vi
stringlengths 846
10.5k
| en
stringlengths 799
10.5k
|
---|---|
Bình giảng bài ca dao Bài ca chàng thợ mộc
Hướng dẫn
Bình giảng bài ca dao Bài ca chàng thợ mộc
Bài làm
Tiếng hát giao duyên, tỏ tình của trai gái làng quê xưa được thể hiện trong ca dao, dân ca rất hay, rất đậm đà: “Gặp đây Mận mới hỏi Đào,.” “Hôm qua em đi hái dâu..”, “Tát nước đầu đình…”, và “Bài ca chàng thợ mộc”. Với 20 câu lục bát đi liền một mạch, qua ánh mắt và nụ cười, chàng thợ mộc tài hoa và đa tình mượn chuyện chạm trổ của mình để tỏ tình với cô thôn nữ. Bốn câu đầm ấm áp với bao tình quê vơi đầy. Chàng trai đã xưng danh, xưng nghề, xưng quê hương bản quán.
Cũng như nhiều thiếu nữ khác đã bẽn lẽn nói về mình: “Em là cô gái đồng trinh.. ”, “Em là con gái kẻ Mơ..”, chàng trai thật đàng hoàng tự tin nói với cô thôn nữ:
Anh là thợ mộc Thanh Hoa
Làm cầu, làm quán, làm nhà khéo thay!
Lựa cột anh dựng đòn tay,
Bào trơn, đóng bén nó ngay một bề.
Tục ngữ có câu: “Thợ mộc xứ Thanh ở quanh Kinh kì”, hoặc; “Thợ mộc xứ Thanh ở quanh Thuận Quảng”. Thợ mộc dù tài giỏi đến đâu cũng chỉ được gọi là phó cả. Chỉ có thợ mộc làm cung điện vua chúa mới được gọi là thợ cả. Xây cung điện thời Lê – Trịnh, thời Nguyễn sau này, phần lớn là thợ mộc Thanh Hoa. Câu đầu của bài ca dao này có dị bản ghi là “Anh làm thợ mộc Thanh Hoa”, vì quen miệng theo đà ba chữ “làm” trong câu ca thứ hai nên mới nhầm lẫn như vậy! Một chữ “là” biểu lộ biết bao tự hào về quê hương bản quán, về nghề nghiệp truyền thông của mình.
Không phải là một tay “đục đẽo” tầm thường, mà anh chính là thợ mộc Thanh Hoa từng xây dựng cung điện, nổi danh tài ba. Ba câu tiếp theo, anh tự khẳng định mình là một người làm ăn giỏi, một thợ mộc giỏi toàn diện, nổi đanh tài ba, biết “làm cầu, làm quán, làm nhà”, biết “lựa cột dựng đòn tay”, biết “bào trơn đóng bén”. Hai chữ “khéo thay” là tự khen, tự khoe tài là để tỏ tình với cô gái mà anh đang yêu, nên rất dễ thương và được chúng ta đồng tình. Vả lại, thói đời xưa nay vẫn thế: “Gái tham tài, trai tham sắc”. Câu 3, 4 chỉ theo đà mà nói, chứ có tài cán gì ở cái việc “bào trơn, đóng bén…” mà khoe?
Anh thợ mộc Thanh Hoa cũng chạm rồng, nhưng chỉ là “trên thì rồng ấp, dưới thì rồng leo”. Con rồng dưới bàn tay chạm trổ của anh đã được cách điệu đậm đà màu sắc nghệ thuật dán gian, và trong một chừng mực nào đó, nó gợi ra một khát vọng sống trong sinh sôi nảy nở, trong hạnh phúc tròn đầy, tươi vui. Bốn cửa anh chạm bốn dê, Bốn con dê đực chầu về tổ tông. Dân gian quan niệm con quạ và con dê là hai loài vật tình nghĩa nhất. Đã từng có lời ca truyền tụng: Quạ còn móm mỗi lại, Dê còn giữ lề quỳ, Khuyên ai đạo làm con, Đọc sách nên có hiểu. Bức chạm “bốn con dê đực chầu về tổ tông” biểu lộ một cách kín đáo về một tấm lòng ân nghĩa thuỷ chung, thoáng hiện chất hóm hỉnh, tinh nghịch, phong tình. Sau lời giới thiệu chạm bốn con dê đực là một tiếng cười khẽ đưa duyên…
Anh khoe tài, không chỉ biết chạm dê, chạm rồng mà còn biết chạm những con vật gần gũi với đời sống dân dã, gắn bó với mọi người nơi đồng nội, trong vườn tược của mỗi gia đình chốn quê: Bốn cửa anh chạm bốn hoa, Trên là hoa sói, dưới là hoa sen. Bốn cửa anh chạm bốn đèn, Một đèn dệt cửi, một đèn quay tơ. Mèo bắt chuột, gà gáy… con vật nào cũng đáng yêu, có ích, sống động, biểu tượng cho đức tính chăm chỉ, cần mần, hay lam hay làm. Bức chạm lươn thật kì lạ! Con lươn có gì mà đáng chạm? Là người đồng hương của Trạng Quỳnh nên anh mới chạm lươn chăng? “Thân lươn bao quản lấm đầu” ấy đã được chàng thợ mộc Thanh Hoa chạm trổ rất bay bướm và có thần: Bốn cửa anh chạm bốn lươn, Con thì thắt khúc, con trườn bò ra. “Thắt khúc” và “trườn bò ra” là hai nét chạm cực khéo, làm cho con vật đơn sơ, bình dị được nghệ thuật “thổi hồn vào”.
“Lòng đời chắc nặng lắm – Hoa sói hoài không thôi”
(Hoa về – Huy Cận).
Sau bức chạm hoa là bức chạm đèn. Mỗi cây đèn soi tỏ một nét tâm tình dưới tổ ấm gia đình hạnh phúc. “Một đèn dệt cửi, một đèn quay tơ” hướng về cô nàng khéo tay hay làm. Cây đèn thứ ba: “Một đèn đọc sách ngâm thơ” chiếu sáng một tâm hồn thanh cao nho nhã. Cây đèn thứ tư là “cây đèn thần”, cây đèn ước hẹn chờ mong, “đèn thương nhớ ai – mà đèn không tắt”… Lời tỏ tình thật hồn nhiên, chân tình, duyên dáng: Một đèn anh dể đợi chờ nàng đây. Đó là một tiếng nói yêu thương, nồng nàn, dịu ngọt, một tiếng nói có mùi thơm của hương hoa, có ánh sáng của lửa đèn và chứa chan hi vọng về ngày mai hạnh phúc.
Cuộc sống vốn thế, tình yêu vốn thế:
Trên thì rồng ấp // dưới thì rồng leo
Con thì bắt chuột // con leo xà nhà
Đêm thì nó gáy / / ngày ra ăn vườn
Con thì thất khúc / / con trườn bò ra
Trên là hoa sói // dưới là hoa sen
Một đèn dệt cửi / / một đèn quay tơ.
Bài ca chàng thợ mộc còn là một bài hát ngành nghề đậm đà ý vị mang tình quê hương. Con người có bàn tay vàng ấy đã đem tài nghệ, tài hoa làm đẹp cuộc đời, xây đắp hạnh phúc cuộc đời trong tình yêu và hi vọng: Một đèn anh để đợi chờ nàng đây. Có thực tài và dám đàng hoàng đem tài hoa ra để tỏ tình, để giao duyên như chàng thợ mộc Thanh Hoa mới thật đáng yêu.
|
Commentary on the folk song "The Carpenter's Song".
Instruct
Commentary on the folk song "The Carpenter's Song".
Assignment
The singing of love and confession of old village boys and girls is expressed in beautiful, very rich folk songs and folk songs: "Meeting here, Plum asked Dao." “Yesterday I went to pick strawberries..”, “Slapping water on the pavilion…”, and “The carpenter's song”. With 20 consecutive verses, through his eyes and smile, the talented and passionate carpenter used his carving to confess his love to the village girl. Four warm sentences filled with so much love. The boy declared his name, profession, and hometown.
Just like many other young girls who shyly said about themselves: "I'm a virgin..", "I'm a Mo girl..", the young man confidently told the village girl:
He is carpenter Thanh Hoa
How to build bridges, shops, and houses skillfully!
Choosing a column, I set up an arm bar,
Plan it smooth and sharpen it on one side.
There is a proverb that says: "Carpenters from Thanh Hoa live around Kinh Ky", or; "Carpenters from Thanh Hoa around Thuan Quang". No matter how talented a carpenter is, he can only be called a deputy. Only carpenters who build royal palaces are called master craftsmen. Construction of the palace during the Le - Trinh dynasties and later Nguyen dynasties was mostly done by Thanh Hoa carpenters. The first verse of this folk song has a version that says "I am a carpenter in Thanh Hoa", because I am used to following the three words "do" in the second verse, so I got confused like that! The word "is" shows how proud we are of our homeland and our media career.
Not an ordinary "chiseler", he is the Thanh Hoa carpenter who built the palace and is famous for his talent. In the next three sentences, he affirms himself as a good businessman, a well-rounded carpenter, extremely talented, knows how to "build bridges, build shops, build houses", know how to "choose poles to build arm beams", know "smooth planing is sharp". The two words "clever" are self-praise, showing off one's talent is to express one's love to the girl he is in love with, so it is very cute and gets our approval. Besides, the old habits are still the same: "Girls are greedy for wealth, boys are greedy for beauty". Sentences 3 and 4 are just talking about momentum, but what talent is there in "smoothing and sharpening..." to brag about?
Carpenter Thanh Hoa also touched dragons, but only "up above, the dragon broods, below, the dragon climbs". The dragon under his carved hands has been stylized with rich artistic colors, and to some extent, it evokes a desire to live in fertility, in full, fresh happiness. fun. At the four doors he touched four goats, Four male goats worshiped their ancestors. People believe that the crow and the goat are the two most affectionate animals. There was once a folk song: The crow still has its mouth shut, the Goat still kneels, Advises anyone to be a child, Read books to understand. The carving of "four male goats worshiping their ancestors" discreetly reveals a loyal and grateful heart, with a glimpse of humor, mischief, and loveliness. After the introduction of touching the four male goats, there was a gentle laugh that brought love...
He shows off his talent, not only knowing how to touch goats and dragons, but also how to touch animals close to rustic life, connecting with people in the fields, in the garden of every family in the countryside: The four doors he touches four flowers, above is the wolf flower, below is the lotus flower. On the four doors he carved four lamps, One lamp for weaving, one lamp spinning silk. Cats catch mice, roosters crow... all animals are lovely, useful, lively, symbolizing the virtues of hard work, diligence, and kindness. The eel carving is so strange! What makes an eel worth touching? As Trang Quynh's compatriot, is that why he touches eels? That "eel's body covered with a head" was carved by the carpenter Thanh Hoa very elegantly and magically: The four doors he carved were four eels, The one tied it in knots, the one crawled out. "Tie a knot" and "crawl out" are two extremely skillful touches, making the simple, ordinary animal "breathe life into" art.
"Life must be very heavy - Wolf flowers can't stop"
(Flowers return – Huy Can).
After the flower carving is the lamp carving. Each lamp illuminates a sentiment under a happy family home. “One lamp for weaving, one lamp for spinning silk” is directed towards the skillful girl who always makes things. The third lamp: "A lamp for reading books and reciting poetry" illuminates a noble and elegant soul. The fourth lamp is the "magic lamp", the lamp of promise and anticipation, "the lamp that I miss someone - but the lamp does not go out"... The confession of love is so innocent, sincere, and charming: A lamp that I can wait for her This. It is a loving, passionate, sweet voice, a voice that has the scent of flowers, the light of lamplight and is filled with hope for a happy tomorrow.
As life is, love is as it is:
Above, the dragon broods // below, the dragon climbs
I catch mice // I climb the rafters
At night it crows / / during the day it goes out to eat in the garden
The child is lost / / the child crawls out
Above is a wolf flower // below is a lotus flower
A weaving lamp / / a silk spinning lamp.
The carpenter's song is also a professional song rich in patriotism. The man with the golden hands used his talent and talent to beautify life and build a happy life in love and hope: Here is a light waiting for you. Having real talent and daring to show off your talent to express love and make love like the carpenter Thanh Hoa is truly adorable.
|
Bình giảng bài ca dao Con cò mà đi ăn đêm
Hướng dẫn
Bình giảng bài ca dao Con cò mà đi ăn đêm
Kho tàng ca dao dân ca của nước ta có rất nhiều bài hay nói về hình ảnh con cò. Hình ảnh con cò người ta thường để tượng trưng cho thân phận của người nông dân, người phụ nữ và hơn hết con cò còn thể hiện lời hát ru của bà, của mẹ. Trong đó bài “Con cò mà đi ăn đêm” là một bài ca dao hát ru và có triết lí cao cả:
“Con cò mà đi ăn đêm
Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao
Ông ơi ông vớt tôi nao
Tôi có lòng nào ông hãy xáo măng
Có xáo thì xáo nước trong
Đừng xáo nước đục đau lòng cò con
Mở đầu bài thơ là cách nói ngược rất độc đáo:
“Con cò mà đi ăn đêm
Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao”
Mọi người thường chỉ thấy con cò đi kiếm ăn ban ngày chứ không phải đi kiếm ăn ban đêm. Mà chỉ có con vạc mới biết kiếm ăn ban đêm vì thế có câu:
“Ngán cho con vạc đi mò
Bán ruộng cho cò nên phải ăn đêm”
Chính vì cách mở đầu độc đáo này ta mà ta hiểu rõ hơn về cuộc sống thiếu thốn và cơ cực. Ban ngày họ vốn làm lụng vất vả nhưng vì cuộc sống mưu sinh vẫn thiếu thốn nên họ phải kiếm ăn vào cả ban đêm. Ấy vậy mà “Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao” con cò thường đậu ở những cành cây thanh mảnh và cao để bám nên không bao giờ có hình ảnh lộn cổ xuống ao. Đây là một nghịch lí tương phản ở đời càng nhấn mạnh sự gian truân vất vả, nhiều người đã cố gắng vượt qua nhưng không được họ vẫn bị lún sâu trong cái cơ cực của cuộc sống ấy.
Tôi có lòng nào ông hãy sao măng”
Dù con cò bị lộn cổ xuống ao nhưng nó vẫn cầu xin lòng rủ thương của con người. Ý muốn nói về tình thương và sự giúp đỡ trong cuộc sống không chỉ giúp đỡ con người lẫn nhau và đôi khi chúng ta cũng nên giúp những loài động vật. Nhưng có một điều lạ là thường thì những con cò khi thấy người chúng sẽ bay đi chứ không đợi con người tiến lại bắt nó. Còn con cò trong bài ca dao này lại cầu xin người bắt nó. Đây là một nghịch lí trong cuộc sống. Nghịch lí còn được thể hiện rõ hơn trong các câu tiếp theo:
“Có xáo thì xáo nước trong
Chớ xáo nước đục đau lòng cò con”.
Dù cuộc sống có thiếu thốn và lao động mệt nhọc nhưng những người nông dân vẫn vô tư và hài hướng. Làm nên những câu ca dao vừa âm đậm triết lí ở đời vừa mang những yếu tố hóm hỉnh khiến người đọc thích thú. Như nghịch lí ở trong câu ca dao này cũng vậy. Con cò thật đáng yêu khi xin xáo mình trong nước trong. Dù vốn dĩ nó sống mò mẫm trong bùn lầy rất đục và rất bẩn. Trong khi loài cò rất ít chất dinh dưỡng đồng thời lại nhỏ bé nên nước thường rất trong.
Hình ảnh con cò này trong bài đại diện cho người phụ nữ trong xã hội xưa, họ tần tảo sớm hôm vất vả kiếm miếng cơm manh áo để nuôi chồng nuôi con. Họ không phàn nàn hay oán trách mà vẫn một mình lặng lẽ âm thầm việc cuộc sống của gia đình. Trong câu cuối của bài ca dao “ Chớ xáo nước đục đau lòng cò con” thể hiện cái chết cũng muốn trong sạch để tiếng cho đời sau. Người phụ nữ ở đây cũng vậy muốn mình luôn trong sạch và hết mực về cuộc sống tươi đẹp.
|
Commentary on the folk song The stork that goes out to eat at night
Instruct
Commentary on the folk song The stork that goes out to eat at night
Our country's folk song treasure has many good songs about the image of the stork. The image of a stork is often used to symbolize the status of farmers and women, and above all, the stork also represents the lullaby of grandmothers and mothers. The song "The stork that goes out to eat at night" is a folk lullaby and has a noble philosophy:
“The stork comes out to eat at night
I landed on a soft branch and flipped my neck into the pond
Sir, please save me
I have no heart, he just shoots disturbance
If there is disturbance, the water is clear
Don't disturb the turbid water and hurt the little stork's heart
The beginning of the poem is a very unique way of saying the opposite:
“The stork comes out to eat at night
I landed on a soft branch and flipped my neck into the pond."
People often only see storks looking for food during the day, not at night. But only the cauldron knows how to search for food at night, so there is a saying:
“I'm tired of letting the cauldron go searching
Selling fields to storks, so we have to eat at night."
It is because of this unique opening that we better understand the life of deprivation and hardship. They work hard during the day, but because their livelihood is still poor, they have to look for food at night. Yet, "Perching on a soft branch and flipping its neck into the pond" the stork often perches on slender and tall tree branches to hold on, so it never has the image of flipping its neck into the pond. This is a contrasting paradox in life that further emphasizes the hardships and hardships. Many people have tried to overcome them but cannot, they are still stuck deep in the misery of that life.
If I have any feelings, please copy me."
Even though the stork fell upside down into the pond, it still begged for human mercy. The idea of love and help in life is not only to help humans, but sometimes we should also help animals. But the strange thing is that usually when storks see people they will fly away without waiting for people to come and catch them. And the stork in this folk song begs someone to catch it. This is a paradox in life. The paradox is also expressed more clearly in the following sentences:
“If there is disturbance, the water will be clear
Don't disturb the turbid water, it will hurt the little stork's heart."
Even though life is poor and labor is tiring, farmers are still carefree and happy. Create folk songs that both resonate with life's philosophy and contain humorous elements that make readers enjoy. Just like the paradox in this folk song. The stork is so adorable when it asks to swim in the clear water. Although it originally lived in very turbid and dirty mud. While storks have very little nutrients and are small, the water is often very clear.
The image of this stork in the article represents women in ancient society, they worked hard day and night to earn a living to feed their husbands and children. They do not complain or complain but still quietly manage their family's life alone. In the last sentence of the folk song "Don't disturb the turbid water, it will hurt the little stork's heart" shows that death also wants to be pure to make a name for the next life. The women here also want to always be pure and devoted to a beautiful life.
|
Bình giảng bài ca dao khăn thương nhớ ai
Hướng dẫn
Bình giảng bài ca dao khăn thương nhớ ai
Nghĩa chàng nhớ mãi chàng ơi,
Nhớ chàng như nước hồ vơi lại đầy.
Tình yêu, nỗi nhớ là những đề tài rất phong phú trong kho tàng ca dao dân của dân tộc. Trong đó tiêu biểu là bài ca dao “khăn thương nhớ ai”. Bài ca dao này nói về nỗi thương nhớ không nguôi đến người mình yêu. Cô gái đã dùng chiếc khăn, đèn và hỏi cả ánh mắt của mình để diễn tả nỗi nhớ cứ buồn chồn không nguôi trong tâm trí mình.
Mở đầu bài ca dao người con gái hỏi chiếc khăn để diễn tả nỗi nhớ của mình:
Khăn thương nhớ ai
Khăn rơi xuống đất
Khăn thương nhớ ai
Khăn vắt lên vai
Khăn thương nhớ ai
Khăn chùi nước mắt
Theo quan niệm của người xưa chiếc khăn là vật giao duyên, kỉ vật của người yêu. Ở trong đoạn này câu thơ “Khăn thương nhớ ai” láy đi láy lại ba lần càng nhấn mạnh nỗi nhớ thiết tha, da diết. Chiếc khăn tuy là vật vô tri vô giác không biết tự rơi xuống đất, tự vắt nên vai, tự chùi nước mắt. Nhưng qua con mắt tinh tế và nỗi nhớ khôn xiết và tác giả đã nhân hóa chiếc khăn tự làm được mọi thứ. Câu thơ thật hay và ý nghĩa khiến người đọc rất dễ hiểu được ý nghĩa sâu xa của bài thơ. Đồng thời qua đoạn thơ này ta càng hiểu được tình yêu nó nồng cháy đến như thế nào. Nói về chiếc khăn trong kho tàng ca dao nước ta cũng có rất nhiều câu như:
Gửi đôi chàng mạng cho người đàng xa”
Những câu thơ trên diễn tả nỗi nhớ mênh mông khắp không gian thì bốn câu thơ sau là nỗi nhớ trải dài suốt thời gian:
“Đèn thương nhớ ai
Mà đèn không tắt
Mắt thương nhớ ai
Mắt ngủ không yên”.
Đến đây nỗi nhớ vẫn dâng trào nhưng tác giả lại chuyển nỗi nhớ từ nhớ khăn sang đèn để thể thời gian nỗi nhớ xuyên suốt ngày đêm. Nhớ đến mức đèn vẫn sáng không muốn tắt đi. Và mắt cũng vậy nhớ thương đến mức không ngủ được. Như vậy ta thấy rằng nỗi nhớ người thương thật là mãnh liệt. Hình ảnh người thương luôn ở trong tâm trí dù là đang ở hoàn cảnh, thời gian nào dù là ngày hay đêm. Có rất nhiều câu nói về sự thao thức nhớ người yêu như:
“Đêm nằm lưng chẳng tới giường.
Trông cho mau sáng ra đường gặp anh”
Như vậy ta thấy được điệp khúc “thương nhớ ai” được nhắc đi nhắc lại nhiều lần như thể nhấn mạnh nỗi nhớ người thương da diết, nhớ đến bồi hồi rồi lại không ngủ được. Đặc biệt từ “ai” thể hiện nỗi nhớ mênh mông sâu rộng không có điểm dừng đồng thời cũng không nói rõ đối tượng ở đây là ai mà chỉ xoáy sâu vào nỗi nhớ mênh mông ấy. Tuy câu ca dao không nói cụ thể đối tượng nhưng khi đọc lên ta đã biết ngay đây là nỗi nhớ người thương bởi chỉ có trong tình yêu con người ta mới bồi hồi da diết như vậy. Nhớ nhung đến không không ăn không ngủ thật là bao la. Nỗi nhớ người yêu ấy tưởng chừng không có điểm dừng nhưng rồi cô gái lại kết thúc bằng hai câu:
Lo vì một nỗi không yên một bề…
Nhớ thương nhiều quá mà không có sự đáp lại cô gái lại trở nên lo phiền cho chính bản thân mình. Cô sợ rằng duyên phận sẽ không đến được với nhau. Bởi yêu thương càng nhiều thì cô càng sợ cho hạnh phúc bấp bênh. Từ “lo” được lập lại hai lần ở hai câu thơ cuối lại càng nhấn mạnh nỗi lo sợ hạnh phúc này.
Như vậy qua bài ca dao Khăn thương nhớ ai ta càng thấy rõ được tình yêu nồng cháy và mãnh liệt của tuổi trẻ. Khi yêu rồi hình bóng người thương luôn hiện diện trong tâm trí mãi không thôi dù là đang làm gì đang ở đâu hay cả trong ban ngày và ban đêm. Yêu nhau là vậy đấy nhưng ai rồi cũng phải lo sợ giống cô gái trong bài ca dao yêu nhau nhưng lo sợ không đến được với nhau.
|
Commenting on the folk song of mourning and missing someone
Instruct
Commenting on the folk song of mourning and missing someone
I will always remember you, my dear,
Missing you is like lake water filling up again.
Love and nostalgia are very rich topics in the nation's treasure trove of folk songs. A typical example is the folk song "I miss someone when I miss someone". This folk song talks about the endless longing for the person you love. The girl used a scarf, a lamp, and even her eyes to express the sadness and sadness in her mind.
At the beginning of the folk song, the girl asks for a scarf to express her nostalgia:
I miss someone
The towel fell to the ground
I miss someone
Towel draped over shoulder
I miss someone
Towel to wipe away tears
According to ancient people's beliefs, scarves are a token of love and a souvenir of a lover. In this paragraph, the verse "Khan misses someone" is repeated three times, emphasizing the longing and intense longing. Although the scarf is an inanimate object, it does not know how to fall to the ground, wring itself on the shoulder, and wipe tears on its own. But through his delicate eyes and immense nostalgia, the author has humanized the scarf that can do everything on its own. The poem is so beautiful and meaningful that it is easy for readers to understand the profound meaning of the poem. At the same time, through this poem we understand more and more how passionate love is. Talking about the scarf in our country's folk song repertoire, there are many sentences such as:
Sending the couple's lives to people far away"
The above verses describe the immense nostalgia throughout space, the following four verses describe the nostalgia that stretches across time:
“The light misses someone
But the light doesn't turn off
Eyes miss someone
My eyes don't sleep well."
At this point, the nostalgia is still rising, but the author changes the nostalgia from missing the scarf to the lamp to express the time of nostalgia throughout the day and night. I remember that the light was still on and I didn't want to turn it off. And my eyes are so nostalgic that I can't sleep. So we see that the longing for a loved one is really strong. The image of your loved one is always in your mind no matter the situation or time, day or night. There are many sayings about longing for your lover such as:
“At night, I lie on my back and can't even reach the bed.
Look forward to seeing you soon on the street."
Thus we see the refrain "missing someone" repeated many times as if emphasizing the feeling of missing the loved one so deeply, thinking about it so much and then not being able to sleep. In particular, the word "who" shows an immense and deep nostalgia that has no end and does not clearly state who the subject is here, but only delves into that immense nostalgia. Although the folk song does not specifically state the subject, when we read it, we immediately know that this is the longing for a loved one because only in love can people feel so deeply. I miss you so much that I don't eat or sleep. It's so immense. The feeling of missing her lover seemed to have no end, but then the girl ended with two sentences:
Worrying about an uneasy feeling...
Missing her so much and not receiving anything in return, the girl became worried about herself. She is afraid that fate will not come together. Because the more she loves, the more afraid she is of her uncertain happiness. The word "worry" is repeated twice in the last two verses, further emphasizing this fear of happiness.
Thus, through the folk song Towel I miss someone, we can see more clearly the passionate and intense love of youth. When you are in love, the image of your loved one is always present in your mind forever, no matter what you are doing or where you are or during the day and night. That's what loving each other is like, but everyone has to be afraid like the girl in the folk song who loves each other but is afraid of not being able to be together.
|
Bình giảng bài ca dao Núi truồi ai đắp mà cao trong chương trình văn học lớp 10.
Hướng dẫn
Bình giảng bài ca dao Núi truồi ai đắp mà cao trong chương trình văn học lớp 10.
Nếu có dịp đến với Huế chắc hẳn các bạn sẽ không thể quên được cảnh đẹp nơi đây với nét dịu dàng thơ mộng.Khi nghe đến Huế qua những vần thơ thì chúng ta lại mong một lần được đặt chân đến đó và thật như vậy bởi chúng ta không chỉ là biết đến với Huế với dòng sông Hương quanh co uốn khúc mà còn được nghe những câu hò mượt mà,khúc nhã nhạc Huế….mà chúng ta còn được biết đến với núi Truồi như một phong cảnh hữu tình, chính vì thế mà đã có hẳn một bài ca dao viết về chốn này.
“Núi Truồi ai đắp mà cao,
Sông Hương ai bới, ai đào mà sâu?
Nong tằm, ao cá, nương dâu,
Đò xưa bến cũ nhớ câu hẹn hò”.
Đọc từ câu đầu tiên chúng ta đã thấy vẽ nên một bức tranh của sông núi xứ mộng mơ. Cái tên Huế nó đã mộng mơ chắc có lẽ được bắt nguồn từ những cảnh non nước hữu tình như chính núi Truồi vậy. Tác giả viết nên bài thơ này có lẽ là một nghệ sĩ vẽ tranh thì mới viết nên được những ngôn từ đẹp như vậy. Thế mới biết được sự tài tình của nguồn văn chương trong cuộc sống của chúng ta:
Sông Hương ai bới, ai đào mà sâu?”
Từ “ai” được nhắc đi nhắc lại ba lần giống như một câu hỏi để khoe lên vẻ đẹp đầy thân thiên của dòng sông hương và núi Truồi.Khi đến với Huế thì chúng ta không thể không đến địa danh nổi tiếng như thế này được. Dòng sông đẹp hiền hòa giống như một cô gái nằm mơ màng giữa một cánh đồng đầy cỏ dại,với dòng nước thay đổi theo theo giờ giống như nhịp sống của con người nơi đây. Dòng sông chứng kiến biết bao thế hệ sinh ra của chúng ta,với truyền thống văn hóa tốt đẹp,và những góc quanh co khúc khuỷu của dòng chảy đó lại xuất hiện một ngọn núi và nếu như nhã nhạc cũng đình Huế không xuất hiện trên dòng sông hương thì không còn gì gọi là nhã nhạc cũng đình.
Núi Truồi gắn với bao huyền thoại,hướng về phía tây kinh thành, từ cửa biển của Thuận An nhìn lên thì núi truồi có một màu xanh thẫm trong ánh dương. Núi trầm mặc và uy nghiêm như đang nghiêng mình để lắng nghe tiếng chuông ngân vang của chùa Thiên Mụ, một ngôi chùa nổi tiếng ở Huế. Rồi tiếp đến câu thơ “ai mà đắp cao, ai đào bới “ như một nghi vấn được đặt ra thể hiện sự hiển diện của tự nhiên hay chính là quá trình lao động của ông cha ta, không biết có từ bao giờ và cũng không ai lí giải được nhưng chỉ biết từ xa xưa, từ khi sinh ra đã thấy núi đứng sừng sững ngày qua ngày.
“Nong tằm, ao cá, nương dâu,
Đò xưa bến cũ nhớ câu hẹn hò”
Vẻ đẹp của Huế còn được nhắc đến với những hình ảnh như ao cá,nong tằm và nương dâu. Từ đó gợi lên một vùng đất trù phú màu mỡ quanh năm,mảnh đất với biết bao mồ hôi và xương máu để làm nên và trong những hình ảnh đẹp như vậy lại hiện lên một tình yêu mộc mạc và chân thành càng khẳng định được vẻ đẹp mơ mộng đó. Đò và bến là những hình ảnh quen thuộc trong tình yêu, và luôn hiển hiện trong thơ văn, trong cuộc sống hằng ngày. Và một lần nữa nó lại được xuất hiện ở đây mang một tình yêu đằm thắm, mộng mơ như chính cái địa danh đó vậy.
Qua đây, những câu ca dao cho chúng ta thấy được một bức tranh tuyệt đẹp với những ngôn từ xứ huế, Huế mộng Huế mơ trong chính tình yêu của đôi trai gái,mộng mơ với cả dòng sông Hương, với nương xanh ngắt cùng ao cá. Bức tranh ấy không chỉ đẹp hùng vĩ của hình ảnh núi sông mà còn có cả sự mộc mạc chân thành của cô gái Huế nhẹ nhàng thướt tha như đò xưa bến cũ đợi chờ nhau.
|
Commentary on the folk song "Mountains rise and fall high" in the 10th grade literature program.
Instruct
Commentary on the folk song "Mountains rise and fall high" in the 10th grade literature program.
If you have the opportunity to come to Hue, you will certainly not forget the beautiful scenery here with its poetic gentleness. When we hear about Hue through poems, we hope to set foot there one day and it is true. Because we not only know Hue with its winding Perfume River but also hear the smooth songs and Hue elegant music... but we also know Truoi Mountain as a charming landscape. , that's why there was a whole folk song written about this place.
“Who built Truoi Mountain to make it high?
Who digs the Perfume River, who digs deep?
Silkworm farms, fish ponds, mulberry fields,
Old boats, old wharves, remember the dating phrase."
Reading from the first sentence, we can see that it paints a picture of the mountains and rivers of a dreamland. The dreamy name Hue probably originates from charming landscapes like Mount Truoi itself. The author who wrote this poem was probably an artist to write such beautiful words. Only then can we understand the ingenuity of literary sources in our lives:
Who digs the Perfume River, who digs deep?
The word "who" is repeated three times like a question to show off the natural beauty of the Perfume River and Truoi Mountain. When coming to Hue, we cannot help but visit famous places like this. Okay. The beautiful and gentle river is like a girl lying dreamily in the middle of a field full of weeds, with the water changing by the hour like the pace of life of the people here. The river has witnessed the birth of many generations of us, with fine cultural traditions, and in the winding corners of that flow, a mountain appears, and if Nhac Nhac and Hue communal house would not appear. On the Perfume River, there is nothing called elegant music.
Mount Truoi is associated with many legends, facing the west of the capital. Looking up from the seaport of Thuan An, Mount Truoi has a dark blue color in the sunlight. The mountain is quiet and majestic as if leaning to listen to the ringing bell of Thien Mu Pagoda, a famous pagoda in Hue. Then comes the verse "Who builds, who digs?" as a question that shows the presence of nature or the labor process of our ancestors, we don't know when and how long it existed. No one can explain it, but we only know that since ancient times, ever since we were born, we have seen mountains standing tall day after day.
“Silkworm farms, fish ponds, mulberry fields,
Old boats, old docks, remember the date"
The beauty of Hue is also mentioned with images such as fish ponds, silkworm farms and mulberry fields. From there, it evokes a land that is rich and fertile all year round, a land with so much sweat and blood to create, and in such beautiful images, a rustic and sincere love appears, which is further affirmed. That dreamy beauty. Boats and wharves are familiar images in love, and always appear in poetry and in everyday life. And once again it appears here with a love as loving and dreamy as the place itself.
Through this, the folk songs show us a beautiful picture with the words of Hue, Hue dreams Hue dreams in the love of a couple, dreams with the entire Perfume River, with green fields and fish pond. That picture not only has the majestic beauty of the mountains and rivers, but also the sincere simplicity of a gentle and graceful Hue girl like an old boat waiting for each other.
|
Bình giảng bài ca dao Núi Truổi ai đắp mà cao
Hướng dẫn
Bình giảng bài ca dao Núi Truổi ai đắp mà cao
Đường vô xứ Huế quanh quanh
Non xanh nước biếc như tranh hoạ đồ
Khi chúng ta biết để Huế không chỉ qua dòng sông Hương quanh co uốn lượn như cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại, những câu hò Huế mượt mà đằm thắm, khúc nhã nhạc cung đình,…mà chúng ta còn biết đến núi Truồi. Vì thế mà trong ca dao xưa có bài:
Núi Truồi ai đắp mà cao,
Sông Hương ai bới, ai đào mà sâu?
Nong tằm, ao cá, nương dâu,
Đò xưa bến cũ nhớ câu hẹn
Mở đầu bài ca dao tác giả vẽ lên một bức tranh của sông núi rất thơ mộng và hữu tình. Và tên Huế thơ mộng phải chăng cũng bắt nguồn từ vẻ đẹp non nước hữu tình như chính sông Hương và núi Truồi.
Núi Truồi ai đắp mà cao,
Sông Hương ai bới, ai đào mà sâu
Hai câu ca dao đầu đã đặt ra câu hỏi mà không cần có sự trả lời mang âm điệu nhẹ nhàng mà có ý nghĩa lớn đối với mỗi người đọc. Đó là sự thể hiện tình yêu sâu sắc đối với quê hương. Từ “ai” láy lại ba lần như một điệp khúc nhấn mạnh hai địa danh này. Sông Hương đẹp đẽ và nên thơ uốn lượn mình như một cô gái di-gan với sắc nước rất đặc biệt thay đổi theo ngày. Sông Hương như một minh chứng lịch sự bởi nó đã chứng kiến biết bao trận đánh oanh liệt chống giặc ngoại xâm của nhân dân ta.
Tác giả thật tinh tế dùng hai câu đầu để tả cảnh và hai câu sau để tả con người và cuộc sống nơi đây:
Nong tằm, ao cá, nương dâu,
Đò xưa bến cũ nhớ câu hẹn hò
Từ hai câu này ta đã thấy được vùng đất nơi đây là một vùng đất màu mỡ quanh năm bằng những hình ảnh “nong tằm”, “ao cá”, “nương dâu”. Cùng sự chăm chỉ cần mẫn của con người. Họ ta phải đổ biết bao mồ hôi công sức mới làm nên được sự mầu mỡ như vậy. Ở nơi đây có nghề truyền thống là nuôi tằm. Nó hiện lên sự chăm chỉ cần mẫn và dịu dàng của người con gái xứ Huế. Đồng thời cùng với việc nuôi tằm con người nơi đây còn nuôi cá, trồng dâu. Đò và bến là những hình ảnh rất quen thuộc và gần gũi thể hiện tình yêu trai gái đậm đà thủy chung.
Bài ca dao như một lời giới thiệu về vẻ đẹp nên thơ trữ tình của sông Hương, núi Truổi và cuộc sống của con người nơi đây. Đồng thời thể hiện tình yêu quê hương đất nước nồng cháy. Và những hình ảnh này đã được đi vào ca dao thể hiện lòng chung thủy của con người sẽ không bao giờ quên được những gì đẹp đẽ của Huế và con người Huế cần cù chăm chỉ.
|
Commentary on the folk song Truoi Mountain, no one builds it high
Instruct
Commentary on the folk song Truoi Mountain, no one builds it high
The road to Hue is all around
The mountains are green and the water is as clear as a painting
When we know that Hue not only passes through the winding Perfume River like a wild and wild gypsy girl, the smooth and loving Hue songs, elegant court music,... but we also know Truoi Mountain. That's why in old folk songs there is a song:
Who built Mount Truoi so high?
Who digs the Perfume River, who digs deep?
Silkworm farms, fish ponds, mulberry fields,
Old boats, old docks, remember the appointment
At the beginning of the folk song, the author paints a very poetic and charming picture of mountains and rivers. And the poetic name Hue also originates from the charming beauty of the mountains and rivers like the Perfume River and Truoi Mountain.
Who built Mount Truoi so high?
Whoever digs the Perfume River, whoever digs it is deep
The first two verses of the folk song pose questions that do not require an answer in a gentle tone but have great meaning to each reader. It is an expression of deep love for the homeland. The word "who" is repeated three times like a chorus emphasizing these two places. The beautiful and poetic Perfume River curves like a gypsy girl with a very special water color that changes by day. The Perfume River is a historical testament because it has witnessed many glorious battles against foreign invaders by our people.
The author very delicately uses the first two sentences to describe the scene and the next two sentences to describe the people and life here:
Silkworm farms, fish ponds, mulberry fields,
Old boats, old wharves, remember the date
From these two sentences, we can see that this land is a fertile land all year round with the images of "silkworm farming", "fish pond", "mulberry farming". With the diligence of people. They must have poured so much sweat and effort to achieve such fertility. Here, there is a traditional profession of raising silkworms. It shows the diligence and gentleness of a girl from Hue. At the same time, along with raising silkworms, people here also raise fish and grow mulberries. Boats and wharves are very familiar and close images that express the strong and faithful love between a boy and a girl.
The folk song is like an introduction to the poetic and lyrical beauty of the Perfume River, Truoi Mountain and the lives of the people here. At the same time, he shows his passionate love for his homeland. And these images have been included in folk songs to show the loyalty of people who will never forget the beauty of Hue and the hard-working Hue people.
|
Bình giảng bài ca dao Rủ nhau xem cảnh kiếm hồ
Hướng dẫn
Bình giảng bài ca dao Rủ nhau xem cảnh kiếm hồ
Hà Nội là trái tim của Việt Nam, là nơi nghìn năm văn vật và cũng là nơi chiến đấu oanh liệt để bảo vệ tổ quốc. Ở đây có rất nhiều vị anh hùng có công với đất nước. Để tưởng nhớ họ nên có bài ca dao: “Rủ nhau xem cảnh kiếm hồ” nói về sự nhớ ơn tới những con người có công lao xây dựng nên lên quê hương.
Rủ nhau xem cảnh Kiếm Hồ,
Xem cầu Thê Húc, xem chùa Ngọc Sơn.
Đài Nghiên, Tháp Bút chưa mòn,
Hỏi ai gây dựng nên non nước này?
Mở đầu bài ca dao là lời ru nói về cảnh đẹp nên thơ của quê hương đất nước. Hình ảnh được nhắc đến trong bài ca dao là hồ, cầu Thuê Húc, chùa Ngọc Sơn, Nghiên Tháp…những hình ảnh này được nhắc đến ở Hồ Gươm Hà Nội. Những hình ảnh đó mãi in sâu vào tâm trí con người Việt Nam. Mỗi một người đến với thủ đô Hà Nội thì sẽ mãi không quên được nơi này. Bởi nó có một vẻ đẹp nguy nga mà vừa cổ kính lại mang đậm chất dân tộc sâu sắc.
Rủ nhau xem cảnh Kiếm Hồ,
Xem cầu Thê Húc, xem chùa Ngọc Sơn.
Đài Nghiên, Tháp Bút chưa mòn,
Kiếm Hồ là Hồ Hoàn Kiếm ( Hồ Gươm), nơi mà Lê Lợi trả kiếm báu “Thuận Thiên” cho Rùa Vàng. Một cảnh đẹp “Rồng bay lên Cầu Thê Húc” là cầu đón ánh sáng, biểu tượng rất đẹp nói lên niềm tự hào về mọi tinh hoa của đất trời, Tổ quốc, của dân tộc hội tụ về Thăng Long, Hà Nội. Chùa Ngọc Sơn hay còn được gọi là đền Ngọc Sơn là một nét đẹp cổ kính của Hồ Gươm.
Như vậy ta thấy được những địa danh này có phong cảnh và không khí rất trong lành và tươi đẹp. Khách du lịch ở khắp nơi cũng đến để ngắm cảnh và hưởng ngoại không khí nơi đây. Hiện nơi đây trở thành điểm du lịch lớn ở Hà Nội. Những hình ảnh đó trở nên rất gần gũi và quen thuộc bởi đó là một vẻ đẹp hào hùng và ghi dấu ấn lịch sử sâu sắc. Trong cảnh sắc thiên nhiên tươi đẹp nên thơ ấy chúng ta luôn ghi nhớ và tưởng nhớ về những vị anh hùng đã xây dựng nên đất nước, một đất nước hào hùng với những chiến thắng vẻ vang và những dấu ấn đậm nét nhất.
Mở đầu bài ca dao ý nhắc nhở chúng ta về hình ảnh quê hương đất nước. Dù sau này chúng ta có đi đâu và ở đâu thì cũng không được quên cảnh sắc của đất nước nơi mà chúng ta sinh ra và lớn lên. Hãy in sâu những hình ảnh đó của quê hương vào sâu trong tận trái tim để cảm nhận và lưu giữ. Khi nhớ đến những cảnh đẹp của quê hương đất nước chúng ta liền nhớ ngay đên công lao to lớn của các vị anh hùng cho ta cuộc sống tốt đẹp như ngày hôm nay.
Hỏi ai gây dựng nên non nước này?
Hai từ “hỏi ai” đã nhấn mạnh chúng ta nhớ đến những người có công lao to lớn gây dựng nên non sông đất nước. “Ai” ở đây có thể hiểu là ông cha, tổ tiên của ta đã chiến đấu với giặc ngoại xâm để giành lại tổ quốc. Vì thế chúng ta luôn phải nhớ và tự hào về truyền thống yêu nước của dân tộc tộc.
|
Commentary on the folk song Invite each other to watch the lake scene
Instruct
Commentary on the folk song Invite each other to watch the lake scene
Hanoi is the heart of Vietnam, a place of thousands of years of literature and also a place of fierce battles to protect the homeland. There are many heroes here who have contributed to the country. To commemorate them, there should be a folk song: "Gathering together to watch the lake scene" talks about gratitude to the people who contributed to building the homeland.
Get together to watch the Sword Lake scene,
See The Huc bridge, see Ngoc Son pagoda.
Dai Nghien and Pen Tower have not yet worn out,
Ask who built this country?
The folk song begins with a lullaby about the poetic beauty of the homeland. The images mentioned in the folk song are the lake, Ren Huc bridge, Ngoc Son pagoda, Nghien Thap... these images are mentioned in Hanoi's Sword Lake. Those images are forever imprinted in the minds of Vietnamese people. Every person who comes to the capital Hanoi will never forget this place. Because it has a magnificent beauty that is both ancient and deeply national.
Get together to watch the Sword Lake scene,
See The Huc bridge, see Ngoc Son pagoda.
Dai Nghien and Pen Tower have not yet worn out,
Sword Lake is Hoan Kiem Lake (Sword Lake), where Le Loi returned the precious sword "Thuan Thien" to the Golden Turtle. A beautiful scene "Dragon flying to The Huc Bridge" is a bridge welcoming the light, a beautiful symbol expressing the pride of all the quintessence of heaven and earth, the Fatherland, and the nation converging on Thang Long, Hanoi. Ngoc Son Pagoda, also known as Ngoc Son Temple, is an ancient beauty of Hoan Kiem Lake.
So we can see that these places have very fresh and beautiful landscapes and air. Tourists from everywhere also come to see the scenery and enjoy the atmosphere here. Currently this place has become a major tourist destination in Hanoi. Those images become very close and familiar because they are a heroic beauty and leave a deep historical mark. In that beautiful, poetic natural landscape, we always remember and commemorate the heroes who built the country, a heroic country with glorious victories and the boldest marks.
The beginning of the folk song reminds us of the image of our homeland. No matter where or where we go in the future, we must never forget the scenery of the country where we were born and raised. Imprint those images of your homeland deep into your heart to feel and keep. When we remember the beautiful scenes of our homeland, we immediately remember the great contributions of the heroes who gave us the good life we have today.
Ask who built this country?
The two words "ask someone" emphasize that we remember those who have made great contributions to building the country. “Who” here can be understood as our fathers and ancestors who fought against foreign invaders to regain our homeland. Therefore, we must always remember and be proud of our nation's patriotic traditions.
|
Bình giảng bài ca dao sau Núi Truổi ai đắp mà cao
Hướng dẫn
Trong bài thơ “Bài ca quê hương”, thi sĩ Tố Hữu thiết tha ân cần:
“Ai đi qua đó miền Trung,
Xin mời ghé lại, vui cùng Huế tôi”
(Tháng 5-1975)
Huế là cố đô vương triều Nguyễn. Huế đẹp và thơ. Núi sông diễm lệ. Câu hò Giã Gạo, giọng hò Mái Đẩy, Mái Nhì, khúc Nam Ai, Nam Bình dịu ngọt từng làm say lòng người gần xa gần 400 năm nay. Ai đã một lần ghé thăm Huế? Ai đã một lần được nghe cô gái Huế hát bài ca:
“Núi Truồi ai đắp mà cao,
Sông Hương ai bới, ai đào mà sâu?
Nong tằm, ao cá, nương dâu,
Đò xưa bến cũ nhớ câu hẹn hò”.
Núi Truồi và sông Hương là vẻ đẹp cảnh sắc thiên nhiên xứ Huế. Núi Truồi hùng vĩ và thiêng liêng đã để lại trong lòng người bao huyền tích, huyền thoại. Núi ở về phía tây Kinh thành. Từ cửa biển Thuận An nhìn lên, núi Truồi xanh thẫm trong ánh tà dương. Núi trầm mặc uy nghiêm tưởng như đang lắng nghe tiếng chuông diệu huyền của chùa Thiên Mụ. Sông Hương (có văn bản khác ghi là sông Dinh, tên cũ của Hương Giang) là bài thơ tình của cố đô mộng mơ. Dòng sông nhẹ trôi uốn lượn như dải thắt lưng xanh của nàng tiên bỏ quên từ ngàn năm vắt ngang Kinh thành xưa. Có một nhà thơ đã viết:
“Nếu không có điệu Nam Ai Sông Hương thức suốt đêm dài làm chi…”
(Hà Thúc Quả)
Hai câu hỏi tu từ nối tiếp xuất hiện. Hỏi núi “ai đắp mà cao?”. Hỏi sông “ai bới, ai đào mà sâu?”. Câu hỏi của du khách hay của cô gái Huế? Hỏi để bày tỏ sự ngạc nhiên, trầm trồ, niềm tự hào xúc động khi ngắm nhìn cảnh sắc thiên nhiên tráng lệ:
Sông Hương ai bới, ai đào mà sâu?”
Ba chữ “ai” gợi lên bao nỗi niềm man mác bâng khuâng như dẫn hồn người ngược thời gian năm tháng khi ngắm nhìn sông núi thân thương. Coi. sông Hương với Hàn Mặc Tử đã trở thành con sông trăng có bến mơ bến đợi:
“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó,
Có chở trăng về kịp tối nay?”
(“Đây thôn Vĩ Dạ”)
Với Tố Hữu, quên sao được màu xanh của dòng sông quê mẹ? Nó đã gợi thương gợi nhớ trong lòng đứa con li hương suốt đêm ngày trong những năm dài máu lửa, đất nước bị cắt chia:
“Hương Giang ơi, dòng sông êm,
Qua tim ta, vẫn ngày đêm tự tình”
(“Bài ca quê hương”)
Hai câu đầu bài ca đã gieo vào lòng ta bao bồi hồi xao xuyến, bao liên tưởng đẹp về sông núi xứ Huế yêu thương. Ai đó đã có lần hát: “Đã đôi lần đến với Huế mộng mơ – Tôi ôm ấp một tình yêu dịu ngọt…”. Phải chăng “tình yêu dịu ngọt” ấy trước hết hướng về núi Truồi, sông Hương và nhiều thắng cảnh khác:
“Đông Ba, Gia Hội hai cầu,
Ngó lên Diệu Đế bốn lầu hai chuông”
Và tiếng hò Mái Nhì, Mái Đẩy trên sông Hương những đêm trăng như đưa hồn du khách vào giấc mộng Thiên Thai:
“Đò từ Đông Ba, đò qua Đập Đá,
Lờ đờ bóng ngả trăng thanh,
Tiếng hò xa vọng, nặng tình nước non”
Trở lại hai câu cuối bài ca dao, ta thoáng gặp hình bóng cô gái Huế:
“Nong tằm, ao cá, nương dâu,
Đò xưa bến cũ nhớ câu hẹn hò”
“Nong tằm, ao cá, nương dâu”là những nét đẹp của một miền quê có đất đai màu mỡ, có ngành nghề thủ công lâu đời trồng dâu, nuôi tằm dệt lụa. “Ngàn dâu xanh ngắt một màu” trải dài, trải rộng vườn tược, bờ bãi, xóm thôn. “Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”(“Đây thôn Vĩ Dạ”). Sau màu xanh của lúa dâu là sân nhà, ngõ xóm vàng óng tằm tơ trong nắng mới. Thấp thoáng bên những “nong tằm, ao cá, nương dâu” là hình bóng cô gái Huế dịu hiền, khéo tay, hay lam hay làm và rất đa tình từng làm si mê nhiều sĩ tử một thời:
“Học trò trong Quáng ra thi,
Thấy cô gái Huế mà đi không đành”
“Đò xưa bến cũ nhớ câu hẹn hò”là câu hay nhất, đậm đà nhất, trong bài ca dao này. “Đò xưa bến cũ” là sắc màu thời gian, là hình bóng què hương yêu dấu. Là hoài niệm chất chứa trong lòng mang nặng tình người đi xa, kẻ ở lại.
“Nhớ câu hẹn hò”là nhớ lời thể nguyền giữ trọn một tình yêu son sắt thủy chung. Một chữ “nhớ” thiết tha đinh ninh lời thề. Dù xa cách, em vẫn nhớ mong đợi chờ:
“Thuyền ơi có nhớ bến chăng?
Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền”
Câu tâm giao, câu hẹn hò thuở ấy của đôi lứa, của kẻ ở lại, người đi xa có bao giờ phai nhạt trong lòng:
Cây đa, bến cũ, con dò vẫn dưa”…
Bi kịch tình yêu không phải là chuyện hiếm thấy xưa nay? Với cô gái Huế vẫn đinh ninh “Đò xưa bến cũ nhớ câu hẹn hò”. Cây đa, giếng nước, sân đình, cũng như “đò xưa bến cũ” không chi là “hồn xưa đất nước” mà còn là những chứng nhân cho bao mối tình đẹp thủy chung xưa nay.
Bài ca dao từ âm điệu đến ngôn từ, hình tượng đều đẹp mượt mà như một bức tranh lụa tuyệt tác. Gam màu sáng thanh tao. Có màu xanh xanh của núi. Màu xanh trong của* sông. Màu vàng óng của tơ tằm. Màu xanh non của nương dâu. Màu thời gian của “đò xưa bến cũ”. Và màu tím thủy chung của lời thề “nhớ câu hẹn hồ”.
“Núi Truồi ai đắp mà cao”là bài ca dao trữ tình đặc sắc nói lên tình yêu quê hương và vẻ ‘đẹp tâm hồn của cô gái Huế. Bài ca dao đã để lại trong tâm hồn mỗi chúng ta một ấn tượng sâu sắc về thiên nhiên và con người xứ Huế.
Thi sĩ Thu Bồn từ đất Quảng ra thăm Huế, trong bài thơ “Tạm biệt”có viết: “Xin chào Huế một lần anh đến Đế’ ngàn lần anh nhớ trong mơ Em rất thực mà nắng thì mờ ảo Xin dừng lầm em với cố đô“
Cùng với bài ca dao, mấy vần thơ trên đây, gọi là một chút quà lưu niệm gửi tới những ai gần xa chưa một lần đến thăm Huế quê em.
|
Comment on the following folk song: Mount Truoi, no one builds it high
Instruct
In the poem "Homeland Song", poet To Huu earnestly and thoughtfully said:
“Whoever goes through that Central region,
Please stop by and have fun with me in Hue.”
(May 1975)
Hue is the ancient capital of the Nguyen Dynasty. Hue is beautiful and poetic. Gorgeous mountains and rivers. The song Gia Gao, the singing of Mai Push, Mai Nhi, and the sweet Nam Ai and Nam Binh songs have captivated people from near and far for nearly 400 years. Who has once visited Hue? Who has once heard the Hue girl sing the song:
“Who built Truoi Mountain to make it high?
Who digs the Perfume River, who digs deep?
Silkworm farms, fish ponds, mulberry fields,
Old boats, old wharves, remember the dating phrase."
Truoi Mountain and Perfume River are the natural beauty of Hue. The majestic and sacred Mount Truoi has left many legends and legends in people's hearts. The mountain is to the west of the Citadel. Looking up from Thuan An seaport, Truoi Mountain is dark green in the setting sun. The mountain is quiet and majestic, as if listening to the magical bell of Thien Mu Pagoda. Perfume River (other documents record it as Dinh River, the old name of Huong Giang) is a love poem of the dreamy ancient capital. The river flows gently, winding like the green belt of a fairy forgotten for thousands of years across the ancient capital. There is a poet who wrote:
“If it weren't for the Nam Ai Song Huong song, why stay up all night long…”
(Ha Thuc Qua)
Two rhetorical questions appeared in succession. Ask the mountain, "Who built it to make it high?". Ask the river "Who digs, who digs deep?". Question from a tourist or a Hue girl? Ask to express surprise, admiration, and emotional pride when admiring the magnificent natural scenery:
Who digs the Perfume River, who digs deep?
The three words "ai" evoke so many sad feelings, as if leading the soul back in time through the years when looking at the beloved mountains and rivers. Watch. The Perfume River and Han Mac Tu have become a moonlit river with a dreamy wharf waiting for you:
“Whose boat is docked at the moon river,
Keep carrying moon tonight?"
(“This is Vi Da village”)
For To Huu, how can I forget the green color of my mother's hometown river? It evoked sadness in the hearts of the children who were displaced day and night during the long years of blood and fire, the country was divided:
“Huong Giang, the river is calm,
Through my heart, I still love myself day and night"
(“Motherland Song”)
The first two verses of the song have sowed a lot of excitement in our hearts, many beautiful thoughts about the rivers and mountains of our beloved Hue. Someone once sang: "Sometimes I've come to dreamy Hue - I embrace a sweet love...". Is that "sweet love" first directed towards Mount Truoi, Perfume River and many other landscapes:
“Dong Ba, Gia Hoi two bridges,
Look up at Dieu De, four floors, two bells."
And the singing of Mai Nhi and Mai Push on the Perfume River on moonlit nights seems to bring tourists' souls into the dream of Thien Thai:
“The ferry from Dong Ba, the ferry through Dap Dam,
Dimly, the shadow of the moonlight falls,
The sound of distant singing, heavy with love for the country"
Returning to the last two lines of the folk song, we briefly see the image of a Hue girl:
“Silkworm farms, fish ponds, mulberry fields,
Old boats, old docks, remember the date"
"Silkworm farms, fish ponds, mulberry fields" are the beauties of a countryside with fertile land and a long-standing craft industry of growing mulberries, raising silkworms and weaving silk. "Thousands of green strawberries in one color" stretch out across gardens, beaches, and villages. “Whose garden is so lush and green like jade” (“This is Vi Da village”). Behind the green color of mulberry rice are the yards and alleys of the hamlets, golden and silky in the new sunlight. Looming next to the "silkworm farms, fish ponds, and mulberry fields" is the image of a gentle, skillful, hard-working, and very affectionate Hue girl who once made many scholars fall in love with her:
“The students in Quang took the exam,
I can't help but see the Hue girl."
"Old boat, old dock, remember the date" is the best, most profound line in this folk song. "The old boat at the old wharf" is the color of time, the image of a beloved cripple. It is the nostalgia stored in my heart that carries the heavy love of those who go away and those who stay behind.
"Remembering the date" means remembering the promise to keep a faithful love. One word "remember" earnestly confirms the oath. Even though we are far away, I still remember to wait and wait:
“Boat, do you remember the dock?
Ben is an insistence stomach waiting boat"
The words of friendship and dating from those days of the couple, of those who stayed, and those who went away, have never faded from my heart:
The banyan tree, the old wharf, the fish are still melons"...
Isn't love tragedy a rare thing in the past? For Hue girls, they still believe, "The old boat, the old dock, remembers the date." The banyan tree, the well, the communal house yard, as well as the "old boat and old wharf" are not only the "old soul of the country" but also witnesses to many beautiful and faithful love relationships in the past.
The folk song, from its melody to its words and images, is as beautiful and smooth as a masterful silk painting. Elegant bright colors. Has the green color of the mountains. The clear blue color of* the river. Golden color of silk. The green color of the mulberry field. The color of time of "old boats and old wharves". And the faithful purple color of the oath "remember the promise".
"Mountain Truoi, no one builds it high" is a unique lyrical folk song that speaks of the love for the homeland and the beauty of the soul of a Hue girl. The folk song has left a deep impression in each of our souls about the nature and people of Hue.
Poet Thu Bon came from Quang to visit Hue. In the poem "Goodbye" he wrote: "Hello Hue once I come to the Empire a thousand times I remember you in my dreams You are so real but the sunlight is blurry Please stop confusing me with ancient capital"
Along with the folk song and the above poems, it is called a little souvenir to send to those near and far who have never visited my hometown Hue.
|
Bình giảng bài ca dao Thuyền ơi có nhớ bến chăng
Hướng dẫn
Trong“Trường ca mặt đường khát vọng” nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm có viết:
“Những người vợ nhớ chồng còn góp cho
Đất Nước những núi Vọng Phu,
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hồn Trống Mái..,”
Tinh cảm cao đẹp ấy của người đàn bà nước Nam đã được nói lên thật hay, thật cảm động trong ca dao dân ca của dân tộc. Bài ca dao:
“Thuyền ơi có nhớ bến chăng,
Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền” đã neo giữ trong tâm hổn hàng triệu con người Việt Nam xưa nay.
Có thể nói đây là một bài thơ tình dân gian kiệt tác. Thuyền và bến là 2 hình ảnh ấn dụ – nhân hóa giao kết, giao hòa bằng những tình cảm sáu nặng. Thuyền nhớ bến, bến đợi thuyền, khăng khăng mãi trong lòng, không bao giờ có thể đổi thay, phai nhạt. Thuyền và bến tượng trưng cho tình nghĩa sắt son, chung thủy của lứa đôi trong cuộc đời.
1. Câu cảm thán kết hợp với câu hỏi tu từ đã làm cho giọng thơ ngàn vang bồi hồi tha thiết:
“Thuyền ơi có nhớ bến chăng”
Chữ “ơi” và chữ “chăng” đã hoa thanh tạo nên nhạc điệu du dương, réo rắt ấy. Tiếng gọi “thuyền ơi” xao xuyến vang lên, lan xa trong không gian, thấm sâu tỏa rộng trong hồn người. Câu hỏi tiếp theo “có nhớ bến chăng” đầy ắp nỗi thương nhớ của đôi lứa ở hai phía chân trời. Sóng cứ vỗ, nước mải miết trôi, bến mồ côi phủ mờ sương khói thời gian. Thuyền đi xa từ dạo ấy, nay đang lênh đênh trên dòng sông nào, ngọn thác nào, góc bể chân trời nào xa lắc? Thuyền đi mãi đi mãi chưa về. “Thuyền ơi có nhớ bến chăng”, câu ca cất lên như một lời than tự thương mình và thương người thấm đầy lệ.
Dòng nước chảy xuôi là vô tận. Dòng chảy thời gian là vô cùng. Con thuyền lênh đênh không bến. Bến mồ côi, bến đợi, bến hẹn phủ mờ sương khói tháng năm. Thuyền xa bến, thuyền nhớ bến cũng như chồng xa vợ, vợ chồng thương nhớ nhau, đó là bi kịch biệt li trong cõi nhân gian xưa nay.
2. Hai thanh trắc “một dạ” làm cho giọng thơ trĩu xuống như một nỗi niềm cứ thấm sâu vào hồn người:
“Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền”
Bến và thuyền nằm ở hai vị trí đầu, cuối câu ca, cấu trúc ấy mang ý nghĩa thấm mĩ đặc sắc gợi tả một không gian cách biệt xa xăm, một thời gian li biệt dằng dặc. “Khăng khăng” nghĩa là đinh ninh không đổi thay. “Một dạ khăng khăng dơi thuyền” là một lời thề nguyền đã khắc sâu vào lòng, đã “khắc cốt ghi tâm”, đinh ninh son sắt, không bao giờ phai nhạt, đổi thay! Thuyền vẫn đi xa, đi xa mãi chưa trở về, bến vẫn mong, bến vẫn đợi, bến vẫn “một dạ khăng khăng đợi thuyền”.
Càu ca “Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền” đã thể hiện một cách sâu sắc nỗi nhớ thương đợi chờ, tấm lòng son sắt thủy chung của người vợ hiền đối với người chồng thân yêu đi mãi chưa về. Câu ca còn biểu lộ niềm tin và hi vọng vào một ngày mai, thuyền sẽ trở lại bến, bến sẽ gặp lại thuyền, vợ chồng sẽ được đoàn tụ yên vui hạnh phúc.
3. Trong các thế kỉ 17, 18, 19, đất nước ta chìm đắm trong loạn lạc và nội chiến kéo dài. Hàng triệu trai tráng phải ra trận, dãi thây trên các chiến địa. Khắp nơi diễn ra cảnh li biệt buồn thương:
“Cái cò lặn lội bờ sông,
Gánh gạo đưa chồng, tiếng khóc nỉ non”
Biết bao người phụ nữ, nhan sắc, tuổi trẻ mỏi mòn trong những năm tháng chờ đợi. Họ sống trong cô đơn lạnh lẽo, nỗi thương nhớ chồng chất, lòng dạ héo hon:
“Nhớ chàng đằng đẵng đường lên bằng trời,
Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu,
Nổi nhớ chàng đau đáu nào xong…”
(“Chinh phụ ngâm”)
Bài ca dao này chỉ có thể ra đời trong bối cảnh lịch sử và xã hội ấy. Nó đã phản ánh bi kịch gia đình và thời đại, nỗi đau buồn thương nhớ, đợi chờ của lứa đôi. Nó đã ca ngợi tình nghĩa thủy chung son sắt của người phụ nữ Việt Nam.
Ca dao dân ca Việt Nam có nhiều bài lấy hình tượng “thuyền – bến” để nội về tình thương nỗi nhớ trong biệt li xa cách:
Tình đi nghĩa ở bao giờ quên nhau.
Chẳng nên tình trước nghĩa sau,
Bến này dãi bóng trăng thâu đợi thuyền”
Bài ca dao “Thuyền ơi có nhớ bến chăng” là tiếng đồng vọng của lòng người vào thời gian năm tháng. Nó giàu giá trị nhân bản phản ánh một thời li loạn và bi kịch cuộc đời. Với giai điệu ngọt ngào thiết tha, nó ca ngợi tấm lòng đôn hậu, tình nghĩa thủy chung của những người vợ, người mẹ trong xã hội. Thuyền và bến là hình tượng nghệ thuật mang vẻ đẹp nhân văn, thể hiện một cách độc đáo cảm hứng nhân đạo về tình thương nỗi nhớ, khát vọng được sống trong sum họp yên vui hạnh phúc của lứa đôi. Nó mãi mãi là bài học vô giá về tình nghĩa thủy chung và lòng biết ơn những người mẹ, người chị, người vợ quê ta.
Cái hay cái đẹp của bài ca là tính hàm súc, tính truyền cảm, và tính hình tượng. Cuốn “Ngữ văn 7 – tập 2”, văn bản bài ca dao này được ghi như sau:
“Thuyền về có nhớ bến chăng?
Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền”
Hai chữ “thuyền về” đã làm cho bài ca trở nên nhạt nhẽo và vô nghĩa.
|
Commentary on the folk song Boat, do you miss the port?
Instruct
In "The epic of the road of desire", poet Nguyen Khoa Diem wrote:
“Wives who miss their husbands still contribute
The Country of Vong Phu Mountains,
A loving couple contributes to the soul of the Female Cock..,”
That beautiful sentiment of Southern women has been expressed beautifully and touchingly in the nation's folk songs. Folk song:
"Boat, do you miss the dock?
"The dock is always patiently waiting for the boat" that has anchored the hearts of millions of Vietnamese people from the past.
It can be said that this is a masterpiece folk love poem. Boat and wharf are two metaphorical images - personifying connection and reconciliation with strong emotions. The boat misses the dock, the dock waits for the boat, forever stuck in my heart, never able to change or fade away. The boat and wharf symbolize the couple's eternal love and loyalty in life.
1. The exclamation combined with the rhetorical question makes the poetic voice resonate with earnestness:
"Boat, do you miss the dock?"
The words "oh" and the word "chan" are mixed together to create that melodious, melodious melody. The stirring call "boat" rang out, spreading far in space, penetrating deeply and spreading into people's souls. The next question, "Do you miss the harbor?" is filled with the longing of the couple on both sides of the horizon. The waves keep crashing, the water keeps drifting, the orphaned wharf is covered with the mist of time. The boat has traveled far since then, and is it now floating on which river, which waterfall, which distant corner of the horizon? The boat went forever and never returned. "Boat, do you miss the dock?" the song sings like a tearful lament of self-pity and love for others.
The flowing water is endless. The flow of time is infinite. The boat floats without a dock. The orphanage station, the waiting station, the appointment station are covered with mist and smoke in May. The boat is far from the port, the boat misses the port, just like the husband is far from his wife, the husband and wife miss each other, that is the tragedy of separation in the human world.
2. Two "one heart" tones make the poem's voice heavy like a feeling that penetrates deep into the soul:
"Ben is an insistence stomach waiting boat"
The wharf and boat are located at the beginning and end of the song. That structure has a unique aesthetic meaning, depicting a distant space, a time of long separation. “Insistence” means to believe that it will not change. "One heart and one heart will hold the boat together" is a vow that has been engraved deep in the heart, "engraved in the heart", firmly fixed, never fading or changing! The boat still goes far, goes far and has not returned, the dock is still waiting, the dock is still waiting, the dock is still "persistently waiting for the boat".
The song "At the dock, one patiently waits for the boat" deeply expresses the longing and waiting, the loyal heart of a kind wife towards her beloved husband who has gone away and has not returned. The song also expresses faith and hope that one day, the boat will return to the dock, the dock will meet the boat again, and the husband and wife will be reunited in peace and happiness.
3. During the 17th, 18th, and 19th centuries, our country was immersed in chaos and prolonged civil war. Millions of young men had to go to war, drooling on battlefields. Scenes of sad farewells take place everywhere:
“The stork wades along the riverbank,
Carrying rice to give to her husband, crying loudly.
So many women, their beauty, and their youth have languished in the years of waiting. They live in cold loneliness, their memories pile up, their hearts are withered:
“Missing you all the way to heaven,
The sky is so deep and unfathomable,
It hurts so much to miss you..."
(“Conquering Father's Soak”)
This folk song could only be born in that historical and social context. It reflects the tragedy of the family and the times, the sadness, remembrance, and waiting of the couple. It praised the steadfast love and loyalty of Vietnamese women.
Vietnamese folk songs have many songs that use the image of "boat - wharf" to express love and nostalgia in the midst of separation:
Love means never forgetting each other.
Shouldn't love first and mean later,
This wharf is lined with moonlight waiting for a boat."
The folk song "Boat, do you miss the dock?" is the echo of people's hearts through the years. It is rich in human values reflecting a time of turmoil and life tragedy. With a sweet and passionate melody, it praises the kindness and faithful love of wives and mothers in society. Boats and wharves are artistic images of humanistic beauty, uniquely expressing the humanitarian inspiration of love, nostalgia, and the couple's desire to live in a peaceful and happy reunion. It will forever be an invaluable lesson about faithful love and gratitude to our mothers, sisters, and wives.
The beauty of the song is its conciseness, inspiration, and imagery. In the book "Literature 7 - volume 2", the text of this folk song is recorded as follows:
“Do you remember the dock when the boat returns?
Ben is an insistence stomach waiting boat"
The two words "boat returns" make the song bland and meaningless.
|
Bình giảng bài ca dao Trèo lên cây bưởi hái hoa
Hướng dẫn
Bình giảng bài ca dao Trèo lên cây bưởi hái hoa
Trong kho tàng văn học nước ta có rất nhiều bài ca dao nói về tình yêu lứa đôi. Có bài ca dao nói về tình yêu đẹp của đôi trai gái có bài thì nó về sự chia xa của đôi trai gái. Mặc dù học không đến được với nhau nhưng họ vẫn rất thân mật và lịch sự đối đáp với nhau đặc biệt họ sử dụng những ngôn từ văn học để để nói. Và bài ca dao “Trèo lên cây bưởi hái hoa” là một bài ca dao tiêu biểu về sự chia xa không đến được với nhau của một đôi trai gái:
Trèo lên cây bưởi hái hoa
Bước xuống vườn cà hái nụ tầm xuân.
Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc
Em đã có chồng anh tiếc lắm thay!
Ba đồng một mớ trầu cay,
Sao anh chẳng hỏi những ngày còn không?
Bây giờ em đã có chồng,
Như chim vào lồng như cá cắn câu.
Cá cắn câu biết đâu mà gỡ
Chim vào lồng biết thuở nào ra?
Mở đầu của bài ca dao là hành động của chàng trai:
“Trèo lên cây bưởi hái hoa
Bước xuống vườn cà hái nụ tầm xuân”
Hành động “trèo lên” và “bước xuống” là hình ảnh ẩn dụ về cuộc sống đi tìm tình yêu của chàng trai. Nhưng một điều là thời gian thì mãi trôi và rồi con người cũng trở lên có tuổi hơn. Mùa xuân thì qua đi rồi “hoa bưởi” cũng phải kết trái, người con gái xinh đẹp ngày nào đâu còn nữa mà chỉ còn “nụ tầm xuân”. Nhưng sự thật thì lại phũ phàng:
Em có chồng anh tiếc lắm thay!”.
Thường người ta biết đến loài hoa tầm xuân với màu trắng nhưng trong câu ca dao này nó lại trở thành màu xanh. Vì sao lại ví nụ tầm xuân là màu xanh? Bởi vì màu xanh trong ánh mắt của chàng trai là sự tiếc nuối khôn nguôn khi mà người con gái đã có người yêu và lấy chồng. Từ “xuân” và “nụ tầm xuân” gợi cho người đọc nghĩ về tuổi trẻ và những kỉ niệm tình yêu đẹp ấy vậy mà giờ đây người con gái đã đi lấy chồng. Chàng trai không biết làm gì chỉ than thở tiếc nuối “Em đã lấy chồng anh tiếc lắm thay!”. Như vậy chàng trai này giờ là một kẻ si tình chỉ biết đứng nhìn người con gái mình yêu đã đi lấy chồng.
Sau khi nghe những giãi bầy của chàng trai cô gái cũng liền đáp lại:
“Ba đồng một mớ trầu cau
Sao anh chẳng hỏi những ngày còn không”
Trông gái trách chàng trai sao không hỏi cưới cô lúc cô chưa đi lấy chồng. Cô cũng muốn cùng anh xây dựng hạnh phúc vậy mà sao anh không hỏi. Cô đâu có đòi hỏi những gì quá là cao xa “ba đồng” với “mới trầu cau” tất cả rất giản dị ấy vậy mà chàng trai cũng không làm. Khiến cô gái giận hờn và trách chàng trai không yêu mình nên đã đi lấy chồng. Đến đây ta càng thấy rõ được chàng trai rất thích cô gái nhưng vì không dám thổ lộ về chuyện cưới xin nên cô gái không biết và đã chấp nhận làm trầu cau nhà khác.
Bây giờ em đã có chồng,
Như chim vào lồng như cá cắn câu.
Cô gái muốn nói với chàng trai rằng cô đã lấy chồng “ chim vào lồng”, “cá cắn câu” không còn tự do như lúc trước nữa. Vì thế có câu:
“Gái có chồng khi gông đeo cổ”
Rồi cô gái lại nói tiếp về hoàn cảnh của mình:
“Cá cắn câu biết đâu mà gỡ
Chim vào lồng biết thuở nào ra”
Hai câu thơ này nói về cuộc sống thực tại của cô gái khi ở nhà chồng. Người phụ nữ khi đi lấy chồng đã trở thành con nhà người ta mọi thứ phải nghe theo sự sắp đặt của nhà chồng chứ không được lên tiếng mà phải chăm chịu sống phận. “Chim vào lồng” thể hiện sự chặt hẹp và ngột ngạt trong tâm hồn của cô gái khi đã về nhà chồng. Mà chim đã vào lòng rồi thì làm sao mà ra được cô gái hoàn toàn mất tự do và phải chịu sự nghe lời của nhà chồng. mặc dù cô gái đi lấy chồng nhưng khi gặp chàng trai cô vẫn còn tình cảm với chàng và chàng trai vẫn còn tình cảm với cô. Biết vậy nhưng cả hai người đều chẳng thể làm gì để đến được với nhau và họ cũng không thể vượt qua được khuôn khổ đạo lí của lễ giáo từ đây trở thành một bi kịch lớn trong tình yêu khiến cả hai đều rất day dứt trong lòng. Cô gái trong bài thơ cũng rất ý thức được cuộc sống và hoàn cảnh của bản thân nên hiện tại chỉ than thở để cho chàng trai hiểu mình.
|
Commentary on the folk song Climbing the grapefruit tree to pick flowers
Instruct
Commentary on the folk song Climbing the grapefruit tree to pick flowers
In our country's literary treasure, there are many folk songs about love between couples. There are folk songs that talk about the beautiful love between a boy and a girl. There are songs that talk about the separation of a couple. Even though they cannot study together, they are still very friendly and polite in responding to each other, especially using literary words to speak. And the folk song "Climbing the grapefruit tree to pick flowers" is a typical folk song about the separation and inability to be together of a couple:
Climb the grapefruit tree to pick flowers
Walk down to the eggplant garden to pick spring buds.
Spring buds bloom green
You already have a husband, I'm so sorry!
Three coins for a bunch of spicy betel,
Why don't you ask about the remaining days?
Now I have a husband,
Like a bird entering a cage, like a fish taking the bait.
If the fish bites the hook, you never know how to remove it
When does a bird enter a cage, do you know when it will come out?
The beginning of the folk song is the boy's actions:
“Climb the grapefruit tree to pick flowers
Walk down to the eggplant garden to pick spring buds."
The action of "climbing up" and "stepping down" is a metaphor for the boy's life of finding love. But one thing is that time passes forever and people also become older. Spring has passed and the "grapefruit flower" must also bear fruit, the beautiful girl is no longer there but only "spring buds". But the truth is harsh:
You have a husband, I'm so sorry!".
Usually people know the spring flower as white, but in this folk song it becomes blue. Why are rosehips considered green? Because the blue in the boy's eyes is the eternal regret that the girl already has a lover and is married. The words "spring" and "spring bud" remind readers of youth and beautiful love memories, but now the girl has gotten married. The boy didn't know what to do and just lamented regretfully, "I'm so sorry that you married my husband!". So this guy is now a lover who can only stand by and watch the girl he loves get married.
After listening to the boy's confession, the girl immediately responded:
“Three coins for a bunch of betel and areca nuts
Why don't you ask about the remaining days?
The girl blamed the boy for not asking her to marry him when she wasn't married yet. She also wanted to build happiness with him, so why didn't he ask? She didn't ask for anything too lofty: "three dong" and "new betel and areca" it was all very simple, but the guy didn't do it either. Making the girl angry and blaming the guy for not loving her so he got married. At this point, we can see more clearly that the boy really liked the girl, but because she did not dare to confess about the marriage, the girl did not know and accepted to work as a betel nut in another house.
Now I have a husband,
Like a bird entering a cage, like a fish taking the bait.
The girl wanted to tell the boy that she was married, "a bird in a cage", "a fish that took the bait" and was no longer as free as before. Hence the saying:
“Married women with shackles around their necks”
Then the girl continued talking about her situation:
“If the fish bites the bait, you never know how to take it off
A bird goes into a cage and knows when it will come out.
These two verses talk about the girl's real life at her husband's house. When a woman gets married, she becomes a child and must listen to the arrangements of her husband's family, not speak up, but must accept her fate. “Bird in a cage” shows the narrowness and stuffiness in the girl's soul when she returns to her husband's house. Once the bird is in her heart, how can she get out? The girl has completely lost her freedom and must obey her husband's family. Even though the girl got married, when she met the boy she still had feelings for him and the boy still had feelings for her. Knowing that, both people couldn't do anything to get together and they couldn't overcome the moral framework of rites and rituals. From now on, it became a great tragedy in love that made both of them very tormented. heart. The girl in the poem is also very aware of her life and circumstances, so she only complains to let the boy understand her.
|
Bình giảng bài ca dao Tát nước đầu đình
Hướng dẫn
Bình giảng bài ca dao Tát nước đầu đình
Kho tàng văn học nước ta rất phong phú và đa dạng với những câu ca dao, tục ngữ luôn in sâu vào tâm hồn con người việt. Như những câu ca dao về mẹ, về thầy cô, về anh em bạn bè, về tình yêu đôi lứa…Từ đó làm cho chúng ta thấy được hình ảnh cũng như tình cảm mộc mạc giản dị của con người xưa. Và bài ca dao “Tát nước đầu đình” cũng là một trong những bài thơ tiêu biểu rất hay về tình yêu đôi lứa.
Đây là một bài tỏ tình, bài giao duyên bắt đầu bằng những câu thơ giản, dị mộc mạc mà quen thuộc.
“Hôm qua tát nước đầu đình
Bỏ quên chiếc áo trên cành hoa sen.
Có được thì cho anh xin,
Hay là em để làm tin trong nhà?
Áo anh sứt chỉ đường tà,
Vợ con chưa có, mẹ già chưa khâu,
Áo anh sứt chỉ đã lâu.
Mai mượn cô ấy về khâu cho cùng”.
Chàng trai này có một cách tán gái rất độc đáo, chàng viện cớ bỏ quên áo trên cành hoa sen để được bắt chuyện cùng nàng. Mà trong khi đó như chúng ta đã biết đã là sen thì làm gì có cành vậy mà chàng trai trong câu ca dao lại nói quên áo ở cành hoa sen. Có lẽ cô gái mà anh chàng nhắc đến là người anh thương nhớ rất lâu rồi nhưng do ngại nên anh chưa dám bắt chuyện để hôm nay anh đã viện cớ để cùng nói chuyện với cô. Chúng ta đã từng thấy trong kho tàng văn học có rất nhiều bài giao duyên nhắc về chiếc áo:
Đêm khuya em đắp, gió tây lạnh lùng”.
Từ đây chiếc áo đã trở thành vật nối duyên. Câu nó thật hay và mộc mạc đúng chất dân dã của thôn quê xưa.
“Có được thì cho anh xin,
Hay là em để làm tin trong nhà?”
Chàng trai vừa viện cớ vừa đùa khiến cô gái cười e thẹn. Có lẽ khi con gái đến tuổi dậy thì là độ tuổi xinh xắn và đẹp nhất nên nụ cười e thẹn của cô cũng khiến chàng trai khá là tâm đắc và yêu thầm. Để từ đó đơn phương mà bây giờ mí có dịp bầy tỏ. Rồi chàng trai lại kể về gia cảnh của bản thân:
“Áo anh sứt chỉ đường tà,
Vợ con chưa có, mẹ già chưa khâu”
Theo ý chàng trai nói anh chưa có vợ con mà mẹ thì già mắt đã kém nên áo anh bị sứt chỉ đã lâu mà chưa được ai vá giúp. Hôm nay gặp cô gái nên anh muốn cô giúp anh khâu chiếc áo. Chàng trai này thật ngụ ý “sứt chỉ” không chỉ nó về chiếc áo mà nó cả về đường tình duyên của mình. Đã lâu chưa có người yêu và bây giờ muốn lấy cô về làm vợ. Đồng thời mẹ chàng trai đã già anh muốn có người chăm sóc để anh có thể yên tâm lập nghiệp. Anh đến với cô hoàn toàn bằng tình yêu chân thành nên anh muốn hai người được nên duyên vợ chồng nên hỏi ý cô ra sao. Rồi chàng lại nói tiếp:
Mai mượn cô ấy về khâu cho cùng.
Khâu rồi anh sẽ trả công
Đến lúc lấy chồng, anh sẽ giúp cho,
Giúp cho một thúng xôi vò
Một con lợn béo, một vò rượu tăm,
Giúp cho đôi chiếu em nằm,
Đôi chăn em đắp, đôi chằm em đeo,
Giúp cho quan tám tiền cheo,
Quan năm tiền cưới, lại đèo buồng cau…”
Như vậy qua đoạn ca dao này ta càng thấy rõ tình cảm của chàng trai. Chàng trai như hứa hẹn với cô gái về một đám cưới đầy đủ lễ nghi theo phong cách truyền thống của dân tộc, một cuộc sống tuy không mấy giàu sang nhưng cũng đủ cơm áo để ăn để mặc.
“Giúp cho quan tám tiền cheo,
Quan năm tiền cưới, lại đèo buồng cau…”
Chàng đến với cô bằng tình yêu chân thành, mãnh liệt và thủy chung. Chàng trai mong cô gái sẽ về làm vợ mình và con dâu ngoan hiền của mẹ. Để cho cô gái hiểu hết về hoàn cảnh của gia đình mình. Tiếp đó chàng trai lại nhắc đến trầu cau. Thường trầu câu dùng để mở đầu chuyện và tượng trưng cho tình cảm nên duyên vợ chồng. Ca dao xưa có rất nhiều câu nói về trầu cau:
Đêm khuya thiếp mới hỏi chàng
Cau khô ăn với trầu vàng xứng không?
Tình yêu ngày xưa thật mộc mạc và giản dị họ đến với nhau bằng những câu hát giao duyên, những gần gặp gỡ ở đầu đình. Họ không nói anh yêu em mà thay vào đó là những hình ảnh mộc mạc chứng tỏ tình yêu chân thành của mình đối với người con gái mà họ yêu thương.
|
Commenting on the folk song Slapping water at the communal house
Instruct
Commenting on the folk song Slapping water at the communal house
Our country's literary treasure is very rich and diverse with folk songs and proverbs always deeply imprinted in the soul of Vietnamese people. Like folk songs about mothers, about teachers, about brothers and friends, about love between couples... From there, we can see the simple and rustic images and feelings of ancient people. And the folk song "Slapping water on the communal house" is also one of the best representative poems about love between couples.
This is a love confession song, a love engagement song that begins with simple, rustic yet familiar verses.
"Yesterday started slapping home country
Forgot the shirt on the lotus branch.
If you have it, please give it to me.
Or is it me to keep the family private?
Austria he chipped wrong directions,
My wife and children are not yet married, my old mother is not yet stitched,
His shirt has been threadbare for a long time.
Tomorrow, I'll borrow her to sew for the end."
This guy has a very unique way of flirting with girls. He used the excuse of leaving his shirt on a lotus branch to talk to her. Meanwhile, as we know, since it's a lotus, it doesn't have a branch, but the guy in the folk song said he forgot his shirt on the lotus branch. Perhaps the girl he mentioned is someone he has loved for a long time, but due to shyness, he did not dare to start a conversation, so today he made an excuse to talk to her. We have seen in the literary treasury that there are many love songs that mention the shirt:
Late at night I covered myself, the west wind was cold."
From now on, the shirt became a connection to fate. The sentence is beautiful and rustic, true to the rustic style of the old countryside.
“If you have it, please give it to me.
Or should I keep it as news in the house?”
The boy made excuses and joked, making the girl smile shyly. Perhaps when a girl reaches puberty, it is the prettiest and most beautiful age, so her shy smile also makes the boy quite pleased and secretly in love. From then on, it was one-sided and now I have the opportunity to express myself. Then the young man told about his family background:
"Austria he chipped wrong directions,
My wife and children are not yet married, my old mother is not yet stitched."
According to what the young man said, he did not have a wife or children and his mother was old and had poor eyesight, so his shirt had been threaded for a long time and no one had helped him mend it. Today he met a girl so he wanted her to help him sew the shirt. This guy really has a "broken thread" not only about his shirt but also about his love life. I haven't had a lover for a long time and now I want to marry her. At the same time, the boy's mother was old and he wanted someone to take care of him so he could feel secure in starting a career. He came to her completely with sincere love, so he wanted the two of them to become husband and wife, so he asked her what she meant. Then he continued:
Mai borrowed her to sew for the end.
After sewing, he will pay you
When it's time to get married, I will help you.
Help me with a basket of sticky rice
A fat pig, a jar of wine,
Help me with the mats I lie on,
The pair of blankets I cover, the pair of blankets I wear,
Help the mandarin with eight coins,
The mandarin spent years before the wedding, then went to the areca chamber..."
So through this folk song, we can see the boy's feelings more clearly. The boy seemed to promise the girl a wedding full of rituals in the traditional style of the nation, a life that was not very rich but had enough food and clothes to eat and wear.
“Help the mandarin get eight bucks,
The mandarin spent years before the wedding, then went to the areca chamber..."
He came to her with sincere, intense and faithful love. The boy hoped the girl would come back to be his wife and his mother's obedient daughter-in-law. Let the girl fully understand her family's situation. Next, the young man mentioned betel and areca nuts again. Often betel nut is used to start a story and symbolizes the love between husband and wife. Ancient folk songs have many sayings about betel and areca nuts:
Late at night I asked him
Is it good to eat dried areca nuts with betel?
Love in the past was so rustic and simple, they came together through love songs and close meetings at the front of the communal house. They don't say I love you, but instead use simple images to prove their sincere love for the girl they love.
|
Bình giảng bài ca dao Đêm trăng thanh anh mới hỏi nàng…
Hướng dẫn
Bình giảng bài ca dao Đêm trăng thanh anh mới hỏi nàng…
Cô kia cắt cỏ một mình
Cho tôi cắt với chung tình làm đôi
Cô còn cắt nữa hay thôi
Cho tôi cắt với làm đôi vợ chồng.
Nước ta có một kho tàng văn học rất phong phú và đa dạng. bao gồm những câu hát giao duyên, những câu đối tỏ tình đầy lãng mạn nhưng mang đậm truyền thống dân quê của nước ta. Đây là nét đẹp truyền thống của nhân dân ta mang tính nhân văn sâu sắc. Trong đó có bài ca dao:
“Đêm trăng thanh, anh mới hỏi nàng,
Tre non đủ lá, đan sàng nên chăng?
Đan sàng thiếp cũng xin vâng,
Tre vừa đủ lá, non chăng hỡi chàng?”.
Đây là một bài giao duyên rất hay về tình yêu đôi lứa. Trong khung cảnh đêm hè mùa thu có trăng thanh gió mát phong cảnh thật là hữu tình. Đồng thời trai gái trong xóm cũng đang ở dưới một mái sân đình tụ tập đông vui cùng múa hát và đối đáp giao duyên đầy tình nghĩa. Từ đó, mà các chàng trai đã mở lời tỏ tình mới những người con gái mà họ thích. Cách tỏ tình của các chàng trai cực kì là tình tứ và tế nhị và các cô gái đối đáp lại cũng như thế. Đây là một nét đẹp của con người việt nam xưa.
“Đêm trăng thanh anh mới hỏi nàng
Tre non đủ lá, đan sàng nên chăng”
Tình yêu chốn thôn quê thật là mộc mạc và giản dị gắn liền với những hình ảnh mộc mạc của cuộc sống sinh hoạt hàng ngày. Chàng trai trong bài ca dao tận dụng khung cảnh đất trời lúc này để dãi bầy tâm ý với cô gái. Trong khung cảnh đẹp đẽ nên thơ ấy có một người con gái rất xinh đẹp đứng trước mặt nên chàng trai. Chàng trai rất mạnh mẽ đã bắt đầu mở lời với cô gái. Chàng trai mượn hình ảnh “tre non” ý muốn nói cây tre non mới mọc đang độ tuổi xanh thì giống người con gái đang ở độ tuổi xuân xanh đẹp nhất của cuộc đời đã lớn và đủ tuổi để lập gia đình “Tre non đủ lá, đan sàng nên chăng”. Chàng hỏi cô đã đủ tuổi lập gia đình chưa và ý chàng muốn nói nếu đủ rồi và cô chưa có người thương thì chàng muốn lấy cô về làm vợ.
Qua đây ta thấy hình ảnh cây tre thật đẹp tượng trưng cho độ tuổi và tình yêu của đôi trai gái đồng thời người ta chặt che để làm sàng. Chàng trai lấy hình ảnh “nên sàng” để tượng trưng cho một đám cưới và hạnh phúc sau này.
“Gặp đây anh nắm cổ tay,
Anh hỏi câu này có lấy anh không?”
Sau đó là lời đối đáp của cô gái cũng tế nhị và hài hước không kém:
“Đan sàng thiếp cũng xin vâng,
Tre vừa đủ lá non chăng hỡi chàng?”.
Đây là một cô gái cũng rất thông minh và tinh tế cô cũng dùng hình ảnh ẩn dụ để nói về bản thân mình. Bốn chữ “ thiếp cũng xin vâng” có âm điệu nhẹ nhàng và đầy sự dịu dàng và lễ phép một phẩm chất đẹp của người con gái. Người con gái như muốn nói với chàng trai rằng cô chấp nhận lời tỏ tình của chàng trai. Ở đây cô không dùng từ “em” để đáp lại mà cô dùng từ “thiếp” ý muốn nói về sự đoan trang và đức hạnh đẹp của con người cô. Nói về “thiếp Hồ Xuân Hương có câu “ Thiếp bén duyên chàng có thế thôi”. Chỉ khi nói Chữ thiếp thì với sánh được với chữ chàng để tạo sự hài hòa và đồng thuận ở trong tâm của hai con người.
Ở trong câu nói này người con gái đã chấp nhận lời tỏ tình của chàng trai và ý đáp nhận mình là vợ tương lai của chàng. Người con gái nhấn mạnh “ tre vừa đủ lá” nghĩa là cô gái vừa đủ tuổi lập gia đình nên rất là tươi đẹp. Tiếp câu khẳng định về độ tuổi của mình cô gái lại nhẹ giọng nói tiếp “non chăng hỡi chàng” ở đây cô muốn nói rằng cô đã lớn và cô khẳng định nhân cách của mình có đủ phẩm hạnh để bước vào đời bước vào cuộc sống hôn nhân của mình.
Một lần nữa bài ca dao này đã khẳng định nét đẹp và kho tàng văn học truyền thống nước ta rất là phong phú và đa dạng. Những bài ca dao như âm hưởng của cuộc sống luôn vang vọng trong tâm trí con người Việt không bao giờ quên về lịch sử dân tộc.
|
Commenting on the folk song, it was a clear moonlit night when he asked her...
Instruct
Commenting on the folk song, it was a clear moonlit night when he asked her...
The other girl mows the lawn alone
Let me cut it in half with love
She still cuts it or not
Let me cut and make a couple.
Our country has a very rich and diverse literary treasure. includes love songs and love confession couplets that are full of romance but imbued with our country's rural traditions. This is the traditional beauty of our people with profound humanity. Including the folk song:
“On a clear moonlit night, I asked her,
Young bamboo has enough leaves, so should it be woven?
I would also like to say yes,
Bamboo has just enough leaves, is it young?
This is a very good love story about love between couples. In the autumn summer night scene with the cool moon and wind, the scenery is truly charming. At the same time, boys and girls in the neighborhood are also gathered under the same communal house, dancing, singing and interacting with each other full of love. Since then, the boys have confessed their love to the girls they like. The boys' way of expressing their love is extremely affectionate and delicate, and the girls respond in the same way. This is a beauty of ancient Vietnamese people.
“On a clear moonlit night I asked her
Young bamboo has enough leaves and is suitable for sieving."
Love in the countryside is rustic and simple, associated with rustic images of daily life. The boy in the folk song takes advantage of the current sky and earth scenery to express his thoughts to the girl. In that beautiful, poetic scene, there was a very beautiful girl standing in front of the boy. The very strong boy started to talk to the girl. The boy borrowed the image of "young bamboo" to mean that a young bamboo tree that has just grown and is in its green age is like a girl who is in the most beautiful and green age of her life, grown up and old enough to get married. Leaves and sieve should be made. He asked her if she was old enough to get married and what he meant was that if she was old enough and she didn't have a lover, he wanted to take her as his wife.
Here we see a beautiful image of a bamboo tree symbolizing the age and love of the couple and at the same time people cut it down to make a sieve. The boy took the image of "should be ready" to symbolize a wedding and future happiness.
"See here, I'll hold your wrist,
Will you marry me if I ask this question?
Next was the girl's response, equally tactful and humorous:
“Dan Sieu, I also say yes,
Bamboo has enough young leaves, my dear?
This is a very intelligent and sophisticated girl who also uses metaphors to talk about herself. The four words "yes too" have a gentle tone and are full of gentleness and politeness, a beautiful quality of a girl. The girl seemed to want to tell the boy that she accepted his confession. Here she does not use the word "you" to respond, but she uses the word "concubine" to talk about her dignity and beautiful virtue. Talking about "Ho Xuan Huong's concubine, there is a saying: "That's all for me to fall in love with you". Only when saying the word "concubine" can it be compared with the word "guy" to create harmony and consensus in the hearts of two people.
In this sentence, the girl accepted the boy's confession and acknowledged herself as his future wife. The girl emphasized that "the bamboo has just enough leaves" meaning that the girl is just old enough to get married so she is very beautiful. Following the statement about her age, the girl softly said again, "Young man?" Here, she wanted to say that she was grown up and she affirmed that her personality was virtuous enough to enter the world. live your marriage.
Once again, this folk song has affirmed the beauty and treasure of our country's traditional literature, which is very rich and diverse. Folk songs are like the echoes of life that always echo in the minds of Vietnamese people who never forget their nation's history.
|
Bình giảng bài ca dao Đồng Đăng có phố Kì Lừa
Hướng dẫn
‘Đồng Đăng hữu phố,
Kì Lừa quyết danh.
Thạch hữu Tô Thị,
Tự hữu Tam Thanh.
Dư giã giai hĩ,
Vô thiếm sơ sinh…’
Đối chiếu thơ chữ Hán của Tam Nguyên Yên Đổ, ta có thể xác định được diện mạo bài ca dao gồm có 14 câu lục bát. Bài ca dao là lời nhắn gửi bạn tình phương xa, cùng anh lén xứ Lạng, nói như thi sĩ Tản Đà, đó là ‘Thư đưa người tình không quen biết’ nghe mênh mang. Hai cáu cuối mang máng như một lời sấm kí truyền kì:
‘Bao giờ chùa lở xuống sông,
Đá tảng trôi mất, ngô đồng chơ vơ”
Bốn câu trong đoạn đầu là hay nhất, dễ hiểu nhất:
‘Đồng Đăng có phố Kì Lừa,
Có nàng Tô Thị, có chùa Tam Thanh,
Ai lên xứ Lạng cùng anh,
Bõ công bác mẹ sinh thành ra em…’
Hai câu đầu với cách ngắt nhịp 2/4/4/4/ bằng ba nét vẽ, nhà thơ dân gian đã giới thiệu một cách khái quát cảnh sắc Đồng Đăng thuộc tỉnh Lạng Sơn của đất nước ta:
‘Đồng Đăng/ có phô’Kì Lừa,
Có nàng Tô Thị/ có chùa Tam Thanh’
Phố Kì Lừa có chợ Kì Lừa nổi tiếng phồn hoa đô hội. Đó là một chợ biên giới Việt – Trung, không chỉ phong phú về hàng hóa, về lâm thổ sản, mà còn nổi tiếng về chợ tình vùng cao. Giai điệu dân ca miền núi lơ lửng, chơi vơi, với sắc phục màu chàm, với những ngựa thồ sa nhân, hồi, măng khô, mộc nhĩ, những cô gái, chàng trai Nùng, Thổ, Tày… quấn quít bên nhau, đã trở thành nếp sống vật chất, tinh thần, một nét đẹp văn hóa giàu bản sắc đã bao đời nay. Mấy trăm năm về trước đã thế, ngày nay vẫn thế, tuy màu sắc có hiện đại hơn. Ai đã một lần trong đời mình đến thăm phố Kì Lừa, đi xem chợ Kì Lừa? Kì Lừa tiếng Thổ là Khâu Lừ. Đồng bào Thổ Lạng Sơn gọi chợ Kì Lừa là háng Khau Lừ (háng: chợ; khau: núi đất; lừ: lửa). Chợ Kì Lừa nằm gần bờ sông Kì Cùng ngày nay.
Hai câu ca dao đã giới thiệu và ca ngợi cảnh sắc kì thú hữu tình của Đồng Đăng, là ‘nơi phên giậu thứ ba về phía Bắc’ (‘Dư địa chí’ – Nguyễn Trãi) của Đại Việt. Nó như dẫn hồn người gần xa, những du khách chìm sâu vào huyền tích, huyền thoại, tìm thấy bao niềm vui, bao nỗi niềm man mác bàng khuâng về một địa danh trên ải Bắc, giàu truyền thống lịch sử và có nền văn hóa lâu đời.
