờ chị ở kiếp sau đó”. Thím Út nạt khẽ “Con nhỏ này!”. Mỹ rụt vai rồi bước qua cái hồ cá bằng thủy tinh nghịch mấycon cá kiểng đang bơi quanh hòn non bộ giả, hát khe khẽ: “Chiếc cầu tre xinh xinh nhỏ bé. Không mang nổi người gánh thóc về”. Tiếng hát trong trẻo, véo von và thật hồn nhiên. Tôi bỗng thấy mình già sọp, cằn cỗi trong khi tôi chỉ lớn hơn Thiện có hai tuổi.“Thôi về! Để mấy đứa nhỏ trông. Nhớ nói thằng Đảnh chiều qua đây nghen! Cầm mấy cái về cho con!”. Thím Út dúi vào tay tôi mấy cái bánh lá dừa. Tôi lấy chiếc nón lá từ giã ra về. “ Sẵn sàng đây ở lại ăn cơm rồi hãy về”. Chú Út từ ngoài vườn vào, mặt đỏ lửng vì bắt nắng, nói sang sảng. Tôi đáp lại vài câu rồi đi ra cổng. Con Vàng đi sau tôi đuôi ve vẩy. Bước ra ngoài tôi thấy thằng Bi, con Son đang đứng hái trái bùm sụm dưới trời nắng chang chang. Lòng cồn cào nhớ con Nhi khôn xiết, tôi rảo bước thật nhanh, tay vẫn cầm chiếc nón lá quên đội lên đầu. Một ngày nắng thật đẹp. Mục lục Ngày nắng Ngày nắng Trần Lệ ThườngChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.Sưu tầm:ldlvinhquang Nguồn: bạn: Ct.Ly đưa lên vào ngày: 19 tháng 3 năm 2008
Trần Lệ Thường Ngày nắng Tôi lột chiếc nón lá xuống cầm tay, đứng ngập ngừng trước cánh cổng màu xanh mở toang và hàng rào cây bùm sụm thấp lè tè có thể nhìn thấy rõ qua mãng sân lát gạch màu đỏ là ngôi nhà màu vôi, cửa kính xanh lấp lóa ánh nắng. Nắng lên cao, dọi bóng những cây mãng cầu bên hè xuống những chiếc băng đá. Nắng xuyên qua kẻ lá làm thành những chiếc hoa vàng trên mặt đất. Tôi bứt một trái bùm sụm chín cho vào miệng. Những trái bùm sụm chín đỏ nhỏ xíu có mùi vị ngọt chan chát, bất cứ đứa trẻ nào trông thấy cũng thích. Con Nhi nhà tôi cũng vậy. Quay qua quay lại, thoắt cái biến đi thì sẽ tìm thấy nó bên hàng rào nhà chú thím Út Cho đang vạch lá tìm trái chín. Nó bệnh rồi, nóng hầm hầm nằm li bì không muốn dậy đi hái trái bùm sụm nữa, để cho tụi thằng Bi, con Son dành hết.“Ủa! Đứng làm gì ở đây? Vô nhà chơi!” Thím Út đi đâu vừa về tới thấy tôi liền bảo. Tôi ngập ngừng. “Con… có chuyện muốn gặp thím”. “Ừ! Vô nhà đã. Chú Út chắc ở đàng sau vườn. Con Mỹ học buổi chiều, không có thím thì cứ vô chơi với nó. Sợ chó hả? Con Vàng hiền lắm”. “Dạ không! Con Vàng quen con, thấy con nó mừng”. Ngôi nhà này tôi và anh Đảnh vào ra không biết bao nhiêu lần mà mỗi lần đến tôi vẫn thấy ngại. Ngại vì khi đến tôi luôn mang theo sự cầu cạnh nhờ vả. Đôi khi anh Đảnh đến tiếp đào ao, kéo cá, làm cỏ,… Có chuyện gì cần thì chú Út lại gọi anh Đảnh. Anh Đảnh làm giỏi cũng có, còn vì chú thím thấy gia đình tôi quá khó khăn về kinh tế. Hai đứa con, thằng Chân đến tuổi vô lớp một rồi mà còn chưa đến trường, con Nhi bốn tuổi nay ốm mai đau hoài. Anh Đảnh làm thuê làm mướn đem tiền về. Nhưng không phải lúc nào anh cũng có việc làm.Thím Út im lặng khi nghe tôi muốn mượn một ít tiền để mua thuốc cho con Nhi. “Uống nước đi”. Thím đẩy ly nước lạnh về phía tôi. Cục nước đá nổi lên trong chiếc ly thủy tinh trong suốt. Cầm ly nước, tôi len lén nhìn thím nhưng nét mặt thím bình thản, không nói lên điều gì. Thím Út trạc năm mươi tuổi, cao lớn nhưng không đẩy đà như những phụ nữ nhiều tuổi khác, nước da ngâm ngâm đen, hàm răng trắng sáng, khi cười gương mặt thím trông thật rạng rỡ. Nghe nói thím là dân thành phố rất xinh đẹp, hát hay còn biết đàn nữa. Gặp chú Út Cho rồi về đây làm dâu, một vùng ven thành phố, thím đã trở nên một người phụ nữ đảm đang chân đất. Chú Út vì hoàn cảnh bắt buộc phải nghỉ học khi hết phổ thông để chăm sóc mảnh vườn ổi khô cằn thu hoạch chẳng được bao nhiêu. Ba chú sức khỏe kém ngày một yếu đi, thím Út về làm dâu không bao lâu thì ba Chú Út mất trong ngôi nhà lợp mái tole nóng bức. Chú Út đổi sang trồng mãng cầu ta, đào mấy cái ao, đìa thả cá, mở rộng chuồng heo và nuôi gà vịt.Uống một hớp nước thím Út đứng lên đi vào trong rồi trở ra với một rổ bánh lá dừa, mùi nếp chín thơm lừng. “Nè! Ăn bánh đi! Thím với Con Mỹ gói tối qua để tối nay thằng Thiện về thăm nhà ăn. Nó thích bánh lá dừa lắm. Ở thành phố ít khi nào nó mua. Nó chỉ thích bánh thím gói”. Tôi cầm lấy một cái lột lớp lá còn âm ấm. Chắc thím Út và Mỹ đã thức canh nồi bánh đến gần sáng. “Thiện sắp sửa tốt nghiệp Đại học rồi phải không thím?”, “Ờ! Năm sau! Chú Thím đang lo chuyện cưới vợ cho nó. Hai đứa nó đã thương nhau cũng đã lâu rồi”. Rồi thím kể tôi nghe chuyện Thiện muốn làm đám cưới thiệt lớn, rước ban nhạc ở thành phố về, thuê quay phim chụp ảnh, cả đoàn xe du lịch đi rước dâu, mời luôn cả thằng bạn từng đánh nhau thời trung học đi đám cưới… “Bộ tiền không có chỗ xài hả?” Chú Út nạt ngang cáu có”. Chủ yếu là tụi bây sống với nhau hòa thuận, hạnh phúc lâu dài. Chụp vài ba tấm ảnh kỷ niệm là được rồi…”. Chú thím Út rất nuông chiều con nhưng chuyện gì không thể thì đừng mong. Được cái Thiện, Mỹ đều ngoan, biết vâng lời, chăm chỉ học hành. Mỹ đang học lớp 12 sang năm lại đi Sài Gòn vào đại học. Thím nói thao thao mà quên lúc đó có tôi làm cỏ trong vườn cùng với mọi người. Thiện cười vớt vát. “Làm đám cưới lớn rồi sống không hạnh phúc sao? Ba!”. “Đám cưới đơn giản tụi bây không ăn đời ở kiếp với nhau được hả? Mày sợ không ai biết mày cưới vợ sao?” Chú nói. Chú không phải là một ông già nhà quê hủ lậu, chỉ là bản tánh khiêm tôn, giản dị, nghiêm chỉnh đến cứng ngắc. Có chuyện đi thành phố bằng xe gắn máy, thím Út không chịu đội nón bảo hiểm là chú không đi. Thím thì hay nói đùa. “Đi xe gắn máy gì bây ơi! Chỉ mau hơn xe đạp một chút”. Ý than phiền chú chạy chậm.“Thím nói thì bây cứ nói thím nói hoài, chưa già mà lẩm cẩm. Con thử nghỉ lại coi…” tôi chưa ăn hết cái bánh lá dừa thì thím Út nói, cũng vẫn giọng nói trầm trầm dịu dàng. “Một mình thằng Đảnh làm nuôi cả gia đình bốn người thì làm sao sống nỗi. Mà nếu có sống thì sống cũng như không phải chết. Con cái không học hành, nay ốm mai đau…”. Cũng vẫn chuyện thím biểu tôi cho thằng Chân đi học, đem con Nhi gởi mẫu giáo để tôi đi buôn bán. Học thức không có, nghề nghiệp cũng không, lập gia đình rồi tôi chỉ biết ở nhà giữ con. “Bây thấy dì Tư ngọt chưa? Lúc đầu có biết buôn bán gì đâu bây giờ đẩy xe rau cải nhẹ tênh, cuộc sống thoải mái, không chạy đầu này đầu kia vay tiền nữa. Dì Tư mới đổi chiếc tivi 12 inch, bỏ tivi cũ rồi. Ờ! Chiếc tivi hôm trước đem về có xem được không?” “Dạ được! Màn hình trong lắm. Mấy đứa trẻ nhà con rất thích”. Năm ngoái trúng mùa mãng cầu chú Thím mua tivi mới nên cho tôi chiếc tivi cũ rớt đời. “Chiều nói thằng Đảnh qua kéo cá với chú Út. Thím tính hỏi tháng này cá mới đủ ngày nhưng bây giờ muốn bán để cho con mượn một số tiền để làm vốn buôn bán…” Tôi ngồi im lặng nhìn con Vàng đang nằm dưới chân thím Út phe phẩy đuôi. Con chó này thím tìm thấy bên bờ kênh, nằm thoi thóp sắp chết. Nó có bộ lông màu vàng nên đặt tên là Vàng. Giờ này anh Đảnh đang ở nhà trông chừng hai đứa nhỏ chờ có ai đó kêu đi làm. Con Nhi bị bệnh chắc cũng không màng xem phim hoạt hình chú vịt Đô - Nan nữa. Thằng Chân có lẽ đang nghịch với quả bóng. Nó mơ lớn lên làm cầu thủ bóng đá. Tôi suy nghĩ miên man trong lúc thím nói: “Đừng ngại, cũng không cần phải nói ơn nghĩa gì. Xóm giềng với nhau. Người ta vấp ngã còn đứng lên được”. Tôi ngập ngừng “Con sợ… làm không được”. “Không sợ gì hết, mạnh dạn lên. Tập tành lần lần rồi sẽ quen. Cái gì không biết thì hỏi. Lát nữa thím bàn với chú Út. Bây biết tánh ổng rồi đó. Ổng sẽ ủng hộ thím hết mình”. Tôi nhớ năm làm đường trước nhà, nhà nào cũng dời vô hai mét. Chú dời hàng rào vô trước tiên còn đi từng nhà động viên mọi người. Dĩ nhiên chú cũng bị nhiều kẻ ganh ghét nói mắc mỏ, khích bác nhưng sau đó họ lại tìm đến chú xin lỗi. Chú đầy lòng vị tha bỏ qua hết không để tâm còn sẵn lòng giúp đỡ họ. Ở xóm này ai cũng biết gia đình chú cần cù làm ăn, nuôi dạy con nên người, chấp hành tốt chủ trương Nhà nước. Năm nào gia đình chú cũng được bình chọn là gia đình văn hóa tiêu biểu xuất sắc.“Nè! Cầm lấy ít tiền đưa con Nhi lên bệnh xá khám bệnh, mua gì ngon ngon nấu cho mấy đứa nhỏ ăn. Nghe lời thím đầu năm học này cho thằng Chân vô lớp một đi”. Tôi xúc động đến lặng người, nhớ đến giấc mơ làm cầu thủ của thằng chân mà ứa nước mắt. Tôi sẽ nghe lời thím Út, tập tành bán buôn để trở nên một người phụ nữ đảm đang, nuôi dạy con tốt để chúng nó có thể thực hiện được những ước mơ. “Chị kêu thằng Chân sang đây em dạy nó học”. Mỹ từ nhà trong đi ra nói rồi đưa cho tôi một hộp giấy cứng nhiều màu. “Chị đưa bộ chữ này cho thằng Chân ráp chữ. Có nhiều màu mấy đứa nhỏ rất thích”. “Cám ơn Mỹ nhiều nghen!”, “Tui nói thiệt lòng đó chớ. Mang ơn quá nhiều biết lấy gì trả”. “Chị tin là có kiếp sau không? Em chờ chị ở kiếp sau đó”. Thím Út nạt khẽ “Con nhỏ này!”. Mỹ rụt vai rồi bước qua cái hồ cá bằng thủy tinh nghịch mấycon cá kiểng đang bơi quanh hòn non bộ giả, hát khe khẽ: “Chiếc cầu tre xinh xinh nhỏ bé. Không mang nổi người gánh thóc về”. Tiếng hát trong trẻo, véo von và thật hồn nhiên. Tôi bỗng thấy mình già sọp, cằn cỗi trong khi tôi chỉ lớn hơn Thiện có hai tuổi.“Thôi về! Để mấy đứa nhỏ trông. Nhớ nói thằng Đảnh chiều qua đây nghen! Cầm mấy cái về cho con!”. Thím Út dúi vào tay tôi mấy cái bánh lá dừa. Tôi lấy chiếc nón lá từ giã ra về. “ Sẵn sàng đây ở lại ăn cơm rồi hãy về”. Chú Út từ ngoài vườn vào, mặt đỏ lửng vì bắt nắng, nói sang sảng. Tôi đáp lại vài câu rồi đi ra cổng. Con Vàng đi sau tôi đuôi ve vẩy. Bước ra ngoài tôi thấy thằng Bi, con Son đang đứng hái trái bùm sụm dưới trời nắng chang chang. Lòng cồn cào nhớ con Nhi khôn xiết, tôi rảo bước thật nhanh, tay vẫn cầm chiếc nón lá quên đội lên đầu. Một ngày nắng thật đẹp. Mục lục Ngày nắng Ngày nắng Trần Lệ ThườngChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.Sưu tầm:ldlvinhquang Nguồn: bạn: Ct.Ly đưa lên vào ngày: 19 tháng 3 năm 2008
Long Quân Ngày Sinh Nhật (Câu chuyện rất buồn về cô thanh niên xung phong hy sinh đúng vào sinh nhật 17 tuổi) "Cúc cù cù"… tiếng con cu gáy nào đó đang còn quanh quẩn ở bên kia đồi vọng sang từng đợt ba tiếng một, thỉnh thoảng con gà rừng le te gáy dưới khe vọng lên từng hồi. Trời hè còn sớm mà con ve ở bên kia suối đã kêu rền rĩ. Buổi sáng khoảng trời cao lồng lộng không một gợn mây, đằng đông đã hửng lên một màu hồng nhàn nhạt, luồng gió luồn theo thung lũng thổi lên thoang thoảng mùi hương của bông hoa dẻ còn đẫm sương. Nơi Sen nằm bên một triền núi gần bờ suối, um tùm những lùm dây leo và những gốc cây cổ thụ bị đốn ngã, lỗ chỗ những hố bom còn mới màu đất, đá và mùi khói súng hăng hắc của trận bom lúc chập tối qua... *** "Mẹ thường nói với em rằng, con gái sinh vào ngày rằm là cao số lắm, em chẳng hiểu gì cả, em chỉ thấy yêu ngày sinh nhật của mình bởi vì mỗi năm đến ngày ấy là có trăng, ở làng em trăng thật tròn và đẹp, tối mai là đúng tối sinh nhật của em rồi đấy nhé...". Sen nói chưa xong cả nhóm cũng nhao lên "Đúng rồi, ngày mai chúng mình tổ chức sinh nhật cho Sen tại đây". Mai cũng góp ý kiến "mình sẽ chọn một khoảng rừng trống để cho ánh trăng rọi xuống được", "sinh nhật của tớ cũng sắp đến rồi đấy nhé", "tớ cũng vậy, tớ cũng thế, tớ cũng thế..." Tiếng nhao nhao kéo dài cho đến khi khu rừng chuyển sang màu sẫm dần và bắt đầu tối. *** Sen cựa mình tỉnh dậy, đau và nhức ở đâu quanh mình mà không biết. Cô đờ đẫn nhìn quanh... Các chị, các bạn đâu, đi đâu cả rồi ? Ngày này là sinh nhật mình mà!.. Sen nhắm mắt lại, cơn đau ở đâu đó trên mình cũng buốt đi, Sen cố nhớ xem chuyện gì đã xảy ra... Sau một phút im lặng, cơn gió về đêm thổi qua rất mạnh, từ đâu tiếng động cơ rù rù rồi thay đổi dần, chỉ trong chốc lát nó ập đến bất ngờ xé tan bống tối nhập nhoạng bởi tiếng rú kinh hoàng của một đoàn máy bay, rồi tiếng nổ kèm theo những ánh chớp như rung núi xé trời, Sen chỉ nghe tiếng chị Nguyệt tổ trưởng thét lên rất gấp nhưng chưa nói hết câu: "Tất cả...". Quả đồi bị giật mạnh, cây cối và đất đá đổ rào rào, ánh chớp rạch ngang rất gần không nghe thấy tiếng nổ, cái gì đó nén táp vào ngực tưởng chừng như tắt thở, Sen khuỵ xuống mà không thấy đau đớn gì, rồi chỉ nghe bên tai tiếng bình boong và từng đợt rùng mình chao đảo của quả đồi. Còn một cánh tay, Sen sờ soạng, quai chiếc ba lô còn vướng ở khuỷ tay rướm máu mà đám kiến đất bu kín. Nước mắt cô chảy xuống hai bên thái dương thấm vào từng sợi tóc, cô bất chợt gọi mẹ "con đau quá mẹ ơi, nhức cả người và cân cấn ở bụng một cái gì đó khó chịu lắm... ngày này nữa là con tròn mười bảy tuổi rồi, đã đến cái tuổi mà mẹ nói là "bẻ gãy sừng trâu", thế mà bây giờ con không đứng dậy nổi... con đã viết thư cho mẹ mà chưa gửi được, con đã kể với mẹ nhiều chuyện... Con khó thở quá... chị Nguyệt bảo rằng, thanh niên xung phong là không được khóc, phải cứng cỏi, mạnh mẽ. Con biết thế nhưng nhiều khi nhớ mẹ con trốn ra rừng ngồi khóc đó mẹ ạ...". Sen miên man trong tiếng gió ngàn, chỉ một chút nữa thôi, những sợi nắng chạy dài thẳng tắp xuyên qua lớp lá cây rọi xuống chỗ trống này. Mắt cô nhắm bít lại, hai hàm răng cắn vào nhau nhức nhối, vết thương ở hông cứ phập phồng khô rát, những lá cỏ khô dính bết vào vết lở. *** Mặt trời lên cao, mùi hoa dẻ phảng phất dần, mùi thuốc súng và mùi gỗ cháy nồng nặc bốc lên, không gian im lặng tưởng chừng như nghe tiếng lá khô vặn mình tênh tếch dưới ánh nắng, con cu gáy đã nghỉ từ khi nào, con gà giờ chắc cũng bận kiếm ăn khi không còn tiếng nổ của bom đạn. Thỉnh thoảng mới nghe tiếng động của con chồn hấp tấp chạy qua sột soạt trên lá khô và tiếng gió lao xao ở lùm lau lách. Cảm giác nóng ở mặt và toàn thân, một thứ ánh sáng chói chang vàng hoa lên trước mắt Sen, cái nóng làm những vết máu khô lại cứng đơ, cô cựa quậy định bò vào chỗ có bóng râm nhưng không thể, nước mắt trào ra... Sen nhớ thằng cu Tí, nhớ mẹ... Giờ còn ai! Bố hy sinh trận đầu đợt thằng Mỹ ra bắn phá miền Bắc. Mẹ khóc, Sen cũng khóc và đòi đi bộ đội. Bây giờ Sen không mở mắt ra được nữa, cô nhắm nghiền mắt thiêm thiếp... Những tiếng nói cười vang lên trong đầu, những gương mặt của các bạn hiện về, những câu chuyện của chị Nguyệt kể về anh Xuân và anh Trỗi cứ văng vẳng trong đầu, Sen muốn đứng lên, muốn tiếp tục làm cô giao liên để được nhìn thấy ngày thống nhất, thấy được một đêm trăng bình yên. "Mẹ ơi! thỉnh thoảng con lại thấy khó thở, có phải lúc bắt đầu chết thì ai cũng tỉnh táo phải không mẹ. Con nhớ đêm đó trước sân nhà, trăng rất sáng, chiếc bánh mẹ làm bằng bột nếp thơm phức, trăng ở nhà sáng lắm, và tối nay chắc ở đây trăng cũng rất sáng, mắt con bít lại không mở ra được nữa, con muốn nhìn thấy tối nay - tối sinh nhật của con". Sen thiếp đi, trời cũng bắt đầu nhá nhem tối, gió chiều thổi mang theo hơi đá núi mát lạnh, tia nắng cuối cùng cũng tắt sau làn sương mỏng bắt đầu rũ xuống. Sự đổi thay của ngày và đêm được hình thành bởi ánh trăng rằm sáng hồng lên ở phía Đông. Sen cố mở mắt ra một lần nữa, thứ ánh sáng nhè nhẹ lấp loá trước mắt dịu dàng rọi vào thân hình Sen rõ dần rồi toả rộng ra. Sen bắt đầu thấy lạnh, cái lạnh như cảm giác tê dần, tê dần lên, âm hưởng của núi rừng, của một ngày sinh nhật cũng lặng đi. Tất cả chỉ sống lại trong giây lát. Sen hé mắt, ánh sáng ngập tràn lung linh..."Mẹ ngồi đó, ánh sáng rọi lên mái đầu đã bạc... mẹ già rồi, chỉ sống một mình... thằng cu Tí đã đi bộ đội... một túp lều tranh xưa cũ, một hũ gạo nuôi quân ngay ngắn đầu hồi...". Chỉ chốc lát thế thôi, Sen đắm chìm vào giấc ngủ của tối sinh nhật cuối cùng... có cả chị Nguyệt, chị Tính, chị Mai và các chị quây quần, họ gặp nhau bên suối, gặp nhau bên đồi, họ cùng nhau tổ chức sinh nhật...! *** Đêm sinh nhật, bím tóc được buộc bằng chiếc khăn tay xoã xuống quanh vành mũ, cánh tay tròn chắc nịch gác lên chiếc ba lô trong tư thế thoải mái. Ánh trăng ngày rằm rọi vào khuôn mặt bầu bĩnh như đang nở nụ cười tự hào, một vùng ánh sáng với những giọt sương hồng hồng tạo nên một tháp pha lê trong suốt như lồng Sen vào giữa con đường nối mặt đất với bầu trời cao. Giữa đêm rừng thanh vắng, dưới những tán cây râm rạp - sau vòm lá, theo từng làn gió thổi qua ánh trăng lấp lánh như những ngọn nến lung linh, ngọn cây quanh đồi cũng rũ xuống lặng im như bức tường đá bàng bạc ánh trăng, tiếng lao xao của gió lùa qua ngọn lau lách, bông hoa dẻ đang uống những giọt sương đêm cũng toả mùi hương ngào ngạt, con cu gáy nào đó buồn bạn cất tiếng "cúc cù cù"…/. Mục lục Ngày Sinh Nhật Ngày Sinh Nhật Long QuânChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.Sưu tầm ABCD Sửa chính tả: SBC Nguồn: Vnthuquan - Thư viện OnlineĐược bạn: Ct.Ly đưa lên vào ngày: 8 tháng 11 năm 2005
Long Quân Ngày Sinh Nhật (Câu chuyện rất buồn về cô thanh niên xung phong hy sinh đúng vào sinh nhật 17 tuổi) "Cúc cù cù"… tiếng con cu gáy nào đó đang còn quanh quẩn ở bên kia đồi vọng sang từng đợt ba tiếng một, thỉnh thoảng con gà rừng le te gáy dưới khe vọng lên từng hồi. Trời hè còn sớm mà con ve ở bên kia suối đã kêu rền rĩ. Buổi sáng khoảng trời cao lồng lộng không một gợn mây, đằng đông đã hửng lên một màu hồng nhàn nhạt, luồng gió luồn theo thung lũng thổi lên thoang thoảng mùi hương của bông hoa dẻ còn đẫm sương. Nơi Sen nằm bên một triền núi gần bờ suối, um tùm những lùm dây leo và những gốc cây cổ thụ bị đốn ngã, lỗ chỗ những hố bom còn mới màu đất, đá và mùi khói súng hăng hắc của trận bom lúc chập tối qua... *** "Mẹ thường nói với em rằng, con gái sinh vào ngày rằm là cao số lắm, em chẳng hiểu gì cả, em chỉ thấy yêu ngày sinh nhật của mình bởi vì mỗi năm đến ngày ấy là có trăng, ở làng em trăng thật tròn và đẹp, tối mai là đúng tối sinh nhật của em rồi đấy nhé...". Sen nói chưa xong cả nhóm cũng nhao lên "Đúng rồi, ngày mai chúng mình tổ chức sinh nhật cho Sen tại đây". Mai cũng góp ý kiến "mình sẽ chọn một khoảng rừng trống để cho ánh trăng rọi xuống được", "sinh nhật của tớ cũng sắp đến rồi đấy nhé", "tớ cũng vậy, tớ cũng thế, tớ cũng thế..." Tiếng nhao nhao kéo dài cho đến khi khu rừng chuyển sang màu sẫm dần và bắt đầu tối. *** Sen cựa mình tỉnh dậy, đau và nhức ở đâu quanh mình mà không biết. Cô đờ đẫn nhìn quanh... Các chị, các bạn đâu, đi đâu cả rồi ? Ngày này là sinh nhật mình mà!.. Sen nhắm mắt lại, cơn đau ở đâu đó trên mình cũng buốt đi, Sen cố nhớ xem chuyện gì đã xảy ra... Sau một phút im lặng, cơn gió về đêm thổi qua rất mạnh, từ đâu tiếng động cơ rù rù rồi thay đổi dần, chỉ trong chốc lát nó ập đến bất ngờ xé tan bống tối nhập nhoạng bởi tiếng rú kinh hoàng của một đoàn máy bay, rồi tiếng nổ kèm theo những ánh chớp như rung núi xé trời, Sen chỉ nghe tiếng chị Nguyệt tổ trưởng thét lên rất gấp nhưng chưa nói hết câu: "Tất cả...". Quả đồi bị giật mạnh, cây cối và đất đá đổ rào rào, ánh chớp rạch ngang rất gần không nghe thấy tiếng nổ, cái gì đó nén táp vào ngực tưởng chừng như tắt thở, Sen khuỵ xuống mà không thấy đau đớn gì, rồi chỉ nghe bên tai tiếng bình boong và từng đợt rùng mình chao đảo của quả đồi. Còn một cánh tay, Sen sờ soạng, quai chiếc ba lô còn vướng ở khuỷ tay rướm máu mà đám kiến đất bu kín. Nước mắt cô chảy xuống hai bên thái dương thấm vào từng sợi tóc, cô bất chợt gọi mẹ "con đau quá mẹ ơi, nhức cả người và cân cấn ở bụng một cái gì đó khó chịu lắm... ngày này nữa là con tròn mười bảy tuổi rồi, đã đến cái tuổi mà mẹ nói là "bẻ gãy sừng trâu", thế mà bây giờ con không đứng dậy nổi... con đã viết thư cho mẹ mà chưa gửi được, con đã kể với mẹ nhiều chuyện... Con khó thở quá... chị Nguyệt bảo rằng, thanh niên xung phong là không được khóc, phải cứng cỏi, mạnh mẽ. Con biết thế nhưng nhiều khi nhớ mẹ con trốn ra rừng ngồi khóc đó mẹ ạ...". Sen miên man trong tiếng gió ngàn, chỉ một chút nữa thôi, những sợi nắng chạy dài thẳng tắp xuyên qua lớp lá cây rọi xuống chỗ trống này. Mắt cô nhắm bít lại, hai hàm răng cắn vào nhau nhức nhối, vết thương ở hông cứ phập phồng khô rát, những lá cỏ khô dính bết vào vết lở. *** Mặt trời lên cao, mùi hoa dẻ phảng phất dần, mùi thuốc súng và mùi gỗ cháy nồng nặc bốc lên, không gian im lặng tưởng chừng như nghe tiếng lá khô vặn mình tênh tếch dưới ánh nắng, con cu gáy đã nghỉ từ khi nào, con gà giờ chắc cũng bận kiếm ăn khi không còn tiếng nổ của bom đạn. Thỉnh thoảng mới nghe tiếng động của con chồn hấp tấp chạy qua sột soạt trên lá khô và tiếng gió lao xao ở lùm lau lách. Cảm giác nóng ở mặt và toàn thân, một thứ ánh sáng chói chang vàng hoa lên trước mắt Sen, cái nóng làm những vết máu khô lại cứng đơ, cô cựa quậy định bò vào chỗ có bóng râm nhưng không thể, nước mắt trào ra... Sen nhớ thằng cu Tí, nhớ mẹ... Giờ còn ai! Bố hy sinh trận đầu đợt thằng Mỹ ra bắn phá miền Bắc. Mẹ khóc, Sen cũng khóc và đòi đi bộ đội. Bây giờ Sen không mở mắt ra được nữa, cô nhắm nghiền mắt thiêm thiếp... Những tiếng nói cười vang lên trong đầu, những gương mặt của các bạn hiện về, những câu chuyện của chị Nguyệt kể về anh Xuân và anh Trỗi cứ văng vẳng trong đầu, Sen muốn đứng lên, muốn tiếp tục làm cô giao liên để được nhìn thấy ngày thống nhất, thấy được một đêm trăng bình yên. "Mẹ ơi! thỉnh thoảng con lại thấy khó thở, có phải lúc bắt đầu chết thì ai cũng tỉnh táo phải không mẹ. Con nhớ đêm đó trước sân nhà, trăng rất sáng, chiếc bánh mẹ làm bằng bột nếp thơm phức, trăng ở nhà sáng lắm, và tối nay chắc ở đây trăng cũng rất sáng, mắt con bít lại không mở ra được nữa, con muốn nhìn thấy tối nay - tối sinh nhật của con". Sen thiếp đi, trời cũng bắt đầu nhá nhem tối, gió chiều thổi mang theo hơi đá núi mát lạnh, tia nắng cuối cùng cũng tắt sau làn sương mỏng bắt đầu rũ xuống. Sự đổi thay của ngày và đêm được hình thành bởi ánh trăng rằm sáng hồng lên ở phía Đông. Sen cố mở mắt ra một lần nữa, thứ ánh sáng nhè nhẹ lấp loá trước mắt dịu dàng rọi vào thân hình Sen rõ dần rồi toả rộng ra. Sen bắt đầu thấy lạnh, cái lạnh như cảm giác tê dần, tê dần lên, âm hưởng của núi rừng, của một ngày sinh nhật cũng lặng đi. Tất cả chỉ sống lại trong giây lát. Sen hé mắt, ánh sáng ngập tràn lung linh..."Mẹ ngồi đó, ánh sáng rọi lên mái đầu đã bạc... mẹ già rồi, chỉ sống một mình... thằng cu Tí đã đi bộ đội... một túp lều tranh xưa cũ, một hũ gạo nuôi quân ngay ngắn đầu hồi...". Chỉ chốc lát thế thôi, Sen đắm chìm vào giấc ngủ của tối sinh nhật cuối cùng... có cả chị Nguyệt, chị Tính, chị Mai và các chị quây quần, họ gặp nhau bên suối, gặp nhau bên đồi, họ cùng nhau tổ chức sinh nhật...! *** Đêm sinh nhật, bím tóc được buộc bằng chiếc khăn tay xoã xuống quanh vành mũ, cánh tay tròn chắc nịch gác lên chiếc ba lô trong tư thế thoải mái. Ánh trăng ngày rằm rọi vào khuôn mặt bầu bĩnh như đang nở nụ cười tự hào, một vùng ánh sáng với những giọt sương hồng hồng tạo nên một tháp pha lê trong suốt như lồng Sen vào giữa con đường nối mặt đất với bầu trời cao. Giữa đêm rừng thanh vắng, dưới những tán cây râm rạp - sau vòm lá, theo từng làn gió thổi qua ánh trăng lấp lánh như những ngọn nến lung linh, ngọn cây quanh đồi cũng rũ xuống lặng im như bức tường đá bàng bạc ánh trăng, tiếng lao xao của gió lùa qua ngọn lau lách, bông hoa dẻ đang uống những giọt sương đêm cũng toả mùi hương ngào ngạt, con cu gáy nào đó buồn bạn cất tiếng "cúc cù cù"…/. Mục lục Ngày Sinh Nhật Ngày Sinh Nhật Long QuânChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.Sưu tầm ABCD Sửa chính tả: SBC Nguồn: Vnthuquan - Thư viện OnlineĐược bạn: Ct.Ly đưa lên vào ngày: 8 tháng 11 năm 2005
Dino Buzzati Ngày Tận Thế M ột buổi sáng khoảng mười giờ, một nắm đấm khổng lồ xuất hiện trên bầu trời thành phố. Rồi từ từ mở ra và giữ nguyên như vậy, không di chuyển, như là một cái vòm khổng lồ của sự hủy họai. Trông giống như đá, nhưng không phải là đá; trông giống như thịt nhưng không phải. Ðó là Thượng đế, và là ngày tận thế. Một tiếng rì rầm, mà ở đây trở thành rên rỉ, ở kia nghe như la hét, lan truyền trong những khu của thành phố, cho đến khi lớn dần thành một giọng độc nhất, hoà hợp và dễ sợ, dâng cao the thé như tiếng kèn trompet. Luisa và Pietro đang ở trong một quảng trường nhỏ, sưởi ấm bởi ánh nắng sớm, bao bọc bởi khung cảnh lạ và một phần là những khu vườn. Nhưng trên bầu trời, ở một độ cao khó lường, bàn tay treo lơ lửng. Cửa sổ được mở tung giữa những tiếng kêu khóc sợ hãi, trong khi những tiếng la hét ban đầu của thành phố dần chìm xuống, và những người phụ nữ nửa kín nửa hở nhìn ra để xem sự khải huyền. Người ta rời nhà, rất nhiều trong số họ vùng chạy. Họ cảm thấy sự cần thiết phải di động, phải làm gì đó, bất cứ thứ gì, nhưng họ không biết hướng về đâu. Luisa bật khóc nức nở không kìm được: "Em biết mà," cô lắp bắp giữa tiếng thổn thức, "Em biết là mọi sự sẽ phải kết thúc như thế này, không phải khi mà ta đang ở nhà thờ, không phải khi ta đang cầu nguyện. Em không cần biết, không cần để ý, và bây giờ em cảm thấy mọi sự sẽ phải diễn ra như thế này!" Pietro phải làm gì để an ủi cô? Thậm chí anh cũng đang khóc như một đứa nhỏ. Phần lớn mọi người mắt đều giàn dụa, đặc biệt là phụ nữ. Chỉ có hai thầy dòng, hai người đàn ông nhỏ bé lanh lẹn, đi ngang vui vẻ như là như họ đang trên đường đến dự tiệc. "Giờ là rồi đời những người thông thái!" họ vui sướng cảm thán, rảo bước tiếp thật nhanh, hướng về những khách bộ hành có danh vọng nhất. "Các ông chẳng còn thông thái nữa, nhỉ ? Giờ bọn tôi là người thông thái!" họ lên giọng châm chọc. "Luôn bị nhạo báng, luôn bị xem là ngu độn -- giờ để xem ai là người thông thái cho biết!" Vui vẻ như lũ học trò, họ đi ngang qua giữa một đám đông đang lớn dần, những người nhìn họ trừng trừng nhưng không dám làm một cử chỉ cản trở. Ít phút sau khi họ đã mất hút vào một ngõ hẹp, một người đàn ông nhào theo tìm họ một cách đầy bản năng, như là một cơ hội đã bị để cho vuột mất. "Lạy Chúa!" anh ta gào lên, tự đấm vào trán mình, "quên nghĩ là họ có thể rửa tội cho bọn ta." "Tức thật!" ai đó tiếp lời thật nhanh, "Bọn ta thật là ngu! Họ hiện ra ngay trước mũi mình mà lại để cho họ đi mất!" Mà ai có thể đuổi kịp với những thầy dòng nhanh nhảu ? Trong lúc đó thì đàn bà và những người đàn ông độc ác, những người trước kia tỏ ra ngạo mạn, giờ đang trở về từ nhà thờ, chửi rủa, thất vọng và đầy chán nản. Những người giáo sỹ nghe xưng tội thông minh hơn đã biến mất - người ta cho hay - có lẽ bị mua bởi những người có thế lực và những tay đại tư bản công nghiệp. Thật là lạ, nhưng mà tiền bạc kỳ diệu thay bảo toàn được uy tín của nó cho dù đây là ngày tận thế; người ta đoán chừng rằng có thể vài phút, vài giờ, hay vài ngày còn sót lại, nhưng làm sao biết được. Về những giáo sỹ còn sót lại, một đám đông chật ních dễ sợ tạo thành trong nhà thờ nên có họ cũng như không. Người ta nói rằng những vụ xô xát nghiêm trọng thường xảy ra gây bởi những đám người quá đông, và rằng những tên lường gạt mặc áo thầy tu còn đề nghị gọi điện thoại đến tận nhà để nghe xưng tội với giá cắt cổ. Mặt khác thì những cặp còn trẻ hối hả đắm mình làm tình lần cuối cùng, duỗi dài trên cỏ trong vườn, không hề tỏ ra một chút ý định giả vờ kiềm chế nào. Bàn tay, lúc đó, đã đổi sang màu tro, cho dù mặt trời vẫn còn chiếu sáng, và như là một kết quả, còn đáng sợ hơn nữa. Tiếng đồn rằng thảm họa sắp xảy ra bắt đầu lan nhanh; một vài người tin chắc họ sẽ chẳng thấy buổi trưa. Vừa lúc đó một tu sỹ còn trẻ được phát hiện trên một ban công nhỏ, duyên dáng của một biệt thự, cao hơn mặt đường một chút (ban công được lên tới bởi hai dãy tầng cấp hình nan quạt). Với đầu thu giữa hai vai, anh ta chạy như là sợ bị thấy đi ra từ đó. Thật là lạ khi thấy một tu sỹ vào giờ này, trong căn nhà xa xỉ đó cư ngụ bởi những gái làng chơi hạng sang. "Một tu sỹ! Một tu sỹ!" được nghe la lên khắp mọi nơi. Với tốc độ của ánh sáng, đám đông thành công trong việc chận anh ta lại trước khi vị tu sỹ đi mất. "Hãy rửa tội cho chúng tôi! Hãy rửa tội cho chúng tôi!" họ kêu khóc với anh ta. Anh chàng tái mặt, bị lôi kéo đến một chỗ xinh xắn nhô ra từ ban công như là một bục giảng được che phủ; có vẻ như là được xây nên cho mục đích này. Hàng tá đàn ông đàn bà lập tức họp lại với nhau, tạo thành tiếng hò hét, tràn lên từ phía dưới, trèo lên những chỗ trang trí nhô ra, bám vào những cây cột, và gờ của lan can; mà sau hết có vẻ không cao lắm. Vị tu sỹ bắt đầu nghe xưng tội. Rất nhanh anh lắng nghe những lời bí mật không kịp thở từ những người xa lạ (những người mà vào lúc này không còn quan tâm đến việc người khác có nghe họ hay không). Trước khi họ kết thúc anh làm dấu thánh giá nho nhỏ bằng tay phải, giải tội cho họ, và lập tức quay sang người có tội kế tiếp. Nhưng có nhiều người quá. Vị tu sỹ nhìn quanh, chóng mặt, cố ước lượng cái biển tội lỗi đang dâng cần được tẩy sạch. Bằng cố gắng hết sức, Luisa và Pietro cũng đến được dưới chân anh ta, chờ tới phiên mình, và được nghe xưng tội. "Con không hề đi lễ, con nói dối," cô gái trẻ gào thật nhanh trong một cơn điên bị sỉ nhục, sợ rằng cô sẽ không kịp giờ, "và sau đó là tất cả những tội lỗi gì cha muốn cộng hết cũng được, thật đấy, và con không phải nói điều này bởi vì con sợ những người ở đây, hãy tin con, chỉ vì con ao ước được ở gần Chúa, con thề với cha," và vị tu sỹ bị thuyết phục bởi lòng thành của cô. "Ego te absolvo," anh ta thì thầm, và quay sang lắng nghe Pietro. Bây giờ thì một sự mong chờ không diễn tả được dâng lên trong bọn đàn ông. Một người hỏi: "Còn bao lâu nữa thì đến giờ phán xử cuối cùng?" Một người khác, có vẻ hiểu biết, nhìn đồng hồ. "Còn mười phút," ông ta nói giọng đầy quyết đoán. Vị tu sỹ nghe người đàn ông và thình lình cố rời bước. Nhưng, chưa thỏa mãn, đám đông giữ anh ta laị. Trông anh ta như đang lên cơn sốt. Rõ ràng làn sóng lời xưng tội đến với anh ta không khác hơn lời thì thào vô nghĩa lý; anh ta làm dấu thánh giá cái này tiếp theo cái kia, lặp lại câu Ego te absovo đầy máy móc. "Còn tám phút!" một giọng đàn ông trong đám đông cất lên. Vị giáo sỹ run rẩy thật sự, anh ta giậm chân lên mặt đá cẩm thạch như là một đứa trẻ đang làm nũng. "Còn tôi? Còn tôi thì sao? " anh ta bắt đầu khẩn nài, tuyệt vọng. Họ đã lường gạt anh sự cứu rỗi tâm hồn anh, những người đáng nguyền rủa; quỷ sứ bắt hết họ đi, không cần biết bao nhiêu. Nhưng làm sao tự anh có thể giải thoát cho anh được ? Anh ta gần khóc. "Còn tôi? Tôi ? " anh ta hỏi một ngàn tín đồ, tham lam được vào thiên đường. Nhưng không có ai để ý đến anh ta cả. Nguyễn Ðức Thanh Quang dịchNgày Tận Thế Dino Buzzati (1906-1972) Mục lục Ngày Tận Thế Ngày Tận Thế Dino BuzzatiChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.Đánh máy: huytran Nguồn: Huytran VNthuquan - Thuvien OnlineĐược bạn: Ct.Ly đưa lên vào ngày: 18 tháng 10 năm 2006
Dino Buzzati Ngày Tận Thế M ột buổi sáng khoảng mười giờ, một nắm đấm khổng lồ xuất hiện trên bầu trời thành phố. Rồi từ từ mở ra và giữ nguyên như vậy, không di chuyển, như là một cái vòm khổng lồ của sự hủy họai. Trông giống như đá, nhưng không phải là đá; trông giống như thịt nhưng không phải. Ðó là Thượng đế, và là ngày tận thế. Một tiếng rì rầm, mà ở đây trở thành rên rỉ, ở kia nghe như la hét, lan truyền trong những khu của thành phố, cho đến khi lớn dần thành một giọng độc nhất, hoà hợp và dễ sợ, dâng cao the thé như tiếng kèn trompet. Luisa và Pietro đang ở trong một quảng trường nhỏ, sưởi ấm bởi ánh nắng sớm, bao bọc bởi khung cảnh lạ và một phần là những khu vườn. Nhưng trên bầu trời, ở một độ cao khó lường, bàn tay treo lơ lửng. Cửa sổ được mở tung giữa những tiếng kêu khóc sợ hãi, trong khi những tiếng la hét ban đầu của thành phố dần chìm xuống, và những người phụ nữ nửa kín nửa hở nhìn ra để xem sự khải huyền. Người ta rời nhà, rất nhiều trong số họ vùng chạy. Họ cảm thấy sự cần thiết phải di động, phải làm gì đó, bất cứ thứ gì, nhưng họ không biết hướng về đâu. Luisa bật khóc nức nở không kìm được: "Em biết mà," cô lắp bắp giữa tiếng thổn thức, "Em biết là mọi sự sẽ phải kết thúc như thế này, không phải khi mà ta đang ở nhà thờ, không phải khi ta đang cầu nguyện. Em không cần biết, không cần để ý, và bây giờ em cảm thấy mọi sự sẽ phải diễn ra như thế này!" Pietro phải làm gì để an ủi cô? Thậm chí anh cũng đang khóc như một đứa nhỏ. Phần lớn mọi người mắt đều giàn dụa, đặc biệt là phụ nữ. Chỉ có hai thầy dòng, hai người đàn ông nhỏ bé lanh lẹn, đi ngang vui vẻ như là như họ đang trên đường đến dự tiệc. "Giờ là rồi đời những người thông thái!" họ vui sướng cảm thán, rảo bước tiếp thật nhanh, hướng về những khách bộ hành có danh vọng nhất. "Các ông chẳng còn thông thái nữa, nhỉ ? Giờ bọn tôi là người thông thái!" họ lên giọng châm chọc. "Luôn bị nhạo báng, luôn bị xem là ngu độn -- giờ để xem ai là người thông thái cho biết!" Vui vẻ như lũ học trò, họ đi ngang qua giữa một đám đông đang lớn dần, những người nhìn họ trừng trừng nhưng không dám làm một cử chỉ cản trở. Ít phút sau khi họ đã mất hút vào một ngõ hẹp, một người đàn ông nhào theo tìm họ một cách đầy bản năng, như là một cơ hội đã bị để cho vuột mất. "Lạy Chúa!" anh ta gào lên, tự đấm vào trán mình, "quên nghĩ là họ có thể rửa tội cho bọn ta." "Tức thật!" ai đó tiếp lời thật nhanh, "Bọn ta thật là ngu! Họ hiện ra ngay trước mũi mình mà lại để cho họ đi mất!" Mà ai có thể đuổi kịp với những thầy dòng nhanh nhảu ? Trong lúc đó thì đàn bà và những người đàn ông độc ác, những người trước kia tỏ ra ngạo mạn, giờ đang trở về từ nhà thờ, chửi rủa, thất vọng và đầy chán nản. Những người giáo sỹ nghe xưng tội thông minh hơn đã biến mất - người ta cho hay - có lẽ bị mua bởi những người có thế lực và những tay đại tư bản công nghiệp. Thật là lạ, nhưng mà tiền bạc kỳ diệu thay bảo toàn được uy tín của nó cho dù đây là ngày tận thế; người ta đoán chừng rằng có thể vài phút, vài giờ, hay vài ngày còn sót lại, nhưng làm sao biết được. Về những giáo sỹ còn sót lại, một đám đông chật ních dễ sợ tạo thành trong nhà thờ nên có họ cũng như không. Người ta nói rằng những vụ xô xát nghiêm trọng thường xảy ra gây bởi những đám người quá đông, và rằng những tên lường gạt mặc áo thầy tu còn đề nghị gọi điện thoại đến tận nhà để nghe xưng tội với giá cắt cổ. Mặt khác thì những cặp còn trẻ hối hả đắm mình làm tình lần cuối cùng, duỗi dài trên cỏ trong vườn, không hề tỏ ra một chút ý định giả vờ kiềm chế nào. Bàn tay, lúc đó, đã đổi sang màu tro, cho dù mặt trời vẫn còn chiếu sáng, và như là một kết quả, còn đáng sợ hơn nữa. Tiếng đồn rằng thảm họa sắp xảy ra bắt đầu lan nhanh; một vài người tin chắc họ sẽ chẳng thấy buổi trưa. Vừa lúc đó một tu sỹ còn trẻ được phát hiện trên một ban công nhỏ, duyên dáng của một biệt thự, cao hơn mặt đường một chút (ban công được lên tới bởi hai dãy tầng cấp hình nan quạt). Với đầu thu giữa hai vai, anh ta chạy như là sợ bị thấy đi ra từ đó. Thật là lạ khi thấy một tu sỹ vào giờ này, trong căn nhà xa xỉ đó cư ngụ bởi những gái làng chơi hạng sang. "Một tu sỹ! Một tu sỹ!" được nghe la lên khắp mọi nơi. Với tốc độ của ánh sáng, đám đông thành công trong việc chận anh ta lại trước khi vị tu sỹ đi mất. "Hãy rửa tội cho chúng tôi! Hãy rửa tội cho chúng tôi!" họ kêu khóc với anh ta. Anh chàng tái mặt, bị lôi kéo đến một chỗ xinh xắn nhô ra từ ban công như là một bục giảng được che phủ; có vẻ như là được xây nên cho mục đích này. Hàng tá đàn ông đàn bà lập tức họp lại với nhau, tạo thành tiếng hò hét, tràn lên từ phía dưới, trèo lên những chỗ trang trí nhô ra, bám vào những cây cột, và gờ của lan can; mà sau hết có vẻ không cao lắm. Vị tu sỹ bắt đầu nghe xưng tội. Rất nhanh anh lắng nghe những lời bí mật không kịp thở từ những người xa lạ (những người mà vào lúc này không còn quan tâm đến việc người khác có nghe họ hay không). Trước khi họ kết thúc anh làm dấu thánh giá nho nhỏ bằng tay phải, giải tội cho họ, và lập tức quay sang người có tội kế tiếp. Nhưng có nhiều người quá. Vị tu sỹ nhìn quanh, chóng mặt, cố ước lượng cái biển tội lỗi đang dâng cần được tẩy sạch. Bằng cố gắng hết sức, Luisa và Pietro cũng đến được dưới chân anh ta, chờ tới phiên mình, và được nghe xưng tội. "Con không hề đi lễ, con nói dối," cô gái trẻ gào thật nhanh trong một cơn điên bị sỉ nhục, sợ rằng cô sẽ không kịp giờ, "và sau đó là tất cả những tội lỗi gì cha muốn cộng hết cũng được, thật đấy, và con không phải nói điều này bởi vì con sợ những người ở đây, hãy tin con, chỉ vì con ao ước được ở gần Chúa, con thề với cha," và vị tu sỹ bị thuyết phục bởi lòng thành của cô. "Ego te absolvo," anh ta thì thầm, và quay sang lắng nghe Pietro. Bây giờ thì một sự mong chờ không diễn tả được dâng lên trong bọn đàn ông. Một người hỏi: "Còn bao lâu nữa thì đến giờ phán xử cuối cùng?" Một người khác, có vẻ hiểu biết, nhìn đồng hồ. "Còn mười phút," ông ta nói giọng đầy quyết đoán. Vị tu sỹ nghe người đàn ông và thình lình cố rời bước. Nhưng, chưa thỏa mãn, đám đông giữ anh ta laị. Trông anh ta như đang lên cơn sốt. Rõ ràng làn sóng lời xưng tội đến với anh ta không khác hơn lời thì thào vô nghĩa lý; anh ta làm dấu thánh giá cái này tiếp theo cái kia, lặp lại câu Ego te absovo đầy máy móc. "Còn tám phút!" một giọng đàn ông trong đám đông cất lên. Vị giáo sỹ run rẩy thật sự, anh ta giậm chân lên mặt đá cẩm thạch như là một đứa trẻ đang làm nũng. "Còn tôi? Còn tôi thì sao? " anh ta bắt đầu khẩn nài, tuyệt vọng. Họ đã lường gạt anh sự cứu rỗi tâm hồn anh, những người đáng nguyền rủa; quỷ sứ bắt hết họ đi, không cần biết bao nhiêu. Nhưng làm sao tự anh có thể giải thoát cho anh được ? Anh ta gần khóc. "Còn tôi? Tôi ? " anh ta hỏi một ngàn tín đồ, tham lam được vào thiên đường. Nhưng không có ai để ý đến anh ta cả. Nguyễn Ðức Thanh Quang dịchNgày Tận Thế Dino Buzzati (1906-1972) Mục lục Ngày Tận Thế Ngày Tận Thế Dino BuzzatiChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.Đánh máy: huytran Nguồn: Huytran VNthuquan - Thuvien OnlineĐược bạn: Ct.Ly đưa lên vào ngày: 18 tháng 10 năm 2006
Thiên Hương Ngày Tết của Hạc Hạc đi dọc theo con đường nhỏ, mặt trời đang xuống chầm chậm, cái nắng gắt gay của mùa hạ chỉ còn lại những oi nồng khó chịu. Cơn mệt từ đâu ập đến, Hạc chợt muốn ngồi bệt xuống lề đường, gục đầu vào hai cánh tay chìm thẳng vào giấc ngủ. Hai chân rời rã, cổ họng khát khô, cái mệt, cái buồn đổ ập lên cô, con đường thật vắng, cái nắng quái buổi chiều thật buồn, vậy mà trời đang vào Tết đó, cái Tết đang ở đâu khi cái tôi đang rã rời trong một khí hậu kỳ quặc ở đây. Cánh cổng gỗ thô sơ trước một căn nhà nhỏ đã hiện ra trước mắt, Hạc bước vào, đi dưới rặng cây leo xanh loáng thoáng những bông hoa tím, hồn chợt nhẹ xuống, thân chợt đỡ mệt hẳn đi khi những hương hoa nhè nhẹ trong khu vườn nhỏ vờn quanh cô. Bước lên thềm cửa, Hạc đẩy nhẹ cánh cửa gỗ, mùi nhang thơm ngát tỏa ra từ những bát nhang trên bàn thờ Phật, Hạc quỳ xuống, chắp tay ngước mặt nhìn lên khuôn mặt nhẹ nhàng thanh thoát của bức tượng Phật Quan Âm, cô rán nén những tiếng nấc nghẹn trong lồng ngực, niệm Phật nho nhỏ, lúc đầu những tiếng niệm còn đứt quãng, xen lẫn tiếng nấc, dần dần đôi mắt cô cũng ráo khô, tiếng niệm Phật cũng trôi chảy dễ dàng hơn. Ðến lúc hồn lắng hẳn xuống, cô gục mặt vào bàn tay, quên, quên hết, gắng không nghĩ, không nhìn một vật gì, để mặc mùi khói nhang, mùi hoa quấn quít quanh mình, và để quên mình đang hiện hữu. Một bàn tay đặt nhẹ lên vai, Hạc ngửng mặt lên nhìn. Chị Diệu đang nhìn cô thật hiền từ, dịu dàng nói: "Vào đây uống miếng nước trà cúc đi". Hạc đứng dậy, đi theo chị vào nhà sau. Căn nhà không rộng nhưng rất sạch sẽ và giản dị, chị Diệu đưa Hạc ly trà nóng, mùi hoa cúc thơm ngát tỏa lên, màu nước xanh trong. Hạc uống cạn chén, chị Diệu nhìn Hạc cười: "Hết mệt chưa Hạc?" Ðó là câu chị vẫn hỏi mỗi khi Hạc có chuyện buồn đến đây. Diệu là chị ruột Hạc, sau khi cha mẹ mất, Hạc lập gia đình, chị bỏ việc làm, mua nhà ở riêng, xuống tóc, mặc áo nâu sòng, sống như nữ tu. Ðã trên năm mươi nhưng nhìn chị chỉ ngoài ba mươi, hai con mắt đen lánh, lớp da mặt hồng mịn trên ngấn cổ trắng trong như sữa. Chỉ có bàn tay là nói lên lứa tuổi của chị, đôi tay làm lụng thật vất vả, không từ chuyện gì nặng nhọc. Hạc bật nói: "Tối nay em ngủ lại đây được không?" Chị Diệu lại cười thật nhẹ nhàng: "Vào đây ăn cơm với chị". Tính chị là như thế, không bao giờ hỏi tại sao Hạc lại đến, tại sao lại đòi ở lại. Cái phong thái nhẹ nhàng, phiêu diêu của chị làm tâm hồn Hạc nhẹ hẳn đi. Ăn xong bữa cơm, Hạc phụ rửa chén với chị. Tự dưng cô buộc miệng: "Sắp Tết rồi, em nhớ những ngày Tết hồi xưa ở nhà quá". Nứơc mắt cô lại tự nhiên chảy ra, chị Diệu khẽ cười: "Ừ, những ngày ấy thì vui, nhưng nhớ đến thì em lại khóc". Hai chị em ra ngồi ở cửa, mặt trời chưa xuống hẳn, trời mùa hè nên còn sáng lắm. Hạc vẫn còn thổn thức, chị Diệu lại cười: - Em khóc rồi ngày đó nó có trở lại với em không? - Nhưng mà khóc thì nó vơi buồn chứ chị? - Em tiếc gì nào? - Em tiếc những ngày cả nhà còn ở chung với nhau, vui thì thôi. Chị vẫn cười thật nhẹ nhàng: - Rồi thì vì tiếc những ngày đó, nên em thất thểu bỏ chồng bỏ con, em lại đây để ngồi khóc sao? Rồi mai mốt em sẽ lại khóc vì tiếc những ngày còn ở chung với chồng con, lại thèm những lúc hai chị em ngồi cạnh nhau, như thế thì em khóc suốt đời sao? - Ðâu có, chị biết tính chồng em mà, anh ấy khó quá, động tí thì hét lên, em bực lắm. - Nhưng mà cậu ấy cục tính thế thôi, chứ tính cậu ấy tốt mà. - Thì biết là tốt, nhưng mà lười với cộc quá chị ơi. Chị xem Tết đến nơi, ở đây ai chẳng nhớ nhà, thế mà chả thông cảm với vợ thì thôi, đi làm về chả phụ gì em cả, chỉ cắm đầu vào đọc báo, làm sao em không tủi thân được. Vậy mà em mới nói anh ấy bỏ tờ báo phụ em một chút là hét lên rồi. Em bỏ em đi để xem mấy bố con làm sao cho biết. Nghĩ bố hồi xưa hiền mà chiều mẹ ghê đi. - Mỗi người mỗi tính chứ, nói sao được. Nhưng mà em phải làm sao chứ, cứ giận rồi bỏ đi thế này thì thằng cu Thảo, cái bé Mai nó cũng buồn, em cũng buồn mà chồng em cũng buồn. - Biết thế thì đừng lấy chồng ở như chị mà khỏe. - Nhưng mà em lỡ lấy rồi, đâu có bỏ hết được. - Chị cho em ở đây với chị, em không về nhà đâu, em mệt mỏi lắm rồi. Ngày nào đi làm về đã mệt, lại ở nhà vừa mệt vừa không vui em chịu không nổi. Chị Diệu nghiêm trang nhìn Hạc: - Nếu em nghĩ em ở đây em cảm thấy vui thì em cứ ở lại. Nhưng chị nghĩ em nên về thì hơn, tại em sẽ nhớ thằng cu Thảo với bé Mai, rồi em lại cắn rứt, rồi lại ngồi khóc nữa. Ðã đến lúc em phải sửa lại cách suy nghĩ và lối sống của mình. Cái gì sửa được thì rán mà sửa, cái gì không sửa được thì phải chấp nhận thôi. Ăn chung cái tâm mình thanh tịnh, cái tâm mình vui mới được, chứ lúc nào cũng cứ ngồi nhớ tiếc những cái đã qua, những cái không có thì làm sao vui được. Em đã ở lại đây mấy lần rồi, mấy lần trước em ở lại em có cảm thấy vui không hay cứ thở dài rồi khóc tấm ta tấm tức? Không đợi Hạc trả lời, chị đứng lên, nhẹ nhàng ra bàn thờ thắp nhang niệm Phật, Hạc nhìn ra sân, nắng đã gần tắt hết, cái vẻ hiu hắt của buổi chiều lúc trời sắp tối làm lòng nàng nao nao khó tả. Những cây hoa leo hai bên bờ rào đã bắt đầu tỏa hương ngào ngạt. Trong vườn những đóa hoa vẫn rực rỡ dù trời đã bắt đầu tối. Hạc nhìn vào gian thờ Phật, chị Diệu vẫn đứng chắp tay, khuôn mặt nhẹ nhàng thanh thản của chị ngước lên, dịu dàng, an lành và thật thanh khiết. Hạc thấy mình thật mong manh, cô khẽ rùng mình, tự dưng cô thấy nhớ con ghê gớm, tự dưng cô thấy mình quá đáng khi đã giận dỗi bỏ ra đi, tự dưng cô thấy ngượng với những nông nỗi của mình.... Nếu em nghĩ em ở đây em cảm thấy vui thì em cứ ở lại, không, có ở lại cô cũng không thể vui được. Cái gì sửa được thì rán mà sửa, cái gì không sửa được thì phải chấp nhận thôi. Ăn chung cái tâm mình thanh tịnh, cái tâm mình vui mới được, chứ lúc nào cũng cứ ngồi nhớ tiếc những cái đã qua, những cái không có thì làm sao vui được. Cô đã không sống được nhẹ nhàng như chị, nhưng cô phải cố thôi. Chị Diệu đã biết mình muốn gì, đã từ bỏ việc làm, từ bỏ đời sống nhộn nhịp, lui về ở đây, tại chị muốn như vậy và tìm thấy niềm vui ở đây. Sống khổ hạnh, làm việc cực khổ nhưng lúc nào cũng thật thanh thản, nụ cười lúc nào cũng sáng trong. Còn cô, cô biết mình không bao giờ có thể tìm được niềm vui trong một không khí lặng lẽ như vậy, cô đã có một mái gia đình, cô đã có những nguồn yêu thương, nhưng cô vẫn nuối tiếc những hình ảnh quá khứ, vẫn đi tìm hoài những niềm vui đã mất mà buông trôi cái niềm vui và hạnh phúc hiện tại. Rồi mai mốt em sẽ lại khóc vì tiếc những ngày còn ở chung với chồng con, lại thèm những lúc hai chị em ngồi cạnh nhau, như thế thì em khóc suốt đời sao. Chị Diệu nói đúng, những lần trước cô ở lại để rồi lại tự trách cứ mình, lại vật vã với những giọt nứơc mắt. Trong bức tranh tối tranh sáng, giữa khung cảnh thật bình yên của ngôi nhà nhỏ, giữa mùi nhang thơm toả lẫn với hương thơm của hoa cỏ và sương đêm, Hạc như vừa tỉnh giấc, cô thấy cô phải trở về, trở về cái gia đình xinh xắn của cô, rán vun xới những ngọt ngào để nuôi nấng những kỷ niệm đẹp cho con cái, cuộc sống dài bao nhiêu mà cứ làm khổ lẫn nhau. Tiếng xe hơi đỗ ở cổng làm Hạc nhìn ra. Cu Thảo, bé Mai và Hoàng đi vào cửa, miệng cu Thảo bô bô: "Mẹ ơi, mẹ về nhà đi, bố cho tụi con ăn cơm rồi. Bố nói mẹ về ăn thử canh bố nấu coi ngon không". Hạc ngượng ngùng nhìn chồng, chị Diệu bước ra, vẫn nhẹ nhàng chị nói: "Hai cô chú đưa các cháu về đi, chiều 30 qua đây cúng Giao thừa nhé". Hai vợ chồng chào chị, trên xe cu Thảo và bé Mai tranh nhau kể đủ thứ chuyện. Lúc về đến nhà, Hạc ngỡ ngàng nhìn hai chậu quất và hai chậu vạn thọ vàng rực trên hiên. Hoàng nhìn vợ cười: "Thấy giống Tết ở Việt nam không em?" Hạc rưng rưng nước mắt, nhìn chồng, nhìn con, nhìn mấy chậu cây. Mùa xuân đang ở đây, những hình ảnh đẹp của quá khứ chỉ là quá khứ, cái quá khứ đã qua, chỉ có cái hiện tại ở đây, nó đang ở trong tay cô, cô phải giữ lấy nó, cô phải bảo vệ nó, cô phải tìm lấy những niềm vui trong những cái gì cô đang có và nhất là cần có một cái tâm thật thanh tịnh phải không chị Diệu. Hạc vòng tay ôm lấy hai con, Hoàng đặt nhẹ bàn tay lên vai cô, cô thấy lòng ấm hẳn.... Cám ơn chị Diệu, cám ơn ngày Tết đã đem mùa xuân đến đây.... Thiên Hương (27 Tết Mậu Ngọ 2002) Mục lục Ngày Tết của Hạc Ngày Tết của Hạc Thiên HươngChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: quangducĐược bạn: TSAH đưa lên vào ngày: 31 tháng 3 năm 2004
Thiên Hương Ngày Tết của Hạc Hạc đi dọc theo con đường nhỏ, mặt trời đang xuống chầm chậm, cái nắng gắt gay của mùa hạ chỉ còn lại những oi nồng khó chịu. Cơn mệt từ đâu ập đến, Hạc chợt muốn ngồi bệt xuống lề đường, gục đầu vào hai cánh tay chìm thẳng vào giấc ngủ. Hai chân rời rã, cổ họng khát khô, cái mệt, cái buồn đổ ập lên cô, con đường thật vắng, cái nắng quái buổi chiều thật buồn, vậy mà trời đang vào Tết đó, cái Tết đang ở đâu khi cái tôi đang rã rời trong một khí hậu kỳ quặc ở đây. Cánh cổng gỗ thô sơ trước một căn nhà nhỏ đã hiện ra trước mắt, Hạc bước vào, đi dưới rặng cây leo xanh loáng thoáng những bông hoa tím, hồn chợt nhẹ xuống, thân chợt đỡ mệt hẳn đi khi những hương hoa nhè nhẹ trong khu vườn nhỏ vờn quanh cô. Bước lên thềm cửa, Hạc đẩy nhẹ cánh cửa gỗ, mùi nhang thơm ngát tỏa ra từ những bát nhang trên bàn thờ Phật, Hạc quỳ xuống, chắp tay ngước mặt nhìn lên khuôn mặt nhẹ nhàng thanh thoát của bức tượng Phật Quan Âm, cô rán nén những tiếng nấc nghẹn trong lồng ngực, niệm Phật nho nhỏ, lúc đầu những tiếng niệm còn đứt quãng, xen lẫn tiếng nấc, dần dần đôi mắt cô cũng ráo khô, tiếng niệm Phật cũng trôi chảy dễ dàng hơn. Ðến lúc hồn lắng hẳn xuống, cô gục mặt vào bàn tay, quên, quên hết, gắng không nghĩ, không nhìn một vật gì, để mặc mùi khói nhang, mùi hoa quấn quít quanh mình, và để quên mình đang hiện hữu. Một bàn tay đặt nhẹ lên vai, Hạc ngửng mặt lên nhìn. Chị Diệu đang nhìn cô thật hiền từ, dịu dàng nói: "Vào đây uống miếng nước trà cúc đi". Hạc đứng dậy, đi theo chị vào nhà sau. Căn nhà không rộng nhưng rất sạch sẽ và giản dị, chị Diệu đưa Hạc ly trà nóng, mùi hoa cúc thơm ngát tỏa lên, màu nước xanh trong. Hạc uống cạn chén, chị Diệu nhìn Hạc cười: "Hết mệt chưa Hạc?" Ðó là câu chị vẫn hỏi mỗi khi Hạc có chuyện buồn đến đây. Diệu là chị ruột Hạc, sau khi cha mẹ mất, Hạc lập gia đình, chị bỏ việc làm, mua nhà ở riêng, xuống tóc, mặc áo nâu sòng, sống như nữ tu. Ðã trên năm mươi nhưng nhìn chị chỉ ngoài ba mươi, hai con mắt đen lánh, lớp da mặt hồng mịn trên ngấn cổ trắng trong như sữa. Chỉ có bàn tay là nói lên lứa tuổi của chị, đôi tay làm lụng thật vất vả, không từ chuyện gì nặng nhọc. Hạc bật nói: "Tối nay em ngủ lại đây được không?" Chị Diệu lại cười thật nhẹ nhàng: "Vào đây ăn cơm với chị". Tính chị là như thế, không bao giờ hỏi tại sao Hạc lại đến, tại sao lại đòi ở lại. Cái phong thái nhẹ nhàng, phiêu diêu của chị làm tâm hồn Hạc nhẹ hẳn đi. Ăn xong bữa cơm, Hạc phụ rửa chén với chị. Tự dưng cô buộc miệng: "Sắp Tết rồi, em nhớ những ngày Tết hồi xưa ở nhà quá". Nứơc mắt cô lại tự nhiên chảy ra, chị Diệu khẽ cười: "Ừ, những ngày ấy thì vui, nhưng nhớ đến thì em lại khóc". Hai chị em ra ngồi ở cửa, mặt trời chưa xuống hẳn, trời mùa hè nên còn sáng lắm. Hạc vẫn còn thổn thức, chị Diệu lại cười: - Em khóc rồi ngày đó nó có trở lại với em không? - Nhưng mà khóc thì nó vơi buồn chứ chị? - Em tiếc gì nào? - Em tiếc những ngày cả nhà còn ở chung với nhau, vui thì thôi. Chị vẫn cười thật nhẹ nhàng: - Rồi thì vì tiếc những ngày đó, nên em thất thểu bỏ chồng bỏ con, em lại đây để ngồi khóc sao? Rồi mai mốt em sẽ lại khóc vì tiếc những ngày còn ở chung với chồng con, lại thèm những lúc hai chị em ngồi cạnh nhau, như thế thì em khóc suốt đời sao? - Ðâu có, chị biết tính chồng em mà, anh ấy khó quá, động tí thì hét lên, em bực lắm. - Nhưng mà cậu ấy cục tính thế thôi, chứ tính cậu ấy tốt mà. - Thì biết là tốt, nhưng mà lười với cộc quá chị ơi. Chị xem Tết đến nơi, ở đây ai chẳng nhớ nhà, thế mà chả thông cảm với vợ thì thôi, đi làm về chả phụ gì em cả, chỉ cắm đầu vào đọc báo, làm sao em không tủi thân được. Vậy mà em mới nói anh ấy bỏ tờ báo phụ em một chút là hét lên rồi. Em bỏ em đi để xem mấy bố con làm sao cho biết. Nghĩ bố hồi xưa hiền mà chiều mẹ ghê đi. - Mỗi người mỗi tính chứ, nói sao được. Nhưng mà em phải làm sao chứ, cứ giận rồi bỏ đi thế này thì thằng cu Thảo, cái bé Mai nó cũng buồn, em cũng buồn mà chồng em cũng buồn. - Biết thế thì đừng lấy chồng ở như chị mà khỏe. - Nhưng mà em lỡ lấy rồi, đâu có bỏ hết được. - Chị cho em ở đây với chị, em không về nhà đâu, em mệt mỏi lắm rồi. Ngày nào đi làm về đã mệt, lại ở nhà vừa mệt vừa không vui em chịu không nổi. Chị Diệu nghiêm trang nhìn Hạc: - Nếu em nghĩ em ở đây em cảm thấy vui thì em cứ ở lại. Nhưng chị nghĩ em nên về thì hơn, tại em sẽ nhớ thằng cu Thảo với bé Mai, rồi em lại cắn rứt, rồi lại ngồi khóc nữa. Ðã đến lúc em phải sửa lại cách suy nghĩ và lối sống của mình. Cái gì sửa được thì rán mà sửa, cái gì không sửa được thì phải chấp nhận thôi. Ăn chung cái tâm mình thanh tịnh, cái tâm mình vui mới được, chứ lúc nào cũng cứ ngồi nhớ tiếc những cái đã qua, những cái không có thì làm sao vui được. Em đã ở lại đây mấy lần rồi, mấy lần trước em ở lại em có cảm thấy vui không hay cứ thở dài rồi khóc tấm ta tấm tức? Không đợi Hạc trả lời, chị đứng lên, nhẹ nhàng ra bàn thờ thắp nhang niệm Phật, Hạc nhìn ra sân, nắng đã gần tắt hết, cái vẻ hiu hắt của buổi chiều lúc trời sắp tối làm lòng nàng nao nao khó tả. Những cây hoa leo hai bên bờ rào đã bắt đầu tỏa hương ngào ngạt. Trong vườn những đóa hoa vẫn rực rỡ dù trời đã bắt đầu tối. Hạc nhìn vào gian thờ Phật, chị Diệu vẫn đứng chắp tay, khuôn mặt nhẹ nhàng thanh thản của chị ngước lên, dịu dàng, an lành và thật thanh khiết. Hạc thấy mình thật mong manh, cô khẽ rùng mình, tự dưng cô thấy nhớ con ghê gớm, tự dưng cô thấy mình quá đáng khi đã giận dỗi bỏ ra đi, tự dưng cô thấy ngượng với những nông nỗi của mình.... Nếu em nghĩ em ở đây em cảm thấy vui thì em cứ ở lại, không, có ở lại cô cũng không thể vui được. Cái gì sửa được thì rán mà sửa, cái gì không sửa được thì phải chấp nhận thôi. Ăn chung cái tâm mình thanh tịnh, cái tâm mình vui mới được, chứ lúc nào cũng cứ ngồi nhớ tiếc những cái đã qua, những cái không có thì làm sao vui được. Cô đã không sống được nhẹ nhàng như chị, nhưng cô phải cố thôi. Chị Diệu đã biết mình muốn gì, đã từ bỏ việc làm, từ bỏ đời sống nhộn nhịp, lui về ở đây, tại chị muốn như vậy và tìm thấy niềm vui ở đây. Sống khổ hạnh, làm việc cực khổ nhưng lúc nào cũng thật thanh thản, nụ cười lúc nào cũng sáng trong. Còn cô, cô biết mình không bao giờ có thể tìm được niềm vui trong một không khí lặng lẽ như vậy, cô đã có một mái gia đình, cô đã có những nguồn yêu thương, nhưng cô vẫn nuối tiếc những hình ảnh quá khứ, vẫn đi tìm hoài những niềm vui đã mất mà buông trôi cái niềm vui và hạnh phúc hiện tại. Rồi mai mốt em sẽ lại khóc vì tiếc những ngày còn ở chung với chồng con, lại thèm những lúc hai chị em ngồi cạnh nhau, như thế thì em khóc suốt đời sao. Chị Diệu nói đúng, những lần trước cô ở lại để rồi lại tự trách cứ mình, lại vật vã với những giọt nứơc mắt. Trong bức tranh tối tranh sáng, giữa khung cảnh thật bình yên của ngôi nhà nhỏ, giữa mùi nhang thơm toả lẫn với hương thơm của hoa cỏ và sương đêm, Hạc như vừa tỉnh giấc, cô thấy cô phải trở về, trở về cái gia đình xinh xắn của cô, rán vun xới những ngọt ngào để nuôi nấng những kỷ niệm đẹp cho con cái, cuộc sống dài bao nhiêu mà cứ làm khổ lẫn nhau. Tiếng xe hơi đỗ ở cổng làm Hạc nhìn ra. Cu Thảo, bé Mai và Hoàng đi vào cửa, miệng cu Thảo bô bô: "Mẹ ơi, mẹ về nhà đi, bố cho tụi con ăn cơm rồi. Bố nói mẹ về ăn thử canh bố nấu coi ngon không". Hạc ngượng ngùng nhìn chồng, chị Diệu bước ra, vẫn nhẹ nhàng chị nói: "Hai cô chú đưa các cháu về đi, chiều 30 qua đây cúng Giao thừa nhé". Hai vợ chồng chào chị, trên xe cu Thảo và bé Mai tranh nhau kể đủ thứ chuyện. Lúc về đến nhà, Hạc ngỡ ngàng nhìn hai chậu quất và hai chậu vạn thọ vàng rực trên hiên. Hoàng nhìn vợ cười: "Thấy giống Tết ở Việt nam không em?" Hạc rưng rưng nước mắt, nhìn chồng, nhìn con, nhìn mấy chậu cây. Mùa xuân đang ở đây, những hình ảnh đẹp của quá khứ chỉ là quá khứ, cái quá khứ đã qua, chỉ có cái hiện tại ở đây, nó đang ở trong tay cô, cô phải giữ lấy nó, cô phải bảo vệ nó, cô phải tìm lấy những niềm vui trong những cái gì cô đang có và nhất là cần có một cái tâm thật thanh tịnh phải không chị Diệu. Hạc vòng tay ôm lấy hai con, Hoàng đặt nhẹ bàn tay lên vai cô, cô thấy lòng ấm hẳn.... Cám ơn chị Diệu, cám ơn ngày Tết đã đem mùa xuân đến đây.... Thiên Hương (27 Tết Mậu Ngọ 2002) Mục lục Ngày Tết của Hạc Ngày Tết của Hạc Thiên HươngChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: quangducĐược bạn: TSAH đưa lên vào ngày: 31 tháng 3 năm 2004
Thạch Tâm Ngày vui đã tắt Cô ơi cho em xin tờ giấy! Một giọng nói nhỏ nhẹ cất lên kéo tôi về thực tại. Nở vội nụ cười chứa đầy vẻ hối lỗi của một kẻ… thiếu trách nhiệm, tôi bước xuống bục giảng đưa tờ giấy thi cho cô bé ngồi đầu bàn gần nhất có đôi mắt to tròn như hạt nhãn rồi đi thẳng ra cửa lớp đứng “quan sát hiện trường”. Đã chín giờ. Phòng thi có khoảng ba mươi nam thanh nữ tú đang cắm cúi viết lia lịa, nhiều cậu bấm máy tính như điên. Đầu bàn chót, một “sĩ tử” buông bút cười một mình đầy vẻ khoái trá, chắc là anh chàng vừa tìm ra đáp số của bài toán hóc búa kia rồi. - Chị ơi cho em tờ giấy! Cậu học trò ngồi cạnh cửa sổ cất giọng ồm ồm khiến tôi vội vã trở về bàn giáo viên… Có tiếng trao đổi khe khẽ, tôi ra oai bằng cách… trợn mắt nhìn. Tên con trai hơi đỏ mặt rồi cúi xuống hý hoáy ghi. Cộc… cộc… cộc… Huỳnh cầm một xấp giấy nháp màu xanh nhạt đứng ngoài cửa, khẽ gật đầu. Tôi vội ra: - Phòng tôi chưa hết giấy nháp mà? Huỳnh cười: - Bà quê quá, đây là giấy thông hành để tôi lang thang từ phòng này qua phòng nọ đó thôi. - Ối trời! Giả danh giám thị hành lang hả? Bộ phòng ông rảnh rỗi lắm sao? - Mọi chuyện giám thị I và giám thị II làm hết rồi, tôi chỉ chờ đến lúc cuối giờ thu bài, đếm bài phụ mà thôi. Ủa, bà gác với ai? - Nhỏ Hiền và gã “áo đỏ” nhưng tụi nó đang bận tâm sự ở ngoài hành lang kia. Huỳnh nheo mắt: - Chắc tụi nó nghĩ để bà làm nhiều cho xứng đáng với lương giám thị I chứ gì? - Ê, tự nhà trường phân công chứ tôi có giành làm hồi nào đâu? - Nói giỡn chút làm gì bà la làng vậy. Phòng bà có trục trặc gì không? - Không, ơ nhưng mà – Tôi hạ giọng – Sáng hôm qua thu tiền, thối tiền bằng cách gì mà cuối cùng dư 10.000 đồng. Định trả lại nhưng chẳng biết của ai bèn nộp cho công quỹ cả. - Cô ơi!... Tôi bước đến đưa tờ giấy. Cậu học trò nở một nụ cười tinh nghịch: - Cho hai tờ luôn đi… Cô! - Trời đất, viết chi dữ vậy? - Viết một tờ thôi, còn một tờ đem về làm… kỷ niệm. - Xí! Tôi quay ngoắt đi bỏ lại đằng sau những tiếng cười. Huỳnh hỏi: - Bị chọc hả, ai biểu bà “nhí” quá làm chi? - Hôm qua tụi nó còn hỏi tôi học năm II hay năm III. Chả lẽ tôi tự khai là do tôi bị ở lại lớp một năm, nếu không thì năm nay làm gì có cảnh “cô trò” gặp nhau như vầy. - Phòng bà có ít “em” quá. Có ai ở Sông Bé không? - Nhận đồng hương hả, chẳng có “em” nào đâu, chỉ có một “anh” ngồi trong kẹt thôi, ông có muốn nhận bà con họ hàng gì thì cứ lại hỏi. - Phòng bà có quay cóp gian lận gì không? - Không. Tụi nó học giỏi lắm hay sao mà cứ cắm đầu làm bài miết. Hỏi nhau nho nhỏ cũng có… Một bóng áo trắng đứng lên đi thẳng ra cửa: - Cô ơi cho em ra ngoài. Tôi tròn mắt: - Ra ngoài? Đang giờ thi mà? - Em… - Cậu ta ấp úng – Em muốn đi rửa mặt. - Ạ, chờ chút nha! – Hùng, Hùng – Tôi vẫy tay anh chàng giám thị hành lang đang đứng ngó vẩn vơ xuống đường – Phòng tôi có một thí sinh muốn ra ngoài nè…! Hùng nở nụ cười thiểu não trước khi xuống cầu thang. Có tiếng loa rè rè cất lên thông báo còn mười lăm phút nữa hết giờ. Huỳnh tất tả chạy về phòng hắn ở tuốt bên dãy B. Hiền và gã áo đỏ cũng rời lan can trở vào phòng. Không khí trong phòng thi có vẻ chộn rộn hẳn lên… * Buổi trưa đến phòng họp đã thấy bà con tề tựu đông đủ. Kẻ đứng người ngồi lố nhố trong phòng, chuyện trò rôm rả. Tôi đang loay hoay tìm một chỗ ngồi thì có thông báo yêu cầu giám thị II về phòng thi để phát giấy và ghi số báo sanh, giám thị I ở lại để chờ nhận đề. Những băng ghế bỗng chốc vắng ngắt. Thầy Tiến chợt đến ngồi bên cạnh. - Sao, có khỏe không Mai? - Dạ khỏe. Thầy nhíu mày nhìn phù hiệu: - Trời, được làm giám thị I hả, oai quá ta? Tôi đùa: - Chắc tại thầy trưởng khoa xét thấy có kinh nghiệm gác thi hai lần rồi nên cất nhắc cho lên chức đó thầy. - Năm ngoái Mai gác chung với thầy à? - Dạ phải. Đằng cùng Hoàng từ bên ngoài đi vô và ngồi xuống cạnh thầy. Thầy cười cười: - Nghe nói Mai dạo này có nhiều chuyện mới lắm hả? - Thầy nghe thiên hạ đồn đãi làm chi? Đằng xen vào: - Chắc thầy nghe chuyện… Tôi trừng mắt: - Ai khiến ông nói? Hoàng mỉm cười. Tôi nhìn thẳng vào nụ cười ấy và chợt thấy lòng mình thật bình yên. Gần một năm lúc nào cũng bên nhau và hơn ba năm tôi và Hoàng là mặt trăng, mặt trời cùng tồn tại trong một không gian nhỏ hẹp là lớp học, giảng đường, giờ ngồi đây mới thấy ngày ấy thật trẻ con… Thầy bỗng lên tiếng: - Nghe đâu Mai thích Buôn Mê Thuột lắm, đúng không Mai? Tôi nhăn mặt: - Sao thầy hay kể chuyện đời xưa quá hà. Bộ thầy không sợ có người vỡ tim mà chết trong khi ở đây không có sẵn xe cấp cứu hay sao? Mọi người cười nhỏ. Hoàng cũng cười. Nhưng dường như trong nụ cười Hoàng có ẩn chứa một chút gì đó gượng gạo. Vừa lúc đó, có tiếng thầy Quang mời lên nhận đề thi… Ba mươi phút sau trời đổ mưa. Học trò chúi mũi vào đề bài, chăm chú đọc. Giấy thi, giấy nháp đã được phát đầy đủ và cũng không có ai đòi hỏi “yêu sách” gì khiến ba “thầy cô” đành thất nghiệp. Thanh và Hiền kéo nhau xuống bàn trống cuối dãy ngồi tán dóc. Tôi ngồi nhìn những hạt mưa bay xiên xiên ngoài trời và bỗng dưng nhớ những câu thơ nằm tím ngắt trong quyển sổ thơ ở nhà. * Còn mười phút nữa hết giờ! Hiền thông báo thật to rồi đến bên tôi cằn nhằn: - Tên Thanh hôm nay trốn mất tiêu rồi. Thiệt chưa thấy ai tệ như nó, ỷ nay là buổi thi cuối và đã lãnh tiền xong nên chuồn thẳng. Tôi an ủi: - Cũng không sao đâu, chỉ cực lúc cho ký tên nộp bài và kiểm trả coi có thiếu không mà thôi. Hiền thở ra rồi lăng xăng thu dọn giấy trên bàn. Bên dưới thí sinh lục đục đóng nắp viết, săm soi lại bài thi lần cuối. Một người, hai người rồi lần lượt cả phòng kéo nhau lên nộp bài khiến Hiền luôn miệng nhắc: - Ký tên, coi ghi số tờ chưa? - Nè, em sao không đề tên họ? - Bạn này còn thiếu số báo danh nè! Cuối cùng, hai đứa cũng sắp xếp những bài thi theo số thứ tự một cách gọn ghẽ. Hiền tranh thủ cầm lấy túi xách: - Mai xuống phòng hội đồng nộp bài một mình nghe, mình có công chuyện phải về trước. Nhỏ thoát nhanh ra cửa. Tôi ôm đống bài thi và đứng nhìn lại lần cuối phòng học ngổn ngang giấy nháp xanh, đỏ, quăng tứ tung rồi chậm rãi rời phòng. Những bậc thang như dài thêm ra hàng cây số. Thế là đã xong ba ngày ngắn ngủi làm cô bất đắc dĩ. Ba ngày ngồi nhìn lại hình ảnh của chính mình cách đó mấy năm trời mới chợt nhận ra sự hồn nhiên, ngây thơ và cả yếu đuối đã không còn trong tôi nữa. Chỉ ngày mai thôi là tất cả chúng tôi vĩnh viễn giã từ hai chữ “sinh viên” đầy tự hào mà mình đã khoác suốt bốn, năm năm qua. Sự bắt đầu của người này đôi khi, lại chính là sự ra đi của kẻ khác, phải không? THẠCH TÂM (Áo Trắng – Tháng 6/1996) Mục lục Ngày vui đã tắt Ngày vui đã tắt Thạch TâmChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.Đánh máy: lishiyuan Nguồn: lishiyuanĐược bạn: Ct.Ly đưa lên vào ngày: 31 tháng 10 năm 2007
Thạch Tâm Ngày vui đã tắt Cô ơi cho em xin tờ giấy! Một giọng nói nhỏ nhẹ cất lên kéo tôi về thực tại. Nở vội nụ cười chứa đầy vẻ hối lỗi của một kẻ… thiếu trách nhiệm, tôi bước xuống bục giảng đưa tờ giấy thi cho cô bé ngồi đầu bàn gần nhất có đôi mắt to tròn như hạt nhãn rồi đi thẳng ra cửa lớp đứng “quan sát hiện trường”. Đã chín giờ. Phòng thi có khoảng ba mươi nam thanh nữ tú đang cắm cúi viết lia lịa, nhiều cậu bấm máy tính như điên. Đầu bàn chót, một “sĩ tử” buông bút cười một mình đầy vẻ khoái trá, chắc là anh chàng vừa tìm ra đáp số của bài toán hóc búa kia rồi. - Chị ơi cho em tờ giấy! Cậu học trò ngồi cạnh cửa sổ cất giọng ồm ồm khiến tôi vội vã trở về bàn giáo viên… Có tiếng trao đổi khe khẽ, tôi ra oai bằng cách… trợn mắt nhìn. Tên con trai hơi đỏ mặt rồi cúi xuống hý hoáy ghi. Cộc… cộc… cộc… Huỳnh cầm một xấp giấy nháp màu xanh nhạt đứng ngoài cửa, khẽ gật đầu. Tôi vội ra: - Phòng tôi chưa hết giấy nháp mà? Huỳnh cười: - Bà quê quá, đây là giấy thông hành để tôi lang thang từ phòng này qua phòng nọ đó thôi. - Ối trời! Giả danh giám thị hành lang hả? Bộ phòng ông rảnh rỗi lắm sao? - Mọi chuyện giám thị I và giám thị II làm hết rồi, tôi chỉ chờ đến lúc cuối giờ thu bài, đếm bài phụ mà thôi. Ủa, bà gác với ai? - Nhỏ Hiền và gã “áo đỏ” nhưng tụi nó đang bận tâm sự ở ngoài hành lang kia. Huỳnh nheo mắt: - Chắc tụi nó nghĩ để bà làm nhiều cho xứng đáng với lương giám thị I chứ gì? - Ê, tự nhà trường phân công chứ tôi có giành làm hồi nào đâu? - Nói giỡn chút làm gì bà la làng vậy. Phòng bà có trục trặc gì không? - Không, ơ nhưng mà – Tôi hạ giọng – Sáng hôm qua thu tiền, thối tiền bằng cách gì mà cuối cùng dư 10.000 đồng. Định trả lại nhưng chẳng biết của ai bèn nộp cho công quỹ cả. - Cô ơi!... Tôi bước đến đưa tờ giấy. Cậu học trò nở một nụ cười tinh nghịch: - Cho hai tờ luôn đi… Cô! - Trời đất, viết chi dữ vậy? - Viết một tờ thôi, còn một tờ đem về làm… kỷ niệm. - Xí! Tôi quay ngoắt đi bỏ lại đằng sau những tiếng cười. Huỳnh hỏi: - Bị chọc hả, ai biểu bà “nhí” quá làm chi? - Hôm qua tụi nó còn hỏi tôi học năm II hay năm III. Chả lẽ tôi tự khai là do tôi bị ở lại lớp một năm, nếu không thì năm nay làm gì có cảnh “cô trò” gặp nhau như vầy. - Phòng bà có ít “em” quá. Có ai ở Sông Bé không? - Nhận đồng hương hả, chẳng có “em” nào đâu, chỉ có một “anh” ngồi trong kẹt thôi, ông có muốn nhận bà con họ hàng gì thì cứ lại hỏi. - Phòng bà có quay cóp gian lận gì không? - Không. Tụi nó học giỏi lắm hay sao mà cứ cắm đầu làm bài miết. Hỏi nhau nho nhỏ cũng có… Một bóng áo trắng đứng lên đi thẳng ra cửa: - Cô ơi cho em ra ngoài. Tôi tròn mắt: - Ra ngoài? Đang giờ thi mà? - Em… - Cậu ta ấp úng – Em muốn đi rửa mặt. - Ạ, chờ chút nha! – Hùng, Hùng – Tôi vẫy tay anh chàng giám thị hành lang đang đứng ngó vẩn vơ xuống đường – Phòng tôi có một thí sinh muốn ra ngoài nè…! Hùng nở nụ cười thiểu não trước khi xuống cầu thang. Có tiếng loa rè rè cất lên thông báo còn mười lăm phút nữa hết giờ. Huỳnh tất tả chạy về phòng hắn ở tuốt bên dãy B. Hiền và gã áo đỏ cũng rời lan can trở vào phòng. Không khí trong phòng thi có vẻ chộn rộn hẳn lên… * Buổi trưa đến phòng họp đã thấy bà con tề tựu đông đủ. Kẻ đứng người ngồi lố nhố trong phòng, chuyện trò rôm rả. Tôi đang loay hoay tìm một chỗ ngồi thì có thông báo yêu cầu giám thị II về phòng thi để phát giấy và ghi số báo sanh, giám thị I ở lại để chờ nhận đề. Những băng ghế bỗng chốc vắng ngắt. Thầy Tiến chợt đến ngồi bên cạnh. - Sao, có khỏe không Mai? - Dạ khỏe. Thầy nhíu mày nhìn phù hiệu: - Trời, được làm giám thị I hả, oai quá ta? Tôi đùa: - Chắc tại thầy trưởng khoa xét thấy có kinh nghiệm gác thi hai lần rồi nên cất nhắc cho lên chức đó thầy. - Năm ngoái Mai gác chung với thầy à? - Dạ phải. Đằng cùng Hoàng từ bên ngoài đi vô và ngồi xuống cạnh thầy. Thầy cười cười: - Nghe nói Mai dạo này có nhiều chuyện mới lắm hả? - Thầy nghe thiên hạ đồn đãi làm chi? Đằng xen vào: - Chắc thầy nghe chuyện… Tôi trừng mắt: - Ai khiến ông nói? Hoàng mỉm cười. Tôi nhìn thẳng vào nụ cười ấy và chợt thấy lòng mình thật bình yên. Gần một năm lúc nào cũng bên nhau và hơn ba năm tôi và Hoàng là mặt trăng, mặt trời cùng tồn tại trong một không gian nhỏ hẹp là lớp học, giảng đường, giờ ngồi đây mới thấy ngày ấy thật trẻ con… Thầy bỗng lên tiếng: - Nghe đâu Mai thích Buôn Mê Thuột lắm, đúng không Mai? Tôi nhăn mặt: - Sao thầy hay kể chuyện đời xưa quá hà. Bộ thầy không sợ có người vỡ tim mà chết trong khi ở đây không có sẵn xe cấp cứu hay sao? Mọi người cười nhỏ. Hoàng cũng cười. Nhưng dường như trong nụ cười Hoàng có ẩn chứa một chút gì đó gượng gạo. Vừa lúc đó, có tiếng thầy Quang mời lên nhận đề thi… Ba mươi phút sau trời đổ mưa. Học trò chúi mũi vào đề bài, chăm chú đọc. Giấy thi, giấy nháp đã được phát đầy đủ và cũng không có ai đòi hỏi “yêu sách” gì khiến ba “thầy cô” đành thất nghiệp. Thanh và Hiền kéo nhau xuống bàn trống cuối dãy ngồi tán dóc. Tôi ngồi nhìn những hạt mưa bay xiên xiên ngoài trời và bỗng dưng nhớ những câu thơ nằm tím ngắt trong quyển sổ thơ ở nhà. * Còn mười phút nữa hết giờ! Hiền thông báo thật to rồi đến bên tôi cằn nhằn: - Tên Thanh hôm nay trốn mất tiêu rồi. Thiệt chưa thấy ai tệ như nó, ỷ nay là buổi thi cuối và đã lãnh tiền xong nên chuồn thẳng. Tôi an ủi: - Cũng không sao đâu, chỉ cực lúc cho ký tên nộp bài và kiểm trả coi có thiếu không mà thôi. Hiền thở ra rồi lăng xăng thu dọn giấy trên bàn. Bên dưới thí sinh lục đục đóng nắp viết, săm soi lại bài thi lần cuối. Một người, hai người rồi lần lượt cả phòng kéo nhau lên nộp bài khiến Hiền luôn miệng nhắc: - Ký tên, coi ghi số tờ chưa? - Nè, em sao không đề tên họ? - Bạn này còn thiếu số báo danh nè! Cuối cùng, hai đứa cũng sắp xếp những bài thi theo số thứ tự một cách gọn ghẽ. Hiền tranh thủ cầm lấy túi xách: - Mai xuống phòng hội đồng nộp bài một mình nghe, mình có công chuyện phải về trước. Nhỏ thoát nhanh ra cửa. Tôi ôm đống bài thi và đứng nhìn lại lần cuối phòng học ngổn ngang giấy nháp xanh, đỏ, quăng tứ tung rồi chậm rãi rời phòng. Những bậc thang như dài thêm ra hàng cây số. Thế là đã xong ba ngày ngắn ngủi làm cô bất đắc dĩ. Ba ngày ngồi nhìn lại hình ảnh của chính mình cách đó mấy năm trời mới chợt nhận ra sự hồn nhiên, ngây thơ và cả yếu đuối đã không còn trong tôi nữa. Chỉ ngày mai thôi là tất cả chúng tôi vĩnh viễn giã từ hai chữ “sinh viên” đầy tự hào mà mình đã khoác suốt bốn, năm năm qua. Sự bắt đầu của người này đôi khi, lại chính là sự ra đi của kẻ khác, phải không? THẠCH TÂM (Áo Trắng – Tháng 6/1996) Mục lục Ngày vui đã tắt Ngày vui đã tắt Thạch TâmChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.Đánh máy: lishiyuan Nguồn: lishiyuanĐược bạn: Ct.Ly đưa lên vào ngày: 31 tháng 10 năm 2007
Nguyên Đỗ Ngày Về Thăm Em N gày tôi về thăm em là mười lăm năm đã qua khi tôi gặp em lần cuối lúc tụi mình mới 18. Lần đó em đưa tôi ra bến xe giã từ rồi tôi chưa bao giờ trở lại cho tới dịp này. Chưa hẹn thề gì, chưa một lần trao môi hôn, chưa một lần cầm tay nhau đi trong mưa, nhưng hai đứa đã từng đi dọc những con đường dài buổi chiều tà hay những đêm trăng sáng đẹp. Sau này trưởng thành hơn, kinh nghiệm đường đời già dặn hơn, tôi biết là chúng mình lúc đó đang ở cái buổi, "Tình trong như đã, mặt ngoài còn e!" Tôi đi chưa đầy năm thì được tin em lấy chồng, rồi từ đó mất liên lạc. Tôi vùi đầu vào với bài vở, và cho tới ngày ra đi, tôi không ngoảnh lại nhìn vùng trời kỷ niệm xưa nữa. Có còn gì đâu, có còn gì đầu, chỉ còn quá khứ, chỉ còn thương đau. Tôi không trở lại vì biết đã quá muộn màng, chỉ khi mất em tôi mới biết là tình tôi đối với em sâu đậm, nhưng vì thỏ đế, hay vì tương lai chưa chắc chắn nên tôi chẳng nói năng, chẳng tỏ tình để rồi hụt hẫng khi được tin em lấy chồng. Tôi sống ở bên kia bờ đại dương, nhớ về một phương trời mộng mị. Thỉnh thoảng liên lạc người thân được biết tin tức về gia đình em, em thành cô giáo, được hai con rồi chồng mất vì bệnh nghiện ngập, tôi buồn đau cả tháng vì được tin em góa chồng. Tôi vẫn hình dung em hạnh phúc, và đã thản nhiên sống cuộc đời bình lặng của người Việt tha hương. Một thân côi cút với hai mụn con, em làm sao để sống? Tôi gởi tiền nhờ người thân giúp đỡ em, nhưng không nhận thư trả lời, thế rồi thời gian bẵng trôi, tôi chỉ là bóng ma quá khứ đã bị lãng quên. Như một cục than hồng nằm trong đống tro tàn, gặp ngọn gió lại bùng lên ngọn lửa, mối tình ngầm của tôi với em vẫn chưa tắt ngấm lại vùng lên khi có người đồng hương rủ về Việt Nam chơi. Ở tuổi tam thập tam, mẹ tôi nói, con cũng nên an bề gia thất! Ba mươi ba đối với tôi cũng như mình hồi mười tám, tôi vẫn tưởng như mình là cậu học trò đi bên em trên con phố về khuya. Vâng tôi phải về, phải về, để xem trái tim mình vẫn còn yêu em mãi không, cho dù là em đã có chồng, có con đứa 13, đứa 9... Liệu tôi khôn ngoan đủ, trưởng thành đủ để là dưỡng phụ của chúng không nữa? Nhưng vì em, vì tôi, tôi nhất định phải về! Tôi nhờ người thân báo em hẹn đến gặp nhau ở một quán cà phê đường Ngô Đức Kế vì người thân đã nói em vẫn trẻ đẹp và nhiều người ngấp nghé nên khuyên tôi đừng nên tới gặp ở nhà có thể gây trở ngại cho em. Ba mươi ba tuổi thì có gì gọi là già, như tôi đây, tôi có nghĩ bao giờ mình già đâu. Tôi chỉ già đi dưới con mắt của Mẹ tôi đang trông chờ ẵm con của thằng Út chứ Mẹ tôi đã ẵm bao nhiêu cháu ngoại cháu nội rồi, có con tôi hay không cũng thế thôi. Tôi đâu phải con trai một mà phải cưới vợ kiếm người nối giòng như thời cổ xa xưa. Tôi ngỡ ngàng nhận ra em trông tà áo dài nhạt xanh có thêu bụi trúc, nhành mai, vẫn cao sang như ngày nào, nhưng tôi chỉ còn nhận ra cặp mắt và nụ cười, còn hình dạng đã rất nhiều đổi thay, không còn là Trúc Mai của thời học trò buổi nào nữa. Tôi kéo ghế, hỏi em dùng gì, em xin một ly đá chanh, như thuở còn học sinh cấp 3. Tôi cũng ngượng ngùng như là một cậu học trò nhỏ, cầm ly nước đá chanh cô tiếp bàn vừa trao đưa cho em mà đôi tay run run làm sóng sánh ly nước. Em bật cười nói như trong mơ: "Nguyên vẫn như xưa, chẳng có gì thay đổi từ hình dạng tới cử chỉ!" Rồi cười buồn, "Còn Trúc Mai gần như đã sống cả một đời rồi, một đời làm vợ, một đời làm mẹ..." Tôi định trấn an, "Trúc Mai vẫn như hồi xưa mà!" nhưng nhận ra mình sẽ nói dối, vì Trúc Mai thật sự già dặn hơn tôi rất nhiều, tôi chưa bị gánh gia đình đè nặng trên vai, nỗi ưu tư vật chất tương lai, ngày mai như thế nào... nên lẳng lặng nghe những lời tâm sự của Trúc Mai. Đoàn Việt kiều với kép với đào mới tới làm ồn ào cả quán, em chợt ngẩng đầu nhìn rồi cúi mặt. Năm cặp mới đến có bốn ông tuổi ngũ tuần tới lục tuần cặp với các cô choai choai cỡ 20 ăn mặc hở hang thời trang mốt mới, và một cặp hi hữu trong đời gồm một bà lão cỡ 60 đến 70 đi với một anh nói rặt tiếng Bắc cỡ hai mươi mấy ba mươi ngồi gần bàn chúng tôi. Ban đầu tôi nghĩ là mẹ con hay bà cháu, nhưng bà già cứ sang sảng em với cưng hoài nên tôi đoán hẳn anh chàng này là trai thuê gigolo chứ chẳng phải con cháu họ hàng gì cả... Cả em và tôi đều không muốn bị liệt kê vào đám người ấy nên bảo nhau đứng lên đi ra giữa khi chuyện chúng tôi chưa ngã ngũ về đâu, kỷ niệm của 15 năm về trước còn chưa đề cập tới, biết đi đâu bây giờ. Những lão gia hồi hương tìm hoa thơm trái lạ, những con kên kên rỉa rói xác đồng loại đã làm tan không khí học trò đơn sơ của chúng tôi ngày xưa. Tôi định bụng gọi xe chở chúng tôi đến một nơi nào đó nói chuyện, nhưng em cản: "Nguyên đi với Mai, để Mai lấy xe Dream chở ra Đền Đức Mẹ Bình Triệu viếng Đền Đức Mẹ và nói chuyện luôn!" Xe cộ trong thành phố Saigon bây giờ còn tấp nập hơn thời xưa nhiều, tôi có sành sỏi lái xe ở Chicago bao nhiêu cũng không dám đụng tới tay lái ở đây. Trúc Mai người nhỏ nhắn, nhìn sau lưng đố ai biết nàng đã ba mươi ba, nhưng nhìn trên khuôn mặt có lẽ già trước tuổi bởi những khổ đau chất chồng, ưu tư cho cuộc sống... Tôi ngồi sau Trúc Mai trên chiếc xe Dream, nàng lái nhanh và bạo giữa những hàng xe với xe. Tôi ngồi sau bấm tay ghì ghế, sợ mình lọt xuống lề. Cũng có chút thoáng nghĩ ôm ghì lấy eo nàng chứ cũng chẳng phải lúc nào cũng trong sáng, nhưng thấy nàng ốm o như thân cò, tôi ôm thì nàng sẽ thành bọt biển bay lên trên không mất. Đi ra ngoài xa lộ, tóc nàng bay phần phật, đập vào mặt mũi tôi, tôi ngửi tới mùi hương tóc, thấy rất thân tình, gần gũi hơn mọi lúc nào, cũng vẫn thẹn thùng như một thanh niên mười tám. Giá cứ như thế này nhỉ, giá cứ vô tư chạy hoài trên xa lộ tình yêu như thế này, không có gì để suy nghĩ, không có thực tại, xã hội, gia đình để âu lo, ngại ngùng... Em và tôi đã vào Đền Đức Mẹ, đền lưa thưa vắng người. Chúng mình cùng quỳ lâm râm cầu nguyện rồi em cất hát nho nhỏ một bài hát quen thuộc để tôi hòa hát theo, "Con dâng về Mẹ một tình thương yêu bao la..." Tôi thấy hồn mình bình an lắm, tôi nhìn em như nhìn một người mẹ, một người vợ hiền, một người góa phụ, một người bạn xưa và mãi mãi là bạn hiền khi em hỏi: -- Mai hỏi thật Nguyên nha! Sao lâu nay Nguyên không lập gia đình? -- Tại chưa gặp người ưng ý! -- Hồi đó ra đi sao không chào Mai? -- Lúc đi học có chào mà, Trúc Mai không nhớ là có đưa Nguyên ra bến xe sao? -- Nhớ, nhưng Mai hỏi là lúc đi Mỹ kìa! -- Lúc đó Trúc Mai lấy chồng rồi, đâu còn lý do gì để ở lại. -- Vậy hồi xưa Nguyên yêu Mai à? -- Hỏi thật hay giỡn đó? -- Hỏi thật và hãy trả lời thật cho Mai đi! -- Hồi đó,... à hồi đó Nguyên có yêu đơn phương Trúc Mai đó! -- Sao hồi đó không nói? -- Tại nhát với tương lai sự nghiệp chưa có gì ! -- Nếu nói Mai chờ được mà! -- Thế tại sao Trúc Mai lấy anh Quốc mà không lấy anh Huy, lúc đó Huy theo đuổi Trúc Mai ra mặt mà, còn anh Quốc thì khi đám cưới Trúc Mai rồi Nguyên mới nghe! -- Mai không thích anh Huy, còn anh Quốc thì theo đuổi Mai mãi nên có duyên đó, thời gian chung sống, ngắn ngủi nhưng Mai rất hạnh phúc. Thế rồi chuyện này sang chuyện khác chúng tôi ôn lại dĩ vãng ngày xưa, Trúc Mai cho biết nàng một ngày nào cũng sẽ đi Mỹ vì cha mẹ nàng đã bảo lãnh cho nàng và hai con của nàng vì chồng đã chết năm năm rồi, còn cha mẹ chồng vừa chết năm ngoái, thế là nàng đã xong nghĩa bên chồng, chỉ chờ ngày đi phỏng vấn và sang Hoa Kỳ. Nàng đưa tôi về nhà người thân chỗ tôi ở, nhắc: "Có duyên thì sẽ gặp, đừng trẻ hư thân già mất nết như những người lão già dê xồm kia nhé!" Tôi cười đùa lại, "Thế cũng đừng làm mụ già cừu dỏm nha!" Hai đứa tôi cười ngặt nghẽo như mười lăm năm về trước. Nguyên Đỗ Mục lục Ngày Về Thăm Em Ngày Về Thăm Em Nguyên ĐỗChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.Đánh máy : Nguyên Đỗ Nguồn: bạn: TTL đưa lên vào ngày: 5 tháng 5 năm 2006
Nguyên Đỗ Ngày Về Thăm Em N gày tôi về thăm em là mười lăm năm đã qua khi tôi gặp em lần cuối lúc tụi mình mới 18. Lần đó em đưa tôi ra bến xe giã từ rồi tôi chưa bao giờ trở lại cho tới dịp này. Chưa hẹn thề gì, chưa một lần trao môi hôn, chưa một lần cầm tay nhau đi trong mưa, nhưng hai đứa đã từng đi dọc những con đường dài buổi chiều tà hay những đêm trăng sáng đẹp. Sau này trưởng thành hơn, kinh nghiệm đường đời già dặn hơn, tôi biết là chúng mình lúc đó đang ở cái buổi, "Tình trong như đã, mặt ngoài còn e!" Tôi đi chưa đầy năm thì được tin em lấy chồng, rồi từ đó mất liên lạc. Tôi vùi đầu vào với bài vở, và cho tới ngày ra đi, tôi không ngoảnh lại nhìn vùng trời kỷ niệm xưa nữa. Có còn gì đâu, có còn gì đầu, chỉ còn quá khứ, chỉ còn thương đau. Tôi không trở lại vì biết đã quá muộn màng, chỉ khi mất em tôi mới biết là tình tôi đối với em sâu đậm, nhưng vì thỏ đế, hay vì tương lai chưa chắc chắn nên tôi chẳng nói năng, chẳng tỏ tình để rồi hụt hẫng khi được tin em lấy chồng. Tôi sống ở bên kia bờ đại dương, nhớ về một phương trời mộng mị. Thỉnh thoảng liên lạc người thân được biết tin tức về gia đình em, em thành cô giáo, được hai con rồi chồng mất vì bệnh nghiện ngập, tôi buồn đau cả tháng vì được tin em góa chồng. Tôi vẫn hình dung em hạnh phúc, và đã thản nhiên sống cuộc đời bình lặng của người Việt tha hương. Một thân côi cút với hai mụn con, em làm sao để sống? Tôi gởi tiền nhờ người thân giúp đỡ em, nhưng không nhận thư trả lời, thế rồi thời gian bẵng trôi, tôi chỉ là bóng ma quá khứ đã bị lãng quên. Như một cục than hồng nằm trong đống tro tàn, gặp ngọn gió lại bùng lên ngọn lửa, mối tình ngầm của tôi với em vẫn chưa tắt ngấm lại vùng lên khi có người đồng hương rủ về Việt Nam chơi. Ở tuổi tam thập tam, mẹ tôi nói, con cũng nên an bề gia thất! Ba mươi ba đối với tôi cũng như mình hồi mười tám, tôi vẫn tưởng như mình là cậu học trò đi bên em trên con phố về khuya. Vâng tôi phải về, phải về, để xem trái tim mình vẫn còn yêu em mãi không, cho dù là em đã có chồng, có con đứa 13, đứa 9... Liệu tôi khôn ngoan đủ, trưởng thành đủ để là dưỡng phụ của chúng không nữa? Nhưng vì em, vì tôi, tôi nhất định phải về! Tôi nhờ người thân báo em hẹn đến gặp nhau ở một quán cà phê đường Ngô Đức Kế vì người thân đã nói em vẫn trẻ đẹp và nhiều người ngấp nghé nên khuyên tôi đừng nên tới gặp ở nhà có thể gây trở ngại cho em. Ba mươi ba tuổi thì có gì gọi là già, như tôi đây, tôi có nghĩ bao giờ mình già đâu. Tôi chỉ già đi dưới con mắt của Mẹ tôi đang trông chờ ẵm con của thằng Út chứ Mẹ tôi đã ẵm bao nhiêu cháu ngoại cháu nội rồi, có con tôi hay không cũng thế thôi. Tôi đâu phải con trai một mà phải cưới vợ kiếm người nối giòng như thời cổ xa xưa. Tôi ngỡ ngàng nhận ra em trông tà áo dài nhạt xanh có thêu bụi trúc, nhành mai, vẫn cao sang như ngày nào, nhưng tôi chỉ còn nhận ra cặp mắt và nụ cười, còn hình dạng đã rất nhiều đổi thay, không còn là Trúc Mai của thời học trò buổi nào nữa. Tôi kéo ghế, hỏi em dùng gì, em xin một ly đá chanh, như thuở còn học sinh cấp 3. Tôi cũng ngượng ngùng như là một cậu học trò nhỏ, cầm ly nước đá chanh cô tiếp bàn vừa trao đưa cho em mà đôi tay run run làm sóng sánh ly nước. Em bật cười nói như trong mơ: "Nguyên vẫn như xưa, chẳng có gì thay đổi từ hình dạng tới cử chỉ!" Rồi cười buồn, "Còn Trúc Mai gần như đã sống cả một đời rồi, một đời làm vợ, một đời làm mẹ..." Tôi định trấn an, "Trúc Mai vẫn như hồi xưa mà!" nhưng nhận ra mình sẽ nói dối, vì Trúc Mai thật sự già dặn hơn tôi rất nhiều, tôi chưa bị gánh gia đình đè nặng trên vai, nỗi ưu tư vật chất tương lai, ngày mai như thế nào... nên lẳng lặng nghe những lời tâm sự của Trúc Mai. Đoàn Việt kiều với kép với đào mới tới làm ồn ào cả quán, em chợt ngẩng đầu nhìn rồi cúi mặt. Năm cặp mới đến có bốn ông tuổi ngũ tuần tới lục tuần cặp với các cô choai choai cỡ 20 ăn mặc hở hang thời trang mốt mới, và một cặp hi hữu trong đời gồm một bà lão cỡ 60 đến 70 đi với một anh nói rặt tiếng Bắc cỡ hai mươi mấy ba mươi ngồi gần bàn chúng tôi. Ban đầu tôi nghĩ là mẹ con hay bà cháu, nhưng bà già cứ sang sảng em với cưng hoài nên tôi đoán hẳn anh chàng này là trai thuê gigolo chứ chẳng phải con cháu họ hàng gì cả... Cả em và tôi đều không muốn bị liệt kê vào đám người ấy nên bảo nhau đứng lên đi ra giữa khi chuyện chúng tôi chưa ngã ngũ về đâu, kỷ niệm của 15 năm về trước còn chưa đề cập tới, biết đi đâu bây giờ. Những lão gia hồi hương tìm hoa thơm trái lạ, những con kên kên rỉa rói xác đồng loại đã làm tan không khí học trò đơn sơ của chúng tôi ngày xưa. Tôi định bụng gọi xe chở chúng tôi đến một nơi nào đó nói chuyện, nhưng em cản: "Nguyên đi với Mai, để Mai lấy xe Dream chở ra Đền Đức Mẹ Bình Triệu viếng Đền Đức Mẹ và nói chuyện luôn!" Xe cộ trong thành phố Saigon bây giờ còn tấp nập hơn thời xưa nhiều, tôi có sành sỏi lái xe ở Chicago bao nhiêu cũng không dám đụng tới tay lái ở đây. Trúc Mai người nhỏ nhắn, nhìn sau lưng đố ai biết nàng đã ba mươi ba, nhưng nhìn trên khuôn mặt có lẽ già trước tuổi bởi những khổ đau chất chồng, ưu tư cho cuộc sống... Tôi ngồi sau Trúc Mai trên chiếc xe Dream, nàng lái nhanh và bạo giữa những hàng xe với xe. Tôi ngồi sau bấm tay ghì ghế, sợ mình lọt xuống lề. Cũng có chút thoáng nghĩ ôm ghì lấy eo nàng chứ cũng chẳng phải lúc nào cũng trong sáng, nhưng thấy nàng ốm o như thân cò, tôi ôm thì nàng sẽ thành bọt biển bay lên trên không mất. Đi ra ngoài xa lộ, tóc nàng bay phần phật, đập vào mặt mũi tôi, tôi ngửi tới mùi hương tóc, thấy rất thân tình, gần gũi hơn mọi lúc nào, cũng vẫn thẹn thùng như một thanh niên mười tám. Giá cứ như thế này nhỉ, giá cứ vô tư chạy hoài trên xa lộ tình yêu như thế này, không có gì để suy nghĩ, không có thực tại, xã hội, gia đình để âu lo, ngại ngùng... Em và tôi đã vào Đền Đức Mẹ, đền lưa thưa vắng người. Chúng mình cùng quỳ lâm râm cầu nguyện rồi em cất hát nho nhỏ một bài hát quen thuộc để tôi hòa hát theo, "Con dâng về Mẹ một tình thương yêu bao la..." Tôi thấy hồn mình bình an lắm, tôi nhìn em như nhìn một người mẹ, một người vợ hiền, một người góa phụ, một người bạn xưa và mãi mãi là bạn hiền khi em hỏi: -- Mai hỏi thật Nguyên nha! Sao lâu nay Nguyên không lập gia đình? -- Tại chưa gặp người ưng ý! -- Hồi đó ra đi sao không chào Mai? -- Lúc đi học có chào mà, Trúc Mai không nhớ là có đưa Nguyên ra bến xe sao? -- Nhớ, nhưng Mai hỏi là lúc đi Mỹ kìa! -- Lúc đó Trúc Mai lấy chồng rồi, đâu còn lý do gì để ở lại. -- Vậy hồi xưa Nguyên yêu Mai à? -- Hỏi thật hay giỡn đó? -- Hỏi thật và hãy trả lời thật cho Mai đi! -- Hồi đó,... à hồi đó Nguyên có yêu đơn phương Trúc Mai đó! -- Sao hồi đó không nói? -- Tại nhát với tương lai sự nghiệp chưa có gì ! -- Nếu nói Mai chờ được mà! -- Thế tại sao Trúc Mai lấy anh Quốc mà không lấy anh Huy, lúc đó Huy theo đuổi Trúc Mai ra mặt mà, còn anh Quốc thì khi đám cưới Trúc Mai rồi Nguyên mới nghe! -- Mai không thích anh Huy, còn anh Quốc thì theo đuổi Mai mãi nên có duyên đó, thời gian chung sống, ngắn ngủi nhưng Mai rất hạnh phúc. Thế rồi chuyện này sang chuyện khác chúng tôi ôn lại dĩ vãng ngày xưa, Trúc Mai cho biết nàng một ngày nào cũng sẽ đi Mỹ vì cha mẹ nàng đã bảo lãnh cho nàng và hai con của nàng vì chồng đã chết năm năm rồi, còn cha mẹ chồng vừa chết năm ngoái, thế là nàng đã xong nghĩa bên chồng, chỉ chờ ngày đi phỏng vấn và sang Hoa Kỳ. Nàng đưa tôi về nhà người thân chỗ tôi ở, nhắc: "Có duyên thì sẽ gặp, đừng trẻ hư thân già mất nết như những người lão già dê xồm kia nhé!" Tôi cười đùa lại, "Thế cũng đừng làm mụ già cừu dỏm nha!" Hai đứa tôi cười ngặt nghẽo như mười lăm năm về trước. Nguyên Đỗ Mục lục Ngày Về Thăm Em Ngày Về Thăm Em Nguyên ĐỗChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.Đánh máy : Nguyên Đỗ Nguồn: bạn: TTL đưa lên vào ngày: 5 tháng 5 năm 2006
Isaac Asimov Ngày xưa vui thế dịch giả: Bùi Nghĩa Nguyên tác : The fun they had Buổi tối hôm ấy, Mây gõ nhẹ trên bàn phím của máy điện tử. Em viết nhật ký. Ở đầu trang, có đề ngày 17/05/2157. Mây viết: -Hôm nay, anh Thông có tìm ra một cuốn sách thật sự! Một cuốn sách thật cũ, cũ ơi là cũ!’. Mây còn nhớ ông Nội có kể rằng ngày xưa, khi ông còn bé, ông Sơ có nói rằng những câu truyện cổ tích hay những truyện tiểu thuyết đều được in trên giấy. Hai đứa lật từng trang sách, những tờ giấy vàng cũ kỹ và nhăn nhó. Thật là ngộ nghĩnh khi nhìn thấy chữ viết đứng yên rõ nét, không như lúc chúng nó đọc trên màn ảnh, chữ viết lúc nào cũng run run. Lạ hơn nữa là khi lật ngược để xem lại những trang vừa đọc, cũng vẫn thấy những hàng chữ viết đó, không có một chữ nào thay đổi cả. -Ôi chao ! Thông nói : -Phí quá hở? Khi mình đọc xong là có thể vứt quyển sách này đi. Đúng là như thế. Không như màn ảnh của máy điện tử, có cả hàng trìệu câu truyện mà vẫn còn thừa chổ. Không thể nào mình muốn quăng bỏ máy hết. . -Em cũng nghĩ như thế. Mây nói. Mây mới có 11 tuổi nên chưa đọc được nhiều sách điện tử như Thông. Về phần Thông, nó được 13 tuổi. Anh tìm ra quyển sách này ở đâu ? -Trong nhà anh. Nó chỉ tay nhưng mắt còn nhìn trang sách vì nó đang chăm chú đọc. -Ở trên gát thượng đó ! . -Quyển sách nói gì hở anh ? -Về trường học. Mây chu miệng khinh bỉ, - Về trường học sao ? Người ta nói gì về trường học ? Mây ghét cay ghét đắng trường học, nhất là lúc này. Người máy thầy giáo cứ cho nó bài kiểm này đến bài kiểm nọ về môn địa lý, và Mây cứ làm trật hoài làm cho má nó nổi giận lên, la nó và đem nó đến gặp ông Thanh tra vùng. Ông ta mập, lùn với khuông mặt đỏ hồng. Bên cạnh ông có một hộp có đầy mặt số và giây điện. Ông ta mỉm cười với Mây và đưa nó một trái bôm, rồi mang thầy giáo ra một bên. Nhìn ông ta khiêng thầy giáo, Mây cầu khẩn ông ta không sửa chữa được. Nhưng chừng một tiếng đồng hồ sau, ông ta cho biết rằng máy đã chạy tốt. Thầy giáo là một máy móc rộng, vuông và xấu xí với màn ảnh lớn trên đó, là nơi hiện ra những bài học và câu hỏi. Đúng ra, không phải cái gì cũng xấu hết đâu ! Nhưng phần Mây ghét nhất là cái khe hở, chỗ nó phải nhét bài làm và những tờ giải đáp. Thường thường nó phải viết với dạng mã từ khi nó được 6 tuổi; Rồi từ những dạng mã ấy, người máy thầy giáo tính điểm một cách nhanh chóng. Ông thanh tra mỉm cười. Sau khi sửa xong xuôi rồi ông ta xoa đầu nó. Ông ta nói với má nó : Mây không có lầm lỗi gì hết, Bà Bốn à. Tôi nghĩ rằng phần địa lý đã được thảo quá cao. Chuyện đó cũng thường xảy ra. Tôi làm cho phần ấy được chậm lại rồi, cho hợp với lứa 10 tuổi. Bây giờ tất cả biểu hình tượng trưng cho sự phát triển của con bà trở thành tốt. Rồi ông lại xoa đầu Mây một lần nữa. Mây thất vọng lắm. Vì nó hy vọng rằng họ sẽ dẹp thầy giáo ra một bên. Có lần họ lấy đi thầy giáo của Thông trong vòng một tháng vì tất cả phần lịch sử bị hư. Nó lại hỏi Thông : -Thế tại sao có người viết về trường học ? Thông nhìn nó với vẻ người lớn, -Tại vì không cùng loại trường học như bây giờ, cù lần ơi là cù lần ! Đây là một thể trường học rất xưa, cả mấy trăm năm nay rồi. . Với vẻ hãnh diện, nó nói gằng từng chữ một -Hằng thế kỷ đã qua rồi đấy nhé! . Mây cảm thấy bị đụng chạm, -Hứ, mà khi xưa là loại trường học nào ? Mây nhón người ráng đọc quyển sách qua vai của Thông. Một lát sau, nó nói -Dầu sao đi nữa, tụi nó cũng có thầy giáo. -Dĩ nhiên là có thầy giáo rồi, nhưng không phải là một thầy giáo thông thường đâu nhé ! Mà là một người ta. Một ông thầy giáo à ? Làm sao người ta có thể làm thầy giáo được ? -Phải, ông ta giảng dạy và cho bài tập, rồi khảo bài từng đứa. - Nhưng mà một người làm sao có đủ kiến thức để giảng dạy được ? -Có chứ sao không ? Ba của anh có nhiều hiểu biết như một thầy giáo. -Sao có được ? Người ta không thể nào có nhiều và đủ kiến thức như một thầy giáo được. -Có chứ, cá không ? Mây không muốn cãi vã, nhưng nó lại muốn nói thêm -Mà em không thích một người lạ ở trong nhà để giảng dạy em. Thông cười ngất -Quê quá đi thôi, không biết gì hết. Khi xưa thầy giáo không có ở trong nhà. Họ có cơ sở riêng và các học trò phải đến đó để học. -Rồi tất cả học trò đều phải cùng học một bài à ? -Dĩ nhiên, nếu tụi nó có cùng một lứa tuổi với nhau. -Nhưng Má em có nói rằng mỗi thầy giáo phải biết dạy dỗ uyển chuyển theo trình độ của mỗi học trò và mỗi đứa trẻ phải được chăm sóc một cách riêng biệt. -Thì họ có phương pháp giảng dạy như thế nhưng... À, không phải hoàn toàn như vậy. Nếu em không thích thì đừng đọc cuốn sách này. -Ơ kìa, em đâu có nói rằng em không thích đâu. Mây trả lời một cách nhanh chóng, thật sự là nó muốn đọc cuốn sách để biết được những điều vui thú khi xưa. Hai đứa chưa đọc được phân nửa thì má của Mây gọi -Mai, vô học đi con. Mây trả lời - Chút nữa đi Má !. -Không, ngay bây giờ ! Và chắc cũng là giờ học của Thông rồi đấy. Mây nói với Thông Cho em đọc quyển sách sau giờ học nha ! -Có thể.’ Thông nói một cách ưỡm ờ. Nó vừa quay đi vừa huýt sáo, cuốn sách đầy bụi bặm được cặp dưới nách nó. Mây đi vào phòng học cạnh phòng ngủ của nó. Người máy thầy giáo đã sáng đèn lên và đang chờ nó. Cứ mỗi ngày trừ thứ bảy và chủ nhật, sự việc xảy ra như vậy, vì má nó bảo rằng học có giờ giấc thì mới có kết quả tốt. Màn ảnh bật sáng và cho biết Hôm nay, học về môn số học, bài học về tính cộng của các tỷ số. Hãy nhét vào khe hở, bài làm của ngày hôm qua. Mây vừa nhét bài vừa thở dài. Em đang nghĩ đến trường học khi xưa, lúc ông Sơ còn là một thằng con nít bé tí teo. Những đứa cùng xóm cặp sách đến trường. Tiếng cười, tiếng đùa náo nhiệt, rộn rã trong sân trường. Trong lớp, đứa này ngồi cạnh đứa kia rồi cùng nhau tung tăng về nhà lúc tan học. Học cùng chung một bài vở ; Đứa này, đứa nọ chỉ bài lẫn nhau rồi bàn tán với nhau về bài vở. Và thầy giáo là một con người... Trên màn ảnh của người máy thầy giáo, hàng chữ nhấp nháy Khi ta cộng thêm 1/4 vào tỷ số 1/2... Mây nghĩ đến những điều vui thú mà những đứa trẻ được hưởng khi xưa. Em tự nói với mình : -Chao ơi ! Ngày xưa sao vui thế ! . (The Boys and Girls Page, 1951) Mục lục Ngày xưa vui thế Ngày xưa vui thế Isaac AsimovChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: Bùi NghĩaĐược bạn: Ct.Ly đưa lên vào ngày: 15 tháng 12 năm 2004