Chữ ‘có’ được điệp lại ba lần diễn tả niềm say mê, hứng thú và tự hào của người dân xứ Lạng, của du khách khi đứng trước bao cảnh đẹp, bao di tích văn hóa. Cũng là lối tả ít mà gợi nhiều, hai câu ca đã mở ra một không gian nghệ thuật, như một cuộn phim mẩu. Cảnh vật từ từ xuất hiện: phố Kì Lừa…, nàng Tô Thị,… chùa Tam Thanh,… có biết bao liên tưởng đồng hiện về cảnh vật con người xứ Lạng.
Về mặt cấu trúc, hai câu ca dao này mang tính định hình cho những bài nói về quê hương đất nước:
– ‘Bắc Cạn/ có suối đãi vàng,
Có hồ Ba Bể I có nàng áo xanh’
– ‘Bình Định/ có núi Vọng Phu,
Có đầm Thị Nại/ có cù lao Xanh’
Hai câu tiếp theo là lời nhắn gọi, vẫy gọi:
‘Ai lên xứ Lạng cùng anh,
Bõ công bác mẹ sinh thành ra em’
‘Ai’là đại từ phiếm chỉ, nói về tất cả mọi người. Đọc ca dao, nghe hát dân ca nhiều lúc ta cảm nhận có mình trong đó. Trong ca dao dân ca, trong văn cảnh
này, chữ ‘ai’ thường hướng về những cô gái xinh đẹp trên mọi miền đất nước. ‘Ai lên xứ Lạng cùng anh’ để có đôi, có bạn tình cùng san sẻ niềm vui nơi phồn hoa đô hội. Được ‘cùng anh’ hành hương đến văn cảnh chùa Tam Thanh, đến chiêm ngưỡng nàng Tô Thị, em sẽ ‘cùng anh’ đi chơi phố, chơi chợ Kì Lừa. Hai chữ ‘cùng anh’ – cùng sánh vai anh, thể hiện chít phong tình, hào hoa của chàng trai đang nhắn gọi, vẫy gọi trong du xuân, trẩy hội:
‘Dập dìu đôi lứa thanh tân,
Cùng đi trẩy hội chùa gần chùa xa’
Có đi lên xứ Lạng ‘cùng anh’ mới thỏa nỗi ước mong, mới ‘bõ công bác mẹ sinh thành ra em’, kẻo phí đi, kẻo hoài đi một thời xuân trẻ. ‘Bõ công’ nghĩa là đáng công, xứng công. Công ở đây là công sinh thành của cha mẹ đã sinh đẻ, bú mớm, nâng niu, nuôi dưỡng, dạy bảo em nên người. ‘Công cha nghĩa mẹ đức cù lao’. Chữ ‘bác mẹ’ nghĩa là cha mẹ, một cách gọi tôn kính người cha. Với phong cách phong tình hào hoà, với lối nói thậm xưng, tác giả đã ca ngợi cảnh đẹp Đổng Đăng là một cảnh đẹp hiếm có trên đời. Một cách tỏ tình bâng quơ thế mà đã làm xao xuyến tâm hồn bao thiếu nữ gần xa xưa nay.
– ‘Ai lên Đồng Tỉnh, Huê Cầu,
Đồng Tỉnh bán thuốc, Huê Cẩu nhuộm thâm.
Nào ai đi chợ Thanh Lăm,
Mua anh một áo vải thâm hạt dền’
– ‘Ai về Tuỳ Phước ăn nem,
Ghé qua Hưng Thịnh mà xem Tháp Chàm’
Đoạn ca dao trên đây đã phản ánh một nét đẹp trong tâm hồn con người Việt Nam: Đó là tình yêu quê hương đất nước, là niềm khao khát được sống trong tình duyên hạnh phúc khi lễ hộì mùa xuân đã về.
Chất dân dã với chất phong tình hào hoà, vẻ đẹp văn hóa với sinh hoạt đời thường kết hợp một cách hài hòa nên thơ. Phép liệt kê, cách nói thậm xưng đã tạo nên sức hấp dẫn hồn nhiên, tình tứ, gợi cảm.
Đọc đoạn ca dao trên, ta như được sống lại trong không khí lễ hội mua xuân, tưởng như đang được cùng ‘ai’ hành hương về Đồng Đăng xứ Lạng, cùng đến chơi phố, chơi chợ Kì Lừa, cùng say mê ngắm nàng Vọng Phu, cùng thăm hang động, chùa Tam Thanh. Để rồi cùng ‘ai’ trầm ngâm:
‘Ai ơi đứng lại mà trông,
Kìa núi thành Lạng, kìa sông Tam Cờ’
|
Commentary on the folk song Dong Dang has Ky Lua street
Instruct
'Dong Dang Huu Pho,
Ky Lua decides his name.
Thach Huu To Thi,
Self-existing Tam Thanh.
Goodbye to the family,
Newborn Vo Thien...'
Comparing the Chinese poetry of Tam Nguyen Yen Do, we can determine the appearance of the folk song consisting of 14 six-eight verses. The folk song is a message to a lover from afar, secretly with him in Lang, as poet Tan Da says, it is 'Letter to an unknown lover' which sounds vast. The last two sentences sound like a legendary prophecy:
'When will the pagoda fall into the river?
The rocks have drifted away, the fields are left alone."
The four sentences in the first paragraph are the best and easiest to understand:
'Dong Dang has Ky Lua street,
There is To Thi, there is Tam Thanh pagoda,
Who comes to Lang with me?
It's worth your effort to give birth to me...'
In the first two sentences, with the rhythm 2/4/4/4/ in three strokes, the folk poet has generally introduced the landscape of Dong Dang in Lang Son province of our country:
'Dong Dang/ has Pho'Ky Lua,
There is To Thi / there is Tam Thanh Pagoda'
Ky Lua street has the famous and bustling Ky Lua market. It is a Vietnam - China border market, not only rich in goods, forestry and land products, but also famous for its highland love market. The melodies of mountain folk songs float and play, with indigo colored costumes, with horses carrying sandalwood, star anise, dried bamboo shoots, wood ear mushrooms, Nung, Tho, Tay girls and boys... entwined together. has become a material and spiritual way of life, a cultural beauty rich in identity for many generations. It was like that hundreds of years ago, it's still like that today, although the colors are more modern. Who has once in their life visited Ky Lua street, gone to see Ky Lua market? Ky Lua in Turkish is Khau Lu. Lang Son Tho people call Ky Lua market Khau Lu groin (groin: market; khau: earth mountain; lu: fire). Ky Lua Market is located near the banks of Ky Cung River today.
Two folk songs introduced and praised the wonderful and charming scenery of Dong Dang, which is 'the third fenced place to the North' ('Du Dia Chi' - Nguyen Trai) of Dai Viet. It seems to attract the souls of people from near and far, tourists immerse themselves deeply in legends and myths, finding so much joy, so much sadness about a place on the Northern border, rich in historical tradition and culture. age long.
The word 'yes' repeated three times expresses the passion, excitement and pride of the people of Lang and of tourists when standing in front of so many beautiful scenes and cultural relics. Also a way of describing little but evoking a lot, the two verses have opened up an artistic space, like a small film reel. Scenes slowly appear: Ki Lua street..., To Thi,... Tam Thanh pagoda,... there are so many similar associations about the landscape and people of Lang.
In terms of structure, these two folk songs are shaping the speeches about the homeland:
– ‘Bac Can/ has streams to pan for gold,
There is Ba Be Lake I, there is a lady in blue shirt'
– ‘Binh Dinh/ has Vong Phu mountain,
There is Thi Nai lagoon / there is Green island'
The next two sentences are a message, beckoning:
‘Whoever comes to Lang with me,
It's worth your effort to give birth to me'
‘Who’ is a personal pronoun, talking about everyone. Reading folk songs and listening to folk songs sometimes makes us feel like we are in it. In folk songs, in context
Hey, the word 'ai' often refers to beautiful girls in all parts of the country. 'Who comes to Lang with me' to have a couple and a partner to share the joy of in the bustling metropolis. If I can 'go with you' on a pilgrimage to the landscape of Tam Thanh Pagoda, to admire To Thi, I will 'with you' to go out on the streets and visit Ky Lua market. The two words 'with you' - together with you, express the love and magnanimity of the young man who is calling and beckoning during spring travel and festivals:
'Helping young couples,
Let's go to temple festivals near and far away'
Only if I go to Lang 'with you' will I be able to fulfill my wish, I will 'worth my mother's effort to give birth to you', lest I waste my time, lest I miss out on a time of youth. 'Worth the effort' means worth the effort, worthy of the effort. The merit here is the merit of the parents who gave birth, nursed, cherished, nurtured, and taught the child to be a good person. 'The merit of father and mother is the virtue of the island'. The word 'uncle mother' means father and mother, a way to honor the father. With a harmonious style and exaggeration, the author praised the beauty of Dong Dang as a rare beauty in the world. Such a carefree way of expressing love has stirred the hearts of many girls from near and far.
– ‘Who goes to Dong Tinh, Hue Cau,
Dong Tinh sells medicine, Hue Cau is dyed dark.
Who goes to Thanh Lam market?
Buy me a shirt of amaranth-stained fabric'
– ‘Who comes to Tuy Phuoc to eat spring rolls,
Stop by Hung Thinh to see Cham Towers'
The above folk song reflects a beauty in the soul of Vietnamese people: It is the love for the homeland, the desire to live in happy love when the spring festival has come.
Rustic nature with harmonious style, cultural beauty with daily activities combine in a poetic harmony. The enumeration and exaggeration create an innocent, affectionate, and sexy appeal.
Reading the folk song above, we feel like we are reborn in the spring festival atmosphere, as if we are going on a pilgrimage with 'someone' to Dong Dang in Lang, going to the streets, visiting the Ky Lua market, and admiring her together. Vong Phu, visit the cave and Tam Thanh pagoda. Then ponder with 'ai':
'Hey, stop and look,
Behold Lang Citadel mountain, behold Tam Co river'
|
Bình giảng bài ca dao Đứng bên ni đồng
Hướng dẫn
Bình giảng bài ca dao Đứng bên ni đồng
Đứng bên ni đồng ngó bên tê đồng, mênh mông bát ngát,
Đứng bên tê đồng ngó bên ni đồng, cũng bát ngát mênh mông
Thân em như chẹn lúa đòng đòng
Phất phơ dưới ngọn nắng hồng ban mai.
Bài làm
Có câu hát nào đẹp như ca dao dân ca? Ca dao dân ca đã hòa nhập một cách hồn nhiên, kì diệu vào tâm hồn tuổi thơ của mỗi người. Ca dao dân ca Việt Nam giàu bản sắc, vô cùng đẹp đẽ và phong phú. Nó là tiếng hát tâm tình nơi bờ xôi ruộng mặt, nơi bến cũ đò xưa., lưu luyến trong dân gian, phản ánh cuộc sống và ước mơ của nhân dân ta từ bao đời nay. Có những khúc hát ru ngọt ngào chứa chan tình nghĩa. Có những bài hát giao duyên say đắm lòng người. Có những bài ca nói về đất nước quê hương, với nương dâu, ruộng lúa, với hình ảnh người dân quê một nắng hai sương, cần mẫn, hiền lành, đáng yêu. Cánh cò “bay lả bay la”, có đầm sen “lá xanh bông trắng lại chen nhị vàng”. Cô thôn nữ tát nước đêm trăng “múc ánh trăng vàng đổ đi”… tất cả đều đem đến cho lòng ta biết bao niềm thương nỗi nhớ. Ấy là ca dao. Ấy là tuổi thơ của mỗi chúng ta. Cánh đồng làng quê và hình ảnh cô thôn nữ được nói đến trong bài ca dao sau đây là hình ảnh thân thuộc đáng yêu đối với mỗi người Việt Nam từ ngàn xưa:
Đứng bên ni đồng ngó bên tê đồng, mênh mông bát ngát,
Đứng bên tê đồng ngó bên ni đồng, cũng bát ngát mênh mông.
Thân em như chẹn lúa đòng đòng,
Phất phơ dưới ngọn nắng hồng ban mai.
Ca dao thường được viết bằng thể thơ lục bát. Nhưng ở bài ca dao này, nhà thơ dân gian đã viết bằng thơ lục bát biến thể, mở rộng câu thơ thành 12, 13 từ. Cô thôn nữ không làm chuyện văn chương thơ phú như ai, mà cô chỉ nói lên những rung động, những cảm xúc tự nhiên, hồn nhiên của lòng mình khi ngắm nhìn cánh đồng lúa thân yêu của làng mình. Trước mắt là cánh tồng lúa “bát ngát mênh mông… mênh mông bát ngát”, thẳng cánh cò bay, càng trông càng “ngó”, càng thích thú tự hào. Câu ca dài mãi ra cùng với chân trời, với sóng lúa: Đứng bên ni đồng ngó bên tê đồng, mênh mông bát ngát, Đứng bên tê đồng ngó bên ni đồng, cũng bát ngát mênh mông. “Ngó” gần nghĩa với với nhìn, trông, ngắm nghía.. Từ “ngó” rất dân dã trong văn cảnh này gợi tả một tư thế say sưa ngắm nhìn không chán mắt, một cách quan sát kĩ càng. Cô thôn nữ “đứng bên ni đồng ngó bên tê đồng” rồi lại “đứng bên tê đồng ngó bên ni đồng”, dù ở vị trí nào, góc độ nào, cô rồi lại “đứng bên tê đồng ngó bên ni đồng”, dù ở vị trí nào, góc độ nào, cô cũng cảm thấy sung sướng tự hào trước sự “mênh mông bát ngát… bát ngát mênh mông” của cánh đồng thân thuộc. Hai tiếng “bên ni” và “bên tê” vốn là tiếng nói của bà con Thanh, Nghệ dùng để chỉ vị trí “bên này”, “bên kia”, được đưa vào bài ca thể hiện đức tính mộc mạc, chất phác của cô thôn nữ, của một miền quê.
Đứng bên ni đồng ngó bên tê đồng, mênh mông bát ngát,
Đứng bên tê đồng ngó bên ni đồng, cũng bát ngát mênh mông
Tục ngữ có câu: “Ngắm núi, nhìn sông, trông đồng, trông chợ”. Nghĩa là ngắm nhìn sông núi để biết xứ lạ ít hay nhiều nhân tài; trông đồng, trông chợ mà biết miền quê giàu hay nghèo. Cánh đồng lúa là cảnh sắc của làng quê ta. Cánh đồng “mênh mông bát ngát… bát ngát mênh mông” nói lên sự giàu có của quê “em”. Bằng tấm lòng yêu mến, tự hào nơi chôn nhau cắt rốn của mình, mảnh đất đã thấm biết bao máu và mồ hôi của ông bà tổ tiên, của đồng bào từ bao đời nay thì nhà thơ dân gian mới có thể viết nên những lời ca mộc mạc mà đằm thắm nghĩa tình đọc lên làm xao xuyến lòng người như vậy. Câu ca không hề nói đến màu xanh và hương thơm của lúa, sắc trắng của cánh cò “chớp trắng” trên nền trời xanh bao la, mà ta vẫn cảm thấy cái ngào ngạt của “hương lúa nếp thơm nồng”, “mùa thu hương cốm mới”, nơi bờ ruộng mật quyện lấy tâm hồn ta. Nhờ thế, ta yêu thêm đất mẹ quê cha, với hoài niệm tuổi thơ:
Cánh cò bay trong sắc trời lá mạ.
(Lê Anh Xuân) Hai câu tiếp theo nói về cô thôn nữ ra thăm đồng. Niềm vui sướng trào dâng trong lòng. Nhìn lúa tốt tươi rồi cô nghĩ về mình. Cô không mặc cảm thân phận mình là “hạt mưa sa”, “là tấm lụa đào”, là “củ ấu gai”., như ai đó, thân phận vui ít buồn nhiều. Trái lại, cô đã so sánh mình với chẹn lúa đòng đòng trên cánh đồng quê hương. “Chẹn lúa” còn gọi là dảnh lúa, một bộ phận của khóm lúa. “Chẹn lúa đòng đòng” nói lên sự trưởng thành, sinh sôi nẩy nở, hứa hẹn một mùa sây hạt, trĩu bông. Hình ảnh so sánh “thân em như chẹn lúa đòng đòng” gợi tả một vẻ đẹp duyên dáng, xinh tươi, một sức lực căng tràn hứa hẹn. Đây là một hình ảnh trẻ trung, khỏe khoắn, hồn nhiên nói về cô gái Việt Nam trong ca dao, dân ca: Thân em như chẹn lúa đòng đòng, Phất phơ dưới ngọn nắng hồng ban mai. “Phất phơ” là nhẹ nhàng đung đưa, uốn lượn… “Chẹn lúa đòng đòng” phất phơ nhẹ bay trước làn gió trên đồng nội một buổi sớm mai hồng tuyệt đẹp. “Em” sung sướng hân hoan thấy hồn mình phơi phới niềm vui trước một bình minh đẹp. Có thể dùng hình ảnh “tia nắng”, “làn nắng” mà ý câu ca dao vẫn không thay đổi. Nhưng “ngọn nắng” hay hơn, sát nghĩa hơn, vì đó là làn nắng, tia nắng đầu tiên của một ngày nắng đẹp, ánh hồng rạng đông đang nhuốm hồng ngọn lúa đòng đòng xanh ngào ngạt.
Đọc bài ca dao này có người tự hỏi: buổi sớm mai hồng của mùa xuân hay mùa thu? Mùa xuân mới có “ngọn nắng hồng ban mai” đẹp rực rỡ như thế. Vả lại đã có thiếu nữ thì phải có mùa xuân. Người đọc xưa nay vẫn cảm nhận là cô thôn nữ vác cuốc ra thăm đồng một sáng sớm mùa xuân đẹp.
Tóm lại, bài ca dao nói về mùa xuân, đồng xanh và thôn nữ. Cảnh và người rất thân thuộc, đáng yêu. Cảnh vừa có diện vừa có điểm, câu ca đồng hiện không gian nghệ thuật và thời gian nghệ thuật “đơn sơ mà lộng lẫy”. Thơ lục bát biến thể sống động, lối so sánh ví von đậm đà, ý vị. “Thơ ca là sự chắt lọc tâm hồn, là tình yêu ta mơ ước…”. Đọc bài ca dao “Đứng bên ni đồng ngó bên tê đồng…”, ta cảm thấy như thế, hương quê và tình quê làm vương vấn tâm hồn ta, đem đến cho ta “tình yêu và mơ ước”.
|
Commentary on the folk song Standing next to the nuns
Instruct
Commentary on the folk song Standing next to the nuns
Standing next to the fields, looking at the fields, vast and vast,
Standing on the side of the field and looking at the other side of the field, it is also immense
My body is like blocking rice fields
Floating under the pink morning sunlight.
Assignment
Is there any song as beautiful as a folk song? Folk songs have innocently and magically integrated into each person's childhood soul. Vietnamese folk songs are rich in identity, extremely beautiful and rich. It is a sentimental song on the shores of fields, at old wharfs, lingering in the folk, reflecting the lives and dreams of our people for many generations. There are sweet lullabies filled with love. There are love songs that captivate people's hearts. There are songs about the homeland, with its mulberry fields, rice fields, with the image of the countryside people who are both sunny and dewy, diligent, gentle, and lovely. The stork's wings are "flying away", there is a lotus pond with "green leaves and white flowers interspersed with yellow stamens". The village girl splashed water on a moonlit night, "scooping up the golden moonlight and pouring it away"... all of this brings so much love and nostalgia to our hearts. That's a folk song. That is the childhood of each of us. The village fields and the image of the village girl mentioned in the following folk song are lovely and familiar images to every Vietnamese person since ancient times:
Standing next to the fields, looking at the fields, vast and vast,
Standing on the side of the field and looking at the other side of the field, it is also immense.
My body is like a block of rice,
Floating under the pink morning sunlight.
Folk songs are often written in six-eight verse form. But in this folk song, the folk poet wrote in six-eight variations, expanding the verse into 12 or 13 words. The village girl did not do poetic literature like anyone else, but she only expressed the vibrations and natural, innocent emotions of her heart while looking at the beloved rice fields of her village. In front of our eyes is a rice field "immense and immense... immense and vast", flying straight with a stork's wing, the more we look, the more we "look", the more excited and proud we become. The long song goes out with the horizon, with the rice waves: Standing on the side of the field, looking at the side of the field, vast and immense, Standing on the side of the field, looking at the side of the field, also immense. “Look” is close in meaning to looking, looking, watching. The word “look” is very simple in this context, describing a posture of passionately watching without getting tired of the eyes, a way of observing carefully. The village girl "stands next to the nuns and looks at the nuns' side" and then "stands next to the nuns and looks at the nuns' side", no matter what position or angle, she then "stands next to the nuns and looks at the nuns". No matter what position or angle, she feels happy and proud before the "vastness... immensity" of her familiar fields. The two words "beside ni" and "been numb" are the language of the Thanh and Nghe people, used to refer to the location "this side" and "that side", and are included in the song to express the rustic and simple virtues. of a village girl, of a countryside.
Standing next to the fields, looking at the fields, vast and vast,
Standing on the side of the field and looking at the other side of the field, it is also immense
There is a proverb that says: "Look at the mountains, look at the river, look at the fields, look at the market". It means looking at the mountains and rivers to know whether a foreign country has more or less talented people; Look at the fields and markets to know whether the countryside is rich or poor. Rice fields are the scenery of our village. The "immense... immense" fields speak of the wealth of "my" hometown. Only with love and pride for the place of one's birth, the land that has absorbed so much blood and sweat from ancestors and compatriots for many generations, can folk poets write poems. The lyrics are simple but full of love when read, making people's hearts flutter. The song does not mention the green color and fragrance of rice, the white color of the stork's wings "flashing white" against the vast blue sky, but we still feel the sweetness of "the fragrant scent of sticky rice", "autumn". The scent of new green rice flakes" on the edge of the honey field mingles with our souls. Thanks to that, we love our motherland more, with childhood nostalgia:
Stork wings fly in the sky of leaves.
(Le Anh Xuan) The next two sentences talk about a village girl visiting the fields. Joy welled up in my heart. Looking at the lush rice, she thought about herself. She does not feel guilty about her status as "a raindrop", "a peach silk", "a thorny tuber". Like someone else, her fate is more or less happy, more or less sad. On the contrary, she compared herself to a rice field in her hometown. “Rice block” is also called rice block, a part of the rice clump. “Suppressing rice fields” speaks of maturity and proliferation, promising a season of sowing seeds and abundant flowers. The comparative image "your body is like a block of rice" evokes a graceful, beautiful beauty, a promising strength. This is a youthful, healthy, innocent image of a Vietnamese girl in folk songs and folk songs: My body is like a block of rice, fluttering under the pink morning sun. "Floating" means gently swaying, winding... "Ching rice fields" flutters gently in the breeze in the fields on a beautiful pink morning. "I" was happy and joyful as I saw my soul exploding with joy before a beautiful sunrise. You can use the images "rays of sunshine" and "sunshine" but the meaning of the folk song remains unchanged. But "sunshine" is better, more literal, because it is the rays of sunlight, the first rays of a beautiful sunny day, the pink light of dawn is tinting the fragrant green rice fields.
Reading this folk song, some people wonder: is the pink morning of spring or autumn? The new spring has such beautiful and brilliant "pink morning sunlight". Besides, if there is a girl, there must be spring. Readers have always felt like a village girl carrying a hoe to visit the fields on a beautiful spring morning.
In short, the folk song talks about spring, green fields and village women. The scene and people are very familiar and lovely. The scene has both face and point, the song simultaneously represents the artistic space and artistic time "simple yet splendid". Six-eight poems have vivid variations, rich and meaningful comparisons and similes. "Poetry is the distillation of the soul, the love we dream of...". Reading the folk song "Standing on the side of the field, looking at the side of the field...", we feel like that, the countryside and love of the countryside linger in our souls, bringing us "love and dreams".
|
Bình giảng bài ca dao: Bây giờ mận mới hỏi đào…
Hướng dẫn
Bình giảng bài ca dao: Bây giờ mận mới hỏi đào…
Hỏi xa anh lại hỏi gần
Hỏi em phỏng độ đương xuân thế nào
Thấy em là gái má đào
Lòng anh chỉ muốn ra vào kết duyên
Quê hương chúng ta không những chỉ tự hào về những truyền thống thống tốt đẹp, những di sản văn hóa và còn tự hào về kho tàng văn học rất phong phú và đa dạng. Trong đó có những bài ca dao dân ca về đạo lí làm người, những cung cách ứng cử trong cuộc sống và về tình yêu tươi đẹp của tuổi xuân lứa đôi:
“Bây giờ mận mới hỏi đào
Vườn hồng đã có ai vào hay chưa?
Mận hỏi thì đào xin thưa
Vườn hồng có lối nhưng chưa ai vào”
Bài ca dao này nói về tình yêu tươi đẹp của người con gái và người con trai mới lớn. Nó giống như một giai điệu của một bản nhạc không lời nhưng da diết và thiết tha khiến ai trong cuộc đời cũng muốn nghe.
Mở đầu là hai câu dặm hỏi:
“Bây giờ mận mới hỏi đào
Vườn hồng đã có ai vào hay chưa?”
Tác giả thật khéo léo trong việc lựa chọn ngôn từ để diễn tả. Ở đây tác giả ý muốn mượn hình ảnh của mận và đào để bắt đầu về tình yêu đôi lứa. “Mận” là hình ảnh đại diện cho người con trai còn “Đào” là hình ảnh đại diện cho người con gái. “Bây giờ mận mới hỏi đào” chàng trai muốn ngỏ lời với cô gái liền hỏi cô gái. Cách đối đáp giao duyên này thật hay và ý nghĩa về nét đẹp của nhân dân ta. Đây là một phần dạm hỏi rất là tế nhị và cũng đầy hài hước “Vườn hồng đã có ai vào hay chưa” Chàng trai muốn hỏi cô gái đã có người thương chưa nếu chưa có hãy cho chàng cơ hội để chàng có thể mang lại hạnh phúc cho cô.
Hai câu sau là lời đáp đầy táo bạo và hài hước của cô gái:
“Mận hỏi thì đào xin thưa
Vườn hồng có lỗi nhưng chưa ai vào”
Cô gái liền nói “xin thưa” thể hiện sự nhẹ nhà và tế nhị cộng sự đoan trang, cung kính với người khác. Đây là một đức tính đẹp của người con gái trong bài thơ nói riêng và của người phụ nữ Việt nam nói chung. Đó không phải là vẻ đẹp bề ngoài da trắng, mặt xinh mà đó là vẻ đẹp sâu thẳm bên trong cn người. Thời gian có trôi vẻ đẹp bên ngoài có thể tàn phai theo năm tháng nhưng vẻ đẹp tâm hồn thì vẫn mãi khắc sâu trong tâm hồn. Rồi cô gái trả lời rõ một cách rành mạch “Vườn hồng có lỗi nhưng chưa ai vào” ý cô muốn nói cô chưa có người thương và cô cũng chưa thương ai để cho chàng trai hiểu hơn về cô gái.
Đồng thời qua những ý đáp của cô gái cũng cho ta thấy được cô gái cũng có ý thích đối với chàng trai, vì là con gái cô rất ngại và thẹn thùng không dám ngỏ lời trước đến khi chàng trai hỏi thì người con gái mới dám ngỏ lời nên qua câu đó chúng ta cũng hiểu được rằng đôi trai gái này đang thích nhau.
Như vậy ta thấy được kho tàng văn học nước ta rất đẹp và phong phú nó chất chứa được biết bao tình cảm đẹp và thiêng liêng. Dù thời gian có trôi đi nhưng những âm hưởng của nó vẫn ngân vang trong cuộc sống về một nét đẹp bình dị của dân tộc. Tình yêu lứa đôi luôn là nguồn cảm hướng bất diệt để con người ta làm nên những trang văn đẹp và ý nghĩa.
|
Commentary on the folk song: Only now do plums ask for peaches...
Instruct
Commentary on the folk song: Only now do plums ask for peaches...
If you ask far away, he will ask closer
Ask me how spring is
I see you are a girl with peach cheeks
His heart just wants to get married
Our homeland is not only proud of its fine traditions and cultural heritage, but also proud of its rich and diverse literary treasures. In it there are folk songs about human ethics, ways to run for office in life and about the beautiful love of a couple's youth:
“Now plums ask for peaches
Rose Garden has anyone in or not?
When plum asks, peach asks
The rose garden has a path but no one has entered yet."
This folk song talks about the beautiful love between a girl and a teenage boy. It's like the melody of a song without lyrics but so passionate and passionate that everyone in life wants to hear it.
It starts with two questions:
“Now plums ask for peaches
Rose Garden has anyone in or not?"
The author is very skillful in choosing words to describe. Here the author wants to borrow the images of plums and peaches to start talking about love between couples. “Plum” is the image representing a boy and “Dao” is the image representing a girl. "Now plums ask for peaches" the boy wanted to propose to the girl and immediately asked the girl. This way of responding to love is very beautiful and meaningful about the beauty of our people. This is a very delicate and humorous part of asking, "Is there anyone in the rose garden yet?" The boy wants to ask if the girl has a lover, if not, give him a chance so he can love her. happy for her.
The following two sentences are the girl's bold and humorous answers:
“When plum asks, peach asks
The rose garden has an error but no one has entered yet."
The girl immediately said "please" to show gentleness and delicacy, dignity and respect towards others. This is a beautiful virtue of the girl in the poem in particular and of Vietnamese women in general. It's not the outer beauty of white skin and pretty face, it's the beauty deep inside a person. As time passes, external beauty may fade over the years, but inner beauty is forever engraved in the soul. Then the girl answered clearly and clearly, "The rose garden is at fault but no one has entered." What she meant was that she had no one to love and she also did not love anyone so that the boy could better understand the girl.
At the same time, the girl's responses also show us that the girl also has an interest in the boy. Because she is a girl, she is very shy and shy and does not dare to ask first until the boy asks. dare to ask, so through that sentence we can understand that this couple likes each other.
Thus we can see that our country's literary treasure is very beautiful and rich, it contains so many beautiful and sacred emotions. Even though time has passed, its echoes still resonate in life about the simple beauty of the nation. A couple's love is always an eternal source of inspiration for people to create beautiful and meaningful literature.
|
Bình giảng bài ca dao: Thiếp nhớ chàng tấm phên hư nuộc lại đứt…
Hướng dẫn
Bình giảng bài ca dao: Thiếp nhớ chàng tấm phên hư nuộc lại đứt…
Thiếp nhớ chàng tấm phên hư nuộc lại đứt
Chàng nhớ thiếp, khi đắng nuớc lúc nghẹn cơm
Ba trăng là mấy mươi hôm
Mai nam vắng trước, chiều nồm quạnh sau
Người Việt Nam vốn là những con người trọng tình trọng nghĩa nên khi xa rồi họ có những nỗi nhớ đầy vơi khôn xiết. Nói về chủ đề này có bài ca dao:
Thiếp nhớ chàng tấm phên hư nuộc lại đứt
Chàng nhớ thiếp, khi đắng nuớc lúc nghẹn cơm
Ba trăng là mấy mươi hôm
Mai nam vắng trước, chiều nồm quạnh sau
Có lẽ chỉ có yêu thương tự nguyện và thật sự thì nỗi nhớ mới đầy vơi khôn xiết như vậy. Nỗi nhớ bắt đầu khi hai người cách xa.
Thiếp nhớ chàng tấm phên hư nuộc lại đứt
Chàng nhớ thiếp, khi đắng nuớc lúc nghẹn cơm
Hai câu đầu tác giả ý nói về sự xa cách tình yêu của một đôi vợ chồng, người chồng cứ xa mãi không về còn người vợ thì cứ ở nhà mòn mỏi chờ mong chồng về. Nỗi nhớ ấy da diết làm sao “thiếp nhớ chàng” và “Chàng nhớ thiếp” lại càng nói rõ hơn về sự xa cách. Hai con người tuy xa nhau nhưng tâm hồn, sự yêu thương họ vẫn luôn dành những tình cảm đẹp nhất cho nhau. Nhưng vì nhà quá nghèo chồng lại đi xa một mình người phụ nữ chân yếu tay mềm cô đơn trước túp lều tệch toạch “Chiếc phiến hư, nuộc lại đứt”. Mỗi khi nắng mưa thất thường nàng biết làm sao đây. Cuộc sống thật biết trêu lòng người. Giờ đây một mình người phụ nữ cô đơn bên mái lều tranh chỉ biết ngậm ngùi thở dài mà ứa lệ vì mong ngóng chồng trở về.
Thiếp xa chàng hái rau quên giỏ
Chàng xa thiếp bứt cỏ quên liềm…
Tình yêu tuổi trẻ thật đẹp và cuồng nhiệt khiến con người ta dù đi đâu hay làm gì cũng luôn nhớ về nhau. Chàng trai trong bài ca dao này cũng vậy đứng ngồi không yên lúc nào trong tâm trạng cũng đầy ắp nỗi nhớ, nhớ cả khi ăn, nhớ cả khi uống nước. Điều này được diễn tả rất sâu trong hai từ “đắng”,”nghẹn”. Cách thể hiện tình yêu và nỗi nhớ này thật bình dị mà xâu sắc khiến ai cũng có thể thấy được tình yêu lòng cháy của tuổi trẻ.
Nếu chỉ đọc hai câu đầu thôi thì ta hoàn toàn không hiểu được lí do mà người chồng đi xa là gì. Phải chăng chàng trai trong bài ca dao đi làm ăn xa, đi lính hay là đi làm gì? Chỉ khi ta đọc đến câu thứ ba ta mới hoàn toàn hiểu rõ được lí do người chồng đi xa:
Ba trăng là mấy mươi hôm?
Ba năm trấn thủ lưu đồn,
Ngày thì canh điểm, tối dồn việc quan.
Chém tre đẵn gỗ trên ngàn,
Hữu thân hữu khổ phàn nàn cùng ai!
Miệng ăn măng trúc, măng mai,
Những giang cùng nứa, biết ai bạn cùng?
Ba năm là thế đó người chồng thì cứ biền biệt ở nơi phương xa còn người vợ thì vẫn ngồi nhà đợi chồng về. Qua câu nó này ta cũng thấy được hoàn cảnh đất nước chiến tranh khiến tình yêu tuổi trẻ, tình cảm vợ chồng bị chỉ xa. Đôi vợ chồng này là nhân vật đại diện cho sự ly biệt của tình yêu trong xã hội xưa. Họ mong ngóng chiến tranh nhanh kết thúc để về cùng đoàn tụ với gia đình.
Mai nam vắng trước, chiều nồm quạnh sau
Một câu nói tuy có tám chữ nhưng đồng thời thể hiện được thời gian nghệ thuật “mai man”, Không gian nghệ thuật “trước, sau”, tâm trạng nghệ thuật “vắng, quạnh” của bài ca dao. Đây là lời của người phụ nữ muốn nhắn nhủ đến người chồng ở phương xa trong túp lều tranh đã buộc nạt ở nhà trước và sau đều vắng lặng và hưu quạnh. Những khi gió nam hay những buổi chiều nồm cũng chỉ có một mình thiếp cô đơn mòn mỏi chờ chàng về. Căn nhà vốn đã vắng vẻ giờ lại càng hưu quạnh hơn khiến nỗi buồn tủi của người phụ nữ càng dâng cao.
|
Commentary on the folk song: I miss you, the fabric is broken and broken...
Instruct
Commentary on the folk song: I miss you, the fabric is broken and broken...
I miss you, the fabric is broken and broken
He misses me, sometimes his water is bitter, sometimes he chokes on rice
Three moons is several dozen days
The morning is deserted first, the afternoon is lonely later
Vietnamese people are inherently loving people, so when they are far away, they have indescribable nostalgia. Talking about this topic, there is a folk song:
I miss you, the fabric is broken and broken
He misses me, sometimes his water is bitter, sometimes he chokes on rice
Three moons is several dozen days
The morning is deserted first, the afternoon is lonely later
Perhaps only with voluntary and true love can nostalgia be so full and indescribable. Nostalgia begins when two people are far apart.
I miss you, the fabric is broken and broken
He misses me, sometimes his water is bitter, sometimes he chokes on rice
In the first two sentences, the author talks about the separation of love between a couple, the husband is always far away and does not return and the wife stays at home waiting for her husband to return. That nostalgia is so intense that "I miss you" and "I miss you" speaks even more clearly about the separation. Although two people are far apart, their souls and love still have the most beautiful feelings for each other. But because the family was too poor, the husband went far away alone, and the weak-legged and weak-armed woman was alone in front of the shabby hut. "The blade was broken, the knot broke." Every time the sun and rain are erratic, she knows what to do. Life really knows how to tease people. Now the lonely woman beside the thatched hut can only sigh sadly and shed tears as she longs for her husband's return.
The concubine was far away from picking vegetables and forgot the basket
The young concubine plucked the grass and forgot the sickle...
Young love is so beautiful and passionate that no matter where we go or what we do, we always remember each other. The boy in this folk song also stands still, always in a mood full of nostalgia, remembering even when eating, remembering even when drinking water. This is expressed very deeply in the two words "bitter", "choking". This way of expressing love and nostalgia is so simple and profound that everyone can see the burning love of youth.
If we only read the first two sentences, we absolutely cannot understand the reason why the husband went away. Did the young man in the folk song go to work far away, join the army, or do something else? Only when we read the third sentence do we fully understand the reason the husband went away:
Three moons is how many thirty days?
Three years of guarding the garrison,
During the day, watch the clock, and at night focus on official duties.
Chopping bamboo and wood over thousands,
Friends, friends, suffering, complaining to anyone!
The mouth eats bamboo shoots, apricot shoots,
Those who share the same life, who do you know?
It's been like that for three years, the husband is still in a far away place and the wife is still sitting at home waiting for her husband to return. Through this sentence, we can also see that the country's war situation causes youthful love and marital love to be distanced. This couple is a character representing the separation of love in ancient society. They look forward to the war ending quickly so they can reunite with their families.
The morning is deserted first, the afternoon is lonely later
Although a saying has eight words, it at the same time expresses the "miserable" artistic time, the "before and after" artistic space, and the "empty, lonely" artistic mood of the folk song. These are the words of a woman who wants to send a message to her husband who lives far away in a thatched hut and is forced to stay at home before and after. When the south wind blows or the afternoon is hot, I am alone and lonely, waiting for him to return. The already deserted house is now even more deserted, making the woman's sadness even greater.
|
Bình giảng bài ca người thợ mộc trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam.
Hướng dẫn
Bình giảng bài ca người thợ mộc trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam.
Hình ảnh trong thơ Việt Nam phong phú đa dạng từ những hình ảnh thiên nhiên, tới cảnh vật con người. Những hình ảnh từ sang trọng chỉn chu cho tới những hình ảnh giản dị. Hình ảnh của người thợ mộc với khúc nhạc trữ tình mà thơ lục bát mang lại đã khiến người đọc có những cảm giác thật gần gũi và chân thực
Mở đầu bài thơ là những dòng giới thiệu về người thợ mộc và những thứ liên quan tới anh, như quê quán, anh làm gì tay nghề ra sao và đặc biệt những câu thơ miêu tả sự khéo léo điêu luyện và tay nghề coa của anh thợ mộc
Anh là thợ mộc Thanh Hoa
Làm cầu, làm quán, làm nhà khéo tay
Lưu cột anh dựng đòn tay
Bảo trơn đóng bén nó ngay một bề
Những người thợ mộc thanh hóa từ lâu đã được biết đến là những người tài hoa có khả năng làm mộc đẹp và công phu. Vòa đề bằng câu thơ ANH LÀ thợ mộc thanh hoa như dẫn dắt người đọc vào thẳng vấn đề.
Với tài năng của mình người thợ mộc ấy có thể bằng sự khéo léo và tài nghệ của mình để làm được nhiều thứ. Anh tự mình có thể nâng cột gỗ trong nhà để làm ra những tác phẩm đẹp. Khúc gỗ nào bị hỏng anh lại bào hết chúng đi cho ngay ngắn. và những gì anh giới thiệu đưuọc phô ra với những câu nói đầy mãn nguyện và tự hào với người con gái mà anh đem lòng quí mến
Bốn con dê đực chầu về tổ tong
Bốn cửa anh chạm bốn rồng
Trên thì rồng ấp, dưới thì rồng leo
Tài năng của anh thợ mộc thục sự đã đưuọc biết đến qua cách giới thiệu của anh tới với mọi người, đặc biệt là người con gái. Những thứ anh làm không chỉ có nói suông nữa mà là những tác phẩm có thật cụ thể và chi tiết đó là những hìn ảnh về những thứ mà anh thợ mộc chạm khắc ở những công trình có sự góp mặt của anh
Những con thú mà được coi là linh thú thời kì bấy giờ như rồng ấp hay rồng đang leo đang cuộn mình, những tư thế thật cực kì khó để làm và chạm khắc nhưng anh thợ mộc vẫn làm được
Quạ còn móm mỗi lại
Dê còn giữ lề quý
Khuyên ai đạo làm con
Đọc sách nên có hiếu
Qua những con vật mà anh chạm khắc và những đức tính của chúng thì anh thợ mộc như có ý nhắc khéo với người anh thương rằng chính anh đây cũng là người giữ tình trọng tình trọng nghĩa và thuye chung son sắt, yêu thương một người cho tới hết cuộc đời
Bốn cửa anh chạm bốn mèo
Con thì bắt chuột, con leo xà nhà
Bốn cửa anh chạm bồn gà
Đêm thì nó gáy, ngày ra ăn vườn
Bốn cửa anh chạm bốn lươn
Bên cạnh chạm trổ và làm ra những con vật quyền quí linh thiêng thì còn có những con vật khác những con vật gần gũi với cuộc sống của mỗi một gia đình người dân Việt Nam như con mèo, con gà, con lươn chúng đều là những con vật luôn chăm chỉ và cực kì gần gũi với mỗi người.
Bốn cửa anh chạm bốn hoa
Trên là hoa sói, dưới là hoa sen
Bốn cửa anh chạm bốn đèn
Một đèn dệt cửi, một đèn quay tơ
Một đen đọc sách ngâm thơ
Một đèn anh để anh chờ nàng đây
Tiếp đến là những hình ảnh cây cỏ hết sức bình dị như những bông hoa sói, hoa sen. Chúng luôn mang một vẻ đẹp thuần khiết và thanh tao là hình ảnh ẩn dụ của người con gái anh thương. Và dường như hiện ra theo lời kể của anh còn là hình ảnh của một gia đình hạnh phúc, ấm áp, qua đó chúng ta cũng thấy được những nét hồn nhiên tâm hồn đôn hậu và cũng hết sức nhạy cảm của anh thợ mộc
Hình ảnh của anh thợ Mộc là tiêu biểu cho người nông dân chất phác nhưng cũng hết sức tài nghệ và có tâm hồn hết sức hồn nhiên và đầy lòng yêu thương và vun đắp. anh thợ Mộc cũng là hình ảnh điển hình cho hình ảnh của người dân lao động cần cù, luôn cố gắng trong công việc mang trong mình những tâm hồn hết sức nghệ sĩ và tình yêu với con người, với cuộc sống.
|
Commentary on the carpenter's song in the treasury of Vietnamese folk literature.
Instruct
Commentary on the carpenter's song in the treasury of Vietnamese folk literature.
Images in Vietnamese poetry are rich and diverse, from natural images to human scenes. The images range from sophisticated elegance to simple images. The image of the carpenter and the lyrical music that Luc Bat poetry brings gives readers a feeling of closeness and authenticity.
The poem begins with lines introducing the carpenter and things related to him, such as his hometown, what he does, how skilled he is, and especially the verses describing the skillful craftsmanship and skill of the carpenter. carpenter
He is carpenter Thanh Hoa
Making bridges, making shops, and making houses skillfully
Luu tied him up and raised his arm
Be sure to sharpen it right on one side
Thanh Hoa carpenters have long been known as talented people with the ability to make beautiful and elaborate carpentry. Introducing the topic with the poem "I AM a Thanh Hoa carpenter" seems to lead the reader straight to the problem.
With his talent, that carpenter can use his ingenuity and talent to do many things. He can lift wooden columns in his house himself to create beautiful works. Whenever any piece of wood was damaged, he planed it all to make it neat. and what he introduced was revealed with words full of satisfaction and pride to the girl he loved.
Four male goats flanked their ancestors
Four doors he touches four dragons
Above, the dragon broods, below, the dragon climbs
The carpenter's talent was truly known through his introduction to everyone, especially the girl. The things he does are not just talk anymore, but are real, specific and detailed works that are images of things that carpenters carve in projects with his presence.
The animals that were considered sacred beasts at that time, such as brooding dragons or climbing dragons, were extremely difficult to make and carve, but the carpenter was still able to do it.
The crow still has a toothless mouth
The goat still maintains the quarter margin
Advise anyone to be a child
Reading books should be filial
Through the animals he carved and their virtues, the carpenter seemed to cleverly remind the person he loved that he was also a person who respected love, respect, loyalty, and loved one person. for the rest of your life
Four doors he touches four cats
I catch mice, I climb rafters
The four doors he touches the chicken tank
At night it crows, and during the day it goes out to eat in the garden
Four doors he touched four eels
Besides carving and creating sacred and precious animals, there are also other animals that are close to the lives of every Vietnamese family such as cats, chickens, and eels. Animals are always hardworking and extremely close to each person.
Four doors he touches four flowers
Above is a wolf flower, below is a lotus flower
He touches four lights on four doors
One loom lamp, one silk spinning lamp
One black read a book and recited poetry
Here's a light for me to wait for her
Next are images of very simple plants such as wolf flowers and lotus flowers. They always carry a pure and elegant beauty, a metaphor for the girl he loves. And it seems that what appears in his words is also the image of a happy, warm family, through which we can also see the innocent features of the carpenter's kind and very sensitive soul.
The image of the Carpenter is typical of a simple farmer who is also very talented and has a very innocent soul, full of love and nurturing. The carpenter is also a typical image of a hard-working person who always tries his best at work, has a very artistic soul and a love for people and life.
|
Đề bài: Bình giảng Bài ca ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ
Bài làm
Xưa nay, thông thường với loại thơ tự trào, tự vịnh thế này, các tác giả hay mượn bút pháp ngoa ngôn, lộng ngữ pha chút khẩu khí để thể hiện mình. Nguyễn Công Trứ ở “Bài ca ngất ngưởng ” này khác hẳn. Ông đã khách thể hoá từ những sự, những việc rất thực của cuộc đời chỉ riêng ông mới có để khẳng định con người ông. Trong bài thơ, bốn lần ông nhắc lại hai chữ “ngất ngưởng”. “Ngất ngưởng" không chỉ còn là một từ gợi hình nữa, mà đã thành biểu tượng tính cách của một con người không phải ngẫu nhiên mà trên một trăm bài thơ, trong đó có sáu mươi mốt bài ca trù, chỉ có bài này tác giả đặt tên là "Bài ca ngất ngưởng”. Đương thời và hậu thế đều thừa nhận Nguyễn Công Trứ: một chàng trai, một ông quan, một vị tướng, một lão già ngất ngưởng. Cái ngất ngưởng in bóng vào một thời đại, chính là ông.
Nguyễn Công Trứ cũng như hầu hết các nhà nho xưa, đều thành đạt từ cửa Khổng, sân Trình. Trước sau ông vẫn là một tín đồ tuyệt đối trung thành của Khổng giáo:
“Hay tám vạn nghìn tư mặc kệ
không quân thần phụ tử đếch nên người".
Và hẳn ông cũng biết rằng: một trong những điều cốt lõi của nhà nho là cách xử thế hợp lẽ trung dung, kị những gì thái quá. Nhưng rồi Nguyễn Công Trứ nhiều mặt đã quá ngưỡng, vượt qua biên giới người thường… Có lẽ không một nhà nho nào mà lại như Nguyễn Công Trứ; nâng tất cả mọi mặt sinh hoạt đời thường của người “quân tử”, của kẻ sĩ lên một thứ đạo, một triết lí. Trong văn thơ, ông nói đến rất nhiều thứ nợ: nợ cầm thư, nợ tang bồng, nợ phong lưu, nợ trần hoàn, nợ anh hùng, nợ công danh. Đã là cái nợ thì phải đa mang, phải vay trả, trả vay… “Ông Hi Văn tài bộ" đã tự ví mình như cây cau:
“Kinh thiên một cột giơ tay chống
Dẫu gió lung lay cũng chẳng nao”
hoặc với chiếc trống đại:
“Hiên bệ giỏ đưa dùi cắc cắc,
Giang sơn sấm động tiếng tùng tùng”.
Không có sự khẳng định tài năng ấy thì làm gì nghĩ được đến nhiều cái nợ như vậy, và làm sao đủ sức mà trang trải công nợ với đời? Sự thực là với món nợ nào, Hi Văn tiên sinh cũng "hăm hở ra tài kinh tế”, cũng “vẫy vùng cho phỉ ức", cũng “làm nên tiếng lẫy lừng đâu đấy tỏ”. Cái “Ngất ngưởng", cái “nết ương” của Nguyễn Công Trứ còn ở chỗ: ông ống rất thực với mình, thực với người, thực với đời. Các thi nhân xưa thường viết về những gì phổ quát, tập trung vào thiên chức của kẻ sĩ; còn về cái bản ngã thì không nói đến, hoặc là hàm ẩn trong dòng chảy “Văn dĩ tải đạo”. Riêng thơ văn Nguyễn Công Trứ thì khác: ông không hề giấu giếm, không hề né tránh, ông sống đời thường thế nào thì thơ văn ông cũng ánh lên như thế vậy. Ví như khi đã ngoài vòng cương toả, tuổi ngoài bảy mươi, ông vẫn nặng nợ phong lưu, quen thói đa tình:
“Thú tiêu sầu rượu rót thơ đề,
Có yến yến hường hường mới thú ”
Từ đó, có lẽ Nguyễn Công Trứ là nhà thơ lớp cổ cận đại trong văn học lịch sử nước nhà viết về tình yêu nhiều nhất, có cả “Yêu hoa”, “Duyên gặp gỡ", có cả “Vịnh chữ tình", “Vịnh sầu tình”, lại có cả “Tương tư”, “Bỡn cô đào già”… Say thơ và thú ả đào, là hai mặt tài và tình nổi bật ở Nguyễn Công Trứ. Ông vẫn tự cho mình là khách sành chơi.Ông từng nói “Trong tuần mấy mặt làng chơi… Biết mùi chưa dễ mấy người”. Già lão rồi, ông vẫn cổ suý: "Chơi xuân kẻo hết xuân đi", “Nếu không chơi, thiệt ấy ai bù"… Nguyễn Công Trứ trước sau “vãn giữ nết ương". Chất Nguyễn Công Trứ là chất nhất quán. Cái ngất ngưởng tự tin thời loạn hải ba đào đã trở thành cái ngất ngưởng ngang tàng khi đã ngoài vòng cương tỏa.
Lúc về hưu trí ở quê nhà, ông đi đâu cũng “Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng". Nhưng ngất ngưởng hơn nữa là ở đuôi con bò cái vàng úp một tấm mo cau, người ta hỏi thì ông nói là “để che miệng thế gian". Nhiều giai thoại nói chi tiết “Gót tiên theo đủng đỉnh một đôi dì". Ông thường đi chơi các chùa, gần thì như chùa Cấm Sơn trên núi Đại Nại, xa như chùa Hương Tích, chùa Thiên Hương trên núi Hồng Lĩnh, lúc nào cũng dẫn theo mấy cô hầu gái “Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng"…
Cái nết ương, cái ngất ngưởng, cái ngạo nghễ kiêu bạc ở Nguyễn Công Trứ là thái độ sống của một người tự tin, tự khẳng định tài năng của mình, ý thức rõ ràng về bản ngã của mình giữa một thuở giao thời:
“Được, mất dương dương… không vướng tục".
Lâu nay người ta vẫn cho rằng thơ văn Nguyễn Công Trứ là một khối mâu thuẫn lớn; thực ra nó rất thống nhất, rất nhất quán. Cái ngất ngưởng trong thơ ông là sự định hình một tính cách, một bản lãnh trong cuộc sống, trong sáng tạo nghệ thuật. Cái ngất ngưởng ấy là của riêng Nguyễn Công Trứ và cũng là sản phẩm của một thời triều Nguyễn, của một vùng quê, của ông đồ xứ Nghệ. Ba mươi năm làm quan, bảy lần bị thất sủng, giáng chức, không hề làm suy giảm bản chất của ông, trái lại, nhân cách ấy càng được khẳng định. Ngày nay, nhớ đến Nguyễn Công Trứ là nhớ đến một “ công trình sư" có công khai phá, tạo lập hai huyện trù phú Tiền Hải, Kim Sơn, nhớ đến một nghệ sĩ tài hoa, và nhớ đến một nhân cách sớm khẳng định bản ngã trong lịch sử tư tưởng Việt Nam – mà bài thơ ca trù “Bài ca ngất ngưởng” là một biểu hiện.
|
Topic: Commentary on Nguyen Cong Tru's sublime song
Assignment
In the past, usually with this type of self-satisfying and self-praising poetry, authors often borrowed exaggeration and profanity mixed with a bit of rhetoric to express themselves. Nguyen Cong Tru in this "Sweet Song" is completely different. He objectified from the very real things and events of life that only he had to affirm his personality. In the poem, four times he repeats the two words "overwhelming". "Exciting" is no longer just a suggestive word, but has become a symbol of a person's personality. It is not by chance that in over a hundred poems, including sixty-one ca tru songs, this one is the only one. The author named it "The Overwhelming Song". Contemporaries and posterity all recognized Nguyen Cong Tru: a young man, a mandarin, a general, and an extremely old man. The ecstasy that looms large over an era is him.
Nguyen Cong Tru, like most ancient Confucian scholars, achieved success through Confucianism and Trinh. He has always been an absolutely loyal follower of Confucianism:
“Or eight thousand thousand four, never mind
The father and son of the Air Force are no good."
And he probably also knew that: one of the core things of a Confucian scholar is a reasonable and moderate way of behaving, avoiding excesses. But then Nguyen Cong Tru in many ways exceeded the threshold, transcending the border of ordinary people... Perhaps there is no other scholar like Nguyen Cong Tru; Elevate all aspects of daily life of the "gentleman" and the scholar to a religion, a philosophy. In his poetry, he talked about many types of debt: mortgage debt, funeral debt, windfall debt, bare debt, heroic debt, and reputation debt. Since it is a debt, it must be borne, borrowed, and repaid... "Mr. Hi Van Tai Bo" compared himself to an areca tree:
“A pillar of Kinh Thien raised its hand to support it
Even if the wind shakes, it won't waver."
or with the big drum:
“The basket's pedestal is filled with sticks and sticks,
Jiangshan thunders with the sound of pine trees.
Without that confirmation of talent, how could one think of so many debts, and how would one have the strength to pay off one's debts to life? The truth is that with any debt, Mr. Hi Van was "eager to show off his economic fortune", also "struggled for revenge", and also "made a famous name somewhere". The "overwhelming" and "naiveness" of Nguyen Cong Tru also lies in the fact that he is very true to himself, true to others, true to life. Ancient poets often wrote about universal things, focusing on nature. The position of a scholar; but the ego is not mentioned, or it is implicit in the flow of "Literature of the path". Nguyen Cong Tru's poetry is different: he never hides it, never avoids it No matter how he lived in everyday life, his poetry also reflected the same. For example, when he was out of control, over seventy years old, he was still heavily in debt to the world and used to being amorous:
“An animal that consumes sorrow and wine pours out poems,
It's fun to have a pink bird's nest"
Since then, perhaps Nguyen Cong Tru is the poet of the ancient and modern class in the country's historical literature who wrote the most about love, including "Love Flowers", "Destiny of Encounters", including "The Bay of Love", "The Bay of Sorrows", also includes "Sad Love", "Old Girl's Play"... Poetry and A Dao's passion are the two outstanding aspects of talent and love in Nguyen Cong Tru. He still considers himself a connoisseur. He once said, "During the week, there are many aspects of the entertainment industry... It's not easy for many people to know the taste." Even when he is old, he still advocates: "Play before the spring ends", "If you don't play, who will make up for the loss"... Nguyen Cong Tru always "preserves his good manners". Nguyen Cong Tru's quality is consistent. The overwhelming confidence during the chaos of Hai Ba Dao has become arrogant and arrogant once outside the strictures.
When he retired to his hometown, wherever he went, he "wore a golden cow and horse to wear it admirably". But what was even more amazing was that on the tail of the golden cow was a palm tree. When people asked him, he said it was "to cover his head". the mouth of the world". Many anecdotes detail "The ancestors follow a pair of aunts". He often went to pagodas, near Cam Son pagoda on Dai Nai mountain, far away like Huong Tich pagoda, Thien Huong pagoda on Hong Linh mountain, sometimes They always bring along a few maids, "Buddha is so funny, he's ecstatic"...
The stubbornness, the ecstasy, the arrogance and arrogance in Nguyen Cong Tru are the life attitudes of a confident person, self-affirming his talents, and a clear sense of his ego in the midst of a time of transition:
"Yes, loss of yang yang... no customs problems".
For a long time, people have believed that Nguyen Cong Tru's poetry is a mass of great contradictions; It's actually very unified, very consistent. The ecstasy of his poetry is the shaping of a personality, a bravery in life, and in artistic creation. That ecstasy belongs to Nguyen Cong Tru and is also the product of a period of the Nguyen Dynasty, of a countryside, of a master of Nghe An. Thirty years as an official, being disgraced and demoted seven times, did not diminish his character, on the contrary, it was further affirmed. Today, remembering Nguyen Cong Tru is remembering a "engineering engineer" who was instrumental in discovering and creating the two prosperous districts of Tien Hai and Kim Son, remembering a talented artist, and remembering a personality who soon asserted himself. Defining the ego in the history of Vietnamese thought - of which the Ca Tru poem "Sweet Song" is an expression.
|
Đề bài: Bình giảng bài Mộ (Chiều tối) của Hồ Chí Minh để làm nổi bật vẻ đẹp cổ điển và hiện đại của bài thơ
Bài làm
Tháng 10 năm 1942, trên đường bị giải đi từ nhà tù Thiên Bảo đến nhà ngục Long Tuyền trên đất Quảng Tây, Trung Quốc, Hồ Chí Minh viết bài thơ "Chiều tối" (Mộ). Đây là bài thơ số 31 trong "Ngục trung nhật kí”, bài thất ngôn tứ tuyệt mang vẻ đẹp cổ điển và hiện đại:
"Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ,
Cô văn mạn mạn độ thiên không;
Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc,
Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng”.
Bài thơ tả cảnh chiều tối nơi xóm núi xa lạ và thể hiện cảm xúc, nỗi niềm của người chiến sĩ trên con đường đi đày.
Bức tranh thiên nhiên xóm núi lúc chiều tối được miêu tả bằng hai nét rất gợi cảm. Một cánh chim mỏi mệt (quyện điểu) bay về rừng tìm cây trú ẩn. Một áng mây cô đơn, lẻ lơi (cô vân) lơ lửng giữa bầu trời. Cảnh đẹp và thoáng buồn (mệt mỏi, cô đơn), đối nhau rất hài hòa. Chỉ hai nét vẽ, tả ít mà gợi nhiều đã làm hiện lên cái hồn của cảnh vật. Cánh chim nhỏ nhoi nhẹ hay, áng mây cô đơn nhẹ trôi; tác giả đã vận dụng thi pháp cổ rất sáng tạo, đã lấy điểm để vẽ diện, lấy động để tả tĩnh, gợi lên một bầu trời mênh mông, bao la, một không gian vô cùng tĩnh lặng, vắng vẻ. Bức tranh thiên nhiên chiều tối mang vẻ đẹp cổ điển đầy thi vị:
"Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ,
Cô vân mạn mạn độ thiên khôn)".
(Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ,
Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không).
Ngoại cảnh đã thể hiện tâm cảnh của nhân vật trữ tình. Cánh chim và áng mây, chữ "quyện" (quyện điểu) và chữ "cô" (cô vân) có giá trị biểu hiện cảm xúc một mỏi, nỗi niềm cô đơn của nhà thơ sau một ngày dài bị giải đi nơi đất khách quê người. Bức tranh thiên nhiên "Chiều tối" mang tính ước lệ tượng trưng đặc sắc, nó đem đến cho ta bao liên tưởng về những vần thơ đẹp:
"Chim hôm thoi thót về rừng"
(Truyện Kiều)
"Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa".
(Tràng giang)
Hai câu thơ cuối bài "Chiều tối" tả cảnh dân dã đời thường nơi xóm núi. Hai nét vẽ vừa trẻ trung vừa bình dị hiện đại: thiếu nữ xay ngô và lò than đã rực hồng:
"Sơn thân thiếu nữ ma bao túc,
Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng".
Ba chữ "ma bao túc" được điệp lại, đảo lại thành "bao túc ma hoàn” có giá trị thẩm mĩ đặc sắc. Nó vừa gợi tả sự chuyển động liên tục, mải miết của cái cối xay ngô, vừa thể hiện đức tính cần mẫn của cô thiếu nữ nơi xóm núi, đồng thời tạo nên âm điệu nhịp nhàng của vần thơ. Hình ảnh "lò than đã rực hồng” (lô dĩ hồng) gợi lên một mái ấm gia đình yên vui.Trên đường đi đày nơi đất khách xa lạ, tâm hồn nhà thơ vẫn gắn bó với nhịp sống cần lao, hướng về ngọn lửa hồng, làm vợi đi ít nhiều cô đơn lẻ loi, thầm mơ ước về một cảnh gia đình đoàn tụ đầm ấm. Chữ "hồng'"đặt cuối bài thơ, thi pháp cổ gọi là "thi nhãn", làm sáng bừng bức tranh xóm núi trong chiều tối. "Hồng'' là ánh sáng của lò than rực cháy, cũng là ánh sáng của tâm hồn Hồ Chí Minh. Một tâm hồn rất lạc quan, yêu đời.
Bức tranh "Chiều tối" từ tư tưởng đến hình tượng, từ không gian, thời gian đến cảm xúc đều được miêu tả, diễn tả trong trạng thái vận động. Vận động từ cảnh sắc thiên nhiên bầu trời đến bức tranh sinh hoạt trong gia đình, từ ngày tàn đến tối mịt, từ nỗi buồn mệt mỏi cô đơn đến niềm vui ấm áp đoàn tụ, từ bóng tối hướng tới ánh sáng. Nghệ thuật lấy sáng, lấy ánh lửa hồng để tả bóng tối màn đêm rất đặc sắc. Trong nguyên tác bài "Mộ" không có chữ "tối" mà người đọc vẫn cảm thấy trời đã tối hẳn rồi. Câu thơ dịch đã thêm vào một chữ "tối", đó là điều ta cần biết:
"Cô em xóm núi xay ngô tối,
Xay hết lò thun đã rực hồng".
Bài thơ tứ tuyệt "Chiều tối" mang vẻ đẹp cổ điển, hiện đại. Ngôn ngữ hàm súc gợi cảm. Hình tượng cánh chim, áng mây mang tính ước lệ, đẹp mà thoáng buồn. Bút pháp tinh tế, điêu luyện. Một tâm hồn trong sáng, hồn hậu, giàu cảm xúc: yêu thiên nhiên và yêu đời. Đi đày mà phong thái nhà thơ thật ung dung tự tại.
|
Topic: Commentary on Ho Chi Minh's Grave (Evening) to highlight the classic and modern beauty of the poem
Assignment
In October 1942, on the way to be taken from Thien Bao prison to Long Tuyen prison in Guangxi, China, Ho Chi Minh wrote the poem "Evening" (Tomb). This is poem number 31 in "Prison Diary", a seven-word poem with classic and modern beauty:
"The bird returns to the forest to search for the tree,
She writes arrogantly to the sky;
The ghostly girl in the mountain village is surrounded by ghosts,
Bao Su Ma Hoan Lo Di Hong ".
The poem describes the evening scene in a strange mountain village and expresses the feelings and thoughts of a soldier on the road to exile.
The natural picture of a mountain village at dusk is depicted with two very sexy features. A tired bird flew back to the forest to find shelter in a tree. A lonely, solitary cloud (her) floats in the sky. The scene is beautiful and slightly sad (tired, lonely), very harmoniously opposite each other. Just two strokes, less descriptive but more evocative, bring out the soul of the scene. The wings of a small bird are light, the lonely clouds float lightly; The author has used ancient poetics very creatively, using points to draw faces, using movements to describe stillness, evoking a vast, vast sky, an extremely quiet, deserted space. The painting of nature at dusk has a classic and poetic beauty:
"The bird returns to the forest to search for the tree,
She's so arrogant and arrogant that she's so smart."
(Tired birds return to the forest to find a place to sleep,
Clouds float gently in mid-air.
The exterior scene shows the lyrical character's state of mind. Bird wings and clouds, the word "Quyen Dieu" and the word "she" (co Van) have the value of expressing the poet's feelings of fatigue and loneliness after a long day of being taken to a foreign land. hometown. The natural painting "Evening" has a unique symbolic convention, it gives us many associations of beautiful poems:
"Birds return to the forest at night"
(Kieu story)
"Layers of high clouds extruding silver mountains,
The bird tilts its small wings in the shadow of the falling afternoon.
(Trang Giang)
The last two verses of the poem "Evening" describe the everyday folk scene in the mountain village. Two drawings that are both youthful and simple, modern: a girl grinding corn and a glowing charcoal stove:
"The body of a young girl is covered with ghosts,
Bao Su Ma Hoan Lo Li Hong".
The three words "ma baoc" are repeated and reversed to form "ma baobao" which has a unique aesthetic value. It not only describes the continuous, engrossed movement of a corn mill, but also represents virtue. The diligence of the young woman in the mountain village also creates the rhythmic tone of the poem. The image of "a glowing coal furnace" (pink lotus) evokes a peaceful and happy family on the way Exiled in a foreign land, the poet's soul is still attached to the rhythm of hard work, towards the red fire, to alleviate some of the loneliness, secretly dreaming of a warm family reunion. The word "pink" is placed at the end of the poem, an ancient poetic practice called "eye poetry", brightening the picture of the mountain village in the evening. "Hong" is the light of a burning brazier, also the light of Ho Chi Minh's soul. A very optimistic soul, loving life.
The painting "Evening" from thoughts to images, from space, time to emotions are all depicted and expressed in a state of movement. Movement from the natural scenery of the sky to the picture of family activities, from the end of day to darkness, from sadness, fatigue and loneliness to the warm joy of reunion, from darkness towards light. The art of using light and red fire to describe the darkness of the night is very unique. In the original poem "Mo" there is no word "dark" but the reader still feels that the sky is already dark. The translated verse has added the word "dark", which is what we need to know:
"The girl from the mountain village grinds corn at night,
After grinding, the kiln turned pink."
The quatrain poem "Evening" has classic and modern beauty. Sexy, concise language. The images of bird wings and clouds are conventional, beautiful but slightly sad. Exquisite and skillful penmanship. A pure, kind, emotional soul: loves nature and loves life. Despite being exiled, the poet's demeanor is very leisurely and carefree.
|
Bình giảng bài Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh của Lí Bạch
Hướng dẫn
… Suốt cuộc đời mấy mươi năm ‘chống kiếm bỏ quê hương, từ biệt cha mẹ viễn du’ và khi qua đời ở tỉnh An Huy, hình ảnh của quê hương, nhất là những đêm trăng sáng thanh tĩnh đối với ông rất tha thiết, đầy nỗi nhớ thương. Tinh cảm sâu lắng đó Lí Bạch đã diễn tả trong bài thơ ‘cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh’ (Tĩnh dạ tứ).
Nếu bài ‘Xa ngắm thác núi Lư’ là một bài thơ tả cảnh thiên nhiên hùng tráng, thì ‘Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh’ là một bức tranh thiên nhiên thanh tĩnh. Thời gian trong bài ‘Xa ngắm thác núi Lư’ là ban ngày, ánh nắng mặt trời chiếu rọi. Thời gian trong bài ‘Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh’ là ban đêm, ánh trăng sáng bàng bạc. Bài ‘Xa ngắm thác núi Lư’ ca ngợi cảnh đẹp thác nước. Bài ‘Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh’ là tình cảm suy tư trong đêm trăng sáng.
Như tựa đề, bài thơ mang hai nội dung – Nội dung miêu tả ‘đêm thanh tĩnh’ (tĩnh dạ) và suy nghĩ (tư) của tác giả trong đêm thanh tĩnh đó. Để làm nổi bật nội dung thứ nhất, Lí Bạch đã dùng ba câu thơ ‘Ngũ ngôn tứ tuyệt’. Ba câu thơ ngắn gọn, hàm súc, miêu tả cảnh ban đêm thanh tĩnh. Đêm thanh tĩnh là đêm bầu trời trong xanh, mát mẻ, không có tiếng động, cảnh vật vắng lặng, êm ả, thơ mộng, trữ tình. Ngay từ câu thơ đầu, chủ đích của Lí Bạch là tả ánh trăng sáng để tượng trưng cho đêm thanh tĩnh. Ánh trăng ở đây chẳng những sáng mà còn tràn ngập, chan hòa và dịu hiền. Qua âm điệu khoan thai của câu thơ 5 chữ, sự thanh tĩnh, yên tĩnh hiện lên một cách tự nhiên, đáng yêu. Ánh trăng chiếu sáng trên bầu trời, ở mặt đất và ở đầu giường.
Ba câu thơ đầu đơn thuần là miêu tả cảnh vật. Mà cảnh vật tưởng tượng ở đây là ánh trăng sáng. Từ miêu tả ngoại cảnh, Lí Bạch đi sâu vào miêu tả nội tâm. Nội tâm mà tác giả diễn tả trong câu thơ cuối là tâm trạng. Hai câu thơ cuối tuy hai mà một. Tuỳ câu 3 và câu 4 có khác nhau, ngôn từ, ý tứ không tương đồng, nhưng nó đều bộc lộ hai trạng thái tâm trạng (Ngẩng đầu nhìn trăng sáng – Cúi đầu nhớ cô’hương).
Từ ‘vọng’ bao hàm sự ngưỡng mộ, ưu ái. Từ ‘minh nguyệt’ được lặp lại nhưng không hề tạo cảm giác thừa mà trái lại làm người đọc thấy được tâm tình thiết tha, quyến luyến của Lí Bạch đối với trăng sáng mông lung.
Tình yêu quê hương đậm đà, như máu trong tim, như hơi thở của tác giả. Tính cách thâm trầm, kín đáo được tác giả thể hiện rất cảm xúc, đầy suy tư ở hai câu thơ sau. Hai câu thơ đối nhau rất chỉnh từng từ, từng ý. Mối liên hệ chặt chẽ giữa vẻ đẹp thiên nhiên với tình yêu, cảm xúc của con người trước sự vật. Ba câu thơ đầu gợi lên hình ảnh rất đẹp của thiên nHiên, nhưng chính câu thơ cuối mới là ‘câu thơ thần’, ‘điểm gút’ của bài thơ. Đây là câu thơ ‘khép’, là đỉnh cao của cảm xúc tác giả dồn nén lại.
‘Ý tại ngôn ngoại’.Với hai mươi chữ giản đơn mà chan chứa cả tâm tình ngưỡng mộ vẻ đẹp thiên nhiên. Tình yêu thiên nhiên mơ mộng tuyệt vời, tình cảm nhớ thương quê hương tha thiết của Lí Bạch được thể hiện lên qua từng câu, từng chữ của bài thơ ‘ngũ ngôn tứ tuyệt’ tuyệt vời này.
Nếu cái hay của bài ‘Xa ngắm thác núi Lư’ là sự rộng lớn, hùng tráng của thiên nhiên được diễn tả bằng sức tưởng tượng phi thường, phong phú, thì cái hay của bài ‘Suy nghĩ trong đêm thanh tĩnh’ là độ sâu của cảm xúc, ở sự thầm kín, bình dị và đầy chất thơ của cảnh vật. Cảnh thác núi Lư ‘ngỡ dải Ngân Hà tuột khỏi mây’ làm cho người đọc bàng hoàng sửng sốt, thì hình ảnh ‘đầu giường ánh trăng rọi, ngỡ mặt đất phủ sương’ cũng làm cho người đọc bàng hoàng, sửng sốt vì sự quan sát và miêu tả tinh vi của Lí Bạch.
|
Binh lectures on Ly Bach's Thoughts in a Quiet Night
Instruct
… During his life of several decades of 'fighting the sword and leaving his homeland, saying goodbye to his parents who traveled far away' and when he passed away in Anhui province, the image of his homeland, especially the quiet moonlit nights, was very dear to him. , full of nostalgia. That deep feeling was expressed by Ly Bach in the poem 'Thoughts in the Quiet Night' (Tinh Da Tu).
If the poem 'From afar watching Lu mountain waterfall' is a poem describing a majestic natural scene, then 'Thoughts in a quiet night' is a picture of tranquil nature. The time in the song 'Viewing Lu Mountain Waterfall' is daytime, the sun is shining. The time in the song 'Thoughts in a quiet night' is night, the moonlight is bright and silver. The song 'Viewing Lu Mountain Waterfall from afar' praises the beautiful scenery of the waterfall. The song 'Thoughts in a quiet night' is a sentimental reflection on a moonlit night.
As the title suggests, the poem has two contents - the content describes the 'quiet night' (quiet night) and the author's thoughts (thoughts) during that quiet night. To highlight the first content, Ly Bach used the three verses 'Five words and four great words'. Three short, concise verses, describing a quiet night scene. A quiet night is a night where the sky is clear, cool, no noise, the scenery is quiet, peaceful, poetic, and lyrical. Right from the first verse, Ly Bach's intention is to describe the bright moonlight to symbolize the quiet night. The moonlight here is not only bright but also overwhelming, gentle and gentle. Through the gentle tone of the 5-word poem, serenity and tranquility appear naturally and lovingly. Moonlight shines in the sky, on the ground and at the head of the bed.
The first three verses simply describe the scene. The imaginary scene here is bright moonlight. From describing the exterior, Ly Bach goes deeper into describing the interior. The inner feeling that the author describes in the last verse is the mood. The last two verses are two but one. Although sentences 3 and 4 are different, the language and meaning are not the same, but they both express two states of mind (Raise your head to look at the bright moon - Bow your head to miss your soul).
The word 'hope' implies admiration and favor. The word 'moon moon' is repeated but does not create a feeling of redundancy. On the contrary, it makes the reader see Ly Bach's passionate feelings and attachment to the hazy bright moon.
Love for the homeland is as strong as the blood in the heart and the author's breath. The author's deep and discreet personality is expressed very emotionally and thoughtfully in the following two verses. The two verses contrast each word and each idea very well. The close connection between natural beauty and human love and emotions towards things. The first three verses evoke a very beautiful image of nature, but it is the last verse that is the 'magic verse', the 'key point' of the poem. This is the 'closing' verse, the culmination of the author's pent-up emotions.
'The meaning is in the foreign language'. With twenty simple words, it is filled with admiration for natural beauty. Ly Bach's wonderful, dreamy love for nature and his passionate nostalgia for his homeland are expressed through every sentence and every word of this wonderful 'five-syllable' poem.
If the beauty of the song 'Viewing Lu Mountain Waterfall' is the vastness and majesty of nature expressed with extraordinary, rich imagination, then the beauty of the song 'Thoughts in a quiet night' is the depth of emotion, in the secret, simplicity and poetry of the landscape. The scene of Mount Lu waterfall 'as if the Milky Way had slipped out of the clouds' makes the reader shocked and shocked, while the image of 'the moonlight shining on the head of the bed, as if the ground is covered with frost' also makes the reader shocked and shocked by the Li Bach's sophisticated observations and descriptions.
|
Đề bài: Bình giảng bài Mới ra tù, tập leo núi của Hồ Chí Minh
Bài làm
"Lại thương nỗi đọa đày thân Bác
Mười bốn trăng tê tái gông cùm
Ôi chân yếu mắt mờ tóc bạc
Mà thơ bay… cánh hạc ung dung".
(Theo chân Bác)
Đoạn thơ cảm động trên đây của Tố Hữu đã làm hiện lên trong tâm trí chúng ta hình ảnh Bác Hồ sau khi thoát khỏi nhà tù của chính quyền Tưởng Giới Thạch tại Liễu Châu, Trung Quốc, đồng thời giúp chúng ta cảm nhận "Ngục trung nhật kí" của Người.
Ngay sau khi giành được tự do, để phục hồi thể lực, Bác Hồ kiên trì tập luyện: tập khí công, tập bơi, tập leo núi,… tích cực chuẩn bị ngày lên đường trở về Tổ quốc thân yêu. Ngày Bác được tự do là ngày 10-9-1943; dự đoán bài thơ "Mới ra tù, tập leo núi" được Bác viếi vào cuối tháng 9 hoặc đầu tháng 10 năm 1943. Chữ "tân" trong nhan đề hài thơ cho ta niềm tin khẳng định đó.
Tác giả hồi kí "Vừa đi đường vừa kể chuyện" có ghi rõ là khi Bác đã trèo lên tận đỉnh ngọn núi cao. Bác đã xúc động viết bài thơ này:
"Vân ủng trùng sơn, sơn ủng vân,
Giang tâm như kính tịnh vô trần;
Bồi hồi độc bộ Tây Phong Lĩnh,
Dao vọng Nam thiên, ức cố nhân".
Bác đã ghi bài thơ vào rìa một tờ báo Trung Quốc, kèm theo dòng chừ sau: "Chúc chư huynh ở nhà mạnh khỏe và cố gắng công tác. Ở bên này bình yên". Bài thơ không chỉ mang tính chất "đưa tin" một cách bí mật mà còn mang ý nghĩa của một văn kiện lịch sử của Cách mạng Việt Nam. Theo hồi kí của Đại tướng Võ Nguyên Giáp cho biết, hồi ấy các yếu nhân của Tổng bộ Việt Minh tại căn cứ địa Cách mạng Cao -Bắc – Lạng vô cùng phấn khởi khi nhận được bài thơ này và đã phái người đi đón Bác.
Về phương diện thi ca, bài "Mới ra tù, tập leo núi" là một tác phẩm văn chương toàn bích thể hiện cốt cách thi sĩ Hồ Chí Minh: tâm hồn trong sáng, thiết tha yêu thiên nhiên, nặng tình đối với đất nước và bạn bè yêu quý. Cảnh sắc thiên nhiên và bức tranh tâm cảnh đều rất đẹp, rất đậm đà:
“ Vân ủng trùng sơn, sơn ủng vân
Giang tâm như kính tịnh vô trần”
Cảnh mây núi nhấp nhô trập trùng. Mây, núi được nhân hóa, trở nên hữu tình: núi ấp ôm mây, mây ấp núi. Mây núi quấn quýt, bao bọc lấy nhau. Một câu thơ bảy chữ mà chữ "vân", chữ "ửng", chữ "sơn" được điệp lại hai lần gợi tả cảnh mây núi tầng tầng lớp lớp, ngắm nhìn không chán mắt. Hình ảnh "trùng sơn" làm nổi bật vẻ đẹp hùng vĩ cảnh núi mây và cảm xúc dào dạt của nhà thơ lúc leo núi.
Câu thứ hai tả lòng sông (giang tâm). Mặt sông trong vắt, phẳng lặng được ví với tấm gương không một chút bụi mờ. Bầu trời có trong sáng thì người đứng trên núi cao mới cảm nhận gương sông đẹp như thế. Hai câu đầu bài thơ đã vẽ nên một bức tranh sơn thủy hùng vĩ, hữu tình. Với tâm trạng sảng khoái của nhà thơ chiến sĩ mới thoát cảnh tù ngục thì mới có cái nhìn say mê, nồng nàn, thú vị như vậy. Người xưa có nói: "Văn vô sơn thủy phi kì khí", nghĩa là văn chương không nói đến sông núi (không mang tình đất nước) thì không có khí chất kì lạ. Qua đó, ta cảm thấy thơ Hồ Chí Minh mang vẻ đẹp "kì khí" đáng yêu. Cảnh mây núi, sông nước ở đây là cảnh thực ở Liễu Châu về cuối thu hơn nửa thế kỉ trước. Đồng thời nó mang ý nghĩa tượng trưng cho lòng người, cho tình người. Ngoại cảnh thì hùng vĩ, hữu tình. Tâm cảnh thì trong sáng, yêu đời. Thi nhân vừa leo núi vừa ngắm nhìn vẻ đẹp sông núi, mây trời với phong thái ung dung và tâm hồn thanh cao tuyệt đẹp. Mây, núi, gương sông ấy là ba ẩn dụ mà nhà thơ Hồ Chí Minh gửi gắm tâm hồn mình, trạng thái mình:
"Đằng sau bức tranh phong cảnh này, đằng sau những mây núi trập trùng, đằng sau dòng nước sông trong dưới chân Tây Phong Lĩnh, ấn tượng không bao giờ phai nhạt trong tâm hồn của độc giả chính là tâm trạng vừa trong trắng sâu sắc, vừa cao cả của con người” (Đặng Thai Mai)
Chỉ với ba nét vẽ (vân, trùng sơn, giang tâm) mà tác giả đã gợi lên cái hồn vũ trụ. Mượn cảnh để tả tình, ngôn ngữ hàm súc, hình tượng – đó là vẻ đẹp cổ điển đầy thi vị trong bài thơ này của Bác. Câu thơ dịch khá hay:
"Núi ấp ôm mây, mây ấp núi,
Lòng sông gương sáng bụi không mờ”
Đã 2 mùa thu li hương, nếm trải đủ mùi cay đắng, thế mà tấm lòng nhà thơ vẫn đêm ngày nhớ nước khôn nguôi. Hai câu thơ 3, 4 nói lên tâm tình ấy:
"Bồi hồi độc bộ Tây Phong Lĩnh,
Dao vọng Nam thiên, ức cố nhân".
Tây Phong Lĩnh là dãy núi trập trùng ở Liễu Châu, Trung Quốc. Nam thiên là trời Nam hai địa danh ở 2 phía chân trời. Chữ "bồi hồi", chữ "dao vọng" và ba tiếng "ức cố nhân" diễn tả tâm trạng của Bác Hồ lúc leo núi.
"Bồi hồi" nghĩa là bồn chồn, không yên dạ. "Độc bộ" nghĩa là một mình bước đi; trong văn cảnh gợi lên sự lẻ loi, đơn độc. Càng leo núi lên cao càng hồi hồi, càng cảm thấy mình lẻ loi, đơn độc, mà dõi nhìn về phía chân trời xa. Người xưa khi đứng trên lầu cao mà man mác buồn, bởi lẽ "Nhật mộ hương quan hà xứ thị” người con gái lưu lạc ngậm ngùi xót xa: "Lòng quê đi một
bước đường một đau"… Tình cố hương, tình cố quốc là một trong những tình cảm sâu sắc thắm thiết của con người xưa nay:
"Quê hương nghĩa nặng tình sâu,
Bể dâu biến đối biết đâu là nhà".
Bác Hồ đã trải qua những năm dài bôn ba hải ngoại, đi tìm đường cứu nước, canh cánh trong lòng nỗi thương, nỗi nhớ vơi đầy: "Đêm mơ nước, ngày thấy hình của nước…" ("Người đi tìm hình của nước"). "Giờ đây" mỗi bước leo núi lên cao, Người lại hồi hồi thương nhớ: "Dao vọng Nam thiên, ức cố nhân". Dao vọng là trông vời, trông xa, ức cố nhân nghĩa là nhớ người xưa, nhớ bạn cũ, ở đây là Bác nhớ đồng chí thân yêu. Câu thơ 7 chữ nói lên được 2 nỗi nhớ: nhớ nước và nhớ bạn. Thơ hàm súc và biểu cảm là vậy.
Nhớ nước, nhớ bạn là tình cảm thường trực, thiết tha của Bác. Nhớ nước cả lúc thức và cả trong lúc mơ: "Saovàng năm cánh mộng hồn quanh" (“Không ngủ được"). Nhớ nước, nhớ quê suốt ngày suốt đêm, suốt cả năm tháng: "Năm tròn cố quốc tăm hơi vắng – Tin tức bên nhà bữa bữa trông" (“Tức cảnh"). Càng xa nước, Bác càng nhớ nước:
"Nghìn dặm bâng khuâng hồn nước cũ,
Muôn tơ vương vấn mộng sầu nay".
( Đêm thơ)
"Ức hữu" (Nhớ bạn) là một trong những chủ đề nổi bật trong "Nhật kí trong tù". Nhớ bạn với bao kỉ niệm, với bao nỗi khắc khoải chờ mong. Trong cảnh tù đày, Bác càng nhớ bạn:
"Ngày đi bạn tiễn đến bên sông,
Hẹn bạn về khi lúa đỏ đồng.
Nay gặt đã xong, cày đã khắp,
Quê người tôi vẫn chốn lao lung"
(Nhớ bạn)
Tình yêu nước là tình yêu sâu sắc nhất, mãnh liệt nhất của Hồ Chí Minh. Bác có nhiều bài thơ hay nói lên một cách chân thành, cảm động tình yêu nước ấy. Bài thơ "Mới ra tù, tập leo núi" đã thể hiện rất đẹp cảm hứng thiên nhiên trữ tình và cảm hứng yêu nước. Mỗi câu, mỗi chữ, mỗi vần thơ đều dạt dào tình yêu tạo vật sông núi mây trời, tình nhớ nước, nhớ bạn. Một cái ngóng nhìn xa, một nỗi bồi hồi lúc leo núi, một niềm mong nhớ Tổ quốc, nhớ bạn bè – được diễn tả và thể hiện qua một bài tứ tuyệt mang màu sắc cổ điển, một bút pháp lả cảnh ngụ tình đặc sắc. Người chiến sĩ cách mạng "Bồi hồi độc bộ Tây Phong Lĩnh" ấy có một bản lĩnh phi thường, một phong thái ung dung tự tại, và có một hồn thơ đẹp được nhân dân ta kính yêu và nhớ mãi.
|
Đề bài: Bình giảng bài Mới ra tù, tập leo núi của Hồ Chí Minh
Bài làm
"Lại thương nỗi đọa đày thân Bác
Mười bốn trăng tê tái gông cùm
Ôi chân yếu mắt mờ tóc bạc
Mà thơ bay… cánh hạc ung dung".
(Theo chân Bác)
Đoạn thơ cảm động trên đây của Tố Hữu đã làm hiện lên trong tâm trí chúng ta hình ảnh Bác Hồ sau khi thoát khỏi nhà tù của chính quyền Tưởng Giới Thạch tại Liễu Châu, Trung Quốc, đồng thời giúp chúng ta cảm nhận "Ngục trung nhật kí" của Người.
Ngay sau khi giành được tự do, để phục hồi thể lực, Bác Hồ kiên trì tập luyện: tập khí công, tập bơi, tập leo núi,… tích cực chuẩn bị ngày lên đường trở về Tổ quốc thân yêu. Ngày Bác được tự do là ngày 10-9-1943; dự đoán bài thơ "Mới ra tù, tập leo núi" được Bác viếi vào cuối tháng 9 hoặc đầu tháng 10 năm 1943. Chữ "tân" trong nhan đề hài thơ cho ta niềm tin khẳng định đó.
Tác giả hồi kí "Vừa đi đường vừa kể chuyện" có ghi rõ là khi Bác đã trèo lên tận đỉnh ngọn núi cao. Bác đã xúc động viết bài thơ này:
"Vân ủng trùng sơn, sơn ủng vân,
Giang tâm như kính tịnh vô trần;
Bồi hồi độc bộ Tây Phong Lĩnh,
Dao vọng Nam thiên, ức cố nhân".
Bác đã ghi bài thơ vào rìa một tờ báo Trung Quốc, kèm theo dòng chừ sau: "Chúc chư huynh ở nhà mạnh khỏe và cố gắng công tác. Ở bên này bình yên". Bài thơ không chỉ mang tính chất "đưa tin" một cách bí mật mà còn mang ý nghĩa của một văn kiện lịch sử của Cách mạng Việt Nam. Theo hồi kí của Đại tướng Võ Nguyên Giáp cho biết, hồi ấy các yếu nhân của Tổng bộ Việt Minh tại căn cứ địa Cách mạng Cao -Bắc – Lạng vô cùng phấn khởi khi nhận được bài thơ này và đã phái người đi đón Bác.
Về phương diện thi ca, bài "Mới ra tù, tập leo núi" là một tác phẩm văn chương toàn bích thể hiện cốt cách thi sĩ Hồ Chí Minh: tâm hồn trong sáng, thiết tha yêu thiên nhiên, nặng tình đối với đất nước và bạn bè yêu quý. Cảnh sắc thiên nhiên và bức tranh tâm cảnh đều rất đẹp, rất đậm đà:
“ Vân ủng trùng sơn, sơn ủng vân
Giang tâm như kính tịnh vô trần”
Cảnh mây núi nhấp nhô trập trùng. Mây, núi được nhân hóa, trở nên hữu tình: núi ấp ôm mây, mây ấp núi. Mây núi quấn quýt, bao bọc lấy nhau. Một câu thơ bảy chữ mà chữ "vân", chữ "ửng", chữ "sơn" được điệp lại hai lần gợi tả cảnh mây núi tầng tầng lớp lớp, ngắm nhìn không chán mắt. Hình ảnh "trùng sơn" làm nổi bật vẻ đẹp hùng vĩ cảnh núi mây và cảm xúc dào dạt của nhà thơ lúc leo núi.
Câu thứ hai tả lòng sông (giang tâm). Mặt sông trong vắt, phẳng lặng được ví với tấm gương không một chút bụi mờ. Bầu trời có trong sáng thì người đứng trên núi cao mới cảm nhận gương sông đẹp như thế. Hai câu đầu bài thơ đã vẽ nên một bức tranh sơn thủy hùng vĩ, hữu tình. Với tâm trạng sảng khoái của nhà thơ chiến sĩ mới thoát cảnh tù ngục thì mới có cái nhìn say mê, nồng nàn, thú vị như vậy. Người xưa có nói: "Văn vô sơn thủy phi kì khí", nghĩa là văn chương không nói đến sông núi (không mang tình đất nước) thì không có khí chất kì lạ. Qua đó, ta cảm thấy thơ Hồ Chí Minh mang vẻ đẹp "kì khí" đáng yêu. Cảnh mây núi, sông nước ở đây là cảnh thực ở Liễu Châu về cuối thu hơn nửa thế kỉ trước. Đồng thời nó mang ý nghĩa tượng trưng cho lòng người, cho tình người. Ngoại cảnh thì hùng vĩ, hữu tình. Tâm cảnh thì trong sáng, yêu đời. Thi nhân vừa leo núi vừa ngắm nhìn vẻ đẹp sông núi, mây trời với phong thái ung dung và tâm hồn thanh cao tuyệt đẹp. Mây, núi, gương sông ấy là ba ẩn dụ mà nhà thơ Hồ Chí Minh gửi gắm tâm hồn mình, trạng thái mình:
"Đằng sau bức tranh phong cảnh này, đằng sau những mây núi trập trùng, đằng sau dòng nước sông trong dưới chân Tây Phong Lĩnh, ấn tượng không bao giờ phai nhạt trong tâm hồn của độc giả chính là tâm trạng vừa trong trắng sâu sắc, vừa cao cả của con người” (Đặng Thai Mai)
Chỉ với ba nét vẽ (vân, trùng sơn, giang tâm) mà tác giả đã gợi lên cái hồn vũ trụ. Mượn cảnh để tả tình, ngôn ngữ hàm súc, hình tượng – đó là vẻ đẹp cổ điển đầy thi vị trong bài thơ này của Bác. Câu thơ dịch khá hay:
"Núi ấp ôm mây, mây ấp núi,
Lòng sông gương sáng bụi không mờ”
Đã 2 mùa thu li hương, nếm trải đủ mùi cay đắng, thế mà tấm lòng nhà thơ vẫn đêm ngày nhớ nước khôn nguôi. Hai câu thơ 3, 4 nói lên tâm tình ấy:
"Bồi hồi độc bộ Tây Phong Lĩnh,
Dao vọng Nam thiên, ức cố nhân".
Tây Phong Lĩnh là dãy núi trập trùng ở Liễu Châu, Trung Quốc. Nam thiên là trời Nam hai địa danh ở 2 phía chân trời. Chữ "bồi hồi", chữ "dao vọng" và ba tiếng "ức cố nhân" diễn tả tâm trạng của Bác Hồ lúc leo núi.
"Bồi hồi" nghĩa là bồn chồn, không yên dạ. "Độc bộ" nghĩa là một mình bước đi; trong văn cảnh gợi lên sự lẻ loi, đơn độc. Càng leo núi lên cao càng hồi hồi, càng cảm thấy mình lẻ loi, đơn độc, mà dõi nhìn về phía chân trời xa. Người xưa khi đứng trên lầu cao mà man mác buồn, bởi lẽ "Nhật mộ hương quan hà xứ thị” người con gái lưu lạc ngậm ngùi xót xa: "Lòng quê đi một
bước đường một đau"… Tình cố hương, tình cố quốc là một trong những tình cảm sâu sắc thắm thiết của con người xưa nay:
"Quê hương nghĩa nặng tình sâu,
Bể dâu biến đối biết đâu là nhà".
Bác Hồ đã trải qua những năm dài bôn ba hải ngoại, đi tìm đường cứu nước, canh cánh trong lòng nỗi thương, nỗi nhớ vơi đầy: "Đêm mơ nước, ngày thấy hình của nước…" ("Người đi tìm hình của nước"). "Giờ đây" mỗi bước leo núi lên cao, Người lại hồi hồi thương nhớ: "Dao vọng Nam thiên, ức cố nhân". Dao vọng là trông vời, trông xa, ức cố nhân nghĩa là nhớ người xưa, nhớ bạn cũ, ở đây là Bác nhớ đồng chí thân yêu. Câu thơ 7 chữ nói lên được 2 nỗi nhớ: nhớ nước và nhớ bạn. Thơ hàm súc và biểu cảm là vậy.
Nhớ nước, nhớ bạn là tình cảm thường trực, thiết tha của Bác. Nhớ nước cả lúc thức và cả trong lúc mơ: "Saovàng năm cánh mộng hồn quanh" (“Không ngủ được"). Nhớ nước, nhớ quê suốt ngày suốt đêm, suốt cả năm tháng: "Năm tròn cố quốc tăm hơi vắng – Tin tức bên nhà bữa bữa trông" (“Tức cảnh"). Càng xa nước, Bác càng nhớ nước:
"Nghìn dặm bâng khuâng hồn nước cũ,
Muôn tơ vương vấn mộng sầu nay".
( Đêm thơ)
"Ức hữu" (Nhớ bạn) là một trong những chủ đề nổi bật trong "Nhật kí trong tù". Nhớ bạn với bao kỉ niệm, với bao nỗi khắc khoải chờ mong. Trong cảnh tù đày, Bác càng nhớ bạn:
"Ngày đi bạn tiễn đến bên sông,
Hẹn bạn về khi lúa đỏ đồng.
Nay gặt đã xong, cày đã khắp,
Quê người tôi vẫn chốn lao lung"
(Nhớ bạn)
Tình yêu nước là tình yêu sâu sắc nhất, mãnh liệt nhất của Hồ Chí Minh. Bác có nhiều bài thơ hay nói lên một cách chân thành, cảm động tình yêu nước ấy. Bài thơ "Mới ra tù, tập leo núi" đã thể hiện rất đẹp cảm hứng thiên nhiên trữ tình và cảm hứng yêu nước. Mỗi câu, mỗi chữ, mỗi vần thơ đều dạt dào tình yêu tạo vật sông núi mây trời, tình nhớ nước, nhớ bạn. Một cái ngóng nhìn xa, một nỗi bồi hồi lúc leo núi, một niềm mong nhớ Tổ quốc, nhớ bạn bè – được diễn tả và thể hiện qua một bài tứ tuyệt mang màu sắc cổ điển, một bút pháp lả cảnh ngụ tình đặc sắc. Người chiến sĩ cách mạng "Bồi hồi độc bộ Tây Phong Lĩnh" ấy có một bản lĩnh phi thường, một phong thái ung dung tự tại, và có một hồn thơ đẹp được nhân dân ta kính yêu và nhớ mãi.
|
Đề bài: Bình giảng bài Ngóng gió đông của Nguyễn Đình Chiểu
Dàn ý
A – TÌM HIỂU ĐỀ
Đây là bài thơ trong tác phẩm Ngư Tiều y thuật vấn đáp của Nguyễn Đình Chiểu. Xúc cảnh là lời ngâm của Đường Nhập Môn, một kẻ sĩ đi học nghề thuốc để cứu đời nhưng không gặp thời và đành ngậm ngùi nhìn cảnh nước mất nhà tan. Qua lời ngâm của nhân vật Đường Nhập Môn, Nguyễn Đình Chiểu đã gửi gắm tâm sự của mình.
Khi bình giảng bài thơ, cần nắm đươc biện pháp dùng cảnh ngụ tình kín đáo mà thiết tha của Nguyễn Đình Chiểu. Ngóng gió đông mang nhiều tầng nghĩa mà tiếng lòng, ao ước của tác giá được cất lên trực tiếp ở phần kết.
Cũng cần hiểu kết cấu một bài thơ Đường luật và bình giảng Ngóng gió đông theo bốn phần (đề, thực, luận, kết). Đặt bài thơ vào hoàn cảnh lịch sử cụ thể của Nam Bộ, của đất nước ta lúc bấy giờ thì mới hiểu hết nỗi niềm thiết tha của Nguyễn Đình Chiểu.
B – DÀN BÀI CHI TIẾT
1)MỞ BÀI
Nguyễn Đình Chiểu là ngọn cờ đầu của thơ ca yêu nước Nam Bộ mấy mươi năm cuối thế kỉ 19. Cuộc đời ông đã nêu cao tấm gương trung nghĩa với đất nước, nhân dân. Ngay từ khi thực dân Pháp nổ súng đánh chiếm Nam Bộ bằng những tác phẩm văn thơ của mình, Nguyễn Đình Chiểu đã giương cao lá cờ nghĩa cứu nước, đã cổ vũ cho cuộc kháng chiến anh hùng của nhân dân.
Nguyễn Đình Chiểu xót xa khi Nam Bộ quê hương dần dần lọt vào tay giặc. Sống trong vòng kìm kẹp của kẻ thù, dù chúng ra sức dụ dỗ, ông vẫn bất hợp tác, giữ trọn tấm lòng tiết nghĩa. Từ đây, văn thơ Nguyễn Đình Chiểu thấm đượm nỗi đau buồn và khắc khoải niềm trông đợi vào ngày mai, hi vọng vào sự khôi phục giang sơn, đất nước. Bài thơ Ngóng gió đông bộc lộ những xúc cảm thiết tha ấy:
Hoa cỏ ngùi ngùi ngóng gió đông,
Chúa Xuân đâu hỡi có hay không?
Mây giăng ải Bắc trông tin nhạn
Ngày xế non Nam bặt tiếng hồng.
Bờ cõi xưa đà chia đất khác,
Nắng sương nay hà đội trời chung.
Chừng nào Thánh để ân soi thấu
Một trận mưa nhuần rửa núi sông.
2) THÂN BÀI
a) Nhận xét chung: Bao trùm cả bài thơ là niềm ngóng trông vời vợi, khát vọng thiết tha. Qua đề tài ngóng gió mùa xuân mát lạnh, qua những hình ảnh thiên nhiên, Nguyễn Đình Chiểu kí thác tâm sự thành thực của mình. Lời kí thác này được diễn đạt bằng một bài thơ Đường luật theo thể thất ngôn bát cú với kết cấu chặt chẽ.
b)Hai câu đề: Nỗi niềm buồn rầu trông ngóng và lời hỏi vô vọng:
Hoa cỏ ngùi ngùi ngông gió đông
Chúa xuân đâu hỡi có hay không?
Trong cả bài thơ, phần đề này được viết theo lối ẩn dụ kín đáo mà thiết tha nhất. Nói “hoa cỏ“ mà ngụ ý nói quê hương, đất nước, nói cả sông núi, nhân dân. Hoa cỏ đang trông ngóng đón đợi gió đông (gió mùa xuân) mát lành, đầm ấm để nảy nở tốt tươi cũng chính là nhân dân đang mong đợi những bậc anh hùng nào đó ra tay cứu nước. Vị thần mùa xuân có quyền lực đem lại sức sống cho muôn loài (chúa xuân) hay những bậc vua thánh tôi hiền đâu cả rồi, có hay không? Chữ “ngùi ngùi” biểu hiện tâm trạng buồn rầu như muốn khóc. Chữ “ngóng” càng tô đậm vẻ thiết tha, nóng lòng của sự mong đợi. Có lẽ phải đợi phải ngóng lâu lắm rồi mới thiết tha và ngấm xót xa đến thế. Bởi vậy lời hồi tim dồn dập mà không gặp lời đáp, như vang vào không gian mông lung, trông không. Nam Bộ lần lượt rơi vào tay giặc. Lòng dân li tán. Triều đình, không tổ chức kháng chiến. Chúa xuân đâu hỡi có hay không?
c) Hai câu thực: Càng mở rộng hơn, tô đậm hơn cái không gian mông lung xa vắng, cái cảm giác vô vọng ở hai câu đề:
Mây giăng ải Bắc trông tin nhạn
Ngày xế non Nam bặt tiếng hồng.
“Mây giăng ải Bắc”, “Ngày xế non Nam”, thủ pháp đối này diễn tả không gian mênh mông, thời gian đằng đẵng. Bốn phương trời đất nước, ngày cũng như đêm, ngày nọ sang tháng kia đều mịt mờ, đều bặt mọi tin tức! “Mây giăng ải Bắc”, gợi ta không gian xa vắng, ảm đạm. “Ngày xế non Nam” gợi lên cảm giác tàn lụi. Chim nhạn hay chim hồng đâu mà chẳng thấy để phải ngóng trông vò võ thế này! vẫn dùng các hình ảnh ước lệ những hai câu thực này biểu hiện cảm động nỗi niềm trông ngóng rất thực ở nhà thơ. Mặt khác, nó cũng kín đáo thể hiện sự trách móc thái độ hờ hững của Chúa Xuân.
d) Hai câu luận: Cái mờ mịt của không gian, sự vô vọng trong thời gian ở trên đến đây hiển hiện trên bức tranh sông núi. Hai câu luận đưa ta trở về với hiện thực đau đớn của đất nước và nói lên tấm lòng trung trinh của con người:
Bờ cõi xưa đà chia đất khác,
Nắng sương nay há đội trời chung.
Ngẫm ra, ta thấy lời thơ vừa xót xa căm giận, vừa oán trách. Ở đây có sự đối lập giữa “bờ cõi xưa” và “đất khác”. “Bờ cõi xưa” là giang sơn có chủ quyền, là sông núi thiêng liêng được tạo đựng, giữ gìn bằng mồ hôi, xương máu của bao thế hệ cha ông. Ấy vậy mà giờ đây bờ cõi muôn đời ấy bỗng bị cắt chia cho kẻ khác, đã thành “đất khác. Câu thơ nghe như tiếng khóc nức nở, căm giận. “Bờ cõi xưa” đã thành “đất khác” thì làm sao ta có thể “đội trời chung” với những kẻ mắt xanh mũi lõ, những kẻ can tâm ôm chân lũ giặc! Câu thơ sau vang lên như một lời thề. Trong lời thề ấy cố thái độ dứt khoát, quyết liệt nhưng cũng có cả niềm uất hận quằn quại chịu đựng. Khi triều đình dâng ba tình miền Đông cho giặc, cũng như nhiều nhân sĩ yêu nước lúc bấy giờ, Nguyễn Đình Chiểu đã chuyển sang sống ở miền Tây Nhưng rồi ba tỉnh miền Tây cũng mất luôn. Nhà thơ không đi nữa. Kẻ thù nhiều lần thuyết phục, dụ dỗ. Nhưng sống trong vùng địch chiếm mà đâu chịu đội trời chung. Ấy là tấm lòng kiên trung, thủy chung trọn vẹn với “bờ cõi xưa”, với nhân dân của nhà thơ mù Nguyễn Đình Chiểu.
e) Hai câu kết: Mở đầu bài thơ còn ngóng “gió đông”, còn tìm “Chúa Xuân”, giờ đây Nguyễn Đình Chiểu gọi, hỏi thẳng ra, trực tiếp. Phải chăng đó là thế hiện của niềm ước vọng thiết tha, đau đớn không còn kìm nén nổi:
Chừng nào Thánh đế ân soi thấu
Một trận mưa nhuần rửa núi sông?
Núi sông đầy bóng giặc. Dân tình khốn khổ bơ vơ. Bao giờ mới xuất hiện một vị vua sáng suốt, anh minh để rửa nhục cho non sông này. Nhà thơ ao ước một trận mưa lớn có thể cuốn phăng đi mọi thứ rác rưởi tanh hôi, tắm gội lại cho non nước quê hương mình. Là một nhà nho nên Nguyễn Đình Chiểu vẫn khao khát đợi một “Thánh dể”. Giọng thơ ở hai câu này vừa nghi vấn vừa cảm thán. Nó vừa chứng tỏ nỗi chờ đợi thiết tha, cũng vừa toát lên sự vô vọng.
3 – KẾT BÀI
Mượn lời nhẫn vật Đường Nhập Mòn, qua bài Ngóng gió đông, Nguyễn Đình Chiểu đã gửi gắm tâm sự của mình. Bài thơ là nỗi trông ngóng cảm động của một tấm lòng yêu nước, thương dân. Lòng người kín đáo gửi và cảnh vật và cuối cùng cất lên thành niềm ước mong tha thiết. Ngóng gió đông khiến ta trân trọng hơn tấm lòng, nhân cách Nguyễn Đình Chiểu – một nhà thơ yêu nước lớn của dân tộc nửa sau thế kỉ XIX.
|
Đề bài: Bình giảng bài Ngóng gió đông của Nguyễn Đình Chiểu
Dàn ý
A – TÌM HIỂU ĐỀ
Đây là bài thơ trong tác phẩm Ngư Tiều y thuật vấn đáp của Nguyễn Đình Chiểu. Xúc cảnh là lời ngâm của Đường Nhập Môn, một kẻ sĩ đi học nghề thuốc để cứu đời nhưng không gặp thời và đành ngậm ngùi nhìn cảnh nước mất nhà tan. Qua lời ngâm của nhân vật Đường Nhập Môn, Nguyễn Đình Chiểu đã gửi gắm tâm sự của mình.
Khi bình giảng bài thơ, cần nắm đươc biện pháp dùng cảnh ngụ tình kín đáo mà thiết tha của Nguyễn Đình Chiểu. Ngóng gió đông mang nhiều tầng nghĩa mà tiếng lòng, ao ước của tác giá được cất lên trực tiếp ở phần kết.
Cũng cần hiểu kết cấu một bài thơ Đường luật và bình giảng Ngóng gió đông theo bốn phần (đề, thực, luận, kết). Đặt bài thơ vào hoàn cảnh lịch sử cụ thể của Nam Bộ, của đất nước ta lúc bấy giờ thì mới hiểu hết nỗi niềm thiết tha của Nguyễn Đình Chiểu.
B – DÀN BÀI CHI TIẾT
1)MỞ BÀI
Nguyễn Đình Chiểu là ngọn cờ đầu của thơ ca yêu nước Nam Bộ mấy mươi năm cuối thế kỉ 19. Cuộc đời ông đã nêu cao tấm gương trung nghĩa với đất nước, nhân dân. Ngay từ khi thực dân Pháp nổ súng đánh chiếm Nam Bộ bằng những tác phẩm văn thơ của mình, Nguyễn Đình Chiểu đã giương cao lá cờ nghĩa cứu nước, đã cổ vũ cho cuộc kháng chiến anh hùng của nhân dân.
Nguyễn Đình Chiểu xót xa khi Nam Bộ quê hương dần dần lọt vào tay giặc. Sống trong vòng kìm kẹp của kẻ thù, dù chúng ra sức dụ dỗ, ông vẫn bất hợp tác, giữ trọn tấm lòng tiết nghĩa. Từ đây, văn thơ Nguyễn Đình Chiểu thấm đượm nỗi đau buồn và khắc khoải niềm trông đợi vào ngày mai, hi vọng vào sự khôi phục giang sơn, đất nước. Bài thơ Ngóng gió đông bộc lộ những xúc cảm thiết tha ấy:
Hoa cỏ ngùi ngùi ngóng gió đông,
Chúa Xuân đâu hỡi có hay không?
Mây giăng ải Bắc trông tin nhạn
Ngày xế non Nam bặt tiếng hồng.
Bờ cõi xưa đà chia đất khác,
Nắng sương nay hà đội trời chung.
Chừng nào Thánh để ân soi thấu
Một trận mưa nhuần rửa núi sông.
2) THÂN BÀI
a) Nhận xét chung: Bao trùm cả bài thơ là niềm ngóng trông vời vợi, khát vọng thiết tha. Qua đề tài ngóng gió mùa xuân mát lạnh, qua những hình ảnh thiên nhiên, Nguyễn Đình Chiểu kí thác tâm sự thành thực của mình. Lời kí thác này được diễn đạt bằng một bài thơ Đường luật theo thể thất ngôn bát cú với kết cấu chặt chẽ.
b)Hai câu đề: Nỗi niềm buồn rầu trông ngóng và lời hỏi vô vọng:
Hoa cỏ ngùi ngùi ngông gió đông
Chúa xuân đâu hỡi có hay không?
Trong cả bài thơ, phần đề này được viết theo lối ẩn dụ kín đáo mà thiết tha nhất. Nói “hoa cỏ“ mà ngụ ý nói quê hương, đất nước, nói cả sông núi, nhân dân. Hoa cỏ đang trông ngóng đón đợi gió đông (gió mùa xuân) mát lành, đầm ấm để nảy nở tốt tươi cũng chính là nhân dân đang mong đợi những bậc anh hùng nào đó ra tay cứu nước. Vị thần mùa xuân có quyền lực đem lại sức sống cho muôn loài (chúa xuân) hay những bậc vua thánh tôi hiền đâu cả rồi, có hay không? Chữ “ngùi ngùi” biểu hiện tâm trạng buồn rầu như muốn khóc. Chữ “ngóng” càng tô đậm vẻ thiết tha, nóng lòng của sự mong đợi. Có lẽ phải đợi phải ngóng lâu lắm rồi mới thiết tha và ngấm xót xa đến thế. Bởi vậy lời hồi tim dồn dập mà không gặp lời đáp, như vang vào không gian mông lung, trông không. Nam Bộ lần lượt rơi vào tay giặc. Lòng dân li tán. Triều đình, không tổ chức kháng chiến. Chúa xuân đâu hỡi có hay không?
c) Hai câu thực: Càng mở rộng hơn, tô đậm hơn cái không gian mông lung xa vắng, cái cảm giác vô vọng ở hai câu đề:
Mây giăng ải Bắc trông tin nhạn
Ngày xế non Nam bặt tiếng hồng.
“Mây giăng ải Bắc”, “Ngày xế non Nam”, thủ pháp đối này diễn tả không gian mênh mông, thời gian đằng đẵng. Bốn phương trời đất nước, ngày cũng như đêm, ngày nọ sang tháng kia đều mịt mờ, đều bặt mọi tin tức! “Mây giăng ải Bắc”, gợi ta không gian xa vắng, ảm đạm. “Ngày xế non Nam” gợi lên cảm giác tàn lụi. Chim nhạn hay chim hồng đâu mà chẳng thấy để phải ngóng trông vò võ thế này! vẫn dùng các hình ảnh ước lệ những hai câu thực này biểu hiện cảm động nỗi niềm trông ngóng rất thực ở nhà thơ. Mặt khác, nó cũng kín đáo thể hiện sự trách móc thái độ hờ hững của Chúa Xuân.
d) Hai câu luận: Cái mờ mịt của không gian, sự vô vọng trong thời gian ở trên đến đây hiển hiện trên bức tranh sông núi. Hai câu luận đưa ta trở về với hiện thực đau đớn của đất nước và nói lên tấm lòng trung trinh của con người:
Bờ cõi xưa đà chia đất khác,
Nắng sương nay há đội trời chung.
Ngẫm ra, ta thấy lời thơ vừa xót xa căm giận, vừa oán trách. Ở đây có sự đối lập giữa “bờ cõi xưa” và “đất khác”. “Bờ cõi xưa” là giang sơn có chủ quyền, là sông núi thiêng liêng được tạo đựng, giữ gìn bằng mồ hôi, xương máu của bao thế hệ cha ông. Ấy vậy mà giờ đây bờ cõi muôn đời ấy bỗng bị cắt chia cho kẻ khác, đã thành “đất khác. Câu thơ nghe như tiếng khóc nức nở, căm giận. “Bờ cõi xưa” đã thành “đất khác” thì làm sao ta có thể “đội trời chung” với những kẻ mắt xanh mũi lõ, những kẻ can tâm ôm chân lũ giặc! Câu thơ sau vang lên như một lời thề. Trong lời thề ấy cố thái độ dứt khoát, quyết liệt nhưng cũng có cả niềm uất hận quằn quại chịu đựng. Khi triều đình dâng ba tình miền Đông cho giặc, cũng như nhiều nhân sĩ yêu nước lúc bấy giờ, Nguyễn Đình Chiểu đã chuyển sang sống ở miền Tây Nhưng rồi ba tỉnh miền Tây cũng mất luôn. Nhà thơ không đi nữa. Kẻ thù nhiều lần thuyết phục, dụ dỗ. Nhưng sống trong vùng địch chiếm mà đâu chịu đội trời chung. Ấy là tấm lòng kiên trung, thủy chung trọn vẹn với “bờ cõi xưa”, với nhân dân của nhà thơ mù Nguyễn Đình Chiểu.
e) Hai câu kết: Mở đầu bài thơ còn ngóng “gió đông”, còn tìm “Chúa Xuân”, giờ đây Nguyễn Đình Chiểu gọi, hỏi thẳng ra, trực tiếp. Phải chăng đó là thế hiện của niềm ước vọng thiết tha, đau đớn không còn kìm nén nổi:
Chừng nào Thánh đế ân soi thấu
Một trận mưa nhuần rửa núi sông?
Núi sông đầy bóng giặc. Dân tình khốn khổ bơ vơ. Bao giờ mới xuất hiện một vị vua sáng suốt, anh minh để rửa nhục cho non sông này. Nhà thơ ao ước một trận mưa lớn có thể cuốn phăng đi mọi thứ rác rưởi tanh hôi, tắm gội lại cho non nước quê hương mình. Là một nhà nho nên Nguyễn Đình Chiểu vẫn khao khát đợi một “Thánh dể”. Giọng thơ ở hai câu này vừa nghi vấn vừa cảm thán. Nó vừa chứng tỏ nỗi chờ đợi thiết tha, cũng vừa toát lên sự vô vọng.
3 – KẾT BÀI
Mượn lời nhẫn vật Đường Nhập Mòn, qua bài Ngóng gió đông, Nguyễn Đình Chiểu đã gửi gắm tâm sự của mình. Bài thơ là nỗi trông ngóng cảm động của một tấm lòng yêu nước, thương dân. Lòng người kín đáo gửi và cảnh vật và cuối cùng cất lên thành niềm ước mong tha thiết. Ngóng gió đông khiến ta trân trọng hơn tấm lòng, nhân cách Nguyễn Đình Chiểu – một nhà thơ yêu nước lớn của dân tộc nửa sau thế kỉ XIX.
|
Bình giảng bài Thu vịnh để thấy được chân dung của nhân vật trữ tình
Hướng dẫn
Bình giảng bài Thu vịnh để thấy được chân dung của nhân vật trữ tình
BÀI LÀM
Nguyễn Khuyến nổi tiếng nhất trong văn học Việt Nam là về thơ Nôm. Mà trong thơ Nôm của Nguyễn Khuyến, nức danh nhất là ba bài thơ mùa thu. Thu điếu, Thu vịnh, Thu ẩm (Xuân Diệu). Trong ba kiệt tác ấy, Thu vịnh dường như có thần hơn cả. Bài thơ không chỉ là một minh chứng về tài năng mà còn mang đậm hình ảnh Nguyễn Khuyến với những băn khoăn, trăn trở đáng trọng. Trăn trở ấy hiện ngay trong câu thơ đầu tiên.
Trời thu xanh ngắt mấy từng cao
Có phải vô tình chăng khi cả ba bài thơ mùa thu của cụ, da trời đều mang màu “xanh ngắt”? Xanh ngắt chứ không phải xanh lơ, xanh dịu hay xanh lục. Chỉ riêng mấy tiếng “mấy từng cao” đã thấy một độ cao khá lớn. Nhưng khi bàn tay Nguyễn Khuyến tô vẽ cho da trời một màu “xanh ngắt” thì trời thu như bị đẩy lên cao hơn, xa hơn, chẳng dừng lại ở mấy tầng nữa mà gấp bội lần như thế.
Đến câu thơ sau:
Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu
Câu thơ vẻn vẹn bảy âm tiết mà đã có tới hai từ láy song vẫn không hề thúc ép, gượng gạo “lơ phơ” là một từ láy chỉ số lượng chẳng mấy đông đúc, thậm chí rất thưa thớt, vả chăng, khi thu sang, thân măng đã thành thân tre, có hình cong như cần câu và lá hãy còn thựa thớt lắm. Không chỉ mô tả được dáng điệu của sự vật, từ láy này còn gợi cả một chuyển động, dù rất nhỏ – nếu không tinh mắt, thì khó mà phát hiện ra. Ngay đến gió thu cũng chi “hắt hiu” chứ không phải là cơn gió mạnh mẽ căng đầy nhựa sống, cũng không phải là cơn gió lay lắt cuối mùa. Hơi “gió hắt hiu” gợi một cảm giác buồn sầu thanh nhẹ, ngắm dần vào con người. Và khi đã ngắm rồi thì buồn và sầu sẽ bị đẩy lên tới đỉnh điểm.
Nước biếc trông như từng khói phủ.
Đáng chú ý là sự xuất hiện hình ảnh so sánh đầu tiên và duy nhất trong bài thơ. So sánh, không phải để cụ thể hóa đối tượng, sự vật mà để cho nó trở nên huyền ảo, mông lung hơn. Do vậy, cảnh thu như nhiều hơn là thực.
Có trời, có nước, có trúc và bây giờ đến trăng:
Song thưa để mặc bóng trăng vào
Ngỡ là thêm sự vật thì bức tranh thu sẽ trở nên đông đúc, rộn rã hơn. Nào ngờ càng thêm vào thì cái lạnh lẽo đơn độc càng tăng lên gấp bội. Lúc này, trăng không khơi gợi được cảm xúc của thi nhân cũng tỏ ra hờ hững với trăng nên mới “để mặc”. Hờ hững với trăng hay là còn hờ hững cả với đời nữa vậy?
Đúng! vẫn chưa rõ duyên cớ. Song tôi chắc chắn rằng nỗi buồn của Nguyễn Khuyến chưa đến mức tuyệt vọng, bởi nếu tuyệt vọng thì cụ còn nhìn cảnh âu sầu hơn thế rất nhiều. Tâm trạng của cụ Tam Nguyên lúc này vui thì không vui mà tuyệt cùng không phải là tuyệt vọng. Chỉ buồn, chỉ cứ ngồi bất động mà buồn. Con người ta nếu nằm ở hai trạng thái tình cảm minh bạch, rõ ràng: Vui thì vui mà buồn tuyệt vọng thì tuyệt vọng rõ đi – thì chẳng có gì đáng nói. Cứ như trường hợp nửa nọ nửa kia của Nguyễn Khuyến thì quả là một sự khó chịu khủng khiếp. Con người như vô cảm (?), nửa muốn phó mặc những gì đang diễn ra trước mát, nửa lại không.
Nếu như bốn câu thơ đầu bộc lộ một nỗi buồn vô cớ thì đến hai câu luận đã thấy rõ lí do:
Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái
Một tiếng trên không ngỗng nước nào?
Chỉ trong khoảng thời gian năm ngoái đến năm nay đã xảy ra những biến cố gì để thi nhân phải quay về cảm xúc trong “hoa năm ngoái” và xót xa trước tiếng “ngỗng nước nào”? “Một tiếng trên không ngỗng nước nào” là một câu hỏi hoài nghi song cũng là một câu trả lời chắc chắn. Thế mới đau, thế mới uất, mới rầu… Âm thanh duy nhất của bài thơ cất lên không chút rộn rã đà đành, lại chỉ duy nhất “một tiếng” và đặt vào chú “ngỗng nước nào” thì u hoài, lạc lõng biết bao nhiêu.
Mà toàn bộ bài thơ, hình như cái gì cũng ít ỏi: trúc thì “lơ phơ”, song thì “thưa”, hoa thì “mấy chùm”, ngỗng thì “một tiếng”… Lạ! Vì mải mê suy nghĩ mà hững hờ với cảnh hay đấy chỉ là những âm thanh, sự vật của tâm tưởng, của cảm giác? Dù sao những sự vật đó đều tạo cho bài thơ một không gian lí tưởng để con người tự đối diện với chính mình mà giãi bày tâm sự. Cho vơi bớt đi chăng? Có lẽ càng giãi bày bao nhiêu thì nỗi niềm ấy càng hun đúc lại bấy nhiêu; bởi làm gì có tri âm mà giãi bày giữa cõi đời ô trọc này?
Nhân hứng cũng vừa toan cất bút
Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào.
Song lại là con người vô ngôn, bất động mặc dù có hành động “toan cất bút” – nhưng chỉ là “toan”. Chỉ có cuộc sống nội tâm là hoàn toàn xáo trộn. Vì “thẹn với ông Đào” chăng? Một cái “thẹn” đáng trân trọng đã nâng cao tầm vóc Nguyễn Khuyến hơn, đẹp hơn, đáng kính hơn.
Có một điều tôi chợt băn khoăn. Chẳng rõ thời điểm thi nhân viết bài thơ này là khi nào? Băn khoăn và cũng chợt nhận ra rằng, bài thơ được viết ở nhiều khoảnh khắc khác nhau “Trời thu xanh ngắt mấy từng cao” là hiện hữu rành rành của ngày, nhưng đến “Song thưa đế mặc bóng trăng vào” thì đã chuyển sang đêm mất rồi. Không rõ có phải do công việc bộn bề nên vần thơ dang dở thi nhân phải gác lại chờ trăng lên viết tiếp? Hay là cái nỗi sầu kia cứ hút lấy thi nhân, không dứt ra được và Nguyễn Khuyến cứ chìm trong cái bể sâu bất tận ấy từ ngày tới đêm?
Bài thơ có một không gian rất rộng. Trời thì bị đẩy lên cao tít tắp, nước như sâu hơn và cảnh thì thờ ơ lãnh đạm: Giữa một khu cảnh rộng rãi khác thường ấy, con người co lại như một chấm nhỏ. Bỗng thấy chơ vơ, lạc lõng. Buồn đến nao lòng.
Có thế nói, mỗi dòng thơ, mỗi âm tiết thơ ở bài này đều ắp đầy những băn khoăn trăn trở của cụ Tam Nguyên trước cuộc đời. Đọc kĩ bài Thu vịnh, phần nào, cũng thấy rõ thêm tính cách thi nhân của Nguyễn Khuyến là vậy.
|
Binh lectures on Thu Vinh to see the portrait of the lyrical character
Instruct
Binh lectures on Thu Vinh to see the portrait of the lyrical character
ASSIGNMENT
Nguyen Khuyen is most famous in Vietnamese literature for Nom poetry. In Nguyen Khuyen's Nom poetry, the most famous are the three autumn poems. Autumn cigarettes, Autumn bay, Autumn moisture (Xuan Dieu). Among those three masterpieces, Thu Vinh seems to have the most magic. The poem is not only a demonstration of talent but also bears the image of Nguyen Khuyen with important concerns and concerns. That concern appears right in the first verse.
The autumn sky is extremely blue
Is it accidental that in all three of his autumn poems, the sky is "blue"? Blue, not blue, soft blue or green. Just the sound of "how high" can be seen to be quite a high altitude. But when Nguyen Khuyen's hand painted the sky a "blue" color, the autumn sky seemed to be pushed higher and farther, not stopping at a few floors but multiplying many times over.
Go to the following verse:
Bamboo stalks flutter in the gentle breeze
The poem has only seven syllables and has two redundancy words, but it still doesn't feel forced or forced. "Loose" is a redundancy word that indicates a small number of people, even very sparse, and besides, when collected, In the morning, the bamboo shoots have turned into bamboo stems, shaped like fishing rods and the leaves are still very thin. Not only does it describe the posture of things, this word also suggests a movement, even if very small - if you don't have sharp eyes, it will be difficult to detect. Even the autumn wind is just a "whisper", not a strong wind full of life, nor a swaying wind at the end of the season. The "whiny wind" evokes a feeling of gentle sadness, gradually looking at people. And once you have seen it, sadness and sadness will be pushed to the peak.
The blue water looks like smoke.
Noteworthy is the appearance of the first and only comparative image in the poem. Comparing, not to concretize the object or thing, but to make it more fanciful and vague. Therefore, the autumn scene seems more than real.
There is sky, water, bamboo and now the moon:
But please leave the moonlight alone
I thought that adding things would make the autumn picture more crowded and bustling. Who would have thought that the more you added, the colder and lonely feeling would increase even more. At this time, the moon could not evoke the poet's emotions and he also seemed indifferent to the moon, so he "left it alone". Are you indifferent to the moon or are you even indifferent to life?
Correct! The reason is still unknown. But I am sure that Nguyen Khuyen's sadness has not reached the level of despair, because if he were in despair, he would have seen a much more sad scene than that. Mr. Tam Nguyen's mood at this time is happy, not happy, but absolutely not hopeless. Just sad, just sitting motionless and sad. If people are in two clear and transparent emotional states: Happy is happy, sad and hopeless is clearly desperate - then there is nothing worth talking about. Just like in the case of Nguyen Khuyen's other half, it was a terrible discomfort. People seem emotionless (?), half wanting to ignore what's happening in front of them, half not.
If the first four verses reveal an unreasonable sadness, the reason is clear in the two essays:
A few bunches in front of last year's flower hedge
One hour in the air, which country will goose?
Just between last year and this year, what events happened that made the poet have to return to the emotions of "last year's flowers" and feel sorrow at the sound of "which country's geese"? “One hour in the air, there is no move” is a skeptical question but also a certain answer. That's why it's painful, that's why it's frustrating, that's sad... The only sound of the poem is without any excitement, it's only "one sound" and if you put it in the phrase "where is the goose?" then it's melancholy and lost. know how much.
But in the entire poem, it seems like there is little of everything: bamboo is "haphazard", songs are "sparse", flowers are "a few bunches", geese are "one sound"... Strange! Because you are engrossed in thinking and indifferent to the scene, or are these just sounds and things of your mind and feelings? Anyway, those things create the poem an ideal space for people to face themselves and express their feelings. Can it be lessened? Perhaps the more I confide, the more that feeling rekindles; Because how can there be any condolences to confide in this filthy world?
I was just about to put away my pen
Thinking about it, I feel ashamed of Mr. Dao.
But he is a speechless, motionless person despite the act of "attempting to write" - but only "attempting". Only the inner life is completely chaotic. Because I'm "embarrassed with Mr. Dao"? An honorable "embarrassment" has raised Nguyen Khuyen's stature to be more beautiful, more beautiful, and more respectable.
There's one thing I'm suddenly wondering about. It is not clear when the poet wrote this poem? Wondering and suddenly realizing that the poem was written at many different moments, "The sky is so blue and high in autumn" is a clear existence of the day, but when it comes to "Song Sir put on the moonlight", it has changed. passed away at night. I'm not sure if it was due to busy work that the poet had to put the unfinished poem aside and wait for the moon to continue writing? Or does that sadness keep sucking the poet, unable to let go and Nguyen Khuyen keeps sinking in that endless deep pool from day to night?
The poem has a very large space. The sky was pushed sky high, the water seemed deeper and the landscape was indifferent: In the midst of that unusually spacious landscape, people shrunk like a small dot. Suddenly feeling lonely and lost. Heartbreakingly sad.
It can be said that every line of poetry, every syllable of this poem is full of Mr. Tam Nguyen's concerns and concerns about life. Reading the poem Thu Vinh carefully, we can see more clearly the poet's personality of Nguyen Khuyen.
|
Bình giảng bài thơ Bài ca chúc Tết thanh niên của Phan Bội Châu
Hướng dẫn
Bình giảng bài thơ Bài ca chúc Tết thanh niên của Phan Bội Châu
BÀI LÀM
Trong ký ức của nhiều thế hệ người Việt Nam, Phan Bội Châu là một nhà yêu nước nồng cháy thiết tha, một nhân vật lịch sử kiệt xuất, tiêu biểu cho phong trào đấu tranh giành độc lập của dân tộc mấy chục năm đầu thế kỷ XX.
Phan Bội Châu có một tiểu sử oanh liệt. Ngay đến những năm cuối đời, khi bị giặc Pháp giam lỏng ở Huế, Phan Bội Châu vẫn được sự quan tâm đặc biệt của đồng bào, đặc biệt là tầng lớp thanh niên. Ông rất có ý thức bồi dưỡng thế hệ trẻ và đặt vào họ những hy vọng lớn lao. Đầu năm 1927, học sinh trường Quốc học và trường Dòng ở Huế tổ chức chúc thọ ông tròn tuổi 60. Đáp lại tình cảm ấy, Phan Bội Châu đã ứng khẩu đọc bài Bài ca chúc Tết thanh niên, theo thể hát nói. Thông qua những lời bộc bạch chân thành, tác giả thiết tha kêu gọi thanh niên hãy từ bỏ lối sống tầm thường, quyết tâm tu dưỡng, vươn tới lý tưởng cách mạng cứu nước, bắt kịp thời đại mới. Đó chính là sự kỳ vọng và sự bàn giao trách nhiệm của thế hệ Phan Bội Châu cho thế hệ thanh niên kế tiếp. Binh giang bai ca chuc Tet thanh nien cua Phan Boi Chau.
Mở đầu Bài ca là tiếng gọi đột ngột, khẩn cấp, giục giã: “Dậy! Dậy! Dậy”. Đây là lời của ai? Hãy đọc kỹ những câu thơ tiếp theo:
Dậy! Dậy! Dậy!
Bên án một tiếng gà vừa gáy.
Chim trên cây liền ngỏ ý chào mừng.
Cách mở đầu thật độc đáo. Tác giả muốn lay tỉnh mạnh mẽ lớp hậu sinh hãy mở mắt nhìn ra một ngày mới bắt đầu: Trời đã sáng, chim chóc đã cất tiếng hót tưng bừng rộn rã. Điều đáng nói ở đây là tiếng gà, tiếng chim kia đều có sức thôi thúc, giục giã khác thường. Thì ra, những âm thanh đời thường vốn rất là quen thuộc ấy được “nghe” qua tâm trạng hy vọng, mong chờ một thời cơ mới và thế hệ mới của tác giả bỗng trở thành có tính biểu tượng đầy ý nghĩa của “vận hội mới”. Cảm động biết bao khi ta hiểu đây là tâm trạng của một người đang sống trong hoàn cảnh nghiệt ngã, bị kẻ thù kìm kẹp hòng cắt lìa khỏi thực tế đấu tranh của dân tộc, nhưng vẫn gắn bó với cuộc sống, tin tưởng ở thế hệ tương lai của đất nước.
Đoạn thơ tiếp theo, Phan Bội Châu dành mấy dòng nói về bản thân mình. Lời thơ chân thành, tha thiết khiến cho người đọc vô cùng xúc động:
Xuân ơi xuân, xuân có biết cho chăng?
Thẹn cùng sông, buồn cùng núi, tủi cùng trăng,
Hai mươi năm lẻ đã từng chua với xót.
Trời đất may còn thân sống sót,
Tháng ngày khuây khỏa lũ đầu xanh.
Khác với giọng vui tươi, phấn khởi phần đầu, những câu thơ ở đây có nhịp điệu chậm rãi, nặng trĩu ưu tư, phiền muộn. Trước “tân vận hội”, Phan Bội Châu cảm thấy chạnh buồn khi tâm sự với mùa xuân của đất trời và cũng là tâm sự với thế hệ trẻ, những người tri âm, tri ki của nhà thơ. Ở đây có nhiều cách hiểu về mùa xuân; xuân vừa có nghĩa là đất nước quê hương vừa để chỉ những lớp người trẻ tuổi. Phan Bội Châu bộc bạch hết nỗi niềm tâm sự. Đấy trước hết là nỗi đau của một người đã từng phải làm “khách không nhà trong bốn biển”, suốt nai mươi năm bôn tẩu, nhưng rốt cuộc “trăm thất bại không một thành công”. Đúng là trong nỗi đau này không chỉ có “thẹn” mà còn có thêm nỗi “buồn” và nỗi “tủi” lẫn cả sự chua xót đắng cay. Đây là nỗi đau xót của một trượng phu, một anh hùng, một nhân vật lịch sử kiệt xuất. Đây còn là nỗi đau của cả một dân tộc, một đất nước. Câu thơ “Thẹn cùng sông, buồn cùng núi, tủi cùng trăng” được ngắt đều thành ba nhịp, ba vế đối nhau, mỗi trạng thái tình cảm đặt vào trong quan hệ của một hình ảnh biểu tượng của đất nước, thể hiện nỗi đau của tầm vóc núi sông, tầm vóc thời đại. Ta liên tưởng đến nỗi đau lớn của Đặng Dung thời trước trong bài thơ Cảm hoài đầy bi tráng: “Thù nước chưa xong, đầu đã bạc”. Đây là tâm sự của một con người đã từng trải qua mấy chục năm tung hoành, khi ở Nhật Bản, lúc ở Trung Quốc, lúc ở Xiêm La, nay phải sống trong vòng kiềm tỏa của quân thù và tuổi già đã đến, chỉ còn biết trông cậy vào “lũ đầu xanh” để khuây khỏa “tháng ngày”. Như vậy, Phan Bội Châu ý thức sâu sắc vai trò lịch sử của mình đã chấm dứt và cụ nghiêm khắc tự đánh giá bản thân mình. Điều này chứng tỏ sự sáng suốt nhân cách cao đẹp của nhà cách mạng. Riêng việc hiểu được bản thân mình, thấy được giới hạn của mình cũng đã thể hiện một phần tầm vóc lớn của tác giả, khiến người đọc vô cùng cảm phục.
Thất bại, nhưng không thất vọng; nhà thơ đặt hy vọng vào thế hệ thanh niên:
Thưa các cô, các cậu, lại các anh.
Một chữ thưa mà hàm chứa bao nhiêu niềm trân trọng và tin yêu. Đó vừa là đức khiêm nhường, vừa thể hiện tấm lòng thiết tha của nhà cách mạng lão thành đối với vận mệnh của đất nước. Thì ra, đối với Phan Sào Nam, dẫu ở tuổi 60, dẫu đã là một nhân vật lừng danh, nhưng bất kể già trẻ gái trai, ai có tinh thần cứu nước, biết thương xót giống nòi thì đều phải kính trọng. Ta còn nhớ có lần, Phan đã “ngàn vạn lạy” các chú lính tập để họ quay về với Tổ quốc (Việt Nam vong quốc xứ). Hơn nữa, cách xưng hô thích hợp để tác giả trình bày những vấn đề trọng đại tiếp theo. Bởi vậy, có thể nói, ở đây, cụ Phan đã chọn lựa được những lời lẽ và giọng điệu thích hợp nhất để phô diễn ý tưởng của mình.
Tâm sự với thanh niên, Phan Bội Châu khẳng định “đời đã mới, người càng nên đổi mới”. Câu thơ có cách diễn đạt tăng cấp: lúc nào cũng cần đổi mới, huống chi đời đã đổi mới, tức là có cơ hội mới, vận hội mới. Đến câu tiếp theo “Xúm vai vào xốc vác cựu giang sơn”, tác giả nói cụ thể hơn nhiệm vụ của thanh niên phải cùng nhau đoàn kết giành lại chủ quyền cho giang sơn mà cha ông từ ngàn xưa để lại. Công việc này thật khó khăn, nặng nề, vì thế không những phải dũng cảm, mà còn phải khôn khéo kiên trì, nhất là phải biết đoàn kết, biết “liên hiệp lại” thành một khối vững chắc:
Đây đoàn thể quyết ghe phen liên hiệp lại.
Trải qua những năm tháng hoạt động cách mạng, cụ Phan ý thức rất rõ về tầm quan trọng của sự đoàn kết. Ngay những năm đầu ra nước ngoài, trong Thư gửi người trong nước khuyên nhân dân giúp tiền cho học sinh đi học ngoại quốc, Phan Bội Châu đã nêu rõ: “Hễ người đông thì xong công việc, đồng tâm thì sức sẽ khỏe; góp nhiều mảnh da để may áo cừu, góp nhiều cây lại để chống nhà. Muôn búa vào rừng cây to cũng ngã; xe cát suốt ngày, biển sâu cũng lấp”. Những câu thơ trên đây hấp dẫn người đọc không phải chỉ ở nội dung mà chính là ở cách nói, ở bầu nhiệt huyết. Nó còn có sức thuyết phục lớn vì được bảo chứng bằng cách cả cuộc đời hoạt động cách mạng không mệt mỏi của nhà đại ái quốc.
Lời khuyên nhủ có lúc chuyển sang giọng dịu dàng, nhỏ nhẹ, như vỗ về:
Ai hữu chí từ nay xin gắng gỏi
Xếp bút nghiêng mà tu dưỡng lấy tinh thần,
Đừng ham chơi, đừng ham mặc, ham ăn…
Có lúc lại sôi nổi, hào hùng và quyết liệt:
Dựng gan óc lên đánh tan sắt lửa
Xối máu nóng rửa vết nhơ nô lệ
Nhưng đấy mới thực là giọng chủ đạo của thơ Phan Bội Châu – đúng như Tố Hữu nhận xét: “Phan Bội Châu câu thơ dậy sóng”. Qua giọng thơ và hình ảnh thơ, ta thấy hiện lên thật rõ nét một Phan Bội Châu tuy tuổi đã già, thân bị giam cầm nơi Bến Ngự, mà tinh thần vẫn hăm hở sục sôi, vẫn khao khát tung hoành và đặc biệt là vẫn muốn chuyển mình theo “tân vận hội”.
Khát vọng ấy ông muốn truyền tới lớp đầu xanh với tất cả niềm tin của mình:
Chữ rằng: Nhật nhật tân, hựu nhật tân.
|
Bình giảng bài thơ Bài ca chúc Tết thanh niên của Phan Bội Châu
Hướng dẫn
Bình giảng bài thơ Bài ca chúc Tết thanh niên của Phan Bội Châu
BÀI LÀM
Trong ký ức của nhiều thế hệ người Việt Nam, Phan Bội Châu là một nhà yêu nước nồng cháy thiết tha, một nhân vật lịch sử kiệt xuất, tiêu biểu cho phong trào đấu tranh giành độc lập của dân tộc mấy chục năm đầu thế kỷ XX.
Phan Bội Châu có một tiểu sử oanh liệt. Ngay đến những năm cuối đời, khi bị giặc Pháp giam lỏng ở Huế, Phan Bội Châu vẫn được sự quan tâm đặc biệt của đồng bào, đặc biệt là tầng lớp thanh niên. Ông rất có ý thức bồi dưỡng thế hệ trẻ và đặt vào họ những hy vọng lớn lao. Đầu năm 1927, học sinh trường Quốc học và trường Dòng ở Huế tổ chức chúc thọ ông tròn tuổi 60. Đáp lại tình cảm ấy, Phan Bội Châu đã ứng khẩu đọc bài Bài ca chúc Tết thanh niên, theo thể hát nói. Thông qua những lời bộc bạch chân thành, tác giả thiết tha kêu gọi thanh niên hãy từ bỏ lối sống tầm thường, quyết tâm tu dưỡng, vươn tới lý tưởng cách mạng cứu nước, bắt kịp thời đại mới. Đó chính là sự kỳ vọng và sự bàn giao trách nhiệm của thế hệ Phan Bội Châu cho thế hệ thanh niên kế tiếp. Binh giang bai ca chuc Tet thanh nien cua Phan Boi Chau.
Mở đầu Bài ca là tiếng gọi đột ngột, khẩn cấp, giục giã: “Dậy! Dậy! Dậy”. Đây là lời của ai? Hãy đọc kỹ những câu thơ tiếp theo:
Dậy! Dậy! Dậy!
Bên án một tiếng gà vừa gáy.
Chim trên cây liền ngỏ ý chào mừng.
Cách mở đầu thật độc đáo. Tác giả muốn lay tỉnh mạnh mẽ lớp hậu sinh hãy mở mắt nhìn ra một ngày mới bắt đầu: Trời đã sáng, chim chóc đã cất tiếng hót tưng bừng rộn rã. Điều đáng nói ở đây là tiếng gà, tiếng chim kia đều có sức thôi thúc, giục giã khác thường. Thì ra, những âm thanh đời thường vốn rất là quen thuộc ấy được “nghe” qua tâm trạng hy vọng, mong chờ một thời cơ mới và thế hệ mới của tác giả bỗng trở thành có tính biểu tượng đầy ý nghĩa của “vận hội mới”. Cảm động biết bao khi ta hiểu đây là tâm trạng của một người đang sống trong hoàn cảnh nghiệt ngã, bị kẻ thù kìm kẹp hòng cắt lìa khỏi thực tế đấu tranh của dân tộc, nhưng vẫn gắn bó với cuộc sống, tin tưởng ở thế hệ tương lai của đất nước.
Đoạn thơ tiếp theo, Phan Bội Châu dành mấy dòng nói về bản thân mình. Lời thơ chân thành, tha thiết khiến cho người đọc vô cùng xúc động:
Xuân ơi xuân, xuân có biết cho chăng?
Thẹn cùng sông, buồn cùng núi, tủi cùng trăng,
Hai mươi năm lẻ đã từng chua với xót.
Trời đất may còn thân sống sót,
Tháng ngày khuây khỏa lũ đầu xanh.
Khác với giọng vui tươi, phấn khởi phần đầu, những câu thơ ở đây có nhịp điệu chậm rãi, nặng trĩu ưu tư, phiền muộn. Trước “tân vận hội”, Phan Bội Châu cảm thấy chạnh buồn khi tâm sự với mùa xuân của đất trời và cũng là tâm sự với thế hệ trẻ, những người tri âm, tri ki của nhà thơ. Ở đây có nhiều cách hiểu về mùa xuân; xuân vừa có nghĩa là đất nước quê hương vừa để chỉ những lớp người trẻ tuổi. Phan Bội Châu bộc bạch hết nỗi niềm tâm sự. Đấy trước hết là nỗi đau của một người đã từng phải làm “khách không nhà trong bốn biển”, suốt nai mươi năm bôn tẩu, nhưng rốt cuộc “trăm thất bại không một thành công”. Đúng là trong nỗi đau này không chỉ có “thẹn” mà còn có thêm nỗi “buồn” và nỗi “tủi” lẫn cả sự chua xót đắng cay. Đây là nỗi đau xót của một trượng phu, một anh hùng, một nhân vật lịch sử kiệt xuất. Đây còn là nỗi đau của cả một dân tộc, một đất nước. Câu thơ “Thẹn cùng sông, buồn cùng núi, tủi cùng trăng” được ngắt đều thành ba nhịp, ba vế đối nhau, mỗi trạng thái tình cảm đặt vào trong quan hệ của một hình ảnh biểu tượng của đất nước, thể hiện nỗi đau của tầm vóc núi sông, tầm vóc thời đại. Ta liên tưởng đến nỗi đau lớn của Đặng Dung thời trước trong bài thơ Cảm hoài đầy bi tráng: “Thù nước chưa xong, đầu đã bạc”. Đây là tâm sự của một con người đã từng trải qua mấy chục năm tung hoành, khi ở Nhật Bản, lúc ở Trung Quốc, lúc ở Xiêm La, nay phải sống trong vòng kiềm tỏa của quân thù và tuổi già đã đến, chỉ còn biết trông cậy vào “lũ đầu xanh” để khuây khỏa “tháng ngày”. Như vậy, Phan Bội Châu ý thức sâu sắc vai trò lịch sử của mình đã chấm dứt và cụ nghiêm khắc tự đánh giá bản thân mình. Điều này chứng tỏ sự sáng suốt nhân cách cao đẹp của nhà cách mạng. Riêng việc hiểu được bản thân mình, thấy được giới hạn của mình cũng đã thể hiện một phần tầm vóc lớn của tác giả, khiến người đọc vô cùng cảm phục.
Thất bại, nhưng không thất vọng; nhà thơ đặt hy vọng vào thế hệ thanh niên:
Thưa các cô, các cậu, lại các anh.
Một chữ thưa mà hàm chứa bao nhiêu niềm trân trọng và tin yêu. Đó vừa là đức khiêm nhường, vừa thể hiện tấm lòng thiết tha của nhà cách mạng lão thành đối với vận mệnh của đất nước. Thì ra, đối với Phan Sào Nam, dẫu ở tuổi 60, dẫu đã là một nhân vật lừng danh, nhưng bất kể già trẻ gái trai, ai có tinh thần cứu nước, biết thương xót giống nòi thì đều phải kính trọng. Ta còn nhớ có lần, Phan đã “ngàn vạn lạy” các chú lính tập để họ quay về với Tổ quốc (Việt Nam vong quốc xứ). Hơn nữa, cách xưng hô thích hợp để tác giả trình bày những vấn đề trọng đại tiếp theo. Bởi vậy, có thể nói, ở đây, cụ Phan đã chọn lựa được những lời lẽ và giọng điệu thích hợp nhất để phô diễn ý tưởng của mình.
Tâm sự với thanh niên, Phan Bội Châu khẳng định “đời đã mới, người càng nên đổi mới”. Câu thơ có cách diễn đạt tăng cấp: lúc nào cũng cần đổi mới, huống chi đời đã đổi mới, tức là có cơ hội mới, vận hội mới. Đến câu tiếp theo “Xúm vai vào xốc vác cựu giang sơn”, tác giả nói cụ thể hơn nhiệm vụ của thanh niên phải cùng nhau đoàn kết giành lại chủ quyền cho giang sơn mà cha ông từ ngàn xưa để lại. Công việc này thật khó khăn, nặng nề, vì thế không những phải dũng cảm, mà còn phải khôn khéo kiên trì, nhất là phải biết đoàn kết, biết “liên hiệp lại” thành một khối vững chắc:
Đây đoàn thể quyết ghe phen liên hiệp lại.
Trải qua những năm tháng hoạt động cách mạng, cụ Phan ý thức rất rõ về tầm quan trọng của sự đoàn kết. Ngay những năm đầu ra nước ngoài, trong Thư gửi người trong nước khuyên nhân dân giúp tiền cho học sinh đi học ngoại quốc, Phan Bội Châu đã nêu rõ: “Hễ người đông thì xong công việc, đồng tâm thì sức sẽ khỏe; góp nhiều mảnh da để may áo cừu, góp nhiều cây lại để chống nhà. Muôn búa vào rừng cây to cũng ngã; xe cát suốt ngày, biển sâu cũng lấp”. Những câu thơ trên đây hấp dẫn người đọc không phải chỉ ở nội dung mà chính là ở cách nói, ở bầu nhiệt huyết. Nó còn có sức thuyết phục lớn vì được bảo chứng bằng cách cả cuộc đời hoạt động cách mạng không mệt mỏi của nhà đại ái quốc.
Lời khuyên nhủ có lúc chuyển sang giọng dịu dàng, nhỏ nhẹ, như vỗ về:
Ai hữu chí từ nay xin gắng gỏi
Xếp bút nghiêng mà tu dưỡng lấy tinh thần,
Đừng ham chơi, đừng ham mặc, ham ăn…
Có lúc lại sôi nổi, hào hùng và quyết liệt:
Dựng gan óc lên đánh tan sắt lửa
Xối máu nóng rửa vết nhơ nô lệ
Nhưng đấy mới thực là giọng chủ đạo của thơ Phan Bội Châu – đúng như Tố Hữu nhận xét: “Phan Bội Châu câu thơ dậy sóng”. Qua giọng thơ và hình ảnh thơ, ta thấy hiện lên thật rõ nét một Phan Bội Châu tuy tuổi đã già, thân bị giam cầm nơi Bến Ngự, mà tinh thần vẫn hăm hở sục sôi, vẫn khao khát tung hoành và đặc biệt là vẫn muốn chuyển mình theo “tân vận hội”.
Khát vọng ấy ông muốn truyền tới lớp đầu xanh với tất cả niềm tin của mình:
Chữ rằng: Nhật nhật tân, hựu nhật tân.
|
Đề bài: Bình giảng bài thơ Bài ca ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ
Bài làm
Nguyễn Công Trứ (1778-1858) là nhà thơ lớn cua dân tộc kinh bang tế thế, lưu danh sử sách. Lúc sống cuộc đời một hàn sĩ, lúc cầm quân chinh chiến, lúc làm lính thú, lúc làm đại quan, vinh nhục đã từng, thăng trầm đã trải, nhưng lúc nào ông cũng hăm hở chí nam nhi, sòng phẳng với nợ tang bồng, sống vì một khát vọng phi thường:
Đã mang tiếng ở trong trời đất,
Phải có danh gì với núi sông.
Sự nghiệp văn chương của Nguyễn Công Trứ vô cùng rạng rỡ, cho thấy một cá tính sáng tạo rất độc đáo được thể hiện tuyệt đẹp qua bài phú Nôm Hàn nho phong vị phú và trên 60 bài thơ hát nói cực kì tài hoa. Bài ca ngưởng là một trong những bài thơ hát nói kiệt tác trong nền thơ ca dân tộc. Bài hát nói này có hai khổ đôi, tất cả có 19 câu thơ đầy vần điệu, nhạc điệu trầm bổng, réo rắt, lúc khoan thai, lúc hào hùng, đọc lên nghe rất thú vị. Hát nói là một thể thơ dân tộc, có bố cục chặt chẽ, chất thơ chất nhạc kết hợp rất hài hòa, hấp dẫn.
Nguyễn Công Trứ về trí sĩ năm 1848, sau gần 30 năm làm quan với triều Nguyễn. Bài thơ Bài ca ngất ngưởng được ông viết sau khi đã về trí sĩ tại quê nhà. Bài thơ vang lên như một lời tự thuật về cuộc đời, qua đó ông Hi Văn tự hào về tài năng và công danh của mình, biểu lộ một cá tính, một phong cách sống tài tử, phóng khoáng ở đời.
Ngất ngưởng nghĩa là không vững, ở chỗ cheo leo dễ đổ, dễ rơi (Từ điển tiếng Việt). Trong bài thơ này nếu hiểu ngất ngưởng là một con người khác đời, một cách sống khác đời và bất chấp mọi người. Và ngất ngưởng đã được Nguyễn Công Trứ nâng lên thành bài ca, thành điệu tâm hồn với tất cồ niềm tự hào và sự say sưa hiếm thấy.
Khổ đầu cất cao một tiếng nói, một lời tuyên ngôn của đấng nam nhi, đấng làm trai. Rất trang trọng và hào hùng: Vũ trụ nội mạc phi phận sự – mọi việc trong vũ trụ chẳng có việc nào không là phận sự của ta. Một cách nói phủ định để khẳng định tâm thế của một nhà nho chân chính. Mà đâu chỉ có một lần? Lúc thì ông viết: Vũ trụ giai ngô phận sự (Những việc trong vũ trụ đều thuộc phận sự của ta – Nợ tang bồng); Vũ trụ chứa phận nội (Việc trong vũ trụ là chức phận của ta – Gánh trung hiếu). Có cái tâm thế ấy chính vì Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng. Hi Văn là biệt hiệu của Nguyễn Công Trứ. Tài bộ là tài năng lớn, nhiều tài năng. Chữ lồng trong câu thơ có nhiều cách hiểu khác nhau. Vào lồng là vào khuôn phép vua chúa nhưng vẫn là chật hẹp, tù túng trái với cái tài bộ đội trời đạp đất của óng. Có người lại giải thích: lồng là trời đất, vũ trụ. Nguyễn Công Trứ đã nhiều lần nói: Đã mang tiếng ở trong trời đất, hoặc Chẳng công danh chi đứng giữa trần hoàn (trần hoàn: cõi đời, cõi trần). Cách hiểu thứ hai hợp lí hơn, vì có lồng vũ trụ thì mới có ý chí đua tranh như ông nói.
Sau khi đã xưng danh, nhà thơ tự khẳng định tâm thế của mình, tài bộ của mình, chí nam nhi của mình mang tầm vóc vũ trụ.
Ông Hi Văn là một người có thực tài và thực danh. Học hành thi cử, ông dám thi thố với thiên hạ: Cái nợ cầm thư phải trả xong. Năm 1819, Nguyễn Công Trứ đỗ thả khoa trường Nghệ An. Làm quan võ, giữ chức Tham tán; làm quan văn, là Tổng đốc Đông (Hải Dương và Quảng Yên). Tiếng tăm lừng lẫy, Làm nên đấng anh hùng đâu đấy tỏ (Chí anh hùng). Đứng trên đỉnh cao danh vọng bởi có văn võ toàn tài, bởi có gồm thao lược, và chính lúc đó ông Hi Văn mới trở thành tay ngất ngưởng, một con người hơn đời và hơn thiên hạ. Câu thơ với ngắt nhịp (3-3- 1-3-3-2), ba lần điệp lại chữ khi đã tạo nên một giọng điệu hào hùng, thể hiện một cốt cách phi thường, một chí khí vô cùng mạnh mẽ:
Khi Thủ khoa / khi Tham tán / khi Tổng đốc Đông
Gồm thao lược / đã nên tay / ngất ngưởng.
Bốn câu tiếp theo (khổ giữa), ý thơ mở rộng, tác giả tự hào, khẳng định mình là một con người, một kẻ sĩ có tài kinh bang tế thế. Thời loạn thì xông pha trận mạc, giữ trọng trách trước ba quân: Bình Tây cờ Đại tướng. Thời bình thì giúp nước giúp vua, làm Phủ doãn Thừa Thiên. Đó là năm 1847, Nguyễn Công Trứ đã lên tới đỉnh cao nhất danh vọng. Ông đã từng nói: Lúc làm Đại tướng, ta chẳng lấy thế làm vinh, lúc làm lính thú, ta cũng chẳng lấy thế làm nhục. Sau 30 năm làm quan, Nguyễn Công Trứ về trí sĩ ở quê nhà, năm đó, ông vừa tròn 70 tuổi (1848):
Đô môn giải tô chi niên
Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng.
Trở lại đời thường, cụ Thượng Trứ đã hành động một cách ngược đời, hình như để giễu đời với tất cả sự ngất ngưởng. Vị đại quan thuở nào ngựa ngựa xe xe nay chỉ cưỡi bò vàng và cho bò đeo đạc ngựa. Cả người và bò vàng đều ngất ngưởng. Như một sự thách đố với miệng thế gian. Cho đến nay dân gian vẫn cười và truyền tụng bài thơ để vào chiếc mo cau của ông Hi Văn thuở nào:
Xuống ngựa, lên xe, nọ tướng nhàn,
Lợm mùi giáng chức vơi thăng quan,
Điền viên dạo chiếc xe bò cái,
Sẵn tấm mo che miệng thế gian.
Tám câu tiếp theo trong hai khổ đôi nói lên cách sông ngất ngưởng. Xưa kia là một vị đại thần, một danh tướng – tay kiếm cung – thế mà nay sống cuộc đời hiền lành, bình dị nên dạng tử bi. Đi vãn cảnh chùa, đi thăm thú những danh lam thắng cảnh, ông đã mang theo một đôi dì, những nàng hầu xinh đẹp với gót tiên đủng đỉnh..
Kia núi nọ phau phau mây trắng,
Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi,
Gót tiên theo đủng đỉnh một đôi dì
Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng…
Ông đã sống hết mình và chơi cũng hết mình. Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng là một tứ thơ độc đáo. Câu thơ tự trào nhiều hóm hỉnh. Bụt cười hay thiên hạ cười? Hay ông Hi Văn tự cười mình? Đã thoát vòng danh lợi rồi, thì chuyện được, mất là lẽ đời, như tích Thất mã tái ông mà thôi, cũng chẳng bận tâm làm gì? Chuyện khen, chê của thiên hạ, xin bỏ ngoài tai, như ngọn gió đông (xuân) phơi phới thổi qua. Có bản lĩnh, có tự tin về tài đức của mình mới có thái độ phủ định như thế, dám sống vượt lên trên mọi thế tục. Có biết Nguyễn Công Trứ là một nhà nho được đào luyện nơi cửa Khổng sân Trình, một vị đại quan của triều Nguyễn thì mới thấy được một phần nào các tính cốt cách khác đời, một nhân cách khác đời, rất phóng túng và tài tình hiếm thấy của ông. Không quan tâm đến chuyện được, mất. Bỏ ngoài tai mọi lời thị phi, khen chê, ông đã sống một cách hồn nhiên, vô cùng thảnh thơi, vui thú. Tuy ngất ngưởng mà trong sạch, thanh cao. Đây là hai câu thơ tuyệt hay trong Bài ca ngất ngưởng:
Khi ca / khỉ tửu / khi cắc / khi tùng
Không phật / không tiên / không vướng tục.
Cách ngắt nhịp 2, nghệ thuật hòa thanh (bằng, trắc), lối nhân, lối diễn tả trùng điệp (khi… không…) đã tạo cho câu thơ phong phú về nhạc điệu, biểu lộ một phong thái ung dung yêu đời, ham sống, thanh cao chẳng vướng chút bụi trần. Có đọc to và hát lên, có lắng nghe tiếng đàn đáy, nhịp phách, tiếng trống chầu, ta mới cảm được chất thơ, chất nhạc hòa quyện trong những vần thơ đẹp như thế! Ngất ngưởng và tài hoa, tài tử.
Khổ xếp của bài hát nói chỉ có ba câu. Câu cuối gọi là câu keo chỉ có sáu từ. Nên ghi đúng như văn bản Tuyển tập thơ ca trù – NXB Văn học 1987 mới đúng thi pháp:
Chẳng Trái, nhạc cũng vào phường Hàn, Phú.
Nghĩa vua, tôi cho vẹn đạo sơ chung,
Đời ai ngất ngưởng như ông!
Nguyễn Công Trứ tự hào khẳng định mình là một danh thần thủy chung, trọn vẹn nghĩa vua tôi – ông đã viết trong bài Nợ tang bồng.
Chí tang bồng hẹn với giang san,
Đường trung hiếu, chữ quân thân là gánh vác.
Tài năng, công danh mà Nguyễn Công Trứ để lại cho đất nước và nhân dân có kém gì Trái Tuân, Nhạc Phi, Hàn Kì, Phú Bật – những anh tài đời Hán, đời Tống bên Trung Quốc. Hai so sánh gần xa, trong ngoài, phương Bắc và phương Nam, tác giả đã kết thúc bài hát nói bằng một tiếng ông đĩnh đạc, hào hùng: Đời ai ngất ngưởng như ông!. Cái bản ngã phi thường của nhà thơ đã được phô bày cực độ.
Tóm lại, với Nguyễn Công Trứ, thì phải có thực tài, thực danh, phải vẹn đạo vua tôi mới trở thành tay ngất ngưởng, ông ngất ngưởng được. Và cách sống ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ thể hiện chất tài hoa, tài tử, không ô trọc, không vướng tục, cũng không thoát li. Ngất ngưởng thế mới sang trọng.
Cái nhan đề, thi đề Bài ca ngất ngưởng của ông Hi Văn độc đáo. Cách bộc lộ bản ngã của nhà thơ rất độc đáo. Một thế kỉ sau, thi sĩ Tản Đà cũng có nhiều bài thơ hát nói, thơ trường thiên đậm đặc chất ngông. Một đàng ngất ngưởng mà tài danh, một đằng ngông mà chán đời và lãng mạn.
Thơ hát nói của Nguyễn Công Trứ đạt đến đỉnh cao nghệ thuật. Các câu thơ chữ Hán đem lại sự bề thế, uyên bác. Chất thơ, chất nhạc phối hợp hài hòa, lôi cuôn, hấp dẫn.
Trong nền thi ca cổ điển Việt Nam, Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát.. Dương Khuê, Nguyễn Khuyến, Tản Đà, là nhũng nhà thơ cự phách để lại một số bài hát nói tuyệt tác. Nguyễn Công Trứ đã tạo nên một giọng điệu mạnh mẽ, hào hùng, chất tài tử hòa nhập với Chí anh hùng, Nợ tang bồng, Chí nam nhi. Đó là phong cách nghệ thuật, là cốt cách, là bản sắc thơ hát nói của Nguyễn Công Trứ. Bài ca ngất ngưởng đích thực là bài ca từ đáy lòng của ông Hi Văn cho ta nhiều thú vị.
|
Đề bài: Bình giảng bài thơ Bài ca ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ
Bài làm
Nguyễn Công Trứ (1778-1858) là nhà thơ lớn cua dân tộc kinh bang tế thế, lưu danh sử sách. Lúc sống cuộc đời một hàn sĩ, lúc cầm quân chinh chiến, lúc làm lính thú, lúc làm đại quan, vinh nhục đã từng, thăng trầm đã trải, nhưng lúc nào ông cũng hăm hở chí nam nhi, sòng phẳng với nợ tang bồng, sống vì một khát vọng phi thường:
Đã mang tiếng ở trong trời đất,
Phải có danh gì với núi sông.
Sự nghiệp văn chương của Nguyễn Công Trứ vô cùng rạng rỡ, cho thấy một cá tính sáng tạo rất độc đáo được thể hiện tuyệt đẹp qua bài phú Nôm Hàn nho phong vị phú và trên 60 bài thơ hát nói cực kì tài hoa. Bài ca ngưởng là một trong những bài thơ hát nói kiệt tác trong nền thơ ca dân tộc. Bài hát nói này có hai khổ đôi, tất cả có 19 câu thơ đầy vần điệu, nhạc điệu trầm bổng, réo rắt, lúc khoan thai, lúc hào hùng, đọc lên nghe rất thú vị. Hát nói là một thể thơ dân tộc, có bố cục chặt chẽ, chất thơ chất nhạc kết hợp rất hài hòa, hấp dẫn.
Nguyễn Công Trứ về trí sĩ năm 1848, sau gần 30 năm làm quan với triều Nguyễn. Bài thơ Bài ca ngất ngưởng được ông viết sau khi đã về trí sĩ tại quê nhà. Bài thơ vang lên như một lời tự thuật về cuộc đời, qua đó ông Hi Văn tự hào về tài năng và công danh của mình, biểu lộ một cá tính, một phong cách sống tài tử, phóng khoáng ở đời.
Ngất ngưởng nghĩa là không vững, ở chỗ cheo leo dễ đổ, dễ rơi (Từ điển tiếng Việt). Trong bài thơ này nếu hiểu ngất ngưởng là một con người khác đời, một cách sống khác đời và bất chấp mọi người. Và ngất ngưởng đã được Nguyễn Công Trứ nâng lên thành bài ca, thành điệu tâm hồn với tất cồ niềm tự hào và sự say sưa hiếm thấy.
Khổ đầu cất cao một tiếng nói, một lời tuyên ngôn của đấng nam nhi, đấng làm trai. Rất trang trọng và hào hùng: Vũ trụ nội mạc phi phận sự – mọi việc trong vũ trụ chẳng có việc nào không là phận sự của ta. Một cách nói phủ định để khẳng định tâm thế của một nhà nho chân chính. Mà đâu chỉ có một lần? Lúc thì ông viết: Vũ trụ giai ngô phận sự (Những việc trong vũ trụ đều thuộc phận sự của ta – Nợ tang bồng); Vũ trụ chứa phận nội (Việc trong vũ trụ là chức phận của ta – Gánh trung hiếu). Có cái tâm thế ấy chính vì Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng. Hi Văn là biệt hiệu của Nguyễn Công Trứ. Tài bộ là tài năng lớn, nhiều tài năng. Chữ lồng trong câu thơ có nhiều cách hiểu khác nhau. Vào lồng là vào khuôn phép vua chúa nhưng vẫn là chật hẹp, tù túng trái với cái tài bộ đội trời đạp đất của óng. Có người lại giải thích: lồng là trời đất, vũ trụ. Nguyễn Công Trứ đã nhiều lần nói: Đã mang tiếng ở trong trời đất, hoặc Chẳng công danh chi đứng giữa trần hoàn (trần hoàn: cõi đời, cõi trần). Cách hiểu thứ hai hợp lí hơn, vì có lồng vũ trụ thì mới có ý chí đua tranh như ông nói.
Sau khi đã xưng danh, nhà thơ tự khẳng định tâm thế của mình, tài bộ của mình, chí nam nhi của mình mang tầm vóc vũ trụ.
Ông Hi Văn là một người có thực tài và thực danh. Học hành thi cử, ông dám thi thố với thiên hạ: Cái nợ cầm thư phải trả xong. Năm 1819, Nguyễn Công Trứ đỗ thả khoa trường Nghệ An. Làm quan võ, giữ chức Tham tán; làm quan văn, là Tổng đốc Đông (Hải Dương và Quảng Yên). Tiếng tăm lừng lẫy, Làm nên đấng anh hùng đâu đấy tỏ (Chí anh hùng). Đứng trên đỉnh cao danh vọng bởi có văn võ toàn tài, bởi có gồm thao lược, và chính lúc đó ông Hi Văn mới trở thành tay ngất ngưởng, một con người hơn đời và hơn thiên hạ. Câu thơ với ngắt nhịp (3-3- 1-3-3-2), ba lần điệp lại chữ khi đã tạo nên một giọng điệu hào hùng, thể hiện một cốt cách phi thường, một chí khí vô cùng mạnh mẽ:
Khi Thủ khoa / khi Tham tán / khi Tổng đốc Đông
Gồm thao lược / đã nên tay / ngất ngưởng.
Bốn câu tiếp theo (khổ giữa), ý thơ mở rộng, tác giả tự hào, khẳng định mình là một con người, một kẻ sĩ có tài kinh bang tế thế. Thời loạn thì xông pha trận mạc, giữ trọng trách trước ba quân: Bình Tây cờ Đại tướng. Thời bình thì giúp nước giúp vua, làm Phủ doãn Thừa Thiên. Đó là năm 1847, Nguyễn Công Trứ đã lên tới đỉnh cao nhất danh vọng. Ông đã từng nói: Lúc làm Đại tướng, ta chẳng lấy thế làm vinh, lúc làm lính thú, ta cũng chẳng lấy thế làm nhục. Sau 30 năm làm quan, Nguyễn Công Trứ về trí sĩ ở quê nhà, năm đó, ông vừa tròn 70 tuổi (1848):
Đô môn giải tô chi niên
Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng.
Trở lại đời thường, cụ Thượng Trứ đã hành động một cách ngược đời, hình như để giễu đời với tất cả sự ngất ngưởng. Vị đại quan thuở nào ngựa ngựa xe xe nay chỉ cưỡi bò vàng và cho bò đeo đạc ngựa. Cả người và bò vàng đều ngất ngưởng. Như một sự thách đố với miệng thế gian. Cho đến nay dân gian vẫn cười và truyền tụng bài thơ để vào chiếc mo cau của ông Hi Văn thuở nào:
Xuống ngựa, lên xe, nọ tướng nhàn,
Lợm mùi giáng chức vơi thăng quan,
Điền viên dạo chiếc xe bò cái,
Sẵn tấm mo che miệng thế gian.
Tám câu tiếp theo trong hai khổ đôi nói lên cách sông ngất ngưởng. Xưa kia là một vị đại thần, một danh tướng – tay kiếm cung – thế mà nay sống cuộc đời hiền lành, bình dị nên dạng tử bi. Đi vãn cảnh chùa, đi thăm thú những danh lam thắng cảnh, ông đã mang theo một đôi dì, những nàng hầu xinh đẹp với gót tiên đủng đỉnh..
Kia núi nọ phau phau mây trắng,
Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi,
Gót tiên theo đủng đỉnh một đôi dì
Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng…
Ông đã sống hết mình và chơi cũng hết mình. Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng là một tứ thơ độc đáo. Câu thơ tự trào nhiều hóm hỉnh. Bụt cười hay thiên hạ cười? Hay ông Hi Văn tự cười mình? Đã thoát vòng danh lợi rồi, thì chuyện được, mất là lẽ đời, như tích Thất mã tái ông mà thôi, cũng chẳng bận tâm làm gì? Chuyện khen, chê của thiên hạ, xin bỏ ngoài tai, như ngọn gió đông (xuân) phơi phới thổi qua. Có bản lĩnh, có tự tin về tài đức của mình mới có thái độ phủ định như thế, dám sống vượt lên trên mọi thế tục. Có biết Nguyễn Công Trứ là một nhà nho được đào luyện nơi cửa Khổng sân Trình, một vị đại quan của triều Nguyễn thì mới thấy được một phần nào các tính cốt cách khác đời, một nhân cách khác đời, rất phóng túng và tài tình hiếm thấy của ông. Không quan tâm đến chuyện được, mất. Bỏ ngoài tai mọi lời thị phi, khen chê, ông đã sống một cách hồn nhiên, vô cùng thảnh thơi, vui thú. Tuy ngất ngưởng mà trong sạch, thanh cao. Đây là hai câu thơ tuyệt hay trong Bài ca ngất ngưởng:
Khi ca / khỉ tửu / khi cắc / khi tùng
Không phật / không tiên / không vướng tục.
Cách ngắt nhịp 2, nghệ thuật hòa thanh (bằng, trắc), lối nhân, lối diễn tả trùng điệp (khi… không…) đã tạo cho câu thơ phong phú về nhạc điệu, biểu lộ một phong thái ung dung yêu đời, ham sống, thanh cao chẳng vướng chút bụi trần. Có đọc to và hát lên, có lắng nghe tiếng đàn đáy, nhịp phách, tiếng trống chầu, ta mới cảm được chất thơ, chất nhạc hòa quyện trong những vần thơ đẹp như thế! Ngất ngưởng và tài hoa, tài tử.
Khổ xếp của bài hát nói chỉ có ba câu. Câu cuối gọi là câu keo chỉ có sáu từ. Nên ghi đúng như văn bản Tuyển tập thơ ca trù – NXB Văn học 1987 mới đúng thi pháp:
Chẳng Trái, nhạc cũng vào phường Hàn, Phú.
Nghĩa vua, tôi cho vẹn đạo sơ chung,
Đời ai ngất ngưởng như ông!
Nguyễn Công Trứ tự hào khẳng định mình là một danh thần thủy chung, trọn vẹn nghĩa vua tôi – ông đã viết trong bài Nợ tang bồng.
Chí tang bồng hẹn với giang san,
Đường trung hiếu, chữ quân thân là gánh vác.
Tài năng, công danh mà Nguyễn Công Trứ để lại cho đất nước và nhân dân có kém gì Trái Tuân, Nhạc Phi, Hàn Kì, Phú Bật – những anh tài đời Hán, đời Tống bên Trung Quốc. Hai so sánh gần xa, trong ngoài, phương Bắc và phương Nam, tác giả đã kết thúc bài hát nói bằng một tiếng ông đĩnh đạc, hào hùng: Đời ai ngất ngưởng như ông!. Cái bản ngã phi thường của nhà thơ đã được phô bày cực độ.
Tóm lại, với Nguyễn Công Trứ, thì phải có thực tài, thực danh, phải vẹn đạo vua tôi mới trở thành tay ngất ngưởng, ông ngất ngưởng được. Và cách sống ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ thể hiện chất tài hoa, tài tử, không ô trọc, không vướng tục, cũng không thoát li. Ngất ngưởng thế mới sang trọng.
Cái nhan đề, thi đề Bài ca ngất ngưởng của ông Hi Văn độc đáo. Cách bộc lộ bản ngã của nhà thơ rất độc đáo. Một thế kỉ sau, thi sĩ Tản Đà cũng có nhiều bài thơ hát nói, thơ trường thiên đậm đặc chất ngông. Một đàng ngất ngưởng mà tài danh, một đằng ngông mà chán đời và lãng mạn.
Thơ hát nói của Nguyễn Công Trứ đạt đến đỉnh cao nghệ thuật. Các câu thơ chữ Hán đem lại sự bề thế, uyên bác. Chất thơ, chất nhạc phối hợp hài hòa, lôi cuôn, hấp dẫn.
Trong nền thi ca cổ điển Việt Nam, Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát.. Dương Khuê, Nguyễn Khuyến, Tản Đà, là nhũng nhà thơ cự phách để lại một số bài hát nói tuyệt tác. Nguyễn Công Trứ đã tạo nên một giọng điệu mạnh mẽ, hào hùng, chất tài tử hòa nhập với Chí anh hùng, Nợ tang bồng, Chí nam nhi. Đó là phong cách nghệ thuật, là cốt cách, là bản sắc thơ hát nói của Nguyễn Công Trứ. Bài ca ngất ngưởng đích thực là bài ca từ đáy lòng của ông Hi Văn cho ta nhiều thú vị.
|
Đề bài: Bình giảng bài thơ Chùa Non Nước của Lê Thánh Tông trích "Hồng Đức quốc âm thi tập”.
Bài làm
Trong phần "Phong cảnh môn" (Môn loại về phong cảnh) của "Hồng Đức quốc âm thi tập" (Hội Tao Đàn) hiện có 66 bài thơ vịnh những danh lam thắng cảnh của giang sơn gấm vóc Đại Việt. Trong đó có bài thơ “Chùa Non Nước” tương truyền là sáng tác của Tao Đàn đô nguyên súy Lê Thánh Tông.
Bài thơ được viết theo thể thơ lục ngôn bát cú (sáu chữ, tám câu). Bao trùm bài thơ là một cái nhìn man mác với bao suy ngẫm về thiên nhiên va cuộc đời:
"Nơi gọi Bồng, nơi gọi Nhược.
Hai bên góp làm Non Nước.
Đá chông hòn thấp, hòn cao.
Sóng trục lớp sau lớp trước.
Phật hư vô cảnh thiếu thừa.
Khách danh lợi, buồm xuôi ngươc.
Vẳng nghe trên gác boong boong,
Lẩn thẩn dưới chùa lần bước.”
Bài thơ chia làm 2 phần. Bốn câu đầu miêu tả cảnh sắc chùa Non Nước. Bốn câu cuối nói lên những suy ngẫm của tác giả về Phật, về con người trong cuộc đời.
Núi Non Nước nằm bên bờ sông Đáy thuộc thị xã Ninh Bình. Xa xưa gọi là Băng Sơn nằm giữa cửa biển. Trong thế kỉ XIII, Trương Hán Siêu đổi tên núi thành Dục Thúy Sơn. Ông có bài thơ "Dục Thúy Sơn khắc thạch" và bài văn "Dục Thúy Sơn linh tế tháp kí” đều nói về núi này. Nguyền Trãi cũng có bài thơ “Dục Thúy Sơn". Từ thời Lê, núi được đổi tên thành núi Non Nước. Từ xa xưa đến nay, trên núi Non Nước vẫn có chùa, người đời gọi là chùa Non Nước, núi, chùa ấy là một trong những cảnh đẹp nổi tiếng trên miền Bắc nước ta.
Hai câu thơ đầu ca ngợi vẻ đẹp độc đáo, vẻ đẹp thần tiên của núi Non Nước. Núi có sông Đáy uốn quanh: cảnh sơn thủy hữu tình, nên thơ và độc đáo: "Hai bên góp làm Non Nước". Hai chữ “góp làm" rất bình dị, rất nôm nói lên bàn tay sáng tạo kì diệu của Hóa công (Trời). Nguyễn Trãi đã từng ví Dục Thúy Sơn là “Cảnh tiên rơi cõi tục", là “Cửa biển có non tiên". Ở đây Lê Thánh Tông lại viết:
“Nơi gọi Bồng, nơi gọi Nhược"
Bồng Lai, Nhược Thủy tương truyền là nơi tiên ở. Núi Non Nước trong cảm nhận của thi nhân mang vẻ đẹp cõi tiên. Một cách viết ước lệ hàm súc gợi lên bao tưởng tượng, biểu lộ một tâm hồn chan hòa tình sông núi.
Hai câu 3, 4 đối nhau. Núi đá chông cao lên, nơi thì “‘hòn thấp" nơi thì "hòn cao" vừa lạ vừa đẹp mắt. Dưới sông, sóng đuổi nhau “lớp sau, lớp trước". Hai chữ ''chồng" và “trục" đăng đối, làm nổi bật cái hồn sơn thúy vừa sống động vừa hài hòa. Cảnh sông núi càng ngắm càng mê say, quyến rũ:
“Đá chồng hòn thấp, hòn cao.
Sóng trục lớp sau, lớp trước.''
Qua vần thơ đẹp, ta cảm nhận được cảnh sắc núi Non Nước, chùa Non Nước là cảnh sơn thủy hữu tình, cảnh tiên kì diệu.
Bốn câu cuối nói lên những suy ngẫm của nhà thơ. Trước hết là suy ngẫm về Phật, về người đời:
“Phật hư vô, cảnh thiếu thừa,
Khách danh lợi, buồm xuôi ngược."
“Hư vô" nghĩa là thế nào? Hư vô nghĩa là trống không. Chùa Non Nước thờ Phật, mà Phật chỉ là hư vô, một thế giới tưởng tượng, trong đó không có cái gì tồn tại. Câu thơ nào cũng ngắt thành 2 vế tiểu đối. Nếu cảnh chùa chiền, cảnh Phật là cõi hư vô, thì trái lại, cảnh thiên nhiên, cảnh sông núi ở đây lại cao, thấp, trước, sau, thiếu, thừa hiển hiện. Trong cuộc mưu sinh, giữa dòng đời xưa nay, xét đến cùng con người (số đông) chỉ là khách danh lợi, tất tả ngược xuôi chẳng khác nào những cánh buồm xuôi ngược trên sông. Sự cảm nhận của nhà thơ về đạo Phật, về đời người giữa cuộc sống thể xác và cõi tâm linh được thể hiện qua những vần thơ thâm trầm, đầy ý vị. Phải chăng đó là bi kịch của kiếp người trong dòng chảy thời gian?
Tiếng chuông boong boong trên mái chùa vẳng lên như làm cho du khách chợt tinh giấc mộng, “lẩn thẩn" dạo bước ngắm cảnh chùa Non Nước. Hai chữ "lẩn thẩn" chứa đầy tâm trạng của một du khách thanh nhàn mang tình sông núi. Bút pháp nghệ thuật lấy động để tả tĩnh rất đặc sắc: tiếng chuông vẳng lén "boong boong" đã làm nổi rõ cảnh chùa Non Nước trên núi cao vô cùng tĩnh lặng, vắng vẻ; du khách tưởng như tinh mộng:
“Vẳng nghe trên gác boong boong,
Lẩn thẩn dưới chùa lần bước."
Bài thơ “Chùa Non Nước" là một thành công đặc sắc và độc đáo về thơ lục ngôn mà Lê Thánh Tông và Hội Tao Đàn để lại cho nền thi ca dân tộc. Bài thơ lại được gieo vần trắc, tạo nên âm diệu trầm bổng, gập ghềnh như leo núi: “Nhược – nước – trước – ngược – bước". Tác giả sử dụng nghệ thuật bình đối và tiểu đối rất thành công. Hình tượng sông núi, sơn thủy, non nước, cảnh Phật và đời người in đậm và bao trùm bài thơ. Ngoài sự suy ngẫm giàu tính nhân bản về Phật và đời người, bài thơ còn thể hiện một tâm hồn thanh cao, giàu tình yêu thiên nhiên đất nước. Đáng quý nhất, đó là tâm hồn của mội ông vua vào hàng minh quân thánh đế của Đại Việt.
|
Topic: Commentary on the poem Chua Non Nuoc by Le Thanh Tong, excerpt "Hong Duc Quoc Am Thi Tap".
Assignment
In the "Landscape Mon" section of "Hong Duc Quoc Am Thi Tap" (Hoi Tao Dan), there are currently 66 poems praising the landscapes of Dai Viet's brocade country. Among them is the poem "Non Nuoc Pagoda" which is said to be composed by Tao Dan Do Nguyen Le Thanh Tong.
The poem is written in six-word, eight-line verse form (six words, eight lines). Covering the poem is a sad look with many thoughts about nature and life:
"Some places call Bong, some places call Nhuoc.
Both sides contributed to making Non Nuoc.
Low rocks and high rocks.
Axial wave layer after the previous layer.
Buddha is empty and lacks excess.
Guests of fame and fortune, sailing smoothly.
I can hear it upstairs,
Wandering around the temple step by step."
The poem is divided into 2 parts. The first four sentences describe the scenery of Non Nuoc Pagoda. The last four sentences express the author's thoughts about Buddha and people in life.
Non Nuoc Mountain is located on the banks of the Day River in Ninh Binh town. In ancient times, it was called Bang Son, located in the middle of the sea mouth. In the 13th century, Truong Han Sieu changed the mountain's name to Duc Thuy Son. He has the poem "Duc Thuy Son engraved with stone" and the essay "Duc Thuy Son sacred tower ky" both talking about this mountain. Nguyen Trai also has the poem "Duc Thuy Son". From the Le Dynasty, the mountain was renamed Non Nuoc Mountain. From ancient times until now, on Non Nuoc mountain there is still a pagoda, people call it Non Nuoc pagoda. That mountain and pagoda are one of the famous beautiful landscapes in the North of our country.
The first two verses praise the unique and magical beauty of Non Nuoc Mountain. The mountain has the Day River winding around it: the landscape is charming, poetic and unique: "Both sides contribute to Non Nuoc". The two words "contribute to do" are very simple, very loosely speaking of the magical creative hands of Hoa Cong (Heaven). Nguyen Trai once compared Duc Thuy Son as "The scene of a fairy falling into the world", as "The sea gate with mountains Here, Le Thanh Tong wrote:
"Place called Bong, place called Nhuoc"
According to legend, Bong Lai and Nhuoc Thuy are the places where fairies live. Non Nuoc Mountain in the poet's perception has the beauty of a fairyland. A concise conventional writing style evokes many imaginations, revealing a soul filled with love for the mountains and rivers.
Sentences 3 and 4 are opposite each other. The rocky mountains rise up high, some are "low islands", others are "high islands", both strange and beautiful. In the river, waves chase each other "next layer, previous layer". The two words "husband" and "axle" are opposite, highlighting the mountain soul that is both lively and harmonious. The more you look at the river and mountain scenery, the more captivating and captivating it becomes:
“Stone on top of low rocks and high rocks.
Axial wave in back layer, front layer.''
Through beautiful poetry, we can feel the scenery of Non Nuoc mountain and Non Nuoc pagoda as a charming landscape of mountains and water, a magical fairyland.
The last four lines express the poet's thoughts. First of all, reflect on Buddha and people:
“Buddha is empty, the scene lacks abundance,
Guests of fame and fortune, sailing smoothly."
What does "nothingness" mean? Nothingness means emptiness. Non Nuoc Pagoda worships Buddha, and Buddha is nothing but nothingness, an imaginary world in which nothing exists. Every verse is broken into 2 small opposites. If the pagoda and Buddha scenes are a realm of nothingness, then on the contrary, the natural scenes and mountains and rivers here are high, low, before, after, lacking, and redundant in the pursuit of life. In the midst of this ancient life, in the end, people (the majority) are just guests of fame and fortune, moving up and down like sails moving up and down the river. The poet's feelings about Buddhism, about human life Physical life and the spiritual world are expressed through profound, meaningful poems. Is that the tragedy of human life in the flow of time?
The sound of the bell ringing on the roof of the pagoda seems to make visitors suddenly wake up from a dream, "wandering" to walk around admiring the scenery of Non Nuoc Pagoda. The two words "wandering" are filled with the mood of a leisurely tourist with a love for the river. The artistic technique of using movement to describe stillness is very unique: the clanging sound of the "dong deck" bell clearly highlights the extremely quiet and deserted scene of Non Nuoc Pagoda in the mountains:
“I heard it upstairs,
Wandering around the temple step by step."
The poem "Non Nuoc Pagoda" is a remarkable and unique success in hexagram poetry that Le Thanh Tong and Hoi Tao Dan left behind for the nation's poetry. The poem is rhymed, creating a wonderful, deep sound. uphill, bumpy like climbing a mountain: "Weakness - water - before - backward - step". The author uses the art of parallelism and small parallelism very successfully. Images of rivers and mountains, mountains and rivers, Buddha scenes and human life are bold and cover the poem. In addition to a richly human reflection on Buddha and human life, the poem also shows a noble soul, rich in love for the country's nature. The most precious thing is the soul of every king in the ranks of Dai Viet's holy emperors.
|
Đề bài: Hãy bình giảng bài thơ Chợ Đồng của Nguyễn Khuyến.
Bài làm
Chợ Đồng
Tháng chạp hai mươi bốn chợ Đồng.
Năm nay chợ họp có đông không?
Dở trời, mưa bụi còn hơi rét,
Nếm rượu tường đền được mấy ông?
Hàng quán người về nghe xao xác,
Nợ nần năm hết hỏi lung tung.
Dăm ba ngày nữa tin xuân tới,
Pháo trúc nhà ai một tiếng đùng.
Thi sĩ Xuân Diệu từng mệnh danh Nguyễn Khuyến là nhà thơ của quê hương làng cảnh Việt Nam. Yên Đổ, Bình Lục, tỉnh Hà Nam, môt vùng đồng chiêm trũng là nơi chôn nhau cắt rốn của Nguyễn Khuyến. Với tuổi đời 75, chỉ có 12 năm đi làm quan, còn lại trên nửa thế kỉ, ông gắn bó với làng xóm quê hương đi “Vườn Bùi, chốn cũ”, với núi An Lão, chợ Đồng,… thân yêu.
Nguyễn Khuyến đã mất non thế kỉ nhưng thơ ông, trái tim ông vẫn sống, vẫn gắn bó với cảnh dân tình dân. Cuộc sống thôn dã bình dị như thấm vào câu chữ bài thơ “Chợ Đồng" này:
“Tháng chạp hai mươi bốn chợ Đồng,
……………………………..
Pháo trúc nhà ai một tiếng đùng".
Ta đã biết nhiều tên chợ, phiên chợ trong ca dao, dân ca. “Chợ huyện một tháng sáu phiên – Gặp cô hàng xén kết duyên Châu – Trần; "Chợ Viềng năm có một phiên – Cái nón em đội cũng tiền anh trao”. Và chợ Đồng quê hương Tam Nguyên Yên Đổ.
Hai câu thơ đầu như một lời nhẩm tính chợt nhớ ra và còn hỏi, tự hỏi mình hay còn hỏi bà con đi chợ về?
“Tháng chạp hai mươi bốn chợ Đồng,
Năm nay chợ họp có đông không?”.
Làng Vị Hạ, quê hương Nguyễn Khuyến có chợ. Và còn gọi là chợ Đồng, mỗi tháng có chín phiên họp vào ngày chấn: 4, 6,10, 14, 16, 20, 24, 26, 30. Ba phiên chợ cuối năm, chợ không họp trong làng nữa, chợ Tết nên họp ở cánh nương mạ, cạnh một ngôi đền cổ ba gian. Những năm được mùa, chợ Đồng, ba phiên chợ Tết đông vui lắm. Trái lại, những năm mất mùa, chợ Đồng thưa thớt người mua hán. Câu thơ thứ nhất nhắc đến một nét đẹp của quê hương. Tết đã đến, ngày hai mươi bốn tháng chạp, chợ Đồng vào phiên. Hai tiếng “năm nay" thời gian không xác định. Có phải đó là năm Quý Tị (1983), năm Ất Tị (1905) đê sông Hồng bị vỡ, vùng Hà Nam bị lụt lớn: “Tị trước Tị này chục lẻ ba – Thuận dòng nước cũ lại bao la…" (Vịnh lụt). Năm tiếng “chợ họp có đông không” như một tiếng thở dài đằng sau câu hỏi nhỏ. Cầu thơ chứa đầy tâm trạng; tâm trạng của một nhà nho gắn bó với bao nỗi vui buồn của nhân dân giữa thời loạn lạc, đói rét, lầm than.
Tiếp theo là hai câu thơ 3, 4 trong phần “thực” thêm mội câu hỏi nữa, diễn tả nỗi lòng nhà thơ. Ta như cảm thấy một ông già lụ khụ, tay chống gậy trúc, ngơ ngác nhìn trời, tự hỏi:
"Dở trời mưa bụi còn hơi rét,
Uống rượu tường đền được mấy ông”
Dở trời là thời tiết không thuận. Mưa bụi, mưa phùn liên miên, đường sá, “ngõ trúc quanh co" nơi làng quê lại bùn lầy, nhớp nháp, cả một miền quê năm hết Tết đến chỉ còn “hơi rét”. Cái rét trong lòng người rét rà, hơi rét của đất trời cùng với mưa bụi trắng trời như vây chặt lấy bà con nơi chốn quê lam lũ. Câu thơ "Dở trời mưa bụi còn hơi rét” mang hàm nghĩa về cảnh lầm than, nỗi cơ hàn của nhân dân, của bà con dân cày nghèo khổ, cực nhọc. Chợ Đồng đang họp trong mưa rét.
“Nếm rượu tường đền” là một nét đẹp, cổ truyền diễn ra trong ba phiên chợ Đồng cuối năm. Các bô lão làng Vị Hạ vẫn ngồi tựa lưng vào tường đền “nếm rượu ", xem thứ rượu nào ngon thì mua để tế lễ thánh trong dịp Tết và đầu xuân. Chỉ một nét đẹp trong phong tục quê hương vẫn được Nguyễn Khuyến nhắc đến với bao tình cảm mến yêu và trân trọng. “Được mấy ông?” vì còn có bao cụ già nữa, thưa thớt, vắng vẻ cả rồi. Câu thơ thứ tư ý tại ngôn ngoại, đã thể hiện nỗi buồn bơ vơ, cô đơn của một nhà nho bất đắc chí, như ông đã nói trong bài “Gửi bạn”:
“Đời loạn đi về như hạc độc,
Tuổi già hình bóng tựa mây côi”
hoặc
“Xuân về ngày loạn cùng lơ láo,
Người gặp khi cùng cũng ngất ngơ".
(Ngày xuân dặn các con)
Hai câu 3, 4 chỉ một vài nét đơn sơ, tác giả đã tái hiện lại khung cảnh, không khí buồn tẻ của phiên chợ Đồng “năm nay" thưa thớt vắng vẻ, buồn trong mưa rét. Nó có giá trị hiện thực phản ánh cảnh dân, tình trên miền Bắc nước ta một trăm năm về trước.
Nguyễn Khuyến có tài ghi lại không khí cuộc sống dân dã vào trong những câu thơ của mình. Đây là cảnh chợ tan nhà thơ tả những âm thanh, những tiếng đời ông nghe được:
"Hàng quán người về nghe xáo xác,
Nợ nần năm hết hỏi lung tung”.
Có người cho rằng bài thơ “gợi lên không khí rộn rịp cảnh chợ Đồng” trong hai câu 5, 6 này. Xuân Diệu đã hiểu ngược lại, thi sĩ nói: “người về” không phải là về họp mà là ra về; càng về cuối chợ, có cái huyên thuyên của sự rã đám, kẻ đòi nợ càng thúc người chịu nợ… Cái âm "xáo xác" đối với cái thanh “ lung tung”. Xao xác nghĩa là ồn ào mà ngơ ngác. Lung tung là rắc rối, loạn xạ cả lên. Tan chợ, phiên chợ Tết mà chỉ có tiếng đòi nợ, thúc nợ lung tung. Cái nghèo túng đang đè nặng xóm làng quê.
Cảnh hàng quán mua bán “nghe xáo xác". Cái buồn của sự đói nghèo càng được nhân lên khi năm hết Tết đến rồi. Hai câu trong phần thực nói về cái rét, hai câu trong phần luận tả cái nghèo. Có nỗi khổ nào lớn hơn cái nỗi khổ cơ hàn? Vạn khổ bất như bần? Dân gian có câu: “Thứ nhất con đói, thứ hai nợ đòi, thứ ba nhà dột". Đó là ba cái khổ của người nghèo xưa nay. Nguyễn Khuyến đã nghe được bao nỗi đời cay cực của nhân dân trong xã hội cũ, nên ông mới viết thâm thía như vậy: “Nợ nần năm hết hồi lung tung”. Ông đã chỉ ra nguyên cớ của cái nghèo, cái rét ấy:
“Năm nay cày cấy vẫn chan thua,
Chiêm mất đằng chiêm, mùa mất mùa.
Phần thuế quan Tây, phần trả nợ,
Nửa công đứa ở, nửa thuê bò.
Sớm trưa dưa muối cho qua bữa,
Chợ búa trầu chè chẳng dám mua.
Tằn tiện thế mà không khá nhỉ?
Nhờ trời rồi cũng mấy gian kho! ”
(Chốn quê)
Trở lại bài “Chợ Đồng” hai câu kết chứa chất bao tâm trạng. Người đi chợ về đã vãn. Một mình nhà thơ đứng bơ vơ nhẩm tính. “Dăm ba ngày nữa tin xuân tới”, năm cũ dần qua, năm mới dần sang. Cái nghèo, cái rét vẫn là nỗi lo, nỗi buồn man mác. Chợt nhà thơ giật mình trước cái âm thanh “Pháo trúc nhà ai một tiếng đùng”. Tác giả vận dụng tài tình điển tích về tiếng pháo trúc xua đuổi ma quỷ của Lý Điền ngày xưa bên Trung Quốc để tạo ra một ý mới. Tiếng pháo trúc “nhà ai" nổ “một tiếng đùng” như muốn xua đi cái nghèo đói của năm cũ để “Co cẳng đạp thằng bần ra cửa… Giơ tay bồng ông phúc vào nhà " (Nguyễn Công Trứ). Nguyễn Khuyến đã từng chợt tỉnh khi nghe “Cú đâu đớp động dưới chân bèo”, và giờ đây trong cảnh "Tháng chạp hai mươi bốn chợ Đồng” vãn, ông lại bồi hồi ngơ ngác lúc nghe “Pháo trúc nhà ai một tiếng đùng". “Nhà ai” – không rõ, mơ hồ, xa xăm. Nỗi cô đơn của nhà thơ không thể nào kể xiết được:
“Dăm ba ngày nữa tin xuân tới,
Pháo trúc nhà ai một tiếng đùng”.
“Tin xuân tới” với bao nỗi mong chờ cho dân cày mát mặt “nhờ trời" để dân làng Vị Hạ “được bát cơm no". Nguyễn Khuyến tả cảnh chợ Đồng với bao nỗi buồn lo, le lói một niềm ước mong cho dân nghèo khi “tin xuân tới”. Đó là tấm lòng thương dân, lo đời đáng quý.
Nguyễn Khuyến mất năm 1909, đúng bốn mươi năm sau, giặc Pháp kéo quân tới chiếm đóng làng Vị Hạ, càn quét bắn phá dã man. Chợ Đồng tan từ đây, và tục họp chợ Đồng vào cuối năm cũng mất. Bài thơ “Chợ Đồng” của Nguyễn Khuyến như một tấm bia nói về cuộc sống và phong tục làng quê xưa. Bài thơ thất ngôn bát cú cho ta nhiều ấn tượng. Ngôn ngữ bình dị, thuần Nôm. Giọng thơ trầm lặng, đượm một nỗi buồn man mác, cô đơn. Cảnh dân và tình dân được thể hiện qua một bút pháp điêu luyện. Cái hồn quê, cái tình quê như kết đọng qua âm thanh “xao xác”, qua hình ảnh “nếm rượu tường đền" của các bô lão tóc bạc phơ dưới làn mưa bụi “Tháng chạp hai mươi bốn chợ Đồng’’… Nguyễn Khuyến vẫn đang hiển hiện cùng làng nước quê hương.
|
Đề bài: Hãy bình giảng bài thơ Chợ Đồng của Nguyễn Khuyến.
Bài làm
Chợ Đồng
Tháng chạp hai mươi bốn chợ Đồng.
Năm nay chợ họp có đông không?
Dở trời, mưa bụi còn hơi rét,
Nếm rượu tường đền được mấy ông?
Hàng quán người về nghe xao xác,
Nợ nần năm hết hỏi lung tung.
Dăm ba ngày nữa tin xuân tới,
Pháo trúc nhà ai một tiếng đùng.
Thi sĩ Xuân Diệu từng mệnh danh Nguyễn Khuyến là nhà thơ của quê hương làng cảnh Việt Nam. Yên Đổ, Bình Lục, tỉnh Hà Nam, môt vùng đồng chiêm trũng là nơi chôn nhau cắt rốn của Nguyễn Khuyến. Với tuổi đời 75, chỉ có 12 năm đi làm quan, còn lại trên nửa thế kỉ, ông gắn bó với làng xóm quê hương đi “Vườn Bùi, chốn cũ”, với núi An Lão, chợ Đồng,… thân yêu.