Isaac Asimov The old days were so fun Translator: Bui Nghia Original story: The fun they had That evening, May tapped lightly on the computer's keyboard. I write a diary. At the top of the page, there is a date of May 17, 2157. May wrote: -Today, Mr. Thong found a real book! A really old book, so old!'. May still remembers Grandpa telling me that in the past, when he was a child, Grandpa Sister said that fairy tales and novels were printed on paper. The two of them flipped through the pages of the book, the yellow pages were old and wrinkled. It's funny to see the writing standing still and clear, unlike when they read on the screen, the writing is always shaky. What's even more strange is that when I turn it over to review the pages I just read, I still see those lines of writing, not a single word has changed. -Oh my! Thong said: -Is the fee too much? When I finish reading, I can throw this book away. Correct. Unlike a video game screen, there are millions of stories and still plenty of space. There's no way I want to throw the device away. . -I also think so. May said. May is only 11 years old, so she hasn't read as many e-books as Thong. As for Thong, he is 13 years old. Where did you find this book? -In my house. He pointed but his eyes were still on the page because he was reading attentively. -Up there on the roof! . -What does the book say? -About school. May pursed her lips in disdain, - About school? What do people say about school? May hates school, especially now. The robot teacher kept giving him test after test in geography, and May kept messing up, making his mother angry, scolding him and taking him to the Regional Inspector. He was fat and short with a red face. Next to him was a box full of dials and electric wires. He smiled at May and gave him a bomb, then took the teacher aside. Watching him carry the teacher, May begged him to be unable to fix it. But about an hour later, he said the machine was running fine. The teacher is a large, square, ugly machine with a large screen on it, where lessons and questions appear. Actually, not everything is bad! But the part that Cloud hates the most is the gap where he has to put his homework and answer sheets. Usually he has to write in code form when he is 6 years old; Then from those codes, the teacher's robot quickly calculates the scores. The inspector smiled. After finishing fixing it, he patted its head. He said to his mother: Clouds have not made any mistakes, Mrs. Bon. I think the geography part was overwritten. That also happens often. I've slowed that part down to make it suitable for 10 year olds. Now all the symbols symbolize her child's development into good ones. Then he patted May's head again. Cloud is very disappointed. Because he hopes that they will put the teacher aside. One time they took away Thong's teacher for a month because all the history parts were damaged. He asked Thong again: -So why does someone write about school? Thong looked at it with an adult look, - Because it's not the same type of school as now, tickle time, tickle time! This is a very old school, hundreds of years old. . With pride, he said word by word - Centuries have passed! . May felt touched, - Huh, what kind of school was it in the past? May leaned over and tried to read the book over Thong's shoulder. A moment later, he said - Anyway, they still have a teacher. -Of course there is a teacher, but not an ordinary teacher! It's a person. A teacher? How can one be a teacher? -Yes, he teaches and gives exercises, then reviews each child's work. - But how can one person have enough knowledge to teach? -Yes, why not ? His father has as much knowledge as a teacher. -How is that possible? One cannot have as much and enough knowledge as a teacher. -Yes, fish? Cloud didn't want to argue, but he wanted to say more - I don't like a stranger staying in the house to teach me. Thong laughed out loud - It's so rural, I don't know anything. In the past, the teacher was not in the house. They have their own facility and students have to go there to study. -Then all students have to study the same lesson? -Of course, if they are the same age. -But my mother said that each teacher must know how to teach flexibly according to each student's level and each child must be cared for separately. -They have that teaching method but... Well, it's not entirely like that. If you don't like it, don't read this book. -Hey, I didn't say I didn't like it. May answered quickly, he really wanted to read the book to know the fun things of the past. The two of them hadn't read half of it when May's mother called - Mai, go to school. May replied - Just a little later, Mom!. -No, right now! And it's probably Thong's class time. May told Thong to let me read the book after school! -Maybe.’ Thong said vaguely. He turned away and whistled, the dusty book under his arm. Cloud went into the classroom next to his bedroom. The teacher robot has turned on its light and is waiting for it. Every day except Saturday and Sunday, this happened, because his mother told him that if he studied on time, he would get good results. The screen turns on and says Today, learn about arithmetic, a lesson about adding ratios. Insert into the gap, yesterday's work. Cloud stuffed his cards and sighed. I'm thinking about school in the past, when Mr. So was still a tiny boy. Children from the same neighborhood carry books to school. Laughter and joking were boisterous and bustling in the schoolyard. In class, one child sits next to the other and then go home together after school. Studying the same lesson; This child and that child point out each other's lessons and then discuss each other's homework. And the teacher is a human being... On the screen of the teacher robot, the words flash When we add 1/4 to the ratio 1/2... Clouds think of the fun things that children enjoyed in the past. I said to myself: -Wow! How fun were those days! . (The Boys and Girls Page, 1951) Table of contents The old days were so fun The old days were so fun Isaac AsimovWelcome to read books from the book project for mobile devices. Source: author: Nguyen Kim Vy. Final words: Thank you for reading the entire story. Source: editor: Nguyen Kim Vy. Source: Bui Nghia Uploaded by friend: Ct.Ly on: December 15, 2004
Đào Duy Hiệp Ngày đã xa... Trong tuổi thơ, nó đã từng có những giấc mơ... Đêm mùa đông giá lạnh. Những ngọn gió hoang vắng. Nó đang ở trong ngôi nhà của cha mẹ. Ngôi nhà giống như gà mẹ ủ ấp đàn con dưới bụng. Đàn gà con lớn lên, sẽ dần xa nhau, xa ngôi-nhà-mẹ để đi kiếm ăn.Con người cũng thế. Gió rít trên những ngọn tre ràn rạt. Thân tre nghiến vào nhau ken két. Tre có nhiều đức tính đáng yêu. Nhưng tre nghiến vào nhau lúc này nghe cứ rờn rợn. Tại sao phù thủy lại có mặt màu xanh, cái mũi khoằm thật dài, người gầy ngoẵng, lại cưỡi chổi, cưỡi xô bay vun vút nhỉ? Tại sao ma hay xuất hiện ban đêm?Nhân gian đã ngủ cả. Thỉnh thoảng, tiếng chó sủa vu vơ. Ngọn đèn tỏ mờ. Trên bàn, có một bông hồng tươi nguyên ai cắm vào cốc nước thủy tinh trong vắt. Nó tò mò khó nhọc bước từng bước tiến đến. Nhưng cứ bước được một bước, cốc nước với bông hồng lại nhích đi một chút. Nó bước tiếp. Lại thế. Bước thêm. Lại vẫn thế. Cốc nước cứ nhích dần cho đến mép bàn thì nó không dám bước nữa. Cốc nước và bông hoa in lên tường một ảo ảnh.Bỗng có tiếng hát xa xôi. Tiếng hát mỗi lúc một rõ dần, nhưng không rõ nghĩa... Nghe lạo xạo như máy thu thanh gặp thời tiết xấu. Nó tỉnh hẳn. Một người phụ nữ thướt tha, đôi mắt hiền từ, nụ cười hồng dịu dàng đứng nhìn nó, im lặng. Người ấy đang giơ hai tay về phía nó, mỉm cười lặng lẽ. Tuổi thơ ấy bỗng bước đi. Mới đầu khó nhọc. Sau mạnh dạn dần. Nó cứ thế bước đến nụ cười thiên thần. Cô tiên trong các truyện cổ tích. Đêm nào nó cũng thắp đèn cặm cụi tìm kiếm cái đẹp. Có tiên thật không nhỉ? Sao tiên lại cứ phải đẹp? Trong tuổi thơ, nó chẳng bao giờ hỏi xem có tiên béo, tiên gầy hay tiên có biết ăn, biết thở không? Đã là tiên thì cứ phải đẹp và bởi vậy, con người lớn lên, bước đi, tin tưởng.Có điều, nó càng bước đến thì người đó càng lùi xa... Sau khuất hẳn vào bóng tối. Lùi vào sau bức tường, biến mất. Ngọn đèn trên bàn vẫn đang cháy. Ánh sáng tỏa ra từ ngọn đèn giống như chiếc cầu vồng bảy sắc cho nó bước lên. Hương hoa hồng toả thơm ngào ngạt khắp nơi. Chân, tay, đầu tóc nó... tất tật đều có mùi hoa hồng. Nó quên là mình đã biết đi từ khi nào. Đôi chân nó đi đã nhiều nơi. Nó thấy mình lần lượt là hoàng tử, tiều phu, dũng sĩ giết yêu tinh, mãng xà, xua đuổi tà ma, phù thủy... Những lực lượng đen tối. Mỗi người, trong cuộc đời mình, đều đã từng đóng nhiều vai. Có lần nó thấy giọt lệ to tướng như giọt sương ban mai trong mắt một con ruồi, một con ong hay một con côn trùng nào đó. Thoắt cái, giọt sương bốc hơi bay lên. Nó cũng bay theo. Mỗi giấc mơ bay là một bước ngoặt trong đời sống con người.*Nó đã bay qua bao núi rừng, biển cả, bao làng quê, đồng ruộng, du hành tới những vì sao, tới những Thiên hà, Vũ trụ xa xôi, êm ái và cả ưu phiền nữa. Khi tỉnh dậy nó thấy cuộc đời vẫn thế. Giản dị và cần lao. Thửa ruộng cha mẹ để lại cho nó, nó vẫn cày bừa chăm chỉ, thu hoạch mỗi năm một tốt thêm.Hà Nội, 2009 Mục lục Ngày đã xa... Ngày đã xa... Đào Duy HiệpChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: EvanĐược bạn: Thanh Vân đưa lên vào ngày: 2 tháng 3 năm 2009
Dao Duy Hiep The day is long gone... During his childhood, he used to have dreams... Cold winter nights. Desolate winds. It is in the parents' house. The house is like a mother hen holding her chicks under her belly. When the chicks grow up, they will gradually move away from each other, away from their mother's house to look for food. The same goes for humans. The wind whistled on the bamboo tops. Bamboo stems grind against each other. Bamboo has many lovely qualities. But the bamboo grinding together now sounds creepy. Why does the witch have a blue face, a long hooked nose, a skinny body, and fly on brooms and buckets? Why do ghosts often appear at night? The human world is already asleep. Occasionally, a dog barks aimlessly. The light is dim. On the table, there was a fresh rose stuck in a glass of clear water. It was curious and walked slowly step by step. But every step he took, the glass of water and the rose moved a little. It moves on. Again. Extra step. Still the same. The glass of water kept inching until it reached the edge of the table, then it didn't dare move anymore. The glass of water and the flower were printed on the wall, creating an illusion. Suddenly there was a distant singing sound. The singing became clearer and clearer, but the meaning was unclear... It sounded like a radio receiver caught in bad weather. It was completely awake. A graceful woman with gentle eyes and a gentle pink smile stood looking at it, silent. That person was raising his hands towards it, smiling quietly. That childhood suddenly left. It was difficult at first. Then gradually become bolder. It just kept walking towards an angelic smile. Fairies in fairy tales. Every night he lights a lamp and diligently searches for beauty. Are there real fairies? Why do fairies always have to be beautiful? In his childhood, he never asked if there were fat fairies, skinny fairies, or fairies that could eat and breathe? Being a fairy must be beautiful, and because of that, people grow up, walk, believe. However, the closer it comes, the further that person recedes... Then completely disappears into the darkness. Back behind the wall, disappear. The lamp on the table is still burning. The light radiating from the lamp is like a seven-color rainbow for it to step on. The sweet scent of roses spreads everywhere. Its feet, hands, hair... everything smells of roses. He forgot when he learned to walk. Its feet have gone many places. He sees himself as a prince, a woodcutter, and a brave warrior who kills goblins, pythons, banishes evil spirits, witches... Dark forces. Each person, in their life, has played many roles. One time he saw a tear as big as a drop of morning dew in the eye of a fly, a bee or some other insect. Suddenly, the dew drops evaporated and flew up. It also flew along. Each dream of flying is a turning point in human life.*It has flown through many mountains, forests, seas, villages and fields, traveled to the stars, to distant Galaxies and Universes, comfort and even sadness. When he woke up, he saw that life was still the same. Simple and hardworking. The field his parents left him, he still plows hard, harvesting better and better each year. Hanoi, 2009 Table of contents The day is long gone... The day is long gone... Dao Duy HiepWelcome to read books from the book project for mobile devices. Source: author: Nguyen Kim Vy. Final words: Thank you for reading the entire story. Source: editor: Nguyen Kim Vy. Source: Evan Posted by friend: Thanh Van on: March 2, 2009
Vành Khuyên Ngày Đó Cứ càng đến gần cái ngày đó là tính nóng nảy của hắn dễ bốc hơn . Thiệt kỳ , hắn chú ý mình hay như vậy thì rất thận trọng và cố gắng kìm hãm vì bản chất lương thiện của con người hắn không cho phép hắn làm điều đó . Con hắn cũng phải sợ hắn vào những ngày đó . Đứa bé không nghe lời , mọi thường hắn dịu ngọt , kiên nhẫn , nhưng vào những ngày gần ngày đó , hắn đấm tường , đấm mình , nhe răng như khỉ , tức quá , tức quá , không hiểu sao thằng con hắn lì vậy mà thật ra có gì khác hơn đâu . Kỳ thật , trời sanh hắn , còn sanh chi cái tánh cộc cằn đó , hắn biết mình , biết ta , cố sửa , cố chỉnh mình lắm , thế mà cứ gần cái ngày đó là thế nào cũng có chuyện cho hắn bốc đồng lên mà bực mà bội , một suy nghĩ nhỏ thôi len lõi cũng làm hắn quát tháo ,nghe tiếng la của mình xong , hắn mới giật mình trở lại đời thường và nhận ra đúng là sắp tới cái ngày đó . Mỗi tháng một lần , hắn muốn không trải qua cũng không được , giờ còn đỡ hơn rất nhiều , cách đây vài năm cứ gần ngày đó là hắn kiếm chuyện gây với bất cứ ai trong tầm mắt hắn thậm chí về nhà cũng vậy . Ghê thật , chemical reaction, con người là tập hợp của bao phần tử hoá học, của bao phần tử tâm linh tinh tuý nhất , đồng thời cũng là của bao phần tử tinh thần tồi tệ và hiểm độc nhất . Trời , cái ngày đó lại sắp diễn ra . Trải qua những ngày như vậy xong, con người hắn nhẹ lại , hắn hối hận cho những ngày nóng nảy đó , hắn không còn cái chemical reaction đó để có thể đo lường tại sao hắn lại ra vậy lúc đó nên hắn cứ như từ trên trời ném xuống . Ngộ thật , ai bảo con người độc lập, hắn thấy hắn vẫn bị chi phối từ cái mảnh lực mà hắn nghĩ hắn không có một chút dính dáng gì tới vì hắn đang ở dưới đất , không phải trên mây , chả gần với những chi tiết hoang đường nào . Hắn thật sự thấy mình bị chi phối . Hắn chỉ còn biết thầm cảm ơn cái mảnh lực đó còn cho hắn sáng suốt nhận ra những gì đã xảy ra và giúp hắn ghi lại những dòng này . Những ngày trước những ngày đó . Vành Khuyên Mục lục Ngày Đó Ngày Đó Vành KhuyênChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.Đánh máy: Vành Khuyên Nguồn: Vành KhuyênĐược bạn: Ct.Ly đưa lên vào ngày: 24 tháng 4 năm 2005
Rings That day The closer that day gets, the more his temper flares up. Surprisingly, when he noticed that he was like that, he was very cautious and tried to restrain himself because his honest nature did not allow him to do that. His children were also afraid of him in those days. The child did not listen, usually he was sweet and patient, but in the days leading up to that day, he punched the wall, punched himself, bared his teeth like a monkey, so angry, so angry, he didn't understand why his son was so stubborn. Actually, there's nothing different. In fact, God created him, why did he give birth to that rude nature? He knows himself, knows me, tries to fix himself, tries to correct himself, but as soon as that day is near, something will happen that will make him impulsive. Angry and frustrated, even a small thought made him scream. After hearing his screams, he was startled back to normal life and realized that that day was coming. Once a month, he wanted to not go through it, but now it's much better. A few years ago, every time he got close to that day, he would find trouble with anyone in his sight, even when he got home. It's terrible, chemical reactions, humans are a collection of many chemical elements, of many quintessential spiritual elements, and at the same time also of many worst and most malicious spiritual elements. Oh god , that day is coming again . After going through days like that, his personality became lighter, he regretted those hot-tempered days, he no longer had that chemical reaction to be able to measure why he was like that at that time so he just seemed to be from above. The sky threw it down. Honestly, who said humans are independent, he sees that he is still controlled by a force that he thinks he has nothing to do with because he is on the ground, not in the clouds, not close to the stars. What a myth. He really felt dominated. He could only silently thank that piece of force that gave him the clarity to realize what had happened and helped him write down these lines. The days before those days. Rings Table of contents That day That day Vanh KhuyenWelcome to read books from the book project for mobile devices. Source: author: Nguyen Kim Vy. Last words: Thank you for reading the entire story. Source: author: Nguyen Kim Vy. Typing: Vanh Khuyen Source: Vanh Khuyen Uploaded by: Ct.Ly on: April 24, 2005
Chu Thu Hằng Ngã đường tuổi mười tám Một buổi chiều như mọi buổi chiều, tôi cuộn tròn cuốn vở nhét vào túi quần, thờ ơ chào mẹ "Con đến nhà cô học, mẹ ạ". Qua một góc phố... tôi lao thẳng xe vào cánh cổng sắt quen thuộc. Chẳng hiểu sao phanh không ăn làm cái xe đâm sầm vào cửa đánh rầm. Ngay lập tức xuất hiện một ông con trai với cái nhìn soi mói "Bạn hỏi ai ?". "Tôi là học trò của cô. Thế anh là ai ?". Một câu hỏi có lẽ cũng chẳng ngớ ngẩn lắm. Thế mà hắn ta cười ruồi, tỉnh bơ "Là cháu, cháu mới ở dưới quê lên. Bạn vào nhà chơi, cô sắp về rồi". Và chẳng thèm nhìn cái gật đầu mạnh tới mức sái cổ của tôi, hắn ta bươn bả chạy vào nhà. Tôi hậm hực khóa xe, đóng cổng. Mới dưới quê lên - Hừ! Đúng là đồ nhà quê . Mọi khi tôi tới đây, bao giờ cô cũng chờ tôi khóa xe xong mới vào cùng. Nện gót giầy cầm cập trên sân, đã thấy "đồ nhà quê" xuýt xoa trên cái bếp điện ở góc phòng và xoong mì cạn sạch nước. Khốn khổ, tôi hào hứng xắn tay áo xông vào chữa cháy với một lời chê làm hắn bắn ra xa. "Bộ ở dưới quê anh không dùng bếp điện à?". Xong xuôi, hắn ta "vô phép!" rồi "nạp năng lượng". Tôi ngáp dài. Ôi trời! Sao cô lâu về thế! Thời gian ấy đủ để cho đồ nhà quê kia xoa dịu cái dạ dày của hắn và bắt đầu xoa dịu đôi mắt bằng cách nhìn tôi. Hắn đặt ra một loạt câu hỏi "Tôi có thể biết tên bạn được không?". "Bạn học trường nào ?". Tôi chẳng thèm trả lời lấy một câu, ném ánh nhìn tò mò lên cây guitar lạ hoắc treo trên tường, lạnh nhạt: "Chẳng biết dưới quê thế nào, chứ trên này gọi thế là hơi bất lịch sự đấy anh bạn ạ". Hắn cứng họng. Tôi cười hì hì khoái chí để rồi choáng váng khi cô về, giới thiệu: "Đây là Quang, con trai cô mới ở bên Đức về. Còn đây là...". Đành tu vậy, nghĩa là phải cắm mặt xuống vở, cơ quan thính giác chỉ thu nhận tiếng nói của cô và coi như hắn không hiện hữu ở đây. Về nhà, thở phào tưởng thoát nạn, thế mà đến lúc giở vở ra, tôi lại chết đứng. Một dòng chữ ngoáy vội vã bên lề vở "Không biết trên này thế nào chứ dưới quê gọi thế là quá kiêu đấy bạn ạ". Hẳn đây là tác hại của ba phút theo cô xuống bếp lấy quả gấc cô gửi biếu mẹ tôi. Dư âm của chuyện đó còn thảm hại hơn, khi hôm sau, thằng nhóc ngồi cạnh mượn vở tôi chép bài, và rêu rao câu đó khắp lớp. Ôi trời! Đấm xuống mặt bàn sợ đau tay, tôi bèn gõ lên đầu thằng nhóc kia một cái đau điếng và giận dữ thề... Lời thề sặc mùi kiếm hiệp kia chưa kịp thực hiện thì tôi đã tự ngượng với mình vì "thề cá trê chui ống", có trời chứng giám, ngàn lần không phải lỗi do tôi. Tự dưng cô có việc bận một tuần liền, không muốn tôi nghỉ học, cô bàn giao tôi cho hắn. Đành vác vở tới, ngậm... ô mai nghe "anh Quang" giảng. Dĩ nhiên với trình độ cao thủ của anh thì... Trời! Cuối cùng tôi cũng thốt được tiếng "anh" ngọt ngào. Bởi lẽ từ bé tới giờ tôi chỉ quen gọi lũ nam tử là "thằng", là "nhóc" cùng lắm thì là "mầy" thôi mà. Một tuần như thế, tôi bắt đầu hiểu anh hơn một chút và bắt đầu dám nhìn thẳng vào anh. Cũng may anh không đẹp trai lắm - ra đường đỡ bị người ta chú ý. Anh có đôi lúm đồng tiền trông ngồ ngộ. Mỗi lần anh cười là mỗi lần tôi thấy cáu sườn. Cái lúm đồng tiền duyên quá là duyên kia đáng lẽ phải dành cho con gái, phải dành cho tôi chứ. Ấy thế mà "tôi thì không mà anh thì hai". Ông trời bất công quá mức. Đã thế anh lại đa tài: giỏi toán, siêu ngoại ngữ, biết viết nhạc và có thể ôm guitar rền rĩ bản "Nothing s gonna change my love for you" và vô số những bản nhạc tôi thích. Tôi tự hào và thán phục anh kinh khủng. Chiều đầu tiên anh hẹn tôi, tôi chờ mãi mà không thấy bóng anh đâu cả. Khỏi phải nói là tôi cáu như thế nào. Chưa có một tên con trai nào làm tôi tức đến thế. Tôi giận dữ vặt trụi lá của một cái cây nhỏ gần nơi tôi ngồi và chợt thấy mình bất lực. Dĩ nhiên không thể gõ đầu hoặc hăm dọa anh "đập chết ăn thịt" như với mấy thằng nhóc cùng lớp. Được rồi, tôi sẽ có cách. Buổi tối anh đến nhà tôi. Tôi biết anh đang bị choáng bởi tôi đã không còn là con bé tóc dài óng ả nữa. Câu chuyện nhạt nhẽo và vô vị dù anh đã thanh minh rằng buổi chiều anh có việc bận đột xuất, khi tôi tiễn anh về, anh hỏi "Sao Hằng không để tóc dài nữa ?". Tôi nhếch mép "Giận!". Anh hừ khẽ: "Trẻ con thế". "Em vẫn trẻ con đấy chứ". "Em sắp mười tám rồi". Tôi kéo dài giọng "Vâng, và mười tám tuổi thì không có quyền được bận đột xuất". Anh im lặng, tôi sụt sịt như sắp khóc: "Mình đừng chơi với nhau nữa". Anh buông thõng "Cũng được" rồi về. Tôi chạy ào vào nhà. Tấm tức khóc. Ừ! Tôi trẻ con thật, nhưng anh có người lớn hơn tôi đâu. Một tuần đi qua, tôi không đến nhà cô, cố gắng không nhớ tới anh. Thằng nhóc ngồi cạnh bảo: "Mấy hôm nay mày như con nhỏ ngớ ngẩn ấy". Nói xong nó giơ tay ngay lên chuẩn bị đỡ cái gõ đầu của tôi. Tội nghiệp! Nhưng tôi quên bẵng mất thói quen của mình. Hình như thằng nhóc ngạc nhiên. Tuần thứ hai sắp hết. Tôi đếm từng ngày ào ạt qua đi: run sợ nghe tiếng những chiếc xe máy lao qua cửa nhà. Anh không đến... Tôi lẩm nhẩm một câu hát "If I had to live my life without you near me", ngao ngán dắt xe ra cổng trường. Đột nhiên con tim reo keng keng. Anh đứng bên đường với nụ cười ngượng nghịu: "Mẹ bảo anh đến xem sao lâu em không sang học". Biết anh nói dối, định đáp lại một câu gì dằn dỗi nhưng rồi lại thôi. Hai đứa đạp xe như bay trên đường, lòng ngập tràn hạnh phúc. Anh giới thiệu một người bạn: đẹp trai hào nhoáng. Nói chuyện vui vẻ rồi khi còn lại hai đứa, anh khiêu khích: "Nó thích em đấy!" Tôi cau mày: "Việc gì anh phải nói thế!". Không khí căng như một sợi dây đàn. Thế này thì cãi nhau cho mà xem. Anh chuyển đề tài: "Ba mẹ em dạo này thế nào ?". "Chán lắm!" Im lặng, một lúc lâu, anh ngập ngừng: "Anh tự muốn nói là anh...". Tôi muốn gõ vào đầu anh lắm lắm nhưng rồi chỉ bĩu môi: "Thôi đi ông trẻ con hai mươi mốt tuổi ạ!". Những chiều thứ bảy rảnh rỗi, anh thường chở tôi đi chơi. Khi thì xuống nhà một người bạn ở ngoại thành, khi thì lang thang trên Hồ Tây. Nhiều lúc anh vác giá vẽ lung tung. Những ngôi sao bơi trên mặt hồ, những cô bé có cánh bay lượn trong tranh của anh. Có lần anh tỏ ý muốn vẽ tôi, tôi chỉ nhăn nhở cười: "Khỏi, anh cứ vẽ cái mặt Pinokio với cái mũi ngắn hơn một chút là được rồi". Quả đúng thế, bởi tôi hay bị mọi người trêu là giống chú rối gỗ ấy ở cái miệng rộng ngoác. Thế mà anh không cười, chỉ kéo tóc tôi: "Tóc em dài hơn rồi đấy". Tia nắng chiều làm những sợi tóc bên má tôi ánh lên hung hung óng ả. Anh cười vu vơ điều gì đó, lẩm nhẩm hoài mấy từ "tóc ngắn", "ông trẻ con". Mãi đến một hôm anh kéo tôi đến nhà, bắt tôi ngồi nghe anh hát một bài hát vừa viết, tôi mới hiểu. À ra thế! Có thể là sau này tôi sẽ không bao giờ quên được đôi mắt trìu mến và giọng hát thâm trầm của anh. "Này cô bé tóc ngắn, có lấy không một bông cúc vàng. Ta nhận riêng cho mình bông cúc héo. Hai mốt tuổi rồi vẫn thấy là trẻ con". Đi học về, lại thấy ba mẹ đang chì chiết lẫn nhau, tôi lau nước mắt bỏ đi. Gặp anh. Hai đứa chui vào quán nhỏ quen thuộc. Anh mượn chủ quán cây guitar, hát cho tôi nghe: "Này cô bé tóc ngắn, nhận giùm ta một bông cúc vàng. Thèm nghe thấy tiếng cười em lắm. Cười đi nào cô bé lọ lem". Tôi cầm bao diêm, quẹt từng que. Những que diêm bùng lên ngọn lửa cháy bỏng, và rồi lịm dần đi. Tôi thì thầm "Em không thể sống thế này mãi được". Anh ngừng đàn, bóp nhẹ tay tôi. Cử chỉ ấy có ý nghĩa nhiều hơn những lời an ủi sáo rỗng. Lòng tôi bỗng tràn ngập một thứ tình cảm khó tả và đầy biết ơn, tôi đã buột miệng nói một điều mà đáng lẽ tôi không nên nói... Phải, lẽ ra hãy cứ để anh tự nói lên điều đó, lẽ ra tôi phải nhớ mình là con gái. Bao nhiêu giả thuyết "lẽ ra" cũng không đủ níu giữ những gì đang đổ vỡ. Anh trở nên kiêu hãnh với niềm tin mà tôi đã gửi gắm một cách dễ dàng cho anh. Lòng tin là một thứ của quý. Và những người con trai như anh thường cao ngạo khi chinh phục được quá nhanh chóng. Giá như tôi biết điều đó trước - bây giờ ngã rồi mới thấy đau. Nhưng thực ra cũng không có gì nghiêm trọng lắm. Tôi vẫn sang thăm cô và vẫn gặp anh. Nhưng bây giờ giữa hai đứa là một ngã rẽ. Anh hay cười ngạo nghễ, tôi thường cúi đầu lặng lẽ, có thể là nuối tiếc. Khi người ta là bạn của nhau, người ta đi chung một con đường. Khi xa nhau, con đường chia hai ngả. Anh đi con đường của anh - con đường của những người lớn biết yêu và biết gìn giữ tình yêu. Và tôi vẫn tiếp bước trên ngả đường của riêng tôi, ngả đường của một đứa trẻ con mười tám tuổi. Mãi ngân nga trong tôi là bài hát anh viết ngày nào. Bài hát chỉ dành cho riêng tôi: "Trái tim ta là một bông cúc héo Mười tám tuổi rồi vẫn cứ ngu ngơ Mười tám tuổi rồi, vẫn cứ trẻ con..." Mục lục Ngã đường tuổi mười tám Ngã đường tuổi mười tám Chu Thu HằngChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: Vovnew. orgĐược bạn: Ct.Ly đưa lên vào ngày: 18 tháng 10 năm 2004
Chu Thu Hằng Ngã đường tuổi mười tám Một buổi chiều như mọi buổi chiều, tôi cuộn tròn cuốn vở nhét vào túi quần, thờ ơ chào mẹ "Con đến nhà cô học, mẹ ạ". Qua một góc phố... tôi lao thẳng xe vào cánh cổng sắt quen thuộc. Chẳng hiểu sao phanh không ăn làm cái xe đâm sầm vào cửa đánh rầm. Ngay lập tức xuất hiện một ông con trai với cái nhìn soi mói "Bạn hỏi ai ?". "Tôi là học trò của cô. Thế anh là ai ?". Một câu hỏi có lẽ cũng chẳng ngớ ngẩn lắm. Thế mà hắn ta cười ruồi, tỉnh bơ "Là cháu, cháu mới ở dưới quê lên. Bạn vào nhà chơi, cô sắp về rồi". Và chẳng thèm nhìn cái gật đầu mạnh tới mức sái cổ của tôi, hắn ta bươn bả chạy vào nhà. Tôi hậm hực khóa xe, đóng cổng. Mới dưới quê lên - Hừ! Đúng là đồ nhà quê . Mọi khi tôi tới đây, bao giờ cô cũng chờ tôi khóa xe xong mới vào cùng. Nện gót giầy cầm cập trên sân, đã thấy "đồ nhà quê" xuýt xoa trên cái bếp điện ở góc phòng và xoong mì cạn sạch nước. Khốn khổ, tôi hào hứng xắn tay áo xông vào chữa cháy với một lời chê làm hắn bắn ra xa. "Bộ ở dưới quê anh không dùng bếp điện à?". Xong xuôi, hắn ta "vô phép!" rồi "nạp năng lượng". Tôi ngáp dài. Ôi trời! Sao cô lâu về thế! Thời gian ấy đủ để cho đồ nhà quê kia xoa dịu cái dạ dày của hắn và bắt đầu xoa dịu đôi mắt bằng cách nhìn tôi. Hắn đặt ra một loạt câu hỏi "Tôi có thể biết tên bạn được không?". "Bạn học trường nào ?". Tôi chẳng thèm trả lời lấy một câu, ném ánh nhìn tò mò lên cây guitar lạ hoắc treo trên tường, lạnh nhạt: "Chẳng biết dưới quê thế nào, chứ trên này gọi thế là hơi bất lịch sự đấy anh bạn ạ". Hắn cứng họng. Tôi cười hì hì khoái chí để rồi choáng váng khi cô về, giới thiệu: "Đây là Quang, con trai cô mới ở bên Đức về. Còn đây là...". Đành tu vậy, nghĩa là phải cắm mặt xuống vở, cơ quan thính giác chỉ thu nhận tiếng nói của cô và coi như hắn không hiện hữu ở đây. Về nhà, thở phào tưởng thoát nạn, thế mà đến lúc giở vở ra, tôi lại chết đứng. Một dòng chữ ngoáy vội vã bên lề vở "Không biết trên này thế nào chứ dưới quê gọi thế là quá kiêu đấy bạn ạ". Hẳn đây là tác hại của ba phút theo cô xuống bếp lấy quả gấc cô gửi biếu mẹ tôi. Dư âm của chuyện đó còn thảm hại hơn, khi hôm sau, thằng nhóc ngồi cạnh mượn vở tôi chép bài, và rêu rao câu đó khắp lớp. Ôi trời! Đấm xuống mặt bàn sợ đau tay, tôi bèn gõ lên đầu thằng nhóc kia một cái đau điếng và giận dữ thề... Lời thề sặc mùi kiếm hiệp kia chưa kịp thực hiện thì tôi đã tự ngượng với mình vì "thề cá trê chui ống", có trời chứng giám, ngàn lần không phải lỗi do tôi. Tự dưng cô có việc bận một tuần liền, không muốn tôi nghỉ học, cô bàn giao tôi cho hắn. Đành vác vở tới, ngậm... ô mai nghe "anh Quang" giảng. Dĩ nhiên với trình độ cao thủ của anh thì... Trời! Cuối cùng tôi cũng thốt được tiếng "anh" ngọt ngào. Bởi lẽ từ bé tới giờ tôi chỉ quen gọi lũ nam tử là "thằng", là "nhóc" cùng lắm thì là "mầy" thôi mà. Một tuần như thế, tôi bắt đầu hiểu anh hơn một chút và bắt đầu dám nhìn thẳng vào anh. Cũng may anh không đẹp trai lắm - ra đường đỡ bị người ta chú ý. Anh có đôi lúm đồng tiền trông ngồ ngộ. Mỗi lần anh cười là mỗi lần tôi thấy cáu sườn. Cái lúm đồng tiền duyên quá là duyên kia đáng lẽ phải dành cho con gái, phải dành cho tôi chứ. Ấy thế mà "tôi thì không mà anh thì hai". Ông trời bất công quá mức. Đã thế anh lại đa tài: giỏi toán, siêu ngoại ngữ, biết viết nhạc và có thể ôm guitar rền rĩ bản "Nothing s gonna change my love for you" và vô số những bản nhạc tôi thích. Tôi tự hào và thán phục anh kinh khủng. Chiều đầu tiên anh hẹn tôi, tôi chờ mãi mà không thấy bóng anh đâu cả. Khỏi phải nói là tôi cáu như thế nào. Chưa có một tên con trai nào làm tôi tức đến thế. Tôi giận dữ vặt trụi lá của một cái cây nhỏ gần nơi tôi ngồi và chợt thấy mình bất lực. Dĩ nhiên không thể gõ đầu hoặc hăm dọa anh "đập chết ăn thịt" như với mấy thằng nhóc cùng lớp. Được rồi, tôi sẽ có cách. Buổi tối anh đến nhà tôi. Tôi biết anh đang bị choáng bởi tôi đã không còn là con bé tóc dài óng ả nữa. Câu chuyện nhạt nhẽo và vô vị dù anh đã thanh minh rằng buổi chiều anh có việc bận đột xuất, khi tôi tiễn anh về, anh hỏi "Sao Hằng không để tóc dài nữa ?". Tôi nhếch mép "Giận!". Anh hừ khẽ: "Trẻ con thế". "Em vẫn trẻ con đấy chứ". "Em sắp mười tám rồi". Tôi kéo dài giọng "Vâng, và mười tám tuổi thì không có quyền được bận đột xuất". Anh im lặng, tôi sụt sịt như sắp khóc: "Mình đừng chơi với nhau nữa". Anh buông thõng "Cũng được" rồi về. Tôi chạy ào vào nhà. Tấm tức khóc. Ừ! Tôi trẻ con thật, nhưng anh có người lớn hơn tôi đâu. Một tuần đi qua, tôi không đến nhà cô, cố gắng không nhớ tới anh. Thằng nhóc ngồi cạnh bảo: "Mấy hôm nay mày như con nhỏ ngớ ngẩn ấy". Nói xong nó giơ tay ngay lên chuẩn bị đỡ cái gõ đầu của tôi. Tội nghiệp! Nhưng tôi quên bẵng mất thói quen của mình. Hình như thằng nhóc ngạc nhiên. Tuần thứ hai sắp hết. Tôi đếm từng ngày ào ạt qua đi: run sợ nghe tiếng những chiếc xe máy lao qua cửa nhà. Anh không đến... Tôi lẩm nhẩm một câu hát "If I had to live my life without you near me", ngao ngán dắt xe ra cổng trường. Đột nhiên con tim reo keng keng. Anh đứng bên đường với nụ cười ngượng nghịu: "Mẹ bảo anh đến xem sao lâu em không sang học". Biết anh nói dối, định đáp lại một câu gì dằn dỗi nhưng rồi lại thôi. Hai đứa đạp xe như bay trên đường, lòng ngập tràn hạnh phúc. Anh giới thiệu một người bạn: đẹp trai hào nhoáng. Nói chuyện vui vẻ rồi khi còn lại hai đứa, anh khiêu khích: "Nó thích em đấy!" Tôi cau mày: "Việc gì anh phải nói thế!". Không khí căng như một sợi dây đàn. Thế này thì cãi nhau cho mà xem. Anh chuyển đề tài: "Ba mẹ em dạo này thế nào ?". "Chán lắm!" Im lặng, một lúc lâu, anh ngập ngừng: "Anh tự muốn nói là anh...". Tôi muốn gõ vào đầu anh lắm lắm nhưng rồi chỉ bĩu môi: "Thôi đi ông trẻ con hai mươi mốt tuổi ạ!". Những chiều thứ bảy rảnh rỗi, anh thường chở tôi đi chơi. Khi thì xuống nhà một người bạn ở ngoại thành, khi thì lang thang trên Hồ Tây. Nhiều lúc anh vác giá vẽ lung tung. Những ngôi sao bơi trên mặt hồ, những cô bé có cánh bay lượn trong tranh của anh. Có lần anh tỏ ý muốn vẽ tôi, tôi chỉ nhăn nhở cười: "Khỏi, anh cứ vẽ cái mặt Pinokio với cái mũi ngắn hơn một chút là được rồi". Quả đúng thế, bởi tôi hay bị mọi người trêu là giống chú rối gỗ ấy ở cái miệng rộng ngoác. Thế mà anh không cười, chỉ kéo tóc tôi: "Tóc em dài hơn rồi đấy". Tia nắng chiều làm những sợi tóc bên má tôi ánh lên hung hung óng ả. Anh cười vu vơ điều gì đó, lẩm nhẩm hoài mấy từ "tóc ngắn", "ông trẻ con". Mãi đến một hôm anh kéo tôi đến nhà, bắt tôi ngồi nghe anh hát một bài hát vừa viết, tôi mới hiểu. À ra thế! Có thể là sau này tôi sẽ không bao giờ quên được đôi mắt trìu mến và giọng hát thâm trầm của anh. "Này cô bé tóc ngắn, có lấy không một bông cúc vàng. Ta nhận riêng cho mình bông cúc héo. Hai mốt tuổi rồi vẫn thấy là trẻ con". Đi học về, lại thấy ba mẹ đang chì chiết lẫn nhau, tôi lau nước mắt bỏ đi. Gặp anh. Hai đứa chui vào quán nhỏ quen thuộc. Anh mượn chủ quán cây guitar, hát cho tôi nghe: "Này cô bé tóc ngắn, nhận giùm ta một bông cúc vàng. Thèm nghe thấy tiếng cười em lắm. Cười đi nào cô bé lọ lem". Tôi cầm bao diêm, quẹt từng que. Những que diêm bùng lên ngọn lửa cháy bỏng, và rồi lịm dần đi. Tôi thì thầm "Em không thể sống thế này mãi được". Anh ngừng đàn, bóp nhẹ tay tôi. Cử chỉ ấy có ý nghĩa nhiều hơn những lời an ủi sáo rỗng. Lòng tôi bỗng tràn ngập một thứ tình cảm khó tả và đầy biết ơn, tôi đã buột miệng nói một điều mà đáng lẽ tôi không nên nói... Phải, lẽ ra hãy cứ để anh tự nói lên điều đó, lẽ ra tôi phải nhớ mình là con gái. Bao nhiêu giả thuyết "lẽ ra" cũng không đủ níu giữ những gì đang đổ vỡ. Anh trở nên kiêu hãnh với niềm tin mà tôi đã gửi gắm một cách dễ dàng cho anh. Lòng tin là một thứ của quý. Và những người con trai như anh thường cao ngạo khi chinh phục được quá nhanh chóng. Giá như tôi biết điều đó trước - bây giờ ngã rồi mới thấy đau. Nhưng thực ra cũng không có gì nghiêm trọng lắm. Tôi vẫn sang thăm cô và vẫn gặp anh. Nhưng bây giờ giữa hai đứa là một ngã rẽ. Anh hay cười ngạo nghễ, tôi thường cúi đầu lặng lẽ, có thể là nuối tiếc. Khi người ta là bạn của nhau, người ta đi chung một con đường. Khi xa nhau, con đường chia hai ngả. Anh đi con đường của anh - con đường của những người lớn biết yêu và biết gìn giữ tình yêu. Và tôi vẫn tiếp bước trên ngả đường của riêng tôi, ngả đường của một đứa trẻ con mười tám tuổi. Mãi ngân nga trong tôi là bài hát anh viết ngày nào. Bài hát chỉ dành cho riêng tôi: "Trái tim ta là một bông cúc héo Mười tám tuổi rồi vẫn cứ ngu ngơ Mười tám tuổi rồi, vẫn cứ trẻ con..." Mục lục Ngã đường tuổi mười tám Ngã đường tuổi mười tám Chu Thu HằngChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: Vovnew. orgĐược bạn: Ct.Ly đưa lên vào ngày: 18 tháng 10 năm 2004
nhiều tác giả Ngô Quyền Ngô Quyền (897-944)Ngô Quyền là bộ tướng của Dương Đình Nghệ sinh ngày 12 tháng 3 năm Đinh Tỵ (897) ở Đường Lâm (Ba Vì, Hà Nội). Cha Ngô Quyền là Ngô Mân, một hào trưởng có tài. Lớn lên trên quê hương có truyền thống bất khuất, nơi sản sinh và nuôi dưỡng người anh hùng dân tộc Phùng Hưng, Ngô Quyền sớm tỏ rõ chí khí phi thường hiếm thấy. Vốn thông minh, có thân thể cường tráng, lại thường xuyên luyện tập võ nghệ nên tiếng tăm Ngô Quyền lan rộng cả một vùng. Sách Đại Việt Sử Ký Toàn Thư mô tả Ngô Quyền "vẻ khôi ngôi, mắt sáng như chớp, dáng đi như cọp, có trí dũng, sức có thể nhấc vạc, giơ cao". Vì có tài nên Dương Đình nghệ giao cho Ngô Quyền cai quản đất ái Châu và gả con gái cho. Trong 5 năm (934-938), Ngô Quyền đã đem lại yên vui cho đất ái Châu, tỏ rõ là người có tài đức.Khi Dương Đình Nghệ bị Kiều Công Tiễn giết hại, và vua Nam Hán là Lưu Cung cho con là Vạn vương Hoàng Thao đem quân sang xâm lược nước ta, Ngô Quyền đã nhanh chóng tập hợp lực lượng để trừ nội phản, diệt ngoại xâm. Từng hâm mộ tài đức của Ngô Quyền, hào trưởng từ nhiều nơi đem binh về vớ Ngô Quyền.Đầu mùa đông năm mậu Tuất (938), Ngô Quyền đem quân vượt qua đèo Ba Dội, tiến như vũ bảo vào Đại La, bắt giết tên nội phản Kiều Công Tiễn, bêu đầu hắn trước cổng thành. Thù trong, đã diệt xong, Ngô Quyền rảnh tay đối phó với giặc ngoài.Đem quân xâm lược nước ta, chưa biết thắng bại ra sao, Lưu Cung đã vội phong cho con tước Giao Vương (tước vương đất Giao Chỉ). Lưu Cung còn đích thân đốc quân ra đóng ở trấn Hải Môn để sẵn sàng chi viện.Để chống lại giặc mạnh, Ngô Quyền đưa ra kế hoạch độc đáo. Ông cho bố trí một trận địa cọc nhọn bịt sắt cắm xuống lòng sông Bạch Đằng. Khi nước triều lên ông cho dử thuyền giặc vào bên trong hàng cọc, đợi khi thủy triều xuống sẽ dốc toàn sức tiêu diệt địch bằng một trận quyết chiến nhanh gọn.Tháng 12 năm Mậu Tuất (938) các chiến thuyền của giặc hùng hổ vượt biển tiến vào sông Bạch Đằng. Chúng nghênh ngang tràn vào trận địa mai phục của Ngô Quyền, bị đánh bất ngờ nên chỉ trong một thời gian rất ngắn thuyền giặc bị đắm gần hết, quân giặc bị chết quá nữa. Máu chảy loang đỏ khúc sông, Hoàng Thao cũng bị đâm chết tại trận. Tin thất trận ở Bạch Đằng cùng với tin Hoàng Thao bị giết khiến vua Nam Hán kinh hoàng phải khóc lên, thu nhặt tàn quân rút chạy. Vua Nam Hán trước tên là Nham sau đổi là Thiệp, rồi sau đó "vì có rồng trắng nổi lên" nên đổi là Cung. Bị thất trận, vua Nam Hán cho tên Cung là xấu và đổi sang tên khác là Yểm, tức Lưu Yểm.Sau chiến thắng, Ngô Quyền xưng vương, bãi bõ chức Tiết Độ Sứ, đóng đô ở Cổ Loa ( Hà nội). Để cũng cố trật tự triều chính, Ngô Quyền đặt ra các chức quan văn võ, qui định nghi lễ trong triều. Đáng tiếc thời tại ngôi của Ngô Quyền quá ngắn ngủi, chỉ được 6 năm (939-944) thì mất, thọ 47 tuổi.Dương Tam KhaThời trẻ, Ngô Quyền lấy con gái Dương Đình Nghệ. Khi Ngô Quyền lên ngôi Vua, Dương Thị được lập làm hoàng hậu. Khi sắp mất, Ngô Vương ủy thác con là Ngô Xương Ngập cho Dương Tam Kha là em Dương Hậu. Lợi dụng cháu còn nhỏ, Dương Tam Kha cướp ngôi của cháu, tự xưng là Bình Vương. Ngô Xương Ngập thấy biến, chạy trốn sang Nam Sách (Hải Dương) vào ẩn ở nhà Phạm Lệnh Công. Dương Tam Kha sai quân đi đuổi bắt, Phạm Lệnh Công đem Xương Ngập trốn trong núi. Dương Tam Kha bắt em Xương Ngập là Ngô Xương Văn nuôi làm con nuôi. Năm Canh Tuất (905) nhân có loạn ở Sơn Tây, Dương Tam Kha sai Ngô Xương Văn cùng tướng Dương Cát Lợi và Đỗ Cảnh Thạc đem quân đi đánh. Đến Từ Liêm, Ngô Xương Văn mưu với hai tướng đem quân trở về bắt Dương Tam Kha. Ngô Xương Văn nghĩ tình cậu cháu không nỡ giết chỉ giáng Tam Kha xuống làm Trương Dương công. Mục lục Ngô Quyền Ngô Quyền nhiều tác giảChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: Được bạn: Minh đưa lên vào ngày: 27 tháng 12 năm 2003
many authors Ngo Quyen Ngo Quyen (897-944) Ngo Quyen was Duong Dinh Nghe's minister, born on March 12, Dinh Ty year (897) in Duong Lam (Ba Vi, Hanoi). Ngo Quyen's father was Ngo Man, a talented leader. Growing up in a homeland with an indomitable tradition, the place where national hero Phung Hung was born and nurtured, Ngo Quyen soon showed extraordinary and rare character. Being intelligent, having a strong body, and regularly practicing martial arts, Ngo Quyen's reputation spread throughout the entire region. The book Dai Viet Su Ky Toan Thu describes Ngo Quyen as "beautiful, eyes bright as lightning, gait like a tiger, courageous, and strong enough to lift a cauldron and hold it high". Because of his talent, Duong Dinh Nghe assigned Ngo Quyen to manage the land of Ai Chau and marry his daughter. In 5 years (934-938), Ngo Quyen brought peace and happiness to the land of Ai Chau, proving to be a talented and virtuous person. When Duong Dinh Nghe was killed by Kieu Cong Tien, and the Southern Han king Liu Cung gave his son, Van King Hoang Thao sent troops to invade our country. Ngo Quyen quickly gathered forces to eliminate internal rebellion and destroy foreign invaders. Once admiring Ngo Quyen's virtue, warlords from many places brought soldiers to Ngo Quyen's side. In the early winter of the year of the Dog (938), Ngo Quyen led his army across Ba Doi Pass, advanced like a weapon into Dai La, and captured Killed the internal traitor Kieu Cong Tien and displayed his head in front of the city gate. With the internal enemies destroyed, Ngo Quyen was free to deal with the external enemies. Bringing troops to invade our country, not knowing how to win or lose, Luu Cung hastily conferred on his son the title of Giao Vuong (the title of king of Giao Chi land). Luu Cung also personally commanded troops to station in Hai Mon town to be ready to support. To fight against strong enemies, Ngo Quyen came up with a unique plan. He arranged a battlefield with sharp, iron-covered stakes inserted into the bed of the Bach Dang river. When the tide rose, he placed the enemy's boats inside the piles. Waiting for the tide to go down, he used all his strength to destroy the enemy in a quick and decisive battle. In December of the year Mau Tuat (938), the enemy's warships were fierce. Cross the sea to enter Bach Dang river. They swaggered into Ngo Quyen's ambush site and were surprised, so in a very short time, most of the enemy's boats were sunk, and many more enemy soldiers died. Blood flowed red across the river, Hoang Thao was also stabbed to death in battle. The news of the defeat at Bach Dang along with the news of Hoang Thao's death caused King Nam Han to cry in horror, gather the remnants of his army, and flee. King Nam Han's first name was Nham, then he changed it to Thiep, and then "because a white dragon emerged" he changed his name to Cung. Having lost the battle, King Nam Han considered the name Cung to be bad and changed it to another name, Yem, or Luu Yem. After the victory, Ngo Quyen proclaimed himself king, abolished the position of Tiet Do Su, and established the capital in Co Loa (Hanoi). To strengthen the order of the court, Ngo Quyen established civil and military officials and regulated rituals in the court. Unfortunately, Ngo Quyen's time on the throne was too short, only 6 years (939-944) before he died at the age of 47. Duong Tam Kha When he was young, Ngo Quyen married Duong Dinh Nghe's daughter. When Ngo Quyen ascended the throne, Duong Thi was made queen. When he was about to die, Ngo Vuong entrusted his son Ngo Xuong Ngap to Duong Tam Kha, Duong Hau's younger brother. Taking advantage of his young age, Duong Tam Kha usurped his throne and called himself Binh Vuong. Ngo Xuong Ngap saw that something was wrong, fled to Nam Sach (Hai Duong) and hid at Pham Lenh Cong's house. Duong Tam Kha sent troops to chase him, Pham Lenh Cong took Xuong Ngap and hid in the mountains. Duong Tam Kha took Xuong Ngap's younger brother, Ngo Xuong Van, as his adopted son. In the year of Canh Tuat (905), there was chaos in Son Tay, Duong Tam Kha sent Ngo Xuong Van along with generals Duong Cat Loi and Do Canh Thac to lead troops to fight. Arriving at Tu Liem, Ngo Xuong Van conspired with two generals to bring back troops to capture Duong Tam Kha. Ngo Xuong Van thought that his uncle and nephew could not bear to kill him, so he only demoted Tam Kha to become Duke Truong Duong. Table of contents Ngo Quyen Ngo Quyen many authorsWelcome to read books from the book project for mobile devicesSource: author: Nguyen Kim Vy. Final words: Thank you for reading the entire story. Source: editor: Nguyen Kim Vy. Source: Posted by friend: Minh on: December 27, 2003
nhiều tác giả Ngô Sĩ Liên Nhà sử học Ngô Sĩ Liên Ngô Sĩ Liên người làng Chúc Lý, huyện Chương Đức (nay thuộc huyện Chương Mỹ, tỉnh Hà Tây). Là sử thần đời Lê, ông đã góp phần công sức chủ yếu trong việc soạn thảo Đại Việt sử ký toàn thư - bộ quốc sử đầu tiên của Việt Nam được khắc in vào cuối thế kỷ 17 và còn lại nguyên vẹn cho tới ngày nay.Theo các tài liệu mới được công bố gần đây, Ngô Sĩ Liên tham gia khởi nghĩa Lam Sơn khá sớm, cùng với Nguyễn Nhữ Soạn (em cùng cha khác mẹ với Nguyễn Trãi) giữ chức vụ thư ký trong nghĩa quân, nhiều lần được Lê Lợi cử đi giao thiệp với quân Minh trong những thời kỳ đôi bên tạm hòa hoãn để củng cố lực lượng.Rất đáng tiếc, về năm sinh và năm mất của ông, hiện nay vẫn chưa được biết thật đích xác, nhưng theo Đại Việt lịch triều đăng khoa lục thì ông thọ tới 98 tuổi, đỗ tiến sĩ khoa Nhâm Tuất, niên hiệu Đại Bảo thứ 3 đời Lê Thái Tông (1434 - 1442). Đây là khoa thi đầu tiên được triều đình tổ chức lễ xướng danh, yết bảng; các vị tiến sĩ tân khoa được vua ban mũ áo, vào cung dự yến, được ban ngựa quý để đi dạo chơi thăm phố xá kinh kỳ, được "ân tứ vinh quy" với lễ đón rước rất trọng thể. Và sau này, theo lệnh vua Lê Thánh Tông, họ tên lại được khắc vào bia đá, đặt ở Văn Miếu, để "làm gương sáng cho muôn đời".Sau khi thi đỗ, Ngô Sĩ Liên đã từng giữ các chức Đô ngự sử dưới triều Lê Nhân Tông, Lễ bộ Hữu thị lang, Triều liệt đại phu kiêm Quốc Tử Giám Tư nghiệp, kiêm Sử quan tu soạn dưới triều Lê Thánh Tông. Đóng góp to lớn mà Ngô Sĩ Liên còn để lại cho đời sau chính là bộ Đại Việt sử ký toàn thư mà ông đã biên soạn theo lệnh nhà vua và đã hoàn thành vào năm Kỷ Hợi, niên hiệu Hồng Đức thứ 10 đời Lê Thánh Tông, gồm 15 quyển, chia thành hai phần:Phần một (ngoại kỷ), gồm 5 quyển, chép từ thời Hồng Bàng đến hết thời Bắc thuộc (năm 938). Phần hai (bản kỷ) gồm 10 quyển, chép từ thời Ngô Quyền dựng nước (năm 938) đến khi vua Lê Thái Tổ lên ngôi (năm 1428).Bài tựa Đại Việt sử ký ngoại kỷ toàn thư cũng do Ngô Sĩ Liên viết, có đoạn nêu rõ: "Trộm nghĩ: may gặp buổi thịnh trị, tự thẹn không chút báo đền, nên không tự nghĩ sức học kém cỏi, lấy hai bộ sách của các bậc tiên hiền làm trước đây, sửa sang lại, thêm vào một quyển Ngoại kỷ, gồm một số quyển, gọi là Đại Việt sử ký toàn thư. Trong bộ sách này, về sự việc, có việc nào trước kia quên sót thì bổ sung vào; về thể lệ có lệ nào chưa thật đúng thì chỉnh lý lại; về văn có chỗ nào chưa ổn thì đổi thay đi; thảng hoặc có việc nào hay việc nào dở có thể làm gương khuyên răn được thì góp thêm ý kiến quê kệch ở dưới... Tuy những lời khen chê ấy chưa có thể làm công luận cho muôn đời về sau nhưng may ra cũng có thể giúp ích phần nào cho việc tra cứu tìm hiểu...". Qua những đoạn trích trên đây cũng có thể thấy được đôi nét tổng quát về quan niệm, bút pháp sử học... của Ngô Sĩ Liên.Bộ Đại Việt sử ký toàn thư hiện đang lưu hành, tuy do Ngô Sĩ Liên khởi thảo (hoàn thành vào năm 1479), nhưng đã được các sử thần các đời khác như: Vũ Quỳnh, Lê Tung, Phạm Công Trứ, Lê Hy... hiệu chỉnh bổ sung thêm. Phần đóng góp chủ yếu của tiến sĩ họ Ngô vào bộ quốc sử lớn này là: đặt tên cho bộ sách là Đại Việt sử ký toàn thư, được triều đình và các đời sau chính thức công nhận. Cuốn Đại Việt sử ký toàn thư của Ngô Sĩ Liên đã dựa vào Đại Việt sử ký của Lê Văn Hưu và Đại Việt sử ký tục biên của Phan Phu Tiên. Ông viết thêm 1 quyển thuộc Ngoại kỷ, trình bày lại tiến trình lịch sử của Việt Nam từ họ Hồng Bàng cho tới khi quân xâm lược Minh bị đánh đuổi về nước; viết Tam triều bản kỷ, sau này được đưa vào phần Bản kỷ toàn thư và Bản kỷ thực lục; viết bài tựa Đại Việt sử ký ngoại kỷ toàn thư, biểu dâng sách Đại Việt sử ký toàn thư, phần Phàm lệ Đại Việt sử ký toàn thư; viết những lời bình luận (hiện còn thấy 166 đoạn) có ghi rõ "sử thần Ngô Sĩ Liên viết"... Khác với phần lớn các lời bình của Lê Văn Hưu hoặc Phan Phu Tiên, những đoạn bình luận lịch sử của Ngô Sĩ Liên thường dài hơn, do đó cũng thường cặn kẽ hơn, sinh động hơn; nhiều đoạn có thể coi như lời tổng kết cả một giai đoạn lịch sử. Những dòng ca tụng các bậc trung thần nghĩa sĩ vì nước quên thân; những lời chỉ trích các hành động tham bạo của kẻ gian tà, những lời tố cáo vạch trần những âm mưu quỷ kế của kẻ thù được viết với ngọn bút tài hoa của Ngô Sĩ Liên vốn là người học sâu biết rộng, có ý thức vươn tới sự hoàn thiện như Sử Mã (Sử ký của Tư Mã Thiên), Lâm kinh (Kinh Xuân Thu do Khổng Tử san định), thực sự đã làm cho biết bao thế hệ người đọc đời sau cảm phục sâu sắc.Bộ Đại Việt sử ký toàn thư là một cống hiến to lớn của Ngô Sĩ Liên vào kho tàng văn hóa dân tộc. Mục lục Ngô Sĩ Liên Ngô Sĩ Liên nhiều tác giảChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: bạn: Thái Nhi đưa lên vào ngày: 24 tháng 9 năm 2004
many authors Ngo Si Lien Historian Ngo Si Lien Ngo Si Lien is from Chuc Ly village, Chuong Duc district (now Chuong My district, Ha Tay province). As the historian of the Le Dynasty, he contributed mainly to the drafting of Dai Viet Su Ky Toan Thu - Vietnam's first national history, engraved and printed at the end of the 17th century and remaining intact to this day. .According to recently published documents, Ngo Si Lien joined the Lam Son uprising quite early, along with Nguyen Nhu Soan (Nguyen Trai's half-brother) holding the position of secretary in the insurgent army many times. was sent by Le Loi to interact with the Ming army during periods of temporary peace between both sides to consolidate their forces. Unfortunately, the year of his birth and death is still not known exactly, but according to According to Dai Viet's reign, he lived to be 98 years old and passed the doctorate in Nham Tuat faculty, in the 3rd Dai Bao era of Le Thai Tong's reign (1434 - 1442). This is the first exam in which the royal court held a name-calling ceremony and posted a list; The newly graduated doctors were given caps and gowns by the king, entered the palace to attend banquets, were given precious horses to roam around and visit the capital's streets, and received "honorary gifts" with a very solemn welcome ceremony. And later, according to King Le Thanh Tong's orders, his full name was engraved on a stone stele and placed at the Temple of Literature, to "set a shining example for all generations". After passing the exam, Ngo Si Lien held the positions of Imperial Governor. History under the reign of Le Nhan Tong, Rite Ministry Huu Thi Lang, Trieu Ly physician cum Quoc Tu Giam Tu Nghiep, and History Mandarin compiled under the reign of Le Thanh Tong. The great contribution that Ngo Si Lien left behind for future generations is the Complete History of Dai Viet that he compiled by order of the king and completed in the year of Ky Hoi, the 10th year of Hong Duc in the reign of Le Thanh. Tong, consisting of 15 volumes, divided into two parts: Part 1 (outer century), including 5 volumes, written from the Hong Bang period to the end of the Northern domination period (938). Part two (the original version) consists of 10 volumes, written from the time when Ngo Quyen founded the country (938) until King Le Thai To ascended the throne (1428). The preface of Dai Viet's complete history of foreign times was also written by Ngo Si Lien. , there is a passage that clearly states: "Thief thought: lucky to have a prosperous time, shame himself without any compensation, so he did not think about his poor academic performance, took two sets of books that the ancestors had made before, revised them, and added In a volume called Foreign Records, there are a number of volumes, called Complete History of Dai Viet. In this series of books, if there are any things that were previously omitted, any rules that are not quite correct will be added Then revise it; if there's anything wrong with the writing, change it; if there's any good or bad things that can serve as an example, then add your own rude comments below... Even though there are compliments and criticisms. It can't be public opinion forever, but luckily it can be of some help in searching and finding out...". Through the above excerpts, we can also see some general features of Ngo Si Lien's concept, historical style... The Complete History of Dai Viet is currently in circulation, although it was drafted by Ngo Si Lien. (completed in 1479), but was further edited and supplemented by historians of other generations such as: Vu Quynh, Le Tung, Pham Cong Tru, Le Hy... The main contribution of Dr. Ngo to this great national history was: naming the book Dai Viet Complete History, which was officially recognized by the court and later generations. Ngo Si Lien's Complete History of Dai Viet was based on Dai Viet Su Ky by Le Van Huu and Dai Viet Su Ky Tuc Bien by Phan Phu Tien. He wrote another book in Foreign Era, re-presenting the historical process of Vietnam from the Hong Bang family until the Ming invaders were driven back to the country; wrote the Three Dynasties Ban Ky, which was later included in the Complete Book of Records and Ban Ky Thuc Luc; wrote an article titled Dai Viet's Complete History of Foreign Era, presented the book Dai Viet's Complete History, and the section Pham Le Dai Viet's Complete History; wrote comments (166 paragraphs are still visible) that clearly state "written by the historical god Ngo Si Lien"... Unlike most of the comments by Le Van Huu or Phan Phu Tien, the historical comments by Ngo Si Lien is usually longer, so it is often more detailed and vivid; Many passages can be considered as summaries of an entire historical period. Lines praising the loyal servants and soldiers who forgot themselves for their country; Criticisms of the cruel actions of wicked people, denunciations exposing the enemy's cunning plots were written with the talented pen of Ngo Si Lien, who was deeply learned and knowledgeable. Reaching perfection like Shi Ma (Historical Records of Sima Qian) and Lam Kinh (Spring and Autumn Classic published by Confucius), have truly made many generations of readers deeply impressed. The Ministry of Dai Dai Complete Book of Vietnamese History is a great contribution of Ngo Si Lien to the national cultural treasure. Table of contents Ngo Si Lien Ngo Si Lien many authorsWelcome to read books from the book project for mobile devicesSource: author: Nguyen Kim Vy. Final words: Thank you for reading the entire story. Source: editor: Nguyen Kim Vy. Source: friend: Thai Nhi posted on: September 24, 2004
nhiều tác giả Ngô Thì Nhậm Tiểu sử Ngô Thì Nhậm Trong khối lượng đồ sộ thơ và phú của Ngô Thì Nhậm để lại có bài phú Giấc mộng núi Thiên Thai làm trong thời kỳ sau vụ án năm Canh Tý (1780), ông bỏ quan rời khỏi Thăng Long về lánh nạn ở am Đại Trạch, làng Bách Tính (nay thuộc huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình). Vụ án năm Canh Tý là vụ do một số quan đại thần, nhân Trịnh Sâm ốm nặng, mưu chống lại chủ trương phế con trưởng (Trịnh Khải), lập con thứ (Trịnh Cán) của Sâm. Việc bị lộ, số người chủ mưu bị xử rất nặng. Sau khi Sâm chết, kiêu binh Tam phủ đưa Trịnh Khải lên ngôi chúa. Ngô Thì Nhậm bị ngờ oan là đã tố giác phe dựng Khải trước đó, sợ bị hại, phải trốn về làng Bách Tính, dạy học và viết sách. Xã hội Lê - Trịnh đang suy mạt, rối loạn đến cực độ. Bản thân ông đang là người lánh nạn, bị truy nã. Ông nằm mộng thấy thần núi Thiên Thai mời ông lên núi đó chơi. Ông xin khất không lên được:... Chơi Đào Nguyên chừ, hẹn Thiên Thai,Hẹn Thiên Thai chừ, ta chửa tới nơi,Mong người tri kỷ chừ, một phương trời!...Người tri kỷ của ông là ai, sau ngày ông gặp được Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ, mới thấy được lời giải đáp.Ngô Thì Nhậm tự là Hy Doãn, sinh năm 1746, là con của hoàng giáp Ngô Thì Sĩ, thuộc dòng họ Ngô ở làng Tả Thanh Oai (tục danh là làng Tó), huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Đông cũ (nay là tỉnh Hà Tây). Dòng họ này liên tục gần hai thế kỷ có nhiều người đỗ cao, học rộng, làm quan liêm khiết, lừng tiếng Bắc Hà. Thừa kế truyền thống của ông cha, từ nhỏ Nhậm đã chăm đọc sách với ý nguyện lớn lên làm các việc phò vua, giúp nước. Mười một tuổi, cậu bé Nhậm đã xin phép các bô lão trong làng đặt tên cho ngôi lầu xây để rước bài vị Lê Đại Hành và vợ là Đô Hồ phu nhân ra tắm rửa trước khi rước về đình để tế là "Minh ngự lâu", nghĩa là cái lầu làm sáng lên vẻ đẹp của đấng đế vương. Cũng khoảng tuổi ấy, cậu lại xin cha cho mình lấy cái tên là Nhậm thay cho cái tên Phó mà cậu mang từ lúc mới lọt lòng. Nhậm nghĩa là nhận lấy nhiệm vụ, là gánh vác việc đời.Bên cạnh chí hướng đó, Nhậm còn có một niềm say mê nghiên cứu không lúc nào giảm sút. Mới mười sáu tuổi, Nhậm đã hoàn thành bộ Việt sử toát yếu, rồi mấy năm sau, liên tiếp cho ra đời các bộ Tứ gia thuyết phả, Hải đông chí lược, v.v... Danh tiếng của Nhậm sớm đã lừng lẫy khắp nơi.Năm 1775, Nhậm thi đỗ tiến sĩ, được bổ vào bộ Hộ làm Hộ khoa cấp sự trung, rồi liên tiếp mấy năm sau được thăng lên các chức Giám sát ngự sử đạo Sơn Nam, Đốc đồng Kinh Bắc kiêm Đốc đồng Thái Nguyên, rồi Đông các hiệu thư, chuyên hiệu đính các văn từ, thư tịch của Nhà nước, và được cử đi đánh dẹp bọn Diễn quận công Hoàng Văn Đồng làm phản ở Thái Nguyên. Ông dẹp tan bọn Hoàng Văn Đồng hoàn toàn bằng cách vận động, giáo dục số người lầm đường, lạc lối trở về với chính nghĩa, không tốn một mũi tên, hòn đạn. Tĩnh Đô vương Trịnh Sâm rất trọng ông, gọi ông là con "Tuấn mã ngày đi ngàn dặm".Nhậm cũng hết lòng phục vụ chúa Trịnh Sâm, đề xuất với Sâm nhiều phương án cải cách lớn nhằm thay đổi cách cai trị, chống quan lại tham nhũng, làm giảm nỗi khổ cho dân. Nhưng ông đã hoàn toàn thất vọng: Trịnh Sâm cũng như các chúa Trịnh trước đó xa xỉ, hoang dâm vô độ, chỉ mỗi ngày một dấn sâu đất nước vào vòng đói khổ.Người tri kỷ bao năm trời mong đợi của ông là người anh hùng áo vải Nguyễn Huệ với lá cờ Tây Sơn đỏ chói phương Nam mà ông đã từng nghe tường tin tức từ mấy năm về trước nay đã đến. "Chờ khi người biết đến mình, chí lớn nọ đem ra vùng vẫy; giúp tám cực mà chuyển xoay; vỗ chín cực yên rường mối". Bài phú nói lên ước mơ của ông đã trở thành hiện thực. Năm 1786, Nguyễn Huệ ra Bắc, chỉ một trận quét sạch cơ đồ hai trăm năm của họ Trịnh. Năm 1788, Nguyễn Huệ ra bắc lần thứ hai, giết Võ Văn Nhậm chuyên quyền mưu phản, rồi cho mời ông đến, phong ngay cho ông chức Thị lang bộ Lại, sau đó lại giao cho ông cùng Ngô Văn Sở, Nguyễn Văn Dũng, Trần Thuận Ngôn cai quản toàn bộ mười một trấn Bắc Hà.Về quân sự, diệu kế "rút quân về Tam Điệp" của ông đề xuất đã góp phần quan trọng vào cuộc đại thắng 29 vạn quân Thanh xâm lược; về ngoại giao, ông đã "lấy ngọn bút thay giáp binh" của Nguyễn Huệ giao cho, sau chiến thắng Đống Đa, dùng lý lẽ đập tan ý định phục thù của nhà Thanh, khiến chúng phải bỏ lệ cống người vàng và từ vua Càn Long trở xuống đều cảm phục vua Quang Trung về mọi mặt. Các văn từ của Ngô Thì Nhậm thảo ra trong thời kỳ này tập hợp trong Bang giao tập và các bài thơ đi sứ của ông trong bộ Hoa trình gia ấn thi tập là những bộ sách vô cùng quý báu của nước ta về tư thế ngoại giao, và niềm tự hào dân tộc to lớn của nhà ngoại giao Ngô Thì Nhậm.Sau khi Nguyễn Huệ mất, nhà Tây Sơn suy sụp rất nhanh vì nội bộ chia rẽ, giết hại lẫn nhau, cuối cùng bị Nguyễn ánh tiêu diệt. Ngô Thì Nhậm đã về trí sĩ vẫn bị ánh bắt giam và sai Đặng Trần Thường cho quân lính đánh đòn thù đến chết. Đó là ngày mồng 9 tháng 3 năm 1803, ông vừa tròn 57 tuổi.Ngô Thì Nhậm để lại rất nhiều trước tác và là cây bút tiêu biểu nhất trong bộ Ngô gia văn phái với gần 1.000 bài thơ, bài phú cùng bộ sách khảo luận về sử và triết học như Xuân thu quản kiến, Trúc lâm tông chỉ nguyên thanh. Đặc biệt quý nhất là những tác phẩm văn thơ của ông gắn bó với nhà Tây Sơn dưới thời Quang Trung. Mục lục Ngô Thì Nhậm Ngô Thì Nhậm nhiều tác giảChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: bạn: Thái Nhi đưa lên vào ngày: 24 tháng 9 năm 2004
many authors Ngo Thi Nham Story Ngo Thi Nham Among the huge volume of poems and stories that Ngo Thi Nham left behind is the poem Dream of Thien Thai Mountain, written in the period after the Canh Ty incident (1780), when he left Thang Long and took refuge in Dai Trach am, Bach Tinh village (now Vu Thu district, Thai Binh province). The case in the year of the Rat was a case by a number of mandarins, when Trinh Sam was seriously ill, plotting against Sam's policy of abolishing the eldest son (Trinh Khai) and establishing a second son (Trinh Can). When it was revealed, the masterminds were severely punished. After Sam died, the proud soldiers of the Three Palaces brought Trinh Khai to the throne. Ngo Thi Nham was wrongly suspected of having denounced the Khai faction before, fearing harm, had to flee to Bach Tinh village, teach and write books. Le - Trinh society is in decline and extremely chaotic. He himself is a refugee and wanted. He dreamed that the mountain god Thien Thai invited him to go up there to play. He begged and couldn't come up:... Let's go to Dao Nguyen, make an appointment with Thien Thai, Make an appointment with Thien Thai, I haven't arrived yet, Hoping for a soulmate, from heaven!... Who is your soulmate, Only after the day he met King Nguyen Hue of Bac Binh did he see the answer. Ngo Thi Nham's name was Hy Doan, born in 1746, the son of the emperor Ngo Thi Si, of the Ngo family in Ta Thanh Oai village (customed named To village), Thanh Oai district, former Ha Dong province (now Ha Tay province). This family has continuously for nearly two centuries had many people who passed high scores, were well educated, became honest mandarins, and were famous in Bac Ha. Inheriting his father's tradition, from a young age Nham read books with the intention of growing up to serve the king and the country. At the age of eleven, the boy Nham asked permission from the village elders to name the pavilion built to receive the tablets of Le Dai Hanh and his wife, Lady Do Ho, to bathe before taking them to the communal house for worship as "Minh Ngu Lau". ", meaning the building that illuminates the beauty of the king. Around the same age, he asked his father to let him take the name Nham instead of the name Pho that he had since he was born. Nham means to take on a task, to shoulder the burden of life. Besides that ambition, Nham also has a passion for research that never diminishes. At just sixteen years old, Nham completed the Compendium of Vietnamese History, and a few years later, successively published the Four Genealogical Theory series, Hai Dong Chi Strategy, etc. Nham's reputation soon became illustrious everywhere. In 1775, Nham passed the doctoral exam, was appointed to the Ministry of Housekeeping as a mid-level Household Faculty, and then several years later was promoted to the positions of Supervisor of the Son Nam District, Director of the Kinh Bac Field and Director of the Thai Nguyen Field. , then the East library shop, specializing in editing documents and bibliographies of the State, and was sent to defeat the rebels of Dien district Hoang Van Dong in Thai Nguyen. He completely crushed Hoang Van Dong's group by mobilizing and educating misguided and lost people to return to righteousness, without wasting a single arrow or bullet. Tinh Do King Trinh Sam respected him very much, calling him his son, "A handsome horse that travels thousands of miles every day". Nham also wholeheartedly served Lord Trinh Sam, proposing to Sam many major reform plans to change the way of governance and fight Corrupt officials reduce the suffering of the people. But he was completely disappointed: Trinh Sam, like the previous Trinh lords, was lavish and promiscuous, only plunging the country deeper into the cycle of hunger and poverty every day. The confidant he had been waiting for for so many years was the one who The cloth-shirted hero Nguyen Hue with the bright red Southern Tay Son flag that he had heard about on the news many years ago had now arrived. "Waiting for people to know you, that great will will come out and struggle; help the eight poles to turn around; pat the nine poles to calm the termite." The poem says that his dream has come true. In 1786, Nguyen Hue went to the North and in one single battle wiped out the Trinh family's two hundred year fortune. In 1788, Nguyen Hue went north a second time, killed the treasonous autocratic Vo Van Nham, then invited him to come, immediately appointed him the position of Minister of Lai, then assigned him, Ngo Van So, and Nguyen Van Dung. , Tran Thuan Ngon governed all eleven towns of Bac Ha. Militarily, his proposed "withdraw troops to Tam Diep" plan made an important contribution to the great victory of 290,000 Qing invaders; In terms of diplomacy, he "took the pen instead of armor" from Nguyen Hue, and after the Dong Da victory, used reason to crush the Qing dynasty's intention to take revenge, causing them to abandon their tribute to gold and the king. Qianlong and below all admired King Quang Trung in every aspect. Ngo Thi Nham's writings drafted during this period, collected in Bang Giao Tap and his envoy poems in Hoa Trinh Gia Nhan Thi Tap, are extremely valuable books of our country on foreign affairs. diplomacy, and the great national pride of diplomat Ngo Thi Nham. After Nguyen Hue's death, the Tay Son dynasty collapsed very quickly because of internal divisions, killing each other, and was finally destroyed by Nguyen Anh. Ngo Thi Nham, who had become a scholar, was still imprisoned and ordered by Dang Tran Thuong to have his soldiers beaten to death. It was March 9, 1803, he had just turned 57 years old. Ngo Thi Nham left behind many works and was the most prominent writer in the Ngo Gia Van sect with nearly 1,000 poems, poems and reference books. Essays on history and philosophy such as Spring and Autumn Quan Kien, Truc Lam Tong Chi Nguyen Thanh. Most especially valuable are his poetic works associated with the Tay Son dynasty under Quang Trung. Table of contents Ngo Thi Nham Ngo Thi Nham many authorsWelcome to read books from the book project for mobile devicesSource: author: Nguyen Kim Vy. Final words: Thank you for reading the entire story. Source: editor: Nguyen Kim Vy. Source: friend: Thai Nhi posted on: September 24, 2004
Vành Khuyên Ngôi nhà kỷ niệm Tôi sống lang bạc hơn mười năm . Chưa một lần thứ hai trong đời tôi thấy tự hào về mình có một chỗ ở nhất định . Cái lần duy nhất tự bàn tay tôi tạo dựng được một ngôi nhà là với anh . Bao nhiêu là khổ đau đổ dồn xuống sau khi mua được ngôi nhà ấy , con mất , việc làm bấp bênh, điên dại vì những được thua và những ghen tuông đời thường một người đàn bà làm tôi mất hết . Tôi vẫn còn nhớ rất rõ cái câu cuối cùng anh nói và bước đi trong cơn mưa nặng hạt " Muốn làm gì làm đi, gửi giấy tờ bán nhà cho tôi , tôi ký , cái giấy ly dị " Tôi làm thật . Giờ thì tôi tiếc . Anh ở đâu ? Cho tôi một lần gặp lại . Những ngày tháng sau đó tôi nghĩ mình sống , nhưng không . Thật sự tôi đã chết nhưng cái xác của tôi vẫn ăn , ngủ , nghĩ , thở và vẫn còn vật vờ trên cõi đời này . Ai nhìn thấy tôi chắc hẳn đã từng tự hỏi trong lòng có phải tôi chỉ là một bóng ma . Tôi đi chẳng nhìn aị Tôi nhốt mình trong cái căn hộ thuê hai phòng , ở một phòng . Chiều tối đi làm về tôi vào thẳng phòng , bật ti vi để đó cho có tiếng người để đỡ cô độc . Mệt quá , tôi thiếp đi lúc nào không hay . Có lúc ngủ luôn đến sáng , có lúc dậy được ra ngoài tìm cơm nguội ăn . Ăn lấy ăn để , ăn mà không cần nhìn sao thức ăn và vào miệng lại có vị đắng . Qua ngày sau ,khi tôi về sớm hơn , mở đại nồi cơm hôm qua ra thì thấy những vệt mốc xanh đã nhan nhản . Tôi vẫn mở mắt nhìn đây , chưa sao , thôi thì cái dại nào cũng chỉ một lần . Tôi nhớ anh vô cùng , nhất là những bữa cơm nóng anh nấu cho và cõng tôi ra ngoài cùng ăn ... Tôi gần như trở nên điên dại trong tâm tưởng . Tôi chuẩn bị tinh thần cho một lần ngã quỵ khác . Tại sao ? Lúc bấy giờ , chung quanh tôi chẳng còn ai , chẳng phải anh là tất cả trong cuộc đời , mà chính anh , anh là niềm tin cuối cùng tôi có được mà không biết giữ . Tiền bạc tôi sẳn lắm . Mua gì cũng có . Tôi nghe bạn bè mách nói chuyện trên nét với người chưa quen cũng có thể san xẻ tâm sự vui buồn . Tôi đi mua một cái máy về nhà làm bạn .Mỗi tối vào đó , nỗi chán chường dâng lên chứ không có vơi đi . Tôi còn nghe tận đáy lòng một nỗi khắc khoải không nguôi . Tôi bắt đầu viết . Viết cho chính tôi , cho những gì tôi đã trải qua . Vậy mà vơi đi nhiều lắm . Trong các câu chuyện của tôi , các nhân vật tôi có toàn là bóng dáng anh , hình ảnh anh , cá tính của anh . Nỗi buồn vơi đi , nỗi nhớ thương có chỗ để đong đầy . Vậy mà đã 10 năm trôi qua , dù trong tâm tưởng tôi mọi chuyện như mới vừa hôm qua đây . Tôi dạn dĩ hơn với cuộc đời nhờ những bài viết . Tôi hiểu mình hơn , hiểu anh và hiểu tại sao những rạn nứt trong tình cám vợ chồng sứt mẻ tới vậy . Tôi cười chua chát vì sự ngu si của mình , qua đổ vỡ rồi mới hiểu . Tôi nhớ căn nhà cũ vô cùng . Tôi muốn một lần trở lại nhưng chưa tìm được lý do . Bao lần tôi bước qua , căn nhà vẫn im lìm nằm đó . Bao lần tôi thử đánh bạo bấm chuông , nhưng chuông cửa chưa kịp reo thì tôi đã vội chạy ra xe trở về cái chốn nhỏ của mình . Lần chót , tôi nghe tiếng đàn ông gọi giật . " Này chị , chị tìm ai thế " Người đàn ông tiếp theo " Tôi thấy chị quanh quẩn bao lần mà không tiện hỏi " Tôi xấu hổ vì bị bắt quả tang, lúng túng " Xin lỗi ông , căn nhà này trước kia của tôi ? " Người đàn ông tròn mắt " Chị là chị Nhan phải không ? " Tôi ngớ người , tiếng người đàn ông giục " Chị vào nhà đã , đợi tí " Tôi chỉ chờ có thế . Tôi bước vào trong , nghĩ mình sẽ tìm lại được gì đó cho riêng mình , chút xíu thôi tôi cũng an lòng mà đi mãi và sẽ không bao giờ trở lại . Ngạc nhiên vô cùng , tôi nhận ra cách bày trí sao mà quen thuộc qúa . Tôi bắt đầu nghi vấn , linh tính và tim trong lồng ngực nhảy loạn xạ cả lên . Tiếng garage đóng xuống , bước vào một người đàn ông khác , sao mà quen thuộc , như hình dáng ngày nào tôi có trong vòng tay . Lẽ ra tôi lắc đầu quầy quậy và nghĩ mình đang mơ . Tiếng anh thức tỉnh tôi " Nhan , em đến lâu chưa ? " Tôi ú ớ " Ơ sao lại là ... " " Có lẽ còn quá sớm để nói với em căn nhà này vẫn là của em !" Tôi vẫn còn anh , là điều tôi đã không ngờ nỗi , nay còn biết tôi vần còn ngôi nhà vì anh vẫn gìn giữ chốn kỷ niệm duy nhất tôi quý trọng ... đã vượt ra hẳn khỏi sức tưởng tượng của tôi .. Tôi không dám chạy lại anh mà ôm chầm lấy anh , với chiếc ghế gần đó tôi gieo mình xuống , lòng tràn ngập một cảm giác thật vô cùng thú vị dù trên cánh tay tôi mới rơi xuống hai giọt nước nóng hổi và trên môi tôi một nụ cười dù chưa thật trọn vẹn . Mục lục Ngôi nhà kỷ niệm Ngôi nhà kỷ niệm Vành KhuyênChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: Chim viêt. freeĐược bạn: Ct.ly đưa lên vào ngày: 30 tháng 11 năm 2004
Rings Memorial house I have been wandering for more than ten years. Not once in my life have I felt proud of having a certain place to live. The only time I built a home with my own hands was with you. The amount of suffering that poured down after buying that house, the loss of a child, unstable employment, the madness of winning and losing, and the everyday jealousy of a woman made me lose everything. I still clearly remember the last sentence he said as he walked away in the heavy rain "Do whatever you want, send me the house sale papers, I'll sign, the divorce papers" I really did. Now I regret it. Where are you ? Let me see you again. In the days and months that followed, I thought I was alive, but I wasn't. I am actually dead but my corpse still eats, sleeps, thinks, breathes and still wanders in this world. Anyone who saw me must have wondered in their hearts if I was just a ghost. I walked without looking at anyone. I locked myself in a rented two-room apartment, staying in one room. In the evening, when I come home from work, I go straight to my room, turn on the TV, and leave it there so there are no human sounds to avoid loneliness. So tired, I fell asleep without even realizing it. Sometimes I sleep until morning, sometimes I wake up and go out to find cold food to eat. Eat for yourself, eat without looking at the food and it tastes bitter in your mouth. The next day, when I came home earlier and opened the rice cooker from yesterday, I saw green mold streaks everywhere. I'm still looking at this with my eyes open, it's okay, any foolishness is only once. I miss him so much, especially the hot meals he cooked for me and carried me out to eat together... I almost went crazy in my mind. I braced myself for another collapse. Why ? At that time, there was no one else around me. You were not everything in my life, but you were the last belief I had that I didn't know how to keep. I have plenty of money. Buy anything. I heard from friends that talking to people you don't know can also share your joys and sorrows. I went to buy a computer to bring home as a friend. Every night when I go there, the boredom increases but does not subside. I still hear an endless restlessness deep in my heart. I started writing. Write for myself, for what I've been through. But it's much less. In my stories, the characters I have are all his silhouette, his image, his personality. The sadness subsides, the longing has a place to fill. Yet 10 years have passed, even though in my mind everything seems like it was just yesterday. I am more bold in life thanks to my articles. I understand myself better, understand him and understand why the cracks in the relationship between husband and wife are so broken. I laughed bitterly at my stupidity, only after the breakdown did I understand. I miss my old house so much. I want to return once but haven't found a reason yet. No matter how many times I passed by, the house still stood there silently. I tried many times to boldly ring the doorbell, but before the doorbell rang, I quickly ran to the car to return to my little place. The last time, I heard a man calling. " Hey sis, who are you looking for? " The next man " I've seen you around so many times but I don't have the opportunity to ask. " I'm embarrassed because I was caught red-handed, embarrassed " Sorry sir, this house used to be mine. ? " The man's eyes widened " Are you Ms. Nhan? " I was stunned, the man's voice urged " Come in, wait a minute " That's all I was waiting for. I stepped inside, thinking I would find something for myself, just a little bit and I would feel comfortable going forever and would never come back. Extremely surprised, I realized how familiar the layout was. I started to have doubts, my intuition and my heart jumped wildly in my chest. The sound of the garage closing, another man walked in, so familiar, like the figure I had in my arms that day. I should have shaken my head and thought I was dreaming. The English voice woke me up: "Nhan, have you been here long?" I mumbled, "Oh why..." "Maybe it's too early to tell you this house is still yours!" I still have you, which I didn't expect, now I know I still have the house because you still preserve the only place of memories I cherish... it's completely beyond my imagination.. I Not daring to run to him and hug him, I threw myself down on a nearby chair, my heart filled with an extremely exciting feeling even though two drops of hot water had just fallen on my arm and one on my lips. smile even though it's not perfect. Table of contents Memorial house Memorial house Vanh KhuyenWelcome to read books from the book project for mobile devices. Source: author: Nguyen Kim Vy. Final words: Thank you for reading the entire story. Source: editor: Nguyen Kim Vy. Source: Chim Viet. free Uploaded by: Ct.ly on: November 30, 2004
Nguyễn Khắc Phước Ngôi nhà ma Thanh niên trong thời chiến thì dù muốn hay không cũng phải đi lính, không bên nầy thì bên kia. Thiệt cũng vậy. Anh ở miền Nam , làm lính Việt Nam Cộng Hoà, nói nôm na là lính chế độ cũ hay lính nguỵ như bây giờ người ta thường gọi. Không biết có phải vì vóc dáng thư sinh gầy yếu, mắt kính cận hay là nhờ chạy chọt mà Thiệt được điều động về ngành quân nhu, làm nhân viên hành chính tài chính cho đơn vị . Và cũng không biết Thiệt đã làm lính được bao lâu , nhưng khi chuyển đến đơn vị đóng gần vành đai phi trường Đà Nẵng thì anh ta đeo lon trung sỉ, một vợ, hai con. Thời buổi chiến tranh mà được làm lính văn phòng thì số dách, lại thêm được cô vợ khoẻ mạnh, to béo như vỏ sĩ su-mô thì khỏi lo tốn tiền thuốc thang hoặc bị mấy tay sĩ quan gạ gẫm. Đơn vị quân nhu mới thành lập, lính tráng chưa quen thân nhau. Doanh trại cũng mới dựng ít nhà dành riêng cho bộ chỉ huy , nhà kho và lính bảo vệ. Lính văn phòng chưa có nhà ở, thoạt đầu còn phải thuê nhà dân , sáng đi , tối về như công chức. Thiệt ở nhà thuê hơn một tháng thì khu gia binh dành cho sĩ quan và lính văn phòng được khởi công trên khu đất cách doanh trại chừng nửa cây số. Khi xe ủi đến san lấp bãi hoang đầy lau lách, buị cây dại và ao hồ để tạo măt bằng thì người ta phát hiện được rất nhiều mô đất nhỏ như cái rá mà người ta nghi là những nấm mồ hoang. Hỏi dân địa phương thì họ bảo đó là những mả hời, có tiếng là linh thiêng. Người quanh vùng chẳng mấy ai lai vảng đến đó vì người ta đồn rằng ban đêm có ma hời tụm lại xoả tóc khóc tỉ tê. Những người lính công binh dù sợ nhưng cũng phải làm. Họ mời thầy cúng, thuê người bốc được dăm bảy bộ hài cốt , bỏ vào tiểu, đem chôn một nơi khác. Cũng chỉ bốc được những mồ nào còn nấm , chứ những cái tàn rồi, bằng phẳng với mặt đất, thì chẳng biết còn bao nhiêu. Rốt cục thì khu gia binh cũng được dựng xong. Các sĩ quan ưu tiên chọn lựa. Chỉ có một mình Thiệt là hạ sĩ quan nên phải nhận lô sau cùng. Lính công binh nói lô đất ấy có nhiều mả hời, nhưng Thiệt đành phải chịu. Thiệt dắt vợ con vào ở, dấu nhẹm chuyện mả mồ. Thế nhưng chưa đầy một tuần thì có chuyện kỳ quặc xảy ra. Nửa đêm Thiệt đang ngủ với vợ thì giật mình thức giấc vì những tiếng động lạ. Thoạt đầu là tiếng ly chén chạm nhau, sau đó là tiếng bàn ghế di chuyển như có ai đang dọn nhà, tiếng chân chạy trên mái tôn, tiếng rên rỉ, tiếng thở hì hục. Thiệt thức dậy bật đèn tìm kiếm nhưng không tìm thấy ai, chỉ có mấy chú chuột chạy kêu chút chít. Mọi vật vẫn ở yên vị trí , không hề di chuyển. Những đêm tiếp theo, không đêm nào mà không xảy ra chuyện tương tự. Thiệt đã từng tham gia trận mạc từ lúc còn binh nhì nên chẳng mấy sợ , nhưng cô vợ quá khiếp hãi nên dứt khoát đòi đi thuê nhà ở hoặc phải về quê. Quê Thiệt thuộc vùng giải phóng nên không thể về, còn thuê nhà thì không có tiền vì số tiền dành dụm đã dùng sạch vào việc mua sắm đồ đạc trong nhà. Lại còn nợ đơn vị mấy tháng lương. Ngược lại ở trong khu gia binh chẳng tốn một đồng xu tiền điện nước, lại được an toàn. Thiệt tạm thời xin cho vợ con vào ngủ trong văn phòng, còn mình thì ngủ ở nhà. Lính tráng mà sợ quái gì ma mũi. Được một tuần thì Thiệt có vẻ kiệt sức, mặt mày hốc hác vì mất ngủ. Đêm nào cũng phải thức dậy vì tiếng động lạ rồi nằm chong đèn đến sáng , không thể chợp mắt. Có lúc anh phải xin nghỉ ốm đi viện, nhưng sợ mất việc, phải đổi ra tiền tuyến nên cố gắng đi làm. Thiệt báo cáo chuyện nhà mình với đơn vị trưởng và được cấp trên điều động một binh nhì đến giúp việc văn phòng ban ngày, ban đêm thì về nhà ngủ với Thiệt. Trong thời gian ấy, đơn vị có hai sĩ quan người Mỹ đến làm cố vấn, ỏ lại trong doanh trại. Một người biết tiếng Việt trọ trẹ ngỏ ý muốn dạy tiếng Anh cho vợ Thiệt để làm thông dịch. Vợ Thiệt đã học gần hết phổ thông nên cũng biết đôi chút tiếng Anh. Được học tiếng Anh với người Mỹ chính gốc là một cơ hội rất hiếm nên cả hai vợ chồng Thiệt đều ô-kê. Ban ngày vợ Thiệt ở nhà, ban đêm vào học tiếng Anh trong doanh trại nên chẳng mấy chốc vợ Thiệt nói tiếng Anh như gió và được cử làm thông dịch viên cho đơn vị. Hai người Mỹ đi đâu cũng có vợ Thiệt cặp kè. Đôi khi họ đi công tác vài ba ngày mời về. Người ta tiếng vào tiếng ra, đồn đãi bậy bạ nhưng Thiệt không có ý kiến gì bởi đồng lương vợ Thiệt kiếm được khá lớn, chẳng bao lâu có thể trả xong nợ và mua nhà riêng. Lúc ấy Thiệt sẽ không cho vợ làm thông dịch nữa. Hơn nữa lúc ấy chắc sẽ có sĩ quan thông dịch được cử đến, có làm người ta cũng không cho. Lúc Thiệt được thăng chức thượng sĩ cũng là lúc biết vợ mình có bầu. Mấy người vợ lính to nhỏ rằng không biết Thiệt ngủ với vợ lúc nào mà cô ta có bầu. Chuyện đó chỉ có hai vợ chồng họ biết, làm sao người ngoài biết được. Không ban đêm thì ban ngày chủ nhật. Làm tình kiểu lính thì đánh nhanh, thắng lẹ, chớ có như dân thường đâu. Hồi Thiệt còn ở quân trường, mỗi lần chủ nhật vợ đến thăm, hai người kéo nhau ra bãi tập , che tấm pông-xô là xong. Hơn nữa, vợ chồng Thiệt vẫn vui vẻ hạnh phúc, chẳng mấy khi to tiếng. Người khác lại bảo rằng vợ Thiệt to béo, khoẻ mạnh thế kia thì nếu có chuyện gì Thiệt cũng không dám hó hé. Nó quật một cái thì rồi đời! Sắp đến ngày vợ sinh thì Thiệt cũng đặt cọc một ngôi nhà hai tầng giữa trung tâm thành phố. Người sĩ quan Mỹ tố bụng đã nhường cho Thiệt chiếc xe Jeep lùn của anh ta trước khi về nước. Chẳng mấy thượng sĩ có được xe riêng. Thiệt lấy làm hãnh diện khi chở vợ đi khám thai hàng tháng . Sau khi mua được nhà cho vợ con ở, Thiệt sẽ đi về bằng chiếc xe nầy. Đến ngày vợ sinh thì Thiệt lấy xe chở vợ đi bệnh viện. Thiệt được nghỉ phép ba ngày để lo cho vợ con. Sau ba ngày thì Thiệt một mình lái xe về. Không nói không rằng, anh ta rinh tất cả đồ đạc trong nhà ra đường và lấy xe cán bẹp. Lúc ấy vào sáng sớm, sắp tới giờ làm việc. người lính gác doanh trại hớt hãi chạy đi báo sĩ quan đơn vị trưởng : Thưa đại uý, em thấy thượng sĩ Thiệt hai tay cầm hai quả lựu đạn đi vào văn phòng, dáng vẽ căng thẳng . Khi viên đại uý dẫn lính đến đến thì phòng hành chánh tài chánh đã bị khoá chặt cửa bên trong. Tiếng Thiệt la to : Các người đi đi, nếu không thì chết cả đám bây giờ. Ngay khi mọi người vừa kịp nằm xuống khì hai tiếng lựu đạn nổ rầm rầm. Văn phòng bay tốc mái và người ta tìm thấy Thiệt chết ngay tại chỗ. Người ta đi kiếm vợ Thiệt nhưng chị ta đã bỏ đi khỏi bệnh viện, chẳng biết về đâu. Tháng 12, 2007 Mục lục Ngôi nhà ma Ngôi nhà ma Nguyễn Khắc PhướcChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: bạn: Ct.Ly đưa lên vào ngày: 6 tháng 10 năm 2008
Nguyen Khac Phuoc Haunted house Young people in wartime, whether they like it or not, have to join the army, if not one side, then the other. Damn it too. He was in the South, working as a soldier of the Republic of Vietnam, basically a soldier of the old regime or a puppet soldier as people often call it now. I don't know if it was because of his skinny, scholarly figure and near-sighted glasses, or because he was a hustler, Thiet was assigned to the military department to work as a financial administrative officer for the unit. And I don't know how long Thiet had been a soldier, but when he transferred to the unit stationed near the Da Nang airport, he had the title of middle-class soldier, a wife, and two children. During the war, being an office soldier was a good thing. Plus, having a wife who was as healthy and fat as a sumo warrior meant you didn't have to worry about wasting money on medicine or being propositioned by officers. The military supply unit had just been established, the soldiers were not yet familiar with each other. The barracks also recently built a few houses specifically for the command post, warehouses and guards. Office soldiers don't have a house yet, so at first they had to rent people's houses, leaving in the morning and coming back at night like civil servants. After living in a rented house for more than a month, the military housing area for officers and office soldiers was started on a plot of land about half a kilometer from the barracks. When bulldozers came to level the wasteland filled with reeds, wild trees and ponds to create a level surface, people discovered many small mounds of land like baskets that people suspected were abandoned graves. Ask local people and they say these are good graves, famous for being sacred. Not many people around the area go there because it is rumored that at night there are ghosts gathering and letting their hair down and crying. Although the engineer soldiers were afraid, they still had to do it. They invited a shaman and hired someone to pick up several sets of remains, put them in a urinal, and bury them somewhere else. We can only pick up those graves that still have mushrooms, but those that are already dead, flat with the ground, don't know how many are left. Finally, the military quarters were completed. Officers prioritize selection. Only Thiet was a non-commissioned officer, so he had to receive the last batch. The engineering soldiers said that that plot of land had many bargains, but Thiet had to accept it. Thiet brought his wife and children to live in, hiding the matter of the grave. But less than a week later, something strange happened. In the middle of the night, Thiet was sleeping with his wife when he was startled awake by strange noises. At first there was the sound of glasses and cups clinking together, then there was the sound of tables and chairs moving as if someone was cleaning the house, the sound of feet running on the corrugated iron roof, groans, and heavy breathing. I woke up and turned on the lights to search but couldn't find anyone, only a few mice running and squeaking. Everything remained in place, not moving at all. The following nights, not a single night went by without the same thing happening. Thiet had participated in battles since he was a private, so he wasn't afraid, but his wife was so scared that she insisted on renting a house or going back to her hometown. Que Thiet's hometown was in the liberated area so he couldn't return home, and he had no money to rent a house because all his savings had been used to buy furniture for the house. I still owe the unit several months' salary. On the contrary, living in the family area does not cost a penny in electricity and water bills, and is safe. For now, please let my wife and children sleep in the office, while I sleep at home. Soldiers are afraid of ghosts. After a week, Thiet seemed exhausted and his face was haggard due to lack of sleep. Every night I have to wake up because of strange noises and then lie under the lamp until morning, unable to sleep. There was a time when he had to take sick leave to go to the hospital, but was afraid of losing his job and having to go to the front line, so he tried to go to work. Thiet reported his family situation to the unit leader and his superiors assigned a private soldier to help in the office during the day, and at night he went home to sleep with Thiet. During that time, the unit had two American officers come as advisors and stay in the barracks. A person who knew Vietnamese poorly offered to teach Thiet's wife English to work as a translator. Thiet's wife has almost finished high school so she knows a little English. Learning English with native Americans is a very rare opportunity, so both Thiet and his wife were okay. Thiet's wife stayed at home during the day, but at night she studied English in the barracks, so Thiet's wife soon spoke English like the wind and was appointed as an interpreter for the unit. The two Americans were always accompanied by Thiet's wife wherever they went. Sometimes they go on business trips for a few days and are invited back. People were talking and gossiping, but Thiet had no opinion because Thiet's wife's salary was quite large and she could soon pay off her debt and buy her own house. At that time, Thiet will no longer let his wife work as an interpreter. Moreover, at that time, there will probably be an interpreter officer sent there, and even if they do, they won't let them. When Thiet was promoted to sergeant, that was also the time he found out his wife was pregnant. Several soldiers' wives, big and small, said they didn't know when Thiet slept with his wife and she got pregnant. Only the couple knew about that, how could outsiders know? If not at night, then during the day on Sunday. If you have sex like a soldier, you fight quickly and win quickly, not like a civilian. When Thiet was still at the military school, every Sunday his wife came to visit, the two of them would go to the training ground, cover themselves with ponchos and that's it. Moreover, Thiet and his wife are still happy and rarely raise their voices. Others said that Thiet's wife is so fat and strong that if anything happened, Thiet would not dare to say anything. It hits once and it's over! When his wife's birthday was approaching, Thiet also put down a deposit on a two-story house in the city center. The American officer accused Thiet of giving Thiet his short Jeep before returning home. Not many sergeants have their own car. I'm really proud to take my wife to her monthly prenatal checkup. After buying a house for his wife and children to live in, Thiet will go home by this car. On the day his wife gave birth, Thiet took the car to take his wife to the hospital. Thuy was given three days off to take care of his wife and children. After three days, Thiet drove home alone. Without saying a word, he took all the furniture in the house into the street and crushed it with his car. It was early in the morning, almost work time. The guard guarding the barracks hurriedly ran to tell the unit commander: Captain, I saw Sergeant Thiet walking into the office holding two grenades in both hands, looking tense. When the captain and his soldiers arrived, the financial administration room was locked from the inside. Thiet shouted loudly: You guys go, otherwise you'll all die. Just as everyone had time to lie down, two grenades exploded loudly. The roof of the office blew off and Thiet was found dead on the spot. People went to look for Thiet's wife, but she had already left the hospital and didn't know where she was going. December 2007 Table of contents Haunted house Haunted house Nguyen Khac PhuocWelcome to read the first books from the book project for mobile devices. Source: editor: Nguyen Kim Vy. Final words: Thank you for reading the entire story. Source: editor: Nguyen Kim Vy. Source: friend: Ct.Ly posted on: October 6, 2008