Nguyễn Khuyến đã mất non thế kỉ nhưng thơ ông, trái tim ông vẫn sống, vẫn gắn bó với cảnh dân tình dân. Cuộc sống thôn dã bình dị như thấm vào câu chữ bài thơ “Chợ Đồng" này:
“Tháng chạp hai mươi bốn chợ Đồng,
……………………………..
Pháo trúc nhà ai một tiếng đùng".
Ta đã biết nhiều tên chợ, phiên chợ trong ca dao, dân ca. “Chợ huyện một tháng sáu phiên – Gặp cô hàng xén kết duyên Châu – Trần; "Chợ Viềng năm có một phiên – Cái nón em đội cũng tiền anh trao”. Và chợ Đồng quê hương Tam Nguyên Yên Đổ.
Hai câu thơ đầu như một lời nhẩm tính chợt nhớ ra và còn hỏi, tự hỏi mình hay còn hỏi bà con đi chợ về?
“Tháng chạp hai mươi bốn chợ Đồng,
Năm nay chợ họp có đông không?”.
Làng Vị Hạ, quê hương Nguyễn Khuyến có chợ. Và còn gọi là chợ Đồng, mỗi tháng có chín phiên họp vào ngày chấn: 4, 6,10, 14, 16, 20, 24, 26, 30. Ba phiên chợ cuối năm, chợ không họp trong làng nữa, chợ Tết nên họp ở cánh nương mạ, cạnh một ngôi đền cổ ba gian. Những năm được mùa, chợ Đồng, ba phiên chợ Tết đông vui lắm. Trái lại, những năm mất mùa, chợ Đồng thưa thớt người mua hán. Câu thơ thứ nhất nhắc đến một nét đẹp của quê hương. Tết đã đến, ngày hai mươi bốn tháng chạp, chợ Đồng vào phiên. Hai tiếng “năm nay" thời gian không xác định. Có phải đó là năm Quý Tị (1983), năm Ất Tị (1905) đê sông Hồng bị vỡ, vùng Hà Nam bị lụt lớn: “Tị trước Tị này chục lẻ ba – Thuận dòng nước cũ lại bao la…" (Vịnh lụt). Năm tiếng “chợ họp có đông không” như một tiếng thở dài đằng sau câu hỏi nhỏ. Cầu thơ chứa đầy tâm trạng; tâm trạng của một nhà nho gắn bó với bao nỗi vui buồn của nhân dân giữa thời loạn lạc, đói rét, lầm than.
Tiếp theo là hai câu thơ 3, 4 trong phần “thực” thêm mội câu hỏi nữa, diễn tả nỗi lòng nhà thơ. Ta như cảm thấy một ông già lụ khụ, tay chống gậy trúc, ngơ ngác nhìn trời, tự hỏi:
"Dở trời mưa bụi còn hơi rét,
Uống rượu tường đền được mấy ông”
Dở trời là thời tiết không thuận. Mưa bụi, mưa phùn liên miên, đường sá, “ngõ trúc quanh co" nơi làng quê lại bùn lầy, nhớp nháp, cả một miền quê năm hết Tết đến chỉ còn “hơi rét”. Cái rét trong lòng người rét rà, hơi rét của đất trời cùng với mưa bụi trắng trời như vây chặt lấy bà con nơi chốn quê lam lũ. Câu thơ "Dở trời mưa bụi còn hơi rét” mang hàm nghĩa về cảnh lầm than, nỗi cơ hàn của nhân dân, của bà con dân cày nghèo khổ, cực nhọc. Chợ Đồng đang họp trong mưa rét.
“Nếm rượu tường đền” là một nét đẹp, cổ truyền diễn ra trong ba phiên chợ Đồng cuối năm. Các bô lão làng Vị Hạ vẫn ngồi tựa lưng vào tường đền “nếm rượu ", xem thứ rượu nào ngon thì mua để tế lễ thánh trong dịp Tết và đầu xuân. Chỉ một nét đẹp trong phong tục quê hương vẫn được Nguyễn Khuyến nhắc đến với bao tình cảm mến yêu và trân trọng. “Được mấy ông?” vì còn có bao cụ già nữa, thưa thớt, vắng vẻ cả rồi. Câu thơ thứ tư ý tại ngôn ngoại, đã thể hiện nỗi buồn bơ vơ, cô đơn của một nhà nho bất đắc chí, như ông đã nói trong bài “Gửi bạn”:
“Đời loạn đi về như hạc độc,
Tuổi già hình bóng tựa mây côi”
hoặc
“Xuân về ngày loạn cùng lơ láo,
Người gặp khi cùng cũng ngất ngơ".
(Ngày xuân dặn các con)
Hai câu 3, 4 chỉ một vài nét đơn sơ, tác giả đã tái hiện lại khung cảnh, không khí buồn tẻ của phiên chợ Đồng “năm nay" thưa thớt vắng vẻ, buồn trong mưa rét. Nó có giá trị hiện thực phản ánh cảnh dân, tình trên miền Bắc nước ta một trăm năm về trước.
Nguyễn Khuyến có tài ghi lại không khí cuộc sống dân dã vào trong những câu thơ của mình. Đây là cảnh chợ tan nhà thơ tả những âm thanh, những tiếng đời ông nghe được:
"Hàng quán người về nghe xáo xác,
Nợ nần năm hết hỏi lung tung”.
Có người cho rằng bài thơ “gợi lên không khí rộn rịp cảnh chợ Đồng” trong hai câu 5, 6 này. Xuân Diệu đã hiểu ngược lại, thi sĩ nói: “người về” không phải là về họp mà là ra về; càng về cuối chợ, có cái huyên thuyên của sự rã đám, kẻ đòi nợ càng thúc người chịu nợ… Cái âm "xáo xác" đối với cái thanh “ lung tung”. Xao xác nghĩa là ồn ào mà ngơ ngác. Lung tung là rắc rối, loạn xạ cả lên. Tan chợ, phiên chợ Tết mà chỉ có tiếng đòi nợ, thúc nợ lung tung. Cái nghèo túng đang đè nặng xóm làng quê.
Cảnh hàng quán mua bán “nghe xáo xác". Cái buồn của sự đói nghèo càng được nhân lên khi năm hết Tết đến rồi. Hai câu trong phần thực nói về cái rét, hai câu trong phần luận tả cái nghèo. Có nỗi khổ nào lớn hơn cái nỗi khổ cơ hàn? Vạn khổ bất như bần? Dân gian có câu: “Thứ nhất con đói, thứ hai nợ đòi, thứ ba nhà dột". Đó là ba cái khổ của người nghèo xưa nay. Nguyễn Khuyến đã nghe được bao nỗi đời cay cực của nhân dân trong xã hội cũ, nên ông mới viết thâm thía như vậy: “Nợ nần năm hết hồi lung tung”. Ông đã chỉ ra nguyên cớ của cái nghèo, cái rét ấy:
“Năm nay cày cấy vẫn chan thua,
Chiêm mất đằng chiêm, mùa mất mùa.
Phần thuế quan Tây, phần trả nợ,
Nửa công đứa ở, nửa thuê bò.
Sớm trưa dưa muối cho qua bữa,
Chợ búa trầu chè chẳng dám mua.
Tằn tiện thế mà không khá nhỉ?
Nhờ trời rồi cũng mấy gian kho! ”
(Chốn quê)
Trở lại bài “Chợ Đồng” hai câu kết chứa chất bao tâm trạng. Người đi chợ về đã vãn. Một mình nhà thơ đứng bơ vơ nhẩm tính. “Dăm ba ngày nữa tin xuân tới”, năm cũ dần qua, năm mới dần sang. Cái nghèo, cái rét vẫn là nỗi lo, nỗi buồn man mác. Chợt nhà thơ giật mình trước cái âm thanh “Pháo trúc nhà ai một tiếng đùng”. Tác giả vận dụng tài tình điển tích về tiếng pháo trúc xua đuổi ma quỷ của Lý Điền ngày xưa bên Trung Quốc để tạo ra một ý mới. Tiếng pháo trúc “nhà ai" nổ “một tiếng đùng” như muốn xua đi cái nghèo đói của năm cũ để “Co cẳng đạp thằng bần ra cửa… Giơ tay bồng ông phúc vào nhà " (Nguyễn Công Trứ). Nguyễn Khuyến đã từng chợt tỉnh khi nghe “Cú đâu đớp động dưới chân bèo”, và giờ đây trong cảnh "Tháng chạp hai mươi bốn chợ Đồng” vãn, ông lại bồi hồi ngơ ngác lúc nghe “Pháo trúc nhà ai một tiếng đùng". “Nhà ai” – không rõ, mơ hồ, xa xăm. Nỗi cô đơn của nhà thơ không thể nào kể xiết được:
“Dăm ba ngày nữa tin xuân tới,
Pháo trúc nhà ai một tiếng đùng”.
“Tin xuân tới” với bao nỗi mong chờ cho dân cày mát mặt “nhờ trời" để dân làng Vị Hạ “được bát cơm no". Nguyễn Khuyến tả cảnh chợ Đồng với bao nỗi buồn lo, le lói một niềm ước mong cho dân nghèo khi “tin xuân tới”. Đó là tấm lòng thương dân, lo đời đáng quý.
Nguyễn Khuyến mất năm 1909, đúng bốn mươi năm sau, giặc Pháp kéo quân tới chiếm đóng làng Vị Hạ, càn quét bắn phá dã man. Chợ Đồng tan từ đây, và tục họp chợ Đồng vào cuối năm cũng mất. Bài thơ “Chợ Đồng” của Nguyễn Khuyến như một tấm bia nói về cuộc sống và phong tục làng quê xưa. Bài thơ thất ngôn bát cú cho ta nhiều ấn tượng. Ngôn ngữ bình dị, thuần Nôm. Giọng thơ trầm lặng, đượm một nỗi buồn man mác, cô đơn. Cảnh dân và tình dân được thể hiện qua một bút pháp điêu luyện. Cái hồn quê, cái tình quê như kết đọng qua âm thanh “xao xác”, qua hình ảnh “nếm rượu tường đền" của các bô lão tóc bạc phơ dưới làn mưa bụi “Tháng chạp hai mươi bốn chợ Đồng’’… Nguyễn Khuyến vẫn đang hiển hiện cùng làng nước quê hương.
|
Đề bài: Bình giảng bài thơ Cuốc kêu cảm hứng của Nguyễn Khuyến
Bài làm
Trong các nhà thơ cổ điển Việt Nam chưa có thi sĩ nào trong thơ mình lại xuất hiện nhiều bóng hình con vật đến như thế. Đó là những con vật gắn bó gần gũi với người dân cày Việt Nam, với bà con xóm thôn đồng chiêm trũng. Theo Nguyễn Văn Huyền, tác giả cuốn "Nguyễn Khuyến – Tác phẩm" thì có tới sáu, bảy chục con vật khác nhau xuất hiện trong thơ Yên Đổ. Có "Ngõ tối đêm sâu đóm lập loè". Có "Ngoài luỹ nhấp nhô cò cụ Tổng", có "Trâu già gốc bụi phì hơi nắng – Chó nhỏ bên ao cắn tiếng người"
Bình giảng bài thơ Cuốc kêu cảm hứng của Nguyễn Khuyến
Riêng về con chim cuốc, thấy ba lần xuất hiện. Lần thứ nhất tiếng chim như nhắc nhở, như giục giã chí hăm hở vào đời:
"Quyên đã gọi hè quang quác quác".
Lần thứ hai là bài thơ "Cuốc kêu cảm hứng", lần thứ ba là bài "Điệu quyên" (Viếng con cuốc) được viết vào thời gian Nguyễn Khuyến về sống giữa làng xóm quê hương, nơi "Vườn Bùi chốn cũ”. Bài thơ Nôm "Cuốc kêu cảm hứng" là một trong những bài thơ được nhiều người yêu thích và truyền tụng. Giọng thơ thê thiết, réo rắt, thấm một nỗi buồn mênh mông. Tiếng cuốc như gợi lên trong lòng nhà thơ nỗi đau mất nước, nỗi buồn bơ vơ, nỗi xót xa tủi nhục trước cảnh lầm than của dân tộc. Mỗi câu thơ là một tiếng lòng, là một nỗi buồn tê tái:
"Khắc khoải sầu đưa giọng lửng lơ,
………………………………..
Giục khách giang hồ dạ ngẩn ngơ".
Hai câu đề tả âm thanh tiếng cuốc. Tiếng cuốc kêu "khắc khoải" nghe buồn buồn, lặp đi lặp lại triền miên, thê thiết; giọng cuốc "lửng lơ" chơi vơi trong không trung. Càng nghe càng buồn không kể xiết. Nghe tiếng cuốc kêu mà xúc động nhớ đến chuyện Thục Đế xa xưa vì để mất nước mà xót xa tủi hận biến thành con chim cuốc. Một liên tưởng thấm thía, gợi tả tiếng cuốc kêu như một tiếng gọi đau thương của một oan hồn. Ba chữ “thác bao giờ" diễn tả tâm trạng buồn đau cực độ đến ngơ ngác, ngẩn ngơ:
"Khắc khoải sầu đưa giọng lửng lơ,
Ấy hồn Thục Đế thác bao giờ".
Hai câu đề giới thiệu rất tài tình nhan đề bài thơ. Nghe tiếng cuốc kêu trong hiện tại mà cảm hứng, man mác buồn đau nghĩ về một chuyện xưa đau buồn. Thơ Nguyễn Khuyến tinh tế trong biểu cảm là vậy!
Hai câu thực làm hiện lên một không gian nghệ thuật và một thời gian nghệ thuật khi nhà thơ cực tả tiếng cuốc kêu:
"Năm canh máu chảy đêm hè vắng
Sáu khắc hồn tan bóng nguyệt mờ"
Tiếng cuốc gọi hè vô cùng ám ảnh. Nỗi đau như "máu chảy", nỗi buồn như nát ruột "hồn tan". Tiếng cuốc kêu mãi, kêu hoài, kêu khắc khoải triền miên suốt năm canh đến sáu khắc, từ ngày này qua đêm khác. "Đêm hè vắng” và "bóng nguyệt mờ" hô ứng, đối xứng diễn tả nỗi đau, nỗi buồn như thấm vào thời gian, toả rộng trong không gian. Đêm hè trở nên "vắng" để nghe rõ tiếng cuốc “khắc khoải đưa sầu…". Bóng trăng như "mờ" đi trong tiếng cuốc "lửng lơ” đau đớn và tê tái. Đúng là "lời văn thanh thoát, tình nghĩa rất ứng đọng lại", như Xuân Diệu đã cảm nhận: "Chúng ta tưởng nghe da diết, ám ảnh, chì chiết một tiếng chim kêu, có sắc đỏ, khóc nức nở, gào thảm thiết, tiếng kêu có máu, tiếng huyết kêu mất nước! nhớ nước!". Trong bài thơ Chữ Hán "Điệu quyên" (Viếng con cuốc), Nguyễn Khuyến cũng diễn tả "tiếng huyết kêu mất nước! nhớ nước!" bằng một tứ thơ rỉ máu, tan nát, bi thương:
"Bi đề dạ dạ huyết triêm y"
(Đêm đêm kêu gào thảm thiết, máu chảy đầm áo)
Hai câu luận nói lên chiều sâu một tâm trạng:
"Có phải tiếc xuân mà đứng gọi,
Hay là nhớ nước vẫn nằm mơ".
"Có phải" và "hay là" câu hỏi mơ hồ, giả định ấy diễn tả những băn khoăn, những day dứt đè nặng trong lòng. Tiếng cuốc gọi hay vì "tiếc xuân" mà cuốc cất tiếng gọi? Hay là oan hồn Thục Đế "nhớ nước vẫn nằm mơ". Câu luận rất tinh tế trong biểu cảm, Nguyễn Khuyến mượn tiếng cuốc để giãi bày niềm thao thức của mình. Cuốc thì tiếc xuân mà đứng gọi, kêu khắc khoải suốt đêm. Còn Tam nguyên Yên Đổ thì đêm đêm vẫn nằm mơ mà nhớ nước. Hồn nước đi đâu về đâu? Nỗi buồn bơ vơ nhớ nước như thấm vào câu chữ. Các cặp hô ứng nhau rất chỉnh: Có phải – hay là / tiếc xuân – nhớ nước / mà đứng gọi – nằm mơ, làm cho nỗi buồn thương nhà nhớ nước trở nên thấm thía. Tiếc rồi nhớ, đứng rồi nằm, gọi và mơ, trạng thái nào, tâm trạng nào cũng bồn chồn, xót xa đau đớn.
Giữa thế kỉ XIX, Bà Huyện Thanh Quan đứng trên đỉnh đèo Ngang lúc hoàng hôn, trong nỗi buồn của người lữ khách mà thổn thức:
"Nhớ nước, đau lòng con cuốc cuốc,
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia".
(Qua Đèo Ngang)
Có điều là Bà Huyện Thanh Quan lúc bấy giờ tuy mang tâm trạng cô đơn, nhưng còn có nước để mà “nhớ nước”, còn có nhà để mà "thương nhà” còn Nguyễn Khuyến, nửa thế kỉ sau sống trong cảnh ngộ, nước mất nhà tan nên ra đi “nhớ nước vẫn nằm mơ”, thao thức, đắng cay, đau buồn…
Nỗi đau buồn nằm mơ… nhớ nước ấy được Yên Đổ gửi gắm trong nhiều bài chữ Hán giàu ý tưởng thâm trầm, kín đáo. Đây là nỗi niềm lưu lạc tha hương “Giang sơn y cựu phong quang cải – Thiếu vọng đê mê dục đoạn hồn ” (Túc Phú Xuyên đồn) – (Sông núi vẫn như xưa nhưng quang cảnh đã đổi thay – Ngắm thấy cảnh lờ mờ mà tâm hồn những muốn nát tan). Trong bài thơ "Hung niên 1 – Năm mất mùa), giọng thơ lại càng thêm đau đớn:
"Cố quốc sơn hà chân thảm đạm
Thu hương hồng nhạn tối bi ai".
(Núi sông nước cũ âm thầm,
Lạc loài cánh nhạn không cầm nỗi đau)
Bùi Văn Cường dịch
Có thể nói “nhớ nước vẫn nằm mơ" là một tứ thơ hay nhất, cảm động nhất của Nguyễn Khuyến khi luận về “cuốc kêu… ”
Hai câu kết là một lời tự hỏi, một tâm trạng bồi hồi không yên:
"Thâu canh ròng rã kêu ai đó,
Giục khách giang hồ dạ ngẩn ngơ".
Kêu ai, giục ai, hay lời kên gọi, thúc giục của ai đó đối với mình. Ngẩn ngơ nghĩa là đờ đẫn như mất hết tinh thần, đau đớn bồn chồn không yên dạ. Chính tiếng cuốc kêu ròng rã thâu canh kiến cho khách giang hồ bồn chồn ngẩn ngơ cả dạ. Yêu nước nhưng bất lực nên mới ngẩn ngơ như thế! Nhà thơ thao thức suốt năm canh, suốt những đêm hò đau xót, tủi buồn, bơ vơ vì nước mất. Tình yêu nước son sắt thuỷ chung nên tâm trạng đầy bi kịch, rối bời, ngẩn ngơ. Một thế kỷ sau, trong vận hội mới đất nước, độc giả ngày nay vẫn còn cảm thấy ngẩn ngơ, bồi hồi nghe tiếng cuốc kêu rỉ máu, tiếng thương tiếng đau, tiếng thở dài và giọt khóc… của Tam Nguyên Yên Đổ, của ông cha thuở ấy…
Qua “Cuốc kêu cảm hứng”, Nguyễn Khuyến đã giãi bày một tấm lòng yêu nước không nguôi, một tâm trạng đầy bi kịch: xót xa đau buồn, tủi nhục vì nước mất nhà tan. Tâm trạng ấy của nhà thơ cũng là tâm trạng của một thế hệ nhà nho yêu nước mà bất lực trước thời cuộc. “Cuốc kêu cảm hứng” là tiếng đồng vọng bi thương, để con cháu cảm thông với nỗi lòng ông cha, trân trọng và tự hào về cái giá của độc lập tự do với bao nhiêu máu, nước mắt mà cả dân tộc phải trả. “Cuốc kêu cảm hứng" tiêu biểu nhất cho hồn thơ Nguyễn Khuyến sau khi đã cáo quan lui về sống giữa xóm làng quê hương: man mác bâng khuâng buồn, cô đơn… Bài thơ thể hiện bút pháp nghệ thuật đặc sắc của Nguyễn Khuyến: điêu luyện, hàm súc, giọng điệu ám ảnh, ngôn ngữ hình ảnh đối xứng hài hoà tạo nên một bài thơ toàn bích, cổ điển, vần thơ chơi vơi lửng lơ man mác: lửng lơ – bao giờ – bóng nguyệt mờ – nằm mơ – dạ ngẩn ngơ. Các từ láy tượng thanh, biểu cảm rất tinh luyện cực tả tiếng cuốc và tâm trạng nhà thơ: khắc khoải, lửng lơ, ròng rã, ngẩn ngơ… Tiếng cuốc kêu hoài lòng ta khi đọc “Cuốc kêu cảm hứng”, ta cảm thấy Tam Nguyên Yên Đổ đang thao thức ngồi dưới “bóng nguyệt mờ” đôi mắt già đẫm lệ, ngẩn ngơ lắng nghe tiếng cuốc “khắc khoải sầu đưa giọng lửng lơ…”
|
Đề bài: Bình giảng bài thơ Cuốc kêu cảm hứng của Nguyễn Khuyến
Bài làm
Trong các nhà thơ cổ điển Việt Nam chưa có thi sĩ nào trong thơ mình lại xuất hiện nhiều bóng hình con vật đến như thế. Đó là những con vật gắn bó gần gũi với người dân cày Việt Nam, với bà con xóm thôn đồng chiêm trũng. Theo Nguyễn Văn Huyền, tác giả cuốn "Nguyễn Khuyến – Tác phẩm" thì có tới sáu, bảy chục con vật khác nhau xuất hiện trong thơ Yên Đổ. Có "Ngõ tối đêm sâu đóm lập loè". Có "Ngoài luỹ nhấp nhô cò cụ Tổng", có "Trâu già gốc bụi phì hơi nắng – Chó nhỏ bên ao cắn tiếng người"
Bình giảng bài thơ Cuốc kêu cảm hứng của Nguyễn Khuyến
Riêng về con chim cuốc, thấy ba lần xuất hiện. Lần thứ nhất tiếng chim như nhắc nhở, như giục giã chí hăm hở vào đời:
"Quyên đã gọi hè quang quác quác".
Lần thứ hai là bài thơ "Cuốc kêu cảm hứng", lần thứ ba là bài "Điệu quyên" (Viếng con cuốc) được viết vào thời gian Nguyễn Khuyến về sống giữa làng xóm quê hương, nơi "Vườn Bùi chốn cũ”. Bài thơ Nôm "Cuốc kêu cảm hứng" là một trong những bài thơ được nhiều người yêu thích và truyền tụng. Giọng thơ thê thiết, réo rắt, thấm một nỗi buồn mênh mông. Tiếng cuốc như gợi lên trong lòng nhà thơ nỗi đau mất nước, nỗi buồn bơ vơ, nỗi xót xa tủi nhục trước cảnh lầm than của dân tộc. Mỗi câu thơ là một tiếng lòng, là một nỗi buồn tê tái:
"Khắc khoải sầu đưa giọng lửng lơ,
………………………………..
Giục khách giang hồ dạ ngẩn ngơ".
Hai câu đề tả âm thanh tiếng cuốc. Tiếng cuốc kêu "khắc khoải" nghe buồn buồn, lặp đi lặp lại triền miên, thê thiết; giọng cuốc "lửng lơ" chơi vơi trong không trung. Càng nghe càng buồn không kể xiết. Nghe tiếng cuốc kêu mà xúc động nhớ đến chuyện Thục Đế xa xưa vì để mất nước mà xót xa tủi hận biến thành con chim cuốc. Một liên tưởng thấm thía, gợi tả tiếng cuốc kêu như một tiếng gọi đau thương của một oan hồn. Ba chữ “thác bao giờ" diễn tả tâm trạng buồn đau cực độ đến ngơ ngác, ngẩn ngơ:
"Khắc khoải sầu đưa giọng lửng lơ,
Ấy hồn Thục Đế thác bao giờ".
Hai câu đề giới thiệu rất tài tình nhan đề bài thơ. Nghe tiếng cuốc kêu trong hiện tại mà cảm hứng, man mác buồn đau nghĩ về một chuyện xưa đau buồn. Thơ Nguyễn Khuyến tinh tế trong biểu cảm là vậy!
Hai câu thực làm hiện lên một không gian nghệ thuật và một thời gian nghệ thuật khi nhà thơ cực tả tiếng cuốc kêu:
"Năm canh máu chảy đêm hè vắng
Sáu khắc hồn tan bóng nguyệt mờ"
Tiếng cuốc gọi hè vô cùng ám ảnh. Nỗi đau như "máu chảy", nỗi buồn như nát ruột "hồn tan". Tiếng cuốc kêu mãi, kêu hoài, kêu khắc khoải triền miên suốt năm canh đến sáu khắc, từ ngày này qua đêm khác. "Đêm hè vắng” và "bóng nguyệt mờ" hô ứng, đối xứng diễn tả nỗi đau, nỗi buồn như thấm vào thời gian, toả rộng trong không gian. Đêm hè trở nên "vắng" để nghe rõ tiếng cuốc “khắc khoải đưa sầu…". Bóng trăng như "mờ" đi trong tiếng cuốc "lửng lơ” đau đớn và tê tái. Đúng là "lời văn thanh thoát, tình nghĩa rất ứng đọng lại", như Xuân Diệu đã cảm nhận: "Chúng ta tưởng nghe da diết, ám ảnh, chì chiết một tiếng chim kêu, có sắc đỏ, khóc nức nở, gào thảm thiết, tiếng kêu có máu, tiếng huyết kêu mất nước! nhớ nước!". Trong bài thơ Chữ Hán "Điệu quyên" (Viếng con cuốc), Nguyễn Khuyến cũng diễn tả "tiếng huyết kêu mất nước! nhớ nước!" bằng một tứ thơ rỉ máu, tan nát, bi thương:
"Bi đề dạ dạ huyết triêm y"
(Đêm đêm kêu gào thảm thiết, máu chảy đầm áo)
Hai câu luận nói lên chiều sâu một tâm trạng:
"Có phải tiếc xuân mà đứng gọi,
Hay là nhớ nước vẫn nằm mơ".
"Có phải" và "hay là" câu hỏi mơ hồ, giả định ấy diễn tả những băn khoăn, những day dứt đè nặng trong lòng. Tiếng cuốc gọi hay vì "tiếc xuân" mà cuốc cất tiếng gọi? Hay là oan hồn Thục Đế "nhớ nước vẫn nằm mơ". Câu luận rất tinh tế trong biểu cảm, Nguyễn Khuyến mượn tiếng cuốc để giãi bày niềm thao thức của mình. Cuốc thì tiếc xuân mà đứng gọi, kêu khắc khoải suốt đêm. Còn Tam nguyên Yên Đổ thì đêm đêm vẫn nằm mơ mà nhớ nước. Hồn nước đi đâu về đâu? Nỗi buồn bơ vơ nhớ nước như thấm vào câu chữ. Các cặp hô ứng nhau rất chỉnh: Có phải – hay là / tiếc xuân – nhớ nước / mà đứng gọi – nằm mơ, làm cho nỗi buồn thương nhà nhớ nước trở nên thấm thía. Tiếc rồi nhớ, đứng rồi nằm, gọi và mơ, trạng thái nào, tâm trạng nào cũng bồn chồn, xót xa đau đớn.
Giữa thế kỉ XIX, Bà Huyện Thanh Quan đứng trên đỉnh đèo Ngang lúc hoàng hôn, trong nỗi buồn của người lữ khách mà thổn thức:
"Nhớ nước, đau lòng con cuốc cuốc,
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia".
(Qua Đèo Ngang)
Có điều là Bà Huyện Thanh Quan lúc bấy giờ tuy mang tâm trạng cô đơn, nhưng còn có nước để mà “nhớ nước”, còn có nhà để mà "thương nhà” còn Nguyễn Khuyến, nửa thế kỉ sau sống trong cảnh ngộ, nước mất nhà tan nên ra đi “nhớ nước vẫn nằm mơ”, thao thức, đắng cay, đau buồn…
Nỗi đau buồn nằm mơ… nhớ nước ấy được Yên Đổ gửi gắm trong nhiều bài chữ Hán giàu ý tưởng thâm trầm, kín đáo. Đây là nỗi niềm lưu lạc tha hương “Giang sơn y cựu phong quang cải – Thiếu vọng đê mê dục đoạn hồn ” (Túc Phú Xuyên đồn) – (Sông núi vẫn như xưa nhưng quang cảnh đã đổi thay – Ngắm thấy cảnh lờ mờ mà tâm hồn những muốn nát tan). Trong bài thơ "Hung niên 1 – Năm mất mùa), giọng thơ lại càng thêm đau đớn:
"Cố quốc sơn hà chân thảm đạm
Thu hương hồng nhạn tối bi ai".
(Núi sông nước cũ âm thầm,
Lạc loài cánh nhạn không cầm nỗi đau)
Bùi Văn Cường dịch
Có thể nói “nhớ nước vẫn nằm mơ" là một tứ thơ hay nhất, cảm động nhất của Nguyễn Khuyến khi luận về “cuốc kêu… ”
Hai câu kết là một lời tự hỏi, một tâm trạng bồi hồi không yên:
"Thâu canh ròng rã kêu ai đó,
Giục khách giang hồ dạ ngẩn ngơ".
Kêu ai, giục ai, hay lời kên gọi, thúc giục của ai đó đối với mình. Ngẩn ngơ nghĩa là đờ đẫn như mất hết tinh thần, đau đớn bồn chồn không yên dạ. Chính tiếng cuốc kêu ròng rã thâu canh kiến cho khách giang hồ bồn chồn ngẩn ngơ cả dạ. Yêu nước nhưng bất lực nên mới ngẩn ngơ như thế! Nhà thơ thao thức suốt năm canh, suốt những đêm hò đau xót, tủi buồn, bơ vơ vì nước mất. Tình yêu nước son sắt thuỷ chung nên tâm trạng đầy bi kịch, rối bời, ngẩn ngơ. Một thế kỷ sau, trong vận hội mới đất nước, độc giả ngày nay vẫn còn cảm thấy ngẩn ngơ, bồi hồi nghe tiếng cuốc kêu rỉ máu, tiếng thương tiếng đau, tiếng thở dài và giọt khóc… của Tam Nguyên Yên Đổ, của ông cha thuở ấy…
Qua “Cuốc kêu cảm hứng”, Nguyễn Khuyến đã giãi bày một tấm lòng yêu nước không nguôi, một tâm trạng đầy bi kịch: xót xa đau buồn, tủi nhục vì nước mất nhà tan. Tâm trạng ấy của nhà thơ cũng là tâm trạng của một thế hệ nhà nho yêu nước mà bất lực trước thời cuộc. “Cuốc kêu cảm hứng” là tiếng đồng vọng bi thương, để con cháu cảm thông với nỗi lòng ông cha, trân trọng và tự hào về cái giá của độc lập tự do với bao nhiêu máu, nước mắt mà cả dân tộc phải trả. “Cuốc kêu cảm hứng" tiêu biểu nhất cho hồn thơ Nguyễn Khuyến sau khi đã cáo quan lui về sống giữa xóm làng quê hương: man mác bâng khuâng buồn, cô đơn… Bài thơ thể hiện bút pháp nghệ thuật đặc sắc của Nguyễn Khuyến: điêu luyện, hàm súc, giọng điệu ám ảnh, ngôn ngữ hình ảnh đối xứng hài hoà tạo nên một bài thơ toàn bích, cổ điển, vần thơ chơi vơi lửng lơ man mác: lửng lơ – bao giờ – bóng nguyệt mờ – nằm mơ – dạ ngẩn ngơ. Các từ láy tượng thanh, biểu cảm rất tinh luyện cực tả tiếng cuốc và tâm trạng nhà thơ: khắc khoải, lửng lơ, ròng rã, ngẩn ngơ… Tiếng cuốc kêu hoài lòng ta khi đọc “Cuốc kêu cảm hứng”, ta cảm thấy Tam Nguyên Yên Đổ đang thao thức ngồi dưới “bóng nguyệt mờ” đôi mắt già đẫm lệ, ngẩn ngơ lắng nghe tiếng cuốc “khắc khoải sầu đưa giọng lửng lơ…”
|
Bình giảng bài thơ Cảm xúc mùa thu của tác giả Đỗ Phủ
Hướng dẫn
Cảm xúc mùa thu đã tái hiện đầy sinh động bức tranh mùa thu đẹp nhưng ảm đạm, u buồn, bên trong bức tranh mùa thu ấy là bức tranh tâm trạng đầy những lo lắng, xót xa của Đỗ Phủ trước thời cuộc loạn lạc của thời cuộc. Dựa vào văn bản thơ đã học, anh chị hãy bình giảng bài thơ Bình giảng bài thơ “Cảm xúc mùa thu” của Đỗ Phủ.
I. Dàn ý chi tiết cho đề bình giảng bài thơ Cảm xúc mùa thu
1. Mở bài
Giới thiệu về tác giả Đỗ Phủ và tác phẩm “Cảm xúc mùa thu”
– Trong nền văn học đỉnh cao thời Đường, Đỗ Phủ là nhà thơ hiện thực lớn và được tôn xưng là “Thi Thánh”. Trong thơ Đỗ Phủ, chúng ta thấy được sự đặc sắc trong giá trị nội dung và nghệ thuật, đồng thời thấy được nỗi niềm đồng cảm, thương xót thầm đẫm nước mắt đối với đời sống cực khổ của nhân dân thời buổi loạn lạc và chan chứa tinh thần yêu nước.
– “Thu hứng” (“Cảm xúc mùa thu”) là một trong những bài thơ thể hiện rõ điều này. Thông qua thi phẩm, chúng ta thấy được bức tranh về mùa thi hiu hắt, ảm đạm quyện hòa cùng bức tranh tâm trạng buồn lo của tác giả trong thời cuộc loạn lạc
2. Thân bài
– “Thu hứng” đã phác họa thành công bức tranh mùa thu ảm đạm, hiu hắt thông qua những nét vẽ chấm phá tài tình:
+ Bức tranh mùa thu ảm đạm, hiu hắt với “ngọc lộ”, “phong thụ”
+ Cảnh vật càng thêm hoang vu với sóng cuồn cuộn và mây đùn sà xuống mặt đất.
– Bức tranh tâm trạng của tác giả được làm nổi bật ở nỗi buồn nhớ quê hương và nỗi niềm “dân nước”:
+ Tầm nhìn trong bài thơ có sự vận động giữa bốn câu thơ trên và bốn câu thơ dưới:
Ở bốn câu thơ đầu, cảnh vật được miêu tả trong tầm nhìn rộng và xa: rừng phong, núi vu, kẽm vu, sóng dợn, mây trùm cửa ải,…
Ở bốn câu thơ sau, không gian bị thu hẹp lại ở những sự vật ở tầm nhìn gần và cụ thể và cuối cùng là đi vào tình và cảm xúc của nhà thơ.
→ thể hiện mạch vận động của tứ thơ: từ cảnh đến tình.
+ Nỗi nhớ quê hương luôn khắc khoải trong tâm hồn thi nhân.
“Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ”: khóm cúc nở hoa hai lần chính là những giọt lệ ngày trước; tạo nên sự đồng hiện giữa quá khứ và hiện tại
“Cô chu” không chỉ là hình ảnh ẩn dụ cho ý niệm về sự trôi nổi mà còn là phương tiện duy nhất để tác giả gửi gắm tấm lòng của mình về nơi chôn rau cắt rốn.
3. Kết bài
Khái quát về giá trị của bài thơ: Như vậy, trong bài thơ “Thu hứng”, mùa thu được nói đến xuyên suốt và giữa “thu tình” và “thu cảnh” có sự thống nhất. Thông qua mối quan hệ này, một lần nữa tài năng cũng như nỗi niềm của tác giả Đỗ Phủ đã được thể hiện rõ.
Theo
|
Commentary on the poem Autumn Emotions by author Do Phu
Instruct
The autumn emotion vividly recreates the beautiful but gloomy and sad picture of autumn. Inside that autumn picture is a picture of Do Phu's mood full of worries and sorrow before the chaos of the times. Based on the poetic text you have learned, please comment on the poem Comment on the poem "Autumn Emotions" by Do Phu.
I. Detailed outline for the topic of commenting on the poem Autumn Feelings
1. Open the lesson
Introducing author Do Phu and his work "Autumn Emotions"
– In the peak literature of the Tang Dynasty, Du Fu was a great realistic poet and was revered as the "Poet Saint". In Do Phu's poetry, we see the uniqueness in content and artistic value, and at the same time see the tearful sympathy and pity for the miserable lives of the people in times of chaos and chaos. filled with patriotic spirit.
– “Autumn Feelings” is one of the poems that clearly shows this. Through the poem, we see a picture of the gloomy, gloomy exam season mixed with a picture of the author's sad and anxious mood during the chaos.
2. Body of the article
– “Inspiration” has successfully sketched the picture of a gloomy, desolate autumn through ingenious strokes:
+ The picture of autumn is gloomy and desolate with "jewels" and "trees"
+ The landscape becomes even more desolate with rolling waves and clouds rushing to the ground.
– The picture of the author's mood is highlighted in the sadness of missing the homeland and the feeling of "patriotism":
+ The vision in the poem has movement between the four verses above and the four verses below:
In the first four verses, the scenery is described in a wide and distant view: maple forest, vu mountain, zinc vu, undulating waves, clouds covering the gate,...
In the following four verses, the space is narrowed to things in close and specific vision and finally to the poet's feelings and emotions.
→ shows the movement of four poems: from scene to love.
+ Nostalgia for the homeland is always lingering in the poet's soul.
"The chrysanthemum blooms twice and tears away": the chrysanthemum blooming twice are the tears of the past; creates co-existence between past and present
"Co chu" is not only a metaphor for the concept of floating but also the only means for the author to convey his heart to the place where he was born.
3. Conclusion
Overview of the value of the poem: Thus, in the poem "Autumn inspiration", autumn is talked about throughout and there is unity between "autumn love" and "autumn scenery". Through this relationship, author Do Phu's talent and passion were once again clearly demonstrated.
According to
|
Bình giảng bài thơ Cảnh khuya của Hồ Chí Minh
Hướng dẫn
… Mùa thu năm 1947, khi chiến dịch Việt Bắc đang diễn ra vô cùng ác liệt, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết bài thơ ‘cảnh khuya’ thể hiện cảm hứng yêu nước mãnh liệt bằng thể thơ thất ngôn tứ tuyệt Đường luật. Cả bài thơ dào dạt ánh sáng và âm thanh để lại trong lòng chúng ta ấn tượng vô cùng sâu sắc:
Cảnh khuya
Tiếng suối trong như tiếng hát xa,
Trăng lồng cổ thụ, bống lồng hoa.
Cảnh khuya như vẽ người chưa ngủ,
Chưa ngủ vì lo nổi nước nhà.
1947
Hồ Chí Minh
Cùng với bài thơ: ‘Cảnh rừng Việt Bắc’ (1946), ‘Đi thuyền trên sông Đáy’ (1949), bài ‘Cảnh khuya’ đã thể hiện tình yêu. nước thiết tha của lãnh tụ Hồ Chí Minh. Bài thơ ‘Cảnh khuya’tả cảnh suối rừng chiến khu Việt Bác một đèm thu đẹp và nói lên nỗi thao thức của Bác Hồ kính yêu.
1. Hai câu thơ tả cảnh khuya núi rừng chiến khu Việt Bắc. Tiếng suối chảy êm đềm, nghe rất ‘trong’ rì rầm từ xa vọng đến ‘như tiếng hát xa’. Đêm khuya thanh vắng mới có thể nghe rõ tiếng suối chảy như vậy. Đó là nghệ thuật lấy động để tả tĩnh, lấy tiếng suối đặc tả đêm chiến khu thiêng liêng, thanh vắng. Ví tiếng suối với tiếng hát là một nét vẽ tinh tế gợi tả núi rừng chiến khu thời máu lửa mang sức sống và hơi ấm con người:
Sáu trăm năn về trước, Nguyễn Trãi đã tả suối Côn Sơn:
‘Côn Sơn suối chảy rì rầm,
Ta nghe như tiếng đàn cầm bên tai’
Đầu thế kỷ 20, Nguyễn Khuyến có viết:
‘Cũng có lúc chơi nơi dặm khách,
Tiếng suối nghe róc rách lưng đèo…’
Đó là những vần thơ tuyệt bút tả suối trong nền thơ ca dân tộc.
Câu thứ 2, Bác Hồ tả trăng chiến khu. Câu thơ có ba nét vẽ: tầng cao là trăng, tầng giữa là cổ thụ, tầng thấp là hoa – hoa rừng. Câu thơ đầy ánh sáng trăng rất đẹp. Phải là đêm thanh, trăng tròn mới có ánh sáng chan hòa như vậy:
‘T răng lồng cổ thụ II bóng lồng hoa’
Chữ ‘lồng’ điệp lại hai lần, đã nhân hóa trăng, cổ thụ và hoà, làm cho vần
thơ dào dạt trữ tình, thi vị. Chữ ‘lồng’ trong câu thơ này gợi nhớ đến vần thơ cổ cũng tả trăng, hoà:
‘Hoá giãi nguyệt, nguyệt in một tấm Nguyệt lồng hoà, hoa thắm từng bông.
Nguyệt hoa hoà nguyệt trùng trùng…’
(Chinh phụ ngâm)
Hai vế tiểu đối: ‘Trăng lồng cổ thụ II bóng lồng hoà’ tạo nên bức tranh tạo vật cân xứng, hài hòa, ngôn ngữ thơ trang trọng, điêu luyện. Có thể nói 2 câu đầu tả cảnh thiên nhiên rất đẹp đầy chất thơ: cảnh khuya trong sáng, lunh linh huyền ảo, thơ nên họa nên nhạc. Thi sĩ với tâm hồn thanh cao đang sống những giây phút thần tiên giữa cảnh khuya chiến khu Việt Bắc.
‘Cảnh khuya như vẽ người chưa ngủ Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà’
3. ‘Cảnh khuya’là bài thất ngôn tứ tuyệt kiệt tác. Là một trong những bài thơ trăng đẹp nhất của Bác Hồ. Người xưa đến với chốn lãm tuyền để lánh đục tìm trong, để được nhàn. Còn Bác Hồ đến với suối rừng Việt Bắc là để lập chiến khu đánh Pháp. Giữa cảnh khuya, có suối trăng… đẹp như vẽ, nhưng Người vẫn thao thức, vẫn ‘Chưa ngủ vì lo nổi nước nhà’. Tâm hồn thi sĩ lồng vào cốt cách chiến sĩ. Màu sắc cổ điển hòa hợp với màu sắc thời đại – cảnh khuya trong kháng chiến. Đó là nét đẹp riêng bài thơ này của Bác. Cảm hứng thiên nhiên chan hòa với cảm hứng yêu nước được diễn tả một cách hàm súc nhuần nhị, trong sáng và đầy chất thơ.
|
Commentary on the poem Late Night Scene by Ho Chi Minh
Instruct
… In the fall of 1947, when the Viet Bac campaign was taking place extremely fiercely, President Ho Chi Minh wrote the poem 'night scene' expressing strong patriotic inspiration in the seven-word, four-literate Tang luat poem form. The whole poem is filled with light and sound, leaving a very deep impression on us:
Late night scene
The sound of a stream is as clear as a distant song,
The moon cages ancient trees, the bamboo cages flowers.
The late night scene is like drawing a person who hasn't slept yet.
Haven't slept because I'm worried about my country.
1947
Ho Chi Minh
Along with the poems: 'Viet Bac Forest Scene' (1946), 'Boat on the Day River' (1949), the song 'Night Night Scene' expressed love. The passionate country of leader Ho Chi Minh. The poem 'Night Night Scene' describes the scene of a stream and forest in the Viet Bac war zone, a beautiful autumn night and speaks of the restlessness of our beloved Uncle Ho.
1. Two verses describe the late night scene of the mountains and forests of the Viet Bac war zone. The sound of the stream flowing gently, heard very 'clearly', murmuring from far away, 'like distant singing'. Late at night, it's so quiet that you can hear the sound of the flowing stream clearly. It is the art of using movement to describe stillness, using the sound of a stream to describe a sacred, deserted war zone at night. Comparing the sound of a stream to the sound of singing is a delicate drawing that depicts the mountains and forests of the war zone in times of blood and fire, bringing vitality and human warmth:
Six hundred years ago, Nguyen Trai described Con Son stream:
'Con Son stream murmurs,
I hear it like the sound of a harp in my ears.
In the early 20th century, Nguyen Khuyen wrote:
'There are also times when we play in foreign places,
The sound of the stream gurgling behind the pass...'
These are wonderful poems describing streams in national poetry.
In the second sentence, Uncle Ho describes the war zone. The poem has three strokes: the upper level is the moon, the middle level is ancient trees, the lower level is flowers - forest flowers. The poem is full of beautiful moonlight. It must be a clear night and a full moon to have such a bright light:
‘The tooth of the ancient tree II the shadow of the flower cage’
The word 'dong' repeats twice, personifying the moon, ancient tree and harmony, creating a rhyme
The poetry is lyrical and poetic. The word 'cage' in this verse is reminiscent of an ancient poem that also describes the moon and harmony:
'The moon transforms into a moon, the moon prints a peaceful moon, the flowers bloom one by one.
The moon flower blends with the moon...'
(Conqueror soaking)
The two small contrasts: 'Ancient tree's moon cage II harmonious cage shadow' create a symmetrical and harmonious picture of creation, with formal and skillful poetic language. It can be said that the first two sentences describe a very beautiful and poetic natural scene: the night scene is clear and magical, the poetry creates music. The poet with a noble soul is living magical moments amid the night scene of the Viet Bac war zone.
'The late night scene is like a painting of a person who hasn't slept yet. He hasn't slept because he's worried about his country'
3. 'Night Scene' is a seven-word four-word masterpiece. It is one of Uncle Ho's most beautiful moon poems. Ancient people came to this place to hide from the chaos and find peace, to be at ease. Uncle Ho came to Viet Bac forest stream to establish a war zone to fight the French. In the middle of the night scene, there was a moonlit stream... as beautiful as a painting, but he was still restless, still 'Not sleeping because he was worried about his country'. The poet's soul is embedded in the soldier's character. Classic colors harmonize with modern colors - late night scenes during the resistance war. That is the unique beauty of this poem of Uncle Ho. Natural inspiration mixed with patriotic inspiration is expressed in a concise, clear and poetic way.
|
Đề bài: Bình giảng bài Thơ duyên của thi sĩ Xuân Diệu
Bài làm
Thơ duyên đúng là một bài thơ tình. Tình yêu ở đây sinh ra giữa đất trời và phát triển theo lẽ tương giao của vạn vật. Tất cả được tạo hóa xếp đặt trong một quan hệ tưởng vô tình mà hữu ý, tưởng hờ hững, vu vơ mà mối lái, ràng buộc. Đúng nửa số câu của bài thơ được dành để nói về thiên nhiên và nửa số câu còn lại dùng để tả người, và cách miêu tả thì luân phiên với từng đối tượng. Nhưng theo cách nhìn khác, thiên nhiên vẫn hiện diện liên tục trong bài thơ, làm bản nhạc đệm cho những bước chân tìm đến tình yêu. Tuy nhiên, sự hiện diện đó mỗi lúc một khác. Khi nhẹ êm len lỏi vào khoảng cách giữa những bước chân đi dạo ngập ngừng để gợi ý, dẫn dụ, rủ rê, khi trỗi dậy với những tiết tấu giục giã, thúc bách, đòi hỏi. Đúng là một cái "nền" tuyệt diệu, biết nói những lời cần thiết đúng lúc và đầy sức nặng.
Từ khúc dạo đầu, bản nhạc đệm đã trào lên những giai điệu hạnh phúc:
"Chiều mộng hòa thơ trên nhánh duyên
Cây me ríu rít cặp chìm chuyền
Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá”
Sao nhiều sự vật và lắm động tác thế! Tất cả đều tìm đến nhau và tìm đôi, ríu rít cả lên. Những đường biên giới cách ngăn bị xóa mờ. Chiều trở thành chiều mộng và nhánh là nhánh duyên. Nhà thơ đã cố tình lướt qua những sắc màu và dáng nét cụ thể của chúng cho âm hưởng cuộc hòa thơ càng ngân nga. Câu thứ ba có ngữ pháp rất lạ. Cái gì đã đổ trời xanh ngọc. Chủ thể hành động ấy là ai? Thật khó giải thích. Chỉ biết rằng nếu câu thơ được viết lại cho đúng khuôn phép hơn, ví như Trời xanh đổ ngọc… thì có lẽ không còn gì. Chút choáng ngợp trong cảm xúc mất đi và vẻ ăm ắp, no đầy, tự dưng nghiêng đổ của thiên nhiên cũng sẽ không được cảm nhận một cách sâu sắc. Đừng quá rạch ròi ở đây. Ngay tiếng huyền ở câu thứ tư không chắc là một thứ tiếng gì rõ rệt. Chẳng qua "vạn vật nức xuân tâm" bỗng dưng phát tiếng, thật mơ hồ mà như có giai điệu dìu dặt, và có lẽ càng dìu dặt hơn trong vẻ mơ hồ ấy.
Rõ là thiên nhiên đang gây áp lực cho con người theo kiểu riêng của nó. Ý niệm về hạnh phúc được khơi lên cứ không ngừng tỏa lan những vòng sóng nơi tâm hồn, khiến ta nhìn vào đâu cũng chạm phải nỗi rung động mới mẻ của chính mình.
"Con đường nhỏ nhỏ, gió xiêu xiêu
Lả lả cành hoang, nắng trở chiều".
So với mây câu thơ đầu, cảnh vật ở đây được nhìn gần và đượm tính "người" hơn. Các từ láy âm nhỏ nhỏ, xiêu xiêu, lả lả vừa mô phỏng tài tình các dáng điệu cùng những sắc thái chuyển động tinh vi của sự vật, vừa diễn tả rất đắt nỗi xao xuyến của lòng người khi lắng nghe những giao lưu bí ẩn trong trời đất. Có một thoáng nhìn hoang vắng phủ trùm lên cảnh vật lúc nắng trở chiều. Lạ, cũng trên con đường nhỏ nhỏ thân thuộc ấy, sao chiều nay trong gió xiêu xiêu, lòng ta bỗng mất vẻ an bằng, cũng chống chếnh, xiêu xiêu? Và cành lả lả, sao khéo giống con người đang trạng thái ngây ngất, bỗng phút chốc thấy mất hết sức lực vì một ảo giác nào đó? Thật không ngờ khuôn mặt tình yêu đã hiện lên giữa bộn bề những môi xúc cảm không rõ hình, rõ nét ấy:
Buổi ấy lòng ta nghe ý bạn
Lần đầu rung động nỗi thương yêu.
Sự thực từ đây con người đã bắt được vào nhịp điệu của thiên nhiên và cộng hưởng với nó.
Khổ thơ thứ ba mở ra một khoảng không gian bằng lặng và rộng rãi. Nhịp thơ trở lại điều hòa, khoan thai. Nhân vật trữ tình dường như muốn ngừng bước một vài giây để xác nhận lại, kiểm nghiệm lại chất lượng mới trong tình cảm của mình. Bản nhạc đệm thiên nhiên cũng chìm lắng đi để những bước chân vô tư lự của anh, của em trở thành đối tượng quan sát chính:
"Em bước điềm nhiên không vướng chân
Anh đi lững đững chẳng theo gần
Vô tâm – nhưng giữa bài thơ dịu
Anh với em như một cặp vần".
Không còn nghi ngờ gì nữa, trong bài thơ dịu của đất trời, anh với em như một cặp vần. Tuy nói điềm nhiên, chẳng theo gần, nhưng sự thật xúc cảm của nhân vật trữ tình đã mất đi vẻ "điềm nhiên". Anh ta muốn reo lên, muốn kết luận nói lời ràng buộc. Sự vô tâm lúc này chỉ còn là cái vỏ nữa thôi.
Khổ thơ thứ tư quay trở lại với hình ảnh thiên nhiên và thừa tiếp rất khéo ý thơ trên:
"Mây biếc về đâu bay gấp gấp
Con cò trên ruộng cánh phân vân
Chim nghe trời rộng giang thêm cánh
Hoa lạnh chiều thưa sương xuống dần".
Âm thanh bản nhạc lúc này nổi lên có vẻ thúc giục và khuyến dụ ráo riết hơn, nhờ hiệu quả của các từ láy âm gấp gấp, phân vân nằm ở cuối câu, cuối nhịp và một mật độ dày đặc các động từ hoặc trạng từ, tính từ được động từ hoá: về, bay, gấp gấp, phân vân, nghe, giang, lạnh, xuống. Nó xui người ta tìm đôi hoặc thổ lộ yêu đương và nói lời "dứt điểm" vào đúng lúc chiều sắp tắt, sương xuống lạnh để trời thành quá rộng. Ngay cả làn mây biếc và con cò trên ruộng cũng đâu có nhởn nhơ duyên tương – chúng đang lựa chọn hay mải miết tìm về một chốn nào. Quả có mối ngộ giữa anh và em, khiến anh phải ngơ ngẩn trước tình yêu đang nảy nở, để rồi bật thốt lên một tiếng kêu đắm đuối: “Lòng anh thôi đã cưới lòng em”. Trong từ cưới đó nghe ran một niềm hoan lạc.
Thơ duyên có một bố cục chặt chẽ, sáng sủa, thể hiện khá sâu cảm hứng lí giải của nhà thơ. Mặc dù có lần nói "Làm sao cắt nghĩa được tình yêu" (Vì sao), nhưng trong dự án làm "pho tự vị" thật đầy đủ về nó, Xuân Diệu đã không chịu bỏ trống mục từ nào, kể cả mục từ Duyên đầy hóc búa. Bao nhiêu lần người ta đã nói đến sự lạ lùng của "cơ duyên" (Cơ duyên đâu bỗng lạ sao – Kiều) nhưng có lẽ chỉ đến Xuân Diệu, cái nghịch lí của phạm trù này mới được tường giải. Ta cảm thấy rõ rệt bàn tay xếp đặt của tạo hóa, tuy vô hình mà có sức mạnh rất hiện thực. Dưới sức ép của quy luật tìm đôi và giữa muôn ngàn sợi tư tình giăng mắc, làm sao người ta có thể không đến cùng nhau, làm sao có thể không yêu được? Duyên là thế – ở phần chìm của nó!
Nhưng "Thơ duyên'' còn được hợp thành từ một nguồn cảm hứng khác nữa: cảm hứng bảy tỏ tình yêu và bộc lộ niềm ao ước được kết duyên cùng em của nhân vật trữ tình, ở đây cần phải có sự phân biệt giữa anh ta và nhà thơ. Nhà thơ luôn tỉnh láo và không quên nhiệm vụ "cắt nghĩa" của mình, còn nhân vật trữ tình thì say đắm đến ngẩn ngơ trước niềm xốn xang giao cảm của vạn vật. Anh ta đã nhìn thấy hay chỉ muốn thấy thiên nhiên trong vai trò xe kết tình duyên của nó. Không những thế, anh còn muốn tin ngay đó là chân lí – một chân lí vàng – cần được kể ra, nói lên cho đối tượng của mình cùng chia sẻ, để cùng đẩy sự điềm nhiên lui về thì quá khứ, ở đây, nhà thơ đã "về hùa" với nhân vật trữ tình, cho thiên nhiên hiện ra đúng khớp với niềm mong mỏi của anh ta, dẫu thừa hiểu rằng chẳng có thiên nhiên khác toàn bộ tâm giới trẻ đang yêu trong một biểu hiện trá hình mà thôi.
Sự giao thoa của hai nguồn cảm hứng nói lên chính cơ sở nhận thức và tình cảm vững chắc giúp Xuân Diệu phái hiểu một quan niệm sâu sắc về tình yêu: tình yêu là sản phẩm của tạo hóa, "nó chiếm hồn ta” một cách tự nhiên, vô hình mà không cưỡng nổi. Chính vì vậy, yêu là thuận theo lẽ trời, vô tội và đẹp. Nhiều năm tháng đã qua đi, cái duyên của bài Thơ duyên vẫn còn mặn mà như thách thức thời gian. Vâng, làm sao có được một bài thơ mà bao nhiêu độc giả đã yêu, đã thuộc và đã dùng làm "nhịp cầu tơ chắp ý duyên" bắc về muôn nẻo tình yêu.
|
Đề bài: Bình giảng bài Thơ duyên của thi sĩ Xuân Diệu
Bài làm
Thơ duyên đúng là một bài thơ tình. Tình yêu ở đây sinh ra giữa đất trời và phát triển theo lẽ tương giao của vạn vật. Tất cả được tạo hóa xếp đặt trong một quan hệ tưởng vô tình mà hữu ý, tưởng hờ hững, vu vơ mà mối lái, ràng buộc. Đúng nửa số câu của bài thơ được dành để nói về thiên nhiên và nửa số câu còn lại dùng để tả người, và cách miêu tả thì luân phiên với từng đối tượng. Nhưng theo cách nhìn khác, thiên nhiên vẫn hiện diện liên tục trong bài thơ, làm bản nhạc đệm cho những bước chân tìm đến tình yêu. Tuy nhiên, sự hiện diện đó mỗi lúc một khác. Khi nhẹ êm len lỏi vào khoảng cách giữa những bước chân đi dạo ngập ngừng để gợi ý, dẫn dụ, rủ rê, khi trỗi dậy với những tiết tấu giục giã, thúc bách, đòi hỏi. Đúng là một cái "nền" tuyệt diệu, biết nói những lời cần thiết đúng lúc và đầy sức nặng.
Từ khúc dạo đầu, bản nhạc đệm đã trào lên những giai điệu hạnh phúc:
"Chiều mộng hòa thơ trên nhánh duyên
Cây me ríu rít cặp chìm chuyền
Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá”
Sao nhiều sự vật và lắm động tác thế! Tất cả đều tìm đến nhau và tìm đôi, ríu rít cả lên. Những đường biên giới cách ngăn bị xóa mờ. Chiều trở thành chiều mộng và nhánh là nhánh duyên. Nhà thơ đã cố tình lướt qua những sắc màu và dáng nét cụ thể của chúng cho âm hưởng cuộc hòa thơ càng ngân nga. Câu thứ ba có ngữ pháp rất lạ. Cái gì đã đổ trời xanh ngọc. Chủ thể hành động ấy là ai? Thật khó giải thích. Chỉ biết rằng nếu câu thơ được viết lại cho đúng khuôn phép hơn, ví như Trời xanh đổ ngọc… thì có lẽ không còn gì. Chút choáng ngợp trong cảm xúc mất đi và vẻ ăm ắp, no đầy, tự dưng nghiêng đổ của thiên nhiên cũng sẽ không được cảm nhận một cách sâu sắc. Đừng quá rạch ròi ở đây. Ngay tiếng huyền ở câu thứ tư không chắc là một thứ tiếng gì rõ rệt. Chẳng qua "vạn vật nức xuân tâm" bỗng dưng phát tiếng, thật mơ hồ mà như có giai điệu dìu dặt, và có lẽ càng dìu dặt hơn trong vẻ mơ hồ ấy.
Rõ là thiên nhiên đang gây áp lực cho con người theo kiểu riêng của nó. Ý niệm về hạnh phúc được khơi lên cứ không ngừng tỏa lan những vòng sóng nơi tâm hồn, khiến ta nhìn vào đâu cũng chạm phải nỗi rung động mới mẻ của chính mình.
"Con đường nhỏ nhỏ, gió xiêu xiêu
Lả lả cành hoang, nắng trở chiều".
So với mây câu thơ đầu, cảnh vật ở đây được nhìn gần và đượm tính "người" hơn. Các từ láy âm nhỏ nhỏ, xiêu xiêu, lả lả vừa mô phỏng tài tình các dáng điệu cùng những sắc thái chuyển động tinh vi của sự vật, vừa diễn tả rất đắt nỗi xao xuyến của lòng người khi lắng nghe những giao lưu bí ẩn trong trời đất. Có một thoáng nhìn hoang vắng phủ trùm lên cảnh vật lúc nắng trở chiều. Lạ, cũng trên con đường nhỏ nhỏ thân thuộc ấy, sao chiều nay trong gió xiêu xiêu, lòng ta bỗng mất vẻ an bằng, cũng chống chếnh, xiêu xiêu? Và cành lả lả, sao khéo giống con người đang trạng thái ngây ngất, bỗng phút chốc thấy mất hết sức lực vì một ảo giác nào đó? Thật không ngờ khuôn mặt tình yêu đã hiện lên giữa bộn bề những môi xúc cảm không rõ hình, rõ nét ấy:
Buổi ấy lòng ta nghe ý bạn
Lần đầu rung động nỗi thương yêu.
Sự thực từ đây con người đã bắt được vào nhịp điệu của thiên nhiên và cộng hưởng với nó.
Khổ thơ thứ ba mở ra một khoảng không gian bằng lặng và rộng rãi. Nhịp thơ trở lại điều hòa, khoan thai. Nhân vật trữ tình dường như muốn ngừng bước một vài giây để xác nhận lại, kiểm nghiệm lại chất lượng mới trong tình cảm của mình. Bản nhạc đệm thiên nhiên cũng chìm lắng đi để những bước chân vô tư lự của anh, của em trở thành đối tượng quan sát chính:
"Em bước điềm nhiên không vướng chân
Anh đi lững đững chẳng theo gần
Vô tâm – nhưng giữa bài thơ dịu
Anh với em như một cặp vần".
Không còn nghi ngờ gì nữa, trong bài thơ dịu của đất trời, anh với em như một cặp vần. Tuy nói điềm nhiên, chẳng theo gần, nhưng sự thật xúc cảm của nhân vật trữ tình đã mất đi vẻ "điềm nhiên". Anh ta muốn reo lên, muốn kết luận nói lời ràng buộc. Sự vô tâm lúc này chỉ còn là cái vỏ nữa thôi.
Khổ thơ thứ tư quay trở lại với hình ảnh thiên nhiên và thừa tiếp rất khéo ý thơ trên:
"Mây biếc về đâu bay gấp gấp
Con cò trên ruộng cánh phân vân
Chim nghe trời rộng giang thêm cánh
Hoa lạnh chiều thưa sương xuống dần".
Âm thanh bản nhạc lúc này nổi lên có vẻ thúc giục và khuyến dụ ráo riết hơn, nhờ hiệu quả của các từ láy âm gấp gấp, phân vân nằm ở cuối câu, cuối nhịp và một mật độ dày đặc các động từ hoặc trạng từ, tính từ được động từ hoá: về, bay, gấp gấp, phân vân, nghe, giang, lạnh, xuống. Nó xui người ta tìm đôi hoặc thổ lộ yêu đương và nói lời "dứt điểm" vào đúng lúc chiều sắp tắt, sương xuống lạnh để trời thành quá rộng. Ngay cả làn mây biếc và con cò trên ruộng cũng đâu có nhởn nhơ duyên tương – chúng đang lựa chọn hay mải miết tìm về một chốn nào. Quả có mối ngộ giữa anh và em, khiến anh phải ngơ ngẩn trước tình yêu đang nảy nở, để rồi bật thốt lên một tiếng kêu đắm đuối: “Lòng anh thôi đã cưới lòng em”. Trong từ cưới đó nghe ran một niềm hoan lạc.
Thơ duyên có một bố cục chặt chẽ, sáng sủa, thể hiện khá sâu cảm hứng lí giải của nhà thơ. Mặc dù có lần nói "Làm sao cắt nghĩa được tình yêu" (Vì sao), nhưng trong dự án làm "pho tự vị" thật đầy đủ về nó, Xuân Diệu đã không chịu bỏ trống mục từ nào, kể cả mục từ Duyên đầy hóc búa. Bao nhiêu lần người ta đã nói đến sự lạ lùng của "cơ duyên" (Cơ duyên đâu bỗng lạ sao – Kiều) nhưng có lẽ chỉ đến Xuân Diệu, cái nghịch lí của phạm trù này mới được tường giải. Ta cảm thấy rõ rệt bàn tay xếp đặt của tạo hóa, tuy vô hình mà có sức mạnh rất hiện thực. Dưới sức ép của quy luật tìm đôi và giữa muôn ngàn sợi tư tình giăng mắc, làm sao người ta có thể không đến cùng nhau, làm sao có thể không yêu được? Duyên là thế – ở phần chìm của nó!
Nhưng "Thơ duyên'' còn được hợp thành từ một nguồn cảm hứng khác nữa: cảm hứng bảy tỏ tình yêu và bộc lộ niềm ao ước được kết duyên cùng em của nhân vật trữ tình, ở đây cần phải có sự phân biệt giữa anh ta và nhà thơ. Nhà thơ luôn tỉnh láo và không quên nhiệm vụ "cắt nghĩa" của mình, còn nhân vật trữ tình thì say đắm đến ngẩn ngơ trước niềm xốn xang giao cảm của vạn vật. Anh ta đã nhìn thấy hay chỉ muốn thấy thiên nhiên trong vai trò xe kết tình duyên của nó. Không những thế, anh còn muốn tin ngay đó là chân lí – một chân lí vàng – cần được kể ra, nói lên cho đối tượng của mình cùng chia sẻ, để cùng đẩy sự điềm nhiên lui về thì quá khứ, ở đây, nhà thơ đã "về hùa" với nhân vật trữ tình, cho thiên nhiên hiện ra đúng khớp với niềm mong mỏi của anh ta, dẫu thừa hiểu rằng chẳng có thiên nhiên khác toàn bộ tâm giới trẻ đang yêu trong một biểu hiện trá hình mà thôi.
Sự giao thoa của hai nguồn cảm hứng nói lên chính cơ sở nhận thức và tình cảm vững chắc giúp Xuân Diệu phái hiểu một quan niệm sâu sắc về tình yêu: tình yêu là sản phẩm của tạo hóa, "nó chiếm hồn ta” một cách tự nhiên, vô hình mà không cưỡng nổi. Chính vì vậy, yêu là thuận theo lẽ trời, vô tội và đẹp. Nhiều năm tháng đã qua đi, cái duyên của bài Thơ duyên vẫn còn mặn mà như thách thức thời gian. Vâng, làm sao có được một bài thơ mà bao nhiêu độc giả đã yêu, đã thuộc và đã dùng làm "nhịp cầu tơ chắp ý duyên" bắc về muôn nẻo tình yêu.
|
Bình giảng bài thơ Dương phụ hành của Cao Bá Quát
Hướng dẫn
Bình giảng bài thơ Dương phụ hành của Cao Bá Quát
Trong cuộc đời chìm nổi của mình, Cao Bá Quát có dịp đi lại nhiều nơi. Nhà thơ ở vào số ít các quan lại triều Nguyễn được ra nước ngoài. Đó là khoảng cuối năm 1841, hoặc đầu năm 1842, sau khi ông bị triều đình bắt giam vì tội sửa hộ bài thi của thí sinh. Chuyến đi ấy thật ra cũng chẳng có gì là vẻ vang, bởi phái đoàn của ông sang Indonesia và Campuchia nhằm mục đích đem đường đi bán để đổi lấy những thứ hàng xa xỉ về cho triều đình. Với Cao Bá Quát, có thể đây lại là dịp may, vì nhà thơ được có dịp ra khỏi một đất nước đang bế quan tỏa cảng, nhìn ngắm thiên hạ.
Trong chuyến đi ấy, Cao Bá Quát đã sáng tác khá nhiều thơ. Bài Dương phụ hành là một trong những bài được viết trong cuộc hành trình vất vả đó. Bài thơ thế hiện cái nhìn tinh tế, phóng khoáng của một vị quan phương Đông, vốn là nơi rất cổ hủ, khe khắt, đối với cảnh tình tự, âu yếm của một đôi vợ chồng trẻ Tây dương. Chính vì lẽ đó, có người đã xem đây như một “bài kí”.
Phiên âm:
Tây dương thiếu phụ y như tuyết,
Độc bằng lang kiên tọa thanh nguyệt,
Khước vọng Nam thuyền đăng hỏa minh,
Bá duệ nâm nâm hướng lang thuyết.
Nhất uyển đề hồ thủ lãn trì,
Dạ hàn vô ná hải phong xuy.
Phiên thân cảnh sảnh lang phù khởi,
Khởi thức Nam nhân hữu biệt li.
Dịch nghĩa:
Người thiếu phụ Tây dương áo tráng như tuyết,
Dựa vai chồng dưới bóng trăng thanh.
Nhìn thuyền người Nam thấy đèn lửa sáng,
Kéo áo nói rì rẩm với chàng.
Một cốc sữa hững hờ trên tay,
Gió bể thổi hơi lạnh ban đêm không chịu nổi.
Nghiêng mình đòi chồng nâng dậy,
Há có biết người Nam đang ở cảnh biệt li.
Đúng! Dương phụ hành là một bài kí bằng thơ kể chuyện vào một đêm thanh vắng, giữa biển cả, có một người phụ nữ (Tây dương) đang nũng nịu với chồng. Nàng có thấy ánh đèn sáng ở một chiếc thuyền gần đó (Nam thuyền). Song, mặc, bây giờ nàng chỉ biết có chồng. Gió bể thổi lạnh đến không chịu nổi (Dạ hàn vô ná hải phong xuy), nàng cùng mặc. Tình yêu khiến người ta có thể quên đi tất cả!
Vậy thì, có gì đáng nói ở cảnh trên Tây thuyền đêm ấy? Cái lạ là con người đang lặng lẽ ngắm nhìn, thậm chí tỉ mỉ nữa. Người ấy nhìn thấy tất cả mọi chi tiết của cảnh tượng kia: thiếu phụ là người Tây dương; nàng mặc chiếc áo trắng như tuyết; nàng tựa vai chồng dưới bóng trăng thanh; nàng nhìn sang Nam thuyền thấy đèn sáng trưng rồi kéo áo chồng ríu rít chuyện trò… Đến chi tiết nhỏ: người thiếu phụ cầm cốc sữa trên tay với dáng vẻ hờ hững, uể oải (sữa đối với nàng có quan trọng gì đâu!). Đã thế, nàng còn nũng nịu đòi chồng nâng mình dậy. Bài thơ như một cuốn phim quay chậm, từng chi tiết một hiện ra, không sót bất kì hình ảnh nào. Dù hai thuyền khác nhau, nhưng qua cách miêu tả, ta thấy gần lắm. Cặp uyên ương kia dường như chẳng để ý tới ai. Và, cái người đang lặng lẽ nhìn ngắm kia mới lặng lẽ, kín đáo làm sao! Người ấy quan sát tỉ mỉ chứ không phải tò mò. Đôi mắt ông không hề xoi mói. Trái lại, cảnh ấy như là chuyện đương nhiên, bình thường ở trên đời. Đây mới chính là cái lạ của bài thơ. Cao Bá Quát là nhà nho lẽ ra phải “khó chịu” với cảnh đó, nhưng nhà thơ lại nhìn chúng bình thường chẳng phải là điều rất lạ sao?
Bài thơ có 8 câu thì 7 câu đầu là miêu tả cảnh trên tàu Tây dương, thể hiện khách thể. Qua sự miêu tả ấy, ta hiểu tư tưởng của Cao Bá Quát. Nhà thơ chỉ dành có một câu để nói về mình:
Khởi thức Nam nhản hữu biệt li.
(Biết đâu nỗi khách đang sầu biệt li)
Chỉ có một câu thơ thôi nhưng người đọc giật mình, thảng thốt. Hóa ra, con người suốt từ đầu đến giờ cứ lặng lẽ ngắm nhìn đôi uyên ương kia đang đau đớn nhường nào! Câu thơ ấy cung xóa đi ý nghĩ cho rằng con người đó nhìn đôi uyên ương khá tò mò. Không! Mắt ông đang nhìn chăm chú, không bỏ sót chi tiết nào nhưng lòng lại nghĩ về hướng khác, hướng của quê nhà, nơi mịt mù xa cách. Như đã nói, cả bảy câu thơ trên bộc lộ một tư tưởng, còn chỉ một câu thơ cuối lại bày ra cả một nỗi lòng. Thế là, tất cả trên kia đều đối lập với nó. Nào là bầu trời cùng ánh trăng thanh, nào là cảnh thiết tha thân mật, nào là những cơn gió bể buốt lạnh… Khi nào cũng vậy Cao Chu Thần luồn đối lập, luôn một mình trơ trọi trên thế gian. Không một ai có thể chia sẻ cùng ông!
Một điều cũng nên lưu ý. Đó là cấu trúc của bài thơ. Nhiều tập thơ Cao Bá Quát in liền như là một bài thơ thất ngôn bát cú luật Đường. Sách giáo khoa Văn học II (NXB Giáo dục, 2004, tr.20) in thành hai khổ, mỗi khổ bốn câu. Lẽ thường khi tách ra như thế phải đánh số (1 và 2), bài thơ có hai thủ. Tuy nhiên, Dương phụ hành không giống với những bài thơ hai thủ khác. Bốn câu đầu có vần “uyết” bốn câu sau là vần “i”. Song, Dương phụ hành không thể tách ra thành hai bài thơ tứ tuyệt độc lập, dù chỉ tạm thời vì hình tượng thơ thống nhất. Nếu tách ra, không ai hiểu gì cả! Như vậy sự chia cắt, phân bố có vẻ rõ ràng kia chỉ là bề ngoài, mang tính hình thức. Chắc chắn “thánh thơ” Cao Bá Quát khá rành rè về cấu trúc, âm luật của thể thơ Đường. Ông làm như thế hẳn là cố tình. Cả bài thơ có nhiều sự đối lập (và ngay cả hình thức!). Vì thế, nỗi lòng của người đang ôm nỗi sầu “biệt ly”, dù được miêu tả rất ít (có một câu thơ) nhưng nó như chiếc neo đã thả xuống biển, và biết bao năm rồi nỗi sầu ấy không tan!
Nguồn: Tài liệu văn học
|
Commentary on Cao Ba Quat's poem Duong Phu Hanh
Instruct
Commentary on Cao Ba Quat's poem Duong Phu Hanh
During his up and down life, Cao Ba Quat had the opportunity to travel to many places. The poet was among the few mandarins of the Nguyen Dynasty who were allowed to go abroad. That was around the end of 1841, or early 1842, after he was arrested by the royal court for correcting candidates' exam papers. That trip was actually nothing glorious, because his delegation to Indonesia and Cambodia aimed to sell sugar in exchange for luxury goods for the court. For Cao Ba Quat, perhaps this was a lucky opportunity, because the poet had the opportunity to leave a secluded country and see the world.
During that trip, Cao Ba Quat composed quite a lot of poetry. The article Duong Phu Hanh is one of the articles written during that strenuous journey. The poem shows the delicate and liberal perspective of an Eastern mandarin, which is a very old-fashioned and strict place, towards the love and tenderness of a young Western couple. For that reason, some people see this as a "memorandum".
Spelling:
The young woman of the Western Ocean is like snow,
The solitary wolf sits on the clear moon,
Desperate for the Southern boat to light up the fire,
Ba Thuoi Nam Nguong Huong Lang theory.
Nhat Uyen De Ho Thu Lan Tu,
Let the cold enter the sea and wind.
Transforming into the floating hall scene,
Awakening the separateness of men and women.
Translate:
The Western woman's coat is like snow,
Lean on your husband's shoulder under the moonlight.
Looking at the boats of the Southern people, they saw bright lights,
Pulling his shirt and whispering to him.
A glass of milk casually in hand,
The cold wind blowing at night was unbearable.
I leaned over and asked my husband to lift me up.
Did you know that the Southern people are in a state of separation?
Correct! Duong Phu Hanh is a poetic memoir telling the story of a quiet night, in the middle of the sea, a woman (Tay Duong) was cooing with her husband. She saw a bright light on a nearby boat (Nam boat). However, now she only knows that she has a husband. The wind from the sea was so cold that it was unbearable (Da cold in the sea wind Xuyen), she wore it. Love makes people forget everything!
So, what's worth mentioning about the scene on the Western boat that night? The strange thing is that people are quietly watching, even meticulously. That person saw all the details of that scene: the young woman was from the Atlantic; she wore a dress as white as snow; She leaned on her husband's shoulder under the clear moonlight; She looked to the South of the boat and saw the bright lights, then pulled her husband's shirt and chirped and chatted... Coming to the small details: the young woman held a glass of milk in her hand with an indifferent, languid look (milk was not important to her! ). Even so, she still naughtily asked her husband to lift her up. The poem is like a slow motion film, each detail appears one by one, without missing any image. Although the two boats are different, through the description, we see that they are very close. The couple didn't seem to pay attention to anyone. And, how quiet and discreet is the person who is quietly watching! He observes carefully, not curiously. His eyes were not prying. On the contrary, that scene seems like a natural, normal thing in the world. This is the strangeness of the poem. Cao Ba Quat was a Confucian scholar who should have been "uncomfortable" with that scene, but isn't it very strange that the poet viewed them normally?
The poem has 8 lines, the first 7 lines describe the scene on the Atlantic ship, expressing the object. Through that description, we understand Cao Ba Quat's thoughts. The poet only spent one sentence talking about himself:
Awakening the separateness of the Southern world.
(Who knows if the guest is sad to say goodbye)
There is only one verse but the reader is startled and shocked. It turns out, people have been quietly watching how much pain the couple is in all along! That verse also erases the idea that that person looked at the couple quite curiously. Are not! His eyes were looking intently, not missing any detail, but his heart was thinking in another direction, the direction of his hometown, a dark and distant place. As mentioned, all seven verses above express a thought, while only the last verse reveals a whole feeling. So, everything above is the opposite of it. What is the clear sky and moonlight, what is the passionate and intimate scene, what is the cold wind... Cao Chu Than is always the opposite, always alone in the world. No one can share with you!
One thing should also be noted. That is the structure of the poem. Many collections of Cao Ba Quat's poems were printed at once like a seven-word, eight-syllable Tang poem. Textbook Literature II (Education Publishing House, 2004, p.20) is printed in two stanzas, each stanza has four sentences. Normally, when separated like that, we should number them (1 and 2). The poem has two verses. However, Duong Phu Hanh is not like other two-letter poems. The first four lines rhyme "snow" and the last four lines rhyme "i". However, Duong Phu Hanh cannot be divided into two independent quatrains, even temporarily because of the unified poetic image. If we separate, no one will understand anything! Thus, the seemingly clear division and distribution are only superficial and formal. Certainly the "holy poet" Cao Ba Quat was quite clear about the structure and sound rules of Tang poetry. He must have done that intentionally. The whole poem has many contrasts (and even forms!). Therefore, the heart of the person holding the sadness of "separation", although described very little (there is one verse), is like an anchor dropped into the sea, and for many years that sadness has not dissipated!
Source: Literary documents
|
Đề bài: Bình giảng bài thơ Gánh nước đêm của Trần Tuấn Khải
Bài làm
Trần Tuấn Khải (1894 – 1983) bút danh chính là Á Nam; ngoài ra còn các bút Hiệu khác: Tiểu Hoa Nhân, Lâm Tuyền, Xử Sĩ, Giang Hồ Tản Nhân… Cụ quê ở Nam Định. Là nhà thơ cùng thời với thi sĩ Tản Đà. Nổi tiếng với bài thơ "Tiễn chân anh khóa xuống tàu". Thơ của Trần Tuấn Khải mang nội dung yêu nước và nỗi niềm tâm sự bất đắc chí của một tâm hồn yêu đời, yêu quê hương nhưng rồi buồn chán vì bất lực. Giọng thơ du dương thiết tha cứ quyện lấy vương vấn hồn người.
Tác phẩm của Trần Tuấn Khải gồm có: "Duyện nợ phù sinh" (1921), "Bút quan hoài" (1927), "Với sơn hủ" (1936).
Bài thơ "Cánh nước đêm" được sáng tác năm 1917, in trong tập "Duyên nợ phù sinh" (1921) chứa chan nặng tình non nước. Bài thơ mượn chuyện một cô gái gánh nước đêm khuya để kín đáo gửi gắm tâm sự của nhà thơ: trân trọng, cảm thương và kính phục những người yêu nước, những chiến sĩ cách mạng, ngầm thức tỉnh lòng yêu nước và tinh thần cứu nước.
Cuộc đầu độc ở Hà Thành thất bại, tiếng súng đánh Pháp của người anh hùng Đề Thám giữa núi rừng Yên Thế cũng không còn vang rền nữa (1913), Phan Châu Trinh và Phan Bội Châu đi tìm đường cứu nước mãi chưa về. Tình hình đất nước ta lúc bấy giờ nặng nề, u ám "Chứa chan máu quốc, nước vẩn vơ hồn –
Xao xác tiếng gà, trời mờ mịt tối" (Phan Bội Châu). Thơ văn của những thi sĩ như Tản Đà, Trần Tuấn Khải… phải tìm đến một cách nói xa xôi bóng gió để gửi gắm tâm sự và khêu gợi lòng yêu nước. Bài "Thề non nước" của Tản Đà, bài "Gánh nước đêm" của Trần Tuấn Khải là những bài thơ đa nghĩa, kín đáo bày tỏ lòng yêu nước thiết tha.
Một không gian "xa tít", "mù mịt", sông thì rộng, trời thì khuya. Tương phản với cảnh tối tăm, bao la… ấy là chỉ có một mình "em", một mình cô gái. Càng trở nên bé nhỏ, cô đơn và lẻ loi. Cảnh khuya vắng vẻ, thân gái dặm trường, càng nghe rõ tiếng "kĩu kịt" của đòn gánh. Câu thơ bốn tiếng, nhịp thơ gấp như tiếng thở hồi hộp, lo âu của người con gái gánh nước đêm:
"Em bước chân xa
Con đường xa tít
Con sông mù mịt
Nặng gánh em trở ra về…"
Câu thơ ngắn 4 từ được mở rộng dần đến 10 từ, 12 từ, người đọc cảm nhận rõ và sâu hơn tâm trạng người gánh nước đêm:
"Ngoảnh cổ trông sông rộng trời khuya
Vì chưng nước cạn, nặng nề em dám kêu ai".
Vần thơ như một tiếng thở dài. Bao nhiêu khó khăn: "Giời khuya", "sông rộng", "nước cạn", "nặng nề". Bóng tối như bủa vây, vì sông rộng và nước sâu, nước lại cạn thì việc gánh nước càng nhiều khó khăn hơn. Cái cử chỉ "Ngoảnh cổ trông", biểu lộ nỗi cô đơn, lẻ loi, trông đợi, kiếm tìm. Sự "nặng nề" đôi vai là do hoàn cảnh, nên "em dám kêu ai"', than mà chẳng hề dám trách. Hình ảnh cô gái gánh nước đêm khuya chính là hình ảnh người yêu nước, người làm cách mạng thời bấy giờ; gặp nhiều khó khăn, lẻ loi, tận lòng trung hiếu. Đó là cảm nhận của Á Nam Trần Tuấn Khải. Ông đã dành nhiều cảm thương cho họ. Con đường cứu nước những năm bài thơ ra đời thật mù mịt và xa tít – Nhà thơ đã thể hiện đúng thực trạng lịch sử thời bây giờ. Tâm trạng và điệu thơ, vần thơ man mác buồn, bi quan… Cái đáng quý nhất là tấm lòng nhà thơ cần biết "Khi Đảng chưa ra đời, tình hình đen tối như không có đường ra…" (Hồ Chí Minh)
Có biết bao tấm gương ái quốc nhiệt thành. Có biết bao chí sĩ dứt bỏ gia đình quê hương, ôm chí lớn lên đường. Họ là những con người phi thường "đội đá vá trời", nhưng chí lớn không thành chẳng khác nào công con dã tràng xe cát lấp bể. Cảm hứng thơ khơi nguồn từ thần thoại, ca dao, cho ta nhiều liên tưởng về một sự đánh giá: "nghĩ tiếc công", "Biết đời nào xong?”. Đó là sự trân trọng, cảm phục, biết ơn, lo âu. Màu sắc bi quan thời cuộc bao trùm vần thơ.
Mặc dù sông rộng, trời khuya, em vẫn dấn thân "em trở vai này”. Câu thơ "Nước non gánh nặng cái đức ông chồng hay hỡi có hay?" là một câu thơ hàm ẩn, một câu hỏi có giá trị lay tỉnh. Những ai đó, những "đức ông chồng" còn "ngủ yên trong đời chật" hãy biết rằng gánh nước non vô cùng nặng nề, vẫn còn đó, sao lại nỡ để "Cái bước đêm khuya thân gái ngại ngùng…"
Qua đó, ta cảm thấy bài "Gánh nước đêm" không chỉ là bài thơ gửi gắm tâm sự yêu nước mà còn là bài thơ khêu gợi, thức tỉnh trước cảnh "nước cạn" và "nước non gánh nặng"…
Hoàn cảnh lịch sử bấy giờ đen tối, mù mịt cho nên bài thơ và tâm trạng nhà thơ không tránh khỏi bi quan, buồn. Con đường gánh nước "xa tít", gánh nước đè nặng đôi vai, mà cô gái "trở vai này" bước tiếp, dù "đêm khuya thân gái ngại ngùng''. Đó cũng là niềm tin của nhà thơ về con đường cứu nước và hình ảnh người cứu nước, rất đáng khâm phục với tất cả lòng biết ơn trân trọng.
Xuân Diệu cho biết bài "Gánh nước đêm" được viết theo điệu bỏng mạc vỉa sa mạc (một điệu dân ca Bắc Bộ). Câu thơ ngắn, dài biến hóa. Ngoài những vần chân, tác giả còn dùng nhiều vần lưng để tạo nên âm điệu phong phú, gợi cảm:
"Ngoảnh cổ trông sông rộng trời khuya…
Nghĩ tiếc công cho bà Nữ Oa đội đá vá trời,
Cái bước đêm khuya thân gái ngại ngùng…
Cái đức ông chồng hay hỡi có hay ”
"Gánh nước đêm" ngay từ ngày mới ra đời đã được độc giả, báo chí tán thưởng. Hoàng Ngọc Phách trân trọng mời bạn đọc "thưởng giám một lối văn chương đặc biệt". Một tờ báo đương thời nhận xét: “Bài Gánh nước lời văn giản dị mà ý tứ sâu xa biết bao nhiêu…". Thi sĩ Xuân Diệu viết: "Nước ta độc lập rồi, bài thơ ngắn nhỏ vẫn cứ rộng sâu và hay".
|
Topic: Commentary on the poem Carrying Night Water by Tran Tuan Khai
Assignment
Tran Tuan Khai (1894 - 1983) whose main pen name is A Nam; In addition, there are other pen names: Tieu Hoa Nhan, Lam Tuyen, Tru Si, Giang Ho Tan Nhan... He is from Nam Dinh. He was a poet at the same time as poet Tan Da. Famous for the poem "Sending you off to the train". Tran Tuan Khai's poetry carries patriotic content and the frustrated feelings of a soul who loves life and homeland but is bored because of helplessness. The passionate, melodious voice of the poem keeps entangling the soul.
Tran Tuan Khai's works include: "Debt Floating Life" (1921), "Quan Hoai's Pens" (1927), "With the Falling Mountains" (1936).
The poem "Wings of Night Water" was composed in 1917, published in the collection "Debt of Life and Life" (1921) and is filled with love for the country. The poem borrows the story of a girl carrying water late at night to discreetly convey the poet's feelings: respect, compassion and admiration for patriots and revolutionary soldiers, implicitly awakening patriotism and spirit. save the country.
The poisoning in Ha Thanh failed, the gunshots against the French of the hero De Tham in the mountains and forests of Yen The no longer echoed (1913), Phan Chau Trinh and Phan Boi Chau went looking for a way to save the country but never returned. The situation in our country at that time was heavy and gloomy. "Filled with national blood, the country is filled with soullessness -
The sound of roosters, the sky is dark" (Phan Boi Chau). The poetry of poets like Tan Da, Tran Tuan Khai... had to find a distant and insinuating way to convey their feelings and evoke love. The song "The Water Oath" by Tan Da and the song "Carrying Water at Night" by Tran Tuan Khai are multi-meaning poems, discreetly expressing passionate patriotism.
A space that is "far away", "hazy", the river is wide, the sky is late. In contrast to that dark, vast scene... there is only "you", alone the girl. Becoming smaller, lonely and isolated. The scene was deserted at night, the girl's body was miles away, and the "squeaking" sound of the shoulder pole was heard more clearly. The four-word poem has a rapid rhythm like the nervous and anxious breathing of a girl carrying water at night:
"I walked away
The road is far away
The river is misty
With a heavy burden, I returned home..."
The short poem of 4 words is gradually expanded to 10 words, 12 words, the reader can clearly and deeply feel the mood of the night water bearer:
"Turn your neck and look at the wide river and the late night sky
Because the water is shallow and heavy, I dare not call anyone."
The poem is like a sigh. So many difficulties: "It's late at night", "the river is wide", "the water is shallow", "it's heavy". Darkness seemed to surround us, because the river was wide and the water was deep, and the water was shallow, making carrying more water more difficult. The gesture "Turning the neck to look", shows loneliness, loneliness, waiting, searching. The "heaviness" of the shoulders is due to circumstances, so "don't you dare call anyone"', complaining without even daring to blame. The image of a girl carrying water late at night is the image of a patriot and revolutionary at that time; facing many difficulties, lonely, devoted to filial piety. That is the feeling of A Nam Tran Tuan Khai. He had much compassion for them. The road to national salvation in the years the poem was born was dark and far away - the poet accurately expressed the current historical situation. The mood and tone of the poem, the verses are sad and pessimistic... The most precious thing is the poet's heart that needs to know "When the Party was not yet born, the situation was as dark as if there was no way out..." (Ho Chi Minh)
There are so many examples of fervent patriotism. There are so many brave men who left their families and homeland, embraced their ambition and set out on the road. They are extraordinary people "wearing stones and patching up the sky", but if their great ambition fails, it is like working hard to fill the ocean with sand. Poetry inspiration originates from myths and folk songs, giving us many associations about an assessment: "thinking about regrets", "Who knows when this life will end?". These are respect, admiration, gratitude, concern. The pessimistic color of the times permeates the poem.
Even though the river is wide and it's late at night, I'm still committed, "I'll take on this role". The poem "The mountain water is burdened with the virtue of a good husband, is it good?" is an implicit verse, a valuable question. Those of you, those "husbands" who are still "sleeping peacefully in a tight life", should know that the heavy burden of water is still there, how can you let "The shy step of the night..."
Through that, we feel that the song "Carrying Water at Night" is not only a poem conveying patriotic feelings but also a provocative poem, awakening to the scene of "dry water" and "burden of young water"...
The historical situation at that time was dark and obscure, so the poem and the poet's mood were inevitably pessimistic and sad. The path to carry water is "far away", carrying water weighs heavily on her shoulders, but the girl "turns this shoulder" forward, even though "late at night she is shy". That is also the poet's belief about the path to salvation. water and the image of the person who saved the country, are very admirable with all gratitude and respect.
Xuan Dieu said that the song "Carrying Water at Night" was written to the tune of "Dang Moc Vaat Desert" (a Northern folk song). Short and long verses change. In addition to foot rhymes, the author also uses many back rhymes to create a rich and sexy tone:
"Looking back at the wide river at night...
I feel sorry for Mrs. Nuwa, who is carrying stones and mending the sky.
The shy step of a girl late at night...
The virtue of a good husband is very good."
"Night Water Carrying" has been applauded by readers and the press since its inception. Hoang Ngoc Phach respectfully invites readers to "enjoy a special literary style". A contemporary newspaper commented: "The poem Carrying Water has simple prose but a profound meaning..." Poet Xuan Dieu wrote: "Our country is independent, the short and small poem is still broad, deep and beautiful. ".
|
Bình giảng bài thơ Gánh nước đêm
Hướng dẫn
Bình giảng bài thơ Gánh nước đêm
Trần Tuấn Khải hay còn được gọi là Á Nam Trần Tuấn Khải, là nhà thơ cùng thời với thi sĩ Tản Đà. Thơ của Trần Tuấn Khải mang khuynh hướng chính là yêu nước và nỗi niềm tâm sự bất đắc chí của một tâm hồn yêu đời, yêu quê hương nhưng rồi buồn chán vì bất lực. Gánh nước đêm là một trong những sáng tác của những năm 1917, được, in trong tập “Duyên nợ phù sinh” (1921) chứa chan nặng tình non nước. Những câu thơ giản dị nhưng lại chứa một nỗi niềm sâu xa, khiến khi đọc,độc giả lại tưởng tượng ra nhiều ý nghĩa thú vị.
Mượn hình ảnh của cô gái gánh nước đêm khuya, tác giả đã kín đáo bộc bạch tâm sự của mình. Bài thơ Gánh nước đêm chính là sự trâm trọng cảm thương và kính phục những người yêu nước, những chiến sĩ cách mạng, ngầm thức tỉnh lòng yêu nước và tinh thần cứu nước. Hình ảnh của cô gái mỏng manh nhưng lại có sức gợi mạnh mẽ, càng đọc càng thấm thía sự tinh tế của tác giả trong bộc lộ tâm sự của mình qua từng câu từng chữ của bài thơ.Để thể hiện những sâu kín,tác giả Trần Tuấn Khải cùng với những nhà thơ cùng thơi như Phan Bội Châu hay Tản Đà, phải mượn đến những hình ảnh khác để nói bóng gió và khơi gợi lòng yêu nước thiết tha.
Mở đầu bài thơ là không gian hun hút, không biết điểm kết thúc là đâu, mờ mịt. Những từ ngữ như “xa tít”, “mù mịt”, sông thì rộng, trời thì khuya. Giữa cảnh không gian rộng lớn mênh mông ấy,hình ảnh cô gái chỉ có một mình bước đi trong khi trời mù mịt. hình ảnh cô gái lại càng có vẻ lẻ loi yếu đuối khi càng về đêm khuya thanh vắng, tiếng đòn gánh kéo kịt khiến cho sự thanh vắng tĩnh lặng càng trở nên rõ nét. Câu thơ bốn tiếng, nhịp thơ gấp như tiếng thở hồi hộp, lo âu của người con gái gánh nước đêm:
Con đường xa tít
Con sông mù mịt
Nặng gánh em trở ra về…”
Những câu thơ ngắn khiến nhịp thơ bỗng chùng lại, nhanh và dồn dập. Nó giống như tiếng chân bước đều đều trên con đường vắng lặng, xa tít tắp. Đường còn xa, con sông mù mịt,mỗi bước chân em như gợi ra một sự lo lắng,hồi hộp cho người đọc. Những câu thơ tiếp theo, không phải là những câu thơ ngắn nữa mà là được mở ra với những câu thơ dài hơn khiến người đọc cảm nhận rõ và sâu hơn tâm trạng người gánh nước đêm:
“Ngoảnh cổ trông sông rộng trời khuya
Vì chưng nước cạn, nặng nề em dám kêu ai”.
Giữa bao nhiêu khó khăn, những vần thơ như là một tiếng thở dài “Giời khuya”, “sông rộng”, “nước cạn”, “nặng nề”. Quanh “em” bóng tối như bủa vây, vì sông rộng và nước sâu, nước lại cạn thì việc gánh nước càng nhiều khó khăn hơn. Cử chỉ “Ngoảnh cổ trông”, biểu lộ nỗi cô đơn, lẻ loi, trông đợi, kiếm tìm cũng như bộc lộ sự buồn bã mênh mang của đất trời ảnh hưởng tới cả lòng người. Sự “nặng nề” đôi vai là do hoàn cảnh, nên “em dám kêu ai”’, than mà chẳng hề dám trách. Qua hình ảnh nhỏ nhắn của cô gái với hành động gánh nước đêm chính là hình ảnh người yêu nước, người làm cách mạng thời bấy giờ; gặp nhiều khó khăn, lẻ loi, tận lòng trung hiếu. Cách nói bóng gió của Tác giả Trần Tuấn Khải, cũng bộc lộ sự cảm thương sâu sắc cho số phận và hoàn cảnh của họ. Con đường cứu nước những năm bài thơ ra đời thật mù mịt và xa tít – Nhà thơ đã thể hiện đúng thực trạng lịch sử thời bây giờ. Tâm trạng và điệu thơ, vần thơ man mác buồn, bi quan thể hiện qua ngôn từ và giọng thơ.
Bao nhiêu khó khăn vất vả,sông rộng trời khuya nhưng “em” vẫn dấn thân “em trở vai này”. Câu thơ “Nước non gánh nặng cái đức ông chồng hay hỡi có hay?” là một câu thơ hàm ẩn, một câu hỏi có giá trị lay tỉnh. Câu thơ như muốn nhắn nhủ tới những người an phận hãy biết đứng lên để gánh nước non trên đôi vai, san sẻ vất vả, sao lại nỡ để “Cái bước đêm khuya thân gái ngại ngùng…”
Cái hay và sâu sắc của bài thơ chính là giá trị của nó,” Gánh nước đêm” không chỉ là bài thơ gửi gắm tâm sự yêu nước mà còn là bài thơ khêu gợi, thức tỉnh trước cảnh “nước cạn” và “nước non gánh nặng”…Hoàn cảnh lịch sử bấy giờ rối ren, mù mịt cho nên bài thơ và tâm trạng nhà thơ không tránh khỏi bi quan, buồn. Con đường gánh nước “xa tít”, gánh nước đè nặng đôi vai, mà cô gái “trở vai này” phải bước tiếp, dù “đêm khuya thân gái ngại ngùng”. Đây cũng là niềm tin của nhà thơ về con đường cứu nước và hình ảnh người cứu nước, rất đáng khâm phục với tất cả lòng biết ơn trân trọng.
Nguồn: Bài văn hay
|
Commentary on the poem Carrying Water at Night
Instruct
Commentary on the poem Carrying Water at Night
Tran Tuan Khai, also known as Asia Tran Tuan Khai, was a poet at the same time as poet Tan Da. Tran Tuan Khai's poetry has the main tendency of being patriotic and the frustrated feelings of a soul who loves life and homeland but is bored because of helplessness. Carrying Night Water is one of the compositions of the year 1917, published in the collection "Debt for Life" (1921) filled with love for the country. The verses are simple but contain a deep feeling, making readers imagine many interesting meanings when reading.
Borrowing the image of the girl carrying water late at night, the author discreetly confided his feelings. The poem Carrying Water at Night is an expression of compassion and admiration for patriots and revolutionary soldiers, implicitly awakening patriotism and the spirit of national salvation. The image of the girl is fragile but has a strong evocative power. The more I read, the more I understand the author's sophistication in expressing his feelings through each sentence and each word of the poem. To express the deepest secrets, the author Author Tran Tuan Khai, along with poets of his time such as Phan Boi Chau or Tan Da, had to borrow other images to allude to and evoke passionate patriotism.
The beginning of the poem is a captivating space, not knowing where the ending point is, unclear. Words like "far away", "mist", the river is wide, the sky is late. In the middle of that vast space, the image of a girl walking alone in the dark sky. The image of the girl seems even more lonely and weak as the night gets quieter, the sound of the pole pulling makes the silence and stillness become clearer. The four-word poem has a rapid rhythm like the nervous and anxious breathing of a girl carrying water at night:
The road is far away
The river is misty
With a heavy burden, I returned home..."
The short verses make the rhythm of the poem suddenly slow, fast and intense. It was like the sound of steady footsteps on a quiet, far away road. The road is still far, the river is foggy, each step seems to evoke anxiety and suspense in the reader. The next verses are no longer short verses but are opened with longer verses that help the reader feel more clearly and deeply the night water bearer's mood:
“Turn your neck and look at the wide river at night
Because the water is shallow and heavy, I dare not call anyone."
Amid so many difficulties, the poems are like a sigh: "It's late at night", "the river is wide", "the water is shallow", "it's heavy". Darkness surrounds "me", because the river is wide and the water is deep, and the water is shallow, making carrying more water more difficult. The gesture "Turning one's neck to look", shows loneliness, loneliness, waiting, searching as well as revealing the immense sadness of heaven and earth that affects the whole human heart. The "heaviness" of my shoulders is due to circumstances, so I "dare to call on anyone" and complain without even daring to blame. Through the small image of the girl carrying water at night is the image of a patriot and revolutionary at that time; facing many difficulties, lonely, devoted to filial piety. Author Tran Tuan Khai's allusive way of speaking also reveals his deep sympathy for their fate and circumstances. The road to national salvation in the years the poem was born was dark and far away - the poet accurately expressed the current historical situation. The mood and tone of the poem, the sad and pessimistic verses are expressed through the language and tone of the poem.
There are so many difficulties and hardships, the river is wide and the sky is late, but "I" am still committed, "I will take on this role". The poem "The country is burdened with the virtue of a good husband, is it good?" is an implicit poem, a question with awakening value. The poem seems to want to remind those who are destined to know how to stand up to carry the mountain water on their shoulders, share hardships, how can you bear to let "The step late at night makes a shy girl..."
The beauty and profoundness of the poem is its value, "Carrying Water at Night" is not only a poem conveying patriotic feelings but also a provocative poem, awakening to the scene of "dry water" and "water heavy burden"...The historical situation at that time was confusing and obscure, so the poem and the poet's mood could not avoid pessimism and sadness. The path to carry water is "far away", carrying water weighs heavily on her shoulders, but the girl "turning this shoulder" must continue, even though "late at night she is shy". This is also the poet's belief in the path to saving the country and the image of the person who saves the country, which is very admirable with all respectful gratitude.
Source: Good article
|
Đề bài: Bình giảng bài thơ Lai Tân của Hồ Chí Minh
Bài làm
Bài thất ngôn tứ tuyệt “Lai Tân" là bài thơ số 97 trong số 133 bài thơ của “Ngục trung nhật kí" của Hồ Chí Minh. Bài thơ số 98 sau đó, với nhan đề "Dáo Liễu Châu", tác giả ghi rõ ngày viết là 9-12-1942, có câu: “Mồng chín ta vừa đến Liễu Châu – Ngoảnh lại hơn trăm ngày ác mộng…". Từ nhà lao Thiên Giang, Bác Hồ viết bài "Thiên Giang ngục" ngày 1-12-1942 (bài 94), rồi bị giải đi Lai Tân bằng tàu hỏa, được ngồi trên đống than, Bác hóm hỉnh viết: “Nhưng so với đi bộ còn sang chán!". Qua đó, ta biết bài thơ “Lai Tân" được Hồ Chí Minh viết vào tuần đầu của tháng 12-1942. Vì là "Nhật kí…” nên phải tìm hiểu cặn kẽ như thế!
“Lai Tân" là một bài thơ nhằm tố cáo cái hiện thực xấu xa, thối nát của xã hội Trung Quốc thời ấy hay chỉ là tiếng cười châm biếm của nhà thơ về những “con người" trong đám chức sắc ở Lai Tân mà nhà thơ nhìn thấy? Một câu hỏi rất thú vị được đặt ra.
Đây là bản dịch bài thơ của Nam Trân:
"Ban trưởng nhà lao chuyên đánh bạc,
Giải người, Cảnh trưởng kiếm ăn quanh,
Chong đèn Huyện trưởng làm công việc,
Trời đất Lai Tân vẫn thái bình".
Lai Tân là một huyện thuộc tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc. Câu thơ thứ nhất nói về tên Ban trưởng – một tên cai ngục. Hắn không hung dữ, không quắt quay như những tên chúa ngục khác, mà chỉ "ngày ngày đánh bạc" (thiên thiên đổ). Hắn đã biến nhà tù thành một sòng bạc giữa thanh thiên bạch nhật. Nhà tù không phải là nơi cải tạo phạm nhân, không phải là nơi để thực thi luật pháp và công lí. Ban trưởng và tù nhân đều có vị thế như nhau: tất cả đều là con bạc, đều cùng hội đỏ đen, đang sát phạt lẫn nhau, cùng máu mê như nhau. Câu thơ chữ Hán nghĩa là: “Ban trưởng nhà giam ngày ngày đánh bạc” được dịch thành “Ban trưởng nhà lao chuyên đánh bạc" kể cũng hay, ở đây tiếng cười bật ra ở cái nghịch lí của sự vật, của con người, của hiện tượng mà nhà thơ nói đến, nhà thơ nhìn thấy, tiếng cười khẽ, thâm trầm, sâu sắc giàu trí tuệ.
Vì đã trải qua “hơn trăm ngày ác mộng", bị giải lui giải tới mấy chục nhà lao tỉnh Quảng Tây, Người đã nhìn thấy bao nghịch lí, nghịch cảnh của bức tranh tù ngục, "cái oái oăm của sự đời":
"Đánh bạc ở ngoài quan bắt tội,
Trong tù đánh bạc được công khai,
Vào tù con bạc ăn năn mãi:
Sao trước không vô quách chốn này!?".
( Đánh bạc)
Mỗi bức tranh là một tiếng cười khẽ, châm biếm nhẹ nhàng mà thâm thuý, bài thơ “đánh bạc" giúp ta cảm và hiểu sâu hơn, thú vị hơn bức chân dung “Ban trưởng nhà giam ngày ngày đánh bạc".
Câu thơ thứ 2, tác giả hình như nhìn thấy trên đường chuyển lao một cảnh sát trưởng:
“Cảnh trưởng tham thôn giải phạm tiền".
Nam Trân đã dịch: “Giải người, Cảnh trưởng kiếm ăn quanh".
Nguyên tác: Cảnh trưởng tham lam ăn tiền phạm nhân bị giải.
Câu 1 đối xứng với câu 2, mỗi bức chân dung biếm họa có một nét riêng. Ban trưởng thì lo ăn chơi cờ bạc. Cảnh trưởng thì trắng trợn “móc túi" ăn tiền phạm nhân. Chuyện bọn cai ngục, cảnh sát trưởng ăn tiền phạm nhân đã thành “lệ” mà nhà thơ đã nhiều phen trở thành “nạn nhân". “Mới đến nhà giam phải nộp tiền – Lệ thường ít nhất năm mươi nguyên" (“Tiền vào nhà giam"), “ Vào lao phải nộp khoan tiền đèn – Tiền Quảng Tây vừa đúng sáu nguyên" (“Tiền đèn").
Bình diện không gian xã hội trong bài thơ “Lai Tân" được mở rộng ở bức chân dung thứ ba:
“Huyện trưởng thiêu đăng biện công sự".
“’Thiêu đăng" là chong đèn, “biện công sự" nghĩa là làm việc công. Câu thơ dịch đã đảo việc công thành công việc. Những năm 60, nhiều bài viết về “Ngục trung nhật kí" đều cho rằng tên Huyện trưởng này chong đèn đêm đêm hút thuốc phiện, từ đó nhấn mạnh giá trị tố cáo hiện thực xấu xa, thôi nát của chính quyền Tưởng Giới Thạch. Sự thật không phải như thế, chính Hồ Chủ tịch đã lấy mực đỏ gạch bỏ ba chữ “hút thuốc phiện" trong bức thư của nhóm dịch giả gửi hỏi ý kiến Người.
Trong xã hội cũ, bọn quan lại tự cho mình là “phụ mẫu” của dân, là “đèn trời soi xét”. Trong câu thơ chữ Hán có một chữ “đăng” rất đặc biệt:
“Huyện trưởng thiêu đăng biện công sự".
Không phải là ngọn đèn công lí tỏa sáng vầng trán Huyện trưởng, một vị quan to mặt lớn quang minh chính đại? Ông ta có vẻ “mẫn cán" lắm, lo công việc quan suốt ngày chưa đủ, đêm đêm còn chong đèn làm việc công? Nhưng đâu phải thế, ông huyện trưởng Lai Tân là một kẻ rất quan liêu! Chuyện đánh bạc của Ban trưởng, chuyện ăn tiền phạm nhân bị giải của cảnh trưởng sờ sờ ra đó, sao ông ta không hay, sao ông ta không biết? Hay ông Huyện trưởng Lai Tân này là “cái ô” để bao che bọn thuộc hạ làm bậy “kiếm ăn quanh"!. Ba bức chân dung biếm họa song hành, cùng nối tiếp xuất hiện, mang một ý nghĩa thẩm mĩ đặc sắc, nó cho thấy một hệ thống quan lại Lai Tân là thế! Bộ máy quan liêu của chính quyền Quảng Tây thuở ấy là thế!
Trước những “gương mặt" ấy, thái độ nhà thơ như thế nào?
Câu cuối bài thơ, Người viết:
“Lai Tân y cựu thái bình thiên"
(Lai Tân vẫn thái bình như xưa).
Câu thơ toát lên một nụ cười châm biếm nhẹ nhàng mà sâu sắc. Nhà thơ như hỏi một cách bâng quơ: Lai Tân với hệ thống quan lại và chính quyền như vậy, thế mà!‘vẫn thái bình như xưa". Cách mỉa mai, châm biếm của tác giả “'Ngục trung nhật kí” là thế! Tính “hướng nội" của “Nhật kí trong tù” được thể hiện rất rõ về mặt đặc điểm thể loại, nó vừa là nhật kí lại vừa là thơ, chủ yếu là thơ trữ tình, tác giả viết cho mình, để mà suy ngẫm, để mà chiêm nghiệm, "Vừa ngẫm vừa đợi đến ngày tự do". Vì thế, bài thơ “Lai Tân" tuy có nêu ra ba chân dung về Ban trưởng, Cảnh trưởng, Huyện trưởng tiêu biểu cho cái xấu xa, đồi bại của bọn quan lại chính quyền Tưởng Giới Thạch thuở ấy, nhưng chỉ là để mỉa mai, châm biếm cái nghịch lí, nghịch cảnh mà nhà thơ đã và đang phải đối diện và cam chịu.
Đọc “Ngục trung nhật kí", ta bắt gặp một số “quan chức" nhân hậu, đáng yêu. Là Sở trưởng Long An họ Lưu “Ai ai cũng bảo bác công bình". Là Tiên sinh họ Quách “ân cần đối đãi ta". Là Trưởng ban họ Mạc “chẳng dùng quyền thế, chỉ dùng ân". Khoa viên họ Trần thì “nho nhã”, Chủ nhiệm họ Hầu thì “anh minh"… Cách nhìn của nhà thơ rất nhân hậu, trọng thị và công bằng, giữa cái xấu xa vẫn tìm thây cái tốt đẹp, cái tình người mà trân trọng. Chính nhờ những con người này, tấm lòng này, mà ta hiểu thêm cảm hứng chủ đạo bài thơ “Lai Tân": một nụ cười châm biếm tỏa rộng. Sau 3 chân dung biếm họa là một nhận xét trào lộng thâm trầm, sâu sắc. Nụ cười châm biếm trong bài thơ “Lai Tân” là nụ cười của một nhân cách văn hoá lớn: giàu trí tuệ và đạo đức cao đẹp.
Trong bài “Một tiếng nói hướng nội: Thế giới nhà tù và con người kiên nghị – trữ tình của tác giả ”, Trần Thị Băng Thanh và Nguyễn Huệ Chi có viết:
“Có khi điều trái ngược đã vượt ra khỏi khung cảnh một nhà tù, trở thành tính chất tiêu biểu cho cả xã hội Trung Hoa thời ấy (mà thật ra cũng chẳng riêng gì cho Trung Hoa và cho thời ấy): quan trên trì trệ, vô trách nhiệm, cấp dưới chỉ lo xoay xở kiếm ăn, mặc cho mọi tệ nạn cứ tự do hoành hành:
“Ban trưởng nhà lao chuyên đánh bạc,
Giải người Cảnh trưởng kiếm ăn quanh,
Chong đèn, Huvện trưởng bàn công việc,
Trời đất Lai Tân vẫn thái bĩnh”.
(Lai Tân)
Tất cả những việc kì cục bày ra trước mắt như thế có ý nghĩa gì?Phải chăng đây không là một sự “lưỡng phân" tiếp tục trong nhận thức của nhà thơ: ngay khi đã phải “nhập thân" vào thực tại như một hiện hữu không thể chối bỏ, ông vẫn lần lượt đi tìm ý nghĩa của cái thực và cái giả ở từng khía cạnh khác nhau và trong các hình thức tồn tại khác nhau hiển nhiên của nó, có khi điều rút ra là một nụ cười buồn…".
|
Đề bài: Bình giảng bài thơ Lai Tân của Hồ Chí Minh
Bài làm
Bài thất ngôn tứ tuyệt “Lai Tân" là bài thơ số 97 trong số 133 bài thơ của “Ngục trung nhật kí" của Hồ Chí Minh. Bài thơ số 98 sau đó, với nhan đề "Dáo Liễu Châu", tác giả ghi rõ ngày viết là 9-12-1942, có câu: “Mồng chín ta vừa đến Liễu Châu – Ngoảnh lại hơn trăm ngày ác mộng…". Từ nhà lao Thiên Giang, Bác Hồ viết bài "Thiên Giang ngục" ngày 1-12-1942 (bài 94), rồi bị giải đi Lai Tân bằng tàu hỏa, được ngồi trên đống than, Bác hóm hỉnh viết: “Nhưng so với đi bộ còn sang chán!". Qua đó, ta biết bài thơ “Lai Tân" được Hồ Chí Minh viết vào tuần đầu của tháng 12-1942. Vì là "Nhật kí…” nên phải tìm hiểu cặn kẽ như thế!
“Lai Tân" là một bài thơ nhằm tố cáo cái hiện thực xấu xa, thối nát của xã hội Trung Quốc thời ấy hay chỉ là tiếng cười châm biếm của nhà thơ về những “con người" trong đám chức sắc ở Lai Tân mà nhà thơ nhìn thấy? Một câu hỏi rất thú vị được đặt ra.
Đây là bản dịch bài thơ của Nam Trân:
"Ban trưởng nhà lao chuyên đánh bạc,
Giải người, Cảnh trưởng kiếm ăn quanh,
Chong đèn Huyện trưởng làm công việc,
Trời đất Lai Tân vẫn thái bình".
Lai Tân là một huyện thuộc tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc. Câu thơ thứ nhất nói về tên Ban trưởng – một tên cai ngục. Hắn không hung dữ, không quắt quay như những tên chúa ngục khác, mà chỉ "ngày ngày đánh bạc" (thiên thiên đổ). Hắn đã biến nhà tù thành một sòng bạc giữa thanh thiên bạch nhật. Nhà tù không phải là nơi cải tạo phạm nhân, không phải là nơi để thực thi luật pháp và công lí. Ban trưởng và tù nhân đều có vị thế như nhau: tất cả đều là con bạc, đều cùng hội đỏ đen, đang sát phạt lẫn nhau, cùng máu mê như nhau. Câu thơ chữ Hán nghĩa là: “Ban trưởng nhà giam ngày ngày đánh bạc” được dịch thành “Ban trưởng nhà lao chuyên đánh bạc" kể cũng hay, ở đây tiếng cười bật ra ở cái nghịch lí của sự vật, của con người, của hiện tượng mà nhà thơ nói đến, nhà thơ nhìn thấy, tiếng cười khẽ, thâm trầm, sâu sắc giàu trí tuệ.
Vì đã trải qua “hơn trăm ngày ác mộng", bị giải lui giải tới mấy chục nhà lao tỉnh Quảng Tây, Người đã nhìn thấy bao nghịch lí, nghịch cảnh của bức tranh tù ngục, "cái oái oăm của sự đời":
"Đánh bạc ở ngoài quan bắt tội,
Trong tù đánh bạc được công khai,
Vào tù con bạc ăn năn mãi:
Sao trước không vô quách chốn này!?".
( Đánh bạc)
Mỗi bức tranh là một tiếng cười khẽ, châm biếm nhẹ nhàng mà thâm thuý, bài thơ “đánh bạc" giúp ta cảm và hiểu sâu hơn, thú vị hơn bức chân dung “Ban trưởng nhà giam ngày ngày đánh bạc".
Câu thơ thứ 2, tác giả hình như nhìn thấy trên đường chuyển lao một cảnh sát trưởng:
“Cảnh trưởng tham thôn giải phạm tiền".
Nam Trân đã dịch: “Giải người, Cảnh trưởng kiếm ăn quanh".
Nguyên tác: Cảnh trưởng tham lam ăn tiền phạm nhân bị giải.
Câu 1 đối xứng với câu 2, mỗi bức chân dung biếm họa có một nét riêng. Ban trưởng thì lo ăn chơi cờ bạc. Cảnh trưởng thì trắng trợn “móc túi" ăn tiền phạm nhân. Chuyện bọn cai ngục, cảnh sát trưởng ăn tiền phạm nhân đã thành “lệ” mà nhà thơ đã nhiều phen trở thành “nạn nhân". “Mới đến nhà giam phải nộp tiền – Lệ thường ít nhất năm mươi nguyên" (“Tiền vào nhà giam"), “ Vào lao phải nộp khoan tiền đèn – Tiền Quảng Tây vừa đúng sáu nguyên" (“Tiền đèn").
Bình diện không gian xã hội trong bài thơ “Lai Tân" được mở rộng ở bức chân dung thứ ba:
“Huyện trưởng thiêu đăng biện công sự".
“’Thiêu đăng" là chong đèn, “biện công sự" nghĩa là làm việc công. Câu thơ dịch đã đảo việc công thành công việc. Những năm 60, nhiều bài viết về “Ngục trung nhật kí" đều cho rằng tên Huyện trưởng này chong đèn đêm đêm hút thuốc phiện, từ đó nhấn mạnh giá trị tố cáo hiện thực xấu xa, thôi nát của chính quyền Tưởng Giới Thạch. Sự thật không phải như thế, chính Hồ Chủ tịch đã lấy mực đỏ gạch bỏ ba chữ “hút thuốc phiện" trong bức thư của nhóm dịch giả gửi hỏi ý kiến Người.
Trong xã hội cũ, bọn quan lại tự cho mình là “phụ mẫu” của dân, là “đèn trời soi xét”. Trong câu thơ chữ Hán có một chữ “đăng” rất đặc biệt:
“Huyện trưởng thiêu đăng biện công sự".
Không phải là ngọn đèn công lí tỏa sáng vầng trán Huyện trưởng, một vị quan to mặt lớn quang minh chính đại? Ông ta có vẻ “mẫn cán" lắm, lo công việc quan suốt ngày chưa đủ, đêm đêm còn chong đèn làm việc công? Nhưng đâu phải thế, ông huyện trưởng Lai Tân là một kẻ rất quan liêu! Chuyện đánh bạc của Ban trưởng, chuyện ăn tiền phạm nhân bị giải của cảnh trưởng sờ sờ ra đó, sao ông ta không hay, sao ông ta không biết? Hay ông Huyện trưởng Lai Tân này là “cái ô” để bao che bọn thuộc hạ làm bậy “kiếm ăn quanh"!. Ba bức chân dung biếm họa song hành, cùng nối tiếp xuất hiện, mang một ý nghĩa thẩm mĩ đặc sắc, nó cho thấy một hệ thống quan lại Lai Tân là thế! Bộ máy quan liêu của chính quyền Quảng Tây thuở ấy là thế!
Trước những “gương mặt" ấy, thái độ nhà thơ như thế nào?
Câu cuối bài thơ, Người viết:
“Lai Tân y cựu thái bình thiên"
(Lai Tân vẫn thái bình như xưa).
Câu thơ toát lên một nụ cười châm biếm nhẹ nhàng mà sâu sắc. Nhà thơ như hỏi một cách bâng quơ: Lai Tân với hệ thống quan lại và chính quyền như vậy, thế mà!‘vẫn thái bình như xưa". Cách mỉa mai, châm biếm của tác giả “'Ngục trung nhật kí” là thế! Tính “hướng nội" của “Nhật kí trong tù” được thể hiện rất rõ về mặt đặc điểm thể loại, nó vừa là nhật kí lại vừa là thơ, chủ yếu là thơ trữ tình, tác giả viết cho mình, để mà suy ngẫm, để mà chiêm nghiệm, "Vừa ngẫm vừa đợi đến ngày tự do". Vì thế, bài thơ “Lai Tân" tuy có nêu ra ba chân dung về Ban trưởng, Cảnh trưởng, Huyện trưởng tiêu biểu cho cái xấu xa, đồi bại của bọn quan lại chính quyền Tưởng Giới Thạch thuở ấy, nhưng chỉ là để mỉa mai, châm biếm cái nghịch lí, nghịch cảnh mà nhà thơ đã và đang phải đối diện và cam chịu.
Đọc “Ngục trung nhật kí", ta bắt gặp một số “quan chức" nhân hậu, đáng yêu. Là Sở trưởng Long An họ Lưu “Ai ai cũng bảo bác công bình". Là Tiên sinh họ Quách “ân cần đối đãi ta". Là Trưởng ban họ Mạc “chẳng dùng quyền thế, chỉ dùng ân". Khoa viên họ Trần thì “nho nhã”, Chủ nhiệm họ Hầu thì “anh minh"… Cách nhìn của nhà thơ rất nhân hậu, trọng thị và công bằng, giữa cái xấu xa vẫn tìm thây cái tốt đẹp, cái tình người mà trân trọng. Chính nhờ những con người này, tấm lòng này, mà ta hiểu thêm cảm hứng chủ đạo bài thơ “Lai Tân": một nụ cười châm biếm tỏa rộng. Sau 3 chân dung biếm họa là một nhận xét trào lộng thâm trầm, sâu sắc. Nụ cười châm biếm trong bài thơ “Lai Tân” là nụ cười của một nhân cách văn hoá lớn: giàu trí tuệ và đạo đức cao đẹp.
Trong bài “Một tiếng nói hướng nội: Thế giới nhà tù và con người kiên nghị – trữ tình của tác giả ”, Trần Thị Băng Thanh và Nguyễn Huệ Chi có viết:
“Có khi điều trái ngược đã vượt ra khỏi khung cảnh một nhà tù, trở thành tính chất tiêu biểu cho cả xã hội Trung Hoa thời ấy (mà thật ra cũng chẳng riêng gì cho Trung Hoa và cho thời ấy): quan trên trì trệ, vô trách nhiệm, cấp dưới chỉ lo xoay xở kiếm ăn, mặc cho mọi tệ nạn cứ tự do hoành hành:
“Ban trưởng nhà lao chuyên đánh bạc,
Giải người Cảnh trưởng kiếm ăn quanh,
Chong đèn, Huvện trưởng bàn công việc,
Trời đất Lai Tân vẫn thái bĩnh”.
(Lai Tân)
Tất cả những việc kì cục bày ra trước mắt như thế có ý nghĩa gì?Phải chăng đây không là một sự “lưỡng phân" tiếp tục trong nhận thức của nhà thơ: ngay khi đã phải “nhập thân" vào thực tại như một hiện hữu không thể chối bỏ, ông vẫn lần lượt đi tìm ý nghĩa của cái thực và cái giả ở từng khía cạnh khác nhau và trong các hình thức tồn tại khác nhau hiển nhiên của nó, có khi điều rút ra là một nụ cười buồn…".
|
Bình giảng bài thơ Lai Tân
Hướng dẫn
Bình giảng bài thơ Lai Tân
Nhật kí trong tù (1942 – 1943) là tập thơ xuất sắc, giàu tính chiến đấu, chất trí tuệ và đậm chất trữ tình của nhà thơ lớn Hồ Chí Minh.Tập thơ có hình thức nhật kí, đa dạng về bút pháp, giọng điệu. Trong đó, nổi bật nhất là bút pháp tự sự trào phúng. Các tác phẩm sử dụng bút pháp tự sự trào phúng chủ yếu để chế giễu, châm biếm, lên án nhà tù và chế độ xã hội Trung Hoa dân quốc. Một trong những ví dụ tiêu biểu nhất là bài thơ “Lai Tân”.
Lai Tân là bài thơ được sáng tác trong khoảng thời gian bốn tháng đầu Hồ Chí Minh bị giam giữ tại các nhà tù quốc dân Đảng ở Quảng Tây, Trung Quốc. “Lai Tân” được viết theo thể thất ngôn tứ tuyệt, là bài thơ số 97 trong số 133 bài thơ của “Nhật ký trong tù” của Hồ Chí Minh. Bài thơ mang nội dung phê phán chế độ nhà tù và xã hội Trung Quốc với nghệ thuật châm biếm sắc sảo.
Lai Tân là một huyện thuộc tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc. Bối cảnh đầu bài thơ là một nhà tù ở Lai Tân, với kết cấu tự sự trào phúng, ba câu thơ đầu khắc họa hình ảnh và việc làm của 3 nhân vật có quyền hành lớn:
“Giam phòng ban trưởng thiên thiên đổ
Cảnh trưởng thư, thôn giải phạm tiền
Huyện trưởng thiêu đăng biện công sự”…
Câu thơ thứ nhất Hồ Chí Minh dành để nói về tên Ban trưởng – một tên cai ngục. Xuất hiện trong thơ của Hồ Chí Minh, tên cai ngục này không hung dữ, tàn bạo, hách dịch như những tên chúa ngục cửa quyền, tàn ác thường thấy, mà ngược lại, hắn chỉ ngày ngày đánh bạc. Bản dịch viết:
“Ban trưởng nhà lao chuyên đánh bạc”
Công việc của cai ngục là quản lý tù nhân, quản lý nhà tù, nhưng với tên cai ngục trong “Lai Tân” thì không!. Dưới bàn tay của hắn, nhà tù đã biến thành một sòng bạc giữa thanh thiên bạch nhật. Nhà tù không là là nơi cải tạo phạm nhân, không phải là nơi để thực thi luật pháp và công lý nữa, mà nó biến thành một song bạc- theo đúng nghĩa đen. Ở sòng bạc ấy, Ban trưởng và tù nhân đều có vị thế như nhau. Bởi vì tất cả đều là con bạc, đều cùng hội đỏ đen, đang sát phạt lẫn nhau, cùng máu mê như nhau.
Nghĩa gốc của câu thơ chữ Hán chỉ là “Ban trưởng nhà giam ngày ngày đánh bạc” được dịch thành “Ban trưởng nhà lao chuyên đánh bạc” chính là một điểm nhấn hay. Qua cách dịch mỉa mai này, tiếng cười bật ra ở cái nghịch lí của sự vật, của con người, của hiện tượng mà nhà thơ nói đến. Chúng ta như thấy được cái nhà thơ nhìn thấy, lại cũng bật cười theo tiếng cười khẽ, thâm trầm, sâu sắc giàu trí tuệ của chính nhà thơ.
“Cảnh trưởng tham thôn giải phạm tiền”.
Nghĩa là “Cảnh trưởng tham lam ăn tiền phạm nhân bị giải” được Nam Trân dịch thơ thành “Giải người, Cảnh trưởng kiếm ăn quanh”. Cách dịch thơ này không những sát nội dung câu thơ Hán mà còn tiến thêm một bước trong việc thể hiện sự mỉa mia, khinh bỉ hành động xấu xa, nhơ nhớp của tên cảnh sát trưởng chốn Lai Tân. Về kết cấu, câu một đối xứng với câu hai, mỗi bức chân dung biếm họa có một nét riêng, nhưng lại rất “ăn nhập”, rất hài hòa. Ban trưởng thì lo ăn chơi cờ bạc, Cảnh trưởng thì trắng trợn “móc túi” ăn tiền phạm nhân. Qua cách sử dụng từ “chuyên đánh bạc” và “kiếm ăn quanh” càng làm nổi bật ý thơ rằng chuyện bọn cai ngục, cảnh sát trưởng ăn tiền phạm nhân đã thành “lệ”. Thậm chí, đó giống như việc hiển nhiên, như chân lý rằng đó mới chính là công việc hằng ngày thực sự của bọn chúng vậy!
Bức tranh biếm họa ngày càng được phác họa rõ nét và đầy đủ qua câu thơ thứ ba:
“Huyện trưởng thiêu đăng biện công sự”.
Dịch thơ:
“ Chong đèn, huvện trưởng bàn công việc”
Câu thơ mở ra một ý mới, nói tới một nhân vật có quyền cao hơn ở ngoài phạm vi nhà giam, là người đứng đầu của huyện Lai Tân. “Thiêu đăng” ở đây là chong đèn, “biện công sự” nghĩa là làm việc công. Câu thơ dịch đã đảo việc công thành công việc. Câu thơ không khỏi làm người đọc băn khoăn! Phải chăng đây là một vị quan tốt, một vị quan mẫu cán biết lo cho nước cho dân? Không mắc phải những tật xấu, không dính đến những tội lỗi như bản trưởng, cảnh trưởng? Nhưng nếu đặt câu thơ trong mạch thơ xuyên suốt toàn bài, ta phát hiện ý châm biếm mỉa mai hết sức sâu cay. Nếu đây là một vị quan tốt, biết lo cho nước cho dân, làm việc không quản ngày đêm thì tại sao dưới quyền ông lại có những thuộc hạ mắc nhiều nhược điểm xấu xa?! Vậy ông chồng đèn làm công việc gì?
Trong xã hội cũ, quan lại tự cho mình là “phụ mẫu” của dân, là “đèn trời soi xét”. Thơ chữ Hán có một chữ “đăng” rất đặc biệt. Nhưng “đăng” ở đây không phải là ngọn đèn công lí tỏa sáng vầng trán Huyện trưởng, một vị quan to mặt lớn, anh minh, đường đường chính chính. Thoạt tiên, câu thơ miêu tả ông ta có vẻ “mẫn cán” lắm, lo công việc quan suốt ngày chưa đủ, đêm đêm còn chong đèn làm việc công, nhưng đâu phải thế, ông huyện trưởng Lai Tân là một kẻ rất quan liêu! Nếu không, chuyện đánh bạc của Ban trưởng, chuyện ăn tiền phạm nhân bị giải của cảnh trưởng sờ sờ ra đó, sao ông ta không hay, sao ông ta không biết? Hay ông Huyện trưởng Lai Tân này là “cái ô” để bao che bọn thuộc hạ làm bậy “kiếm ăn quanh”.
Qua ba câu thơ đầu, từ ba bức chân dung biếm họa song hành, cùng nối tiếp xuất hiện tạo nên một bức biếm họa lớn, hoàn chỉnh; mang một ý nghĩa thẩm mỹ đặc sắc, nó cho thấy một hệ thống quan lại Lai Tân nói riêng và bộ máy quan liêu của chính quyền Quảng Tây thời bấy giờ vô cùng mục ruỗng, thối nát, xấu xa đến tệ hại. Nhưng trước cái hiện thực tệ hại ấy, Hồ Chí Minh lại viết:
“Lai Tân y cựu thái bình thiên”
Được Nam Trân dịch thơ rằng:
“Trời đất Lai Tân vẫn thái bình”.
Nhịp thơ và giọng theo đột ngột thay đổi. Theo logic, người đọc chờ đợi ở câu kết một lời mỉa mai châm biếm, tố cáo mạnh mẽ mẽ, lên án quyết liệt tình trạng thối nát của bọn quan lại ở Lai Tân, nhưng Hồ Chí Minh lại hạ một câu thơ có vẻ hờ hững, dửng dưng vô cảm.Tuy nhiên, thực chất câu kết là đòn đánh rất hiểm mà trong văn chương xưa gọi là “tiền văn không đoán được hậu văn”. Câu thơ tuy nhẹ nhàng nhưng sức đã kích thật quyết liệt, nó cho thấy tình trạng thối nát của bọn quan lại ở Lai Tân diễn ra hết sức bình thường, không có gì là đặc biệt, là bất ngờ, không phải là chuyện của thời loạn. Tình hình của bọn quan lại ở Lai Tân xưa nay vẫn thế, cái guồng máy chính vẫn cứ thế mà vận hành. Ban trưởng cứ ngày ngày đánh bạc, cảnh trưởng cứ ăn tiền của dân lúc dẫn giải, huyện trưởng cứ đêm đêm chong đèn mà chẳng làm việc công. Hiện thực thối nát ấy rất đáng phê phán, đáng lên án quyết liệt, thế nhưng nó lại cứ vẫn diễn ra suốt bao năm như vậy, như thể tiền lệ, khiến người ta nhìn nhiều hóa quen, không còn thấy lạ lùng, cũng không cần căm phẫn nữa!
Chỉ vỏn vẹn qua bốn câu thơ, không cần nhiều lời cay nghiệt, không miêu tả cụ thể từng chi tiết mà toàn bộ bộ mặt xấu xa, thối nát xã hội Trung Quốc thời Tưởng Giới Thạch đã hiện lên một cách cụ thể sinh động. Đó chính là cái tài trong cách dụng thơ, cách dùng từ và cách vận dụng nghệ thuật tự sự trào phúng bậc thầy của Hồ Chí Minh. Có thể nói rằng “Lai Tân” là một tiếng cười đả kích xuất sắc của thơ Hồ Chí Minh trong “Nhật ký trong tù”: không đao to búa lớn, chỉ nhẹ nhàng mà thâm trầm sâu cay, có sức mạnh đã kích mãnh liệt nhắm thẳng vào đối tượng, mãi mãi về sau vẫn còn nguyên giá trị.
Nguồn: Bài văn hay
|
Bình giảng bài thơ Lai Tân
Hướng dẫn
Bình giảng bài thơ Lai Tân
Nhật kí trong tù (1942 – 1943) là tập thơ xuất sắc, giàu tính chiến đấu, chất trí tuệ và đậm chất trữ tình của nhà thơ lớn Hồ Chí Minh.Tập thơ có hình thức nhật kí, đa dạng về bút pháp, giọng điệu. Trong đó, nổi bật nhất là bút pháp tự sự trào phúng. Các tác phẩm sử dụng bút pháp tự sự trào phúng chủ yếu để chế giễu, châm biếm, lên án nhà tù và chế độ xã hội Trung Hoa dân quốc. Một trong những ví dụ tiêu biểu nhất là bài thơ “Lai Tân”.
Lai Tân là bài thơ được sáng tác trong khoảng thời gian bốn tháng đầu Hồ Chí Minh bị giam giữ tại các nhà tù quốc dân Đảng ở Quảng Tây, Trung Quốc. “Lai Tân” được viết theo thể thất ngôn tứ tuyệt, là bài thơ số 97 trong số 133 bài thơ của “Nhật ký trong tù” của Hồ Chí Minh. Bài thơ mang nội dung phê phán chế độ nhà tù và xã hội Trung Quốc với nghệ thuật châm biếm sắc sảo.
Lai Tân là một huyện thuộc tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc. Bối cảnh đầu bài thơ là một nhà tù ở Lai Tân, với kết cấu tự sự trào phúng, ba câu thơ đầu khắc họa hình ảnh và việc làm của 3 nhân vật có quyền hành lớn:
“Giam phòng ban trưởng thiên thiên đổ
Cảnh trưởng thư, thôn giải phạm tiền
Huyện trưởng thiêu đăng biện công sự”…
Câu thơ thứ nhất Hồ Chí Minh dành để nói về tên Ban trưởng – một tên cai ngục. Xuất hiện trong thơ của Hồ Chí Minh, tên cai ngục này không hung dữ, tàn bạo, hách dịch như những tên chúa ngục cửa quyền, tàn ác thường thấy, mà ngược lại, hắn chỉ ngày ngày đánh bạc. Bản dịch viết:
“Ban trưởng nhà lao chuyên đánh bạc”
Công việc của cai ngục là quản lý tù nhân, quản lý nhà tù, nhưng với tên cai ngục trong “Lai Tân” thì không!. Dưới bàn tay của hắn, nhà tù đã biến thành một sòng bạc giữa thanh thiên bạch nhật. Nhà tù không là là nơi cải tạo phạm nhân, không phải là nơi để thực thi luật pháp và công lý nữa, mà nó biến thành một song bạc- theo đúng nghĩa đen. Ở sòng bạc ấy, Ban trưởng và tù nhân đều có vị thế như nhau. Bởi vì tất cả đều là con bạc, đều cùng hội đỏ đen, đang sát phạt lẫn nhau, cùng máu mê như nhau.
Nghĩa gốc của câu thơ chữ Hán chỉ là “Ban trưởng nhà giam ngày ngày đánh bạc” được dịch thành “Ban trưởng nhà lao chuyên đánh bạc” chính là một điểm nhấn hay. Qua cách dịch mỉa mai này, tiếng cười bật ra ở cái nghịch lí của sự vật, của con người, của hiện tượng mà nhà thơ nói đến. Chúng ta như thấy được cái nhà thơ nhìn thấy, lại cũng bật cười theo tiếng cười khẽ, thâm trầm, sâu sắc giàu trí tuệ của chính nhà thơ.
“Cảnh trưởng tham thôn giải phạm tiền”.
Nghĩa là “Cảnh trưởng tham lam ăn tiền phạm nhân bị giải” được Nam Trân dịch thơ thành “Giải người, Cảnh trưởng kiếm ăn quanh”. Cách dịch thơ này không những sát nội dung câu thơ Hán mà còn tiến thêm một bước trong việc thể hiện sự mỉa mia, khinh bỉ hành động xấu xa, nhơ nhớp của tên cảnh sát trưởng chốn Lai Tân. Về kết cấu, câu một đối xứng với câu hai, mỗi bức chân dung biếm họa có một nét riêng, nhưng lại rất “ăn nhập”, rất hài hòa. Ban trưởng thì lo ăn chơi cờ bạc, Cảnh trưởng thì trắng trợn “móc túi” ăn tiền phạm nhân. Qua cách sử dụng từ “chuyên đánh bạc” và “kiếm ăn quanh” càng làm nổi bật ý thơ rằng chuyện bọn cai ngục, cảnh sát trưởng ăn tiền phạm nhân đã thành “lệ”. Thậm chí, đó giống như việc hiển nhiên, như chân lý rằng đó mới chính là công việc hằng ngày thực sự của bọn chúng vậy!
Bức tranh biếm họa ngày càng được phác họa rõ nét và đầy đủ qua câu thơ thứ ba:
“Huyện trưởng thiêu đăng biện công sự”.
Dịch thơ:
“ Chong đèn, huvện trưởng bàn công việc”
Câu thơ mở ra một ý mới, nói tới một nhân vật có quyền cao hơn ở ngoài phạm vi nhà giam, là người đứng đầu của huyện Lai Tân. “Thiêu đăng” ở đây là chong đèn, “biện công sự” nghĩa là làm việc công. Câu thơ dịch đã đảo việc công thành công việc. Câu thơ không khỏi làm người đọc băn khoăn! Phải chăng đây là một vị quan tốt, một vị quan mẫu cán biết lo cho nước cho dân? Không mắc phải những tật xấu, không dính đến những tội lỗi như bản trưởng, cảnh trưởng? Nhưng nếu đặt câu thơ trong mạch thơ xuyên suốt toàn bài, ta phát hiện ý châm biếm mỉa mai hết sức sâu cay. Nếu đây là một vị quan tốt, biết lo cho nước cho dân, làm việc không quản ngày đêm thì tại sao dưới quyền ông lại có những thuộc hạ mắc nhiều nhược điểm xấu xa?! Vậy ông chồng đèn làm công việc gì?
Trong xã hội cũ, quan lại tự cho mình là “phụ mẫu” của dân, là “đèn trời soi xét”. Thơ chữ Hán có một chữ “đăng” rất đặc biệt. Nhưng “đăng” ở đây không phải là ngọn đèn công lí tỏa sáng vầng trán Huyện trưởng, một vị quan to mặt lớn, anh minh, đường đường chính chính. Thoạt tiên, câu thơ miêu tả ông ta có vẻ “mẫn cán” lắm, lo công việc quan suốt ngày chưa đủ, đêm đêm còn chong đèn làm việc công, nhưng đâu phải thế, ông huyện trưởng Lai Tân là một kẻ rất quan liêu! Nếu không, chuyện đánh bạc của Ban trưởng, chuyện ăn tiền phạm nhân bị giải của cảnh trưởng sờ sờ ra đó, sao ông ta không hay, sao ông ta không biết? Hay ông Huyện trưởng Lai Tân này là “cái ô” để bao che bọn thuộc hạ làm bậy “kiếm ăn quanh”.
Qua ba câu thơ đầu, từ ba bức chân dung biếm họa song hành, cùng nối tiếp xuất hiện tạo nên một bức biếm họa lớn, hoàn chỉnh; mang một ý nghĩa thẩm mỹ đặc sắc, nó cho thấy một hệ thống quan lại Lai Tân nói riêng và bộ máy quan liêu của chính quyền Quảng Tây thời bấy giờ vô cùng mục ruỗng, thối nát, xấu xa đến tệ hại. Nhưng trước cái hiện thực tệ hại ấy, Hồ Chí Minh lại viết:
“Lai Tân y cựu thái bình thiên”
Được Nam Trân dịch thơ rằng:
“Trời đất Lai Tân vẫn thái bình”.
Nhịp thơ và giọng theo đột ngột thay đổi. Theo logic, người đọc chờ đợi ở câu kết một lời mỉa mai châm biếm, tố cáo mạnh mẽ mẽ, lên án quyết liệt tình trạng thối nát của bọn quan lại ở Lai Tân, nhưng Hồ Chí Minh lại hạ một câu thơ có vẻ hờ hững, dửng dưng vô cảm.Tuy nhiên, thực chất câu kết là đòn đánh rất hiểm mà trong văn chương xưa gọi là “tiền văn không đoán được hậu văn”. Câu thơ tuy nhẹ nhàng nhưng sức đã kích thật quyết liệt, nó cho thấy tình trạng thối nát của bọn quan lại ở Lai Tân diễn ra hết sức bình thường, không có gì là đặc biệt, là bất ngờ, không phải là chuyện của thời loạn. Tình hình của bọn quan lại ở Lai Tân xưa nay vẫn thế, cái guồng máy chính vẫn cứ thế mà vận hành. Ban trưởng cứ ngày ngày đánh bạc, cảnh trưởng cứ ăn tiền của dân lúc dẫn giải, huyện trưởng cứ đêm đêm chong đèn mà chẳng làm việc công. Hiện thực thối nát ấy rất đáng phê phán, đáng lên án quyết liệt, thế nhưng nó lại cứ vẫn diễn ra suốt bao năm như vậy, như thể tiền lệ, khiến người ta nhìn nhiều hóa quen, không còn thấy lạ lùng, cũng không cần căm phẫn nữa!
Chỉ vỏn vẹn qua bốn câu thơ, không cần nhiều lời cay nghiệt, không miêu tả cụ thể từng chi tiết mà toàn bộ bộ mặt xấu xa, thối nát xã hội Trung Quốc thời Tưởng Giới Thạch đã hiện lên một cách cụ thể sinh động. Đó chính là cái tài trong cách dụng thơ, cách dùng từ và cách vận dụng nghệ thuật tự sự trào phúng bậc thầy của Hồ Chí Minh. Có thể nói rằng “Lai Tân” là một tiếng cười đả kích xuất sắc của thơ Hồ Chí Minh trong “Nhật ký trong tù”: không đao to búa lớn, chỉ nhẹ nhàng mà thâm trầm sâu cay, có sức mạnh đã kích mãnh liệt nhắm thẳng vào đối tượng, mãi mãi về sau vẫn còn nguyên giá trị.
Nguồn: Bài văn hay
|
Đề bài: Bình giảng bài thơ Mây và sóng của đại thi hào Ta – go
Bài làm
Ta-go (1861 – 1941) là đại thi hào của đất nước Ấn Độ. Ông là nhà thơ, nhà văn, họa sĩ… Năm 1913, với tập thơ Thơ Dâng (Gitanjali), ông được giải thưởng Nô-ben – Giải thưởng văn chương. Nhân dân Ấn Độ vô cùng tự hào về Ta-go. Tên tuổi thi hào đã rạng rỡ quê hương xứ sở. Thơ của Ta-go là “bài ca về tình nhân ái", là “ước mơ vù khát vụng về tự do, hạnh phúc". Ông để lại hàng nghìn bài thơ tựa như “hoa th(fm, trái ngọt đôi bờ sông Hằng" đã làm phong phú tâm hồn nhân dân Ấn Độ.
Ông đem tấm lòng thương yêu mênh mông đến với trẻ em. Ông có hàng trăm bài thơ viết về tuổi thơ bằng những hình tượng tuyệt vời với tấm lòng nhân hậu bao la. Đó là một “thế giới thơ ngây", một “miền thơ ấu êm đẹp và dịu hiền". Ông đã viết:
…Những người đi tìm ngọc
thì lặn xuống mò ngọc trai.
Còn những người lái buôn
Dong thuyền của họ
Trong khi đó thì các em
Các em nhặt những viên đá cuội rồi lại ném đi…
(Trên bờ biển)
Mây và Sóng là bài thơ nổi tiếng của Ta-go rút trong tập thơ Trăng non xuất bản năm 1915. Qua bản dịch thơ của Nguyễn Đình Thi, ta cảm nhận về một thế giới tâm hồn tuổi thơ kỳ diệu của em bé thông minh, hiếu thảo đang sống hạnh phúc bên mẹ hiền. Bài thơ là câu chuyện tâm tình của em bé ngây thơ với mẹ về những giây phút giao cảm thần tiên của em với thiên nhiên, với mây và sóng. Mây và sóng đang thủ thỉ trò chuyện với em.
Với mây: bằng trí tưởng tượng tuyệt vời vô biên, em bé đang chơi đùa với mẹ. Bỗng em ngước mắt nhìn trời xanh, lắng nghe mây trên chín tầng cao vẫy gọi. Mây ân cần rủ em bé cùng du ngoạn “từ tinh mơ đến hết ngày" cùng nhau thỏa thích vui chơi "giỡn với sớm vàng" và "đùa cùng trăng bạc”, từ lúc bình minh cho đến tận đêm khi trăng lên. Mây trở thành nhân vật trữ tình, được nhân hóa, có gương mặt nụ cười và giọng nói thủ thỉ, tâm tình. Mây, trăng bạc, sớm vàng (rạng đông) là những hiện tượng thiên nhiên mà con người từ xưa tới nay, lừ em bé tới cụ già, từ người dân thường đến các nghệ sĩ, các tao nhân mặc khách,… ai cũng thích chiêm ngưỡng và khám phá vẻ đẹp huyền diệu và sự vĩnh hằng của nó.
Tâm hồn tuổi thơ vốn hồn nhiên, trong sáng và giàu trí tưởng tượng. Vì thế cm bé “trò chuyện” với mây và muốn được cùng mây đi chơi đó đây. Nhưng có tình yêu nào mãnh liệt hơn, đằm thắm hơn tình yêu mẹ của đứa con ngoan? Từ thích thú muốn được đi chơi cùng mây, em bé phân vân, lưỡng lự rồi lừ chối: "Nhưng mà làm thế nào tôi lên trên ấy được?’’, và "Mẹ đợi tôi ở nhà, tôi có lòng nào bỏ được mẹ tôi?".
Tình yêu mẹ là tình cảm rất sâu sắc, rất đẹp của con người, đó là điều mà thi hào Ta-go muốn tâm sự với các em bé gần xa trên trái đất. Yêu mẹ cha, yêu anh chị em, yêu căn nhà êm ấm, yêu những kỉ niệm tuổi thơ… là những tình cảm đằm thắm, đầy ắp trong tâm hồn em bé ngây thơ đang trò chuyện với áng mây trời. Và đó cũng là cảm xúc chủ đạo của bài thơ Mây và sóng.
Có gì sung sướng hơn khi:
Con làm mây nhé, mẹ làm mặt trăng
Hai tay con ôm mặt mẹ, còn mái nhà ta là trời xanh…
Với sóng, có nhà thơ Việt Nam đã viết:
Sóng bắt đầu từ gió Gió bắt đầu từ đâu…
(Sóng – Xuân Quỳnh)
Trong bài thơ của Ta-go, sóng như vị sứ giả của đại dương xa xôi đến với em bé. Sóng reo rì rầm. Sóng vẫy gọi chào mời em bé. Tuổi thơ nào mà chẳng từng khát khao, mơ ước? Sóng thủ thỉ cùng với em bé về một cuộc viễn du: ‘‘Chúng ta ca hát sớm chiều, chúng ta đi mãi mãi”, và rồi “cứ đi đến bờ biển…sóng sẽ cuốn con đi" đến mọi bến bờ, mọi chân trời xa lạ. Đây là một câu thơ diễn tả hình tượng con sóng vỗ vào bờ, liếm vào bãi cát, rồi lại rút ra xa, lại vồ vào… và cái nhìn lưu luyến, băn khoăn của em bé theo con sóng xa vời trên biển:
Họ (sóng) bèn mỉm cười, và nhảy nhót, họ dần đi xa Mơ ước được đi xa, nhưng rồi em bé lại đắn đo, băn khoăn. Em đã không thể đi du ngoạn cùng mây (bay cao) nên em cũng không thể đi chơi với sóng (đi xa). Với em, chỉ có mẹ, nguồn vui cao cả thiêng liêng mà tạo hóa đã dành cho phần hơn: tình mẫu tử. Em không nỡ để mẹ nhớ, mẹ buồn. Em cũng không thể nào "rời mẹ ” một giây, một phút. Niềm vui cứ chói ngời mãi hồn em:
Con làm sóng nhé, mẹ làm mặt biển
Con lăn, lăn như làn sóng vỗ, tiếng con cười giòn tan vào gối mẹ.
Và không ai trên đời này biết được là mẹ con ta đang ở đâu…
Câu thơ "Con làm sóng nhé, mẹ làm mặt biển" là một câu thơ hàm nghĩa, giàu tính triết lý. Không có mặt biển thì không thể có sóng. Có biển mới có sóng, cũng như có mẹ mới có con. Lúc sóng vỗ cũng là lúc biển hát. Lúc "con cười giòn tan vào gối mẹ” là lúc mẹ vô cùng sung sướng. Vì thế, con ngoan và vui chơi là lòng mẹ hạnh phúc. Qua đó, ta thấy nhà thơ lấy sóng và biển để nói với tuổi thơ bao điều.
Tính độc đáo của bài thơ là ở cấu trúc bằng 2 mẩu đối thoại giữa em bé với mây và sóng và lồng vào đó là tiếng nói thủ thỉ của cm với mẹ yêu thương. Một bài thơ trong sáng và đẹp như mây, như sóng, nói về miền sâu kín nhất, đằm thắm nhất của tâm hồn tuổi thơ. Yêu thiên nhiên, trí tưởng tượng phong phú, thích phiêu lưu mạo hiểm là đời sống tinh thần tuổi thơ ấu. Em bé được nói đến trong bài thơ này rất yêu thương mẹ. Cánh chim còn non yếu nên chưa dám bay cao cùng mây, chưa thể đi xa cùng sóng, mặc dù em có nhiều mơ mộng, nhiều khát khao muốn đi tới mọi chân trời góc biển.
Bài thơ Mây và Sóng thật đặc sắc và giàu ý nghĩa, lấp lánh vẻ đẹp nhân văn của một hồn thơ vĩ đại.
|
Topic: Commentary on the poem Clouds and Waves by the great poet Ta-go
Assignment
Ta-go (1861 - 1941) was a great poet of India. He is a poet, writer, painter... In 1913, with his poetry collection Tho Dang (Gitanjali), he received the Nobel Prize - Literary Award. Indian people are extremely proud of Tago. The poet's name has brightened his homeland. Ta-go's poetry is a "song of compassion" and a "clumsy dream of freedom and happiness". He left behind thousands of poems like "flowers, sweet fruits on the banks of the Ganges River" that have enriched the souls of the Indian people.
He brings immense love to children. He has hundreds of poems written about childhood using wonderful images and immense kindness. It is an "innocent world", a "beautiful and gentle childhood". He wrote:
…Jewel seekers
then dive down to look for pearls.
And the merchants
Sailing their boat
Meanwhile, you guys
The children picked up the pebbles and then threw them away...
(On the beach)
Clouds and Waves is a famous poem by Ta-go drawn from the poetry collection New Moon published in 1915. Through Nguyen Dinh Thi's translation of the poem, we feel the magical world of childhood's soul of a smart baby. , filial and living happily with his kind mother. The poem is the story of an innocent baby's confession to his mother about his magical moments of communion with nature, clouds and waves. The clouds and waves are whispering and talking to me.
With clouds: with boundless wonderful imagination, the baby is playing with his mother. Suddenly I raised my eyes to the blue sky, listening to the clouds nine floors high calling. May kindly invites the baby to travel "from dawn until the end of the day" together, enjoying "playing with the golden morning" and "playing with the silver moon", from dawn until night when the moon rises. Cloud becomes a lyrical character, personified, with a smiling face and a cooing, confiding voice. Clouds, silver moon, golden morning (dawn) are natural phenomena that people from ancient times to present, from babies to old people, from ordinary people to artists, guests,... everyone. love to admire and explore its magical beauty and eternity.
The soul of childhood is innocent, pure and rich in imagination. Therefore, the baby "talks" to the clouds and wants to go out here and there with the clouds. But is there any stronger, more loving love than the mother's love of a good child? From the excitement of wanting to go out with the clouds, the baby hesitated, hesitated, then refused: "But how can I get up there?", and "Mom is waiting for me at home, how can I give up?" my mother?".
Mother's love is a very deep, very beautiful human feeling, which is what the poet Ta-go wants to confide in with children near and far on earth. Love for parents, love for siblings, love for a warm home, love for childhood memories... are the loving feelings, filled in the soul of an innocent baby talking to the clouds and sky. And that is also the main emotion of the poem Clouds and Waves.
What could be more joyful than when:
You will be the clouds, I will be the moon
My hands hold my mother's face, and my roof is the blue sky...
With waves, a Vietnamese poet wrote:
Waves start from the wind Where does the wind start...
(Waves – Xuan Quynh)
In Ta-go's poem, the waves are like messengers of the distant ocean coming to the baby. The waves roared. The waves beckon and welcome the baby. What childhood has never had desires and dreams? The waves whisper to the baby about a journey: ''We sing morning and evening, we go forever'', and then 'just go to the beach...the waves will carry you away' to every shore, every place. strange horizon. This is a poem that describes the image of waves hitting the shore, licking the sand, then withdrawing again, plunging in again... and the lingering, anxious look of a baby following the distant waves. Great at sea:
They (the waves) then smiled, and danced, they gradually went away. Dreaming of going far, but then the baby hesitated and wondered. I couldn't travel with the clouds (fly high), so I couldn't go out with the waves (go far). For me, there is only mother, the source of noble and sacred joy that the Creator has reserved for the better part: motherly love. I can't bear to let my mother remember, she's sad. I can't "leave my mother" for a second, a minute. Joy keeps shining in my soul:
You make the waves, I make the sea surface
I roll, roll like a wave, my laughter melts into my mother's pillow.
And no one in this world knows where we are...
The poem "Children make waves, mother makes the sea surface" is a meaningful poem, rich in philosophy. Without the sea surface, there cannot be waves. Where there is a sea, there are waves, just like where there is a mother, there are children. When the waves crash, the sea sings. When "you laugh into my mother's pillow" is when the mother is extremely happy. Therefore, when the child is good and plays, the mother's heart is happy. Through this, we see that the poet uses the waves and the sea to tell many things to childhood. .
The uniqueness of the poem lies in its structure of two dialogues between the baby and the clouds and waves, and embedded in them is the cooing voice of cm with her loving mother. A poem as pure and beautiful as clouds and waves, talking about the deepest, most loving region of the childhood soul. Love of nature, rich imagination, and love of adventure are the spiritual life of childhood. The baby mentioned in this poem loves his mother very much. The bird's wings are still weak, so they don't dare to fly high with the clouds, can't go far with the waves, even though I have many dreams and desires to go to every horizon and corner of the sea.
The poem Clouds and Waves is unique and rich in meaning, sparkling with the humanistic beauty of a great poetic soul.
|
Đề bài: Bình giảng bài thơ Mùa xuân chín của Hàn Mặc Tử
Bài làm
Không biết mùa xuân có tự bao giờ và thơ xuân có tự bao giờ, chỉ biết người ta sinh ra đã có mùa xuân đẹp đầy sức sống và thổi vào các hồn thơ, sống trong cuộc đời, nếu thiếu đi mùa xuân, thiếu đi những câu thơ xuân thì thật buồn. Hôm qua, hôm nay và ngày mai kia lại có những vần thơ xuân cho con người, cho cuộc sống. Và hôm qua đã có Hàn Mặc Tử với "Mùa xuân chín" khi cảm xúc trong con người lữ khách đó đã đến độ tràn đầy.
Nói đến mùa xuân, có ai không hiểu đó là những phút rạo rực nhất của cuộc đời, của cuộc sống. Mùa xuân mỗi khoảnh khắc một vẻ, lúc là "mùa xuân nho nhỏ", lúc là "mùa xuân xanh"… và đây "Mùa xuân chín" nghe vừa mới, vừa sôi nổi, vừa có một sức sống dồn nén đang thầm nảy nở giống như cái mới, cái lãng mạn và khao khát trong tâm hồn Hàn Mạc Tử.
Mỗi dòng thơ đều phảng phất hơi xuân, đều thấm đượm cái đẹp của tâm hồn thi sĩ. Mùa xuân bắt đầu từ cái nắng mới lạ thường:
"Trong làn nắng ửng khói mơ tan
Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng
Sột soạt gió trêu tà áo biếc
Trên giàn thiên lí bóng xuân sang".
Đúng là nắng xuân, chẳng phải tia nắng, hạt nắng, chẳng phải giọt nắng mà là "làn nắng". Chữ "làn" như gợi một hơi thở nhẹ nhàng, nắng như mỏng tang, mềm mại trải đều trong thơ và trong không gian. Làn nắng lại "ửng" lên trong "khói mơ tan". Cảnh sắc nhẹ nhàng, đẹp dân dã mà huyền diệu. Sương khói quyện với nắng; cái "ửng" của nắng được tôn lên trong làn khói mơ màng đang "tan" ấy. Ngòi bút thi sĩ vẫn hướng đến một nét thơ truyền thống, cổ điển, cảnh như có hồn, như có tình chan chứa. Trân trọng đón lấy cái nắng mới tinh khiết ấy là "Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng'!. Sự hô ứng trong vần thơ tạo ra một cảm xúc ấm áp, cảnh vật cân xứng hài hòa, đầy thơ mộng. Vài nét chấm phá đơn sơ mà tinh tế gợi cảm, dung dị mà đáng yêu. Chỉ có "đôi mái nhà tranh" hiện lên trong "làn nắng ửng" nhưng vẫn gợi lên một sức sống đang lay động, dân dã bình yên rất thân thuộc với mọi người. Nắng như đang rắc lên "đôi mái nhà tranh" chút sắc xuân và hương xuân: "Sột soạt gió trêu tà áo biếc". Cái âm thanh của gió "trêu" tà áo và cái gam màu "biếc" của, lá ây là cái tình xuân. Một chữ "trêu" đáng yêu quá, thân thương quá, có gì như mang hương sắc đồng quê từ những câu ca dao, hát ghẹo tình tứ thuở nào cứ ngân nga mãi trong lòng ta… Gió cũng chọn áo mà "trêu", phải chọn áo biếc mới thật thơ, thật đẹp. Mùa xuân là như thế, "chín" là như thế!
Từ cụ thể, từ làn nắng, từ mái nhà tranh, từ gió rồi mới khái quát: "Trên giàn thiên lý. Bóng xuân sang". Câu thơ có một sự ngưng đọng, ngập ngừng cảm xúc nhẹ nhàng, bâng khuâng, vấn vương đón “bóng xuân sang", cảm xúc ngưng tụ như nín thở ấy ẩn mình vào dấu chấm giữa dòng thơ. Mạch thơ ngập ngừng như mạch cảm xúc. Bên giàn thiên lí, mùa xuân đã sang. Mùa xuân nhẹ nhàng bước… như có thể cầm được, có thể ngắm được ngay trước mắt mỗi chúng ta.
Sau dấu châ'm (.), sau cái ngưng tụ và run rẩy như dây đàn căng lên trong tâm hồn nhà th ơ thì mùa xuân ào đến:
"Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời,
Bao cô thôn nữ hát trên đồi".
Cỏ như xanh mãi, tươi mãi trong không gian mênh mông, bao la. Hình ảnh ẩn dụ "sóng cỏ" và ba chữ "gợn tới trời" gợi tả làn cỏ xanh dập dờn trong làn gió xuân nhè nhẹ thổi. Chẳng biết ngoài kia là sóng cỏ thật, hay lòng thi sĩ cỏ xanh tươi mới gợn thành "sóng" như thế? Mùa xuân bao giờ chẳng có màu xanh của cỏ. "Cỏ xanh như khói bến xuân tươi" (Độ đầu xuân thảo lục như yên – Nguyễn Trãi). "Cỏ non xanh tận chân trời" (Nguyễn Du)… Gam màu "xanh tươi" đầy sức sống yên bình ấy trong thơ Hàn Mặc Tử cứ gợn tới trời", trải dài mãi như không dứt, trải mãi, ngâm vào hồn thơ. Trong sắc xuân ấy, tình cảm con người cũng đến độ chín. Tiếng hát giữa mùa xuân thân quen quá, yêu thương quá. Một nét đẹp truyền thống của dân tộc, đẹp như ca dao, dân ca, như lễ hội mùa xuân muôn thuở của cái xứ sở này được nói đến qua tiếng hát "vắt vẻo" và "thơ ngây" của những nàng xuân, của bao cô thôn nữ. Câu thơ gợi lên cái "chín" trong hồn bao cô thôn nữ qua âm thanh “vắt vẻo", trong trẻo, tươi mát của câu hát giao duyên, của trai gái nơi đồng quê, mộc mạc mà tình tứ. Tâm hồn nhạy cảm, yêu cuộc sống thiết tha của thi sĩ Hàn Mặc Tử đã bắt vào lời hát ấy nhiều xao xuyến. Mùa xuân mới thực sự "chín" khi có con người và có dư âm tiếng hát:
"Tiếng ca vắt vẻo lưng chừng núi,
Hổn hển như lời của nước mây
Thầm thì với ai ngồi dưới trúc
Nghe ra ý vị và thơ ngây".
Âm thanh đọng lại trong từng tiếng thơ, độ ngân rung, "vắt vẻo" hòa nhịp với âm trầm "hổn hển" thể hiện một sự chuyển đổi cảm giác rất tinh tế, tài tình. Tâm hồn thi sĩ đã hòa nhập hẳn vào cái thế giới âm thanh mùa xuân ấy.
Tiếng ca như vút lên cao, như ngập ngừng, như lưu luyến giữa "lưng chừng núi". Dư âm tiếng hát dường như giăng mắc, rung lên “vắt vẻo" gợi lên nhiều xao xuyến bâng khuâng trong lòng nhà thơ. Tiếng hát "hổn hển" được so sánh "với lời của nước mây", lời của thiên nhiên. Hai tiếng "hổn hển" như nhịp thở gấp gáp, vội vàng đầy hương xuân, tình xuân, cảm xúc vừa thực vừa mơ đến lạ kì. Lời hát của các cô thôn nữ sao mà đáng yêu thế, như hút hồn người, như tràn ngập cả không gian, góp phần làm nên một "mùa xuân chín". Và còn có tiếng thầm thì "thầm thì với ai…" dưới bóng trúc, hẳn là tâm sự, là thân thương rồi. "Vắt vẻo”, "hổn hển", "thầm thì" là ba cung bậc của ba âm thanh mùa xuân đang chín, thấm sâu vào hồn người đến nhẹ nhàng lắng dịu, chan chứa thương yêu. Sự phong phú về giai điệu và phức điệu của khúc hát đồng quê, làm say mê mọi người, để rồi cùng nhà thơ bâng khuâng cảm nhận: "Nghe ra ý vị và thơ ngây…".
Tiếng hát mùa xuân dân dã, tình tứ và đáng yêu quá, sắc xuân, hương xuân, tình xuân "đang chín" dần trong lòng thôn nữ, bỗng ngập ngừng như có sự hẫng hụt, băn khoăn:
"Ngày mai trong đám xuân xanh ấy,
Có kẻ theo chồng, bỏ cuộc chơi".
"Đám xuân xanh ấy" là các cô thôn nữ đang hát, đang "thầm thì với ai ngồi dưới trúc" kia sẽ chín cùng mùa xuân và sẽ "theo chồng bỏ cuộc chơi… Thiên nhiên và lòng người như quyến luyến mùa xuân dần trôi qua, tuổi xuân hồn nhiên dần trôi qua. Hàn Mặc Tử như chợt thấy buồn, thấy hẫng hụt, bâng khuâng, như mất mát đi một cái gì trong lòng khi mùa xuân đang chín… "Xuân đang tới nghĩa là xuân đương qua – Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già" (Xuân Diệu).
Hàn Mặc Tử chính là người lữ khách đi qua mùa xuân gặp cái ý vị của mùa xuân: "Khách xa gặp lúc mùa xuân chín…". Một nét bút truyền thống cổ điển "xuân hướng lão" xen lẫn cái hiện đại, mới mẻ làm cho ý thơ thêm đậm đà hơn.
Gặp lúc mùa xuân chín ấy mà thổn thức:
"Lòng trí bâng khuâng sực nhớ làng
Chị ấy năm nay còn gánh thóc
Dọc bờ sông trắng nắng chang chang".
Hình ảnh của kí ức hiện lên một thoáng buồn đẹp và trải rộng mênh mông xa vắng. Nhà thơ nhớ đến con người như khao khát một tình người, một tình quê. Mỗi một nổi nhớ đều rất bâng khuâng. Nhớ một công việc cụ thể: "gánh thóc" trong một không gian cụ thể: "Dọc bờ sông trắng nắng chang chang". Chỉ có "chị ấy" là người đọc không thể biết mà chỉ có tác giả mới biết để mà "sực nhớ", mà thầm hỏi. Mà man mác sợ "mùa xuân chín" ấy sẽ trôi qua. Hình như đó là néi thơ Hàn Mặc Tử, là tâm hồn Hàn Mặc Tử khao khát giao cảm với đời mà luôn có một nỗi niềm cô đơn, trống vắng, hẫng hụt như thế.
"Mùa xuân chín" là một bài thơ xuân rất hay, là một bức tranh xuân mới nhất, trong sáng, rạo rực, say mê, thơ mộng mà thoáng buồn nhất. Hàn Mặc Tử vơi cảm hứng thiên nhiên trữ tình, màu sắc cổ điển hài hòa với chất dân dã, trẻ trung bình dị đã làm hiện lên một bức tranh xuân tươi tắn thơ mộng. Mùa xuân đẹp. Con người trẻ trung, hồn nhiên, xinh đẹp, đáng yêu. Yêu mùa xuân chín cũng là yêu đồng quê, yêu làn nắng ửng, yêu mái nhà tranh, yêu giàn thiên lí, yêu tiếng hát vắt vẻo của những nàng xuân trên "sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời”.
"Mùa xuân chín" lúc thì dạt dào, lúc thì lắng dịu trong tâm hồn thi sĩ. Có lúc vồn vã, có lúc mênh mang, như đang lắng hồn mình vào bước đi của mùa xuân rồi bồi hồi, "sực nhớ… " và "bâng khuâng". Cái nhớ bâng khuâng của người lữ khách mãi mãi là tình thương mến, nỗi khát khao giao cảm với hương sắc và khúc nhạc mùa xuân, với làng quê thân thuộc nơi miền Trung "Dọc bờ sông trắng nắng chang chang"…
|
Đề bài: Bình giảng bài thơ Mùa xuân chín của Hàn Mặc Tử
Bài làm
Không biết mùa xuân có tự bao giờ và thơ xuân có tự bao giờ, chỉ biết người ta sinh ra đã có mùa xuân đẹp đầy sức sống và thổi vào các hồn thơ, sống trong cuộc đời, nếu thiếu đi mùa xuân, thiếu đi những câu thơ xuân thì thật buồn. Hôm qua, hôm nay và ngày mai kia lại có những vần thơ xuân cho con người, cho cuộc sống. Và hôm qua đã có Hàn Mặc Tử với "Mùa xuân chín" khi cảm xúc trong con người lữ khách đó đã đến độ tràn đầy.
Nói đến mùa xuân, có ai không hiểu đó là những phút rạo rực nhất của cuộc đời, của cuộc sống. Mùa xuân mỗi khoảnh khắc một vẻ, lúc là "mùa xuân nho nhỏ", lúc là "mùa xuân xanh"… và đây "Mùa xuân chín" nghe vừa mới, vừa sôi nổi, vừa có một sức sống dồn nén đang thầm nảy nở giống như cái mới, cái lãng mạn và khao khát trong tâm hồn Hàn Mạc Tử.
Mỗi dòng thơ đều phảng phất hơi xuân, đều thấm đượm cái đẹp của tâm hồn thi sĩ. Mùa xuân bắt đầu từ cái nắng mới lạ thường:
"Trong làn nắng ửng khói mơ tan
Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng
Sột soạt gió trêu tà áo biếc
Trên giàn thiên lí bóng xuân sang".
Đúng là nắng xuân, chẳng phải tia nắng, hạt nắng, chẳng phải giọt nắng mà là "làn nắng". Chữ "làn" như gợi một hơi thở nhẹ nhàng, nắng như mỏng tang, mềm mại trải đều trong thơ và trong không gian. Làn nắng lại "ửng" lên trong "khói mơ tan". Cảnh sắc nhẹ nhàng, đẹp dân dã mà huyền diệu. Sương khói quyện với nắng; cái "ửng" của nắng được tôn lên trong làn khói mơ màng đang "tan" ấy. Ngòi bút thi sĩ vẫn hướng đến một nét thơ truyền thống, cổ điển, cảnh như có hồn, như có tình chan chứa. Trân trọng đón lấy cái nắng mới tinh khiết ấy là "Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng'!. Sự hô ứng trong vần thơ tạo ra một cảm xúc ấm áp, cảnh vật cân xứng hài hòa, đầy thơ mộng. Vài nét chấm phá đơn sơ mà tinh tế gợi cảm, dung dị mà đáng yêu. Chỉ có "đôi mái nhà tranh" hiện lên trong "làn nắng ửng" nhưng vẫn gợi lên một sức sống đang lay động, dân dã bình yên rất thân thuộc với mọi người. Nắng như đang rắc lên "đôi mái nhà tranh" chút sắc xuân và hương xuân: "Sột soạt gió trêu tà áo biếc". Cái âm thanh của gió "trêu" tà áo và cái gam màu "biếc" của, lá ây là cái tình xuân. Một chữ "trêu" đáng yêu quá, thân thương quá, có gì như mang hương sắc đồng quê từ những câu ca dao, hát ghẹo tình tứ thuở nào cứ ngân nga mãi trong lòng ta… Gió cũng chọn áo mà "trêu", phải chọn áo biếc mới thật thơ, thật đẹp. Mùa xuân là như thế, "chín" là như thế!
Từ cụ thể, từ làn nắng, từ mái nhà tranh, từ gió rồi mới khái quát: "Trên giàn thiên lý. Bóng xuân sang". Câu thơ có một sự ngưng đọng, ngập ngừng cảm xúc nhẹ nhàng, bâng khuâng, vấn vương đón “bóng xuân sang", cảm xúc ngưng tụ như nín thở ấy ẩn mình vào dấu chấm giữa dòng thơ. Mạch thơ ngập ngừng như mạch cảm xúc. Bên giàn thiên lí, mùa xuân đã sang. Mùa xuân nhẹ nhàng bước… như có thể cầm được, có thể ngắm được ngay trước mắt mỗi chúng ta.
Sau dấu châ'm (.), sau cái ngưng tụ và run rẩy như dây đàn căng lên trong tâm hồn nhà th ơ thì mùa xuân ào đến:
"Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời,
Bao cô thôn nữ hát trên đồi".
Cỏ như xanh mãi, tươi mãi trong không gian mênh mông, bao la. Hình ảnh ẩn dụ "sóng cỏ" và ba chữ "gợn tới trời" gợi tả làn cỏ xanh dập dờn trong làn gió xuân nhè nhẹ thổi. Chẳng biết ngoài kia là sóng cỏ thật, hay lòng thi sĩ cỏ xanh tươi mới gợn thành "sóng" như thế? Mùa xuân bao giờ chẳng có màu xanh của cỏ. "Cỏ xanh như khói bến xuân tươi" (Độ đầu xuân thảo lục như yên – Nguyễn Trãi). "Cỏ non xanh tận chân trời" (Nguyễn Du)… Gam màu "xanh tươi" đầy sức sống yên bình ấy trong thơ Hàn Mặc Tử cứ gợn tới trời", trải dài mãi như không dứt, trải mãi, ngâm vào hồn thơ. Trong sắc xuân ấy, tình cảm con người cũng đến độ chín. Tiếng hát giữa mùa xuân thân quen quá, yêu thương quá. Một nét đẹp truyền thống của dân tộc, đẹp như ca dao, dân ca, như lễ hội mùa xuân muôn thuở của cái xứ sở này được nói đến qua tiếng hát "vắt vẻo" và "thơ ngây" của những nàng xuân, của bao cô thôn nữ. Câu thơ gợi lên cái "chín" trong hồn bao cô thôn nữ qua âm thanh “vắt vẻo", trong trẻo, tươi mát của câu hát giao duyên, của trai gái nơi đồng quê, mộc mạc mà tình tứ. Tâm hồn nhạy cảm, yêu cuộc sống thiết tha của thi sĩ Hàn Mặc Tử đã bắt vào lời hát ấy nhiều xao xuyến. Mùa xuân mới thực sự "chín" khi có con người và có dư âm tiếng hát:
"Tiếng ca vắt vẻo lưng chừng núi,
Hổn hển như lời của nước mây
Thầm thì với ai ngồi dưới trúc
Nghe ra ý vị và thơ ngây".
Âm thanh đọng lại trong từng tiếng thơ, độ ngân rung, "vắt vẻo" hòa nhịp với âm trầm "hổn hển" thể hiện một sự chuyển đổi cảm giác rất tinh tế, tài tình. Tâm hồn thi sĩ đã hòa nhập hẳn vào cái thế giới âm thanh mùa xuân ấy.
Tiếng ca như vút lên cao, như ngập ngừng, như lưu luyến giữa "lưng chừng núi". Dư âm tiếng hát dường như giăng mắc, rung lên “vắt vẻo" gợi lên nhiều xao xuyến bâng khuâng trong lòng nhà thơ. Tiếng hát "hổn hển" được so sánh "với lời của nước mây", lời của thiên nhiên. Hai tiếng "hổn hển" như nhịp thở gấp gáp, vội vàng đầy hương xuân, tình xuân, cảm xúc vừa thực vừa mơ đến lạ kì. Lời hát của các cô thôn nữ sao mà đáng yêu thế, như hút hồn người, như tràn ngập cả không gian, góp phần làm nên một "mùa xuân chín". Và còn có tiếng thầm thì "thầm thì với ai…" dưới bóng trúc, hẳn là tâm sự, là thân thương rồi. "Vắt vẻo”, "hổn hển", "thầm thì" là ba cung bậc của ba âm thanh mùa xuân đang chín, thấm sâu vào hồn người đến nhẹ nhàng lắng dịu, chan chứa thương yêu. Sự phong phú về giai điệu và phức điệu của khúc hát đồng quê, làm say mê mọi người, để rồi cùng nhà thơ bâng khuâng cảm nhận: "Nghe ra ý vị và thơ ngây…".
Tiếng hát mùa xuân dân dã, tình tứ và đáng yêu quá, sắc xuân, hương xuân, tình xuân "đang chín" dần trong lòng thôn nữ, bỗng ngập ngừng như có sự hẫng hụt, băn khoăn:
"Ngày mai trong đám xuân xanh ấy,
Có kẻ theo chồng, bỏ cuộc chơi".
"Đám xuân xanh ấy" là các cô thôn nữ đang hát, đang "thầm thì với ai ngồi dưới trúc" kia sẽ chín cùng mùa xuân và sẽ "theo chồng bỏ cuộc chơi… Thiên nhiên và lòng người như quyến luyến mùa xuân dần trôi qua, tuổi xuân hồn nhiên dần trôi qua. Hàn Mặc Tử như chợt thấy buồn, thấy hẫng hụt, bâng khuâng, như mất mát đi một cái gì trong lòng khi mùa xuân đang chín… "Xuân đang tới nghĩa là xuân đương qua – Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già" (Xuân Diệu).
Hàn Mặc Tử chính là người lữ khách đi qua mùa xuân gặp cái ý vị của mùa xuân: "Khách xa gặp lúc mùa xuân chín…". Một nét bút truyền thống cổ điển "xuân hướng lão" xen lẫn cái hiện đại, mới mẻ làm cho ý thơ thêm đậm đà hơn.
Gặp lúc mùa xuân chín ấy mà thổn thức:
"Lòng trí bâng khuâng sực nhớ làng
Chị ấy năm nay còn gánh thóc
Dọc bờ sông trắng nắng chang chang".
Hình ảnh của kí ức hiện lên một thoáng buồn đẹp và trải rộng mênh mông xa vắng. Nhà thơ nhớ đến con người như khao khát một tình người, một tình quê. Mỗi một nổi nhớ đều rất bâng khuâng. Nhớ một công việc cụ thể: "gánh thóc" trong một không gian cụ thể: "Dọc bờ sông trắng nắng chang chang". Chỉ có "chị ấy" là người đọc không thể biết mà chỉ có tác giả mới biết để mà "sực nhớ", mà thầm hỏi. Mà man mác sợ "mùa xuân chín" ấy sẽ trôi qua. Hình như đó là néi thơ Hàn Mặc Tử, là tâm hồn Hàn Mặc Tử khao khát giao cảm với đời mà luôn có một nỗi niềm cô đơn, trống vắng, hẫng hụt như thế.
"Mùa xuân chín" là một bài thơ xuân rất hay, là một bức tranh xuân mới nhất, trong sáng, rạo rực, say mê, thơ mộng mà thoáng buồn nhất. Hàn Mặc Tử vơi cảm hứng thiên nhiên trữ tình, màu sắc cổ điển hài hòa với chất dân dã, trẻ trung bình dị đã làm hiện lên một bức tranh xuân tươi tắn thơ mộng. Mùa xuân đẹp. Con người trẻ trung, hồn nhiên, xinh đẹp, đáng yêu. Yêu mùa xuân chín cũng là yêu đồng quê, yêu làn nắng ửng, yêu mái nhà tranh, yêu giàn thiên lí, yêu tiếng hát vắt vẻo của những nàng xuân trên "sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời”.
"Mùa xuân chín" lúc thì dạt dào, lúc thì lắng dịu trong tâm hồn thi sĩ. Có lúc vồn vã, có lúc mênh mang, như đang lắng hồn mình vào bước đi của mùa xuân rồi bồi hồi, "sực nhớ… " và "bâng khuâng". Cái nhớ bâng khuâng của người lữ khách mãi mãi là tình thương mến, nỗi khát khao giao cảm với hương sắc và khúc nhạc mùa xuân, với làng quê thân thuộc nơi miền Trung "Dọc bờ sông trắng nắng chang chang"…
|
Bình giảng bài thơ mời trầu của Hồ Xuân Hương
Hướng dẫn
Bình giảng bài thơ mời trầu của Hồ Xuân Hương
Hồ Xuân Hương là người thi sĩ vừa tài vừa có sắc được mệnh danh là bà chúa thơ Nôm. Bà là nữ thi sĩ mang lại cho người đọc nhiều ấn tượng về các tác phẩm vừa có giá trị cao lại mang được những nét tài hoa trong sáng tác. Thơ Hồ Xuân Hương mang những bản sắc đậm đà mà hơn thế ở đó còn nói lên những tâm tư tình cảm của bà gửi vào trong tác phẩm. Ngoài chum thơ như tự tình, bánh trôi nước thì chúng ta còn biết đến bài thơ Mời Trầu. Nhắc tới trầu nhắc tới tình yêu, đúng vậy đó là nỗi khát khao cháy bỏng tình yêu được gửi gắm qua những vần thơ đong đầy tình cảm
Xuất hiện trong toàn bài chỉ có bốn câu thơ, vẻn vẹn được bốn câu ngắn ngủi những toát lên tất cả những cảm xúc khát khao của cá nhân nhà thơ Xuân Hương hay một phần nào đó cũng là khát khao của những người phụ nữ. những tình cảm ấy là những điều thường thấy là tình cảm đời thường và cũng rất thiêng liêng
Nhân vật trữ tình được nhắc tới không ai khác chính là nữ thi sĩ Xuân HƯơng, và ngay từ đầu thì nữ thi sĩ cũng đã nhắc tới một sự tích một nét văn hóa của dân tộc Việt Nam đó chính là miếng trầu.
Này của Xuân Hương mới quệt rồi
Không chỉ xuất hiên trong bài thơ Mời trầu của Hồ Xuân Hương mà nó còn xuất hiện ở nhiều tác phẩm văn học của các tác giả thơ ca khác.Miếng trầu đong đầy tình cảm gợi nhớ tới câu chuyện thấm đẫm tình cảm an hem tình cảm vợ chồng dành cho nhau.Miếng trầu còn là những thức mà người lớn tuổi hay những thanh niên thường ăn trong các dịp cưới xin. Miếng trầu trong ca dao xưa vẫn văng vẳng qua những lời ru của bà của mẹ, và đến sau này miếng trầu ấy là miếng trầu có bốn nghìn năm tuổi trong thơ Nguyễn Khoa Điềm, la miếng trầu hàng hóa của người mẹ già trong thơ Hoàng Cầm nữa.
Ở đây nữ thi sĩ Xuân Hương nói rằng đó chính là miếng trầu hôi, quả cau nho nhỏ với miếng trầu hôi. Không phải là trầu có vị hôi mà là vị của trầu không thường rất hăng và cay cho nên thi sĩ đã khéo sử dụng tính từ “hôi” cho nó. Câu thơ này của Xuân HƯơng đã quệt rồi như mời mọc người quân tử đến ăn miếng trầu ấy. Miếng trầu của Xuân HƯơng têm hãy vẫn tươi xanh, hãy còn ngon ngọt vì mới quẹt vôi. Tấm lòng của Hồ Xuân Hương thắm đượm như miếng trầu kia và sự tươi tắn giống như sự tươi tắn của miếng trầu ấy.
Có phải duyên nhau thì thắm lại
Đừng xanh như lá bạc như vôi
Từ miếng trầu đã khơi gợi ra biết bao nhiêu là lời tâm sự của một tâm hồn tươi tắn và đẹp đẽ của Xuân Hương, nó giống như những miếng trầu cau kia vậy. Hồ Xuân Hương không e dè khi quyết định nói đến những tâm sự và ý nghĩ của cá nhân mình đối với những người quân tử có ý định tìm đến tình duyên với bà hay cũng như với những người phụ nữ khác.
Đừng bao giờ phụ bạc lấy tình duyên mà phải bén lại với nhau chứ đừng nên bạc bẽo như vôi, xanh như lá. Tình yêu đó như dây trầu quấn lấy thân cau, cứ cao vút và thấm đượm tình cảm. bén duyên là duyên thắm lại, tình cảm phải có bén lửa thì mới có kết thúc đẹp đẽ được.
Chỉ với 4 câu thơ ngắn ngủi thôi mà nữ thi sĩ Hồ Xuân HƯơng đã khơi gợi biết bao nhiều điều. Qua đay, tác giả cũng muốn trải lòng và gửi gắm hết những tâm trạng và nỗi lòng mà Xuân Hương giữ kín bấy lâu. Môi câu thơ mang những tình cảm trong sáng thiêng liêng mà cũng là những phút trải lòng của tác giả.
|
Commentary on Ho Xuan Huong's poem inviting betel
Instruct
Commentary on Ho Xuan Huong's poem inviting betel
Ho Xuan Huong is a poet who is both talented and beautiful and is known as the queen of Nom poetry. She is a female poet who gives readers many impressions of her works that are both highly valuable and talented in her writing. Ho Xuan Huong's poetry carries rich identities, but more than that, it also speaks to her emotional thoughts sent into her work. In addition to jars of poems such as self-love and floating cakes, we also know the poem Invite Betel. Mentioning betel reminds us of love, yes, it is the burning desire for love conveyed through poems filled with love.
There are only four verses in the entire poem, just four short sentences that express all the feelings of personal desire of poet Xuan Huong or, to a certain extent, the desires of women. These feelings are common, everyday feelings and also very sacred
The lyrical character mentioned is none other than the female poet Xuan Huong, and right from the beginning, the female poet also mentioned a story about a cultural feature of the Vietnamese people, which is the betel nut.
This one belongs to Xuan Huong and has just been worn
Not only does it appear in the poem Inviting Betel by Ho Xuan Huong, but it also appears in many literary works by other poets. The betel piece filled with affection is reminiscent of a story imbued with brotherly love. The feelings that husband and wife have for each other. Betel pieces are also something that older people or young people often eat on wedding occasions. The betel in old folk songs still echoes through the lullabies of my mother's grandmother, and later that betel is a four thousand year old betel in Nguyen Khoa Diem's poem, the betel as a commodity of the old mother in the poem. Hoang Cam too.
Here, the female poet Xuan Huong says that it is a piece of stinky betel, a small areca fruit with a piece of stinky betel. It's not that betel has a foul taste, but the taste of betel is often very pungent and spicy, so the poet cleverly used the adjective "foul" for it. This poem by Xuan Huong has been written as if inviting a gentleman to come and eat a piece of betel. Xuan Huong's betel pieces are still fresh and delicious because they have just been limed. Ho Xuan Huong's heart is as sweet as that piece of betel and its freshness is like the freshness of that piece of betel.
If we are destined to be together, then we will love each other again
Don't be green like silver leaves like lime
From the piece of betel, so many confessions of Xuan Huong's fresh and beautiful soul were evoked, just like those pieces of betel and areca. Ho Xuan Huong was not shy when deciding to share her personal feelings and thoughts with gentlemen who intended to find love with her or with other women.
Never be ungrateful in love, but must stay together, not be ungrateful like lime, green like leaves. That love is like a betel string wrapped around an areca tree, soaring high and imbued with affection. If you fall in love, you will fall in love again. Love must be ignited to have a beautiful ending.
With just four short verses, female poet Ho Xuan Huong has evoked so many things. Through this, the author also wants to open up and convey all the feelings and emotions that Xuan Huong kept secret for so long. The verses carry pure, sacred feelings and are also moments of the author's feelings.
|
Bình giảng bài thơ Nguyên tiêu (Rằm tháng giêng) của Hồ Chí Minh.
Hướng dẫn
“Nguyên tiêu” nằm trong chùm thơ chữ Hán của Hồ Chí Minh viết trong chín năm kháng chiến chống Pháp, tại chiến khu Việt Bắc: “Nguyên tiêu”, “Báo tiệp”, “Thu dạ”… Sau chiến thắng Việt Bắc thu đông năm 1947, sang xuân hè 1948, quân ta lại thắng lớn trên đường số Bốn. Niềm vui thắng trận tràn ngập cả tiền tuyến và hậu phương. Trong không khísôi động và phấn chấn ấy, bài thơ “Nguyên tiêu” của Bác Hồ xuất hiện trên báo Cứu quốc như một đóa hoa xuân ngào ngạt và rực rỡ sắc hương. Xuân Thủy đã dịch khá hay bài thơ này. Nguyên tác bằng chữ Hán, viết theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt:
“Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên,
Xuân giang, xuân thủy tiếp xuân thiên;
Yên ba thâm xứ đàm quân sự,
Dạ bán quy lại nguyệt mãn thuyền”.
Đêm nguyên tiêu trăng sáng ngời trên một không gian bao la. Bài thơ nói lên cảm xúc và niềm vui dào đạt trong tâm hồn lãnh tụ đêm nguyên tiêu lịch sử.
Hai câu đầu vẽ lên cảnh đẹp tuyệt vời đêm nguyên tiêu. Trên bầu trời, vầng trăng vừa tròn (nguyệt chính viên). Trăng rằm tháng giêng mang vẻ đẹp tươi xinh khác thường vì mùa xuân làm cho trăng thêm đẹp. Và trăng cũng làm cho cảnh vật mang vẻ đẹp hữu tình. Đất nước quê hương bao la một màu xanh bát ngát. Màu xanh lấp lánh của “xuân giang”. Màu xanh ngọc bích của “xuânthủy” tiếp nối với màu xanh thanh thiên của “xuân thiên”. Ba từ “xuân” trong câu thơ thứ hai là những nét vẽ đặc sắc làm nổi bật cái “thần” của cảnh vật sông, nước và bầu trời.
“Xuân giang, xuân thủy tiếp xuân thiên”.
(Sông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân)
“Xuân” trong câu thơ chữ Hán của Bác là mùa xuân, là tuổi trẻ, là vẻ đẹp xinh tươi. Nó còn gợi tả mùa xuân, của sông nước, đất trời vào xuân. Nó thể hiện vẻ đẹp và sức sống mãnh liệt của đất nước ta: trong lừa đạn vẫn dạt dào một sức sống trẻ trung, tiềm tàng. Ngoài giá trị miêu tả cảnh đẹp đêm nguyên tiêu, vần thơ còn biểu hiện tinh tế cảm xúc tự hào, niềm vui sướng mênh mông của một hồn thơ đang rung động giữa một đêm xuân đẹp, một đêm xuân lịch sử, đất nước đang anh dũng kháng chiến.
Với Bác Hồ, yêu vẻ đẹp đêm nguyên tiêu, yêu thiên nhiên cũng là yêu đời tha thiết. Bác yêu thiên nhiên nên sông, núi, cỏ cây, hoa lá, tạo vật trong thơ Bác rất hữu tình. Có “Trăng lồng cổ thụ, bóng lồng hoa”; có “Trăng vào cửa sổ đòi thơ” trong niềm vui thắng trận. Bác yêu hoa núi, chim rừng Việt Bắc: “Xem sách, chim rừng vào cửa đậu – Phê văn hóa núi ghé nghiên soi”; yêu ngọn núi, chim rừng báo mùa thu chợt đến… Thiên nhiên trong thơ Hồ Chí Minh là một trong những yếu tố tạo nên sắc điệu trữ tình và màu sắc cổ điển.
Hai câu thơ cuối nói về dòng sông, khói sóng và con thuyền trăng:
“Yên ba thâm xứ đàm quân sự,
Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền”.
Ánh trăng ngày trước (1942-1943) chiếu vào ngục lạnh nơi đất khách quê người, thì đêm nguyên tiêu này là (1948), trăng lại soi xuống con thuyền trong đó Bác đang “đàm quân sự” (bàn bạc việc quân). Trăng nguyên tiêu là trăng ước hẹn, báo trước những mùa trăng trong năm, được nhân dân đón đợi với bao hi vọng, bao tình cảm nồng hậu. Lại nữa, trường hợp thưởng trăng không phải là trường hợp bình thường diễn ra trên sân nhà, ngõ xóm, hay “đăng lâu vọng nguyệt”… mà là thưởng trăng trên khói sóng, nơi “yên ba thâm xứ” – cõi sâu kín, bí mật trên dòng sông, giữa núi rừng chiến khu bao la! Người đang thưởng trăng nguyên tiêu không chỉ mang cốt cách như các tao nhân mặc khách ngày xưa, mà còn là con người hành động, người chiến sĩ đánh giặc, vị lãnh tụ đang “bàn bạc việc quân” để lãnh đạo nhân dân kháng chiến, bảo vệ non sông đất nước. Quả thật, đây là một trường hợp thưởng trăng rất đặc biệt: “Yên ba thâm xứ đàm quân sự”. “Yên ba” là khói sóng, một thi liệu cổ được Bác vận dụng rất sáng tạo làm cho bài thơ “Nguyên tiêu” mang phong vị Đường thi. Ba chữ “Đàm quân sự” đã khu biệt thơ Bác với thơ của người xưa, làm cho vần thơ mang màu sắc hiện đại và không khí lịch sử của thời đại.
Sau những canh dàibàn bạc việc quân căng thẳng nơi khói sóng sâu kín, trời đã về khuya. Nửa đêm (dạ bán), Bác trở về bến, tâm hồn sảng khoái vô cùng. Con thuyền của vị thông soái, con thuyền kháng chiến trở thành con thuyền trăng của thi nhân nhẹ bơi trên sông nước mênh mông, chở đầy ánh trăng vàng:
“Dạ bán quy lai, nguyệt mãn thuyền”.
(Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền).
“Nguyệt mãn thuyền” là một hình ảnh rất đẹp và trữ tình, nó làm ta nhớ đến những vần thơ hoa lệ:
“Bạn chơi năm ngoái nào đâu tá?
Trăng nước như xưa chín với mười”.
(Triệu Hỗ – Đường thi)
“Thuyền mấy lá đông, tây lặng ngắt,
Một vầng trăng trong vắt lòng sông…”.
(Bạch Cư Dị)
“Nước biếc non xanh thuyền gối bãi,
Đêm thanh nguyệt bạc, khách lên lầu”.
(Nguyễn Trãi)
Trở lại bài thơ Hồ Chí Minh, ta thấy conthuyền đang trôi nhẹtrên sông, ẩn hiện trong màn khói sóng, mang theo bao ánh trăng, hiện lên một thủ lĩnh quân sự giàu hồn thơ dang lãnh đạo quân dân ta kháng chiến để giành lại độc lập, tự do, để giữ mãi những đêm nguyên tiêu trăng đầy trời của đất nước quê hương thanh bình. Hình ảnh con thuyền trăng trong bài thơ này cho thấy tâm hồn Bác giàu tình yêu thiên nhiên, trong kháng chiến gian khổ vẫn lạc quan yêu đời.
Qua bài thơ “Nguyên tiêu”, ta có thể nói, trăng nước trong thơ Bác rất đẹp. Chính vầng trăng ấy đã thể hiện phong thái ung dung, tâm hồn thanh cao của vị lãnh tụ thiên tài của dân tộc mang cốt cách nghệ sĩ, nhà hiền triết phương Đông.
“Nguyên tiêu” được viết theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt, man mác phong vị Đường thi. Bài thơ có đầy đủ những yếu tốcủa bài thơ cổ: một con thuyền, một vầng trăng, có sông xuân, nước xuân, trời xuân, có khói sóng. Điệu thư thanh nhẹ. Không gian bao la, yên tĩnh… Chỉ khác một điều, ở giữa khung cảnh thiên nhiên hữu tình ấy, nhà thơ không có rượu và hoa để thưởng trăng, không đàm đạo thi phú từ chương, mà chỉ “đàm quân sự”. Bài thơ như một đóa hoa xuân đẹp trong vườn hoa dân tộc, là tinh hoa kết tụ từ tâm hồn, trí tuệ, đạo đức của Hồ Chí Minh.
Văn tức là người. Thơ là tấm lòng, là tiếng lòng cộng hưởng từ một người đến với muôn người. Thơ Bác Hồ tuy nói đến “trăng, hoa, tuyết, nguyệt…” nhưng đã phản ánh tâm tư, tình cảm, lẽ sống cao đẹp của Bác. Bác yêu nước, thương dân tha thiết nên Bác càng yêu đêm nguyên tiêu với vầng trăng xuân thơ mộng. Trong kháng chiến gian khổ, Bác đã hướng tới vầng trăng rằm tháng giêng, hướng tới bầu trời xuân với tâm hồntrong sáng và phong thái ung dung. Cuộc đời không thể thiếu vầng trăng. Biết yêu trăng cũng là biết sống đẹp. “Nguyên tiêu” là một bài thơ trăng tuyệt tác của nhà thơ Hồ Chí Minh. Con thuyền chở đầy ánh trăng cũng là con thuyền kháng chiến đang hướng tới chiến công và niềm vui thắng trận.
Nguồn:
|
Commentary on the poem Nguyen Tieu (Full Moon of the First Month) by Ho Chi Minh.
Instruct
"Nguyen Tieu" is in a series of Chinese poems written by Ho Chi Minh during the nine years of the resistance war against the French, in the Viet Bac war zone: "Nguyen Tieu", "Reporting Tiep", "Thu Da"... After the victory of Viet Bac Thu In the winter of 1947, in the spring and summer of 1948, our army won again on Route Four. The joy of winning the battle filled both the front and rear. In that vibrant and exciting atmosphere, Uncle Ho's poem "Nguyen Tieu" appeared in Cuu Quoc newspaper like a fragrant and fragrant spring flower. Xuan Thuy translated this poem quite well. The original work is in Chinese characters, written in a seven-line four-literary poetic form:
“Kim night Nguyen Tieu Nguyet Chinh Vien,
Spring flows, spring water follows spring sky;
Yen ba deep land of military talks,
"Ye half returns to the moon boat".
The full moon night shines brightly in a vast space. The poem speaks of the abundant emotions and joy in the soul of the leader of the historic night.
The first two sentences paint a wonderful scene of Nguyen Tieu night. In the sky, the moon is just full (full moon). The full moon in January has an unusually beautiful beauty because spring makes the moon more beautiful. And the moon also makes the landscape look charming. My homeland is vast and green. The sparkling blue color of "Xuan Giang". The jade green color of "spring water" continues with the blue color of "spring sky". The three words "spring" in the second verse are unique drawings that highlight the "spirit" of the landscape of rivers, water and sky.