Phạm Tú Uyên Ngôn ngữ loài người có từ bao giờ - Ba ơi! Câu này con thấy không ổn, vì vừa rồi xem phim “Rô-bin-xơn”, ông ta sống một mình nơi hoang đảo, nhưng vì kiên nhẩn lao động mà một mình có thể làm được mọi việc. Tôi dừng tay cuốc, quay lại nhìn cậu con trai đang học lớp bảy, ngồi dưới gốc cây đọc sách: - Câu gì thế con? - Dạ, “nếu sống đơn độc, con người sẽ mãi chỉ là một con vật! - Đúng vậy con ạ! Thật ra câu chuyện của anh chàng Rô-bin-xơn đâu có như cuốn sách của Đề-phô kể lại. Nguồn gốc của cuốn sách đó là cuộc đời của một anh thủy thủ vì tội đã lôi kéo các bạn trên tàu nổi loạn, bị đưa ra đày ở một hòn đảo hoang vắng giữa đại dương. Rất nhiều năm về sau, khi có những nhà du lịch đến đảo hoang đó, thì người chủ nhân độc nhất sống ở đảo đã trở thành một người dã man thật sự rồi. Anh ta không nói được nữa và giống một con thú hơn là người. Tôi định tiếp tục xới luống rau thì cu Hải đặt cuốn sách đang xem xuống gốc cây, đến bên tôi: - Sao Rô-bin-xơn lại không nói được ba nhỉ? - Vì anh ta không có nhu cầu giao tiếp. Sự biến dạng của thanh quản, của xương hàm do quá trình lao động đơn độc khiến anh ta mất dần tiếng nói. Cậu con trai ngồi xuống giũ giũ mấy bụi cỏ sau làn cuốc. Ngước nhìn tôi: - Con nhổ cỏ với ba nhá? - Con ngoan! Hai cha con ta cùng làm cho vui. Cu Hải vuốt mấy cọng cỏ trên tay, ngần ngừ hỏi: - Ba ơi! Ba có biết ngôn ngữ từ đâu mà có không? - Ngôn ngữ từ đâu mà có à? Tôi gác cán cuốc trên vồng khoai lang, ngồi xuống nhìn cậu con trai đùa: - Khi con ngồi đọc sách một nơi ba xới cỏ một nẻo, khi đó ngôn ngữ chưa xuất hiện. Lúc hai cha con ta cùng làm một công việc thì…ngôn ngữ xuất hiện! Cu Hải phụng phịu: - Ba lại đùa con rồi! Tôi hắng giọng: - Ba đùa cho vui đấy. Muốn biết được điều này, chúng ta lại bắt đầu trở về với quá khứ xa xưa, con nhé! Cậu con vui hẳn lên, nhích lại ngồi gần tôi: - Lại một chuyến du lịch thú vị, ba nhỉ? - Năm 1924 những nhà khảo cổ họcLiên Xô cũ đào ở trong hang Kích cô-ban gần Xim-phê-rô-pô-li tại Crưm, tìm được những bộ xương của người thượng cổ. Vì tìm được ở thung lũng Nê-ăng-déc nên các nhà bác học gọi tên người thời đó là người ”Nê-ăng-déc-tan”. Trải qua hàng chục vạn năm tiến hóa, anh ta đã khác xa Người-Vượn trước kia rồi. - Vậy đã đứng thẳng hay còn…đi lòm khòm ba nhỉ? - Chưa hoàn toàn thẳng như chúng ta nhưng cũng đã đỡ rồi con ạ. Từ chổ đi bằng bốn chân tiến lên dùng hai chân và đứng thảng để di chuyển là cả một quá trình tính bằng chục vạn năm! - Thật kinh khủng! - Khi trông thấy người Nê-ăng-déc-tan chúng ta không còn hoài nghi “người hay vượn?” Đúng là người nhưng còn nhiều nét giống vượn vì anh ta có cái trán thấp và thụt về phía sau, đôi mắt sâu hóm, răng cửa nhô ra trước. Hàm dưới của người Nê-ăng-déc-tan chưa thích ứng với việc nói thành tiếng. Với cái trán và cái hàm ấy anh ta chưa thể suy nghĩ và nói như chúng ta được… Nhưng anh ta cần phải nói. Lao động tập thể buộc anh ta phải nói. Muốn cùng chung sức lao động với nhau, người ta cần phải thỏa thuận là phải làm gì. Như vậy không thể đợi cằm và hàm phát triển rồi mới tập nói. Mà muốn cằm và hàm phát triển cần thêm cả ngàn năm sau! Cu Hải liếng thoắng: - Con đoán là anh ta phải dùng mọi cách để phát biểu ý mình, kể cả toàn thân. Phải không ba? - Con thông minh đấy! Đáng lẽ nói: “cho tôi” anh ta đưa hai bàn tay ngửa, về phía trước. Đói? Anh ta há miệng. Gọi người khác anh ta vẫy tay… Thậm chí có lúc còn phát ra âm thanh “é…é…” để buộc người khác chú ý. - Đọc sách con còn biết vào thời ấy người tiền sử không những chỉ hái, lượm mà còn săn cả những con thú lớn ba ạ! - Thức ăn không phải chỉ hái lượm hoa quả, nhu cầu cần có cả thịt. Bằng chứng là quanh những bộ xương người tiền sử còn có rất nhiều xương những động vật, có cả xương voi Ma mút. Con thấy đấy! Làm thế nào mà người đi săn thời tiền sử với vũ khí thô sơ như vậy đã thắng những con voi Ma mút khổng lồ đó? - Họ có thể đào hầm, đặt bẫy - Đúng rồi! Họ còn đốt cả cánh rừng để đuổi con voi khổng lồ sa xuống đầm lầy. Nếu họ không dùng ngôn ngữ, dù là ngôn ngữ bằng điệu bộ thì làm sao hàng trăm mũi lao cùng một lúc được phóng thẳng tới con vật, làm sao cả đoàn người nhất tề tiến lên nếu không có sự chỉ huy, những quy ước được quy định trước bằng điệu bộ. Cu Hải gật gật đầu, đưa mắt nhìn về xa xăm. Tôi nói: - Ngôn ngữ bằng điệu bộ của loài người bắt đầu từ đó, từ cuộc sống bầy đàn… - Ba ơi! Thế tiếng nói đến khi nào mới có? - Thực ra tiếng nói không có sẵn để con người lúc đó học. Một tiếng kêu the thé cùng với động tác nhảy cỡn lên để báo hiệu vui mừng. Hoặc một nhóm mười người đang hè nhau kéo tảng thịt đùi của con voi Ma mút. Không thể dùng động tác tay để ra hiệu cùng kéo được, buộc anh ta phải “hự, hự” trong cuống họng để mọi người nhịp nhàng kéo tảng thịt về hang. - Giống như mình hô “dô ta”… Nhưng rồi cậu con trai nhíu mày ra vẻ suy nghĩ, dè dặt nói: - Nhưng con vật nó cũng kêu như vậy mà ba! Con khỉ nó”khẹc! khẹc” con chó “gâu gâu”… - Đúng rồi! Nhưng đó là tiếng kêu. Tuyệt nhiên khỉ chẳng thể nào “gâu gâu” hoặc con chó lại bắt chước “khẹc khẹc”. Con biết đấy, do cấu tạo xương hàm lúc ấy chưa thích ứng nói được thành tiếng, người cổ đại cố phát ra những âm thanh để diễn đạc con vật mà anh ta vừa hạ được – quá trình dài cả hàng nghìn năm con ạ! Điều này, con vật không bao giờ làm được. Hơn thế, trong quá trình lao động, trong quan hệ bầy đàn, giữa rừng rậm hay trong bóng đêm, ngôn ngữ điệu bộ trở nên hạn chế, đôi khi mất tác dụng. Thế nên họ phải bằng mọi cách phát ra những âm thanh quy ước. Đó là tiếng nói sơ khai của loài người! - Có phải từng bầy đàn có những âm thanh quy ước khác nhau không ba? - Đúng rồi con! - Vậy là con hiểu vì sao có tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Trung Quốc… Tôi lườm cậu con trai lém lỉnh, mắng yêu: - Thôi, vào nhà tắm rửa cho tôi nhờ! Phạm Tú Uyên Mục lục Ngôn ngữ loài người có từ bao giờ Ngôn ngữ loài người có từ bao giờ Phạm Tú UyênChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: Tác giả/ VNthuquan - Thư viện OnlineĐược bạn: Ct.Ly đưa lên vào ngày: 30 tháng 10 năm 2009
Pham Tu Uyen Since when did human language exist? - Daddy! I don't think this sentence is right, because I just watched the movie "Robinson", he lives alone on a deserted island, but because of his patient work, he can do everything alone. I stopped hoeing, turned back to look at my son, who was in seventh grade, sitting under a tree reading a book: - What's the question? - Yes, “if we live alone, man will always be just an animal! - That's right, my child! In fact, Robinson's story is not as told in Depho's book. The origin of the book is the life of a sailor who, for the crime of inciting his friends on the ship to rebel, was sent into exile on a deserted island in the middle of the ocean. Many years later, when tourists came to that deserted island, the sole owner living on the island became a real barbarian. He could no longer speak and looked more like an animal than a man. I was about to continue digging the vegetable patch when Hai put the book he was reading down at the base of the tree and came to me: - Why can't Robinson say dad? - Because he has no need to communicate. Deformation of the larynx and jawbone due to solitary labor caused him to gradually lose his voice. The boy sat down and shook some grass behind the hoe. Looking up at me: - Will you pull weeds with dad? - Good child! The two of us work together for fun. Cu Hai stroked a few blades of grass in his hand and hesitantly asked: - Dad! Do you know where language comes from? - Where does language come from? I put the hoe handle on the sweet potato bed, sat down and watched my son joke: - When you sit and read a book in one place, I mow the grass in another, then language has not yet appeared. When father and son worked together on the same job...language appeared! Cu Hai pouted: - Dad, you're kidding me again! I cleared my throat: - Dad, you're joking. To know this, let's start going back to the ancient past, my child! The son was so happy, he moved closer to sit next to me: - Another interesting trip, right Dad? - In 1924, archaeologists from the former Soviet Union dug in the Kichcobal cave near Simpheropoli in Crimea and found the skeletons of ancient people. Because they were found in the Neanzek valley, the scholars called the people of that time "Neanzektan". After tens of thousands of years of evolution, he has become far different from the previous Ape-Man. - So are you standing straight or still... walking hunched over? - Not quite as straight as us, but it's getting better. From walking on all fours to using two legs and standing still to move is a process that takes tens of thousands of years! - Awful! - When we see Neanderthals, we no longer doubt "human or ape?" It's true that he's human, but he still has many ape-like features because he has a low, receding forehead, deep-set eyes, and protruding front teeth. The Neanderthals' lower jaw is not yet adapted to speaking out loud. With that forehead and jaw, he can't think and speak like us yet... But he needs to speak. Collective labor forced him to speak. To work together, people need to agree on what to do. So we cannot wait for the chin and jaw to develop before learning to speak. But for the chin and jaw to develop, it takes thousands of years! Cu Hai said quickly: - I guess he had to use every means to express his thoughts, including his whole body. Is that right, Dad? - You're smart! Instead of saying: "give me" he raised his hands up, forward. Hungry? He opened his mouth. Calling others, he waved his hand... Sometimes he even made the sound "é...e..." to force others to pay attention. - Reading books, I also know that at that time prehistoric people not only picked and gathered but also hunted big animals, dad! - Food is not just about gathering fruit, the need also includes meat. Evidence is that around prehistoric human skeletons there are many animal bones, including mammoth bones. You see! How did prehistoric hunters with such primitive weapons overcome those giant Mammoths? - They can dig tunnels and set traps - That's right! They even burned the entire forest to chase the giant elephant into the swamp. If they did not use language, even if it was through gestures, how could hundreds of spears be launched straight at the animal at the same time, how could the whole group of people advance as one without command and conventions? predetermined by gesture. Cu Hai nodded, looking into the distance. I said: - Human gesture language starts from there, from group life... - Dad! So when will the voice come? - Actually, speech was not available for people to learn at that time. A high-pitched cry along with a jumping movement signals joy. Or a group of ten people pulling together a piece of mammoth thigh meat. It was impossible to use hand movements to signal and pull, forcing him to "huff, huff" in his throat so that everyone could rhythmically pull the piece of meat back to the cave. - It's like I shouted "dô ta"... But then the son frowned thoughtfully and said cautiously: - But animals also cry like that, dad! "That monkey" cack! woof” the dog “woof woof”… - That's right! But it was a cry. It is absolutely impossible for a monkey to "woo woof" or a dog to imitate "cackle". You know, because the structure of the jaw bone at that time was not yet adapted to speaking out loud, ancient people tried to make sounds to express the animal they had just killed - a process that took thousands of years! This, animals can never do. Moreover, in the process of labor, in group relations, in the middle of the jungle or in the dark, body language becomes limited and sometimes loses its effectiveness. So they have to make conventional sounds by all means. That is the primitive voice of humanity! - Does each herd have different conventional sounds? - That's right, son! - So you understand why there is English, French, Chinese... I glared at my cheeky son and scolded him: - Come on, go home and wash me up! Pham Tu Uyen Table of contents Since when did human language exist? Since when did human language exist? Pham Tu Uyen Welcome to read books from the book project for mobile devices. Source: author: Nguyen Kim Vy. Final words: Thank you for reading the entire story. Source: editor: Nguyen Kim Vy. Source: Author/ VNthuquan - Online Library Posted by: Ct.Ly on: October 30, 2009
Kim Lê Ngôn Ngữ Trái Tim Đây là một câu chuyện có thực, kỷ niệm mối tình đầu của tôi. Có những cô gái hàng ngày ta chuyện trò tiếp xúc, nhưng vẫn thấy xa lạ, vẫn thấy có một khoảng cách vô hình. Một khoảng cách rất gần nhưng ăng ten trong tiềm thức của ta không bắt được sóng. Nó hờ hững vô cảm, đôi khi làm méo mó con người thật của ta. Nhưng ngược lại, có những cô gái ta thoạt gặp lần đầu, tuy không hề quen biết, ta đã thấy rung động. Dù không hề chuyện trò, chỉ nhìn vào ánh mắt, ta đã cảm thấy có sự đồng điệu và thân thiết với người ấy từ lâu. Phải chăng đó là luồng điện sinh học của hai người cùng tần sóng. Hay giải thích theo tâm linh huyền bí đó là “Thần giao cách cảm”. *** Hồi đó tôi đang học năm thứ nhất trường cao đẳng mỹ thuật. Nhà tôi ở dưới Mơ, hàng ngày đi học bằng tàu điện. Chuyến tàu điện đến Mơ, quay đầu. Tôi để ý đến một tốp nữ sinh đang ríu rít lên tàu. Trong đó có một nữ sinh tóc đuôi sam, dáng dong dỏng cao, khuôn mặt luôn sáng lên vì nụ cười. Thoạt nhìn cô gái, tôi như bị hút hồn. Mặt tôi nóng bừng, tay rịn rịn mồ hôi. Cô gái nhìn lướt qua, gặp ánh mắt lúng túng của tôi. Tôi cụp mắt xuống, cảm như có một luồng điện cực mạnh chạy dọc suốt sống lưng, người chơi vơi hụt hẫng. Đến mấy lần gặp sau, đáng nhẽ phải về nhà nghỉ trưa, tôi quyết định bám tàu lộn ngược lại. Tàu chuyển bánh. Tôi lặng lẽ nhìn, lặng lẽ theo dõi. Cô gái có cặp mắt thật đẹp, lung linh đầy thánh thiện. Cô ta nhìn lướt về phía tôi. Tôi lại cụp mắt xuống, cảm như có một luồng điện chạy dọc suốt sống lưng… Tàu đỗ chợ Hôm, cô ta xuống. Tôi như bị cô gái thôi miên hút cùng xuống lúc nào không biết. Dáng người tuyệt đẹp, nhìn đằng sau lại càng đẹp. Tôi cứ lẵng nhẵng bám theo, giữ một khoảng cách cần thiết. Hình như cô gái biết có người theo mình, cô ta đi chầm chậm và thỉnh thoảng ngoái đầu nhìn lại. Tôi giả vờ ngoảnh mặt đi chỗ khác ( trời ơi…! Sao lúc ấy tôi nhát thế không biết !?). Cô gái rẽ vào phố nhỏ. Đến ngôi nhà cũ kiểu Pháp, một bé trai chạy ra reo to: A! Chị Hà đi học về. Thông tin đầu tiên tôi được biết. Cô gái tên là Hà, địa chỉ 493 phố… Vài lần bám đuôi và lần nào cũng bị hút theo như thế, tôi được biết thêm qua tốp nữ sinh chuyện trò, Hà đang học cuối cấp, ở một trường cấp ba ven đô. *** Hôm đó là ngày tựu trường. Sau khi chia tay với lũ bạn sau mấy tháng hè gặp lại. Tôi ra Hàng Bài đón tàu về nhà. Khi tàu đến Mơ, tôi đảo mắt tìm Hà trong đám nữ sinh đang ríu rít lên tàu, nhưng… không thấy. Tôi thấy hụt hẫng như thiếu đi một cái gì đấy thân quen, thiếu đi một cái gì đấy gần gũi, ẩn sâu nơi trái tim câm lặng của tôi. Tôi lững thững về nhà. Khi về đến gần nhà, tiếng loa phóng thanh treo ở cột điện ngã tư bỗng oang oang “máy bay địch cách Hà Nội 80 cây số, các lực lượng võ trang chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu”. Lúc sau “máy bay địch cách Hà Nội 20 cây số, đồng bào mau chóng vào hầm trú ẩn,………”. Tiếng còi báo động rú lên từng hồi. Vừa dứt tiếng còi, âm thanh phản lực đã rít lên rạch ngang bầu trời. Tôi nháo nhào chạy bổ đến chiếc hầm cá nhân ở hè đường, kéo nắp, tụt vội xuống. Oành! Oành! Những tiếng nổ đanh gọn, vôi vữa rơi lả tả… Lúc sau, tiếng còi báo yên vang lên. Tôi ra khỏi hầm trú ẩn. Hai quả bom bi nổ chỉ cách hầm của tôi hai tầm tay với, khoét sâu một mảng gạch vỡ hè đường. Trên bức tường đối diện nham nhở vết bom bi như tổ ong. Chiếc thùng phuy đựng nước cứu hoả kế bên, lỗ chỗ vết thủng như có kẻ tinh nghịch lấy đinh mười đóng vào, nước chảy ra tồ tồ. Bên kia đường có tiếng léo nhéo: Ở ngã tư có người bị bom bi. Tôi vội chạy ra. Ra đến nơi thấy một đám người vây quanh, tôi lách vào. Người bị nạn là một cô gái đang ngồi tựa lưng vào tường, bên ngực phải vết máu loang đỏ. Tôi định thần nhìn kỹ, như có một luồng điện chạy dọc suốt sống lưng. Đúng rồi! Không ngoài ai khác. Đó chính là Hà! Cô bạn đứng bên luống cuống không biết làm gì. Một chị mang bông băng chạy ra, tôi vội giật lấy, ngồi thụp xuống bên Hà, bằng những kiến thức sơ đẳng về cấp cứu đã học ở trường, tôi băng bó để cầm máu cho Hà. Mọi người nhốn nháo. “Gọi xe cấp cứu!” “Bưu điện giờ này đóng cửa!” “Xe xích lô cũng được!”. Tôi ngó ra đường, không có chiếc xe nào, bèn sấp ngửa chạy lại phía cổng chợ, vớ chiếc xích lô chở lợn của ông An để bên gốc si, tôi nhẩy lên đạp vội vàng. Tôi bế xốc Hà đặt lên xe, cô bạn cũng nhảy lên theo. Xe hướng thẳng bệnh viện Bạch Mai. Tôi gò lưng đạp. Hà thiêm thiếp rên khe khẽ. Cô bạn mặt tái mét, hổn hển: Chúng em ở trường về…chạy ra hầm trú ẩn không kịp… Tôi gò lưng đạp, cho xe chạy thẳng vào phòng cấp cứu. Y, bác sĩ vội đẩy băng ca ra, chuyển nạn nhân vào trong. Tôi và cô bạn ở ngoài chờ. Lúc sau, tôi bảo: - Phải báo cho nhà Hà biết! - Ơ..!- Cô bạn ngạc nhiên- Anh quen nó à? - Ừ… - Nhà nó ở phố…. số nhà 493. - Ừ…, biết rồi! - ?... Tôi chạy vội ra, nhảy lên chiếc xe chở lợn đạp thẳng hướng Chợ Hôm. Khi tôi chở mẹ Hà đến. Ông bác sĩ trán lấm tấm mồ hôi đi ra thông báo: Chúng tôi đã mổ lấy bi ra, cháu mất máu nhiều, nhưng đã qua được cơn nguy kịch, gia đình cứ yên tâm! Hà nằm thiêm thiếp, khi mở mắt nhìn thấy tôi đứng bên, Hà đã nhận ra tôi. Qua ánh mắt của Hà, tôi đã đọc được những ý nghĩ thầm kín cất giữ nơi trái tim, có phần hờn trách dành cho tôi. Tôi ngợp chìm trong mắt Hà, thấy bao la một khoảng trời êm dịu . Tôi nắm khẽ bàn tay lạnh ngắt của Hà, người tôi run lên cảm nhận rõ nhịp đập đôi tim như hoà cùng làm một. Hà nhìn tôi và khẽ gượng nụ cười… Sang đến ngày thứ hai, Hà kêu đau ở mạng sườn. Bác sĩ chụp x quang, thấy còn sót bi, quyết định mổ tiếp. Lần này thì Hà không qua khỏi… Tôi lặng lẽ bám sau xe tang. Trong lòng trĩu nặng… hẫng hụt… như vừa mất một người bạn thân thương nhất trên đời. Tuy chưa một lần trò chuyện, chỉ qua ánh mắt nhìn nhau đã như một lời gửi gắm thầm kín tận đáy lòng. Mắt tôi nhoè ướt… Những ngày sau đó, hình bóng Hà luôn quấn quýt theo tôi vào giấc ngủ, vào bữa ăn, vào những buổi lên lớp. Có những buổi đi học về, tôi đứng trên tàu điện bơ vơ trống trải, nhìn thấy những cô gái khác mà tôi cứ ngỡ là Hà đang hiện hữu. Đấy là mối tình đầu, tuy câm lặng, nhưng trái tim của tôi đã thực sự rung lên khi gặp Hà, thực sự tổn thương khi mất Hà. Ngay lúc bế xốc Hà lên xích lô, mặc dù không hề có ý niệm gì về thể xác, nhưng là lần đầu tiên tôi tiếp xúc với cơ thể phụ nữ. Lần đầu tiên bên ngực trái của tôi, nơi cất giấu trái tim của một chàng trai loang đỏ vết máu của Hà. *** Tôi mở tủ, lấy ra một hộp các tông, trong là chiếc sơ mi màu xanh trứng sáo. Chiếc sơ mi đó, tôi cất giữ như một kỷ vật. Một kỷ vật khắc sâu thời tuổi trẻ trong sáng và ắp đầy hoài bão, đánh dấu bước đầu chập chững trên đường đời bao gian nan vất vả, trong đó có mồ hôi,nước mắt và có cả máu nữa… Tôi nâng chiếc áo, áp mặt vào vệt máu đã sẫm đi của Hà , hình ảnh Hà với ánh mắt rạng rỡ thánh thiện lại hiển hiện trước mắt…Phải chăng, đó là thông điệp cuối cùng, Hà nhắn gửi cho tôi. Mục lục Ngôn Ngữ Trái Tim Ngôn Ngữ Trái Tim Kim LêChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: Tác giả /VNthuquan - Th vưiện OnlineĐược bạn: Ct.Ly đưa lên vào ngày: 22 tháng 9 năm 2009
Kim Lê Ngôn Ngữ Trái Tim Đây là một câu chuyện có thực, kỷ niệm mối tình đầu của tôi. Có những cô gái hàng ngày ta chuyện trò tiếp xúc, nhưng vẫn thấy xa lạ, vẫn thấy có một khoảng cách vô hình. Một khoảng cách rất gần nhưng ăng ten trong tiềm thức của ta không bắt được sóng. Nó hờ hững vô cảm, đôi khi làm méo mó con người thật của ta. Nhưng ngược lại, có những cô gái ta thoạt gặp lần đầu, tuy không hề quen biết, ta đã thấy rung động. Dù không hề chuyện trò, chỉ nhìn vào ánh mắt, ta đã cảm thấy có sự đồng điệu và thân thiết với người ấy từ lâu. Phải chăng đó là luồng điện sinh học của hai người cùng tần sóng. Hay giải thích theo tâm linh huyền bí đó là “Thần giao cách cảm”. *** Hồi đó tôi đang học năm thứ nhất trường cao đẳng mỹ thuật. Nhà tôi ở dưới Mơ, hàng ngày đi học bằng tàu điện. Chuyến tàu điện đến Mơ, quay đầu. Tôi để ý đến một tốp nữ sinh đang ríu rít lên tàu. Trong đó có một nữ sinh tóc đuôi sam, dáng dong dỏng cao, khuôn mặt luôn sáng lên vì nụ cười. Thoạt nhìn cô gái, tôi như bị hút hồn. Mặt tôi nóng bừng, tay rịn rịn mồ hôi. Cô gái nhìn lướt qua, gặp ánh mắt lúng túng của tôi. Tôi cụp mắt xuống, cảm như có một luồng điện cực mạnh chạy dọc suốt sống lưng, người chơi vơi hụt hẫng. Đến mấy lần gặp sau, đáng nhẽ phải về nhà nghỉ trưa, tôi quyết định bám tàu lộn ngược lại. Tàu chuyển bánh. Tôi lặng lẽ nhìn, lặng lẽ theo dõi. Cô gái có cặp mắt thật đẹp, lung linh đầy thánh thiện. Cô ta nhìn lướt về phía tôi. Tôi lại cụp mắt xuống, cảm như có một luồng điện chạy dọc suốt sống lưng… Tàu đỗ chợ Hôm, cô ta xuống. Tôi như bị cô gái thôi miên hút cùng xuống lúc nào không biết. Dáng người tuyệt đẹp, nhìn đằng sau lại càng đẹp. Tôi cứ lẵng nhẵng bám theo, giữ một khoảng cách cần thiết. Hình như cô gái biết có người theo mình, cô ta đi chầm chậm và thỉnh thoảng ngoái đầu nhìn lại. Tôi giả vờ ngoảnh mặt đi chỗ khác ( trời ơi…! Sao lúc ấy tôi nhát thế không biết !?). Cô gái rẽ vào phố nhỏ. Đến ngôi nhà cũ kiểu Pháp, một bé trai chạy ra reo to: A! Chị Hà đi học về. Thông tin đầu tiên tôi được biết. Cô gái tên là Hà, địa chỉ 493 phố… Vài lần bám đuôi và lần nào cũng bị hút theo như thế, tôi được biết thêm qua tốp nữ sinh chuyện trò, Hà đang học cuối cấp, ở một trường cấp ba ven đô. *** Hôm đó là ngày tựu trường. Sau khi chia tay với lũ bạn sau mấy tháng hè gặp lại. Tôi ra Hàng Bài đón tàu về nhà. Khi tàu đến Mơ, tôi đảo mắt tìm Hà trong đám nữ sinh đang ríu rít lên tàu, nhưng… không thấy. Tôi thấy hụt hẫng như thiếu đi một cái gì đấy thân quen, thiếu đi một cái gì đấy gần gũi, ẩn sâu nơi trái tim câm lặng của tôi. Tôi lững thững về nhà. Khi về đến gần nhà, tiếng loa phóng thanh treo ở cột điện ngã tư bỗng oang oang “máy bay địch cách Hà Nội 80 cây số, các lực lượng võ trang chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu”. Lúc sau “máy bay địch cách Hà Nội 20 cây số, đồng bào mau chóng vào hầm trú ẩn,………”. Tiếng còi báo động rú lên từng hồi. Vừa dứt tiếng còi, âm thanh phản lực đã rít lên rạch ngang bầu trời. Tôi nháo nhào chạy bổ đến chiếc hầm cá nhân ở hè đường, kéo nắp, tụt vội xuống. Oành! Oành! Những tiếng nổ đanh gọn, vôi vữa rơi lả tả… Lúc sau, tiếng còi báo yên vang lên. Tôi ra khỏi hầm trú ẩn. Hai quả bom bi nổ chỉ cách hầm của tôi hai tầm tay với, khoét sâu một mảng gạch vỡ hè đường. Trên bức tường đối diện nham nhở vết bom bi như tổ ong. Chiếc thùng phuy đựng nước cứu hoả kế bên, lỗ chỗ vết thủng như có kẻ tinh nghịch lấy đinh mười đóng vào, nước chảy ra tồ tồ. Bên kia đường có tiếng léo nhéo: Ở ngã tư có người bị bom bi. Tôi vội chạy ra. Ra đến nơi thấy một đám người vây quanh, tôi lách vào. Người bị nạn là một cô gái đang ngồi tựa lưng vào tường, bên ngực phải vết máu loang đỏ. Tôi định thần nhìn kỹ, như có một luồng điện chạy dọc suốt sống lưng. Đúng rồi! Không ngoài ai khác. Đó chính là Hà! Cô bạn đứng bên luống cuống không biết làm gì. Một chị mang bông băng chạy ra, tôi vội giật lấy, ngồi thụp xuống bên Hà, bằng những kiến thức sơ đẳng về cấp cứu đã học ở trường, tôi băng bó để cầm máu cho Hà. Mọi người nhốn nháo. “Gọi xe cấp cứu!” “Bưu điện giờ này đóng cửa!” “Xe xích lô cũng được!”. Tôi ngó ra đường, không có chiếc xe nào, bèn sấp ngửa chạy lại phía cổng chợ, vớ chiếc xích lô chở lợn của ông An để bên gốc si, tôi nhẩy lên đạp vội vàng. Tôi bế xốc Hà đặt lên xe, cô bạn cũng nhảy lên theo. Xe hướng thẳng bệnh viện Bạch Mai. Tôi gò lưng đạp. Hà thiêm thiếp rên khe khẽ. Cô bạn mặt tái mét, hổn hển: Chúng em ở trường về…chạy ra hầm trú ẩn không kịp… Tôi gò lưng đạp, cho xe chạy thẳng vào phòng cấp cứu. Y, bác sĩ vội đẩy băng ca ra, chuyển nạn nhân vào trong. Tôi và cô bạn ở ngoài chờ. Lúc sau, tôi bảo: - Phải báo cho nhà Hà biết! - Ơ..!- Cô bạn ngạc nhiên- Anh quen nó à? - Ừ… - Nhà nó ở phố…. số nhà 493. - Ừ…, biết rồi! - ?... Tôi chạy vội ra, nhảy lên chiếc xe chở lợn đạp thẳng hướng Chợ Hôm. Khi tôi chở mẹ Hà đến. Ông bác sĩ trán lấm tấm mồ hôi đi ra thông báo: Chúng tôi đã mổ lấy bi ra, cháu mất máu nhiều, nhưng đã qua được cơn nguy kịch, gia đình cứ yên tâm! Hà nằm thiêm thiếp, khi mở mắt nhìn thấy tôi đứng bên, Hà đã nhận ra tôi. Qua ánh mắt của Hà, tôi đã đọc được những ý nghĩ thầm kín cất giữ nơi trái tim, có phần hờn trách dành cho tôi. Tôi ngợp chìm trong mắt Hà, thấy bao la một khoảng trời êm dịu . Tôi nắm khẽ bàn tay lạnh ngắt của Hà, người tôi run lên cảm nhận rõ nhịp đập đôi tim như hoà cùng làm một. Hà nhìn tôi và khẽ gượng nụ cười… Sang đến ngày thứ hai, Hà kêu đau ở mạng sườn. Bác sĩ chụp x quang, thấy còn sót bi, quyết định mổ tiếp. Lần này thì Hà không qua khỏi… Tôi lặng lẽ bám sau xe tang. Trong lòng trĩu nặng… hẫng hụt… như vừa mất một người bạn thân thương nhất trên đời. Tuy chưa một lần trò chuyện, chỉ qua ánh mắt nhìn nhau đã như một lời gửi gắm thầm kín tận đáy lòng. Mắt tôi nhoè ướt… Những ngày sau đó, hình bóng Hà luôn quấn quýt theo tôi vào giấc ngủ, vào bữa ăn, vào những buổi lên lớp. Có những buổi đi học về, tôi đứng trên tàu điện bơ vơ trống trải, nhìn thấy những cô gái khác mà tôi cứ ngỡ là Hà đang hiện hữu. Đấy là mối tình đầu, tuy câm lặng, nhưng trái tim của tôi đã thực sự rung lên khi gặp Hà, thực sự tổn thương khi mất Hà. Ngay lúc bế xốc Hà lên xích lô, mặc dù không hề có ý niệm gì về thể xác, nhưng là lần đầu tiên tôi tiếp xúc với cơ thể phụ nữ. Lần đầu tiên bên ngực trái của tôi, nơi cất giấu trái tim của một chàng trai loang đỏ vết máu của Hà. *** Tôi mở tủ, lấy ra một hộp các tông, trong là chiếc sơ mi màu xanh trứng sáo. Chiếc sơ mi đó, tôi cất giữ như một kỷ vật. Một kỷ vật khắc sâu thời tuổi trẻ trong sáng và ắp đầy hoài bão, đánh dấu bước đầu chập chững trên đường đời bao gian nan vất vả, trong đó có mồ hôi,nước mắt và có cả máu nữa… Tôi nâng chiếc áo, áp mặt vào vệt máu đã sẫm đi của Hà , hình ảnh Hà với ánh mắt rạng rỡ thánh thiện lại hiển hiện trước mắt…Phải chăng, đó là thông điệp cuối cùng, Hà nhắn gửi cho tôi. Mục lục Ngôn Ngữ Trái Tim Ngôn Ngữ Trái Tim Kim LêChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: Tác giả /VNthuquan - Th vưiện OnlineĐược bạn: Ct.Ly đưa lên vào ngày: 22 tháng 9 năm 2009
Khuyết Danh Ngôn ngữ tình yêu Hai người yêu nhau nhưng gặp sự phản đối mạnh mẽ từ phía gia đình nhà cô gái. Họ cho rằng chàng trai không xứng đáng với địa vị của gia đình cô và họ sẽ không tha thứ cho cô nếu tiếp tục có quan hệ với anh ta.Mặc dù cô gái rất yêu chàng trai, nhưng khi hai người gặp nhau cô luôn hỏi: "Anh có yêu em nhiêu không?". Cô hay bực bội do chàng trai không trả lời như ý cô mong muốn. Và áp lực của gia đình khiến hai người bất hòa. Cô thường trút giận lên chàng trai.Về phía mình, chàng trai luôn chịu đựng trong im lặng. Sau một năm anh tốt nghiệp và quyết định đi du học. Trước khi ra đi, anh đã cầu hôn: "Anh biểu lộ tình cảm của mình bằng lời nói không giỏi nhưng tất cả những gì mà anh biết là anh yêu em. Về phía gia đình, anh sẽ cố gắng hết sức thuyết phục gia đình em đồng ý. Em thuận ý làm vợ anh chứ?".Cô gái ưng thuận và với sự quyết tâm của chàng trai, cuối cùng gia đình cô gái cũng nhượng bộ và đồng ý cho họ kết hôn với nhau. Trước khi chàng trai đi học, hai người làm lễ đính hôn. Cô gái tham gia công tác xã hội trong khi anh tiếp tục học ở nước ngoài. Họ bày tỏ tình cảm của mình qua những lá thư và điện thoại. Tuy có khó khăn nhưng họ vẫn luôn nghĩ về nhau.Một ngày nọ, cô gái bị tai nạn giao thông trên đường đi làm. Khi tỉnh dậy, cô thấy cha mẹ mình bên cạnh giường. Cô cảm nhận được tình trạng tồi tệ của mình. Nhìn thấy mẹ khóc, cô muốn làm cho mẹ yên lòng nhưng những gì cô có thể thốt ra chỉ là tiếng thở dài. Cô đã mất đi giọng nói. Bác sĩ bảo rằng tai nạn đã gây tổn thương não của cô và khiến cô không thể nói được nữa. Cô suy sụp mặc dù cha mẹ cô động viên rất nhiều. Trong suốt thời gian ở bệnh viện cô chỉ biết khóc trong thầm lặng.Xuất viện về nhà, tình trạng của cô cũng chẳng thay đổi gì. Mỗi khi có tiếng điện thoại reo, cô có cảm giác như từng nhát dao đâm vào tim. Cô không muốn cho anh biết và càng không muốn trở thành gánh nặng của anh. Cô viết cho anh một lá thư nói rằng cô không còn đủ kiên nhẫn đợi chờ anh nữa. Cô gửi lại anh chiêc nhẫn đính hôn. Chàng trai gửi hàng ngàn lá thư và gọi biết bao cuộc điện thoại nhưng cô không trả lời và chỉ khóc.Cha mẹ cô quyết định chuyển nhà, hy vọng rằng cô sẽ thật sự quên những gì đã xảy ra để có thể sống yên ổn.Cô gái học ngôn ngữ cử chỉ và bắt đầu một cuộc sống mới. Mỗi ngày cô tự nhủ mình hãy quên anh đi. Nhưng một hôm bạn của cô đến và cho hay anh đã trở về. Cô van xin người bạn đừng cho anh biết chuyện gì đã xảy ra với cô. Từ đó cô không còn nhận được tin tức gì của anh.Một năm trôi qua. Người bạn của cô đến thăm và trao cho cô thiệp mời dự lễ kết hôn của anh. Trái tim cô gái tan vỡ. Khi mở thiệp cưới cô thấy tên mình trong tấm thiệp. Ngước lên, cô thấy anh đang đứng trước mặt.Chàng trai dùng cử chỉ nói với cô gái: "Một năm qua anh đã dành thời gian học ngôn ngữ này, chỉ để em hiểu rằng anh không quên lời ước hẹn của chúng ta. Hãy cho anh có cơ hội nói với em rằng anh yêu em".Anh lồng chiếc nhẫn vào tay cô gái. Cuối cùng mụ cười đã trở lại trên môi cô gái. Mục lục Ngôn ngữ tình yêu Ngôn ngữ tình yêu Khuyết DanhChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: Được bạn: Latdat đưa lên vào ngày: 22 tháng 4 năm 2004
Noname Love language The two fell in love but encountered strong opposition from the girl's family. They believe that the boy is not worthy of her family's status and they will not forgive her if she continues to have a relationship with him. Although the girl loves the boy very much, when the two meet she always asked: "Do you love me much?". She often gets frustrated because the guy doesn't answer the way she wants. And family pressure causes the two to fall out. She often vents her anger on the boy. On her part, the boy always suffers in silence. After a year he graduated and decided to study abroad. Before leaving, he proposed: "I'm not good at expressing my feelings with words, but all I know is that I love you. As for my family, I will try my best to convince them." Your family agrees. Do you agree to be my wife?" The girl agreed and with the boy's determination, the girl's family finally gave in and agreed to let them marry each other. Before the boy went to school, the two had an engagement ceremony. The girl participated in social work while he continued to study abroad. They expressed their feelings through letters and phone calls. Even though there were difficulties, they still thought about each other. One day, the girl had a traffic accident on the way to work. When she woke up, she saw her parents next to her bed. She felt her bad condition. Seeing her mother crying, she wanted to reassure her but all she could say was a sigh. She has lost her voice. The doctor said that the accident had damaged her brain and left her unable to speak. She collapsed even though her parents encouraged her a lot. During her time in the hospital, she could only cry silently. When she returned home from the hospital, her condition had not changed at all. Every time the phone rang, she felt like a knife was stabbing her in the heart. She didn't want to let him know and she didn't want to become his burden. She wrote him a letter saying that she no longer had the patience to wait for him. She sent him back the engagement ring. The boy sent thousands of letters and made countless phone calls, but she didn't answer and just cried. Her parents decided to move home, hoping that she would truly forget what happened so she could live in peace. .Girl learns sign language and starts a new life. Every day she told herself to forget him. But one day her friend came and said he had returned. She begged her friend not to tell him what happened to her. Since then, she has not received any news from him. A year has passed. Her friend came to visit and gave her an invitation to his marriage ceremony. Her heart broken. When she opened the wedding invitation, she saw her name on the card. Looking up, she saw him standing in front of her. The boy gestured to the girl: "I've spent the past year learning this language, just to let you understand that I haven't forgotten our promise. Please give me a chance to tell you that I love you." He put the ring on the girl's hand. Finally, the smile returned to the girl's lips. Table of contents Love language Love language AnonymousWelcome to read books from the book project for mobile devices. Source: author: Nguyen Kim Vy. Final words: Thank you for reading the entire story. Source: editor: Nguyen Kim Vy. Source: Posted by friend: Latdat on: April 22, 2004
Lục Diệp ( Hellomy 9) Ngõ cụt Trời tờ mờ sáng. Nó ăn vội vàng miếng cơm nguội trộn với hỗn hợp muối mè và đậu phộng rang xay nhuyễn. Ăn xong, nó hấp tấp nhét quả trứng vịt muối bà Hai mới luộc vào cái túi quần rộng thùng thình. Sợ bị rơi ra ngoài, nó còn cẩn thận cài nút. Nhưng dẫu nó có cẩn thận mấy, cái quần bạc phết đầy những mảng vá víu khác màu của nó cũng không bảo đảm được gì, có lẽ vải cũng đã mục cả rồi. Mặc kệ, nó chẳng thèm quan tâm. Ít nhất thì nó cũng có một bữa ăn ra trò, mấy hôm không có việc làm phải sống nhờ vào khoai, sắn, mì gói, thức ăn thừa của mấy chị bán hàng… nó đâu có no bụng gì. Có thể nói dân tỉnh lẻ lên Sàigòn như nó, không dễ gì kiếm được một việc làm ổn định. Người trí thức thì kẹt hộ khẩu, kẹt phương tiện đi lại. Người bán sức lao động thì kẹt quan hệ, phải có người giới thiệu dân thành phố mới thôi e dè mà tin tưởng đôi chút. Nói xa nói gần, nói luôn vào vấn đề chính, nơi nào mà chẳng có thổ cư. Dân thành phố cũng có nhiều loại người, người giàu có, người nghèo có. Quận nào, huyện nào cũng được dân ở đây chia địa bàn làm ăn cả rồi. Thời buổi kinh tế thị trường, đời sống khó khăn, thành thử cạnh tranh càng lắm vào. Cạnh tranh lành mạnh cũng có, cạnh tranh “cơ bắp” cũng có, không khéo chèo kéo lại sinh chuyện. Nó chân ướt chân ráo, chẳng quen biết ai, đành phải kiếm được việc gì thì làm việc nấy, kiếm sống qua ngày. Công việc hôm nay nó phải làm là thu dọn xà bần của căn nhà đang được xây lại trong ngõ cụt. Sáng sớm trời lạnh, áo lại mỏng tang nên nó cứ run lên từng chập, nói không thành tiếng. Vừa cặm cụi làm việc, nó vừa để ý nhìn. Căn nhà này đẹp thật, nó tự nhủ. Nhà trong hẻm lớn, lại là ngõ cụt, yên ắng và thoải mái quá đi mất. Kiểu kiến trúc nhà một tầng, có khu vườn nhỏ ngoài ban công thật không gì bằng. Thế nào thì sau một tháng nữa, khi công trình hoàn tất, diện mạo căn nhà sẽ y như nó nghĩ cho xem! Tuy nhiên, có cái gì đó không bình thường lắm, nó mò mẫm, nó tìm hiểu, nhưng nó cũng chưa biết được. Một chiều thứ bảy, ông Tám kỹ sư công trình bảo nó: -Tối nay tôi đãi mọi người một bữa, ăn uống xong cậu ngủ lại đây nhé! Sợ bọn trẻ chạy nhảy, lại có chuyện không hay. Nó vâng vâng dạ dạ, rồi khẽ gật đầu. Chín giờ rưỡi tối, ăn uống xong nó lết bộ về căn nhà. Đi ngang nhà bà Hai đầu hẻm, nó còn kịp nghe giọng bà gọi giật lại: -Cậu kia đi đâu thế? Tối rồi vẫn còn làm à? Làm gì thì làm nhanh rồi về sớm đi! Nó lắng nghe nhưng không buồn hỏi, dù sao nó cũng mệt rồi, chẳng hơi đâu tán gẫu với bà Hai như mọi bữa. Vào đến nơi, nó mở cánh cửa vừa được sơn lớp sơn lót màu trắng ra, chính lúc đó nó cảm thấy ớn lạnh, gai nổi khắp người. Đằng sau cánh cửa, cách chỗ nó đứng vài phân, ngay vị trí giữa sân trước của căn nhà hình như có một lỗ tròn to dưới đất. Nó bước loạng choạng về phía đó, tay với lấy thanh sắt ngoài cửa thòng xuống cái lỗ tròn ấy. Nó ngạc nhiên quá, bây giờ thì không có lỗ tròn nào cả, thanh sắt của nó chạm phải một lớp xi măng dầy cui, gõ vào còn nghe tiếng. Nó bật cười, cười cho cái sự buồn cười của nó. Cười đã rồi nó bước chậm rãi vào trong. Tìm được cái đèn pin ông Tám cho mượn, nó mừng húm, loay hoay bật đèn lên. Tầng dưới đầy đất cát và đá, nó ngán ngẫm leo lên tầng trên. Gió ngoài sân lùa vào, mang theo mùi hương Ngọc Lan thơm ngát. Chợt nhớ hồi sáng người ta chuyển cây kiểng đến, nó đi ra vườn. Nó nhìn thấy một số loại cây có hoa rất thơm, nhưng nó chẳng biết đó là cây gì, hoa gì. Nó chỉ mang máng nghe người ta kể những gốc cây to, hoa có mùi thơm.. thường là có oan hồn trú ngụ nên mới sống đời như thế. Mà lúc ở dưới quê, nó còn nghe người ta nói ban đêm trơi trốn tìm ngoài vườn, sẽ bị ma giấu, không thể tìm ra. Nó tựa tay lên ban công, mơ màng nhìn xuống phía dưới.. Keng!!... Nó làm rớt đèn pin, vội vã ngồi thụp xuống, nó mò mẫm tìm cái đèn. Tìm thấy cái đèn rồi nó đứng bật dậy, nó chiếu đèn thẳng xuống bên dưới, và nó… không thấy gì cả. Nó đổ mồ hôi hột, rõ ràng nó đã thấy một bóng trắng đứng bên cạnh.. cái lỗ tròn to dưới đất. Cái bóng của một cô gái tóc dài… cô gái nhìn lên, nhìn thẳng vào mặt nó.. Nó sợ. Chân nó bắt đầu run lập cập. Đầu nó bảo nó phải chạy, nhưng chân nó như bị hóa đá không nghe lệnh của cái đầu nữa. Nó thở dồn, nó ngừng thở.. rồi nó lại thở dồn…. mắt nó nhìn đăm đăm ra khoảng không, cái gì ám nó vậy nhỉ, nó không biết. Vừa sợ hãi, vừa mệt mỏi, nó không biết phải làm gì hơn là đi khỏi khu vườn. Nó nín thở đi nhanh vào trong, về phía cuối dãy phòng. Căn phòng có vẻ ổn, ít có gió và cũng ít có đất cát. Nó cảm thấy bớt sợ, ngồi xuống tựa lưng vào tường, nó chậm rãi lấy tay phủi bụi bặm và nằm xuống. Tay đặt lên ngực, nó cố nhắm mắt điều hòa hơi thở. Sau một lúc nó thấy đầu óc mình giãn ra, cảm giác mệt mỏi bao lấy nó. Nó thiếp đi lúc nào không biết -Tôi lạnh lắm…. Tôi lạnh lắm… nhiều nước quá…… Đầu nó cứ nghe boong… boong… từng tiếng. Nó nghe tiếng vọng của một cô gái từ nơi nào đó rất sâu… nó nghe cả tiếng vang.. tiếng cái gì đó đập vào tường thì phải… tiếng boong.. boong ngập trong đầu nó.. nó còn nghe thấy tiếng bọt nước….. lỗ tai nó lùng bùng… Nó giựt mình mở mắt.. Đèn pin của nó sắp hết pin rồi thì phải, ánh sáng của nó yếu ớt quá. Nó nhìn quanh quất. Đột nhiên toàn thân nó run bắn lên.. Nó thật sự nhìn thấy cô ta, cô ta đang đứng đó, ngay đầu cầu thang. Mồ hôi nó vã ra… nó sợ hãi ngồi bật dậy nép sát vào tường. Nó sợ đến nỗi tay chân cứ quíu lại, miệng nó không ngừng rên rỉ và cầu nguyện.. Nó lắp bắp cầu mong cô gái đó đừng đến gần nó, nó dùng hết sức bình sinh để lẩm nhẩm câu kinh mà bây giờ nó cũng không biết là kinh chúa hay kinh phật… May sao cô gái không đến gần nó thật, cô bước lên ngưỡng cầu thang, rồi đứng đó nhìn nó…… Tóc cô gái bay phất phơ, mặt cô trắng bệt… và toàn thân cô lạnh giá. Hơi lạnh tỏa ra khiến nó dần lạnh cứng, nó cảm thấy toàn thân như mất dần hơi ấm. Như có ma lực, ánh mắt nó không thể rời khỏi cô gái, miệng nó há hốc…. nó run lẩy bẩy. Đột nhiên có tiếng gà kêu sớm. Cô gái rùng mình biến mất. Người nó giật mạnh, nó ngất đi. Sáng hôm sau, người ta tìm thấy nó nằm co ro, chân tay lạnh ngắt. Hỏi gì nó cũng không nói được, miệng lưỡi cứ ú ớ không ngừng. Khi người ta khiêng nó xuống lầu, ra đến trước sân nhà, nó hoảng hốt nhìn lại, tay không ngừng chỉ trỏ. Đi thăm nó về, ông Tám bảo mọi người đào ở vị trí giữa sân. Trước mặt mọi người bây giờ là một miệng giếng sâu thăm thẳm. Ông Tám hơi lui lại, ông chần chừ… người tình nguyện trục vớt bắt đầu làm việc. Sau nửa giờ, người ta tìm được một xác người đã mục nát, trên xác còn có những lọn tóc chưa kịp phân hủy dài đến lưng. Đúng lúc này ở bệnh viện, nó đang ngủ mơ. Trong giấc ngủ chập chờn, nó nghe tiếng rít thật rát tai, có tiếng kêu thất thanh của cô gái đó… và rồi mọi thứ im bặt, mùi thơm hoa Ngọc Lan lại tràn ngập. Ra viện, nó không về nơi ngõ cụt đó lần nào nữa. Nó được ông Tám giới thiệu cho làm việc tại một khu chế xuất, việc làm cũng ổn định. Bà Hai có tới thăm nó một lần, bà kể nó nghe con gà của thằng An vẫn thường hay kêu sớm… Mục lục Ngõ cụt Ngõ cụt Lục Diệp ( Hellomy 9)Chào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.Đánh máy hellomy 9 Nguồn: Hellomy9Được bạn: Ct.Ly đưa lên vào ngày: 7 tháng 1 năm 2005
Lục Diệp ( Hellomy 9) Ngõ cụt Trời tờ mờ sáng. Nó ăn vội vàng miếng cơm nguội trộn với hỗn hợp muối mè và đậu phộng rang xay nhuyễn. Ăn xong, nó hấp tấp nhét quả trứng vịt muối bà Hai mới luộc vào cái túi quần rộng thùng thình. Sợ bị rơi ra ngoài, nó còn cẩn thận cài nút. Nhưng dẫu nó có cẩn thận mấy, cái quần bạc phết đầy những mảng vá víu khác màu của nó cũng không bảo đảm được gì, có lẽ vải cũng đã mục cả rồi. Mặc kệ, nó chẳng thèm quan tâm. Ít nhất thì nó cũng có một bữa ăn ra trò, mấy hôm không có việc làm phải sống nhờ vào khoai, sắn, mì gói, thức ăn thừa của mấy chị bán hàng… nó đâu có no bụng gì. Có thể nói dân tỉnh lẻ lên Sàigòn như nó, không dễ gì kiếm được một việc làm ổn định. Người trí thức thì kẹt hộ khẩu, kẹt phương tiện đi lại. Người bán sức lao động thì kẹt quan hệ, phải có người giới thiệu dân thành phố mới thôi e dè mà tin tưởng đôi chút. Nói xa nói gần, nói luôn vào vấn đề chính, nơi nào mà chẳng có thổ cư. Dân thành phố cũng có nhiều loại người, người giàu có, người nghèo có. Quận nào, huyện nào cũng được dân ở đây chia địa bàn làm ăn cả rồi. Thời buổi kinh tế thị trường, đời sống khó khăn, thành thử cạnh tranh càng lắm vào. Cạnh tranh lành mạnh cũng có, cạnh tranh “cơ bắp” cũng có, không khéo chèo kéo lại sinh chuyện. Nó chân ướt chân ráo, chẳng quen biết ai, đành phải kiếm được việc gì thì làm việc nấy, kiếm sống qua ngày. Công việc hôm nay nó phải làm là thu dọn xà bần của căn nhà đang được xây lại trong ngõ cụt. Sáng sớm trời lạnh, áo lại mỏng tang nên nó cứ run lên từng chập, nói không thành tiếng. Vừa cặm cụi làm việc, nó vừa để ý nhìn. Căn nhà này đẹp thật, nó tự nhủ. Nhà trong hẻm lớn, lại là ngõ cụt, yên ắng và thoải mái quá đi mất. Kiểu kiến trúc nhà một tầng, có khu vườn nhỏ ngoài ban công thật không gì bằng. Thế nào thì sau một tháng nữa, khi công trình hoàn tất, diện mạo căn nhà sẽ y như nó nghĩ cho xem! Tuy nhiên, có cái gì đó không bình thường lắm, nó mò mẫm, nó tìm hiểu, nhưng nó cũng chưa biết được. Một chiều thứ bảy, ông Tám kỹ sư công trình bảo nó: -Tối nay tôi đãi mọi người một bữa, ăn uống xong cậu ngủ lại đây nhé! Sợ bọn trẻ chạy nhảy, lại có chuyện không hay. Nó vâng vâng dạ dạ, rồi khẽ gật đầu. Chín giờ rưỡi tối, ăn uống xong nó lết bộ về căn nhà. Đi ngang nhà bà Hai đầu hẻm, nó còn kịp nghe giọng bà gọi giật lại: -Cậu kia đi đâu thế? Tối rồi vẫn còn làm à? Làm gì thì làm nhanh rồi về sớm đi! Nó lắng nghe nhưng không buồn hỏi, dù sao nó cũng mệt rồi, chẳng hơi đâu tán gẫu với bà Hai như mọi bữa. Vào đến nơi, nó mở cánh cửa vừa được sơn lớp sơn lót màu trắng ra, chính lúc đó nó cảm thấy ớn lạnh, gai nổi khắp người. Đằng sau cánh cửa, cách chỗ nó đứng vài phân, ngay vị trí giữa sân trước của căn nhà hình như có một lỗ tròn to dưới đất. Nó bước loạng choạng về phía đó, tay với lấy thanh sắt ngoài cửa thòng xuống cái lỗ tròn ấy. Nó ngạc nhiên quá, bây giờ thì không có lỗ tròn nào cả, thanh sắt của nó chạm phải một lớp xi măng dầy cui, gõ vào còn nghe tiếng. Nó bật cười, cười cho cái sự buồn cười của nó. Cười đã rồi nó bước chậm rãi vào trong. Tìm được cái đèn pin ông Tám cho mượn, nó mừng húm, loay hoay bật đèn lên. Tầng dưới đầy đất cát và đá, nó ngán ngẫm leo lên tầng trên. Gió ngoài sân lùa vào, mang theo mùi hương Ngọc Lan thơm ngát. Chợt nhớ hồi sáng người ta chuyển cây kiểng đến, nó đi ra vườn. Nó nhìn thấy một số loại cây có hoa rất thơm, nhưng nó chẳng biết đó là cây gì, hoa gì. Nó chỉ mang máng nghe người ta kể những gốc cây to, hoa có mùi thơm.. thường là có oan hồn trú ngụ nên mới sống đời như thế. Mà lúc ở dưới quê, nó còn nghe người ta nói ban đêm trơi trốn tìm ngoài vườn, sẽ bị ma giấu, không thể tìm ra. Nó tựa tay lên ban công, mơ màng nhìn xuống phía dưới.. Keng!!... Nó làm rớt đèn pin, vội vã ngồi thụp xuống, nó mò mẫm tìm cái đèn. Tìm thấy cái đèn rồi nó đứng bật dậy, nó chiếu đèn thẳng xuống bên dưới, và nó… không thấy gì cả. Nó đổ mồ hôi hột, rõ ràng nó đã thấy một bóng trắng đứng bên cạnh.. cái lỗ tròn to dưới đất. Cái bóng của một cô gái tóc dài… cô gái nhìn lên, nhìn thẳng vào mặt nó.. Nó sợ. Chân nó bắt đầu run lập cập. Đầu nó bảo nó phải chạy, nhưng chân nó như bị hóa đá không nghe lệnh của cái đầu nữa. Nó thở dồn, nó ngừng thở.. rồi nó lại thở dồn…. mắt nó nhìn đăm đăm ra khoảng không, cái gì ám nó vậy nhỉ, nó không biết. Vừa sợ hãi, vừa mệt mỏi, nó không biết phải làm gì hơn là đi khỏi khu vườn. Nó nín thở đi nhanh vào trong, về phía cuối dãy phòng. Căn phòng có vẻ ổn, ít có gió và cũng ít có đất cát. Nó cảm thấy bớt sợ, ngồi xuống tựa lưng vào tường, nó chậm rãi lấy tay phủi bụi bặm và nằm xuống. Tay đặt lên ngực, nó cố nhắm mắt điều hòa hơi thở. Sau một lúc nó thấy đầu óc mình giãn ra, cảm giác mệt mỏi bao lấy nó. Nó thiếp đi lúc nào không biết -Tôi lạnh lắm…. Tôi lạnh lắm… nhiều nước quá…… Đầu nó cứ nghe boong… boong… từng tiếng. Nó nghe tiếng vọng của một cô gái từ nơi nào đó rất sâu… nó nghe cả tiếng vang.. tiếng cái gì đó đập vào tường thì phải… tiếng boong.. boong ngập trong đầu nó.. nó còn nghe thấy tiếng bọt nước….. lỗ tai nó lùng bùng… Nó giựt mình mở mắt.. Đèn pin của nó sắp hết pin rồi thì phải, ánh sáng của nó yếu ớt quá. Nó nhìn quanh quất. Đột nhiên toàn thân nó run bắn lên.. Nó thật sự nhìn thấy cô ta, cô ta đang đứng đó, ngay đầu cầu thang. Mồ hôi nó vã ra… nó sợ hãi ngồi bật dậy nép sát vào tường. Nó sợ đến nỗi tay chân cứ quíu lại, miệng nó không ngừng rên rỉ và cầu nguyện.. Nó lắp bắp cầu mong cô gái đó đừng đến gần nó, nó dùng hết sức bình sinh để lẩm nhẩm câu kinh mà bây giờ nó cũng không biết là kinh chúa hay kinh phật… May sao cô gái không đến gần nó thật, cô bước lên ngưỡng cầu thang, rồi đứng đó nhìn nó…… Tóc cô gái bay phất phơ, mặt cô trắng bệt… và toàn thân cô lạnh giá. Hơi lạnh tỏa ra khiến nó dần lạnh cứng, nó cảm thấy toàn thân như mất dần hơi ấm. Như có ma lực, ánh mắt nó không thể rời khỏi cô gái, miệng nó há hốc…. nó run lẩy bẩy. Đột nhiên có tiếng gà kêu sớm. Cô gái rùng mình biến mất. Người nó giật mạnh, nó ngất đi. Sáng hôm sau, người ta tìm thấy nó nằm co ro, chân tay lạnh ngắt. Hỏi gì nó cũng không nói được, miệng lưỡi cứ ú ớ không ngừng. Khi người ta khiêng nó xuống lầu, ra đến trước sân nhà, nó hoảng hốt nhìn lại, tay không ngừng chỉ trỏ. Đi thăm nó về, ông Tám bảo mọi người đào ở vị trí giữa sân. Trước mặt mọi người bây giờ là một miệng giếng sâu thăm thẳm. Ông Tám hơi lui lại, ông chần chừ… người tình nguyện trục vớt bắt đầu làm việc. Sau nửa giờ, người ta tìm được một xác người đã mục nát, trên xác còn có những lọn tóc chưa kịp phân hủy dài đến lưng. Đúng lúc này ở bệnh viện, nó đang ngủ mơ. Trong giấc ngủ chập chờn, nó nghe tiếng rít thật rát tai, có tiếng kêu thất thanh của cô gái đó… và rồi mọi thứ im bặt, mùi thơm hoa Ngọc Lan lại tràn ngập. Ra viện, nó không về nơi ngõ cụt đó lần nào nữa. Nó được ông Tám giới thiệu cho làm việc tại một khu chế xuất, việc làm cũng ổn định. Bà Hai có tới thăm nó một lần, bà kể nó nghe con gà của thằng An vẫn thường hay kêu sớm… Mục lục Ngõ cụt Ngõ cụt Lục Diệp ( Hellomy 9)Chào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.Đánh máy hellomy 9 Nguồn: Hellomy9Được bạn: Ct.Ly đưa lên vào ngày: 7 tháng 1 năm 2005
Nguyễn Anh Đào Ngõ Hẹp Tặng các em và mùa thi 2008 Năm nay thằng Tâm thi đại học, vậy mà mở tập ra là ngủ, không chút lo lắng hay suy tư nào hết. Má không thèm nói chuyện với nó nữa, ba khuyên răn rôi la mắng, riết hết biết nói gì, ba nói một câu thắt lòng "con cái phải hết đại học tao chết mới nhắm mắt được". Nó lủi ra sau nhà, đấm thùm thụp vô bao cát. Thằng Tâm có 5 đứa em và một bà chị, chị hai đang học đại học ở Sài Gòn, ba má tự hào lắm. Hồi học phổ thông, hai siêng nên học cũng giỏi, cả xóm đều khen. Mấy đứa em học kỳ nào cũng có giấy khen và phần thưởng. Hồi đó, nó học cũng giỏi, nhưng lên cấp ba, Tâm mê chơi, mê đá banh, mê bóng chuyền... rồi quên học. Tập thể thao nhiều nên Tâm to con nhất lớp, lại có duyên, nhiều tài lẻ nên bọn con gái gọi điện tới nhà kiếm suốt. Má thì hay la, người ta tìm tới mình cũng la, má kêu con gái vô duyên, con trai má mắc học, không có kiếm. Tâm mắc cỡ thấy ớn, má làm như con trai là cành vàng lá ngọc má phải cất kỹ trong kho vậy. Cuối học kỳ năm lớp mười, cầm bảng điểm nó mới thấy mình học sút ghê gớm. Tất nhiên là không phải do bọn con gái, lớp mười mà yêu đương gì. Ngày trước chị hai học lớp mười, cũng xinh và hiền nhất xóm, nhưng bạn trai tới tìm hai trốn trong buồng rồi kêu nó hay thằng Nam ra xịt chó cắn. Nên nó sợ "lầm" như mấy anh bạn trai của chị hai nó lắm, nhìn hai hiền nhưng hai hành động chẳng hiền gì hết. Mà sao nghĩ tới con gái là mặt nó lại đỏ rần lên. Con trai gì mà nhát... Tết chị hai vê thăm nhà, nghe kể nó có nằm bệnh viện, hai hỏi đau gì thì nó nói đau lưng. Mười bảy tuổi sao đau lưng, vì sao đau? Nó không nói, ba má cũng không nói. Thằng Nam kéo chị hai ra đầu hè bảo "tại ảnh vác cà phê nhiều quá, nguyên mùa rồi có mỗi ảnh làm". Tối đó chị hai khóc sưng mắt, hai không biết tiền hàng tháng ba gửi vô có cả nước mắt thậm chí là máu của đứa em mới lớn của mình. Hai năm nay cà phê rớt giá thảm hại, mọi năm đến mùa, má mướn công làm hết, từ hái đến khuân vác chuyên chở, nhưng năm nay làm vậy thì lỗ vốn, nhà phải làm, thuê công ít lại, buôn bán thì đầu này đắp vá đầu kia. Hai sống ở Sài Gòn, vẫn đều đều má gửi tiền lên, tốn kém nhất nhưng ba má lại tự hào nhất. Từ lần nằm viện đó, Tâm càng mất đà, trượt dần, lớp mười lên lớp mười một nó phải thi lại hai môn. Ba gọi điện vô cho hai, biểu "con khuyên nhắc nó nghe". Hai điện về cho Tâm, tự nhiên khóc nức nở "Phải lo cho mình, cớ gì phải hi sinh?". Thằng Tâm chạnh lòng, ít lâu sau nghe nó quả quyết "học nghề, xa nhà không được". Má la quá chừng, tưởng nó có gì với con Thu xóm trên, con nhỏ bằng tuổi Tâm nhưng nghỉ học sớm vì nhà quá đông con. Má nghe lén tụi nó nói chuyện điện thoại, nhưng lắc đầu "tụi nó nói với nhau bằng ...mật mã". Cả nhà cười "má lạc hậu rồi má ơi!". Nhưng nó với con Thu có gì đâu, sao không ai tin vậy nhỉ? Mùa thu hoạch nào cũng vậy, sáng đi học, chiều lên rẫy, xẩm tối lại vác cả đống cà, mỗi bao ngót năm mươi ký lên cái dốc cả trăm mét. Sức trai mười bảy mà, nói vậy mà hết mùa lại lén má đi uống thuốc, châm cứu. Hết mùa thu hoạch là thi học kỳ, có học hành gi đâu mà thi, cứ ngẩn tò te, biết mình bị tụt lại đàng sau cũng không thèm đuổi. Nó gãi đầu "đi đường tắt cho mau". Viết thư vô cho hai, nó kể toàn chuyện vui, còn chuyện buồn nó không kể, kể chi làm hai lo thêm, nó nói sức trâu mà, rôi cười hìhì. Hai tức lắm, trâu cũng phải biết lượng sức mình chứ, trâu đâu phải bằng thép! Thằng Tâm cũng làm hồ sơ thi đại học, phải thi, không đậu thì thôi, học tài thi phận, thi để ba khỏi đe nữa, má khỏi cằn nhằn. Ba má không thấy mình đã đòi hỏi quá cao ở một đứa có khả năng trung bình. Nhìn mông lung ra khoảng đất trống sau nhà, chỗ đó mà thành một vườn hoa thì đã phải biết. Hai hỏi "tháng sau mày đi ai chăm sóc?" Nó trả lời mà nghe giọng đăng đắng "em có đi luôn đâu, em biết sức mình mà!". Vẫn cái nhìn mông lung đó, nó nói như nói với ai "dạo này tóc ba bạc nhanh quá...". Nó bỏ lửng câu nói, xách thùng đi tưới mấy bụi đồng tiền. Chị hai đứng tê chân không nhấc lên được. Hai đi, má cho tiền hai không lấy, hai nói còn nhưng thật tình thì còn ít lắm, chắc chỉ đủ tiền xe. Hai nói má cho tiền đó thằng Tâm mua sách, má nói nó học hành gì mà sách vở. Tâm nghe, quay mặt đi giả đò không biết. Hai lấy, rồi đưa nó, nó lắc đầu nguầy nguậy, năn nỉ thêm mấy câu nữa tự nhiên hai khóc. Nó than trời, cái bà nay kiếm đâu ra nhiều nước mắt dữ vậy? Được rồi, chỉ lấy một nửa thôi, hai cười, nó lầm bầm, đồ mít ướt. Tâm đi thi đại học, thằng Nam gãi đầu ấp úng, bẽn lẽn như con gái "anh ba...thi tốt nghen". Tâm cốc đầu em một cái rồi giả đò xuýt xoa, cười thay cho lơi cảm ơn và thay cho tiếng ừ. Ba chở nó lên bến xe, má chạy theo dúi chai dầu vô túi áo. Mấy đứa nhỏ đứng nhìn theo, Tâm tủi quá, phải chị hai là òa khóc rồi. Nhưng Tâm là con ai, cao met1 bảy, nặng sáu chục ký, hổng lẽ kóc vì chuyện này, bọn con gái biết được cười thúi mũi. Ngày thi. Hai lo lắng đứng ở cổng trường, còn ba mươi phút nữa là hết giờ, ngươi ta đem bài giải mời mua ì xèo ngoài cổng trường. Hai nhăn trán, chưa hết giờ làm bài mà sao bài giải đã có rồi, đề hi ra ngoài lúc nào vậy nhỉ? - Thi đuợc không?Tâm cụp một đốt ngón tay xuống : một nửa à! - Một nửa đó có chắc không?- Chắc là ...lép quá! Nó cười hehe rôi phóng lên đằng sau xe, biểu về đi, về nhà kể cho nghe. Hai nhăn mặt rồi rồ ga chạy, Tâm xuýt xoa khen, hai chạy xe giỏi thiệt, đường đông như vậy mà lách không đụng ai. - Hai, - Gì?- Chở chi chơi bữa đi, mai về- Ở chơi, mốt về, nóng vậy?- Bỏ em ở nhà...- Có ba má lo tụi nó rồi- Sao bà già mà chậm hiểu quá, em đây là...Hai nghệch mặt ra, chợt hiểu rồi há hốc mồm - Nó ở đâu? sao hổng tao nghe, nó đẹp không?- Như tiên- Vậy chắc chắn nó khùng hoặc cận thị.- Gì?- Chứ xấu như mày...Nó đấm lưng hai thùm thụp, nói móc là tui cho té xe luôn đó bà già. Thằng Tâm lên xe đò về quê, thấy hai một mình nơi đất chật người đông, tội quá. Tự nhiên nó tức, con trai sao dễ mủi lòng. Má hỏi làm bài được không? Nó gãi gãi đầu rồi đi thẳng ra sau vườn. Má nhìn theo lắc đầu. Ba đóng thêm chuồng nuôi thỏ, mỗi chiều ba cắp cái thúng lụi cụi đi cắt cỏ, chỉ để "ba tháng nữa thăng Tâm dư tiền nhập học". Ba đang làm nó đau lòng như có ai chém. Thằng Nam, con Chi, con Thảo, con Na và nhỏ Út hè này bị cắt mất phần học hè. Nhưng con nít ham chơi, nghe khỏi học là mừng hơn đi hội. Nhưng Tâm hiểu, chi phí đang để dành cho nó. Những ngày chờ kết quả, nó hì hụi cuốc xới mảnh đất sau nhà thành những luống cao, ba hỏi làm gì, nó cười không nói. Chiều thì mang già đi đá banh, làm như đời nhàn hạ không gì bằng. Khoảng vài ngày là chạy lên bưu điện mở thùng thư một lần, lần nào cũng chỉ lắc đầu. Những đứa đậu đều có giấy báo trúng tuyển đại học, khoảnh đất sau nhà lên mầm xanh, ba buồn, bữa cơm căng thẳng không nuốt nổi. Thằng Nam đi chơi về, định rủ Tâm đi đá banh, nhưng thấy anh ba ngồi thần người trước bao cát. Nam đứng lặng hồi lâu, rồi thấy Tâm đứng dậy đấm thùm thụp vô bao cát. Nam vào hỏi ba "nếu không đậu đại học thì sao hả ba?", "Thì lối vào đời của con là ngõ hẹp". Tâm đem những bó hoa trồng được bỏ mối lại cho chị Tám bán hoa xóm trên. Gần đến ngày khai giảng, nó mua có năm đứa em mỗi đứa một chiếc cặp mới. Thằng Nam cầm chiếc cặp mà mắt rưng rưng. Nam hỏi "sang năm anh ba thi nữa không?", "không, anh bước qua ngõ hẹp bằng cách của anh!". Tháng sau nó đi học nghề sửa xe máy. Sau đó về mở một tiệm nhỏ kế bên tiệp bán hàng tạp hóa của má. Nó bảo đời vậy ổn rồi, cười trong lấm lem dầu nhớt. Con đường làm giàu vẫn còn ở phía trước. Nguyễn Anh Đào Mục lục Ngõ Hẹp Ngõ Hẹp Nguyễn Anh ĐàoChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: Tác giả VNthuquan - Thư viện onlineĐược bạn: Ct.Ly đưa lên vào ngày: 8 tháng 10 năm 2008
Nguyễn Anh Đào Ngõ Hẹp Tặng các em và mùa thi 2008 Năm nay thằng Tâm thi đại học, vậy mà mở tập ra là ngủ, không chút lo lắng hay suy tư nào hết. Má không thèm nói chuyện với nó nữa, ba khuyên răn rôi la mắng, riết hết biết nói gì, ba nói một câu thắt lòng "con cái phải hết đại học tao chết mới nhắm mắt được". Nó lủi ra sau nhà, đấm thùm thụp vô bao cát. Thằng Tâm có 5 đứa em và một bà chị, chị hai đang học đại học ở Sài Gòn, ba má tự hào lắm. Hồi học phổ thông, hai siêng nên học cũng giỏi, cả xóm đều khen. Mấy đứa em học kỳ nào cũng có giấy khen và phần thưởng. Hồi đó, nó học cũng giỏi, nhưng lên cấp ba, Tâm mê chơi, mê đá banh, mê bóng chuyền... rồi quên học. Tập thể thao nhiều nên Tâm to con nhất lớp, lại có duyên, nhiều tài lẻ nên bọn con gái gọi điện tới nhà kiếm suốt. Má thì hay la, người ta tìm tới mình cũng la, má kêu con gái vô duyên, con trai má mắc học, không có kiếm. Tâm mắc cỡ thấy ớn, má làm như con trai là cành vàng lá ngọc má phải cất kỹ trong kho vậy. Cuối học kỳ năm lớp mười, cầm bảng điểm nó mới thấy mình học sút ghê gớm. Tất nhiên là không phải do bọn con gái, lớp mười mà yêu đương gì. Ngày trước chị hai học lớp mười, cũng xinh và hiền nhất xóm, nhưng bạn trai tới tìm hai trốn trong buồng rồi kêu nó hay thằng Nam ra xịt chó cắn. Nên nó sợ "lầm" như mấy anh bạn trai của chị hai nó lắm, nhìn hai hiền nhưng hai hành động chẳng hiền gì hết. Mà sao nghĩ tới con gái là mặt nó lại đỏ rần lên. Con trai gì mà nhát... Tết chị hai vê thăm nhà, nghe kể nó có nằm bệnh viện, hai hỏi đau gì thì nó nói đau lưng. Mười bảy tuổi sao đau lưng, vì sao đau? Nó không nói, ba má cũng không nói. Thằng Nam kéo chị hai ra đầu hè bảo "tại ảnh vác cà phê nhiều quá, nguyên mùa rồi có mỗi ảnh làm". Tối đó chị hai khóc sưng mắt, hai không biết tiền hàng tháng ba gửi vô có cả nước mắt thậm chí là máu của đứa em mới lớn của mình. Hai năm nay cà phê rớt giá thảm hại, mọi năm đến mùa, má mướn công làm hết, từ hái đến khuân vác chuyên chở, nhưng năm nay làm vậy thì lỗ vốn, nhà phải làm, thuê công ít lại, buôn bán thì đầu này đắp vá đầu kia. Hai sống ở Sài Gòn, vẫn đều đều má gửi tiền lên, tốn kém nhất nhưng ba má lại tự hào nhất. Từ lần nằm viện đó, Tâm càng mất đà, trượt dần, lớp mười lên lớp mười một nó phải thi lại hai môn. Ba gọi điện vô cho hai, biểu "con khuyên nhắc nó nghe". Hai điện về cho Tâm, tự nhiên khóc nức nở "Phải lo cho mình, cớ gì phải hi sinh?". Thằng Tâm chạnh lòng, ít lâu sau nghe nó quả quyết "học nghề, xa nhà không được". Má la quá chừng, tưởng nó có gì với con Thu xóm trên, con nhỏ bằng tuổi Tâm nhưng nghỉ học sớm vì nhà quá đông con. Má nghe lén tụi nó nói chuyện điện thoại, nhưng lắc đầu "tụi nó nói với nhau bằng ...mật mã". Cả nhà cười "má lạc hậu rồi má ơi!". Nhưng nó với con Thu có gì đâu, sao không ai tin vậy nhỉ? Mùa thu hoạch nào cũng vậy, sáng đi học, chiều lên rẫy, xẩm tối lại vác cả đống cà, mỗi bao ngót năm mươi ký lên cái dốc cả trăm mét. Sức trai mười bảy mà, nói vậy mà hết mùa lại lén má đi uống thuốc, châm cứu. Hết mùa thu hoạch là thi học kỳ, có học hành gi đâu mà thi, cứ ngẩn tò te, biết mình bị tụt lại đàng sau cũng không thèm đuổi. Nó gãi đầu "đi đường tắt cho mau". Viết thư vô cho hai, nó kể toàn chuyện vui, còn chuyện buồn nó không kể, kể chi làm hai lo thêm, nó nói sức trâu mà, rôi cười hìhì. Hai tức lắm, trâu cũng phải biết lượng sức mình chứ, trâu đâu phải bằng thép! Thằng Tâm cũng làm hồ sơ thi đại học, phải thi, không đậu thì thôi, học tài thi phận, thi để ba khỏi đe nữa, má khỏi cằn nhằn. Ba má không thấy mình đã đòi hỏi quá cao ở một đứa có khả năng trung bình. Nhìn mông lung ra khoảng đất trống sau nhà, chỗ đó mà thành một vườn hoa thì đã phải biết. Hai hỏi "tháng sau mày đi ai chăm sóc?" Nó trả lời mà nghe giọng đăng đắng "em có đi luôn đâu, em biết sức mình mà!". Vẫn cái nhìn mông lung đó, nó nói như nói với ai "dạo này tóc ba bạc nhanh quá...". Nó bỏ lửng câu nói, xách thùng đi tưới mấy bụi đồng tiền. Chị hai đứng tê chân không nhấc lên được. Hai đi, má cho tiền hai không lấy, hai nói còn nhưng thật tình thì còn ít lắm, chắc chỉ đủ tiền xe. Hai nói má cho tiền đó thằng Tâm mua sách, má nói nó học hành gì mà sách vở. Tâm nghe, quay mặt đi giả đò không biết. Hai lấy, rồi đưa nó, nó lắc đầu nguầy nguậy, năn nỉ thêm mấy câu nữa tự nhiên hai khóc. Nó than trời, cái bà nay kiếm đâu ra nhiều nước mắt dữ vậy? Được rồi, chỉ lấy một nửa thôi, hai cười, nó lầm bầm, đồ mít ướt. Tâm đi thi đại học, thằng Nam gãi đầu ấp úng, bẽn lẽn như con gái "anh ba...thi tốt nghen". Tâm cốc đầu em một cái rồi giả đò xuýt xoa, cười thay cho lơi cảm ơn và thay cho tiếng ừ. Ba chở nó lên bến xe, má chạy theo dúi chai dầu vô túi áo. Mấy đứa nhỏ đứng nhìn theo, Tâm tủi quá, phải chị hai là òa khóc rồi. Nhưng Tâm là con ai, cao met1 bảy, nặng sáu chục ký, hổng lẽ kóc vì chuyện này, bọn con gái biết được cười thúi mũi. Ngày thi. Hai lo lắng đứng ở cổng trường, còn ba mươi phút nữa là hết giờ, ngươi ta đem bài giải mời mua ì xèo ngoài cổng trường. Hai nhăn trán, chưa hết giờ làm bài mà sao bài giải đã có rồi, đề hi ra ngoài lúc nào vậy nhỉ? - Thi đuợc không?Tâm cụp một đốt ngón tay xuống : một nửa à! - Một nửa đó có chắc không?- Chắc là ...lép quá! Nó cười hehe rôi phóng lên đằng sau xe, biểu về đi, về nhà kể cho nghe. Hai nhăn mặt rồi rồ ga chạy, Tâm xuýt xoa khen, hai chạy xe giỏi thiệt, đường đông như vậy mà lách không đụng ai. - Hai, - Gì?- Chở chi chơi bữa đi, mai về- Ở chơi, mốt về, nóng vậy?- Bỏ em ở nhà...- Có ba má lo tụi nó rồi- Sao bà già mà chậm hiểu quá, em đây là...Hai nghệch mặt ra, chợt hiểu rồi há hốc mồm - Nó ở đâu? sao hổng tao nghe, nó đẹp không?- Như tiên- Vậy chắc chắn nó khùng hoặc cận thị.- Gì?- Chứ xấu như mày...Nó đấm lưng hai thùm thụp, nói móc là tui cho té xe luôn đó bà già. Thằng Tâm lên xe đò về quê, thấy hai một mình nơi đất chật người đông, tội quá. Tự nhiên nó tức, con trai sao dễ mủi lòng. Má hỏi làm bài được không? Nó gãi gãi đầu rồi đi thẳng ra sau vườn. Má nhìn theo lắc đầu. Ba đóng thêm chuồng nuôi thỏ, mỗi chiều ba cắp cái thúng lụi cụi đi cắt cỏ, chỉ để "ba tháng nữa thăng Tâm dư tiền nhập học". Ba đang làm nó đau lòng như có ai chém. Thằng Nam, con Chi, con Thảo, con Na và nhỏ Út hè này bị cắt mất phần học hè. Nhưng con nít ham chơi, nghe khỏi học là mừng hơn đi hội. Nhưng Tâm hiểu, chi phí đang để dành cho nó. Những ngày chờ kết quả, nó hì hụi cuốc xới mảnh đất sau nhà thành những luống cao, ba hỏi làm gì, nó cười không nói. Chiều thì mang già đi đá banh, làm như đời nhàn hạ không gì bằng. Khoảng vài ngày là chạy lên bưu điện mở thùng thư một lần, lần nào cũng chỉ lắc đầu. Những đứa đậu đều có giấy báo trúng tuyển đại học, khoảnh đất sau nhà lên mầm xanh, ba buồn, bữa cơm căng thẳng không nuốt nổi. Thằng Nam đi chơi về, định rủ Tâm đi đá banh, nhưng thấy anh ba ngồi thần người trước bao cát. Nam đứng lặng hồi lâu, rồi thấy Tâm đứng dậy đấm thùm thụp vô bao cát. Nam vào hỏi ba "nếu không đậu đại học thì sao hả ba?", "Thì lối vào đời của con là ngõ hẹp". Tâm đem những bó hoa trồng được bỏ mối lại cho chị Tám bán hoa xóm trên. Gần đến ngày khai giảng, nó mua có năm đứa em mỗi đứa một chiếc cặp mới. Thằng Nam cầm chiếc cặp mà mắt rưng rưng. Nam hỏi "sang năm anh ba thi nữa không?", "không, anh bước qua ngõ hẹp bằng cách của anh!". Tháng sau nó đi học nghề sửa xe máy. Sau đó về mở một tiệm nhỏ kế bên tiệp bán hàng tạp hóa của má. Nó bảo đời vậy ổn rồi, cười trong lấm lem dầu nhớt. Con đường làm giàu vẫn còn ở phía trước. Nguyễn Anh Đào Mục lục Ngõ Hẹp Ngõ Hẹp Nguyễn Anh ĐàoChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: Tác giả VNthuquan - Thư viện onlineĐược bạn: Ct.Ly đưa lên vào ngày: 8 tháng 10 năm 2008
Trọng Huấn Ngõ quê Ngày bé, cứ dịp tết hay hè tôi náo nức về quê. Ngõ xóm quanh co trước nhà bà nội là nơi tôi cùng lũ trẻ ẩn tìm, trèo rào, víu cây và bao trò chơi khác. Ngõ hẹp và sâu hút. Đường gạch, vỉa nghiêng nghiêng. Hai bên chỗ tường đất, chỗ bờ rào duối rậm rịt, hay dải cúc tần hăng hắc. Có nhà lại trồng râm bụt, thấp thoáng những bông hoa phớt đỏ. Về làng, từ xa tôi đã thấy cây gạo bóng cao vút, đỏ ối hoa. Làng tôi có câu:Đầu làng cây gạoCuối làng cây đa.Con gái làng Đà,Như hoa thiên lý.Từ đường cái vào làng có hai trụ gạch sừng sững, người ta gọi ấy là cổng làng. Bà tôi bảo, trước cổng làng to lắm, có mái, phía trên đắp nổi mấy chữ Nho, nay cổng làng sót lại là hai cái trụ gạch đấy. Cổng làng có cánh cửa lim to dày, đêm đêm đóng lại phòng cướp. Tôi ngây thơ hỏi: Đóng cổng lại kẻ cướp vòng qua bên cạnh vào thì sao - đấy là cánh đồng và những bờ rào lúp xúp sát ngay bên trụ gạch. Bà cười bảo: Ngày trước, làng không trống tềnh, trống toàng như bây giờ, mà có luỹ tre dày trồng trên bờ đất bao quanh, đến đạn Tây bắn còn không xuyên nổi. Tôi không hình dung được luỹ tre và bờ đất dày đến cỡ nào mà đạn cối tây bắn không qua, nên cứ ngạc nhiên mãi cái cổng làng phòng cướp... Cổng làng như vậy, nhưng cổng của ngõ xóm nhà bà nội tôi lại còn khá nguyên vẹn. Thành cổng tường xây dày đến ba, bốn mươi phân, trên là vòm xây khum cong cong. Từ đường làng rẽ vào, phía trên nhìn thấy mấy chữ Nho đắp nổi, to bằng cái bát ô tô. Chỉ còn mấy cụ cao niên trong làng là đọc được. Đấy là chữ ghi lại năm xây dựng cổng. Nghe nói xây từ đời vua Tự Đức. Đôi cánh cổng lim dày, vẫn còn đóng ra khép vào được. Lớp gạch hai bên bị xe cải tiến va quệt và trâu, bò qua lại gõ sừng, làm vẹt lõm, trơ ra mạch vữa và những hàng gạch mỏng quẹt. Người ta bảo ngày trước vữa xây bằng mật mía, muối và vôi cát đánh nhuyễn; còn gạch dùng rơm rạ đốt. Tôi cứ phân vân, cổng ngõ to lớn thế, phải tốn nhiều mật mía để xây và rơm rạ đốt gạch lắm. Thảo nào bao năm, vữa xây còn bền, gạch thì không phồng mà mỏng đều và một màu gan gà, trơ trơ trước thời gian cùng mưa nắng.Làng tôi đường đất, duy nhất con đường ngõ nhà bà nội tôi là vỉa gạch nghiêng nghiêng. Quãng giữa ngõ, có cái bệ thờ. Không hiểu sao tôi lại nhớ như in cái bệ thờ đó. Nó bé nhỏ, khiêm nhường, không mái, nằm hơi lùi trên một khúc tường đất. Bát hương trong bệ thờ bao giờ cũng có cụm chân hương. Chân hương cái thì màu phẩm còn đỏ tươi, cái lâu ngày xỉn thẫm. Bà tôi gọi là thờ hậu và bà kể: Trước ở làng có những người mua hậu - tức là nộp tiền, hiến ruộng cho làng, cho chùa để làm một công trình nào đó. Thường là những nhà ấy không có con giai, mua hậu, sau này họ mất đị, được làng xã, hương khói, cúng giỗ. Trước tiên họ phải bỏ một số tiền nộp lệ cho làng, cho chùa, cho bản tộc làm công trình, sau đó hiến một số ruộng để làng xã lấy hoa lợi cúng giỗ. Hậu có ký hậu làng, ký hậu xóm, ký hậu chùa, ký hậu họ. Ngõ nhà bà nội tôi trước có gia đình không con cái, ông bà mua hậu ở chùa, ở đình và còn mua hậu ngõ bằng con đường gạch. Chuyện mua hậu con đường gạch của gia đình ấy mất nhiều công sức và cũng cầu kỳ lắm, phải bao lần lên xuống, làng và dân xóm mới đồng ý. Chỉ riêng khâu cuối cùng là việc xây dựng đã rất nhiêu khê, kỹ càng. Gạch đặt trước, rồi chọn lựa từng viên. Xem xét, chọn lựa mãi qua mấy ông thầy, mới được ngày giờ tốt khởi công. Công trình xây dựng rất kỹ càng. Trước hết người ta san phẳng nền đường ngõ, rồi dải một lớp ba ta vữa, sau lát một lớp gạch nằm, tiếp đó lại một lớp ba ta vữa và trên cũng vỉa gạch nghiêng. Công trình cẩn thận như vậy, trước đây lại chỉ độc người đi bộ, cùng trâu bò gia súc, chứ không công nông, xe máy như bây giờ, nên trải qua mấy chục năm, nó vẫn tốt như nguyên. Thế nên sau khi ông bà già mua hậu mất, đã thành lệ, hàng năm vào lúc trước giao thừa cúng thổ công, cúng gia tiên, dân ngõ ra bệ thờ dâng đĩa hoa, thắp nén hương, khấn người mua hậu ngõ con đường.Ngày bé mỗi dịp về quê, đi qua bệ thờ, tôi thấy sờ sợ, nhưng vẫn lấm lét nhìn vào, rồi rảo cẳng bước nhanh. Tôi cứ tưởng tượng ấy là nơi ma quỷ trú ngụ. Sau này lớn về quê, nhớ chuyện xưa, qua bệ thờ tôi lại bâng khuâng nghĩ về tuổi thơ, dừng lại thành kính thắp nén hương, cúi đầu lẩm rầm khấn tiền nhân. Nhìn làn hương mong manh mà nghĩ về thời gian trôi, nghĩ về một tập tục, nét văn hoá chốn quê.Giờ quê tôi đường làng mở rộng, đổ bê tông. Con đường ngõ nhà bà nội tôi cũng bê tông phẳng phiu. Nền đường tôn cao, làm cổng ngõ thấp xuống, vướng chắn tầm cao người qua lại, nên nó bị dỡ bỏ. Còn gạch vỉa đường, trước nhà nào, nhà ấy khuân về, mỗi nhà được dăm chục, một trăm viên. Khuân về nhưng ít ai biết gạch ấy nguồn gốc do đâu. Bà nội tôi sai xếp thành đống ngay ngắn trong sân và bà lại kể câu chuyện mua hậu con đường xưa... Trước hai bên ngõ là bờ duối, hay rặng cúc tần, râm bụt, người ta còn để đất rộng, nay tường gạch nên nhà nào nhà ấy đều xây sát đất, tường cao vượt cả tầm nhìn. Nhà nào cũng một cổng xây, tường gạch bao quanh, cánh cửa sắt ra vào tiếng đẩy kót két. Đâu rồi dậu râm bụt điểm hoa phớt đỏ, bờ duối lấm tấm quả vàng. Bâng khuâng tôi dõi tìm bệ thờ mua hậu xưa mà không rõ là đâu. Mục lục Ngõ quê Ngõ quê Trọng HuấnChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: EvanĐược bạn: Ct.Ly đưa lên vào ngày: 28 tháng 12 năm 2007
Trong Huan Countryside alley When I was a child, every Tet or summer I was excited to go home. The winding alley in front of my grandmother's house is where the children and I hide and seek, climb fences, grab trees and many other games. The alley is narrow and deep. Tiled brick roads and sidewalks. On both sides of the earthen wall, the fence is densely covered with streams, or a strip of red daisies. Some houses grow hibiscus, with a glimpse of reddish flowers. Returning to the village, from afar I saw a tall shiny rice tree with red flowers. My village has a saying: At the beginning of the village is a rice tree. At the end of the village is a banyan tree. The daughter of Da village is like a thien ly flower. From the main road into the village, there are two towering brick pillars, people call them the village gate. My grandmother told me that the front gate of the village was very big, had a roof, and had some Chinese characters embossed on top. Now, what is left of the village gate are two brick pillars. The village gate has a thick iron door that closes at night to prevent robbers. I innocently asked: If you close the gate, what if the robbers go around to the side - that's the field and the fences are close to the brick pillar. She smiled and said: In the past, the village was not as empty and empty as it is now, but there were thick bamboo trees planted on the surrounding land banks, which even Western bullets could not penetrate. I couldn't imagine how thick the bamboo and earth banks were that western mortar bullets couldn't get through, so I kept being surprised at the village gate to prevent robbers... The village gate was like that, but the gate of my grandmother's alley was different. quite intact. The wall of the gate was three or forty centimeters thick, with a curved dome on top. Turning from the village road, you can see some embossed Nho letters above, as big as the bowl of a car. Only a few elderly people in the village can read it. That is the word recording the year the gate was built. It is said that it was built during the reign of King Tu Duc. The thick iron gates can still be opened and closed. The brick layer on both sides was hit by improved vehicles and buffaloes and cows went back and forth, knocking their horns, causing dents, leaving bare mortar joints and thin rows of rubbed bricks. It is said that in the past, mortar was made of molasses, salt, and sanded lime; Bricks are burned with straw. I kept wondering, the gate is so big, it took a lot of molasses to build and a lot of straw to burn the bricks. No wonder, after so many years, the mortar is still durable, the bricks are not bulging but are thin and uniform in color, impervious to time and sun and rain. My village has dirt roads, the only street in my grandmother's house is a sloping brick pavement. lean. In the middle of the alley, there is an altar. For some reason, I remember that altar so vividly. It is small, humble, roofless, located slightly back on a piece of earth wall. The incense bowl in the altar always has a cluster of incense sticks. The color of the original incense sticks is still bright red, while the color of the old incense sticks is dull and dark. My grandmother called it queen worship and she said: In the past, in the village, there were people who bought the queen - that is, they paid money and donated fields to the village or pagoda to build a certain project. Usually those families do not have any children, they buy descendants, later they lose their land, but get the village, incense, smoke, and death anniversary offerings. First, they have to pay an amount of money to the village, to the pagoda, and to the local clan to build projects, then donate some fields so that the village can use the fruits for death anniversary offerings. Hau has village endorsements, neighborhood endorsements, pagoda endorsements, and family endorsements. My grandmother's house used to have a family without children. My grandparents bought the house at the temple, lived in the communal house, and even bought the house behind the brick road. The family's purchase of the brick road took a lot of effort and was also very complicated. It took many ups and downs for the village and neighbors to agree. Just the final stage of construction is very difficult and thorough. Place bricks first, then choose each brick. After reviewing and choosing through several teachers, I finally found a good time and date to start work. The construction is very thorough. First, people leveled the alley floor, then laid a layer of three layers of mortar, then laid a layer of lying bricks, then another layer of three layers of mortar and on top of the inclined brick seam. Such careful construction, in the past, there were only pedestrians, cattle, and buffaloes, not farmers or motorbikes like now, so after several decades, it is still as good as ever. Therefore, after the old grandparents who bought the descendants passed away, it became a custom that every year, on New Year's Eve, to worship the land and ancestors, the villagers would go to the altar to offer a plate of flowers, light incense sticks, and pray to the person who bought the descendants of the alley. When I was a child, every time I returned to my hometown and passed the altar, I felt scared, but I still quietly looked in, then walked quickly. I always imagined that was where the devil resided. Later, when I grew up and returned to my hometown, I remembered old stories. Passing by the altar, I wistfully thought about my childhood, stopped to respectfully light an incense stick, bowed my head, and mumbled prayers to my ancestors. Looking at the fragile scent, I think about the passage of time, about a custom and culture in the countryside. Now in my hometown, the village roads are widened and concreted. The alleyway of my grandmother's house is also smooth and concrete. The raised road base made the alley gate low, blocking the height of passersby, so it was removed. As for the sidewalk bricks, in front of every house, that family carries them home, each house gets a few dozen or a hundred bricks. Brought home, but few people know where those bricks came from. My grandmother ordered them to be stacked neatly in the yard and she told the story of buying the old road... In front of both sides of the alley were banks of streams, or groves of chrysanthemums and hibiscus, people still left the land wide, now the wall is bricks, so every house is built close to the ground, with walls high beyond sight. Every house has a built-in gate, surrounding brick walls, and creaking iron doors. Where is the hibiscus dotted with red flowers, the banks are dotted with yellow fruits. Unconsciously, I looked for the old post-purchase altar but couldn't figure out where it was. Table of contents Countryside alley Countryside alley Trong HuanWelcome you to read books from the book project for mobile devices. Source: author: Nguyen Kim Vy. Final words: Thank you for reading the entire story. Source: editor: Nguyen Kim Vy. Source: Evan Uploaded by friend: Ct.Ly on: December 28, 2007
Hoa Bằng Lăng Ngõ Vắng Xôn Xao Một cô nàng tinh nghịch - ngộ nghĩnh - đó chính là ngươì tình trong mộng của tui .Nàng ta lướt qua trang nhà tui rồi để lại những dòng lưu bút lạ lẫm - nếu không nói là quá ngố ! Nàng thật thơ ngây và cũng rất dè dặt với những người bạn trên mạng .Hỏi trang nhà nàng ở đâu , nàng cười giả lơ .Hỏi email nàng là gì để liên lạc , nàng trả lời nàng hổng có email . Mọi liên lạc với nàng đều phải qua Guestbook của tuị Như thế hỏi làm sao tui hổng tức cho được. Thế là tôi bắt đầu cuộc trinh thám về nàng ... Một cô gái mặc áo dài trắng , tóc xõa ngang vai - mắt nhìn xa xăm ngồi trên ghế đá một sân trường . Tôi choáng ngợp ! Ðó chính là nàng ử ? Người con gái thơ ngây trong GB của tui ngày nào đấy ư ? Tôi lật đật đăng ký ngay một trang nhà làm anh hàng xóm kế cạnh nhà nàng . Rồi cái máu lãng tữ trong tui nổi lên , khiến tui làm ngay 1 bài thơ ..con cóc đề tặng nàng . Không biết nàng có ghé đọc qua và nhớ đến nó không nhỉ . Tôi cứ thầm mong nàng trả lời .Tối nào đi làm về , tôi cũng lướt qua trang nhà nàng và chờ sự xác nhận của nàng . Chờ mãi, chờ mãi chẳng thấy nàng trả lời gì cả . Buổi tối , tôi vẫn online chờ nàng . Cái con bé trong GB thì vẫn cứ thắc mắc những câu hỏi trên trời dưới đất như ngày nào . Nó chẳng thèm bận lòng đến một kẻ đang ngậm ngùi chờ nó bên trang nhà nó... Ngày nọ , tôi cũng lái xe đi " cày " như mọi khi . Cũng chẳng thèm lướt sang cô nàng hàng xóm kiêu ngạo đó nữa. Có lẽ tui đang đang trồng cây si trong chính khu vuờn nhà mình mất rồi . Con bé nai thơ trong vườn nhà tui sao nó lại ngố thế nhỉ .Hỏi caí gì nó cũng không biết .Cái gì nó cũng gãi đầu thắc mắc .Cái gì nó cũng hờn dỗi ..mà nó dám còn cả gan chọc giận cả tiểu muội của tui lúc đó nữa chứ. Không ngày nào là không thấy chị em chúng nó không cãi nhau . Ðứa vênh mặt bên này , đứa hất cái chùm tóc đuôi gà bên kia - chỉ có thằng tui đứng giữa - mệt xỉu ! Suốt ngày cứ nghe tụi nó réo tên mình ra mà chửi , tui sắp phát khùng ..bỗng mèn đèn ui , con bé ngố đó nó ghi vô sổ GB một dòng làm tui té ngữa . Nó hỏi tỉnh rụi , hôm bữa anh qua bên nhà nó rồi làm thơ tặng nó a ? - anh viết cái gì mà em chẳng hiểu chi cả . Tui té xỉu ! Cô nàng quả thật là vô tình . Dựng trang nhà lên rồi bỏ đi lung tung , chẳng bao giờ chịu đọc GB .Tui vào đó thấy biết bao nhiêu thơ tình đề tặng mà nàng ta tỉnh như không .Thì ra chẳng bao giờ con bé đó chịu đọc GB cả .Tui cũng không chắc nàng đọc thì hiểu đuợc hết những tâm tình đó dâu .Nàng vẫn là trẻ con khi dạo chơi trên Net mà ! Nàng không thích bắ tay đàn ông vì nàng là con gái Á đông . Trời đất , tui chết điếng nhiều phen theo những suy nghĩ kiểu như vậy của nàng .Tặng nàng quà , nàng nói nàng không lấy quà của người lạ.Hỏi nàng tên gì , nàng cười tươi như hoa rồi hỏi anh tên gì ( mặc dù tui đã xưng danh tánh !) .Hỏi nàng câu gì nàng cũng cười và im lặng . Và hồn tôi đã chết chìm trong nụ cười hoa hàm tiếu ấy ... Ngày gặp nhau nàng hỏi một câu " à anh có gia đình chưa " làm tôi lúng túng . Tôi tháo chiếc nhẫn cưới của mình đưa cho nàng và nói nếu em muốn anh sẽ tháo nó ra .Nàng hỏi sao anh đưa cho em làm gì? Nàng vẫn ngốc nghếch như thế !! Chẳng bao giờ nàng hiểu được một điều gì cả .Tôi nói xa nói gần gì , nàng cũng chỉ tròn con mắt nghe và im lặng .Có một lần, nàng hỏi tình yêu có vĩnh cữu hay không anh nhỉ , tôi lắc đầu kêu không bao giờ có cái gì là vĩnh cữu . Nàng lại cười rồi nhỏ nhẹ thầm nhủ "Chắc kỷ niệm thì vĩnh cữu chứ ? " ... Tôi đang ngập tràn niềm hạnh phúc khi tìm thấy nàng .Mỗi tối đi làm về , tôi luôn online để check email của nàng . Thiệt là lạ cho cái thằng nổi tiếng đào hoa như tôi lại đi yêu say đắm con bé ngốc nhà hàng xóm nọ . Yêu mà không dám nói bởi trái tim của nàng mong manh như chiếc ly thủy tinh . Yêu mà đành câm nín vì tôi đang có một cuộc tình trong đời trước giây phút tôi gặp nàng rồi :Ðùng một cái , nàng báo nàng đi lấy chồng .Con tim tôi tan nát .Cô bé ơi , anh dã không kịp nói tiếng yêu của lòng mình với em mất rồi . Anh sợ làm tổn thương con tim trẻ thơ của em , nhỏ ngốc à .Thế mà em lại đi lấy chồng ! Tôi cay đắng nhìn niềm hạnh phúc của mình tan vỡ Tôi không thể có được nàng nhưng tôi không muốn nàng đi lấy chồng chút nào ! Tôi thật ích kỷ nhưng tôi không thể nào quên đi nàng - con chim vàng anh trong tôi ! Mỗi sớm nắng lên , mỗi chiều mưa xuống , giọng cười khúc khích của nàng - ánh mắt tinh nghịch của nàng vẫn đau đáu trong lòng tôi .Bao nhiêu kỷ niệm tràn ngập trong tâm hồn mỗi khi tôi nhớ đến con bé ngày xưa ấy ... Năm tháng đã trôi qua, nỗi đau cũng vơi dần bớt .Thỉnh thoảng ,tôi rất nhớ nàng , tôi muốn được nhìn thấy nàng một lần 2004 Hoa Bằng Lăng Mục lục Ngõ Vắng Xôn Xao Ngõ Vắng Xôn Xao Hoa Bằng LăngChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: Được bạn: Ct.ly đưa lên vào ngày: 17 tháng 11 năm 2004
Flower Lagerstroemia Quiet Alley is bustling A mischievous - funny girl - that is the lover of my dreams. She scrolled through my home page and left strange - if not too stupid - notes! She is so innocent and also very reserved with online friends. When asked where her home page is, she smiled indifferently. When asked what her email address was to contact her, she replied that she doesn't have an email. All contact with her must be through my Guestbook. How can I not be angry? So I started my investigation about her... A girl wearing a white ao dai, shoulder-length hair - eyes looking into the distance sat on a bench in a schoolyard. I'm overwhelmed! Is that her? The innocent girl in my GB someday? I hurriedly registered on a website to be her next-door neighbor. Then the romantic blood in me surfaced, causing me to immediately write a poem...toad for her. I wonder if she will read it and remember it. I kept hoping for her answer. Every night when I got home from work, I would scroll through her website and wait for her confirmation. Waited and waited and waited but she didn't reply at all. In the evening, I was still online waiting for her. The girl in GB still wonders the same questions about heaven and earth as ever. He didn't care about the person who was sadly waiting for him at his home page... One day, I drove to "plow" as usual. I don't even bother to glance at that arrogant neighbor girl anymore. Maybe I'm planting a sapphire tree in my own garden. The little deer in my garden, why is she so stupid? No matter what I ask, she doesn't know anything. She scratches her head wondering everything. She sulks at everything. And yet she dares to even make me angry. My sister at that time too. There's not a day that goes by that we don't see them arguing. The one with a cocky face on one side, the other with a ponytail on the other side - only me standing in the middle - exhausted! All day long I kept hearing them screaming my name and cursing, I was about to go crazy.. suddenly the lights went off, that stupid girl wrote a line in the GB book that made me fall over. He asked calmly, the other day you went to his house and wrote a poem for him? - I don't understand what you wrote. I fainted! She is truly heartless. I set up the website and then left it everywhere, never reading GB. I went there and saw so many love poems given to her but she was still awake. It turns out that girl never read GB at all. Me too. I'm not sure if she reads it, she can understand all those feelings. She's still a child when she's playing around on the Internet! She doesn't like shaking hands with men because she is an Asian girl. Oh my god, I was so dumbfounded by her thoughts like that. Giving her a gift, she said she doesn't take gifts from strangers. Asked her what her name was, she smiled like a flower and then asked him what his name was (although I confessed my name!) No matter what question I asked her, she smiled and remained silent. And my soul was drowned in that flowery smile... The day we met, she asked the question "Are you married yet?" which confused me. I took off my wedding ring and gave it to her and said if you want I will take it off. She asked why did you give it to me? She's still so stupid!! She never understood anything. No matter how far or near I spoke, she just rolled her eyes and listened silently. One time, she asked if love is eternal or not, I shook my head and said no. There is never anything eternal. She smiled again and softly whispered, "Are the memories forever?" ... I was filled with happiness when I found her. Every night when I come home from work, I always go online to check her email. It's really strange that a famous and flirty guy like me would fall in love with that stupid girl next door. Love but don't dare say it because her heart is as fragile as a glass. Love but I have to keep quiet because I had a love affair in my life before the moment I met her: Suddenly, she announced that she was getting married. My heart was broken. Little girl, I didn't have time to say the word love. My heart and you are gone. I'm afraid of hurting your young heart, silly girl. Yet you got married! I watched bitterly as my happiness was shattered. I couldn't have her but I didn't want her to get married at all! I'm so selfish but I can't forget her - the oriole in me! Every morning the sun rises, every afternoon it rains, her giggling voice - her mischievous eyes still ache in my heart. So many memories flood my soul every time I remember that old girl. .. Years have passed, the pain has gradually lessened. Sometimes, I miss her so much, I want to see her once 2004 Hoa Bang Lang Table of contents Quiet Alley is bustling Quiet Alley is bustling Hoa Bang LangWelcome to read books from the book project for mobile devices. Source: author: Nguyen Kim Vy. Final words: Thank you for reading the entire story. Source: editor: Nguyen Kim Vy. Source: Posted by: Ct.ly on: November 17, 2004
Hoài Hương Ngõ Vắng Xôn Xao Bài hát nào của anh cũng buồn như thế. Tiếng đàn chênh vênh không có điểm dừng, tơ lòng dày vò em trong từng nổi nhớ. Có một thời khi em còn là cô nữ sinh với đôi bím tóc … … Mỗi chiều đi học về trên con đường rợp bóng bằng lăng anh lại lẽo đẽo đi sau hát tặng em những bài hát không đầu không cuối. Em cuối mặt lặng lẽ chẳng dám nhìn mà sao cứ thấy nóng bừng đôi má. Rồi trái tim em cô gái mười tám khẽ rung lên những cảm xúc đầu tiên. Anh đến với em bằng tình yêu của một chàng lãng tử đa tình. Còn em dành trọn vẹn cho anh tình yêu nguyên trinh đầu đời của một người con gái. Lối xưa bằng lăng vẫn rụng tím màu chung thủy. Chỉ có đôi ta là xa nhau. Em một mình lang thang, phiêu du trong vùng kí ức ướt nhòa. Bài tình ca ngày xưa giờ đây lạc điệu bởi anh đâu dành để tặng riêng em. Cô gái trong bài hát kia đã cuốn anh đi mất. Vậy mà em đã từng ngốc nghếch nghĩ rằng cô gái ấy là mình. Tại sao vậy anh? Giá mà ngày xưa con ngõ này đừng tím màu bằng lăng thổn thức thì có lẽ chẳng có một chuyện tình buồn đến thế. Tình yêu như trò cút bắt, mãi lẫn trốn nhau rồi lại phải kiếm tìm nhau. Đã biết vậy mà người ta vẫn cứ lao vào như con thiêu thân. Và em cũng đã một lần lao vào. Để bay giờ xót xa nuối tiếc cho một cuộc tình đã qua … Tình yêu anh dành cho em bảng lảng mong manh như sương khói chỉ một con gió nhẹ cũng đủ để tan ra tất cả … Chiều nay một mình em lạc loài nơi con ngõ vắng này với hy vọng tìm lại được chút dư âm ngày cũ. Gió mạnh thổi làm những cánh bằng lăng rơi xao xác. Em nghe lòng mình sắt se tê buốt. Những cánh hoa tím mà ngày xưa anh thường cài lên tóc em. Nhưng rồi một ngày kia em chợt nhận ra mình chỉ là người được anh thế vào chỗ trống. Anh đến với em để trả thù người con gái trước đã phụ mình. Bài tình ca anh hát cho em nghe nhưng là để nhớ về cô ấy. Cũng như những nụ hôn nồng nàn anh dành cho em chỉ là sự lặp lại của mối tình đầu. Tất cả đều là giả dối! Em quyết định rời xa anh vì lòng tự ái bị tổn thương. Vậy mà khi xa nhau rồi em mới biết mình không thể thiếu anh. Bao nhiêu đêm em đã thức trắng để khóc cho mình hay nói đúng hơn là khóc cho cuộc tình chóng tan. Phải chăng anh sinh ra là để làm khổ em? Em giận mình sao lại bị cuốn hút bởi cái dáng vẻ lãng tử có chút gì đó ngạo mạn bất cần cùng với những bài hát day dứt buồn của anh. Ngày chia tay anh ôm đàn hát. Đó là bài tình ca cuối cùng em được nghe – buồn đến não lòng. Nhiều lần em tự hỏi: “Có bao giờ anh quay về con ngõ này để nhớ về cô bé với đôi bím tóc hay không?” Riêng em mỗi lần đi qua nơi này đều nhớ da diết tiếng đàn ngày cũ. Tiếng đàn buồn mênh mang, chênh chênh không có điểm dừng như tình yêu đầu của người con gái vẫn luôn âm ỉ cháy trong từng nỗi nhớ … Hoài Hương Mục lục Ngõ Vắng Xôn Xao Ngõ Vắng Xôn Xao Hoài HươngChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: Thời áo trắngĐược bạn: Thành Viên VNthuquan đưa lên vào ngày: 27 tháng 12 năm 2003
Hoai Huong Quiet Alley is bustling All of his songs are so sad. The unsteady sound of the guitar has no end, tormenting me with every memory. There was a time when I was still a schoolgirl with twintails... ... Every afternoon coming home from school on the shady path of masculiniums, he followed behind and sang me songs that had no beginning or end. I kept my face quiet, not daring to look, but I kept feeling my cheeks burning. Then the eighteen-year-old girl's heart trembled with her first emotions. I came to you with the love of an amorous romantic. And I give you all the first virgin love of a girl. The old way of using masculinium is still purple and faithful. Only the two of us are apart. I wandered alone, traveling in a region of wet memories. The old love song is now out of tune because I didn't dedicate it to you. The girl in that song swept him away. Yet I once foolishly thought that girl was me. Why is that? If only this alley hadn't been so purple in the past, perhaps there wouldn't have been such a sad love story. Love is like a game of hide and seek, always hiding from each other and then having to find each other. Knowing that, people still rush in like moths. And I also rushed in once. For now, I feel sad and regretful for a past love... My love for you is as fragile as smoke, only a light breeze is enough to melt it all away... This afternoon I'm lost alone in the alley. this absence with the hope of finding some echoes of the old days. The strong wind blew causing the leaves to fall. I feel like my heart is numb. The purple flower petals that I used to put in your hair in the past. But then one day I suddenly realized that I was just the person you replaced. I came to you to take revenge on the previous girl who betrayed me. The love song I sing for you is to remember her. Just like the passionate kisses I gave you were just a repeat of my first love. All are lies! I decided to leave you because my pride was hurt. But when we were apart, I realized I couldn't be without you. How many nights have I stayed up crying for myself, or more accurately, crying for my love to end? Was I born to make you suffer? I'm angry at myself for being attracted to your romantic, slightly arrogant and careless appearance along with your sad, tormenting songs. On the day of separation, he held the guitar and sang. That was the last love song I heard - heartbreakingly sad. Many times I asked myself: "Have you ever returned to this alley to remember the little girl with the pigtails?" Personally, every time I pass by this place, I miss the sound of the old piano. The sad sound of the guitar is vast and uneven, with no end in sight, like a girl's first love, still smoldering in every nostalgia... Hoai Huong Table of contents Quiet Alley is bustling Quiet Alley is bustling Hoai HuongWelcome you to read books from the book project for mobile devices. Source: author: Nguyen Kim Vy. Final words: Thank you for reading the entire story. Source: editor: Nguyen Kim Vy. Source: White shirt period Posted by: Member VNthuquan on: December 27, 2003