"Spring river, spring water follows spring sky".
(Spring river, water and sky color add spring)
"Spring" in Uncle Ho's Chinese poem is spring, youth, and beautiful beauty. It also describes spring, rivers, earth and sky in spring. It represents the beauty and vitality of our country: within the bullets there is still a youthful, potential vitality. In addition to the value of describing the beautiful scenery of Nguyen Tieu night, the poem also delicately expresses the feelings of pride and immense joy of a poetic soul vibrating in the midst of a beautiful spring night, a historical spring night, the country is heroic resistance.
For Uncle Ho, loving the beauty of the Nguyen Tieu night and loving nature is also loving life passionately. He loved nature, so the rivers, mountains, trees, flowers, and creatures in his poems were very charming. There is "The moon cage of ancient trees, the shadow of flower cages"; There is "The moon comes into the window asking for poetry" in the joy of victory. Uncle loves mountain flowers and wild birds in Viet Bac: "Looking at books, wild birds come in and perch - Criticizing mountain culture, stop by to study"; love the mountains, wild birds announce the sudden arrival of autumn... Nature in Ho Chi Minh's poetry is one of the elements that create lyrical tones and classic colors.
The last two verses talk about the river, the waves and the moon boat:
“Yen ba deep land of military talks,
"Yes, semi-returning to the moon full boat".
The moonlight of the previous day (1942-1943) shone on the cold prison in a foreign land, but on this Nguyen Tieu night (1948), the moon shone down on the boat in which Uncle Ho was "talking about the military" (discussing military affairs). . The full moon is the moon of promise, heralding the moon seasons of the year, and is welcomed by the people with so much hope and warm affection. Again, the case of rewarding the moon is not the usual case that takes place in the yard, the alley, or "hanging the moon gazebo"... but rather the rewarding of the moon on the smoke of the waves, in the "peaceful three depths of the land" - a deep, hidden realm. , secret on the river, amidst the mountains and forests, a vast war zone! The person who is enjoying the full moon is not only a man of the past, but also a man of action, a soldier fighting the enemy, a leader "discussing military matters" to lead the people to resist. fight and protect the country's rivers and mountains. Indeed, this is a very special case of rewarding the moon: "Yen ba deep land of military talks". "Yen ba" is wave smoke, an ancient poetic material that Uncle Ho used very creatively to make the poem "Nguyen Tieu" have the flavor of Tang poetry. The three words "Military Talk" distinguish Uncle Ho's poetry from the poetry of the ancients, giving the poems a modern color and historical atmosphere of the era.
After long hours of tense military discussions in the deep smoke and waves, it was late at night. At midnight (half night), Uncle Ho returned to the wharf, his soul extremely refreshed. The boat of the general, the boat of the resistance, becomes the moon boat of a light poet swimming on the vast river, filled with golden moonlight:
"Ye semi-return, moon full boat".
(Late at dawn moon filled the boat).
“Moon full boat” is a very beautiful and lyrical image, it reminds us of the magnificent poems:
“Where did you play last year?
The moon and water are like nine and ten."
(Trieu Ho – Exam Road)
"The boat with some east and west leaves is quiet,
A clear moon in the riverbed...".
(Bach Cu Di)
“The water is blue and green, boats rest on the beach,
The night is clear and silver, the guests go upstairs.
(Nguyen Trai)
Returning to Ho Chi Minh's poem, we see the boat floating gently on the river, hidden in the smoke and waves, carrying moonlight, showing a military leader rich in poetic soul leading our army and people to fight to regain the throne. independence, freedom, to keep forever the moonlit nights of our peaceful homeland. The image of the moon boat in this poem shows that Uncle Ho's soul is rich in love for nature, and despite the hardships of resistance, he is still optimistic and loves life.
Through the poem "Nguyen Tieu", we can say that the water moon in Uncle Ho's poetry is very beautiful. It is that moon that shows the leisurely demeanor and noble soul of the genius leader of the nation with the personality of an artist and Eastern sage.
“Nguyen Tieu” is written in a four-line, four-line poem, with a poetic style of Tang poetry. The poem has all the elements of the ancient poem: a boat, a moon, a spring river, spring water, spring sky, and smoke and waves. The tone is gentle. The space is vast, quiet... The only difference is that in the midst of that charming natural scenery, the poet does not have wine or flowers to enjoy the moon, does not discuss poetry and poetry, but only "military talks". The poem is like a beautiful spring flower in the national flower garden, the quintessence of Ho Chi Minh's soul, intelligence, and morality.
Literature means people. Poetry is the heart, the sound of the heart resonating from one person to all people. Although Uncle Ho's poems refer to "moon, flowers, snow, moon...", they reflect Uncle Ho's thoughts, feelings, and noble way of life. He loved his country and his people so much that he loved the Nguyen Tieu night with its poetic spring moon even more. During the arduous resistance war, Uncle Ho looked towards the full moon of January, towards the spring sky with a pure soul and a leisurely demeanor. Life is indispensable without the moon. Knowing how to love the moon is also knowing how to live beautifully. “Nguyen Tieu” is a masterpiece poem by poet Ho Chi Minh. The boat filled with moonlight is also the resistance boat heading towards victory and the joy of victory.
Source:
|
Bình giảng bài thơ Nguyên tiêu (Rằm tháng riêng) – Đề và văn mẫu 8
Hướng dẫn
Bài làm
“Nguyên tiêu” nằm trong chùm thơ chữ Hán của Hồ Chí Minh viết trong chín năm kháng chiến chống Pháp, tại chiến khu Việt Bắc: “Nguyên tiêu”, “Báo tiệp”, “Thu dạ”.. Sau chiến thắng Việt Bắc thu đông năm 1947, sang xuân hè 1948, quân ta lại thắng lớn trên đường số Bôn. Niềm vui thắng trận tràn ngập cả tiền tuyến và hậu phương. Trong không khi sôi động và phấn chấn ấy, bài thơ “Nguyên tiêu” của Bác Hồ xuất hiện trên báo Cứu quốc như một đóa hoa xuân ngào ngạt và rực rỡ sắc hương. Xuân Thủy đã dịch khá hay bài thơ này. Nguyên tác bằng chữ Hán, viết theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt:
“Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên,
Xuân giang, xuân thủy tiếp xuân thiên;
Yên ba thâm xứ đàm quân sự,
Dạ bán quy lại nguyệt mãn thuyền”.
Đêm nguyên tiêu trăng sáng ngời trên một không gian bao la. Bài thơ nói lên cảm xúc và niềm vui dào đạt trong tâm hồn lãnh tụ đêm nguyên tiêu lịch sử.
Hai câu đầu vẽ lên cảnh đẹp tuyệt vời đêm nguyên tiêu. Trên bầu trời, vầng trăng vừa tròn (nguyệt chính viên). Trăng rằm tháng giêng mang vẻ đẹp tươi xinh khác thường vì mùa xuân làm cho trăng thêm đẹp. Và trăng cũng làm cho cảnh vật mang vẻ đẹp hữu tình. Đất nước quê hương bao la một màu xanh bát ngát. Màu xanh lấp lánh của “xuân giang”. Màu xanh ngọc bích của “xuân thủy” tiếp nối với màu xanh thanh thiên của “xuân thiên”. Ba từ “xuân” trong câu thơ thứ hai là những nét vẽ đặc sắc làm nổi bật cái “thần” của cảnh vật sông, nước và bầu trời.
“Xuân giang, xuân thủy tiếp xuân thiên”.
(Sông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân)
“Xuân” trong câu thơ chữ Hán của Bác là mùa xuân, là tuổi trẻ, là vẻ đẹp xinh tươi. Nó còn gợi tả mùa xuân, của sông nước, đất trời vào xuân. Nó thể hiện vẻ đẹp và sức sống mãnh liệt của đất nước ta: trong lửa đạn vẫn dạt dào một sức sống trẻ trung, tiềm tàng. Ngoài giá trị miêu tả cảnh đẹp đêm nguyên tiêu, vần thơ còn biểu hiện tinh tế cảm xúc tự hào, niềm vui sướng mênh mông của một hồn thơ đang rung động giữa một đêm xuân đẹp, một đêm xuân lịch sử, đất nước đang anh dũng kháng chiến.
Hai câu thơ cuối nói về dòng sông, khói sóng và con thuyền trăng:
“Yên ba thâm xứ đàm quân sự,
Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền”.
Ánh trăng ngày trước (1942-1943) chiếu vào ngục lạnh nơi đất khách quê người, thì đêm nguyên tiêu này là (1948), trăng lại soi xuống con thuyền trong đó Bác đang “đàm quân sự” (bàn bạc việc quân). Trăng nguyên tiêu là trăng ước hẹn, báo trước những mùa trăng trong năm, được nhân dân đón đợi với bao hi vọng, bao tình cảm nồng hậu. Lại nữa, trường hợp thưởng trăng không phải là trường hợp bình thường diễn ra trên sân nhà, ngõ xóm, hay “đăng lâu vọng nguyệt”… mà là thưởng trăng trên khói sóng, nơi “yên ba thâm xứ” – cõi sâu kín, bí mật trên dòng sông, giữa núi rừng chiến khu bao la! Người đang thưởng trăng nguyên tiêu không chỉ mang cốt cách như các tao nhân mặc khách ngày xưa, mà còn là con người hành động, người chiến sĩ đánh giặc, vị lãnh tụ đang “bàn bạc việc quân” để lãnh đạo nhân dân kháng chiến, bảo vệ non sông đất nước. Quả thật, đây là một trường hợp thưởng trăng rất đặc biệt: “Yên ba thâm xứ đàm quân sự”. “Yên ba” là khói sóng, một thi liệu cổ được Bác vận dụng rất sáng tạo làm cho bài thơ “Nguyên tiêu” mang phong vị Đường thi. Ba chữ “Đàm quân sự” đã khu biệt thơ Bác với thơ của người xưa, làm cho vần thơ mang màu sắc hiện đại và không khí lịch sử của thời đại.
Sau những canh dài bàn bạc việc quân căng thẳng nơi khói sóng sâu kín, trời đã về khuya. Nửa đêm (dạ bán), Bác trở về bến, tâm hồn sảng khoái vô cùng. Con thuyền của vị thống soái, con thuyền kháng chiến trở thành con thuyền trăng của thi nhân nhẹ bơi trên sông nước mênh mông, chở đầy ánh trăng vàng:
“Dạ bán quy lai, nguyệt mãn thuyền
(Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền).
“Nguyệt mãn thuyền” là một hình ảnh rất đẹp và trữ tình, nó làm ta nhớ đến những vần thơ hoa lệ:
“Bạn chơi năm ngoái nào đâu tá?
Trăng nước như xưa chín với mười”.
(Triệu Hỗ – Đường thi)
“Thuyền mấy lá đông, tây lặng ngắt,
Một vầng trăng trong vắt lòng sông…”.
(Bạch Cư Dị)
“Nước biếc non xanh thuyền gối bãi,
Đêm thanh nguyệt bạc, khách lên lầu”.
(Nguyễn Trãi)
Trở lại bài thơ Hồ Chí Minh, ta thấy con thuyền đang trôi nhẹ trên sông, ẩn hiện trong màn khói sóng, mang theo bao ánh trăng, hiện lên-một thủ lĩnh quân sự giàu hồn thơ đang lãnh đạo quân dân ta kháng chiến để giành lại độc lập, tự do, để giữ mãi những đêm nguyên tiêu trăng đầy trời của đất nước quê hương thanh bình. Hình ảnh con thuyền trăng trong bài thơ này cho thấy tâm hồn Bác giàu tình yêu thiên nhiên, trong kháng chiến gian khổ vẫn lạc quan yêu đời.
“Nguyên tiêu” được viết theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt, man mác phong vị Đường thi. Bài thơ có đầy đủ những yếu tố của bài thơ cổ: một con thuyền, một vầng trăng, có sông xuân, nước xuân, trời xuân, có khói sóng. Điệu thơ thanh nhẹ. Không gian bao la, yên tĩnh… Chỉ khác một điều, ở giữa khung cảnh thiên nhiên hữu tình ấy, nhà thơ không có rượu và hoa để thưởng trăng, không đàm đạo thi phú từ chương, mà chỉ “đàm quân sự”. Bài thơ như một đóa hoa xuân đẹp trong vườn hoa dân tộc, là tinh hoa kết tụ từ tâm hồn, trí tuệ, đạo đức của Hồ Chí Minh.
Văn tức là người. Thơ là tấm lòng, là tiếng lòng cộng hưởng từ một người đến với muôn người. Thơ Bác Hồ tuy nói đến “trăng, hoa, tuyết, nguyệt…” nhưng đã phản ánh tâm tư, tình cảm, lẽ sống cao đẹp của Bác. Bác yêu nước, thương dân tha thiết nên Bác càng yêu đêm nguyên tiêu với vầng trăng xuân thơ mộng. Trong kháng chiến gian khổ, Bác đã hướng tới vầng trăng rằm tháng giêng, hướng tới bầu trời xuân với tâm hồn trong sáng và phong thái ung dung. Cuộc đời không thể thiếu vầng trăng. Biết yêu trăng cũng là biết sống đẹp. “Nguyên tiêu” là một bài thơ trăng tuyệt tác của nhà thơ Hồ Chí Minh. Con thuyền chở đầy ánh trăng cũng là con thuyền kháng chiến đang hướng tới chiến công và niềm vui thắng trận.
Tags:Văn 8
|
Commentary on the poem Nguyen Tieu (Full moon of the separate month) - Topics and samples 8
Instruct
Assignment
“Nguyen Tieu” is in a series of poems written in Chinese by Ho Chi Minh during the nine years of the resistance war against the French, in the Viet Bac war zone: “Nguyen Tieu”, “Reporting Tiep”, “Thu Da”.. After the victory of Viet Bac In the fall and winter of 1947, in the spring and summer of 1948, our army again won a big victory on the Bon road. The joy of winning the battle filled both the front and rear. In that vibrant and exciting atmosphere, Uncle Ho's poem "Nguyen Tieu" appeared in Cuu Quoc newspaper like a fragrant and fragrant spring flower. Xuan Thuy translated this poem quite well. The original work is in Chinese characters, written in a seven-line four-literary poetic form:
“Kim night Nguyen Tieu Nguyet Chinh Vien,
Spring flows, spring water follows spring sky;
Yen ba deep land of military talks,
"Ye half returns to the moon boat".
The full moon night shines brightly in a vast space. The poem speaks of the abundant emotions and joy in the soul of the leader of the historic night.
The first two sentences paint a wonderful scene of Nguyen Tieu night. In the sky, the moon is just full (full moon). The full moon in January has an unusually beautiful beauty because spring makes the moon more beautiful. And the moon also makes the landscape look charming. My homeland is vast and green. The sparkling blue color of "Xuan Giang". The jade green of "spring water" continues with the blue of "spring sky". The three words "spring" in the second verse are unique drawings that highlight the "spirit" of the landscape of rivers, water and sky.
"Spring river, spring water follows spring sky".
(Spring river, water and sky color add spring)
"Spring" in Uncle Ho's Chinese poem is spring, youth, and beautiful beauty. It also describes spring, rivers, earth and sky in spring. It shows the beauty and strong vitality of our country: amidst the fire and bullets, a youthful and potential vitality still abounds. In addition to the value of describing the beautiful scenery of Nguyen Tieu night, the poem also delicately expresses the feelings of pride and immense joy of a poetic soul vibrating in the midst of a beautiful spring night, a historical spring night, the country is heroic resistance.
The last two verses talk about the river, the waves and the moon boat:
“Yen ba deep land of military talks,
"Yes, semi-returning to the moon full boat".
The moonlight of the previous day (1942-1943) shone on the cold prison in a foreign land, but on this Nguyen Tieu night (1948), the moon shone down on the boat in which Uncle Ho was "talking about the military" (discussing military affairs). . The full moon is the moon of promise, heralding the moon seasons of the year, and is welcomed by the people with so much hope and warm affection. Again, the case of rewarding the moon is not the usual case that takes place in the yard, the alley, or "hanging the moon gazebo"... but rather the rewarding of the moon on the smoke of the waves, in the "peaceful three depths of the land" - a deep, hidden realm. , secret on the river, amidst the mountains and forests, a vast war zone! The person who is enjoying the full moon is not only a man of the past, but also a man of action, a soldier fighting the enemy, a leader "discussing military matters" to lead the people to resist. fight and protect the country's rivers and mountains. Indeed, this is a very special case of rewarding the moon: "Yen ba deep land of military talks". "Yen ba" is wave smoke, an ancient poetic material that Uncle Ho used very creatively to make the poem "Nguyen Tieu" have the flavor of Tang poetry. The three words "Military Talk" distinguish Uncle Ho's poetry from the poetry of the ancients, giving the poems a modern color and historical atmosphere of the era.
After long hours of tense military discussions in the deep smoke and waves, it was late at night. At midnight (half night), Uncle Ho returned to the wharf, his soul extremely refreshed. The boat of the marshal, the boat of resistance, becomes the moon boat of a light poet swimming on the vast river, filled with golden moonlight:
“Yes semi-return, moon full boat
(Late at dawn moon filled the boat).
“Moon full boat” is a very beautiful and lyrical image, it reminds us of the magnificent poems:
“Where did you play last year?
The moon and water are like nine and ten."
(Trieu Ho – Exam Road)
"The boat with some east and west leaves is quiet,
A clear moon in the riverbed...".
(Bach Cu Di)
“The water is blue and green, boats rest on the beach,
The night is clear and silver, the guests go upstairs.
(Nguyen Trai)
Returning to Ho Chi Minh's poem, we see the boat floating gently on the river, hidden in the smoke and waves, carrying a lot of moonlight, appearing - a military leader rich in poetic soul leading our army and people to resist. to regain independence and freedom, to keep forever the moonlit nights of our peaceful homeland. The image of the moon boat in this poem shows that Uncle Ho's soul is rich in love for nature, and despite the hardships of resistance, he is still optimistic and loves life.
“Nguyen Tieu” is written in a four-line, four-line poem, with a poetic style of Tang poetry. The poem has all the elements of the ancient poem: a boat, a moon, a spring river, spring water, spring sky, and smoke and waves. Light poetic melody. The space is vast, quiet... The only difference is that in the midst of that charming natural scenery, the poet does not have wine or flowers to enjoy the moon, does not discuss poetry and poetry, but only "military talks". The poem is like a beautiful spring flower in the national flower garden, the quintessence of Ho Chi Minh's soul, intelligence, and morality.
Literature means people. Poetry is the heart, the sound of the heart resonating from one person to all people. Although Uncle Ho's poems refer to "moon, flowers, snow, moon...", they reflect Uncle Ho's thoughts, feelings, and noble way of life. He loved his country and his people so much that he loved the Nguyen Tieu night with its poetic spring moon even more. During the arduous resistance war, Uncle Ho looked towards the full moon of January, towards the spring sky with a pure soul and a leisurely demeanor. Life is indispensable without the moon. Knowing how to love the moon is also knowing how to live beautifully. “Nguyen Tieu” is a masterpiece poem by poet Ho Chi Minh. The boat filled with moonlight is also the resistance boat heading towards victory and the joy of victory.
Tags: Literature 8
|
Đề bài: Bình giảng bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh
Gợi ý
Thơ tình yêu là mảng thơ đặc sắc nhất của Xuân Quỳnh. Bài Sóng là một trong những bài hay của mảng thơ này.
Cuộc đời Xuân Quỳnh có nhiều điều không may mắn. Tình yêu của chị cũng có nhiều trắc trở.
Nhưng đây là bài thơ tình ở giai đoạn đầu khi người con gái còn chưa trải nghiệm nhiều trong đời tình ái. Bài Sóng vì thế dạt dào sôi nổi, tươi mát và tràn đầy tin tưởng ở hạnh phúc, ở tương lai.
Phân tích bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh
Phân tích thơ tình, đừng tìm hiểu nó theo logic thông thường. Nó có logic, có quy luật riêng của nó, chỉ cảm nhận được, miêu tả được, không giải thích được, tuy nhà thơ có lúc cũng muốn lí giải, muốn phân tích.
1. Trước hết tình yêu là một trạng thái tâm lý khác thường (Vừa dữ dội vừa dịu êm. Vừa ồn ào vừa lặng lẽ). Và đã yêu thì bao giờ cũng tự cảm thấy lớn rộng nên không chịu được nơi chật chội. Nó là con sóng, dòng sông chật hẹp không hiểu nổi phải tìm ra biển lớn.
Vì sao thế? Giải thích sao được. Tình yêu muôn đời vẫn thế:
Ôi con sóng ngày xưa
Và ngày sau vẫn thế
Nỗi khát vọng tình yêu
Bồi hồi trong ngực trẻ
2. Nhưng khi yêu người ta lại cứ muốn tìm, muốn giải thích (Em nghĩ về anh, em). Vì tình yêu đòi hỏi tuyệt đối và triệt để. Vì sao ta yêu nhau? Ta yêu nhau từ bao giờ? Từ ngày nào? Giờ nào? Hỏi người yêu và tự hỏi mình. Nhưng cũng như sóng biển và gió trời vậy thôi, làm sao mà biết được.
Sóng bắt đầu từ gió
Gió bắt đầu từ đâu
Em cũng không biết nữa
Khi nào ta yêu nhau
Xuân Diệu ngày xưa từng viết ''Làm sao cắt nghĩa được tình yêu”. Tình yêu không cắt nghĩa được. Nó cứ chiếm lấy lòng ta không biết từ lúc nào và bằng cách nào.
3.Yêu bao giờ cũng đi với nhớ. Yêu thì tương tư. Nhớ da diết, nhớ không gì khuây nguôi được. Đoạn thơ từ câu thứ 17 đến câu thứ 26 là một tâm trạng tình xao xuyến, trăn trở, nồng nhiệt, say mê. Tình yêu của người đàn bà thật chân thành, mãnh liệt – con sóng tình yêu đã nổi lên dào dạt triền miên, dù trên mặt nước hay dưới lòng sâu. Nhớ nên luôn luôn tỉnh thức – thức cả trong mơ, như sóng biển triền miên dào dạt:
Ôi con sóng nhờ bờ
Ngày đêm không ngủ được
Như em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức
Cả bài thơ Sóng, nhưng rõ nhất là ở đoạn thơ này, nhịp thơ là nhịp sóng và nhịp sóng đến đoạn thơ này như mãnh liệt hơn, nồng nhiệt hơn, sôi nổi hơn. Tình yêu qua nỗi nhớ dường như đạt tới cao trào. Lời thơ hăm hở, náo nức hơn:
Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được
Dẫu xuôi về phương Bắc
Dẫu ngược về phương Nam
Nơi nào em cũng nghĩ
Hướng về anh một phương
4. Ba khổ thơ cuối phơi phới một niềm tin:
Ở ngoài kia đại dương
Trăm ngàn con sóng đó
Con nào chẳng tới bờ
Dù muôn vời cách trở
Yêu và tin đi liền với nhau. Khi đã đắm say thì không còn nghi ngờ gì nữa. Sau này qua nhiều trải nghiệm đắng cay, thơ tình Xuân Quỳnh sẽ không còn tin yêu phơi phới như thế nữa.
Cảm động nhất là niềm tin chắc chắn ở hạnh phúc, nhà thơ muốn tình yêu trở thành vĩnh viễn:
Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ
* Kết luận về bài thơ Sóng:
a) Sóng là bài thơ xinh xắn, trong sáng, tình yêu sôi nổi chân thực phát biểu thẳng thắn từ phía người đàn bà là một điều không có nhiều trong văn học ta.
Một tình yêu như thế khiến ta thêm tin yêu cuộc sống. Nó tăng cường sức sống làm cho con người trở nên đẹp hơn, cao cả hơn.
b) Bài thơ có hai nhân vật Sóng và em. Hai nhân vật tuy hai mà một, tuy một mà hai. Hai nhân vật so chiếu lẫn nhau. Tình yêu soi vào sóng, càng hiểu mình hơn. Đặc biệt trước biển lớn, con người không cảm thấy bé nhỏ, bơ vơ, mà ngược lại thấy mình lớn lao hơn, tin tưởng hơn, mạnh mẽ hơn.
|
Topic: Commentary on the poem Waves by Xuan Quynh
Suggest
Love poetry is Xuan Quynh's most unique poetry. Song Song is one of the best songs in this field of poetry.
Xuan Quynh's life has many unfortunate things. Her love also has many obstacles.
But this is a love poem in the early stages when the girl has not yet experienced much in her love life. Song Song is therefore vibrant, fresh and full of confidence in happiness and the future.
Analysis of the poem Waves by Xuan Quynh
Analyze love poetry, don't understand it according to conventional logic. It has its own logic and rules, it can only be felt and described, it cannot be explained, although the poet sometimes wants to explain and analyze.
1. First of all, love is an unusual psychological state (both fierce and gentle. both noisy and quiet). And when you're in love, you always feel so big that you can't stand cramped places. It is a wave, an incomprehensibly narrow river that must find its way to the big ocean.
Why is that? How can you explain? Love is forever the same:
Oh the waves of the past
And the next day it was still the same
The desire for love
Recovery in the child's chest
2. But when you love someone, you always want to find and explain (I think about you, me). Because love requires absolute and radical. Why did we fall in love? Since when did we love each other? From what date? What time? Ask your lover and ask yourself. But just like the ocean waves and the wind, how can we know?
Waves start from the wind
Where does the wind start
I do not know either
When do we love each other?
Xuan Dieu once wrote "How to explain love". Love cannot be explained. It keeps taking over my heart and I don't know when or how.
3. Love always comes with missing. Love is mutual. I miss you so much, I remember nothing can soothe me. The poem from verse 17 to verse 26 is a mood of excitement, concern, enthusiasm, and passion. The woman's love is so sincere and intense - the wave of love has emerged endlessly, whether on the surface of the water or in the depths. Remember to always be awake - awake even in dreams, like endless ocean waves:
Oh, the waves rely on the shore
Can't sleep day and night
As I remember you
Even in dreams and still awake
In the whole poem Waves, but most clearly in this poem, the rhythm of the poem is the rhythm of the waves and the rhythm of the waves in this poem seems to be more intense, more passionate, more exciting. Love through nostalgia seems to reach its climax. The poem is more enthusiastic and exciting:
Waves in the depths
Waves on the water
Oh, the waves miss the shore
Can't sleep day and night
Even if it goes to the North
Even though it's back to the South
Everywhere I think
Turning towards him in one direction
4. The last three stanzas reveal a belief:
Out there in the ocean
Hundreds of thousands of waves
None of them reached the shore
Despite all the obstacles
Love and trust go together. Once you're in love, there's no longer any doubt. Later, through many bitter experiences, Xuan Quynh's love poems will no longer believe in love like that.
The most touching thing is his firm belief in happiness. The poet wants love to become eternal:
How to dissolve?
Into hundreds of small waves
In the middle of a great sea of love
Let it still flap for thousands of years
* Conclusion about the poem Waves:
a) Waves is a lovely, pure poem, the passionate and real love expressed frankly from a woman is something that is not found much in our literature.
Such a love makes us believe in life more. It enhances vitality and makes people more beautiful and noble.
b) The poem has two characters, Wave and you. The two characters are two but one, but one but two. The two characters compare each other. Love shines on the waves, the more you understand yourself. Especially in front of the big ocean, people do not feel small or helpless, but on the contrary, they feel bigger, more confident, and stronger.
|
Đề bài: Bình giảng bài thơ Thu điếu (Câu cá mùa thu) của Nguyễn Khuyến
Bài làm
Đi câu là một cái thú thanh tao của các bậc trí giả. Có bậc hiền nhân có tài, bất đắc chi đi câu để chờ thời. Ngồi trên bờ ai mà nghĩ đến chuyện năm châu bốn biển, nghĩ đến thế sự đảo điên. “Cá ăn đứt nhợ vểnh râu ngồi bờ” (có người còn dùng lưỡi câu thẳng như Khương Tử Nha – Trung Quốc). Có bậc đại nhân vác cần đi câu để hương thú nhàn tản, hòa hợp với thiên nhiên, suy tư trong trạng thái thư giãn. Nguyễn Khuyến đi câu theo kiểu này. Ông đã mở hết các giác quan để cảm nhận mùa thu, cũng là mùa câu của xứ Bắc. Như những đứa trẻ trong xóm, ông câu cá cũng chăm chú, cũng hồi hộp, cũng say mê. Kết quả của cuộc chơi ấy là ông đã được một bài thơ “Thu điếu” vào loại kiệt tác của nền vãn học nước nhà:
Ao thu lạnh lẽo nước trong veo,
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo.
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí,
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo.
Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt.
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo.
Tựa gối, ôm cần lâu chẳng được,
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.
Hình ảnh mùa thu hiện lên trong bài thơ với một không gian hẹp ở chốn làng quê của tác giả, trong một cái ao nhỏ với chiếc thuyền câu nhẹ thênh thênh:
Ao thu lạnh lẽo nước trong veo,
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo.
Cái tôi trữ tình lặn phía sau ngôn từ. Cảm giác của thi nhân thì hiện lên sắc sảo và tinh tế. Mùa thu đã vào chiều sâu, “ao thu lạnh lẽo” với mặt nước “trong veo” rất muốn nhìn, ao thu như là chiếc gương tròn của làng quê. Làng Bùi của nhà thơ là đồng chiêm trũng rất nhiều ao, ao nhỏ. Ao nhỏ thì thuyền câu cũng nhỏ theo “bé tẻo teo”, vần eo là thử vận hiểm hóc, vậy mà câu thơ trôi chảy tự nhiên như không, như không có chút gì là kĩ xảo cả.
Thuyền câu đã hiện ra đấy mà người câu đâu chẳng thấy. Cũng chưa thấy cần thấy nhợ gì cả. Người đi câu còn mải mê với trời nước của mùa thu:
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí,
Lá vàng, trước gió khẽ đưa vèo.
Ao thu không còn tĩnh lặng nữa mà đã nổi sóng với hai thanh trắc ở đầu câu (sóng biếc) và hai thanh trắc ở cuối câu (gợn tí). Sóng nhỏ vì ao nhỏ, lại là trong chỗ khuất. Gió nhẹ, gió heo may mùa thu. Sóng lại có màu sắc, “sóng biếc” thật đẹp. Ngòi bút của tác giả tinh tế đến từng chi tiết nhỏ. Hai câu thực đối rất chỉnh “sóng biếc" đối với “lá vàng”, đều là màu sắc đặc trưng của mùa thu. “Hơi gợn tí” đối với “khẽ đưa vèo”, vận động của chiều dọc tương xứng với vận động của chiều ngang thật tài tình.
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo.
Nhà thơ đã thả hồn theo chiếc lá vàng “khẽ đưa vèo" trên mặt ao trong veo. Cái màu vàng của mùa thu mà bao nhiêu thi nhân đã ngợi ca:
Con nai vàng ngơ ngác
Đạp trên lá vàng khô
(Lưu Trọng Lư)
Vàng rơi! Vàng rơi! Thu mênh mông.
(Bích Khê)
Và đây là chiếc lá vàng của Nguyễn Khuyến trong bài thơ “Thu điếu” dưới ánh mắt của Xuân Diệu: “Cái thú vị của bài Thu Điếu ở các điệu xanh, xanh ao, xanh bờ, xanh sóng, xanh tre, xanh trời, xanh bèo, có một màu vàng đâm ngang của chiếc lá thu rơi…”. Lời bình của Xuân Diệu thật là tâm đắc.
Nhà thơ mở không gian lên chiều cao tạo nên không khí khoáng đạt và không gian được mở rộng nên bức tranh "Thu điếu” thêm đường nét, thêm màu sắc:
Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt,
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo.
Màu da trời “xanh ngắt” thật là đẹp, màu xanh xao mà tha thiết. Trong màu “xanh ngắt” có cái thăm thẳm của chiều cao. Mây không trôi mà “lơ lửng” những áng mây trắng “lơ lửng” trên bầu trời “xanh ngắt” thật là thanh bình. Rồi tác giả lại trở về cận cảnh với hình ảnh của làng quê. “Ngõ trúc quanh co”, đường làng quanh co thân thuộc với bóng tre trùm mát rượi. Nhưng bao giờ trong thơ Nguyễn Khuyến tre cũng nói là trúc, “Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu” (Thu vịnh), “Ngõ trúc quanh co khách vắng teo”. Nguyễn Khuyến thích cái hình thể loại cây chí khí ấy “Trúc dầu cháy đốt ngay vẫn thẳng”. Những nét trúc thẳng đốì lập với những nét quanh co của đường làng thật là gợi cảm. Trời lạnh, đường quê vắng vẻ, “khách váng teo”. Bức tranh thu đượm buồn. Các thi sĩ thích miêu tả cảnh thu trong tĩnh lặng, đẹp, nhưng buồn. Sau Nguyễn Khuyến, nhà thơ lãng mạn Xuân Diệu cũng viết:
Đã nghe rét mướt luồn trong gió
Đã vắng người sang những chuyến đò
(Đây mùa thu tới)
Bài thơ kết thúc với hình ảnh của người đi câu như một nét tự họa:
Tựa gối, ôm cần lâu chẳng được,
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.
Nhà thơ thu mình lại “tựa gối ôm cần”, dường như để tương xứng với khung ao nhỏ, với chiếc thuyền “bé tẻo teo”. Người đi câu đang đắm chìm trong suy tư thì một cử động đã làm cho nhà thơ sực tỉnh:
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.
Ba chữ “đ” (đâu, đớp, dộng) miêu tả một chút xao động trong làn ao và rất nhiều xao động trong lòng thật là tài tình.
Có ý kiến cho rằng cử chỉ đi câu của Nguyễn Khuyến giống với Khương Tử Nha và nhà bình luận đó hết lời ngợi ca cả hai ông. Không! Nguyễn Khuyến đâu có còn chờ thời. Nhà thơ chỉ muôn tan hòa vào thiên nhiên, vào non nước. Toàn bộ hình tượng thơ “Thu điếu” đã sửa soạn cho thái độ này. Khung cảnh hẹp, làn ao nhỏ, chiếc thuyền “bé tẻo teo”. Nhà thơ thu mình lại “tựa gối ôm cần” hòa điệu với thiên nhiên, tan hòa với non nước. Thế thì làm sao thái độ đi câu của Nguyễn Khuyên lại giống với thái độ đi câu của Khương Tử Nha được? Còn đồng tình với ai đó là chuyện riêng. Tôi đồng tình với Nguvễn Khuyến.
Trong chùm thơ bài viết về mùa thu của Nguyễn Khuyến, nếu được chọn một bài thì đó là bài “Thu điếu”. Bài thơ "Thu điếu” là kiệt tác trong nền thơ cổ điển nước nhà. Bức tranh mùa thu được miêu tả bằng những hòa sắc tinh tế, những đường nét gợi cảm. Nhạc điệu cũng độc đáo. vần gieo hiểm hóc mà tự nhiên, hồn nhiên. Theo Xuân Diệu, cả bài thơ không còn lép chữ nào. Thật là một nghệ sĩ cao tay. Cái tình của nhà thơ cũng theo kịp cái tài. Cái tình của nhà thơ đối với quê hương làng cảnh, với non sông đất nước thấm trong mỗi chữ mỗi lời làm xúc động hết thảy mỗi tâm hồn Việt Nam.
|
Topic: Commentary on the poem Thu cai (Autumn fishing) by Nguyen Khuyen
Assignment
Fishing is an elegant hobby for wise people. There are talented sages who have no choice but to go fishing to wait for the right time. Sitting on the shore, who would think about the five continents and four seas, thinking about the world going crazy? "If a fish eats it, it will sit on the bank with its beard raised" (some people even use straight hooks like Khuong Tu Nha - China). There are great people who carry fishing rods to relax, be in harmony with nature, and reflect in a state of relaxation. Nguyen Khuyen goes fishing this way. He opened all his senses to feel autumn, which is also the fishing season in the North. Like the children in the neighborhood, he fished attentively, nervously, and passionately. The result of that game was that he received a poem called "Thu Quiu" which is considered a masterpiece of the country's literature:
Cold pond water is clear collected,
A tiny fishing boat atrophy.
Blue waves follow the slight ripples,
Yellow leaves gently sway in the wind.
Clouds hang in the blue sky.
The winding bamboo alley is empty of customers.
I can't lean on a pillow or hug for too long,
The fish do not bite under the duck's feet.
The image of autumn appears in the poem in a narrow space in the author's village, in a small pond with a light fishing boat:
Cold pond water is clear collected,
A tiny fishing boat atrophy.
The lyrical ego dives behind words. The poet's feelings appear sharp and delicate. Autumn has deepened, the "cold autumn pond" with its "clear" water surface is very desirable to look at, the autumn pond is like a round mirror of the countryside. The poet's Bui village is a sunken field with many ponds and small ponds. If the pond is small, the fishing boats are also "tiny and tiny", and the rhyme is a dangerous test, yet the verse flows as naturally as if it were nothing, as if there was no skill at all.
The fishing boat appeared but the fisherman was nowhere to be seen. I also don't see anything that needs to be seen. Anglers are still engrossed in the weather and water of autumn:
Blue waves follow the slight ripples,
Yellow leaves, gently swaying in the wind.
The autumn pond is no longer quiet but has waves with two trace tones at the beginning of the sentence (blue waves) and two trace tones at the end of the sentence (ripples). The waves are small because the pond is small and in a hidden place. The wind is light, the wind is good for autumn. The waves have colors, "blue waves" are so beautiful. The author's pen is delicate to every small detail. The two sentences are very accurate, "blue waves" for "yellow leaves", both are typical colors of autumn. "A little ripple" for "gentle wave", the vertical movement corresponds to the movement. of horizontality is ingenious.
Yellow leaves gently sway in the wind.
The poet let his soul follow the yellow leaves "gently swaying" on the surface of the clear pond. The yellow color of autumn that many poets have praised:
Golden deer bewildered
Stepping on dry yellow leaves
(Luu Trong Lu)
Falling gold! Falling gold! Immense autumn.
(Bich Khe)
And this is Nguyen Khuyen's golden leaf in the poem "Thu Dieu" under Xuan Dieu's eyes: "The interesting thing about Thu Dieu is the melodies of green, pond green, shore green, wave green, bamboo green, sky blue , duck green, with a horizontal yellow color of fallen autumn leaves...". Xuan Dieu's comments are truly inspiring.
The poet opens the space to a higher height, creating a spacious atmosphere and the space is expanded, so the painting "Thu Ci" has more lines and colors:
Clouds hang in the blue sky,
The winding bamboo alley is empty of customers.
The "blue" color of the sky is truly beautiful, pale but earnest. In the color "blue" there is the abyss of height. The clouds do not float but "float" white clouds "floating" in the "blue" sky, which is truly peaceful. Then the author returns to the close-up image of the village. "Crooked bamboo alley", familiar winding village road with cool bamboo shade. But always in Nguyen Khuyen's poetry, bamboo is also said to be bamboo, "The bamboo cane floats in the wind" (Thu Vinh), "The winding bamboo alley is empty of customers." Nguyen Khuyen likes the shape of that spirited tree: "Bamboo burns evenly and remains straight". The straight lines of bamboo contrasting with the winding lines of the village roads are truly sexy. The weather is cold, the country roads are deserted, "the customers are dizzy". A sad autumn picture. Poets like to describe autumn scenes as quiet, beautiful, but sad. After Nguyen Khuyen, romantic poet Xuan Dieu also wrote:
I heard the cold sound in the wind
There were no people on the boats
(Here comes autumn)
The poem ends with the image of the fisherman as a self-portrait:
I can't lean on a pillow or hug for too long,
The fish do not bite under the duck's feet.
The poet crouched down, "leaning on his knees and hugging his rod", seemingly to match the frame of the small pond, with the "tiny" boat. The fisherman was immersed in thought when a movement woke the poet up:
The fish do not bite under the duck's feet.
The three words "d" (dat, dap, dong) describe a little turbulence in the pond and a lot of tumult in the heart, very cleverly.
There is an opinion that Nguyen Khuyen's fishing behavior is similar to Khuong Tu Nha's and that commentator praised both men. Are not! Nguyen Khuyen is no longer waiting for the right time. The poet just wants to dissolve into nature, into the mountains and water. The entire poetic image of "Thu Quy" has prepared for this attitude. The scene is narrow, the pond is small, the boat is "tiny". The poet crouched down, "leaning on his knees and hugging his rod" in harmony with nature, in harmony with the mountains and water. So how can Nguyen Khuyen's fishing attitude be similar to Khuong Tu Nha's fishing attitude? Agreeing with someone is a personal matter. I agree with Nguv Khuyen.
In Nguyen Khuyen's collection of poems about autumn, if I were to choose one song, it would be "Autumn Festival". The poem "Autumn Festival" is a masterpiece in the country's classical poetry. The autumn picture is depicted with delicate color harmonies and sensual lines. The music is also unique. The rhyme is dangerous yet natural. , innocent. According to Xuan Dieu, the whole poem has no missing words. What a talented artist, the poet's love for his homeland and the mountains The country's river permeates every word, every word, touching every Vietnamese soul.
|
Đề bài: Bình giảng bài thơ Thăng Long thành hoài cổ của Bà Huyện Thanh Quan
Bài làm
Bài “Thăng Long thành hoài cổ" của Bà Huyện Thanh Quan, chỉ đọc qua một lần, nhưng cái điệu thơ, hồn thơ làm ta bâng khuâng mãi:
“Tạo hóa gây chi cuộc hí trường,
Đến nay thấm thoắt mấy tinh sương
Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo,
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương.
Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt,
Nước còn cau mặt với tang thương.
Ngàn năm tương cũ soi kim cổ,
Cảnh đấy người đây luống đoạn trường”
Bà Huyện Thanh Quan sống vào nửa đầu thế kỉ XIX ở nước ta. Bà chỉ để lại khoảng 6 bài thơ Nôm, thể thất ngôn bát cú Đường luật. "Qua Đèo Ngang”, “Chiều hôm nhớ nhà", “Thăng Long thành hoài cổ”, “Chùa Trấn Bắc”… là những bài thơ kiệt tác trong nền thi ca trung đại của dân tộc. Ngôn ngữ trang nhã, giọng thơ du dương, điệu thơ chậm và buồn, màu sắc cổ kính, tài hoa… là phong cách thơ của nữ sĩ.
Làng Nghi Tàm ven Hồ Tây là quê cha đất tổ của Bà Huyện Thanh Quan. Xuất thân trong một gia đình quý tộc đời Lê, nên Thăng Long mãi mãi để lại trong tâm hồn nữ sĩ những tình cảm vô cùng sâu sắc. Đầu thế kỉ XIX, Phú Xuân trở thành Kinh đô của triều Nguyễn, Thăng Long được đổi thành Hà Nội. Nỗi niềm tâm sự nhớ xưa kinh thành Thăng Long là nỗi niềm của người đi xa. Có thể Bà Huyện Thanh Quan viết bài thơ này trong thời gian làm nữ quan “Cung trung giáo tập” tại Phú Xuân, những tháng ngày xa cố hương, xa nơi nghìn năm văn vật.
Hai câu trong phần “đề” như một tiếng than cất lên, suy ngẫm về lẽ phế, hưng, đổi thay trong cuộc đời:
"Tạo hoá gây chi cuộc hí trường,
Đến nay thấm thoắt mấy tinh sương”.
“Hí trường” là sân khấu, là nơi diễn trò mua vui. Ông Trời gây ra làm chi cái cảnh đời như sân khấu, diễn hết trò này đến trò khác. Hai tiếng “gây chi” vừa là lời trách, vừa là lời than. “Cuộc hí trường” ấy cứ diễn ra bao nhiêu trò: khóc, cười, buồn, vui, đã nhanh chóng trải qua nhiều năm tháng. Thăng Long… Đông Đô… Thăng Long… Hà Nội… Sau vần thơ là đôi mắt buồn, nhìn sâu thẳm vào dòng đời, thời gian lịch sử, một cái nhìn xa vắng mênh mông. Có cả tiếng thở dài ngao ngán.
Gần một thiên niên kỉ đã trôi qua. Còn đâu những “vàng son” một thời chói lọi nữa? Hai câu 3, 4 đối nhau, diễn tả cảnh hoang tàn, phế tích của kinh thành xưa:
“Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo,
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương"
Đường bàn cờ dọc ngang nơi Long Thành xưa kia từng suốt đêm ngày rộn rịp ngựa xe của các ông hoàng, bà chúa, những xe tứ mã của các vương công, quốc thích. Nhưng nay chỉ còn lại "thu thảo”, cỏ mùa thu vàng úa. “Thu thảo” như một chứng nhân buồn và tàn tạ. Cái hồn mùa thu cũng là cái hồn thiêng sông núi, cái hồn thiêng Thăng Long được cảm nhận từ sắc màu cỏ thu úa vàng, cỏ cây cũng mang nỗi buồn. Con đường càng trở nên vắng vẻ. Những cung điện
nguy nga, những lầu son gác tía, những bệ ngọc hành cung huy hoàng, tráng lệ thời Lê – Trịnh vì chiến tranh loạn lạc, vì sự thay chủ đổi ngôi, nay đổ nát hoang tàn, chỉ còn lại “nền cũ"'.
“Nghìn năm dinh thự thành quan lộ,
Một dải tàn thành lấp cố cung”.
“Thành Thăng Long" – Nguyễn Du)
Cảnh vật càng trở nên ảm đạm dưới “bóng tịch dương”, bóng mặt trời lúc sắp lặn. Bao trùm lên vần thơ là một màu vàng tàn tạ: màu vàng úa của “thu thảo”, màu vàng nhạt nhòa của “bóng tịch dương”. Nỗi hoài cổ, nỗi nhổ xưa như dồn nén bao nỗi buồn chất chứa trong lòng nữ sĩ.
Phép đối được sử dụng thần tình: “lối xưa” với "nền cũ", “xe ngựa” với “lâu đài”, “hồn thu thảo” với “bóng tịch dương” được cấu trúc cân xứng, hài hòa. Thanh điệu bằng, trắc hô ứng nhau tạo nên âm điệu du dương, trầm bổng như đưa hồn ta về xa xưa, năm tháng, những thuở vàng son của Kinh thành Thăng Long thời Lý, Trần, Lê, cái buổi hưng thịnh thanh bình…
Nỗi buồn hoài cổ ấy, một lần nữa lại được nữ sĩ diễn tả rất hay trong bài thơ “Chùa Trấn Bắc”, cảnh vật cỏ hoa như còn vương hương một thời quá vãng:
“Trấn Bắc hành cung cỏ dãi dầu,
Khách qua đường dễ chạnh niềm đau.
Mấy dò sen rớt hơi hương ngự,
Năm thức mây phong nếp áo chầu…”
Nhà thơ như đứng lặng trầm ngâm nhìn sắc màu thời gian, nỗi buồn tỏa rộng, càng trở nên thâm thía.
Vật có đổi, sao có dời, nhưng tàn “nước” và, “đá” vẫn còn đó, vẫn thách thức cùng tuế nguyệt, cùng tang thương. Hai câu trong phần "luận ” nói về “nước” và “đá ” như những chứng nhân của lịch sử, của phế tích hoang tàn:
“Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt,
Nước còn cau mặt với tang thương”
"Đá" và “nước” được nhân hóa, mang tình người và hồn người. Trên cái “nền cũ lâu đài”, đá thách thức cùng năm tháng “vẫn trơ gan” đau đớn, buồn thương. Nơi bến cũ, hồ xưa, “nước còn cau mặt” với mọi đổi thay, “với tang thương” cuộc đời. Lấy cái bất biến: “vẫn trơ gan", “còn cau mặt” của đá và nước để làm nổi bật cái tang thương cuộc đời là một nét vẽ “hoài cổ" làm rung động lòng người gần hai trăm năm qua. Có trải qua loạn lạc, chiến ưanh và phế hưng ở đời mới thấy hay, mới thấy thấm thía. Phép đối chặt chẽ, cách sử dụng, từ Hán Việt (tuế nguyệt, tang thương) tinh tế, đã làm tăng chất súc cảm của vần thơ. Qua hình ảnh ẩn dụ "đá” và “nước", nữ sĩ gửi gắm nỗi buồn thương nhớ và tiếc nuối kinh thành Thăng Long một thời vàng son, huy hoàng và chói lọi. Chất hoài cổ như thấm vào đáy tầng sâu của lòng người, cảnh vật, cỏ hoa…
Hai chữ "tang thương" (tang điền thương hải), “bể dâu” xuất hiện đậm nét trong thơ văn Việt Nam trong nửa đầu thế kỉ XIX, nhất là trong “Truyện Kiều”, trong không ít bài thơ chữ Hán của Nguyễn Du. Đó là dấu ấn một thời:
“Cuộc thương hải tang điền mấy lớp,
Cõi nhân gian thành quách đổi dời.
Tây Sơn cơ nghiệp đâu rồi,
Mà làng ca vũ một người còn trơ!”.
(Long Thành cầm giả ca- thơ dịch)
Cảm xúc hoài cổ dồn nén dâng lên ở hai câu trong phần kết:
“Ngàn năm gương cũ soi kim cổ,
Cảnh đấy người đây luống đoạn trường”
“Gương cũ” là chuyện đời, là quá khứ và hiện tại, là Thăng Long xưa, là Hà Nội nay (thời nhà Nguyễn). Cảnh đấy là “lối xưa”, là “nền cũ”, “hồn thu thảo ” và “bóng tịch dương”, là “đá” và “nước”, là hồn nước thiêng liêng, là Kinh thành xa xưa… “Người đây” là nữ sĩ, là nhân vật trữ tình trong bài thơ. “Đoạn trường" nghĩa là đứt ruột, nỗi đau ghê gớm. Nữ sĩ vô cùng đau đớn trước cảnh hoang phế, hoang tàn của Kinh thành Thăng Long. Nhớ xưa thành Thăng Long là nhớ tới tất cả niềm tự hào những trang sử vàng chói lọi của tiền nhân… Hai chữ “ngàn năm" gợi nhớ thiên niên kỉ Thăng Long huy hoàng. Hai vế tiểu đối: “cảnh đấy" "người đây” làm nổi bật sắc điệu thẩm mĩ tả cảnh ngụ tình. Câu 1 nói về “cuộc hí trường”, câu 8 cực tả "đoạn trường" – đó là cảm xúc chủ đạo của bài thơ. Có chứng kiến, có nhìn thấy sự đổi thay đến thấm thoắt nhanh chóng nơi Kinh thành xưa thì mới có nỗi đau “đoạn trường” đến như vậy.
“Thăng Long thành hoài cổ” xứng đáng là viên ngọc quý trong nền thi ca cổ điển Việt Nam. Từ nhan đề đến thi liệu, từ phép đối đến cách lựa chọn từ Hán Việt, từ ngôn ngữ trang nhã đến nhạc điệu du dương – tất cả tạo nên màu sắc cổ điển, thi vị. Màu sắc hoàng hôn, bóng tịch dương đã tô đậm chất hoài cổ buồn man mác. Nỗi buồn hoài cổ mang tính nhân văn: nhớ tiếc một thời vàng son của Thăng Long cũng là trở về cội nguồn của dân tộc, tự hào về sức sống và nền văn hiến Đại Việt. Bài thơ giúp mỗi chúng ta yêu thêm, gắn bó tâm hồn mình với Thăng Long, Đông Đô, Hà nội, “hồn núi sông ngàn năm”…
|
Đề bài: Bình giảng bài thơ Thăng Long thành hoài cổ của Bà Huyện Thanh Quan
Bài làm
Bài “Thăng Long thành hoài cổ" của Bà Huyện Thanh Quan, chỉ đọc qua một lần, nhưng cái điệu thơ, hồn thơ làm ta bâng khuâng mãi:
“Tạo hóa gây chi cuộc hí trường,
Đến nay thấm thoắt mấy tinh sương
Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo,
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương.
Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt,
Nước còn cau mặt với tang thương.
Ngàn năm tương cũ soi kim cổ,
Cảnh đấy người đây luống đoạn trường”
Bà Huyện Thanh Quan sống vào nửa đầu thế kỉ XIX ở nước ta. Bà chỉ để lại khoảng 6 bài thơ Nôm, thể thất ngôn bát cú Đường luật. "Qua Đèo Ngang”, “Chiều hôm nhớ nhà", “Thăng Long thành hoài cổ”, “Chùa Trấn Bắc”… là những bài thơ kiệt tác trong nền thi ca trung đại của dân tộc. Ngôn ngữ trang nhã, giọng thơ du dương, điệu thơ chậm và buồn, màu sắc cổ kính, tài hoa… là phong cách thơ của nữ sĩ.
Làng Nghi Tàm ven Hồ Tây là quê cha đất tổ của Bà Huyện Thanh Quan. Xuất thân trong một gia đình quý tộc đời Lê, nên Thăng Long mãi mãi để lại trong tâm hồn nữ sĩ những tình cảm vô cùng sâu sắc. Đầu thế kỉ XIX, Phú Xuân trở thành Kinh đô của triều Nguyễn, Thăng Long được đổi thành Hà Nội. Nỗi niềm tâm sự nhớ xưa kinh thành Thăng Long là nỗi niềm của người đi xa. Có thể Bà Huyện Thanh Quan viết bài thơ này trong thời gian làm nữ quan “Cung trung giáo tập” tại Phú Xuân, những tháng ngày xa cố hương, xa nơi nghìn năm văn vật.
Hai câu trong phần “đề” như một tiếng than cất lên, suy ngẫm về lẽ phế, hưng, đổi thay trong cuộc đời:
"Tạo hoá gây chi cuộc hí trường,
Đến nay thấm thoắt mấy tinh sương”.
“Hí trường” là sân khấu, là nơi diễn trò mua vui. Ông Trời gây ra làm chi cái cảnh đời như sân khấu, diễn hết trò này đến trò khác. Hai tiếng “gây chi” vừa là lời trách, vừa là lời than. “Cuộc hí trường” ấy cứ diễn ra bao nhiêu trò: khóc, cười, buồn, vui, đã nhanh chóng trải qua nhiều năm tháng. Thăng Long… Đông Đô… Thăng Long… Hà Nội… Sau vần thơ là đôi mắt buồn, nhìn sâu thẳm vào dòng đời, thời gian lịch sử, một cái nhìn xa vắng mênh mông. Có cả tiếng thở dài ngao ngán.
Gần một thiên niên kỉ đã trôi qua. Còn đâu những “vàng son” một thời chói lọi nữa? Hai câu 3, 4 đối nhau, diễn tả cảnh hoang tàn, phế tích của kinh thành xưa:
“Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo,
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương"
Đường bàn cờ dọc ngang nơi Long Thành xưa kia từng suốt đêm ngày rộn rịp ngựa xe của các ông hoàng, bà chúa, những xe tứ mã của các vương công, quốc thích. Nhưng nay chỉ còn lại "thu thảo”, cỏ mùa thu vàng úa. “Thu thảo” như một chứng nhân buồn và tàn tạ. Cái hồn mùa thu cũng là cái hồn thiêng sông núi, cái hồn thiêng Thăng Long được cảm nhận từ sắc màu cỏ thu úa vàng, cỏ cây cũng mang nỗi buồn. Con đường càng trở nên vắng vẻ. Những cung điện
nguy nga, những lầu son gác tía, những bệ ngọc hành cung huy hoàng, tráng lệ thời Lê – Trịnh vì chiến tranh loạn lạc, vì sự thay chủ đổi ngôi, nay đổ nát hoang tàn, chỉ còn lại “nền cũ"'.
“Nghìn năm dinh thự thành quan lộ,
Một dải tàn thành lấp cố cung”.
“Thành Thăng Long" – Nguyễn Du)
Cảnh vật càng trở nên ảm đạm dưới “bóng tịch dương”, bóng mặt trời lúc sắp lặn. Bao trùm lên vần thơ là một màu vàng tàn tạ: màu vàng úa của “thu thảo”, màu vàng nhạt nhòa của “bóng tịch dương”. Nỗi hoài cổ, nỗi nhổ xưa như dồn nén bao nỗi buồn chất chứa trong lòng nữ sĩ.
Phép đối được sử dụng thần tình: “lối xưa” với "nền cũ", “xe ngựa” với “lâu đài”, “hồn thu thảo” với “bóng tịch dương” được cấu trúc cân xứng, hài hòa. Thanh điệu bằng, trắc hô ứng nhau tạo nên âm điệu du dương, trầm bổng như đưa hồn ta về xa xưa, năm tháng, những thuở vàng son của Kinh thành Thăng Long thời Lý, Trần, Lê, cái buổi hưng thịnh thanh bình…
Nỗi buồn hoài cổ ấy, một lần nữa lại được nữ sĩ diễn tả rất hay trong bài thơ “Chùa Trấn Bắc”, cảnh vật cỏ hoa như còn vương hương một thời quá vãng:
“Trấn Bắc hành cung cỏ dãi dầu,
Khách qua đường dễ chạnh niềm đau.
Mấy dò sen rớt hơi hương ngự,
Năm thức mây phong nếp áo chầu…”
Nhà thơ như đứng lặng trầm ngâm nhìn sắc màu thời gian, nỗi buồn tỏa rộng, càng trở nên thâm thía.
Vật có đổi, sao có dời, nhưng tàn “nước” và, “đá” vẫn còn đó, vẫn thách thức cùng tuế nguyệt, cùng tang thương. Hai câu trong phần "luận ” nói về “nước” và “đá ” như những chứng nhân của lịch sử, của phế tích hoang tàn:
“Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt,
Nước còn cau mặt với tang thương”
"Đá" và “nước” được nhân hóa, mang tình người và hồn người. Trên cái “nền cũ lâu đài”, đá thách thức cùng năm tháng “vẫn trơ gan” đau đớn, buồn thương. Nơi bến cũ, hồ xưa, “nước còn cau mặt” với mọi đổi thay, “với tang thương” cuộc đời. Lấy cái bất biến: “vẫn trơ gan", “còn cau mặt” của đá và nước để làm nổi bật cái tang thương cuộc đời là một nét vẽ “hoài cổ" làm rung động lòng người gần hai trăm năm qua. Có trải qua loạn lạc, chiến ưanh và phế hưng ở đời mới thấy hay, mới thấy thấm thía. Phép đối chặt chẽ, cách sử dụng, từ Hán Việt (tuế nguyệt, tang thương) tinh tế, đã làm tăng chất súc cảm của vần thơ. Qua hình ảnh ẩn dụ "đá” và “nước", nữ sĩ gửi gắm nỗi buồn thương nhớ và tiếc nuối kinh thành Thăng Long một thời vàng son, huy hoàng và chói lọi. Chất hoài cổ như thấm vào đáy tầng sâu của lòng người, cảnh vật, cỏ hoa…
Hai chữ "tang thương" (tang điền thương hải), “bể dâu” xuất hiện đậm nét trong thơ văn Việt Nam trong nửa đầu thế kỉ XIX, nhất là trong “Truyện Kiều”, trong không ít bài thơ chữ Hán của Nguyễn Du. Đó là dấu ấn một thời:
“Cuộc thương hải tang điền mấy lớp,
Cõi nhân gian thành quách đổi dời.
Tây Sơn cơ nghiệp đâu rồi,
Mà làng ca vũ một người còn trơ!”.
(Long Thành cầm giả ca- thơ dịch)
Cảm xúc hoài cổ dồn nén dâng lên ở hai câu trong phần kết:
“Ngàn năm gương cũ soi kim cổ,
Cảnh đấy người đây luống đoạn trường”
“Gương cũ” là chuyện đời, là quá khứ và hiện tại, là Thăng Long xưa, là Hà Nội nay (thời nhà Nguyễn). Cảnh đấy là “lối xưa”, là “nền cũ”, “hồn thu thảo ” và “bóng tịch dương”, là “đá” và “nước”, là hồn nước thiêng liêng, là Kinh thành xa xưa… “Người đây” là nữ sĩ, là nhân vật trữ tình trong bài thơ. “Đoạn trường" nghĩa là đứt ruột, nỗi đau ghê gớm. Nữ sĩ vô cùng đau đớn trước cảnh hoang phế, hoang tàn của Kinh thành Thăng Long. Nhớ xưa thành Thăng Long là nhớ tới tất cả niềm tự hào những trang sử vàng chói lọi của tiền nhân… Hai chữ “ngàn năm" gợi nhớ thiên niên kỉ Thăng Long huy hoàng. Hai vế tiểu đối: “cảnh đấy" "người đây” làm nổi bật sắc điệu thẩm mĩ tả cảnh ngụ tình. Câu 1 nói về “cuộc hí trường”, câu 8 cực tả "đoạn trường" – đó là cảm xúc chủ đạo của bài thơ. Có chứng kiến, có nhìn thấy sự đổi thay đến thấm thoắt nhanh chóng nơi Kinh thành xưa thì mới có nỗi đau “đoạn trường” đến như vậy.
“Thăng Long thành hoài cổ” xứng đáng là viên ngọc quý trong nền thi ca cổ điển Việt Nam. Từ nhan đề đến thi liệu, từ phép đối đến cách lựa chọn từ Hán Việt, từ ngôn ngữ trang nhã đến nhạc điệu du dương – tất cả tạo nên màu sắc cổ điển, thi vị. Màu sắc hoàng hôn, bóng tịch dương đã tô đậm chất hoài cổ buồn man mác. Nỗi buồn hoài cổ mang tính nhân văn: nhớ tiếc một thời vàng son của Thăng Long cũng là trở về cội nguồn của dân tộc, tự hào về sức sống và nền văn hiến Đại Việt. Bài thơ giúp mỗi chúng ta yêu thêm, gắn bó tâm hồn mình với Thăng Long, Đông Đô, Hà nội, “hồn núi sông ngàn năm”…
|
Đề bài: Bình giảng bài thơ Thương vợ của Tú Xương
Bài làm
Bà Tú Xương có thể đã phải chịu nhiều nghiệt ngã của cuộc đời nhưng bà lại có niềm hạnh phúc mà bao kiếp người vợ xưa không có được: Ngay lúc còn sống bà đã đi vào thơ ông Tú Xương với tất cả niềm thương yêu, trân trọng của chồng. Trong thơ Tú Xương, có một mảng lớn viết về người vợ mà bài Thương vợ là một trong những bài xuất sắc nhất.
Tình thương vợ sâu nặng của Tú Xương thể hiện qua sự thấu hiểu nỗi vất vả gian lao và phẩm chất cao đẹp của người vợ.
Câu thơ mở đâu nói hoàn cảnh làm ăn buôn bán của bà Tú. Hoàn cảnh vất vá, lam lũ được gợi lên qua cách nói thời gian, cách nêu địa điểm. Quanh năm là suốt cả năm, không trừ ngày nào dù mưa hay nắng. Quanh năm còn là năm này tiếp năm khác đến chóng mặt, đến rã rời chứ đâu phải chỉ một năm. Địa điểm bà Tú buôn bán là mom sông, cái doi đất nhô như lời giới thiệu, lại như một bối cảnh làm hiện lên hình bà Tú tần tảo, tất bật ngược xuôi:
Quanh năm buôn bán ở mom sông..
Thấm thía nỗi vất vả, gian lao của vợ, Tú Xương mượn hình ảnh con cò trong ca dao để nói về bà Tú. Có diều hình ảnh con cò trong ca dao đầy tội nghiệp mà hình ảnh con cò trong thơ Tú Xương còn tội nghiệp hơn. Con cò trong thơ Tú Xương không chỉ xuất hiện
trong cái rợn ngợp của không gian (như con cò trong ca dao) mà cái rợn ngợp của thời gian. Chỉ bằng ba từ khi quãng vắng, tác giả đã nói lên được cả thời gian, không gian heo hút, rợn ngợp, chứa đầy lo âu cái rợn ngợp của thời gian, đã làm hao hụt cả ý thơ. So với câu ca dao: Con cò lặn lội bờ sông, câu thơ của Tú Xương: Lặn lội thân cò khi quãng vắng là cả một sự sáng tạo. Cách đảo ngữ – đưa ra từ lặn lội lên đầu cáu, cách thay từ – thay từ con cò bằng thân cò – càng làm tăng nỗi vất vá gian truân của bà Tú. Từ thân
cò gợi cả nỗi đau thân phận, so với từ con của Tú Xương cũng sâu sắc thấm thía hơn.
Nếu câu thơ thứ ba gợi nỗi vất vả đơn chiếc thì câu thứ tư lại làm rõ sự vật lộn với cuộc sống của bà Tú:
Eo sèo mặt nước buổi đò đông.
Câu thơ gợi cảnh chen chúc, bươn chải trên sông nước của những người buôn bán nhỏ. Sự cạnh tranh chưa đến mức sát phạt nhau nhưng cũng không thiếu lời qua tiếng lại. Buổi đò đông đâu phải là ít lo âu, nguy hiểm hơn khi quãng vắng. Trong ca dao, người mẹ từng đặn con rằng:
. Con ơi nhớ lấy câu này
Sông sâu chớ lội, đò đầy chớ qua.
Buổi đò đông không chi có những lời phàn nàn, mè nheo, cáu gắt, những sự chen lấn, xô đẩy mà còn chứa đầy bất trắc hiểm nguy. Hai câu thực đối nhau về ngữ (khi quãng vắng đối với buổi đò đông) nhưng lại thừa tiếp nhau về ý để làm nổi bật sự vất vả gian truân của bà Tú: đã vất vả, đơn chiếc, lại thêm sự bươn chải trong hoàn cảnh chèn chúc làm ăn. Hai câu thực nói thực cảnh bà Tú đồng thời cho ta thấy thực tình của Tú Xương, đó là tấm lòng
xót thương da diết.
Cuộc sống vất vả gian truân càng ngời lên phẩm chất cao đẹp của bà Tú. Bà là người đảm đang tháo vát:
Nuôi đủ năm con với một chồng.
Mỗi chữ trong câu thơ Tú Xương đều chất chứa bao tình ý, từ đủ trong nuôi đủ vừa nói số lượng, vừa nói chất lượng. Bà Tú nuôi đủ cả con, cả chồng, nuôi đảm bảo đến mức:
Cơm hai bữa: cá kho rau muống
Quà một chiều: khoai lang, lúa ngô
(Thầy đồ dạy học)
Trong hai câu luận, Tú Xương một lần nữa cám phục sự hy sinh rất mực của vợ:
Năm nắng mười mưa dám quản công
Ở câu thơ này, nắng mưa chỉ sự vất vả, năm mười là số lượng phiếm chỉ, để nói số nhiều, được tách ra tạo nên một thành ngữ chéo (năm nắng mười mưa) vừa nói lên sự vất vả gian lao, vừa thể hiện được đức tính chịu thương chịu khô, hết lòng vì chồng vì con của bà Tú.
Trong những bài thơ viết về vợ của Tú Xương, bao giờ ta cũng bắt gặp hình ảnh hai người: bà Tú hiện lên phía trước, ông Tú khuất lấp ở phía sau, nhìn tinh mới thấy. Khi đã thấy rồi thì ấn tượng thật sâu đậm. ờ bài thơ thương vợ cũng vậy. ông Tú không xuất hiện trực tiếp nhưng vẫn hiển hiện trong từng câu thơ. Đằng sau cốt cách khôi hài, trào phúng là cả một tấm lòng, không chỉ thương mà còn tri ân vợ.
Về câu thơ Nuôi đủ năm con với một chồng, có người cho rằng ở đây ông Tú tự coi mình là một thứ con đặc biệt để bà Tú phải nuôi. Tú Xương đã không gộp mình với con để nói mà tách riêng, con riêng rất rạch ròi là để ông tự riêng tri ân vợ. Nhà thơ không chỉ cảm phục, biết ơn sự hi. sinh rất mực của vợ mà ông còn tự trách, tự lên án bản thân. ông không dựa vào duyên số để trút bỏ trách nhiệm. Bà Tú lấy ông là do duyên nhưng duyên
một mà nợ hai. Tú Xương tự coi mình là cái nợ mà bà Tú phải gánh chịu Nợ gấp đôi duyên, duyên ít nợ nhiều. ông chửi thói đời bạc bẽo, vì thói đời là một nguyên nhân sâu xa khiến bà Tú phải khổ.
Nhưng Tú Xương cũng không đổ vấy cho thói đời. Sự hờ hững của ông với con cũng là một biểu hiện của thói đời bạc bẽo. Câu thơ Tú Xương tự rủa mát mình cũng là lời tự phán xét, tự lên án:
Cô chồng hờ hững cũng như không
Ở cái thời mà xã hội đã có luật không thành văn đối với người phụ nữ: xuất giá tòng phu (lấy chồng theo chồng), đối với mối quan hệ vợ chồng thì phu xướng, phụ tùy (chồng nói, vợ theo), ‘thế mà có một nhà nho đám sòng phẳng với bản thân, với cuộc đời, đám tự thừa nhận mình là quân ăn lương vợ, không những đã biết nhận ra thiếu sót, mà còn đám tự nhận khuyết điểm. Một con người như thế chẳng đẹp lắm sao?
Nhan đề Thương vợ chưa nói hết sự sâu sắc trong tình cảm của Tú Xương đối với vợ cũng như chưa thể hiện được đầy đủ về đẹp nhân bản của hồn thơ Tú Xương. ở bài thơ này, tác giả không chỉ thương vợ mà còn ơn vợ, không chỉ lên án thôi đời mà còn tự trách.
Nhà thơ dám tự nhận khuyết điểm, càng thấy mình khiếm khuyết càng thương yêu, quý trọng vợ hơn.
Tình thương yêu, quý trọng vợ là cảm xúc có phần mới mẻ so với những cảm xúc quen thuộc trong văn học trung đại. Cảm xúc mới mẻ đó lại được diễn tả bằng hình ánh và ngôn ngữ quen thuộc của văn học dân gian, chứng tỏ hồn thơ Tú Xương dù mới lạ, độc đáo vẫn rất gần gũi với mọi người, vẫn có gốc rễ sâu xa trong tâm thức dân tộc.
|
Topic: Commentary on the poem Love Your Wife by Tu Xuong
Assignment
Mrs. Tu Xuong may have had to endure many hardships in life, but she had a happiness that her ex-wife did not have in many lifetimes: While still alive, she entered Mr. Tu Xuong's poetry with all her love, husband's respect. In Tu Xuong's poetry, there is a large section written about wives, of which the poem Loving Wife is one of the most excellent.
Tu Xuong's deep love for his wife is shown through his understanding of his wife's hardships and noble qualities.
The opening verse does not talk about Ms. Tu's business situation. The difficult and difficult circumstances are evoked through the way of saying time and place. All year round is all year round, no day is excluded whether rain or shine. All year round, it's year after year until it's dizzying and exhausting, not just one year. The place where Mrs. Tu does business is the riverbank, the promontory protruding like an introduction, is like a backdrop that shows the image of Mrs. Tu working hard, bustling back and forth:
Trade all year round at mom river..
Understanding the hardships and hardships of his wife, Tu Xuong borrowed the image of a stork in folk songs to talk about Mrs. Tu. There are many pitiful images of storks in folk songs, but even more pitiful images of storks in Tu Xuong poetry. The stork in Tu Xuong's poetry not only appears
in the horror of space (like the stork in folk songs) but in the horror of time. With just three words in the absence, the author has expressed the time and space that is remote, overwhelming, filled with anxiety, the horror of time, which has wasted the entire poetic meaning. Compared to the folk song: The stork wades on the riverbank, Tu Xuong's poem: The stork's body wades in the desert is a whole creation. The inversion - giving the word "dive" to the angry head, the word substitution - replacing the word stork with the body of a stork - further increases Mrs. Tu's hardships. From the body
Stork evokes the pain of fate, which is more profound than Tu Xuong's word child.
If the third verse evokes the hardship of loneliness, the fourth verse clarifies Mrs. Tu's struggle with life:
The tightness of the water surface during the winter ferry.
The poem evokes the hustle and bustle of small traders struggling on the river. The competition is not to the point of killing each other, but there is no shortage of words. A crowded boat trip doesn't mean there's less anxiety or danger than when it's empty. In the folk song, the mother once told her child:
. My son remember this sentence
The river is deep, don't wade, the boat is full, don't cross.
The crowded ferry is not only full of complaints, whining, irritation, jostling and pushing, but is also full of dangers and uncertainties. The two sentences are actually opposite in terms of language (when the time is empty for the winter ferry) but they overlap each other in meaning to highlight the hardships of Mrs. Circumstances hinder business. These two sentences tell the real story of Mrs. Tu and at the same time show us Tu Xuong's true feelings, which is her heart
deeply pitiful.
The hardships and hardships of life highlight Ms. Tu's noble qualities even more. She is a resourceful person:
Raising five children with one husband.
Each word in Tu Xuong's poem contains so much love, the word "enough" means both quantity and quality. Mrs. Tu takes care of both her children and her husband, ensuring that:
Two meals: braised fish with water spinach
One-way gifts: sweet potatoes, rice and corn
(Teaching teacher)
In two sentences, Tu Xuong once again admired his wife's great sacrifice:
Year of sunshine, ten days of rain, dare to manage the work
In this verse, sunshine and rain refer to hardship, five ten is a trivial number, to say the plural, it is separated to create a diagonal idiom (sunny year, ten rain) that both speaks of hardship and hardship. Demonstrates Mrs. Tu's virtue of being patient and devoted to her husband and children.
In the poems written about Tu Xuong's wife, we always see the image of two people: Mrs. Tu appears in the front, Mr. Tu is hidden behind, only when you look closely can you see it. Once I saw it, it left a deep impression. Well, the poem about loving your wife is the same. Mr. Tu does not appear directly but is still visible in each verse. Behind the humorous and satirical style is a whole heart, not only loving but also grateful to his wife.
Regarding the verse Raising five children with one husband, some people think that here Mr. Tu considers himself a special child for Mrs. Tu to raise. Tu Xuong did not combine himself with his child to speak but separated himself. His stepchild was very clear that he was allowed to express his gratitude to his wife in private. The poet is not only impressed and grateful for the compliment. His wife's life was very respectful, but he still blamed and condemned himself. he did not rely on fate to relieve himself of responsibility. Mrs. Tu married him because of fate
One owes two. Tu Xuong considers himself a debt that Mrs. Tu must bear. Debt is twice as much as fate, less fate, more debt. He cursed ungrateful life habits, because life habits were a profound cause of Mrs. Tu's suffering.
But Tu Xuong does not blame life's habits. His indifference to his children is also a manifestation of ungrateful life habits. Tu Xuong's poem cursing himself is also a word of self-judgment and self-condemnation:
The husband is indifferent as well
In a time when society had unwritten rules for women: follow the husband in marriage (marry according to the husband), and in the relationship between husband and wife, initiate and follow (the husband speaks, the wife follows). 'Yet there is a Confucian scholar who is fair with himself and with life, who admits that he is a soldier who earns his wife's salary, and not only knows how to recognize his shortcomings, but also acknowledges his own shortcomings. Isn't a person like that very beautiful?
The title Loving Wife does not fully express the depth of Tu Xuong's feelings for his wife nor does it fully express the human beauty of Tu Xuong's poetic soul. In this poem, the author not only loves his wife but is also grateful to her, not only condemns life but also blames himself.
The poet dares to admit his own shortcomings. The more he sees his own shortcomings, the more he loves and appreciates his wife.
Love and respect for one's wife are somewhat new emotions compared to familiar emotions in medieval literature. That new feeling is expressed in the familiar images and language of folk literature, proving that the soul of Tu Xuong's poetry, although new and unique, is still very close to everyone and still has deep roots in the soul. national consciousness.
|
Đề bài: Bình giảng bài thơ Tiến sĩ giấy của Nguyễn Khuyến
Bài làm
Nguyễn Khuyến có đến trên 50 câu đối và bài thơ trào phúng; câu đối nào, bài thơ nào cũng hóm hỉnh, đầy ý vị sâu xa:
Vua chèo còn chẳng ra gì,
Quan chèo vai nhọ khác chi thằng hề".
(Lởi vợ anh phường chèo)
"Bồ chứa miệng dân chừng bật cạp,
Tiên là ý chú muốn vòi xu".
(Bỏ tiên thi)
"Trời đất khéo thương chàng bạch quỷ,
Giang Stm riêng sướng ủ hổn}’ nhan".
(Lấy Tây)
Bài "Tiến sĩ giấy" (bài 2) cũng là một bài thơ trào phúng độc đáo của Nguyễn Khuyến, được viết bằng thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật:
"Cũng cờ, cũng biển, cũng cân đai,
Cũng gọi ông nghè có kém ai.
Mảnh giấy làm nên thân giáp bảng,
Nét son điểm rõ mặt văn khôi.
Tấm thân xiêm áo sao mà nhẹ?
Cái giá khoa danh ấy mới hời
Ghế tréo lọng xanh ngồi bảnh choẹ,
Nghĩ rằng đồ thật hoá đồ chơi!".
"Tiến sĩ giấy" còn được gọi là "Ông nghè tháng Tám " – một thứ đồ chơi trong dịp Tết Trung thu của trẻ em. Bài thơ có hai lớp nghĩa: vịnh Ông nghè tháng Tám, qua đó, Nguyễn Khuyến châm biếm những tiến sĩ giấy – hư danh, bất tài, vô dụng – trong xã hội thực dân nửa phong kiến.
Hình ảnh Ông nghè tháng Tám, thứ đồ chơi của trẻ em được tác giả miêu tả cụ thể, sinh động và hay bằng nhiều chi tiết: cờ, biển, cân đai, mảnh giấy, nét son, xiêm áo, ghế tréo lọng xanh ngồi bảnh chọe. Câu thứ tám rất hóm hỉnh. Ông nghè tháng Tám chỉ là một thứ đồ chơi nhưng lại làm cho mọi người tưởng lầm là đồ thật:
"Nghĩ rằng đồ thật hoá đồ chơi".
Sắc phục rực rỡ, tư thế "ngồi bảnh choẹ" rất buồn cười. Một thứ đồ chơi của trẻ em mà làm được như thế phải nói là khéo tay. Vì thế trong bài "Tiến sĩ giấy" (bài 1), Nguyễn Khuyến mới viết:
"Rõ chú hoa man khéo vẽ trò,
Bỡn ông mà lại dứ thằng cu.
Mày râu mặt đó chừng bao tuổi,
Giấy má nhà bay đáng mấy xu"…
Lớp nghĩa thứ hai của bài "Tiến sĩ giấy" thể hiện cái nhìn sâu sắc của tác giả về thân phận các ông nghè giữa thời buổi "Nào có ra gì cái chữ nho" (Tú Xương).
Hai câu đề, chữ "cũng" được điệp lại bốn lần đã làm cho giọng điệu giễu cợt cất lên cùng với cái cười mỉm về cờ biển, cân đai… của các ông nghè. Trang phục ấy, cờ biển ấy… đều là của vua ban cho "có kém ai". Cách so sánh để hỏi ấy cũng hàm ý giễu cợt:
"Cũng cờ, cũng biển, cũng cân đai,
Cũng gọi ông nghè có kém ai?".
"Có kém ai" về mặt "ân tứ vinh quy", hay "có kém ai" về mặt tài đức?
Hai câu thực nói về "thân giáp bảng" và "mặt văn khôi" của ông nghè. "Thân giáp bảng" chỉ là "mảnh giấy" mỏng manh được "làm nên". "Mặt văn khôi" chỉ là "nét son", được "tô vẽ", được "điểm rõ". Câu 3 và câu 4 đối chọi nhau tài tình. Ngôn từ và giọng điệu gợi cho người đọc nghĩ về sự tầm thường của những tiến sĩ giấy trong cái xã hội thực dân nửa phong kiến. Cái danh giá hão của ông nghè chỉ là "mảnh giấy dễ rách, chỉ là "nét son" dễ nhoè mà thôi!
"Mảnh giấy làm nên thân giáp bảng,
Nét son điểm rõ mặt văn khôi".
Cũng nói về cái hư danh của những ông nghè, có lúc nhà thơ giễu cợt:
"Mày râu mặt đó chừng bao tuổi,
Giấy má nhà bay đáng mấy xu!
( Tiến sĩ giấy- bài 1)
Cặp câu luận là sự bình phẩm, đánh giá về xiêm áo, về khoa danh của ông nghè: "sao mà nhẹ", "thế mới hời". Hời là tiếng cổ, nghĩa là dễ dãi, giá rẻ. Nhẹ và hời vì tầm thường. Không phải là thực tài, thực danh nên mới nhẹ, nên mới hời. Nhẹ và hời vì vô dụng và chỉ là hư danh, hư vị mà thôi. Tác giả sử dụng câu nghi vấn và câu cảm thán khẳng định, đối chọi nhau rất tài tình để châm biếm, để giễu cợt; giọng điệu thơ nhẹ nhàng mà mỉa mai:
"Tấm thân xiêm áo sao mà nhẹ?
Cái giá khoa danh ấy mới hời".
Hai câu kết,tác giả sử dụng nghệ thuật tương phản thật sắc sảo:
"Ghế tréo lọng xanh ngồi bảnh chọe,
Nghĩ rằng đồ thật hóa đồ chơi".
Cái tư thế ngồi rất oai: "ngồi bảnh chọe" trên "ghế tréo", "dưới lọng xanh". Ra vẻ vênh vang và tự đắc, hợm mình về sự cao sang phú quý. Nhưng "chỉ là đồ chơi". Tương phản ý ở câu 7 và câu 8, tương phản giữa "đồ thật" với "đồ chơi". Tương phản để châm biếm cái hư danh, hư vị của những tiến sĩ giấy dưới thời Pháp thuộc.
Trong gần một nghìn năm, chế độ khoa cử của nước ta đã đào tạo được hàng nghìn tiến sĩ. Có biết bao ông nghè đã đem đức tài làm rạng danh đất nước và dân tộc, lưu danh sử sách. Dưới thời Pháp thuộc, cả dân tộc là vong quôc nô, thì “ông nghè, ông cống cũng nằm co", hoặc thì trở thành hư danh, hư vị mà thôi. Nguyễn Khuyến là một nhà nho thực tài, ba lần đỗ đầu thi Hương, thi Hội, thi Đình. Thế nhưng trong cảnh ngộ đất nước bị ngoại bang thống trị, có lúc ông cảm thấy "thẹn":
"Sách và ích gì cho buổi ấy,
Áo xiêm nghĩ lại thẹn thân già".
(Ngày xuân dặn các con)
Có lúc ông lại tự cười mình, cười cái hư danh của mình:
"Nghĩ mình lại gớm cho mình nhỉ,
Thế cũng bia xanh cũng bảng vàng".
(Tự trào)
"Tiến sĩ giấy" là bức tranh biếm hoạ chế giễu, châm biếm những ông nghè trong thế kỉ XIX ở nước ta, tuy "Cũng cờ, cũng biển, cũng cân đai" nhưng chỉ là thứ "đồ chơi" của bọn Toàn quyền, Khâm sứ, Công sứ – những ông Tây bụng phệ mà thôi.
Tiếng cười trong "Tiến sĩ giấy" là tiếng cười trong nước mắt. Bài thơ cho thấy nghệ thuật dùng từ, các đối xứng, tạo giọng điệu rất điêu luyện, đúng là cụ Tam nguyên Yên Đổ xuất khẩu thành thơ.
Ngày nay, trong xã hội đã và đang xuất hiện không ít những tiến sĩ giấy mà báo chí từng nói đến. Đọc bài thơ này, ta càng cảm phục tài thơ Nguyễn Khuyến.
|
Topic: Commentary on the poem Paper Doctor by Nguyen Khuyen
Assignment
Nguyen Khuyen has over 50 couplets and satirical poems; Every couplet and every poem is humorous and full of profound meaning:
The rowing king is nothing,
A low-ranking mandarin is no different from a clown."
(From Ward Cheo's wife)
"The people's mouths are about to explode,
Tien means the uncle wants to ask for coins.
(Remove exam)
"Heaven and earth have mercy on the white ghost,
Giang Stm alone is happy and sad.
(Take West)
The song "Paper Doctor" (track 2) is also a unique satirical poem by Nguyen Khuyen, written in the Tang Luat seven-word, eight-syllable verse form:
"The same flag, the same sea, the same belt,
Also calling him poor is no less than anyone else.
The piece of paper that makes up the body of the board,
Lipstick highlights the writer's face clearly.
Why is the body so light?
That famous price is a bargain
The blue parasol chair sat elegantly,
Thinking that real things become toys!".
"Paper Doctor" is also known as "August Poor Man" - a toy during the Mid-Autumn Festival for children. The poem has two layers of meaning: the Bay of Ong Nghe Thang Tam, through which, Nguyen Khuyen satirizes paper doctors - vain, incompetent, useless - in a semi-feudal colonial society.
The image of Mr. Nghe An in August, a children's toy, is described by the author specifically, vividly, and beautifully with many details: flags, signs, weights, pieces of paper, strokes of lipstick, clothes, chairs with blue parasols. sit elegantly. The eighth sentence is very humorous. Mr. August is just a toy but makes people think it's real:
"Thinking that real things become toys".
The bright colors and "sleek" posture are very funny. A children's toy that can be made like that must be said to be skillful. That's why in the article "Paper Doctor" (article 1), Nguyen Khuyen wrote:
"It's clear that Uncle Hoa Man is skillful in drawing tricks,
You're teasing him but you're teasing him.
How old are you with that face?
The house's papers are worth a few cents"...
The second layer of meaning of the article "Paper Doctor" shows the author's insight into the status of poor men in the era of "There is no such thing as grapes" (Tu Xuong).
The two sentences, the word "also" repeated four times, made a mocking tone rise along with a smile about the sea flags, belt scales... of the young men. That outfit, that flag... were all given to "by no one else" by the king. This way of comparing and asking also implies ridicule:
"The same flag, the same sea, the same belt,
Is it any worse to call him poor?".
"Am I inferior to anyone" in terms of "honorable gifts", or "is I inferior to anyone" in terms of talent and virtue?
The two sentences actually talk about the old man's "strong body" and "literary face". "Body armor" is just a fragile "piece of paper" that is "made". The "literary face" is just a "lipstick", "painted", "clearly marked". Sentences 3 and 4 contrast each other cleverly. The language and tone remind readers of the insignificance of paper PhDs in a semi-feudal colonial society. His vain reputation is just "a piece of paper that easily tears, just a "lipstick" that easily smudges!
"The piece of paper that makes up the body of the armor,
Lipstick highlights the writer's face clearly.
Also talking about the vanity of poor men, the poet sometimes scoffed:
"How old are you with that beard and face?
Flying house papers are worth a few cents!
(PhD paper- lesson 1)
The pair of essays is a comment and evaluation of the poor man's clothes and reputation: "how light it is", "how good it is". Bargain is an old word, meaning easy, cheap. Light and cheap because it's trivial. It's not about real talent, it's about real reputation that's why it's light, so it's cheap. It's light and cheap because it's useless and is just vanity and vanity. The author uses interrogative sentences and affirmative exclamations, contrasting each other very skillfully to satirize and mock; The poetic tone is gentle yet ironic:
"Why is the body so light?
The price of that reputation is a bargain."
In the two concluding sentences, the author uses sharp contrasting art:
"The blue parasol cross-chair sits elegantly,
Thinking that real things become toys."
The sitting posture is very majestic: "sitting elegantly" on a "cross chair", "under a green parasol". Acting arrogant and proud, being snobbish about wealth and luxury. But "it's just a toy". Contrast the ideas in sentences 7 and 8, contrasting "real things" with "toys". Contrast to satirize the vanity and vanity of paper doctors under the French colonial period.
For nearly a thousand years, our country's academic system has trained thousands of PhDs. There are so many poor men who have brought their talents to honor the country and people, leaving their names in history books. During the French colonial period, the entire nation was a slave, so "the poor, the tributes are also poor", or they became just vain names and false positions. Nguyen Khuyen was a talented Confucian, who passed first three times. Huong exam, Hoi exam, Dinh exam. However, in the situation of the country being dominated by foreign countries, there were times when he felt "embarrassed":
"What is the use of books for that day?
Siamese shirt shy rethink old body".
(Spring day advice to children)
Sometimes he laughed at himself, at his vanity:
"Thinking I'm disgusting to myself, huh?
That's the same as green beer and gold plate."
(Self-mocking)
"Paper Doctor" is a caricature that mocks and satirizes poor men in the 19th century in our country. Although "It's the same flag, it's the same sign, it's also the belt" but it's just a "toy" of the Governor General. , Ambassadors, Ministers - only Western men with big bellies.
Laughter in "Paper Doctor" is laughter in tears. The poem shows a very skillful art of using words, symmetries, and creating a tone, exactly what Mr. Tam Nguyen Yen Do exported into poetry.
Today, in society there have been many paper doctorates that the press has talked about. Reading this poem, we admire Nguyen Khuyen's poetic talent even more.
|
Bình giảng bài thơ Tiếng hát con tàu
Hướng dẫn
Bình giảng bài thơ Tiếng hát con tàu
Chế Lan Viên là nhà thơ để lại cho hậu thế số lượng thơ lớn, thơ của ông rất dễ đi vào lòng người. Những câu thơ với âm hưởng mượt mà như những làn điệu trữ tình mà sâu sắc mà cũng mang chất giọng lạ táo bạo và đầy trí tuệ. “ Tiếng hát con tàu” là khúc hát yêu thương của một tấm lòng hướng về nguồn cội khi đã hóa thân “tâm hồn ta là Tây Bắc chứ còn đâu”.Nhà thơ ý thức rõ nhiệm vụ của người cầm bút và hướng tới cuộc sống mới bằng một tâm hồn khát khao mãnh liệt qua Tiếng hát con tàu.
Những kí ức những khát khao bùng cháy với miền Tây Bắc “Xứ thiêng liêng rừng núi hóa anh hùng”, những kỉ niệm ngày nào về tình nghĩa dân quân cả nước lại được sống dậy trong tâm tư tác giả. ”, nhớ mế: “Năm con đau mế thức một mùa dài”. Nhân dân được hiện ra trong quầng sáng ấp ám của nghĩa tình ruột thịt, đây là những người anh với “chiếc áo nâu suốt một đời vá rách”, Nhà thơ nhớ “thằng em liên lạc”, “người anh du kích những người mẹ “lửa hồng soi tóc bạc” đã hết lòng cưu mang đùm bọc che chở tác giả trong những ngày đầu của cuộc kháng chiến. Bên cạnh đó còn có những người mẹ, người anh không là “núm ruột rứt ra”, nhưng tấm lòng của nhân dân đáng quý đáng trọng đến dường nào!những tình cảm tha thiết được tác giả gửi gắm qua tác phẩm và từng câu chữ.
Khi ta ở chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi đất bỗng hóa tâm hồn.
Đây là hai câu thơ hay nhất và đúng là một chân lí dung dị và sâu sắc nhất. Nhẹ như không “hình tượng thơ trong đoạn thơ trên đã vận động từ cảm xúc đến suy tưởng. Từ những tình cảm nhớ thương mảnh đất con người, tác giả đã nâng cảm xúc lên thành một suy nghĩ. Đất là nơi vô tri vô giác nhưng khi con người gắn bó với nó thì nó cũng là một mảnh hồn của chính con người chúng ta. Đi xa thì phải nhớ phải thương.
Đoạn thơ trên có cái gì đó thật mông lung, mơ hồ như một thứ trái chín đỏ lấp ló giữa vườn xanh gợi cho ta biết bao háo hức, suy tưởng. Điều đó khiến người đọc như cùng chung dòng tâm tưởng của nhà thơ nhớ về những miền đất đã qua và đã sống, nhớ về những con người tuy “không phải hòn máu cắt” nhưng “trọn đời con nhớ mãi ơn nuôi”. Phải chăng chính sợi dây nghĩa tình ấy đã làm sống lại mảnh đất ngỡ như vô tri mà:
Khi ta ở đất chỉ là nơi đất ở.
Chính nghĩa tình sâu nặng dân quân đã hóa thân vào mảnh đất khiến cho nó cũng có tâm hồn:
Khi ta đi đất bỗng hóa tâm hồn.
Khi ta ở chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi đất bỗng hóa tâm hồn.
Không những thế mạch thơ đang vận động một cách đều đặn theo dòng suy tường đột nhiên bị chặn đứng lại bởi nỗi nhớ “bỗng” tràn về. Nhà thơ dành hẳn một đoạn thơ để viết cho “em”:
Anh bỗng nhớ em như đông về nhớ rét
Tình yêu ta như cánh kiến hoa vàng
Như xuân đến chim rừng lông trở biếc
Tình yêu làm đất lạ hoa quê hương.
Đoạn thơ như một nốt đệm rất lạ sang ngang dòng tâm tưởng. Vâng, lạ ngay từ câu đầu:
Anh bỗng nhớ em như đông về nhớ rét.
Câu thơ dường như có cái gì đó phi logic nhưng vẫn rất đúng với tình yêu. Và để minh chứng thêm cho điều đó nhà thơ đưa ra một loạt so sánh về tình yêu giữa anh và em như “Đông về nhớ rét” như “cánh kiến hoa vàng” như “xuân đèn chim rừng lông trở biếc”. Giữa muôn vàn định nghĩa về tình yêu phải chăng Chế Lan Viên đang tìm cho mình một định nghĩa mới về tình yêu? Phải chăng nhà thơ đang định nghĩa tình yêu thông qua những so sánh táo bạo đầy bất ngờ.
Đêm nay lạnh chăn chia làm hai nửa
Nửa đắp cho em ở vùng biển lạnh
Nửa đắp cho mình ớ phía không em.
Khi tình yêu đến một cách bất ngờ chữ “bỗng”thể hiện nỗi nhớ mà nỗi nhớ đã thiết tha như thật. Và cái giây phút “bỗng” ấy đã giúp họ tìm thấy nhau và tìm thấy chính mình.Tình yêu bỗng hiện ra lung linh sắc màu, giản dị mà thiêng liêng đến nhường nào. Và chính tình yêu ấy khiến
Tình yêu làm đất lạ hóa quê hương.
Không gì giản dị mà sâu sắc, khi trong tình yêu riêng dành cho em còn có cả tình yêu đốì với quê hương đất nước. Bản thân chúng ta cũng chợt nhận ra rằng càng biết yêu thương những điều riêng tư, ta càng yêu quê hương tha thiết hơn.
Bằng những lời thơ tràn trề cảm xúc và mạch chảy của nó là vô tận. Độc giả như chìm đắm vào thế giới của ông, của những nỗi nhớ của tình yêu đẹp đẽ. Và bài thơ chính là sự kết tinh của những vần thơ đẹp nhất là những vần thơ viết về tình yêu, về quê hương đất nước. Tiếng hát con tàu đã rất thành công với tình cảm trong sáng, chân thành, tha thiết được thể hiện qua trí tưởng tượng phong phú và khả năng liên kết, sáng tạo táo bạo, bất ngờ. Tác phẩm đã để lại nhiều dư vị trong lòng độc giả.
Nguồn: Bài văn hay
|
Commentary on the poem The Singing of the Ship
Instruct
Commentary on the poem The Singing of the Ship
Che Lan Vien is a poet who left behind a large number of poems. His poems easily reach people's hearts. The verses have a smooth sound like lyrical and profound melodies that also have a strange, bold and intellectual voice. "The Singing of the Ship" is a love song of a heart directed towards its origin when it has transformed into "our soul is the Northwest, not anywhere else". The poet is clearly aware of the writer's duty and looks forward to life. new life with a soul of intense desire through the Singing of the Ship.
Memories of burning desires for the Northwest region, "The sacred land of forests and mountains turning into heroes", memories of the past days of national militia love are revived in the author's mind. ", miss me: "The year I was sick, I missed a long season". The people are shown in the dark halo of kinship love, these are the brothers with the "brown shirt that has been patched for a lifetime", the Poet remembers the "contact brother", "the guerrilla brother who The author's mother, "the red fire illuminating gray hair", wholeheartedly supported and protected the author in the early days of the resistance war. Besides that, there are also mothers and brothers who are not "broken hearts", but how precious and precious the hearts of the people are! The passionate feelings are conveyed by the author through his work and each sentence. letter.
where we stay that lead a stay
When we go to the land suddenly turns soul.
These are the two most beautiful verses and truly the simplest and most profound truth. As light as nothing, "the poetic imagery in the above poem moves from emotions to thoughts. From feelings of longing for human land, the author raised the feeling to a thought. Land is an inanimate place, but when people are attached to it, it is also a piece of our own soul. When going away, you must remember to love.
There is something vague and vague in the above poem, like a ripe red fruit peeking out in the middle of a green garden, evoking a lot of excitement and thought. That makes the reader feel like he shares the poet's thoughts, remembering the past and lived lands, remembering the people who, although "not by blood" but "all my life, I will forever remember the kindness of being raised". Is it true that this bond of love has revived the seemingly lifeless land:
When we live, the land is just where the land lives.
The militia's profound sense of justice has incarnated into the land, making it also have a soul:
When we go to the land suddenly turns soul.
where we stay that lead a stay
When we go to the land suddenly turns soul.
Not only that, the poetic flow that was moving steadily along the line of thought was suddenly stopped by the nostalgia that "suddenly" flooded back. The poet dedicated a whole poem to "you":
I suddenly miss you like winter misses the cold
Our love is like a yellow lac flower
As spring comes, the feathers of forest birds turn blue
Love makes the land strange and flowers the homeland.
The poem is like a very strange padding note across the line of thought. Yes, strange right from the first sentence:
I suddenly miss you like winter misses the cold.
The poem seems to have something illogical but is still very true to love. And to further demonstrate that, the poet gives a series of comparisons about the love between brother and sister such as "When winter comes, I miss the cold" like "yellow lac flowers" like "in spring the forest birds' feathers turn blue". Among the countless definitions of love, is Che Lan Vien looking for a new definition of love? Is the poet defining love through bold and surprising comparisons?
Tonight, the cold blanket is divided into two halves
Half cover me in the cold sea
Cover half for yourself on the empty side.
When love comes unexpectedly, the word "suddenly" represents nostalgia that is as passionate as it really is. And that "sudden" moment helped them find each other and find themselves. Love suddenly appeared in sparkling colors, how simple yet sacred. And it is that love that makes
Love makes the land foreign to the homeland.
Nothing is simple but profound, when in my love for you there is also love for my homeland. We ourselves suddenly realize that the more we know how to love private things, the more passionately we love our homeland.
With poetic words full of emotions and their flow is endless. Readers seem to be immersed in his world, of nostalgia and beautiful love. And the poem is the crystallization of the most beautiful poems, those written about love and about the homeland. The ship's singing was very successful with pure, sincere, and earnest emotions expressed through rich imagination and the ability to connect and create boldly and unexpectedly. The work has left many aftertaste in the hearts of readers.