Giả Bình Ao Ngũ Thập Đại Thoại Qua hăm mốt tháng hai âm lịch, là năm nay tôi đã tròn 50 tuổi. Đến tuổi 50, con người đã là đại nhân, thọ là đại thọ, được nói chút đại ngôn trước đám đông rồi. Quãng nửa tháng nay thì phải, tôi bắt đầu ngủ không còn ngon giấc, và tự dưng lại thích tiền, tôi biết rằng tôi đang già đi. Cặp chân thấy nặng lên rõ rệt, xem các thứ đều không rời được kính mắt, răng hàm thì chiếc nào cũng phải hàn vá, mái tóc cũng đã hói đi một nửa. Cơ thể già nua cũng giống như căn nhà lâu năm, dầm kèo mọt ruỗng, mưa dột tứ tung. Lúc con người khoẻ mạnh, cơ thể với linh hồn luôn thống nhất và có thể nói là rất an lành, không bao giờ cần biết đến các bộ phận trên cơ thể, đến khi linh hồn biết rõ được các bộ phận, thì những bộ phận ấy chắc chắn là đã có chuyện, thế là linh hồn phân liệt với cơ thể, đâm ra bực bội, thỉnh thoảng lại muốn bỏ đi. Trong lúc leo cầu thang tôi thường có cảm giác thân mình còn đang ở bậc thang thứ tám, linh hồn đã đang đứng trên bậc thang thứ mười rồi, thậm chí là thân mình ngồi trên ghế, mà nhìn thấy được linh hồn thì đang đi lại trong phòng. Từng có bữa cùng đám bạn đi ăn hiệu, giữa chừng gặp người đàn bà đẹp khiến lòng tôi thích thú, nhưng cô vừa đến gần tôi đã gọi nhắng lên: “Cụ Giả cụ Giả”. Cáu tiết tôi nói: “Chị có thể không thích tôi, nhưng chị cũng không nên gọi tôi như thế nhá!” Tôi thật sự sợ một khi cơ thể tồi quá, linh hồn rời đi sẽ không còn trở lại nữa. Thế là từ đấy không còn dám thức đêm, dù có là bạn thân nhất rủ đánh bài mạt chược, nói trước là sẽ thả cho tôi ăn, cũng không có đi. Ăn uống đâm ra kiểu cách, tuy dạ dầy vốn tình cảm, cũng không còn dám nhớ về những món bánh đúc mì trộn cay khoái khẩu từ thuở bé dưới quê nữa, đòi uống sữa bò, bắt bà xã hầm gà ác với nhân sâm, còn nữa là hải sản và trái cây. Rồi nghe ông Điền hàng xóm, sớm sớm dậy tập chạy, chạy kiểu giật lùi, lại còn nào là ngồi cầu không được hút thuốc, mím miệng xoa tay vào bụng dưới, xoa đến nóng rang lên, lúc rỗi rãi thì tì lưỡi vào chân răng, thấy nước rãi ra thì nuốt vào, không còn bận tâm việc cấp bậc lương lậu còn nâng cao được nữa không, chỉ lo làm sao giữ cho huyết áp mỡ máu khỏi cao lên, thành tích công cán có nổi bật hay không chẳng quan trọng, cốt chú ý sao cho đốt xương cụt đừng chồi ra là được. Đi học thi đỗ vào được đại học là con cái nó có hiếu với cha mẹ rồi, bây giờ cốt làm sao cho mình khoẻ, thì con cái nó mới gần gũi. Từ dưới quê tôi lên thành Tây An hồi mới 20 tuổi, loáng cái mười mấy năm trời đã qua đi, tuy vẫn có cảm giác việc tốt nghiệp đại học là chuyện mới hồi nào, trên thực tế thì con tôi cũng đang sắp tốt nghiệp đại học rồi. Rốt cuộc thì một đời người làm nên nổi những công việc gì? Vào tuổi 50, à không, chỉ sau tuổi 40 thôi, bạn sẽ hiểu ra rằng, kì thực đời người là chẳng làm nên được mấy việc đâu, mà mọi việc đã làm đều là nhằm tìm lấy vị trí của mình. Đấng sáng thế tạo nên đồ vật theo nhu cầu của thế gian, nhưng đồ vật thì lại không biết, đều cho rằng mình là anh hùng, nhưng anh đã là chiếc gáo, thì dù có ra sức chứa nước cũng không chứa lại được bằng cái thùng. Tính cách đã sắp xếp định số cho mật mã sự sống, bởi vậy, sự phát triển tính cách chính là quĩ tích của toàn bộ số phận. Không hiểu được điều này, tất sẽ sa xuống làm kẻ yếu, kẻ yếu là hung dữ mạnh bạo, là tàn nhẫn, đồng thời cũng là vô vọng. Cuối cùng thì tôi cũng đã biết được rằng tôi chính là kẻ mạnh, kẻ mạnh là dịu hiền, thế là tôi sống cuộc sống rất hạnh phúc của tôi. Không còn xách thuốc thơm rượu ngon lên vòng vo nơi cửa nhà sếp, hoặc ôm đống sách và tranh chữ của mình nhờ sếp chỉ bảo, đương nhiên là cũng không có hơi tí là ngồi nhà chửi sếp, sếp bảo việc gì là cố cự lại không làm. Xu nịnh là sỉ nhục, ngạo nghễ cũng đâu hay, tốt nhất vẫn là hồn nhiên tự tại. Người khác nói tốt về tôi, tôi cảm ơn người ta, và cần thiết tự hỏi mình có được như họ nói không? Gặp người khinh ta, là chắc ta không có được chỗ đáng trọng, và không còn phiền muộn vì những chuyện thị phi trên văn đàn nữa. người làm ra chiếc xe mong người khác phú quí, kẻ chế tạo dao kiếm mong người ta phương hại nhau, đó là đòi hỏi của bản thân nền kĩ thuật. Nếu có gặp phỉ báng và vùi dập, là tại mình tu chưa thành chính quả, một con thỏ chạy phía trước, là chắc có tới trăm người rượt đuổi phía sau, không phải một con thỏ có thể tách làm trăm con, mà là bởi danh phận con thỏ này chưa được xác nhận mà thôi! Trồng được bụi trúc trước nhà chưa hẳn đã thanh cao, khách đến nhà tự dưng ít đi cũng chưa hẳn là lánh tục, hãy cứ sống cho bình thường là hơn, xuân sang ngắm hoa nở, thu đến thì ta quét lá rụng. Mọi người đều biết tôi lắm bệnh, chẳng hiểu sao cứ đau hết chỗ này chỗ nọ, thế nhưng bệnh tật cũng đã tránh cho tôi nhiều điều khó xử, tỉ như có người hỏi, ông đảm đương chức vụ ấy mới phải, hoặc nói là tại sao ông lại không được giải, tại sao ông không có bồ kia chứ, tôi đều trả lời là bởi tôi có bệnh! Điều quan trọng hơn, bệnh tật là bộ vi chỉnh giữa cái sống với cái chết, nó giúp tôi hiểu ra ý nghĩa của sự sinh tử, như không ngừng được lên lớp triết học vậy. Ngoài bệnh tật nhiều thì người chửi tôi cũng nhiều. Tôi vẫn cứ không hiểu được rằng: Tôi đã trêu chọc ai, gây hấn ai rồi mà lại chửi tôi thế? Về sau được thấy một câu đối của cổ nhân, thế là hiểu ra và cười tủm. Câu đối có vế trái viết thế này: Viết sách được hai mươi vạn lời, tài đâu đã cạn; Được chửi khắp chín châu bốn bể, danh cứ thế đến (Chước thư thành nhị thập vạn ngôn, tài vị tận dã; Đắc báng phiến đắc cửu châu tứ hải, danh diệc tuỳ chi). Tôi chẳng phải thế sao, danh tiếng mà lớn, lời phỉ báng cũng đến theo, lời chửi rủa càng nhiều, danh tiếng lại càng lớn đấy thôi. Trên thế gian đâu đơn thuần chỉ là việc tốt hay việc xấu? Đến bây giờ tôi đã biết được phải viết văn chương ra sao rồi, sống cũng đã có thể sống cho mùi mẫn rồi, cho nên tôi mới tự nhắc mình: Hãy biết thưởng thức. Con chim hót trên cây, chim đang nói gì vậy? Ngôn ngữ của chim tôi nghe không hiểu, nhưng cảm nhận nó hót hay là được, chỉ để mình làm kẻ lắng nghe thôi. Còn nữa: năng làm việc tốt, coi chuyện làm việc tốt là phương thuốc chữa bệnh. Không còn ghét ai, nhìn kẻ thù phải xem như họ là người đến đôn đốc ta thành công. Với bạn bè không thể đòi hỏi họ phải như là người nhà. Tiền thì vẫn phải quí, cũng giống như lời cổ nhân nói, tấm lòng lớn lao vậy, đặng yêu đồng tiền cỏn con sao. Lấy chữ nghĩa lập thân, dùng trang chữ dưỡng tính, sưu tầm đồ cổ để cho đồ cổ sưu tầm ta, say đắm đàn bà để được đàn bà tôn trọng mình. Không uổng phí thời gian, không lãng phí lương thực. Rốt cuộc thì vẫn là câu xưa cũ: Bình sinh một tấm lòng, không nghiêng ngả bởi người, văn chương chuyện thiên cổ, đem thú vui đến ta.Phó Thiên Tùng Dịch từ “Ngũ Thập Đại Thoại” của Giả Bình Ao (Báo Văn nghệ) Mục lục Ngũ Thập Đại Thoại Ngũ Thập Đại Thoại Giả Bình AoChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: Được bạn: mọt sách đưa lên vào ngày: 27 tháng 5 năm 2004
Giả Bình Ao Ngũ Thập Đại Thoại Qua hăm mốt tháng hai âm lịch, là năm nay tôi đã tròn 50 tuổi. Đến tuổi 50, con người đã là đại nhân, thọ là đại thọ, được nói chút đại ngôn trước đám đông rồi. Quãng nửa tháng nay thì phải, tôi bắt đầu ngủ không còn ngon giấc, và tự dưng lại thích tiền, tôi biết rằng tôi đang già đi. Cặp chân thấy nặng lên rõ rệt, xem các thứ đều không rời được kính mắt, răng hàm thì chiếc nào cũng phải hàn vá, mái tóc cũng đã hói đi một nửa. Cơ thể già nua cũng giống như căn nhà lâu năm, dầm kèo mọt ruỗng, mưa dột tứ tung. Lúc con người khoẻ mạnh, cơ thể với linh hồn luôn thống nhất và có thể nói là rất an lành, không bao giờ cần biết đến các bộ phận trên cơ thể, đến khi linh hồn biết rõ được các bộ phận, thì những bộ phận ấy chắc chắn là đã có chuyện, thế là linh hồn phân liệt với cơ thể, đâm ra bực bội, thỉnh thoảng lại muốn bỏ đi. Trong lúc leo cầu thang tôi thường có cảm giác thân mình còn đang ở bậc thang thứ tám, linh hồn đã đang đứng trên bậc thang thứ mười rồi, thậm chí là thân mình ngồi trên ghế, mà nhìn thấy được linh hồn thì đang đi lại trong phòng. Từng có bữa cùng đám bạn đi ăn hiệu, giữa chừng gặp người đàn bà đẹp khiến lòng tôi thích thú, nhưng cô vừa đến gần tôi đã gọi nhắng lên: “Cụ Giả cụ Giả”. Cáu tiết tôi nói: “Chị có thể không thích tôi, nhưng chị cũng không nên gọi tôi như thế nhá!” Tôi thật sự sợ một khi cơ thể tồi quá, linh hồn rời đi sẽ không còn trở lại nữa. Thế là từ đấy không còn dám thức đêm, dù có là bạn thân nhất rủ đánh bài mạt chược, nói trước là sẽ thả cho tôi ăn, cũng không có đi. Ăn uống đâm ra kiểu cách, tuy dạ dầy vốn tình cảm, cũng không còn dám nhớ về những món bánh đúc mì trộn cay khoái khẩu từ thuở bé dưới quê nữa, đòi uống sữa bò, bắt bà xã hầm gà ác với nhân sâm, còn nữa là hải sản và trái cây. Rồi nghe ông Điền hàng xóm, sớm sớm dậy tập chạy, chạy kiểu giật lùi, lại còn nào là ngồi cầu không được hút thuốc, mím miệng xoa tay vào bụng dưới, xoa đến nóng rang lên, lúc rỗi rãi thì tì lưỡi vào chân răng, thấy nước rãi ra thì nuốt vào, không còn bận tâm việc cấp bậc lương lậu còn nâng cao được nữa không, chỉ lo làm sao giữ cho huyết áp mỡ máu khỏi cao lên, thành tích công cán có nổi bật hay không chẳng quan trọng, cốt chú ý sao cho đốt xương cụt đừng chồi ra là được. Đi học thi đỗ vào được đại học là con cái nó có hiếu với cha mẹ rồi, bây giờ cốt làm sao cho mình khoẻ, thì con cái nó mới gần gũi. Từ dưới quê tôi lên thành Tây An hồi mới 20 tuổi, loáng cái mười mấy năm trời đã qua đi, tuy vẫn có cảm giác việc tốt nghiệp đại học là chuyện mới hồi nào, trên thực tế thì con tôi cũng đang sắp tốt nghiệp đại học rồi. Rốt cuộc thì một đời người làm nên nổi những công việc gì? Vào tuổi 50, à không, chỉ sau tuổi 40 thôi, bạn sẽ hiểu ra rằng, kì thực đời người là chẳng làm nên được mấy việc đâu, mà mọi việc đã làm đều là nhằm tìm lấy vị trí của mình. Đấng sáng thế tạo nên đồ vật theo nhu cầu của thế gian, nhưng đồ vật thì lại không biết, đều cho rằng mình là anh hùng, nhưng anh đã là chiếc gáo, thì dù có ra sức chứa nước cũng không chứa lại được bằng cái thùng. Tính cách đã sắp xếp định số cho mật mã sự sống, bởi vậy, sự phát triển tính cách chính là quĩ tích của toàn bộ số phận. Không hiểu được điều này, tất sẽ sa xuống làm kẻ yếu, kẻ yếu là hung dữ mạnh bạo, là tàn nhẫn, đồng thời cũng là vô vọng. Cuối cùng thì tôi cũng đã biết được rằng tôi chính là kẻ mạnh, kẻ mạnh là dịu hiền, thế là tôi sống cuộc sống rất hạnh phúc của tôi. Không còn xách thuốc thơm rượu ngon lên vòng vo nơi cửa nhà sếp, hoặc ôm đống sách và tranh chữ của mình nhờ sếp chỉ bảo, đương nhiên là cũng không có hơi tí là ngồi nhà chửi sếp, sếp bảo việc gì là cố cự lại không làm. Xu nịnh là sỉ nhục, ngạo nghễ cũng đâu hay, tốt nhất vẫn là hồn nhiên tự tại. Người khác nói tốt về tôi, tôi cảm ơn người ta, và cần thiết tự hỏi mình có được như họ nói không? Gặp người khinh ta, là chắc ta không có được chỗ đáng trọng, và không còn phiền muộn vì những chuyện thị phi trên văn đàn nữa. người làm ra chiếc xe mong người khác phú quí, kẻ chế tạo dao kiếm mong người ta phương hại nhau, đó là đòi hỏi của bản thân nền kĩ thuật. Nếu có gặp phỉ báng và vùi dập, là tại mình tu chưa thành chính quả, một con thỏ chạy phía trước, là chắc có tới trăm người rượt đuổi phía sau, không phải một con thỏ có thể tách làm trăm con, mà là bởi danh phận con thỏ này chưa được xác nhận mà thôi! Trồng được bụi trúc trước nhà chưa hẳn đã thanh cao, khách đến nhà tự dưng ít đi cũng chưa hẳn là lánh tục, hãy cứ sống cho bình thường là hơn, xuân sang ngắm hoa nở, thu đến thì ta quét lá rụng. Mọi người đều biết tôi lắm bệnh, chẳng hiểu sao cứ đau hết chỗ này chỗ nọ, thế nhưng bệnh tật cũng đã tránh cho tôi nhiều điều khó xử, tỉ như có người hỏi, ông đảm đương chức vụ ấy mới phải, hoặc nói là tại sao ông lại không được giải, tại sao ông không có bồ kia chứ, tôi đều trả lời là bởi tôi có bệnh! Điều quan trọng hơn, bệnh tật là bộ vi chỉnh giữa cái sống với cái chết, nó giúp tôi hiểu ra ý nghĩa của sự sinh tử, như không ngừng được lên lớp triết học vậy. Ngoài bệnh tật nhiều thì người chửi tôi cũng nhiều. Tôi vẫn cứ không hiểu được rằng: Tôi đã trêu chọc ai, gây hấn ai rồi mà lại chửi tôi thế? Về sau được thấy một câu đối của cổ nhân, thế là hiểu ra và cười tủm. Câu đối có vế trái viết thế này: Viết sách được hai mươi vạn lời, tài đâu đã cạn; Được chửi khắp chín châu bốn bể, danh cứ thế đến (Chước thư thành nhị thập vạn ngôn, tài vị tận dã; Đắc báng phiến đắc cửu châu tứ hải, danh diệc tuỳ chi). Tôi chẳng phải thế sao, danh tiếng mà lớn, lời phỉ báng cũng đến theo, lời chửi rủa càng nhiều, danh tiếng lại càng lớn đấy thôi. Trên thế gian đâu đơn thuần chỉ là việc tốt hay việc xấu? Đến bây giờ tôi đã biết được phải viết văn chương ra sao rồi, sống cũng đã có thể sống cho mùi mẫn rồi, cho nên tôi mới tự nhắc mình: Hãy biết thưởng thức. Con chim hót trên cây, chim đang nói gì vậy? Ngôn ngữ của chim tôi nghe không hiểu, nhưng cảm nhận nó hót hay là được, chỉ để mình làm kẻ lắng nghe thôi. Còn nữa: năng làm việc tốt, coi chuyện làm việc tốt là phương thuốc chữa bệnh. Không còn ghét ai, nhìn kẻ thù phải xem như họ là người đến đôn đốc ta thành công. Với bạn bè không thể đòi hỏi họ phải như là người nhà. Tiền thì vẫn phải quí, cũng giống như lời cổ nhân nói, tấm lòng lớn lao vậy, đặng yêu đồng tiền cỏn con sao. Lấy chữ nghĩa lập thân, dùng trang chữ dưỡng tính, sưu tầm đồ cổ để cho đồ cổ sưu tầm ta, say đắm đàn bà để được đàn bà tôn trọng mình. Không uổng phí thời gian, không lãng phí lương thực. Rốt cuộc thì vẫn là câu xưa cũ: Bình sinh một tấm lòng, không nghiêng ngả bởi người, văn chương chuyện thiên cổ, đem thú vui đến ta.Phó Thiên Tùng Dịch từ “Ngũ Thập Đại Thoại” của Giả Bình Ao (Báo Văn nghệ) Mục lục Ngũ Thập Đại Thoại Ngũ Thập Đại Thoại Giả Bình AoChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: Được bạn: mọt sách đưa lên vào ngày: 27 tháng 5 năm 2004
Cổ Tích Việt Nam Ngưu Lang Chức Nữ Thuở xưa, vị thần chăn trâu của Ngọc Hoàng tên là Ngưu Lang, vì say mê nhan sắc của một tiên nữ tên là Chức Nữ nên bỏ phế việc chăn trâu, để trâu đi nghinh ngang vào điện Ngọc Hư . Chức Nữ cũng vì mê tiếng tiêu của Ngưu Lang nên trễ nải việc dệt vải . Ngọc Hoàng giận giữ, bắt cả hai phải ở cách xa nhau, người đầu sông Ngân, kẻ cuối sông .Nhưng về sau, Ngọc Hoàng nghĩ lại, thương tình nên ra ơn cho Ngưu Lang, Chức Nữ mỗi năm được gặp nhau một lần vào tháng Bảy . Và khi tiễn nhau, Ngưu Lang Chức Nữ khóc sướt mướt. Nước mắt của họ rơi xuống trần hoá thành cơn mưa và được dương thế đặt tên là mưa ngâụThời bấy giờ, sông Ngân trên thiên đình không có một cây cầu nào cả Ngọc Hoàng mới ra lịnh cho làm cầu để Ngưu Lang Chức Nữ được gặp nhau . Các phường thợ mộc ở trần thế được vời lên trời để xây cầu .Các phường thợ mộc mạnh ai nấy làm, không ai nghe ai . Kẻ muốn làm kiểu này , người muốn làm kiểu kia , cãi nhau chí choé . Ddến kỳ hạn mà cầu vẫn không xong .Ngọc Hoàng bực tức, bắt tội mấy phường thợ mộc hoá kiếp làm quạ lấy đầu sắp lại làm cầu cho Ngưu Lang Chức Nữ gặp nhau .Bị hoá làm quạ, các phường thợ mộc lại càng giận nhau hơn . Vì thế cứ tới tháng bảy là loài quạ họp lại sửa soạn lên trời bắc cầu Ô Thước. Và gặp nhau, nhớ lại chuyện cũ nên chúng cắn mổ nhau đến xác xơ lông cánh .Ngưu Lang Chức Nữ lên cầu , nhìn xuống thấy một đám đen ngòi lúc nhúc ở dưới chân thì lấy làm gớm ghiếc , mới ra lịnh cho đàn chim ô thước mỗi khi lên trời làm cầu thì phải nhổ sạch lông đầu . Từ đó , cứ tới tháng bảy thì loài quạ lông thì xơ xác, đầu thì rụng lông xói xọi Mục lục Ngưu Lang Chức Nữ Ngưu Lang Chức Nữ Cổ Tích Việt NamChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: bạn: Ct.Ly đưa lên vào ngày: 26 tháng 1 năm 2005
Vietnamese fairy tales The Weaver Girl and the Cowherd In the past, the Jade Emperor's buffalo herding god was named Nguu Lang. Because he was infatuated with the beauty of a fairy named Chuc Nu, he abandoned his job of herding buffalo and let the buffalo walk horizontally into Ngoc Hu Palace. Chuc Nu also fell in love with Nguu Lang's reputation, so she procrastinated on weaving. The Jade Emperor was angry and forced them both to stay far away from each other, one at the beginning of the Ngan River, the other at the end of the river. But later, the Jade Emperor thought again and felt sorry for him, so he gave Nguu Lang and Chuc Nu a favor to meet once a year. in July . And when saying goodbye to each other, Nguu Lang and Chuc Nu cried profusely. Their tears fell to the earth and turned into rain and the earthly world named it Ngau Ngu rain. At that time, the Ngan River in heaven did not have any bridge. The Jade Emperor ordered a bridge to be built so that Nguu Lang and Chuc Nu could meet each other. together . The carpenters' guilds on earth were called to heaven to build bridges. The strong carpenters' guilds each did their own work, no one listened to anyone else. Some people want to do this, some people want to do that, arguing bitterly. The request was still not completed when the deadline was reached. The Jade Emperor was angry and accused the carpenters of turning into crows, using their heads to make a bridge for Nguu Lang and Chuc Nu to meet each other. Being turned into crows, the carpenters became even angrier. more each other. So every July, the crows gather to prepare to go to the sky to build the O Thuoc bridge. And when they met, remembering the past, they pecked each other until their feathers were gone. Nguu Lang and Chuc Nu went up to the bridge, looked down and saw a mass of black stings crawling at their feet. They were disgusted, so they ordered the flock of birds. Every time a ruler goes up to heaven to make a bridge, he must pluck all the hair from his head. Since then, every July, crows' feathers become ragged and their heads lose feathers Table of contents The Weaver Girl and the Cowherd The Weaver Girl and the Cowherd Vietnamese Fairy TalesWelcome to read the first books from the book project for mobile devices. Source: author: Nguyen Kim Vy. Final words: Thank you for reading the entire story. Source: editor: Nguyen Kim Vy. Source: friend: Ct.Ly posted on: January 26, 2005
Hồ Dzếnh người anh xấu số Trong ba anh em chúng tôi, mẹ tôi thương anh hai tôi nhất. Mẹ tôi thương anh vì anh khổ, vì anh, vẫn theo lời mẹ tôi, đã từng biết qua trong thuở đầu xanh những ngày đào củ chuối, nấu cháo cám ăn trừ cơm.Nhưng lòng người mẹ càng nghiêng xuống đứa con thứ bao nhiêu thì lại càng xa đứa con cả bấy nhiêu. Mẹ tôi ví chúng tôi như cây mía có ba đốt đều nhau, sinh cách nhau đúng bảy tuổi, ba đốt mà một đã bị sâu, còn hai đốt kia thì "chưa biết".Có lần, tôi hỏi mẹ tôi:- Tại sao anh cả con lại là đốt mía cuối bị sâu đục hả mẹ? Sao anh hai lại được là đốt giữa?Mẹ tôi gắt:- Rồi mày liệu, không lại sâu nốt, con ạ.Mà kể ra anh hai tôi cũng xứng đáng là đốt mía giữa thật. Anh có vẻ dịu dàng và phong nhã. Miệng anh cười rất xinh, làm núng hai đồng tiền ở má. Anh hai tôi ít nói, mà đã nói thì hết sức chắc chắn. Mẹ tôi yêu anh và gửi gắm vào anh những ngày già sắp rụng. Anh tôi chải tóc lật ra hai phía gáy, làm nổi rõ lên cái đường ngôi thẳng tắp. Bắt chước anh, tôi nhất định nuôi tóc để chải cho đẹp, nhưng mỗi lần thấy hàng thợ húi rong đi qua, mẹ tôi hay nhìn đầu tôi mà bảo:- Bé định búi tóc hay sao mà chưa thiến bớt nó đi?Nhìn cái tăng đơ tàn nhẫn cày từng mảng tóc âu yếm của tôi lên, tôi hùng hổ bảo người thợ:- Sao anh không cắt mẹ nó cái đầu tôi đi luôn thể?- Bà dạy thế. Vả lại cắt ngắn tóc cho mát, cậu ạ.Tôi không nén nổi tiếng khóc vì bực tức:- Hu hu... nhưng tôi muốn... bức kia mà!Cuối năm ấy, ba anh em chúng tôi được chụp ảnh chung với nhau để gửi về quê nội. Bức ảnh đó, tôi vẫn còn giữ được, tuy thời gian đã làm phai nước đi. Cách một ngày trước hôm chụp ảnh, anh hai tôi đã lo lắng về quần áo. Anh cả tôi lớn rồi nên tỏ vẻ lãnh đạm. Tôi thì chỉ suốt ngày ngắm anh hai tôi.Rồi sáng hôm sau, chững chạc quá, anh hai tôi diện một bộ quần áo sọc, mái tóc chải dẹt xuống, hai mắt tươi cười, tay cầm một chiếc mùi soa.Đến anh cả tôi mới thật khiếp! Anh mặc một bộ quần áo tây của ba tôi sửa lại, vai cứ dốc xuống, đôi ống quần bó lấy bắp chân như xà cạp. Tôi đã mất công lục hết rương hòm, rồi để chịu mặc một cái áo rộng tay và cái quần ngắn cỡn, vì có bao giờ mẹ tôi may cho tôi được một bộ quần áo nào vừa ý đâu. Cái thì rộng, cái thì hẹp, cái làm tôi đang gầy hóa béo, đang lớn hóa lùn. Nhưng cái nào cũng đẹp hết, vì mẹ tôi bảo: áo tàu mặc thế nào cũng... chững!Ba chúng tôi ra ngoài sân với một cái ghế. Anh cả tôi ngồi giữa, tay cầm quyển sách. Anh hai tôi đứng chống nạnh bên cạnh. Tôi nhỏ, đứng vòng tay cho có vẻ lễ phép, đôi mắt đờ nhìn vào ống máy ảnh. Mẹ tôi ngắm kỹ ba chúng tôi rồi bỗng giận dữ:- Trông con mắt thằng cả! Cứ long lên sòng sọc thế kia, trách nào!Tôi nghe anh cả tôi thở dài một cái. Tôi biết trong nhà sắp có chuyện, nên đưa mắt liếc anh hai tôi. Lúc người thợ ảnh sửa lại dáng điệu cho chúng tôi, mẹ tôi lại nhìn anh cả tôi, lè bã trầu ra ngoài miệng, giọng gắt gỏng:- Người thì cứ sừng sững ra ấy!Anh cả tôi vùng đứng dậy, bước ra ngoài, vất lại mấy tiếng:- Để cho hai đứa nó chụp!Mẹ tôi nóng tiết, quăng que củi cầm trong tay theo anh, gắt ầm nhà. Anh hai tôi bấm vào đít tôi một cái, dấu hiệu giữ mình chúng tôi vẫn báo cho nhau vào giờ phút nghiêm trọng. Mẹ tôi bảo ông thợ ảnh:- Ông cứ chụp cho hai cháu cũng được. Thằng con đầu của tôi chết rồi!Do một sự hớ hênh rất có ý nghĩa của người thợ ảnh, tấm hình được chụp ra với cái chỗ trống anh cả tôi bỏ lại. Đôi mắt tôi, mỗi lần đặt lên bức ảnh, chợt thấy thiếu một cái gì, và điều này làm tôi bồi hồi, cảm động. Tôi chạnh lòng, thấy số phận của anh cả tôi hẩm hiu quá. Ngày xưa cũng như ngày nay, người anh đau khổ ấy vẫn bước những bước cô quạnh trong cuộc đời, sống với mình hơn là sống với người xung quanh, nóng nảy và liều lĩnh.Một lần đang ngồi ăn cơm với nhau, không nhớ tôi nói hỗn điều gì, anh cả tôi ném ngay cái bát vào mặt tôi. Cơn nóng nổi lên, tôi quăng trả cái chén, và cứ thế, chúng tôi nhảy vào nhau, đấm nhau, cắn nhau.Thường thường, sau những phút giận dữ như trên, tôi thấy lương tâm bị giày vò, day dứt. Tôi dịu ngọt làm thân với anh cả tôi, nhưng chỉ được vài ngày, chúng tôi lại xem nhau như thù địch. Có điều mãi đến nay tôi vẫn lấy làm lạ, là càng ghét anh bao nhiêu, tôi lại càng thương anh bấy nhiêu.Trước đây, anh cả tôi có quen biết một người con gái mà đôi mắt, tôi còn nhớ, tròn như đôi mắt bồ câu. Nhưng tình yêu vốn là thứ hay vỡ vì bất cứ một cái chạm nhẹ nào, anh tôi đã thấy chết mối tình đầu âm thầm và vô vọng, rồi về quê nội lấy một người vợ mà tôi chắc rằng anh không yêu lắm.Đây là một đoạn đời bất thường của anh cả tôi ở bên quê nhà do chính anh thuật lại:- ... "Thế rồi đến lượt anh. Anh bị trói gô vào một xâu cùng với những người khác, chỉ vì anh là người lạ mặt lạc vào thành phố, đúng cái hôm nổ ra cuộc cách mạng đánh đổ nhà Mãn Thanh. Cây súng, anh còn nhớ rõ, cây súng có cái nòng ngắn, nhưng anh thấy nó đen ngòm và sâu không đáy. Bốn người bên anh đã ngã gục xuống, và sắp đến lượt anh..."Tôi sợ quá, nhảy chồm lên, hỏi:- Thế người ta có bắn anh không?Anh hai tôi đang nghe chuyện, vênh mặt lên bảo anh cả tôi:- Bé nó hỏi thật dở nhỉ? Đã bắn rồi thì làm gì còn sống mà ngồi kể chuyện nữa!Anh cả tôi kể tiếp:- ..."Thế rồi đến lượt anh. Nhưng lúc cây súng sắp giơ lên thì cũng là lúc cây súng... hạ xuống. Khi ấy là vào đúng ban trưa, vì anh nhớ rõ là trời nắng lắm. Thì ra hôm anh bị bắt, ông nội chúng mình đi vắng. May ông về kịp, hối hả gom góp được một món tiền và thuốc phiện lên biếu quan huyện. Thế là quan sai lính phi ngựa ra pháp trường, hô tên anh là Ho Yan lên, và cứu thoát!"Nghe xong chuyện, anh hai tôi bấm tôi ra chỗ vắng mà bảo:- Anh cả anh ấy bị một mẻ mất vía, nên từ đó anh mất vía luôn. Cứ buổi trưa trở đi là anh như người lẩn thẩn, và đêm nào cũng lảm nhảm nói mê.Anh cả tôi có một tâm trạng đúng như vậy. Chị dâu tôi cứ việc yên lặng nằm bên cạnh mà cũng biết hết anh đã làm gì, nghĩ gì hay bậy bạ gì trong ngày hôm ấy.Một lần, mẹ tôi mất năm chục bạc. Đến đêm, anh cả tôi tự khai ngay ra:- Còn khoắng một mẻ nữa là ít. Ngần ấy đã ăn thua gì!Đại để là thế. Ban ngày, anh tôi tính toan gì trong bụng, thì đến đêm nói hết ra ngoài miệng. Tâm hồn anh như căn lều trống, gió thổi qua không vướng một bức vách, thổi một mạch, thổi vù vù.Trước đây mấy năm, và đây cũng là nguyên do khiến mẹ tôi ghét anh, một chiều đi học về, tôi ngạc nhiên thấy một quang cảnh đổ vỡ bừa bãi. Mẹ tôi, bên cạnh là người đầy tớ trai, đang giận dữ ném các đồ vật vớ được về phía anh, dồn anh vào một góc tường. Anh tôi không kêu, không khóc, nhưng nét mặt xạm lại, một nỗi hằn học lẫn đau đớn vỡ tràn trong cặp mắt ngầu đỏ.Cuối cùng, tôi thấy anh cả tôi kêu lên một tiếng, ngã xuống: một dòng máu chảy ra trên vai anh, thấm vào manh áo rách. Trong cảnh hỗn loạn, bỗng nhiên, anh tôi vớ được một thanh mác, thứ khí giới phòng kẻ trộm hồi ba tôi còn sống, lao về phía trước mặt. Mũi mác cắm phập vào chiếc tủ đứng, và tiếng mẹ tôi la lên:- Nó giết, nó giết tôi, các ông, các bà ơi!Thực ra đó chỉ là cách chống đỡ điên cuồng và tuyệt vọng của một người bị thương, gần như loạn óc. Sau tiếng kêu của mẹ tôi, tôi nóng mắt, sẵn hòn gạch vớ được, ném về phía anh...Từ đấy, mẹ tôi vẫn dùng hai tiếng "sát nhân" gán cho anh, mỗi lần tức giận. Lòng mẹ tôi đã gần như mất hết thiện cảm đối với giọt máu của mình, đốt mía sâu đục. Còn tôi, tôi không thiếu tình thương hại mỗi lần tôi nghĩ đến người anh đau khổ, nghĩ đến cái gì không tươi đẹp đã làm hoen ố cả một quãng đời của ba chúng tôi.** *Rồi anh Cả tôi mất vào một năm lụt lội, đói kém. Anh bỏ nhà, đi lên miền ngược, tìm lại những người bạn ngày xưa, vì anh vừa đói cơm trắng lại vừa đói cơm đen. Nhưng anh đã chết ở dọc đường vì kiệt sức. Dân địa phương đi qua, làm phúc vùi tạm xác anh ở một góc rừng đâu đó.Hôm được tin anh chết, tôi ở xa không về được, chỉ có chị dâu tôi và đứa cháu đầu lòng thất thểu kéo nhau đi tìm xác anh. Mẹ tôi thì già yếu, nhặt nhạnh được một thúng lá chuối khô, dặn chị tôi mang theo.Tôi thương anh tôi khi anh còn sống, hơn là khi đã chết. Chết như anh là thoát. Tôi thương những giọt nước mắt mẹ tôi chắt ra từ đáy lòng để khóc lần cuối cùng đứa con dại dột. Và tôi hay nghĩ đến bó lá chuối khô của mẹ, thứ "cây nhà lá vườn", không tốn tiền mua, mà chị dâu tôi mang theo để gói hài cốt của chồng.1942Rút từ tập Hồ Dzếnh - Tác phẩm chọn lọc. Mục lục người anh xấu số người anh xấu số Hồ DzếnhChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: ThanhĐược bạn: Thành Viên VNthuquan đưa lên vào ngày: 27 tháng 12 năm 2003
Hồ Dzếnh người anh xấu số Trong ba anh em chúng tôi, mẹ tôi thương anh hai tôi nhất. Mẹ tôi thương anh vì anh khổ, vì anh, vẫn theo lời mẹ tôi, đã từng biết qua trong thuở đầu xanh những ngày đào củ chuối, nấu cháo cám ăn trừ cơm.Nhưng lòng người mẹ càng nghiêng xuống đứa con thứ bao nhiêu thì lại càng xa đứa con cả bấy nhiêu. Mẹ tôi ví chúng tôi như cây mía có ba đốt đều nhau, sinh cách nhau đúng bảy tuổi, ba đốt mà một đã bị sâu, còn hai đốt kia thì "chưa biết".Có lần, tôi hỏi mẹ tôi:- Tại sao anh cả con lại là đốt mía cuối bị sâu đục hả mẹ? Sao anh hai lại được là đốt giữa?Mẹ tôi gắt:- Rồi mày liệu, không lại sâu nốt, con ạ.Mà kể ra anh hai tôi cũng xứng đáng là đốt mía giữa thật. Anh có vẻ dịu dàng và phong nhã. Miệng anh cười rất xinh, làm núng hai đồng tiền ở má. Anh hai tôi ít nói, mà đã nói thì hết sức chắc chắn. Mẹ tôi yêu anh và gửi gắm vào anh những ngày già sắp rụng. Anh tôi chải tóc lật ra hai phía gáy, làm nổi rõ lên cái đường ngôi thẳng tắp. Bắt chước anh, tôi nhất định nuôi tóc để chải cho đẹp, nhưng mỗi lần thấy hàng thợ húi rong đi qua, mẹ tôi hay nhìn đầu tôi mà bảo:- Bé định búi tóc hay sao mà chưa thiến bớt nó đi?Nhìn cái tăng đơ tàn nhẫn cày từng mảng tóc âu yếm của tôi lên, tôi hùng hổ bảo người thợ:- Sao anh không cắt mẹ nó cái đầu tôi đi luôn thể?- Bà dạy thế. Vả lại cắt ngắn tóc cho mát, cậu ạ.Tôi không nén nổi tiếng khóc vì bực tức:- Hu hu... nhưng tôi muốn... bức kia mà!Cuối năm ấy, ba anh em chúng tôi được chụp ảnh chung với nhau để gửi về quê nội. Bức ảnh đó, tôi vẫn còn giữ được, tuy thời gian đã làm phai nước đi. Cách một ngày trước hôm chụp ảnh, anh hai tôi đã lo lắng về quần áo. Anh cả tôi lớn rồi nên tỏ vẻ lãnh đạm. Tôi thì chỉ suốt ngày ngắm anh hai tôi.Rồi sáng hôm sau, chững chạc quá, anh hai tôi diện một bộ quần áo sọc, mái tóc chải dẹt xuống, hai mắt tươi cười, tay cầm một chiếc mùi soa.Đến anh cả tôi mới thật khiếp! Anh mặc một bộ quần áo tây của ba tôi sửa lại, vai cứ dốc xuống, đôi ống quần bó lấy bắp chân như xà cạp. Tôi đã mất công lục hết rương hòm, rồi để chịu mặc một cái áo rộng tay và cái quần ngắn cỡn, vì có bao giờ mẹ tôi may cho tôi được một bộ quần áo nào vừa ý đâu. Cái thì rộng, cái thì hẹp, cái làm tôi đang gầy hóa béo, đang lớn hóa lùn. Nhưng cái nào cũng đẹp hết, vì mẹ tôi bảo: áo tàu mặc thế nào cũng... chững!Ba chúng tôi ra ngoài sân với một cái ghế. Anh cả tôi ngồi giữa, tay cầm quyển sách. Anh hai tôi đứng chống nạnh bên cạnh. Tôi nhỏ, đứng vòng tay cho có vẻ lễ phép, đôi mắt đờ nhìn vào ống máy ảnh. Mẹ tôi ngắm kỹ ba chúng tôi rồi bỗng giận dữ:- Trông con mắt thằng cả! Cứ long lên sòng sọc thế kia, trách nào!Tôi nghe anh cả tôi thở dài một cái. Tôi biết trong nhà sắp có chuyện, nên đưa mắt liếc anh hai tôi. Lúc người thợ ảnh sửa lại dáng điệu cho chúng tôi, mẹ tôi lại nhìn anh cả tôi, lè bã trầu ra ngoài miệng, giọng gắt gỏng:- Người thì cứ sừng sững ra ấy!Anh cả tôi vùng đứng dậy, bước ra ngoài, vất lại mấy tiếng:- Để cho hai đứa nó chụp!Mẹ tôi nóng tiết, quăng que củi cầm trong tay theo anh, gắt ầm nhà. Anh hai tôi bấm vào đít tôi một cái, dấu hiệu giữ mình chúng tôi vẫn báo cho nhau vào giờ phút nghiêm trọng. Mẹ tôi bảo ông thợ ảnh:- Ông cứ chụp cho hai cháu cũng được. Thằng con đầu của tôi chết rồi!Do một sự hớ hênh rất có ý nghĩa của người thợ ảnh, tấm hình được chụp ra với cái chỗ trống anh cả tôi bỏ lại. Đôi mắt tôi, mỗi lần đặt lên bức ảnh, chợt thấy thiếu một cái gì, và điều này làm tôi bồi hồi, cảm động. Tôi chạnh lòng, thấy số phận của anh cả tôi hẩm hiu quá. Ngày xưa cũng như ngày nay, người anh đau khổ ấy vẫn bước những bước cô quạnh trong cuộc đời, sống với mình hơn là sống với người xung quanh, nóng nảy và liều lĩnh.Một lần đang ngồi ăn cơm với nhau, không nhớ tôi nói hỗn điều gì, anh cả tôi ném ngay cái bát vào mặt tôi. Cơn nóng nổi lên, tôi quăng trả cái chén, và cứ thế, chúng tôi nhảy vào nhau, đấm nhau, cắn nhau.Thường thường, sau những phút giận dữ như trên, tôi thấy lương tâm bị giày vò, day dứt. Tôi dịu ngọt làm thân với anh cả tôi, nhưng chỉ được vài ngày, chúng tôi lại xem nhau như thù địch. Có điều mãi đến nay tôi vẫn lấy làm lạ, là càng ghét anh bao nhiêu, tôi lại càng thương anh bấy nhiêu.Trước đây, anh cả tôi có quen biết một người con gái mà đôi mắt, tôi còn nhớ, tròn như đôi mắt bồ câu. Nhưng tình yêu vốn là thứ hay vỡ vì bất cứ một cái chạm nhẹ nào, anh tôi đã thấy chết mối tình đầu âm thầm và vô vọng, rồi về quê nội lấy một người vợ mà tôi chắc rằng anh không yêu lắm.Đây là một đoạn đời bất thường của anh cả tôi ở bên quê nhà do chính anh thuật lại:- ... "Thế rồi đến lượt anh. Anh bị trói gô vào một xâu cùng với những người khác, chỉ vì anh là người lạ mặt lạc vào thành phố, đúng cái hôm nổ ra cuộc cách mạng đánh đổ nhà Mãn Thanh. Cây súng, anh còn nhớ rõ, cây súng có cái nòng ngắn, nhưng anh thấy nó đen ngòm và sâu không đáy. Bốn người bên anh đã ngã gục xuống, và sắp đến lượt anh..."Tôi sợ quá, nhảy chồm lên, hỏi:- Thế người ta có bắn anh không?Anh hai tôi đang nghe chuyện, vênh mặt lên bảo anh cả tôi:- Bé nó hỏi thật dở nhỉ? Đã bắn rồi thì làm gì còn sống mà ngồi kể chuyện nữa!Anh cả tôi kể tiếp:- ..."Thế rồi đến lượt anh. Nhưng lúc cây súng sắp giơ lên thì cũng là lúc cây súng... hạ xuống. Khi ấy là vào đúng ban trưa, vì anh nhớ rõ là trời nắng lắm. Thì ra hôm anh bị bắt, ông nội chúng mình đi vắng. May ông về kịp, hối hả gom góp được một món tiền và thuốc phiện lên biếu quan huyện. Thế là quan sai lính phi ngựa ra pháp trường, hô tên anh là Ho Yan lên, và cứu thoát!"Nghe xong chuyện, anh hai tôi bấm tôi ra chỗ vắng mà bảo:- Anh cả anh ấy bị một mẻ mất vía, nên từ đó anh mất vía luôn. Cứ buổi trưa trở đi là anh như người lẩn thẩn, và đêm nào cũng lảm nhảm nói mê.Anh cả tôi có một tâm trạng đúng như vậy. Chị dâu tôi cứ việc yên lặng nằm bên cạnh mà cũng biết hết anh đã làm gì, nghĩ gì hay bậy bạ gì trong ngày hôm ấy.Một lần, mẹ tôi mất năm chục bạc. Đến đêm, anh cả tôi tự khai ngay ra:- Còn khoắng một mẻ nữa là ít. Ngần ấy đã ăn thua gì!Đại để là thế. Ban ngày, anh tôi tính toan gì trong bụng, thì đến đêm nói hết ra ngoài miệng. Tâm hồn anh như căn lều trống, gió thổi qua không vướng một bức vách, thổi một mạch, thổi vù vù.Trước đây mấy năm, và đây cũng là nguyên do khiến mẹ tôi ghét anh, một chiều đi học về, tôi ngạc nhiên thấy một quang cảnh đổ vỡ bừa bãi. Mẹ tôi, bên cạnh là người đầy tớ trai, đang giận dữ ném các đồ vật vớ được về phía anh, dồn anh vào một góc tường. Anh tôi không kêu, không khóc, nhưng nét mặt xạm lại, một nỗi hằn học lẫn đau đớn vỡ tràn trong cặp mắt ngầu đỏ.Cuối cùng, tôi thấy anh cả tôi kêu lên một tiếng, ngã xuống: một dòng máu chảy ra trên vai anh, thấm vào manh áo rách. Trong cảnh hỗn loạn, bỗng nhiên, anh tôi vớ được một thanh mác, thứ khí giới phòng kẻ trộm hồi ba tôi còn sống, lao về phía trước mặt. Mũi mác cắm phập vào chiếc tủ đứng, và tiếng mẹ tôi la lên:- Nó giết, nó giết tôi, các ông, các bà ơi!Thực ra đó chỉ là cách chống đỡ điên cuồng và tuyệt vọng của một người bị thương, gần như loạn óc. Sau tiếng kêu của mẹ tôi, tôi nóng mắt, sẵn hòn gạch vớ được, ném về phía anh...Từ đấy, mẹ tôi vẫn dùng hai tiếng "sát nhân" gán cho anh, mỗi lần tức giận. Lòng mẹ tôi đã gần như mất hết thiện cảm đối với giọt máu của mình, đốt mía sâu đục. Còn tôi, tôi không thiếu tình thương hại mỗi lần tôi nghĩ đến người anh đau khổ, nghĩ đến cái gì không tươi đẹp đã làm hoen ố cả một quãng đời của ba chúng tôi.** *Rồi anh Cả tôi mất vào một năm lụt lội, đói kém. Anh bỏ nhà, đi lên miền ngược, tìm lại những người bạn ngày xưa, vì anh vừa đói cơm trắng lại vừa đói cơm đen. Nhưng anh đã chết ở dọc đường vì kiệt sức. Dân địa phương đi qua, làm phúc vùi tạm xác anh ở một góc rừng đâu đó.Hôm được tin anh chết, tôi ở xa không về được, chỉ có chị dâu tôi và đứa cháu đầu lòng thất thểu kéo nhau đi tìm xác anh. Mẹ tôi thì già yếu, nhặt nhạnh được một thúng lá chuối khô, dặn chị tôi mang theo.Tôi thương anh tôi khi anh còn sống, hơn là khi đã chết. Chết như anh là thoát. Tôi thương những giọt nước mắt mẹ tôi chắt ra từ đáy lòng để khóc lần cuối cùng đứa con dại dột. Và tôi hay nghĩ đến bó lá chuối khô của mẹ, thứ "cây nhà lá vườn", không tốn tiền mua, mà chị dâu tôi mang theo để gói hài cốt của chồng.1942Rút từ tập Hồ Dzếnh - Tác phẩm chọn lọc. Mục lục người anh xấu số người anh xấu số Hồ DzếnhChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: ThanhĐược bạn: Thành Viên VNthuquan đưa lên vào ngày: 27 tháng 12 năm 2003
Allen Woodman Người Bán Chụp Đèn Dịch giả: Nguyễn thị Hải Hà Lời Người Dịch: Allen Woodman sinh ra và lớn lên ở Alabama. Tuyển tập truyện của ông Saved by Mr. F. Scott Fitzgerald, xuất bản năm 1997. The University of West Alabama’s Livingston Press (Station 22, Livingston, AL 35470), đã xuất bản tuyển tập này trong bộ Nhà Văn Đương Thời, Contemporary Writers Series. Woodman cũng hợp tác với các tác giả khác xuất bản truyện của trẻ em, trong đó có tác phẩm rất được yêu chuộng The Cows Are Going To Paris (Đàn Bò Đi Ba Lê). Ông đang sống ở Flagstaff, Arizona, nơi ông làm chủ nhiêm bộ môn Sáng Tác Văn Học ở trường Đại Học Northern Arizona. Ngày nào cũng thế. Cửa đang mở. Trời đang mùa hè. TV đang mở.Một người đàn ông tóc bạc mặc toàn đen và cái áo khoác đuôi tôm đã sờn, đến cửa bán rong chụp đèn. Ông có vẻ đàng hoàng trang trọng và hai bàn tay của ông bị cụt đi càng làm tăng vẻ nghiêm trang của ông. Ông cầm một cái chụp đèn bằng một cái bàn tay giả bằng kim loại. “Tôi có thể bán cho ông một cái chụp đèn mới không?”“Tôi không thích chụp đèn. Tôi chẳng bao giờ quan tâm ngó ngàng đến mấy cái chụp đèn tôi đã có. Tôi tự hỏi không biết vì sao mà ông ta bị cụt mất cả hai bàn tay. Tôi cố gắng trò chuyện. “Có một người gõ cửa nhà tôi hôm qua để bán chổi. Ông có biết ông ta không?”Ông ta đặt cái chụp đèn xuống cái xe đẩy tay của ông ta. “Không có liên hệ. Tôi bán chụp đèn. Ông có muốn mua một cái không?”Tôi luôn luôn yêu thích những hoạt động của con người khi họ chuẩn bị ra về. Tôi hỏi ông ta đi bán chụp đèn đã bao lâu rồi.“Mười lăm năm trước, tôi có một chương trình biểu diễn nhỏ ở một hội chợ to. Một gánh xiệc ruồi. Nhưng tôi bị lỗ nặng tại vì vi phạm vệ sinh và làm giảm cái ngon của thức ăn.”“Tôi có xem gánh xiệc ruồi một lần, nhưng chẳng ai chịu tin tôi cả,” tôi nói. “tôi chỉ giữ riêng mình tôi biết. Nhưng tôi thề tôi nhớ một cái đám cưới ruồi nhỏ tí nị và một con ruồi đang chạy xe đạp.”“Tôi có một cái bàn nhỏ được dùng làm sân khấu, và tôi chỉ cho phép đặt vài cái ghế dành cho khán giả. Tôi có một chương trình gồm có múa ba lê, biểu diễn đi trên dây, và đua kéo toa xe lửa. Điều bí mật là tất cả những cuộc biểu diễn này đều bằng nhân lực ruồi. Chỉ có chúng mới có sức mạnh cần thiết để vừa kéo vừa đẩy bằng những cái chân sau của chúng. Đàn ruồi của tôi thì không thể nào tưởng tượng nỗi. Chúng rất dai sức. Chúng có thể biểu diễn hàng trăm buổi diễn trong một ngày và tiếp tục làm như thế trong nhiều tuần. Và cứ mỗi khi kết thúc chương trình, tôi xắn tay áo lên và mời diễn viên ăn tối.” Người đàn ông giơ hai cái tay giả hình cái móc bằng kim loại bóng loáng lên không trung.“Tôi đọc tin ở Mễ Tây Cơ, Nhà Thờ ủng hộ nghệ thuật ruồi,” tôi nói. “Các nữ tu làm và bán những cái thánh giá nhỏ nhắn làm bằng xác ruồi và kim loại vụn. Xác ruồi được dùng để họ không phải điêu khắc hình tượng người.”“Tôi có một con ruồi,” ông ta nói bằng một giọng rất thâm trầm. “Tôi nuôi nó như người ta nuôi thú vật thân thiết trong nhà. Đó là con ruồi duy nhất mà tôi cho phép nó hút máu trong lòng bàn tay tôi. Tôi cột nó vào một sợi dây chuyền vàng chiều dài cỡ bằng ngón tay của ông. Rồi tôi cột vào sợi dây chuyền vàng vào một cỗ xe cũng toàn bằng vàng rất đẹp để cho con ruồi kéo.”Tôi tưởng là tôi đã nhìn thấy tất cả mọi chuyện trên đời. Nhưng cái cách ông nói về con ruồi ông nuôi như gia thú và cái toa xe bằng vàng thật toàn hảo làm tôi suy nghĩ. “Vâng,” tôi nói to lên, “ông có thể kể cho tôi nghe chuyện này được không?”Ông ta nhìn tôi chằm chặp. “Không,” ông nói có vẻ đắn đo. “Nhớ lại câu chuyện này rất khó khăn.”Tôi cố gắng nghĩ cho ra một câu trả lời thích hợp. Ngần ngừ một hồi lâu, tôi nói, “Tôi hiểu.”Ông ta dùng cái bàn tay giả bằng kim loại gãi gãi lớp da dưới cằm. “Chờ tôi một phút,” ông nói. “Lấy cho tôi cái gì đó để tôi viết.”Ông nhặt một cái chụp đèn màu trắng trơn. Tôi đặt cây bút vào cái bàn tay giả bên trái của ông. Đó là một cây bút đầu mềm tôi quên trả lại cho người thư ký lúc tôi viết một cái chi phiếu ở tiệm A&P [i].Ông ấy vẽ toàn thể gánh xiệc lên trên cái chụp đèn, đám cưới, môn xiệc đi trên dây, và màn khiêu vũ ba lê. Ông ta vẽ cả những cảnh mà ông ta chưa kể. Cuối cùng ông vẽ cái mà tôi biết đó là con ruồi cột bằng sợi dây chuyền bằng vàng, bởi vì nó nằm trong lòng của một bàn tay. Bàn tay thật hoàn toàn.Thỉnh thoảng tôi cố giải thích cho mọi người lý do tôi mua cái chụp đèn. Sau nhiều lần như thế, tôi mang cái đèn để cạnh giường của tôi và đóng cửa phòng ngủ lại. Chú thích:[i] một cửa hàng siêu thị có nhiều chi nhánh trên toàn Hoa Kỳ Mục lục Người Bán Chụp Đèn Người Bán Chụp Đèn Allen WoodmanChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: bạn: Ct.Ly đưa lên vào ngày: 22 tháng 2 năm 2009
Allen Woodman Lampshade Seller Translator: Nguyen Thi Hai Ha Translator's Note: Allen Woodman was born and raised in Alabama. Collection of his stories Saved by Mr. F. Scott Fitzgerald, published in 1997. The University of West Alabama's Livingston Press (Station 22, Livingston, AL 35470), published this collection in the Contemporary Writers Series. Woodman also collaborated with other authors to publish children's stories, including the popular The Cows Are Going To Paris. He lives in Flagstaff, Arizona, where he chairs the Creative Writing department at Northern Arizona University. Every day is the same. The door is open. It's summer. The TV was on. A gray-haired man wearing all black and a worn tailcoat came to the door to peddle lampshades. He had a dignified look and his amputated hands added to his seriousness. He held a lampshade with a metal prosthetic hand. “Can I sell you a new lampshade?” “I don't like lampshades. I never bothered to look at the lampshades I already had. I wonder why he lost both of his hands. I try to chat. “Someone knocked on my door yesterday to sell brooms. Do you know him?” He put the lampshade down on his cart. “There is no contact. I sell lampshades. Would you like to buy one?” I always love the activities people do when they are about to leave. I asked him how long he had been selling lampshades. “Fifteen years ago, I had a small show at a big fair. A circus of flies. But I lost a lot of money because of hygiene violations and reduced the deliciousness of the food.” “I saw a fly circus once, but no one believed me,” I said. “I just keep it to myself. But I swear I remember a tiny fly wedding and a fly riding a bicycle.” “I had a small table that served as a stage, and I only allowed a few chairs for the audience. I have a program that includes ballet, tightrope walking, and railroad car racing. The secret is that all these performances are manned by flies. Only they have the strength necessary to both pull and push with their hind legs. My flies are unimaginable. They are very resilient. They can perform hundreds of shows in a day and continue to do so for weeks. And every time the show ends, I roll up my sleeves and invite the actors to dinner.” The man raised his shiny metal hook-shaped prosthetic arms into the air. “I read that in Mexico, the Church supports fly art,” I said. “Nuns make and sell tiny crosses made from dead flies and scrap metal. The corpses of flies were used so they wouldn't have to sculpt human figures.” “I have a fly,” he said in a very deep voice. “I raise it like people raise close pets in the house. It was the only fly that I allowed to suck blood from the palm of my hand. I tied it to a gold chain the length of his finger. Then I tied a gold chain to a beautiful carriage made of gold for the fly to pull. "I thought I had seen everything in the world. But the way he talked about the fly he kept as a pet and the perfect golden carriage made me think. “Yes,” I said out loud, “can you tell me something?” He stared at me. “No,” he said hesitantly. “Remembering this story is very difficult.” I tried to think of a suitable answer. After a long pause, I said, “I understand.” He used his metal prosthetic hand to scratch the skin under his chin. “Give me a minute,” he said. “Get me something so I can write.” He picked up a plain white lampshade. I put the pen in his left prosthetic hand. It was a soft-tipped pen I forgot to return to the clerk when I wrote a check at A&P [i]. He drew the whole circus on the lampshade, the wedding, the circus. on the ropes, and ballet dancing. He even painted scenes that he had not mentioned. Finally he drew what I knew was a fly tied to a gold chain, because it was in the palm of a hand. The hand is completely real. Sometimes I try to explain to people why I bought the lampshade. After many times like that, I put the lamp next to my bed and closed the bedroom door. Note:[i] a supermarket store with many branches across the United States Table of contents Lampshade Seller Lampshade Seller Allen WoodmanWelcome to read books from the book project for mobile devices. Source: author: Nguyen Kim Vy. Final words: Thank you for reading the entire story. Source: editor: Nguyen Kim Vy. Source: friend: Ct.Ly posted on: February 22, 2009
Thạch Lam người bạn cũ Tôi với Khanh - người bạn duyên nợ trăm năm - đang ngồi cùng bàn câu chuyện làm ăn, ấm nước chè giải khát pha đã hầu nhạt. Chuông đồng hồ điểm mười một giờ; ngọn đèn lụt dần, dầu hỏa trong bầu do một tay rót có điều độ chỉ cháy được đến thế là hết. Cảnh tịch mịch một đêm khuya ở tỉnh nhỏ thật buồn bã, khiến tôi lại nhớ đến những đêm náo nhiệt, đầy ánh sáng ở Hà Nội.Khanh sửa soạn sắp ẵm con đi nghỉ, thì bỗng có tiếng gõ cửa rồi vú già vào.- Thưa cậu, có người đàn bà nào hỏi cậu.Tôi thất ý bảo:- Sao vú không nói tôi vắng, bảo người ta lúc khác hãy đến có được không?- Thưa, người ấy có việc cần, con không dám tự ý.Tôi ngạc nhiên ngửng lên nhìn vợ, thì Khanh cũng đang ngạc nhiên nhìn tôi, đôi lông mày lá liễu đã bắt đầu díu lại. Tôi bảo vú già:- Vú ra hỏi ai đã.Người vú vừa quay đi thì Khanh đã sầm ngay mặt lại lườm tôi mà rằng:- Đàn bà, con gái, nửa đêm còn hỏi với han gì? Sao cậu không sai vú già tống khứ đi cho rồi.Ngay lúc ấy, người vú trở vào:- Thưa cô Lệ Minh đấy, cậu ạ.Tôi ngẩn người ra. Lệ Minh, người bạn đồng chí gặp gỡ ở Hà thành ba năm về trước, sao nay cô lại về đây? Cô đến bí mật thực. Không biết cô đến tìm tôi có việc gì trong lúc đêm khuya khoắt này? Đến nhà tránh nạn chăng? Trong một buổi mà tấm lòng nhiệt huyết còn sôi nổi, tôi đã hứa lúc nào cũng sẵn lòng giúp cô trong bước khó khăn. Lời hứa đó, và cái kỷ niệm một thời thiếu niên hăng hái thoáng qua trí nhớ khiến tôi băn khoăn; một mối lo ngại bỗng nhiên đến ám ảnh tâm trí làm tan nát cái yên tĩnh tôi đã giữ gìn trong mấy năm này.Vú già vẫn đứng đợi. Tôi bảo Khanh:- Mợ vào trông em nó ngủ trước. Tôi phải ra có việc.Rồi vội bước để tránh câu bấc chì mà tôi có thể đoán được, tôi ra ngoài tiếp khách. Trông khách mà kinh ngạc, không biết có phải Lệ Minh người cũ không. áo sa chùm ngoài áo cánh trắng càng làm rõ cảnh nghèo khổ ẩn ở trong; hai túi nhét đầy những thứ lạ gì, há hốc miệng như kêu đói; một giải lưng lụa đã ám màu xơ xác thoáng qua sợi sa thưa.Tôi lại nhớ đến Lệ Minh ngày xưa, óng ả biết bao trong chiếc áo vải rồng, đi đâu cũng cổ động dùng nội hóa mà chính cô hiến cái gương diễm lệ.Ngay đến dung nhan cô xét cũng khác xưa, đôi mắt tinh nhanh buổi trước bây giờ lờ đờ như bị ám sau cái màn lo nghĩ; đôi gò má hây hây nay không biết vì tuổi hay vì phiền não ở đời, đôi má kia đã thành ra hóp lại, hai gò má nổi cao, phải chăng như để tiêu biểu cho kẻ số phận vất vả long đong. Tôi ngại ngùng, lâu chưa nói được câu hỏi han, cô cũng ra vẻ sượng sùng, e lệ; một lát, cô khẽ nói:- Mạnh quân chắc thấy em khác trước lắm.Nào tôi có trách gì cô! Trong một phút nhìn sự thực, tôi hiểu chính tôi thay đổi nhiều lắm, mà tự ghen với người nữ đồng chí. Cái thân trưởng giả nửa mùa tôi nay đã nghiễm nhiên thành một người tòng sự công sở, họa chăng có lo lắng cho vợ con đủ ấm no là mãn nguyện. Cái đời nghĩa hiệp lãng mạn đã thuộc về thời quá khứ, cô đến đây thật là tiếng sét trong quãng bình minh. Rồi không biết tự nhủ mình hay nhủ ai, tôi đáp:- Vâng, người đời ta mỗi lúc một khác.Lệ Minh như không để ý đến câu triết lý ngớ ngẩn ấy:- Em đến đây muốn phiền ông anh một việc, chả biết ông anh có sẵn lòng không?Tôi hơi chột dạ. Không hiểu nhà nữ đồng chí này lại muốn bày ra chuyện gì. Song cũng gượng đáp:- Việc gì, cô cứ cho biết.Lệ Minh bắt đầu thuật lại quãng đời vừa qua.- Anh em bây giờ mỗi người một nơi, người nào lo phận người ấy. Còn em thế cô, một thân lang thang nay đây mai đó, chẳng làm được việc gì, rồi một buổi chán nản, yếu hèn, em đã đem thân gửi một nhà lái buôn.Nghe thấy cô có chồng tôi như đỡ được một gánh nặng, dằn lòng nghe nốt câu chuyện. Chuyện cô cũng giống như chuyện trăm nghìn gia đình éo le khác. Gã lái buôn đã dối cô: gã đã có vợ cả. Cả, lẽ ghen tuông, cô vốn người học thức, không chịu được phận tôi đòi, một hôm cô ẵm con lên đường tìm phương tự lập. Cô đến nhờ tôi tìm cho một chỗ dạy tư, nhất được nhà nào chịu nuôi thày dạy con ở nhà thì càng hay, vì cô chỉ mong được một chỗ "yên thân" là quí.Cô nói xong, cúi nhìn đi chỗ khác, như tự lấy làm xấu hổ vì cái điều mong mỏi tầm thường ấy. Yên thân! Bây giờ chúng tôi chỉ cầu có thế thôi ư? Tự nhiên tôi thấy khó chịu trong bộ quần áo lụa, trong căn phòng của tôi bày biện nào đỉnh đồng, tủ chè, sập gụ, những thứ đồ đạc làm nẩy vẻ thèm muốn trong con mắt những người đồng sự ở cái tỉnh nhỏ này. Tôi không giấu được cái mối thẹn thùng đưa lên làm nóng mặt. Tôi quay lại phía Lệ Minh vừa gặp lúc nàng cũng đưa mắt nhìn tôi. Hai chúng tôi nhìn nhau ngượng nghịu.Cô khẩn khoản thêm:- Thế nào anh cũng cố giúp hộ tôi nhé.Tôi nhận lời cho qua chuyện. Song tôi cũng thừa hiểu, trước cái hoạn nạn không xứng đáng kia, một lời hứa xoàng chẳng cũng quá ư nhạt nhẽo. Không tìm được phương cứu giúp cô một cách kiến hiệu hơn, tôi tự thấy mình hèn nhát. Nhưng biết làm thế nào? Mời cô ở lại đây ư? Tôi nghĩ đến cái giận dữ của Khanh mà sợ: nàng chẳng sẽ làm tan hoang nhà cửa ra mất?- Hỏi thế này khí không phải, cô sao không đến chơi sớm hơn một chút?Lệ Minh như mới hiểu mình đến giờ vô lý. Cô bối rối xin lỗi:- Em chỉ còn nhớ chỗ ở ngõ huynh biên cho trước. Đến hỏi từ sáu giờ tối, họ chỉ quanh quẩn, và em không thuộc phố tỉnh này thành ra cứ đi vơ vẩn mãi. Và khi còn ở trên Hà Nội anh hay thức khuya lắm cơ mà. Anh thường vẫn nói, đêm là ngày của bọn trí thức, em vẫn tưởng thế nên mới dám đường đột đến đây.Tìm công việc hộ cô, giới thiệu một thiếu nữ như cô vào một gia đình nền nếp cũ, tôi cho là khó khăn, mà nghĩ không có can đảm làm. Giúp cô cái vốn nhỏ để cô tìm cách tự lập, tôi vẫn cho là phận sự của tôi. Song mợ cháu giữ chìa khóa, mà Khanh đâu có phải là người có thể lấy nghĩa khí mà chuyển được lòng. Muốn tìm câu khuyên giải cô, song tôi thấy chính cần phải khuyên giải cho tôi nhiều hơn, nên tắc cổ không nói được nên lời.Đồng hồ đánh mười hai tiếng lanh lảnh trong đêm khuya. Tôi giật mình nhìn Lệ Minh, lo sợ. Đã một giờ đồng hồ ở nhà ngoài rồi, chắc Khanh ngờ vực, mà từ nãy đến giờ tôi chắc đã lẩm bẩm chán.Lệ Minh như biết ý, đứng dậy xin cáo từ.Tôi mở cửa tiễn cô ra ngoài. Trông cô đi khuất vào bóng tối, tôi lại nhớ đến những ngày nào hồi còn trẻ vẫn cùng nhau hội họp khuya trong một căn phố tối tăm ở ngoại ô Hà Nội.Tôi đóng cửa trở vào, thấy Khanh vẫn còn giong đèn ẵm con ngồi đợi trên ghế. Tôi vào, nàng kể lể lôi thôi, trách móc nào là không biết thương vợ thương con, nào là đã ngần ấy tuổi - (tuổi mới có ba mươi!) - mà còn toan tính những ai. Giọng Khanh tấm tức như bị điều gì khổ sở lắm, rồi nàng cúi mặt tỉ tê khóc. Tôi phải liệu nhời khuyên giải mãi, nàng mới nín.Khi nàng đã ẵm con vào màn đi nghỉ, khi cái yên lặng tịch mịch của đêm khuya đã trở lại trong phòng, tôi cúi đầu suy nghĩ.Từ cái dĩ vãng xa xôi thăm thẳm, tôi thấy hiện lên một hình ảnh rõ ràng, hình ảnh tôi trong lúc còn niên thiếu, một thanh niên hăng hái, nhiệt thành, bồng bột những điều hay, sự đẹp, lúc nào cũng mơ màng những việc thành công to tát, một thanh niên chưa biết đến cái sự thực chua chát của cuộc đời.Tôi lại nghĩ đến cái thân thế tôi bây giờ, một viên chức ở tỉnh nhỏ, sống cái đời yên lặng, trưởng giả, một đời ăn no mặc ấm, không phải lo lắng cái gì. Tôi hình như cảm thấy một sự ý hợp hơn.Rồi tôi băn khoăn tự hỏi xem trong hai cái hình ảnh ấy, hình ảnh người thiếu niên hăng hái và hình ảnh người trưởng giả an nhàn, cái hình ảnh nào thật của tôi?Tôi không dám trả lời.Rút từ tập truyện ngắn Gió đầu mùa,Nxb Đời nay, Hà Nội 1937. Mục lục người bạn cũ người bạn cũ Thạch LamChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: mienĐược bạn: Thành Viên VNthuquan đưa lên vào ngày: 27 tháng 12 năm 2003
Thạch Lam người bạn cũ Tôi với Khanh - người bạn duyên nợ trăm năm - đang ngồi cùng bàn câu chuyện làm ăn, ấm nước chè giải khát pha đã hầu nhạt. Chuông đồng hồ điểm mười một giờ; ngọn đèn lụt dần, dầu hỏa trong bầu do một tay rót có điều độ chỉ cháy được đến thế là hết. Cảnh tịch mịch một đêm khuya ở tỉnh nhỏ thật buồn bã, khiến tôi lại nhớ đến những đêm náo nhiệt, đầy ánh sáng ở Hà Nội.Khanh sửa soạn sắp ẵm con đi nghỉ, thì bỗng có tiếng gõ cửa rồi vú già vào.- Thưa cậu, có người đàn bà nào hỏi cậu.Tôi thất ý bảo:- Sao vú không nói tôi vắng, bảo người ta lúc khác hãy đến có được không?- Thưa, người ấy có việc cần, con không dám tự ý.Tôi ngạc nhiên ngửng lên nhìn vợ, thì Khanh cũng đang ngạc nhiên nhìn tôi, đôi lông mày lá liễu đã bắt đầu díu lại. Tôi bảo vú già:- Vú ra hỏi ai đã.Người vú vừa quay đi thì Khanh đã sầm ngay mặt lại lườm tôi mà rằng:- Đàn bà, con gái, nửa đêm còn hỏi với han gì? Sao cậu không sai vú già tống khứ đi cho rồi.Ngay lúc ấy, người vú trở vào:- Thưa cô Lệ Minh đấy, cậu ạ.Tôi ngẩn người ra. Lệ Minh, người bạn đồng chí gặp gỡ ở Hà thành ba năm về trước, sao nay cô lại về đây? Cô đến bí mật thực. Không biết cô đến tìm tôi có việc gì trong lúc đêm khuya khoắt này? Đến nhà tránh nạn chăng? Trong một buổi mà tấm lòng nhiệt huyết còn sôi nổi, tôi đã hứa lúc nào cũng sẵn lòng giúp cô trong bước khó khăn. Lời hứa đó, và cái kỷ niệm một thời thiếu niên hăng hái thoáng qua trí nhớ khiến tôi băn khoăn; một mối lo ngại bỗng nhiên đến ám ảnh tâm trí làm tan nát cái yên tĩnh tôi đã giữ gìn trong mấy năm này.Vú già vẫn đứng đợi. Tôi bảo Khanh:- Mợ vào trông em nó ngủ trước. Tôi phải ra có việc.Rồi vội bước để tránh câu bấc chì mà tôi có thể đoán được, tôi ra ngoài tiếp khách. Trông khách mà kinh ngạc, không biết có phải Lệ Minh người cũ không. áo sa chùm ngoài áo cánh trắng càng làm rõ cảnh nghèo khổ ẩn ở trong; hai túi nhét đầy những thứ lạ gì, há hốc miệng như kêu đói; một giải lưng lụa đã ám màu xơ xác thoáng qua sợi sa thưa.Tôi lại nhớ đến Lệ Minh ngày xưa, óng ả biết bao trong chiếc áo vải rồng, đi đâu cũng cổ động dùng nội hóa mà chính cô hiến cái gương diễm lệ.Ngay đến dung nhan cô xét cũng khác xưa, đôi mắt tinh nhanh buổi trước bây giờ lờ đờ như bị ám sau cái màn lo nghĩ; đôi gò má hây hây nay không biết vì tuổi hay vì phiền não ở đời, đôi má kia đã thành ra hóp lại, hai gò má nổi cao, phải chăng như để tiêu biểu cho kẻ số phận vất vả long đong. Tôi ngại ngùng, lâu chưa nói được câu hỏi han, cô cũng ra vẻ sượng sùng, e lệ; một lát, cô khẽ nói:- Mạnh quân chắc thấy em khác trước lắm.Nào tôi có trách gì cô! Trong một phút nhìn sự thực, tôi hiểu chính tôi thay đổi nhiều lắm, mà tự ghen với người nữ đồng chí. Cái thân trưởng giả nửa mùa tôi nay đã nghiễm nhiên thành một người tòng sự công sở, họa chăng có lo lắng cho vợ con đủ ấm no là mãn nguyện. Cái đời nghĩa hiệp lãng mạn đã thuộc về thời quá khứ, cô đến đây thật là tiếng sét trong quãng bình minh. Rồi không biết tự nhủ mình hay nhủ ai, tôi đáp:- Vâng, người đời ta mỗi lúc một khác.Lệ Minh như không để ý đến câu triết lý ngớ ngẩn ấy:- Em đến đây muốn phiền ông anh một việc, chả biết ông anh có sẵn lòng không?Tôi hơi chột dạ. Không hiểu nhà nữ đồng chí này lại muốn bày ra chuyện gì. Song cũng gượng đáp:- Việc gì, cô cứ cho biết.Lệ Minh bắt đầu thuật lại quãng đời vừa qua.- Anh em bây giờ mỗi người một nơi, người nào lo phận người ấy. Còn em thế cô, một thân lang thang nay đây mai đó, chẳng làm được việc gì, rồi một buổi chán nản, yếu hèn, em đã đem thân gửi một nhà lái buôn.Nghe thấy cô có chồng tôi như đỡ được một gánh nặng, dằn lòng nghe nốt câu chuyện. Chuyện cô cũng giống như chuyện trăm nghìn gia đình éo le khác. Gã lái buôn đã dối cô: gã đã có vợ cả. Cả, lẽ ghen tuông, cô vốn người học thức, không chịu được phận tôi đòi, một hôm cô ẵm con lên đường tìm phương tự lập. Cô đến nhờ tôi tìm cho một chỗ dạy tư, nhất được nhà nào chịu nuôi thày dạy con ở nhà thì càng hay, vì cô chỉ mong được một chỗ "yên thân" là quí.Cô nói xong, cúi nhìn đi chỗ khác, như tự lấy làm xấu hổ vì cái điều mong mỏi tầm thường ấy. Yên thân! Bây giờ chúng tôi chỉ cầu có thế thôi ư? Tự nhiên tôi thấy khó chịu trong bộ quần áo lụa, trong căn phòng của tôi bày biện nào đỉnh đồng, tủ chè, sập gụ, những thứ đồ đạc làm nẩy vẻ thèm muốn trong con mắt những người đồng sự ở cái tỉnh nhỏ này. Tôi không giấu được cái mối thẹn thùng đưa lên làm nóng mặt. Tôi quay lại phía Lệ Minh vừa gặp lúc nàng cũng đưa mắt nhìn tôi. Hai chúng tôi nhìn nhau ngượng nghịu.Cô khẩn khoản thêm:- Thế nào anh cũng cố giúp hộ tôi nhé.Tôi nhận lời cho qua chuyện. Song tôi cũng thừa hiểu, trước cái hoạn nạn không xứng đáng kia, một lời hứa xoàng chẳng cũng quá ư nhạt nhẽo. Không tìm được phương cứu giúp cô một cách kiến hiệu hơn, tôi tự thấy mình hèn nhát. Nhưng biết làm thế nào? Mời cô ở lại đây ư? Tôi nghĩ đến cái giận dữ của Khanh mà sợ: nàng chẳng sẽ làm tan hoang nhà cửa ra mất?- Hỏi thế này khí không phải, cô sao không đến chơi sớm hơn một chút?Lệ Minh như mới hiểu mình đến giờ vô lý. Cô bối rối xin lỗi:- Em chỉ còn nhớ chỗ ở ngõ huynh biên cho trước. Đến hỏi từ sáu giờ tối, họ chỉ quanh quẩn, và em không thuộc phố tỉnh này thành ra cứ đi vơ vẩn mãi. Và khi còn ở trên Hà Nội anh hay thức khuya lắm cơ mà. Anh thường vẫn nói, đêm là ngày của bọn trí thức, em vẫn tưởng thế nên mới dám đường đột đến đây.Tìm công việc hộ cô, giới thiệu một thiếu nữ như cô vào một gia đình nền nếp cũ, tôi cho là khó khăn, mà nghĩ không có can đảm làm. Giúp cô cái vốn nhỏ để cô tìm cách tự lập, tôi vẫn cho là phận sự của tôi. Song mợ cháu giữ chìa khóa, mà Khanh đâu có phải là người có thể lấy nghĩa khí mà chuyển được lòng. Muốn tìm câu khuyên giải cô, song tôi thấy chính cần phải khuyên giải cho tôi nhiều hơn, nên tắc cổ không nói được nên lời.Đồng hồ đánh mười hai tiếng lanh lảnh trong đêm khuya. Tôi giật mình nhìn Lệ Minh, lo sợ. Đã một giờ đồng hồ ở nhà ngoài rồi, chắc Khanh ngờ vực, mà từ nãy đến giờ tôi chắc đã lẩm bẩm chán.Lệ Minh như biết ý, đứng dậy xin cáo từ.Tôi mở cửa tiễn cô ra ngoài. Trông cô đi khuất vào bóng tối, tôi lại nhớ đến những ngày nào hồi còn trẻ vẫn cùng nhau hội họp khuya trong một căn phố tối tăm ở ngoại ô Hà Nội.Tôi đóng cửa trở vào, thấy Khanh vẫn còn giong đèn ẵm con ngồi đợi trên ghế. Tôi vào, nàng kể lể lôi thôi, trách móc nào là không biết thương vợ thương con, nào là đã ngần ấy tuổi - (tuổi mới có ba mươi!) - mà còn toan tính những ai. Giọng Khanh tấm tức như bị điều gì khổ sở lắm, rồi nàng cúi mặt tỉ tê khóc. Tôi phải liệu nhời khuyên giải mãi, nàng mới nín.Khi nàng đã ẵm con vào màn đi nghỉ, khi cái yên lặng tịch mịch của đêm khuya đã trở lại trong phòng, tôi cúi đầu suy nghĩ.Từ cái dĩ vãng xa xôi thăm thẳm, tôi thấy hiện lên một hình ảnh rõ ràng, hình ảnh tôi trong lúc còn niên thiếu, một thanh niên hăng hái, nhiệt thành, bồng bột những điều hay, sự đẹp, lúc nào cũng mơ màng những việc thành công to tát, một thanh niên chưa biết đến cái sự thực chua chát của cuộc đời.Tôi lại nghĩ đến cái thân thế tôi bây giờ, một viên chức ở tỉnh nhỏ, sống cái đời yên lặng, trưởng giả, một đời ăn no mặc ấm, không phải lo lắng cái gì. Tôi hình như cảm thấy một sự ý hợp hơn.Rồi tôi băn khoăn tự hỏi xem trong hai cái hình ảnh ấy, hình ảnh người thiếu niên hăng hái và hình ảnh người trưởng giả an nhàn, cái hình ảnh nào thật của tôi?Tôi không dám trả lời.Rút từ tập truyện ngắn Gió đầu mùa,Nxb Đời nay, Hà Nội 1937. Mục lục người bạn cũ người bạn cũ Thạch LamChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: mienĐược bạn: Thành Viên VNthuquan đưa lên vào ngày: 27 tháng 12 năm 2003
Lý Tuyên Băng Người bạn ma Hồi còn nhỏ tôi thường thích đọc truyện ma và không bao giờ suy nghĩ đến những chuyện ma Đã đọc qua. Vào một buổi tối khi tôi đọc xong một truyện ma mà nó đã làm tôi sợ muốn chết, có thể vì truyện ma này có thật nên nó ám ảnh tôi. Câu chuyện là như vầy: Ở vùng ngoại ô xa thành phố có một đứa con gái tên Nhi 11 tuổi Vì cha mẹ rất là nghiêm ngặt không cho đi đâu chơi nên Nhi không có ai để làm bạn. Mỗi ngày Nhi thường đi bộ từ nhà đến trường, trên đường đi Nhi phải qua một ngôi biệt thự kiến trúc rất là đẹp nhưng hơi cũ kỹ đã lâu rồi không thấy một bóng người lui tới. Lúc nào Nhi cũng dừng chân trước ngôi biệt thự để ngắm nghía và mơ mộng được sống ở đó hay chỉ vào trong nhà để xem mà thôi. Vào một buổi chiều khi tan học về, như thường lệ Nhi đứng trước ngôi biệt thự mơ mộng thì nghe có tiếng người gọi từ cửa sổ của tầng lầu cao nhất. Nhi ngước lên nhìn thì thấy một đứa con trai trạc độ tuổi mình. - Có muốn lên đây chơi không? Đứa con trai hỏi Không biết có phải là bị hoa mắt không, hay là mơ mộng quá nhiều cho nên ... Nhi vội chớp mắt một cái rồi nhìn lần nữa nhưng vẫn thấy đứa con trai còn đứng đó. - Lên đây nhanh! Đứa con trai réo gọi Khi đó mừng quá, mơ ước của mình thành sự thật rồi. Nhi vội đẩy cái cổng sắt nặng nề để vào bên trong, nhưng khi đến trước cửa nhà thì Nhi dừng lại. Nhi suy nghĩ: Đợi một chút, mình thấy nhà này mỗi ngày, không thấy có xe cộ gì đậu ở đây mà ... nhưng ... Chắc là mình nghĩ không ai ở. Vừa nghĩ như vậy thì Nhi lấy tay đẩy cánh cửa bằng gỗ bước vào bên trong. Trong nhà thật là đẹp như là đã tưởng tượng vậy, Nhi nhìn chung quanh khoảng 5 phút rồi chợt nhớ đến đứa con trai, Nhi vội bước nhanh lên cầu thang dẫn đến phòng của tầng cao nhất. Khi đẩy cánh cửa phòng ra, Nhi thấy trong phòng chứa đầy đồ chơi tuyệt đẹp với tất cả những đồ chơi mà Nhi đã suy nghĩ đến, còn đứa con trai thì ngồi ngay ở giữa phòng. Tôi tên là Thạch, có muốn chơi chung với tôi không? Đứa con trai hỏi. Nhi không nói gì hết mà chỉ từ từ tiến đến gần đứa con trai và ngồi xuống chơi. Từ đó ngày nào Nhi cũng đến đó chơi và hai đứa trở thành đôi bạn thân. Rồi một hôm, đứa em trai út của Nhi bỗng dưng bệnh nặng, Nhi phải ở nhà phụ giúp mẹ săn sóc đứa em, không có thời giờ để đến chơi với Thạch nữa. Sau sáu tuần bệnh nặng, em trai út của Nhi qua đời. Nhi rất đau buồn và cần một người bạn để an ủi nhưng khi em tới trước cổng ngôi biệt thự đó thì thấy Thạch ló đầu ra cửa sổ và la lớn với giọng trách móc: "Đi chỗ khác chơi. Tao không muốn mày đến đây nữa!" Có thể bạn giận mình vì mình không đến đây chơi, nên Nhi đã quyết định đi vào nhà để gặp Thạch và nhất định giải thích cho bạn y hiểu. Nhưng khi Nhi đi đến tầng lầu cao nhất thì thấy Thạch đã ngồi ở trước cửa phòng tự bao giờ. Nó nhìn Nhi với cặp mắt thật là ghê gớm và trên khuôn mặt chứa đầy hờn giận. "Đi chỗ khác ngay," Thạch hét lớn và xua đuổi Nhi đi chỗ khác. "X ...i ...n ... đừng đuổi Nhi, em của Nhi mới chết và tôi cần nói chuyện với bạn" vừa khóc em vừa nói. Đứa con trai tên Thạch ra vẻ không thương tiếc mà còn lạnh lùng nói: "Bây giờ tao đã có một người bạn khác rồi" Nói xong đứa con trai đi vào trong phòng và khép cửa phòng lại. Đứng ở ngoài phòng, Nhi nghe được tiếng cười đùa từ trong phòng vọng ra, tò mò muốn biết người bạn mới này là ai nên Nhi nhẹ bước đến gần cửa phòng và lén nhìn vào bên trong. Khi nhìn vào phòng, Nhi đã sợ hãi đến độ vừa la vừa chạy thẳng một mạch về nhà. Mẹ của Nhi thấy Nhi sợ quá độ nên gọi bác sĩ đến và chích một mủi thuốc ngủ cho Nhị Khi bác sĩ ra khỏi phòng, ông y rất là bối rối. Mẹ của Nhi liền hỏi ông chuyện gì đã xảy ra cho Nhi, thì ông nói với bà ta rằng con của bà cho biết nó đã đến ngôi biệt thự cũ để gặp một người bạn nhưng khi đến đó và nhìn vào bên trong thì gặp bạn của nó đang đùa giỡn với đứa em vừa mới chết. - Không thể như vậy, bà ta nói. Trong nhà đó chỉ có một đứa con trai 11 tuổi tên là Thạch đã bị bệnh và qua đời cách đây trên 100 năm, sau đó đâu còn ai đến đó ở nữa. Mục lục Người bạn ma Người bạn ma Lý Tuyên BăngChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.Đánh máy: banh2005 Nguồn: vnthuquan.netĐược bạn: Tố Tâm đưa lên vào ngày: 21 tháng 6 năm 2006
Ly Tuyen Bang Ghost friend When I was a child, I often liked reading ghost stories and never thought about the ghost stories I had read. One evening when I finished reading a ghost story, it scared me to death. Maybe because this ghost story is real, it haunted me. The story is like this: In a suburb far from the city, there is an 11-year-old girl named Nhi. Because her parents are very strict and don't let her go anywhere to play, Nhi has no one to make friends with. Every day, Nhi often walks from home to school. On the way, she has to pass a very beautiful but somewhat old architectural villa that has not been seen for a long time. Nhi always stops in front of the villa to look at it and dream about living there or just going inside to see. One afternoon when returning from school, as usual, Nhi stood in front of the dreamy villa when she heard someone calling from the window of the top floor. Nhi looked up and saw a boy about her age. - Do you want to come up here and play? The boy asked, I wonder if he was dizzy, or if he was daydreaming too much, so... Nhi quickly blinked and looked again but still saw the boy still standing there. - Come up here quickly! The son called out. At that time, I was so happy, my dream had come true. Nhi quickly pushed the heavy iron gate to get inside, but when she reached the front door of the house, she stopped. Nhi thought: Wait a minute, I see this house every day, I don't see any vehicles parked here... but... I probably think no one lives there. Just thinking like that, Nhi used her hand to push the wooden door and step inside. The house was as beautiful as imagined. Nhi looked around for about 5 minutes and then suddenly remembered her son. Nhi quickly walked up the stairs leading to the room on the top floor. When she pushed the door open, Nhi saw that the room was filled with beautiful toys with all the toys that Nhi had thought about, and her son was sitting right in the middle of the room. My name is Thach, do you want to play with me? The son asked. Nhi didn't say anything but just slowly approached her son and sat down to play. From then on, Nhi went there every day to play and the two became close friends. Then one day, Nhi's youngest brother suddenly became seriously ill, Nhi had to stay home to help her mother take care of him, and had no time to play with Thach anymore. After six weeks of serious illness, Nhi's youngest brother passed away. Nhi was very sad and needed a friend to comfort her, but when she arrived at the gate of that villa, she saw Thach sticking his head out the window and shouting in a reproachful voice: "Go somewhere else. I don't want you to come here." again!" Maybe she was angry with me because I didn't come here to play, so Nhi decided to go into the house to meet Thach and definitely explain to her friend. But when Nhi went to the top floor, she saw Thach already sitting in front of the room door. It looked at Nhi with terrible eyes and a face filled with anger. "Go somewhere else now," Thach shouted loudly and chased Nhi away. "X...i...n...don't chase Nhi, Nhi's sister just died and I need to talk to you" she said while crying. The boy named Thach seemed merciless and coldly said: "Now I have another friend." After saying that, the boy went into the room and closed the door. Standing outside the room, Nhi heard laughter coming from inside the room. Curious to know who this new friend was, Nhi lightly walked closer to the door and peeked inside. When Nhi looked into the room, she was so scared that she screamed and ran straight home. Nhi's mother saw that Nhi was too scared so she called the doctor to come and give Nhi a shot of sleeping medicine. When the doctor left the room, he was very confused. Nhi's mother immediately asked him what happened to Nhi, and he told her that her son said he went to the old villa to meet a friend, but when he got there and looked inside, he met his friend. was playing with his younger brother who had just died. - That can't be possible, she said. In that house there was only an 11 year old son named Thach who got sick and passed away over 100 years ago, after that no one came to live there anymore. Table of contents Ghost friend Ghost friend Ly Tuyen BangWelcome to read books from the book project for mobile devices. Source: author: Nguyen Kim Vy. Final words: Thank you for following the entire story. Source: onion: Nguyen Kim Vy. Typing: banh2005 Source: vnthuquan.net Uploaded by friend: To Tam on: June 21, 2006
JENNINGS MICHAEL BURCH Người bạn qua điện thoại Ngay từ lúc vừa quay số xong, không hiểu sao, tôi đã linh cảm là mình nhầm. Chuông điện thoại reo một hồi dài, rồi hai hồi, sau đó có một người nhấc ống nghe. "Nhầm số rồi"- một giọng đàn ông khàn khàn cáu kỉnh vang lên trước khi dập máy. Tò mò, tôi quay số một lần nữa. "Tôi đã nói là nhầm số rồi !" - vẫn giọng nói cũ. Rồi lại dập máy. Quái quỷ thật, làm sao lão ta biết được là tôi nhầm máy ? Lúc đó, tôi đang là nhân viên của Sở Cảnh sát thành phố New York. Nghề cảnh sát đã dạy cho tôi tính tò mò - và quan tâm tới người khác. Tôi quay số lần thứ ba. "Này", giọng đàn ông trả lời máy. "Lại là anh nữa phải không ?" "Vâng, chính tôi", tôi lấy giọng nhã nhặn. "Tôi đang thắc mắc làm sao mà ông biết được tôi quay nhầm số trong khi tôi chưa nói tiếng nào." "Anh có rảnh thì lo mà đoán đi !", ống nghe điện thoại lại dập xuống, lần này nghe rất nặng nề. Tôi ngồi thẩn thờ một lúc lâu, ống nghe điện thoại vẫn cầm trên tay. Tôi lại quay số cho người đàn ông. "Anh đã đoán ra chưa ?", ông ta hỏi. "Tôi chỉ có thể đoán ra một điều là... chưa từng có ai gọi điện thoại cho ông." "Vậy là anh rõ rồi." Lần thứ tư, máy điện thoại lại dập. Khoái trá, tôi lại quay số cho ông. "Anh cần gì nào ?", giọng người đàn ông bực bội. "Tôi... tôi gọi chỉ để chào ông." "Hừm, chào tôi à ? Chuyện gì đây ?" "Vâng, nếu chưa có ai gọi điện thoại cho ông, thì tôi sẽ gọi." "Được rồi, chào anh bạn. Anh là ai ?". Cuối cùng thì tôi đã thành công. Bây giờ, đến lượt người đàn ông ở đầu dây bên kia tò mò về tôi. Tôi cho ông biết về tôi rồi hỏi ông là ai. "Tôi tên là Adolf Meth, tám mươi tám tuổi. Hai mươi năm nay, tôi không được người ta gọi nhầm số nhiều đâu !". Chúng tôi cùng cười xòa. Chúng tôi nói chuyện với nhau khoảng mười phút. Bác Adolf không có gia đình, không bạn bè. Những người thân yêu của bác đều đã lần lượt qua đời. Rồi chúng tôi phát hiện ra chúng tôi cũng có điểm chung : cách đây gần bốn mươi năm, bác Adolf cũng là nhân viên Sở Cảnh sát thành phố New York. Khi kể cho tôi nghe về công việc điều hành thang máy vào những ngày đó, bác Adolf tỏ ra rất thích thú, có phần thân mật nữa. Tôi hỏi bác là liệu lần khác tôi có thể điện thoại đến nói chuyện với bác được không. "Tại sao cậu lại muốn nói chuyện với lão già chán ngắt này ?" Bác hỏi, không giấu nổi ngạc nhiên. "Dạ, có thể cháu với bác sẽ là những người bạn qua điện thoại. Giống như bạn qua thư ấy !" Bác Adolf ngập ngừng : "Lại có bạn à... cũng được !", nghe giọng bác có vẻ không được dứt khoát cho lắm. Chiều hôm sau, tôi lại gọi cho bác Adolf và những ngày kế tiếp cũng vậy. Khá cởi mở trong lúc chuyện trò, bác kể cho tôi nghe những hồi ức của bác về hai cuộc Thế chiến thứ I và II, thảm họa Hindenburg và những sự kiện lịch sử khác mà bác đã từng chứng kiến. Bác kể chuyện rất lôi cuốn. Tôi cho bác số điện thoại ở nhà và ở sở để bác có thể gọi cho tôi. Hầu như ngày nào bác cũng gọi. Không phải là tôi tự dưng tử tế với một ông lão cô đơn. Viêc chuyện trò với bác Adolf hằng ngày thật quan trọng đối với tôi, vì tôi cũng có những khoảng trống lớn trong đời mình. Được nuôi dưỡng và lớn lên trong trại trẻ mồ côi, tôi chưa bao giờ có một người cha. Dần dần, bác Adolf đã chiếm được một phần không nhỏ trong tình phụ tử của tôi. Tôi kể cho bác nghe về công việc ở sở, về những lớp học ban đêm mà tôi đang theo học. Bác Adolf rất nhiệt tình với vai trò của một người cố vấn tinh thần cho tôi. Một lần, khi gặp bất đồng với người phụ trách ở sở, tôi kể cho người bạn mới của tôi nghe và tuyên bố : "Cháu phải nói toạt móng heo hết với gã này !" "Làm gì mà nôn nóng vậy cháu ?" - bác Adolf thận trọng. "Hãy để cho mọi chuyện lắng xuống. Khi cháu già bằng ta, cháu sẽ thấy thời gian sẽ trả lời hết thảy. Cháu cứ chờ xem, nếu sự việc trở nên trầm trọng hơn, lúc đó, cháu nói chuyện với gã kia cũng không muộn." Im lặng khá lâu, rồi bác Adolf nói, giọng khẽ khàng : "Cháu biết không, ta nói với cháu như thể dang nói với con trai ta. Ta luôn luôn ao ước có một gia đình thật sự, có con cái. Cháu còn trẻ quá, cháu chưa hiểu được hết điều ta nói đâu." Không, tôi đâu còn trẻ lắm để không hiểu được những gì bác Adolf dang cảm thấy. Tôi cũng ao ước có một gia đình, một người cha. Nhưng tôi không nói gì với bác Adolf, sợ rằng tôi lại khơi dậy trong tôi nỗi đau buồn của đứa trẻ sống trong trại mồ côi suốt thời thơ ấu. Một buổi tối, bác Adolf tình cờ nhắc đến sinh nhật lần thứ 89 của mình. Tôi mua một miếng xơ ép về thiết kế tấm thiệp mừng sinh nhật cỡ 0,60m x 1,50m, ở chính giữa vẽ ổ bánh kem to tướng với 89 ngọn nến lung linh. Tôi nhờ tất cả các đồng sự ở nơi tôi làm việc ký tên trên tấm thiệp, cả ông cảnh sát trưởng cũng ký. Tôi gom dược cả thảy gần một trăm chữ ký. Tôi biết, bác Adolf hẳn sẽ khoái tỉ cho mà xem. Chúng tôi đã trò chuyện với nhau qua điện thoại được hơn bốn tháng và bây giờ, tôi nghĩ đã đến lúc gặp mặt nhau. Cho nên tôi quyết định sẽ đích thân mang tấm thiệp sinh nhật đó đến tặng bác. Tôi không báo trước bác Adolf là tôi sẽ đến. Buổi sáng, tôi lái xe tìm đến địa chỉ theo số điện thoại, đỗ xe ở góc đường ở phía trên khu nhà bác ở một đoạn. Khi tôi bước vào khu nhà, một nhân viên bưu tá đang phân loại thư ở ngay hành lang. Tôi đến tìm hộp thư có tên bác Adolf, anh ta vẫn còn cặm cụi với những lá thư. Tên bác Adolf kia rồi ! Căn hộ 1H, chỉ cách chừng vài mét ngay chỗ tôi đang đứng. Tim tôi đập thình thịch vì hồi hộp. Liệu chúng tôi có đồng cảm với nhau nhiều như lúc nói chuyện qua điện thoại ? Trong tôi chợt nhói lên một chút nghi ngờ. Liệu bác Adolf có sẽ tống cổ tôi ra đường theo cái cách giống như cha tôi đã làm khi ông bước chân ra khỏi cuộc đời tôi ? Tôi đưa tay gõ cửa. Không có ai. Tôi gõ mạnh hơn. Anh nhân viên bưu tá lúc này mới ngẩng đầu lên : "Không có ai đâu !" "Ồ !" Tôi nói, chợt thấy mình hơi ngớ ngẩn : "Nếu ông ấy nghe tiếng gõ cửa cũng giống như nghe điện thoại thì có mà chờ cả ngày !" "Anh là bà con của ông ấy à ?" "Không, chỉ là một người bạn." "Tôi rất tiếc !" Anh nhân viên bưu tá chợt lặng đi. "Ông ấy vừa qua đời cách đây hai ngày." Bác Adolf ? Qua đời ? Trong phút chốc, tôi sững sờ không biết nói gì. Tôi đứng đó, đầy bấn loạn và hoài nghi. Cố lấy lại bình tĩnh, tôi cám ơn anh nhân viên bưu tá rồi rời khỏi khu nhà trong ánh nắng chói chang lúc gần giữa trưa. Tôi ra xe, mắt đẫm lệ. Tôi vòng xe qua khỏi góc đường, bắt gặp một ngôi giáo đường, dòng Kinh Cựu ước đập vào mắt tôi. Một người bạn thật sự lúc nào cũng được yêu mến. Đặc biệt là khi đã qua đời. Tôi bàng hoàng nhận ra, thường thì phải sau một mất mát đột ngột đau buồn nào đó, ta mới thấy được sự hiện hữu của người ấy là đặc biệt quan trọng với cưộc đời mình. Lần đầu tiên và đã quá muộn, tôi thấm thía rằng bác Adolf và tôi đã gần gũi với nhau biết chừng nào. Tôi bồi hồi nhớ lại bác Adolf với những cơn sóng ấm áp lan tỏa trong tim. Tôi tưởng chừng như vẫn còn nghe giọng bác càu nhàu bực bội "Nhầm số rồi !". Cả cái vẻ ngạc nhiên khi bác hỏi tôi tại sao tôi lại muốn gọi điện thoại nói chuyện với bác. "Bởi vì bác thật đặc biệt." Tôi hét vang một mình. "Vì bác là bạn của cháu !" Tôi đặt tấm thiệp sinh nhật vào ghế sau xe, ngồi vào sau tay lái. Trước khi nổ máy, tôi thì thầm qua vai mình "Bác Adolf, cháu không hề nhầm số. Cháu đã gọi đúng số điện thoại cháu cần và cháu đã có được bác." ĐINH LÊ VŨ (dịch từ A Friend On The Line) Mục lục Người bạn qua điện thoại Người bạn qua điện thoại JENNINGS MICHAEL BURCHChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.dịch giả: Đinh Lê Vũ Nguồn: Đắc trungĐược bạn: Ct.Ly đưa lên vào ngày: 4 tháng 2 năm 2005
JENNINGS MICHAEL BURCH Người bạn qua điện thoại Ngay từ lúc vừa quay số xong, không hiểu sao, tôi đã linh cảm là mình nhầm. Chuông điện thoại reo một hồi dài, rồi hai hồi, sau đó có một người nhấc ống nghe. "Nhầm số rồi"- một giọng đàn ông khàn khàn cáu kỉnh vang lên trước khi dập máy. Tò mò, tôi quay số một lần nữa. "Tôi đã nói là nhầm số rồi !" - vẫn giọng nói cũ. Rồi lại dập máy. Quái quỷ thật, làm sao lão ta biết được là tôi nhầm máy ? Lúc đó, tôi đang là nhân viên của Sở Cảnh sát thành phố New York. Nghề cảnh sát đã dạy cho tôi tính tò mò - và quan tâm tới người khác. Tôi quay số lần thứ ba. "Này", giọng đàn ông trả lời máy. "Lại là anh nữa phải không ?" "Vâng, chính tôi", tôi lấy giọng nhã nhặn. "Tôi đang thắc mắc làm sao mà ông biết được tôi quay nhầm số trong khi tôi chưa nói tiếng nào." "Anh có rảnh thì lo mà đoán đi !", ống nghe điện thoại lại dập xuống, lần này nghe rất nặng nề. Tôi ngồi thẩn thờ một lúc lâu, ống nghe điện thoại vẫn cầm trên tay. Tôi lại quay số cho người đàn ông. "Anh đã đoán ra chưa ?", ông ta hỏi. "Tôi chỉ có thể đoán ra một điều là... chưa từng có ai gọi điện thoại cho ông." "Vậy là anh rõ rồi." Lần thứ tư, máy điện thoại lại dập. Khoái trá, tôi lại quay số cho ông. "Anh cần gì nào ?", giọng người đàn ông bực bội. "Tôi... tôi gọi chỉ để chào ông." "Hừm, chào tôi à ? Chuyện gì đây ?" "Vâng, nếu chưa có ai gọi điện thoại cho ông, thì tôi sẽ gọi." "Được rồi, chào anh bạn. Anh là ai ?". Cuối cùng thì tôi đã thành công. Bây giờ, đến lượt người đàn ông ở đầu dây bên kia tò mò về tôi. Tôi cho ông biết về tôi rồi hỏi ông là ai. "Tôi tên là Adolf Meth, tám mươi tám tuổi. Hai mươi năm nay, tôi không được người ta gọi nhầm số nhiều đâu !". Chúng tôi cùng cười xòa. Chúng tôi nói chuyện với nhau khoảng mười phút. Bác Adolf không có gia đình, không bạn bè. Những người thân yêu của bác đều đã lần lượt qua đời. Rồi chúng tôi phát hiện ra chúng tôi cũng có điểm chung : cách đây gần bốn mươi năm, bác Adolf cũng là nhân viên Sở Cảnh sát thành phố New York. Khi kể cho tôi nghe về công việc điều hành thang máy vào những ngày đó, bác Adolf tỏ ra rất thích thú, có phần thân mật nữa. Tôi hỏi bác là liệu lần khác tôi có thể điện thoại đến nói chuyện với bác được không. "Tại sao cậu lại muốn nói chuyện với lão già chán ngắt này ?" Bác hỏi, không giấu nổi ngạc nhiên. "Dạ, có thể cháu với bác sẽ là những người bạn qua điện thoại. Giống như bạn qua thư ấy !" Bác Adolf ngập ngừng : "Lại có bạn à... cũng được !", nghe giọng bác có vẻ không được dứt khoát cho lắm. Chiều hôm sau, tôi lại gọi cho bác Adolf và những ngày kế tiếp cũng vậy. Khá cởi mở trong lúc chuyện trò, bác kể cho tôi nghe những hồi ức của bác về hai cuộc Thế chiến thứ I và II, thảm họa Hindenburg và những sự kiện lịch sử khác mà bác đã từng chứng kiến. Bác kể chuyện rất lôi cuốn. Tôi cho bác số điện thoại ở nhà và ở sở để bác có thể gọi cho tôi. Hầu như ngày nào bác cũng gọi. Không phải là tôi tự dưng tử tế với một ông lão cô đơn. Viêc chuyện trò với bác Adolf hằng ngày thật quan trọng đối với tôi, vì tôi cũng có những khoảng trống lớn trong đời mình. Được nuôi dưỡng và lớn lên trong trại trẻ mồ côi, tôi chưa bao giờ có một người cha. Dần dần, bác Adolf đã chiếm được một phần không nhỏ trong tình phụ tử của tôi. Tôi kể cho bác nghe về công việc ở sở, về những lớp học ban đêm mà tôi đang theo học. Bác Adolf rất nhiệt tình với vai trò của một người cố vấn tinh thần cho tôi. Một lần, khi gặp bất đồng với người phụ trách ở sở, tôi kể cho người bạn mới của tôi nghe và tuyên bố : "Cháu phải nói toạt móng heo hết với gã này !" "Làm gì mà nôn nóng vậy cháu ?" - bác Adolf thận trọng. "Hãy để cho mọi chuyện lắng xuống. Khi cháu già bằng ta, cháu sẽ thấy thời gian sẽ trả lời hết thảy. Cháu cứ chờ xem, nếu sự việc trở nên trầm trọng hơn, lúc đó, cháu nói chuyện với gã kia cũng không muộn." Im lặng khá lâu, rồi bác Adolf nói, giọng khẽ khàng : "Cháu biết không, ta nói với cháu như thể dang nói với con trai ta. Ta luôn luôn ao ước có một gia đình thật sự, có con cái. Cháu còn trẻ quá, cháu chưa hiểu được hết điều ta nói đâu." Không, tôi đâu còn trẻ lắm để không hiểu được những gì bác Adolf dang cảm thấy. Tôi cũng ao ước có một gia đình, một người cha. Nhưng tôi không nói gì với bác Adolf, sợ rằng tôi lại khơi dậy trong tôi nỗi đau buồn của đứa trẻ sống trong trại mồ côi suốt thời thơ ấu. Một buổi tối, bác Adolf tình cờ nhắc đến sinh nhật lần thứ 89 của mình. Tôi mua một miếng xơ ép về thiết kế tấm thiệp mừng sinh nhật cỡ 0,60m x 1,50m, ở chính giữa vẽ ổ bánh kem to tướng với 89 ngọn nến lung linh. Tôi nhờ tất cả các đồng sự ở nơi tôi làm việc ký tên trên tấm thiệp, cả ông cảnh sát trưởng cũng ký. Tôi gom dược cả thảy gần một trăm chữ ký. Tôi biết, bác Adolf hẳn sẽ khoái tỉ cho mà xem. Chúng tôi đã trò chuyện với nhau qua điện thoại được hơn bốn tháng và bây giờ, tôi nghĩ đã đến lúc gặp mặt nhau. Cho nên tôi quyết định sẽ đích thân mang tấm thiệp sinh nhật đó đến tặng bác. Tôi không báo trước bác Adolf là tôi sẽ đến. Buổi sáng, tôi lái xe tìm đến địa chỉ theo số điện thoại, đỗ xe ở góc đường ở phía trên khu nhà bác ở một đoạn. Khi tôi bước vào khu nhà, một nhân viên bưu tá đang phân loại thư ở ngay hành lang. Tôi đến tìm hộp thư có tên bác Adolf, anh ta vẫn còn cặm cụi với những lá thư. Tên bác Adolf kia rồi ! Căn hộ 1H, chỉ cách chừng vài mét ngay chỗ tôi đang đứng. Tim tôi đập thình thịch vì hồi hộp. Liệu chúng tôi có đồng cảm với nhau nhiều như lúc nói chuyện qua điện thoại ? Trong tôi chợt nhói lên một chút nghi ngờ. Liệu bác Adolf có sẽ tống cổ tôi ra đường theo cái cách giống như cha tôi đã làm khi ông bước chân ra khỏi cuộc đời tôi ? Tôi đưa tay gõ cửa. Không có ai. Tôi gõ mạnh hơn. Anh nhân viên bưu tá lúc này mới ngẩng đầu lên : "Không có ai đâu !" "Ồ !" Tôi nói, chợt thấy mình hơi ngớ ngẩn : "Nếu ông ấy nghe tiếng gõ cửa cũng giống như nghe điện thoại thì có mà chờ cả ngày !" "Anh là bà con của ông ấy à ?" "Không, chỉ là một người bạn." "Tôi rất tiếc !" Anh nhân viên bưu tá chợt lặng đi. "Ông ấy vừa qua đời cách đây hai ngày." Bác Adolf ? Qua đời ? Trong phút chốc, tôi sững sờ không biết nói gì. Tôi đứng đó, đầy bấn loạn và hoài nghi. Cố lấy lại bình tĩnh, tôi cám ơn anh nhân viên bưu tá rồi rời khỏi khu nhà trong ánh nắng chói chang lúc gần giữa trưa. Tôi ra xe, mắt đẫm lệ. Tôi vòng xe qua khỏi góc đường, bắt gặp một ngôi giáo đường, dòng Kinh Cựu ước đập vào mắt tôi. Một người bạn thật sự lúc nào cũng được yêu mến. Đặc biệt là khi đã qua đời. Tôi bàng hoàng nhận ra, thường thì phải sau một mất mát đột ngột đau buồn nào đó, ta mới thấy được sự hiện hữu của người ấy là đặc biệt quan trọng với cưộc đời mình. Lần đầu tiên và đã quá muộn, tôi thấm thía rằng bác Adolf và tôi đã gần gũi với nhau biết chừng nào. Tôi bồi hồi nhớ lại bác Adolf với những cơn sóng ấm áp lan tỏa trong tim. Tôi tưởng chừng như vẫn còn nghe giọng bác càu nhàu bực bội "Nhầm số rồi !". Cả cái vẻ ngạc nhiên khi bác hỏi tôi tại sao tôi lại muốn gọi điện thoại nói chuyện với bác. "Bởi vì bác thật đặc biệt." Tôi hét vang một mình. "Vì bác là bạn của cháu !" Tôi đặt tấm thiệp sinh nhật vào ghế sau xe, ngồi vào sau tay lái. Trước khi nổ máy, tôi thì thầm qua vai mình "Bác Adolf, cháu không hề nhầm số. Cháu đã gọi đúng số điện thoại cháu cần và cháu đã có được bác." ĐINH LÊ VŨ (dịch từ A Friend On The Line) Mục lục Người bạn qua điện thoại Người bạn qua điện thoại JENNINGS MICHAEL BURCHChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.dịch giả: Đinh Lê Vũ Nguồn: Đắc trungĐược bạn: Ct.Ly đưa lên vào ngày: 4 tháng 2 năm 2005
N.T. Người bạn quý Buổi học Trường Chúa Nhựt đã kéo dài hơn mười phút. Danh sách học viên lớp Thiếu nhi đã được xướng lên gần hết. Anh Thành ghi một gạch ngang vào sổ, rồi gọi: - Minh! Không một người đứng lên. Chờ một lúc, anh Thành ngửng đầu lên. Những gương mặt còn vẻ ngây thơ của tuổi 12,13 đang được một chút lo âu lẫn khinh nhạo. - Lần nào nó cũng đi trễ! Đã ba tuần nay, Minh đã là đầu đề cho câu chuyện của các bạn đồng lớp. - Anh biết em Minh vắng mặt vì cớ nào không? Tiếng trả lời nhao lên: - Chắc lại đi thảy đáo. - Thằng minh ở nhà gánh nước. Tất cả đều cười vì câu khôi hài ấy. Anh Thành ra dấu bảo im lặng. - À, em Luân ở nhà có thấy Minh đi đâu không? Luân là em của Minh, nó đứng lên mặt hơi đỏ: - Buổi sáng ảnh đi qua sông. Lại vang lên những câu hỏi không đâu: - Làm gì nhỉ? Tại sao lại sang bên kia sông? Anh Thành phải "suỵt" vài cái, rồi gọi tiếp: - Nghiêm! Nghiêm đứng lên đọc một mạch câu gốc buổi sáng nay: " Chẳng có sự yêu thương nào lớn hơn là vì bạn hữu mà phó sự sống mình." Gọi đến người chót, anh Thành xếp sổ lại. Vẫn không thấy Minh đâu! Anh cầu nguyện thầm, rồi bắt đầu dạy bài học. Anh cố diễn tả tình bạn cao quý giữa Giô-na-than và Đa-vít một cách linh động, và anh mong những lời của mình nói không phải vô ích. Bỗng anh thoáng thấy bóng ai thập thò ngoài cửa nhà thờ. Anh để ý xem thì quả là Minh. Anh kêu: - Minh! Vào đây! Anh chỉ cho Minh ngồi vào ghế, rồi lại tiếp tục bài học. Tiếng chuông reo, vừa lúc anh bảo Minh cầu nguyện. Những mái đầu xanh cúi xuống, tiếng cầu xin nức nở của Minh vang lên: ". Chúa ơi, xin Ngài cứu vớt Thi, Ngài biết bạn con đang gặp sự thử thách nặng nề! Ôi, xin Chúa giải cứu Thi, con cầu xin Ngài bấy nhiêu lời. A-men!" Minh còn thổn thức thì anh Thành đã lên tiếng: - Bây giờ các em nghe kết luận bài học. Cố trả lời các câu hỏi nghe các em! Rồi anh quây qua Minh: - Minh cho tôi gặp một chút! Hai người bước xuống tư thất của ông Mục sư. Minh thong thả thuật lại đầu đuôi câu chuyện. Anh Thành nghe xong, lòng rất hân hoan. Anh biết rằng chính Minh đã thực hành câu Kinh thánh trong Giăng 15:13, trước khi nghe anh dạy bài học. Anh và Minh hát Ha-le-âlu-gia một cách vui mừng. * * * Qua khỏi cầu, Minh chạy nhanh đến nhà bạn. Chẳng mấy chốc minh đã đến nhà Thi. Dường như trong nhà không có ai. Minh đứng nấp bên ngoài rào, nhìn quanh lo lắng. Bỗng Minh giật bắn người lên vì có tiếng sau lưng: - Hù! Minh quay lại, thì thấy bạn đang tươi cười, tay cầm cái chai có vẻ nặng nhọc: Đến sớm vậy Minh! Có chuyện gì không? Dù còn run, nhưng Minh cũng cũng cố tươi cười: - Không! Minh đến rũ Thi đi nhóm. - Nhóm à? Nhóm gì thế? Mình đi học Trường Chúa Nhựt, rồi tập hát. Gương mặt Thi trở nên buồn bã. Minh lo lắng nhìn bạn: - Sao? Cái gì vậy? Minh chỉ tay Thi. Nhìn vào trong nhà, Thi nói: Sáng nay ba tôi phải đi lên tỉnh. Cái nầy à? Ba-xi-đế, Minh ạ! Sáng nào ổng cũng phải có thứ nầy, rồi mới làm việc được! Bỗng từ trong nhà có tiếng khàn khàn: - Thi à! Thi! - Thi chạy vụt vào nhà, miệng "dạ" một tiếng rõ to. Minh nhìn theo, rồi đếng núp bên hàng trúc dày bịch. Minh nghe có tiếng ly cốc chạm nhau loảng xoảng. Giọng khàn khàn của ông Ba, cha Thi, lại vang lên: - Nướng tao con khô coi! - Hết khô từ hôm qua rồi ba à. Sao? Mầy lấy nướng ăn rồi nói hết hả? Thi cố phân trần: - Đâu có! Một tuần lễ chỉ có chục khô, làm sao còn được ba! Tiếng đập bàn, rồi tiếng ly bể nghe rõ mồn một. Minh nghe được Thi đang khóc, vừa nói: - Ba ơi, tội nghiệp con, ba ơi! Ông Ba vụt roi nghe vun-vút. Giọng Thi lạc dần, co ùlẽ ông Ba đánh mạnh lắm. Minh nghĩ đến bạn, vừa khỏi bệnh, lại sớm bị đòn vọt, mà nước mắt chạy quanh mi. Bỗng Minh thoáng thấy một bóng nhỏ thó chạy vụt ra sân, theo sau là một người lớn, tay cầm roi vụt chan chát, miệng chửi-rủ không thôi. Lau nước mắt, Minh thấy Thi đang chạy bất kể dưới trận mưa roi của người cha tàn nhẫn. Minh chạy theo, miệng kêu lớn: " Thi, Thi!" Đàng trước, Thi vừa ngoái cổ lại dòm chừng cha, đến bờ sông lúc nào không hay. Vừa nhìn lại, Thi hối hoảng la lên sợ hãi. Ông Ba vừa chạy tới, hét lên:" Tao giết mầy, giết mầy!" Thi chạy tránh làn roi, thì trợi chân, rơi tòm xuống nước. Ông Ba gào lớn: Á, thằng Thi. thằng Thi.!", thì từ sau lưng ông, một đứa bé lao nhanh tới và phóng xuống sông .Ông Ba đứng sững lại, trố mắt nhìn Minh, chính Minh, đang bơi nhanh theo Thi. Tay Minh vừa vớ đươc Thi thì lúc ấy thi đã buông tay vì mệt lả. Minh cố xốc Thi lên, kéo hai tay Thi choàng qua vai mình, rồi từ từ bơi vào. Nước chảy không siết lắm, nên Minh bơi chẳng mấy chốc đến bờ. Vừa bước lên bãi cỏ, Minh mệt quá, ngã vật xuống; bên cạnh, Thi đang mên man. Ông Ba chạy tới, lăng-xăng xốc nước cho Thi, vừa than thở đủ điều. Minh hé mắt ra, hỏi thăm Thi. Ông Ba nhìn trìu mến nói: - Cháu mệt lắm không? - Không sao, cháu đỡ rồi bác ạ! Minh vừa định hỏi thăm nữa thì ông Ba đã khen: - Cháu can đảm quá. Lúc nãy bác lo sợ hết sức! - Minh sực nhớ đến buổi học Trường Chúa Nhựt, vội đứng lên. Thi hỏi, giọng mệt nhọc: - Đi đâu thế Minh? - Tôi đi học Trường Chúa Nhựt. Rồi minh chạy vụt về nhà. Rồi Minh đến nhà thờ, kịp lúc anh Thành còn dạy bài học. Minh không lo mất điểm, lại mừng vì đã cứu được Thi. Chúa Nhựt tuần sau, trong lớp Thiếu nhi có thêm một học viên và một người nữa vừa ghi tên vào lớp Tráng Niên. Đó là hai cha con ông Ba. Thi ngồi cạnh Minh, vẻ mặt mừng rỡ. Thi chăm chú theo dõi bài học một cách thích thú. Minh quay qua bạn, nói khẽ: - Chốc nữa mình tập hát Nô-ên! Thì cười sung sướng, Hai bàn tay nắm chặt lấy nhau, hai nụ cười đầy dẫy tình thương. "Chẳng có sự yêu thương nào lớn hơn là vì bạn hữu mà phó sự sống mình" (Giăng 15:13). Mục lục Người bạn quý Người bạn quý N.T.Chào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: bạn: mickey đưa lên vào ngày: 11 tháng 7 năm 2004
N.T. Precious friend The Sunday School lesson lasted more than ten minutes. The list of Children's class students has almost been announced. Mr. Thanh wrote a line in the notebook, then called: - Minh! Not a single person stood up. After waiting a while, Mr. Thanh raised his head. The faces that still look innocent at the age of 12 and 13 are feeling a bit of anxiety and contempt. - He's late every time! For three weeks now, Minh has been the subject of stories from his classmates. - Do you know why Minh is absent? The answer was quick: - Probably going away again. - My brother stays at home to carry water. Everyone laughed at that joke. Mr. Thanh signaled for silence. - Oh, Luan, at home, have you seen where Minh is going? Luan is Minh's younger brother, he stood up with a slightly red face: - In the morning he went across the river. Again, random questions rang out: - What to do? Why go to the other side of the river? Mr. Thanh had to "shush" a few times, then continued calling: - Nghiem! Nghiem stood up and read the original verse this morning: "There is no greater love than to lay down one's life for one's friends." Calling the last person, Mr. Thanh closed the book. Still can't see Minh! He prayed silently, then began to teach the lesson. He tried to describe the noble friendship between Jonathan and David in a dynamic way, and he hoped his words would not be in vain. Suddenly he caught a glimpse of someone lurking outside the church door. If you pay attention, it's actually Minh. He called out: - Minh! Come in! He showed Minh to sit in the chair, then continued the lesson. The bell rang, just as he told Minh to pray. Green heads bowed down, Minh's sobbing voice rang out: "Lord, please save Thi, you know my friend is facing a severe trial! Oh, please God save Thi, I pray." I ask you so much. Amen!" Minh was still sobbing when Mr. Thanh spoke up: - Now you listen to the conclusion of the lesson. Try to answer the questions, kids! Then he turned to Minh: - Minh, let me see you for a moment! The two of them walked down to the Pastor's residence. Minh leisurely narrated the story. After hearing this, Mr. Thanh was very happy. He knew that Minh himself had practiced the Bible verse in John 15:13, before hearing him teach the lesson. Anh and Minh sang Hallelujah happily. * * * Crossing the bridge, Minh quickly ran to his friend's house. Soon I arrived at Thi's house. It seemed like there was no one in the house. Minh stood hiding outside the fence, looking around worriedly. Suddenly, Minh was startled by a voice behind him: - Huh! Minh turned around and saw his friend smiling, holding a heavy bottle in his hand: So early, Minh! Wazzup? Even though he was still shaking, Minh also tried to smile: - No! Minh came to coax Thi to go to the group. - Group? What group is that? I went to Sunday School, then practiced singing. Thi's face became sad. Minh looked at you worriedly: - What? What is this? Minh pointed to Thi. Looking inside the house, Thi said: This morning my father has to go to the province. This? Ba-xi-e, Minh! Every morning he has to have this before he can work! Suddenly from inside the house there was a hoarse voice: - Thi! Exam! - Thi ran into the house, saying "yes" loudly. Minh looked after him, then hid next to the thick bamboo row. Minh heard the sound of glasses clinking together. The hoarse voice of Mr. Ba, Thi's father, rang out again: - Let me roast you dry! - It's been dry since yesterday, Dad. Star? Are you going to grill it and eat it and then talk about it? Thi tries to explain: - No! There are only a dozen dried beans in a week, how can there be three left! The sound of hitting the table and then the sound of a glass breaking was clearly heard. Minh heard Thi crying and said: - Dad, poor me, dad! Mr. Ba cracked his whip and heard a whooshing sound. Thi's voice gradually faded, perhaps Mr. Ba hit him too hard. Minh thought of his friend, who had just recovered from illness and was soon beaten again, and tears ran down his eyes. Suddenly, Minh caught a glimpse of a small shadow running out into the yard, followed by an adult, holding a whip and whipping loudly, cursing nonstop. Wiping away tears, Minh saw Thi running regardless under the rain of whips from her cruel father. Minh ran after him, shouting loudly: "Thi, Thi!" Ahead, Thi looked back at her father and arrived at the river bank without realizing it. Looking back, Thi panicked and screamed in fear. Mr. Ba just ran over and shouted: "I'll kill you, kill you!" As he ran to avoid the whip, he tripped over his feet and fell into the water. Mr. Ba shouted loudly: Ah, Thi. Thi.!", then from behind him, a child rushed forward and jumped into the river. Mr. Ba stood still, gawking at Minh, it was Minh, who was swimming quickly after Thi. Minh's hand had just grabbed Thi. At that time, he let go because he was exhausted. Minh tried to lift Thi up, pulled Thi's arms around his shoulders, and then slowly swam in. The water was not very strong, so Minh quickly reached the shore In the grass, Minh was so tired that he collapsed next to him. Mr. Ba ran over and hurriedly poured water for her. Minh opened his eyes and looked at her My dear said: - Are you tired? - It's okay, I'm better! Minh was about to ask again when Mr. Ba complimented him: - I was so scared just now During Sunday school, he quickly stood up. Thi asked in a tired voice: - Where are you going, Minh? - I went to Sunday school. Then Minh went to church, just in time for Mr. Thanh to teach lesson. Minh was not worried about losing points, but was happy to have saved Thi. Next Sunday, there was one more student in the Children's class and another person had just enrolled in the Trang Nien class. Those are Mr. Ba's father and son. Thi sat next to Minh, looking happy. Thi attentively followed the lesson with interest. Minh turned to his friend and whispered: - Soon I'll practice singing Christmas! Laughing happily, two hands holding each other tightly, two smiles full of love. "There is no greater love than to lay down one's life for one's friends" (John 15:13). Table of contents Precious friend Precious friend N.T.Welcome to read books from the book project for mobile devices. Source: author: Nguyen Kim Vy. Final words: Thank you for reading the entire story. Source: editor: Nguyen Kim Vy. Source: friend: mickey posted on: July 11, 2004
Catherine Howard Người bắt cóc Frances Barlett là một phụ nữ trạc tứ tuần, có mái tóc hung và thân hình hơi đẫy. Sáng nay, bà ngồi trong chiếc ghế bành của chồng để xem mục Chào quý bà trên truyền hình, sau khi đưa các con đến trường. Nhưng lần này, bà ko còn thoải mái như mọi khi. Ko biết điều gì đã xảy ra với Paul. Trở về từ Chicago trong một chuyến bay đêm, lẽ ra chồng bà đã có mặt ở nhà khoảng 7 giờ sáng. 8 giờ, bản năng chuyển qua tiềm thức đã đánh thức Frances. Trước khi gọi điện cho sân bay, bà đã quanh quẩn suốt một tiếng. Một nhân viên sân bay trả lời:"Chuyến bay đã đến đúng giờ, nhưng phải đợi văn phòng mở cửa, xem có tene ông nhà ko đã. Có thể ông nhà đã chuyển sang chuyến bay khác cũng nên. Chúng tôi rất tiếc". Bắt đầu lo sợ, bà gọi điện cho khách sạn Chicago, nơi Paul thường đến. Trả lời:"Ông nhà đã ra đi từ chiều hôm qua và chẳng để lại gì, rất tiếc...".Frances ko tài nào dỗ giấc được nữa, cố xem truyền hình và tự nhủ:"Chắc ko phải tai nạn máy bay đâu. Còn nếu lật xe hoặc gì nữa thì khi chuyền vào bệnh viện, người ta phải báo chứ... Chắc chỉ là trục trặc giờ chót. Nhưng Paul đâu có thói quen im lặng lâu thế. Anh ấy ở đâu? Trời ạ, Paul đang ở đâu?"Frances liếc nhìn đồng hồ đeo tay. Một giờ nữa đã qua, gọi cho sân bay được rồi. Vừa định đứng dậy thì chuông điện thoại reo vang, Frances chộp ngay lấy ống nghe:- A...Allô?- Bà Frances Barlett phải ko?- Vâng ai ở đầu dây ạ?- Chúng tôi đang giữ chồng bà.- Sao? Sao?- Tôi lặp lại: chúng tôi đang giữ chồng bà.- Nhưng tại sao mới được chứ?- Để đổi lấy một món tiền chuộc. Bây giờ thì bà rõ rồi chứ?- Ôi! Trời ơi...Nghẹt thở, Frances bấu vào cạnh bàn. Tách cà phê đổ nghiêng.- Paul.. Anh ấy ko sao chứ cho tôi nói chuyện với anh ấy?- Ông ấy khoẻ như vâm nhưng ông ta đang ngủ do uống thuốc mê. Ông ấy sẽ ko gặp phiền toái gì cả, nếu bà làm theo lời chúng tôi.- Hãy cho tôi nói chuyện với anh ấy, tôi van ông. Hãy cho tôi..- Không. Nghe đây. CHúng tôi muốn 10000 đôla. Rõ chưa ko nhiều lắm đâu?- Vâng nhưng tôi làm gì...- Hãy đem cả tư trang đến tiệm cầm đồ. Nhưng trước buổi trưa, phải có tiền. Bằng ko, chồng bà sẽ ko nguyên vẹn đâu, bà đã xem các phim hình sự rồi chứ, bà có muốn tôi cắt một ngón tay ông nhà về cho bà ko? Bà sẽ đặt tiền vào một cái giỏ đi chợ, thứ giỏ người ta bán đầy ở nhà ga ấy, rồi đến công viên McKinley. Bà biết công viên đó rồi chứ?- Một công viên giữa khu phố sầm uất, ở cửa ngõ phía Nam ngoại ô?- Đúng đấy. Chính giữa công viên là bức tượng McKinley. Đúng 12 giờ 30, bà sẽ đi về hướng Bắc, đặt chiếc giỏ lên băng ghế thứ ba sau bức tượng...- Nhưng hướng bắc là hướng nào?- Lối gần Woolworh ấy. Đặt giỏ xuống ghế và tiếp tục bước, ko ngoảnh lại. Nhớ là ko được ngoảnh lại.- Vâng, vâng.. Tôi sẽ ko ngoảnh lại đâu. 12 giờ 30.. Nhưng bao giờ tôi đựơc gặp lại anh ấy?- Chiều mai.- Tôi phải đợi lâu thế sao? Ông có thể...- Đừng báo cảnh sát nhé. Chúng tôi sẽ theo dõi bà nếu bà định chơi chúng tôi thì ko còn có dịp hối hận đâu đấy.- Vâng tôi hiểu nhưng ông ko thể đưa ...Frances hiểu ngay mình đang nói vào khoảnh không. Hắn đã gác máy.Từ công viên McKinley trở về, Frances như bị kiến đốt. Bà ko thể làm gì được, vén màn cửa sổ lên rồi lại buông xuống, châm thuốc lá rồi lại dụi đi. Frances tự nhủ: ngày hôm nay sẽ là một vết thương ko bao giờ lên sẹo. Mình ko bao giờ quên cái cảm giác khiếp hãi khi suýt gọi cho cảnh sát. Cũng ko sao quên được lúc ra ngân hàng, vơ hết tài khoản, ngân phiếu của hai vợ chồng. Rồi cái nghị lực phi thường để tiếp bước mà ko ngoảnh lại, sau khi đã đặt giỏ lên băng ghế. Rồi một câu hỏi khó bỗng ập về:"Tại sao chứ? Vợ chồng mình có giàu có và nổi tiếng gì đâu? Tại sao họ lại chọn mình?".CHuông điện thoại reo, Frances lao như chớp giật đến bên máy điện thoại- Allô? Allô?- Em đấy phải ko, em yêu?- Paul!Nước mắt làm mờ mọi vật. Frances nghẹn đi một lúc, mãi sau mới tiếp tục được:- Paul, anh khoẻ chứ?- ANh hơi mệt, nhưng ko sao. Em làm sao thế?- Anh đang ở đâu thế?- ở Philadelphia- Sao lại ở đấy?- Phiên họp vừa kết thúc xong. Nó dài hơn anh tưởng.- Phiên họp? Em...ko hiểu gì cả! Paul? PHiên họp nào?- Thì phiên họp của công ty anh chứ còn gì nữa. Anh thử gọi cho em vào chiều qua, nhưng ko có ai cầm máy. Em ko nhận được điện tín của anh ư?-Không! Anh... khoẻ chứ?- Ơ kìa sao bỗng dưng em lại lo ngại cho sức khỏe của anh nhiều thế?- Anh ko bị bắt cóc sao?- Bắt cóc!(Paul phá lên cười). Trời ạ, em moi ở đâu ra cái ý nghĩa ấy thế?Frances ý đến cú điện thoại, đến món tiền chuộc và ... bất tỉnh.Chễm chệ trong chiếc ghế bành, Lew Sieberts gõ nhịp trên mặt bàn, tỏ vẻ sốt ruột vì kết cuộc của công việc. Hắn vẫn chưa hết ngạc nhiên và thỉnh thoảng lại liếc nhìn cái giỏ đầy ắp tiền để tin chắc đây là sự thật. Chưa bao giờ hắn kiếm được nhiều tiền thế. Ngay sáng mai, hắn phải chuồn đi trước khi Paul Barllet trở về. Đầu phòng bên kia, chiếc máy điện báo đang gõ lách tách. Khi hồi chuông báo dứt vang lên, Sieberts giật phắt mảnh giấy và đọc:BLTMRXL TI 960 JS DL PD KANSAS CITY MO 6/21 340 P XXX CAROLE WILSON 424 MAXWELL TBL TMRMD 467 9073 XXXX BUOC PHAI DI SPRING-FIELD HAI NGAY STOP VIEC BAT NGO DANG TIEC STOP THUONG PETER STOP HET XXXXSieberts ngồi xuốn, nghiền ngẫm bức điện có nội dung rất giống bức hôm qua mà Paul đã gửi. 20 nghìn đô dù sao vẫn hơn là 10 nghìn chứ!Hắn tìm số điện thoại trên bức điện. Chuông reo, một giọng phụ nữ vang lên. Hắn lấy giọng lạnh lùng:- Bà Carole Wilson phải ko? Chúng tôi đang giữ chồng bà... Mục lục Người bắt cóc Người bắt cóc Catherine HowardChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: HùngĐược bạn: Thành Viên VNthuquan đưa lên vào ngày: 27 tháng 12 năm 2003
Catherine Howard Abductor Frances Barlett is a woman in her forties, with red hair and a slightly plump figure. This morning, she sat in her husband's armchair watching Hello Ladies on television, after taking the children to school. But this time, she was not as comfortable as usual. I don't know what happened to Paul. Returning from Chicago on an overnight flight, her husband should have been home around 7 a.m. At 8 o'clock, subconscious instincts awakened Frances. Before calling the airport, she hung around for an hour. An airport employee replied: "The flight arrived on time, but we have to wait for the office to open to see if you are there. Maybe you have changed to another flight. We are very sorry." . Becoming afraid, she called the Chicago hotel where Paul often came. Answer: "My husband passed away yesterday afternoon and left nothing behind, I'm so sorry...".Frances couldn't sleep anymore, tried to watch TV and told himself: "It's probably not a computer accident." If the car flips over or anything else, they'll have to report it... It's probably just a last-minute problem. But Paul's not in the habit of being silent for so long Hey, where is Paul?" Frances glanced at her watch. Another hour has passed, call the airport now. Just as she was about to stand up, the phone rang. Frances immediately grabbed the receiver: - Hello? - Is that Mrs. Frances Barlett? - Yes, who's on the line? - We're holding your husband. - Why? ? Why?- I repeat: we are holding your husband.- But why?- In exchange for a ransom. Now do you understand? - Oh! Oh God...Suffocating, Frances grabbed the edge of the table. The cup of coffee tipped over.- Paul.. Is he okay, can I talk to him?- He's healthy as hell but he's sleeping due to the anesthesia he took. He won't be in any trouble if you do as we say. - Please let me talk to him, I beg you. Please give me...- Không. Listen. We want 10,000 dollars. It's clearly not much? - Yes, but what should I do... - Take all your belongings to the pawn shop. But before noon, there must be money. Otherwise, your husband won't be intact. You've seen crime movies, don't you want me to cut off a finger for you? She would put the money in a shopping basket, the kind they sell full at the station, and then go to McKinley Park. Do you know that park? - A park in the middle of a busy neighborhood, at the gateway to the southern suburbs? - That's right. In the middle of the park is the McKinley statue. At exactly 12:30, she will go north, put the basket on the third bench behind the statue... - But which direction is north? - The way near Woolworh. Place the basket on the chair and continue walking, without looking back. Remember, don't look back. - Yes, yes.. I won't look back. 12:30.. But when will I see him again? - Tomorrow afternoon. - Do I have to wait that long? Can you...- Don't call the police. We will follow you if you plan to play with us then you won't have a chance to regret it. - Yes I understand but you can't give...Frances immediately understood what she was talking about in the void. He hung up. Coming back from McKinley Park, Frances felt like she was stung by ants. She couldn't do anything, she lifted the window curtain and then let it down again, lit a cigarette and then stubbed it out. Frances told herself: today will be a wound that will never scar. I will never forget the feeling of terror when I almost called the police. I can't forget the time I went to the bank and grabbed all of the couple's accounts and checks. Then the extraordinary strength to continue without looking back, after placing the basket on the bench. Then a difficult question suddenly came up: "Why? My husband and I are not rich or famous? Why did they choose me?" The phone rang, Frances rushed like lightning to the phone. - Hello? Hello? - Is that you, honey? - Paul! Tears blurred everything. Frances choked for a moment, then continued: - Paul, how are you? - I'm a little tired, but it's okay. What's wrong? - Where are you? - in Philadelphia - Why are you there? - The meeting just ended. It was longer than I thought.- The session? I... don't understand anything! Paul? Which meeting session? - Your company's meeting session, nothing else. I tried calling you yesterday afternoon, but no one picked up the phone. Didn't you receive my telegram? - No! Are you... okay? - Hey, why are you suddenly so worried about my health? - Haven't you been kidnapped? - Kidnapped! (Paul burst out laughing). Oh my God, where did you get that meaning? Frances noticed the phone call, the ransom money and... lost consciousness. Sitting in the armchair, Lew Sieberts tapped on the table, looking feverish. gut because of the outcome of the job. He was still surprised and occasionally glanced at the basket full of money to make sure this was true. He has never earned so much money. Tomorrow morning he must get away before Paul Barllet returns. At the other end of the room, the telegraph was clicking away. When the bell stopped ringing, Sieberts snatched the piece of paper and read: BLTMRXL TI 960 JS DL PD KANSAS CITY MO 6/21 340 P XXX CAROLE WILSON 424 MAXWELL TBL TMRMD 467 9073 XXXX BUOC PHAI DI SPRING-FIELD TWO NOW STOP VIEC BAT NGO DANG TIEC STOP THUONG PETER STOP HET XXXXSieberts sat down, poring over the telegram whose content was very similar to the one Paul sent yesterday. 20 thousand dollars is better than 10 thousand dollars anyway! He looked for the phone number on the telegram. The bell rang and a woman's voice rang out. He spoke coldly: - Mrs. Carole Wilson, right? We're holding your husband... Table of contents Abductor Abductor Catherine HowardWelcome to read the titles from the book project for mobile devices. Source: author: Nguyen Kim Vy. Final words: Thank you for reading the entire story. Source: editor: Nguyen Kim Vy. Source: Hung Posted by friend: Member VNthuquan on: December 27, 2003
Khuyết Danh Người bắt rắn cuối cùng Lần ấy, tôi lên tỉnh cùng ông cháu thằng Tiên, bạn học của tôi. Đi chân mười lăm, mười sáu cây số nào có nghĩa lý gì, khi được dịp "lên tỉnh", lại chỉ đeo một cái bị cói trống trơn. Lúc về, bị cói sẽ đựng những thang thuốc bắc, nhưng mùi mẽ gì mấy cái gói lá khô, rễ khô thơm thơm, hăng hắc ấy. Bố tôi bệnh, tự kê đơn, viết mấy dòng chữ Hán loằng ngoằng đưa tôi đến cửa hiệu thuốc "Con trâu vàng" của "chú Sếnh" ở phố tỉnh. Thằng Tiên hớn hở bảo: - Thế thì đằng ấy đi với tớ. Ông tớ mai mang hàng đến cửa hiệu chú Sếnh đấy! - Cậu có đi à? - Ừ! Giỏ nặng, tớ đeo giúp ông vài quãng chứ! Nói vậy, suốt chặng đường, Tiên đeo giỏ để ông đi tay không. Đôi lúc, thấy ngượng, tôi bảo Tiên nhặt khúc tre vương ở rệ cỏ, xỏ vào quai giỏ, hai đứa cùng khiêng. Thế mà còn nặng lặc lè. Nặng thì tôi không ngại, chỉ có ngán thứ đựng trong giỏ. Vì đó là giỏ đầy các loại rắn. Ông thằng Tiên chuyên nghề bắn rắn: mật rắn, ông bán cho các hiệu thuốc bắc, còn thịt bán cho các hiệu "cao lâu". Nghề bắn rắn, theo ý tôi, là một nghề rùng rợn. Chụp được rắn bằng tay không, khi đó là một "gã" rắn độc, cắn chết người như bỡn, bạn bảo lý thú à? - Ông tớ bắt rắn nuôi cả nhà đấy. Chứ bố tớ đi bộ đội suốt, có gửi được đồng nào chớ kể. Tôi biết hoàn cảnh gia đình Tiên khá rõ. Đúng như vậy. Bà nó, mẹ nó, mấy anh chị em thằng Tiên quả là sống nhờ nghề bắt rắn của ông nó thật. Tuy nhiên, không phải ngày nào cũng có thể bắt được rắn hoặc ngày nào cũng nên bắt rắn đâu. Những ngày ông Tiên nghỉ, vẫn có bà và mẹ Tiên kiếm miếng ăn bằng công kia, việc nọ thôi. Có điều là nhà nghèo, đồng tiền kiếm được cũng hiếm như nắng mưa đông vậy. Ngồi trong sân hiệu thuốc bắc của chú Sếnh, tôi quên bẵng việc đi mua thuốc cho bố. Bấy giờ, tôi chỉ còn mải mê nhìn ông thằng Tiên với cái giỏ rắn. Ông im lặng, mới khẽ phẩy tay, đã thấy Tiên kéo lui tôi ngồi tránh xa giỏ rắn. Tiên thì thầm: - Ngồi đây cũng rõ. Gần quá, "nó" mổ hết chạy! Nhưng Tiên lại đến phụ ông. Tiên đỡ cái đĩa men trắng bóng có hình vẽ rồng phượng xanh xanh chú Sếnh vừa đưa, đặt xuống nền gạch bông. Ông móc túi, lấy cái hộp sắt tròn, vốn dĩ là hộp đựng kẹo ho bạc hà, lúc này đựng thuốc lào, đen thẫm, cho vào miệng, nhai nhai rồi nhả ra lòng bàn tay, xoa xoa xuốt từ khuỷu tay đến mu bàn tay. Mùi thuốc lào sực nức vừa đắng vừa ngái. Xoa tay xong, ông khẽ mở nắp giỏ, luồn vừa lọt có bàn tay, và nhanh đến không kịp nhận ra như thế nào, ông đã lôi phụt một con rắn dài đến phát khiếp. Tôi kịp lùi bật ngửa, nghe rõ con hổ mang đang quằn đuôi, hai nhánh đầu lưỡi liến láu le le, mắt như hai hột đỗ xanh tròn thô lố. Thoáng, đuôi con hổ mang đã bị bàn chân ông đè nghiến. Cả cái cổ rắn khá to, nằm gọn trong bàn tay trái của ông - nói cho đúng, chỉ có hai ngón trỏ và cái, đang xiết chặt cổ rắn làm cho miệng ngoác rộng đỏ lòm, trông rõ hai bên nanh nhọn hoắt. Rồi, lại thoáng, đã thấy bàn tay phải của ông đưa ngọt một mũi dao lá lúa vào khoảng giữa bụng rắn. Máu rắn chưa kịp ứa ra, ông đã luồn một bọng mật xanh thẫm trông như một cái kẹo bạc hà xanh chưa bóc giấy bóng. Ông đặt chiếc mật rắn vào miệng đĩa men và nhìn chú Sếnh đứng chứng kiến im lặng. Chỉ thấy chú Sếnh gật, còn ông thả con hổ mang quằn quại, trườn vào một cái giỏ không, để ở đấy từ lúc nào. - À! giỏ của ông tới gửi đợt rắn trước. - Tiền nói cho tôi đỡ thắc mắc - Chốc ông đổi giỏ, đem rắn đã bóc mật, bán thịt cho "cao lâu". Đến lượt một con cạp nong, khoanh vàng, khoanh xanh, khoanh đen, bị lôi ra. Con này vùng vẫy kịch liệt, nhưng rồi cũng chịu lép. Ông đếm bảy đốt từ tay cầm, lách mũi dao vào, và chiếc bọng mật đã được lôi ra đặt bên cạnh chiếc thứ nhất. Con thứ ba nhỏ hơn, xanh nâu, đầu thuôn, tôi nhận ngay ra "dân" rắn nước. Nhưng phải đủ "bộ ba" mật của ba loại rắn như vậy, chú Sếnh mới công nhận là đủ tiêu chuẩn cho một đơn vị thuốc "Tam xà đởm" gia truyền của hiệu chú. - Người ta gọi "Tam xà đởm" là thứ thuốc ho có ba mật rắn. - Về nhà tôi được bố nói cho biết - Ba chiếc mật mà con nhìn thấy là một bộ. Bôi bộ mật và vỏ quýt phơi đã khô, sấy cong, tán ra, thành một thứ bột thuốc, trị bệnh ho. Đó là loại thuốc gia truyền của chú Sếnh đấy! Có một điều tôi băn khoăn mãi dù thằng Tiên đã nói rõ ông nó không có bùa phép gì cả, chỉ có một cái lọ con đựng thuốc trị nọc rắn nếu chẳng may "nó" bập phải thì bôi vào ngay. Nhưng hiếm xảy chuyện gì với ông thằng Tiên. - Ông tớ cứ nhắm đâu là trúng đó, tuy có lúc trong hang rắn lại chỉ có cua. Và ở lỗ cua lại tòi ra một chàng rắn to tổ bố! Nhưng có rắn thì đừng hòng con nào thoát! Những ngày giá rét, rắn núp trong hang, ông đeo giỏ, giắt thêm ông điếu cày, ve vẩy một cái nùn rơm toả khói, men ruộng, tìm lỗ rắn. Rét căm căm, ông chỉ có một manh áo nâu, thắt phía ngoài áo một sợi dây chão. Trời nóng nực vẫn giỏ, vẫn ống điếu và nùn rơm âm ỉ lửa, quần cộc, không áo, ông đi... Tiên cũng hay theo ông, cũng "tóm" được rắn, có khi "vớ" phải một con dài cả sải tay, có ông giúp sức mới bắt được. - Không khiếp à? - Sợ mất mật ấy chứ! Rồi quen tuốt! - Nó nói ngon như không. Nhưng, hôm đó, cách một thửa ruộng chỗ ông thằng Tiên bắt rắn, có cái Sem đi mò cua. Mẹ cái Sen mệt, nói thật, là sốt li bì, Sen phải đi bắt cua, kiếm tiền mua gạo nấu cháo. Nó nghỉ học mấy buổi rồi. Bọn tôi cũng định tới thăm mẹ cái Sen và giúp nó một việc gì đó như nhắc lại các bài học nó thiếu chẳng hạn. Ai ngờ, bọn tôi không đến nhà Sen để làm mấy việc như vậy mà chính là thăm nó bị ngã trẹo chân. Nhưng cũng phải thăm nó sau, chứ một việc khác xảy ra buồn thảm hơn lại do cái Sen gây nên chuyện. Hôm đó, cái Sen đang chọc lỗ cua, vừa thò tay vào toan nhón một con cua đồng thì một con rắn hổ lửa ở chính cái lỗ cua đó vọt ra. Cái Sen kêu rú, bỏ chạy thục mạng. Ông thằng Tiên ở khoảnh ruộng ngay gần bên, nghe tiếng rú của cái Sen, quay phắt lại và nhảy bổ tới. Ông đã nhìn thấy con hổ lửa đang quăng theo cái Sen. Chỉ cần ba sải chân, ông đã đuổi kịp con rắn độc. Nhưng chúng chính lúc ấy cái Sen ngã sóng xoài. Con rắn uốn lên sắp sửa chúc đầu xuống thì ông thằng Tiên chồm tới. Ông chộp ngang cổ rắn, nhưng do quá vội vàng để cứu cái Sen, ông vồ hụt. Con hổ lửa mổ trúng ngay bắp tay ông. Tuy bị rắn cắn, ông vẫn nhoài người, chịt bằng được cổ rắn, bóp chặt. Và ông còn kêu: - Chạy... đi... cháu! Cái Sen trật khớp chân, cố đứng lên lại bệt xuống. Nó lê ra xa hơn một chút thôi, và nhìn lại, nước mắt đầm đìa. Ông thằng Tiên nằm sóng xoài trên đất ruộng, người tím tái, một tay vẫn giữ rịt cổ con rắn, cái đuôi rắn còn quật quật, vòng vèo... Tôi còn lên tỉnh mấy lần nữa để mua thuốc ở cửa hiệu chú Sếnh cho bố tôi. Nhưng chặng đường mười lăm, mười sáu cây số ấy dường như dài gấp bao nhiêu lần, chỉ xách có mấy thang thuốc bắc mà sao trĩu cả tay. Suốt chặng đường đi và về, lúc nào hình ảnh ông thằng Tiên và giỏ rắn nặng lặc lè cứ hiện rõ trước mắt tôi. Bây giờ muốn khiêng giỏ rắn ấy cũng không được nữa. Thằng Tiên không thích nối nghề ông. Sau cái chết vì rắn cắn của ông, thằng Tiên biết chính ông nó là người bắt rắn cuối cùng ở cái xã miền trung du hẻo lánh. Mục lục Người bắt rắn cuối cùng Người bắt rắn cuối cùng Khuyết DanhChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: HùngĐược bạn: Thành Viên VNthuquan đưa lên vào ngày: 27 tháng 12 năm 2003
Khuyết Danh Người bắt rắn cuối cùng Lần ấy, tôi lên tỉnh cùng ông cháu thằng Tiên, bạn học của tôi. Đi chân mười lăm, mười sáu cây số nào có nghĩa lý gì, khi được dịp "lên tỉnh", lại chỉ đeo một cái bị cói trống trơn. Lúc về, bị cói sẽ đựng những thang thuốc bắc, nhưng mùi mẽ gì mấy cái gói lá khô, rễ khô thơm thơm, hăng hắc ấy. Bố tôi bệnh, tự kê đơn, viết mấy dòng chữ Hán loằng ngoằng đưa tôi đến cửa hiệu thuốc "Con trâu vàng" của "chú Sếnh" ở phố tỉnh. Thằng Tiên hớn hở bảo: - Thế thì đằng ấy đi với tớ. Ông tớ mai mang hàng đến cửa hiệu chú Sếnh đấy! - Cậu có đi à? - Ừ! Giỏ nặng, tớ đeo giúp ông vài quãng chứ! Nói vậy, suốt chặng đường, Tiên đeo giỏ để ông đi tay không. Đôi lúc, thấy ngượng, tôi bảo Tiên nhặt khúc tre vương ở rệ cỏ, xỏ vào quai giỏ, hai đứa cùng khiêng. Thế mà còn nặng lặc lè. Nặng thì tôi không ngại, chỉ có ngán thứ đựng trong giỏ. Vì đó là giỏ đầy các loại rắn. Ông thằng Tiên chuyên nghề bắn rắn: mật rắn, ông bán cho các hiệu thuốc bắc, còn thịt bán cho các hiệu "cao lâu". Nghề bắn rắn, theo ý tôi, là một nghề rùng rợn. Chụp được rắn bằng tay không, khi đó là một "gã" rắn độc, cắn chết người như bỡn, bạn bảo lý thú à? - Ông tớ bắt rắn nuôi cả nhà đấy. Chứ bố tớ đi bộ đội suốt, có gửi được đồng nào chớ kể. Tôi biết hoàn cảnh gia đình Tiên khá rõ. Đúng như vậy. Bà nó, mẹ nó, mấy anh chị em thằng Tiên quả là sống nhờ nghề bắt rắn của ông nó thật. Tuy nhiên, không phải ngày nào cũng có thể bắt được rắn hoặc ngày nào cũng nên bắt rắn đâu. Những ngày ông Tiên nghỉ, vẫn có bà và mẹ Tiên kiếm miếng ăn bằng công kia, việc nọ thôi. Có điều là nhà nghèo, đồng tiền kiếm được cũng hiếm như nắng mưa đông vậy. Ngồi trong sân hiệu thuốc bắc của chú Sếnh, tôi quên bẵng việc đi mua thuốc cho bố. Bấy giờ, tôi chỉ còn mải mê nhìn ông thằng Tiên với cái giỏ rắn. Ông im lặng, mới khẽ phẩy tay, đã thấy Tiên kéo lui tôi ngồi tránh xa giỏ rắn. Tiên thì thầm: - Ngồi đây cũng rõ. Gần quá, "nó" mổ hết chạy! Nhưng Tiên lại đến phụ ông. Tiên đỡ cái đĩa men trắng bóng có hình vẽ rồng phượng xanh xanh chú Sếnh vừa đưa, đặt xuống nền gạch bông. Ông móc túi, lấy cái hộp sắt tròn, vốn dĩ là hộp đựng kẹo ho bạc hà, lúc này đựng thuốc lào, đen thẫm, cho vào miệng, nhai nhai rồi nhả ra lòng bàn tay, xoa xoa xuốt từ khuỷu tay đến mu bàn tay. Mùi thuốc lào sực nức vừa đắng vừa ngái. Xoa tay xong, ông khẽ mở nắp giỏ, luồn vừa lọt có bàn tay, và nhanh đến không kịp nhận ra như thế nào, ông đã lôi phụt một con rắn dài đến phát khiếp. Tôi kịp lùi bật ngửa, nghe rõ con hổ mang đang quằn đuôi, hai nhánh đầu lưỡi liến láu le le, mắt như hai hột đỗ xanh tròn thô lố. Thoáng, đuôi con hổ mang đã bị bàn chân ông đè nghiến. Cả cái cổ rắn khá to, nằm gọn trong bàn tay trái của ông - nói cho đúng, chỉ có hai ngón trỏ và cái, đang xiết chặt cổ rắn làm cho miệng ngoác rộng đỏ lòm, trông rõ hai bên nanh nhọn hoắt. Rồi, lại thoáng, đã thấy bàn tay phải của ông đưa ngọt một mũi dao lá lúa vào khoảng giữa bụng rắn. Máu rắn chưa kịp ứa ra, ông đã luồn một bọng mật xanh thẫm trông như một cái kẹo bạc hà xanh chưa bóc giấy bóng. Ông đặt chiếc mật rắn vào miệng đĩa men và nhìn chú Sếnh đứng chứng kiến im lặng. Chỉ thấy chú Sếnh gật, còn ông thả con hổ mang quằn quại, trườn vào một cái giỏ không, để ở đấy từ lúc nào. - À! giỏ của ông tới gửi đợt rắn trước. - Tiền nói cho tôi đỡ thắc mắc - Chốc ông đổi giỏ, đem rắn đã bóc mật, bán thịt cho "cao lâu". Đến lượt một con cạp nong, khoanh vàng, khoanh xanh, khoanh đen, bị lôi ra. Con này vùng vẫy kịch liệt, nhưng rồi cũng chịu lép. Ông đếm bảy đốt từ tay cầm, lách mũi dao vào, và chiếc bọng mật đã được lôi ra đặt bên cạnh chiếc thứ nhất. Con thứ ba nhỏ hơn, xanh nâu, đầu thuôn, tôi nhận ngay ra "dân" rắn nước. Nhưng phải đủ "bộ ba" mật của ba loại rắn như vậy, chú Sếnh mới công nhận là đủ tiêu chuẩn cho một đơn vị thuốc "Tam xà đởm" gia truyền của hiệu chú. - Người ta gọi "Tam xà đởm" là thứ thuốc ho có ba mật rắn. - Về nhà tôi được bố nói cho biết - Ba chiếc mật mà con nhìn thấy là một bộ. Bôi bộ mật và vỏ quýt phơi đã khô, sấy cong, tán ra, thành một thứ bột thuốc, trị bệnh ho. Đó là loại thuốc gia truyền của chú Sếnh đấy! Có một điều tôi băn khoăn mãi dù thằng Tiên đã nói rõ ông nó không có bùa phép gì cả, chỉ có một cái lọ con đựng thuốc trị nọc rắn nếu chẳng may "nó" bập phải thì bôi vào ngay. Nhưng hiếm xảy chuyện gì với ông thằng Tiên. - Ông tớ cứ nhắm đâu là trúng đó, tuy có lúc trong hang rắn lại chỉ có cua. Và ở lỗ cua lại tòi ra một chàng rắn to tổ bố! Nhưng có rắn thì đừng hòng con nào thoát! Những ngày giá rét, rắn núp trong hang, ông đeo giỏ, giắt thêm ông điếu cày, ve vẩy một cái nùn rơm toả khói, men ruộng, tìm lỗ rắn. Rét căm căm, ông chỉ có một manh áo nâu, thắt phía ngoài áo một sợi dây chão. Trời nóng nực vẫn giỏ, vẫn ống điếu và nùn rơm âm ỉ lửa, quần cộc, không áo, ông đi... Tiên cũng hay theo ông, cũng "tóm" được rắn, có khi "vớ" phải một con dài cả sải tay, có ông giúp sức mới bắt được. - Không khiếp à? - Sợ mất mật ấy chứ! Rồi quen tuốt! - Nó nói ngon như không. Nhưng, hôm đó, cách một thửa ruộng chỗ ông thằng Tiên bắt rắn, có cái Sem đi mò cua. Mẹ cái Sen mệt, nói thật, là sốt li bì, Sen phải đi bắt cua, kiếm tiền mua gạo nấu cháo. Nó nghỉ học mấy buổi rồi. Bọn tôi cũng định tới thăm mẹ cái Sen và giúp nó một việc gì đó như nhắc lại các bài học nó thiếu chẳng hạn. Ai ngờ, bọn tôi không đến nhà Sen để làm mấy việc như vậy mà chính là thăm nó bị ngã trẹo chân. Nhưng cũng phải thăm nó sau, chứ một việc khác xảy ra buồn thảm hơn lại do cái Sen gây nên chuyện. Hôm đó, cái Sen đang chọc lỗ cua, vừa thò tay vào toan nhón một con cua đồng thì một con rắn hổ lửa ở chính cái lỗ cua đó vọt ra. Cái Sen kêu rú, bỏ chạy thục mạng. Ông thằng Tiên ở khoảnh ruộng ngay gần bên, nghe tiếng rú của cái Sen, quay phắt lại và nhảy bổ tới. Ông đã nhìn thấy con hổ lửa đang quăng theo cái Sen. Chỉ cần ba sải chân, ông đã đuổi kịp con rắn độc. Nhưng chúng chính lúc ấy cái Sen ngã sóng xoài. Con rắn uốn lên sắp sửa chúc đầu xuống thì ông thằng Tiên chồm tới. Ông chộp ngang cổ rắn, nhưng do quá vội vàng để cứu cái Sen, ông vồ hụt. Con hổ lửa mổ trúng ngay bắp tay ông. Tuy bị rắn cắn, ông vẫn nhoài người, chịt bằng được cổ rắn, bóp chặt. Và ông còn kêu: - Chạy... đi... cháu! Cái Sen trật khớp chân, cố đứng lên lại bệt xuống. Nó lê ra xa hơn một chút thôi, và nhìn lại, nước mắt đầm đìa. Ông thằng Tiên nằm sóng xoài trên đất ruộng, người tím tái, một tay vẫn giữ rịt cổ con rắn, cái đuôi rắn còn quật quật, vòng vèo... Tôi còn lên tỉnh mấy lần nữa để mua thuốc ở cửa hiệu chú Sếnh cho bố tôi. Nhưng chặng đường mười lăm, mười sáu cây số ấy dường như dài gấp bao nhiêu lần, chỉ xách có mấy thang thuốc bắc mà sao trĩu cả tay. Suốt chặng đường đi và về, lúc nào hình ảnh ông thằng Tiên và giỏ rắn nặng lặc lè cứ hiện rõ trước mắt tôi. Bây giờ muốn khiêng giỏ rắn ấy cũng không được nữa. Thằng Tiên không thích nối nghề ông. Sau cái chết vì rắn cắn của ông, thằng Tiên biết chính ông nó là người bắt rắn cuối cùng ở cái xã miền trung du hẻo lánh. Mục lục Người bắt rắn cuối cùng Người bắt rắn cuối cùng Khuyết DanhChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: HùngĐược bạn: Thành Viên VNthuquan đưa lên vào ngày: 27 tháng 12 năm 2003
Bjornstjerne Bjornson Người cha NOBEL 1903 Nhân vật chính của câu chuyện này là Thord Orerass, người đàn ông giàu có và có thế lực nhất trong xứ đạo. Một hôm, ông ta xuất hiện trong phòng cha xứ, dáng người cao, điệu bộ trang nghiêm. - Vợ con vừa đẻ con trai - ông ta nói. -Con muốn làm lễ rửa tội cho nó. - Ông đặt tên cháu là gì? - Rinn. Theo tên của cha con. - Thế còn người đỡ đầu? Tên cha mẹ đỡ đầu của đứa bé được đọc lên và đó đích thực là những con người đáng quý nhất trong số bạn bè thân thích của Thord quanh xứ đạo. - Còn gì nữa không?-Cha xứ ngước lên hỏi. Người nông dân do dự một chút, cuối cùng, ông ta nói: - Con muốn tổ chức lễ rửa tội riêng cho một mình thằng bé. - Nhưng vào ngày thường đấy chứ? - Thứ bảy tới, vào lúc 12 giờ trưa. - Còn gì nữa không?-Cha xứ hỏi. - Chỉ có vậy thôi, thưa cha-Người nông dân sửa lại mũ, định đi ra. Bây giờ cha xứ mới nhổm dậy: - Dù vậy, vẫn còn một điều nữa-Cha xứ tiến về phía Thord, cầm tay và nhìn vào mắt ông ta, nói một cách trang trọng: -Ơn chúa, thằng bé có thể sẽ là phúc lành đối với ông! Mười sáu năm sau Thord lại đến gặp cha xứ. - Thật kỳ lạ, năm tháng chẳng có tác động gì tới ông!-Cha xứ nói, bởi ông nhận thấy Thord chẳng thay đổi chút nào. - Đó là vì con không có điều gì phiền muộn-Thord đáp. Nghe vậy, cha xứ không nói gì, nhưng một lát sau ông nói: - Tối nay ông có điều gì vui thế? - Tối nay con đến phiền cha về lễ biên tín ngày mai cho thằng bé. - Cậu bé sáng dạ lắm. - Con sẽ chưa trả tiền nếu chưa được biết số thứ tự của thằng bé tại nhà thờ ngày mai. - Cậu ta sẽ là số một. - Vậy là con đã nghe. Đây là mười đô-la, thưa cha. - Ông có cần tôi giúp gì nữa không?-Cha xứ hỏi, mắt vẫn nhìn Thord không rời. - Chỉ có vậy thôi, thưa cha. Thord đi ra. Thêm tám năm nữa trôi qua. Một hôm, cha xứ nghe thấy ngoài cửa những tiếng ồn ào của một toán người đang tiến lại gần. Thord dẫn đầu, bước vào trước tiên. Cha xứ ngẩng lên và nhận ngay ra ông ta. - Tối nay ông mang theo tùy tùng đầy đủ quá, ông Thord ạ-Cha xứ nói. - Con đến để yêu cầu đăng bố cáo về đám cưới thằng bé nhà con. Nó sắp lấy cô Karen Storliden, con gái ông Gudmund, người đang đứng cạnh con đây. - Thế ư? Đó là một cô gái giàu nhất trong xứ đạo. - Mọi người đều nói vậy-Người nông dân nói và đưa một tay hất mái tóc ra phía sau. Cha xứ ngồi yên một lúc, dường như suy nghĩ rất lung, sau đó ghi tên vào sổ, không bình luận gì thêm. Mấy người đàn ông đó ký tên bên dưới. Thord đặt ba đô-la lên bàn. - Tôi chỉ lấy một đô-la thôi-Cha xứ nói. - Con rất biết, nhưng con chỉ có một mình thằng bé. Vì thế, con muốn hào phóng với công chuyện của nó. Cha xứ nhận tiền. - Đây là lần thứ ba ông đến vì chuyện con trai, ông Thord ạ. - Nhưng bây giờ con sắp lo xong cho nó rồi-Thord nói và vừa gấp quyển sách bỏ túi vừa chào tạm biệt, đi ra. Toán người chậm rãi ra theo. Hai tuần lễ sau, một ngày ấm áp và lặng gió, hai cha con Thord chèo thuyền ngang qua hồ, đến nhà cô Storliden để sửa soạn cho đám cưới. - Tấm ván này không được chắc chắn-Anh con trai nói và đứng lên để chỉnh cho ngay ngắn chiếc ghế đang ngồi. Đúng lúc đó, tấm ván dưới chân anh ta bị trượt. Anh ta thét lên một tiếng, hai tay chới với rồi ngã nhào xuống nước... - Bám vào mái chèo-Thord kêu lên và vội vã chèo thuyền về phía con. Trong khi đó, người con trai đã lật ngửa, cố nhìn cha thật lâu rồi chìm nghỉm. Thord không thể tin ngay vào điều vừa xảy ra. Ông ghìm con thuyền bất động hồi lâu, mắt nhìn trừng trừng vào chỗ đứa con vừa biến mất, như thể anh ta chắc chắn sẽ lại nổi lên mặt nước. Tăm nước lác đác xuất hiện, nối tiếp nhau, cuối cùng một chiếc bong bóng lớn nổi lên, vỡ tung. Sau đó mặt hồ trở lại phẳng lặng và trong sáng như gương. Ba ngày đêm liền người ta thấy Thord chèo thuyền quần đảo trên hồ để tìm xác con, không ăn không ngủ. Mãi rạng sáng ngày thứ ba ông ta mới tìm thấy. Thord bế con trên tay, đi qua đồi, về đến tận vườn nhà. Có lẽ phải đến một năm trôi qua kể từ ngày hôm đó. Một buổi tối mùa thu, cha xứ lại nghe ngoài hành lang có ai đó đang thận trọng rờ tìm chốt cửa. Cha xứ mở cửa, một người đàn ông cao, gầy, lưng còng, tóc bạc bước vào. Nhìn kỹ hồi lâu cha xứ mới nhận ra ông ta. Đó chính là Thord. - Ông dạo này chơi muộn thế!-Cha xứ nói rồi đứng lặng trước mặt ông ta. - Ồ, à vâng, đã muộn-Thord nói và ngồi xuống. Cha xứ cũng ngồi xuống ghế, chờ đợi. Tiếp theo là một bầu im lặng kéo dài. Cuối cùng Thord nói: - Con có một chút quà cho những người nghèo. Con muốn nó được coi như là di sản của thằng nhỏ nhà con. Ông ta đứng dậy, đặt gói tiền lên bàn rồi lại ngồi xuống ghế. Cha xứ đếm gói tiền. - Nhiều quá! - Cha xứ nói. - Đó là một nửa giá trị khu vườn. Con vừa bán hôm nay. Cha xứ ngồi yên lặng hồi lâu. Mãi sau ông mới hỏi bằng một giọng trìu mến. - Ông dự định làm gì bây giờ, ông Thord? - Một điều gì đó tốt đẹp hơn. Họ ngồi đó thêm một lúc nữa. Thord cúi mặt, còn cha xứ nhìn ông ta không rời mắt. Sau cùng, cha xứ cất tiếng dịu dàng và chậm rãi: - Tôi nghĩ, cuối cùng cậu con trai đã mang phúc lành thực thụ đến cho ông. - Vâng, chính con cũng nghĩ như vậy - Thord đáp và ngước nhìn lên. Hai giọt nước mắt to tướng từ từ lăn trên hai gò má. Truyện ngắn của Bjornstjerne Bjornson(NOBEL 1903) Mục lục Người cha Người cha Bjornstjerne BjornsonChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.Đánh máy: Sao Bang Nguồn: Báo Quân đội nhân dânĐược bạn: Ct.Ly đưa lên vào ngày: 7 tháng 7 năm 2006
Bjornstjerne Bjornson Father NOBEL 1903 The main character of this story is Thord Orerass, the richest and most powerful man in the parish. One day, he appeared in the priest's room, tall and dignified. - Your wife just gave birth to a son - he said. -I want to baptize him. - What did you name me? - Rinn. According to the name of the father and son. - What about the sponsor? The names of the child's godparents were read and they were indeed the most precious of Thord's friends and relatives around the parish. - Anything else? - The parish priest looked up and asked. The farmer hesitated a bit, and finally, he said: - I want to hold a private baptism ceremony for the boy alone. - But on a normal day? - Next Saturday, at 12 noon. - Anything else? - The priest asked. - That's all, father. The farmer adjusted his hat and was about to leave. Now the priest stood up: - However, there is still one more thing - The priest walked towards Thord, took his hand and looked into his eyes, saying solemnly: - Thank God, the boy could be Blessings to you! Sixteen years later Thord went to see the priest again. - It's strange, the years have no effect on you! - The priest said, because he noticed that Thord had not changed at all. - That's because I don't have anything to worry about - Thord replied. Hearing that, the priest didn't say anything, but a moment later he said: - What's so fun about you tonight? - Tonight I came to bother you about the signing ceremony tomorrow for the boy. - The boy is very bright. - I won't pay until I know the boy's number at church tomorrow. - He will be number one. - So you heard. Here's ten dollars, sir. - Do you need any more help from me? - The priest asked, his eyes still looking at Thord without leaving. - That's all, Father. Thord comes out. Another eight years passed. One day, the priest heard outside the door the noise of a group of people approaching. Thord took the lead, entering first. The priest looked up and immediately recognized him. - You brought a full entourage with you tonight, Mr. Thord, the priest said. - I came to request an announcement about my son's wedding. He is about to marry Miss Karen Storliden, Mr. Gudmund's daughter, who is standing next to me. - That's it? She was the richest girl in the parish. - Everyone says so - The farmer said and raised one hand to push his hair back. The priest sat still for a moment, seemingly thinking hard, then wrote his name in the book without commenting further. Those men signed below. Thord placed three dollars on the table. - I only take one dollar - said the priest. - I know very well, but I only have the boy. Therefore, I want to be generous with its affairs. The priest received the money. - This is the third time you've come about your son, Mr. Thord. - But now I'm almost done taking care of him - Thord said and folded the book in his pocket, said goodbye, and left. The group of people slowly followed. Two weeks later, on a warm and windless day, Thord and his son rowed across the lake to Miss Storliden's house to prepare for the wedding. - This board is not sturdy - The son said and stood up to straighten the chair he was sitting on. At that moment, the board under his feet slipped. He screamed, his hands wavered and fell into the water... - Hold on to the oar - Thord cried out and hurriedly rowed the boat towards his son. Meanwhile, the son turned over, tried to look at his father for a long time and then sank. Thord couldn't immediately believe what had just happened. He held the boat motionless for a long time, his eyes glaring at the place where his son had just disappeared, as if he would definitely resurface. Water toothpicks appear sporadically, one after another, and finally a large bubble emerges and bursts. Then the lake surface became smooth and clear like a mirror. For three consecutive days and nights, people saw Thord rowing his boat across the lake to look for his child's body, without eating or sleeping. It was not until dawn on the third day that he was found. Thord carried the child in his arms, walked over the hill, and returned to the garden. Perhaps a year has passed since that day. One autumn evening, the priest heard someone in the hallway carefully feeling for the door latch. The priest opened the door, and a tall, thin, stooped, gray-haired man walked in. Looking closely for a long time, the priest recognized him. That was Thord. - You're playing so late these days! - The priest said and stood silently in front of him. - Oh, ah yes, it's late - Thord said and sat down. The priest also sat down on the chair and waited. What followed was a long silence. At last Thord said: - I have a little gift for the poor. I want it to be considered my little boy's legacy. He stood up, put the packet of money on the table and sat back in the chair. The priest counted the bundle of money. - Too much! - The priest said. - That's half the value of the garden. I just sold it today. The priest sat quietly for a long time. Only later did he ask in an affectionate voice. - What do you plan to do now, Mr. Thord? - Something better. They sat there for a while longer. Thord looked down, and the priest looked at him without taking his eyes off him. Finally, the priest spoke softly and slowly: - I think, at last, my son has brought true blessing to you. - Yes, I think so myself - Thord replied and looked up. Two big tears slowly rolled down her cheeks. Short stories by Bjornstjerne Bjornson (NOBEL 1903) Table of contents Father Father Bjornstjerne BjornsonWelcome to read the first book from the book project for mobile devices. Source: author: Nguyen Kim Vy. Last words: Thank you for reading the entire story. Source: author: Nguyen Kim Vy. Typing: Sao Bang Source: People's Army Newspaper Uploaded by friend: Ct.Ly on: July 7, 2006
Heinrich Boll Người Chuyên Môn Cười Dịch giả:Tâm Minh Ngô Tằng Giao Heinrich Boll sinh tại Cologne (Đức) vào năm 1917 và mất năm 1985, là một trong những nhà văn hậu chiến rất nổi tiếng của nước Đức. Các tác phẩm của ông gồm "Ansichten eines Clowns" (The Clown), "Billard um halb zehn" (Billiards At Half-Past Nine) và "Gruppenbild mit Dame" (Group Portrait With Lady). Ông nhận giải Nobel về văn chương vào năm 1972. Truyện ngắn sau đây được chuyển ngữ theo bản dịch Anh ngữ của Leila Vennewitz với nhan đề "The Laughter". Vì người ta thường coi tôi là một người đứng đắn đàng hoàng nên khi có ai đó hỏi tôi rằng tôi làm nghề ngỗng gì thì tôi thật là lúng túng: tôi đỏ mặt lên và nói năng lắp bắp ngay. Tôi thấy như ghen với những người mà họ có thể trả lời thoải mái: tôi là thợ hồ. Tôi ghen tức với những người thợ hớt tóc, những anh chàng thư ký kế toán và những anh chàng viết văn vì câu trả lời của họ thật là đơn giản, chính cái nghề của họ đã tự nói lên là họ làm công việc gì rồi mà chẳng cần "dài dòng văn tự" để giải thích gì thêm, trong khi tôi thì bó buộc phải trả lời những câu hỏi trên rằng: "Tôi là một người chuyên môn cười." Khi thú nhận như thế rồi thì lập tức bao giờ tôi cũng phải trả lời thêm một câu hỏi thứ hai: "Thế bạn kiếm sống bằng cách đó à?". Tôi thành thật trả lời: "Đúng vậy!". Tôi hiện tại đúng là đang kiếm sống bằng tiếng cười của tôi đấy, mà kiếm chác ngon lành là đằng khác nữa, vì tiếng cười của tôi - nói theo giọng lưỡi kinh doanh - đang ăn khách trên thị trường. Tôi là một chuyên viên cười, cười xuất sắc, lại kinh nghiệm đầy mình, chẳng có kẻ nào khác có thể cười giỏi như tôi được, chẳng có ai cười mà có thể đạt tới tột đỉnh nghệ thuật như tôi. Có một thời gian dài, để tránh khỏi phải giải thích lòng thòng chán ngấy, tôi đã tự gọi tôi là một diễn viên, nhưng tài nghệ của tôi trong lãnh vực kịch câm và kịch nói thì lại xoàng xĩnh lắm khiến tôi cảm thấy gọi như thế không ổn, xa vời sự thật quá. Tôi yêu sự thật và sự thật là: tôi là một người chuyên môn cười. Tôi chẳng phải là một chú hề, cũng chẳng phải là một diễn viên hài kịch. Tôi không làm cho bà con cô bác khoái chí, vui vẻ, tôi chỉ diễn tả sự vui nhộn thôi: tôi cười như hệt một vị hoàng đế La Mã, hay cười kiểu giống y như một chú học trò nhạy cảm, tôi cười thoải mái giống kiểu cười thế kỷ thứ 17 cũng như thế kỷ thứ 19, và đôi khi vì nhu cầu tôi có thể cười theo bất cứ kiểu cười của thế kỷ nào, bất cứ từng lớp xã hội nào, bất cứ loại tuổi tác nào: đó chỉ thuần là một sự khéo léo mà tôi đã thu thập được, tương tự như sự khéo tay sửa dày, dép vậy. Trong lồng ngực của tôi chất chứa tiếng cười của Mỹ Châu, của Phi Châu, tiếng cười của dân da trắng, da đỏ, da vàng và nếu được trả một khoản tiền tương xứng thì tôi sẽ cười vang vang lên theo đúng với lời yêu cầu đặt hàng của ông giám đốc. Tôi đã trở nên quan trọng rồi. Tôi cười để thâu vào đĩa hát, tôi cười để thâu vào băng, và các ông giám đốc truyền hình đối xử với tôi một cách kính nể. Tôi cười một cách sâu thẳm, ôn hòa hay điên dại. Tôi cười như một ông tài xế lái xe điện hay như một gã phụ việc trong tiệm thực phẩm. Có tiếng cười kiểu bình minh, kiểu hoàng hôn và kiểu đêm tối. Nói tóm tắt lại: người ta cần cười ở bất cứ nơi nào, cười bất cứ kiểu nào, tôi sẽ làm chuyện đó. Thật khó mà vạch ra cho mọi người thấy rằng một cái nghề như thế này thì chán mớ đời, nhất là đối với tôi đó lại là một nghề chuyên môn, tôi đã lên đến tột đỉnh của nghệ thuật gây tiếng cười. Điều này cũng khiến cho tôi trở thành cần thiết để giúp cho các diễn viên hài kịch hạng ba hay hạng tư khi các anh chàng này có lý do chánh đáng sợ rằng khán giả của họ không phá ra cười với những câu pha trò vào lúc chót của câu chuyện. Bởi thế tôi hầu như mỗi đêm phải đến các hộp đêm, các phòng trà ngồi làm cò mồi kín đáo, công việc của tôi là cười vang lên trong những đoạn yếu nhất của chương trình để mọi người nghe thấy mà cười theo. Cần phải "canh me" mà tính toán giờ giấc cẩn thận: tôi phải cười cho thật lớn, thật mạnh, không sớm quá nhưng cũng đừng trễ quá, phải cười đúng lúc, đúng thời điểm đã sắp xếp trước. Tôi phá ra cười, toàn thể các khán giả sẽ rú lên cùng cười theo tôi và như thế cái vụ pha trò, giễu dở của anh chàng diễn viên sẽ được cứu vãn. Nhưng riêng phần tôi, tôi mệt mỏi lê chân ra phòng để áo, mặc áo khoác vào và lòng cảm thấy vui sướng vì cuối cùng dầu gì thì mình cũng vừa hoàn thành xong nhiệm vụ. Ở nhà, tôi thường nhận được những bức điện tín gửi cho tôi: "Khẩn cấp. Cần tiếng cười của anh. Ghi âm thứ ba" và một vài giờ sau là tôi đã chui vào ngồi trong một chuyến xe lửa tốc hành quá nóng nực để mà than vãn cho cái số phận của mình. Tôi cũng cần phải nói thêm rằng những lúc ngoài giờ làm việc hay khi đang đi nghỉ hè thì tôi lại có khuynh hướng cười rất ít: những kẻ chăn bò chỉ vui khi họ quên bò của họ, người thợ nề chỉ vui khi quên đi vôi vữa, và các anh chàng thợ mộc thì thường thường lại có cái cửa ra vào hay những ô kéo bị kẹt, khó mở, những tay làm bánh mứt lại khoái đồ chua, những anh chàng hàng thịt lại ưa bánh hạnh nhân, và người làm bánh thì thích thịt nhồi hơn là bánh, những tay đấu bò thích nuôi chim bồ câu làm thú giải trí, những võ sĩ quyền Anh mặt tái đi khi thấy con cái mình bị chảy máu mũi. Tôi thấy tất cả đều là chuyện bình thường, vì chính tôi chẳng bao giờ cười lúc ngoài giờ làm việc. Tôi là một người nghiêm túc và mọi người coi tôi - có lẽ đúng vậy - là một gã bi quan. Trong những năm đầu của cuộc sống hôn nhân bà vợ tôi thường nói với tôi: "Cười lên chứ!" nhưng rồi kể từ đó bà vợ tôi hiểu ra rằng tôi chẳng thể chiều ý bà ấy được. Tôi cảm thấy sung sướng khi tôi được thoải mái khỏi phải lên gân mặt, được thoải mái tinh thần. Thật vậy, ngay cả lúc người khác cười thì cái cười ấy cũng tác động đến đầu óc của tôi, vì nó gợi cho tôi nhớ đến nghề nghiệp của mình. Chính vì thế mà cuộc hôn nhân của chúng tôi hoàn toàn trầm lặng và an bình, bởi vì bà vợ tôi cũng quên mất cả cười rồi. Thỉnh thoảng tôi chợt bắt gặp vợ tôi mỉm cười và tôi cũng cười mỉm theo. Chúng tôi trò chuyện với nhau bằng một giọng nhỏ nhẹ, bởi vì tôi ghét cay ghét đắng cái tiếng động ồn ào của các hộp đêm, các phòng trà, ghét cái âm thanh đôi khi ầm ĩ vang rền lên khắp cả phòng thu thanh. Những người nào không biết rõ tôi lại nghĩ rằng tôi là kẻ suy tư, ít nói. Có lẽ tôi như vậy đó, bởi vì tôi đã phải há miệng ra để cười quá nhiều rồi. Đời tôi trôi qua với những nét biểu lộ tình cảm trơ lạnh như vậy. Thỉnh thoảng tôi cũng có cười nhẹ nhàng chút đỉnh và tôi thường tự hỏi không biết mình đã từng biết cười bao giờ chưa nhỉ? Tôi nghĩ rằng không. Các anh chị em của tôi lại coi tôi như một đứa rất nghiêm trang. Bởi thế tôi có thể cười đủ các kiểu khác nhau, nhưng chính tôi, tôi không có được một nụ cười nào cho riêng cá nhân mình. ***. Hết Mục lục Người Chuyên Môn Cười Người Chuyên Môn Cười Heinrich BollChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: DactrungĐược bạn: Ct.Ly đưa lên vào ngày: 30 tháng 5 năm 2005
Heinrich Boll Người Chuyên Môn Cười Dịch giả:Tâm Minh Ngô Tằng Giao Heinrich Boll sinh tại Cologne (Đức) vào năm 1917 và mất năm 1985, là một trong những nhà văn hậu chiến rất nổi tiếng của nước Đức. Các tác phẩm của ông gồm "Ansichten eines Clowns" (The Clown), "Billard um halb zehn" (Billiards At Half-Past Nine) và "Gruppenbild mit Dame" (Group Portrait With Lady). Ông nhận giải Nobel về văn chương vào năm 1972. Truyện ngắn sau đây được chuyển ngữ theo bản dịch Anh ngữ của Leila Vennewitz với nhan đề "The Laughter". Vì người ta thường coi tôi là một người đứng đắn đàng hoàng nên khi có ai đó hỏi tôi rằng tôi làm nghề ngỗng gì thì tôi thật là lúng túng: tôi đỏ mặt lên và nói năng lắp bắp ngay. Tôi thấy như ghen với những người mà họ có thể trả lời thoải mái: tôi là thợ hồ. Tôi ghen tức với những người thợ hớt tóc, những anh chàng thư ký kế toán và những anh chàng viết văn vì câu trả lời của họ thật là đơn giản, chính cái nghề của họ đã tự nói lên là họ làm công việc gì rồi mà chẳng cần "dài dòng văn tự" để giải thích gì thêm, trong khi tôi thì bó buộc phải trả lời những câu hỏi trên rằng: "Tôi là một người chuyên môn cười." Khi thú nhận như thế rồi thì lập tức bao giờ tôi cũng phải trả lời thêm một câu hỏi thứ hai: "Thế bạn kiếm sống bằng cách đó à?". Tôi thành thật trả lời: "Đúng vậy!". Tôi hiện tại đúng là đang kiếm sống bằng tiếng cười của tôi đấy, mà kiếm chác ngon lành là đằng khác nữa, vì tiếng cười của tôi - nói theo giọng lưỡi kinh doanh - đang ăn khách trên thị trường. Tôi là một chuyên viên cười, cười xuất sắc, lại kinh nghiệm đầy mình, chẳng có kẻ nào khác có thể cười giỏi như tôi được, chẳng có ai cười mà có thể đạt tới tột đỉnh nghệ thuật như tôi. Có một thời gian dài, để tránh khỏi phải giải thích lòng thòng chán ngấy, tôi đã tự gọi tôi là một diễn viên, nhưng tài nghệ của tôi trong lãnh vực kịch câm và kịch nói thì lại xoàng xĩnh lắm khiến tôi cảm thấy gọi như thế không ổn, xa vời sự thật quá. Tôi yêu sự thật và sự thật là: tôi là một người chuyên môn cười. Tôi chẳng phải là một chú hề, cũng chẳng phải là một diễn viên hài kịch. Tôi không làm cho bà con cô bác khoái chí, vui vẻ, tôi chỉ diễn tả sự vui nhộn thôi: tôi cười như hệt một vị hoàng đế La Mã, hay cười kiểu giống y như một chú học trò nhạy cảm, tôi cười thoải mái giống kiểu cười thế kỷ thứ 17 cũng như thế kỷ thứ 19, và đôi khi vì nhu cầu tôi có thể cười theo bất cứ kiểu cười của thế kỷ nào, bất cứ từng lớp xã hội nào, bất cứ loại tuổi tác nào: đó chỉ thuần là một sự khéo léo mà tôi đã thu thập được, tương tự như sự khéo tay sửa dày, dép vậy. Trong lồng ngực của tôi chất chứa tiếng cười của Mỹ Châu, của Phi Châu, tiếng cười của dân da trắng, da đỏ, da vàng và nếu được trả một khoản tiền tương xứng thì tôi sẽ cười vang vang lên theo đúng với lời yêu cầu đặt hàng của ông giám đốc. Tôi đã trở nên quan trọng rồi. Tôi cười để thâu vào đĩa hát, tôi cười để thâu vào băng, và các ông giám đốc truyền hình đối xử với tôi một cách kính nể. Tôi cười một cách sâu thẳm, ôn hòa hay điên dại. Tôi cười như một ông tài xế lái xe điện hay như một gã phụ việc trong tiệm thực phẩm. Có tiếng cười kiểu bình minh, kiểu hoàng hôn và kiểu đêm tối. Nói tóm tắt lại: người ta cần cười ở bất cứ nơi nào, cười bất cứ kiểu nào, tôi sẽ làm chuyện đó. Thật khó mà vạch ra cho mọi người thấy rằng một cái nghề như thế này thì chán mớ đời, nhất là đối với tôi đó lại là một nghề chuyên môn, tôi đã lên đến tột đỉnh của nghệ thuật gây tiếng cười. Điều này cũng khiến cho tôi trở thành cần thiết để giúp cho các diễn viên hài kịch hạng ba hay hạng tư khi các anh chàng này có lý do chánh đáng sợ rằng khán giả của họ không phá ra cười với những câu pha trò vào lúc chót của câu chuyện. Bởi thế tôi hầu như mỗi đêm phải đến các hộp đêm, các phòng trà ngồi làm cò mồi kín đáo, công việc của tôi là cười vang lên trong những đoạn yếu nhất của chương trình để mọi người nghe thấy mà cười theo. Cần phải "canh me" mà tính toán giờ giấc cẩn thận: tôi phải cười cho thật lớn, thật mạnh, không sớm quá nhưng cũng đừng trễ quá, phải cười đúng lúc, đúng thời điểm đã sắp xếp trước. Tôi phá ra cười, toàn thể các khán giả sẽ rú lên cùng cười theo tôi và như thế cái vụ pha trò, giễu dở của anh chàng diễn viên sẽ được cứu vãn. Nhưng riêng phần tôi, tôi mệt mỏi lê chân ra phòng để áo, mặc áo khoác vào và lòng cảm thấy vui sướng vì cuối cùng dầu gì thì mình cũng vừa hoàn thành xong nhiệm vụ. Ở nhà, tôi thường nhận được những bức điện tín gửi cho tôi: "Khẩn cấp. Cần tiếng cười của anh. Ghi âm thứ ba" và một vài giờ sau là tôi đã chui vào ngồi trong một chuyến xe lửa tốc hành quá nóng nực để mà than vãn cho cái số phận của mình. Tôi cũng cần phải nói thêm rằng những lúc ngoài giờ làm việc hay khi đang đi nghỉ hè thì tôi lại có khuynh hướng cười rất ít: những kẻ chăn bò chỉ vui khi họ quên bò của họ, người thợ nề chỉ vui khi quên đi vôi vữa, và các anh chàng thợ mộc thì thường thường lại có cái cửa ra vào hay những ô kéo bị kẹt, khó mở, những tay làm bánh mứt lại khoái đồ chua, những anh chàng hàng thịt lại ưa bánh hạnh nhân, và người làm bánh thì thích thịt nhồi hơn là bánh, những tay đấu bò thích nuôi chim bồ câu làm thú giải trí, những võ sĩ quyền Anh mặt tái đi khi thấy con cái mình bị chảy máu mũi. Tôi thấy tất cả đều là chuyện bình thường, vì chính tôi chẳng bao giờ cười lúc ngoài giờ làm việc. Tôi là một người nghiêm túc và mọi người coi tôi - có lẽ đúng vậy - là một gã bi quan. Trong những năm đầu của cuộc sống hôn nhân bà vợ tôi thường nói với tôi: "Cười lên chứ!" nhưng rồi kể từ đó bà vợ tôi hiểu ra rằng tôi chẳng thể chiều ý bà ấy được. Tôi cảm thấy sung sướng khi tôi được thoải mái khỏi phải lên gân mặt, được thoải mái tinh thần. Thật vậy, ngay cả lúc người khác cười thì cái cười ấy cũng tác động đến đầu óc của tôi, vì nó gợi cho tôi nhớ đến nghề nghiệp của mình. Chính vì thế mà cuộc hôn nhân của chúng tôi hoàn toàn trầm lặng và an bình, bởi vì bà vợ tôi cũng quên mất cả cười rồi. Thỉnh thoảng tôi chợt bắt gặp vợ tôi mỉm cười và tôi cũng cười mỉm theo. Chúng tôi trò chuyện với nhau bằng một giọng nhỏ nhẹ, bởi vì tôi ghét cay ghét đắng cái tiếng động ồn ào của các hộp đêm, các phòng trà, ghét cái âm thanh đôi khi ầm ĩ vang rền lên khắp cả phòng thu thanh. Những người nào không biết rõ tôi lại nghĩ rằng tôi là kẻ suy tư, ít nói. Có lẽ tôi như vậy đó, bởi vì tôi đã phải há miệng ra để cười quá nhiều rồi. Đời tôi trôi qua với những nét biểu lộ tình cảm trơ lạnh như vậy. Thỉnh thoảng tôi cũng có cười nhẹ nhàng chút đỉnh và tôi thường tự hỏi không biết mình đã từng biết cười bao giờ chưa nhỉ? Tôi nghĩ rằng không. Các anh chị em của tôi lại coi tôi như một đứa rất nghiêm trang. Bởi thế tôi có thể cười đủ các kiểu khác nhau, nhưng chính tôi, tôi không có được một nụ cười nào cho riêng cá nhân mình. ***. Hết Mục lục Người Chuyên Môn Cười Người Chuyên Môn Cười Heinrich BollChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: DactrungĐược bạn: Ct.Ly đưa lên vào ngày: 30 tháng 5 năm 2005
Bùi Ngọc Tấn Người Chăn Kiến Cái tay B trưởng* ấy hoặc đã chán mọi chuyện đánh đấm, hoặc có máu hài hước. ông M vừa bị vài cú khai vị tưởng rụng quai hàm thì hắn hét bọn đàn em vây quanh ông đang nổi cơn say đấm đá:- Thôi.Hắn bước tới gần ông. Nhìn. Ngắm:- Trắng.- ...- Làm nghề gì?Ông nuốt một bụm máu, nửa cái răng gẫy vào bụng và biết nên nói thật:- Giám đốc.B trưởng reo lên:- Thảo nào. Trắng như con gái.Rồi thật bất ngờ:- Cho làm nữ thần Tự Do.- ...- Tượng nữ thần Tự Do ở bờ biển Nữu Ước. Làm giám đốc mà không biết à?Ông thoát khỏi trận đòn nhập B mà chưa ai lường hết được sự ghê gớm và hậu quả của nó. Thay vào đó ông phải khoả thân leo lên bậc thang cao nhất, giáp cửa song sắt ngăn với sân xê rom **, cái sân thượng chỉ về đêm mới có lính gác. Tay ông giơ lên cao khi gói kẹo, khi quả dưa chuột ố những đồ tiếp tế của anh em tù -- để làm nữ thần Tự Do. Trần truồng trước hàng trăm con mắt, thật nhục nhã, quá sức chịu đựng đối với một người từng làm giám đốc lại đã đứng tuổi như ông. ở trên ấy ông thèm được như ông già chủ nhiệm hợp tác xã dưới kia, chỉ phải bế bọc nội vụ đi quanh, hát ru em bài Bé bé bằng bông.Ðúng là tay B trưởng này có máu đại hài hước. Trời nóng, hắn ngồi phè phẹt giữa sàn, hét:- Hitachi!Gần hai chục người lập tức vây quanh hắn.- Quạt.Tất cả quạt. Bằng tay. Nhưng mát, bay cả tóc. Hắn lại hét:-Panasonic.Những người trong đội Panasonic sẵn sàng.- Quạt.Lại còn thêm:-Tuốc năng.Cái vòng người Panasonic vừa quạt vừa chạy quanh hắn giống đèn kéo quân bỗng đồng loạt đổi chiều như cùng một bánh xe truyền lực.Cô đơn khoả thân trên cao, cái nóng từ máy chàm vào người như nướng, ông M ao ước được ở trong đội quạt, nhưng ông không dám nói với ai. Ngoài những lúc đi cung hoặc học tập chính sách cải tạo, giờ chính quyền còn lại ông ngoan ngoãn đứng làm nữ thần Tự Do. Cho đến một ngày... Hôm ấy đi làm vệ sinh về, tay B trưởng bắt ra 4 con kiến đỏ bé xíu đựng trong cái vỏ bao thuốc lá. Hắn cầm mẩu gạch non khoanh 4 vòng tròn xuống nền xi măng. 12 anh tù được hắn chỉ định chia thành 3 ca chăn 4 con kiến nhỏ. Ông M không ngờ mình lại mê chăn kiến đến như thế. Công việc kì dị ngày càng hấp dẫn ông. Nó làm ông khao khát đến bồn chồn. Cho dù đó là khổ ải. Phải giữ kiến luôn ở trong vòng tròn. Trong ấy có bánh bích qui, có đường, có thịt, kiến ăn nhưng không chịu ngủ, kiến vẫn bò tìm tổ. Phải luôn tay chặn kiến lại và không được làm sứt một cái chân của kiến. Chính những điều ấy khiến ông thèm khát. Nó sẽ giúp ông quên thời gian, quên những thiên thu tại ngoại. Hơn nữa ông quá chán trò cởi truồng đứng trước mặt mọi người.Thế là một hôm ông gặp B trưởng, chìa ra một con kiến ông vừa bắt được trong khi đi làm vệ sinh và rụt rè, ấp úng xin được chăn... B trưởng cố kìm cơn giận. Hắn miết chết con kiến và quắc mắt, hất hàm về phía sân xê rom.Ông hiểu. Ông lại khoả thân bước lên. Nhưng ông không được làm thần Tự Do nữa. Ông biến thành con chim. Con chim nhỏ trên cành cây cao. B trưởng đứng dưới, giả cầm súng lom khom, chui lủi, rình ngắm:- Ðoàng.Ông phải rơi từ sát mái nhà xuống. B trưởng không bằng lòng với cách rơi giả vờ, rơi có chuẩn bị, rơi chân xuống trước ấy. Phải rơi như thật. Như bị bắn rụng thật. Hiểu chửa. Làm lại."Thật quá rùng rợn. Cầu mong đừng gẫy cổ, vỡ mặt, mù mắt, gẫy tay là được. Cố vượt qua. Ðể còn ra".Ông M đã được ra. Ông được ra sau bốn tháng giam cứu. Ông được ra bởi ông không có tội. Những người gây ra vụ án oan ức của ông đã bị kỉ luật.Người ta đã khôi phục lại cho ông tất cả. Ông lại làm giám đốc nhưng ở một xí nghiệp tận trong Nam, để ông có thể quên được những gì vừa trải qua. Ông cám ơn cấp trên về điều tế nhị ấy.Cũng như mọi xí nghiệp, giờ nghỉ trưa ở đây nhiều vẻ... Uống bia. Ðánh cờ tướng. Tiến lên. Làm vài séc bóng bàn. Chuyện gẫu...Giám đốc mới không tham dự. Ăn trưa xong ông về phòng. Các vị chức sắc cũng muốn kéo ông vào cuộc vui nhưng trả lời tiếng gõ cửa là sự im lặng.Họ bảo nhau:- Thôi. Ðể sếp ngủ.Chẳng một ai biết sau khi gài trái cửa, giám đốc rút ngăn kéo lấy ra một lọ nhỏ, trong đựng 4 con kiến. Ông thả lũ kiến vào một vòng tròn bằng phấn vẽ trên bàn. Ông bẻ bánh cho chúng ăn và lấy những các-vi-dít (Có rất nhiều trong ngăn kéo ố của khách và của ông) chặn chúng lại. Thỉnh thoảng ông còn đặt cả ghế lên bàn làm việc. Và khoả thân trên ghế. Ðứng thẳng. Mắt hướng về phía xa. Tay giơ cao. Như kiểu thần Tự Do.23.6.1993Bùi Ngọc Tấn(từ tập truyện ngắn: Những người rách việc, Nhà xuất bản Hà nội, 1996) B: buồng xà lim. B trưởng: trưởng buồng, do ban giám đốc nhà tù chỉ định trong số tù nhân, thường là một tay anh chị. Mục lục Người Chăn Kiến Người Chăn Kiến Bùi Ngọc TấnChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: ThanhĐược bạn: Thành Viên VNthuquan đưa lên vào ngày: 27 tháng 12 năm 2003
Bui Ngoc Tan Ant Shepherd That B major* guy was either tired of all the fighting, or had a sense of humor. Mr. M had just received a few blows to the point that he thought his jaw would fall off when he shouted at the juniors surrounding him who were furiously punching and kicking: - Stop it. He walked up to him. Look. Look at:- White.- ...- What do you do? He swallowed a mouthful of blood, half of his tooth broke in his stomach and knew he should tell the truth:- Director.B chief exclaimed:- No wonder. White as a girl. Then suddenly: - Made her the Statue of Liberty.- ...- Statue of Liberty on the coast of New York. You're a director and don't know that? You escaped the beating of Type B without anyone fully realizing its horror and consequences. Instead, he had to climb naked to the top step, adjacent to the iron bar door separating the xerom ** terrace, a terrace that only had guards at night. His hand was raised high as he wrapped candy, as the cucumber stained the prisoners' supplies -- to represent the Statue of Liberty. Being naked in front of hundreds of eyes was humiliating, too much for a man who used to be a director and was old like him to bear. Up there, he longed to be like the old man in charge of the cooperative down there, only having to carry around the housekeeping bag and sing lullabies to his baby, Little Cotton Baby. It's true that this B leader has a great sense of humor. It was hot, he sat down in the middle of the floor, shouting: - Hitachi! Nearly twenty people immediately surrounded him. - Fans. All fans. By hand. But it's cool and my hair flies away. He shouted again:-Panasonic.Panasonic team members are ready.-Fan.Also added:-Speed ​​energy.Panasonic's body circle was fanning and running around him like a marching light and suddenly changed direction at the same time like the same wheel. power transmission. Lonely and naked at high altitude, the heat from the indigo machine was like baking on his body. Mr. M wished to be in the fan team, but he did not dare to tell anyone. Besides the times when he goes to the palace or studies re-education policies, now he obediently stands as the Goddess of Liberty in the government. Until one day... That day, coming home from cleaning, Chief B caught 4 tiny red ants in a cigarette pack. He held a piece of brick and circled it four times on the cement floor. The 12 inmates were assigned by him to be divided into 3 shifts to take care of 4 small ants. Mr. M did not expect that he would be so passionate about herding ants. The strange job increasingly attracted him. It made him yearn to the point of restlessness. Even if it is suffering. Ants must always be kept in the circle. There were biscuits, sugar, and meat in there. The ants ate them but refused to sleep. The ants still crawled to find their nest. Always use your hands to block the ants and do not damage an ant's leg. It was those things that made him crave. It will help you forget time, forget the days of being on bail. Moreover, he was so tired of standing naked in front of everyone. So one day he met B leader, showed an ant he had just caught while doing the cleaning and timidly, hesitantly asked for a blanket... B major tried to control his anger. He rubbed the ant to death and scowled, nodding toward the xerom yard. He understood. He walked up naked again. But he can no longer be the God of Liberty. He turned into a bird. Little bird on a high branch. Chief B stood below, pretending to hold a gun, crouching, hiding, and watching: - Dong. You must have fallen from the roof. B major is not satisfied with that way of pretending, falling with preparation, falling feet first. Must fall like real. Like it was really shot down. I understand. Do it again. "It's too scary. Please don't break your neck, face, blind eyes, or broken arms. Just try to get over it. Just to get out." Mr. M was released. He was released after four months of detention. He was released because he was not guilty. The people who caused his unjust case were disciplined. They restored everything to him. He became a director again, but at a factory in the South, so he could forget what he had just experienced. He thanked his superiors for that delicacy. Like every factory, lunch break here is full of... Drinking beer. Play chess. Go ahead. Do some ping pong checks. Gossip...The new director did not attend. After lunch, he returned to his room. The dignitaries also wanted to drag him into the fun, but the answer to the knock on the door was silence. They said to each other: - Okay. Let the boss sleep. No one knew that after locking the door, the director pulled out a drawer and took out a small bottle containing 4 ants. He released the ants into a circle drawn with chalk on the table. He broke bread for them to eat and used carbids (there were many in his and his guests' stained drawers) to stop them. Sometimes he even puts a chair on the desk. And naked on the chair. Stand straight. Eyes facing away. Hands raised high. Like the god of Liberty. June 23, 1993 Bui Ngoc Tan (from the collection of short stories: People with broken jobs, Hanoi Publishing House, 1996) B: cell room. B chief: cell head, appointed by the prison board of directors from among the prisoners, usually a senior. Table of contents Ant Shepherd Ant Shepherd Bui Ngoc TanWelcome to read the first books from the book project for mobile devices. Source: author: Nguyen Kim Vy. Final words: Thank you for reading the entire story. Source: editor: Nguyen Kim Vy. Source: Thanh Uploaded by friend: Member VNthuquan on: December 27, 2003
Lăng Vân Người chồng không thành thực Đường là người đàn ông thành thực. Cầm Hỉ Hoan cũng là một người phụ nữ thành thực. Họ yêu nhau và rồi trở thành vợ chồng. Sau khi cưới, Đường vẫn thành thực như cũ, không có gì thay đổi nhưng Cầm Hỉ Hoan cảm thấy sự thành thực của Đường có cái gì quá cứng nhắc, khô khan không làm cho người khác ưa thích. Đường đi Quảng Châu công tác, Cầm Hỉ Hoan tiện thể nhờ anh mua cho một hộp kem dưỡng da... loại mới sản xuất nhưng Đường quên mất. Sau khi về nhà, Đường mới nghĩ ra, anh nói: - Xin lỗi em, anh quên mất điều em dặn. Cầm Hỉ Hoan nhẹ nhàng lắc đầu rồi cốc cốc vào đầu chồng nói: - Tôi thật là ngốc, không biết anh là người không biết nói dối, thử hỏi thế thì tôi có vui được không? Anh có thể trả lời rằng anh đã vào cửa hàng tìm mua nhưng loại kem dưỡng da em dặn thì không có hoặc anh có thể nói là anh vội ra cho kịp xe lửa nên không kịp vào cửa hàng. Đường tròn xoe mắt hỏi: - Anh làm sao mà có thể nói dối em được nhỉ? Cầm Hỉ Hoan nhìn Đường và nhận ra rằng anh ta là như thế. Chị không còn biết mình nên khóc hay nên cười. Lại một lần nữa, đang xem ti vi, đến tiết mục của một ca sĩ siêu sao rất đẹp, Cầm Hỉ Hoan liền hỏi Đường: - Em và cô ta ai đẹp hơn? Đường trả lời: - Cô ta thật đẹp. Cầm Hỉ Hoan thấy mình không còn cách nào bèn giận dỗi lấy tấm lịch treo trên tường xuống và dán khuôn mặt của cô ca sĩ siêu sao nào đó lại. Cầm Hỉ Hoan nổi cáu và suốt cả ngày cô không nói gì với Đường. Đối với vợ là như thế còn đối với người ngoài, Đường cũng là một người nói thật như đếm. Hồi ấy, cục trưởng Đỗ bị ốm, Đường có mua một ít quà đến thăm anh ấy. Vừa bước ra cửa thì gặp ngay Thôi phó cục trưởng. Thôi phó cục trưởng hỏi: - Đi đâu đấy, Đường? Đường nói: - Đỗ cục trưởng bị ốm, tôi đi thăm anh ấy. Thôi phó cục trưởng chỉ gật đầu rồi bước đi. Sau sự việc đó, Cầm Hỉ Hoan rất giận Đường. Cô nói: - Sao anh lại nói là đi thăm cục trưởng Đỗ? Anh cứ nói là đi thăm người thân có được không? Đường nói: - Tại sao tôi lại phải nói dối? Cầm Hỉ Hoan nói: - Anh đúng là người khó đào tạo, có thế mà cũng không nghĩ ra. Ông Thôi tương lai sẽ lên làm cục trưởng. Anh nói thế khiến ông Thôi cho anh là vây cánh của cục trưởng Đỗ. Trong khi đó, ông Thôi và ông Đỗ ý kiến lại đang bất đồng với nhau. Sau đó một thời gian, cục trưởng Đỗ về hưu, Thôi phó cục trưởng lên thay cục trưởng. Thôi cục trưởng sắp xếp lại bộ máy cấp dưới của mình và Đường bị ông gạt ra ngoài. Đường đau khổ nói: - Khổ thật, thành thực cũng là sai à? Cầm Hỉ Hoan nói: - Thành thực không phải là sai nhưng thành thực khiến cho anh và vợ con anh mất miếng ăn. Không lâu, bề trên tuyển một số nhân viên cơ quan đi giúp đỡ một vùng quê đang gặp khó khăn. Lãnh đạo nói đơn vị chúng ta đã có nhiều thành tích và sắp được trao cờ luân lưu của Bộ. Lần này mà chúng ta lập thành tích tốt thì cờ thưởng luân lưu chắc chắn sẽ về tay ta. Đường chủ động xin đi xuống nông thôn để cùng với bà con nông dân trong thời gian một năm. Anh được mọi người yêu mến, đồng tình giúp đỡ, thành tích của Đường rất xuất sắc. Nhưng khi làm báo cáo thành tích lên cấp trên khen thưởng, anh có thể nào lại cứ sự thực nói như thế. Trong khi đó có người khi khai báo cáo thành tích của mình thì lại thêm dấm thêm mắm vào nên thành tích đọc lên rất kêu. Cấp trên chỉ căn cứ vào bản tự thuật thành tích của mỗi người mà khen thưởng, nâng lương. Vì vậy, mọi người đều được toại nguyện, trừ Đường. Đường vẫn chỉ là anh tốt đen, thành tích mờ nhạt so với mọi người. Cầm Hỉ Hoan nói: - Sao anh không khai khống lên? Đường nhìn vợ, bỗng nhiên nước mắt chảy ra, nói: - Thành thực quả là không có ăn. Cầm Hỉ Hoan nhìn anh cười nói: - Cảm ơn trời đất, anh đã nhận ra vấn đề rồi đấy. Đường bắt đầu học tập thói không thành thực. Mới đầu còn thấy ngượng nghịu. Cầm Hỉ Hoan cầm tay anh nói: - Khi nói khoác, nhất thiết không được lúng túng mà phải tỏ ra điều đó là có thật, không được cắn rứt, ăn năn gì cả, dần dần sẽ quen đi. Người ta, ai cũng thế cả. Đường tiến bộ rất nhanh. Có hai điểm chứng minh Đường tiến bộ là: thứ nhất, chức của anh cứ vùn vụt thăng tiến: từ phó trưởng khoa lên trưởng khoa rồi lên trợ lý cục trưởng. Thứ hai, anh rất biết nói những lời mà các cô gái ưa thích. Một lần, Cầm Hỉ Hoan hỏi anh: - Em so với cô ca sĩ siêu sao trên ti vi, ai đẹp hơn? Đường thản nhiên nói: - Em và cô ấy không giống nhau, cô ấy diêm dúa loè loẹt nhưng thô tục, còn em trắng trẻo và có cái đẹp đứng đắn. Cầm Hỉ Hoan biết anh ta đã biết nói khoác, tán dương người khác. Cô biết vậy và thấy anh đã học được lối sống đó, cô rất mừng. Sau khi Đường được cử làm trợ lý cục trưởng, anh thường phải đi họp. Hôm nay, anh lại đi làm về muộn. Cầm Hỉ Hoan cảm thấy hình như có cái gì đó không ổn. Lần nào anh về muộn cũng sặc sụa mùi rượu và mùi thuốc lá. Cầm Hỉ Hoan còn thấy ở anh có mùi nước hoa rất lạ. Cô hỏi: - Anh đã cùng cô gái đẹp nào khiêu vũ có phải không? Đường trả lời dứt khoát: - Không. Cô nhìn thẳng vào mặt chồng và nói: - Không khiêu vũ sao lại có mùi nước hoa của vũ trường? Đường thủng thẳng nói: - À, sự việc là như thế này, chiều hôm nay, trong cục có họp. Giờ giải lao, một chị sang cửa hàng bên kia mua một lọ nước hoa có cái tên rất kêu là \"giấc mộng Pari\". Mọi người chuyền tay nhau xem. Khi chuyền đến chỗ anh ngồi thì có một anh mở nút dốc ra vài giọt xoa vào tay chẳng may bị tuột tay, lọ nước hoa rơi xuống nền nhà vỡ tan và bắn lên quần của anh. Cầm Hỉ Hoan nhìn Đường, cô không truy bức gì thêm và không nói gì nữa. Nửa đêm, Cầm Hỉ Hoan bỗng tỉnh giấc. Cô bật đèn, lần trong túi quần, áo của anh thì thấy mùi nước hoa phần trước ngực xông lên ngàn ngạt, càng sát gần mũi càng ngạt thở nhưng khi xuống đến tận quần thì không còn thấy mùi nước hoa nữa. Cô nghĩ: nếu quả là lọ nước hoa bị rơi xuống đất vỡ tan thì nước hoa chỉ có thể bắn nhiều lên ống quần chứ làm sao mà bắn lên tận ngực áo mà ống quần lại không có? Cô vô cùng đau khổ nghĩ: à, thì ra anh học được lối sống nói dối lại là để nói dối ngay cả với mình. Cầm Hỉ Hoan nhìn chồng đang nằm ngủ say, bỗng nhiên cô cảm thấy Đường như là một người xa lạ. Lăng Vân (Trung Quốc) Mục lục Người chồng không thành thực Người chồng không thành thực Lăng VânChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: hanoicornerĐược bạn: Thành Viên VNthuquan đưa lên vào ngày: 27 tháng 12 năm 2003
Lang Van The husband is not honest Duong is an honest man. Cam Hi Hoan is also an honest woman. They fell in love and then became husband and wife. After getting married, Duong remained as honest as before, nothing changed, but Cam Hi Hoan felt that Duong's honesty was too stiff and dry to please others. On the way to Guangzhou for work, Cam Hi Hoan conveniently asked him to buy a box of skin cream... the newly produced one, but Duong forgot. After returning home, Duong thought of it and said: - Sorry, I forgot what you told me. Cam Hi Hoan gently shook her head, then smacked her husband's head and said: - I'm so stupid, I didn't know you were someone who doesn't know how to lie, so can I be happy? You can answer that you went to the store to buy it but the lotion you told me didn't have it or you can say that you were in a hurry to catch the train so you didn't have time to get into the store. Duong rolled his eyes and asked: - How could you lie to me? Cam Hi Hoan looked at Duong and realized that he was like that. She no longer knows whether she should cry or laugh. Once again, while watching TV, when a performance by a very beautiful superstar singer came, Cam Hi Hoan immediately asked Duong: - Who is more beautiful, you or her? Duong replied: - She is so beautiful. Cam Hi Hoan saw that he had no choice, so he angrily took down the calendar hanging on the wall and pasted the face of a certain superstar singer. Cam Hi Hoan got angry and didn't say anything to Duong all day. To his wife, he is like that, but to outsiders, Duong is also a person who tells the truth. At that time, Chief Do was sick, Duong bought some gifts to visit him. As soon as I walked out the door, I immediately met Deputy Director Thoi. Deputy Director Cui asked: - Where are you going, Duong? Duong said: - Director Do is sick, I'm going to visit him. Well, the deputy director just nodded and walked away. After that incident, Cam Hi Hoan was very angry with Duong. She said: - Why did you say you were going to visit Director Do? Can you just say it's okay to visit relatives? Duong said: - Why should I lie? Cam Hi Hoan said: - You are truly a difficult person to train, I can't think of anything like that. Mr. Thoi will in the future become director of the department. What he said made Mr. Thoi think he was a wingman of Director Do. Meanwhile, Mr. Thoi and Mr. Do are disagreeing in their opinions. Some time later, Director Do retired and Deputy Director Cui took over to replace the director. Director Cui reorganized his subordinates and Duong was pushed out by him. Duong said miserably: - How miserable, is being honest also wrong? Cam Hi Hoan said: - Being honest is not wrong, but being honest makes you and your wife and children lose food. Not long after, the superior recruited some agency employees to help a rural area in trouble. The leader said that our unit has had many achievements and is about to be awarded the Ministry's rotating flag. This time, if we make a good record, the penalty shootout will definitely come to us. Duong proactively asked to go to the countryside to be with the farmers for a year. He was loved and supported by everyone. Duong's achievements were excellent. But when reporting your achievements to your superiors for reward, how can you just tell the truth? Meanwhile, when reporting their achievements, some people add vinegar and fish sauce, so their achievements read loudly. Superiors only reward and raise salaries based on each person's self-reported achievements. Therefore, everyone was satisfied, except Duong. Duong is still just a pawn, with lackluster achievements compared to everyone else. Cam Hi Hoan said: - Why don't you make a false statement? Duong looked at his wife, tears suddenly flowed from his eyes, and said: - Honestly, I really don't have anything to eat. Cam Hi Hoan looked at him and smiled and said: - Thank goodness, you have realized the problem. Duong began to learn the habit of dishonesty. At first I felt awkward. Cam Hi Hoan held his hand and said: - When bragging, you must not be embarrassed but must show that it is true, do not regret or repent at all, gradually you will get used to it. People, everyone is like that. Progress is very fast. There are two points that prove the Path of Progress: first, his position kept rapidly advancing: from deputy dean to dean and then to assistant director. Second, he knows how to say the words that girls like. One time, Cam Hi Hoan asked him: - Compared to the superstar singer on TV, who is more beautiful? Duong calmly said: - She and I are not the same, she is flashy but vulgar, while I am white and have a decent beauty. Cam Hi Hoan knew he knew how to brag and praise others. She knew that and seeing that he had learned that way of life, she was very happy. After Duong was appointed assistant director, he often had to go to meetings. Today, he came home late from work again. Cam Hi Hoan felt like something was wrong. Every time he came home late, he smelled of alcohol and cigarettes. Cam Hi Hoan also noticed that he had a very strange perfume smell. She asked: - Did you dance with any beautiful girl? Duong answered decisively: - Không. She looked straight into her husband's face and said: - If you don't dance, why do you smell like disco perfume? Duong said bluntly: - Well, the situation is like this, this afternoon, there was a meeting in the department. During break time, a woman went to the other store to buy a bottle of perfume with the very famous name "Paris dream". Everyone passed it around to see. When passing it to his seat, one of the men uncorked it, poured out a few drops and rubbed it on his hand. Unfortunately, it slipped from his hand, causing the perfume bottle to fall to the floor, shatter and splash onto his pants. Cam Hi Hoan looked at Duong, she did not pursue him any further and said nothing more. In the middle of the night, Cam Hi Hoan suddenly woke up. She turned on the light, searched through the pockets of his pants and shirt, and saw the scent of perfume on the front of his chest, suffocating. The closer it got to his nose, the more suffocating he got, but when it got down to his pants, he could no longer smell the perfume. She thought: if it was true that the perfume bottle fell to the ground and broke, then the perfume could only splash a lot on the pants leg, but how could it splash all the way to the chest of the shirt without the pant leg? She was extremely miserable and thought: Ah, so he learned to live a life of lying in order to lie even to me. Cam Hi Hoan looked at her husband sleeping soundly, suddenly she felt like Duong was a stranger. Lang Van (China) Table of contents The husband is not honest The husband is not honest Lang VanWelcome to read books from the book project for mobile devices. Source: author: Nguyen Kim Vy. Final words: Thank you for reading the entire story. Source: editor: Nguyen Kim Vy. Source: hanoicorner Posted by: Member VNthuquan on: December 27, 2003
Nguyễn Thụy Tú Uyên Người chồng tương lai Mẹ có chỉ một thằng con. Thằng vừa ngoan, vừa giỏi, vừa đẹp trai, vừa có nhiều tài vặt, vừa được mọi người yêu thương. Nói chung những cái tốt đẹp ở trên đời thằng con của mẹ đều có. Thế nên mẹ rất tự hào về nó. Vì thế đứa con gái mà nó yêu thương phải được như nó, tức là, phải vừa ngoan, vừa xinh, vừa hiền, vừa giỏi… Thằng con của mẹ quen và tìm hiểu cũng khá nhiều cô, cô này hay cô kia mẹ cũng chưa bao giờ hài lòng lắm. Đến độ, một chiều, khi trời mưa ầm ĩ ngoài phố, thằng con tâm sự với thằng bạn rằng, tao có dẫn một đứa hoàn hảo về thì mẹ tao cũng chưa chắc chịu. Thằng bạn ra vẻ biết điều và hiểu chuyện, các cụ chỉ lo cho mày thôi, chỉ muốn điều tốt đẹp nhất cho mày thôi. Thằng con gật gù, tao biết, nhưng hai thế giới khác nhau, cách nhìn nhận vấn đề đôi khi khác nhau, không phải cứ lấy một người xinh, ngoan về là hạnh phúc, quan trọng nhất là sự hòa hợp giữa hai tâm hồn.Thằng bạn lại gật gù tỏ ra biết chuyện lần nữa, vậy thì kiếm một cô vừa xinh vừa ngoan vừa hiền lại vừa hòa hợp với tâm hồn của mày, vậy là hoàn hảo cho đôi bên.Thằng con nghe cũng có lý, và bắt đầu công cuộc tìm kiếm khó khăn này. 35 tuổi, thằng con vẫn còn độc thân, độc thân không có nghĩa là không có bạn gái. Độc thân vì không nghĩ đến chuyện cưới xin, vì lý do này hay lý do khác thì những cuộc tình có khi kéo dài hơn có khi ngắn hơn, có khi nồng nàn hơn có khi nhạt nhẽo hơn.Sau những cuộc tìm kiếm có vẻ là “vô vọng” đó, một ngày nắng chói chang, thằng con gặp một cô gái. Cô ta bình thường, được xếp vào hạng trung bình về nhan sắc lẫn học vấn. Không có gì để lại ấn tượng vào lúc ban đầu.Sau hai lần gọi là “hẹn hò cho vui”, thì thằng con bỗng phát hiện rằng, cô ta khác với vẻ bề ngoài “ngơ ngác và trung bình” mà mọi người dễ lầm tưởng.Những cái email bỗng dưng trở nên thú vị và đằm thắm hẳn lên.Lần thứ ba, cô gái hẹn gặp ở một quán khá lãng mạn, trời hôm ấy mưa rất to. Thằng con cầm dù đến nơi hẹn, lòng đầy thắc mắc, bởi trước khi hẹn, cô gái nói khá rõ ràng và ngắn gọn: em có chuyện muốn nói.Thằng con hơi tò mò, bởi gặp nhau chỉ được hai lần, có chuyện gì để nói. Yêu đương ư, chưa đến lúc để yêu đương. Chia tay ư, có yêu đương đâu mà chia tay.Quán cà phê được trang trí khá cầu kì (hơi sến một chút nhưng chấp nhận được). Cô gái ngồi không biểu hiện cảm xúc gì, kể một vèo quá khứ của mình và quyết định: mình chỉ nên là bạn thôi, thế cho đỡ rắc rối sự đời. Thằng con ngỡ ngàng, chuyện này thì lạ thật. Lạ không phải bởi quá khứ mà cô gái kể, lạ vì cái quyết định chóng vánh và thẳng thắn đến rợn người. Bởi những chuyện quá khứ thằng con nghe nhiều rồi, gặp nhiều rồi, nhưng cô gái nào cũng giống cô gái nào, tức là, họ đều đợi sự việc đã muộn màng rồi thì mới bắt đầu kể sự thật, để hy vọng (hay mơ hồ hy vọng) rằng, khi con cá vào xọ rồi thì khó mà thoát ra.Nhưng lần này thì ngược lại, người ta không đưa cá vào xọ mà cũng chẳng muốn đưa con cá nào vào xọ. Người ta chỉ cần sự bình yên.Thằng con rõ ràng là ngỡ ngàng, ngỡ ngàng và không tin là, có một kẻ ở trên đời thẳng tính giống mình đến thế, có một kẻ bất cần đời đến thế mà cũng rất dịu dàng và lãng mạn.Chiều ấy mưa rất to và dai dẳng. Người ta sợ phải ra đường dưới trời mưa bão thế này. Thế nên, hai người ngồi im lặng trong quán. Tiến hay lùi cho một quan hệ chưa kịp chớm nở. Thằng con không biết. Đi qua quá nhiều cuộc tình đôi khi làm người ta sợ hãi cho cái quyết định tiến hay lùi.Thằng con chờ đợi rằng, cô gái sẽ nói vài câu nào đó, đại khái để ngụy biện, để chèo kéo, để tỏ ra lưu luyến. Tiếc là, cô gái ra về trong im lặng, không hứa hẹn, không hy vọng. Và điều đó làm thằng con không dứt ra được bởi cái gọi là “cảm xúc”.Cuộc đấu tranh bắt đầu, một cuộc đấu tranh quen thuộc của những việc liên quan đến yêu đương: cuộc đấu tranh giữa “cảm xúc” và “lý trí”.Rõ ràng, yêu đương là một vấn đề phức tạp. Nó phức tạp hơn hẳn khi con người không chỉ sống cho mình, mà còn có xã hội, cộng đồng, văn hóa và tập quán.Cuối cùng, khi hai con người cảm thấy cô đơn, cảm thấy bên kia có thể lấp đầy khoảng trống mà chẳng ai lấp được, thì cảm xúc bao giờ cũng thắng lý trí.Đó là một ngày mùa thu, lá vàng rơi đầy lối vào nhà. Thằng con quyết định không thể từ bỏ con người mà mình yêu thương từ lúc nào đó không biết.Và cô gái, vì cái gọi là “có một người lấp đầy những đau thương cũng như mất mát trong lòng” đã im lặng gật đầu.Mẹ bắt đầu lo toan từ cái ngày thằng con kể về quá khứ của cô gái và muốn lấy làm vợ. Thì ra nó không ngơ ngác như mình tưởng, hóa ra trông thế mà cũng đã có một đời chồng. Mẹ nghĩ vậy và thấy đau đớn lẫn thương xót cho thằng con mình.Nếu cả dòng họ biết thì sao, nếu cả làng cả xóm biết thì sao. Đó là điều mẹ băn khoăn, huống hồ chi nó cũng không xinh xắn và giỏi giang gì đến độ người ta phải bỏ qua cái chuyện: NÓ ĐÃ CÓ MỘT ĐỜI CHỒNG.Mẹ luôn muốn những điều tốt đẹp cho con, mẹ sợ dư luận xã hội sẽ đổ lên đầu con mình, sẽ cho là, thằng ấy kén chọn quá giờ gặp một con như thế. Mà đã gọi là “dư luận xã hội” thì người ta không thể thay đổi được nó.Và mẹ đau đớn bởi những ý nghĩ đó.Buổi sáng mẹ dậy, bắc nồi nước lèo nấu phở lên mà nghĩ đến thằng con, không biết con vợ tương lai của nó có nấu được cho nó một nồi phở ngon lành không, không biết nó có đủ tư cách làm vợ thằng con mình không?Mẹ buồn bã và bị ám ảnh bởi cái gọi là “dư luận xã hội và văn hóa”. Cả đời mẹ, lo cho chồng cho con chỉ mong những điều tốt đẹp nhất, chỉ mong nở mặt nở mày với hàng xóm, láng giềng.Giờ nó muốn lấy một con như thế mẹ phải làm thế nào?Tình yêu thì luôn phức tạp, nhất là khi nó không chỉ là chuyện của một người NAM và một người NỮ, mà nó còn là chuyện của họ hàng, xóm làng.Mẹ bắt đầu đặt ra rất nhiều câu hỏi, những câu hỏi xoay quanh nhân cách, lối sống của cô gái. Mẹ bắt đầu đặt ra những câu hỏi mà bình thường ra mẹ sẽ không hỏi. Nhưng đây là chuyện lớn, chuyện thằng con mà mẹ hết mực yêu thương ấy bỗng dưng muốn lấy một cô gái đã có một đời chồng về làm vợ. Nó có nhiều sự lựa chọn lắm mà, xinh xắn đầy ngoài đường đó, thông minh đầy ngoài đường đó, sao lại dính vào một đứa con gái mà mẹ đang nghi ngờ về nhân cách của nó, bởi quá khứ ít nhiều gì cũng chỉ ra tính cách của một con người. Mẹ đau buồn bởi mẹ yêu thương thằng con mình hết lòng. Thằng con bảo, nhưng đó là sự lựa chọn của con. Mẹ cứ gặp và nói chuyện một lần với người ta xem sao. Bởi thằng con tin rằng, sự cương quyết, thẳng thắn và thành thật của cô gái sẽ làm cho người mẹ đỡ phải lo toan hơn.Mẹ không biết nó là người thế nào, nhưng mẹ hơi thất vọng về nó. Giá như không có chuyện quá khứ kia hoặc giá như nó không nói rõ cho mình biết thì mọi chuyện có vẻ dễ dàng hơn. Nhưng rõ ràng, bây giờ mình có sự lựa chọn, chấp nhận hay phản đối. Thằng con mình có sự lựa chọn, tiến hay lùi trong trường hợp bố mẹ mình không bằng lòng. Tức là, mỗi người đều có sự lựa chọn nhất định nào đó. Còn hơn là để mọi chuyện đã muộn màng rồi thì mới vỡ lở ra.Dù thế mẹ vẫn đau buồn.Cuộc nói chuyện giữa người lớn và trẻ con (trẻ con tức là những người ít tuổi hơn) được sắp xếp. Bình trà được đặt giữa bàn. Hai người lớn nghiêm trang, thằng con ngồi đối diện, mặt bình tâm.Có một điều mà cô gái quên nói cho chàng trai biết là, cô có chứng bệnh “sợ hãi bi kịch gia đình”. Tức là, cảnh bạn trai hay người chồng đứng giữa mẹ và bạn gái hoặc vợ, phải khổ tâm lắm, phải khéo léo lắm để hai bên có thể hiểu và thương nhau hơn. Cô sợ cảnh, ngày nào đó, người mẹ sẽ bảo: một là mẹ hai là vợ. Lúc đó thì tội cho thằng con, bên hiếu và bên tình. Hiểu lầm thì người ta có thể hoá giải được, nhưng thành kiến và dư luận xã hội thì người ta không thể thay đổi được.Vì thế cô gái đã không đến nơi hẹn như đã hẹn.Và vì thế, mẹ không còn phải lo lắng gì nữa, vì hình như, bố mẹ chỉ có MỘT, nhưng người yêu thì không có cô này cũng có cô kia.Mẹ chỉ thấy tiếc, tiếc cho đứa con gái không biết vì lòng cao thượng hay vì sự hèn nhát mà không đến gặp mẹ một lần. Mẹ chỉ suy nghĩ thế thôi, nhưng cái cốt lõi là mẹ chỉ muốn thấy con mình được hạnh phúc. Và nếu đứa con gái đó làm con mình hạnh phúc được, thì mẹ cũng chẳng hẹp hòi gì mà phản đối việc này cả. Ừ, mẹ chỉ tiếc vậy thôi… Tình yêu thì luôn thiêng liêng nhưng phức tạp. Cô gái không biết rằng, có thể cô vừa từ bỏ “bi kịch” này nhưng lại đang bước vào một “bi kịch” mới. Mục lục Người chồng tương lai Người chồng tương lai Nguyễn Thụy Tú UyênChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: eVanĐược bạn: Thanh Vân đưa lên vào ngày: 23 tháng 7 năm 2009