Source: Good article
|
Đề bài: Bình giảng bài thơ Tràng giang của Huy Cận
Bài làm
Tràng giang là một trong những bài thơ xuất sắc cùa nhà thơ Huy Cặn thời kì Thơ mới. Đã có khá nhiều bài viết về tác phẩm này. Mỗi bài có những khám phá riêng, đôi chỗ rất sâu sắc và vượt quá phạm vi, cách hiểu đối với trình độ một học sinh trung học phổ thông. Để có bài viết tốt, cần hiểu hồn thơ Huy Cận trước Cách mạng tháng Tám, một hồn thơ đượm nỗi buồn rầu, triền miên, dằng dặc. Nỗi buồn ấy vươn tới cả vũ trụ, vượt qua thời gian, gợi nỗi buồn trần thế, xuất phát từ chính cuộc đời nhà thơ đang sống. Ngoài ra, bài thơ còn là một công trình điêu luyện về ngôn ngữ thi ca tiếng Việt. Tràng giang là Thơ mới nhưng đã đạt đến trình độ cổ điển về ngôn ngữ. Bởi vậy, khi bình giảng, ngoài việc hiểu, còn đòi hỏi phải tỏ ra tinh tế, cần nắm một số điểm sau:
Tiêu đề bài thơ
Bài thơ có tên Tràng giang, một từ Hán Việt. Đây cũng là điểm lạ đối với một nhà thơ mới. Nhiều bài thơ trong tập Lửa thiêng, Huy Cận đặt tên khá mộc mạc, bình dị như: Em về nhà, Trông lên, Gánh xiếc, Ngủ chung, Áo trắng. Tràng giang có nghĩa là sông dài. Riêng chữ tràng thường đọc là trường. Huy Cận đặt tên bài thơ của mình là Tràng giang, chứ không phải là Trường giang, càng không phải là Sông dài – tất cả những từ đồng nghĩa. Lí do có lẽ là như thế vừa gợi cho người đọc nhiều liên tưởng về văn hóa, mà cụ thể là con sông dài, khá nổi tiếng là Trường giang ở Trung Hoa. Song, nhà thơ đã thay trường bằng tràng, tạo ra sự phối âm (ang), gợi lên cảm giác mênh mang, dài rộng huyền hoặc hơn.
Thời thơ mới, Huy Cận hay ghi dòng đề từ trên các bài thơ là tặng một người nào đó, thường là những nhà văn, nhà thơ, những nghệ sĩ thân thiết với ông như Nhất Linh, Thạch Lam, Thế Lữ, Tú Mỡ, Hoàng Đạo, Tô Ngọc Vân. Bài này Huy Cận đề tặng Khái Hưng, người đã cùng với nhà văn Nhất Linh lập nên nhóm Tự Lực văn đoàn. Nhưng, Huy Cận không ghi bút danh quen thuộc của nhà văn này mà lại ghi tên thật của ông ta (Trần Khánh Dư). Khó có thể biết rõ lí do Huy Cận dành bài Tràng giang cho Khái Hưng. Có thể một phần vì do tình cảm quý mến, trân trọng đối với một bậc tài hoa, có công tạo đựng nên một phong trào văn chương, cũng có thể là vì Khái Hưng, bên cạnh nhiều tác phẩm viết về đề tài hôn nhân, tình yêu trong buổi đầu Âu hóa, đã viết không ít tác phẩm xuất sắc về các thời kì lịch sử đã qua như tiểu thuyết Tiêu Sơn tráng sĩ. Bên cạnh đó, trên phần đề từ còn có câu thơ của Chính Huy Cận (Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài). Câu thơ này phần nào đã thâu tóm được cả tình (bâng khuâng, nhớ thương) lẫn cảnh (trời rộng, sông dài) của Tràng giang.
Khổ hai
Mở ra một cảnh sông nước mênh mông, tưởng chừng như vô tận. Trên cái nền không gian rộng lớn ấy, hình bóng một con thuyền đơn chiếc càng thêm lẻ loi và sự xuất hiện của nó lại càng khiến cho cảnh thêm hoang vắng:
Nắng xuống chiều lên sâu chót vót;
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.
Khổ ba
Đến khổ thơ thứ ba, mọi âm thanh của cuộc sống con người đều không còn nữa, chỉ còn có cảnh vật với nhau mà cũng hết sức lặng lẽ:
Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng;
Mênh mông không một chuyến đò ngang.
Không cầu gợi chút niềm thân mật.
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.
Bèo dạt mây trôi vô định; bờ xanh tiếp nối bãi vàng. Tất cả ở bên nhau mà dường như không biết có nhau, không cần có nhau. Thế mới lạ làm sao? Chỉ có một người biết rõ sự cô đơn ấy và cũng chỉ có người khao khát sự sống, cần thiết sự giao hòa. Song, mọi cánh cửa có lẽ khép, mọi mối tương giao đã không còn. Người ấy làm sao tránh nổi cô đơn?
Khổ bốn
Khổ cuối vừa có cảnh, vừa có diễn tả nỗi lòng của chủ thể trữ tình:
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.
Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
Cảnh ấy, tình này là lẽ đương nhiên!
Khổ thơ câu nào, hình ảnh nào cũng dễ hiểu được. Chỉ có một câu lạnh lùng:
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
Xưa nay, thơ cổ điển phương Đông viết nhiều về cảnh hoàng hôn. Cảnh nào cũng đẹp, nhưng đều buồn:
Ngày mai, gió cuốn chim bay mỏi,
Dặm liễu, sương sa khách bước dồn.
(Cảnh chiều hôm – Bà Huyện Thanh Quan)
Thơ Huy Cận có cảnh hoàng hôn như thế và nỗi buồn man mác. Có người nói, khi viết: Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà, nhà thơ đã liên tưởng đến tình ý của bài Hoàng Hạc Lâu trong thơ Thôi Hiệu:
Yên ba giang thượng sử nhân sầu.
Dịch thơ:
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai.
(Tản Đà)
Nhà thơ mới tiếp thu vốn văn hóa cổ, nhưng vẫn khác nhà thơ cổ. Nỗi buồn trong thơ của người xưa đôi khi do cảnh vật tạo ra, cảnh khiến người buồn. Còn ở nhà thơ hiện đại, nhất là với Huy Cận, nỗi buồn ấy như tiềm ẩn. Vì thế, người ta làm thơ không cần mượn cớ của thiên nhiên, tạo vật. Và họ thành thật giãi bày nỗi lòng mình cùng với trời đất!
Tràng giang bao trùm một nỗi buồn thương mênh mang và nhớ mong tha thiết. Bài thơ tiêu biểu cho chặng đường thơ của Huy Cận trước năm 1945, khi mà ở đó cái buồn tỏa ra từ một hồn người cơ hồ không biết đến ngoại cảnh (Hoài Thanh). Song, đó cũng là nỗi buồn của một thế hệ. nỗi buồn mang tính thời đại. Nỗi buồn ấy xuất phát từ sự bơ vơ, lạc loài và luôn khao khát được cảm thông chia sẻ trước cuộc đời. Buồn nhưng lại sáng trong và rất đáng trân trọng. Vì thế, nói như nhà thơ Xuân Diệu. “Tràng giang” là một bài thơ ca hát non sông đất nước, do đó dọn đường cho lòng yêu giang sơn, Tổ quốc.
Huy Cận đã dựng lên nỗi buồn của cả thế hệ mình. Người đã dựng và khắc ghi nó bằng cả hình ảnh lẫn âm thanh của một ngôn ngữ trác tuyệt. Vì thế. biết bao năm tháng đã trôi qua, dòng Tràng giang ấy vẫn chảy trong tâm hồn người yêu thơ Việt Nam.
|
Topic: Commentary on the poem Trang Giang by Huy Can
Assignment
Trang Giang is one of the outstanding poems by poet Huy Can of the New Poetry period. There have been quite a few articles about this work. Each lesson has its own discoveries, in some places very profound and beyond the scope and understanding of a high school student. To have good writing, it is necessary to understand the soul of Huy Can's poetry before the August Revolution, a poetic soul filled with sadness, constant, endless. That sadness reaches the whole universe, transcends time, evokes earthly sadness, coming from the life the poet is living. In addition, the poem is also a masterful work of Vietnamese poetic language. Trang Giang is new poetry but has reached the classical level of language. Therefore, when commenting, in addition to understanding, it is also required to be subtle, and need to grasp the following points:
Poem title
The poem is called Trang Giang, a Sino-Vietnamese word. This is also a strange point for a new poet. Huy Can gave many poems in the collection Sacred Fire quite simple and simple names such as: I'm coming home, Looking up, Circus, Sleeping together, White shirt. Trang Giang means long river. Particularly, the word colon is often read as school. Huy Can named his poem Trang Giang, not Truong Giang, not even Long River - all synonyms. The reason is probably that it reminds readers of many cultural associations, specifically the long, quite famous river Truong Giang in China. However, the poet replaced the field with a colon, creating a harmony (ang), evoking a more mysterious, long and spacious feeling.
In his early poetry days, Huy Can often wrote the words on his poems as a gift to someone, usually writers, poets, and artists close to him such as Nhat Linh, Thach Lam, The Lu, Tu Mo. , Hoang Dao, To Ngoc Van. This article is dedicated by Huy Can to Khai Hung, who together with writer Nhat Linh founded the group Tu Luc Van Doan. However, Huy Can did not write this writer's familiar pen name but instead wrote his real name (Tran Khanh Du). It is difficult to know clearly why Huy Can dedicated the song Trang Giang to Khai Hung. Maybe it's partly because of his affection and respect for a talented man who created a literary movement, or maybe it's because of Khai Hung, in addition to many works written on the topic of marriage. , love in the early days of Europeanization, has written many excellent works about past historical periods such as the novel Tieu Son the heroic man. Besides, in the title section there is also a poem by Chinh Huy Can (Wanting the wide sky, remembering the long river). This poem partly captures both the feelings (wistfulness, longing) and the scenery (wide sky, long river) of Trang Giang.
Misery two
Opening up a vast, seemingly endless river scene. On that vast space background, the silhouette of a single boat looks even more lonely and its appearance makes the scene even more desolate:
The sun goes down and the afternoon goes up towering;
Song Long, wide sky, lonely station.
Third suffering
By the third stanza, all the sounds of human life are no longer there, only the scenery together is still very quiet:
Wherever the duck drifts, rows follow rows;
Immense without a single ferry crossing.
Not asking for any intimacy.
Quietly the green shore meets the golden beach.
The drifting clouds float aimlessly; The green shore continues to the yellow beach. Everyone is together but doesn't seem to know each other or need each other. How strange is that? There is only one person who knows that loneliness and there is only one person who desires life and needs harmony. However, all doors may be closed, all relationships are no longer there. How can that person avoid loneliness?
Stanza four
The last stanza has both a scene and an expression of the lyrical subject's feelings:
Layers of high clouds extruding silver mountains,
The bird tilts its small wings: the afternoon shadow falls.
The heart of the countryside resembles the water,
No smoke at sunset also reminds me of home.
That scene, this love is natural!
Every stanza, every sentence, every image is easy to understand. Just one cold sentence:
No smoke at sunset also reminds me of home.
Since ancient times, classical Eastern poetry has written a lot about sunsets. Every scene is beautiful, but all are sad:
Tomorrow, the wind will blow tired birds away,
Miles of willows, dew, and thousands of passengers.
(Evening scene – Ba Huyen Thanh Quan)
Huy Can's poetry has such sunset scenes and profound sadness. Some people say that when writing: No smoke at sunset, I also miss home, the poet thought of the sentiment of the poem Hoang Hac Lau in Thoi Hieu's poem:
Yen's three depressed using the upper stretch.
Poetry translation:
On the river smoke waves to sad anyone.
(Tan Da)
New poets absorb ancient cultural capital, but are still different from ancient poets. Sadness in the poetry of ancient people is sometimes created by scenes, scenes that make people sad. But in modern poets, especially Huy Can, that sadness seems hidden. Therefore, people do not need to borrow the excuse of nature or creation to write poetry. And they honestly confided their feelings to heaven and earth!
Trang Giang is covered with immense sadness and longing. The poem represents Huy Can's poetic journey before 1945, when sadness radiated from a soul that was almost unaware of the outside world (Hoai Thanh). However, it is also the sadness of a generation. modern sadness. That sadness comes from being lonely, lost, and always longing for sympathy and sharing in life. Sad but bright and very respectful. Therefore, say the poet Xuan Dieu. "Royal River" is a poem singing about the country and its rivers, thus paving the way for love for the country and the Fatherland.
Huy Can created the sadness of his entire generation. He created and engraved it with both images and sounds of a wonderful language. Therefore. Many years have passed, but that river still flows in the souls of Vietnamese poetry lovers.
|
Bình giảng bài thơ Trèo lên cây bưởi hái hoa
Hướng dẫn
Bình giảng bài thơ Trèo lên cây bưởi hái hoa
Bài làm
Trong kho tàng ca dao dân ca Việt Nam ngoài những bài thơ nói về cuộc sống của người dân lao động vất vả nhưng luôn có niềm vui,thì bên cạnh đó còn có những bài ca dao nói về tình yêu đôi lứa. Nổi bật trong đó phải kể đến nhất đó là bài ca dao rất đỗi thân thương mộc mạc chân thành nhưng không đến được với nhau, đó là bài ”trèo lên cây bưởi hái hoa”. Bài thơ kể về chuyện tình cảm động của một đôi trai gái yêu nhau nhưng lại không có duyên đến với nhau.
Hai câu thơ đầu mở ra trước mắt chúng ta thật mộc mạc và chân thành đó là:
“Trèo lên cây bưởi hái hoa
Bước xuống vườn cà hái nụ tầm xuân”
Có thể hiểu được đây là hành động gian khổ của chàng trai khi phải trèo lên rồi lại bước xuống thềm nhà để hái hoa bưởi rồi hái nụ tầm xuân. Trèo lê cây bưởi hái hoa chủ yếu nhằm gợi hứng và có tác dụng đưa đẩy bắt vần rất khéo léo. Chắc hẳn có rất nhiều người tò mò vì hành động của chàng trai, tạo sao lại không làm việc khác mà lại đi hái hoa? nhưng khi chúng ta hiểu được rõ tâm ý của nhà thơ thì chúng ta mới thấy được cái hay của nó. Thực chất đây chỉ là một hành động trong tâm trí, trong tưởng tượng của chính nhà thơ hay đó là những hành động trong tâm trí của chàng trai để chống lai sự nhớ nhung của mình giành cho cô gái. Trước hết chúng ta thấy được rằng nụ tầm xuân là một loài hoa họ với hoa hồng mộc hoang dại, nó được biết đến là một loài hoa có màu trắng nhưng ở đây nụ tầm xuân lại có màu xanh “nụ tầm xuân nở ra xanh biếc” màu xanh ấy phải chăng là màu xanh của những chàng trai si tình, màu xanh của hi vọng nhưng cuối cùng người con gái người anh yêu thương đã đi lấy chồng. Từ “xuân” trong “nụ tầm xuân” gợi mở cho người đọc về một tuổi trẻ, hoài niệm về thời thơ ấu.
Vẫn xanh biếc nụ, vẫn ngần ấy hương. ”
Người con trai si tình ấy bất lực khi người con gái mình yêu thương đã đi lấy chồng, điều đó càng khẳng định được rõ ràng ở trong những vần thơ” Em đã có chồng anh tiếc lắm thay”, đây như một lời than thân của chàng trai, câu thơ hiện lên một cách cao đẹp của chàng trai si tình, biết buồn tủi cho thân phận mình, tiếc vì không được cưới người mình yêu.
Tiếp theo chúng ta thấy rõ được đến lượt cô gái giãi bày tâm trạng của mình. Những lời nói giống như đang trách móc và than thở nhưng vẫn dùng những lời nhẹ nhàng:
“Ba đồng một mớ trầu cau
Sao anh chẳng hỏi những ngày còn không”
Cô gái trách móc chàng trai pha chút giận hờn nhưng cũng không hề nặng lời mà nhẹ nhàng tình cảm.Chỉ ba đồng một mớ trầu cau thế mà chàng trai lại không mua làm tan vỡ hết tất cả những dự định của hai người. Thì ra đến đây chúng ta mới hiểu rõ được hai người yêu nhau nhưng vì chàng trai không ngỏ lời cho nên cô gái đã đi lấy chồng,làm vợ người khác và bây giờ không còn là ngày xưa nữa.
“Bây giờ em đã có chồng
Như chim vào lồng, như cá cắn câu
Cá cắn câu biết đâu mà gỡ
Chim vào lồng, cá cắn câu ý nói người phụ nữ khi đã lấy chồng rồi thì không thể tự do được nữa, cũng không thể gặp gỡ hẹn hò. Hoa đã có chủ thì không thể thay đổi được gì. Câu thơ trên đã nêu lên thực tại của người con gái khi đã về nhà chồng chỉ biết cam chịu theo số phận chứ không thể làm được gì hơn. Hai câu”như cá cắn câu, như chim vào lồng” diễn tả một cuốc sống sau khi về nhà chồng giống như bị bó hẹp. Và hai câu cuối cùng như một câu hỏi tu từ giống như hai người vẫn đang còn quyến luyến nhau không nỡ xa rời.
Câu hỏi cuối bài thơ cũng chính là câu hỏi của những người phụ nữ ở xã hội thời phong kiến xưa mà không có lời giải đáp.Từ nỗi đau đó hiện lên một lễ giáo phong kiến khắt khe nghiệt ngã, đằng sau đó là niềm khát khao tha thiết cháy bỏng về một tình yêu thực sự.
|
Commentary on the poem Climbing the grapefruit tree to pick flowers
Instruct
Commentary on the poem Climbing the grapefruit tree to pick flowers
Assignment
In the treasure trove of Vietnamese folk songs, in addition to poems about the lives of people who work hard but always have joy, there are also folk songs about love between couples. The most prominent among them is a folk song that is very dear, rustic and sincere but cannot come together, that is the song "climbing the grapefruit tree to pick flowers". The poem tells the touching love story of a couple who love each other but are not destined to be together.
The first two verses that open before our eyes are very simple and sincere:
“Climb the grapefruit tree to pick flowers
Walk down to the eggplant garden to pick spring buds."
It can be understood that this was the arduous action of the young man who had to climb up and then step down the steps to pick grapefruit flowers and then pick rosehips. Climbing the grapefruit tree to pick flowers is mainly for inspiration and has the effect of very cleverly creating rhymes. Surely there are many people who are curious about the boy's actions, why doesn't he do something else but pick flowers? But when we clearly understand the poet's intention, we can see its beauty. In fact, this is just an action in the poet's mind, in his own imagination, or it is an action in the boy's mind to counteract his longing for the girl. First of all, we can see that rosehips are a flower related to wild rosewood, it is known to be a white flower, but here rosehips are green. Is that blue the green of lovesick boys, the green of hope, but in the end the girl he loved got married. The word "spring" in "spring bud" reminds readers of youth and nostalgia for childhood.
Still green buds, still the same scent. ”
That lovesick boy is helpless when the girl he loves has gotten married, which is even more clearly affirmed in the verses "You already have a husband, I'm so sorry", this is like a personal lament. of the young man, the poem shows the beauty of a lovesick young man who feels sad for his fate and regrets not being able to marry the person he loves.
Next we clearly see the girl's turn to express her feelings. The words are like blaming and complaining but still use gentle words:
“Three coins for a bunch of betel and areca nuts
Why don't you ask about the remaining days?
The girl blamed the boy with a bit of anger, but did not use harsh words but was gentle with her feelings. It was only three dong for a bunch of betel and areca nuts, but the boy did not buy it, ruining all their plans. It turns out that at this point we clearly understand that the two people love each other, but because the boy did not propose, the girl got married and became someone else's wife, and now it is no longer the same as before.
“I have a husband now
Like a bird in a cage, like a fish taking the bait
If the fish bites the hook, you never know how to remove it
The bird goes into the cage, the fish bites the bait, meaning that once a woman gets married, she cannot be free anymore, nor can she meet and date. If a flower has an owner, nothing can be changed. The above verse highlights the reality of a girl who, after returning to her husband's house, only knows how to accept her fate and cannot do anything more. The two sentences "like a fish taking a bait, like a bird in a cage" describe a life after returning to her husband's house that seems to be restricted. And the last two sentences are like a rhetorical question, like two people who are still attached to each other and can't bear to separate.
The question at the end of the poem is also the question of women in ancient feudal society that has no answer. From that pain emerges a harsh and strict feudal rite, behind which is joy. a burning desire for true love.
|
Bình giảng bài thơ Tùng của Nguyễn Trãi
Hướng dẫn
Bình giảng bài thơ Tùng của Nguyễn Trãi
Một nhà chính trị tài giỏi, là một trong những tác gia lớn của dân tộc Việt Nam, ông là tác giả Nguyễn Trãi. Ông (1380-1442), hiệu là Ức Trai, là một nhà chính trị, nhà thơ dưới thời nhà Hồ và nhà Lê Sơ Việt Nam. Ông từng “Thái học sinh”, từng làm quan dưới triều Hồ sau đó nhà Minh xâm lược ông đã tham gia vào cuộc khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi lãnh đạo chống lại ách xâm lược nhà Minh. Ông có vai trò quan trọng trong cuộc khởi nghĩa này. Đến năm 1442 thì biến cố lớn đã xảy ra, toàn thể gia đình Nguyễn Trãi bị tru di tam tộc trong vụ án Lệ Chi Viên. Đến sau này vua Lê Thánh Tông xuống chiếu giải oan cho ông vào năm 1464. Ông nằm trong danh sách 14 vị anh hùng dân tộc Việt Nam, không chỉ vậy mà ông còn là một nhà văn hóa lớn, có đóng góp to lớn vào sự phát triển của văn học Việt Nam. Ông có rất nhiều các tác phẩm để đời, ông làm thơ làm văn gắn liền với cuộc đời và sự nghiệp của ông. Các tác phẩm lớn của ông như là: “Quân trung từ mệnh tập, Bình Ngô đại cáo, Ức trai thi tập, Quốc âm thi tập, Chí linh sơn phú,…” toàn là những tác phẩm nổi tiếng, những viên ngọc quý để lại cho nền văn học Việt Nam. Trong đó có một tác phẩm tiêu biểu đó là bài “Tùng” được trích trong tập “ Quốc âm thi tập”.
Tùng là một đề tài trong hệ thống đề tài Đông thiên tam hữu( Ba người bạn mùa đông) rất phổ biến trong văn học trung đại Việt Nam và các nước trong khu vực Đông Nam Á. Thơ vịnh tùng thường thì được các thi sĩ viết nhiều hơn và cả người đọc họ nhớ và thuộc hơn so với hai người bạn là trúc và mai. Tùng có ý nghĩa là hình tượng, phẩm chất của kẻ sĩ quân tử: sự chịu đựng gian khổ, thử thách, sống kiên cường, thanh cao, được dùng vào việc lớn, có khả năng giúp ích đất nước,.. Nhưng còn tùy vào hoàn cảnh của mỗi thi sĩ sẽ vịnh tùng ở cách khía cạnh khác nhau. Ví dụ Mộng Nguyên qua hình tượng cây tùng trong chậu đã thể hiện ý chí, hoài bão của nam tử hán không chịu sống trong sự gò bó, sống cuộc đời quẩn quanh, chật hẹp. Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng vịnh tùng, ông vẫn nói đến chí khí, tài năng của người anh hùng nhưng trong bài Tùng của Nguyễn Bỉnh Khiêm mục đích chính của ông là bày tỏ thái độ đối với xã hội: “Dùng thì ra giúp đời,không dùng thì ẩn náu. Ai bảo cây to là khó dụng”.
Vịnh tùng, Nguyễn Trãi đã chú ý làm nổi bật đặc điểm của cây tùng đó là tác giả muốn nói nên phẩm chất của kẻ sĩ và khả năng đóng góp to lớn của kẻ sĩ đối với xã hội như công dụng của cây Tùng. Hai nội dung này được đề cập và xuyên suốt trong cả bài. Ngoài điều đó thì còn có tâm sự cá nhân của tác giả.
Mở đầu bài thơ, tác giả đã nói lên một đặc điểm rất quý, hiếm có của cây Tùng, mà hầu như ở các cây khác không có:
“ Thu đến cây nào chẳng lạ lùng,
Một mình lạt thuở ba đông
Lâm tuyền ai rặng già làm khách
Tài đống lương cao ắt cả dùng.”
Ở câu mở đầu bài Tùng là một mệnh đề mang tính chất khẳng định: hầu hết các loại cây “cây nào” khi mùa thu đến cũng rụng lá, cành cây khẳng khiu, khi lá rụng hết chỉ còn mỗi cành cây trơ trọi, còn cây tùng thì khác cây tùng vẫn xanh tươi, cành lá xum xuê, vượt qua cái giá lạnh của màu đông được thể hiện càng rõ ở câu thứ hai biểu thị rõ nhất ở từ “lạt”- ý niệm về sự vượt qua mùa đông không có gì là khó khăn, nhưng cái hay ở đây đó là cách rút gọn câu chỉ còn sáu chữ và dùng tiểu đối “một mình- ba đông” lại càng cho ta thấy sự chống chọi mạnh mẽ mạnh liệt của cây tùng một mình trước thời tiết khắc nghiệt lạnh giá và dữ dội. Tác giả ý muốn nói người quân tử có phẩm chất vượt khó, thắng mọi gian lao, thử thách của hoàn cảnh khách quan như cây tùng vậy dù là tác động thời tiết khách quan nhưng nó vẫn tươi tốt. Như trong bài Tùng của Nguyễn Bỉnh Khiêm:
“Vui cùng suối đá, tính cách riêng thanh cao
Ngoại với tuyết sương, sắc xanh không biến đổi”
Tùng xanh tươi trong khi bao nhiêu loại cây khác bị tác động và biến đổi theo mùa, cũng giống như “quân tử cố cùng” chứ không chịu a dua theo đời.
“Đông lương tài có mấy bằng mày
Nhà cả đòi phen chống khỏe thay
Cội rễ bền dời chẳng động
Tuyết sương thấy đã đặng nhiều ngày.”
Ở khổ tiếp theo, khổ II tác giả tiếp tục khắc họa một đặc điểm nữa của cây tùng mà ít loài cây có được thể hiện rõ ở 2 câu cuối, tiếp ý của hai câu thơ đầu của khổ I như vừa giải thích, vừa chứng minh thêm vào làm nổi bật đặc biệt của cây Tùng. Cây tùng sở dĩ “lạt thuở ba đông”, “đặng nhiều ngày” tuyết sương, là do “cội rễ bền” dễ bám chặt, cắm sâu dưới lòng đất. Dù gió to, bão lớn thế nào vẫn không lay chuyển. Ở câu thơ “Cội rễ bền dời chẳng động” còn thể hiện sự khỏe khắn, kiên cường, mạnh mẽ của cây tùng. Qua những thử thách lớn về cả cường độ và thời gian (nhiều ngày) mới bộc lộ sức mạnh không chỉ trong chốc lát mà là sự bền bỉ, bền vững của cây tùng. Trong ca dao ta cũng có câu nói về phẩm chất, kiên cường cứng cỏi của cây tùng trong những ngày dông bão:
“Có gió lay mới biết tùng bách cứng,
Có ngọn lửa lừng mới biết thức vàng cao.”
Hình tượng câu tùng qua câu thơ “cội rễ bền dời chẳng động” chính là biểu tượng về người quân tử có ý chí kiên định, không bị tác động của những thứ như vàng, bạc, châu báu, quyền thế,.. làm mờ mắt.
Tiếp đến là một đặc điểm khác của cây tùng, tùng có “hổ phách”, “phục linh” mà không loài cây nào khác có được, đây là đặc điểm rất riêng của cây tùng. Xưa tương truyền thì “hổ phách” đẹp như ngọc là do tinh dầu tùng qua một nghìn năm hóa thành, còn tùng khẩn qua một trăm năm thì thành “phục linh”, nếu có lõi sẽ thành phục thần. Hổ phách là trang sức quý hiếm, còn phục linh, phục thần thì là những vị thuốc quý làm tăng tuổi thọ. Tuy rằng, tùng có loại thuốc quý như vậy nhưng những thần dược được tạo ra lại nằm dưới đất, phải nhìn mới biết, cũng như người quân tử có đức lớn, tài cao nhưng lúc nào cũng khiêm nhường, khiêm tốn đó là một đức tính tốt của người quân tử: “Quân tử khiêm nhi bất kiêu”. Những đặc điểm trên cho chúng ta thấy rằng cây tùng rất quý, nhưng đáng quý hơn cả là công dụng của nó: làm rường cột cho ngôi nhà thể hiện ở câu bốn khổ I “Tài đống lương cao ắt cả dùng”, công dụng tiếp theo là chống đỡ cho nhà lớn “Nhà cả đòi phen chống khỏe thay” và công dụng đặc biệt của nó có vị thuốc quý để chữa bệnh, tăng tuổi thọ, nâng cao sức khỏe cho nhân dân: “ Có thuốc trường sinh càng khỏe thay- Hổ phách, phục linh nhìn mới biết”. Tác giả đã sử dụng hình thức nghệ thuật liên hoàn pha ô thước kiều- câu cuối của khổ thơ trước được nhắc lại toàn bộ hay một phần ở câu đầu của khổ thơ tiếp theo. Nhưng ý của tác giả đâu chỉ muốn nói đến công dụng về mặt sinh học cảu cây tùng mà tác giả đã có ngụ ý muốn thông qua công dụng của cây tùng để nói về người quân tử.
Bài thơ cho chúng ta thấy Nguyễn Trãi là một nhà chính trị với ý chí, lí tưởng sống vì nước, vì dân. Thông qua bài thơ ta còn thấy được ông là một người “văn võ song toàn” không chỉ giỏi về mặt thao lược binh đao mà ông còn giỏi về văn chương với những chùm thơ hay để người đời sau thán phục. Bài thơ của ông giúp thức tỉnh ý chí của thế hệ trẻ hiện nay cần cố gắng hơn nữa để khắc phục những mặt yếu kém, tạo thêm ý chí kiên cường, chí khí vững chắc bảo vệ nền độc lập nước nhà.
|
Bình giảng bài thơ Tùng của Nguyễn Trãi
Hướng dẫn
Bình giảng bài thơ Tùng của Nguyễn Trãi
Một nhà chính trị tài giỏi, là một trong những tác gia lớn của dân tộc Việt Nam, ông là tác giả Nguyễn Trãi. Ông (1380-1442), hiệu là Ức Trai, là một nhà chính trị, nhà thơ dưới thời nhà Hồ và nhà Lê Sơ Việt Nam. Ông từng “Thái học sinh”, từng làm quan dưới triều Hồ sau đó nhà Minh xâm lược ông đã tham gia vào cuộc khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi lãnh đạo chống lại ách xâm lược nhà Minh. Ông có vai trò quan trọng trong cuộc khởi nghĩa này. Đến năm 1442 thì biến cố lớn đã xảy ra, toàn thể gia đình Nguyễn Trãi bị tru di tam tộc trong vụ án Lệ Chi Viên. Đến sau này vua Lê Thánh Tông xuống chiếu giải oan cho ông vào năm 1464. Ông nằm trong danh sách 14 vị anh hùng dân tộc Việt Nam, không chỉ vậy mà ông còn là một nhà văn hóa lớn, có đóng góp to lớn vào sự phát triển của văn học Việt Nam. Ông có rất nhiều các tác phẩm để đời, ông làm thơ làm văn gắn liền với cuộc đời và sự nghiệp của ông. Các tác phẩm lớn của ông như là: “Quân trung từ mệnh tập, Bình Ngô đại cáo, Ức trai thi tập, Quốc âm thi tập, Chí linh sơn phú,…” toàn là những tác phẩm nổi tiếng, những viên ngọc quý để lại cho nền văn học Việt Nam. Trong đó có một tác phẩm tiêu biểu đó là bài “Tùng” được trích trong tập “ Quốc âm thi tập”.
Tùng là một đề tài trong hệ thống đề tài Đông thiên tam hữu( Ba người bạn mùa đông) rất phổ biến trong văn học trung đại Việt Nam và các nước trong khu vực Đông Nam Á. Thơ vịnh tùng thường thì được các thi sĩ viết nhiều hơn và cả người đọc họ nhớ và thuộc hơn so với hai người bạn là trúc và mai. Tùng có ý nghĩa là hình tượng, phẩm chất của kẻ sĩ quân tử: sự chịu đựng gian khổ, thử thách, sống kiên cường, thanh cao, được dùng vào việc lớn, có khả năng giúp ích đất nước,.. Nhưng còn tùy vào hoàn cảnh của mỗi thi sĩ sẽ vịnh tùng ở cách khía cạnh khác nhau. Ví dụ Mộng Nguyên qua hình tượng cây tùng trong chậu đã thể hiện ý chí, hoài bão của nam tử hán không chịu sống trong sự gò bó, sống cuộc đời quẩn quanh, chật hẹp. Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng vịnh tùng, ông vẫn nói đến chí khí, tài năng của người anh hùng nhưng trong bài Tùng của Nguyễn Bỉnh Khiêm mục đích chính của ông là bày tỏ thái độ đối với xã hội: “Dùng thì ra giúp đời,không dùng thì ẩn náu. Ai bảo cây to là khó dụng”.
Vịnh tùng, Nguyễn Trãi đã chú ý làm nổi bật đặc điểm của cây tùng đó là tác giả muốn nói nên phẩm chất của kẻ sĩ và khả năng đóng góp to lớn của kẻ sĩ đối với xã hội như công dụng của cây Tùng. Hai nội dung này được đề cập và xuyên suốt trong cả bài. Ngoài điều đó thì còn có tâm sự cá nhân của tác giả.
Mở đầu bài thơ, tác giả đã nói lên một đặc điểm rất quý, hiếm có của cây Tùng, mà hầu như ở các cây khác không có:
“ Thu đến cây nào chẳng lạ lùng,
Một mình lạt thuở ba đông
Lâm tuyền ai rặng già làm khách
Tài đống lương cao ắt cả dùng.”
Ở câu mở đầu bài Tùng là một mệnh đề mang tính chất khẳng định: hầu hết các loại cây “cây nào” khi mùa thu đến cũng rụng lá, cành cây khẳng khiu, khi lá rụng hết chỉ còn mỗi cành cây trơ trọi, còn cây tùng thì khác cây tùng vẫn xanh tươi, cành lá xum xuê, vượt qua cái giá lạnh của màu đông được thể hiện càng rõ ở câu thứ hai biểu thị rõ nhất ở từ “lạt”- ý niệm về sự vượt qua mùa đông không có gì là khó khăn, nhưng cái hay ở đây đó là cách rút gọn câu chỉ còn sáu chữ và dùng tiểu đối “một mình- ba đông” lại càng cho ta thấy sự chống chọi mạnh mẽ mạnh liệt của cây tùng một mình trước thời tiết khắc nghiệt lạnh giá và dữ dội. Tác giả ý muốn nói người quân tử có phẩm chất vượt khó, thắng mọi gian lao, thử thách của hoàn cảnh khách quan như cây tùng vậy dù là tác động thời tiết khách quan nhưng nó vẫn tươi tốt. Như trong bài Tùng của Nguyễn Bỉnh Khiêm:
“Vui cùng suối đá, tính cách riêng thanh cao
Ngoại với tuyết sương, sắc xanh không biến đổi”
Tùng xanh tươi trong khi bao nhiêu loại cây khác bị tác động và biến đổi theo mùa, cũng giống như “quân tử cố cùng” chứ không chịu a dua theo đời.
“Đông lương tài có mấy bằng mày
Nhà cả đòi phen chống khỏe thay
Cội rễ bền dời chẳng động
Tuyết sương thấy đã đặng nhiều ngày.”
Ở khổ tiếp theo, khổ II tác giả tiếp tục khắc họa một đặc điểm nữa của cây tùng mà ít loài cây có được thể hiện rõ ở 2 câu cuối, tiếp ý của hai câu thơ đầu của khổ I như vừa giải thích, vừa chứng minh thêm vào làm nổi bật đặc biệt của cây Tùng. Cây tùng sở dĩ “lạt thuở ba đông”, “đặng nhiều ngày” tuyết sương, là do “cội rễ bền” dễ bám chặt, cắm sâu dưới lòng đất. Dù gió to, bão lớn thế nào vẫn không lay chuyển. Ở câu thơ “Cội rễ bền dời chẳng động” còn thể hiện sự khỏe khắn, kiên cường, mạnh mẽ của cây tùng. Qua những thử thách lớn về cả cường độ và thời gian (nhiều ngày) mới bộc lộ sức mạnh không chỉ trong chốc lát mà là sự bền bỉ, bền vững của cây tùng. Trong ca dao ta cũng có câu nói về phẩm chất, kiên cường cứng cỏi của cây tùng trong những ngày dông bão:
“Có gió lay mới biết tùng bách cứng,
Có ngọn lửa lừng mới biết thức vàng cao.”
Hình tượng câu tùng qua câu thơ “cội rễ bền dời chẳng động” chính là biểu tượng về người quân tử có ý chí kiên định, không bị tác động của những thứ như vàng, bạc, châu báu, quyền thế,.. làm mờ mắt.
Tiếp đến là một đặc điểm khác của cây tùng, tùng có “hổ phách”, “phục linh” mà không loài cây nào khác có được, đây là đặc điểm rất riêng của cây tùng. Xưa tương truyền thì “hổ phách” đẹp như ngọc là do tinh dầu tùng qua một nghìn năm hóa thành, còn tùng khẩn qua một trăm năm thì thành “phục linh”, nếu có lõi sẽ thành phục thần. Hổ phách là trang sức quý hiếm, còn phục linh, phục thần thì là những vị thuốc quý làm tăng tuổi thọ. Tuy rằng, tùng có loại thuốc quý như vậy nhưng những thần dược được tạo ra lại nằm dưới đất, phải nhìn mới biết, cũng như người quân tử có đức lớn, tài cao nhưng lúc nào cũng khiêm nhường, khiêm tốn đó là một đức tính tốt của người quân tử: “Quân tử khiêm nhi bất kiêu”. Những đặc điểm trên cho chúng ta thấy rằng cây tùng rất quý, nhưng đáng quý hơn cả là công dụng của nó: làm rường cột cho ngôi nhà thể hiện ở câu bốn khổ I “Tài đống lương cao ắt cả dùng”, công dụng tiếp theo là chống đỡ cho nhà lớn “Nhà cả đòi phen chống khỏe thay” và công dụng đặc biệt của nó có vị thuốc quý để chữa bệnh, tăng tuổi thọ, nâng cao sức khỏe cho nhân dân: “ Có thuốc trường sinh càng khỏe thay- Hổ phách, phục linh nhìn mới biết”. Tác giả đã sử dụng hình thức nghệ thuật liên hoàn pha ô thước kiều- câu cuối của khổ thơ trước được nhắc lại toàn bộ hay một phần ở câu đầu của khổ thơ tiếp theo. Nhưng ý của tác giả đâu chỉ muốn nói đến công dụng về mặt sinh học cảu cây tùng mà tác giả đã có ngụ ý muốn thông qua công dụng của cây tùng để nói về người quân tử.
Bài thơ cho chúng ta thấy Nguyễn Trãi là một nhà chính trị với ý chí, lí tưởng sống vì nước, vì dân. Thông qua bài thơ ta còn thấy được ông là một người “văn võ song toàn” không chỉ giỏi về mặt thao lược binh đao mà ông còn giỏi về văn chương với những chùm thơ hay để người đời sau thán phục. Bài thơ của ông giúp thức tỉnh ý chí của thế hệ trẻ hiện nay cần cố gắng hơn nữa để khắc phục những mặt yếu kém, tạo thêm ý chí kiên cường, chí khí vững chắc bảo vệ nền độc lập nước nhà.
|
Đề bài: Bình giảng bài thơ Tương tư của Nguyễn Bính
Bài làm
Tương tư là một trong những bài thơ tiêu biểu cho tâm hồn và phong cách nghệ thuật của Nguyễn Bính. Bài thơ viết về đề tài khá quen thuộc trong đời sống và văn chương: sự tương tư, tức một trạng thái tình cảm nam nữ khi yêu nhau, hoặc phải xa cách, hoặc không được đáp lại. Nhà thơ lại sáng tác bằng thể thơ cũng rất quen thuộc – lục bát.
Song, để bài thơ có thể sống dài lâu trong lòng bạn đọc không phải là chuyện dễ. Tương tư của Nguyễn Bính vừa có vẻ thân quen như một làn điệu dân ca khiến bao người thuộc lòng. Thậm chí trở thành một bài hát ru em, vừa mang tâm tình mới của thanh niên thời bấy giờ. Nói cách khác, Tương tư cũng như rất nhiều bài thơ khác của Nguyễn Bính trước năm 1945, đậm đà chất dân tộc, trong điệu tâm hồn, cả trong lối diễn đạt, nhưng lại là tiếng thơ của một thời đại mới. Vì thế, khi bình giảng cần biết rằng Tương tư là nỗi nhớ, là tâm trạng của một chàng trai đối với một cô gái. Cô gái ấy vô tình, hay hữu ấy không biết nỗi lòng ấy. Tình cảm của chàng trai rất đỗi tha thiết. Tương tư là một thứ bệnh của tình yêu. Chàng trai ấy đang mang bệnh đó. Anh ta buồn, anh ta nhớ, anh ta thao thức và cả trách móc nữa. nhưng là sự trách móc của một người đang yêu nên cũng rất đáng yêu:
Bảo rằng cách trở đò giang
Không sang là chẳng đường sang đã đành
Nhưng đây cách một đầu đình
Có xa xôi mấy mà tình xa xôi
Nhà em có một giàn giầu
Nhà anh có một hàng cau liên phòng
Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông
Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào?
Khi bình giảng lại lần theo tâm trạng đó. Tuy nhiên, không phải là sự diễn xuôi, kể lại (vì có gì đáng kể đâu) mà để thấy từng cung bậc tình cảm trong trái tim chàng trai đang tương tư.
Tương tư là bài thơ tình yêu, bài thơ diễn tả nỗi tương tư. Thành công của nó ở chỗ bao tâm hồn đã tìm thấy ở đó sự đồng điệu, tiếng thơ. Điều này tưởng chừng bình thường, đơn giản, song thật ra không phải ai cũng làm được. Nhiều bài thơ tuy rất hay, rất nổi tiếng, nhưng người ta nhận ra trước hết đó là nỗi lòng rất đơn chiếc của một người, và nếu có chỉ là tiếng lòng rất người, một bộ phận tương đốỉ hẹp nào đó. Chẳng hạn:
Ai bảo em là giai nhân
Cho đời anh sầu khổ
Ai bảo em ngồi bên cửa sổ
Cho vướng víu nợ thi nhân.
(Lưu Trọng Lư – Một mùa đông)
hoặc:
Chửa biết tên nàng, biết tuổi nàng
Mà sầu trong dạ đã mang mang
Tình yêu như bóng trắng hiu quạnh
Lạnh lẽo đêm trường, giãi gió sương.
(Lưu Trọng Lư – Một chút tình)
Thơ Nguyễn Bính, ở Tương tư, cũng như nhiều bài thơ khác, không phải vậy. Rất đông thanh niên, nhất là những người bình thường, thời bây giờ và sau đó nữa, tìm thấy sự đồng điệu ở thơ ông. Có được như vậy, trước hết là do thơ Nguyễn Bính có nhiều hình ảnh quen thuộc của thế giới ruộng đồng, dân dã (ở bài thơ này là bướm, hoa, thôn Đoài, thôn Đông, đình làng, bến đò, hàng cau, giàn trầu…) Dường như tiếng nói trong thơ Nguyễn Bính được cất lên từ chính thế giới thân thuộc đó, là một phần cùa thế giới ấy, chứ không là sự vay mượn. Thành ra lối diễn đạt cũng thế. Nó mang dáng vẻ mộc mạc, chân thành, bình dị (Ngày qua ngày lại qua ngày/ Bao giờ bến mới gặp đò?/ Nhà em có một giàn giần..) Và dĩ nhiên, đây là hình thức thể hiện của một ai khác, sâu xa hơn, ở thơ Nguyễn Bính, đó chính là chân quê, hồn quê thấm đẫm trong tâm hồn nhà thơ. Chính cái tình, cái hồn ấy làm nên sự quen thuộc, gần gũi và thân thiết của thơ Nguyễn Bính đối với bao người Việt Nam, dù ở bất cứ thời đại nào.
|
Topic: Commentary on the poem Mutual Love by Nguyen Binh
Assignment
Love is one of the poems that represents Nguyen Binh's soul and artistic style. The poem is written about a familiar topic in life and literature: love, which is an emotional state when men and women love each other, are either separated, or are not reciprocated. The poet composes in a very familiar poetic form - six bowls.
However, for a poem to live long in the hearts of readers is not an easy task. Nguyen Binh's thoughts seem as familiar as a folk song that many people know by heart. It even became a lullaby, conveying the new sentiments of young people at that time. In other words, Similar Thoughts, like many other poems by Nguyen Binh before 1945, is rich in national character, in the soul's rhythm, and in the expression, but it is the poetry of a new era. Therefore, when commenting, you need to know that Love is nostalgia, the mood of a boy towards a girl. Whether that girl is unconscious or conscious, she doesn't know that feeling. The boy's feelings are very sincere. Infatuation is a disease of love. That boy is carrying that disease. He's sad, he misses, he's restless and even blaming. But it's the reproach of a person in love, so it's also very lovely:
Saying that the way back on the river boat
Without luxury, there is no way to get there
But this is one end of the pavilion
No matter how far away, love is far away
My house has a trellis
His house has a row of areca palms in each room
Doai village remembers Dong village
Doai village remembers which village is rich?
When commenting, follow that mood. However, it is not a retelling or retelling (because there is nothing significant) but to see each level of emotion in the heart of the young man who is falling in love.
Love is a love poem, a poem that describes longing. Its success lies in the fact that many souls have found harmony and poetic voice there. This seems normal and simple, but actually not everyone can do it. Although many poems are very good and very famous, people realize that first of all they are the very lonely heart of one person, and if there are any, they are only the voice of a very human heart, a relatively narrow part of it. Such as:
Who said you're a beauty?
Make your life miserable
Who told you to sit by the window?
For being entangled in debts to poets.
(Luu Trong Lu – One winter)
or:
I don't know her name, I don't know her age
But the sadness in my heart has already carried me
Love is like a lonely white shadow
The cold night, the wind and dew.
(Luu Trong Lu – A little love)
Nguyen Binh's poetry, in Tuong Tu, as well as many other poems, is not like that. Many young people, especially ordinary people, now and then, find harmony in his poetry. This is possible, first of all because Nguyen Binh's poetry has many familiar images of the world of fields and folk (in this poem are butterflies, flowers, Doai village, Dong village, village communal house, ferry wharf, areca trees). , betel truss...) It seems that the voice in Nguyen Binh's poetry comes from that familiar world, is a part of that world, not borrowed. So the expression is the same. It has a rustic, sincere, simple look (Day after day, day after day/ When will the wharf meet the ferry?/ My house has a trellis..) And of course, this is a form of expression of someone. Another, more profound, in Nguyen Binh's poetry, is the true countryside, the soul of the countryside imbued in the poet's soul. It is that love and soul that makes Nguyen Binh's poetry familiar, close and intimate to many Vietnamese people, regardless of any era.
|
Đề bài: Bình giảng bài thơ Tảo giải (Giải đi sớm) của Hồ Chí Minh
Bài làm
"Nhật kí trong tù" gồm 133 bài thơ chữ Hán, phần lớn viết theo thể thất ngôn tứ tuyệt. Tập nhật kí bằng thơ này ra đời trong một hoàn cảnh rất đặc biệt, từ tháng 8-1942 đến tháng 9-1943, khi lãnh tụ Hồ Chí Minh bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam một cách vô cứ, dày đọa và giải lui giải tới khắp các nhà lao tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc:
"Quảng Tây giải khắp mười ba huyện,
Mười tám nhà lao đã ở qua"…
"Nhật kí trong tù" biểu hiện một cách cảm động vẻ đẹp của một tâm hồn lớn, một trí tuệ lớn và một dũng khí lớn của người chiến sĩ vĩ đại trong cảnh tù đày.
Bài thơ "Giải đi sớm" (Tảo giải) rút trong "Nhật kí trong tù" ghi lại một lần chuyển lao vô cùng gian khổ mà Bác phải nếm trải, qua đó ta thấy hình ảnh tuyệt đẹp của "ông tiên trong tù".
Hai câu thơ đầu nói về thời điểm cuộc chuyển lao diễn ra lúc nửa đêm về sáng:
"Nhất thứ kê đề dạ vị lan".
Tiếng gà gáy một lần, đêm chuyển canh, trời chưa sáng. Tiếng gà gáy, cái âm thanh dân dã thân thuộc ấy đêm nay lại vang lên nơi đất khách quê người, gợi lên trong lòng người tù bị giải đi bao nỗi niềm. Câu thứ hai tả cảnh bầu trời một đêm thu phương Bắc:
"Quần tinh ủng nguyệt thướng thu san".
Trăng sao được nhân hóa: Chòm sao nâng vầng trăng lên đỉnh núi mùa thu. Một nét vẽ tạo hình trong trạng thái động của thiên nhiên, làm cho cảnh trăng sao càng trở nên hữu tình. Trong khổ ải "chinh nhân" không cảm thấy cô đơn, vẫn ngước mắt nhìn lên bầu trời, hướng về "thu san" để tận hưởng vẻ đẹp của vũ trụ. Trăng sao như cùng đồng hành với Bác trên chặng đường khổ ải. Đây là một nét vẽ rất tinh tế mang vẻ đẹp cổ điển: chấm phá cảnh trăng sao, lấy ngoại cảnh để biểu hiện tâm cảnh của nhân vật trữ tình: nhà thơ – chinh nhân.
Phải có một tình yêu đời tha thiết, một bản lĩnh phi thường, một hồn thơ dào dạt tình yêu thiên nhiên, người tù mới làm chủ hoàn cảnh gian khổ, đọa đày để cảm thụ vẻ đẹp đêm thu. Một nét vẽ, một câu thơ đầy ánh sáng trong một cuộc đời còn nhiều tăm tối và cay đắng. "Chinh nhân" đang hướng về ánh sáng mà đi tới:
"Chinh nhân dĩ tại chinh đồ thượng,
Nghênh diện thu phong trận trận hàn"
(Người đi cất bước trên đường thẳm
Rút mặt đêm thu trận gió hàn).
Hai câu 3, 4 miêu tả cảnh người đi đày – người đi xa đang bước đi trên con đường xa (chinh đồ thượng). Lúc bấy giờ, Bác đã trải qua những ngày dài bị đày ải, phải đắp chăn giấy, áo quần rách tả tơi. Thân hình tiều tụy, đôi chân mang xiềng xích, lê bước đi trước mũi súng bọn lính áp giải. Từng trận… từng trận gió thu phương Bắc lạnh lẽo tới tấp thổi vào mặt Bác. Hai câu thơ này, có nhà phê bình văn học rất thú vị ở chữ "nghênh diện" vì nó gợi tả tư thế hiên ngang, bất khuất của Bác trên bước đường khổ ải. Cũng có ý kiến khác chú ý nhiều hơn đến các từ "chinh nhân" – "chinh đồ" ở câu thứ ba và hai chữ "trận" trong hình ảnh "trận trận hàn" ở câu 4. Bốn tiếng ấy hòa nhịp với nhau tạo nên âm hưởng trầm hùng. Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh đã viết: "… Nhịp điệu ấy, âm hưởng ấy khiến cho bài thơ không phải là tiếng hát đi đày mà là hành khúc trầm hùng".
Phần hai của bài thơ nói về cảnh rạng đông, cả trời đất bừng sáng trong khoảnh khắc, bầu trời từ màu trắng (bạch sắc) chuyển sang màu hồng (dĩ thành hồng). Bao la một màu hồng. Cảnh bình minh hiện lên vô cùng tráng lệ:
"Đông phương bạch sắc dĩ thành hồng, u ám tàn dư tảo nhất không!"
Ánh sáng chuyển hóa: "bạch sắc" – "thành hồng", màu sắc tương phản đối lập: "hồng" / "u ám". Một đêm thu lạnh lẽo đã trôi qua. Thơ viết về rạng đông đầy màu sắc rạng rỡ. Đúng là "thi trung hữu họa". Sau này, trơng bài thơ "Đi thuyền trên sông Đáy", Bác cũng viết:
"Thuyền về trời đã rạng đông,
Bao la nhuốm một màu hồng đẹp tươi".
(1949)
Một đằng là cảnh rạng đông khi bị lưu đày, một đằng là cảnh rạng đông trên chiến khu thời kháng chiến, cảnh ngộ tuy khác nhau nhưng đều biểu hiện một tâm hồn yêu thiên nhiên, một tâm thế lạc quan yêu đời của người chiến sĩ vĩ đại.
Hai câu cuối toát lên một phong thái, một cốt cách thi sĩ rất đẹp:
"Noãn khí bao la toàn vũ trụ,
Hành nhân thi hứng hốt gia nồng".
Hơi ấm bao la bao trùm cả vũ trụ lúc rạng đông bỗng chốc hồn thơ của người đi đường càng thêm đượm nồng. "Chinh nhân" trở thành "hành nhân”. "Bác như quên hết mọi đau khổ, lồng ấm lên, vui lên cùng vạn vật". “ Thi hứng " dâng lên: dào dạt trong lòng. Câu thơ tràn đầy xúc cảm. Bác không nói đến "thép" mà vẫn sáng ngời chất thép vì vần thơ đã thể hiện một cách tuyệt đẹp phong thái ung dung, tâm hồn thư thái lạc quan của người chiến sĩ vĩ đại trong khổ ải.
Đọc "Nhật kí trong tù" ta bắt găp nhiều cảnh chuyển lao. Có trường hợp bỉ giải đi trong mưa gió: "Năm mươi ba cây số một ngùy – Áo mũ đầm mưa, rách hét giày". Lại có lần bị đày đọa: "Hôm nay xiềng xích thay dây trói – Mỗi bước leng keng tiếng ngọc rung". Có cảnh "Lủng lẳng chân treo tựạ giảo hình…". Thật trăm lần khổ ải, nghìn điều đắng cay! Tuy nhiên, trong khổ cực đày đọa, lúc nào phong thái của Bác cũng hết sức ung dung tự tại, lạc quan, làm chủ hoàn cảnh: "Vật chất uy đau khổ – Không nao núng tinh thần".
Tóm lại, "Giải đi sớm" là một bài thơ đặc sắc. Tính nhật kí và hướng nội của bài thơ rất rõ nét. Cảnh đêm thu gió rét. Con đường đi đày xa lắc. Có sương sa trên núi thu. Có cảnh bình minh tráng lệ và ấm áp. Và có tâm cảnh: "Hành nhân thi hứng hốt gia nồng".
Hình ảnh người chiến sĩ cách mạng bị quân thù giải đi trong gió rét trên con đường xa, với tâm thế ung dung, lạc quan và yêu đời… là một hình ảnh đẹp mà người đọc cảm nhận được qua bài thơ này. Nét vẽ chấm phá về trăng sao, về rạng đông đã tô đậm chất trữ tình và sắc thái cổ điển của bài thơ"Tảo giải".
Bài thơ "Tảo giải" là bài hát đi đày của người chiến sĩ cách mạng vĩ đại. Chân tay bị xiềng xích mà vẫn ung dung lạc quan. Nó giúp ta khám phá vẻ đẹp tâm hồn Hồ Chí Minh:
"… Mười bốn trăng tê tái gong cùm
Ôi chân yếu, mắt mờ, tóc bạc
Mà thơ hay… cánh hạc ung dung!".
|
Topic: Commentary on the poem "Tao Giai" (Early Departure) by Ho Chi Minh
Assignment
"Prison Diary" includes 133 Chinese poems, most of which are written in the seven-word four-literate form. This poetic diary was born in a very special situation, from August 1942 to September 1943, when leader Ho Chi Minh was unjustly arrested, tortured, and executed by the Chiang Kai-shek government. Traveled to prisons in Guangxi province, China:
"Guangxi covers thirteen districts,
Eighteen prisons have passed through"…
"Prison Diary" touchingly shows the beauty of a great soul, a great intelligence and a great courage of a great soldier in prison.
The poem "Early Escape" (Tao Giai) taken from "Prison Diary" records an extremely arduous transition that Uncle Ho had to go through, through which we see the beautiful image of "the fairy in prison". .
The first two verses talk about the time when the transition takes place between midnight and morning:
"The first thing to do is to eat orchids".
The rooster crowed once, the night changed, the sky was not yet dawn. The sound of a rooster crowing, that familiar folk sound, resounds again tonight in a foreign land, evoking many feelings in the heart of the prisoner who was liberated. The second sentence describes the sky on a northern autumn night:
"The star cluster supports the moon and falls".
The moon and stars are personified: The constellation raises the moon to the top of the autumn mountain. A drawing that creates an image in the dynamic state of nature, making the moon and stars scene even more charming. In times of hardship, the "warrior" does not feel lonely, he still raises his eyes to the sky, towards "thu san" to enjoy the beauty of the universe. The moon and stars seemed to accompany Uncle Ho on his journey of suffering. This is a very delicate drawing of classic beauty: dotted with the moon and stars, using the exterior to express the mood of the lyrical character: the poet - the soldier.
Must have a passionate love for life, an extraordinary bravery, a poetic soul filled with love for nature, for a prisoner to master the arduous and miserable environment to enjoy the beauty of the autumn night. A stroke, a poem full of light in a life still full of darkness and bitterness. "The Conqueror" is moving towards the light:
"The victor is above the conqueror,
"Welcoming the autumn wind and cold battle"
(The person walks on the deep road
Withdrawing the face in the autumn night and the cold wind).
Two verses 3 and 4 describe the scene of the exile - the traveler walking on a distant road (the upper journey). At that time, Uncle Ho had spent long days in exile, having to wear paper blankets and tattered clothes. Her emaciated body, her feet wearing chains, trudged forward at the gunpoint of the escorting soldiers. Each wave... each cold northern autumn wind blew into Uncle Ho's face. In these two verses, some literary critics are very interested in the word "face" because it describes Uncle Ho's proud and indomitable posture on the path of suffering. There are also other opinions that pay more attention to the words "conqueror" - "conqueror" in the third sentence and the two words "battle" in the image of "welcome battle" in sentence 4. Those four words are in harmony with each other. create a majestic sound. Professor Nguyen Dang Manh wrote: "... That rhythm, that sound makes the poem not a song of exile but a majestic march."
The second part of the poem talks about the dawn scene, the whole sky and earth lit up in an instant, the sky from white (white) turned pink (red). Immensely pink. The sunrise scene appears extremely magnificent:
"The white color of the East turns to red, the gloom leaves nothing but algae!"
Light transformation: "white" - "into pink", contrasting contrasting colors: "pink" / "dark". A cold autumn night has passed. Poems about dawn are full of radiant colors. It is true that "good competition meets disaster". Later, in the poem "Sailing on the Day River", Uncle Ho also wrote:
"The boat returned to the sky at dawn,
Immensely tinged with a beautiful, fresh pink color."
(1949)
On one side is the dawn scene when exiled, on the other side is the dawn scene on the war zone during the resistance war. Although the situations are different, they all show a soul that loves nature, an optimistic attitude that loves life of the warrior. great scholar.
The last two sentences exude a very beautiful poetic style and style:
"The soul is vast throughout the universe,
The contestants are excited to get rich."
The immense warmth that covers the entire universe at dawn suddenly makes the poetic soul of the passerby even more passionate. The "warrior" becomes a "doer". "It's like you forget all the pain, your heart warms up, you rejoice with all things." "Poetic inspiration" rises up: overflowing in my heart. The poem is full of emotions. He did not mention "steel", but the steel still shone brightly because the poem beautifully expressed the leisurely demeanor and optimistic soul of the great soldier in hardship.
Reading "Prison Diary" we encounter many transition scenes. There is a case of walking in the wind and rain: "Fifty-three kilometers per day - Rain-dressed hat, torn shoes." There was another time he was tormented: "Today the chains are replaced by ropes - Every step jingles with the sound of jade vibrating." There is a scene "Dangling with legs hanging like a hypocrite...". What a hundred hardships, a thousand bitter things! However, in the midst of hardship and destitution, Uncle Ho's demeanor was always very leisurely, optimistic, and in control of the situation: "Material power is suffering - Mentally unflinching".
In short, "Go Away Early" is a unique poem. The diary and introspection of the poem are very clear. Cold windy autumn night scene. The road to exile is long. There is mist on the autumn mountains. There is a magnificent and warm sunrise. And there is a state of mind: "The contestant is excited to get rich."
The image of a revolutionary soldier being carried away by enemies in the cold wind on a long road, with a leisurely, optimistic and loving attitude... is a beautiful image that readers feel through this poem. The dot drawings of the moon, stars, and dawn highlight the lyrical quality and classic nuance of the poem "Tao Giai".
The poem "Tao Giai" is the exile song of a great revolutionary soldier. Hands and feet chained but still leisurely and optimistic. It helps us discover the beauty of Ho Chi Minh's soul:
"... Fourteen moons of numbness and shackles
Oh, weak legs, blurred eyes, gray hair
But good poetry... the crane's wings are leisurely!".
|
Bình giảng bài thơ Tỏ lòng
Hướng dẫn
Bình giảng bài thơ Tỏ lòng
Triều đại nhà Trần (1226 – 1400) là một mốc son chói lọi trong 4000 năm dựng nước và giữ nước của lịch sử dân tộc ta. Ba lần kháng chiến và đánh thắng quân xâm lược Nguyên Mông, nhà Trần đã ghi vào pho sử vàng Đại Việt những chiến công Chương Dương, Hàm Tử, Bạch Đằng… bất tử. Khí thế hào hùng, oanh liệt của nhân dân ta và tướng sĩ đời Trần được các sử gia ngợi ca là “hào khí Đông A”. Thơ văn đời Trần là tiếng nói của những anh hùng — thi sĩ dào dạt cảm hứng yêu nước mãnh liệt. “Hịch tuớng sĩ” của Trần Quốc Tuấn, “Thuật hoài” của Phạm Ngũ Lão, “Tụng giá hoàn kinh sư” của Trần Quang Khải, “Bạch Đằng giang phú” của Trương Hán Siêu… là những kiệt tác chứa chan tình yêu nước và niềm tự hào dân tộc. Phạm Ngũ Lão (1255-1320) là một danh tướng đời Trần, trăm trận trăm thắng, văn võ toàn tài. Tác phẩm của ông chỉ còn lại hai bài thơ chữ Hán: “Thuật hoài” và “Vãn Thượng tướng Quốc công Hưng Đạo Đại vương”.Bài thơ “Thuật hoài” thể hiện niềm tự hào về chí nam nhi và khát vọng chiến công của người anh hùng khi tổ quốc bị xâm lăng. Đó là bức chân dung tự họa của danh tướng Phạm Ngũ Lão.
Đội quân “Sát Thát” ra trận vô cùng đông đảo, trùng điệp (ba quân) với sức mạnh phi thường, mạnh như hổ báo (tì hổ) quyết đánh tan mọi kẻ thù xâm lược. Với khí thế ngút trời, đội quân “phụ tử chi binh” ấy ào ào ra trận. Không một thế lực nào, kẻ thù nào có thể ngăn cản nổi. “Khí thôn Ngưu” nghĩa là khí thế, tráng chí nuốt sao Ngưu, làm át, làm lu mờ sao Ngưu trên bầu trời. Biện pháp tu từ thậm xưng sáng tạo nên một hình tượng thơ mang tầm vóc hoành tráng, cao rộng như vũ trụ: “Tam quân tì hổ khí thôn Ngưu”. Hình ảnh ẩn dụ so sánh: “Tam quân tì hổ…” trong thơ Phạm Ngũ Lão rất độc đáo, không chỉ có sức biểu hiện sâu sắc sức mạnh vô địch của đội quân “Sát Thát” đánh đâu thắng đấy mà còn khơi nguồn cảm hứng thơ ca; tồn tại như một điển tích, một thi liệu sáng giá trong nền văn học dân tộc:
“Thuyền bè muôn đội;
Tinh kì phấp phới
Tì hổ ba quân
Giáo gươm sáng chói
(Bạch Đằng giang phú)
“Giang sơn hoành sóc, khí thôn Ngưu”.
(Vịnh Phạm Ngũ Lão – Đặng Minh Khiêm)
Người chiến sĩ “bình Nguyên” mang theo một ước mơ cháy bỏng: khao khát lập chiến công để đền ơn vua, báo nợ nước. Thời đại anh hùng mới có khát vọng anh hùng! “Phá cường địch, báo hoàng ân” (Trần Quốc Toản) – “Đầu thần chưa rơi xuống đất, xin bệ hạ đừng lo” (Trần Thủ Độ). “…Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng cam lòng” (Trần Quốc Tuấn)… Khát vọng ấy là biểu hiện rực rỡ những tấm lòng trung quân ái quốc của tướng sĩ, khi tầng lớp quý tộc đời Trần trong xu thế đi lên đang gánh vác sứ mệnh lịch sử trọng đại. Họ mơ ước và tự hào về những chiến tích hiển hách, về những võ công oanh liệt của mình có thể sánh ngang tầm sự nghiệp anh hùng của Vũ hầu Gia Cát Lượng thời Tam Quốc. Hai câu cuối sử dụng một điển tích (Vũ Hầu) để nói về nợ công danh của nam nhi thời loạn lạc, giặc giã:
“Công danh nam tử còn vương nợ
Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ hầu”.
Công danh” mà Phạm Ngũ Lão nói đến trong bài thơ là thứ công danh được làm nên bằng máu và tài thao lược, bằng tinh thần quả cảm và chiến công. Đó không phải là thứ “công danh” tầm thường, đậm màu sắc anh hùng cá nhân. Nợ công danh như một gánh nặng mà kẻ làm trai nguyện trả, nguyện đền bằng xương máu và lòng dùng cảm. Không chỉ “Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ hầu”, mà tướng sĩ còn học tập binh thư, rèn luyện cung tên chiến mã, sẵn sàng chiến đấu “khiến cho người người giỏi như Bàng Mông, nhà nhà đều là Hậu Nghệ có thế bêu được đầu Hốt Tất Liệt ở cửa Khuyết, làm rữa thịt Vân Nam Vương ở Cảo Nhai,…” để tổ quốc Đại Việt được trường tồn bền vững: “Non sông nghìn thuở vững âu vàng” (Trần Nhân Tông).
Nguồn: Bài văn hay
|
Commentary on the poem Express Your Heart
Instruct
Commentary on the poem Express Your Heart
The Tran Dynasty (1226 - 1400) is a brilliant milestone in the 4,000 years of building and defending the country in our nation's history. Three times they resisted and defeated the Mongol invaders, the Tran Dynasty recorded in Dai Viet's golden history the immortal victories of Chuong Duong, Ham Tu, Bach Dang... The heroic and heroic spirit of our people and the generals of the Tran Dynasty was praised by historians as "the pride of Dong A". The poetry of the Tran Dynasty is the voice of heroes - poets filled with intense patriotic inspiration. "Hich tuc tuong tuong" by Tran Quoc Tuan, "Thuat hoai" by Pham Ngu Lao, "Chanting Gia Hoan Kinh Su" by Tran Quang Khai, "Bach Dang Giang Phu" by Truong Han Sieu... are masterpieces filled with love. country and national pride. Pham Ngu Lao (1255-1320) was a famous general of the Tran Dynasty, with hundreds of battles and hundreds of victories, and was talented in literature and martial arts. Only two Chinese poems remain in his works: "Thuat Hoai" and "Van Thuong Tuong Quoc Cong Hung Dao Dai Vuong". The poem "Thuat Hoai" shows pride in manhood and desire for victory. of the hero when his country was invaded. It is a self-portrait of famous general Pham Ngu Lao.
The "Sat That" army went into battle extremely large, overlapping (three armies) with extraordinary strength, as strong as a tiger (ti tiger), determined to defeat all invading enemies. With sky-high momentum, that army of "fathers and sons" rushed into battle. No force or enemy can stop it. "Nuu village's atmosphere" means the spirit and spirit that swallows the Ox star, overpowering and eclipsing the Ox star in the sky. The rhetorical device even creates a poetic image of epic proportions, as high and wide as the universe: "The three armies, the tigers, the spirit of Nguu village". The comparative metaphorical image: "Three armies, tigers..." in Pham Ngu Lao's poem is very unique, not only deeply expressing the invincible strength of the "Sat That" army, which wins every fight, but also inspires poetic inspiration; exists as a classic, a bright poetic document in national literature:
“There are countless boats and rafts;
The spirit flutters
Pi tiger three pieces
Bright swords and spears
(Bach Dang Giang Phu)
"The rivers and mountains are majestic, the atmosphere is in Nguu village".
(Pham Ngu Lao Bay – Dang Minh Khiem)
The "Binh Nguyen" soldier carries a burning dream: the desire to achieve victories to repay the king's gratitude and repay the country's debt. The new heroic age has heroic aspirations! "Destroy the enemy's strength, show the king's grace" (Tran Quoc Toan) - "My head has not yet fallen to the ground, please don't worry, Your Majesty" (Tran Thu Do). “…Even if these hundred bodies are exposed to the grass, or these thousand corpses are wrapped in horse skin, I will still be satisfied” (Tran Quoc Tuan)... That aspiration is a brilliant expression of the loyal and patriotic hearts of the generals and soldiers. when the aristocracy of the Tran Dynasty, in its upward trend, was shouldering an important historical mission. They dreamed and were proud of glorious victories, of their heroic martial arts that could rival the heroic career of Marquis Zhuge Liang during the Three Kingdoms period. The last two sentences use a classic story (Vu Hau) to talk about the debt of men in times of chaos and war:
“A man's reputation still has debts
I'm embarrassed to listen to Marquis Vu's story."
"The "name" that Pham Ngu Lao talks about in the poem is the type of reputation made by blood and strategy, by brave spirit and victories. It is not a trivial "name" but is filled with the color of personal heroism. Debt to fame and reputation is like a burden that men are willing to repay, vowing to repay with blood and heart. Not only were they "embarrassed to listen to the story of Vu Marquis", but the generals also studied military books, trained their bows and arrows and war horses, and were ready to fight, "making people as good as Bang Mong, all of them were Hau Nghe." beheaded Kublai Liet at the Khuyet gate, rotten the flesh of the King of Yunnan at Cao Nhai,..." so that the Dai Viet fatherland can endure and endure: "The mountains and rivers are steadfast for thousands of years" (Tran Nhan Tong).
Source: Good article
|
Đề bài: Bình giảng bài thơ Từ ấy của Tố Hữu
Bài làm
Tố Hữu là nhà thơ lớn, gần gũi với bao thế hệ người Việt Nam. Thơ Tố Hữu có sức sống lâu bền trong lòng bạn độc bởi chất men say của lí tưởng cao cả của tình yêu thương chân thành cho con người, của niềm tin bất diệt vào tương lai. Bài thơ Từ ấy đã ghi lại giây phút mê say của nhà thơ khi bắt gặp ánh sáng của Đảng soi đường. Đó không chỉ là cảm xúc vui sướng, phấn khởi mà còn là phẩm chất cao đẹp của người cộng sản muốn hoà nhập và cống hiến hết mình áo cuộc đời.
Bình giảng bài thơ Từ ấy của Tố Hữu
Mỗi người đều có những giây phút trọng đại, thiêng liêng trong cuộc đời. Với người mẹ đó là khi đứa con yêu ra đời và bập bẹ biết nói, biết đi. Với người yêu nhau là khi họ bắt gặp nhau lần đầu liên đã tưởng chừng như quen biết tự bao giờ. Nhà thơ Xuân Diệu từng có giây phút đó:
Từ lúc yêu nhau hoa nở mãi
Trong vườn thơm ngát của hồn tôi
Còn riêng Tố Hữu, hạnh phúc nhất là lúc nhận ra con đường đi đúng đắn của mình, bắt gặp ánh sáng lí tưởng của Đảng. Đó là cái mới đánh dấu bước ngoặt lớn trong đời người thanh niên yêu nước đầy nhiệt tình, hăm hở. Tố Hữu vào Đảng khi còn rất trẻ – mười bảy tuổi, vậy mà mối duyên với cách mạng sớm đưa lại những đổi thay kì diệu về tình cảm và tâm hồn, nhận thức:
Từ ấy trong tôi bừnq nắng hạ
Mặt trời chân lí chói qua tim
Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim.
Từ ấy đặt ngay đầu bài thơ như bức tường vạch chia ranh giới rõ ràng giữa hai khoảng thời gian. Thời gian cuộc đời của nhà thơ tự phân làm hai nửa trước và sau Từ ấy cho chúng ta sự khác biệt trong một con nsười. Trước Từ ấy, cuộc sống bế tắc không lối thoát, cô đơn tuyệt vọng chán chường:
Đâu những ngày xưa tôi nhớ tôi
Bâng khuâng đi kiếm lẽ yêu đời
Vẩn vơ theo mãi dòng quanh quẩn
Muốn thoát than ôi, bước chẳng rời.
(Nhớ đồng)
Đó không phải là tâm trạng của riêng minh nhà thơ mà là chúng cho cả một hệ trẻ lúc bấy giờ vừa rời ghế nhà trường liền va đập ngay với những cảnh trớ trêu. Họ bi quan, không xác định cho mình một hướng đi, hay một lí tưởng dứt khoát Bâng khuâng đứng giữa hai dòng nước, Chọn một dòng hay để nước trôi đi. Từ ấy khép lại chuỗi ngày dằn vặt, đau khổ, bóng tối, mở ra một cuộc sống đầy hứa hẹn. Nó toát lên từ sức sống mạnh mẽ bên trong, từ sự thức tỉnh kì diệu. Tố Hữu ghi lại giây phút đổi thay ấy bằng những hình ảnh giàu tính hình tượng bừng nắng hạ, thứ ánh nắng sáng tươi, rực rỡ chiếu soi tỏ khắp nơi đặc biệt soi sáng cả những ngõ ngách sâu kín nhất của tâm hồn, trí tuệ, nhận thức Mặt trời chân lí là hình ảnh ẩn dụ chỉ lí tưởng Đảng, nó có sức mạnh vừa cảm hoá, lay động vừa thức tình không chỉ nhận thức, lí trí mà cả tình cảm, con người của nhà thơ. Dường như có một cuộc đổi thay nhanh chóng giống như người đang sống trong đêm tối, tâm hồn khô kiệt bỗng chốc đèn pha bật sáng như ngày mai lên, mọi vật hiện ra, rõ ràng đến từng chi tiết và cảm xúc nảy sinh. Niềm vui sướng thật sự đang trào khi tâm hồn nhà thơ có cuộc sống mới tươi vui, rộn rã:
Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim
Hình ảnh so sánh hồn tôi – vườn hoa lá diễn tả quá đầy đủ về cuộc sống, sức sống dào dạt, sinh sôi. Những xao xuyến, hứng khởi trong tâm hồn sâu kín nhà thơ được phơi trải ra thật sông động. Đó là cuộc sống đầy màu sắc, am thanh và mùi vị, có màu xanh yên bình của lá, của hoa, có mùi thơm của hoa và tiếng chim rộn ràng. Tất cả những âm vang của cuộc sống được nhà thơ chắt lọc đẻ nuôi dưỡng sức sống của tâm hồn người. Nó được đẩy đến ngưỡng cao nhất. Bằng việc sử dụng các tính từ chỉ mức độ như bừng, chói, rất, đậm, rộn Tố Hữu cho thấy sự say mê, ngây ngất của người chiến sĩ cộng sản khi bước theo ánh sáng lí tưởng đời mình. Ghi lại bước chuyển quan trọng trong đời nhưng nhà thơ không lên gân, vẫn giọng thơ nhẹ nhàng dứt khoát mà thấm đẫm cảm xúc vui tươi, tha thiết như mạch sống lan tỏa khắp nơi và ngay cả nơi sâu kín nhất.
Từ ấy là sự đánh dấu một cuộc đổi đời, cao hơn là sự hồi sinh của một con người. Từ đây, sức sống đó sẽ được nhân lên mạnh mẽ, tâm hồn sẽ như một vườn hoa lá: trong sáng, hồn nhiên:
Rồi một hôm nào tôi thấy tôi
Nhẹ nhàng như con chim cà lơi
Say đồng hương nắng vui ca hát
Trên chín tầng cao bát ngát trời.
Sau những phút giây sung sướng nhận ra lí tưởng cao cả cần đi, người chiến sĩ cộng sản phải xác định một tâm thế, một hành động cho xứng đáng. Đó trước hết là ý thức trách nhiệm trước cuộc đời. Nhà thơ thay lời cái tôi chiến sĩ nói lên tâm nguyện, khái vọng ấy:
Tôi buộc lòng tôi với mọi người
Để tình trang trải với trăm nơi
Để hồn tôi với bao hồn khổ
Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời
Con người cá nhân đến đây đang tan biến dần nhường chỗ cho cái tôi rộng lớn – cái tôi hướng đến cuộc đời và mọi người. Những ích kì, hẹp hòi ngăn cách cái tôi đến với mọi người không còn nữa, con đường hoà nhập rộng mở thênh thang. Làm được điều đó không phải dễ dàng, cần phải đấu tranh, cân nhắc, lựa chọn bằng ý thức trách nhiệm xuất phát từ sự chân thành, tự nguyện. Tôi – nhà thơ tự buộc lòng mình với mọi người. Đó là thái độ dứt khoát, mạnh mẽ xác định bởi lí trí sáng suốt. Mối dây ràng buộc với mọi người đã xoá bỏ sự đối lập chất chứa, đầy căm phẫn ngự trị trong tâm hồn tôi trước đây đồng thời thiết lập tình yêu thương, gắn kết giữa người và người. Đó là sự cảm thông, chia sẻ trước nỗi đau, vui buồn của bao kiếp người. Tinh thần tự nguyện buộc để tạo nên khối đời, gần gũi, mạnh mẽ là mục đích cuối cùng nâng cao phẩm chất của người cách mạng. Tình nhân ái làm cho mỗi người hoà vào cuộc đời chung trở thành con người đúng theo nghĩa của nó.
Khổ thơ cuối tiếp tục nhấn mạnh ý thức trách nhiệm của con người cụ thể trước cuộc đời rộng lớn:
Tôi đã là con của vạn nhà
Là em của vạn kiếp phôi pha
Là anh của vạn đầu em nhỏ
Không áo cơm cù bất cù bơ.
Ba từ là xuất hiện liên tiếp trong đoạn thơ như lời khẳng định chắc nịch, rắn rỏi, dứt khoái cho sự hoà nhập tuyệt đối. Người chiến sĩ đã ở giữa đời và mọi người rất khiêm tốn mà không làm mất đi vẻ tự nhiên vốn có, là con của gia đình, là em của kiếp đời phôi pha, là anh của các em thơ nghèo khổ, đói cơm rách áo. Khối đời to lớn ở đây được tạo bởi từng số phận với những cảnh ngộ riêng là em Phước trong bài Đi đi em sớm chịu cảnh nô lệ, cả người vú em để con mình đói khát phải đi chăm con người và biết bao người khác nữa. Nhà thơ bắt gặp cuộc đời mình trong những mảnh đời cơ cực ấy, số từ được sử dụng tăng dần từ một, mọi, trăm, khối, vạn như mở rộng khối đời đồng thời kết nối tình cảm yêu thương gắn bó giữa họ, ở đó không còn là sự cảm thông mà cao hơn nhà thơ tự thấy mình là thành viên của gia đình rộng lớn phải truyền cho họ tình yêu và trách nhiệm trước số phận của mình. Phải chiến đấu để đem lại cuộc sống tốt hơn cho gia đình, cho mọi người và dìu dắt, bảo ban những em thơ.
Đến đây phẩm chất của người cách mạng được soi sáng. Tâm hồn, nhận thức, quan hệ đều được soi chiếu nhờ ánh sáng lí tưởng Đảng. Không có sự tri nghiệm, người cộng sản – nhà thơ không thể có những đổi thay lớn lao như vây. Từ ấy là bản đàm đạo khúc vui đầu tiên của người cộng sản khi gặp lí tưởng của Đảng. Đó là lúc tâm hồn được hồi sinh, trí tuệ bừng sáng, nhận thức trách nhiệm lớn lao với cuộc đời. Thơ Tố Hữu hay khi kết hợp sâu sắc lí tưởng cộng sản, tình thương yêu con người và niềm vui hướng về tương lai. Từ ấy đã đã kết tinh cái hay ấy và tạo nên sức hút lớn đối vđi những con người chân chính đã và đang đi theo lí tưởng của mình. Nhà thơ khơi lên lòng nhiệt huyết, quyết của biết bao thế hệ để họ hôm nay và mai sau thực hiện ước nguyện xây dựng cuộc sống tốt đẹp hơn.
|
Đề bài: Bình giảng bài thơ Từ ấy của Tố Hữu
Bài làm
Tố Hữu là nhà thơ lớn, gần gũi với bao thế hệ người Việt Nam. Thơ Tố Hữu có sức sống lâu bền trong lòng bạn độc bởi chất men say của lí tưởng cao cả của tình yêu thương chân thành cho con người, của niềm tin bất diệt vào tương lai. Bài thơ Từ ấy đã ghi lại giây phút mê say của nhà thơ khi bắt gặp ánh sáng của Đảng soi đường. Đó không chỉ là cảm xúc vui sướng, phấn khởi mà còn là phẩm chất cao đẹp của người cộng sản muốn hoà nhập và cống hiến hết mình áo cuộc đời.
Bình giảng bài thơ Từ ấy của Tố Hữu
Mỗi người đều có những giây phút trọng đại, thiêng liêng trong cuộc đời. Với người mẹ đó là khi đứa con yêu ra đời và bập bẹ biết nói, biết đi. Với người yêu nhau là khi họ bắt gặp nhau lần đầu liên đã tưởng chừng như quen biết tự bao giờ. Nhà thơ Xuân Diệu từng có giây phút đó:
Từ lúc yêu nhau hoa nở mãi
Trong vườn thơm ngát của hồn tôi
Còn riêng Tố Hữu, hạnh phúc nhất là lúc nhận ra con đường đi đúng đắn của mình, bắt gặp ánh sáng lí tưởng của Đảng. Đó là cái mới đánh dấu bước ngoặt lớn trong đời người thanh niên yêu nước đầy nhiệt tình, hăm hở. Tố Hữu vào Đảng khi còn rất trẻ – mười bảy tuổi, vậy mà mối duyên với cách mạng sớm đưa lại những đổi thay kì diệu về tình cảm và tâm hồn, nhận thức:
Từ ấy trong tôi bừnq nắng hạ
Mặt trời chân lí chói qua tim
Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim.
Từ ấy đặt ngay đầu bài thơ như bức tường vạch chia ranh giới rõ ràng giữa hai khoảng thời gian. Thời gian cuộc đời của nhà thơ tự phân làm hai nửa trước và sau Từ ấy cho chúng ta sự khác biệt trong một con nsười. Trước Từ ấy, cuộc sống bế tắc không lối thoát, cô đơn tuyệt vọng chán chường:
Đâu những ngày xưa tôi nhớ tôi
Bâng khuâng đi kiếm lẽ yêu đời
Vẩn vơ theo mãi dòng quanh quẩn
Muốn thoát than ôi, bước chẳng rời.
(Nhớ đồng)
Đó không phải là tâm trạng của riêng minh nhà thơ mà là chúng cho cả một hệ trẻ lúc bấy giờ vừa rời ghế nhà trường liền va đập ngay với những cảnh trớ trêu. Họ bi quan, không xác định cho mình một hướng đi, hay một lí tưởng dứt khoát Bâng khuâng đứng giữa hai dòng nước, Chọn một dòng hay để nước trôi đi. Từ ấy khép lại chuỗi ngày dằn vặt, đau khổ, bóng tối, mở ra một cuộc sống đầy hứa hẹn. Nó toát lên từ sức sống mạnh mẽ bên trong, từ sự thức tỉnh kì diệu. Tố Hữu ghi lại giây phút đổi thay ấy bằng những hình ảnh giàu tính hình tượng bừng nắng hạ, thứ ánh nắng sáng tươi, rực rỡ chiếu soi tỏ khắp nơi đặc biệt soi sáng cả những ngõ ngách sâu kín nhất của tâm hồn, trí tuệ, nhận thức Mặt trời chân lí là hình ảnh ẩn dụ chỉ lí tưởng Đảng, nó có sức mạnh vừa cảm hoá, lay động vừa thức tình không chỉ nhận thức, lí trí mà cả tình cảm, con người của nhà thơ. Dường như có một cuộc đổi thay nhanh chóng giống như người đang sống trong đêm tối, tâm hồn khô kiệt bỗng chốc đèn pha bật sáng như ngày mai lên, mọi vật hiện ra, rõ ràng đến từng chi tiết và cảm xúc nảy sinh. Niềm vui sướng thật sự đang trào khi tâm hồn nhà thơ có cuộc sống mới tươi vui, rộn rã:
Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim
Hình ảnh so sánh hồn tôi – vườn hoa lá diễn tả quá đầy đủ về cuộc sống, sức sống dào dạt, sinh sôi. Những xao xuyến, hứng khởi trong tâm hồn sâu kín nhà thơ được phơi trải ra thật sông động. Đó là cuộc sống đầy màu sắc, am thanh và mùi vị, có màu xanh yên bình của lá, của hoa, có mùi thơm của hoa và tiếng chim rộn ràng. Tất cả những âm vang của cuộc sống được nhà thơ chắt lọc đẻ nuôi dưỡng sức sống của tâm hồn người. Nó được đẩy đến ngưỡng cao nhất. Bằng việc sử dụng các tính từ chỉ mức độ như bừng, chói, rất, đậm, rộn Tố Hữu cho thấy sự say mê, ngây ngất của người chiến sĩ cộng sản khi bước theo ánh sáng lí tưởng đời mình. Ghi lại bước chuyển quan trọng trong đời nhưng nhà thơ không lên gân, vẫn giọng thơ nhẹ nhàng dứt khoát mà thấm đẫm cảm xúc vui tươi, tha thiết như mạch sống lan tỏa khắp nơi và ngay cả nơi sâu kín nhất.
Từ ấy là sự đánh dấu một cuộc đổi đời, cao hơn là sự hồi sinh của một con người. Từ đây, sức sống đó sẽ được nhân lên mạnh mẽ, tâm hồn sẽ như một vườn hoa lá: trong sáng, hồn nhiên:
Rồi một hôm nào tôi thấy tôi
Nhẹ nhàng như con chim cà lơi
Say đồng hương nắng vui ca hát
Trên chín tầng cao bát ngát trời.
Sau những phút giây sung sướng nhận ra lí tưởng cao cả cần đi, người chiến sĩ cộng sản phải xác định một tâm thế, một hành động cho xứng đáng. Đó trước hết là ý thức trách nhiệm trước cuộc đời. Nhà thơ thay lời cái tôi chiến sĩ nói lên tâm nguyện, khái vọng ấy:
Tôi buộc lòng tôi với mọi người
Để tình trang trải với trăm nơi
Để hồn tôi với bao hồn khổ
Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời
Con người cá nhân đến đây đang tan biến dần nhường chỗ cho cái tôi rộng lớn – cái tôi hướng đến cuộc đời và mọi người. Những ích kì, hẹp hòi ngăn cách cái tôi đến với mọi người không còn nữa, con đường hoà nhập rộng mở thênh thang. Làm được điều đó không phải dễ dàng, cần phải đấu tranh, cân nhắc, lựa chọn bằng ý thức trách nhiệm xuất phát từ sự chân thành, tự nguyện. Tôi – nhà thơ tự buộc lòng mình với mọi người. Đó là thái độ dứt khoát, mạnh mẽ xác định bởi lí trí sáng suốt. Mối dây ràng buộc với mọi người đã xoá bỏ sự đối lập chất chứa, đầy căm phẫn ngự trị trong tâm hồn tôi trước đây đồng thời thiết lập tình yêu thương, gắn kết giữa người và người. Đó là sự cảm thông, chia sẻ trước nỗi đau, vui buồn của bao kiếp người. Tinh thần tự nguyện buộc để tạo nên khối đời, gần gũi, mạnh mẽ là mục đích cuối cùng nâng cao phẩm chất của người cách mạng. Tình nhân ái làm cho mỗi người hoà vào cuộc đời chung trở thành con người đúng theo nghĩa của nó.
Khổ thơ cuối tiếp tục nhấn mạnh ý thức trách nhiệm của con người cụ thể trước cuộc đời rộng lớn:
Tôi đã là con của vạn nhà
Là em của vạn kiếp phôi pha
Là anh của vạn đầu em nhỏ
Không áo cơm cù bất cù bơ.
Ba từ là xuất hiện liên tiếp trong đoạn thơ như lời khẳng định chắc nịch, rắn rỏi, dứt khoái cho sự hoà nhập tuyệt đối. Người chiến sĩ đã ở giữa đời và mọi người rất khiêm tốn mà không làm mất đi vẻ tự nhiên vốn có, là con của gia đình, là em của kiếp đời phôi pha, là anh của các em thơ nghèo khổ, đói cơm rách áo. Khối đời to lớn ở đây được tạo bởi từng số phận với những cảnh ngộ riêng là em Phước trong bài Đi đi em sớm chịu cảnh nô lệ, cả người vú em để con mình đói khát phải đi chăm con người và biết bao người khác nữa. Nhà thơ bắt gặp cuộc đời mình trong những mảnh đời cơ cực ấy, số từ được sử dụng tăng dần từ một, mọi, trăm, khối, vạn như mở rộng khối đời đồng thời kết nối tình cảm yêu thương gắn bó giữa họ, ở đó không còn là sự cảm thông mà cao hơn nhà thơ tự thấy mình là thành viên của gia đình rộng lớn phải truyền cho họ tình yêu và trách nhiệm trước số phận của mình. Phải chiến đấu để đem lại cuộc sống tốt hơn cho gia đình, cho mọi người và dìu dắt, bảo ban những em thơ.
Đến đây phẩm chất của người cách mạng được soi sáng. Tâm hồn, nhận thức, quan hệ đều được soi chiếu nhờ ánh sáng lí tưởng Đảng. Không có sự tri nghiệm, người cộng sản – nhà thơ không thể có những đổi thay lớn lao như vây. Từ ấy là bản đàm đạo khúc vui đầu tiên của người cộng sản khi gặp lí tưởng của Đảng. Đó là lúc tâm hồn được hồi sinh, trí tuệ bừng sáng, nhận thức trách nhiệm lớn lao với cuộc đời. Thơ Tố Hữu hay khi kết hợp sâu sắc lí tưởng cộng sản, tình thương yêu con người và niềm vui hướng về tương lai. Từ ấy đã đã kết tinh cái hay ấy và tạo nên sức hút lớn đối vđi những con người chân chính đã và đang đi theo lí tưởng của mình. Nhà thơ khơi lên lòng nhiệt huyết, quyết của biết bao thế hệ để họ hôm nay và mai sau thực hiện ước nguyện xây dựng cuộc sống tốt đẹp hơn.
|
Bình giảng bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu
Hướng dẫn
Bình giảng bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu
Gợi ý
Bài thơ “Việt Bắc” là một trong những sáng tác tác tiêu biểu trong thời kì kháng chiến chống Pháp và đem lại nhiều thành công cho Tố Hữu. Bài thơ là những xúc cảm, kỉ niệm của người chiến sĩ Cách mạng với thiên nhiên, con người Việc Bắc nồng hậu mà ân tình.
Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi nhìn sông nhớ nguồn.
Mình về có nhớ ta chăng,
Ta về ta nhớ hàm răng mình cười
Sử dụng lối nói giao duyên “mình” – “ta”, nhà thơ dang diễn tả cảnh chia li đầy nhung nhớ giữa người đi – kẻ ở. Người ở băn khoăn không biết người đi liệu có còn nhớ những tháng ngày bên nhau biết bao kỉ niệm. Lời thơ trầm buồn, da diết, tạo một nối nhớ khắc khoải khôn nguôi.
Ta về ta nhớ hàm răng mình cười
Người ra đi chợt nghe có tiếng ai níu bước:
Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ bồn chồn bước đi
Mặt đối mặt, hai người chỉ biết cầm tay nhau, bịn rịn không nói nên lời:
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay
Người ở băn khoăn tự hỏi về lòng thuỷ chung son sắt của người ra đi:
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù
Mình về, có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?
Mình về, rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già
Mình đi, có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm dà lòng son
Mình về, có nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt minh
Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa?
Và ngược lại người ra đi khẳng định nghĩa tình đó mãi không phai nhòa trong kí ức:
Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh.
Như để khẳng định lại một lần nữa tình cảm của mình dành cho Việt Bắc, người đi nhắc lại từng kỉ niệm, kí ức những tháng ngày từng ở nơi đây (Binh giang bai tho Viet Bac cua To Huu):
Ta về mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hoà bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung.
Bức tranh thiên nhiên Việt Bắc như hiển hiện trước mắt người đọc. Mảnh đất Việt Bắ màu mỡ giúp cho cây cối muôn loài được sinh sôi, nảy nở và phát triển. Con người Việt Bắc hòa cùng thiên nhiên, cần cù lao động. Nhớ cảnh nhớ người, người ra đi nhớ cả những tháng ngày gian khổ cùng nhau chiến đấu:
Rừng cây núi đá ta cùng đánh tây
Núi giăng thành luỹ sắt dày
Rừng che bộ đội rừng vây quân thù
Mênh mông bốn mặt sương mù
Đất trời ta cả chiến khu một lòng.
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan
Dân quân đỏ đước từng đoàn
Bước chân nát đá muôn tàn lửa bay
Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Đèn pha bật sáng như ngày mai lên”
Con người Việt Bắc anh dũng, bất khuất, thiên nhiên núi rừng Việt Bắc cũng đóng góp một phần không nhỏ trong cuộc chiến chống quân thù. Tất cả đều tạo nên một không khí hào hùng, những năm tháng không thể nào quên đối với cả người đi – người ở. Lời thơ hào hùng, mạch thơ nahn, mạnh và dồn dập. Bài thơ khép lại với hình ảnh một Việt Bắc kiên cường đầy bản lĩnh.
Bài thơ “Việt Bắc” mang đậm phong cách thơ của nhà thơ Tố Hữu. Viết theo thể thơ lục bát với hình thức đối đáp giao duyên đã làm cho bài thơ thêm phần duyên dáng mà gần gũi, dễ đi vào lòng người.
|
Commentary on the poem Viet Bac by To Huu
Instruct
Commentary on the poem Viet Bac by To Huu
Suggest
The poem "Viet Bac" is one of the typical compositions during the resistance war against the French and brought much success to To Huu. The poem is about the emotions and memories of the Revolutionary soldiers with nature and people of Viet Bac, who are warm and loving.
When I come back, I miss you
Those fifteen years were passionate and passionate
Do you remember when I come back?
Looking at the trees, remembering the mountains, looking at the river, remembering its source.
Will you miss me when I come back?
When I come back, I remember my smiling teeth
Using the expression "I" - "I", the poet is describing the longing scene of separation between the person leaving and the person staying. The people who live wonder if the people who leave will still remember the many memories of their days together. The poem's lyrics are sad and poignant, creating an unforgettable memory.
When I come back, I remember my smiling teeth
The person leaving suddenly heard a voice:
The sound of someone earnestly beside the alcohol
Feeling restless in my stomach, I walked away
Face to face, the two could only hold each other's hands, speechless:
Indigo shirt brings separation
We held each other's hand, did not know what to say
The residents wondered about the faithfulness of the person who left:
Rain and floods, clouds and mist
When I return, I remember the war zone
A piece of rice dipped in salt, a heavy feud?
When I return, the mountains and forests miss everyone
The bamboo shoots are left to fall, and the apricot shoots are left to mature
When I go, I miss the houses
Dark and gray, rich in lipstick
When I return, I miss the mountains
Remember when we resisted the Japanese, when we were still in the Viet Minh days
I'm gone, I miss myself
Tan Trao, Hong Thai, communal house roof, banyan tree?
And on the contrary, the person who left affirmed that love will never fade in their memories:
Me with you, you with me
My heart is salty and confident.
As if to reaffirm his feelings for Viet Bac, he repeated every memory and memory of the days spent here (Binh giang bai tho Viet Bac cua To Huu):
When I come back, do you miss me?
I about, I remember the flowers to him
Green forest with bright red banana flowers
High Pass waist tuck knife sun light
On spring day, apricots bloom white in the forest
Remember the person knitting the hat and smoothing each thread
Cicadas call out to the amber forest and pour gold
I miss my younger sister picking bamboo shoots alone
The moonlit autumn forest shines peace
Remember someone whose singing is faithful and loving.
The natural picture of Viet Bac appears before the reader's eyes. Viet Ba's fertile land helps plants of all species to reproduce, flourish and develop. Viet Bac people are in harmony with nature and work hard. Remember the scene, miss the person, the person who passed away, remember the arduous days of fighting together:
Forests, trees, rocky mountains, we fight together
The mountains are covered with thick iron ramparts
The forest covers the soldiers and surrounds the enemy
Immense fog on all four sides
Heaven and earth, we are all in the war zone with one heart.
The army spreads its message again and again
The starlight of the gun head and the bamboo hat
Red militiamen march in groups
Footsteps crushed rocks and sent sparks flying
Thousands of nights filled with thick fog
The headlights turn on like tomorrow."
The people of Viet Bac are heroic and indomitable, and the nature of Viet Bac's mountains and forests also contributed a significant part in the war against the enemy. All create a heroic atmosphere, unforgettable years for both visitors and residents. The poem's lyrics are heroic, the poem's flow is fast, strong and intense. The poem closes with the image of a resilient and brave Viet Bac.
The poem "Viet Bac" bears the poetic style of poet To Huu. Written in the form of six-eight verse with the form of love and response, it makes the poem more charming and close, making it easier to reach people's hearts.
|
Đề bài: Bình giảng bài thơ Vội vàng của thi sĩ Xuân Diệu
Bài làm
Mỗi lần đọc những dòng thơ trên, nhạc điệu,vần điệu "Vội vàng" cứ ngân vang dào dạt mãi trong lòng ta, tình yêu đời, yêu sông như tát mãi không bao giờ vơi cạn… Cảm thức về thời gian, về mùa xuân, về tuổi trẻ về như những lớp sóng vỗ vào tâm hồn ta. "Vội vàng" là bài thơ độc đáo nhất, "mới nhất" của thi sĩ Xuân Diệu in trong tập "Thơ thơ" (1933-1938) đóa hoa đầu mùa đầy hương sắc làm rạng danh môt tài thơ thế kỉ.