Nguyễn Thụy Tú Uyên Người chồng tương lai Mẹ có chỉ một thằng con. Thằng vừa ngoan, vừa giỏi, vừa đẹp trai, vừa có nhiều tài vặt, vừa được mọi người yêu thương. Nói chung những cái tốt đẹp ở trên đời thằng con của mẹ đều có. Thế nên mẹ rất tự hào về nó. Vì thế đứa con gái mà nó yêu thương phải được như nó, tức là, phải vừa ngoan, vừa xinh, vừa hiền, vừa giỏi… Thằng con của mẹ quen và tìm hiểu cũng khá nhiều cô, cô này hay cô kia mẹ cũng chưa bao giờ hài lòng lắm. Đến độ, một chiều, khi trời mưa ầm ĩ ngoài phố, thằng con tâm sự với thằng bạn rằng, tao có dẫn một đứa hoàn hảo về thì mẹ tao cũng chưa chắc chịu. Thằng bạn ra vẻ biết điều và hiểu chuyện, các cụ chỉ lo cho mày thôi, chỉ muốn điều tốt đẹp nhất cho mày thôi. Thằng con gật gù, tao biết, nhưng hai thế giới khác nhau, cách nhìn nhận vấn đề đôi khi khác nhau, không phải cứ lấy một người xinh, ngoan về là hạnh phúc, quan trọng nhất là sự hòa hợp giữa hai tâm hồn.Thằng bạn lại gật gù tỏ ra biết chuyện lần nữa, vậy thì kiếm một cô vừa xinh vừa ngoan vừa hiền lại vừa hòa hợp với tâm hồn của mày, vậy là hoàn hảo cho đôi bên.Thằng con nghe cũng có lý, và bắt đầu công cuộc tìm kiếm khó khăn này. 35 tuổi, thằng con vẫn còn độc thân, độc thân không có nghĩa là không có bạn gái. Độc thân vì không nghĩ đến chuyện cưới xin, vì lý do này hay lý do khác thì những cuộc tình có khi kéo dài hơn có khi ngắn hơn, có khi nồng nàn hơn có khi nhạt nhẽo hơn.Sau những cuộc tìm kiếm có vẻ là “vô vọng” đó, một ngày nắng chói chang, thằng con gặp một cô gái. Cô ta bình thường, được xếp vào hạng trung bình về nhan sắc lẫn học vấn. Không có gì để lại ấn tượng vào lúc ban đầu.Sau hai lần gọi là “hẹn hò cho vui”, thì thằng con bỗng phát hiện rằng, cô ta khác với vẻ bề ngoài “ngơ ngác và trung bình” mà mọi người dễ lầm tưởng.Những cái email bỗng dưng trở nên thú vị và đằm thắm hẳn lên.Lần thứ ba, cô gái hẹn gặp ở một quán khá lãng mạn, trời hôm ấy mưa rất to. Thằng con cầm dù đến nơi hẹn, lòng đầy thắc mắc, bởi trước khi hẹn, cô gái nói khá rõ ràng và ngắn gọn: em có chuyện muốn nói.Thằng con hơi tò mò, bởi gặp nhau chỉ được hai lần, có chuyện gì để nói. Yêu đương ư, chưa đến lúc để yêu đương. Chia tay ư, có yêu đương đâu mà chia tay.Quán cà phê được trang trí khá cầu kì (hơi sến một chút nhưng chấp nhận được). Cô gái ngồi không biểu hiện cảm xúc gì, kể một vèo quá khứ của mình và quyết định: mình chỉ nên là bạn thôi, thế cho đỡ rắc rối sự đời. Thằng con ngỡ ngàng, chuyện này thì lạ thật. Lạ không phải bởi quá khứ mà cô gái kể, lạ vì cái quyết định chóng vánh và thẳng thắn đến rợn người. Bởi những chuyện quá khứ thằng con nghe nhiều rồi, gặp nhiều rồi, nhưng cô gái nào cũng giống cô gái nào, tức là, họ đều đợi sự việc đã muộn màng rồi thì mới bắt đầu kể sự thật, để hy vọng (hay mơ hồ hy vọng) rằng, khi con cá vào xọ rồi thì khó mà thoát ra.Nhưng lần này thì ngược lại, người ta không đưa cá vào xọ mà cũng chẳng muốn đưa con cá nào vào xọ. Người ta chỉ cần sự bình yên.Thằng con rõ ràng là ngỡ ngàng, ngỡ ngàng và không tin là, có một kẻ ở trên đời thẳng tính giống mình đến thế, có một kẻ bất cần đời đến thế mà cũng rất dịu dàng và lãng mạn.Chiều ấy mưa rất to và dai dẳng. Người ta sợ phải ra đường dưới trời mưa bão thế này. Thế nên, hai người ngồi im lặng trong quán. Tiến hay lùi cho một quan hệ chưa kịp chớm nở. Thằng con không biết. Đi qua quá nhiều cuộc tình đôi khi làm người ta sợ hãi cho cái quyết định tiến hay lùi.Thằng con chờ đợi rằng, cô gái sẽ nói vài câu nào đó, đại khái để ngụy biện, để chèo kéo, để tỏ ra lưu luyến. Tiếc là, cô gái ra về trong im lặng, không hứa hẹn, không hy vọng. Và điều đó làm thằng con không dứt ra được bởi cái gọi là “cảm xúc”.Cuộc đấu tranh bắt đầu, một cuộc đấu tranh quen thuộc của những việc liên quan đến yêu đương: cuộc đấu tranh giữa “cảm xúc” và “lý trí”.Rõ ràng, yêu đương là một vấn đề phức tạp. Nó phức tạp hơn hẳn khi con người không chỉ sống cho mình, mà còn có xã hội, cộng đồng, văn hóa và tập quán.Cuối cùng, khi hai con người cảm thấy cô đơn, cảm thấy bên kia có thể lấp đầy khoảng trống mà chẳng ai lấp được, thì cảm xúc bao giờ cũng thắng lý trí.Đó là một ngày mùa thu, lá vàng rơi đầy lối vào nhà. Thằng con quyết định không thể từ bỏ con người mà mình yêu thương từ lúc nào đó không biết.Và cô gái, vì cái gọi là “có một người lấp đầy những đau thương cũng như mất mát trong lòng” đã im lặng gật đầu.Mẹ bắt đầu lo toan từ cái ngày thằng con kể về quá khứ của cô gái và muốn lấy làm vợ. Thì ra nó không ngơ ngác như mình tưởng, hóa ra trông thế mà cũng đã có một đời chồng. Mẹ nghĩ vậy và thấy đau đớn lẫn thương xót cho thằng con mình.Nếu cả dòng họ biết thì sao, nếu cả làng cả xóm biết thì sao. Đó là điều mẹ băn khoăn, huống hồ chi nó cũng không xinh xắn và giỏi giang gì đến độ người ta phải bỏ qua cái chuyện: NÓ ĐÃ CÓ MỘT ĐỜI CHỒNG.Mẹ luôn muốn những điều tốt đẹp cho con, mẹ sợ dư luận xã hội sẽ đổ lên đầu con mình, sẽ cho là, thằng ấy kén chọn quá giờ gặp một con như thế. Mà đã gọi là “dư luận xã hội” thì người ta không thể thay đổi được nó.Và mẹ đau đớn bởi những ý nghĩ đó.Buổi sáng mẹ dậy, bắc nồi nước lèo nấu phở lên mà nghĩ đến thằng con, không biết con vợ tương lai của nó có nấu được cho nó một nồi phở ngon lành không, không biết nó có đủ tư cách làm vợ thằng con mình không?Mẹ buồn bã và bị ám ảnh bởi cái gọi là “dư luận xã hội và văn hóa”. Cả đời mẹ, lo cho chồng cho con chỉ mong những điều tốt đẹp nhất, chỉ mong nở mặt nở mày với hàng xóm, láng giềng.Giờ nó muốn lấy một con như thế mẹ phải làm thế nào?Tình yêu thì luôn phức tạp, nhất là khi nó không chỉ là chuyện của một người NAM và một người NỮ, mà nó còn là chuyện của họ hàng, xóm làng.Mẹ bắt đầu đặt ra rất nhiều câu hỏi, những câu hỏi xoay quanh nhân cách, lối sống của cô gái. Mẹ bắt đầu đặt ra những câu hỏi mà bình thường ra mẹ sẽ không hỏi. Nhưng đây là chuyện lớn, chuyện thằng con mà mẹ hết mực yêu thương ấy bỗng dưng muốn lấy một cô gái đã có một đời chồng về làm vợ. Nó có nhiều sự lựa chọn lắm mà, xinh xắn đầy ngoài đường đó, thông minh đầy ngoài đường đó, sao lại dính vào một đứa con gái mà mẹ đang nghi ngờ về nhân cách của nó, bởi quá khứ ít nhiều gì cũng chỉ ra tính cách của một con người. Mẹ đau buồn bởi mẹ yêu thương thằng con mình hết lòng. Thằng con bảo, nhưng đó là sự lựa chọn của con. Mẹ cứ gặp và nói chuyện một lần với người ta xem sao. Bởi thằng con tin rằng, sự cương quyết, thẳng thắn và thành thật của cô gái sẽ làm cho người mẹ đỡ phải lo toan hơn.Mẹ không biết nó là người thế nào, nhưng mẹ hơi thất vọng về nó. Giá như không có chuyện quá khứ kia hoặc giá như nó không nói rõ cho mình biết thì mọi chuyện có vẻ dễ dàng hơn. Nhưng rõ ràng, bây giờ mình có sự lựa chọn, chấp nhận hay phản đối. Thằng con mình có sự lựa chọn, tiến hay lùi trong trường hợp bố mẹ mình không bằng lòng. Tức là, mỗi người đều có sự lựa chọn nhất định nào đó. Còn hơn là để mọi chuyện đã muộn màng rồi thì mới vỡ lở ra.Dù thế mẹ vẫn đau buồn.Cuộc nói chuyện giữa người lớn và trẻ con (trẻ con tức là những người ít tuổi hơn) được sắp xếp. Bình trà được đặt giữa bàn. Hai người lớn nghiêm trang, thằng con ngồi đối diện, mặt bình tâm.Có một điều mà cô gái quên nói cho chàng trai biết là, cô có chứng bệnh “sợ hãi bi kịch gia đình”. Tức là, cảnh bạn trai hay người chồng đứng giữa mẹ và bạn gái hoặc vợ, phải khổ tâm lắm, phải khéo léo lắm để hai bên có thể hiểu và thương nhau hơn. Cô sợ cảnh, ngày nào đó, người mẹ sẽ bảo: một là mẹ hai là vợ. Lúc đó thì tội cho thằng con, bên hiếu và bên tình. Hiểu lầm thì người ta có thể hoá giải được, nhưng thành kiến và dư luận xã hội thì người ta không thể thay đổi được.Vì thế cô gái đã không đến nơi hẹn như đã hẹn.Và vì thế, mẹ không còn phải lo lắng gì nữa, vì hình như, bố mẹ chỉ có MỘT, nhưng người yêu thì không có cô này cũng có cô kia.Mẹ chỉ thấy tiếc, tiếc cho đứa con gái không biết vì lòng cao thượng hay vì sự hèn nhát mà không đến gặp mẹ một lần. Mẹ chỉ suy nghĩ thế thôi, nhưng cái cốt lõi là mẹ chỉ muốn thấy con mình được hạnh phúc. Và nếu đứa con gái đó làm con mình hạnh phúc được, thì mẹ cũng chẳng hẹp hòi gì mà phản đối việc này cả. Ừ, mẹ chỉ tiếc vậy thôi… Tình yêu thì luôn thiêng liêng nhưng phức tạp. Cô gái không biết rằng, có thể cô vừa từ bỏ “bi kịch” này nhưng lại đang bước vào một “bi kịch” mới. Mục lục Người chồng tương lai Người chồng tương lai Nguyễn Thụy Tú UyênChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: eVanĐược bạn: Thanh Vân đưa lên vào ngày: 23 tháng 7 năm 2009
Dương Bình Nguyên Người con gái không đợi nơi đầu dốc Không còn ai đứng đợi tôi trên đầu dốc nữa. Cô gái ấy đã đi rồi. Tôi nghĩ là cô đi lấy chồng. Cả thị trấn nói cô bị bán qua Đài Loan. Tôi chậc lưỡi, qua Đài Loan cũng là một cách lấy chồng. Cô ấy đẹp. Đàn ông nào cũng sẽ mê gái đẹp. Nhưng tôi tiếc một người đã đứng đợi tôi suốt bao nhiêu mùa đông trên đỉnh dốc có cây thông già như mái nhà rông...Thị trấn bây giờ rất khác, nhà xây đẹp lên nhiều, mọi thứ đều khang trang. Thế nên cây thông đầu dốc bỗng trở nên chênh vênh. Người ta đang bàn xem có nên đốn hạ nó hay không, nếu hạ gỗ xẻ ra cũng được vài chục khối, bán đi cũng được một món tiền, chia nhau cũng đủ một cái Tết. Nhiều người thấy tiếc vì dù sao nó cũng là nơi trú ẩn của biết bao miền ký ức. Tôi đọc ở đâu đó rằng, ký ức là nhiên liệu cho sự sống. Ắt hẳn cái cây già này là một thứ nhiên liệu tỏa hương ấm suốt những mùa đông. Tôi được gọi về vì tôi là người học cao học rộng nhất con phố nghèo này. Người ta muốn nghe cái lý của người có chữ. Tôi về. Thực ra không đủ sến để buồn thương cho một đời cây. Nhưng cũng thấy tiếc vì suốt một tuổi thơ bóng mát. Cuối cùng mọi người đồng ý để lại, chỉ vạt bớt những cành già chùm lên một mái nhà. Cây thông còn. Riêng cô gái ấy thì đi mất.Tôi hỏi cha tôi, cô ta đi đâu? Cha tôi bảo, nó đi đâu mặc xác nó. Sao mà mặc xác? Ngày xưa con yêu cô ấy đấy chứ? Thế sao mày không ở nhà mà giữ? Mày đi đú đởn với gái phố, giờ về ủ rũ tiếc thương cái gì? Vớ vẩn! Cha tôi là thể loại đàn ông khẩu xà tâm Phật, lúc nào cũng muốn bổ vào mặt người khác. Người như thế thì tốt bụng, nhưng không được đàn bà ưng. Thế nên tôi chẳng cần hỏi cũng biết vì sao mẹ tôi đi mất. Mẹ tôi đi khi tôi còn chưa biết buồn. Tôi chỉ tiếc người con gái chờ tôi nơi đầu dốc, đưa cho tôi những quả sim chín mọng rồi chạy ù lên đồi, giấu mình sau những lùm cây. Cô gái thật ngốc!Cha tôi có một vóc dáng đẹp. Ông có được một món của lớn ông nội tôi để lại, nên sống một đời nhàn nhã. Nhưng như một cái mệnh, cha tôi không giữ được cho mình một người đàn bà. Khi tôi mười bảy tuổi, tôi phát rồ phát dại lên không hiểu vì sao cha tôi sống được như thế bao nhiêu năm. Đôi khi tôi vật vã ân hận vì tôi đã lấy đi của ông cả sinh lực và những ham muốn của một người đàn ông. Tôi đi tìm cho cha tôi những người đàn bà quá lứa lỡ thì. Họ say cha tôi như điếu đổ. Cha tôi cười khinh khỉnh, nhóc con đừng có mà điên. Rồi nói như bổ vào mặt người ta. Người ta khóc, bỏ về. Cha tôi thêm tiếng hâm gàn. Cha tôi chắc muôn đời không thể lấy thêm được một đời vợ. Năm nay mùa đông như đến rất sớm. Hoặc vì tôi thấy thị trấn rất vắng khi cô gái ấy không còn chờ mình mà thấy lạnh lòng. Lòng tham của con người ngộ thật. Thỏa thuê mọi chốn mà tôi vẫn thấy mất mát khi cái mà mình ngỡ như mặc định ở đầu dốc ấy bỗng chốc ra đi. Rõ ràng cô ta không thuộc về tôi, dù có yêu tôi trong chốc lát, tình yêu như một trò chơi thi vị. Tôi thích một người chờ đợi. Nhưng tôi không có ý định cưới cô làm vợ. Đôi khi tôi tự giải vây tội lỗi cho mình rằng, trong máu của mọi gã đàn ông đều có dấu vết của Sở Khanh.Dạo này cha tôi tân kỳ hơn xưa. Ông mua một chiếc điếu cày kiểu cọ bắt mắt hay thấy các đại gia trong phim truyền hình Việt Nam sử dụng. Một cái gốc hóp được vót kỳ khu, những cái rễ như những bộ râu thêu rồng vẽ phượng. Cha tôi bảo ông mua cái này trong chuyến đi nghỉ mát. Dạo này dân thị trấn có phong trào nghỉ mát, cứ mùa hè lại thuê một chuyến xe rồi chất nhau lên, nhóc nhách xuống biển. Cha bảo, đi biển toàn thấy đàn ông đàn bà trần như nhộng, phơi đùi phơi mông tênh hênh. Chẹp, chả còn ra làm sao, cứ như là sắp lao vào nhau mà chiến đấu! Tôi không biết cha tôi tắm biển mặc đồ gì. Cha tôi bảo, ông mặc cả bộ quần áo dài, lội nước chơi, nước biển mặn bay vào mắt sợ bị mờ. Ông là người làm rừng, mắt ông phải sáng hơn mắt cáo. Với lại biển chỉ là một bãi nước rộng hơn cái ao, ông cũng chẳng thiết tha. Tôi cười ông, giờ bói cũng chẳng còn rừng, cái thị trấn này đã nhốt rừng vào những căn nhà, biến hình rừng thành tivi, sập gụ, là những chiếc tủ lạnh chỉ để làm đá lạnh thả vào cốc nước đun sôi cho giống thành phố mùa hè. Cha tôi vẫn thích được gọi là thợ rừng. Nhưng thực ra ông đã quanh quẩn bộ sa lông bóng loáng của mình mười mấy năm.Cha tôi có một bình rượu rắn rất to. Những con rắn ngóc đầu trong màu rượu sánh. Cha tôi nói rượu rắn chữa được bệnh đau khớp, đau lưng. Ông thích chiết một cái bát sành rượu rắn cốt, rồi pha với rượu gạo mới nấu, ngồi nhâm nhi và kể về những cuộc vây bắt rắn hổ mang. Tam xà, ngũ xà...và những tích tục của những bầy rắn trong bình rượu, đó là một cái hứng bất tận. Mỗi đêm trong ánh bếp lấp loáng, bất giác nhìn vào cái bình óng ả với những đầu rắn nhấp nhô, tôi thường cảm thấy sống lưng mình dựng đứng, như có một bầy hổ mang đang chạy ngược lên tới đỉnh đầu. Về sau này, khi bia rượu sần sần, tôi hay nghĩ tới bình rượu ấy và vội vàng lao vào toilet để tháo ra bằng hết những gì vừa uống. Và tôi cảm thấy mình mệt kinh khủng. Nhưng tôi không ghét cha tôi vì điều này. Người thành phố bây giờ cũng ngâm rượu rắn ầm ầm, uống rượu rắn rùng rùng, cả rắn thật và rắn giả. Người ta uống vì nghĩ rằng mình sẽ nhanh chóng trở nên xung mãn. Cha tôi nói, bình rượu của ông hôm trước có tên bơm từ thành phố lên gạ bán mấy chục triệu đồng. Ông bảo để chờ tôi về, hỏi ý tôi rồi ông mới bán. Cái gì của ông cũng có thể bán ra tiền. Tôi bảo, cha để mà uống. Cha tôi chậc lưỡi, rượu này bổ phải biết, uống một chén là thấu trời mây. Cha tôi đã ngâm rồi chiết cái bình rượu này không biết bao nhiêu năm. Có thể ông say vì cảm giác chứ không vì rượu. Đời nhàn, say đôi khi cũng là một niềm vui.Ngày trước, cha tôi hay uống rượu với chú Lừng. Lần này cha tôi chỉ uống rượu một mình. Ngày trước, mùa đông sương rơi rất nhiều, rơi xuống mái nhà tôi như những cơn mưa. Bây giờ, sương không buồn rơi nữa. Cây thông già đứng trên đầu dốc nhìn xuống, như một bóng gấu xù xụ, ngồi gục mình để sưởi ấm mình. Đơn côi. Tôi đi gọi chú Lừng cho cha tôi có bạn rượu. Tôi sợ nhìn cảnh những con rắn lập lờ trong bình và nuốt một phần thân thể nó vào trong người. Cha tôi bảo, đừng gọi, thằng đó nó không qua đâu. Tôi hỏi tại sao? Cha tôi bảo, chả sao, nó chẳng ra cái gì hết. Cha tôi với chú Lừng từng là bạn thân thiết, làm bẫy đánh hổ suốt bao nhiêu năm, giờ già như những gốc cây lại tự dưng chán nhau đến mức không buồn gặp. Tôi hỏi, chú ấy làm gì? Cha tôi bảo, nó chẳng làm gì, nhưng cũng chẳng ra gì. Tôi gọi chú Lừng. Chú Lừng ậm ừ, dắt con dao vào thắt lưng rồi đi qua. Chú Lừng bước đi nặng bình bịch, cái đầu bạc trọc lốc, những chân tóc như những sợi mây dính tuyết nhú lên trong một ngày mùa đông nào đó rất cũ. Hai ông già ngồi bên bếp lửa, uống rượu lừ đừ. Họ rất ít nói. Tôi nằm trong cái nệm rơm, gật gà ngủ. Từ lâu rồi, về nhà tôi không còn thấy nệm rơm ấm như trước, bếp lửa cũng không ấm như trước. Tôi không trách nệm rơm, không trách bếp. Tôi trách lòng mình không còn ấm như nệm rơm...Tôi đã lơ mơ một giấc rất dài trong trạng thái mê sảng vạ vật. Thi thoảng có nghe tiếng gằm ghè của hai ông già. Họ thường hậm hực vì một điều gì đó rồi nuốt cả vào bụng bằng những chén rượu. Hình như chú Lừng có văng tục câu gì đó trước khi tôi choàng tỉnh dậy. Cha tôi nói, hình như cha tôi miêu tả lại một câu chuyện tình. Một thứ tình cảm gì đó bất thường. Một thứ ánh sáng cuối đường hầm. Chú Lừng chửi, mẹ kiếp, nó là con tôi, nó là bạn gái thằng cháu, thế mà... Cha tôi không nói được gì. Cha tôi lại uống rượu. Rồi hai con gấu già lao vào nhau trong đêm khuya. Họ vật nhau. Tôi ngồi bật dậy và nhìn họ. Những ông già gân cốt mạnh khỏe! Tôi nhìn họ. Tôi thích sự khỏe mạnh này. Nhưng tôi không thích họ vật nhau vì một điều như thế...Rồi sẽ qua một mùa đông. Và rồi sẽ đến Tết. Tôi thấy mình thực sự là một đứa con bạc bẽo. Nhưng sao tôi chỉ muốn ra đi và không muốn về. Thị trấn chỉ có mỗi cây thông già, đứng trân mình như mái nhà rông. Còn người con gái ấy đã đi rồi, không còn ai đợi tôi nơi đầu dốc... Mục lục Người con gái không đợi nơi đầu dốc Người con gái không đợi nơi đầu dốc Dương Bình NguyênChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: Thanh Niên Tuần SanĐược bạn: Thành viên VNTQ đưa lên vào ngày: 23 tháng 11 năm 2007
Dương Bình Nguyên Người con gái không đợi nơi đầu dốc Không còn ai đứng đợi tôi trên đầu dốc nữa. Cô gái ấy đã đi rồi. Tôi nghĩ là cô đi lấy chồng. Cả thị trấn nói cô bị bán qua Đài Loan. Tôi chậc lưỡi, qua Đài Loan cũng là một cách lấy chồng. Cô ấy đẹp. Đàn ông nào cũng sẽ mê gái đẹp. Nhưng tôi tiếc một người đã đứng đợi tôi suốt bao nhiêu mùa đông trên đỉnh dốc có cây thông già như mái nhà rông...Thị trấn bây giờ rất khác, nhà xây đẹp lên nhiều, mọi thứ đều khang trang. Thế nên cây thông đầu dốc bỗng trở nên chênh vênh. Người ta đang bàn xem có nên đốn hạ nó hay không, nếu hạ gỗ xẻ ra cũng được vài chục khối, bán đi cũng được một món tiền, chia nhau cũng đủ một cái Tết. Nhiều người thấy tiếc vì dù sao nó cũng là nơi trú ẩn của biết bao miền ký ức. Tôi đọc ở đâu đó rằng, ký ức là nhiên liệu cho sự sống. Ắt hẳn cái cây già này là một thứ nhiên liệu tỏa hương ấm suốt những mùa đông. Tôi được gọi về vì tôi là người học cao học rộng nhất con phố nghèo này. Người ta muốn nghe cái lý của người có chữ. Tôi về. Thực ra không đủ sến để buồn thương cho một đời cây. Nhưng cũng thấy tiếc vì suốt một tuổi thơ bóng mát. Cuối cùng mọi người đồng ý để lại, chỉ vạt bớt những cành già chùm lên một mái nhà. Cây thông còn. Riêng cô gái ấy thì đi mất.Tôi hỏi cha tôi, cô ta đi đâu? Cha tôi bảo, nó đi đâu mặc xác nó. Sao mà mặc xác? Ngày xưa con yêu cô ấy đấy chứ? Thế sao mày không ở nhà mà giữ? Mày đi đú đởn với gái phố, giờ về ủ rũ tiếc thương cái gì? Vớ vẩn! Cha tôi là thể loại đàn ông khẩu xà tâm Phật, lúc nào cũng muốn bổ vào mặt người khác. Người như thế thì tốt bụng, nhưng không được đàn bà ưng. Thế nên tôi chẳng cần hỏi cũng biết vì sao mẹ tôi đi mất. Mẹ tôi đi khi tôi còn chưa biết buồn. Tôi chỉ tiếc người con gái chờ tôi nơi đầu dốc, đưa cho tôi những quả sim chín mọng rồi chạy ù lên đồi, giấu mình sau những lùm cây. Cô gái thật ngốc!Cha tôi có một vóc dáng đẹp. Ông có được một món của lớn ông nội tôi để lại, nên sống một đời nhàn nhã. Nhưng như một cái mệnh, cha tôi không giữ được cho mình một người đàn bà. Khi tôi mười bảy tuổi, tôi phát rồ phát dại lên không hiểu vì sao cha tôi sống được như thế bao nhiêu năm. Đôi khi tôi vật vã ân hận vì tôi đã lấy đi của ông cả sinh lực và những ham muốn của một người đàn ông. Tôi đi tìm cho cha tôi những người đàn bà quá lứa lỡ thì. Họ say cha tôi như điếu đổ. Cha tôi cười khinh khỉnh, nhóc con đừng có mà điên. Rồi nói như bổ vào mặt người ta. Người ta khóc, bỏ về. Cha tôi thêm tiếng hâm gàn. Cha tôi chắc muôn đời không thể lấy thêm được một đời vợ. Năm nay mùa đông như đến rất sớm. Hoặc vì tôi thấy thị trấn rất vắng khi cô gái ấy không còn chờ mình mà thấy lạnh lòng. Lòng tham của con người ngộ thật. Thỏa thuê mọi chốn mà tôi vẫn thấy mất mát khi cái mà mình ngỡ như mặc định ở đầu dốc ấy bỗng chốc ra đi. Rõ ràng cô ta không thuộc về tôi, dù có yêu tôi trong chốc lát, tình yêu như một trò chơi thi vị. Tôi thích một người chờ đợi. Nhưng tôi không có ý định cưới cô làm vợ. Đôi khi tôi tự giải vây tội lỗi cho mình rằng, trong máu của mọi gã đàn ông đều có dấu vết của Sở Khanh.Dạo này cha tôi tân kỳ hơn xưa. Ông mua một chiếc điếu cày kiểu cọ bắt mắt hay thấy các đại gia trong phim truyền hình Việt Nam sử dụng. Một cái gốc hóp được vót kỳ khu, những cái rễ như những bộ râu thêu rồng vẽ phượng. Cha tôi bảo ông mua cái này trong chuyến đi nghỉ mát. Dạo này dân thị trấn có phong trào nghỉ mát, cứ mùa hè lại thuê một chuyến xe rồi chất nhau lên, nhóc nhách xuống biển. Cha bảo, đi biển toàn thấy đàn ông đàn bà trần như nhộng, phơi đùi phơi mông tênh hênh. Chẹp, chả còn ra làm sao, cứ như là sắp lao vào nhau mà chiến đấu! Tôi không biết cha tôi tắm biển mặc đồ gì. Cha tôi bảo, ông mặc cả bộ quần áo dài, lội nước chơi, nước biển mặn bay vào mắt sợ bị mờ. Ông là người làm rừng, mắt ông phải sáng hơn mắt cáo. Với lại biển chỉ là một bãi nước rộng hơn cái ao, ông cũng chẳng thiết tha. Tôi cười ông, giờ bói cũng chẳng còn rừng, cái thị trấn này đã nhốt rừng vào những căn nhà, biến hình rừng thành tivi, sập gụ, là những chiếc tủ lạnh chỉ để làm đá lạnh thả vào cốc nước đun sôi cho giống thành phố mùa hè. Cha tôi vẫn thích được gọi là thợ rừng. Nhưng thực ra ông đã quanh quẩn bộ sa lông bóng loáng của mình mười mấy năm.Cha tôi có một bình rượu rắn rất to. Những con rắn ngóc đầu trong màu rượu sánh. Cha tôi nói rượu rắn chữa được bệnh đau khớp, đau lưng. Ông thích chiết một cái bát sành rượu rắn cốt, rồi pha với rượu gạo mới nấu, ngồi nhâm nhi và kể về những cuộc vây bắt rắn hổ mang. Tam xà, ngũ xà...và những tích tục của những bầy rắn trong bình rượu, đó là một cái hứng bất tận. Mỗi đêm trong ánh bếp lấp loáng, bất giác nhìn vào cái bình óng ả với những đầu rắn nhấp nhô, tôi thường cảm thấy sống lưng mình dựng đứng, như có một bầy hổ mang đang chạy ngược lên tới đỉnh đầu. Về sau này, khi bia rượu sần sần, tôi hay nghĩ tới bình rượu ấy và vội vàng lao vào toilet để tháo ra bằng hết những gì vừa uống. Và tôi cảm thấy mình mệt kinh khủng. Nhưng tôi không ghét cha tôi vì điều này. Người thành phố bây giờ cũng ngâm rượu rắn ầm ầm, uống rượu rắn rùng rùng, cả rắn thật và rắn giả. Người ta uống vì nghĩ rằng mình sẽ nhanh chóng trở nên xung mãn. Cha tôi nói, bình rượu của ông hôm trước có tên bơm từ thành phố lên gạ bán mấy chục triệu đồng. Ông bảo để chờ tôi về, hỏi ý tôi rồi ông mới bán. Cái gì của ông cũng có thể bán ra tiền. Tôi bảo, cha để mà uống. Cha tôi chậc lưỡi, rượu này bổ phải biết, uống một chén là thấu trời mây. Cha tôi đã ngâm rồi chiết cái bình rượu này không biết bao nhiêu năm. Có thể ông say vì cảm giác chứ không vì rượu. Đời nhàn, say đôi khi cũng là một niềm vui.Ngày trước, cha tôi hay uống rượu với chú Lừng. Lần này cha tôi chỉ uống rượu một mình. Ngày trước, mùa đông sương rơi rất nhiều, rơi xuống mái nhà tôi như những cơn mưa. Bây giờ, sương không buồn rơi nữa. Cây thông già đứng trên đầu dốc nhìn xuống, như một bóng gấu xù xụ, ngồi gục mình để sưởi ấm mình. Đơn côi. Tôi đi gọi chú Lừng cho cha tôi có bạn rượu. Tôi sợ nhìn cảnh những con rắn lập lờ trong bình và nuốt một phần thân thể nó vào trong người. Cha tôi bảo, đừng gọi, thằng đó nó không qua đâu. Tôi hỏi tại sao? Cha tôi bảo, chả sao, nó chẳng ra cái gì hết. Cha tôi với chú Lừng từng là bạn thân thiết, làm bẫy đánh hổ suốt bao nhiêu năm, giờ già như những gốc cây lại tự dưng chán nhau đến mức không buồn gặp. Tôi hỏi, chú ấy làm gì? Cha tôi bảo, nó chẳng làm gì, nhưng cũng chẳng ra gì. Tôi gọi chú Lừng. Chú Lừng ậm ừ, dắt con dao vào thắt lưng rồi đi qua. Chú Lừng bước đi nặng bình bịch, cái đầu bạc trọc lốc, những chân tóc như những sợi mây dính tuyết nhú lên trong một ngày mùa đông nào đó rất cũ. Hai ông già ngồi bên bếp lửa, uống rượu lừ đừ. Họ rất ít nói. Tôi nằm trong cái nệm rơm, gật gà ngủ. Từ lâu rồi, về nhà tôi không còn thấy nệm rơm ấm như trước, bếp lửa cũng không ấm như trước. Tôi không trách nệm rơm, không trách bếp. Tôi trách lòng mình không còn ấm như nệm rơm...Tôi đã lơ mơ một giấc rất dài trong trạng thái mê sảng vạ vật. Thi thoảng có nghe tiếng gằm ghè của hai ông già. Họ thường hậm hực vì một điều gì đó rồi nuốt cả vào bụng bằng những chén rượu. Hình như chú Lừng có văng tục câu gì đó trước khi tôi choàng tỉnh dậy. Cha tôi nói, hình như cha tôi miêu tả lại một câu chuyện tình. Một thứ tình cảm gì đó bất thường. Một thứ ánh sáng cuối đường hầm. Chú Lừng chửi, mẹ kiếp, nó là con tôi, nó là bạn gái thằng cháu, thế mà... Cha tôi không nói được gì. Cha tôi lại uống rượu. Rồi hai con gấu già lao vào nhau trong đêm khuya. Họ vật nhau. Tôi ngồi bật dậy và nhìn họ. Những ông già gân cốt mạnh khỏe! Tôi nhìn họ. Tôi thích sự khỏe mạnh này. Nhưng tôi không thích họ vật nhau vì một điều như thế...Rồi sẽ qua một mùa đông. Và rồi sẽ đến Tết. Tôi thấy mình thực sự là một đứa con bạc bẽo. Nhưng sao tôi chỉ muốn ra đi và không muốn về. Thị trấn chỉ có mỗi cây thông già, đứng trân mình như mái nhà rông. Còn người con gái ấy đã đi rồi, không còn ai đợi tôi nơi đầu dốc... Mục lục Người con gái không đợi nơi đầu dốc Người con gái không đợi nơi đầu dốc Dương Bình NguyênChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: Thanh Niên Tuần SanĐược bạn: Thành viên VNTQ đưa lên vào ngày: 23 tháng 11 năm 2007
Áo Vàng Người con gái mặc áo pull vàng H ôm nay là sinh nhật của cô...trên giấy tờ. Nhưng đối với cô, ngày này còn quan trọng hơn ngày cô sinh ra đời thật sự nữa...nó bắt đầu một chuyện tình đẹp như mơ và thắm thiết như thơ...(nhưng đừng quên đây vẫn là chuyện cổ tích thôi đó nhe) Năm 19.. lâu lắm rồi, anh đón cô đi ăn một nhà hàng Pháp dưới Phố Cũ, cùng với Thành, người bạn thân của anh. Hôm nay, anh muốn tổ chức mừng sinh nhật cô, một mình với anh thôi, nhưng không dám chắc cô nhận lời nên qua điện thoại, anh rủ rê rất tự nhiên, như những lần đi chơi khác...có cả ba đứa ...Ba đứa, từ mấy tháng qua, đi đâu cũng có nhau. Thành, bạn thân anh đó, có giọng nói êm ái và rất bắc kỳ, anh người nam, nhưng vì ngồi giữa hai người nói giọng bắc, anh chắc cũng ảnh hưởng và phát âm tên cô theo giọng Bắc, nghe rất buồn cười nhưng vui vui tai...Hình như hai ông không có bạn gái nên rất là ..hưỡn, đã ra trường và có công ăn việc làm nên cuối tuần nào cũng rủ rê cô với đầy đủ chương trình du hí, cô ham vui, có người kiếm chuyện cho đi chơi...tại sao không...Phố Cũ có những con đường rất hẹp, và những ngõ cụt tối tăm. Đang là mùa đông, đường sá vắng vẻ chứ không nhộn nhịp như những ngày hè, với du khách đầy đường, vì đây cũng là một trong những tụ điểm của thành phố. Nhưng khi bước vào trong quán, không khí ấm cúng làm mình quên hẳn cái lạnh bên ngoài đang khoảng 20 độ âm. Bữa ăn tối kéo dài cả ba tiếng đồng hồ, cô tiếp viên người pháp lich sự, nhẹ nhàng nhưng làm việc rất là chậm rãi, đúng kiểu những nhà hàng thượng lưu. Thành gật gừ buồn ngủ sau một ngày làm việc mệt mỏi, nên anh hối nhà hàng cho món tráng miệng ra nhanh, vậy mà đến gần 11 giờ khuya cả bọn mới ra về. Thả Thành xuống nhà, anh rủ cô lên núi ngắm sao...Đi thì đi... Ngọn núi nhỏ nằm giữa thành phố, có bờ hồ để thả thuyền mùa hè, đổi thành sân trượt tuyết mùa đông, có đồi cỏ mênh mông cho mọi người tổ chức picnic những ngày cuối tuần, có những con đường nên thơ rợp lá phong mà mủa thu thi sĩ phải thẩn thờ... Cô không nhớ hôm đó trời có đủ trong để nhìn thấy sao hay không vì đang là mùa đông...cô nhớ mình mặc một chiếc áo pull màu vàng, màu cô thích nhất... Những chiếc xe đủ màu đủ kiểu đậu chen lấn dọc theo ven bờ, đầu xe hướng về một rừng đầy sao phía dưới chân núi. Thành phố dễ thương, êm đềm mà cô gửi gắm đời tị nạn, trong đêm tối trông rất ấm cúng và đẹp làm sao. Trời lạnh nên hai đứa ngồi lại trong xe, sưởi mở hết ga, anh nắm tay cô và xin phép hôn cô...Chao ơi, con người có vẻ hiền lành và ngay thẳng ghê vậy... Thật ra anh đã tỏ tình với cô mấy ngày trước đó rồi... Cô đang học năm thứ hai đại học. Mỗi tối thứ ba, có chương trình chửa răng cho nhau giữa các sinh viên, có thầy hướng dẫn. Cô được anh bạn VN học lớp trên, trám răng cho cô. Thời đó chỉ có 3 mạng đồng hương trong phân khoa. Từ hôm quen nhau ở buổi tiệc sinh nhật nhỏ bạn, cô để anh đưa về nhà, và từ đó anh đến thăm cô hầu như mỗi ngày... Anh biết cô phải làm lab rất trễ ở trường mỗi tối nên thường ghé vào đón cô về, dẫn cô đi ăn phở khuya...sau này cô thường đổ thừa anh, mỗi khi bị quở là nặng ký...bởi vì anh nuôi cô kỹ quá... Và hôm đó anh cũng lên trường đón cô về. Nhìn cái miệng méo vì thuốc tê, chắc tội nghiệp, nên chở cô xuống phố uống cà phê. Tiệm cà phê này nổi tiếng trong giới trẻ, nhất là sinh viên trường đại học gần đó, một thời anh đã là sinh viên. Căn phòng nhỏ xíu, không khí ồn ào vỡ chợ, khói thuốc mịt mù, kiếm một bàn trống không phải dễ...Giữa đám khách chen chúc chờ lấy bàn, anh và cô nói chuyện trời trăng...Anh hỏi thăm cô có tin tức gì của Qúi chưa..(cô có kể cho anh về đời sống sinh viên ở VN mấy năm cô học, anh du học từ lâu lắm rồi)...có một lúc nào đó, cô có nói về kép của cô còn kẹt lại ở quê nhà...Rồi bổng dưng đang húp miếng creme champignon, anh làm cô muốn nghẹn... Anh nói anh mến cô...anh hỏi mình có thể sortir không...trời ơi, rất bất ngờ nhưng cũng thấy vui vui trong lòng...Cô nhìn anh, khuôn mặt rất thật thà, hơi ngượng nghịu, đang chờ đợi câu trả lời của cô...Đúng là từ ngày quen nhau, cô chưa bao giờ nhìn anh kỹ như hôm nay...Anh không đẹp trai, nhưng nét mặt đều đặn, rất đàn ông, anh cao hơn cô một cái đầu, và anh rất gầy...cô thích đàn ông cao và gầy... Cô còn nhớ, câu trả lời của cô là “I like you, but I don t love you yet...”. Anh cười nhẹ, nói, sẽ chờ...với thời gian, anh mong cô sẽ yêu anh...Cười cười không trả lời, lúc này mà khoe với anh, hồi sáng chưa thay áo quần đi học, đã có người gọi phone từ xa về chúc sinh nhật rồi đấy. Thôi, phải biết học lịch sự tối thiểu là không làm người đối diện cụt hứng chứ...Anh đưa cô điếu Rothman nói hút thử vì biết cô lúc nào cũng chỉ hút Salem có mùi bạc hà. Cái chuyện hút thuốc lá của cô bắt đầu lúc vào đại học, ở trong nội trú có chị bạn, lớn hơn bọn nhóc cô vài tuổi, lúc đó mới bắt đầu tạo được tiếng tăm trong làng văn nghệ, truyện ngắn của chị được chọn đăng trên báo Văn, bọn cô ngẩn ngơ khâm phục...Chị đẹp liêu trai, ăn nói hấp dẫn, chắc trong đám con gái cũng có vài đứa mê chị...thuở học trò hay có những cái màn ngưỡng mộ đàn chị như thế...Những buổi tối rảnh rỗi trong cư xá, bọn cô bu lại quanh chị, bắt kể chuyện tình của chị, toàn là ngang trái, chị vừa nhả khói thuốc vừa uống rượu chát đỏ, mơ màng...vậy là cũng có vài đứa tò mò thử thuốc lá. Điếu thuốc đầu đời của cô đó, nhớ chị Hà vô cùng... Trong những năm 70, nhìn con trai với điếu thuốc trên tay mới là đàn ông. Đôi khi cô nhìn hai ông bạn với hai cách hút thuốc khác nhau, so sánh, xem tướng và thầm chấm điểm...Cô đang tê cả môi miệng, nên nói anh hút đi, cô ngửi khói thuốc là đủ rồi.Anh khôn khéo đi thăm cô một mình nhiều lần, lăng xăng lo lắng cho cô những chuyện nho nhỏ...Anh để ý thấy mấy tuần qua, cô nhờ Thành kiếm cho cô lời của bản nhạc Fernando, lúc đó đang phát sóng suốt ngày trên radio, bị cô nhắc hai lần, thế là ngay hôm sau anh trao tận tay cô bải hát với chữ viết nắn nót như những lá thư tình.Anh nói chuyện không rôm rã như Thành, nhưng chịu lắng nghe. Những lần đi chơi chung, lúc nào cũng có hai người nói và chỉ một người nghe. Cô, hình như thích người nghe cô nói hơn ...Anh chờ... Cứ từ từ mà chờ nghe anh...và đừng quên ...lắng nghe cô ...Áo Vàng(trong tuyển tập truyện ngắn Chuyện cổ tích Xanh ) Mục lục Người con gái mặc áo pull vàng Người con gái mặc áo pull vàng Áo VàngChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: Tác GiảĐược bạn: NgụyXưa đưa lên vào ngày: 6 tháng 12 năm 2010
Yellow shirt The girl wears a yellow t-shirt H Today is her birthday...on paper. But for her, this day is more important than the day she was actually born...it begins a love story as beautiful as a dream and as passionate as poetry...(but don't forget this is still a fairy tale (That's it) In 19.. a long time ago, he took her to eat at a French restaurant on Old Street, with Thanh, his close friend. Today, he wanted to celebrate her birthday, alone with him, but he wasn't sure she would accept, so over the phone, he invited her very naturally, like other times he went out...with all three of them. ...The three of us, for the past few months, have been together everywhere. Thanh, his best friend, has a soft voice and is very northern, he is male, but because he is sitting between two people speaking with a northern accent, he must also be influenced and pronounce her name in a northern accent, it sounds very funny but It's fun... It seems like the two of them don't have girlfriends so they're very... happy. They've graduated and have a job, so they invite her out every weekend with a full entertainment program. She's eager to have fun. There are people looking for something to hang out with...why not...Old Town has very narrow streets, and dark dead ends. It's winter, the roads are deserted, not as busy as summer days, with tourists filling the streets, because this is also one of the city's gathering spots. But when I stepped inside the restaurant, the cozy atmosphere made me completely forget the cold outside which was about 20 degrees below zero. The dinner lasted three hours. The French hostess was polite and gentle but worked very slowly, just like high-end restaurants. Thanh nodded sleepily after a tiring day of work, so he urged the restaurant to serve dessert quickly, but it wasn't until nearly 11pm that they all left. Dropping Thanh off at home, he invited her to go up the mountain to look at the stars... Let's go... Small mountain in the middle of the city, with a lakeside to launch boats in the summer, converted into a ski field in the winter, with vast grassy hills But for everyone to organize picnics on weekends, there are poetic roads lined with maple leaves that make poets wonder in the fall... She doesn't remember whether the sky was clear enough to see the stars that day or not because it was winter. winter...she remembered wearing a yellow pullover, her favorite color...Cars of all colors were parked jostling along the shore, the front of the car facing a starry forest at the foot of the mountain. . The cute, peaceful city that she sent her life as a refugee, in the dark night looks so cozy and beautiful. It was cold, so we sat in the car, turned the heat on full throttle, he held her hand and asked for permission to kiss her... Wow, this person seems so gentle and upright... He actually confessed his love. with her a few days ago... She is in her second year of college. Every Tuesday night, there is a dental cleaning program among students, with instructors. She had a Vietnamese friend in the upper class fill her teeth. At that time, there were only 3 compatriots in the department. From the day we met at a friend's little birthday party, she let him take her home, and from then on he visited her almost every day... He knew she had to do lab work very late at school every night so he often stopped by to pick her up. When she came home, he took her out for late night pho... later on she often blamed him, every time she was scolded she was being harsh... because he raised her so carefully... And that day he also went to school to pick her up. . Looking at her mouth distorted by anesthesia, she must have felt sorry for her, so she took her down the street to drink coffee. This coffee shop is famous among young people, especially students at the nearby university, he was once a student. The room was tiny, the atmosphere was noisy and bustling with smoke, it was not easy to find an empty table...In the middle of the crowd of guests waiting for a table, he and she talked about everything...He asked about her. Have you heard any news from Quy..(she told him about student life in Vietnam during the years she studied, he studied abroad a long time ago)...at some point, she talked about her husband. She was still stuck in her hometown... Then suddenly, while sipping a piece of creme champignon, he made her want to choke... He said he loved her... he asked if he could sortir... oh my god, it was so unexpected. Unexpected but also happy inside... She looked at him, her face was very honest, a little awkward, waiting for her answer... It's true that since the day they met, she had never looked at him closely. like today...He's not handsome, but his facial features are steady, very manly, he's a head taller than her, and he's very skinny...she likes tall and thin men... She still remembers, Her answer was "I like you, but I don't love you yet...". He smiled softly, said, he will wait...with time, he hopes she will love him...Smiled and did not answer, now show him off, before he changed his clothes to go to school that morning, someone called. Phoned from far away to wish you a happy birthday. Well, you have to learn how to be polite at least to not make the other person lose interest... He gave her a Rothman cigarette and said to try smoking it because he knew she always only smoked mint-scented Salem. Her smoking story started when she entered college, and lived in a boarding house with her friend, who was a few years older than her kids. At that time, she started to gain fame in the arts industry, and her short stories were selected. Posted in the Van newspaper, we were dumbfounded in admiration...She was handsome and attractive, there were probably a few girls among the girls who were in love with her...when they were students, they often admired their seniors. like that... On free evenings in the dormitory, the girls gathered around her, asking her to tell her love stories, all of which were perverse, she exhaled cigarette smoke while drinking red wine, daydreaming... so There were also a few curious people who tried cigarettes. That was her first cigarette, I miss Ha so much... In the 70s, looking at a boy with a cigarette in his hand was a man. Sometimes she looks at her two friends with two different ways of smoking, compares, looks at their faces and silently scores... Her lips and mouth are numb, so she tells him to smoke, she smells the smoke and that's enough. You're smart. cleverly visited her alone many times, busy worrying about her little things... He noticed that in the past few weeks, she asked Thanh to find her the lyrics to the song Fernando, which was broadcasting all day on television at that time. radio, she reminded her twice, so the next day he handed her the song with neat handwriting like love letters. He didn't talk as loudly as Thanh, but he listened. When going out together, there are always two people talking and only one person listening. She, it seems, likes people to listen to her more...I wait... Just wait slowly to listen to me...and don't forget...listen to her...Yellow Shirt(in the short story collection Ancient Tales Green area) Table of contents The girl wears a yellow t-shirt The girl wears a yellow t-shirt Yellow Shirt Welcome you to read books from the book project for mobile devices. Source: author: Nguyen Kim Vy. Final words: Thank you for reading the entire story. Source: editor: Nguyen Kim Vy. Source: Author Posted by friend: Wei Xua on: December 6, 2010
Lữ Kiều Người Con Gái Và Chiếc Lồng Chim Trống Nàng đứng ở đó, trong bóng tối mù mờ của bến tàu, như cánh hoa quỳnh. Dòng sông đen, những tiếng động ì ầm xa hút như chiêm bao . Sống mũi thẳng, mái tóc úp vào, đôi môi nhỏ, nàng đứng ở đó - người con gái đứng ở đó, và sau lưng là vũng im của một đời sống khác. Dưới hiên nhà cổ của những tấm ngói âm dương, chiếc lồng chim của nàng đã bỏ trống . Nàng giơ tay cười hiền lành - Chú về, chú về nghe. Chiếc tàu rời bến, dòng sông như cánh chim đại bàng xòe ra và gục cổ vô vọng. Người con trai đưa tay chào. Sương xuống trong đêm nặng nề, mây thấp không trăng sao. Bên đó là Thủ Thiêm. Đến giữa sông - chàng quay lại nhìn. Trên bến, người con gái vẫn đứng, cái bóng trắng nhòe đi, đóa hoa quỳnh khép lại. Người con trai đứng quay lưng về hướng ánh sáng, những chiếc tàu thắp đèn như những con mắt mở lớn. Y đứng bất động, chiếc áo mưa khoác lên hờ hững, đầu đội mũ lọ nồi. Y quẹt cây diêm đốt điếu thuốc, làn khói trắng vu vơ. Làm sao cho y hiểu cái dạng thức tình yêu hư ngụy ấy, làm sao y hiểu sự trưởng thành của ý thức chỉ làm cho tình cảm của y không còn đơn sơ, để nhận cho mình một hạnh phúc bé nhỏ không ăn năn? - Chú, chú cứ cười hoài. Bộ không phải sao? Cả nàng, cũng không hiểu rằng trong cái ngôn từ thân tình đó đã dấu mặt những xao xuyến hỗn mang không hình dạng của ái tình. Nàng cười ròn, đôi mắt dài theo nụ cười, tiếng cười như viên sỏi lăn trên triền dốc. “Bộ không phải sao chú? Chú kỳ quá, Hiền không chịu đâu!”. Giọng miền Nam êm ái, ngọt ngào. Nàng không thể hiểu được. Nàng còn quá trẻ. Người con trai gọi: “Cô bé - cô bé ” - Nàng bèn nhón chân lên cao. “Hiền hổng chịu đâu, người ta lớn dầy mà gọi cô bé goài.” Người con trai vẫn thường sang bên đó vào buổi tối - bước xuống chiếc đò máy, tiếng nổ ròn rã, dòng sông đêm rời vùng ánh sáng. Bước lên chiếc cầu nổi, một vùng ánh sáng khác mù mờ hơn - Những chiếc đèn măng song treo trong tiệm tạp hóa, tiệm ăn, tiệm chè. Cái ánh sáng quê mùa làm ngợp ngàng những cảm tưởng từ bỏ. Sau lưng y là Sài Gòn những phố cao huyền hoặc, cái bóng dáng sừng sững của đô thị chụp xuống sinh hoạt như tấm lưới rộng úp trên đầu. * Bấy giờ, tôi đặt chân đến đây, một vùng đất mới mà sự ngăn cách bởi con sông đã chia lìa cái không gian chung. Tôi ở đây, thở từng thước khí trời mới - oà vỡ những xúc động ngạc nhiên về sự thay đổi ấy - nỗi ngạc nhiên làm quên mất thời gian - Thủ Thiêm đen như nỗi nhớ. Người con trai nhớ gì? Chiếc mũ lọ nồi những ngày thơ ấu, cái rét căm căm vùng thượng du Bắc Việt. Buổi sớm trở dậy, sương muối dầy đặc trên đỉnh cây, mở cánh cửa nhìn ra khu rừng đen tím, im lìm những thần linh bí mật, đứa bé có bao giờ nghĩ đến Sài Gòn. Sài Gòn như một thế giới khác, một đất nước khác, một quê người … Nhưng bây giờ, Sài Gòn là nơi chốn y dung thân. Và cái quê hương rét căm căm với chiếc mũ lọ nồi thơ ấu chỉ còn trong trí nhớ. Tất cả xa hút như bóng dáng những con chim mịt mù không mày mặt. Ngàn cây số đường bay đã biến những vùng đất thành khoảng cách xa biền biệt, trí nhớ không còn lành lặn, chỉ còn vá víu những hình nét mơ hồ thuộc một ngôi nhà cổ, ngọn đồi và gió rét từ khu rừng trước mặt đồi lùa đến. Những con ngựa thồ lông đỏ, những người Mèo lưng đeo gù lầm lũi cúi đầu, ngược đường lên giốc, từ tinh mơ của buổi sáng phiên chợ . Tôi không còn nhớ quê hương. Xin trả lại tôi những sợi dây cột tôi với thời nhỏ ấy . Bởi - giờ đây, tôi là kẻ lưu đày nơi quê nhà. Tôi sợ hãi và lo âu một ngày nào trở thành con thú rừng, giống như loài chó, mèo hoang khi không còn ở trong mái nhà ấm cúng khói cơm. Nơi đâu là chỗ của tôi? Nơi đâu là căn phần tôi? Hiền, chú buồn lắm, Hiền có phải là nơi an nghỉ của chú? * Trên sân lát gạch, dưới chiếc lồng chim trống, người con gái mặc áo trắng. Nàng ngồi trên ghế đẩu, nàng lật chiếc ghế xuống rồi ngồi trên những thanh chân ghế. Nàng nói nàng thích ngồi như vậy, nàng có cảm tưởng mình gần với mặt đất. Bóng tối đen nhẹ nhàng, tứ bề yên tỉnh, chiếc phi cơ bay rù rù, chớp đèn xanh đỏ, những ngôi sao lung linh. Người con gái nhìn bạn, cười thương mến - người con trai ngồi bên cạnh nàng, nhìn nàng dịu dàng, nghe nàng kể chuyện. Giọng nói thao thao - những hình ảnh nàng gợi ra tự nhiên và bình thường. Nàng kể về quê nàng, cha nàng, về những cánh đồng lúa và chuột, về những đóa hoa. Rồi nàng kể về những con chim nàng nuôi. Bất chợt, nàng dừng lại, đột ngột chỉ lên chiếc lồng chim trống hỏi người bạn trai : - Đố chú, tại sao chiếc lồng chim bỏ trống? Người con trai cười khan, lắc đầu: - Chú không biết. Tại sao? Nhưng nàng không trả lời. Nàng không nói gì, cho đến khi chàng ra về. Bấy giờ nàng mới nói, giọng buồn bã: - Chú đoán đi, Hiền không nói đâu. Người con trai, trong một cử chỉ trử tình, dịu dàng nắm tay nàng. Y không nghĩ gì cả, chỉ có bóng đêm nồng nàn như hơi thở bối rối. * Tôi muốn nằm xuống trên những tấm gạch kia, ngó lên trời sao, và được khóc một mình không che dấu. Thật ra, có lúc người con trai đã mơ, mơ về chốn cũ. Giấc mơ của người tuổi trẻ, buổi chiều nọ, trở về, nhưng không còn ai nhận ra chàng nữa. Những người thân của chàng, bạn bè chàng đều đã chết. Căn nhà cũ nằm im bên đường, lối mòn cỏ mọc lên cao và rêu xanh đầy trên mái ngói. Một kẻ lạ bước ra mở cửa cho chàng. Chàng đứng im một lúc, rồi xin được vào nhà thăm căn nhà - nơi chàng đã sống những ngày đầu tiên của đời mình. Chàng bước vào căn phòng - nhìn ra khuôn cửa sau. Cánh cửa mờ đục, xa xa là khu rừng đen tím. Chàng tựa đầu vào bức tường mốc meo, và nói: - Tôi là Đạm. Không ai trả lời. Tôi là Đạm . Mọi người đều đã chết. Nhưng điều quan trọng là tôi đã trở về. Về như tự hủy diệt một quá khứ. Hiền còn nhỏ, làm sao hiểu được. Làm sao hiểu được điều buồn bã ấy trong đời người đàn ông? Có thể, lòng thương mến hiền thục của người con gái đã đem người con trai ra khỏi những cơn nhung nhớ khốc liệt về một quê hương không còn rõ mặt. Không thể tìm trong Sài Gòn cái hơi gió vùng miền núi Bắc Việt. Vết thương nằm yên, vết sẹo chưa lành lặn, đụng vào còn nhức nhối. Tưởng tượng về một quê hương không còn trong trí nhớ - còn chi đau lòng hơn! Người con trai sống như lưu đày - Y đã quá tuổi mơ mộng đắm đuối để sống hùng dũng với quả tim nồng nàn. Giờ - Y muốn tìm một nghĩa vĩnh cửu cho đời mình. Y thèm sự thanh bình của tâm hồn - không thể lưu lạc mãi. Nhưng bên đó, phía bên kia sông của thành phố này, dưới mái nhà cổ lợp ngói âm dương, với bóng người con gái hiền lành và chiếc lồng chim trống của nàng, người con trai hiểu rõ rằng đó không phải là quê hương của mình. Gia nhập với đời sống đó là từ chối quá khứ, từ chối ràng buộc đã giữ Y trong mối quan hệ thần thoại giữa những kẻ không còn bao giờ gặp mặt. Tôi vẫn nuôi hy vọng trở về với cha mẹ tôi, bạn bè tôi, trở về như đứa bé ngày xưa nguyên lành với những xúc động dại khờ cũ. Làm sao cho tôi tìm lại một quê hương. Bây giờ, người con trai nhớ lại. Hình như khi Y buông tay nàng ra, người con gái khóc. Đôi mắt nàng thật hiền lành. Nàng đứng yên nơi bến. Nàng không nói gì, còn người con trai thì châm thuốc hút. Chuyến đò máy chạy gần lại. Trước đó, người con gái nói: - Chú, rồi Hiền phải lấy chồng. Khi chiếc đò đỗ lại, người con trai sắp bước xuống, họ cầm tay nhau. Nàng cười héo hắt Chú về, chú về nghe. Giống như bao nhiêu lần trước. Nhưng lần này là lần cuối. Phải chọn lựa. Hoặc là trở lại - không phải như người chú nữa - hoặc là vĩnh biệt. Người con trai nhớ đến chiếc lồng chim trống. Tại sao những con chim bay mất? Có thể, một lần nào người con gái mở cửa lồng cho chim ăn rồi quên đóng cửa lại. Có thể, một lần nào, những con chim tù túng kêu lên thảm thiết, khiến nàng không cầm lòng được, đã thả cho chim bay đi. Hoặc là bọn con nít hàng xóm nghịch tinh, thấy nàng quá yêu chim, muốn làm nàng đau khổ - đã lén giải thoát những con chim ấy. Phải, cái bàn tay lạnh buốt run run ấy, cùng giọng nói cảm động: Chú, rồi Hiền phải lấy chồng. Phải chọn lựa. Hoặc không bao giờ trở lại. Người con gái vẫn sống ở đó, trong thế giới của nàng, cùng sự bí mật của con chim và chiếc lồng trống. Hoặc là người con trai sẽ không trở về vùng thượng du ấu thời. Người con trai dừng lại nơi này. Mỗi buổi tối ngồi trên cái sân lát gạch, bên cạnh người con gái, dưới chiếc lồng chim trống. Và quên, quên cái trí nhớ cay nghiệt và nhức nhối của đời mình. Mục lục Người Con Gái Và Chiếc Lồng Chim Trống Người Con Gái Và Chiếc Lồng Chim Trống Lữ KiềuChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: ĐacTrungĐược bạn: Ct.Ly đưa lên vào ngày: 19 tháng 12 năm 2005
Lữ Kiều Người Con Gái Và Chiếc Lồng Chim Trống Nàng đứng ở đó, trong bóng tối mù mờ của bến tàu, như cánh hoa quỳnh. Dòng sông đen, những tiếng động ì ầm xa hút như chiêm bao . Sống mũi thẳng, mái tóc úp vào, đôi môi nhỏ, nàng đứng ở đó - người con gái đứng ở đó, và sau lưng là vũng im của một đời sống khác. Dưới hiên nhà cổ của những tấm ngói âm dương, chiếc lồng chim của nàng đã bỏ trống . Nàng giơ tay cười hiền lành - Chú về, chú về nghe. Chiếc tàu rời bến, dòng sông như cánh chim đại bàng xòe ra và gục cổ vô vọng. Người con trai đưa tay chào. Sương xuống trong đêm nặng nề, mây thấp không trăng sao. Bên đó là Thủ Thiêm. Đến giữa sông - chàng quay lại nhìn. Trên bến, người con gái vẫn đứng, cái bóng trắng nhòe đi, đóa hoa quỳnh khép lại. Người con trai đứng quay lưng về hướng ánh sáng, những chiếc tàu thắp đèn như những con mắt mở lớn. Y đứng bất động, chiếc áo mưa khoác lên hờ hững, đầu đội mũ lọ nồi. Y quẹt cây diêm đốt điếu thuốc, làn khói trắng vu vơ. Làm sao cho y hiểu cái dạng thức tình yêu hư ngụy ấy, làm sao y hiểu sự trưởng thành của ý thức chỉ làm cho tình cảm của y không còn đơn sơ, để nhận cho mình một hạnh phúc bé nhỏ không ăn năn? - Chú, chú cứ cười hoài. Bộ không phải sao? Cả nàng, cũng không hiểu rằng trong cái ngôn từ thân tình đó đã dấu mặt những xao xuyến hỗn mang không hình dạng của ái tình. Nàng cười ròn, đôi mắt dài theo nụ cười, tiếng cười như viên sỏi lăn trên triền dốc. “Bộ không phải sao chú? Chú kỳ quá, Hiền không chịu đâu!”. Giọng miền Nam êm ái, ngọt ngào. Nàng không thể hiểu được. Nàng còn quá trẻ. Người con trai gọi: “Cô bé - cô bé ” - Nàng bèn nhón chân lên cao. “Hiền hổng chịu đâu, người ta lớn dầy mà gọi cô bé goài.” Người con trai vẫn thường sang bên đó vào buổi tối - bước xuống chiếc đò máy, tiếng nổ ròn rã, dòng sông đêm rời vùng ánh sáng. Bước lên chiếc cầu nổi, một vùng ánh sáng khác mù mờ hơn - Những chiếc đèn măng song treo trong tiệm tạp hóa, tiệm ăn, tiệm chè. Cái ánh sáng quê mùa làm ngợp ngàng những cảm tưởng từ bỏ. Sau lưng y là Sài Gòn những phố cao huyền hoặc, cái bóng dáng sừng sững của đô thị chụp xuống sinh hoạt như tấm lưới rộng úp trên đầu. * Bấy giờ, tôi đặt chân đến đây, một vùng đất mới mà sự ngăn cách bởi con sông đã chia lìa cái không gian chung. Tôi ở đây, thở từng thước khí trời mới - oà vỡ những xúc động ngạc nhiên về sự thay đổi ấy - nỗi ngạc nhiên làm quên mất thời gian - Thủ Thiêm đen như nỗi nhớ. Người con trai nhớ gì? Chiếc mũ lọ nồi những ngày thơ ấu, cái rét căm căm vùng thượng du Bắc Việt. Buổi sớm trở dậy, sương muối dầy đặc trên đỉnh cây, mở cánh cửa nhìn ra khu rừng đen tím, im lìm những thần linh bí mật, đứa bé có bao giờ nghĩ đến Sài Gòn. Sài Gòn như một thế giới khác, một đất nước khác, một quê người … Nhưng bây giờ, Sài Gòn là nơi chốn y dung thân. Và cái quê hương rét căm căm với chiếc mũ lọ nồi thơ ấu chỉ còn trong trí nhớ. Tất cả xa hút như bóng dáng những con chim mịt mù không mày mặt. Ngàn cây số đường bay đã biến những vùng đất thành khoảng cách xa biền biệt, trí nhớ không còn lành lặn, chỉ còn vá víu những hình nét mơ hồ thuộc một ngôi nhà cổ, ngọn đồi và gió rét từ khu rừng trước mặt đồi lùa đến. Những con ngựa thồ lông đỏ, những người Mèo lưng đeo gù lầm lũi cúi đầu, ngược đường lên giốc, từ tinh mơ của buổi sáng phiên chợ . Tôi không còn nhớ quê hương. Xin trả lại tôi những sợi dây cột tôi với thời nhỏ ấy . Bởi - giờ đây, tôi là kẻ lưu đày nơi quê nhà. Tôi sợ hãi và lo âu một ngày nào trở thành con thú rừng, giống như loài chó, mèo hoang khi không còn ở trong mái nhà ấm cúng khói cơm. Nơi đâu là chỗ của tôi? Nơi đâu là căn phần tôi? Hiền, chú buồn lắm, Hiền có phải là nơi an nghỉ của chú? * Trên sân lát gạch, dưới chiếc lồng chim trống, người con gái mặc áo trắng. Nàng ngồi trên ghế đẩu, nàng lật chiếc ghế xuống rồi ngồi trên những thanh chân ghế. Nàng nói nàng thích ngồi như vậy, nàng có cảm tưởng mình gần với mặt đất. Bóng tối đen nhẹ nhàng, tứ bề yên tỉnh, chiếc phi cơ bay rù rù, chớp đèn xanh đỏ, những ngôi sao lung linh. Người con gái nhìn bạn, cười thương mến - người con trai ngồi bên cạnh nàng, nhìn nàng dịu dàng, nghe nàng kể chuyện. Giọng nói thao thao - những hình ảnh nàng gợi ra tự nhiên và bình thường. Nàng kể về quê nàng, cha nàng, về những cánh đồng lúa và chuột, về những đóa hoa. Rồi nàng kể về những con chim nàng nuôi. Bất chợt, nàng dừng lại, đột ngột chỉ lên chiếc lồng chim trống hỏi người bạn trai : - Đố chú, tại sao chiếc lồng chim bỏ trống? Người con trai cười khan, lắc đầu: - Chú không biết. Tại sao? Nhưng nàng không trả lời. Nàng không nói gì, cho đến khi chàng ra về. Bấy giờ nàng mới nói, giọng buồn bã: - Chú đoán đi, Hiền không nói đâu. Người con trai, trong một cử chỉ trử tình, dịu dàng nắm tay nàng. Y không nghĩ gì cả, chỉ có bóng đêm nồng nàn như hơi thở bối rối. * Tôi muốn nằm xuống trên những tấm gạch kia, ngó lên trời sao, và được khóc một mình không che dấu. Thật ra, có lúc người con trai đã mơ, mơ về chốn cũ. Giấc mơ của người tuổi trẻ, buổi chiều nọ, trở về, nhưng không còn ai nhận ra chàng nữa. Những người thân của chàng, bạn bè chàng đều đã chết. Căn nhà cũ nằm im bên đường, lối mòn cỏ mọc lên cao và rêu xanh đầy trên mái ngói. Một kẻ lạ bước ra mở cửa cho chàng. Chàng đứng im một lúc, rồi xin được vào nhà thăm căn nhà - nơi chàng đã sống những ngày đầu tiên của đời mình. Chàng bước vào căn phòng - nhìn ra khuôn cửa sau. Cánh cửa mờ đục, xa xa là khu rừng đen tím. Chàng tựa đầu vào bức tường mốc meo, và nói: - Tôi là Đạm. Không ai trả lời. Tôi là Đạm . Mọi người đều đã chết. Nhưng điều quan trọng là tôi đã trở về. Về như tự hủy diệt một quá khứ. Hiền còn nhỏ, làm sao hiểu được. Làm sao hiểu được điều buồn bã ấy trong đời người đàn ông? Có thể, lòng thương mến hiền thục của người con gái đã đem người con trai ra khỏi những cơn nhung nhớ khốc liệt về một quê hương không còn rõ mặt. Không thể tìm trong Sài Gòn cái hơi gió vùng miền núi Bắc Việt. Vết thương nằm yên, vết sẹo chưa lành lặn, đụng vào còn nhức nhối. Tưởng tượng về một quê hương không còn trong trí nhớ - còn chi đau lòng hơn! Người con trai sống như lưu đày - Y đã quá tuổi mơ mộng đắm đuối để sống hùng dũng với quả tim nồng nàn. Giờ - Y muốn tìm một nghĩa vĩnh cửu cho đời mình. Y thèm sự thanh bình của tâm hồn - không thể lưu lạc mãi. Nhưng bên đó, phía bên kia sông của thành phố này, dưới mái nhà cổ lợp ngói âm dương, với bóng người con gái hiền lành và chiếc lồng chim trống của nàng, người con trai hiểu rõ rằng đó không phải là quê hương của mình. Gia nhập với đời sống đó là từ chối quá khứ, từ chối ràng buộc đã giữ Y trong mối quan hệ thần thoại giữa những kẻ không còn bao giờ gặp mặt. Tôi vẫn nuôi hy vọng trở về với cha mẹ tôi, bạn bè tôi, trở về như đứa bé ngày xưa nguyên lành với những xúc động dại khờ cũ. Làm sao cho tôi tìm lại một quê hương. Bây giờ, người con trai nhớ lại. Hình như khi Y buông tay nàng ra, người con gái khóc. Đôi mắt nàng thật hiền lành. Nàng đứng yên nơi bến. Nàng không nói gì, còn người con trai thì châm thuốc hút. Chuyến đò máy chạy gần lại. Trước đó, người con gái nói: - Chú, rồi Hiền phải lấy chồng. Khi chiếc đò đỗ lại, người con trai sắp bước xuống, họ cầm tay nhau. Nàng cười héo hắt Chú về, chú về nghe. Giống như bao nhiêu lần trước. Nhưng lần này là lần cuối. Phải chọn lựa. Hoặc là trở lại - không phải như người chú nữa - hoặc là vĩnh biệt. Người con trai nhớ đến chiếc lồng chim trống. Tại sao những con chim bay mất? Có thể, một lần nào người con gái mở cửa lồng cho chim ăn rồi quên đóng cửa lại. Có thể, một lần nào, những con chim tù túng kêu lên thảm thiết, khiến nàng không cầm lòng được, đã thả cho chim bay đi. Hoặc là bọn con nít hàng xóm nghịch tinh, thấy nàng quá yêu chim, muốn làm nàng đau khổ - đã lén giải thoát những con chim ấy. Phải, cái bàn tay lạnh buốt run run ấy, cùng giọng nói cảm động: Chú, rồi Hiền phải lấy chồng. Phải chọn lựa. Hoặc không bao giờ trở lại. Người con gái vẫn sống ở đó, trong thế giới của nàng, cùng sự bí mật của con chim và chiếc lồng trống. Hoặc là người con trai sẽ không trở về vùng thượng du ấu thời. Người con trai dừng lại nơi này. Mỗi buổi tối ngồi trên cái sân lát gạch, bên cạnh người con gái, dưới chiếc lồng chim trống. Và quên, quên cái trí nhớ cay nghiệt và nhức nhối của đời mình. Mục lục Người Con Gái Và Chiếc Lồng Chim Trống Người Con Gái Và Chiếc Lồng Chim Trống Lữ KiềuChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: ĐacTrungĐược bạn: Ct.Ly đưa lên vào ngày: 19 tháng 12 năm 2005
Phan thị vàng Anh Người có học Một lớp ngoại khoá mở ra cho những sinh viên chăm chỉ trong dịp hè. Mỗi người có một phiếu vào lớp với số ghế cố định, có nghĩa là dù đi sớm hay muộn, anh vẫn có một chỗ ngồi đàng hoàng. Nhầm to! Ban tổ chức lớp nhầm to, ngày nào cũng có cãi vã đòi chỗ: số người nhiều hơn số ghế và đâu phải chỗ nào cũng dễ nhìn thấy bảng đen.Tôi ngồi ghế số một, hàng hai, ở một góc mà từ đây tôi phải liếc về bảng chứ không nhìn thẳng được. Một cái quạt trong góc giảng đường luôn làm đầu tóc tôi rối tung rối mù, vở lật tứ tung. Ba giờ học trôi qua như trong cơn giông. Tóm lại là cũng chẳng béo bở gì! Vậy mà cũng không thoát. Vào buổi học thứ ba, tôi đi muộn năm phút. Một anh béo tóc xoăn đang ngọ nguậy trong cái ghế của tôi. Co mình lại vì ý thức được rằng cả cái giảng đường dốc ngược kia đang ngồi nhìn xuống mà tôi thì đang đứng, tôi bảo : "Anh ơi! Chỗ này của em!". "Giấy đâu?". Tôi buồn cười, rút tờ giấy có ghi số ghế đưa anh béo, cảm thấy hành động của mình sao mà khúm núm giống như các gia đình có công đi nộp một tờ giấy chứng nhận thành tích cho cán bộ phường để xin một mảnh đất làm nhà. Anh béo đọc xong, rất thờ ơ và công chức, bảo tôi: "Đợi tí được không? Để tôi nghe nốt đoạn này đã!". Tôi cũng không nhớ đã nói gì, hình như là nằng nặc đòi lại cái ghế bão gió của mình. Không phải để ngồi nghe giảng nữa, đơn giản là tôi sợ bị quê, tôi cần phải chứng tỏ cho cả một đống người đang nhìn xuống kia rằng đây là cái ghế của tôi, rằng nãy giờ tôi đòi ghế chứ không phải xin ghế... Cuối cùng, thằng béo ấy cũng rút, để lại một câu chửi tôi không nghe rõ. Một vụ tranh chấp cũng khá nhẹ nhàng, tôi không có gì là ghê gớm lắm...Buổi học thứ năm. Kem bảo tôi: "Đi sớm để khỏi phải đòi ghế!". Vào sớm nhưng trong cái ghế của tôi, một cô nàng đang chống cằm tư lự, mắt nhìn xa xôi... Lần nay, hùng dũng hơn, tôi cười: "Chị ơi, tôi ngồi chỗ này!". Một đôi mắt xếch ngược ngước lên nhìn tôi rồi cô ả nói như ra lệnh: "Chị đuổi cái anh đang ngồi ghế số chín ra đi rồi tôi trả lại chỗ!" "Sao kỳ vậy?" Tôi hoàn toàn đảo điên trước con người này."Ghế số 9 là của tôi, ảnh chiếm, tôi đuổi không ra!". "Đó là chuyện của chị, chị đuổi không được nên sang lấy ghế của tôi sao?". Tôi lắp bắp, thấy mình có vẻ hèn hèn sao đó. Một cái cười khinh bạc như cái cười của nữ tặc và nó bảo: "Không biết, tôi không đi! Chị mời ban tổ chức lại đây!". Mọi thứ đều u mê đi trong tôi, tôi đứng đó gọi Kem: "Kem, anh Huy đâu?" Anh Huy - người hùng của những ai bị chiếm chỗ- hôm nay biến mất. Hoảng loạn (và cũng không hiểu vì sao tôi hoảng loạn lên như vậy ), tôi hỏi câu ấy bốn năm lần dù Kem đã bảo: "Không thấy". Kem cũng đang đằng đằng sát khí ở cái ghế của nó! Tôi nhìn tất cả, thấy sao ai cũng kinh khủng quá, trơ tráo quá. Tôi bảo nữ tặc mắt xếch ấy: "Chị ra đi!". "Không, tôi không đi!". Mọi người đã bắt đầu nhìn tôi và tôi ngượng, một câu nói như đưa con hoang tự động vọt ra miệng: "Chị đừng có ăn nói du côn như thế!". Và con người ấy ngồi thẳng lên. Một cái áo soie hồng kín cổ, tay phồng, một mái tóc dài kẹp lưng đoan trang, như một nhà đạo đức, bảo tôi: "Này! Vào đại học rồi, chúng ta là những người có học, đừng có dùng chữ du côn ở đây. Khi chị nói chữ đó ra, chị đã mật dạy hơn người ta rồi đấy!". Và khoảng một chục cặp mắt xung quanh nhìn tôi, nhìn một đứa ngày thường vẫn được coi là ngổ ngáo giờ đã có người trị. Tôi không nhận ra được ai quen ai lạ trong đám đó, tự nhiên thấy sợ hãi: "Hay mình mất dạy thật?". Tôi thấy mọi chuyện như trong mơ. Một ví von rất tiểu thuyết nhưng đúng là như vậy. Vì thế tôi hành động một cách u mê. Những tác phong bạo dạn ngày thường tôi bỏ đi sạch! Tôi cảm thấy hình như cái cổ áo mình quá rộng, cái đầu mình quá ngắn, cái quần mình quá to... Tóm lại là không có học tí nào! Một loạt ý nghĩ diễn ra như chớp trong đầu tôi lúc ấy, để bây giờ quay chậm lại, ấy là tôi cảm thấy cô đơn vô cùng. Tôi nhớ đến Mỹ, con bạn "vườn" của tôi. Nó đi làm ở một xưởng may mặc, vào làm đựoc hai tháng đã suýt đánh nhau ba lần chỉ vì cáu tiết, bất bình bé tí, vậy mà về nhà nó như em tôi. Tôi ngồi nơi bàn học bài thi, nó nằm dưới đất, thò hai chân vào gầm, đọc truyện trinh thám... Trời đất, tôi mong có nó ở cạnh biết bao nhiêu. Không bị ràng buộc bởi chữ học to tướng, nó sẽ nhảy vào thộp cổ, vò nát cái áo soie hồng kia cho đúng luật và bảo con ấy một cách vô cùng đơn giản, minh bạch: "Tao không cần biết, chỗ tao, mày lấy là tao đánh!". Rồi tôi nhớ đến Luynh của tôi với cái đầu tóc lộn xộn, với một nghề nghiệp mọi người coi là hư hỏng. Tôi muốn có phép lạ nào đó khiến mình tự nhiên biến mất trước hàng trăm cặp mắt kia, bay vù một cái về bên Luynh, ở một cái quán nào đó, nghe nó nói bậy cũng được, sặc sụa vì khói thuốc nó hút... Hình như tôi hợp với thế giới đó hơn. Trong cái thế giới bị coi là mất dạy của tụi nó, chuyện gì cũng được hiểu theo nghĩa đen, sòng phẳng. Ơ đó, một hành động nghĩa hiệp có thể tiến hành song song với một câu chửi thề. Cũng chẳng ai ý thức được câu chỉ đó có ý nghĩa gì, đơn giản là quen miệng vậy thôi. Và hình như tiếng chửi đó thốt ra mạnh bạo chỉ cốt để che giấu sự bối rối vụng về của một người bị coi là vô đạo đức nay lại đi làm việc thiện.... Bất lực. Những người xung quanh không ai nói gì, tôi đi tìm một ai đó có máu mặt. Ơ văn phòng Đoàn, cửa đóng. Ơ thư quán, cửa cũng đóng. Tôi bò lại giảng đường, lo âu và uất ức, chẳng lẽ mình thua sao! Nhưng quả thật, ở đây, giữa một đám trí thức tương lai này, tôi không được xử sự như ở ngoài đường. Ơ đây, một cái trừng mắt, một năm tay nổi gân khẽ đưa lên cũng có thể khiến những con người tinh tế ấy cảm thấy bị tổn thương kinh khủng. Tôi đứng lại cạnh Nghiệm, một người quen khác lớp. Nghiệm chỉ: "Anh Khoa kìa!". Và tôi rối rít kêu gọi anh cán bộ lớp ấy, cũng là một việc khá vất vả! Rồi như đứa bé dẫn mẹ đến gặp đứa đã bắt nạt mình để rồi bẽ bàng khi hiểu rằng cái thằng ấy mới là con ruột của bà, còn mình chỉ là con nuôi, tôi lại lâm vào trạng thái hư thực khi anh Khoa cười cười, nó với cái áo hồng: "à, bạn của X. à! Xin lỗi nhé, xin lỗi nhé... ", và :"Xuyên, em chịu khó một chút qua góc kia được không?". Bay giờ tôi mới hiểu thế nào là công lý. Nó vô vọng và thật không định nghĩa nổi. Cái ghế của tôi mà tôi phải bỏ đi, phải thu xếp một chỗ khác sau bao nhiêu thời gian đứng ngượng nghịu giữa mọt đám người ngồi, lại còn bị chửi nữa chứ... Không nhớ tôi đã nó gì, anh Khoa loay hoay khó xử đã nó gì, cái áo hồng kia đã nó gì, chỉ nhớ kết cục, dưới sự điều động của anh Khoa, một bạn trai đã tìm một cái nghế phụ, nhường chỗ cho cái áo hồng, và tôi rơi phịch vào cái ghế của tôi. Mọi người nhìn tôi khó chịu vì các mặt sưng sỉa đau đơn không biết kiềm chế tình cảm. Dở thật! Tôi quay sang con bé đó. Nó vẫn đạo mạo như không, tay chống cằm, đầu gật gật, mắt chớp theo lời thầy giảng, rất đúng tác phong con nhà!Ba tiết sau đó, tôi hầu như không nghe, không hiểu được gì. Dù mọi việc đã ổn, tôi vẫn cảm thấy đau đớn vì nhận ra mình là một đứa hèn, chỉ giỏi ở nhà bắt nạt mẹ và bà, đau đớn vì ngượng và ngượng vì tác phong bặm trợn hàng ngày của mình rốt cuộc chỉ là một cái vỏ rỗng.Tôi về, tôi chạy như bay đến nhà Mỹ. Nó mặc cái áo pun xanh, một cái quần soọc, ngồi chồm hỗm trên cái ghế đá nhìn tôi trêu chọc: "Sao có vẻ tức giận thế kia hả con?". Tôi kể lại, nó vừa nghe vừa chửi luôn miệng, nhiều nhất là chửi tôi. Nó dài mồm: "Đại học! Là những người có học! Sao mày không cho cái con đạo đức giả ấy một bợp, hỏi nó: Mầy biết tao là ai không?". Rồi Mỹ nhìn toi từ đầu đến chân thảm hại, phì cười: "Mọi ngày dữ lắm mà?". "Không, quả thật tao chưa bao giờ gặp chuyện ngang ngược như vậy, tạo lạ quá nên không biết làm sao!". Mỹ lại nổi cáu: "Không biết làm sao! Tụi này phải để tao xử luật rừng. Mẹ, đồ vô học!". Tôi bảo: Mày mở miệng là chửi thề, cái miệng bẩn kinh khủng!". Mỹ nhìn tôi, cười đơn giản: "Cà phê?"Và tôi ngồi sau xe, bình an và cũng chẳng còn giận hờn gì cả. Tôi thấy mình hình như là hai nửa con người, nửa hướng thiện và nửa hướng ác. Lúc này, nửa hướng thiện đang trên đường ra quán cà phê.( Phan Thị Vàng Anh ) Mục lục Người có học Người có học Phan thị vàng AnhChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: HùngĐược bạn: Thành Viên VNthuquan đưa lên vào ngày: 27 tháng 12 năm 2003
Phan thị vàng Anh Người có học Một lớp ngoại khoá mở ra cho những sinh viên chăm chỉ trong dịp hè. Mỗi người có một phiếu vào lớp với số ghế cố định, có nghĩa là dù đi sớm hay muộn, anh vẫn có một chỗ ngồi đàng hoàng. Nhầm to! Ban tổ chức lớp nhầm to, ngày nào cũng có cãi vã đòi chỗ: số người nhiều hơn số ghế và đâu phải chỗ nào cũng dễ nhìn thấy bảng đen.Tôi ngồi ghế số một, hàng hai, ở một góc mà từ đây tôi phải liếc về bảng chứ không nhìn thẳng được. Một cái quạt trong góc giảng đường luôn làm đầu tóc tôi rối tung rối mù, vở lật tứ tung. Ba giờ học trôi qua như trong cơn giông. Tóm lại là cũng chẳng béo bở gì! Vậy mà cũng không thoát. Vào buổi học thứ ba, tôi đi muộn năm phút. Một anh béo tóc xoăn đang ngọ nguậy trong cái ghế của tôi. Co mình lại vì ý thức được rằng cả cái giảng đường dốc ngược kia đang ngồi nhìn xuống mà tôi thì đang đứng, tôi bảo : "Anh ơi! Chỗ này của em!". "Giấy đâu?". Tôi buồn cười, rút tờ giấy có ghi số ghế đưa anh béo, cảm thấy hành động của mình sao mà khúm núm giống như các gia đình có công đi nộp một tờ giấy chứng nhận thành tích cho cán bộ phường để xin một mảnh đất làm nhà. Anh béo đọc xong, rất thờ ơ và công chức, bảo tôi: "Đợi tí được không? Để tôi nghe nốt đoạn này đã!". Tôi cũng không nhớ đã nói gì, hình như là nằng nặc đòi lại cái ghế bão gió của mình. Không phải để ngồi nghe giảng nữa, đơn giản là tôi sợ bị quê, tôi cần phải chứng tỏ cho cả một đống người đang nhìn xuống kia rằng đây là cái ghế của tôi, rằng nãy giờ tôi đòi ghế chứ không phải xin ghế... Cuối cùng, thằng béo ấy cũng rút, để lại một câu chửi tôi không nghe rõ. Một vụ tranh chấp cũng khá nhẹ nhàng, tôi không có gì là ghê gớm lắm...Buổi học thứ năm. Kem bảo tôi: "Đi sớm để khỏi phải đòi ghế!". Vào sớm nhưng trong cái ghế của tôi, một cô nàng đang chống cằm tư lự, mắt nhìn xa xôi... Lần nay, hùng dũng hơn, tôi cười: "Chị ơi, tôi ngồi chỗ này!". Một đôi mắt xếch ngược ngước lên nhìn tôi rồi cô ả nói như ra lệnh: "Chị đuổi cái anh đang ngồi ghế số chín ra đi rồi tôi trả lại chỗ!" "Sao kỳ vậy?" Tôi hoàn toàn đảo điên trước con người này."Ghế số 9 là của tôi, ảnh chiếm, tôi đuổi không ra!". "Đó là chuyện của chị, chị đuổi không được nên sang lấy ghế của tôi sao?". Tôi lắp bắp, thấy mình có vẻ hèn hèn sao đó. Một cái cười khinh bạc như cái cười của nữ tặc và nó bảo: "Không biết, tôi không đi! Chị mời ban tổ chức lại đây!". Mọi thứ đều u mê đi trong tôi, tôi đứng đó gọi Kem: "Kem, anh Huy đâu?" Anh Huy - người hùng của những ai bị chiếm chỗ- hôm nay biến mất. Hoảng loạn (và cũng không hiểu vì sao tôi hoảng loạn lên như vậy ), tôi hỏi câu ấy bốn năm lần dù Kem đã bảo: "Không thấy". Kem cũng đang đằng đằng sát khí ở cái ghế của nó! Tôi nhìn tất cả, thấy sao ai cũng kinh khủng quá, trơ tráo quá. Tôi bảo nữ tặc mắt xếch ấy: "Chị ra đi!". "Không, tôi không đi!". Mọi người đã bắt đầu nhìn tôi và tôi ngượng, một câu nói như đưa con hoang tự động vọt ra miệng: "Chị đừng có ăn nói du côn như thế!". Và con người ấy ngồi thẳng lên. Một cái áo soie hồng kín cổ, tay phồng, một mái tóc dài kẹp lưng đoan trang, như một nhà đạo đức, bảo tôi: "Này! Vào đại học rồi, chúng ta là những người có học, đừng có dùng chữ du côn ở đây. Khi chị nói chữ đó ra, chị đã mật dạy hơn người ta rồi đấy!". Và khoảng một chục cặp mắt xung quanh nhìn tôi, nhìn một đứa ngày thường vẫn được coi là ngổ ngáo giờ đã có người trị. Tôi không nhận ra được ai quen ai lạ trong đám đó, tự nhiên thấy sợ hãi: "Hay mình mất dạy thật?". Tôi thấy mọi chuyện như trong mơ. Một ví von rất tiểu thuyết nhưng đúng là như vậy. Vì thế tôi hành động một cách u mê. Những tác phong bạo dạn ngày thường tôi bỏ đi sạch! Tôi cảm thấy hình như cái cổ áo mình quá rộng, cái đầu mình quá ngắn, cái quần mình quá to... Tóm lại là không có học tí nào! Một loạt ý nghĩ diễn ra như chớp trong đầu tôi lúc ấy, để bây giờ quay chậm lại, ấy là tôi cảm thấy cô đơn vô cùng. Tôi nhớ đến Mỹ, con bạn "vườn" của tôi. Nó đi làm ở một xưởng may mặc, vào làm đựoc hai tháng đã suýt đánh nhau ba lần chỉ vì cáu tiết, bất bình bé tí, vậy mà về nhà nó như em tôi. Tôi ngồi nơi bàn học bài thi, nó nằm dưới đất, thò hai chân vào gầm, đọc truyện trinh thám... Trời đất, tôi mong có nó ở cạnh biết bao nhiêu. Không bị ràng buộc bởi chữ học to tướng, nó sẽ nhảy vào thộp cổ, vò nát cái áo soie hồng kia cho đúng luật và bảo con ấy một cách vô cùng đơn giản, minh bạch: "Tao không cần biết, chỗ tao, mày lấy là tao đánh!". Rồi tôi nhớ đến Luynh của tôi với cái đầu tóc lộn xộn, với một nghề nghiệp mọi người coi là hư hỏng. Tôi muốn có phép lạ nào đó khiến mình tự nhiên biến mất trước hàng trăm cặp mắt kia, bay vù một cái về bên Luynh, ở một cái quán nào đó, nghe nó nói bậy cũng được, sặc sụa vì khói thuốc nó hút... Hình như tôi hợp với thế giới đó hơn. Trong cái thế giới bị coi là mất dạy của tụi nó, chuyện gì cũng được hiểu theo nghĩa đen, sòng phẳng. Ơ đó, một hành động nghĩa hiệp có thể tiến hành song song với một câu chửi thề. Cũng chẳng ai ý thức được câu chỉ đó có ý nghĩa gì, đơn giản là quen miệng vậy thôi. Và hình như tiếng chửi đó thốt ra mạnh bạo chỉ cốt để che giấu sự bối rối vụng về của một người bị coi là vô đạo đức nay lại đi làm việc thiện.... Bất lực. Những người xung quanh không ai nói gì, tôi đi tìm một ai đó có máu mặt. Ơ văn phòng Đoàn, cửa đóng. Ơ thư quán, cửa cũng đóng. Tôi bò lại giảng đường, lo âu và uất ức, chẳng lẽ mình thua sao! Nhưng quả thật, ở đây, giữa một đám trí thức tương lai này, tôi không được xử sự như ở ngoài đường. Ơ đây, một cái trừng mắt, một năm tay nổi gân khẽ đưa lên cũng có thể khiến những con người tinh tế ấy cảm thấy bị tổn thương kinh khủng. Tôi đứng lại cạnh Nghiệm, một người quen khác lớp. Nghiệm chỉ: "Anh Khoa kìa!". Và tôi rối rít kêu gọi anh cán bộ lớp ấy, cũng là một việc khá vất vả! Rồi như đứa bé dẫn mẹ đến gặp đứa đã bắt nạt mình để rồi bẽ bàng khi hiểu rằng cái thằng ấy mới là con ruột của bà, còn mình chỉ là con nuôi, tôi lại lâm vào trạng thái hư thực khi anh Khoa cười cười, nó với cái áo hồng: "à, bạn của X. à! Xin lỗi nhé, xin lỗi nhé... ", và :"Xuyên, em chịu khó một chút qua góc kia được không?". Bay giờ tôi mới hiểu thế nào là công lý. Nó vô vọng và thật không định nghĩa nổi. Cái ghế của tôi mà tôi phải bỏ đi, phải thu xếp một chỗ khác sau bao nhiêu thời gian đứng ngượng nghịu giữa mọt đám người ngồi, lại còn bị chửi nữa chứ... Không nhớ tôi đã nó gì, anh Khoa loay hoay khó xử đã nó gì, cái áo hồng kia đã nó gì, chỉ nhớ kết cục, dưới sự điều động của anh Khoa, một bạn trai đã tìm một cái nghế phụ, nhường chỗ cho cái áo hồng, và tôi rơi phịch vào cái ghế của tôi. Mọi người nhìn tôi khó chịu vì các mặt sưng sỉa đau đơn không biết kiềm chế tình cảm. Dở thật! Tôi quay sang con bé đó. Nó vẫn đạo mạo như không, tay chống cằm, đầu gật gật, mắt chớp theo lời thầy giảng, rất đúng tác phong con nhà!Ba tiết sau đó, tôi hầu như không nghe, không hiểu được gì. Dù mọi việc đã ổn, tôi vẫn cảm thấy đau đớn vì nhận ra mình là một đứa hèn, chỉ giỏi ở nhà bắt nạt mẹ và bà, đau đớn vì ngượng và ngượng vì tác phong bặm trợn hàng ngày của mình rốt cuộc chỉ là một cái vỏ rỗng.Tôi về, tôi chạy như bay đến nhà Mỹ. Nó mặc cái áo pun xanh, một cái quần soọc, ngồi chồm hỗm trên cái ghế đá nhìn tôi trêu chọc: "Sao có vẻ tức giận thế kia hả con?". Tôi kể lại, nó vừa nghe vừa chửi luôn miệng, nhiều nhất là chửi tôi. Nó dài mồm: "Đại học! Là những người có học! Sao mày không cho cái con đạo đức giả ấy một bợp, hỏi nó: Mầy biết tao là ai không?". Rồi Mỹ nhìn toi từ đầu đến chân thảm hại, phì cười: "Mọi ngày dữ lắm mà?". "Không, quả thật tao chưa bao giờ gặp chuyện ngang ngược như vậy, tạo lạ quá nên không biết làm sao!". Mỹ lại nổi cáu: "Không biết làm sao! Tụi này phải để tao xử luật rừng. Mẹ, đồ vô học!". Tôi bảo: Mày mở miệng là chửi thề, cái miệng bẩn kinh khủng!". Mỹ nhìn tôi, cười đơn giản: "Cà phê?"Và tôi ngồi sau xe, bình an và cũng chẳng còn giận hờn gì cả. Tôi thấy mình hình như là hai nửa con người, nửa hướng thiện và nửa hướng ác. Lúc này, nửa hướng thiện đang trên đường ra quán cà phê.( Phan Thị Vàng Anh ) Mục lục Người có học Người có học Phan thị vàng AnhChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: HùngĐược bạn: Thành Viên VNthuquan đưa lên vào ngày: 27 tháng 12 năm 2003
Tống Chi Người Dưng - Người Thân Một ngày, cô bé "người dưng cùng hệ" gặp tôi, níu áo : - Ăn mừng đi ! Tôi nhướng mày lên : - Mừng cái gì ? "Người dưng" chỉ vào áo mình : - Áo trắng ! Tôi giả vờ ngây thơ : - Áo anh màu xám mà ! - Thôi đừng làm bộ nữa . Bài anh thỉnh thoảng được đăng báo hoài . Mới có nữa đó. Tôi tìm cách lờ : - Đâu có, anh chỉ "ăn theo", có cái tên, còn chữ nghĩa là của người khác. "Người dưng" ngó lên mây trời, giọng lạt nhách : - Biết rồi, người ta là bóng, còn anh là hình. Tôi chữa lại : - Không, người ta là hình, còn anh là bóng. Thấy "thời tiết" vẫn đục một màu trắng chết. Tôi giảng hòa : - Thôi được, bò bía hay kem ? Giọng "người dưng" sũng nước : - Cả hai . - Trời đất ơi, định làm chiếc túi tám gang hay sao vậy ? "Người dưng" chớp mắt hăm dọa : - Có muốn Quỳ đổi ý không ? Tôi thở dài : - Rất muốn, nhưng chỉ là vấn đề ăn uống thôi . Còn chuyện bạn bè thì Khoan khoan cứ để yên đó. (Bạn thấy chưa ? "Người dưng" bao giờ cũng khôn hơn ta !) * * *Bò bía chấm tương cay làm môi thiên hạ đỏ hồng. Tôi nhìn hoài khiến "người dưng" thấy ngượng. Ai kia liền nhắc : - Đến quán kem đi . Tôi đóng vai đau khổ : - "Ngân sách" đã cạn. "Người dưng" bĩu môi . - Quỳ sẽ đi một mình . Tôi vội níu áo lại, ngâm nga : - "Người về anh chẳng cho về Anh níu áo lại, anh thề bao thêm" ! * * *Kem buổi sáng ăn vào buốt lạnh cả răng. Nghe tôi than, "người dưng" mát mẻ : - Tại răng anh là răng giả. Cái gì giả tạo cũng kém công dụng. Tôi thấy tức. - Đừng xạo, tuổi giả đã giúp thiên hạ vượt qua bao nhiêu cửa ải . Mà anh chỉ mới có mỗi một cái răng giả chứ mấy, đâu có gì mà ầm ĩ. Đang thao thao, chợt thấy "người dưng" im lặng tôi đâm hoảng. Chắc giận rồi . Cô bé này mà giận là khó làm hòa lắm. Tôi để nguyên muỗng kem đang đưa tới miệng, không ăn, mà mở mắt thật to nhìn vào mắt "người dưng", dự báo thời tiết xem cỡ "bão" cấp mấy . Thật dễ thương, "người dưng" lại mỉm cười : - Quỳ chưa giận đâu anh cứ ăn kem đi, ăn nhiều nhiều để về thay răng giả. Tôi sợ "người dưng" luôn. Vậy mà tưởng hiền lắm. * * *Buổi chiều, "người dưng" đi ngang nhà, dừng xe lại, vẫy tôi . Tôi lừng khừng chận trước : - Bánh tiêu nữa hả ? - Không đâu, "ông trùm" ạ . Quỳ có cái này . "Người dưng" nghiêng đầu, đưa ra một cuộn bưu phẩm có dáng một ống khói nhỏ. Tôi cười : - Gửi cho anh hả ? - Không, gửi cho cái hình nhưng đề tên cái bóng ! Quả thật, "người dưng" văn chương dễ sợ. Tôi giả vờ ngây thơ : - Rồi "cái gì" nhận giùm ! "Người dưng" giận dỗi đạp xe đi : - Cái giận ! Tôi nói với theo : - Giận in ít thôi . Giận nhiều quá không lớn nổi đâu ! * * *Buổi tối, tôi đứng ở hàng hiên nhà Quỳ năn nỉ : - Anh nói đùa thôi mà. Chiều nay nhận được báo biếu, anh mang đến tặng Quỳ liền nè. "Người dưng" đỏ mắt : - Không thèm ! Tôi xuống giọng cầu cạnh : - Quỳ biết không, anh "kể" với Aó Trắng, cô bé "người dưng cùng hệ" bây giờ đã thành "người thân" . "Người dưng" ngơ ngác : - Ai cho anh lập "lý lịch trích ẩu" ngon lành vậy ? Tôi tỉnh bơ : - Đó là truyện mà. Trong truyện ngắn người ta có quyền hư cấu thoải mái . "Người dưng" ấm ức : - Sao không hư cấu anh là một "tiểu cô nương" xí xọn hết biết ? - Dễ thôi, lúc đó "người dưng" sẽ trở thành một "thiếu gia" cầm tinh con cọp, chịu không ? Đó là sai lầm đầu tiên của tôi kể từ khi quen "người dưng". Cánh cửa được khép lại êm ái - Êm ái như cách giận của Quỳ. Tôi cầm tờ báo lang thang một mình trên phố. "Người dưng" ơi ! Em đâu có là cọp. Em là con én nhỏ, cánh én hiếm hoi của mùa thu vàng lá. Tôi là mùa thu buồn bã đó, mùa thu ngái ngủ trong cái vỏ bọc khô cằn. Em bay ngang rắc hương yêu đời tinh khiết xuống. Tôi bừng tỉnh, nhặt lấy và mơ mộng thêm. Vườn thu đổi màu, lá mới vừa xanh, em đã muốn bay xa rồi . Tôi biết làm sao níu lại ? Đành về làm thơ thất tình cho đỡ buồn nhưng mà Không được, tôi đâu có biết làm thơ . Thì viết vậy, tôi viết là ... * * *Tôi chờ báo ra để mua tặng "người dưng", để khoe với "người dưng". Sinh nhật Áo Trắng tôi có một truyện ngắn được đăng. Truyện viết về "người dưng" - mềm như mây thu, rực rỡ như hoa cúc, ấm áp như ráng chiều và kiêu kỳ như tia sáng. "Người dưng" đã trở thành "người thân" nên giận hờn nhiều hơn, bắt tội nhiều hơn và nhất là bướng bỉnh thoải mái mà không sợ tôi ghét ! Đang tưởng tượng vẩn vơ chợt thấy dáng ai thoáng qua giống ý người ấy ! Nhưng không đi một mình. Tôi than thầm kiểu này là biến thành "người lạ" rồi chứ "người thân" gì nữa . Trổ tài lạng lách giữa đám đông tôi đuổi kịp họ ở ngã tư . Liếc mắt qua bắt gặp màu áo quen thuộc, chỉ lo tim ngừng đập bất tử. May sao thiên hạ ngước nhìn lên, dưới vành mũ trắng là một khuôn mặt khác, hoàn toàn không quen biết. Cảm ơn buổi chiều - Em vẫn là em, "người dưng cùng hệ". * * *Tôi đánh một que diêm, thắp lên năm ngọn nến hồng. "Người dưng" chúm môi thổi nhẹ. Hương nến không thơm, nhưng mấy sợi khói uốn lượn quyến rũ. Tôi nắm nhẹ tay "người dưng" : - Chúc mừng sinh nhật ! - Sinh nhật ai ? Tôi cười mím chi : - Áo Trắng và tình yêu ! "Người dưng" hốt hoảng : - Tình yêu nào ? Tôi sợ phải chịu thêm một ngày chúa nhật năn nỉ muốn gãy lưỡi nữa nên ậm ờ : - Tình yêu cổ tích. Chuyện cổ tích của hai "người dưng cùng hệ". Một người yêu muốn chết, còn người kia cứ tỉnh bơ để cho mình được yêu . Kết thúc - Một người cười, còn một người tìm mua keo dán về gắn lại lưỡi . Quỳ tròn mắt lên : - Anh ăn gian ! Và rút tay lại . Tôi sợ "người dưng" bỏ về vội đứng chặn ngang cửa : - Vậy Quỳ muốn anh kể như thế nào ? Kể là. Quỳ cười thật ngây thơ : - "Người dưng" đâu có tỉnh bơ . Tôi nhìn sâu vào mắt Quỳ : - Có thật không, "người thân" ? Rồi đốt lại mấy ngọn nến nhỏ. Án nến lung linh, tình yêu cũng lung linh. Cứ nhè nhẹ, nhè nhẹ thôi, phải không em ? Anh sợ lỡ tay, hạnh phúc sẽ tan bay. Mục lục Người Dưng - Người Thân Người Dưng - Người Thân Tống ChiChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: Thời áo trắngĐược bạn: Thành Viên VNthuquan đưa lên vào ngày: 27 tháng 12 năm 2003
Tong Chi Strangers - Relatives One day, a "stranger in the same generation" girl met me and grabbed my shirt: - Celebrate! I raised my eyebrows: - Celebrate what? "The stranger" pointed at his shirt: - White shirt! I pretended to be innocent: - Your shirt is gray! - Stop pretending. Your articles are occasionally published in newspapers. Just got it again. I tried to ignore: - No, you're just "following suit", you have a name, but the words and meanings belong to someone else. "The stranger" looked up at the clouds and the sky, his voice cracked: - I know, that person is the shadow, and you are the image. I corrected: - No, people are images, and you are shadows. Seeing that the "weather" is still a dead white color. I reconciled: - Okay, beef squash or ice cream? The "stranger" voice was soggy: - Both. - Oh my god, are you planning on making an eight gang bag or something? "The stranger" blinked threateningly: - Do you want Quy to change her mind? I sighed: - I really want to, but it's just a matter of eating. As for friends, wait, just leave it alone. (Have you seen? "Immortal people" are always smarter than us!) * * *Beef with spicy sauce makes people's lips turn red. I kept looking at it, making the "stranger" feel embarrassed. Someone immediately reminded: - Go to the ice cream shop. I play the role of suffering: - The "budget" is exhausted. "The stranger" pouted. - Quy will go alone. I quickly grabbed my shirt, humming: - "If you leave, I won't let you go. I'll hold on to your shirt, I swear I'll give you more"! * * *Eating ice cream in the morning makes your teeth feel cold. Listening to me complain, the "stranger" coolly said: - Because your teeth are fake teeth. Anything fake is of no use. I feel angry. - Don't lie, fake age has helped people overcome many hurdles. But he only has one false tooth, nothing to make a fuss about. While talking, suddenly seeing the "stranger" being silent, I panicked. Probably angry. If this girl is angry, it is very difficult to reconcile. I left the ice cream scoop that was in my mouth intact, didn't eat it, but opened my eyes wide and looked into the "stranger's" eyes, checking the weather forecast to see what level the "storm" was. So cute, the "stranger" smiled again: - Quy is not angry yet, just eat ice cream, eat a lot so you can go home and replace your dentures. I'm always afraid of "strangers". Yet I thought it was very gentle. * * *In the afternoon, a "stranger" passed by the house, stopped his car, and waved at me. I hesitantly stopped: - More pepper cake? - No, "boss". Quy has this. "The stranger" tilted his head and held out a roll of mail shaped like a small chimney. I laughed: - Sent it to you? - No, send the picture but name the shadow! Indeed, literary "outsiders" are scary. I pretended to be innocent: - Then "what" will you accept! "The stranger" angrily pedaled away: - Anger! I told them: - Be less angry. Too much anger and you won't grow up! * * *At night, I stood on Quy's porch and begged: - I'm just joking. This afternoon, I received a gift notice and brought it to Quy immediately. "The stranger" had red eyes: - Don't bother! I lowered my voice to beg: - Do you know, Quy, I "told" Ao Trang that the "stranger" girl has now become a "family member". "The stranger" was bewildered: - Who let you create such a delicious "resume"? I calmly said: - That's a story. In short stories, people have the right to freely fictionalize. "The stranger" felt angry: - Why don't you pretend that you are a "little lady" who is completely ignorant? - Easy, at that time the "stranger" will become a "young master" with the star of the tiger, okay? That was my first mistake since meeting a "stranger". The door was closed softly - Softly like Quy's anger. I held the newspaper and wandered alone on the street. Oh "stranger"! I'm not a tiger. I am a small swallow, a rare swallow in the golden autumn. I am that sad autumn, the sleepy autumn in its arid shell. I fly across and sprinkle the scent of pure love on life. I woke up, picked it up and dreamed some more. The autumn garden changes color, the new leaves are green, I already want to fly away. How can I hold on? I wanted to write a lovelorn poem to ease my sadness, but I can't, I don't know how to write poetry. So what I wrote was... * * *I waited for the newspaper to come out so I could buy it as a gift for "strangers", to show it off to "strangers". On White Shirt's birthday, I had a short story published. The story is about "strangers" - as soft as autumn clouds, as bright as chrysanthemums, as warm as afternoon sunshine and as arrogant as rays of light. "Strangers" have become "relatives" so they get angry more, accuse more, and most of all, they are stubborn and comfortable without fear of being hated by me! While idly imagining, I suddenly saw someone's appearance that looked just like that person's idea! But don't go alone. I silently lamented that I was turning into a "stranger" and not a "family" anymore. Showing my talent for weaving through the crowd, I caught up with them at the intersection. Glancing over and seeing a familiar shirt color, I was worried that my heart would stop beating forever. Luckily, people looked up and under the white hat was another face, completely unfamiliar. Thank you for the afternoon - I'm still me, "a stranger in the same generation". * * *I struck a match and lit five pink candles. "The stranger" pursed his lips and blew softly. The candle scent is not fragrant, but the winding strands of smoke are seductive. I gently held the "stranger's" hand: - Happy birthday! - Whose birthday is it? I smiled softly: - White shirt and love! "The stranger" panicked: - What love? I was afraid of having to endure another Sunday of begging and breaking my tongue, so I hummed: - Fairy tale love. A fairy tale of two "strangers of the same generation". One lover wants to die, while the other just keeps calm and lets himself be loved. Ending - One person laughed, and the other looked to buy glue to reattach the tongue. Quy rolled her eyes: - You cheated! And withdrew his hand. I was afraid that the "stranger" would leave and quickly stand in front of the door: - So what do you want me to tell you, Quy? Tell me. Quy smiled innocently: - "Indifferent people" are not innocent. I looked deeply into Quy's eyes: - Is it true, "relative"? Then light the small candles again. Candles flicker, love also sparkles. Just gently, gently, right? He was afraid that if he accidentally made a mistake, his happiness would disappear. Table of contents Strangers - Relatives Strangers - Relatives Tong ChiWelcome to read books from the book project for mobile devices. Source: author: Nguyen Kim Vy. Final words: Thank you for reading the entire story. Source: editor: Nguyen Kim Vy. Source: White shirt period Posted by: Member VNthuquan on: December 27, 2003
Thiên văn vũ Trụ Người giàu Mỹ hào hứng với ý tưởng du lịch vũ trụ Dennis Tito, người tiên phong trong ngành du lịch vũ trụ.Một cuộc điều tra mới đây cho thấy, những người nặng túi ở Mỹ sẵn lòng bỏ ra nhiều tờ xanh để chinh phục độ cao ngoài trái đất. Với họ, hấp dẫn nhất là loại vé du lịch bình dân giá 100.000 USD cho 15 phút bay lên “thiên đường”.Cuộc điều tra do Zogby International thực hiện, dưới sự chỉ đạo của Futron (một tập đoàn cố vấn không gian vũ trụ ở Maryland, tập đoàn này đã có bản hợp đồng trị giá 1,8 triệu USD với NASA để thăm dò các ứng dụng thương mại của du lịch vũ trụ). Zogby International đã thực hiện phỏng vấn qua điện thoại với 450 người Mỹ có thu nhập hàng năm cao hơn 250.000 USD hoặc những người có tài sản trên 1 triệu USD.Giám đốc dự án, ông Derek Webber, cho biết: "Cuộc điều tra này nhằm tìm hiểu ý kiến của tầng lớp giàu có, chứ không phải là của những thanh niên ngoài đường phố rất say mê với ý tưởng lên vũ trụ nhưng lại không đủ tiền". Và kết quả thu được khá thú vị: Có lẽ đã chán ngán với những đồ trang sức tầm thường, trần tục của bà mẹ trái đất, hoặc choáng ngợp trước sự táo bạo, gan dạ của những người tiên phong như nhà du hành Mỹ đầu tiên Alan Shepard và nhà triệu phú Dennis Tito, 19% số người được hỏi chịu chi 100.000 USD cho 15 phút bay. Chuyến bay tối thiểu này bằng thời gian mà Alan Shepard ở trong quỹ đạo, đủ để cảm nhận tình trạng không trọng lượng và nhìn thấy thế giới ở độ cao 80 km. Điều bất ngờ là có đến 7% sẵn lòng chi 20 triệu USD để thực hiện chuyến bay 2 tuần như Mark Shuttleworth và Dennis Tito. Còn nếu giá giảm xuống 5 triệu USD, con số người chấp thuận tăng lên 16%. Mục lục Người giàu Mỹ hào hứng với ý tưởng du lịch vũ trụ Người giàu Mỹ hào hứng với ý tưởng du lịch vũ trụ Thiên văn vũ TrụChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: VnExpressĐược bạn: Thành Viên VNthuquan đưa lên vào ngày: 27 tháng 12 năm 2003
Cosmic Astronomy Rich Americans are excited about the idea of ​​space tourism Dennis Tito, a pioneer in the space tourism industry. A recent investigation shows that rich people in America are willing to spend many green bills to conquer extraterrestrial heights. For them, the most attractive is the affordable travel ticket priced at $100,000 for a 15-minute flight to "paradise". The investigation was conducted by Zogby International, under the direction of Futron (an aerospace consulting group). Headquartered in Maryland, this corporation has a $1.8 million contract with NASA to explore commercial applications of space tourism). Zogby International conducted phone interviews with 450 Americans with annual incomes greater than $250,000 or those with assets over $1 million. Project director Derek Webber said: "The investigation "This is to find out the opinions of the wealthy class, not the young people on the street who are passionate about the idea of ​​going to space but don't have enough money." And the results are quite interesting: Perhaps you are fed up with the mundane, mundane jewelry of mother earth, or overwhelmed by the boldness and courage of pioneers like the American astronaut. First Alan Shepard and millionaire Dennis Tito, 19% of respondents were willing to spend $100,000 for a 15-minute flight. This minimum flight is equal to the time that Alan Shepard spent in orbit, enough to feel weightlessness and see the world at an altitude of 80 km. Surprisingly, up to 7% were willing to spend $20 million to take a 2-week flight like Mark Shuttleworth and Dennis Tito. If the price drops to $5 million, the number of acceptors increases by 16%. Table of contents Rich Americans are excited about the idea of ​​space tourism Rich Americans are excited about the idea of ​​space tourism Cosmic Astronomy Welcome to read the first book from the book project for mobile devices. Source: author: Nguyen Kim Vy. Final words: Thank you for reading the entire story. Source: editor: Nguyen Kim Vy. Source: VnExpress Posted by: Member VNthuquan on: December 27, 2003
Chưa rõ Người giúp việc phản trắc Dịch giả: Phan Minh Ngọc C arl hiểu rằng chuyện này không thể kéo dài... Cần phải làm gì đấy, nhưng làm gì? Tất nhiên là y có thể để cho Laura chết, nhưng khi đó lại xuất hiện những vấn đề mới. Sẽ phải có đám tang, có quan tài... Có lúc y đã định thú nhận với Betta. Nhưng sau một hồi cân nhắc y lại gạt đi. Y không muốn mạo hiểm. Vừa bước vào nhà, Carl Bogan đã nghe giọng nói sắc lạnh của cô vợ vang lên: - Carl! Carl sững lại. Tuy đã quen với cảnh cô vợ “phục kích” mình trong bóng tối, ngay góc cửa nhưng lần nào Carl cũng hoảng hồn. - Anh vừa ở đâu về? – Laura Bogan hỏi. - Cô thừa biết mà, - Carl nhẫn nại đáp. - Dù biết tôi cũng muốn anh phải nói. Tôi muốn mỗi lần anh đú đởn về, anh phải kể lại để lương tâm anh cắn rứt... - Laura, không cần tái diễn màn độc thoại của cô đâu. - Không. Cần, cần chứ! Tôi cần lặp lại hàng ngàn lần nếu như anh vẫn chưa chấm dứt cái trò ấy. - Hay là nếu như tôi chưa bỏ cô? - Anh không dám đâu. Vì anh chẳng có tiền, chẳng có việc làm. Anh sống trong nhà tôi, bằng tiền của tôi, và vì thế mà anh cưới tôi... - Thôi đi! – Carl gầm lên trước điệp khúc quen thuộc của Laura. Máu y sôi lên, y lừ lừ tiến về phía cô vợ. - Carl! – Laura khiếp đảm kêu lên. - Đừng... Nhưng Carl đã siết lấy cổ Laura. Cô ngã quị xuống kinh hãi nhìn chồng, miệng há hốc. Khi Carl buông Laura ra, cô đã tắt thở. Carl bước vào phòng khách, bật đèn. Y ngồi xuống ghế hút thuốc. Từ đây, y có thể nhìn thấy một phần thi thể của cô vợ. Phải làm gì bây giờ? Bỗng nhiên Carl nhớ ra là đã đọc trên báo chuyện người ta tình cờ tìm thấy một bộ xương dưới nền tầng hầm một ngôi nhà cũ. Cảnh sát cho biết đó là xương một người đàn bà bị chôn vùi cách đây khoảng 50 năm. Kẻ giết người thì vẫn sống bình yên rồi qua đời như một người lương thiện. Carl chạy xuống tầng hầm. Y dùng cuốc chim phá nền ximăng lên rồi đào một cái hố sâu. Sau đó y lôi xác vợ xuống vùi vào hố. Sẵn có bao ximăng cũ, y lấy ra nhào với nước rồi trát lên bề mặt. Y hoàn tất mọi việc thì trời vừa sáng. Trước khi ra khỏi tầng hầm, y lấy một tấm thảm phủ lên nấm mộ. Vậy là Laura không còn nữa, nhưng y cần phải bịa ra một câu chuyện về sự biến mất của cô ta... May là ở đây vợ chồng y chẳng có ai thân thích. Họ cũng không quan hệ gì với láng giềng vì Laura sợ mọi người biết chuyện trăng gió của chồng mình. Sang ngày thứ ba, Carl vẫn ở lì trong nhà. Không hiểu sao y cảm thấy sợ ra ngoài. Chuông điện thoại bỗng vang lên. Người hàng thịt không thấy Laura đến lấy hàng nên hỏi xem có chuyện gì xảy ra. - Không - Carl đáp - Mọi chuyện ổn cả. Cô ấy chỉ hơi mệt. Cú điện thoại buộc y phải suy nghĩ. Laura có thể có những người quen mà y không biết. Rồi sẽ có ai đó hỏi han về sự vắng mặt của cô ấy. Y đi tối ngày, làm sao y biết được cô vợ gặp gỡ ai ở nhà. Sau khi ăn trưa, Carl quyết định nằm nghỉ. Y bỗng nghe từ tầng hầm vọng lên tiếng cào cấu vào nền ximăng cùng tiếng kêu ú ớ của Laura. Dường như cô ta đang cố chui ra khỏi mộ. Tiếng cào cấu chuyển thành tiếng đập lớn và nền xi măng như đang nứt ra. Y sợ hãi choàng dậy, chạy vội xuống tầng hầm. Cố thu hết can đảm, y lật tấm thảm lên. Ngôi mộ vẫn phẳng lì. Y thở phào. Đó chỉ là một cơn ác mộng. Carl quyết định ra khỏi nhà. Dưới ánh mặt trời rực rỡ y cảm thấy như trút được gánh nặng trên vai. - Ông khỏe chứ, ông Borgan? - Bà hàng xóm đang tỉa cây hỏi. - Vâng, vẫn khỏe- Y trả lời, cố giữ giọng bình thản. - Thế còn bà Borgan? Cả tuần nay tôi không thấy bà ấy. Lại bắt đầu rồi! Laura mới chết có ba ngày mà bà ta bảo cả tuần... - Cô ấy không được khỏe - Carl đáp. - Ông đã gọi bác sĩ chưa? Y cảm thấy bà ta nhìn mình với vẻ trách cứ. - Rồi. Bác sĩ nói rằng cô ấy cần tĩnh dưỡng. - Để tôi nấu cho bà nhà ít xúp. - Không, không, cảm ơn - Y đáp vội, bụng thầm rủa sự xăng xái của bà hàng xóm - Tôi... sẽ thuê một hộ lý. Carl lại quay về nhà ngồi suy nghĩ về cuộc chuyện trò vừa rồi. Thuê hộ lý có lẽ cũng là một ý hay để tránh sự tò mò của hàng xóm. Tất nhiên không phải một hộ lý thực thụ mà chỉ là một người giúp việc lo cơm nước trong thời gian bà chủ nhà bị ốm. Để người ấy không bước vào phòng bà chủ ở tầng hai chỉ cần nói rằng bà chủ rất mệt và không muốn phiền ai, ngoài chồng. Ngày hôm sau trên một tờ báo địa phương xuất hiện lời rao tìm người trông nom nhà cửa khi bà chủ nhà bị ốm. Hai ngày sau một phụ nữ chưa tới 40 tuổi, có gương mặt khá dễ chịu với khuôn miệng nhỏ nhắn tìm đến nhà Carl. Theo lời Betta Cul, người đến tìm việc, thì chị ta có thể đảm đương công việc mà Carl yêu cầu vì đã quen làm việc này. - Nếu cần, tôi cũng có thể chăm sóc bà nhà - Chị ta nói thêm. - Không, không cần đâu!- Carl lắc đầu - Chị chỉ việc thu dọn nhà cửa và nấu nướng, Laura cần yên tĩnh. Bác sĩ sẽ khám cho cô ấy mỗi tuần một lần. Cô ấy bị sẩy thai - Carl giải thích. Betta thở dài cảm thông. Họ thỏa thuận buổi sáng Betta sẽ đến thu dọn ở tầng dưới và nấu đồ ăn cho Laura. Carl thì mang đồ ăn lên phòng Laura. Sau khi tự đánh chén hết số thức ăn ấy, y trở xuống với chiếc đĩa không cùng với lời cám ơn của vợ chuyển cho Betta. Ngay ngày đầu tiên, Carl đã nhận thấy là Betta cũng khá xinh. Dần dần y cảm thấy chị ta cũng hay nhìn trộm mình với vẻ trắc ẩn. Một tuần, rồi hai tuần trôi qua. Một lần Carl tiễn Betta ra bến xe buýt. - Tình hình bà nhà thế nào rồi, ông Bogan? - Betta hỏi. - Chẳng có biến chuyển gì cả - Y lắc đầu - Chiều qua bác sĩ đến khám nói rằng tình trạng của cô ấy không tốt. Laura cứ nằm im, mắt nhìn lên trần. - Liệu có hy vọng gì không, ông Bogan? - Thú thật với chị là không - Carl giả giọng rầu rĩ. - Tôi rất thông cảm với anh. Tôi đã từng trải qua và tôi biết tâm trạng anh lúc này rất nặng nề. - Chị có thể chia sẻ với tôi không? – Y buột miệng và nghĩ rằng Betta sẽ im lặng. Nhưng chị ta nói: - Nếu buổi tối anh nhờ hàng xóm trông nom Laura được, chúng ta có thể cùng nhau đi xem phim. Tôi nghĩ điều ấy sẽ giúp anh đỡ phiền muộn. Vậy là tối tối có một “bà hàng xóm” đến với Laura. Carl rất hài lòng, y lại có thể hẹn hò với phụ nữ. Họ cùng nhau đi nhảy, nghe hòa nhạc, đến quán bar. - Cảm ơn anh, Carl, em lại có cảm giác của một người đang yêu, - Betta thú nhận. - Anh cũng thế. Cả hai ta cần nhau. Chúng ta đều đang phải trải qua giai đoạn khó khăn nhất trong đời. - Theo anh, cô ấy còn sống được bao lâu nữa? - Anh không biết, - y nhún vai. – Laura vẫn nằm và im lặng. - Điều ấy có thể kéo dài vĩnh viễn... Carl hiểu rằng chuyện này không thể kéo dài... Cần phải làm gì đấy, nhưng làm gì? Tất nhiên là y có thể để cho Laura chết, nhưng khi đó lại xuất hiện những vấn đề mới. Sẽ phải có đám tang, có quan tài... Có lúc y đã định thú nhận với Betta. Nhưng sau một hồi cân nhắc y lại gạt đi. Y không muốn mạo hiểm. Chước tốt nhất có lẽ là chuồn. Có thể nói rằng y phải đưa Laura đi chữa bệnh... Nhưng vậy thì tài sản của Laura để lại y chẳng được sơ múi gì. Carl nghĩ về điều này khi mang đĩa thức ăn lên tầng hai. Y ngồi xuống ghế bành và bắt đầu ăn một cách lơ đãng. Rồi Carl bỗng ngừng nhai. Trong đầu y chợt lóe lên sáng kiến để có thể sở hữu tài sản kếch sù của cô vợ. Phải rồi, có thể dùng Betta thay cho cái xác Laura. Tang lễ sẽ cử hành lặng lẽ để không một người quen nào tìm đến. Chỉ những người trong đội khâm liệm mới nhìn thấy cái xác, mà họ thì đâu có biết mặt Laura. Một sáng kiến kỳ tài, Carl xúc động nghĩ! Tuy nhiên, trước khi giết Betta, y cần phải suy nghĩ thật cẩn thận. Khi Carl trở xuống bếp với chiếc đĩa không, Betta hỏi: - Cô ấy ăn ngon miệng chứ? - Ừ - Y gật đầu và chăm chú nhìn Betta. - Carl, anh yêu em chứ? - Đột nhiên Betta hỏi. - Betta, nãy giờ ngồi trên kia anh toàn nghĩ đến em. - Khi cô ta chết, anh vẫn yêu em chứ? - Còn yêu nhiều hơn nữa - Carl cam đoan. - Ơn Chúa, Carl! Chúng ta sẽ không phải đợi lâu đâu. - Ý em là gì? Betta mỉm cười nhìn vào đĩa thức ăn đã hết nhẵn rồi lại nhìn Carl. - Em đã bỏ thuốc độc vào thức ăn. Cô ta sẽ không sống thêm được đâu. Carl tái mặt. Rồi ngay lập tức y cảm thấy một cơn đau dữ dội ập đến như muốn xé toang dạ dày y. Carl ngã gục xuống. Betta sửng sốt nhìn y. Trước khi tắt thở, Carl chỉ kịp rủa Betta là “đồ ngốc”. Dịch giả: Phan Minh Ngọc Mục lục Người giúp việc phản trắc Người giúp việc phản trắc Chưa rõChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.Sưu tầm: ABCD Nguồn: Được bạn: Ct.Ly đưa lên vào ngày: 9 tháng 12 năm 2006
Chưa rõ Người giúp việc phản trắc Dịch giả: Phan Minh Ngọc C arl hiểu rằng chuyện này không thể kéo dài... Cần phải làm gì đấy, nhưng làm gì? Tất nhiên là y có thể để cho Laura chết, nhưng khi đó lại xuất hiện những vấn đề mới. Sẽ phải có đám tang, có quan tài... Có lúc y đã định thú nhận với Betta. Nhưng sau một hồi cân nhắc y lại gạt đi. Y không muốn mạo hiểm. Vừa bước vào nhà, Carl Bogan đã nghe giọng nói sắc lạnh của cô vợ vang lên: - Carl! Carl sững lại. Tuy đã quen với cảnh cô vợ “phục kích” mình trong bóng tối, ngay góc cửa nhưng lần nào Carl cũng hoảng hồn. - Anh vừa ở đâu về? – Laura Bogan hỏi. - Cô thừa biết mà, - Carl nhẫn nại đáp. - Dù biết tôi cũng muốn anh phải nói. Tôi muốn mỗi lần anh đú đởn về, anh phải kể lại để lương tâm anh cắn rứt... - Laura, không cần tái diễn màn độc thoại của cô đâu. - Không. Cần, cần chứ! Tôi cần lặp lại hàng ngàn lần nếu như anh vẫn chưa chấm dứt cái trò ấy. - Hay là nếu như tôi chưa bỏ cô? - Anh không dám đâu. Vì anh chẳng có tiền, chẳng có việc làm. Anh sống trong nhà tôi, bằng tiền của tôi, và vì thế mà anh cưới tôi... - Thôi đi! – Carl gầm lên trước điệp khúc quen thuộc của Laura. Máu y sôi lên, y lừ lừ tiến về phía cô vợ. - Carl! – Laura khiếp đảm kêu lên. - Đừng... Nhưng Carl đã siết lấy cổ Laura. Cô ngã quị xuống kinh hãi nhìn chồng, miệng há hốc. Khi Carl buông Laura ra, cô đã tắt thở. Carl bước vào phòng khách, bật đèn. Y ngồi xuống ghế hút thuốc. Từ đây, y có thể nhìn thấy một phần thi thể của cô vợ. Phải làm gì bây giờ? Bỗng nhiên Carl nhớ ra là đã đọc trên báo chuyện người ta tình cờ tìm thấy một bộ xương dưới nền tầng hầm một ngôi nhà cũ. Cảnh sát cho biết đó là xương một người đàn bà bị chôn vùi cách đây khoảng 50 năm. Kẻ giết người thì vẫn sống bình yên rồi qua đời như một người lương thiện. Carl chạy xuống tầng hầm. Y dùng cuốc chim phá nền ximăng lên rồi đào một cái hố sâu. Sau đó y lôi xác vợ xuống vùi vào hố. Sẵn có bao ximăng cũ, y lấy ra nhào với nước rồi trát lên bề mặt. Y hoàn tất mọi việc thì trời vừa sáng. Trước khi ra khỏi tầng hầm, y lấy một tấm thảm phủ lên nấm mộ. Vậy là Laura không còn nữa, nhưng y cần phải bịa ra một câu chuyện về sự biến mất của cô ta... May là ở đây vợ chồng y chẳng có ai thân thích. Họ cũng không quan hệ gì với láng giềng vì Laura sợ mọi người biết chuyện trăng gió của chồng mình. Sang ngày thứ ba, Carl vẫn ở lì trong nhà. Không hiểu sao y cảm thấy sợ ra ngoài. Chuông điện thoại bỗng vang lên. Người hàng thịt không thấy Laura đến lấy hàng nên hỏi xem có chuyện gì xảy ra. - Không - Carl đáp - Mọi chuyện ổn cả. Cô ấy chỉ hơi mệt. Cú điện thoại buộc y phải suy nghĩ. Laura có thể có những người quen mà y không biết. Rồi sẽ có ai đó hỏi han về sự vắng mặt của cô ấy. Y đi tối ngày, làm sao y biết được cô vợ gặp gỡ ai ở nhà. Sau khi ăn trưa, Carl quyết định nằm nghỉ. Y bỗng nghe từ tầng hầm vọng lên tiếng cào cấu vào nền ximăng cùng tiếng kêu ú ớ của Laura. Dường như cô ta đang cố chui ra khỏi mộ. Tiếng cào cấu chuyển thành tiếng đập lớn và nền xi măng như đang nứt ra. Y sợ hãi choàng dậy, chạy vội xuống tầng hầm. Cố thu hết can đảm, y lật tấm thảm lên. Ngôi mộ vẫn phẳng lì. Y thở phào. Đó chỉ là một cơn ác mộng. Carl quyết định ra khỏi nhà. Dưới ánh mặt trời rực rỡ y cảm thấy như trút được gánh nặng trên vai. - Ông khỏe chứ, ông Borgan? - Bà hàng xóm đang tỉa cây hỏi. - Vâng, vẫn khỏe- Y trả lời, cố giữ giọng bình thản. - Thế còn bà Borgan? Cả tuần nay tôi không thấy bà ấy. Lại bắt đầu rồi! Laura mới chết có ba ngày mà bà ta bảo cả tuần... - Cô ấy không được khỏe - Carl đáp. - Ông đã gọi bác sĩ chưa? Y cảm thấy bà ta nhìn mình với vẻ trách cứ. - Rồi. Bác sĩ nói rằng cô ấy cần tĩnh dưỡng. - Để tôi nấu cho bà nhà ít xúp. - Không, không, cảm ơn - Y đáp vội, bụng thầm rủa sự xăng xái của bà hàng xóm - Tôi... sẽ thuê một hộ lý. Carl lại quay về nhà ngồi suy nghĩ về cuộc chuyện trò vừa rồi. Thuê hộ lý có lẽ cũng là một ý hay để tránh sự tò mò của hàng xóm. Tất nhiên không phải một hộ lý thực thụ mà chỉ là một người giúp việc lo cơm nước trong thời gian bà chủ nhà bị ốm. Để người ấy không bước vào phòng bà chủ ở tầng hai chỉ cần nói rằng bà chủ rất mệt và không muốn phiền ai, ngoài chồng. Ngày hôm sau trên một tờ báo địa phương xuất hiện lời rao tìm người trông nom nhà cửa khi bà chủ nhà bị ốm. Hai ngày sau một phụ nữ chưa tới 40 tuổi, có gương mặt khá dễ chịu với khuôn miệng nhỏ nhắn tìm đến nhà Carl. Theo lời Betta Cul, người đến tìm việc, thì chị ta có thể đảm đương công việc mà Carl yêu cầu vì đã quen làm việc này. - Nếu cần, tôi cũng có thể chăm sóc bà nhà - Chị ta nói thêm. - Không, không cần đâu!- Carl lắc đầu - Chị chỉ việc thu dọn nhà cửa và nấu nướng, Laura cần yên tĩnh. Bác sĩ sẽ khám cho cô ấy mỗi tuần một lần. Cô ấy bị sẩy thai - Carl giải thích. Betta thở dài cảm thông. Họ thỏa thuận buổi sáng Betta sẽ đến thu dọn ở tầng dưới và nấu đồ ăn cho Laura. Carl thì mang đồ ăn lên phòng Laura. Sau khi tự đánh chén hết số thức ăn ấy, y trở xuống với chiếc đĩa không cùng với lời cám ơn của vợ chuyển cho Betta. Ngay ngày đầu tiên, Carl đã nhận thấy là Betta cũng khá xinh. Dần dần y cảm thấy chị ta cũng hay nhìn trộm mình với vẻ trắc ẩn. Một tuần, rồi hai tuần trôi qua. Một lần Carl tiễn Betta ra bến xe buýt. - Tình hình bà nhà thế nào rồi, ông Bogan? - Betta hỏi. - Chẳng có biến chuyển gì cả - Y lắc đầu - Chiều qua bác sĩ đến khám nói rằng tình trạng của cô ấy không tốt. Laura cứ nằm im, mắt nhìn lên trần. - Liệu có hy vọng gì không, ông Bogan? - Thú thật với chị là không - Carl giả giọng rầu rĩ. - Tôi rất thông cảm với anh. Tôi đã từng trải qua và tôi biết tâm trạng anh lúc này rất nặng nề. - Chị có thể chia sẻ với tôi không? – Y buột miệng và nghĩ rằng Betta sẽ im lặng. Nhưng chị ta nói: - Nếu buổi tối anh nhờ hàng xóm trông nom Laura được, chúng ta có thể cùng nhau đi xem phim. Tôi nghĩ điều ấy sẽ giúp anh đỡ phiền muộn. Vậy là tối tối có một “bà hàng xóm” đến với Laura. Carl rất hài lòng, y lại có thể hẹn hò với phụ nữ. Họ cùng nhau đi nhảy, nghe hòa nhạc, đến quán bar. - Cảm ơn anh, Carl, em lại có cảm giác của một người đang yêu, - Betta thú nhận. - Anh cũng thế. Cả hai ta cần nhau. Chúng ta đều đang phải trải qua giai đoạn khó khăn nhất trong đời. - Theo anh, cô ấy còn sống được bao lâu nữa? - Anh không biết, - y nhún vai. – Laura vẫn nằm và im lặng. - Điều ấy có thể kéo dài vĩnh viễn... Carl hiểu rằng chuyện này không thể kéo dài... Cần phải làm gì đấy, nhưng làm gì? Tất nhiên là y có thể để cho Laura chết, nhưng khi đó lại xuất hiện những vấn đề mới. Sẽ phải có đám tang, có quan tài... Có lúc y đã định thú nhận với Betta. Nhưng sau một hồi cân nhắc y lại gạt đi. Y không muốn mạo hiểm. Chước tốt nhất có lẽ là chuồn. Có thể nói rằng y phải đưa Laura đi chữa bệnh... Nhưng vậy thì tài sản của Laura để lại y chẳng được sơ múi gì. Carl nghĩ về điều này khi mang đĩa thức ăn lên tầng hai. Y ngồi xuống ghế bành và bắt đầu ăn một cách lơ đãng. Rồi Carl bỗng ngừng nhai. Trong đầu y chợt lóe lên sáng kiến để có thể sở hữu tài sản kếch sù của cô vợ. Phải rồi, có thể dùng Betta thay cho cái xác Laura. Tang lễ sẽ cử hành lặng lẽ để không một người quen nào tìm đến. Chỉ những người trong đội khâm liệm mới nhìn thấy cái xác, mà họ thì đâu có biết mặt Laura. Một sáng kiến kỳ tài, Carl xúc động nghĩ! Tuy nhiên, trước khi giết Betta, y cần phải suy nghĩ thật cẩn thận. Khi Carl trở xuống bếp với chiếc đĩa không, Betta hỏi: - Cô ấy ăn ngon miệng chứ? - Ừ - Y gật đầu và chăm chú nhìn Betta. - Carl, anh yêu em chứ? - Đột nhiên Betta hỏi. - Betta, nãy giờ ngồi trên kia anh toàn nghĩ đến em. - Khi cô ta chết, anh vẫn yêu em chứ? - Còn yêu nhiều hơn nữa - Carl cam đoan. - Ơn Chúa, Carl! Chúng ta sẽ không phải đợi lâu đâu. - Ý em là gì? Betta mỉm cười nhìn vào đĩa thức ăn đã hết nhẵn rồi lại nhìn Carl. - Em đã bỏ thuốc độc vào thức ăn. Cô ta sẽ không sống thêm được đâu. Carl tái mặt. Rồi ngay lập tức y cảm thấy một cơn đau dữ dội ập đến như muốn xé toang dạ dày y. Carl ngã gục xuống. Betta sửng sốt nhìn y. Trước khi tắt thở, Carl chỉ kịp rủa Betta là “đồ ngốc”. Dịch giả: Phan Minh Ngọc Mục lục Người giúp việc phản trắc Người giúp việc phản trắc Chưa rõChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.Sưu tầm: ABCD Nguồn: Được bạn: Ct.Ly đưa lên vào ngày: 9 tháng 12 năm 2006
Mỹ Dung Người hành khất mù Mấy hôm nay ngày nào cũng mưa bão, cứ khoảng 3 giờ chiều mây lại kéo đen nghịt cả bầu trời . Những tiểu thương buôn bán ở cái thị trấn nhỏ này lại thở dài ngán ngẩm, dọn bớt hàng hóa vào trong tránh mưa tạt . Không như những ngày trời quang mây tạnh, đông khách mua hàng, nói cười rôm rả . Họ ngồi bó gối nhìn cảnh chợ vắng vẻ, lòng bồn chồn lo những hàng hóa ế ẩm hư thối phải đổ đi . Chưa tới 5 giờ chiều mà trời đã tối đen . Sấm chớp bắt đầu nổi lên . Mọi người không ai bảo ai, thu dọn hàng hóa lên xe hối hả đẩy về . 6 giờ chiều, chợ đã vắng tanh . Người hành khất già mù lòa cũng ngáp ngắn, ngáp dài từng cơn . Chợ vắng người mua, ông ta cũng không kiếm được đồng nào và tới giờ này cái bụng vẫn lép kẹp, đói meo . Ông nặng nề đứng dậy , tay khua chiếc gậy tìm đường đi . Ông tìm đường về cái tổ của mình . Đó là một sạp bán rau trong chợ Ông cũng không còn nhớ ông bao nhiêu tuổi, không còn nhớ ông đã tá túc qua đêm ở cái sạp bán rau của người đàn bà tốt bụng này bao lâu rồi . Chỉ biết sáng nào ông cũng dậy sớm dọn dẹp chiếc chiếu rách và chồng sách báo ẩm ướt kê làm gối xuống đất, để người đàn bà bày những củ qủa và đủ loại rau của bà vào khoảng 4-5 giờ sáng ra sạp bán . Ngày nào cũng vậy, ông ngồi cố định một chỗ ở đầu chợ, trước mặt là cái nón lá rách nhận những đồng tiền lẻ của những người hảo tâm qua lại . Ông đã gìa lắm rồi, râu tóc dài và bạc phơ . Mắt ông đã không nhìn thấy gì cả vì một căn bệnh hiểm nghèo khi còn rất nhỏ . Ông chẳng có ai là người thân, một thân một mình sống lây lất qua ngày . Cũng như mọi ngày ông chui cái tổ của mình trải chiếc chiếu rách ẩm ướt ra và chậm rãi đặt lưng . Cả ngày ngồi ngoài chợ, lưng ông mỏi nhừ . Bụng ông sôi sùng sục vì đói . Hôm nay ông chỉ ăn có một tô bún thừa vào buổi trưa . Chiều nay mưa gió không ai còn nhớ đến ông, không có cả cơm cặn, phở thừa để ăn . Chợ vắng khách cả ngày ông cũng không kiếm được bao nhiêu, trời lại mưa bão thế này, ông cũng không muốn đi tìm gì bỏ bụng, mặc kệ ... ngủ đi rồi khắc hết đói . Ngoài trời mưa bắt đầu rơi, sấm chớp ầm ầm khiến ông mấy lần giật thót mình . Ông đang nghĩ có lẽ những vệt sét nhập nhằng đang loé sáng ngoài kia . Ông ngoảnh mặt ra phía có tiếng sấm, nhưng vẫn chỉ là một bóng tối bao phủ , ông không thể nhìn thấy gì cả vì mắt ông đã mùlòa từ lâu . Ông mường tượng nhớ lại cảm giác nhìn thấy ánh sáng . Hình như ông đã quên rồi ánh sáng mặt trời như thế nào ? Ánh sáng của mặt trăng đên rằm đẹp ra làm sao ? Ông chỉ nhớ lờ mờ ... Nhớ những cụm tre xanh đầu làng, nhớ mái nhà tranh nhỏ bé, nhớ màu khói lam chiều tỏa ra từ những mái nhà thưa thớt, nhớ những đống rơm trước nhà mà ông và bọn trẻ trong làng thường nô đùa với nhau . Nhớ cả màu cánh đồng lúa ngát xanh mơn mởn, màu bông lúa trĩu bông vàng ươm vào mùa vụ và nhớ xa xa phía chân trời từng đàn cò trắng sải cánh bay về tổ mỗi buổi hoàng hôn ... Ôi, nhớ qúa ... tất cả hiện ra trước mắt ông, ký ức tuổi thơ của ông mồn một hiện về ... Mưa rơi trên mái tôn lộp bộp, chắc là mưa lớn lắm , mưa hắt cả vào chỗ nằm của ông . Ông trườn người nằm nép sát vào trong để tránh mưa, nhưng vẫn không tránh khỏi ... những hạt mưa buốt lạnh vẫn hắt vào chỗ ông nằm . Những hạt mưa hắt vào mặt ông lạnh ngắt . Mưa hắt vào hố mắt sâu hoắm già nua không nhìn thấy ánh sáng của ông . Mưa ướt cả râu tóc đã bạc trắng màu thời gian của ông . Quần áo của ông cũng bị những hạt mưa làm ướt, cả chiếc chiếu cũ rách rưới, cả đống báo cũ gối đầu cũng ướt . Ông có cảm giác miệng đắng ngắt và khô khốc . Đầu ông nặng trĩu và đau nhức từng cơn . Ông thấy khó thở và toàn thân run lên bần bật vì lạnh . Hơi thở gấp và nóng hừng hực, tay chân ông lạnh ngắt nhưng trán ông thì nóng như lửa đốt . Ông đang trong cơn sốt cao, đầu óc vẫn miên man nhớ về những qúa khứ, những hồi ức tuổi thơ khi ông vẫn còn là một cậu bé với đôi mắt tinh anh ... Rồi ông thiếp đi trong cơn mê sảng. Ngoài trời sấp chớp vẫn vang rền, những ánh chớp cắt ngang bầu trời đen ngòm thành những vệt sáng ngoằn ngoèo . Ánh sáng mờ ảo hắt vào chỗ ông nằm . Ông vẫn thiêm thiếp hôn mê . Dưới ánh chớp loé sáng đó có thể thấy rõ một người già nua nhỏ bé, ốm yếu đang nằm co quắt lạnh lẽo, cô độc trong đêm mưa buốt giá . Có thể nhìn rõ khuôn mặt ông tái nhợt thỉnh thoảng lại giật từng cơn . Trên khuôn mặt phúc hậu hiền lành đó phản phất nỗi buồn, nỗi đau khổ cùng cực của một người suốt đời đói rét và cô đơn không nơi nương tựa . Mưa như nhẹ hạt để rồi lại ào ào trút xuống nặng hạt hơn . Nước đã bắt đầu tràn vào chợ . Ông già mù hành khất vẫn nằm đó, chơ vơ, bất động như hóa thạch . 5 giờ sáng hôm sau, tiếng bà Năm bán rau la thất thanh làm mọi người giật mình sửng sốt . Một vài người hối hả chạy đến sạp bà Năm . - Ông Bảy chết rồi bay ơi ! Mọi người vội vàng chạy đến , người để tay vào mũi xem ông còn thở không, kẻ vuốt mắt . Mọi người nhốn nháo không biết làm gì. Một số khác hiếu động chen lấn nhau vào xem . Ai đó mang đến một chiếc chiếu còn mới đắp lên người ông cụ . Tiếng bà Năm vừa khóc vừa thều thào : - Tội nghiệp ông Bảy mù chết cóng vì lạnh . Bà Ba bán thịt heo cũng vừa khóc vừa bảo mấy đứa con chờ trời sáng đi báo chính quyền . Ông Tư bán trái cây thì dự tính sẽ đi quyên góp tất cả những sạp trong chợ để mua cho ông Bảy cái hòm và tổ chức ma chay . Đám tang ông Bảy được bà con tiểu thương ở chợ tổ chức đơn giản. Chính quyền địa phương cũng cấp cho một miếng đất ở nghĩa trang thị xã làm nơi an nghỉ cuối cùng của ông . Ông cụ ra đi cũng lặng lẽ như cuộc sống hành khất suốt đời của ông vậy . Sự ra đi thật nhẹ nhàng thanh thản không như cuộc đời sóng gió cùng cực của ông . Tối nay trời lại mưa thật to, mưa lại rơi lộp bộp trên mái tôn thấp lè tè của khu chợ nghèo . Những tia chóp chốc chốc lại lóe sáng, hắt vào chợ, hắt vào sạp bán rau củ của bà Năm - nơi mà người hành khất gìa mù lòa tá túc nhiều năm . Nhưng hôm nay chỗ ấy trống không bởi con người bất hạnh đó đã mãi mãi đi về cõi vĩnh hằng ... Mục lục Người hành khất mù Người hành khất mù Mỹ DungChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: Được bạn: khietnghi đưa lên vào ngày: 4 tháng 2 năm 2004
My Dung Blind beggar It's been raining and storming every day these past few days. Every day around 3 p.m., the clouds darken the sky. The small merchants in this small town sighed in frustration and moved their goods inside to avoid the rain. Unlike the days when the sky was clear and cloudless, there were many customers buying goods and talking and laughing. They sat with their knees bent, looking at the deserted market, anxiously worried that the rotten goods would have to be thrown away. It wasn't even 5pm yet it was already dark. Thunder and lightning began to appear. Everyone did not tell anyone, they packed their goods into the car and hurriedly pushed them back. At 6 pm, the market was deserted. The blind old beggar also yawned short and long. The market was empty, he couldn't earn any money and until now his stomach was still empty and hungry. He stood up heavily, waving his stick to find his way. He found his way back to his nest. It was a vegetable stall in the market. He no longer remembered how old he was, nor how long he had stayed overnight at this kind woman's vegetable stall. All I know is that every morning he wakes up early to clean up the torn mat and the stack of damp books and newspapers as pillows on the ground, so that the woman can display her fruits and all kinds of vegetables at around 4-5 a.m. at the stall to sell. Every day, he sat in a fixed place at the front of the market, with a tattered conical hat in front of him, accepting change from benefactors passing by. He is very old, his hair and beard are long and white. His eyes could not see anything because of a serious illness when he was very young. He had no relatives and lived alone day by day. Just like every day, he crawled into his nest, spread out the wet tattered mat and slowly laid down on his back. Sitting in the market all day, his back was tired. His stomach rumbled with hunger. Today he only ate a bowl of leftover vermicelli at noon. This windy and rainy afternoon no one remembers him, there is no leftover rice or pho to eat. The market was empty all day and he couldn't earn much, it was stormy like this, he didn't want to go looking for anything to eat, just ignore it...go to sleep and you'll be no longer hungry. Outside, the rain began to fall, thunder and lightning rumbled, making him startled several times. He was thinking that perhaps ambiguous streaks of lightning were flashing out there. He turned his face towards the sound of thunder, but it was still covered in darkness. He could not see anything because his eyes had been blind for a long time. He imagined and remembered the feeling of seeing light. It seems you have forgotten what sunlight is like? How beautiful is the light of the full moon? He only vaguely remembers... Remembers the green bamboo clusters at the beginning of the village, remembers the small thatched roofs, remembers the blue afternoon smoke emanating from the sparse roofs, remembers the piles of straw in front of the house that he and the children in the village shared. often play together. I remember the color of the lush green rice fields, the color of the rice flowers laden with yellow flowers during the harvest season, and I remember far away on the horizon, the flock of white storks spreading their wings to fly back to their nests every sunset... Oh, I remember so much.. Everything appeared before his eyes, his childhood memories suddenly appeared... The rain fell on the corrugated iron roof, it must have been very heavy, the rain splashed on his bed. He crawled and lay close inside to avoid the rain, but still could not avoid it... cold raindrops still splashed on the place where he lay. The raindrops hitting his face were cold. The rain poured into his old, deep eye sockets that could not see the light. The rain wet his beard and hair, which had become white with age. His clothes were also wet by the raindrops, even the old ragged mat, and the pile of old newspapers for his pillow were also wet. His mouth felt bitter and dry. His head felt heavy and ached intermittently. He found it difficult to breathe and his whole body trembled from the cold. His breathing was rapid and hot, his hands and feet were cold but his forehead was as hot as fire. He was in a high fever, his mind was still wandering about the past, childhood memories when he was still a boy with sharp eyes... Then he fell asleep in delirium. Outside, the lightning was still roaring, the flashes of lightning cutting across the black sky into zigzag streaks of light. Dim light shone on the place where he lay. He was still in a coma. Under that flash of lightning, one could clearly see a small, sickly old person lying curled up cold and alone in the cold, rainy night. You can clearly see that his face is pale and occasionally twitches. On that kind, gentle face reflected the sadness and extreme suffering of a person who had been hungry, cold, and lonely all his life without support. The rain seemed light and then came down harder. Water has begun to flood the market. The old blind beggar still lay there, helpless, motionless like a fossil. At 5 a.m. the next morning, Mrs. Nam selling vegetables screamed loudly, startling everyone. A few people hurriedly ran to Mrs. Nam's stall. - Mr. Bay is dead! Everyone rushed over, some put their hands on his nose to see if he was still breathing, some rubbed his eyes. Everyone was confused and didn't know what to do. A few others excitedly jostled each other to watch. Someone brought a new mat and placed it on the old man's body. Mrs. Nam's voice was both crying and whispering: - Poor blind Mr. Bay froze to death from the cold. Mrs. Ba, who sold pork, also cried and told her children to wait until morning to report to the authorities. Mr. Tu, who sells fruit, plans to donate to all the stalls in the market to buy Mr. Bay a trunk and organize a funeral. Mr. Bay's funeral was organized simply by the small traders at the market. The local government also provided a piece of land in the town cemetery as his final resting place. The old man passed away as quietly as his lifelong beggar life. His passing was gentle and peaceful, unlike his extremely turbulent life. Tonight it rained heavily again, and the rain fell heavily on the low corrugated iron roof of the poor market. The top rays flashed from time to time, shining into the market, shining into Mrs. Nam's vegetable stall - where the blind beggar had stayed for many years. But today that place is empty because that unfortunate person has gone to eternity forever... Table of contents Blind beggar Blind beggar My DungWelcome to read books from the book project for mobile devices. Source: author: Nguyen Kim Vy. Final words: Thank you for reading the entire story. Source: editor: Nguyen Kim Vy. Source: Posted by friend: khietnghi on: February 4, 2004
Khuyết Danh Người hùng bất hạnh Sau mười năm, Joseph Martin rời bỏ Centerville.-Tôi không biết chính xác tôi đang đi về đâu, ông nói, nhưng là đến nơi nào đó mà không ai biết đến tôi hay điều gì xãy ra cho tôi ở đây.Centerville là thành phố New England mới ở trong dãy núi Berkshire - lạnh vào mùa đông, nóng vào mùa hè, tuyệt đẹp vào mùa xuân với những bông hoa và cây cối, tuyệt hảo vào mùa thu khi những cây cối thay màu từ xanh lục sang màu vàng hay đỏ và thời tiết lại khô và mát mẻ. Giống như nhiều thành phố khác ở Mỹ, Centerville có một con lộ chính với một bưu điện, một thư viện, một ngân hàng với một bệnh viện nhỏ, vài nhà thờ, hai nhà hát chiếu bóng, một khách sạn, một cửa hàng tổng hợp và vài cửa hiệu nhỏ hơn. ở đây cũng có một trạm xe lửa nữa, nhưng hầu như không có ai ngoài thành phố đến viếng thăm Centerville hầu như không có người của thành phố du lịch . Hầu hết họ đều sinh ra, lớn lên, và kết hôn ở Centerville, và họ muốn các con của họ cũng làm như thế.Đó là một nơi nhỏ bé bình yên, thân ái, nơi mà ai ai cũng biết nhau. Mọi người đều biết khi nhà Taylors có chuyện khó khăn với cậu con trai trẻ của họ, khi nhà Bakers mở một bữa tiệc tối thứ bảy, khi Sarah Winters gặp Paul Cooper.Nhưng Joe Martin là khách lạ trong thành phố này - ai ai cũng gọi ông bằng cái tên họ của ông nhưng không ai ở Centerville biết nhiều về ông. Mười năm về trước, khi ông sống trong thành phố của họ, người ta hoàn toàn tin tưởng vào cái gã khách lại cao gầy. Ông ta là ai ? Từ đâu đến? Tại sao ông ta lại đến đây? Ông ta muốn gì ?Người ta đoán ông vào khoảng năm mươi tuổi, nhưng ông khong thay đổi bao nhiêu qua năm tháng và không ai có thể biết chắc được. Ông ta đến ở trong một cái ngôi nhà nhỏ cách thành phố hai trăm dặm, nơi mà ông ta sống hoàn toàn chỉ có một mình. Không ai đến thăm ông hay viết thư cho ông và ông không bao giờ trò chuyện với chính mình. Thiên hạ bàn tán nhiều vào vài tháng đầu tiên đó, nhưng họ không thể nào thu thập được bất kỳ thông tin nào về ông.Nhưng sau một thời gian ngắn, họ thôi không hỏi những câu hỏi về cá tính kỳ dị của Joe Martin và tập tin tưởng ông ta vào thích ông ta. Ông ta không hề bao giờ trò chuyện nhiều lắm về mình, nhưng ông ta tỏ ra thân mật với cái thầm lặng của chính mình và ông luôn sẵn sáng giúp dỡ vào bất kỳ lúc nào bất kỳ ai cần đến ông.Chính bản thân Joe không bao giờ yêu cầu hay cần sự giúp đỡ từ bất kỳ ai. Ông kiếm đủ tiền bằng cách làm việc cho những gia đình trong thành phố. Ông không nề hà gì khi làm việc nặng nhọc quanh những ngôi nhà sau khi tuyết đổ xuống vào mùa đông; ông thích giúp đỡ công việc nội trợ vào mùa xuân; ông thích chăm sóc cây cối và những bông hoa vào mùa hè và mùa thu. Ông sẽ treo những bức tranh lên, khiêng những cái hộp nặng, những kiện thư - bất kỳ việc gì, lớn hay nhỏ.Hiếm khi bỏ bất kỳ thời gian nào ra với những cha mẹ của chúng, Joe lại sẽ bỏ hàng mấy tiếng đồng hồ với những đức trẻ con trong thành phố để kể chuyện cho chúng nghe hay dẫn chúng đi thật lâu trong những dãy núi. Khi ông không có việc gì làm, ông thường đến thư viện nơi ông đọc báo và đủ loại sách và tạo chí. Và mỗi buổi chiều ông đều đến quán rượu Pete. Ông ngồi một mình ở một góc bàn và thường uống rất nhiều nhưng ông không bao giờ quấy rầu bất cứ ai về việc uống rượu của ông.Họ bàn tán với nhau về chuyện này, nói rằng Joe chắc không bao giò thành công, chính Joe có lẽ cũng đồng ý với họ.- Tôi có điều gì tôi muốn trong đời, ông chỉ nói thế.- Thực khó mà nói đúng điều Joe muốn? Nhưng ông tỏ ra hạnh phúc theo cái cách riêng kỳ lạ của chính mình.Rồi thì vào một đêm tháng tám nòng bức, điều gì đó đã xãy ra cho Joe Martin và cuộc đời của ông không thể giống như trước lâu hơn nữa.Có rất ít những thay suốt bao năm trường trong thành phố Centerville và thiên hạ thích như thế. Những ngân hàng mới củaHarold Chamberlain là tòa cao ốc đẹp nhất trong thành và ai ai cũng hài lòng về nó. Nó sơn toàn màu trắng với những cánh cửa sổ cao hẹp và những cánh cửa nặng nề. Ơ đó có vài cây cao mỗi bên tòa cao ốc và những băng ghế dài cạnh những cái cây, là nơi gặp gỡ lý tưởng cho những người hàng xóm và bạn bè vào thời tiết tốt.Joe thường sẽ ngủ suốt đêm trên một trong những băng ghế đó khi ông không thể đi bộ hai dặm từ quán rượu Pete về nhà mình.Ông Chamberlain, chủ tịch của ngân hàng First International ở Centerville không thích bất kỳ ai ngủ trên những băng ghế của ông, và lần nào ông cũng sẽ nói với Joe :- Nếu tôi bắt được anh một lần nữa, tôi sẽ đi gọi một người cảnh sát. Joe sẽ luôn nói là ông sẽ không tái phạm lại nữa. Ông chủ tịch biết quá rõ là Joe sẽ trở lại vài đêm sau, nhưng ông hề gọi một cảnh sát đến bao giờ.- Thứ năm tuần trước, Joe giúp bà Hamilton làm công việc trong nhà và bà chủ nhà đứng tuổi bảo ông hãy trở lại vào sáng hôm sau để hoàn tất côngviệc. Ngày thứ năm là ngày hết sức nóng bức, và buổi chiều cũng nóng như thế. Đã rất khuya khi Joe rời quán rượu Pete vào đêm hôm đó và ông quyết định ngủ lại trên một trong những băng ghế riêng của ngân hàng. Cạnh những cây cao thì mát mẻ và ông không muốn đi bộ suốt con đường về nhà. " Mình sẽ có thể đến nhà Hamilton sớm vào buổi sáng, ông nghĩ bụng, nếu mình ngủ ở đây, trong thành phố.Joe vừa mới sắp thiếp ngủ thì ông nghe thấy những giọng nói thì thầm cạnh những cánh cửa của ngân hàng. Hai người đàn ông trò chuyện với nhau. Joe cầu mong một người trong bọn họ không phải là ông Chamberlain.- Mày có chắc là mày có thể mở những cánh cửa này không ? Một giọng đàn ông hỏi với giọng nói mà Joe không quen biết.- Tất nhiên là chắc, người đàn ông kia đáp với một giọng nói rất quen thuộc. Chính là Frank Foster, nhân viên của ngân hàng.Frank mở những cánh cửa lớn của ngân hàng ra và hai người đàn ông bước vào... Họ không bật bất kỳ một ngọn đèn nào lên. Gã lạ mặt là ai thế ? Họ đang làm gì ? Joe đi thật nhanh trong khả năng của bọc quanh góc phố đến trạm cảnh sát kể với họ những gì ông đã thấy ở ngân hàng.Chỉ có thế thôi! ngày hôm sau Joe trở thành người hùng của thành phố. Cảnh sát đã bắt được hai tên đang ăn trộm tiền ngân hàng. - Anh có thể ngủ trên một trong những băng ghế của chúng tôi bất kỳ lúc nào anh muốn, ông Chamberlain nói với Joe . Nhưng tôi muốn làm hơn thế nữa cho anh kia. Tôi muốn anh làm việc tôi.- Làm việc với ông? Joe hỏi. Làm gì mới được chứ ?- Tôi biết rằng tôi cần một người bảo vệ để canh chừng ngân hàng mỗi đêm. Tôi cần một người mà tôi có thể tin tưởng được . Anh chính là người mà tôi muốn. Anh thấy sao? - Ông thực tốt ông Chamberlain, Joe đáp, nhưng tôi buộc phải từ chối.- Tôi không hiểu anh Joe. Anh sẽ có thêm tiền và ...- Tôi không cần thêm tiền nữa, Joe ngắt lời. Tôi chỉ thích những điều từ trước đến nay.- Này Joe, ông Chamberlain cãi lại, tôi không thể tin điều đó. Tôi đoán chắc là anh muốn sự thành đạt nào đó trong cuộc đời anh. Ai ai cũng thế. Anh đã giúp tôi và bây giờ tôi muốn giúp lại anh. Hãy nghĩ đến nó một chút xem và anh sẽ thấy như tôi. Tôi sẽ nói chuyện lại với anh.Sau vụ trộm, có rất nhiều thay đổi trong cuộc dời của Joe Martin. Hình của ông ông được đăng trên tờ Centerville Thời Báo. Ông Chamberlain mở một bữa tiệc tối dành riêng cho ông và trao cho ông một bao thư với một món tiền làm quà và thiên hạ ngưng bàn tán về ông và nói với ông là ông mới anh hùng làm sao.- Chính vì thế mà tôi phải ra đi, ông nói vào vài đêm sau ở quán rượu Pete.- Nhưng tại sao thế ? Pete hỏi. Ai cũng là bạn của anh. Giờ đây anh là người hùng vĩ đại của Centerville.- Đó mới chính là điều phiền toái, Joe nói. Phải mất bao nhiêu năm trời đăng đẳng để cho cư dân thành phố tập tin tưởng tôi và yêu thích con người của tôi. Tôi không bận tâm khi họ nghĩ tôi là kỳ quái. Tôi đã quen muốnlàm gì thì làm rồi và không ai quất rầy tôi. Giờ đây thì ai ai cũng muốn tôi thay đổi. Họ nghĩ tôi sẽ sống theo kiểu sống của họ. Đúng ra là họ sẽ không tin tôi thành thực yêu thích lối sống của tôi. Tôi nghĩ rằng có một điều duy nhất mà tôi có thể làm ở đây.- Điều gì thế ? Pete hỏi.- Đi khỏi đây - xa khỏi đây. Có lẽ trong một thành phố khác những sự việc có thể gống hệt như ở đây. Nhưng tôi không chắc - mười năm là một khoảng thời gian dài.Mọi người trong Centerville đều có mặt ở trạm xe lửa để từ biệt người hùng của họ. Họ đã học để yêu thích ông, nhưng họ không bao giờ hiểu ông. Ông đã ra đi như khi ông đến mười năm trước đây - một người khách lạ. Mục lục Người hùng bất hạnh Người hùng bất hạnh Khuyết DanhChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: Được bạn: Hùng đưa lên vào ngày: 27 tháng 12 năm 2003
Khuyết Danh Người hùng bất hạnh Sau mười năm, Joseph Martin rời bỏ Centerville.-Tôi không biết chính xác tôi đang đi về đâu, ông nói, nhưng là đến nơi nào đó mà không ai biết đến tôi hay điều gì xãy ra cho tôi ở đây.Centerville là thành phố New England mới ở trong dãy núi Berkshire - lạnh vào mùa đông, nóng vào mùa hè, tuyệt đẹp vào mùa xuân với những bông hoa và cây cối, tuyệt hảo vào mùa thu khi những cây cối thay màu từ xanh lục sang màu vàng hay đỏ và thời tiết lại khô và mát mẻ. Giống như nhiều thành phố khác ở Mỹ, Centerville có một con lộ chính với một bưu điện, một thư viện, một ngân hàng với một bệnh viện nhỏ, vài nhà thờ, hai nhà hát chiếu bóng, một khách sạn, một cửa hàng tổng hợp và vài cửa hiệu nhỏ hơn. ở đây cũng có một trạm xe lửa nữa, nhưng hầu như không có ai ngoài thành phố đến viếng thăm Centerville hầu như không có người của thành phố du lịch . Hầu hết họ đều sinh ra, lớn lên, và kết hôn ở Centerville, và họ muốn các con của họ cũng làm như thế.Đó là một nơi nhỏ bé bình yên, thân ái, nơi mà ai ai cũng biết nhau. Mọi người đều biết khi nhà Taylors có chuyện khó khăn với cậu con trai trẻ của họ, khi nhà Bakers mở một bữa tiệc tối thứ bảy, khi Sarah Winters gặp Paul Cooper.Nhưng Joe Martin là khách lạ trong thành phố này - ai ai cũng gọi ông bằng cái tên họ của ông nhưng không ai ở Centerville biết nhiều về ông. Mười năm về trước, khi ông sống trong thành phố của họ, người ta hoàn toàn tin tưởng vào cái gã khách lại cao gầy. Ông ta là ai ? Từ đâu đến? Tại sao ông ta lại đến đây? Ông ta muốn gì ?Người ta đoán ông vào khoảng năm mươi tuổi, nhưng ông khong thay đổi bao nhiêu qua năm tháng và không ai có thể biết chắc được. Ông ta đến ở trong một cái ngôi nhà nhỏ cách thành phố hai trăm dặm, nơi mà ông ta sống hoàn toàn chỉ có một mình. Không ai đến thăm ông hay viết thư cho ông và ông không bao giờ trò chuyện với chính mình. Thiên hạ bàn tán nhiều vào vài tháng đầu tiên đó, nhưng họ không thể nào thu thập được bất kỳ thông tin nào về ông.Nhưng sau một thời gian ngắn, họ thôi không hỏi những câu hỏi về cá tính kỳ dị của Joe Martin và tập tin tưởng ông ta vào thích ông ta. Ông ta không hề bao giờ trò chuyện nhiều lắm về mình, nhưng ông ta tỏ ra thân mật với cái thầm lặng của chính mình và ông luôn sẵn sáng giúp dỡ vào bất kỳ lúc nào bất kỳ ai cần đến ông.Chính bản thân Joe không bao giờ yêu cầu hay cần sự giúp đỡ từ bất kỳ ai. Ông kiếm đủ tiền bằng cách làm việc cho những gia đình trong thành phố. Ông không nề hà gì khi làm việc nặng nhọc quanh những ngôi nhà sau khi tuyết đổ xuống vào mùa đông; ông thích giúp đỡ công việc nội trợ vào mùa xuân; ông thích chăm sóc cây cối và những bông hoa vào mùa hè và mùa thu. Ông sẽ treo những bức tranh lên, khiêng những cái hộp nặng, những kiện thư - bất kỳ việc gì, lớn hay nhỏ.Hiếm khi bỏ bất kỳ thời gian nào ra với những cha mẹ của chúng, Joe lại sẽ bỏ hàng mấy tiếng đồng hồ với những đức trẻ con trong thành phố để kể chuyện cho chúng nghe hay dẫn chúng đi thật lâu trong những dãy núi. Khi ông không có việc gì làm, ông thường đến thư viện nơi ông đọc báo và đủ loại sách và tạo chí. Và mỗi buổi chiều ông đều đến quán rượu Pete. Ông ngồi một mình ở một góc bàn và thường uống rất nhiều nhưng ông không bao giờ quấy rầu bất cứ ai về việc uống rượu của ông.Họ bàn tán với nhau về chuyện này, nói rằng Joe chắc không bao giò thành công, chính Joe có lẽ cũng đồng ý với họ.- Tôi có điều gì tôi muốn trong đời, ông chỉ nói thế.- Thực khó mà nói đúng điều Joe muốn? Nhưng ông tỏ ra hạnh phúc theo cái cách riêng kỳ lạ của chính mình.Rồi thì vào một đêm tháng tám nòng bức, điều gì đó đã xãy ra cho Joe Martin và cuộc đời của ông không thể giống như trước lâu hơn nữa.Có rất ít những thay suốt bao năm trường trong thành phố Centerville và thiên hạ thích như thế. Những ngân hàng mới củaHarold Chamberlain là tòa cao ốc đẹp nhất trong thành và ai ai cũng hài lòng về nó. Nó sơn toàn màu trắng với những cánh cửa sổ cao hẹp và những cánh cửa nặng nề. Ơ đó có vài cây cao mỗi bên tòa cao ốc và những băng ghế dài cạnh những cái cây, là nơi gặp gỡ lý tưởng cho những người hàng xóm và bạn bè vào thời tiết tốt.Joe thường sẽ ngủ suốt đêm trên một trong những băng ghế đó khi ông không thể đi bộ hai dặm từ quán rượu Pete về nhà mình.Ông Chamberlain, chủ tịch của ngân hàng First International ở Centerville không thích bất kỳ ai ngủ trên những băng ghế của ông, và lần nào ông cũng sẽ nói với Joe :- Nếu tôi bắt được anh một lần nữa, tôi sẽ đi gọi một người cảnh sát. Joe sẽ luôn nói là ông sẽ không tái phạm lại nữa. Ông chủ tịch biết quá rõ là Joe sẽ trở lại vài đêm sau, nhưng ông hề gọi một cảnh sát đến bao giờ.- Thứ năm tuần trước, Joe giúp bà Hamilton làm công việc trong nhà và bà chủ nhà đứng tuổi bảo ông hãy trở lại vào sáng hôm sau để hoàn tất côngviệc. Ngày thứ năm là ngày hết sức nóng bức, và buổi chiều cũng nóng như thế. Đã rất khuya khi Joe rời quán rượu Pete vào đêm hôm đó và ông quyết định ngủ lại trên một trong những băng ghế riêng của ngân hàng. Cạnh những cây cao thì mát mẻ và ông không muốn đi bộ suốt con đường về nhà. " Mình sẽ có thể đến nhà Hamilton sớm vào buổi sáng, ông nghĩ bụng, nếu mình ngủ ở đây, trong thành phố.Joe vừa mới sắp thiếp ngủ thì ông nghe thấy những giọng nói thì thầm cạnh những cánh cửa của ngân hàng. Hai người đàn ông trò chuyện với nhau. Joe cầu mong một người trong bọn họ không phải là ông Chamberlain.- Mày có chắc là mày có thể mở những cánh cửa này không ? Một giọng đàn ông hỏi với giọng nói mà Joe không quen biết.- Tất nhiên là chắc, người đàn ông kia đáp với một giọng nói rất quen thuộc. Chính là Frank Foster, nhân viên của ngân hàng.Frank mở những cánh cửa lớn của ngân hàng ra và hai người đàn ông bước vào... Họ không bật bất kỳ một ngọn đèn nào lên. Gã lạ mặt là ai thế ? Họ đang làm gì ? Joe đi thật nhanh trong khả năng của bọc quanh góc phố đến trạm cảnh sát kể với họ những gì ông đã thấy ở ngân hàng.Chỉ có thế thôi! ngày hôm sau Joe trở thành người hùng của thành phố. Cảnh sát đã bắt được hai tên đang ăn trộm tiền ngân hàng. - Anh có thể ngủ trên một trong những băng ghế của chúng tôi bất kỳ lúc nào anh muốn, ông Chamberlain nói với Joe . Nhưng tôi muốn làm hơn thế nữa cho anh kia. Tôi muốn anh làm việc tôi.- Làm việc với ông? Joe hỏi. Làm gì mới được chứ ?- Tôi biết rằng tôi cần một người bảo vệ để canh chừng ngân hàng mỗi đêm. Tôi cần một người mà tôi có thể tin tưởng được . Anh chính là người mà tôi muốn. Anh thấy sao? - Ông thực tốt ông Chamberlain, Joe đáp, nhưng tôi buộc phải từ chối.- Tôi không hiểu anh Joe. Anh sẽ có thêm tiền và ...- Tôi không cần thêm tiền nữa, Joe ngắt lời. Tôi chỉ thích những điều từ trước đến nay.- Này Joe, ông Chamberlain cãi lại, tôi không thể tin điều đó. Tôi đoán chắc là anh muốn sự thành đạt nào đó trong cuộc đời anh. Ai ai cũng thế. Anh đã giúp tôi và bây giờ tôi muốn giúp lại anh. Hãy nghĩ đến nó một chút xem và anh sẽ thấy như tôi. Tôi sẽ nói chuyện lại với anh.Sau vụ trộm, có rất nhiều thay đổi trong cuộc dời của Joe Martin. Hình của ông ông được đăng trên tờ Centerville Thời Báo. Ông Chamberlain mở một bữa tiệc tối dành riêng cho ông và trao cho ông một bao thư với một món tiền làm quà và thiên hạ ngưng bàn tán về ông và nói với ông là ông mới anh hùng làm sao.- Chính vì thế mà tôi phải ra đi, ông nói vào vài đêm sau ở quán rượu Pete.- Nhưng tại sao thế ? Pete hỏi. Ai cũng là bạn của anh. Giờ đây anh là người hùng vĩ đại của Centerville.- Đó mới chính là điều phiền toái, Joe nói. Phải mất bao nhiêu năm trời đăng đẳng để cho cư dân thành phố tập tin tưởng tôi và yêu thích con người của tôi. Tôi không bận tâm khi họ nghĩ tôi là kỳ quái. Tôi đã quen muốnlàm gì thì làm rồi và không ai quất rầy tôi. Giờ đây thì ai ai cũng muốn tôi thay đổi. Họ nghĩ tôi sẽ sống theo kiểu sống của họ. Đúng ra là họ sẽ không tin tôi thành thực yêu thích lối sống của tôi. Tôi nghĩ rằng có một điều duy nhất mà tôi có thể làm ở đây.- Điều gì thế ? Pete hỏi.- Đi khỏi đây - xa khỏi đây. Có lẽ trong một thành phố khác những sự việc có thể gống hệt như ở đây. Nhưng tôi không chắc - mười năm là một khoảng thời gian dài.Mọi người trong Centerville đều có mặt ở trạm xe lửa để từ biệt người hùng của họ. Họ đã học để yêu thích ông, nhưng họ không bao giờ hiểu ông. Ông đã ra đi như khi ông đến mười năm trước đây - một người khách lạ. Mục lục Người hùng bất hạnh Người hùng bất hạnh Khuyết DanhChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: Được bạn: Hùng đưa lên vào ngày: 27 tháng 12 năm 2003
Khuyết Danh Người học trò cũ của thầy Thân Mùa mưa năm ấy thật khắc nghiệt. Mưa tầm tã hết ngày này qua ngày khác. Sông suối đầy ắp. Nước lũ bao vây chúng tôi hàng tháng trời. Không đi cõng gạo được, khẩu phần ăn cứ rút xuống dần, đến bữa mỗi người chỉ nhận được một mẩu sắn luộc. Khổ nhất là khi có người ốm nặng, không cáng đi bệnh viện được.Bộ phận của tôi, mọi người đi công tác cả, chỉ còn hai người: Thân đang ốm và tôi là lính mới vào chiến trường. Hai đứa mắc võng hai bên một bếp lửa râm rỉ cháy ngày đêm, dưới một mái lá sơ sài chỗ nào cũng dột. Trời mưa lạnh, ướt át, bụng lại đói, chúng tôi gần như suốt ngày nằm co ro trong võng. Ngủ chán lại thức dậy, nếu không hí hoáy nhật kí lại tán chuyện tầm phào để quên cái thèm ăn và khuây nỗi nhớ nhà.Thân người miền Bắc, tôi là dân tập kết quay về. Nhưng hai đứa có nhiều cái giống nhau: cùng tuổi thân, đều đã có vợ và con gái đầu lòng, cả hai bên đều là giáo viên văn. Thân vào chiến trường trước tôi mấy năm. Tạng người Thân vốn không khoẻ lại trải qua cảnh cực khổ, thiếu thốn, anh ốm đau luôn, khi tôi vào thì trông anh đã suy sụp lắm, cư vài ngày lại lên cơn. Nhưng bên trong thân hình gầy yếu và tiều tuỵ ấy, là một quả tim nhân hậu và một cái đầu đầy mộng tưởng. Những khi nói về mình, thân thương nhắc lại câu tôi nghe đã quen tai "nếu còn sống đến ngày ấy, mình sẽ..."Một đêm lạnh giá không ngủ được, tôi nằm chờ trời sáng. Bỗng có tiếng Thân hỏi sang:- Thức đấy chứ?- Thức.- Mình cho cậu xem cái này vừa nói Thân vừa chồm người dựa sang một tờ giấy nhỏ - Cậu chỉ cần đọc câu đầu, rồi mình kể cho nghe.Tôi bấm đèn bin đọc:"Ôđetxa, ngày...Thầy kính mến,Chắc thầy ngạc nhiên lắm khi nhận được thư này của em. Em vừa sang đây được ba hôm, và đây là những dòng chữa đầu tiên em viết trên đất bạn để gửi về tổ quốc. Hôm tiễn em ra ga mẹ em cứ dặn đi dặn lại: sang bên ấy thế nào con cũng phải đánh thư về cho thầy ngay, không có thầy thì con không có được như ngày nay đâu. Rồi mẹ em khóc..."Tôi liếc nhanh xuống cuối thư:"Học trò cũ của thầyNinh Thị Vữa".Tôi vừa tắt đèn bin thì Thân kể:"Em Vữa này là một trong học sinh giỏi của lớp mình vừa dạy văn vừa chủ nhiệm, khổ nỗi nhà quá nghèo, lại gặp nạn - bố làm thợ xây, một viên gạch bê tông rơi từ trên cao xuống, đập nát cả bàn chân, phải nằm bệnh viện suốt mấy tháng. Mẹ làm cấp dưỡng ở trường sư phạm tỉnh. Sau Vữa lại còn hai đứa em. Thấy cảnh nhà khốn khó quá, em quyết định nghỉ học, xin làm phụ nề để giúp mẹ. Mình nhớ mãi hôm ấy. Cuối buổi học là giờ trả bài tập làm văn của mình. Bài của Vữa được điểm cao, được đọc cho cả lớp nghe. Khi tan lớp học sinh ra về cả, mình thấy Vữa vẫn ngồi lại, vẻ mặt rất buồn khổ. Mình bước xuống hỏi, em cắn môi một lát rồi đứng dậy chỉ nói được hai tiếng "thưa thầy" lại ngồi thụp xuống gục đầu trên bàn khóc nứa nở, hai chiếc đuôi sam cứ rung lên bần bật trên vai áo. Mình đã hiểu hoàn cảnh của Vữa nên đứng đợi cho em đỡ xúc động để tìm lời an ủi. Nhưng bỗng nhiên em đứng bật dậy, chìa vội cho mình lá đơn xin thôi học rồi ôm sách vở chạy vù ra khỏi lớp.Đêm đó mình không ngủ được. Thương và tiếc cho nó quá. Hôm sau mình đến nhà. Mẹ Vữa thấy mình đến vội nói ngay: Cảnh nhà em nó "hoàn cảnh" quá, không nói thì thầy cũng đã hiểu cả rồi. Nói thực bụng thì gia đình em chưa có ý định cho cháu thôi học. Nhưng nó thấy cảnh nhà túng bấn quá, lại không muốn cho hai đứa em nó học hành dở dang nên cứ nằng nặc bảo mẹ phải ký vào đơn. Nên rồi cũng chiều cháu. Mình biết tuy ngoài miệng bà nói vậy nhưng thực bụng thực bụng cũng muốn cho Vữa nghỉ học để phụ giúp bà, nhà cực quá, nó lại là con gái học chi cho cao. Nên mình nói đại ý: cái khó của gia đình là tạm thời, tương lai con cái là quan trọng. Vữa lại học rất tốt, rất có triển vọng, vả lại cũng chẳng còn bao lâu nữa là hết cấp III. Rất thông cảm với khó khăn của gia đình, vợ chồng chúng tôi cũng chẳng dư giả gì nhưng còn đỡ hơn hai bác, chúng tôi xin được giành ra mỗi tháng mười đồng (*) để giúp thêm cho Vữa học hết cấp III. Nếu hai bác ngại thì coi là tôi cho vay, sau này em Vữa trả lại cũng được.Nghe mình nói thế, mẹ Vữa lặng đi một lúc rồi rưng rưng nước mắt nói: Xin hết sức cảm ơn thầy cô và cũng không dám phiền đến thầy, thôi thì rau cháo qua ngày, chúng em cố gắng động viên cháu tiếp tục đi học.Và bây giờ thì ... như cậu thấy đấy. Cậu không thể tưởng tượng nổi khi nhận được thư Vừa, biết nó được đi học nước ngoài, mình sung sướng đến mức nào đâu. Con bé này triển vọng lắm. Mình tin những đưa trẻ như vậy sau này sẽ rất khá. Nếu mình còn sống đến ngày ấy, mình sẽ..."Đang nói sôi nổi bỗng nhiên Thân dừng lại. Và dừng lại rất lâu. Tôi hiểu là Thân đang xúc động. Một lúc sau, anh mới nói chậm rãi, giọng buồn buồn.- Bác này, chẳng may mình đi theo thằng Nghĩa, mà cậu còn sống cậu cố ghé thăm vợ con mình, xem con cún nhà mình có được học đến nơi đến chốn không. Và nhớ hỏi thăm Vữa.Nghĩa là một cán bộ trong cơ quan vừa hy sinh tháng trước trong một chuyến đi công tác xuống các tỉnh. Không hiểu sao, gần đây Thân cứ nhắc đến Nghĩa như một nỗi ám ảnh.Và thật đau đớn, điều mà Thân gửi gắm cho tôi đã trở thành lời trăng trối một cái chế hình như được linh tính báo trước. Chỉ sau đó dăm hôm, sau một đêm vật vã, quằn quại với cơn sốt ác tính, Thân đã vĩnh biệt chúng tôi. Cả cơ quan Ban Giáo dục khu 5 lúc đó còn ở nhà không đầy 10 người. Chúng tôi xúm lại sửa soạn cho Thân. Trời rất lạnh. Trong ba lô của Thân có bao nhiêu áo quần chúng tôi lấy ra mặc cả vào cho anh rồi gói anh vào tấm võng dù. Trời vừa tạnh mưa, chúng tôi khiêng Thân ra bìa rừng. Nhưng vừa đào huyệt xong, mưa lại xối xả, chúng tôi phải vừa tát nước dưới huyệt lên, vừa mai táng Thân trong đất nhão.Sau ngày giải phóng, nhân những chuyến công tác ra Bắc tôi tranh thủ lên thăm gia đình Thân mấy lần. Nhưng lần nào cũng vội vội vàng vàng chẳng hỏi han gì được nhiều. Mãi đến chuyến thăm vừa rồi sau khi đã nghỉ hưu, tôi mới biết cô học trò cũ của Thân. Vừa nghe tôi nói đến cô Ninh Thị Vữa, vợ Thân nói ngay, giọng không ra vui cũng chẳng ra buồn:- Ối dào, cô ấy giờ thì khác lắm. Chồng cũng học ở Nga về, mấy năm nay bỏ nhà nước buôn hàng Tây, giàu sụ. Nhà vừa lên tầng. Còn cô ấy vẫn dạy toán ở trường cấp III thị xã, cái trường ngày trước, anh Thân nhà tôi dạy và cô ấy học đấy. Dạy ở trường để có cái chân biên chế thôi. Chủ yếu là cô dạy thêm ở nhà. Được cái, cô dạy cũng khá nên học sinh học rất đông, kiếm lắm!Nói xong chị dẫn tôi ra cổng chỉ ngôi nhà mới xây bên kia hồ. Tôi vừa đi bộ đến nhà Vữa, vừa miên man nghĩ lại những ngày cuối cùng của Thân với những tình cảm tốt đẹp của anh về người học trò cũ. Tự nhiên bước chân tôi trở nên hối hả, lòng ham hở như mình mang một món quà quý đến cho một người mà chắc khi nhận được, họ sẽ vui sướng lắm.Tôi đến nhà Vữa đúng lúc cua học thêm sắp tan. Đứng ngoài cửa sổ, tôi nghe tiếng cô giáo vang lên the thé, trong tiếng ồn ào của học sinh vào cuối buổi học.- Xin mời ba em ... (tôi không nghe rõ tên) ở lại gặp tôi!.Khi học sinh đã ra khỏi lớp, tôi liếc nhìn vào thấy hai em trai, một em gái đến đứng trước mặt cô, đầu hơi cúi vẻ tội lỗi. Tôi ý tứ quay mặt ra đường nhưng áp sát lưng vào của sổ lắng nghe xem việc gì đang diễn ra.- Sao đó? Hôm nay đầu tháng sau rồi mà tiền học tháng trước các vị vẫn chưa nộp? Riêng cô này thì nợ cả hai tháng rồi...Hai em trai nói gì đó tôi không nghe rõ. Riêng em gái thì giọng van vỉ:- Xin cô thông cảm, mẹ em tháng trước bị xe tông, lâu nay phải nghỉ chợ ...- Thôi thôi thôi! Tôi chẳng hơi đâu nghe đủ thứ lý do lý trấu của các vị cuối tuần này không nộp tiền học thì tuần sau nghỉ, để chỗ cho khác ngồi. Thế nhá!Ngay sau đó, nghe tiếng gót giày nện mạnh lên sàn, tôi vội quay lại nhìn qua cửa sổ, chỉ kịp nhìn thấy tấm lưng của cô giáo sau rèm cửa. Còn ba em học sinh thì tiu nghỉu, tủi cực bước ra. Tôi chú ý đến em nữ sinh đi sau, tóc em chẳng tết đuôi sam nhưng không hiểu sao tôi cứ tin là nó rất giống hình dáng của bé Vữa tội nghiệp trong tâm tưởng của Thân trên 20 năm về trước.Như bị tạt nước bẩn vào mặt, tôi bỏ ý định vào gặp người học trò cũ của Thân, tôi thắp ba nén hương lên bàn thờ để tạ lỗi với bạn. Từ trong khung ảnh, Thân nhìn tôi, đôi mắt hiền từ phảng phất một chút lãng mạn, vẻ mặt vẫn bình thản như không hề tin vào chuyện vừa xảy ra có thật. Mục lục Người học trò cũ của thầy Thân Người học trò cũ của thầy Thân Khuyết DanhChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: M&tôiĐược bạn: Hùng đưa lên vào ngày: 27 tháng 12 năm 2003
Khuyết Danh Người học trò cũ của thầy Thân Mùa mưa năm ấy thật khắc nghiệt. Mưa tầm tã hết ngày này qua ngày khác. Sông suối đầy ắp. Nước lũ bao vây chúng tôi hàng tháng trời. Không đi cõng gạo được, khẩu phần ăn cứ rút xuống dần, đến bữa mỗi người chỉ nhận được một mẩu sắn luộc. Khổ nhất là khi có người ốm nặng, không cáng đi bệnh viện được.Bộ phận của tôi, mọi người đi công tác cả, chỉ còn hai người: Thân đang ốm và tôi là lính mới vào chiến trường. Hai đứa mắc võng hai bên một bếp lửa râm rỉ cháy ngày đêm, dưới một mái lá sơ sài chỗ nào cũng dột. Trời mưa lạnh, ướt át, bụng lại đói, chúng tôi gần như suốt ngày nằm co ro trong võng. Ngủ chán lại thức dậy, nếu không hí hoáy nhật kí lại tán chuyện tầm phào để quên cái thèm ăn và khuây nỗi nhớ nhà.Thân người miền Bắc, tôi là dân tập kết quay về. Nhưng hai đứa có nhiều cái giống nhau: cùng tuổi thân, đều đã có vợ và con gái đầu lòng, cả hai bên đều là giáo viên văn. Thân vào chiến trường trước tôi mấy năm. Tạng người Thân vốn không khoẻ lại trải qua cảnh cực khổ, thiếu thốn, anh ốm đau luôn, khi tôi vào thì trông anh đã suy sụp lắm, cư vài ngày lại lên cơn. Nhưng bên trong thân hình gầy yếu và tiều tuỵ ấy, là một quả tim nhân hậu và một cái đầu đầy mộng tưởng. Những khi nói về mình, thân thương nhắc lại câu tôi nghe đã quen tai "nếu còn sống đến ngày ấy, mình sẽ..."Một đêm lạnh giá không ngủ được, tôi nằm chờ trời sáng. Bỗng có tiếng Thân hỏi sang:- Thức đấy chứ?- Thức.- Mình cho cậu xem cái này vừa nói Thân vừa chồm người dựa sang một tờ giấy nhỏ - Cậu chỉ cần đọc câu đầu, rồi mình kể cho nghe.Tôi bấm đèn bin đọc:"Ôđetxa, ngày...Thầy kính mến,Chắc thầy ngạc nhiên lắm khi nhận được thư này của em. Em vừa sang đây được ba hôm, và đây là những dòng chữa đầu tiên em viết trên đất bạn để gửi về tổ quốc. Hôm tiễn em ra ga mẹ em cứ dặn đi dặn lại: sang bên ấy thế nào con cũng phải đánh thư về cho thầy ngay, không có thầy thì con không có được như ngày nay đâu. Rồi mẹ em khóc..."Tôi liếc nhanh xuống cuối thư:"Học trò cũ của thầyNinh Thị Vữa".Tôi vừa tắt đèn bin thì Thân kể:"Em Vữa này là một trong học sinh giỏi của lớp mình vừa dạy văn vừa chủ nhiệm, khổ nỗi nhà quá nghèo, lại gặp nạn - bố làm thợ xây, một viên gạch bê tông rơi từ trên cao xuống, đập nát cả bàn chân, phải nằm bệnh viện suốt mấy tháng. Mẹ làm cấp dưỡng ở trường sư phạm tỉnh. Sau Vữa lại còn hai đứa em. Thấy cảnh nhà khốn khó quá, em quyết định nghỉ học, xin làm phụ nề để giúp mẹ. Mình nhớ mãi hôm ấy. Cuối buổi học là giờ trả bài tập làm văn của mình. Bài của Vữa được điểm cao, được đọc cho cả lớp nghe. Khi tan lớp học sinh ra về cả, mình thấy Vữa vẫn ngồi lại, vẻ mặt rất buồn khổ. Mình bước xuống hỏi, em cắn môi một lát rồi đứng dậy chỉ nói được hai tiếng "thưa thầy" lại ngồi thụp xuống gục đầu trên bàn khóc nứa nở, hai chiếc đuôi sam cứ rung lên bần bật trên vai áo. Mình đã hiểu hoàn cảnh của Vữa nên đứng đợi cho em đỡ xúc động để tìm lời an ủi. Nhưng bỗng nhiên em đứng bật dậy, chìa vội cho mình lá đơn xin thôi học rồi ôm sách vở chạy vù ra khỏi lớp.Đêm đó mình không ngủ được. Thương và tiếc cho nó quá. Hôm sau mình đến nhà. Mẹ Vữa thấy mình đến vội nói ngay: Cảnh nhà em nó "hoàn cảnh" quá, không nói thì thầy cũng đã hiểu cả rồi. Nói thực bụng thì gia đình em chưa có ý định cho cháu thôi học. Nhưng nó thấy cảnh nhà túng bấn quá, lại không muốn cho hai đứa em nó học hành dở dang nên cứ nằng nặc bảo mẹ phải ký vào đơn. Nên rồi cũng chiều cháu. Mình biết tuy ngoài miệng bà nói vậy nhưng thực bụng thực bụng cũng muốn cho Vữa nghỉ học để phụ giúp bà, nhà cực quá, nó lại là con gái học chi cho cao. Nên mình nói đại ý: cái khó của gia đình là tạm thời, tương lai con cái là quan trọng. Vữa lại học rất tốt, rất có triển vọng, vả lại cũng chẳng còn bao lâu nữa là hết cấp III. Rất thông cảm với khó khăn của gia đình, vợ chồng chúng tôi cũng chẳng dư giả gì nhưng còn đỡ hơn hai bác, chúng tôi xin được giành ra mỗi tháng mười đồng (*) để giúp thêm cho Vữa học hết cấp III. Nếu hai bác ngại thì coi là tôi cho vay, sau này em Vữa trả lại cũng được.Nghe mình nói thế, mẹ Vữa lặng đi một lúc rồi rưng rưng nước mắt nói: Xin hết sức cảm ơn thầy cô và cũng không dám phiền đến thầy, thôi thì rau cháo qua ngày, chúng em cố gắng động viên cháu tiếp tục đi học.Và bây giờ thì ... như cậu thấy đấy. Cậu không thể tưởng tượng nổi khi nhận được thư Vừa, biết nó được đi học nước ngoài, mình sung sướng đến mức nào đâu. Con bé này triển vọng lắm. Mình tin những đưa trẻ như vậy sau này sẽ rất khá. Nếu mình còn sống đến ngày ấy, mình sẽ..."Đang nói sôi nổi bỗng nhiên Thân dừng lại. Và dừng lại rất lâu. Tôi hiểu là Thân đang xúc động. Một lúc sau, anh mới nói chậm rãi, giọng buồn buồn.- Bác này, chẳng may mình đi theo thằng Nghĩa, mà cậu còn sống cậu cố ghé thăm vợ con mình, xem con cún nhà mình có được học đến nơi đến chốn không. Và nhớ hỏi thăm Vữa.Nghĩa là một cán bộ trong cơ quan vừa hy sinh tháng trước trong một chuyến đi công tác xuống các tỉnh. Không hiểu sao, gần đây Thân cứ nhắc đến Nghĩa như một nỗi ám ảnh.Và thật đau đớn, điều mà Thân gửi gắm cho tôi đã trở thành lời trăng trối một cái chế hình như được linh tính báo trước. Chỉ sau đó dăm hôm, sau một đêm vật vã, quằn quại với cơn sốt ác tính, Thân đã vĩnh biệt chúng tôi. Cả cơ quan Ban Giáo dục khu 5 lúc đó còn ở nhà không đầy 10 người. Chúng tôi xúm lại sửa soạn cho Thân. Trời rất lạnh. Trong ba lô của Thân có bao nhiêu áo quần chúng tôi lấy ra mặc cả vào cho anh rồi gói anh vào tấm võng dù. Trời vừa tạnh mưa, chúng tôi khiêng Thân ra bìa rừng. Nhưng vừa đào huyệt xong, mưa lại xối xả, chúng tôi phải vừa tát nước dưới huyệt lên, vừa mai táng Thân trong đất nhão.Sau ngày giải phóng, nhân những chuyến công tác ra Bắc tôi tranh thủ lên thăm gia đình Thân mấy lần. Nhưng lần nào cũng vội vội vàng vàng chẳng hỏi han gì được nhiều. Mãi đến chuyến thăm vừa rồi sau khi đã nghỉ hưu, tôi mới biết cô học trò cũ của Thân. Vừa nghe tôi nói đến cô Ninh Thị Vữa, vợ Thân nói ngay, giọng không ra vui cũng chẳng ra buồn:- Ối dào, cô ấy giờ thì khác lắm. Chồng cũng học ở Nga về, mấy năm nay bỏ nhà nước buôn hàng Tây, giàu sụ. Nhà vừa lên tầng. Còn cô ấy vẫn dạy toán ở trường cấp III thị xã, cái trường ngày trước, anh Thân nhà tôi dạy và cô ấy học đấy. Dạy ở trường để có cái chân biên chế thôi. Chủ yếu là cô dạy thêm ở nhà. Được cái, cô dạy cũng khá nên học sinh học rất đông, kiếm lắm!Nói xong chị dẫn tôi ra cổng chỉ ngôi nhà mới xây bên kia hồ. Tôi vừa đi bộ đến nhà Vữa, vừa miên man nghĩ lại những ngày cuối cùng của Thân với những tình cảm tốt đẹp của anh về người học trò cũ. Tự nhiên bước chân tôi trở nên hối hả, lòng ham hở như mình mang một món quà quý đến cho một người mà chắc khi nhận được, họ sẽ vui sướng lắm.Tôi đến nhà Vữa đúng lúc cua học thêm sắp tan. Đứng ngoài cửa sổ, tôi nghe tiếng cô giáo vang lên the thé, trong tiếng ồn ào của học sinh vào cuối buổi học.- Xin mời ba em ... (tôi không nghe rõ tên) ở lại gặp tôi!.Khi học sinh đã ra khỏi lớp, tôi liếc nhìn vào thấy hai em trai, một em gái đến đứng trước mặt cô, đầu hơi cúi vẻ tội lỗi. Tôi ý tứ quay mặt ra đường nhưng áp sát lưng vào của sổ lắng nghe xem việc gì đang diễn ra.- Sao đó? Hôm nay đầu tháng sau rồi mà tiền học tháng trước các vị vẫn chưa nộp? Riêng cô này thì nợ cả hai tháng rồi...Hai em trai nói gì đó tôi không nghe rõ. Riêng em gái thì giọng van vỉ:- Xin cô thông cảm, mẹ em tháng trước bị xe tông, lâu nay phải nghỉ chợ ...- Thôi thôi thôi! Tôi chẳng hơi đâu nghe đủ thứ lý do lý trấu của các vị cuối tuần này không nộp tiền học thì tuần sau nghỉ, để chỗ cho khác ngồi. Thế nhá!Ngay sau đó, nghe tiếng gót giày nện mạnh lên sàn, tôi vội quay lại nhìn qua cửa sổ, chỉ kịp nhìn thấy tấm lưng của cô giáo sau rèm cửa. Còn ba em học sinh thì tiu nghỉu, tủi cực bước ra. Tôi chú ý đến em nữ sinh đi sau, tóc em chẳng tết đuôi sam nhưng không hiểu sao tôi cứ tin là nó rất giống hình dáng của bé Vữa tội nghiệp trong tâm tưởng của Thân trên 20 năm về trước.Như bị tạt nước bẩn vào mặt, tôi bỏ ý định vào gặp người học trò cũ của Thân, tôi thắp ba nén hương lên bàn thờ để tạ lỗi với bạn. Từ trong khung ảnh, Thân nhìn tôi, đôi mắt hiền từ phảng phất một chút lãng mạn, vẻ mặt vẫn bình thản như không hề tin vào chuyện vừa xảy ra có thật. Mục lục Người học trò cũ của thầy Thân Người học trò cũ của thầy Thân Khuyết DanhChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: M&tôiĐược bạn: Hùng đưa lên vào ngày: 27 tháng 12 năm 2003
Thế Sự Người Học Trò Và Con Chó Đá Ngày xưa, có người học trò hôm nào đến nhà thày cũng phải đi qua một nơi có con chó đá. Khi người ấy qua thì con chó đá nhỏm dậy tỏ vẻ mừng rỡ. Người học trò lấy làm lạ, một hôm đứng lại hỏi con chó rằng: "Anh em học trò qua đây cũng đông, sao các người khác thì mày không mừng, lại chỉ mừng riêng có một mình tao"? Con chó đáp: "Khoa này bao nhiêu người kia không ai đậu cả. Chỉ có một mình thày thi đậu mà thôi. Số trời đã định, nên tôi phải kính trọng mừng thày". Người học trò nghe nói vậy, lúc về nhà kể chuyện lại cho cha mẹ nghe. Từ đó, người cha bỗng lên mặt ta đây, hống hách với cả mọi người. Một hôm ông ta giắt trâu ra đồng cày, cho trâu dẫm cả lúa của người làng. Người ta nói, ông ta không thèm đáp lại. Rồi hôm sau, lại đưa thêm trâu, thêm người, cứ ruộng lúa của người ta bước bừa xuống dẫm be bét không kiêng nể chi cả. Chủ ruộng trông thấy thế lại kêu, thì ông trừng mắt dọa dẫm: "Khoa này con ông đỗ, rồi cho chúng bay sẽ biết tay ông"! Chủ ruộng thấy ông nói vậy, cũng có lòng sợ, không dám lôi thôi gì nữa. Đến hôm sau, người học trò đi học, qua chỗ con chó đá thì không thấy nó đứng dậy nữa. Lúc về cũng vậy, nó cũng không mừng. Người học trò lấy làm lạ, đến hỏi con chó rằng: "Mọi buổi tao qua đây, mày vẫn đứng dậy mừng, hôm nay sao mày không đứng dậy nữa thế"? Con chó nói: "Tại cha thày lên mặt hách dịch với cả mọi người, rồi lại cho trâu dẫm hại ruộng lúa của người ta, cho nên Thiên tào đã gạch tên thày đi, khoa này thày không đỗ được, nên tôi không phải mừng thày nữa". Người học trò về nhà đem lời con chó kể lại với chạ Người cha lấy làm hối. Từ đó dẹp hết thói khoe khoang lên mặt, rồi lại đến từ tạ người chủ đất rất khiêm tốn. Khoa ấy, người học trò đi thi đã vào lọt mấy kỳ, mà cũng không đỗ thật. Tuy vậy, người ấy không lấy làm nản, càng chăm chỉ học hành, mà người cha ở nhà cũng không lấy làm oán hận, càng tu thân tích đức để chuộc lỗi. Cách đấy ít lâu, người học trò đi qua chỗ con chó đá, lại thấy nó đứng dậy mừng rỡ như trước. Hỏi thì con chó nói rằng: "Nhà thày tu nhân tích đức đã ba năm nay, đủ chuộc lại những lỗi lầm trước rồi. Nên sổ Thiên tào lại định cho thày khoa này thi đỗ". Người học trò nghe nói về nhà không kể chuyện lại cho cha nghe nữa, chỉ biết ra sức cố học. Khoa ấy quả nhiên thi đỗ cao. Hết Mục lục Người Học Trò Và Con Chó Đá Người Học Trò Và Con Chó Đá Thế SựChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: Vnthuquan - Thư viện onlineĐược bạn: Ct.Ly đưa lên vào ngày: 4 tháng 3 năm 2006
The World The Student And The Fighting Dog Once upon a time, there was a student who had to pass by a place where there was a fighting dog every day when he came to the teacher's house. When the person passed, the dog stood up, looking happy. The student was surprised, one day he stopped and asked the dog: "There are many students who come here, why aren't you happy with the others, and only me?" The dog replied: "There are so many people in this department, no one passed. You are the only one who passed the exam. God's destiny is determined, so I must respectfully congratulate you." When the student heard that, he went home and told the story to his parents. From then on, my father suddenly appeared in my face, domineering towards everyone. One day he took the buffalo to the fields to plow and let the buffalo trample all the villagers' rice. People said, he did not bother to respond. Then the next day, more buffaloes and more people were brought in, and people walked into their rice fields haphazardly and stomped without any hesitation. The owner of the field saw this and called out, then he glared threateningly: "Your son will pass this course, then let them fly and they will know what you are doing"! When the field owner saw what he said, he was also afraid and did not dare to cause any more trouble. The next day, the student went to school and passed the kicking dog but did not see it stand up again. When he returned, he was not happy either. The student was surprised and asked the dog: "Every time I come here, you still stand up to celebrate. Why don't you stand up today?" The dog said: "It's because your father was so bossy with everyone, and then let the buffalo trample on other people's rice fields, so Thien Tao crossed out your name, you couldn't pass this department, so I'm not the one." Congratulations, teacher." The student went home and brought the dog's words back to his father. The father regretted it. From then on, he put aside his habit of boasting, and then thanked the landowner very humbly. In that department, the students who took the exam passed several times, but did not actually pass. However, he did not feel discouraged and worked harder to study, and his father at home did not feel resentment, cultivating himself more and accumulating virtue to atone for his mistakes. A while ago, the student passed by the kicking dog and saw it standing up and happy as before. When asked, the dog said: "The teacher has been cultivating virtue for three years now, enough to atone for his previous mistakes. Therefore, the Thien Tao book decided to let this teacher pass the exam." When the student heard about it, he went home and did not tell his father about it, but only tried his best to learn. That department really passed the exam very well. Run out of Table of contents The Student And The Fighting Dog The Student And The Fighting Dog The SuWelcome you to read the titles from the book project for mobile devices. Source: author: Nguyen Kim Vy. Final words: Thank you for reading the entire story. Source: editor: Nguyen Kim Vy. Source: Vnthuquan - Online Library Uploaded by friend: Ct.Ly on: March 4, 2006
Thái Bá Tân Người không nhớ tên mình Trong lần điều tra dân số gần đây, người ta đến hỏi một bà cụ nghễnh ngãng gần tám mươi tuổi ở làng Vĩnh Lộc: - Tên cụ là gì? Phải hồi lâu, sau khi nhắc lại câu hỏi tới lần thứ ba, bà cụ mới hiểu ra, và vừa móm mém nhai trầu vừa thong thả đáp: - Còn là gì nữa, người ta vẫn gọi tôi là Cố Chuyên. - Nhưng đó là tên đứa bé này, - một người trong tốp cán bộ chỉ đứa bé hai tuổi đang ngồi chơi bên cạnh. - Trước khi có nó, tên cụ là gì? - Là Chính, theo tên cháu nội tôi. - Thế trước đấy? - Trước đấy tôi mang tên con gái tôi. - Trước nữa? - Trước nữa tôi được gọi theo tên chồng... - Nhưng xin lỗi, cuối cùng thì tên thật của cụ là gì? - Một người khác sốt ruột hỏi . - Tất cả những tên trên của tôi đều là tên thật, - bà cụ bình thản đáp. - Không, thưa cụ, chúng tôi muốn biết tên cụ, tên riêng của cụ cơ! Tên thời con gái ấy! - Để làm gì? Người ta lại phải dài dòng giải thích cho bà cụ hiểu thế nào là điều tra dân số và tên của cụ đối với họ quan trọng ra sao. Bà cụ ngồi im hồi lâu, cố dựng lại trong đầu óc chậm chạp, lú lẫn của mình những hình ảnh rời rạc đã bị bỏ quên từ những năm xa xưa mờ mịt. - Tôi không nhớ nổi, - cuối cùng bà cụ nói, giọng buồn buồn. - Sáu mươi năm rồi còn gì, và trong suốt chừng ấy năm, các ông các bà là người đầu tiên nhắc tới chuyện này. Vả lại, tôi còn cần gì đến nó, cái tên riêng ấy, một khi tôi đã có tên chồng, tên con, tên cháu, và nay là tên của thằng bé này? Rồi bà cụ quay sang chơi với cháu. Mấy anh cán bộ điều tra dân số nhìn nhau bất lực, đành ghi vào sổ tên bà cụ bằng tên của người chồng đã chết cách đây bốn mươi năm. Ở quê tôi, bao đời nay bố mẹ luôn được gọi bằng tên con cả, sau con đến cháu, sau cháu đến chút chắt. Một truyền thống dân dã, mộc mạc, tốt đẹp? Chí ít cũng vô hại? Vâng. Bản thân tôi thích cái truyền thống ấy. Ở làng người ta luôn gọi bố mẹ tôi là ông Tân bà Tân. Nhiều người thắc mắc sao mãi đến giờ hai cụ chưa được gọi tên mới là ông Hiền bà Hiền, theo tên con gái tôi. Vì tôi là con cả nhưng sống ở Hà Nội. Bản thân các cụ cũng lấy làm khó chịu, thậm chí như thể bị xúc phạm. Một phong tục tốt đẹp, hẳn thế, nhưng xét kỹ, nó cũng tàn nhẫn không kém, vì nỡ cướp đi cái quí nhất của con người là tên của họ. Mục lục Người không nhớ tên mình Người không nhớ tên mình Thái Bá TânChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: TieuboingoanĐược bạn: Ct.Ly đưa lên vào ngày: 24 tháng 5 năm 2005
Thai Ba Tan People don't remember their names During the recent census, people asked a deaf woman nearly eighty years old in Vinh Loc village: - What is your name? It took a long time, after repeating the question a third time, for the old woman to understand, and while chewing betel with her teeth, she leisurely replied: - What else, people still call me Co Chuyen. - But that's this child's name, - a person in the group of officials pointed to the two-year-old child sitting next to him and playing. - Before having it, what was your name? - It's Chinh, after my grandson. - What was that before? - Before that, I was named after my daughter. - Before? - Before, I was called by my husband's name... - But sorry, what is your real name? - Another person asked impatiently. - All of the above names are my real names, - the old lady calmly replied. - No, sir, we want to know your name, your personal name! That maiden name! - For what? They had to explain to the old woman at length what the census was and how important her name was to them. The old woman sat still for a long time, trying to reconstruct in her slow, confused mind the fragmentary images that had been forgotten from those dim, distant years. - I can't remember, - the old woman said at last, her voice sad. - It's been sixty years, and in all those years, you guys were the first to mention this. Besides, why do I need it, that personal name, once I have my husband's name, my child's name, my grandchild's name, and now this boy's name? Then the old lady turned to play with her grandchild. The census officers looked at each other helplessly and had to write down the old woman's name in the book with the name of her husband who died forty years ago. In my hometown, for generations, parents have always been called by the eldest child's name, followed by grandchildren, and after great-grandchildren. A rustic, rustic, beautiful tradition? At least harmless? Yes. I personally like that tradition. In the village, people always call my parents Mr. Tan and Mrs. Tan. Many people wonder why until now they have not been named Mr. Hien and Mrs. Hien, after my daughter. Because I am the eldest child but live in Hanoi. The elders themselves felt uncomfortable, even offended. A good custom, certainly, but on closer inspection, it is equally cruel, because it takes away the most precious thing a person has, their name. Table of contents People don't remember their names People don't remember their names Thai Ba TanWelcome to read books from the book project for mobile devices. Source: author: Nguyen Kim Vy. Final words: Thank you for reading the entire story. Source: editor: Nguyen Kim Vy. Source: Tieuboingoan Uploaded by friend: Ct.Ly on: May 24, 2005
Đỗ Thành NGƯỜI KHÔNG VỀ Cả thôn bỗng rần rần như sắp xảy động đất. Người ta rủ nhau chạy ùa ra đình, lăng xăng tựa bầy ong vỡ tổ, tựa bầy kiến bị nước đổ vào hang. Riêng chị vẫn ngồi im lìm y như không có chuyện gì. Đàn ông, đàn bà chạy ngang qua lại đều chõ miệng vào hỏi : sao không ra đình xem lại ngồi ì ra đấy. Chị chẳng buồn trả lời một ai.Lòng chờ đợi của chị vốn đã chin mõm mòm và đang bắt đầu rụng, chị chẳng còn nao nức, tha thiết gì chuyện thiên hạ sự nữa. Chị nghĩ nếu anh ta còn sống thì hẳn đã trở về từ khuya rồi, có đâu lần khân mãi đến bây giờ mà mong. Chị đem điều ấy nói với các cô bạn, có người chê chị hâm còn chỉ vẽ thêm : người ta việc quan, công lính đâu dễ cái rẹt là về. Còn phải thư thư, lần lượt, chứ nhất loạt rủ rê nhau thì quân cơ còn ra thể thống gì nữa chứ.Lần đầu nghe, chị đã tin như vậy thực. Chị tự bảo : dào, hơn mấy mươi năm chờ còn được, giờ có thêm vài tháng đã sao. Nhưng chị chờ không phải một lần vài tháng mà đã trải biết bao lần vài tháng rồi, lòng dạ gần thành thiu thành thối cả mà tăm hơi anh chẳng thấy đâu. Dần dà chị nghĩ hay là anh đã chết, nên không về nữa. Nhưng nếu anh chết thì cũng phải có tờ giấy báo tin, chứ đâu lại im im biền biệt. Thôn này đã cơ man gia đình nhận được cái giấy báo tử về, thân nhân có khóc thương rồi cũng hết.Mấy mươi năm chiến trường, bao nhiêu đợt người lần lượt đi. Thôn đã tổ chức bao nhiêu lần tiễn đưa với những lời cảm khái mừng công dâng đảng. Khắp nơi râm ran những gương tày liếp tranh nhau được ra đi, nào có người vốn ốm yếu đợt tuyển quân phải dấu đá vào mình cho năng cân để được trúng tuyển. Lại còn có chuyện người vì là con độc nhất được hội đồng cho miễn trừ đã khóc lên thẹn thùng không được đứng vào hàng ngũ những kẻ hi sinh.Chị là người đưa chân anh khi được giấy gọi. Hai người tần ngần bịn rịn chẳng muốn xa nhau. Chị buồn tái tê, mấy bận chỉ chực khóc, anh phải can ngăn bằng cách đừng mềm yếu để anh có thể yên lòng mà đi. Chị gật đầu nuốt nỗi đau vào lòng, anh nắm lấy bàn tay chị bóp chặt, rồi thoát nhanh. Anh sợ chần chừ sẽ làm anh không đi được nữa.Một năm, hai năm và bao nhiêu năm qua, cuộc chiến càng lúc càng căng thẳng. Tin tức đưa về nhạt nhòa dần, thản hoặc có khi đồn đãi anh đã hi sinh, lúc lại nghe anh bị thương nặng, nhưng chắc chắn là bóng anh thì trùng trùng không thấy nữa.Đã bao lần chị mò ra cái bến tiễn chân anh, một mình còm cõi chẳng sợ quỉ ma hay tai nạn. Gió vẫn u u thổi, dêm chập chùng buông, bờ quạnh hiu vắng ngắt, chẳng còn một chút gì của anh để rơi rớt lại. Thôn xóm bàn tán rất nhiều về những lần đi không về, những phụ nữ chờ mong lần hồi phai tàn thời xuân sắc. Những mùa màng trôi qua, sự nén chịu càng giăng lên vô cùng to lớn.Bao lần Xuân về, lòng chị mỏi mòn vì mong đợi. Có một lần nào chị nằm mơ tương phùng cùng anh, tình yêu cháy bỏng vô biên để rồi khi tỉnh dậy, chị càng buồn hơn, buồn mãi. Chị tiếc là ngày ấy chị không dâng hiến cho anh để ít ra giờ có một chút dáng dấp của anh ở lại với chị. Nhiều khi một đứa con chẳng hạn sẽ là niềm an ủi bao la cho người ở lại nhà. Chị tránh bóng trăng, tránh nhìn vào giếng trong, sợ bắt gặp nhan sắc tàn phai mà nặng thêm ủ dột.Đã bao phen người ta nói xa nói gần với chị về một bước tiếp theo. Chị nghe mà dửng dưng khép chặt nuối tiếc vào tận cùng tâm khảm. Đàn ông nhìn chị với vẻ mặn mà, lời ong tiếng ve dập dìu bay lượn, nhưng chị vẫn gác bỏ ngoài tai, chỉ một niềm giữ lấy lời anh.Cuộc sống khắt khe làm cho chị phải tính đến một chút gì để tồn tại. Chị mở một cái quán nhỏ, bán dăm bát nước vối, cái điếu để khách qua lại ghé nghỉ chân. Những ngày mưa hiu hắt, quán bị tạt ướt khắp cùng, chị co ro ngồi bó gối sầu vu vơ bất chợt. Kịp có lần toán giao liên qua đường, chị ước ao giá gì có anh trong số đó. Chị đon đả mời họ ghé vào uống bát nước, chị hào phóng đãi mọi người để nhớ tới anh. Nhưng chẳng bao giờ chị thấy anh cả. Hỏi han cũng mù mịt, mịt mù. Ai làm sao biết được người nào đang ở đâu khi mà cái chết luôn cận kề nỗi sống.Những đêm nghe tin chiến thắng, chị mừng khấp khởi, nghĩ là ngày hòa bình được rút ngắn lại thêm. Chị cầu mong anh được bình yên và hẳn nhiên rất nhớ đến chị. Những hội nghị mặc cả khiến chị hồi hộp vô cùng. Người ta dềnh dang trong khi ngoài chiến trận không ngày nào không có giao tranh, mất mát.Tin kết thúc cuộc chiến đến nhanh lao xao tựa sấm giật. Bữa nay có tin về thành phố này tổ chức mừng công, ngày mai lại có tin huyện kia bày tiệc liên hoa mừng quân thắng trận. Nhưng mọi người quên không báo khi nào thì đến lượt thôn chị. Lẻ tẻ đã có người về, nhưng hầu như chẳng mấy ai lành lặn. Chị ngỡ ngàng sợ chợt gặp anh cũng giống những ưu tiên dành cho người về sớm. Tự dưng chị muốn anh cứ nhẩn nha về chậm cũng được.Thế nhưng trải bao cuộc đón rước, anh vẫn chẳng thấy về. Thôn sau nhiều đợt ăn mừng giờ đã trở lại như xưa, mà bóng anh thì vẫn biền biệt. Chẳng cứ anh mà những người cùng ra đi một lượt với anh cũng không thấy một bóng ai hết. Chị tự hỏi những người ra đi ngày đó sao mãi mãi chưa về.Rồi lâu thật lâu, thôn lại nhắc đến lượt đón tiếp khác. Có lẽ thôn cũng sốt ruột vì đám tráng đinh của mình lác đác ít làm sao. Chị thất vọng vô cùng nên nhạt đi lòng sôi nổi. Hôm nay lại một lần thôn đổ xô đi đón người ra đi, nhưng chị thì hoàn toàn không lay động. Nhiều lúc chị tự hỏi tình cảm của chị với anh giờ ra sao. Chị hoàn toàn tê liệt không tính toán gì nổi. Lềnh bềnh bóng anh hiện chỗ này, chị chưa kịp đến thì anh đã loãng tan dịch xê sang một chỗ khác. Có khi lãng đãng như áng mây, có khi lờ đờ như bọt nước.Những chức sắc trong thôn ngày nao khuyến khích anh đi, giờ thoáng gặp chị vẫn đon đả chào hỏi. Chị chưa đá động gì thì các ông đã dặn dò ; yên chí, thế nào anh cũng về thôi. Cũng về thôi, nhưng chừng nào. Chẳng ai khẳng định được thời gian cho chị rõ. Lá vàng đã rơi rụng bao mùa, người đi vẫn một thời biền biệt.Lòng người trông đợi lâu thì héo tựa cánh hoa phai. Bao nhiêu nồi nước trà bán cho khách qua đường vẫn không một lần in bóng dáng anh ghé lại. Còn đợi chờ đến bao giờ. Chị thì nghĩ là anh thuộc vào danh sách những người không về, chẳng bao giờ về nữa. Nhưng khi chị đem điều ấy ra nói với ai thì đều bị họ phê phán dở hơi. Thế nhưng, nếu anh vẫn còn thì sao chẳng một tin tức gì cả. Chị chỉ cầu mong một lần nhận được nét chữ anh để có dịp ôm ấp làm cái phao chập chờn ru cõi lòng đợi chờ cằn cỗi mà chờ mong mãi mãi vẫn vô vọng.Chị thở dài từng hồi. Những tốp người lao xao đã tắt từ lâu. Giờ chỉ còn con đường đất im trơ ra đó. Chị lừ đừ đứng dậy, ra hạ cái liếp của quán xuống. Chị bỗng dưng không thiết bán nữa, chị lẳng lặng ngả lưng ra cái chõng. Mắt rức hơn bị lửa táp và chợt dưng lệ trào, trào ra. Chị kêu lên : anh ơi. Không có tiếng đáp vọng.Đỗ Thành Mục lục NGƯỜI KHÔNG VỀ NGƯỜI KHÔNG VỀ Đỗ ThànhChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: Tác giả / vnthuquanĐược bạn: mrs đưa lên vào ngày: 17 tháng 11 năm 2007
Đỗ Thành NGƯỜI KHÔNG VỀ Cả thôn bỗng rần rần như sắp xảy động đất. Người ta rủ nhau chạy ùa ra đình, lăng xăng tựa bầy ong vỡ tổ, tựa bầy kiến bị nước đổ vào hang. Riêng chị vẫn ngồi im lìm y như không có chuyện gì. Đàn ông, đàn bà chạy ngang qua lại đều chõ miệng vào hỏi : sao không ra đình xem lại ngồi ì ra đấy. Chị chẳng buồn trả lời một ai.Lòng chờ đợi của chị vốn đã chin mõm mòm và đang bắt đầu rụng, chị chẳng còn nao nức, tha thiết gì chuyện thiên hạ sự nữa. Chị nghĩ nếu anh ta còn sống thì hẳn đã trở về từ khuya rồi, có đâu lần khân mãi đến bây giờ mà mong. Chị đem điều ấy nói với các cô bạn, có người chê chị hâm còn chỉ vẽ thêm : người ta việc quan, công lính đâu dễ cái rẹt là về. Còn phải thư thư, lần lượt, chứ nhất loạt rủ rê nhau thì quân cơ còn ra thể thống gì nữa chứ.Lần đầu nghe, chị đã tin như vậy thực. Chị tự bảo : dào, hơn mấy mươi năm chờ còn được, giờ có thêm vài tháng đã sao. Nhưng chị chờ không phải một lần vài tháng mà đã trải biết bao lần vài tháng rồi, lòng dạ gần thành thiu thành thối cả mà tăm hơi anh chẳng thấy đâu. Dần dà chị nghĩ hay là anh đã chết, nên không về nữa. Nhưng nếu anh chết thì cũng phải có tờ giấy báo tin, chứ đâu lại im im biền biệt. Thôn này đã cơ man gia đình nhận được cái giấy báo tử về, thân nhân có khóc thương rồi cũng hết.Mấy mươi năm chiến trường, bao nhiêu đợt người lần lượt đi. Thôn đã tổ chức bao nhiêu lần tiễn đưa với những lời cảm khái mừng công dâng đảng. Khắp nơi râm ran những gương tày liếp tranh nhau được ra đi, nào có người vốn ốm yếu đợt tuyển quân phải dấu đá vào mình cho năng cân để được trúng tuyển. Lại còn có chuyện người vì là con độc nhất được hội đồng cho miễn trừ đã khóc lên thẹn thùng không được đứng vào hàng ngũ những kẻ hi sinh.Chị là người đưa chân anh khi được giấy gọi. Hai người tần ngần bịn rịn chẳng muốn xa nhau. Chị buồn tái tê, mấy bận chỉ chực khóc, anh phải can ngăn bằng cách đừng mềm yếu để anh có thể yên lòng mà đi. Chị gật đầu nuốt nỗi đau vào lòng, anh nắm lấy bàn tay chị bóp chặt, rồi thoát nhanh. Anh sợ chần chừ sẽ làm anh không đi được nữa.Một năm, hai năm và bao nhiêu năm qua, cuộc chiến càng lúc càng căng thẳng. Tin tức đưa về nhạt nhòa dần, thản hoặc có khi đồn đãi anh đã hi sinh, lúc lại nghe anh bị thương nặng, nhưng chắc chắn là bóng anh thì trùng trùng không thấy nữa.Đã bao lần chị mò ra cái bến tiễn chân anh, một mình còm cõi chẳng sợ quỉ ma hay tai nạn. Gió vẫn u u thổi, dêm chập chùng buông, bờ quạnh hiu vắng ngắt, chẳng còn một chút gì của anh để rơi rớt lại. Thôn xóm bàn tán rất nhiều về những lần đi không về, những phụ nữ chờ mong lần hồi phai tàn thời xuân sắc. Những mùa màng trôi qua, sự nén chịu càng giăng lên vô cùng to lớn.Bao lần Xuân về, lòng chị mỏi mòn vì mong đợi. Có một lần nào chị nằm mơ tương phùng cùng anh, tình yêu cháy bỏng vô biên để rồi khi tỉnh dậy, chị càng buồn hơn, buồn mãi. Chị tiếc là ngày ấy chị không dâng hiến cho anh để ít ra giờ có một chút dáng dấp của anh ở lại với chị. Nhiều khi một đứa con chẳng hạn sẽ là niềm an ủi bao la cho người ở lại nhà. Chị tránh bóng trăng, tránh nhìn vào giếng trong, sợ bắt gặp nhan sắc tàn phai mà nặng thêm ủ dột.Đã bao phen người ta nói xa nói gần với chị về một bước tiếp theo. Chị nghe mà dửng dưng khép chặt nuối tiếc vào tận cùng tâm khảm. Đàn ông nhìn chị với vẻ mặn mà, lời ong tiếng ve dập dìu bay lượn, nhưng chị vẫn gác bỏ ngoài tai, chỉ một niềm giữ lấy lời anh.Cuộc sống khắt khe làm cho chị phải tính đến một chút gì để tồn tại. Chị mở một cái quán nhỏ, bán dăm bát nước vối, cái điếu để khách qua lại ghé nghỉ chân. Những ngày mưa hiu hắt, quán bị tạt ướt khắp cùng, chị co ro ngồi bó gối sầu vu vơ bất chợt. Kịp có lần toán giao liên qua đường, chị ước ao giá gì có anh trong số đó. Chị đon đả mời họ ghé vào uống bát nước, chị hào phóng đãi mọi người để nhớ tới anh. Nhưng chẳng bao giờ chị thấy anh cả. Hỏi han cũng mù mịt, mịt mù. Ai làm sao biết được người nào đang ở đâu khi mà cái chết luôn cận kề nỗi sống.Những đêm nghe tin chiến thắng, chị mừng khấp khởi, nghĩ là ngày hòa bình được rút ngắn lại thêm. Chị cầu mong anh được bình yên và hẳn nhiên rất nhớ đến chị. Những hội nghị mặc cả khiến chị hồi hộp vô cùng. Người ta dềnh dang trong khi ngoài chiến trận không ngày nào không có giao tranh, mất mát.Tin kết thúc cuộc chiến đến nhanh lao xao tựa sấm giật. Bữa nay có tin về thành phố này tổ chức mừng công, ngày mai lại có tin huyện kia bày tiệc liên hoa mừng quân thắng trận. Nhưng mọi người quên không báo khi nào thì đến lượt thôn chị. Lẻ tẻ đã có người về, nhưng hầu như chẳng mấy ai lành lặn. Chị ngỡ ngàng sợ chợt gặp anh cũng giống những ưu tiên dành cho người về sớm. Tự dưng chị muốn anh cứ nhẩn nha về chậm cũng được.Thế nhưng trải bao cuộc đón rước, anh vẫn chẳng thấy về. Thôn sau nhiều đợt ăn mừng giờ đã trở lại như xưa, mà bóng anh thì vẫn biền biệt. Chẳng cứ anh mà những người cùng ra đi một lượt với anh cũng không thấy một bóng ai hết. Chị tự hỏi những người ra đi ngày đó sao mãi mãi chưa về.Rồi lâu thật lâu, thôn lại nhắc đến lượt đón tiếp khác. Có lẽ thôn cũng sốt ruột vì đám tráng đinh của mình lác đác ít làm sao. Chị thất vọng vô cùng nên nhạt đi lòng sôi nổi. Hôm nay lại một lần thôn đổ xô đi đón người ra đi, nhưng chị thì hoàn toàn không lay động. Nhiều lúc chị tự hỏi tình cảm của chị với anh giờ ra sao. Chị hoàn toàn tê liệt không tính toán gì nổi. Lềnh bềnh bóng anh hiện chỗ này, chị chưa kịp đến thì anh đã loãng tan dịch xê sang một chỗ khác. Có khi lãng đãng như áng mây, có khi lờ đờ như bọt nước.Những chức sắc trong thôn ngày nao khuyến khích anh đi, giờ thoáng gặp chị vẫn đon đả chào hỏi. Chị chưa đá động gì thì các ông đã dặn dò ; yên chí, thế nào anh cũng về thôi. Cũng về thôi, nhưng chừng nào. Chẳng ai khẳng định được thời gian cho chị rõ. Lá vàng đã rơi rụng bao mùa, người đi vẫn một thời biền biệt.Lòng người trông đợi lâu thì héo tựa cánh hoa phai. Bao nhiêu nồi nước trà bán cho khách qua đường vẫn không một lần in bóng dáng anh ghé lại. Còn đợi chờ đến bao giờ. Chị thì nghĩ là anh thuộc vào danh sách những người không về, chẳng bao giờ về nữa. Nhưng khi chị đem điều ấy ra nói với ai thì đều bị họ phê phán dở hơi. Thế nhưng, nếu anh vẫn còn thì sao chẳng một tin tức gì cả. Chị chỉ cầu mong một lần nhận được nét chữ anh để có dịp ôm ấp làm cái phao chập chờn ru cõi lòng đợi chờ cằn cỗi mà chờ mong mãi mãi vẫn vô vọng.Chị thở dài từng hồi. Những tốp người lao xao đã tắt từ lâu. Giờ chỉ còn con đường đất im trơ ra đó. Chị lừ đừ đứng dậy, ra hạ cái liếp của quán xuống. Chị bỗng dưng không thiết bán nữa, chị lẳng lặng ngả lưng ra cái chõng. Mắt rức hơn bị lửa táp và chợt dưng lệ trào, trào ra. Chị kêu lên : anh ơi. Không có tiếng đáp vọng.Đỗ Thành Mục lục NGƯỜI KHÔNG VỀ NGƯỜI KHÔNG VỀ Đỗ ThànhChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: Tác giả / vnthuquanĐược bạn: mrs đưa lên vào ngày: 17 tháng 11 năm 2007
Hà Thủy Nguyên Người kể những nỗi buồn Ngồi đây ta vỗ mạn thuyềnTa ca Trái Đất còn riêng ta…(“Trương Chi” – Văn Cao) …Trầm lặng và sâu sắc… Quyến rũ và đam mê… Cô đơn và sang trọng… Nếu như điều gì có thể làm trái tim ai đó ngừng đập thì chính là khoảnh khắc những nỗi sầu được tả bằng một chất giọng bass hiếm hoi……Sương giăng mắc trăng mờ… Cõi yên ba lờ lững một con thuyền nhỏ… Bóng ma của một kẻ si tình rơi tõm vào hư vô… Không gian chỉ là một chiếc chén ngọc có thể vỡ tan bất cứ lúc nào… Ta đang lạc vào đâu? Giữa một chiếc chén ngọc hay giữa chốn vô cùng vô tận, không biết đâu là bến bờ. Phật dậy: “Quay đầu là bờ”, nhưng quay lại ta chỉ thấy bốn bề mênh mang… mênh mang……Tiếng hót của con chim họa mi xoa dịu nỗi đau của ông vua già, cứu ông khỏi bàn tay của thần Chết. Thế nhưng nỗi đau của nó, ai là người xoa dịu? Bao nhiêu nỗi đau của nhân loại, nó đã nhận lấy riêng cho mình và hóa thành tiếng hót……Một con Thiên Mã tung vó giữa thảo nguyên bao la… Phóng túng… Nhưng chưa hoàn tòan tự do. Thiên Mã đột ngột cất cánh bay cao. Dưới đôi cánh của Thiên Mã là lũ người ngơ ngác, là hàng hàng thành phố chìm trong làn khói đen, là đại dương sâu hoăm hoắm như cái chết……Ngày nọ, Thiên sứ xuống cõi trần, bơ vơ, lạc lõng, ngơ ngác giữa bầy quỷ dữ. Con người mắc trong trầm luân. Thiên sứ bất lực. Anh chỉ biết dùng tiếng hát để xua tan bóng tối. Loài người làm ra nhạc cụ, nhưng chỉ có duy nhất một loại nhạc cụ Chúa trời tạo nên: Tiếng Hát. Bầy quỷ dữ dùng quyền năng trói buộc Tiếng Hát của anh. Thế nhưng, đâu đó trong cõi đời vô vị này, người ta vẫn nghe thấy một giọng bass diệu kỳ vảng vất giữa không – thời gian, ca ngợi nỗi sầu muôn thuở… Mục lục Người kể những nỗi buồn Người kể những nỗi buồn Hà Thủy NguyênChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: Tác giả/ VNthuquan - Thư viện OnlineĐược bạn: Ct.Ly đưa lên vào ngày: 24 tháng 4 năm 2009
Ha Thuy Nguyen People tell stories of sadness Sitting here, I pat the side of the boat. I sing that the Earth is my own...("Truong Chi" - Van Cao) …Quiet and profound… Seductive and passionate… Lonely and luxurious… If anything can make someone's heart stop beating, it is the moment when sadness is described by a rare bass voice… …The mist covers the dim moon… In the peaceful world, a small boat floats… The ghost of a lover falling into nothingness… Space is just a jade cup that can break at any moment… I am lost where? In the middle of a jade cup or in the middle of an endless place, I don't know where the shore is. Buddha said: "Turn around and there is the shore", but when we turn back we only see the vastness... vastness... The nightingale's song soothed the old king's pain, saving him from the hands of Death. But its pain, who is the one who soothes it? So much pain of humanity, it has taken it for itself and turned it into song... A Pegasus roams the vast steppe... Unruly... But not completely free. Thien Ma suddenly took off and flew high. Under the wings of the Thien Ma are bewildered people, rows of cities engulfed in black smoke, a deep ocean as dark as death... One day, the Angel descended to earth, lonely, lost, and confused. standing among the demons. People are trapped in depression. Angel is powerless. He only knows how to use singing to dispel the darkness. Humans make musical instruments, but there is only one type of musical instrument that God created: Singing. A group of demons used their power to bind his Singing Voice. However, somewhere in this banal world, people still hear a magical bass voice wandering between space and time, praising eternal sadness... Table of contents People tell stories of sadness People tell stories of sadness Ha Thuy NguyenWelcome to read books from the book project for mobile devices. Source: author: Nguyen Kim Vy. Final words: Thank you for reading the entire story. Source: editor: Nguyen Kim Vy. Source: Author/ VNthuquan - Online Library Posted by: Ct.Ly on: April 24, 2009
Thạch Lam Người Lính Cũ Mỗi buổi tối về tháng chạp, tôi cùng vơi một người bạn có việc cần phải về quê. Khi ở tàu xuống một cái ga nhỏ thì đã gần mười giờ đêm. Chúng tôi còn phải đi qua một quãng đồng vắng đến bảy, tám cây số nữa.Trời rét như cắt ruột, mà gió lại thổi mạnh. Chúng tôi vừa cúi lom khom đi, vừa run cầm cập, tuy đã mặc rất nhiều áo: bộ quần tây bằng dạ, ngoài khoác áo ba đờ xuy, ngoài nữa lại khoác một cái áo tơi đi mưa. Một chiếc khăn quàng bằng len quấn kín lấy cổ và mặt lên đến mang tai.Cánh đồng chúng tôi đi qua là một cánh đồng mầu, bấy giờ chỉ còn trơ cuống rạ trên đất nẻ khô. Làng mạc đã ngủ yên lặng trong đêm tối không còn một bóng lửa nào. Thỉnh thỏang, bên con đường khúc khủyu chúng tôi đang đi, hiện ra cái vừng đen thẫm của một cây nhãn, nổi lên nền trời đen nhạt hơn.Hai chúng tôi cắm đầu rảo bước mau chỉ mong chóng về tới nhà. Đi được một quãng khá dài, chân đã thấy mỏi: bỗng người ban tôi chỉ tay về phía trước, nói:- Sắp đến quán đa rồi, đến đây ta haÜng nghỉ chân một chút đã rồi hãy đi.Tôi gật đầu biểu đồng tình. Quán đa là một cái nhà nhỏ xiêu vẹo, sắp đổ nát, ban ngày, có một bà cụ già dọn hàng nước bán cho những người đi làm đồng, nhưng đến tối bà cụ lại dọn hàng về. Những khi về quê chúng tôi vẫn thường ghé vào đấy uống chén chè tươi, và nói dăm ba câu chuyện với những người nhà quê vào nghỉ ở đó.Gần đến nơi, tôi đã nghe tiếng ào ào của lá đa lật gió, một cây đa cỗi, mà vùng đấy, người ta bảo đã sống lâu lắm. Chúng tôi cúi mình bước vào quán, tới cái bục bằng đất, phủ một manh chiếu, của bà hàng giải lên đấy thay ghế cho khách hàng ngồi.Vừa ngồi xuống, chúng tôi đã ngạc nhiên nghe thấy tự trong xó tối đưa ra một tiếng rên khừ khừ như tiếng rên của người ốm.Bạn tôi cất tiếng hỏi:- Ai đấy?Chúng tôi nghe thấy tiếng người cựa mình, tiếng chiếu sột soạt: hình như người đó ngồi dậy. Rồi một tiếng nói khàn khàn trả lời, tiếp theo mấy tiếng ho rũ rượi:- Tôi. Các thầy đi đâu bây giờ?- Chúng tôi về Son.Tuy có nghe tiếng, nhưng chúng tôi không trông thấy gì cả, vì trong quán tối như mực. Bạn tôi lại hỏi:- Ai đó? Sao lại ra đây mà ngủ, có rét chết không?- Các thầy tính không nhà không cửa thì phải ra đây vậy chứ biết làm thế nào.- Làng bác có gần đây không? Sao không ngủ nhờ người trong làng?Người ấy lại ho rũ một hồi nữa mới trả lời được:- Tôi ở An ngay đây. Nhưng mình nghèo khổ ai người ta cho ngủ nhờ. Và người ta khinh trọng tôi cũng không thích. Ấy, thà rằng ra ở nhờ bà cụ hàng nước đây lại còn hơn, bà ta tử tế.Lời nói khí khái đó làm chúng tôi ngạc nhiên. Người đàn ông lại hỏi:- Thầy có thuốc lào cho tôi xin...- Có. Nhưng mà không có điếu.- Điếu đây.Tôi nghe thấy anh ta sờ soạng trong bóng tối. Chúng tôi nhích lại gần. Tôi cho tay vào túi lấy thuốc, rồi nói với bạn tôi một câu bằng tiếng Pháp:- Thật là rét quá nhỉ.Tức thì người đàn ông trả lời:- Vâng, rét thật.Tôi sửng sốt hỏi:- Bác cũng biết tiếng tây à?- Thưa, gọi là biết qua loa một vài chữ. Hồi trước tôi cũng có đi líùnh sang Pháp.Que diêm đánh lên, thoáng ánh lửa sáng, tôi nhận ra một người đã đứng tuổi, gày còm và hốc hác, ngồi co ro trên cái bục đất sát vách. Quần áo bác ta rách nát, trên vai phủ một cái bao gạo đã thủng nhiều chỗ.Không đợi cho chúng tôi hỏi, bác ta hấp tấp kẻ chuyện về thân thế bác, như hể hả vì được kể lại với người lạ cái đời gian truân của mình:- Hai thầy nghe, tôi cũng đã có lúc sung sướng, chứ có phải khổ như bây giờ đâu. Lúc bấy giờ tôi đăng lýnh sang Tây mới có ngoài hai mươi tuổi. Ở bên ấy bốn năm được lon bếp, tôi lại có cả vợ đầm, nó thương yêu tôi lắm. Nhưng từ khi về nước đến giờ, lo việc làm ăn, nên tôi cũng chẳng gửi tin tức gì sang cả. Không biết ở bên ấy nó ra sao.Rồi anh ta thuật lại cho chúng tôi nghe cái đời anh đã được sống ở bên Pháp. Những khi khoác tay vợ đi xe chớp ảnh, trong túi có ba, bốn trăm quan, vào hàng cà phê uống rượu rồi đi tiệm khiêu vũ. Những khi theo vợ về quê ở miền Provence, ra cánh đồng hái nho, rồi cùng đoàn kéo nhau về nhà hát vui vẻ quanh cái giếng rượu nho ở giữa làng. Anh ta nhắc lại những tên tỉnh đã ở qua bây giờ xa xôi mờ mịt: Toulouse, Bordeau, những tên làng nhỏ anh ta qua chơi: Militry, Saint - Etreuil.- Bác đã ở qua Paris chưa?- Có, tôi được ở Paris năm tháng. Montmattre, Bois de Boulogne tôi đã có đi xem cả.Chúng tôi lặng yên nghe anh kể không khỏi buồn cười khi tưởng đến những cảnh tượng xán lạn ánh sáng ở thành phố Paris, lại nghĩ đến bác lýnh này, bây giờ là một anh nhà quê An Nam nghèo khổ ngồi bó gối hút thuốc lào trong một cái quán vắng giữa chốn đồng không mông quạnh.Bạn tôi hỏi:- Thế làm sao mà bây giờ bác như thế này?Bác Lýnh thở dài, như trút bao điều uất ức ra hơi thở, chép miệng đáp:- Cũng là cái vận mình như thế, hai thầy ạ. Khi tôi mãn về, nhà cũng có trâu, ruộng, cầy cấy đủ dư dật. Một năm sâu ăn, mấy năm mất mùa, nước lụt, thành hết cả. Lại thêm một vài cái kiện vì rắc rối trong họ, thế là gia tài khánh kiệt. Đến bây giờ thì thật là một thân một mình, không nhà, không cửa.- Thế sao bác không tìm việc làm, hay là xin nhà nước giúp?- Có, tôi đã đi làm ở tòa sứ được hơn một năm, thì ông quan thầy tôi về Pháp. Tôi cũng bỏ việc. Từ độ ấy, người ta cũng có giúp kỳ được mười đồng, kỳ dăm đồng. Nhưng hai thầy tính sao đủ: tôi lại bị bệnh ho ra máu và lóa mắt nữa, bao nhiêu tiền vào thuốc men hết cả.Bác ta nói đến đấy lại với cái điếu cày đánh diêm châm hút. Tôi thấy mặt bác hốc hác thêm, bác hút xong, đặt điếu, ho rũ rượi một hồi rồi lại ngồi yên lặng trong bóng tối.Chúng tôi không biết nói gì để an ủi bác, sửa soạn đứng dậy đi. Bác ta xin vài chiếc diêm và mấy điếu thuốc lào. Khi que diêm sau cùng sáng lên, tôi thấy bác nhìn chúng tôi ngập ngừng nhu muốn xin tiền mà không dám xin chăng? Đã toan đãi bác mấy hào chỉ nhưng tôi lại lưỡng lự không đưa, sợ làm tủi bác ta quá. Tôi thấy bác ta khẽ thở dài.Ra khỏi quán, gió thổi mạnh làm tung tà áo. Trời lấm tấm mưa, rét buốt cả chân tay. Chúng tôi đi yên lặng, nghĩ đến người lýnh cũ khôn nạn kia, bây giờ lại đắp manh chiếu rách không đủ che thân, nằm nhớ lại những lúc khoác tay vợ đầm bước vào tiệm nhiều ánh sáng, tận bên kia trái đất. Những kỷ niệm sung sướng ấy bây giờ đối với anh ta chua xót biết bao.Như cùng một ý nghĩ, người bạn tôi thong thả nói:- Chắc anh ta bây giờ đang mơ mộng nhiều cái đẹp lắm thì phải.Tôi yên lặng, không trả lời. Chung quanh chúng tôi, cái đen tối của bóng đêm khuya dầy dằng dặc. Mục lục Người Lính Cũ Người Lính Cũ Thạch LamChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: mienĐược bạn: Thành Viên VNthuquan đưa lên vào ngày: 27 tháng 12 năm 2003
Heather Old Soldier Every evening in December, I and a friend have to go back to my hometown. When I got on the train and got off at a small station, it was almost ten o'clock at night. We still had to go through another seven or eight kilometers of deserted wilderness. The weather was bitterly cold, and the wind was blowing strongly. We were walking crouched down and shivering, even though we were wearing a lot of clothes: felt trousers, a loose tank top, and a raincoat on top. A wool scarf was wrapped around the neck and face up to the ears. The field we passed was a brown field, at that time there were only stubble on dry, cracked soil. The village slept quietly in the dark night without any fire left. Occasionally, on the winding road we were walking on, the dark black branches of a longan tree appeared, emerging against the lighter black sky. The two of us nodded and walked quickly, hoping to quickly get home. After walking a long distance, my legs felt tired: suddenly my classmate pointed forward and said: - We're almost at the restaurant, let's take a rest here and then go. I nodded to show my agreement. . The restaurant is a small, dilapidated house that is about to fall into ruin. During the day, there is an old woman who prepares drinks to sell to people who work in the fields, but at night the old woman brings the goods back home. When we return to our hometown, we often stop there to drink a cup of fresh tea, and tell a few stories with the country people who come to rest there. Nearing the place, I heard the sound of banyan leaves blowing in the wind, a tree barren, but in that area, people say they have lived for a long time. We crouched down to enter the shop, came to the earthen platform, covered with a mat, and the saleswoman placed it on it to replace chairs for customers to sit on. As soon as we sat down, we were surprised to hear a message coming from a dark corner. The groan was like the groan of a sick person. My friend asked: - Who is it? We heard the sound of someone moving, the sound of the mat rustling: it seemed like the person was sitting up. Then a hoarse voice answered, followed by several coughs: - Me. Where are you guys going now? - We're going back to Son. Although we heard the sound, we couldn't see anything because it was pitch dark inside the restaurant. My friend asked again: - Who is that? Why do you come out here to sleep, will you die from the cold? - If you have no house or shelter, you have to come here, but you don't know what to do. - Is your village near here? Why don't you sleep with someone in the village? That person coughed for a while before answering: - I live right here in An. But I'm poor and no one will let me sleep. And people look down on me and I don't like it either. Well, it's better to stay with this old woman, she's kind. Her bold words surprised us. The man asked again: - Do you have any tobacco for me... - Yes. But there's no cigarette. - Here's a cigarette. I heard him groping in the dark. We inched closer. I put my hand in my bag to take the medicine, then said a sentence to my friend in French: - It's really cold. Immediately the man replied: - Yes, it's really cold. I was surprised and asked: - You also know the language. Western? - Yes, it's like knowing a few words. A while ago, I also went to France as a soldier. I struck a match, and with a flash of light, I recognized an elderly man, thin and emaciated, sitting huddled on a dirt platform next to the wall. His clothes were torn, and a bag of rice was covered with holes in many places on his shoulder. Without waiting for us to ask, he hurriedly told stories about his background, as if pleased to be able to tell strangers about his life. My troubles: - Listen, I was happy at one time, but not as miserable as I am now. At that time, I was only in my twenties when I moved to the West. I lived there for four years and was able to cook, and I also had a wife who loved me very much. But since returning home, I've been taking care of business, so I haven't sent any news. I don't know what it's like over there. Then he told us about the life he lived in France. When he took his wife's arm while driving to take pictures, with three or four hundred francs in his pocket, he went to a coffee shop to drink wine and then went to a dancing club. When I followed my wife back to her hometown in Provence, we went to the fields to pick grapes, then together with the group came back to sing happily around the wine well in the middle of the village. He repeated the names of the provinces he had stayed in, now far away: Toulouse, Bordeau, the names of the small villages he had visited: Militry, Saint - Etreuil. - Have you been to Paris? - Yes, I was able to stay. Paris five months. I went to see Montmattre and Bois de Boulogne. We quietly listened to him talk and couldn't help but laugh when we thought of the bright scenes of light in the city of Paris, and also thought of this soldier, now a soldier. A poor An Nam countryman sat with his knees up, smoking a pipe in a deserted shop in the middle of a deserted field. My friend asked: - How come you are like this now? Uncle Lynh sighed, as if venting a lot of sadness. He gasped, smacked his lips and replied: - That's my fate, teachers. When I returned home, my family also had abundant buffaloes, fields, and plows. A year of worms, a few years of crop failure, floods, it's all over. A few more lawsuits due to trouble within the family, and the fortune was exhausted. Up to now, I am truly alone, homeless, homeless. - So why don't you find a job, or ask the government for help? - Yes, I have been working at the embassy for more than a year, then Mr. My teacher returned to France. I also quit my job. From that point on, people also helped, sometimes ten dong, sometimes a few dong. But the two teachers couldn't figure it out: I was sick, coughing up blood and blinded, so much money was spent on medicine. The doctor said that and then he lit a match with his hookah. I saw his face become more haggard. He finished smoking, put the cigarette away, coughed profusely for a while, then sat quietly in the dark again. We didn't know what to say to comfort him, so we prepared to stand up and leave. He asked for some matches and some pipe tobacco. When the last match lit up, I saw him looking at us hesitantly, wanting to ask for money but not daring to ask? I wanted to offer him a few dimes, but I hesitated to give him money, afraid of making him feel bad. I saw him sigh softly. Leaving the shop, the wind blew strongly, blowing his shirt. The sky was drizzled with rain and it was freezing cold to both hands and feet. We walked in silence, thinking of that unfortunate old soldier, now wearing a tattered mat that was not enough to cover his body, lying down and remembering the times when he walked into the well-lit shop, holding his wife's arm, on the other side of the world. How bitter those happy memories were to him now. With the same thought, my friend leisurely said: - He must be dreaming of many beautiful things right now. I remained silent, No answer. Around us, the darkness of the late night was thick. Table of contents Old Soldier Old Soldier Thach LamWelcome to read books from the book project for mobile devices. Source: author: Nguyen Kim Vy. Final words: Thank you for reading the entire story. Source: editor: Nguyen Kim Vy. Source: mienSubmitted by friend: Member VNthuquan on: December 27, 2003
Nguyễn Đình Tú Người lĩnh sổ hưu Ông Đình trở lại cơ quan cũ để nhận sổ hưu. Sau chặng đường dài gần 70 cây số trên chiếc xe ô tô cũ kỹ, chật chội, xốc đến gẫy gập cả người, ông bước vào cổng cơ quan với thái độ thiếu tự tin, hơi có phần hơi yếm thếNgười bảo vệ mới không biết ông nhưng tân giám đốc thì lại nhận ra ông từ đằng xa-Ôi, chào bác Đình, anh em mong bác lên từ mấy hôm nay. Giám đốc từ trong phòng bước ra bắt tay ông một cách hồ hởiNiềm phấn khích trong ông vừa dâng lên chưa đầy phút thì giám đốc đã lại nhỏ giọng:- Xin phép bác em phải lên Sở họp, bác cứ ngồi chơi uống nước, mọi chế độ tiêu chuẩn của bác em đã chỉ đạo làm xong đâu vào đấy, lát nữa cậu Quynh phòng tổ chức sẽ làm việc với bác. Trưa nay bác dùng cơm với anh em nhé, em cố gắng về kịp để tiếp bác..Chiếc xe con bóng lộn (thời ông chưa có) vụt đưa giám đốc đi. Ông dạo bước qua các phòng ban khác. Mọi người đều ồ lên rất to, bắt tay ông thật chặt rồi lại như muốn lảng đi ngay, không mặm mà với ông nữa vì họ đang dở công việc hay dở một câu chuyện gì đó mà có ông, mọi việc sẽ trở nên bất tiện. "ừ, thôi các cậu cứ làm việc mình lên chỗ phó giám đốc một tí" Ông đành phải nói thác đi như thế. Vô tình ông tự rút tất cả các phòng ban, rút lui tất cả các khuôn mặt cũ mới. Làm việc ở phòng tổ chức tiền lương ra ông cảm nhận được cái bắt tay rất nhẹ của Quynh." Bác cứ nghỉ ngơi, thăm thú anh em, lát nữa mời bác dùng cơm với lãnh đạo" Quynh đã nói với theo với ông như thế. Là một đơn vị sự nghiệp có thu, cơ quan dưới thời ông có cái gì đó bảo thủ hơn bây giờ. Ban lãnh đạo mới nghe chừng muốn tách ra xin hạch toán theo chế độ doanh nghiệp nên không khí có vẻ khẩn trương, vội vã chứ không thâm nghiêm như trước đây. Với tâm trạng vui buồn, lẫn lộn, ông Đình đi la cà khuôn viên trước của cơ quan nhìn ngắm mấy cây cảnh được uốn tiả rất đẹp. Chợt có một cậu thanh niên tiến về phiá ông, thoạt trông thấy quen quen nhưng ông chưa nhận ra được là ai-Bác Đình không nhận ra cháu à? Cháu là Vĩnh con bố Tường đây màà, cậu Vĩnh! Ngày xưa nếu cậu ta không khoác lóc van xin thì dù có thư tay của bố- một cán bộ cũ của ông- ông cũng nhất định không nhận chỉ vì cậu ta mới học hết lớp 7. Sau thấy tội nghiệp quá, mẹ mất sớm, bố đau yếu luôn, lại có một đàn em nên ông đã nhận và tạm thời cho làm bảo dưỡng xe-Thế bây giờ cháu làm gì? Ông vui chuyện quay sang hỏi Vĩnh-Dạ, cháu làm lái xe cho phó giám đốc ạ- Phó giám đốc cũng được biên chế một lái xe cơ à?-Dạ, từ ngày bác về cơ quan thay đổi nhiều lắm, nhập về nhiều xe đời mới. Trang thiết bị phòng ở cũng hiện đại lên, rồi thiên chuyển điều động cán bộ, nhìn chung còn ít người cũ lắm bác ạĐiều này thì ông Định biết rồi. Nhưng những vị trí chủ chốt vẫn là cán bộ dưới quyền ngày xưa của ông đấy thôi. Đứng nói chuyện với Vĩnh một hồi ông bắt đầu cảm thấy nắng chếu xống bắt đầu gay gắt. Vĩnh chạy biến đi đâu một lúc rồi quay lại dí vào tay ông lon bia " bác uống nước cho đỡ khát, giờ này mọi người đang chuẩn bị ra về, nếu cháu không bận đưa phó giám đốc đi ăn cơm khách thì cháu mời bác xơi cơm cùng cháu.."-Thôi, bác dùng cơm với chú Quynh được rồi-Sau lại thế ạ.? Chú Quynh lát nữa cũng đi cùng xe với cháu, hôm nay phải tiếp đối tác quan trọng mà?-à, ra thế thì bác dùng cơm với chủ tịch công đoàn, các anh ấy bận cả cũng không nên làm phiềnVĩnh chào ông bằng ánh mắt khác lạ rồi chào ông để chuẩn bị đánh xe đi. Vĩnh không nói ra nhưng anh biết chủ tịch công đoàn đã dắt xe ra về từ lúc nãy rồi. Đã không ít người lên nhận sổ hưu và họ đưọc ấn vào tay một chiếc phong bì bên trong có 2 chục ngàn với lời nói khéo:"Anh thông cảm ra dùng cơm ngoài, hôm nay lãnh đạo đi vắng cả". Và có lẽ ông Đình cũng được đối xử như thế thôi. Từ ngày ông về nghỉ chờ hưu người ta đã xoá bỏ bếp ăn tập thể, cũng chẳng còn phòng khách . Nếu là đối tác quan trọng đến làm việc thì được mời ra nhà hàng còn không quan trọng đến làm việc thì phải tự liên hệ ấy chỗ tá túc. Vĩnh bỗng thấy thương ông Đình. Ông đã quá ngây thơ tin vào mấy lời đãi bôi. Cảm thấy có gì không ổn nên chở lãnh đạo đến nhà hàng xong, Vĩnh vội quay trở lại cơ quan tìm ông Đình. Dù sao anh cũng là người mang ơn ông , anh sẽ mời ông đi dùng cơm bụi với mình để ông đỡ tủiNhưng khi Vĩnh đánh xe về đến cơ quan thì anh được biết ông Đình đã bỏ đi rồi. Cậu bảo vệ còn chỉ cho Vĩnh thấy những mảnh phong bì lẫn lộn với mảnh tờ giấy 20 nghìn được xé vụng rải ngay trên lối đi nơi Vĩnh & ông vừa đứng nói chuyện Mục lục Người lĩnh sổ hưu Người lĩnh sổ hưu Nguyễn Đình TúChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: hùngĐược bạn: Thành Viên VNthuquan đưa lên vào ngày: 27 tháng 12 năm 2003
Nguyen Dinh Tu Person receiving pension book Mr. Dinh returned to his old office to receive his retirement book. After a long journey of nearly 70 kilometers in an old, cramped, and broken car, he entered the office gate with a lack of confidence and a bit of a pessimistic attitude. The new security guard did not know. But the new director recognized him from afar - Oh, hello Mr. Dinh, we've been waiting for you to come up for a few days now. The director came out of the room and shook his hand enthusiastically. His excitement had just risen within less than a minute when the director lowered his voice again: - If you'll excuse me, I have to go to the Department for a meeting, just sit down and drink water, everyone. I have already instructed you to complete the standard regime, and Mr. Quynh from the organization department will work with you later. This afternoon, please have lunch with my brothers. I'll try to come home in time to welcome you. A shiny car (when he didn't have one) suddenly took the director away. He walked through other departments. Everyone shouted loudly, shook his hand tightly and then seemed to want to walk away immediately, not bothering with him anymore because they were in the middle of work or in the middle of a story, and with him, everything would become awkward. convenient. "Yeah, you guys just keep working and I'll go to the deputy director for a bit." He had to say it off like that. Unintentionally, he withdrew all departments and all new and old faces. Working in the salary organization department, he felt Quynh's very light handshake. "Please rest, visit your brothers, and invite me to dine with the leader later." Quynh told him as follows. position. As a revenue-generating public service unit, the agency under him was somewhat more conservative than now. The new leadership seems to want to separate and apply for corporate accounting, so the atmosphere seems urgent and hasty, not as serious as before. With mixed feelings of joy and sadness, Mr. Dinh wandered around the office's front campus looking at some beautifully decorated ornamental plants. Suddenly a young man came towards him. At first he looked familiar but he couldn't recognize who he was - Uncle Dinh didn't recognize him? I'm Vinh, Tuong's son, Mr. Vinh! In the past, if he hadn't bragged and begged, even if there was a handwritten letter from his father - an old officer of his - he would definitely not accept it just because he had only finished 7th grade. Then he felt so sorry for him, his mother passed away early. , my father was always sick, and he had a junior so he accepted and temporarily let me do car maintenance - So what do you do now? He happily turned to ask Vinh-Da, are you a driver for the deputy director? - Is the deputy director also assigned a driver? -Yes, since the day I returned to the agency, a lot has changed, a lot has been imported. new car. The room's equipment has also become more modern, and there is a tendency to mobilize staff. In general, there are very few old people left. Mr. Dinh already knows this. But the key positions are still the officers under his former command. Standing and talking to Vinh for a while, he began to feel the harsh sunlight. Vinh ran away for a while and then came back and pressed a beer can in his hand, "Drink some water to quench your thirst. Everyone is preparing to leave now. If I'm not busy taking the deputy director out to dinner, I'll invite you." eat dinner with me.."-Okay, you can have dinner with uncle Quynh-And then again.? Uncle Quynh will also be traveling in the same car with you later. Today he has to meet an important partner, right? - Oh, I see, I'll have dinner with the union president. Even if they're busy, they shouldn't bother. Vinh greeted him with a bright smile. His eyes were different then he greeted him and prepared to drive away. Vinh didn't say it out loud, but he knew that the union president had already taken the car out a while ago. Many people went up to receive their retirement books and an envelope with 20,000 was pressed into their hands with the tactful words: "If you would like to go out to eat, the leaders are all away today." And perhaps Mr. Dinh was treated the same way. Since the day he retired, people have removed the communal kitchen, and there is no longer a living room. If you are an important partner coming to work, you will be invited to the restaurant. If you are not important, you will have to contact that place to stay. Vinh suddenly felt sorry for Mr. Dinh. He was too naive to believe the lies. Feeling something was wrong, after driving the leader to the restaurant, Vinh quickly returned to the office to find Mr. Dinh. After all, I am also grateful to him, I will invite him to have lunch with me to help him feel less sad. But when Vinh drove the car back to the office, he learned that Mr. Dinh had left. The security guard also showed Vinh pieces of envelopes mixed with pieces of 20 thousand pieces of paper that were clumsily torn and scattered right on the path where Vinh & he just stood and talked Table of contents Person receiving pension book Person receiving pension book Nguyen Dinh TuWelcome to read the first books from the book project for mobile devices. Source: editor: Nguyen Kim Vy. Final words: Thank you for reading the entire story. Source: editor: Nguyen Kim Vy. Source: hungUploaded by friend: Member VNthuquan on: December 27, 2003
Sơn Nam Người Mù Giăng Câu Ðứa con trai độc nhứt của ông đã bị “A lơ măn” (người Ðức) giết lúc phải cầm súng giữ vùng An Sác Lo Ren cho Pháp. Ta có thể nói: ông mù vì khói lửa của trận Âu châu đại chiến kỳ nhứt. Còn lại một mình, ông cất căn chòi ở Rộc Lá, ấp Tây Sơn. Rộc là con rạch nhỏ ngoằn ngoèo, bắt nguồn từ môt gò đất cao giữa đồng, chảy thẳng vào một cái lung, phần đất thấp hơn, đầy những rau muống, cóc kèn, ô rô và cá. Ở Rộc Lá này, cá tôm quá nhiều so với mấy nơi khác trong ấp. Từ tháng mười đến tháng giêng, cá lội từng bầy trở về sông Cái, suốt ngày suốt đêm không ngừng. Ban ngày, cá đi đớp bọt, trắng bờ rạch. Ban đêm thức giấc vào bất cứ lúc nào, ta cũng nghe cá lóc táp mồi, cá trê chép miệng kế bên nhà. Nguồn lợi to tát vô cùng! Nhưng nào đâu cái cảnh “Một vùng trời đất vui thầm ai hay?” Cá ăn câu về đêm. Muốn giăng câu phải thức trót canh gà, thức bốn năm tháng ròng rã, hao phí bao nhiêu sức lực! Ngày thì đi gặt lúa mướn, thời giờ đâu để ngủ bồi dưỡng lại. Ðêm thì muỗi mòng, gió bấc lạnh, lắm khi gặp mưa. Nhiều em bé đuối sức ngủ gục, té xuống sông, leo trở lên xuống ướt loi nhoi như chuột... Ông thường bảo: - Phải có kinh nghiệm mới đỡ cực nhọc. “Con cá trương vi quạt đuôi ra biển Bắc thì còn mong gì cá ấy trở lại chốn cũ ao nhà”. Câu ca Vọng cổ đó nói sai. Cá có hang ở sông Cái. Mùa mưa, cá tìm đường lên ruộng, vào rừng mà đẻ. Bắt đầu mùa hạn, cá bỏ ruộng, bỏ rừng quay trở về hang cũ ở sông. Sự khôn ngoan của con người là chặn chuyến về của loài cá. Chặn cho đúng nơi, đứng lúc. Vào đầu mùa, cá thường ăn mồi khi nước lớn. Giữa mùa, cá ăn lúc chạng vạng, lúc trăng sửa soạn mọc. Hừng sáng, chừng đâm mây ngang, cá trở lại ăn một lần chót. Khó nhứt là chọn nơi để giăng câu. Cá sợ ngọn nước ngoài biển chảy tràn vào sông. Gặp nước mặn, cá hết nhớt ngoài da, con mắt xốn xang, nhưng nơi nước quá ngọt lại ít có cá vì cá chưa đi tới. Cá tập trung nơi lằn ranh nước lờ lợ và nước ngọt. Tại lằn ranh đó, nên biết chọn từng điểm nhỏ. Rạch nào lắm ghe xuồng qua lại, cá ăn ở sát bờ. Rạch nào im lặng, cá lội ngay giữa dòng. Trước khi giăng cá trê, phải quậy cho nước đục. Mỗi chỗ cá chỉ ăn một lần. Vì nó đi lưu động, mình nên khéo dời chỗ... Gió bấc thổi ròng rã, cá lần lần về sông Cái. Nếu bỗng nhiên trời trở nực, chuyển mưa, cá lui trở lại rừng và không ăn mồi. Những ngày ấy, đi giăng câu cũng hoài công. Có người chất vấn: Ðã mù sao còn giăng câu được? Ông đáp: - Mù lòa là mắt không thấy, chớ nào phải vô tri vô giác? Con người có thể thấy bằng lỗ tai, bằng hai bàn tay, bằng mũi... Nghe hát máy, thiên hạ đâu dùng cặp mắt mà vẫn hiểu thấy được cảnh ly biệt, cảnh giặc giã... trong vở tuồng! Ban đêm, nằm nhà đóng cửa lại, tắt đèn nhưng thiên hạ vẫn thấy hiển hiện cảnh ngoài trời: ếch nhái kêu, tàu chuối phất phơ, chó sủa ma hay sủa kẻ trộm. Người ta thường nói: "xanh mát, đỏ hực". Mát, là màu xanh, màu đen. Nóng, là màu vàng, màu đỏ. "Bần hàn", là nghèo lạnh. Vô nhà nào mà mình có cảm giác lạnh lẽo, đó là nhà nghèo. Gặp người bạn, rờ lên vai áo thấy rách, chắc là người ấy đang suy sụp... nghèo "rã bánh tô". "Ði lâu", là đường dài. "Ði mau" là đường ngắn. Tôi thường bơi xuồng đến tiệm mua đồ một mình. Trong kinh nhỏ có bông súng cản mái dầm, khó bơi. Tới ngã ba, khúc quẹo, là chỗ nghe tiếng con sáo, con cưỡng ăn trái trên cây gừa bên miễu ông Tà. Gần mương vàm, hơi xông nồng nực, hôi tanh vì nước ít lưu thông. Chưa tới tiệm, có cầu ván bắc ngang. Chân cầu lớn lắm, tôi thấy nhột nhột màng tang, vì sợ đụng. Người mù có thể vá quần áo. Lại còn nấu cơm, nghe tiếng củi nổ, nghe hơi nước nóng để biết cơm sôi, cơm khét... Tóm lại, thiếu cặp mắt vẫn còn sống được! Người ta có đủ cột kèo thì cất nhà lớn, đúng ni tấc. Mình đây đui mù, như thiếu cây cột cái, nhưng nếu khéo léo một chút cũng cất được mái nhà nhỏ che gió che mưa... hà huống là việc giăng câu! Giăng câu lúc ban đêm, cặp mắt không cần thiết. Người không mù, họ đốt lửa trước xuồng un muỗi cho vui mắt, ấm lòng, chớ nào phải soi đường đi. Ðó là chưa nói tới loài cá! Nó ở dưới nước, núp trong cỏ, người có mắt cũng như tôi, làm sao thấy cá được. Phải dùng óc xét đoán để hiểu tánh ý của nó, nhờ đó mình mới giăng được nhiều cá, ngày càng vui thú với nghề nghiệp của mình. Dân trong xóm thường gọi ông là ông Vân Tiên lại có biệt danh là “Sư tổ giăng câu”. Dường như tạo hóa đã dành cho ông một số phận: sinh trong thời pháp thuộc, chết trong thời Pháp thuộc. Nhưng chúng ta hãy tưởng tượng rằng ông còn đó, đêm đêm hiện ra ngồi trước mũi thuyền, trên sông nước, không phải để làm ma nhát những người yếu bóng vía nhưng để giải nỗi lòng đối với con cháu đời sau. Ðêm tạnh vắng. Trăng sao đều khuất trong sương mù. Nước dưới kinh lạnh ngắt. Bếp un đỏ lên, xua đuổi đàn muỗi rừng. Khói bay lan tỏa, lẫn lộn vào mái tóc bạc, chòm râu bạc. Thỉnh thoảng, gà gáy lên eo óc. Lền khên rong đuôi chồn, Ðặc nước, bông súng bông. Ô ro và ráng, sậy, Mọc đầy theo mé lung. Mắm đen, chen dà diệp, Che khuất mấy cánh đồng. Nơi đây, nơi giáp giới, Ba ngã, một đường lung.Ðôi mắt ông vẫn còn trập trừng. Miệng ông vẫn còn nói lên mắp máy, buồn buồn, chậm rãi. Mục lục Người Mù Giăng Câu Người Mù Giăng Câu Sơn NamChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: phapvanĐược bạn: Ct.Ly đưa lên vào ngày: 7 tháng 4 năm 2007
Son Nam Blind Man John Sentence His only son was killed by "Alman" (German) when he had to hold the gun to defend the An Sac Lo Ren area for France. We can say: he was blinded by the smoke and fire of the first great European war. Left alone, he built a hut in Roc La, Tay Son hamlet. Roc is a small winding canal, originating from a high mound in the middle of the field, flowing straight into a lung, the lower land, full of water spinach, toadstool, acanthus and fish. In Roc La, there are too many fish and shrimp compared to other places in the hamlet. From October to January, fish swim in flocks back to the Cai River, day and night without stopping. During the day, fish go out to bite the foam, whitening the canal banks. At any time when we wake up at night, we can hear snakehead fish snapping bait and catfish clicking their mouths next to the house. Extremely great benefit! But where is the scene "A secretly happy land and sky, who knows?" Fish feed at night. If you want to fish, you have to stay awake for four or five months. How much energy is wasted? During the day, I work to harvest rice, but I don't have time to sleep and recover. At night there are mosquitoes, the wind is cold, and sometimes it rains. Many exhausted children fell asleep, fell into the river, climbed up and down wet like mice... He often said: - You have to have experience to reduce the hardship. "If a tuna fangs its tail into the North Sea, how can you expect that fish to return to its old place in the pond?" That Vong Co verse is wrong. Fish have caves in the Cai River. During the rainy season, fish find their way to the fields and forests to spawn. At the beginning of the drought season, fish leave the fields and forests and return to their old caves in the river. Human wisdom is to block the return of fish. Block in the right place, stand at the right time. At the beginning of the season, fish often eat bait when the water is high. In the middle of the season, fish eat at dusk, when the moon is about to rise. At dawn, about to break through the clouds, the fish returned to eat one last time. The most difficult thing is choosing a place to cast your fish. Fish are afraid of the water in the sea flowing into the river. When encountering salt water, the fish loses all the slime on its skin and its eyes flutter, but where the water is too fresh, there are few fish because the fish have not yet come. Fish gather at the boundary between brackish water and fresh water. At that boundary, you should know how to choose every small point. There are many boats passing through the canal, and fish eat close to the shore. Every canal is silent, fish swim right in the middle of the stream. Before casting catfish, you must stir the water to make it cloudy. Each fish only eats once. Because it's mobile, we should be clever about moving... The north wind blows steadily, the fish gradually return to the Cai River. If it suddenly becomes hot or rains, the fish retreat back to the forest and do not eat the bait. In those days, fishing was a waste of time. Someone asked: If you're blind, how can you still cast a line? He replied: - Blindness is the eyes that cannot see, not the senseless? People can see with their ears, with their hands, with their nose... Listening to machine music, people don't use their eyes to still understand the scene of separation, the scene of war... in opera! At night, when staying at home, closing the door and turning off the lights, people can still see the scene outside: frogs croaking, banana boats fluttering, dogs barking at ghosts or thieves. People often say: "cool green, fiery red". Cool, blue, black. Hot, yellow, red. "Poverty" is cold poverty. Any house that makes you feel cold is a poor house. When you meet a friend and touch the shoulder of his shirt and see it's torn, that person is probably depressed... poor. "Going a long time" means a long way. "Go quickly" is the short way. I often row a canoe to the store to buy things alone. In the small canal, there are water lilies blocking the roof beams, making it difficult to swim. Coming to the fork, the bend, is where I hear the sound of a starling and a bird eating fruit from the gua tree next to Mr. Ta's temple. Near the vam ditch, the steam is hot and smelly because the water has little circulation. Not yet at the shop, there is a plank bridge across. The foot of the bridge is very large, I felt a tickle on my skin, because I was afraid of touching it. Blind people can mend clothes. Also cook rice, hear the sound of firewood exploding, listen to the hot steam to know whether the rice is boiling or burning... In short, without eyes you can still live! If people have enough pillars and rafters, they can build big houses, with precise details. I'm blind, like I'm missing a pole, but if I'm a little clever, I can build a small roof to protect myself from the wind and rain... let alone fishing! Fishing at night, eyes are not needed. People who are not blind, they light a fire in front of the boat to catch mosquitoes to please their eyes and warm their hearts, not to light the way. Not to mention fish! It's underwater, hiding in the grass. Someone with eyes like me can't see the fish. We must use judgment to understand its nature, thanks to which we can catch more fish and enjoy our career more and more. People in the neighborhood often call him Mr. Van Tien and are nicknamed "The Fishing Master". It seemed that nature had reserved a fate for him: to be born during the French colonial period, to die during the French colonial period. But let us imagine that he is still there, appearing at night sitting in front of the boat, on the river, not to scare the weak, but to relieve the hearts of future generations. The night was quiet. The moon and stars are all hidden in the fog. The water under the canal is cold. The stove turns red, chasing away wild mosquitoes. The smoke spread and mixed with his silver hair and gray beard. Occasionally, the rooster crows on its waist. Len khen with foxtail seaweed, Special water, water lily cotton. Umbrella and reed, growing along the edge of the lung. Black fish sauce, crowded with Da Diep, Hides the fields. Here, at the border, three falls, one long road. His eyes were still staring. His mouth was still talking on the machine, sadly, slowly. Table of contents Blind Man John Sentence Blind Man John Sentence Son NamWelcome to read books from the book project for mobile devices. Source: author: Nguyen Kim Vy. Final words: Thank you for reading the entire story. Source: editor: Nguyen Kim Vy. Source: phapvan Uploaded by friend: Ct.Ly on: April 7, 2007
Lê Du Miên Người Mất Quê Hương Trời xứ Quảng sáng nay mưa xập xùi , cơn mưa đầu mùa bốc lên cái mùi hăng hắc , nồng nồng .Tống vội vã xách chiếc túi nhỏ chạy núp mưa dưới mái hiên một căn nhà ...Một cô gái hé cửa nhìn ra : - Chào chú , chú vào nhà ngồi kẻo ướt Tống nhìn cô gái ngập ngừng , cái nhanh nhẹn ,lịch thiệp của một người từng trải năm xưa giờ đã biến mất đâu rồi ...Tống ngơ ngác - Ơ ...chào cháu , đứng đây cũng được mà , tạnh mưa là tôi đi ngay - Chú đi đâu mà gấp gáp qúa vậy ? - À ...Tôi tính xuôi Nam , tôi muốn vào Sài gòn cháu ạ .Không biết bến xe vô Saigon chỗ nào , cháu có thể chỉ dùm tôi không ? - Được mà , chú vào nhà ngồi chơi chờ tạnh mưa đã ... Thấy cô bé thật tình , lại dễ thương ...Tống quên cả cái ngơ ngáo của mình , anh bước vào nhà theo cô bé - Này cô bé ,cô bé tên gì nhỉ ? - Cháu tên Vy ... - Tên cháu đẹp qúa Cô bé cười , nụ cười nhen nhúm một chút thẹn thùng : - Để cháu lấy nước chú uống - Được mà , không cần đâu , chú cũng mới vừa uống "Cũng mới vừa uống ...". Tống có một chút ngượng nghịu khi chợt hiểu rằng mình đã nói dối , lại nói dối một cô bé hiền lành ,tốt bụng như Vy ...Anh gượng gạo: - Cám ơn cháu Cầm trong tay ly nước trà nóng bốc khói ,Tống thấy tủi thân . Anh nhớ mới chiều hôm kia đây , khi anh bước vào căn nhà mà trước đây hơn mười năm anh là chủ , anh đã bị xua đuổi như người ta đuổi tà , đuổi ma ...đừng nói chi tới một ly nước được mời mọc , mà họ là ai xa lạ đâu ...Tống nghe mặn đắng trên môi , dường như anh đang uống trà có pha thêm bằng những giọt nước mắt thật buồn .Nỗi buồn đã thấm vào da vào thịt anh cả mười năm nay bây giờ bỗng lên cơn gay gắt , bỗng cào cấu lòng anh quặn đau .Anh cúi xuống và những giọt nước mắt lại tiếp tục ứa ra ... - Chú sao vậy ? Chợt tiếng cô gái hỏi làm Tống giật mình , anh ngượng ngùng , quay mặt nhìn ra cửa , như sợ cô bé đọc được tâm tư mình , anh đánh trống lảng : - Mưa dai qúa ! Cô gái quay vào trong nhà lấy bình trà , rót thêm trà cho Tống - Chắc chú không phải người ở đây ...Chú không biết thôi mưa ở đây dai lắm , có khi kéo dài vài ngày ... Tống nghĩ ...phải , mình đâu phải người ở đây .Trước đây mười năm thì phải , nhưng bây giờ thì không ...bây giờ rõ ràng là mình vô gia cư ...ngay cả cái nhà của mình cũng không thể bước vô được . - Này cháu ở nhà có một mình thôi sao ? Ba mẹ cháu đâu ? Một thoáng buồn trên đôi mắt của con bé , con bé mơ màng nhìn ra trời mưa như muốn gởi cùng mưa những tình cảm đang chảy ngầm trong lòng nó - Mẹ cháu sáng sớm đã xuống bãi biển rồi - Xuống bãi biển ? - Vâng sáng nào cũng vậy , phải xuống sớm chờ cho tàu cá cập bến , nhặt đầu tôm ...cho chủ vựa , nhặt cả ngày kiếm vài lon gạo nuôi gia đình ...đời sống cực lắm chú ạ - Thế còn ba cháu ? - Ba cháu đi học tập cải tạo chưa về ...Ở đâu mãi ngoài Bắc Thì ra là vậy , Tống nghe lòng se thắt , tội nghiệp con bé qúa .Con bé cũng trạc tuổi con mình ,nhưng may là nó còn nhớ được rằng nó có một người cha đi học tập cải tạo .Còn con tôi ,...Tống chợt thở dài... - Thế còn cháu , cháu có đi học không ? - Cháu nghỉ học hai năm nay rồi ,ở nhà phụ mẹ Rồi như có chút gì hờn tức trong lòng ,cố bé mím môi : - Đi học cứ bị bọn chúng gọi là con ngụy , con ác ôn ...bực lắm Tống nhìn con bé ái ngại . Tống muốn ôm nó vào lòng như ôm đứa con của mình , nhưng làm sao được ...chợt con bé hỏi - Còn chú ? Chú làm gì vậy ? - Chú hả ? Tự nhiên Tống muốn tâm sự với con bé ,Tống thấy con bé thật thân thiết với mình, anh đã nhìn thấy ở con bé những điều mà anh bị dằn vặt bao năm . - Chú hả , Tống bắt đầu kể lể , anh cũng chẳng biết là con bé có để ý nghe không . - Chú cũng như ba cháu , nhưng chú đã trở về hai bữa nay .Trong mười năm cải tạo , chắc là chú kém may mắn hơn ba cháu , chú chỉ được thím đi thăm có một lần và từ đó đến lúc chú được thả về không hề có tin tức ... - Vậy thím đi đâu rồi ? - Trước chú cũng nghĩ vậy, chắc cuộc sống khó khăn, nên có khi phải bán nhà, tha phương cầu thực, nuôi con còn khó khăn nữa là , có dư giả gì mà đi thăm chú được, nhưng không phải , vợ chú vẫn ở đó ,ở ngay trong căn nhà của chú tạo dựng năm xưa nhưng bây giờ khác rồi ... Con bé nhìn Tống tò mò - Khác sao ? - Khác là bà ấy lấy chồng khác rồi -Ồ ... Con bé ú ớ mắt mở lớn , rồi buồn bã ngồi xuống ghế không nói gì - Vợ chú lấy một ông công an ở ngoài Bắc vào .Hôm chú về , bước vào cửa nhà gặp ông ta ,ông ta lạnh lùng gọi vợ , không biết phải nói là vợ chú hay vợ ông ta . Bà ta ở sau nhà te te chạy ra , nhìn chú sửng sốt: - Là ông à , Ông về đấy hả . Rồi bà ta trề môi, kéo dài cái giọng ra : - Bây giờ khác rồi . Ông không nên về nhà này nữa ...Ông đi đi ... Chú thật là bất ngờ ...không hiểu đầu đuôi ra sao , những tưởng khi được về gặp vợ con sẽ mừng mừng ,tủi tủi ôm chầm lấy nhau mà khóc , khóc vì sung sướng còn sống để trở về đoàn tụ gia đình , khóc mà thăm hỏi nhau sau bao năm trời xa cách, cuộc sống ngặt nghèo , nhưng nào ngờ ... - Bây giờ tôi đã có chồng rồi ...bà ta hạ giọng ,tôi không thể chờ ông được , rồi còn đứa con ,tôi phải kiếm chỗ nương tựa để nuôi nó . - Con đâu ? Một đứa bé gái khoảng 15 tuổi lấp ló sau cánh cửa , chắc là con tôi rồi , Tống nghĩ vậy anh chạy lại ôm chầm lấy nó , nhƯng nó chợt bỏ chạy vào trong nhà - Nó không biết ông đâu , ông đi nó mới được vài ba tuổi thôi mà , xin ông thương nó hãy đừng nhìn nó để nó bình yên mà sống trong căn nhà này . Chú muốn quỵ ngã ngay trên thềm nhà chú, còn nỗi đau nào hơn , chú dở khóc , dở cười ...chú chẳng biết mình phải làm gì ngay lúc đó . - Đi đi còn đứng đó làm gì . không biết xấu hổ còn vác mặt về đây ,đồ quân ngụy Chú quay lại , thì ra giọng the thé của bà mẹ vợ chú ngày xưa . Ngày xưa vì yêu thương vợ mà chú đã bao năm đùm bọc , nuôi nấng , cúc cu chăm lo cho ông bà ta và gia đình họ , bây giờ họ đã quay mặt xua đuổi chú ra khỏi căn nhà của chú Người đàn ông mà chú gặp lúc nãy , chồng mới của vợ chú, vừa bỏ đi đâu đó, giờ trở lại, dắt theo một ông cán bộ . Ông cán bộ đi lại ngay chỗ chú . Ông ta gằn giọng : - Anh mới được thả về hả ? - Dạ phải - Đưa giấy ra trại cho tôi xem Chú móc giấy ra đưa cho hắn .Hắn coi xong đưa trả lại chú - Ngày mai anh phải đi ngay .Anh không được ở khu phố này , chúng tôi không chứng giấy tờ gì cho anh hết . Anh không đi chúng tôi buộc sẽ phải bắt giữ anh vì tội cư trú không hợp pháp . - Vậy tôi phải đi đâu ?Trong giấy cho phép tôi về đây trình diện sinh sống mà . - Nhưng chúng tôi không chấp nhận Thật là ngang ngược ,chú nghĩ vậy ... Họ kéo nhau vào trong nhà . Bà ...vợ chú hậm hực đóng xầm cánh cửa lại . Chú nghĩ chắc bà ta muốn chứng tỏ cho ông chồng mới của bả là bả đã dứt khoát, đoạn tuyệt hẳn với chú , không còn một chút vướng bận dù chỉ là phù du ... Chú lững thững quay gót ra đi như người mất hồn . Đi đâu, về đâu bây giờ ? Chú nhìn lại lần cuối căn nhà thân quen của chú và mong có đôi mắt của con gái chú trông theo , nhưng không có gì , không có gì ...Và hai đêm nay chú phải ra chợ ngủ trên cái sạp bỏ trống . Con bé nghe xong nhìn tôi ra vẻ tội nghiệp lắm - Thế con chú nó không nhận chú thật à ? - Chắc mẹ nó nói thế nào ..vả lại chắc nó chả nhớ chú là ai Sau khi tâm sự với con bé Tống dường như nguôi ngoai một chút . Anh nâng ly trà đã nguội ngắt uống một hơi cạn - Cám ơn cháu , chú phải đi - Vào Saigon chú có quen ai không ? - Có vài người bạn quen hồi còn đi học, chẳng biết có tìm ra họ không . Ngòai trời mưa như nặng hạt hơn , mưa như ướt sũng lòng Tống . Biết ra sao ngày mai khi đời người vô định , Tống lững thững bước đi trong mưa , những đợt gío lùa mưa làm rát mặt , nước mắt hòa tan nỗi đau mất mát . Anh còn gì ...chỉ còn ngày mai mờ nhạt mịt mùng . Con bé Vy tựa cửa nhìn theo, mắt nhoà đi qua màn mưa . Con bé lại nhớ cha, thương cha mưa nắng tù đầy, thương mẹ thân cò khuya sớm, tảo tần, tròn nghĩa thuỷ chung . Con bé cầm chiếc nón lá lên che đầu, chạy bay xuống bãi . Nó muốn ôm hôn mẹ nó giữa trời mưa ... lê du miên Mục lục Người Mất Quê Hương Người Mất Quê Hương Lê Du MiênChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.Đánh máy: Lê Du Miên Nguồn: DactrungĐược bạn: Ct.Ly đưa lên vào ngày: 13 tháng 4 năm 2005
Lê Du Miên Người Mất Quê Hương Trời xứ Quảng sáng nay mưa xập xùi , cơn mưa đầu mùa bốc lên cái mùi hăng hắc , nồng nồng .Tống vội vã xách chiếc túi nhỏ chạy núp mưa dưới mái hiên một căn nhà ...Một cô gái hé cửa nhìn ra : - Chào chú , chú vào nhà ngồi kẻo ướt Tống nhìn cô gái ngập ngừng , cái nhanh nhẹn ,lịch thiệp của một người từng trải năm xưa giờ đã biến mất đâu rồi ...Tống ngơ ngác - Ơ ...chào cháu , đứng đây cũng được mà , tạnh mưa là tôi đi ngay - Chú đi đâu mà gấp gáp qúa vậy ? - À ...Tôi tính xuôi Nam , tôi muốn vào Sài gòn cháu ạ .Không biết bến xe vô Saigon chỗ nào , cháu có thể chỉ dùm tôi không ? - Được mà , chú vào nhà ngồi chơi chờ tạnh mưa đã ... Thấy cô bé thật tình , lại dễ thương ...Tống quên cả cái ngơ ngáo của mình , anh bước vào nhà theo cô bé - Này cô bé ,cô bé tên gì nhỉ ? - Cháu tên Vy ... - Tên cháu đẹp qúa Cô bé cười , nụ cười nhen nhúm một chút thẹn thùng : - Để cháu lấy nước chú uống - Được mà , không cần đâu , chú cũng mới vừa uống "Cũng mới vừa uống ...". Tống có một chút ngượng nghịu khi chợt hiểu rằng mình đã nói dối , lại nói dối một cô bé hiền lành ,tốt bụng như Vy ...Anh gượng gạo: - Cám ơn cháu Cầm trong tay ly nước trà nóng bốc khói ,Tống thấy tủi thân . Anh nhớ mới chiều hôm kia đây , khi anh bước vào căn nhà mà trước đây hơn mười năm anh là chủ , anh đã bị xua đuổi như người ta đuổi tà , đuổi ma ...đừng nói chi tới một ly nước được mời mọc , mà họ là ai xa lạ đâu ...Tống nghe mặn đắng trên môi , dường như anh đang uống trà có pha thêm bằng những giọt nước mắt thật buồn .Nỗi buồn đã thấm vào da vào thịt anh cả mười năm nay bây giờ bỗng lên cơn gay gắt , bỗng cào cấu lòng anh quặn đau .Anh cúi xuống và những giọt nước mắt lại tiếp tục ứa ra ... - Chú sao vậy ? Chợt tiếng cô gái hỏi làm Tống giật mình , anh ngượng ngùng , quay mặt nhìn ra cửa , như sợ cô bé đọc được tâm tư mình , anh đánh trống lảng : - Mưa dai qúa ! Cô gái quay vào trong nhà lấy bình trà , rót thêm trà cho Tống - Chắc chú không phải người ở đây ...Chú không biết thôi mưa ở đây dai lắm , có khi kéo dài vài ngày ... Tống nghĩ ...phải , mình đâu phải người ở đây .Trước đây mười năm thì phải , nhưng bây giờ thì không ...bây giờ rõ ràng là mình vô gia cư ...ngay cả cái nhà của mình cũng không thể bước vô được . - Này cháu ở nhà có một mình thôi sao ? Ba mẹ cháu đâu ? Một thoáng buồn trên đôi mắt của con bé , con bé mơ màng nhìn ra trời mưa như muốn gởi cùng mưa những tình cảm đang chảy ngầm trong lòng nó - Mẹ cháu sáng sớm đã xuống bãi biển rồi - Xuống bãi biển ? - Vâng sáng nào cũng vậy , phải xuống sớm chờ cho tàu cá cập bến , nhặt đầu tôm ...cho chủ vựa , nhặt cả ngày kiếm vài lon gạo nuôi gia đình ...đời sống cực lắm chú ạ - Thế còn ba cháu ? - Ba cháu đi học tập cải tạo chưa về ...Ở đâu mãi ngoài Bắc Thì ra là vậy , Tống nghe lòng se thắt , tội nghiệp con bé qúa .Con bé cũng trạc tuổi con mình ,nhưng may là nó còn nhớ được rằng nó có một người cha đi học tập cải tạo .Còn con tôi ,...Tống chợt thở dài... - Thế còn cháu , cháu có đi học không ? - Cháu nghỉ học hai năm nay rồi ,ở nhà phụ mẹ Rồi như có chút gì hờn tức trong lòng ,cố bé mím môi : - Đi học cứ bị bọn chúng gọi là con ngụy , con ác ôn ...bực lắm Tống nhìn con bé ái ngại . Tống muốn ôm nó vào lòng như ôm đứa con của mình , nhưng làm sao được ...chợt con bé hỏi - Còn chú ? Chú làm gì vậy ? - Chú hả ? Tự nhiên Tống muốn tâm sự với con bé ,Tống thấy con bé thật thân thiết với mình, anh đã nhìn thấy ở con bé những điều mà anh bị dằn vặt bao năm . - Chú hả , Tống bắt đầu kể lể , anh cũng chẳng biết là con bé có để ý nghe không . - Chú cũng như ba cháu , nhưng chú đã trở về hai bữa nay .Trong mười năm cải tạo , chắc là chú kém may mắn hơn ba cháu , chú chỉ được thím đi thăm có một lần và từ đó đến lúc chú được thả về không hề có tin tức ... - Vậy thím đi đâu rồi ? - Trước chú cũng nghĩ vậy, chắc cuộc sống khó khăn, nên có khi phải bán nhà, tha phương cầu thực, nuôi con còn khó khăn nữa là , có dư giả gì mà đi thăm chú được, nhưng không phải , vợ chú vẫn ở đó ,ở ngay trong căn nhà của chú tạo dựng năm xưa nhưng bây giờ khác rồi ... Con bé nhìn Tống tò mò - Khác sao ? - Khác là bà ấy lấy chồng khác rồi -Ồ ... Con bé ú ớ mắt mở lớn , rồi buồn bã ngồi xuống ghế không nói gì - Vợ chú lấy một ông công an ở ngoài Bắc vào .Hôm chú về , bước vào cửa nhà gặp ông ta ,ông ta lạnh lùng gọi vợ , không biết phải nói là vợ chú hay vợ ông ta . Bà ta ở sau nhà te te chạy ra , nhìn chú sửng sốt: - Là ông à , Ông về đấy hả . Rồi bà ta trề môi, kéo dài cái giọng ra : - Bây giờ khác rồi . Ông không nên về nhà này nữa ...Ông đi đi ... Chú thật là bất ngờ ...không hiểu đầu đuôi ra sao , những tưởng khi được về gặp vợ con sẽ mừng mừng ,tủi tủi ôm chầm lấy nhau mà khóc , khóc vì sung sướng còn sống để trở về đoàn tụ gia đình , khóc mà thăm hỏi nhau sau bao năm trời xa cách, cuộc sống ngặt nghèo , nhưng nào ngờ ... - Bây giờ tôi đã có chồng rồi ...bà ta hạ giọng ,tôi không thể chờ ông được , rồi còn đứa con ,tôi phải kiếm chỗ nương tựa để nuôi nó . - Con đâu ? Một đứa bé gái khoảng 15 tuổi lấp ló sau cánh cửa , chắc là con tôi rồi , Tống nghĩ vậy anh chạy lại ôm chầm lấy nó , nhƯng nó chợt bỏ chạy vào trong nhà - Nó không biết ông đâu , ông đi nó mới được vài ba tuổi thôi mà , xin ông thương nó hãy đừng nhìn nó để nó bình yên mà sống trong căn nhà này . Chú muốn quỵ ngã ngay trên thềm nhà chú, còn nỗi đau nào hơn , chú dở khóc , dở cười ...chú chẳng biết mình phải làm gì ngay lúc đó . - Đi đi còn đứng đó làm gì . không biết xấu hổ còn vác mặt về đây ,đồ quân ngụy Chú quay lại , thì ra giọng the thé của bà mẹ vợ chú ngày xưa . Ngày xưa vì yêu thương vợ mà chú đã bao năm đùm bọc , nuôi nấng , cúc cu chăm lo cho ông bà ta và gia đình họ , bây giờ họ đã quay mặt xua đuổi chú ra khỏi căn nhà của chú Người đàn ông mà chú gặp lúc nãy , chồng mới của vợ chú, vừa bỏ đi đâu đó, giờ trở lại, dắt theo một ông cán bộ . Ông cán bộ đi lại ngay chỗ chú . Ông ta gằn giọng : - Anh mới được thả về hả ? - Dạ phải - Đưa giấy ra trại cho tôi xem Chú móc giấy ra đưa cho hắn .Hắn coi xong đưa trả lại chú - Ngày mai anh phải đi ngay .Anh không được ở khu phố này , chúng tôi không chứng giấy tờ gì cho anh hết . Anh không đi chúng tôi buộc sẽ phải bắt giữ anh vì tội cư trú không hợp pháp . - Vậy tôi phải đi đâu ?Trong giấy cho phép tôi về đây trình diện sinh sống mà . - Nhưng chúng tôi không chấp nhận Thật là ngang ngược ,chú nghĩ vậy ... Họ kéo nhau vào trong nhà . Bà ...vợ chú hậm hực đóng xầm cánh cửa lại . Chú nghĩ chắc bà ta muốn chứng tỏ cho ông chồng mới của bả là bả đã dứt khoát, đoạn tuyệt hẳn với chú , không còn một chút vướng bận dù chỉ là phù du ... Chú lững thững quay gót ra đi như người mất hồn . Đi đâu, về đâu bây giờ ? Chú nhìn lại lần cuối căn nhà thân quen của chú và mong có đôi mắt của con gái chú trông theo , nhưng không có gì , không có gì ...Và hai đêm nay chú phải ra chợ ngủ trên cái sạp bỏ trống . Con bé nghe xong nhìn tôi ra vẻ tội nghiệp lắm - Thế con chú nó không nhận chú thật à ? - Chắc mẹ nó nói thế nào ..vả lại chắc nó chả nhớ chú là ai Sau khi tâm sự với con bé Tống dường như nguôi ngoai một chút . Anh nâng ly trà đã nguội ngắt uống một hơi cạn - Cám ơn cháu , chú phải đi - Vào Saigon chú có quen ai không ? - Có vài người bạn quen hồi còn đi học, chẳng biết có tìm ra họ không . Ngòai trời mưa như nặng hạt hơn , mưa như ướt sũng lòng Tống . Biết ra sao ngày mai khi đời người vô định , Tống lững thững bước đi trong mưa , những đợt gío lùa mưa làm rát mặt , nước mắt hòa tan nỗi đau mất mát . Anh còn gì ...chỉ còn ngày mai mờ nhạt mịt mùng . Con bé Vy tựa cửa nhìn theo, mắt nhoà đi qua màn mưa . Con bé lại nhớ cha, thương cha mưa nắng tù đầy, thương mẹ thân cò khuya sớm, tảo tần, tròn nghĩa thuỷ chung . Con bé cầm chiếc nón lá lên che đầu, chạy bay xuống bãi . Nó muốn ôm hôn mẹ nó giữa trời mưa ... lê du miên Mục lục Người Mất Quê Hương Người Mất Quê Hương Lê Du MiênChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.Đánh máy: Lê Du Miên Nguồn: DactrungĐược bạn: Ct.Ly đưa lên vào ngày: 13 tháng 4 năm 2005
Marcia Zina Mager Người mẹ Dịch giả: Hoa Trên Cát Ngồi trên một trong những bãi biển đẹp nhất thế giới, tôi thiết nghĩ trên đời không còn gì hạnh phúc hơn. Đã ba năm nay, hai vợ chồng tôi sinh sống trên hòn đảo Lanai xinh đẹp này, nơi có bờ biển Thái Bình Dương hiền hòa xanh thẳm trải dài trước mắt, bờ cát trắng ấm áp trải rộng dưới chân, hàng cọ xanh rờn đang rì rào trong gió. Bạn có nghĩ đây chính là thiên đường hay không? Vậy mà sao tôi lại ngồi đây mà khóc? Hôm nay là sinh nhật lần thứ 40 của tôi. Và trong suốt hai mươi năm qua tôi không ngừng đấu tranh với ý nghĩ trở thành mẹ của một đứa trẻ. Tôi nghĩ có lẽ điều đó xuất phát từ tuổi thơ bất hạnh của tôi. Tôi không nghĩ cha mẹ không thương mình, nhưng cuộc đời quá khắc nghiệt khiến họ trở thành những con người khác. Cha tôi – một người lính Do thái chiến đấu ngoài tiền tuyến trong thế chiến thứ hai – phải chịu đựng những điều khủng khiếp nhất mà không một ai có thể chịu đựng nổi, đó là hàng ngày phải lau chùi những lò sát sinh nơi chính đồng loại mình bị sát hại. Sau chiến tranh, ông trở về mang trong lòng một vết thương không một phương thuốc nào có thể chữa được và không còn có thể cho tôi thứ tình cảm cha con mà tôi hằng ao ước. Mẹ tôi – một nhà văn tài ba – phải sớm từ bỏ sự nghiệp của mình để lập gia đình và phải kiếm sống bằng những công việc mà mình không yêu thích. Suốt phần đời còn lại, bà nhìn cuộc đời bằng một nỗi thất vọng cay đắng. Thế là tôi trở thành một đứa trẻ lạc lõng ngay trong chính gia đình mình. Điều đó khiến cho cái ý tưởng trở thành cha mẹ của ai đó làm tôi bối rối. Trong đầu tôi mang hai hình ảnh của người mẹ hoàn toàn trái ngược nhau. Đó là hình ảnh một người mẹ cộc cằn, thô lỗ mà tôi phải đối diện hàng ngày song song với hình ảnh một người mẹ hiền từ, đảm đang của một nhân vật truyền hình đã theo tôi suốt từ thời niên thiếu. Việc trở thành một người mẹ, mang theo những vết thương lòng và sự thiếu thốn tình cảm thời thơ ấu khiến tôi thấy sợ hãi. Nhiều năm trôi qua, tôi cố thuyết phục bản thân rằng mình không cần có con. Là một nhà văn, mục tiêu sống duy nhất của tôi lúc đó là cho ra đời một đứa con tinh thần được nhiều người biết đến. Tôi luôn né tránh vấn đề riêng tư của mình cho đến ngày tôi gặp Dennis. Chúng tôi gặp nhau, yêu nhau và đính hôn chỉ trong vòng một năm. Ít lâu sau, anh ấy nhận công tác ở Hawaii và chúng tôi đã kết hôn ở đây, rồi cùng nhau sinh sống trên hòn đảo Lanai nhỏ bé này. Đến từ một thành phố đông đúc, đối với tôi, Lanai giống như một xứ sở trong truyện thần tiên. Ở đây không có đèn giao thông, không có các nhà hàng bán thức ăn nhanh và hầu như không có tội phạm. Nó là một ngôi làng dễ thương với hàng trăm cây thông khổng lồ, và những ngôi nhà vách gỗ nhiều màu sắc với những chú gà trống đi lang thang trong sân. Khi mối quan hệ giữa hai vợ chồng ngày càng trở nên sâu sắc, tôi phát hiện ra mình muốn sinh cho anh ấy một đứa con. Nó là một cảm xúc tự nguyện mà tôi không thể nào kiểm soát nổi. Nhưng khi tôi thổ lộ chuyện đó với anh ấy, tôi lại khóc. Không biết đã bao nhiêu lần, Dennis bảo với tôi rằng chúng tôi không nhất thiết phải có con vì anh ấy đã có một đứa con trai từ cuộc hôn nhân trước. Nhưng thi thoảng, tôi vẫn thấy anh ấy buồn nhớ đến những ngày tháng nuôi con và được nhìn con mình lớn lên từng ngày. Vào hôm trước sinh nhật lần thứ 40 của mình, tôi trở về nhà trong một tâm trạng buồn bã. Tôi biết đã đến lúc mình nên đối mặt với nỗi sợ hãi của mình và đưa ra một quyết định. Nếu quyết định không sinh con, biết đâu tôi sẽ hối hận vào những năm cuối đời mình. Còn nếu chọn sinh con, tôi lại sợ những thiếu thốn trong tâm hồn mình sẽ làm tổn thương đến tình cảm của con tôi. Sáng sớm hôm sau, tôi một mình lái xe ra bờ biển. Ngồi trên bãi cát nhìn về phía chân trời xa xăm, tôi cảm thấy mình hoàn toàn kiệt sức. Đôi khi, tôi đưa mắt nhìn xuống mặt biển tìm kiếm đàn cá heo, những người bạn của tôi. Cá heo là một loài vật thông minh và sống theo đàn. Tôi và anh Denniss đã cùng bơi lội với chúng không biết bao nhiêu lầntại vùng biển này, vì đây chính là nhà của chúng. Và sáng nay, khi tôi nhìn thấy một tia nước tóe lên từ phía ngoài khơi, tôi đeo mặt nạ lặn vào rồi đi xuống biển, đôi mắt vẫn còn sưng húp vì khóc suốt đêm hôm qua. Tôi bơi ra xa bờ, thả nổi mình, mặt úp xuống nước và chờ đợi. Khoảng mười phút sau, tôi thoáng thấy một bóng mờ từ đàng xa. Từ trong làn nước xanh biếc, một con cá heo xuất hiện, lúc nó đến gần tôi mới phát hiện ra, bơi bên cạnh nó là một chú cá heo con. Rồi chúng càng ngày càng đến gần cho đến khi chỉ còn cách tôi vài mét và bắt đầu bơi vòng tròn chung quanh tôi. Tôi nhìn thấy những vết sọc trên người chú cá nhỏ, điều đó chứng tỏ nó chỉ vừa mới ra đời. Tôi có cảm giác như giữa mình và con cá mẹ có một mối liên lạc chặt chẽ. Khi tôi nhìn vào mắt nó, một giọng nói khe khẽ vang lên trong đầu tôi. Giọng nói rõ ràng và trong suốt như chính dòng nước xung quanh tôi. Tôi thả mình lắng nghe, giọng nói thì thầm: trở thành mẹ là một điều thiêng liêng. Hai mẹ con cá heo cứ bơi vòng vòng quanh tôi suốt cả tiếng đồng hồ. Tôi tưởng mình đang ở trong một giấc mơ. Dường như chúng có mặt ở đây để an ủi tôi vậy. Khi các vị khách du lịch bắt đầu chú ý và tụ tập quanh bờ biển vì cảnh tượng khó tin này, hai mẹ con cá quyết định quay trở lại nhập với đàn của chúng đang bơi ở phía xa. Còn tôi, tôi bơi trở lại bờ mà trong lòng cứ mãi ngẩn ngơ. Dù mọi lo toan của tôi đã được giải tỏa từ sau cuộc gặp gỡ hiếm có đó, thế nhưng, ba năm sau – tức là vào sinh nhật lần thứ bốn mươi ba của mình, tôi vẫn chưa có mang. Tôi bắt đầu nghĩ, biết đâu cuộc chạm trán với hai con cá chỉ là sự trùng hợp ngẫu nhiên và biết đâu thượng đế đã nhầm lẫn với tôi. Nếu đã vậy thì rõ ràng tôi sinh ra không phải – hoặc không thích hợp để làm một người mẹ. Vài tuần sau đó, tôi cầu nguyện trở lại, tôi cảm thấy mình đã bỏ lỡ mất điều gì đó. Tôi cầu cho mình có một sự thay đổi lớn trong cuộc đời. Và chuyện này đã xảy ra cách đây chín tháng. Giờ đây, khi đang ngồi viết lại câu chuyện này, tôi đang ôm đứa con trai mới sinh bé bỏng trong lòng mình. Vậy mà sao tôi vẫn khóc? Tôi khóc là vì lòng tôi đang tràn ngập niềm vui sướng và sự biết ơn. Bây giờ tôi mới hiểu, được làm mẹ là niềm hạnh phúc lớn lao nhất trong cuộc đời mình. Mục lục Người mẹ Người mẹ Marcia Zina MagerChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: internetĐược bạn: Ct.Ly đưa lên vào ngày: 21 tháng 9 năm 2005
Marcia Zina Mager Mother Translator: Flowers in the Sand Sitting on one of the most beautiful beaches in the world, I think there is nothing happier in the world. For three years now, my husband and I have lived on this beautiful island of Lanai, where the gentle, deep blue Pacific Ocean stretches before our eyes, the warm white sand spreads beneath our feet, and the green palm trees are growing. whispering in the wind. Do you think this is paradise? So why am I sitting here crying? Today is my 40th birthday. And for the past twenty years I have constantly struggled with the idea of ​​becoming the mother of a child. I think maybe that comes from my unhappy childhood. I don't think my parents don't love me, but life is so harsh that they become different people. My father - a Jewish soldier fighting on the front lines in World War II - had to endure the most terrible things that no one could endure, which was having to clean the slaughterhouses in the main area every day. fellow human beings were murdered. After the war, he returned with a wound in his heart that no medicine could cure and could no longer give me the fatherly love that I always longed for. My mother - a talented writer - had to give up her career early to get married and had to make a living doing jobs she didn't like. For the rest of her life, she looked at life with bitter disappointment. So I became a lost child in my own family. That makes the idea of ​​becoming someone's parent confusing to me. In my head, I have two completely opposite images of my mother. That is the image of a gruff, rude mother that I have to face every day in parallel with the image of a gentle, responsible mother of a television character who has followed me since I was a teenager. Becoming a mother, carrying the trauma and lack of affection from my childhood, scared me. As the years passed, I tried to convince myself that I didn't need children. As a writer, my only life goal at that time was to give birth to a brainchild that was widely known. I always avoided my personal matters until the day I met Dennis. We met, fell in love and got engaged within a year. Shortly after, he took a job in Hawaii and we got married here, then lived together on this small island of Lanai. Coming from a crowded city, to me, Lanai is like a land in a fairy tale. There are no traffic lights, no fast food restaurants and virtually no crime. It is a cute village with hundreds of giant pine trees, and colorful wooden-walled houses with roosters roaming the yards. As our relationship became deeper and deeper, I discovered I wanted to give him a child. It is a voluntary emotion that I cannot control. But when I confessed it to him, I cried again. I don't know how many times Dennis told me that we didn't need to have children because he had a son from a previous marriage. But sometimes, I still see him sadly remembering the days of raising his children and watching his children grow up day by day. The day before my 40th birthday, I returned home in a sad mood. I knew it was time to face my fears and make a decision. If I decide not to have children, I may regret it in the last years of my life. If I choose to have children, I'm afraid that the lack in my soul will hurt my child's feelings. Early the next morning, I drove to the beach alone. Sitting on the sand looking at the distant horizon, I felt completely exhausted. Sometimes, I look down at the ocean looking for dolphins, my friends. Dolphins are intelligent animals and live in groups. Mr. Denniss and I have swum with them countless times in this sea, because this is their home. And this morning, when I saw a splash from offshore, I put on my diving mask and went into the ocean, my eyes still puffy from crying all night last night. I swam away from shore, floated, face down in the water and waited. About ten minutes later, I caught a glimpse of a shadowy figure in the distance. From the blue water, a dolphin appeared. When it approached, I discovered that swimming next to it was a baby dolphin. Then they got closer and closer until they were only a few meters away from me and started swimming in circles around me. I saw stripes on the little fish's body, which proved that it had just been born. I feel like there is a close connection between me and the mother fish. When I looked into its eyes, a soft voice rang in my head. The voice was as clear and transparent as the water surrounding me. I let myself listen, the voice whispered: becoming a mother is a sacred thing. The two dolphins kept swimming around me for an hour. I thought I was in a dream. It seems like they are here to comfort me. When tourists began to pay attention and gather around the beach because of this unbelievable sight, the mother and her fish decided to return to join their group swimming in the distance. As for me, I swam back to shore, still in a daze. Although all my worries were relieved after that rare encounter, three years later - on my forty-third birthday, I was still not pregnant. I started thinking, maybe the encounter with the two fish was just a coincidence and maybe God made a mistake with me. If so, then clearly I was not born - or not suitable - to be a mother. A few weeks later, when I prayed again, I felt like I was missing something. I pray for a big change in my life. And this happened nine months ago. Now, as I sit down to write this story, I am holding my newborn son in my arms. So why am I still crying? I cry because my heart is filled with joy and gratitude. Now I understand that being a mother is the greatest happiness in my life. Table of contents Mother Mother Marcia Zina MagerWelcome to read the first books from the book project for mobile devices. Source: author: Nguyen Kim Vy. Final words: Thank you for reading the entire story. Source: editor: Nguyen Kim Vy. Source: internet Uploaded by friend: Ct.Ly on: September 21, 2005
Khuyết Danh Người mẹ kế Chị tôi ốm nặng rồi qua đời khi bé Quyên vừa tròn một tháng tuổi. Nó bị mù bẩm sinh. Anh rể tôi vừa làm cha vừa làm bà vú. Nhìn cảnh gà trống nuôi con , ai cũng ái ngại, khuyên anh nên đi thêm bước nữa để có người chăm sóc bé Quyên. Những lúc ấy anh chỉ lặng lẽ cố giấu tiếng thở dài não nuột. trong thâm tâm anh nghĩ:" Tìm được người vợ cho mình thì dễ chứ tìm được một người mẹ tốt cho con mình thì khó lắm". Nhưng rồi thời gian cũng qua đi, khi vòng khăn tang trắng trên đầu đã được quấn thành tro, anh tôi đi cưới một người đàn bà khác. Ban đầu người vợ mới của anh tôi rất yêu thương bé Quyên, chăm sóc nó như một người mẹ thực sự. Nhưng chẳng được bao lâu, khi có một đứa bé trai bụ bẫm ra đời thì bé Quyên như một người thừa trong căn nhà nhỏ đầy tiếng cười và tiếng khóc. Anh tôi suốt ngày bận bịu với "cục cưng nối dõi" của mình, không ai còn để ý đến con bé mù đó nữa. Bé Quyên chưa biết buồn, nó lủi thủi chơi một mình ở góc vườn hay một xó xỉnh nào đó. Nó bị người mẹ kế cấm không được đến gần em bé, nên bạn nó chỉ có chứ chó con mà ba nó mới xin về. Có một hôm, con bé đang chơi thì chợt nghe tiếng thét của thằng em, nó quên lời cấm hối hả vào nhà định dỗ em. Nhưng khi tay nó vừa chạm vào chiếc nôi thì người mẹ kế từ ngoài chạy vào giáng cho nó một cái tát nảy lửa. - Đồ quỷ sứ, mày làm gì con trai tao thế? Mày định giết nó hả ? Đã mù rồi còn ác ! Muốn đi theo con mẹ mày phải không ? Phải không ? Cứ mỗi tiếng "phải không " là người mẹ kế lại dúi đầu con bé vào tường. Bé Quyên vừa đau vừa hoảng sợ, nó quỳ phục dưới đất nức nở van xin: - Má ơi, xin đừng đánh con, con không hại em, không phải, không phải mà. Nhưng người mẹ kế không tin lời nó nói. và hôm đó, con bé được một trận đòn để nhớ đời. cũng từ hôm đó, bé Quyên biết buồn, nó thường hay khóc một mình. Một thời gian sau, thằng bé tập tễnh biết đi. Nó lớn nhanh như Gióng và hồn nhiên như một chú chim chích. Người mẹ kế "cảnh giác", "kiểm soát" chặt chẽ không cho thằng bé chơi với Quyên nhưng không làm sao ngăn cấm được trẻ thơ đang ở độ tuổi "tò mò" nên người mẹ kế đành phải quay sang gắt gỏng, cau có với con bé. Bé Quyên không sợ bị đánh đòn, vì nó đã quá quen thuộc. Nó chỉ sợ không được hơi và trò chuyện cùng em bé, hai chị em nó thường dắt ra góc vườn, nơi có một khóm hoa mẫu đơn cao phủ kín, trốn chơi ở đó. Người mẹ kế lâu dần không hấy bé Quyên hại con mình nên thả "Tự do " cho hai đứa nhỏ. ANh tôi mỗi khi đi làm về đều có quà bánh cho cậu con trai. Vì thế cứ chiều đến. cậu bé thường hay dắt chị ra đầu ngõ đợi ba về. Thoáng thấy bóng anh tôi, cậu bé ào tới reo lên tíu tít: - A! Ba đã về. Anh tôi nhấc bổng cậu bé, vờn lên đầu nựng: - Hà, hà! Con trai cưng của ba ngoan quá. nào cho ba thơm một cái đi nào. Cậu bé sung sướng cười như nắc nẻ. Bé Quyên bị bỏ quên lẳng lặng lảng đi chỗ khác. Đôi vai gầy của nó rung lên, hình như nó khóc. Ngày tiếp ngỳa, cảnh tượng ấy diễn ra đều đặn. Con bé càng trở nên ít nói và gầy đi như một chiếc lá khô. Anh tôi vẫn vô tình không thấy. Đến một hôm anh tôi đi làm về bỗng dưng lên cơn sốt. Bé Quyên hốt hoảng lần đường sang gọi ông Năm - người thầy thuốc ở nhà bên cạnh. Lúc về nó đến bên bố, giọng thảng thốt lo lắng: - Ba ơi! Ba có làm sao không ? Đừng chết nghe ba! Ông Năm tìm đôi kính rồi sẽ mang thuốc sang cho ba ngay thôi mà. Con bé có vẻ bồn chồn lại hỏi: - Nhưng mà sao ông Năm không đi liền mà còn phải đi tìm kính làm gì vậy hở ba ? - Thì để cho ông nhìn thấy đường mà - Anh tôi mệt nhọc trả lời cho qua chuyện. Không ngờ bé Quyên chộp lấy đôi bàn tay anh, giọng nó vừa run vừa hớn hở: - Ba ơi! Con cũng cần có một đôi kính như của ông Năm vậy. Ba mua cho con nghe ba ???????? - Còn cần cái đó để làm gì ? - Anh tôi ngạc nhiên hỏi. Bé Quyên sợ ba từ chối, oà khóc: - Ba ơi, con có nhìn thấy gì đâu. Con muốn được sáng mắt để nhìn thấy ba nhìn thấy em tí thôi mà. Anh tôi nghe như có một cái gì trỗi dậy, nhói lên trong lồng ngực, không biết giải thích sao cho con bé hiểu được . Anh đành giấu người trong tấm chăn, nước mắt giàn dụa. Hôm sau trước cửa nhà chỉ có mình cậu bé đứng đợi ba về. Anh tôi không thấy bé Quyên, nét mặt biến sắc:" Chị con đâu ?". Cậu bé phụng phịu chỉ tay về phía khóm hoa mẫu đơn góc vườn. Anh tôi bế con trai đến đặt bên bé Quyên, âu yếm hôn lên hai mái đầu thơ dại, giọng anh trìu mến lạ -Hai đứa con yêu quý của ba! Bé Quyên bỗng quàng lấy cổ anh tôi, mếu máo. -Ba ơi! Con đã có ba rồi. Con không cần đôi kính mắt nữa. Anh tôi sững sờ ôm con vào lòng. Anh khóc, khóc nức nở, khóc như chưa bao giờ được khóc. ANh thấy như lương tâm đang hỉ tội. Anh biết vì sao bé Quyên không cần có đôi kính mắt nữa, mặc dù mới hôm qua đây nó thiết tha nài nỉ. Con bé chưa ý thức được nỗi bất hạnh của cuộc đời. trước mắt nó là một màn đên dày đặc. Nhưng nó đã ý thức được uộc sông, đã nhìn thấy tình yêu thương quý hơn tất cả. Và với nó, tình thương còn quý hơn ánh sáng. Anh tôi không gờ được rằng khi đã trở thành một kĩ sư nổi tiếng, anh lại được một bài học ở chính đứa con gái mù bé bỏng của mình, một bài học giản đơn về cách cư xử, nhưng đó là đạo lí của con người . Nhìn bé Quyên qua làn nước mắt, anh tôi nói: - Chính ba mới thật là một kẻ mù. Cám ơn con! Cám ơn con đã cho ba anh sáng! Mục lục Người mẹ kế Người mẹ kế Khuyết DanhChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: Được bạn: Mít Đặc đưa lên vào ngày: 27 tháng 12 năm 2003
Noname Stepmother My sister was seriously ill and passed away when baby Quyen was just one month old. He was born blind. My brother-in-law is both a father and a nanny. Looking at the scene of a rooster raising a baby, everyone was concerned and advised him to go one step further so that someone could take care of little Quyen. At those times, he just quietly tried to hide his deep sigh. In his heart, he thought: "Finding a wife for yourself is easy, but finding a good mother for your child is very difficult." But then time passed, when the white mourning scarf on his head was wrapped into ashes, my brother married another woman. At first, my brother's new wife loved baby Quyen very much and took care of her like a real mother. But not long after, when a plump baby boy was born, little Quyen was like an extra person in a small house full of laughter and crying. My brother was busy all day with his "baby heir", no one paid attention to that blind girl anymore. Baby Quyen doesn't know how to be sad yet, she plays alone in the garden or some other corner. He was forbidden by his stepmother to come near the baby, so his friend only had puppies that his father asked for. One day, while she was playing, she suddenly heard her younger brother scream. She forgot the prohibition and rushed into the house to try to comfort her. But as soon as his hand touched the cradle, his stepmother ran in from outside and gave him a fiery slap. - You devil, what have you done to my son? Are you going to kill it? Already blind and still evil! Do you want to follow your mother? Right ? With every "right?", the stepmother pressed her head against the wall. Baby Quyen was both hurt and scared, she knelt on the ground sobbing and begged: - Mom, please don't hit me, I didn't hurt you, no, no. But the stepmother did not believe what he said. and that day, she received a beating to remember forever. From that day on, baby Quyen became sad and often cried alone. Some time later, the boy hobbled and walked. It grows as fast as Giong and is as innocent as a warbler. The stepmother was "vigilant" and "strictly controlled" not to let the boy play with Quyen, but there was no way to stop the child at a "curious" age, so the stepmother had to turn grumpy and frown. have with the baby. Little Quyen is not afraid of being spanked, because she is too familiar with it. He was just afraid of not being able to breathe and talk to the baby, so the two sisters often took him to the corner of the garden, where a tall peony bush was covered, to hide and play there. The stepmother gradually did not see little Quyen harming her children, so she let the two children go "Free". Every time my brother comes home from work, he always brings a cake gift for his son. So the afternoon comes. The boy often took his sister to the alley to wait for his father to return. Catching a glimpse of my brother, the boy rushed forward and shouted loudly: - Ah! Dad is back. My brother picked up the boy and petted him on his head: - Ha, ha! My darling son is so good. Let's give dad a scent. The boy smiled happily. Baby Quyen was forgotten and quietly wandered away. Its thin shoulders shook, it seemed like it was crying. The next day, that scene happened regularly. She became quieter and thinner like a dry leaf. My brother still couldn't see it. One day my brother came home from work and suddenly had a fever. Little Quyen panicked and made her way to call Mr. Nam - the doctor in the house next door. When he returned, he came to his father, his voice blurting with worry: - Dad! Dad, are you okay? Don't die, dad! Mr. Nam will find a pair of glasses and will bring the medicine to Dad right away. The girl seemed restless and asked: - But why didn't Mr. Nam go immediately and why did he have to go look for glasses, dad? - Just so you can see the way - My brother replied tiredly to get things over with. Unexpectedly, little Quyen grabbed his hands, her voice trembling and cheerful: - Dad! I also need a pair of glasses like Mr. Nam's. Dad bought it for me, Dad???????? - What else do you need that for? - My brother asked in surprise. Baby Quyen was afraid her father would refuse, so she cried: - Dad, I didn't see anything. I want my eyesight to be able to see my dad see me just a little bit. My brother heard something rising and throbbing in his chest. He didn't know how to explain it to her so she could understand. He had to hide himself in the blanket, tears streaming down his face. The next day, there was only the boy standing in front of the house waiting for his father to return. My brother did not see little Quyen, his expression changed: "Where is your sister?". The boy pouted and pointed towards the peony cluster in the corner of the garden. My brother picked up his son and placed him next to little Quyen, lovingly kissed his two young heads, his voice strangely affectionate - Dad's two beloved children! Little Quyen suddenly wrapped her arms around my brother's neck and cried. -Daddy! I already have three. I don't need glasses anymore. My brother was stunned and hugged his child. He cried, sobbed, cried like he had never cried before. I feel like my conscience is regretting my sins. I know why little Quyen doesn't need glasses anymore, even though just yesterday she earnestly begged. She is not yet aware of the unhappiness of life. Before its eyes was a thick darkness. But it was aware of the river, and saw the love that is more precious than anything. And to it, love is more precious than light. My brother could not have imagined that when he became a famous engineer, he would learn a lesson from his little blind daughter, a simple lesson on how to behave, but that is her morality. People . Looking at baby Quyen through tears, my brother said: - Dad is the one who is truly blind. Thank you! Thank you for giving my dad the light! Table of contents Stepmother Stepmother AnonymousWelcome to read books from the book project for mobile devices. Source: author: Nguyen Kim Vy. Final words: Thank you for reading the entire story. Source: editor: Nguyen Kim Vy. Source: Posted by friend: Mat Dac on: December 27, 2003
Jasmin Người Mẹ tật nguyền Ngay từ lúc chào đời nó đã không biết mặt cha ,nó lớn lên trong tình thương yêu của mẹ, ông,bà và gia đình ngoại. Nghe bà ngoại kể lại,mẹ bị hỏng hai mắt từ năm mẹ lên 3 tuổi,sau một trận thuỷ đậu.Đúng là trời lấy đi đôi mắt của mẹ,nhưng lại bù lại cho mẹ một đôi tay khéo léo,và một giọng hát vô cùng hay.Bà ngoại bảo mẹ đan áo rất giỏi ,giặt quần áo,dọn dẹp nhà cửa như người bình thường. Mẹ phụ cho ông bà ngoại nhiều việc nhà,mẹ tham gia vào chi hội người mù ở xà và huyện,thỉnh thoảng đi biểu diễn văn nghệ quần chúng nữa. Lúc nó lớn, vẫn còn nhìn thấy nhiều giấy khen của mẹ được huyện cấp tặng. Nhưng phong trào cũng chỉ được một thời gian, sau đó mẹ đã bị một người đàn ông lợi dụng, vì mẹ không nhìn thấy nên cũng tin ông ta, nhưng sau khi biết mẹ có thai ông ta đã bỏ đi không bao giờ quay lại gặp mẹ nữa. Hậu quả mẹ phải gánh chịu là nó ra đời, nghe bà ngoại kể lại , rằng cả nhà khuyên mẹ bỏ cái thai đó đi, vì mẹ không nhìn thấy thì sẽ rất khổ nếu sinh con. Nhưng mẹ đã khóc lóc van xin, ông -bà,cho mẹ nuôi giữ cái thai đó,vì đấy là ước nguyện duy nhất của mẹ, mẹ hứa với ông -bà ngoại là mẹ sẽ tự chăm sóc đứa bé, không làm ông -bà phải lo đâu.Nhưng cả nhà ngoại ai cũng thương mẹ,nên lo cho mẹ lắm,cuối cùng ông-bà ngoại thấy mẹ quyết tâm như vậy, nên đành phải đồng ý. Và ngày nó chào đời mẹ vui mừng lắm, mẹ đan rất nhiều áo cho nó,rồi mẹ chăm sóc rất cẩn thận,bà ngoại thấy mẹ từ làm mọi việc đều tốt,nên dần bà cũng yên tâm hơn.Thời gian trôi nhanh qua,nó lớn dần,còn mẹ thì cũng mỗi tuổi một kém hơn.Ngày nó bắt đầu đi học lớp 1,mẹ rất hạnh phúc,tối về nó tập đọc chuyện cho mẹ nghe,vì có bao giờ ai đọc cho nghe như này đâu,nên mẹ vui quá ,mẹ khóc vì sung sướng,vì có nó,đã làm mẹ quên hết tật nguyền của mẹ . Mẹ yêu nó và chăm sóc cho nó rất tỉ mỉ,Tuy mẹ không nhìn thấy nhưng quần áo của nó lúc nào cũng chỉnh tề và sạch sẽ. Rồi cuộc sống đang trôi êm đềm như thế,nó bắt đầu học lớp 4, năm đó cả ông và bà ngoại đều mất, chỉ còn nó và mẹ sống đơn độc trong ngôi nhà của ngoại để lại.Bà ngoại cũng để dành được chút tiền tiết kiệm,để lại cho hai mẹ con nó,nhưng không làm cứ rút tiền đó ra ăn chỉ được mấy tháng số tiền đó hết sạch.Mẹ buồn quá , không biết xoay sở ra sao bây giờ? Nó còn nhỏ nhưng thấy mẹ buồn,cũng biết mẹ lo cho cuộc sống của mình, nhưng không giúp được mẹ gì cả. Ngày hôm sau nó đi học,mẹ chống gậy đi ra các nhà ga,và bến xe cuả thị xã để hát rong, kiếm tiền nuôi nó. Nhưng mẹ vẫn dấu không cho nó biết, vì sợ nó đang học lại bị bạn bè nó cười. Nhưng dấu mãi cũng không được,vì học cùng lớp nó có đứa đã nhìn thấy mẹ hát ở bến xe, hôm sau đến lớp nó bảo với cả lớp. Các cậu ơi !hôm quá tớ nhìn thấy mẹ thằng An ,đi hát ăn xin ở ngoài bến xe đấy.Thế rồi cả lớp nhìn về phía nó, không tin những lời thằng bạn kia nói là thật.Nó vừa tức,vừa ngượng, lấy hết sức lực lao thắng vào người thằng đó,và ra sức đánh nó cho hả cơn tức.Sau đó nó bị nhà trường gọi lên làm bản kiểm điểm . Về đến nhà ,nó đi thẳng tới chỗ mẹ ngồi và quát thật to. - Tại sao bà lại đi hát rong ? để chúng nó cười tôi là mẹ mày đi ăn xin.Tại sao ..tại sao..? Nhưng mẹ vẫn yên lặng ngồi,có lẽ mẹ không nhìn thấy thái độ của nó lúc ấy,và những cử chỉ nó đã làm với mẹ. Chờ nó nói hết,mẹ mới bắt đầu bảo. - An à, nhà mình bây giờ còn biết trông vào đâu nữa con, ông -bà ngoại không còn,mẹ phải lo cho con ,chứ còn ai nữa.Mẹ thì hỏng hai mắt ,không làm được việc gì ra tiền, mẹ chỉ biết đi hát thôi con. Đấy cũng là một nghề con ạ,mẹ cũng rất mệt sau những ngày gân cổ lên mà hò,cho thiên hạ nghe,mẹ có sướng gì đâu con,nhưng để sinh nhai mẹ vẫn phải làm và còn phải để con tồn tại nữa chứ. Nó không nghe mẹ nói hết, bỏ chạy ra ngoài , tìm một nơi khuất ngồi im đó,như để trốn tránh mọi con mắt của những người xung quanh. Và chờ khi trời nhá nhem mới về nhà cho đỡ ngượng. Đến tối không thấy nó về , mẹ sang mấy nhà hàng xóm hỏi, đều không có, rồi mẹ lại lọc cọc khua cái gậy khắp làng để tìm , nhưng vẫn không được ,tới đêm khuya nó mới mò về, vì tránh không muốn gặp ai. Vào nhà không thấy mẹ đâu, nó chạy ra đầu ngõ cũng không thấy, lúc này đã muộn quá rồi, nó sợ hàng xóm thức giấc nên không dám hỏi ai cả. Quay trở về nhà ngồi chờ, nó nghĩ mẹ đi sang nhà ai đó chơi thôi, nên vẫn ngồi im chờ mẹ về.Thấy có tiếng người vào sân nó tưởng mẹ về chạy ra,nhưng không phải, mà là chú dân quân xã ,vào báo cho nó biết,mẹ bị ngã xuống ao,may mà có người nhìn thấy ,đã vớt mẹ lên,nhưng đang nằm ở trạm xá, nó vội chay như bay ra ngoài đó, tới nơi thấy mẹ đang nằm ,quần áo mẹ vẫn còn ướt, nó đến bên mẹ khẽ gọi. - Mẹ-Mẹ ơi ! mẹ nghe thấy tiếng nó, vội ngồi dậy,và hỏi. - Con đi đâu mà để mẹ lo quá ? mẹ tìm con cả tối không thấy. Rồi mẹ cứ thế cầm tay nó khóc,nhìn những giọt nước mắt mẹ rơi nó không nhịn được nữa,oà lên khóc theo mẹ,vừa khóc vừa nói. -Con xin lỗi mẹ ,lỗi tại con,từ nay con sẽ không để mẹ phải lo ,lắng như thế nữa. Mẹ kéo nó lại, ôm nó vào lòng , rồi lại khóc. Nó hỏi mẹ có mệt không ? mẹ bảo mình về nhà đi con ,mẹ không sao đâu.Nó ra chào cô y tá và xin phép đưa mẹ về. Hai mẹ con dìu nhau về trong đêm khuya vắng,không một bóng người,chỉ nghe thấy tiếng chó sủa thôi. Nó cũng hơi sợ,nhưng nghĩ có mẹ bên cạnh nên lại yên lòng. Thế rồi nó bỏ không đi học nữa, vì thương và lo cho mẹ quá, chỉ sợ mẹ đi hát về mà đâm vào xe thì khổ. Nó bảo với mẹ để nó dắt mẹ đi hát, mẹ bảo . Phải cố đi học , nhưng nó xin mẹ đừng bắt nó đi học nữa,vì một mình mẹ đi nó không yên tâm học. Nó kiên quyết không đi, mẹ đành chịu.Từ đó ngày nào nó cũng dắt mẹ đi hát,mới đầu nó còn ngượng,nhưng đi mấy lần thấy mẹ hát hay quá,và ai cũng thương mẹ,nên nó không còn ngượng nữa. Có lẽ mọi người cũng nhìn mẹ con nó với sự cảm thông và thương hại. Nhà nghèo , nó sống thế tới khi đủ 18 tuổi thì xin đi làm phụ nề,và mẹ lúc này cũng yếu rồi. Nó bảo mẹ ở nhà nó đi làm là đủ, mẹ không phải đi hát nữa. Mẹ nghe nó, không đi nhiều,nhưng thỉnh thoảng vẫn đi .Cho tới khi mẹ thấy khó chịu ,đi khám mới biết mẹ vì hát nhiều quá,nên bị ung thư phổi. Nghe bác sỹ nói vậy nó chết lặng người vì thương mẹ.Cả cuộc đời mẹ đã vất vả,đến giờ lại bị bệnh .Tuần sau mẹ phải vào nhập viện,vì bệnh đã nặng rồi,nó đưa mẹ về nhà,rồi thu xếp đồ đạc ,chuẩn bị cho mẹ đi nằm viện.Cố gắng thu góp hết chỗ tiền còm cõi ,vét được trong ống bơ đựng tiết kiệm. Chẳng có là bao,nhưng cũng đủ để đưa mẹ vào nhập viện. Còn mấy ngày ở nhà, mẹ dặn nó đủ thứ, hình như mẹ biết bệnh của mẹ đã đến giai đoạn cuối rồi thì phải. Mẹ nói và dặn nó, như những lời trăn trối cuối cùng, nó rùng mình vì nghĩ nếu không có mẹ nó sẽ sao ? dù đã lớn, nhưng mẹ là chỗ dựa duy nhất, mẹ cũng là niềm an ủi duy nhất của đời nó. Mẹ bảo nó sáng mai đi mua ít len cho mẹ , về mẹ đan cho nó cái áo len , vì lâu rồi mẹ không đan . Nó chọn mua màu xanh , mà mẹ vẫn thích nó mặc, mẹ đan chưa xong ,thì phải vào viện, mẹ mang theo vào để những lúc buồn mẹ đan nốt cho xong. Nhưng mẹ đã không kịp đan nốt chiếc áo len cuối cùng cho nó, mẹ đã lặng lẽ rời xa nó ,và ra đi vĩnh viễn, không bao giờ trở lại . Nó vào viện thu dọn đồ của mẹ, chẳng có gì ngoài những cuộn len , và mảnh áo đang đan dở. Nó gói gọn vào , mang về cất vào tủ, giữ lại chút kỷ niệm cuối cùng của mẹ. Mẹ không còn nó mất thăng bằng một thời gian, những lúc nhớ mẹ , nó lại lấy mảnh áo mẹ đan dở ra ôm vào lòng,mà khóc, mà gọi mẹ. Chủ nhật nào nó cũng ra thăm mộ mẹ. Ngồi hàng giờ đồng hồ, như để tâm sự với mẹ ,những niềm vui,cũng như nỗi buồn của nó. Mẹ ơi !Con cô đơn quá,mỗi tối con vẫn ngồi ngóng cửa đợi mẹ về .Nhưng con chỉ thấy màn đêm tối đen,và những tiếng kêu của mấy con mèo hoang thôi mẹ ạ. Thế rồi nước mắt nó đã rơi bao lần,những giọt nước mắt đau thương cũng dần ngấm vào tim nó. Nhà vẫn nghèo nên nó cũng không có bạn gái. Nó cứ lủi thủi với cái bóng của nó và hình ảnh người mẹ Mù luôn theo nó. Những lúc nó buồn nó lại lẩm bẩm gọi mẹ ú ớ như đứa trẻ mới lên 3 vậy. Rồi lại thắp nén hương xuông lên bàn thờ mẹ , mà nhận lỗi mà ân hận. Mẹ ơi ! bây giờ con đã trưởng thành rồi,con chỉ thương mẹ thôi,mẹ hãy tha lỗi cho con mẹ nhé, những gì trước đây con đã không đúng với mẹ. Con mãi mãi vẫn yêu mẹ. Jasmin Mục lục Người Mẹ tật nguyền Người Mẹ tật nguyền JasminChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: Tác giả/ VNthuquan - Thư viện OnlineĐược bạn: Ct.Ly đưa lên vào ngày: 30 tháng 10 năm 2009
Jasmin Người Mẹ tật nguyền Ngay từ lúc chào đời nó đã không biết mặt cha ,nó lớn lên trong tình thương yêu của mẹ, ông,bà và gia đình ngoại. Nghe bà ngoại kể lại,mẹ bị hỏng hai mắt từ năm mẹ lên 3 tuổi,sau một trận thuỷ đậu.Đúng là trời lấy đi đôi mắt của mẹ,nhưng lại bù lại cho mẹ một đôi tay khéo léo,và một giọng hát vô cùng hay.Bà ngoại bảo mẹ đan áo rất giỏi ,giặt quần áo,dọn dẹp nhà cửa như người bình thường. Mẹ phụ cho ông bà ngoại nhiều việc nhà,mẹ tham gia vào chi hội người mù ở xà và huyện,thỉnh thoảng đi biểu diễn văn nghệ quần chúng nữa. Lúc nó lớn, vẫn còn nhìn thấy nhiều giấy khen của mẹ được huyện cấp tặng. Nhưng phong trào cũng chỉ được một thời gian, sau đó mẹ đã bị một người đàn ông lợi dụng, vì mẹ không nhìn thấy nên cũng tin ông ta, nhưng sau khi biết mẹ có thai ông ta đã bỏ đi không bao giờ quay lại gặp mẹ nữa. Hậu quả mẹ phải gánh chịu là nó ra đời, nghe bà ngoại kể lại , rằng cả nhà khuyên mẹ bỏ cái thai đó đi, vì mẹ không nhìn thấy thì sẽ rất khổ nếu sinh con. Nhưng mẹ đã khóc lóc van xin, ông -bà,cho mẹ nuôi giữ cái thai đó,vì đấy là ước nguyện duy nhất của mẹ, mẹ hứa với ông -bà ngoại là mẹ sẽ tự chăm sóc đứa bé, không làm ông -bà phải lo đâu.Nhưng cả nhà ngoại ai cũng thương mẹ,nên lo cho mẹ lắm,cuối cùng ông-bà ngoại thấy mẹ quyết tâm như vậy, nên đành phải đồng ý. Và ngày nó chào đời mẹ vui mừng lắm, mẹ đan rất nhiều áo cho nó,rồi mẹ chăm sóc rất cẩn thận,bà ngoại thấy mẹ từ làm mọi việc đều tốt,nên dần bà cũng yên tâm hơn.Thời gian trôi nhanh qua,nó lớn dần,còn mẹ thì cũng mỗi tuổi một kém hơn.Ngày nó bắt đầu đi học lớp 1,mẹ rất hạnh phúc,tối về nó tập đọc chuyện cho mẹ nghe,vì có bao giờ ai đọc cho nghe như này đâu,nên mẹ vui quá ,mẹ khóc vì sung sướng,vì có nó,đã làm mẹ quên hết tật nguyền của mẹ . Mẹ yêu nó và chăm sóc cho nó rất tỉ mỉ,Tuy mẹ không nhìn thấy nhưng quần áo của nó lúc nào cũng chỉnh tề và sạch sẽ. Rồi cuộc sống đang trôi êm đềm như thế,nó bắt đầu học lớp 4, năm đó cả ông và bà ngoại đều mất, chỉ còn nó và mẹ sống đơn độc trong ngôi nhà của ngoại để lại.Bà ngoại cũng để dành được chút tiền tiết kiệm,để lại cho hai mẹ con nó,nhưng không làm cứ rút tiền đó ra ăn chỉ được mấy tháng số tiền đó hết sạch.Mẹ buồn quá , không biết xoay sở ra sao bây giờ? Nó còn nhỏ nhưng thấy mẹ buồn,cũng biết mẹ lo cho cuộc sống của mình, nhưng không giúp được mẹ gì cả. Ngày hôm sau nó đi học,mẹ chống gậy đi ra các nhà ga,và bến xe cuả thị xã để hát rong, kiếm tiền nuôi nó. Nhưng mẹ vẫn dấu không cho nó biết, vì sợ nó đang học lại bị bạn bè nó cười. Nhưng dấu mãi cũng không được,vì học cùng lớp nó có đứa đã nhìn thấy mẹ hát ở bến xe, hôm sau đến lớp nó bảo với cả lớp. Các cậu ơi !hôm quá tớ nhìn thấy mẹ thằng An ,đi hát ăn xin ở ngoài bến xe đấy.Thế rồi cả lớp nhìn về phía nó, không tin những lời thằng bạn kia nói là thật.Nó vừa tức,vừa ngượng, lấy hết sức lực lao thắng vào người thằng đó,và ra sức đánh nó cho hả cơn tức.Sau đó nó bị nhà trường gọi lên làm bản kiểm điểm . Về đến nhà ,nó đi thẳng tới chỗ mẹ ngồi và quát thật to. - Tại sao bà lại đi hát rong ? để chúng nó cười tôi là mẹ mày đi ăn xin.Tại sao ..tại sao..? Nhưng mẹ vẫn yên lặng ngồi,có lẽ mẹ không nhìn thấy thái độ của nó lúc ấy,và những cử chỉ nó đã làm với mẹ. Chờ nó nói hết,mẹ mới bắt đầu bảo. - An à, nhà mình bây giờ còn biết trông vào đâu nữa con, ông -bà ngoại không còn,mẹ phải lo cho con ,chứ còn ai nữa.Mẹ thì hỏng hai mắt ,không làm được việc gì ra tiền, mẹ chỉ biết đi hát thôi con. Đấy cũng là một nghề con ạ,mẹ cũng rất mệt sau những ngày gân cổ lên mà hò,cho thiên hạ nghe,mẹ có sướng gì đâu con,nhưng để sinh nhai mẹ vẫn phải làm và còn phải để con tồn tại nữa chứ. Nó không nghe mẹ nói hết, bỏ chạy ra ngoài , tìm một nơi khuất ngồi im đó,như để trốn tránh mọi con mắt của những người xung quanh. Và chờ khi trời nhá nhem mới về nhà cho đỡ ngượng. Đến tối không thấy nó về , mẹ sang mấy nhà hàng xóm hỏi, đều không có, rồi mẹ lại lọc cọc khua cái gậy khắp làng để tìm , nhưng vẫn không được ,tới đêm khuya nó mới mò về, vì tránh không muốn gặp ai. Vào nhà không thấy mẹ đâu, nó chạy ra đầu ngõ cũng không thấy, lúc này đã muộn quá rồi, nó sợ hàng xóm thức giấc nên không dám hỏi ai cả. Quay trở về nhà ngồi chờ, nó nghĩ mẹ đi sang nhà ai đó chơi thôi, nên vẫn ngồi im chờ mẹ về.Thấy có tiếng người vào sân nó tưởng mẹ về chạy ra,nhưng không phải, mà là chú dân quân xã ,vào báo cho nó biết,mẹ bị ngã xuống ao,may mà có người nhìn thấy ,đã vớt mẹ lên,nhưng đang nằm ở trạm xá, nó vội chay như bay ra ngoài đó, tới nơi thấy mẹ đang nằm ,quần áo mẹ vẫn còn ướt, nó đến bên mẹ khẽ gọi. - Mẹ-Mẹ ơi ! mẹ nghe thấy tiếng nó, vội ngồi dậy,và hỏi. - Con đi đâu mà để mẹ lo quá ? mẹ tìm con cả tối không thấy. Rồi mẹ cứ thế cầm tay nó khóc,nhìn những giọt nước mắt mẹ rơi nó không nhịn được nữa,oà lên khóc theo mẹ,vừa khóc vừa nói. -Con xin lỗi mẹ ,lỗi tại con,từ nay con sẽ không để mẹ phải lo ,lắng như thế nữa. Mẹ kéo nó lại, ôm nó vào lòng , rồi lại khóc. Nó hỏi mẹ có mệt không ? mẹ bảo mình về nhà đi con ,mẹ không sao đâu.Nó ra chào cô y tá và xin phép đưa mẹ về. Hai mẹ con dìu nhau về trong đêm khuya vắng,không một bóng người,chỉ nghe thấy tiếng chó sủa thôi. Nó cũng hơi sợ,nhưng nghĩ có mẹ bên cạnh nên lại yên lòng. Thế rồi nó bỏ không đi học nữa, vì thương và lo cho mẹ quá, chỉ sợ mẹ đi hát về mà đâm vào xe thì khổ. Nó bảo với mẹ để nó dắt mẹ đi hát, mẹ bảo . Phải cố đi học , nhưng nó xin mẹ đừng bắt nó đi học nữa,vì một mình mẹ đi nó không yên tâm học. Nó kiên quyết không đi, mẹ đành chịu.Từ đó ngày nào nó cũng dắt mẹ đi hát,mới đầu nó còn ngượng,nhưng đi mấy lần thấy mẹ hát hay quá,và ai cũng thương mẹ,nên nó không còn ngượng nữa. Có lẽ mọi người cũng nhìn mẹ con nó với sự cảm thông và thương hại. Nhà nghèo , nó sống thế tới khi đủ 18 tuổi thì xin đi làm phụ nề,và mẹ lúc này cũng yếu rồi. Nó bảo mẹ ở nhà nó đi làm là đủ, mẹ không phải đi hát nữa. Mẹ nghe nó, không đi nhiều,nhưng thỉnh thoảng vẫn đi .Cho tới khi mẹ thấy khó chịu ,đi khám mới biết mẹ vì hát nhiều quá,nên bị ung thư phổi. Nghe bác sỹ nói vậy nó chết lặng người vì thương mẹ.Cả cuộc đời mẹ đã vất vả,đến giờ lại bị bệnh .Tuần sau mẹ phải vào nhập viện,vì bệnh đã nặng rồi,nó đưa mẹ về nhà,rồi thu xếp đồ đạc ,chuẩn bị cho mẹ đi nằm viện.Cố gắng thu góp hết chỗ tiền còm cõi ,vét được trong ống bơ đựng tiết kiệm. Chẳng có là bao,nhưng cũng đủ để đưa mẹ vào nhập viện. Còn mấy ngày ở nhà, mẹ dặn nó đủ thứ, hình như mẹ biết bệnh của mẹ đã đến giai đoạn cuối rồi thì phải. Mẹ nói và dặn nó, như những lời trăn trối cuối cùng, nó rùng mình vì nghĩ nếu không có mẹ nó sẽ sao ? dù đã lớn, nhưng mẹ là chỗ dựa duy nhất, mẹ cũng là niềm an ủi duy nhất của đời nó. Mẹ bảo nó sáng mai đi mua ít len cho mẹ , về mẹ đan cho nó cái áo len , vì lâu rồi mẹ không đan . Nó chọn mua màu xanh , mà mẹ vẫn thích nó mặc, mẹ đan chưa xong ,thì phải vào viện, mẹ mang theo vào để những lúc buồn mẹ đan nốt cho xong. Nhưng mẹ đã không kịp đan nốt chiếc áo len cuối cùng cho nó, mẹ đã lặng lẽ rời xa nó ,và ra đi vĩnh viễn, không bao giờ trở lại . Nó vào viện thu dọn đồ của mẹ, chẳng có gì ngoài những cuộn len , và mảnh áo đang đan dở. Nó gói gọn vào , mang về cất vào tủ, giữ lại chút kỷ niệm cuối cùng của mẹ. Mẹ không còn nó mất thăng bằng một thời gian, những lúc nhớ mẹ , nó lại lấy mảnh áo mẹ đan dở ra ôm vào lòng,mà khóc, mà gọi mẹ. Chủ nhật nào nó cũng ra thăm mộ mẹ. Ngồi hàng giờ đồng hồ, như để tâm sự với mẹ ,những niềm vui,cũng như nỗi buồn của nó. Mẹ ơi !Con cô đơn quá,mỗi tối con vẫn ngồi ngóng cửa đợi mẹ về .Nhưng con chỉ thấy màn đêm tối đen,và những tiếng kêu của mấy con mèo hoang thôi mẹ ạ. Thế rồi nước mắt nó đã rơi bao lần,những giọt nước mắt đau thương cũng dần ngấm vào tim nó. Nhà vẫn nghèo nên nó cũng không có bạn gái. Nó cứ lủi thủi với cái bóng của nó và hình ảnh người mẹ Mù luôn theo nó. Những lúc nó buồn nó lại lẩm bẩm gọi mẹ ú ớ như đứa trẻ mới lên 3 vậy. Rồi lại thắp nén hương xuông lên bàn thờ mẹ , mà nhận lỗi mà ân hận. Mẹ ơi ! bây giờ con đã trưởng thành rồi,con chỉ thương mẹ thôi,mẹ hãy tha lỗi cho con mẹ nhé, những gì trước đây con đã không đúng với mẹ. Con mãi mãi vẫn yêu mẹ. Jasmin Mục lục Người Mẹ tật nguyền Người Mẹ tật nguyền JasminChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: Tác giả/ VNthuquan - Thư viện OnlineĐược bạn: Ct.Ly đưa lên vào ngày: 30 tháng 10 năm 2009