Bài thơ "Vội vàng" nói lên nhịp điệu sống, khát vọng sống của tuổi trẻ rất đẹp, rất đáng yêu. Một đời người chỉ có một lần tuổi trẻ. Phải biết trân trọng, quý trọng và sống hết mình với tuổi trẻ, với mùa xuân và với thời gian.
Trong "Tiểu dẫn" về bài thơ "Vội vàng" này. Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh viết: "Đây là tiếng nói của một tâm hồn yêu đời, yêu sống đến cuồng nhiệt. Nhưng đằng sau những tình cảm ấy, có một quan niệm nhân sinh mới chưa thấy trong thơ ca truyền thống".
Thiên nhiên rất đẹp đầy hương sắc của hoa trên "đồng nội xanh rì", của lá "cành tơ phơ phất". "Tuần tháng mật" của ong bướm. "Khúc tình si" của yến anh. "Và này đây ánh sáng chớp hàng mi". Chữ "này đây" được năm lần nhắc lại diễn tả sự sống ngồn ngộn phơi bày, thiên nhiên hữu tình xinh đẹp thật đáng yêu. Vì lẽ đó nên phải vội vàng "tắt nắng đi" và "buộc gió lại". Trong cái phi lí có sự đáng yêu của một tâm hồn lãng mạn.
Tuổi trẻ rất đẹp, rất đáng yêu. Bình minh là khoảnh khắc tươi đẹp nhất của một ngày, đó là lúc "thần vui hằng gõ cửa". Tháng giêng là tháng khởi đầu của mùa xuân, "ngon như cặp môi gần". Một chữ "ngon" chuyển đổi cảm giác thần tình, một cách so sánh vừa mới lạ vừa táo bạo. Chiếc môi ấy chắc là của giai nhân, của trinh nữ. Đây là câu thơ hay nhất, mới nhất cho thấy màu sắc cảm giác và tâm hồn yêu đời, yêu sống đến cuồng nhiệt của thi sĩ Xuân Diệu.
Chắc là Xuân Diệu viết bài thơ này trước năm 1938, lúc ông trên dưới 20 tuổi – cái tuổi thanh niên bừng sáng. Nhưng thi sĩ đã "vội vàng một nửa", một cách nói rất thơ – chẳng cần đến tuổi trung niên (nắng hạ) mới luyến tiếc tuổi hoa niên. Dấu chấm giữa dòng thơ, rất mới, thơ cổ không hề có. Như một tuyên ngôn “vội vàng":
"Tháng giêng ngon như cặp môi gần
Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân".
Vội vàng vì thiên nhiên quá đẹp, vì cuộc sống quá yêu, vì tuổi trẻ quá thơ mộng. Đang tuổi hoa niên mà đã “Vội vàng một nửa"… Cảm thức của thi sĩ về thời gian, về mùa xuân, về tuổi trẻ rất hồn nhiên, mới mẻ. Quan niệm về thời gian có nhiều cách nói. Thời gian là vàng ngọc. Bóng ngả lưng ta. Thời gian vun vút thoi đưa, như bóng câu (tuấn mã) vút qua cửa sổ, như nước chảy qua cầu. Thời gian một đi không trở lại. Xuân Diệu cũng có một cách nói rất riêng: tương phản đối lập để chỉ ra cái "lượng trời" cho một đời người chỉ có một thời xuân xanh mà tuổi trẻ một đi qua không bao giờ trở lại:
"Xuân đang tới, nghĩa là xuân đương qua,
Xuân còn non. nghĩa là xuân sẽ già
Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất
Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật
Không cho dài thời trẻ của nhân gian
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại…".
Giọng thơ sôi nổi như nước tự mạch nguồn tuôn ra. Một hệ thống tương phản đối lập: tới – qua, non – già, rộng – chật, tuần hoàn – bất phục hoàn, vô hạn – hữu hạn – để khẳng định một chân lí – triết lí: tuổi xuân một đi không trở lại, phải quý tuổi xuân.
Cách nhìn nhận của thi nhân về thời gian cũng rất tinh tế độc đáo, nhạy cảm. Trong hiện tại đã bắt đầu có quá khứ và đã hé lộ mầm tương lai, cái đang có lại đang mất dần đi…
Và mối tương giao mầu nhiệm của cảnh vật, của tạo vật hình như mang theo nỗi buồn "chia phôi",hoặc "tiễn biệt", nên phải "hờn" vì xa cách, phải "sự" vì "độ phai tàn sắp sửa", cảm xúc lãng mạn dào dạt trong cái vị đời. Nói cảnh vậi thiên nhiên mà là để nói về con người, nói về nhịp sống khẩn trương "vội vàng" của tạo vật. Với Xuân Diệu hầu như cuộc sông nơi “vườn trần" đều ít nhiều mang "bi kịch" về thời gian:
“Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi
Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt".
Cũng là, “gió” ", là "chim".:, nhưng gió khẽ "thì thào" vì "hờn", còn "chim" thì bỗng ngừng hót, ngừng reo vì "sợ"! Câu hỏi tu từ xuất hiện cũng là để làm nổi bật cái nghịch lí giữa mùa xuân – tuổi trẻ và thời gian:
“Con gió xinh thì thào trong lá biếc
Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi
Chim rộn ràng bỗng dứt tiếng reo thi
Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa?"
Thi sĩ bỗng thốt lên lời than. Tiếc nuối, lo lắng và chợt tỉnh vì "mùa chưa ngủ chiều hôm", nghĩa là vẫn còn trẻ trung, chưa già. Lên đường! Phải vội vàng, phải hối hả. Câu cảm thán với cách ngắt nhịp biến hóa làm nổi bật nỗi lòng vừa lo lắng băn khoăn vừa luống cuống tiếc rẻ, bâng khuâng:
"Chẳng bao giờ ôi chẳng bao giờ nữa…
Mau đi thôi mùa chưa ngả chiều hôm".
Xưa kia, Nguyễn Trãi viết trong chùm "Thơ tiếc cảnh":
"Xuân xanh chưa dễ hai phen lại
Thấy cảnh càng thêm tiếc thiếu niên".
(Bài số 3)
"Tiếc xuân cầm đuốc mảng chơi đêm".
(Bài số 7)
Những vần thơ của Nguyễn Trãi giúp ta cảm nhận sắc điệu trữ tình trong “Vội vàng" về màu thời gian, về sắc thời gian, về tuổi trẻ. Thật yêu đời, thật ham sống.
Mở đầu bài thơ là cái tôi hăm hở "tôi muốn tắt nắng đi". Kết thúc bài thơ là "ta", là mọi tuổi trẻ. Một sự hòa nhập và đồng điệu trong một đời người, trong dòng chảy thời gian: sống mãnh liệt, sống hết mình, sống nồng nàn say mê. Nghệ thuật trùng điệp trong diễn tả gợi lên cái ham hố, yêu đời. Ngôn từ đậm màu sắc cảm giác, xúc giác, rạo rực: "Ta muốn ôm", "Ta muốn riết… Ta muốn say… Ta muốn thâu…
"Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơm mởn
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu
Ta muốn thâu trong mỗi cái hôn nhiều
Và non nước, và cây và cỏ rạng".
Sống cũng là để yêu, yêu hết mình. Thơ hay vì màu sắc lãng mạn. Vì giọng thơ sôi nổi. Nghệ thuật "vắt đồng" với ba từ "và" đồng hiện trong một dòng thơ làm nổi bật cảm xúc. Say mê vồ vập cảnh đẹp, tình đẹp nơi vườn trần. Tất cả mùi thơm, ánh sáng, thanh sắc, xuân hồng… đều là nỗi niềm khao khát của thi nhân:
"Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng
Cho no nê thanh sắc của thời tươi
Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!".
Sống vội vàng không có nghĩa là sống gấp, sống ích kỉ trong hưởng thụ. "Vội vàng" thể hiện một tâm hồn yêu đời, yêu sống đến cuồng nhiệt. Biết quý trọng thời gian, biết quý trọng tuổi trẻ, biết sống cũng là để yêu; tình yêu lứa đôi, tình yêu tạo vật. Tình cảm ấy đã thể hiện một quan niệm nhân sinh mới mẻ, cấp tiến. Bảy thập kỉ sau bài thơ "Vội vàng" ra đời, nhiều câu thơ của Xuân Diệu vẫn còn làm cho không ít người ngỡ ngàng! Xuân Diệu đã sống "Vội vàng" như vậy. Với hơn 50 tác phẩm, hơn 400 bài thơ tình, ông đã góp phần làm giàu đẹp cho nền thi ca Việt Nam hiện đại.
Bài thơ "Vội vàng" cho thấy một cảm quan nghệ thuật rất đẹp, rất nhân văn, một giọng thơ sôi nổi, dâng trào và lôi cuốn, hấp dẫn. Có chất xúc giác trong thơ. Có cách dùng từ rất bạo, cách câu trúc câu thơ, đoạn thơ rất tài hoa. "Vội vàng" tiêu biểu nhất cho "Thơ mới", thơ lãng mạn 1932-1941.
Nhà thơ Xuân Diệu đã đi vào thế giới vĩnh hằng những tao nhân mặc khách, nhưng ta vẫn cảm thấy ông đang hiện diện giữa cuộc đời và hát ca:
-"Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!"
-"Mau với chứ! Vội vàng lên với chứ!
Em, em ơi! Tình non sắp già rồi… "
(Giục giã)
|
Đề bài: Bình giảng bài thơ Vội vàng của thi sĩ Xuân Diệu
Bài làm
Mỗi lần đọc những dòng thơ trên, nhạc điệu,vần điệu "Vội vàng" cứ ngân vang dào dạt mãi trong lòng ta, tình yêu đời, yêu sông như tát mãi không bao giờ vơi cạn… Cảm thức về thời gian, về mùa xuân, về tuổi trẻ về như những lớp sóng vỗ vào tâm hồn ta. "Vội vàng" là bài thơ độc đáo nhất, "mới nhất" của thi sĩ Xuân Diệu in trong tập "Thơ thơ" (1933-1938) đóa hoa đầu mùa đầy hương sắc làm rạng danh môt tài thơ thế kỉ.
Bài thơ "Vội vàng" nói lên nhịp điệu sống, khát vọng sống của tuổi trẻ rất đẹp, rất đáng yêu. Một đời người chỉ có một lần tuổi trẻ. Phải biết trân trọng, quý trọng và sống hết mình với tuổi trẻ, với mùa xuân và với thời gian.
Trong "Tiểu dẫn" về bài thơ "Vội vàng" này. Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh viết: "Đây là tiếng nói của một tâm hồn yêu đời, yêu sống đến cuồng nhiệt. Nhưng đằng sau những tình cảm ấy, có một quan niệm nhân sinh mới chưa thấy trong thơ ca truyền thống".
Thiên nhiên rất đẹp đầy hương sắc của hoa trên "đồng nội xanh rì", của lá "cành tơ phơ phất". "Tuần tháng mật" của ong bướm. "Khúc tình si" của yến anh. "Và này đây ánh sáng chớp hàng mi". Chữ "này đây" được năm lần nhắc lại diễn tả sự sống ngồn ngộn phơi bày, thiên nhiên hữu tình xinh đẹp thật đáng yêu. Vì lẽ đó nên phải vội vàng "tắt nắng đi" và "buộc gió lại". Trong cái phi lí có sự đáng yêu của một tâm hồn lãng mạn.
Tuổi trẻ rất đẹp, rất đáng yêu. Bình minh là khoảnh khắc tươi đẹp nhất của một ngày, đó là lúc "thần vui hằng gõ cửa". Tháng giêng là tháng khởi đầu của mùa xuân, "ngon như cặp môi gần". Một chữ "ngon" chuyển đổi cảm giác thần tình, một cách so sánh vừa mới lạ vừa táo bạo. Chiếc môi ấy chắc là của giai nhân, của trinh nữ. Đây là câu thơ hay nhất, mới nhất cho thấy màu sắc cảm giác và tâm hồn yêu đời, yêu sống đến cuồng nhiệt của thi sĩ Xuân Diệu.
Chắc là Xuân Diệu viết bài thơ này trước năm 1938, lúc ông trên dưới 20 tuổi – cái tuổi thanh niên bừng sáng. Nhưng thi sĩ đã "vội vàng một nửa", một cách nói rất thơ – chẳng cần đến tuổi trung niên (nắng hạ) mới luyến tiếc tuổi hoa niên. Dấu chấm giữa dòng thơ, rất mới, thơ cổ không hề có. Như một tuyên ngôn “vội vàng":
"Tháng giêng ngon như cặp môi gần
Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân".
Vội vàng vì thiên nhiên quá đẹp, vì cuộc sống quá yêu, vì tuổi trẻ quá thơ mộng. Đang tuổi hoa niên mà đã “Vội vàng một nửa"… Cảm thức của thi sĩ về thời gian, về mùa xuân, về tuổi trẻ rất hồn nhiên, mới mẻ. Quan niệm về thời gian có nhiều cách nói. Thời gian là vàng ngọc. Bóng ngả lưng ta. Thời gian vun vút thoi đưa, như bóng câu (tuấn mã) vút qua cửa sổ, như nước chảy qua cầu. Thời gian một đi không trở lại. Xuân Diệu cũng có một cách nói rất riêng: tương phản đối lập để chỉ ra cái "lượng trời" cho một đời người chỉ có một thời xuân xanh mà tuổi trẻ một đi qua không bao giờ trở lại:
"Xuân đang tới, nghĩa là xuân đương qua,
Xuân còn non. nghĩa là xuân sẽ già
Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất
Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật
Không cho dài thời trẻ của nhân gian
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại…".
Giọng thơ sôi nổi như nước tự mạch nguồn tuôn ra. Một hệ thống tương phản đối lập: tới – qua, non – già, rộng – chật, tuần hoàn – bất phục hoàn, vô hạn – hữu hạn – để khẳng định một chân lí – triết lí: tuổi xuân một đi không trở lại, phải quý tuổi xuân.
Cách nhìn nhận của thi nhân về thời gian cũng rất tinh tế độc đáo, nhạy cảm. Trong hiện tại đã bắt đầu có quá khứ và đã hé lộ mầm tương lai, cái đang có lại đang mất dần đi…
Và mối tương giao mầu nhiệm của cảnh vật, của tạo vật hình như mang theo nỗi buồn "chia phôi",hoặc "tiễn biệt", nên phải "hờn" vì xa cách, phải "sự" vì "độ phai tàn sắp sửa", cảm xúc lãng mạn dào dạt trong cái vị đời. Nói cảnh vậi thiên nhiên mà là để nói về con người, nói về nhịp sống khẩn trương "vội vàng" của tạo vật. Với Xuân Diệu hầu như cuộc sông nơi “vườn trần" đều ít nhiều mang "bi kịch" về thời gian:
“Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi
Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt".
Cũng là, “gió” ", là "chim".:, nhưng gió khẽ "thì thào" vì "hờn", còn "chim" thì bỗng ngừng hót, ngừng reo vì "sợ"! Câu hỏi tu từ xuất hiện cũng là để làm nổi bật cái nghịch lí giữa mùa xuân – tuổi trẻ và thời gian:
“Con gió xinh thì thào trong lá biếc
Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi
Chim rộn ràng bỗng dứt tiếng reo thi
Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa?"
Thi sĩ bỗng thốt lên lời than. Tiếc nuối, lo lắng và chợt tỉnh vì "mùa chưa ngủ chiều hôm", nghĩa là vẫn còn trẻ trung, chưa già. Lên đường! Phải vội vàng, phải hối hả. Câu cảm thán với cách ngắt nhịp biến hóa làm nổi bật nỗi lòng vừa lo lắng băn khoăn vừa luống cuống tiếc rẻ, bâng khuâng:
"Chẳng bao giờ ôi chẳng bao giờ nữa…
Mau đi thôi mùa chưa ngả chiều hôm".
Xưa kia, Nguyễn Trãi viết trong chùm "Thơ tiếc cảnh":
"Xuân xanh chưa dễ hai phen lại
Thấy cảnh càng thêm tiếc thiếu niên".
(Bài số 3)
"Tiếc xuân cầm đuốc mảng chơi đêm".
(Bài số 7)
Những vần thơ của Nguyễn Trãi giúp ta cảm nhận sắc điệu trữ tình trong “Vội vàng" về màu thời gian, về sắc thời gian, về tuổi trẻ. Thật yêu đời, thật ham sống.
Mở đầu bài thơ là cái tôi hăm hở "tôi muốn tắt nắng đi". Kết thúc bài thơ là "ta", là mọi tuổi trẻ. Một sự hòa nhập và đồng điệu trong một đời người, trong dòng chảy thời gian: sống mãnh liệt, sống hết mình, sống nồng nàn say mê. Nghệ thuật trùng điệp trong diễn tả gợi lên cái ham hố, yêu đời. Ngôn từ đậm màu sắc cảm giác, xúc giác, rạo rực: "Ta muốn ôm", "Ta muốn riết… Ta muốn say… Ta muốn thâu…
"Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơm mởn
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu
Ta muốn thâu trong mỗi cái hôn nhiều
Và non nước, và cây và cỏ rạng".
Sống cũng là để yêu, yêu hết mình. Thơ hay vì màu sắc lãng mạn. Vì giọng thơ sôi nổi. Nghệ thuật "vắt đồng" với ba từ "và" đồng hiện trong một dòng thơ làm nổi bật cảm xúc. Say mê vồ vập cảnh đẹp, tình đẹp nơi vườn trần. Tất cả mùi thơm, ánh sáng, thanh sắc, xuân hồng… đều là nỗi niềm khao khát của thi nhân:
"Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng
Cho no nê thanh sắc của thời tươi
Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!".
Sống vội vàng không có nghĩa là sống gấp, sống ích kỉ trong hưởng thụ. "Vội vàng" thể hiện một tâm hồn yêu đời, yêu sống đến cuồng nhiệt. Biết quý trọng thời gian, biết quý trọng tuổi trẻ, biết sống cũng là để yêu; tình yêu lứa đôi, tình yêu tạo vật. Tình cảm ấy đã thể hiện một quan niệm nhân sinh mới mẻ, cấp tiến. Bảy thập kỉ sau bài thơ "Vội vàng" ra đời, nhiều câu thơ của Xuân Diệu vẫn còn làm cho không ít người ngỡ ngàng! Xuân Diệu đã sống "Vội vàng" như vậy. Với hơn 50 tác phẩm, hơn 400 bài thơ tình, ông đã góp phần làm giàu đẹp cho nền thi ca Việt Nam hiện đại.
Bài thơ "Vội vàng" cho thấy một cảm quan nghệ thuật rất đẹp, rất nhân văn, một giọng thơ sôi nổi, dâng trào và lôi cuốn, hấp dẫn. Có chất xúc giác trong thơ. Có cách dùng từ rất bạo, cách câu trúc câu thơ, đoạn thơ rất tài hoa. "Vội vàng" tiêu biểu nhất cho "Thơ mới", thơ lãng mạn 1932-1941.
Nhà thơ Xuân Diệu đã đi vào thế giới vĩnh hằng những tao nhân mặc khách, nhưng ta vẫn cảm thấy ông đang hiện diện giữa cuộc đời và hát ca:
-"Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!"
-"Mau với chứ! Vội vàng lên với chứ!
Em, em ơi! Tình non sắp già rồi… "
(Giục giã)
|
Đề bài: Bình giảng bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu
Bài làm
Xuân Diệu là nhà thơ tiêu biếu nhất cúa phong trào thơ mới 1932-1945. Trong “Thi nhân Việt Nam”, nhà phê bình Hoài Thanh đã viết: “Với Thể Lữ, thi nhân ta còn nuôi giấc mộng lên tiên, một giấc mộng rất xưa. Xuân Diệu đốt cảnh Bồng Lai và xua ai nấy về hạ giới”. Bài thơ “Vội vàng” đã minh chứng cho nhận xét thiên tài đó.
Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi
Bốn câu thơ mở đầu nói cái ước muốn giữ mãi vè đẹp cùa những chốn trần gian. Rồi nhà thơ cầm tay chúng ta và náo nức chỉ những cảnh thật đáng yêu đang phô bày ra trước mắt:
Này đây hoa của đồng nội xanh rì
Này đây lá của cành tơ phơ phất
Của yến anh này dây khúc tình si
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi
Mỗi buổi sớm thần Vui hằng gõ cửa.
Một bức tranh tuyệt tác của Tạo hóa có màu sắc tươi mát (xanh rì), có âm thanh vui (khúc tình si) và chứa chan ánh sáng. Trái đất ta đang sống quả là một Thiên đường! Và trong Thiên đường đó, đáng yêu nhất là hình ánh:
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần
Nghệ thuật xưa coi thiên nhiên là chuẩn của cái đẹp, cho nên Nguyễn Du viết: “Làn thu thủy, nét xuân sơn”.
Vẻ đẹp của đôi mắt nàng Kiều được so sánh với làn nước mùa thu; lông mày nàng Kiều được so sánh với nét núi thanh tú của mùa xuân. Nghệ thuật Xuân Diệu ngược lại, coi con người là chuẩn của cái đẹp, cho nên mới có câu thơ xuất thần đó đem so sánh thiên nhiên với con người.
Đang vui. nhà thơ bỗng giật mình:
“Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa”.
Câu thơ bị bẻ gãy làm hai, nói lên cái lo sợ của con người khi nhận ra một sự thật đau đớn:
Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua
Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già
Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất
Xuân ờ đây có hai nghĩa: Vừa là mùa xuân – mùa đẹp nhất trong năm. vừa là tuổi xuân – tuổi đẹp nhất của đời người. Cụm từ “Nghĩa là” lặp lại ba lần như một sự hoảng hốt khi hiểu ra một qui luật: Tuổi xuân chỉ có một thời; con người không thế trẻ mãi đề tận hưởng niềm vui sướng của chôn “vườn trần” này.
Nhà thơ lên tiếng hỏi cảnh vật:
Con gió xinh thì thào trong lá biếc
Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi?
Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi
Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa?
Thì ra không chỉ thi nhân mà thiên nhiên tươi thắm kia cũng đang tiếc nuối mùa xuân sẽ đi qua, sẽ trôi qua, thời gian một đi không trỏ lại.
Trước quy luật nghiệt ngã đó của tạo hóa, con người phải làm gì? Cái ước mong “tắt nắng”, “buộc gió" là không thế thực hiện được. Thi nhân đã gợi cho chúng ta một cách sông mới mẻ:
Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm
Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn
Ta muôn riết mây đưa và gió lượn
Ta muôn say cánh bướm với tình yêu
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây, và cỏ rạng
Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã dầy ánh sáng
Cho no né thanh sắc của thời tươi.
– Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!
Đây là đoạn thơ nồng cháy nhất, hay nhất của bài thơ vì cảm xúc của thi nhân đã đạt đến cao trào.
Tác giả đã nhân cách hóa thiên nhiên, làm cho thiên nhiên hiện lên như một người đẹp đầy vẻ hấp dẫn. Cách dùng đại từ đã khác so với phần mở đầu trên dùng đại từ nhân xưng ngôi t hứ nhất số ít (tôi) một cách dè dặt coi đây lại dùng đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất số nhiều vì qua sự truyền cảm của bài thơ đã hòa điệu tâm hồn cùng bạn đọc. Sự “vội vàng” của thi nhân cũng phát triển dần qua cách sử dụng các động từ: “ôm” đã thân thiết, nhưng “riết" còn mạnh mẽ hơn đến “say” thì đã nồng nàn, và đến “thâu” thì đã thu tất cả mùa xuân, tuổi trẻ, tình yêu vào trong tâm hồn mình.
Câu kết đã gói trọn tâm tình của thi nhân:
“Hỡi xuân hồng, ta muốn căn vào ngươi!”
Nghệ thuật làm thơ khó nhất là viết câu cuối cùng. Nó phải nâng cao xúc cảm phải chứng tỏ rằng sự vận động của tứ thơ đến đây là hết không thể viết thêm một câu nào nữa. Xuân Diệu đã thật cao tay khi viết câu thơ trên. “Cần” là tột đỉnh cùa sự cuồng nhiệt, sự nồng cháy cùa cảm xúc. Câu thơ cảm thán như một tiếng kêu sung sướng, thỏa mãn vì tâm hồn đã “chếch choáng”, "đã đầy”, đã “no nê” khoái lạc của thiên đường trên mặt đất.
Ngoài ra, tác giả còn sử dụng nhiều điệp từ: “ta muốn”, “và”, “cho” làm cho nhịp thơ đoạn cuối trở nên dồn dập, diễn đạt rất đúng tâm trạng cúa con người “vội vàng”.
Thi phẩm này quả là một bài thơ hay, rất tiêu biểu cho phong cách tài hoa, phong tình lãng mạn của Xuân Diệu — nhà thơ mới nhất của phong trào thơ mới.
“Vội vàng’’ bộc lộ một nhân sinh quan lành mạnh. Đó là tình yêu đời, là cách sống chân thành, sống hết mình vì một cuộc đời dầy ý nghĩa.
Quả thật, “Thơ Xuân Diệu là một nguồn sống rào rạt chưa từng thấy ở chôn nước non lặng lẽ này’’ (Hoài Thanh).
|
Topic: Commentary on the poem Rush by Xuan Dieu
Assignment
Xuan Dieu is the most representative poet of the new poetry movement from 1932-1945. In "Vietnamese Poets", critic Hoai Thanh wrote: "With The Lu, our poets still harbor the dream of becoming a fairy, a very old dream. Xuan Dieu burned the scene of Bong Lai and sent everyone back to the lower world. The poem "Hurry" proves that genius comment.
I want the sun stop shining
Don't let the color fade away
I want to tie the wind back
Let the incense not fly away
The opening four verses speak of the desire to forever preserve the beauty of earthly places. Then the poet holds our hands and excitedly points out the lovely scenes unfolding before our eyes:
Here are the flowers of the green fields
Here and there, the leaves of the silk branch are fluttering
This brother's nest is a love song
And here the light flashes my eyelashes
Every morning, the God of Joy knocks on the door.
A masterpiece painting of the Creator has fresh colors (green), has happy sounds (love songs) and is filled with light. The Earth we live on is truly a Paradise! And in that Paradise, the loveliest is the light:
January is as delicious as a pair of close lips
Ancient art considered nature to be the standard of beauty, so Nguyen Du wrote: "Autumn water, spring beauty."
The beauty of Kieu's eyes is compared to autumn water; Kieu's eyebrows are compared to the delicate mountain features of spring. Xuan Dieu's art, on the contrary, considers humans as the standard of beauty, which is why there is that ecstatic poem comparing nature with humans.
Being happy. The poet was suddenly startled:
“I'm happy. But half in a hurry."
The poem is broken in two, expressing people's fear when realizing a painful truth:
Spring is coming which means spring is passing
Spring is still young, which means spring will be old
But spring's end means I'm gone too
Spring here has two meanings: It is also spring - the most beautiful season of the year. It is also youth - the most beautiful age of a person's life. The phrase "Meaning" is repeated three times like a panic when understanding a rule: Youth is only for one time; People cannot be young forever to enjoy the joy of this "earthly garden".
The poet asks the scene:
The beautiful wind whispers in the blue leaves
Is it because I have to fly away?
The bustling birds suddenly stopped singing
Are you afraid of the impending fading?
It turns out that not only poets but also that beautiful nature are regretting that spring will pass, will pass by, time will pass without looking back.
Faced with that harsh law of creation, what should humans do? The wish to "turn off the sun" and "force the wind" cannot be fulfilled. The poet has reminded us of a new way:
Let's go! The season has not yet fallen in the afternoon
I want to hug
All new life begins to bloom
I want the clouds to move and the wind to roll
I want butterflies to fall in love with love
I want to capture many things in one kiss
And the mountains, the trees, and the grass
Fill it with fragrance, fill it with light
Fill yourself with the beauty of fresh times.
- O red spring, I want to bite you!
This is the most passionate and beautiful passage of the poem because the poet's emotions have reached their climax.
The author has personified nature, making it appear as an attractive beauty. The use of pronouns is different from the introduction above, using the first person singular pronoun (I) cautiously. Consider this, using the first person plural pronoun because of the inspiration of the article. Poetry harmonizes the soul with readers. The poet's "haste" also gradually develops through the use of verbs: "hug" is intimate, but "tight" is even stronger, "drunk" is passionate, and "thumb" is passionate. has captured all spring, youth, and love into my soul.
The concluding sentence encapsulates the poet's feelings:
“O Spring Rose, I want to depend on you!”
The most difficult art of writing poetry is writing the last sentence. It must heighten emotions and show that the movement of the quatrain has come to an end and no more verses can be written. Xuan Dieu was very skillful when writing the above verse. “Need” is the pinnacle of passion, the passion of emotion. The poem's exclamation is like a cry of joy and satisfaction because the soul is "overwhelmed", "full", "satisfied" with the pleasures of heaven on earth.
In addition, the author also uses many alliterations: "I want", "and", "give" making the rhythm of the poem at the end become urgent, accurately expressing the mood of a "hurried" person.
This poem is truly a beautiful poem, very representative of the talented and romantic style of Xuan Dieu - the newest poet of the new poetry movement.
“Hurry” reveals a healthy outlook on life. That is the love of life, a sincere way of living, living to the fullest for a meaningful life.
Indeed, "Xuan Dieu's poetry is an unprecedented source of life in this quiet country" (Hoai Thanh).
|
Đề bài: Bình giảng bài thơ Xúc cảnh của Nguyễn Đình Chiểu
Bài làm
Bài thơ "Xúc cảnh" còn có một cái tên nữa: "Ngóng gió đông". Nhan đề ấy do người đời sau đặt ra, vốn là lời cảm khái của nhân vật Đường Nhập Môn trong truyện thơ "Ngư Tiều y thuật vấn đáp". Mượn chuyện chữa bệnh cứu người, Nguyễn Đình Chiểu kín đáo gửi gắm nỗi niềm tâm sự u uất về vận nước đen tối và cảnh lầm than của dân tộc. Tác giả viết "Ngư Tiều y thuật vấn đáp" trong những năm cuối của đời mình, và sau khi đất Lục tỉnh Nam Kì đã rơi trọn vào tay giặc Pháp.
"Xúc cảnh" là một bài thơ Đường luật thất ngôn bát cú mang vẻ đẹp toàn bích, cổ kính và trang nghiêm. Qua một hệ thống tượng trưng với những ẩn dụ, nhà thơ mù Gia Định đã bày tỏ một cách cảm động niềm đau vong quốc và nỗi mong phục quốc khi đồng bào và quê hương "Đều mắc hại cùng cờ ba sắc".
Hai câu đề là nỗi chờ mong:
"Hoa cỏ ngùi ngùi ngóng gió đông,
Chúa xuân đâu hỡi có hay không?".
Hoa cỏ đang tàn lụi mong ngóng gió đông (gió mùa xuân) thổi về để được hồi sinh. Chúa xuân-chúa của muôn loài có thấy nỗi chờ mong ấy? Câu hỏi tu từ diễn tả nỗi khắc khoải ngóng trông, có ít nhiều trách móc, vì ngóng mãi trông hoài rồi. Câu thơ mang hàm nghĩa. Hoa cỏ là một ẩn dụ, là cách nói của nho gia, của các nhà thơ xưa, chỉ sĩ phu và dân chúng. "Ngùi ngùi" là buồn lặng, buồn lâu, là sự héo hon tàn lụi. Có ngóng có trông đã nhiều ngày đêm mới có tâm trạng “ngùi ngùi" đau đáu ấy. Chúa xuân là ai, ở đâu và có hay không? Chúa xuân được nói rõ ở câu 7, ấy là Thánh đế, trong tâm hồn nhà thơ là một ông vua lí tưởng, ra tay dẹp loạn, cứu nước yên dân. Hai câu đầu gợi tả cảnh tang thương của đất Nam Kì và nỗi đau thương khắc khoải chờ mong của đồng bào Lục tỉnh, mà tác giả nhiều lần nói tới: "Tiếng phong hạc phập phồng hơn mười tháng, trông tin quan như trời hạn trông mưa" (Văn tế nghĩa sĩ cần Giuộc) hoặc "Cỏ cây đưa nhánh đón đường – Như tuồng muốn hỏi Đông Hoàng ở đâu?" (Ngư Tiều y thuật vấn đáp), vần thơ tuy chỉ nói hoa cỏ nhưng tràn ngập tình cảm thương xót nhân dân lầm than. Đó là chất thơ thâm trầm, đậm đà bản sắc cổ điển.
Phần thực mở rộng và khắc sâu ý thơ: "Ngóng gió đông" ở hai câu đề:
"Mây giăng ải Bắc trông tin nhạn,
Ngày xế non Nam bặt tiếng hồng".
Ải Bắc thì "mây giăng mù mịt". Trông mãi trông hoài tin nhạn – một đạo hùng binh từ ải Bắc kéo vào. Nhưng ở non Nam, chờ đợi mãi, bao tháng ngày đã trôi qua, ngày đã "xế"… trong cảnh hoàng hôn vẫn "bặt tiếng hồng". Ải Bắc và non Nam là hai miền đất nước, là xứ sở quê hương. Nhạn và hồng (ngỗng trời), trong thơ văn cổ, là loài chim đưa tin, là biểu tượng cho tin tức. "Trông tin nhạn" với "bặt tiếng hồng" đối nhau làm nổi bật sự ngóng và trông đến tuyệt vọng. Đó là nỗi lòng của đồng bào Lục tỉnh và thảm cảnh của đất nước ta trước và sau năm 1884. Nguyễn Đình Chiểu là nhà thơ mù đầy mẫn cảm. Trong thơ ông, những từ như "ngóng", "trông", "chừng nào", "đợi" mang nhiều ám ảnh và đầy tâm trạng:
"Nhớ câu vạn bệnh hồi xuân,
Đôi ngày luống đợi Đông quân cứu đời?".
(Ngư Tiều y thuật văn đáp)
Nguyễn Đình Chiểu còn "trông tin nhạn", còn "luống đợi Đông Quân cứu đời"… nhưng hơn 20 năm sau, Yên Đổ thao thức giữa đêm thu và bồn chồn, ngơ ngác hỏi: "Một tiếng trên không ngỗng nước nào" (Thu vịnh).
Giọng thơ từ thương cảm nghẹn ngào ở bốn câu đầu chuyển thành căm thù uất hận, vang lên như một lời thề nung nấu ở phần luận. Cách ngắt nhịp 3/4 tạo thành một biến tấu đầy rung động:
"Bờ cõi xưa /đà chia đất khác,
Nắng sương nay /há đội trời chung".
"Bờ cõi xưa" là Tổ quốc ngàn đời "dù chia đất khác" đã bị quân thù giày xéo, đã bị Triều đình cắt cho giặc Pháp ba tỉnh miền Đông, rồi cắt nốt ba tỉnh miền Tây, dâng nộp cho chúng. "Nắng sương" là ngày, đêm. "Há" – tiếng cổ, nghĩa là quyết không thể. "Há đội trời chung" là quyết không đội trời chung với giặc Pháp. Cũng là cách nói truyền thống biểu lộ một tinh thần quyết tử trong thơ văn cổ. Trong phần luận bài thơ này là một lời thề trang nghiêm. Trong "Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc", ông đã nguyền: ''Sống đánh giặc thác cũng đánh giặc, linh hồn theo giúp cơ binh, muôn kiếp nguyện được trả thù kia…". Thái độ quyết liệt ấy còn được thể hiện ở sự chối từ của nhà thơ khi chính quyền thực dân hứa trả lại ruộng cho ông, ông đã dứt khoát bảo chúng: "Đất chung còn bị mất, đất riêng còn có được sao? Thái độ quyết không đội trời chung với giặc của Nguyễn Đình Chiểu, của các chiến sĩ yêu nước mãi mãi là bài học về lòng trung nghĩa cho mỗi chúng ta.
Nếu ở câu 1 là "Ngón gió Đông", câu 3 là "trông tin nhạn", thì hai câu trong phần kết là một tiếng hỏi, một lời chất vấn, là một sự mong đợi:
"Chừng nào Thánh đế ăn soi thấu,
Một trận mưa nhuần rửa núi sông".
Câu thứ 2 hỏi: "Chúa xuân đâu hỡi có hay không?", hỏi bằng một ẩn dụ. Câu thứ 7 trực tiếp hỏi: "Thánh đế" tức là hỏi vua. Đằng sau câu hỏi là một lời trách nhà vua chưa "soi thấu", chưa hết lòng vì nước vì dân. Nguyễn Đình Chiểu là một nhà nho, cho nên trong cảnh "súng giặc đất rền", tâm hồn ông trước sau vẫn hướng về một "Thánh đế", một "Đông quân", một "Đông hoàng". Vua đã phản bội đầu hàng rồi, còn đâu "Thánh đế" nữa? Đó là một hạn chế của thời đại mà Nguyễn Đình Chiểu là một nhà nho khó lòng vượt qua.
Câu thứ 8, niềm mơ ước được thể hiện qua hình ảnh ẩn dụ "một trận mưa nhuần". Trận mưa ấy "rửa núi sông", rửa sạch hận thù, rửa sạch nỗi đau, nỗi nhục mất nước, rửa sạch "mùi tinh chiên vấy vá"… mùi dơ bẩn của loài dê chó, của lũ sài lang. Đất nước trở lại thanh bình, hoa cỏ được hồi sinh, nhân dân được sống trong yên vui hạnh phúc là mơ ước của ông.
Tóm lại, "xúc cảnh" là một bài thơ cổ điển kiệt tác. Một hệ thống ẩn dụ tượng trưng tạo nên tính đa nghĩa của bài thơ. Nỗi niềm chờ trông mong đợi, một quyết tâm không đội trời chung với giặc, lúc cảm thương, khi căm giận, giọng điệu đa thanh, biến hoá, vô cùng xúc động, tạo nên hồn thơ Nguyễn Đình Chiểu. "Xúc cảnh" đích thực là một bài ca yêu nước, thể hiện tâm hồn trung nghĩa của nhà thơ mù miền Nam mãi mãi vằng vặc như sao Bắc Đẩu.
|
Topic: Commentary on the poem Touching Scene by Nguyen Dinh Chieu
Assignment
The poem "Exposed Scene" also has another name: "Wind of the Winter Wind". That title was coined by a later generation, which was originally the sentiment of the character Duong Nham Mon in the poetic story "Ngu Tieu medical questions and answers". Borrowing the story of treating diseases and saving people, Nguyen Dinh Chieu discreetly confided his melancholy feelings about the dark fortunes of the country and the plight of the nation. The author wrote "Ngu Tieu medical questions and answers" in the last years of his life, and after the land of Luc, Nam Ky province fell completely into the hands of the French invaders.
"Contact Scene" is a seven-word, eight-syllable Tang Luat poem with perfect, ancient and solemn beauty. Through a symbolic system with metaphors, the blind poet Gia Dinh touchingly expressed the pain of losing his country and the hope of restoring it when his compatriots and homeland were "all harmed by the three-colored flag".
The two sentences are expectations:
"Flowers and grass sadly wait for the winter wind,
Where is the Lord of Spring? Yes or no?".
Withering flowers and grass wait for the winter wind (spring wind) to blow back to be revived. Does the Lord of Spring, the Lord of all creatures, see that expectation? The rhetorical question describes the anxious waiting, with some blame, for waiting forever. The poem carries meaning. Flowers and grass are a metaphor, a way of speaking of Confucian scholars, of ancient poets, of scholars and people. "Sadness" means quiet sadness, prolonged sadness, and withering away. You have to wait and wait for many days and nights to have that "sad" and painful mood. Who is the Lord of Spring, where is he and does he exist? The Lord of Spring is clearly stated in verse 7, that is the Holy Truth, in the soul of the family. The poem is an ideal king, taking action to quell the rebellion and save the country and its people. The first two sentences describe the tragic scene of the Southern region and the painful and anxious waiting of the people of Luc Province, which the author repeatedly mentioned. to: "The sound of wind and cranes fluttering for more than ten months, looking for news like a drought waiting for rain" (The Literature of the Righteous Scholar Can Giuoc) or "The grass and trees wave their branches to meet the road - Like the opera wanting to ask where Dong Hoang is?" Even though the poem only talks about flowers and grass, it is filled with compassion for the suffering people. It is profound poetry, rich in classical identity.
The real part expands and deepens the poem's meaning: "Winds of the East Wind" in two lines:
"Clouds spread across the North, looking for news of swallows,
The sunset in the South is silent."
The Northern pass is "cloudy". I kept looking and waiting for news - a group of heroic soldiers came from the Northern Pass. But in Non Nam, waiting forever, many months have passed, the day has "died"... in the sunset still "silent". The Northern pass and the Southern pass are two regions of the country, the homeland. Swallow and Hong (wild geese), in ancient poetry, are messenger birds, symbols of news. "Looking for news" and "silent sound" contrast each other, highlighting the desperate wait and hope. That is the heart of the people of Luc Province and the tragedy of our country before and after 1884. Nguyen Dinh Chieu is a sensitive blind poet. In his poetry, words like "wait", "look", "wait", "wait" are haunting and full of mood:
"Remember the phrase ten thousand diseases spring,
A few days of waiting impatiently for the Eastern Army to save our lives?
(Ngu Tieu's medical essay replied)
Nguyen Dinh Chieu was still "watching for news", still "waiting for Dong Quan to save his life"... but more than 20 years later, Yen Do lay awake in the middle of the autumn night and restlessly asked: "One hour above, there's no goose." (Thu bay).
The poetic tone changes from choking sympathy in the first four lines to hatred and resentment, resounding like a burning oath in the essay. How to break the rhythm in 3/4 to create a vibrant variation:
"The borders of the past / are divided into different lands,
Today's dew/sunshine will never be the end of the world".
The "old land" is the thousand-year-old Fatherland, "even though it divided the land into different lands", it was trampled by the enemy, the Court cut off three eastern provinces for the French enemy, then cut off three more western provinces and gave them to them. "Sun and dew" means day and night. "Ha" - ancient language, meaning absolutely impossible. "Do you want to make peace with heaven" means you will not make peace with the French enemy. It is also a traditional way of speaking expressing a spirit of determination to die in ancient poetry. In the essay this poem is a solemn oath. In the "Can Giuoc Liturgical Oration", he cursed: ''If you live to fight the enemy, you will also fight the enemy, your soul will follow to help the soldiers, forever vowing to take revenge..." That fierce attitude is also shown. In the poet's refusal when the colonial government promised to return his fields, he firmly told them: "Is common land still lost, private land still available? The determined attitude of Nguyen Dinh Chieu and patriotic soldiers to never fight with the enemy is forever a lesson in loyalty for each of us.
If verse 1 is "The East Wind" and verse 3 is "waiting for news", then the two sentences in the ending are a question, an interrogation, an expectation:
"As long as the Holy Emperor eats insight,
A torrential rain washes the mountains and rivers.
The second question asks: "Where is the Lord of Spring, yes or no?", asking with a metaphor. The 7th question directly asks: "Holy Emperor" means asking the king. Behind the question is a criticism of the king for not "seeing through" and not being devoted to the country and the people. Nguyen Dinh Chieu was a Confucianist, so in the scene of "guns and enemies", his soul was always oriented towards a "Holy Emperor", an "Eastern Army", an "Eastern Emperor". The King has betrayed and surrendered, where is the "Holy Emperor" anymore? That is a limitation of the era that Nguyen Dinh Chieu as a Confucian can hardly overcome.
In the 8th sentence, the dream is expressed through the metaphor of "a pouring rain". That rain "washed the mountains and rivers", washed away the hatred, washed away the pain, the humiliation of dehydration, washed away the "smell of patched sheep's semen"... the dirty smell of goats, dogs, and strays. The country's return to peace, flowers and grass were revived, and the people lived in peace and happiness was his dream.
In short, "touching scene" is a classic masterpiece poem. A system of symbolic metaphors creates the poem's polysemy. The feeling of anticipation, an unyielding determination to fight against the enemy, sometimes compassion, sometimes anger, multi-vocal, changing, extremely moving tones, create the soul of Nguyen Dinh Chieu's poetry. "Touch Scene" is truly a patriotic song, expressing the loyal soul of the blind southern poet who is forever as bright as the North Star.
|
Đề bài: Bình giảng bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử
Bài làm
Mấy ai đã từng say trăng như Hàn Mặc Tử? Cả một thế giới trăng trong thơ ông:
Trăng nằm sóng soài trên cành liễu
Đợi gió đông về để lả lơi..”
("Bẽn lẽn").
"Bỗng đêm nay trước cửa bóng trăng quỳ
Sấp mặt xuống uốn mình theo dáng liễu".
(“Hãy nhập hồn em")
"Bóng nguyệt leo song sờ sẫm gối
Gió thu lọt cửa cọ mài chăn".
(Đêm không ngủ)
Thi sĩ còn nói đến thuyền trăng, sông trăng, sóng trăng… Cả một thế giới trăng mộng ảo, huyền diệu. Thơ Hàn Mặc Tử rợn ngợp ánh trăng, thể hiện một tâm hồn "say trăng" với tình yêu tha thiết cuộc đời, vừa thực vừa mơ. Ông là một trong những nhà thơ lỗi lạc nhất của phong trào Thơ mới (1932 – 1941). Với 28 tuổi đời (1912 – 1940), ông để lại cho nền thơ ca dân tộc hàng trăm bài thơ và một số kịch thơ đặc sắc. Thơ của ông như trào ra từ máu và nước mắt, có không ít hình tượng kinh dị. Cũng chưa ai viết hay về mùa xuân và thiếu nữ ( mùa xuân chín), về Huế đẹp và thơ (Đây thôn Vĩ Dạ) như Hàn Mặc Tử.
"Đây thôn Vĩ Dạ" rút trong "Tập thơ Điên" xuất bản năm 1940, sau khi nhà thơ đã qua đời. Bài thơ nói rất hay về Huế, về cảnh sắc thiên nhiên hữu tình, về con người xứ Huế, nhất là các cô gái duyên dáng, đa tình, đáng yêu. Hàn Mặc Tử đã viết về một tình yêu – tình yêu đơn phương thơ mộng đắm say, lung linh trong sáng đến huyền ảo. Bài thơ giãi bày một nỗi niềm bâng khuâng, một khát khao về hạnh phúc của thi sĩ đa tình, có nhiều duyên nợ với cảnh và con người Vĩ Dạ.
Câu đầu "dịu ngọt” như một lời chào mời, vừa mừng vui hội ngộ, như vừa nhẹ nhàng trách người thương xiết bao thương nhớ, đợi chờ. Giọng thơ êm dịu, đằm thắm và tình tứ: "Sao anh không về chơi thôn Vĩ?". Có mây xa xôi. Cảnh cũ người xưa thấp thoáng trong vần thơ đẹp mang hoài niệm. Bao kỉ niệm sống dậy trong một hồn thơ. Nó gắn liền với cảnh sắc vườn tược và con người xứ Huế mộng mơ:
"Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền?".
Cảnh được nói đến là một sáng bình minh đẹp nơi thôn Vĩ. Nhìn từ xa, thi nhân say mê ngắm nhìn những ngọn cau, tàu cau ngời lên dưới màu nắng mới, "nắng mới lên" rực rỡ. Hàng cau cao vút là hình ảnh thân thuộc của thôn Vĩ Dạ từ bao đời nay. Hàng cau như chào mừng, như vẫy gọi.
Quên sao được màu xanh cây lá nơi đây. Nhà thơ trầm trồ thốt lên khi đứng trước một màu xanh vườn tược Vĩ Dạ: "Vườn ai mướt quá xanh như ngọc". Sương đêm ướt đẫm cây cỏ, hoa lá. Màu xanh mỡ màng, non tơ ngời lên, hóng lên dưới ánh mai hồng, trông "mướt quá" một màu xanh ngọc bích. Đất đai màu mỡ, khí hậu thuận hòa, con người cần cù chăm bón mới có màu sắc "xanh như ngọc" ấy. Thiên nhiên như rạo rực, trẻ trung và đầy sức sống. Cũng nói về màu xanh ngọc bích, trước đó (1938) Xuân Diệu đã từng viết: "Để trời xanh ngọc qua muôn lá…" ("Thơ duyên”). Hai chữ "vườn ai" gợi ra nhiều ngạc nhiên và man mác bâng khuâng. Câu thơ thứ tư tả thiếu nữ với khóm trúc vườn xuân: "Lá trúc che ngang mặt chữ điền". Mặt trái xoan, mặt hoa da phấn, khuôn mặt búp sen là vẻ đẹp của giai nhân. Mặt chữ điền là gương mặt đầy đặn, vuông vắn, phúc hậu. ”Lá trúc che ngang là một nét vẽ thần tình đã tô đậm một nét đẹp của cô gái Huế duyên dáng, dịu dàng, kín đáo, tình tứ đáng yêu. Hàn Mặc Tử hơn một lần nói về trúc và thiếu nữ. Khóm trúc như tỏa bóng xanh mát che chở cho một mối tình đẹp đang nảy nở:
"Thầm thì với ai ngồi dưới trúc
Nghe ra ý vị và thơ ngây"
( Mùa xuân chín)
Câu 3, 4 trong khổ thơ đầu tả cau, tả nắng, tả vườn, tả trúc và thiếu nữ với một gam màu nhẹ, thoáng, ẩn hiện, mơ hồ. Đặc sắc nhất là hai hình ảnh so sánh và ẩn dụ (xanh như ngọc…, mặt chữ điền), cảnh và người nơi Vĩ Dạ thật hồn hậu, thân thuộc đáng yêu.
Vĩ Dạ – một làng quê nằm bên bờ Hương Giang, thuộc ngoại ô cố đô Huế. Vĩ Dạ đẹp với những con đò thơ mộng, những mảnh vườn xanh tươi bốn mùa, sum sê hoa trái. Những ngôi nhà xinh xắn thấp thoáng ẩn hiện sau hàng cau, khóm trúc, mà ở đây thường dìu dặt câu hát Nam ai, Nam bình, qua tiếng đàn tranh, đàn tam thập lục huyền diệu, réo rắt. Thôn Vĩ Dạ đẹp nên thơ. Hàn Mặc Tử đã đành cho Vĩ Dạ vần thơ đẹp nhất với tất cả tấm lòng tha thiết mến thương. Xa cách Huế và Vĩ Dạ đã bao năm tháng rồi. Thế mà cảnh sắc và con người nơi thôn Vĩ vẫn được nhà thơ ôm ấp trong lòng, càng trở nên lung linh, biểu lộ niềm ước mong tha thiết được trở lại cố đô thăm cảnh cũ người xưa. Bức tranh tâm cảnh đã được thể hiện một cách tài hoa qua bức tranh thân Vĩ hữu tình nên thơ.
Khổ thơ thứ hai nói về cảnh mây trời, sông nước. Một không gian nghệ thuật thoáng đãng, mơ hồ, xa xăm. Hai câu 5, 6 là bức tranh tả gió, mây, dòng sông và hoa (hoa bắp). Giọng thơ nhẹ nhàng, thoáng buồn. Nghệ thuật đối tạo nên bốn phiên cảnh hài hoà, cân xứng và sống động. Gió mây đôi ngả như mối tình nhà thơ, tưởng gần đây mà xa vời, cách trở. Dòng Hương Giang êm đềm trôi lững lờ, trong tâm tưởng thi nhân trở nên "buồn thiu", nhiều bâng khuâng man mác. Hoa bắp lay, nhè nhẹ đung đưa trong gió thoảng. Nhịp điệu khoan thai, thơ mộng của miền sông Hương núi Ngự được diễn tả rất tinh tế! Các điệp ngữ luyến láy gợi nhiều vương vấn mộng mơ. Ngoại cảnh mênh mang chia lìa… như nỗi lòng, như tâm tình thi nhân vậy:
"Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay".
Hai câu tiếp theo, nhà thơ hỏi "ai" hay hỏi mình khi nhìn thấy, hay nhớ tới hình ảnh con đò nằm mộng bến sông trăng. Sông Hương quê em trở thành "sáng trăng". Hàn Mặc Tử với tình yêu Vĩ Dạ đã sáng tạo nên vần thơ đẹp nói về dòng sông Hương với những con đò dưới vầng trăng. Nguyễn Công Trứ đã từng viết: "Gió trăng chứa một thuyền đầy". Hàn Mặc Tử cũng góp cho nền thơ Việt Nam hiện đại một vần thơ trăng độc đáo:
"Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?"
Tâm hồn nhà thơ xao xuyến khi nhìn sông trăng và con thuyền. Thuyền em hay "thuyền ai" vừa thân quen, vừa xa lạ. Chất thơ mộng ảo trong "Đây thôn Vĩ Dạ” là ở những thi liệu ấy. Câu thơ gợi tả một hồn thơ đang rung động trước vẻ đẹp thơ mộng của xứ Huế miền Trung, nói lên một tình yêu kín đáo, dịu dàng, thơ mộng và thoáng buồn, ở đây bức tranh tâm cảnh tràn ngập ánh trăng, thấm thía một nỗi buồn cô đơn li biệt của khách đa tình.
Khổ thơ thứ ba nói về cô gái Huế và tâm tình thi nhân. Đương thời, nhà thơ Nguyễn Bính đã viết về thiếu nữ sông Hương: ''Những nàng thiếu nữ sông Hương – Da thơm là phấn, má hường à son…”. Vĩ Dạ mưa nhiều, những buổi sớm mai và chiều tà lắm sương khói. "Sương khói" trong Đường thi thường gắn liền với tình cố hương, ở đây sương khói đã làm nhòa đi, mờ đi áo trắng em, nen anh nhìn mãi vẫn không nhận ra dáng hình em (nhân anh). Người thiếu nữ Huế thoáng hiện, trắng trong, kín đáo và duyên dáng. Gần mà xa. Thực mà mơ. Câu thơ chập chờn, bâng khuâng. Ta đã biết Hàn Mặc Tử từng có một mối tình đẹp đơn phương với một thiếu nữ Huế mang tên một loài hoa đẹp. Phải chăng nhà thơ nói về mối tình này?
"Mơ khách đường xa, khách đường xa,
Áo em trăng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà".
"Mơ khách đường xa, khách đường xa… ai biết… ai có…" các điệp ngữ và luyến láy ấy tạo nên nhạc điệu sâu lắng, dịu buồn, mênh mang. Sự cách biệt và nỗi buồn xa vắng chia li như kéo dài trong không gian và thời gian vô tận. Người đọc thêm cảm thương cho nhà thơ tài hoa, đa tình mà bạc mệnh, từng say đắm với mối tình đơn phương nhưng suốt đời phải sống trong cô đơn và bệnh tật.
Cũng cần nói một đôi lời về chữ "ai" trong bài thơ này. Cả 4 lần chữ "ai" xuất hiện đều mơ hồ, ám ảnh: "Vườn ai mướt quá xanh như ngọc?" – "Thuyền ai đậu bến sông trăng đó?" – "Ai biết tình ai có đậm đà?". Con người mà nhà thơ nói đến là con người xa vắng, trong hoài niệm, bâng khuâng. Nhà thơ luôn luôn cảm thấy mình hụt hẫng, chơi vơi trước một mối tình đơn phương mộng ảo. Một chút hi vọng mong manh mà tha thiết như đang nhạt nhòa và mờ ảo cùng sương khói?.
Hàn Mặc Tử đã để lại cho ta một bài thơ tình thật hay và cảm động, cảnh và người, mộng và thực, say đắm và bâng khuâng, ngạc nhiên và thẫn thờ,… bao hình ảnh và cảm xúc đẹp mà buồn hội tụ trong ba khổ thơ thất ngôn, câu chữ toàn bích. "Đây thôn Vĩ Dạ" là một bài thơ tình tuyệt tác. Cái màu xanh như ngọc của vườn ai, con thuyền ai đậu bến sông trăng, và cái màu trắng của áo em như dẫn hồn ta đi về miền sương khói Vĩ Dạ thôn một thời xa vắng, tìm lại bóng giai nhân, thương nhớ nhà thơ tài hoa, đa tình mà mệnh bạc. Bức tranh tâm cảnh trong "Đây thôn Vĩ Dạ" vương vấn mãi lòng ta. Nhà thơ Thu Bồn đã nói hộ lòng ta:
"Xin chào Huế một lần anh đến
Để ngàn lần anh nhớ trong mơ
Em rất thực mà nắng thì mờ ảo
Xin đừng lầm em với cố đô".
(Tạm biệt)
|
Đề bài: Bình giảng bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử
Bài làm
Mấy ai đã từng say trăng như Hàn Mặc Tử? Cả một thế giới trăng trong thơ ông:
Trăng nằm sóng soài trên cành liễu
Đợi gió đông về để lả lơi..”
("Bẽn lẽn").
"Bỗng đêm nay trước cửa bóng trăng quỳ
Sấp mặt xuống uốn mình theo dáng liễu".
(“Hãy nhập hồn em")
"Bóng nguyệt leo song sờ sẫm gối
Gió thu lọt cửa cọ mài chăn".
(Đêm không ngủ)
Thi sĩ còn nói đến thuyền trăng, sông trăng, sóng trăng… Cả một thế giới trăng mộng ảo, huyền diệu. Thơ Hàn Mặc Tử rợn ngợp ánh trăng, thể hiện một tâm hồn "say trăng" với tình yêu tha thiết cuộc đời, vừa thực vừa mơ. Ông là một trong những nhà thơ lỗi lạc nhất của phong trào Thơ mới (1932 – 1941). Với 28 tuổi đời (1912 – 1940), ông để lại cho nền thơ ca dân tộc hàng trăm bài thơ và một số kịch thơ đặc sắc. Thơ của ông như trào ra từ máu và nước mắt, có không ít hình tượng kinh dị. Cũng chưa ai viết hay về mùa xuân và thiếu nữ ( mùa xuân chín), về Huế đẹp và thơ (Đây thôn Vĩ Dạ) như Hàn Mặc Tử.
"Đây thôn Vĩ Dạ" rút trong "Tập thơ Điên" xuất bản năm 1940, sau khi nhà thơ đã qua đời. Bài thơ nói rất hay về Huế, về cảnh sắc thiên nhiên hữu tình, về con người xứ Huế, nhất là các cô gái duyên dáng, đa tình, đáng yêu. Hàn Mặc Tử đã viết về một tình yêu – tình yêu đơn phương thơ mộng đắm say, lung linh trong sáng đến huyền ảo. Bài thơ giãi bày một nỗi niềm bâng khuâng, một khát khao về hạnh phúc của thi sĩ đa tình, có nhiều duyên nợ với cảnh và con người Vĩ Dạ.
Câu đầu "dịu ngọt” như một lời chào mời, vừa mừng vui hội ngộ, như vừa nhẹ nhàng trách người thương xiết bao thương nhớ, đợi chờ. Giọng thơ êm dịu, đằm thắm và tình tứ: "Sao anh không về chơi thôn Vĩ?". Có mây xa xôi. Cảnh cũ người xưa thấp thoáng trong vần thơ đẹp mang hoài niệm. Bao kỉ niệm sống dậy trong một hồn thơ. Nó gắn liền với cảnh sắc vườn tược và con người xứ Huế mộng mơ:
"Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền?".
Cảnh được nói đến là một sáng bình minh đẹp nơi thôn Vĩ. Nhìn từ xa, thi nhân say mê ngắm nhìn những ngọn cau, tàu cau ngời lên dưới màu nắng mới, "nắng mới lên" rực rỡ. Hàng cau cao vút là hình ảnh thân thuộc của thôn Vĩ Dạ từ bao đời nay. Hàng cau như chào mừng, như vẫy gọi.
Quên sao được màu xanh cây lá nơi đây. Nhà thơ trầm trồ thốt lên khi đứng trước một màu xanh vườn tược Vĩ Dạ: "Vườn ai mướt quá xanh như ngọc". Sương đêm ướt đẫm cây cỏ, hoa lá. Màu xanh mỡ màng, non tơ ngời lên, hóng lên dưới ánh mai hồng, trông "mướt quá" một màu xanh ngọc bích. Đất đai màu mỡ, khí hậu thuận hòa, con người cần cù chăm bón mới có màu sắc "xanh như ngọc" ấy. Thiên nhiên như rạo rực, trẻ trung và đầy sức sống. Cũng nói về màu xanh ngọc bích, trước đó (1938) Xuân Diệu đã từng viết: "Để trời xanh ngọc qua muôn lá…" ("Thơ duyên”). Hai chữ "vườn ai" gợi ra nhiều ngạc nhiên và man mác bâng khuâng. Câu thơ thứ tư tả thiếu nữ với khóm trúc vườn xuân: "Lá trúc che ngang mặt chữ điền". Mặt trái xoan, mặt hoa da phấn, khuôn mặt búp sen là vẻ đẹp của giai nhân. Mặt chữ điền là gương mặt đầy đặn, vuông vắn, phúc hậu. ”Lá trúc che ngang là một nét vẽ thần tình đã tô đậm một nét đẹp của cô gái Huế duyên dáng, dịu dàng, kín đáo, tình tứ đáng yêu. Hàn Mặc Tử hơn một lần nói về trúc và thiếu nữ. Khóm trúc như tỏa bóng xanh mát che chở cho một mối tình đẹp đang nảy nở:
"Thầm thì với ai ngồi dưới trúc
Nghe ra ý vị và thơ ngây"
( Mùa xuân chín)
Câu 3, 4 trong khổ thơ đầu tả cau, tả nắng, tả vườn, tả trúc và thiếu nữ với một gam màu nhẹ, thoáng, ẩn hiện, mơ hồ. Đặc sắc nhất là hai hình ảnh so sánh và ẩn dụ (xanh như ngọc…, mặt chữ điền), cảnh và người nơi Vĩ Dạ thật hồn hậu, thân thuộc đáng yêu.
Vĩ Dạ – một làng quê nằm bên bờ Hương Giang, thuộc ngoại ô cố đô Huế. Vĩ Dạ đẹp với những con đò thơ mộng, những mảnh vườn xanh tươi bốn mùa, sum sê hoa trái. Những ngôi nhà xinh xắn thấp thoáng ẩn hiện sau hàng cau, khóm trúc, mà ở đây thường dìu dặt câu hát Nam ai, Nam bình, qua tiếng đàn tranh, đàn tam thập lục huyền diệu, réo rắt. Thôn Vĩ Dạ đẹp nên thơ. Hàn Mặc Tử đã đành cho Vĩ Dạ vần thơ đẹp nhất với tất cả tấm lòng tha thiết mến thương. Xa cách Huế và Vĩ Dạ đã bao năm tháng rồi. Thế mà cảnh sắc và con người nơi thôn Vĩ vẫn được nhà thơ ôm ấp trong lòng, càng trở nên lung linh, biểu lộ niềm ước mong tha thiết được trở lại cố đô thăm cảnh cũ người xưa. Bức tranh tâm cảnh đã được thể hiện một cách tài hoa qua bức tranh thân Vĩ hữu tình nên thơ.
Khổ thơ thứ hai nói về cảnh mây trời, sông nước. Một không gian nghệ thuật thoáng đãng, mơ hồ, xa xăm. Hai câu 5, 6 là bức tranh tả gió, mây, dòng sông và hoa (hoa bắp). Giọng thơ nhẹ nhàng, thoáng buồn. Nghệ thuật đối tạo nên bốn phiên cảnh hài hoà, cân xứng và sống động. Gió mây đôi ngả như mối tình nhà thơ, tưởng gần đây mà xa vời, cách trở. Dòng Hương Giang êm đềm trôi lững lờ, trong tâm tưởng thi nhân trở nên "buồn thiu", nhiều bâng khuâng man mác. Hoa bắp lay, nhè nhẹ đung đưa trong gió thoảng. Nhịp điệu khoan thai, thơ mộng của miền sông Hương núi Ngự được diễn tả rất tinh tế! Các điệp ngữ luyến láy gợi nhiều vương vấn mộng mơ. Ngoại cảnh mênh mang chia lìa… như nỗi lòng, như tâm tình thi nhân vậy:
"Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay".
Hai câu tiếp theo, nhà thơ hỏi "ai" hay hỏi mình khi nhìn thấy, hay nhớ tới hình ảnh con đò nằm mộng bến sông trăng. Sông Hương quê em trở thành "sáng trăng". Hàn Mặc Tử với tình yêu Vĩ Dạ đã sáng tạo nên vần thơ đẹp nói về dòng sông Hương với những con đò dưới vầng trăng. Nguyễn Công Trứ đã từng viết: "Gió trăng chứa một thuyền đầy". Hàn Mặc Tử cũng góp cho nền thơ Việt Nam hiện đại một vần thơ trăng độc đáo:
"Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?"
Tâm hồn nhà thơ xao xuyến khi nhìn sông trăng và con thuyền. Thuyền em hay "thuyền ai" vừa thân quen, vừa xa lạ. Chất thơ mộng ảo trong "Đây thôn Vĩ Dạ” là ở những thi liệu ấy. Câu thơ gợi tả một hồn thơ đang rung động trước vẻ đẹp thơ mộng của xứ Huế miền Trung, nói lên một tình yêu kín đáo, dịu dàng, thơ mộng và thoáng buồn, ở đây bức tranh tâm cảnh tràn ngập ánh trăng, thấm thía một nỗi buồn cô đơn li biệt của khách đa tình.
Khổ thơ thứ ba nói về cô gái Huế và tâm tình thi nhân. Đương thời, nhà thơ Nguyễn Bính đã viết về thiếu nữ sông Hương: ''Những nàng thiếu nữ sông Hương – Da thơm là phấn, má hường à son…”. Vĩ Dạ mưa nhiều, những buổi sớm mai và chiều tà lắm sương khói. "Sương khói" trong Đường thi thường gắn liền với tình cố hương, ở đây sương khói đã làm nhòa đi, mờ đi áo trắng em, nen anh nhìn mãi vẫn không nhận ra dáng hình em (nhân anh). Người thiếu nữ Huế thoáng hiện, trắng trong, kín đáo và duyên dáng. Gần mà xa. Thực mà mơ. Câu thơ chập chờn, bâng khuâng. Ta đã biết Hàn Mặc Tử từng có một mối tình đẹp đơn phương với một thiếu nữ Huế mang tên một loài hoa đẹp. Phải chăng nhà thơ nói về mối tình này?
"Mơ khách đường xa, khách đường xa,
Áo em trăng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà".
"Mơ khách đường xa, khách đường xa… ai biết… ai có…" các điệp ngữ và luyến láy ấy tạo nên nhạc điệu sâu lắng, dịu buồn, mênh mang. Sự cách biệt và nỗi buồn xa vắng chia li như kéo dài trong không gian và thời gian vô tận. Người đọc thêm cảm thương cho nhà thơ tài hoa, đa tình mà bạc mệnh, từng say đắm với mối tình đơn phương nhưng suốt đời phải sống trong cô đơn và bệnh tật.
Cũng cần nói một đôi lời về chữ "ai" trong bài thơ này. Cả 4 lần chữ "ai" xuất hiện đều mơ hồ, ám ảnh: "Vườn ai mướt quá xanh như ngọc?" – "Thuyền ai đậu bến sông trăng đó?" – "Ai biết tình ai có đậm đà?". Con người mà nhà thơ nói đến là con người xa vắng, trong hoài niệm, bâng khuâng. Nhà thơ luôn luôn cảm thấy mình hụt hẫng, chơi vơi trước một mối tình đơn phương mộng ảo. Một chút hi vọng mong manh mà tha thiết như đang nhạt nhòa và mờ ảo cùng sương khói?.
Hàn Mặc Tử đã để lại cho ta một bài thơ tình thật hay và cảm động, cảnh và người, mộng và thực, say đắm và bâng khuâng, ngạc nhiên và thẫn thờ,… bao hình ảnh và cảm xúc đẹp mà buồn hội tụ trong ba khổ thơ thất ngôn, câu chữ toàn bích. "Đây thôn Vĩ Dạ" là một bài thơ tình tuyệt tác. Cái màu xanh như ngọc của vườn ai, con thuyền ai đậu bến sông trăng, và cái màu trắng của áo em như dẫn hồn ta đi về miền sương khói Vĩ Dạ thôn một thời xa vắng, tìm lại bóng giai nhân, thương nhớ nhà thơ tài hoa, đa tình mà mệnh bạc. Bức tranh tâm cảnh trong "Đây thôn Vĩ Dạ" vương vấn mãi lòng ta. Nhà thơ Thu Bồn đã nói hộ lòng ta:
"Xin chào Huế một lần anh đến
Để ngàn lần anh nhớ trong mơ
Em rất thực mà nắng thì mờ ảo
Xin đừng lầm em với cố đô".
(Tạm biệt)
|
Bình giảng bài thơ Đất Nước của Nguyễn Đình Thi văn học 12
Hướng dẫn
Bình giảng bài thơ Đất Nước của Nguyễn Đình Thi văn học 12
Cảm hứng về đất nước luôn là cảm hứng của biết bao nhiêu thế hệ nhà thơ. Đất nước luôn là tiếng gọi thiêng liêng nhất mà mỗi nhà thơ đều dùng những từ ngữ hay nhất để nói về. Góp phần làm giàu thêm đề tài này Nguyễn Đình Thi đã mang đến cho nền văn học Việt Nam thời kì kháng chiến chống Pháp bài thơ mang tựa đề Đất Nước. Có thể nói bài thơ đã gửi gắm hết những tâm tư tình cảm của Nguyễn Đình Thi đối với đất nước mình. Mặt khác chúng ta hiểu thêm về định nghĩa đất nước và sự đứng lên của nhân dân.
Bài thơ đất nước được ghép từ hai bài thơ khác nhau. Đó là sáng mát trong như sáng năm xưa (1948) và đêm mít tính (1955). Tuy có sự chắp ghép thế nhưng khi đọc lên ta không hề thấy sư rời rạc. Nó liền mạch cảm xúc thành một bài thơ về đất nước thực sự.
Mở đầu tác phẩm Nguyễn Đình Thi viết về cảm xúc của mình khi nhớ về mùa thu Hà Nội:
“Sáng mát trong như sáng năm xưa
Gió thổi mùa thu hương cốm mới
Tôi nhớ những ngày thu đã xa
Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội
Những phố dài xao xác hơi may
Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy”
Mùa thu ấy đã xa, và ngày hôm nay khi đứng ở chiến khi Việt bắc nhà thơ chạnh lòng nhớ mùa thu Hà Nội xưa. Có lẽ là do sáng nay mát trong như sáng năm xưa ở Hà Nội. Mùa thu đến mang theo hương cốm mới trong làn gió thu se lạnh nhẹ nhàng. Cái cảm giác ấy lại càng làm cho nhà thơ nhớ về mùa thu hà Nội. Đó là kỉ niệm một buổi sáng chớm lạnh, những con phố dài xao xác hơi gió heo may. Trong hoàn cảnh người chiến sĩ ra đi không ngoảnh đầu lại nhưng vẫn biết sau lưng thềm nắng lá rơi đầy. Hành động không ngoảnh lại thể hiện cho lý tưởng của nhà thơ với cách mạng. Quyết ra đi gìn giữ đất nước này, không ngoảnh đầu lại để không thấy nước mắt của người ở lại rơi.
“Mùa thu nay khác rồi
Tôi đứng vui nghe giữa núi đồi
Gió thổi rừng tre phấp phới
Trời thu thay áo mới
Trong biếc nói cười thiết tha”
Mùa thu nay không còn vẻ buồn ảm đạm như mùa thu chia li trước. Nó là mùa thu vui tươi. Nhà thơ đứng giữa núi đồi nghe tiếng vui theo làn gió thu mang về. Rừng tre phấp phới hay chính lòng người đang phấp phới. Nhà thơ vui vẻ trong tiếng cười nói thiết tha.
Đến đoạn thơ tiếp theo nhà thơ khẳng định chủ quyền đất nước mình. Đất nước tồn tại trong những cái hữu hình và trong cả những cái vô hình nữa:
“Trời xanh đây là của chúng ta
Núi rừng đây là của chúng ta
Những cánh đồng thơm mát
Những ngả đường bát ngát
Những dòng sông đỏ nặng phù sa
Nước chúng ta
Nước những người chưa bao giờ khuất
Ðêm đêm rì rầm trong tiếng đất
Những buổi ngày xưa vọng nói về!”
Các hình ảnh lần lượt được nhà thơ liệt kê kết hợp với điệp từ “của chúng ta” đã nhấn mạnh rằng những hình ảnh trời xanh, núi rừng, cánh đồng thơm mát và những ngả đường bát ngát kia là của chúng ta. Những hình ảnh hữu hình ấy thể hiện được đất nước tồn tại trong chính những gì là hữu hình, là đất đai sông núi mà bấy lâu nay ta vẫn ở. Điều đó khẳng định chủ quyền lãnh thổ vùng trời vùng đất vùng biển của ta. Không chỉ tồn tại ở những cái hữu hình mà đất nước còn tồn tại ở những cái vô hình. Đó chính là những linh hồn của con người Việt Nam. Nước chúng ta những con người chưa bao giờ khuất. Dẫu có chết đi thì cũng chỉ về với đất mẹ kính yêu ngày đêm những linh hồn ấy vẫn thì thầm trong tiếng đất.
Sau hoàn cảnh ra đi, sau mùa thu tươi vui rạo rực, sau những lời khẳng định về chủ quyền đất nước ta Nguyễn Đình Thi đi vào thể hiện sự đứng lên của nhân dân ta từ những năm tháng đau thương:
“Ôi những cánh đồng quê chảy máu
Dây thép gai đâm nát trời chiều
Những đêm dài hành quân nung nấu
Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu.
Từ những năm đau thương chiến đấu
Ðã ngời lên nét mặt quê hương
Từ gốc lúa bờ tre hồn hậu
Ðã bật lên những tiếng căm hờn”
Cảnh tượng dây thép của quân thù như tố cáo tội ác của chúng đối với nhân dân ta. Cánh đông quê hương yên bình là thế nhưng lại bị chúng biến thành cánh đồng máu. Hay cũng có thể nhà thơ nói cách điệu đó là trời khi hoàng hôn buông xuống mang một màu đỏ máu dữ dội. Những người lính ngày đêm nung nấu chiến đấu bảo vệ tổ quốc thì bỗng bồn chồn nhớ đôi mắt của người yêu. Từ những năm tháng thương đau nhân dân ta đã chuyển tư những người chỉ biết đến gốc lúa củ khoai đã bật lên tiếng căm hờn.
Nhà thơ nói lên những tội ác mà chúng đã đang tâm làm với nhân dân ta. Đó cũng chính là những đau thương mà ông cha ta phải chịu.Những người nông dân hiền lành chất phác quanh năm chỉ có biết đến ruộng nương nhưng cuối cùng cũng không thể nhịn được chúng:
“Bát cơm chan đầy nước mắt
Bay còn giằng khỏi miệng ta
Thằng giặc Tây, thằng chúa đất
Ðứa đè cổ, đứa lột da…”
Chúng đến không chỉ cướp tài nguyên của đất nước ta mà chúng còn biến nhân dân ta thành nô lệ. Bát cơm chan đầy nước mắt mà chúng còn ác tâm giằng khỏi miệng ta. Thằng giặc tây ấy nhân dân ta chỉ muốn đè cổ ra mà lột da xẻ thịt.
Nhân dân ta tuy hiền hậu như thế nhưng khi đã bật lên những tiếng căm hờn thì chúng cũng không thể nào ngăn chúng ta được:
“Xiềng xích chúng bay không khóa được
Trời đầy chim và đất đầy hoa
Súng đạn chúng bay không bắn được
Lòng dân ta yêu nước thương nhà!”
Xiềng xích của chúng bay không thể nào khóa được ý chí con người Việt nam ta. Chúng bay có xiềng xích được thân thể cũng không thể nào khóa luôn tinh thần ta được. Trời đầy chim và đất đầy hoa thể hiện con người Việt Nam chống lại chúng rất nhiều. Súng đạn của chúng bay có nhiều có nã liên tục thì cũng không thể bắn hết được người Việt Nam yêu nước.
“Khói nhà máy cuộn trong sương núi
Kèn gọi quân văng vẳng cánh đồng
Ôm đất nước những người áo vải
Ðã đứng lên thành những anh hùng.
Ngày nắng đốt theo đêm mưa dội
Mỗi bước đường mỗi bước hy sinh
Trán cháy rực nghĩ trời đất mới
Lòng ta bát ngát ánh bình minh.
Súng nổ rung trời giận dữ
Người lên như nước vỡ bờ
Nước Việt Nam từ máu lửa
Rũ bùn đứng dậy sáng lòa.”
Tiếng kèn gọi quân như thúc giục những người lính lên đường. Đó la không khí hồ hởi hăng say, chuẩn bị tinh thần để bước vào trận đấu một mất một còn. Những người áo vải chân chất giờ đã đứng lên thành những anh hùng. Biết rằng ra chiến trận là nguy hiểm là mỗi bước đều gian nan vất vả thế nhưng nhân dân ta rực sáng về một tương lai tốt đẹp lại hào hứng và quyết tâm dù hi sinh cũng phải dành lại độc lập cho dân tộc. Vậy là nhân dân ta đứng lên với hình ảnh súng nổ rung trời giận dữ. Những người lính áo vải ấy ra chiến trận mang theo những đau thương và nhưng hi vọng về ngày mai. Người lên như nước vỡ bờ. Nước Việt nam ta đưng lên từ máu lữa rũ bùn đứng dậy khiến cho quân thù phải khiếp sợ.
Như vậy bằng giọng văn khi thắm thiết thân thương, khi vui tươi nhung nhớ, lúc lại căm thù giận dữ, rồi hào hùng khí thế nhà thơ Nguyễn Đình Thi đã mang đến cho chúng ta một hình ảnh đất nước từ những đau thương tủi nhục đến một đất nước đứng lên với hình ảnh sáng lòa. Áp bức thì sẽ có đấu tranh chính vì thế mà bọn thực dân kia ác đến đâu thì nhân dân ta lại kiên cường đứng lên đến đấy.
|
Bình giảng bài thơ Đất Nước của Nguyễn Đình Thi văn học 12
Hướng dẫn
Bình giảng bài thơ Đất Nước của Nguyễn Đình Thi văn học 12
Cảm hứng về đất nước luôn là cảm hứng của biết bao nhiêu thế hệ nhà thơ. Đất nước luôn là tiếng gọi thiêng liêng nhất mà mỗi nhà thơ đều dùng những từ ngữ hay nhất để nói về. Góp phần làm giàu thêm đề tài này Nguyễn Đình Thi đã mang đến cho nền văn học Việt Nam thời kì kháng chiến chống Pháp bài thơ mang tựa đề Đất Nước. Có thể nói bài thơ đã gửi gắm hết những tâm tư tình cảm của Nguyễn Đình Thi đối với đất nước mình. Mặt khác chúng ta hiểu thêm về định nghĩa đất nước và sự đứng lên của nhân dân.
Bài thơ đất nước được ghép từ hai bài thơ khác nhau. Đó là sáng mát trong như sáng năm xưa (1948) và đêm mít tính (1955). Tuy có sự chắp ghép thế nhưng khi đọc lên ta không hề thấy sư rời rạc. Nó liền mạch cảm xúc thành một bài thơ về đất nước thực sự.
Mở đầu tác phẩm Nguyễn Đình Thi viết về cảm xúc của mình khi nhớ về mùa thu Hà Nội:
“Sáng mát trong như sáng năm xưa
Gió thổi mùa thu hương cốm mới
Tôi nhớ những ngày thu đã xa
Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội
Những phố dài xao xác hơi may
Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy”
Mùa thu ấy đã xa, và ngày hôm nay khi đứng ở chiến khi Việt bắc nhà thơ chạnh lòng nhớ mùa thu Hà Nội xưa. Có lẽ là do sáng nay mát trong như sáng năm xưa ở Hà Nội. Mùa thu đến mang theo hương cốm mới trong làn gió thu se lạnh nhẹ nhàng. Cái cảm giác ấy lại càng làm cho nhà thơ nhớ về mùa thu hà Nội. Đó là kỉ niệm một buổi sáng chớm lạnh, những con phố dài xao xác hơi gió heo may. Trong hoàn cảnh người chiến sĩ ra đi không ngoảnh đầu lại nhưng vẫn biết sau lưng thềm nắng lá rơi đầy. Hành động không ngoảnh lại thể hiện cho lý tưởng của nhà thơ với cách mạng. Quyết ra đi gìn giữ đất nước này, không ngoảnh đầu lại để không thấy nước mắt của người ở lại rơi.
“Mùa thu nay khác rồi
Tôi đứng vui nghe giữa núi đồi
Gió thổi rừng tre phấp phới
Trời thu thay áo mới
Trong biếc nói cười thiết tha”
Mùa thu nay không còn vẻ buồn ảm đạm như mùa thu chia li trước. Nó là mùa thu vui tươi. Nhà thơ đứng giữa núi đồi nghe tiếng vui theo làn gió thu mang về. Rừng tre phấp phới hay chính lòng người đang phấp phới. Nhà thơ vui vẻ trong tiếng cười nói thiết tha.
Đến đoạn thơ tiếp theo nhà thơ khẳng định chủ quyền đất nước mình. Đất nước tồn tại trong những cái hữu hình và trong cả những cái vô hình nữa:
“Trời xanh đây là của chúng ta
Núi rừng đây là của chúng ta
Những cánh đồng thơm mát
Những ngả đường bát ngát
Những dòng sông đỏ nặng phù sa
Nước chúng ta
Nước những người chưa bao giờ khuất
Ðêm đêm rì rầm trong tiếng đất
Những buổi ngày xưa vọng nói về!”
Các hình ảnh lần lượt được nhà thơ liệt kê kết hợp với điệp từ “của chúng ta” đã nhấn mạnh rằng những hình ảnh trời xanh, núi rừng, cánh đồng thơm mát và những ngả đường bát ngát kia là của chúng ta. Những hình ảnh hữu hình ấy thể hiện được đất nước tồn tại trong chính những gì là hữu hình, là đất đai sông núi mà bấy lâu nay ta vẫn ở. Điều đó khẳng định chủ quyền lãnh thổ vùng trời vùng đất vùng biển của ta. Không chỉ tồn tại ở những cái hữu hình mà đất nước còn tồn tại ở những cái vô hình. Đó chính là những linh hồn của con người Việt Nam. Nước chúng ta những con người chưa bao giờ khuất. Dẫu có chết đi thì cũng chỉ về với đất mẹ kính yêu ngày đêm những linh hồn ấy vẫn thì thầm trong tiếng đất.
Sau hoàn cảnh ra đi, sau mùa thu tươi vui rạo rực, sau những lời khẳng định về chủ quyền đất nước ta Nguyễn Đình Thi đi vào thể hiện sự đứng lên của nhân dân ta từ những năm tháng đau thương:
“Ôi những cánh đồng quê chảy máu
Dây thép gai đâm nát trời chiều
Những đêm dài hành quân nung nấu
Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu.
Từ những năm đau thương chiến đấu
Ðã ngời lên nét mặt quê hương
Từ gốc lúa bờ tre hồn hậu
Ðã bật lên những tiếng căm hờn”
Cảnh tượng dây thép của quân thù như tố cáo tội ác của chúng đối với nhân dân ta. Cánh đông quê hương yên bình là thế nhưng lại bị chúng biến thành cánh đồng máu. Hay cũng có thể nhà thơ nói cách điệu đó là trời khi hoàng hôn buông xuống mang một màu đỏ máu dữ dội. Những người lính ngày đêm nung nấu chiến đấu bảo vệ tổ quốc thì bỗng bồn chồn nhớ đôi mắt của người yêu. Từ những năm tháng thương đau nhân dân ta đã chuyển tư những người chỉ biết đến gốc lúa củ khoai đã bật lên tiếng căm hờn.
Nhà thơ nói lên những tội ác mà chúng đã đang tâm làm với nhân dân ta. Đó cũng chính là những đau thương mà ông cha ta phải chịu.Những người nông dân hiền lành chất phác quanh năm chỉ có biết đến ruộng nương nhưng cuối cùng cũng không thể nhịn được chúng:
“Bát cơm chan đầy nước mắt
Bay còn giằng khỏi miệng ta
Thằng giặc Tây, thằng chúa đất
Ðứa đè cổ, đứa lột da…”
Chúng đến không chỉ cướp tài nguyên của đất nước ta mà chúng còn biến nhân dân ta thành nô lệ. Bát cơm chan đầy nước mắt mà chúng còn ác tâm giằng khỏi miệng ta. Thằng giặc tây ấy nhân dân ta chỉ muốn đè cổ ra mà lột da xẻ thịt.
Nhân dân ta tuy hiền hậu như thế nhưng khi đã bật lên những tiếng căm hờn thì chúng cũng không thể nào ngăn chúng ta được:
“Xiềng xích chúng bay không khóa được
Trời đầy chim và đất đầy hoa
Súng đạn chúng bay không bắn được
Lòng dân ta yêu nước thương nhà!”
Xiềng xích của chúng bay không thể nào khóa được ý chí con người Việt nam ta. Chúng bay có xiềng xích được thân thể cũng không thể nào khóa luôn tinh thần ta được. Trời đầy chim và đất đầy hoa thể hiện con người Việt Nam chống lại chúng rất nhiều. Súng đạn của chúng bay có nhiều có nã liên tục thì cũng không thể bắn hết được người Việt Nam yêu nước.
“Khói nhà máy cuộn trong sương núi
Kèn gọi quân văng vẳng cánh đồng
Ôm đất nước những người áo vải
Ðã đứng lên thành những anh hùng.
Ngày nắng đốt theo đêm mưa dội
Mỗi bước đường mỗi bước hy sinh
Trán cháy rực nghĩ trời đất mới
Lòng ta bát ngát ánh bình minh.
Súng nổ rung trời giận dữ
Người lên như nước vỡ bờ
Nước Việt Nam từ máu lửa
Rũ bùn đứng dậy sáng lòa.”
Tiếng kèn gọi quân như thúc giục những người lính lên đường. Đó la không khí hồ hởi hăng say, chuẩn bị tinh thần để bước vào trận đấu một mất một còn. Những người áo vải chân chất giờ đã đứng lên thành những anh hùng. Biết rằng ra chiến trận là nguy hiểm là mỗi bước đều gian nan vất vả thế nhưng nhân dân ta rực sáng về một tương lai tốt đẹp lại hào hứng và quyết tâm dù hi sinh cũng phải dành lại độc lập cho dân tộc. Vậy là nhân dân ta đứng lên với hình ảnh súng nổ rung trời giận dữ. Những người lính áo vải ấy ra chiến trận mang theo những đau thương và nhưng hi vọng về ngày mai. Người lên như nước vỡ bờ. Nước Việt nam ta đưng lên từ máu lữa rũ bùn đứng dậy khiến cho quân thù phải khiếp sợ.
Như vậy bằng giọng văn khi thắm thiết thân thương, khi vui tươi nhung nhớ, lúc lại căm thù giận dữ, rồi hào hùng khí thế nhà thơ Nguyễn Đình Thi đã mang đến cho chúng ta một hình ảnh đất nước từ những đau thương tủi nhục đến một đất nước đứng lên với hình ảnh sáng lòa. Áp bức thì sẽ có đấu tranh chính vì thế mà bọn thực dân kia ác đến đâu thì nhân dân ta lại kiên cường đứng lên đến đấy.
|
Bình giảng bài thơ Đất Nước của Nguyễn Đình Thi
Hướng dẫn
Bình giảng bài thơ Đất Nước của Nguyễn Đình Thi
Đình Thi là một người có nhiều tài năng như là vẽ tranh, soạn nhạc, viết văn, làm thư… Và ở lĩnh vực nào ông cũng đạt được những thành tựu xuất sắc nhưng đáng kể đến nhất đó chính là thơ ca. Trong thơ ông chứa đựng nhiều suy tư và cảm xúc về chiến tranh, về con người tình yêu đất nước. Đặc biệt ông có bài thơ đằm thắm và thiết tha khi viết về quê hương đất nước trong đau thương đã vùng lên chiến đấu và giành thắng lợi. Và Đất Nước là một bài như thế.
Đất nước là cảm hứng thi ca mang tính chất tổng hợp về chủ Đất Nước, đó là cảm xúc về mùa thu Hà Nội, chiến khu Việt Bắc và cao hơn nữa đó là những cảm xúc về ca dao cho đất nước từ trong thương đau.
Trước hết tới với những câu thơ đầu tiên nói về cảm xúc của mùa thu Hà Nội, đó là những câu thơ mang chan chứa tình cảm yêu thương và gắn bó của nhà thơ đối với quê hương mình:
“Sáng mát trong như sáng năm xưa
Gió thổi màu thu hương cốm mới
Tôi nhớ những ngày thu đã xa
Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội
Những phố dài xao xác hơi may
Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thèm nắng lá rơi đầy”
Câu thơ mở ra với không gian buổi sáng sớm tinh khôi. Tác gỉa đang đứng ở chiến khu Việt Bắc và nhớ tới những tháng năm xưa ở Hà Nội. Mùa thu Hà Nội hiện lên có cả cảnh vật và cả con người. Cảnh vật lúc đó có cái chớm lạnh, chớm ở đây có nghĩa là chỉ mới se lạnh thoảng những cơn gió. Đây chính là khoảnh khắc giao mùa và phải chăng đây chính là cái lạnh tỏa ra từ lòng người? Đến với câu thơ “ Những phố dài xao xác hơi may”, tác giả đã rất khéo léo khi sử dụng biện pháp đảo trật tự cú pháp cộng với từ láy tượng thanh, từ “xao xác” thể hiện cái buồn nhẹ của buổi chiều heo may.
Sang ở đoạn thơ thứ hai, nhà thơ đã thể hiện cảm xúc của mình về mùa thu hiện tại ở chiến khu việt Bắc:
“Mùa thu nay đã khác rồi
Tôi đứng vui nghe giữa núi đồi
Gió thổi rừng tre phấp phới
Trời thu thay áo mới
Trong biếc tiếng nói cười thiết tha”
Câu thơ giống như lời chuyển đọan về cảm xúc của mùa thu. Cùng là một mùa thu nhưng ở chiến khu Việt Bắc tác giả cảm thấy lòng mình vui đến là, đó là tiếng vui reo của mùa thu đất trời tự do. Nó thể hiện được sự phấn chấn của thi nhân trước những đổi thau của đất nước. Ba câu thơ sau tác giả đã sử dụng biện pháp nhân hóa,nhà thơ đã khoác lên mùa thu một chiếc áo mới được dệt bằng niềm hạnh phúc và sự tự do.
Ở câu cuối cùng có sự kết hợp giữa âm thanh và giai điệu để có thể mở ra một không gian rộng lớn hơn.
“ Trời xanh đây là của chúng ta
Những cánh đồng thơm mát
Những ngả đường bát ngát
Những dòng sông đỏ nặng phù sa
Nước chúng ta
Nước những người chưa bao giờ khuất
Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất
Những buổi ngày xưa vọng nói về”
Bằng các điệp ngữ cùng với các thủ pháp điệp,nhà thơ đã khẳng định được chủ quyền của đất nước. đó là đất,là trời, là dòng sống đỏ nặng phù sa…tất cả đều là truyền thống chiến đấu quý báu của dân tộc ta. Và ở đoạn thơ này đã khắc họa rõ nét nhất về khí thế mới tươi vui của dân tộc và náo nức phấn chấn tự hào về đất nước
Sang phần đoạn thơ sau đó là hình ảnh về đất nước ta từ trong đau thương tiến lên đấu tranh giành được chiến thắng.
Đầu tiên đó là hình ảnh đất nước ở trong đau thương, tác giả bắt đầu bằng những câu thơ có sức gợi tả cao:
“Ôi những cánh đồng quê chảy máu
Dây thép gai đâm nát trời chiều
Những đêm dài hành quân nung nấu
Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu”
Bọn thực dân đã làm cho những cánh đồng quê của chúng ta chảy máu, đó là máu của hoàng hôn hay là tội ác của quân giặc làm nhuốm máu của đồng bào ta. Con đường hành quân của chúng ta đầy rẩy những bẫy của kẻ thù, những đồn bốt của địch. Những đồn ấy có những hàng thép gai đâm nát cả trời chiều, nó in đậm lên cả nền trời. Rồi những đêm dài trên đường hành quân làm cho những người chiến sĩ yêu nước nhớ tới mắt người yêu của mình.
Đất nước hiện lên khi đau thương nhưng từ cái đau thương ấy đất nước ta lại vùng lên để chiến đấu anh dũng hơn:
Đã ngời lên nét mặt quê hương
Từ gốc lúa bờ tre hồn hậu
Đã bật lên những tiếng căm hờn”
Đất nước nhân dân ta phải chịu nhiều đắng cay tủi nhục
“bát cơm chan đầy nước mắt
Bay còn giằng khỏi miệng ta”
Đó là những tiếng khóc, tiếng than xé đau lòng, sự ngang tàng ấy đã làm cho dân ta thấy căm hờn, căm hờn đó nhân rộng ra cả một dân tộc, cả dân tộc đó đang rên xiết ở dưới mũi giày của chúng. Nhân dân ta quanh năm chỉ biết đến với lũy tre làng nhưng khi chúng đã xâm phạm tới thì những gốc lúa bờ tre ấy cũng quật lên để khởi nghĩa.
Và những người áo vải đã đứng lên thành anh hùng:
“Ôm đất nước những người áo vải
Đã đứng lên thành những anh hùng”
Dẫu biết rằng có thể hi sinh ngoài mặt trận nhưng mà nghĩ đến đất nước độc lập thì ý chí của những người chiến sĩ lại rực sáng lên soi sáng ngọn lửa đấu tranh. Đoạn thơ cuối chính là hình ảnh quật khởi chiến thắng của nhân dân ta. Một loạt việt Nam đau thương đứng lên khởi nghĩa có âm thanh của tiếng súng và tức nước thì vỡ bờ, người áo vải đã rũ bùn đứng dậy sáng lòa:
“Súng nổ rung trời giận dữ
Người lên như nước vỡ bờ
Nước Việt Nam từ máu lửa
Rũ bùn đứng dậy sáng lòa”
Qua đây chúng ta có thể thấy được Nguyễn Đình Thi đã mang tới cho chúng ta một hình ảnh về đất nước vô cùng tươi đẹp, đó là một đất nước trải qua nhiều thương đau nhưng cuối cùng cũng thành công, mang đến niềm hi vọng vào tương lại tươi sáng hơn.
Nguồn: Bài văn hay
|
Commentary on the poem The Country by Nguyen Dinh Thi
Instruct
Commentary on the poem The Country by Nguyen Dinh Thi
Dinh Thi is a person with many talents such as painting, composing music, writing, making letters... And in every field he has achieved excellent achievements, but the most significant is poetry. In his poetry, he contains many thoughts and emotions about war, about people and love for the country. In particular, he had a passionate and passionate poem when he wrote about his homeland, which in pain and suffering rose up to fight and win. And Country is such a song.
The country is a poetic inspiration of a general nature about the owner of the Country, it is the feelings about the fall of Hanoi, the Viet Bac war zone and even higher, it is the feelings of folk songs for the country from the pain. .
First of all, the first verses talk about the feelings of autumn in Hanoi, which are verses filled with the poet's love and attachment to his homeland:
“The morning is cool and clear like the morning in the past
The wind blows the autumn color and smells of new green rice
I miss those far away autumn days
Cold early morning in the heart of Hanoi
The long streets are a bit shaky
The first person to leave does not look back
Behind me, I long for the sun and the leaves are falling."
The poem opens with the pristine early morning space. The author is standing in the Viet Bac war zone and remembers the old days in Hanoi. Hanoi's autumn appears with both landscapes and people. The scene at that time had a cold beginning, early here means it was just chilly with a slight breeze. This is the moment of changing seasons and is this the cold emanating from people's hearts? Coming to the poem "The long streets are a little sad", the author was very skillful in using the method of syntactic inversion plus onomatopoeia, the word "distressed" to express the slight sadness of the afternoon. lucky pig.
In the second verse, the poet expressed his feelings about the current autumn in the Viet Bac war zone:
“This fall is different
I stood happily listening among the mountains and hills
The wind blows through the fluttering bamboo forest
Autumn weather brings new clothes
In the midst of the sound of passionate laughter"
The poem is like a translation of autumn's feelings. It was the same autumn, but in the Viet Bac war zone, the author felt happy, it was the joyful sound of the autumn of free earth and sky. It shows the poet's excitement before the country's changes. In the following three verses, the author uses personification. The poet puts on autumn a new shirt woven with happiness and freedom.
In the last sentence, there is a combination of sound and melody to open up a larger space.
“This blue sky is ours
The fields are fragrant
Vast roads
Red rivers are heavy with silt
Our country
The country of those who have never died
At night, the earth murmurs in the sound of the earth
The expectations about the old days"
With alliteration and alliteration techniques, the poet affirmed the country's sovereignty. It's the earth, it's the sky, it's the red stream of life heavy with alluvium...all of these are the precious fighting traditions of our people. And this poem most clearly depicts the new cheerful spirit of the nation and the excitement and pride of the country.
Moving on to the next verse, there is an image of our country moving forward from pain and struggle to win victory.
First is the image of the country in pain, the author begins with highly evocative verses:
“Oh the bleeding countryside
Barbed wire punctured the afternoon sky
Long nights of marching and burning
"Suddenly restless, I miss my lover's eyes"
The colonialists made our countryside bleed, whether it was the blood of the sunset or the crimes of the enemy that stained the blood of our people. Our marching path is full of enemy traps and enemy posts. Those posts have rows of barbed wire that pierce the afternoon sky, it is boldly printed on the sky. Then the long nights on the march made patriotic soldiers remember the eyes of their lovers.
The country emerged when it was painful, but from that pain, our country rose up to fight more heroically:
The face of the homeland has brightened
From rice roots and gentle bamboo banks
There were sounds of hatred."
Our country and people have to endure a lot of bitterness and humiliation
“a bowl of rice filled with tears
You even took it out of my mouth."
Those were the cries, the heart-wrenching cries, that arrogance made our people feel hatred, that hatred multiplied to an entire nation, that entire nation was groaning under their shoes. All year round, our people only know the village's bamboo fences, but when they encroach, those bamboo rice stalks also rise up to start an uprising.
And the cloth-clad men stood up as heroes:
“Embrace the country of cloth-clad people
Stand up as heroes"
Even though they know that they can sacrifice their lives on the front, when they think of an independent country, the will of the soldiers shines brightly, illuminating the fire of struggle. The last stanza is the image of our people's resurgent victory. A series of painful Vietnamese people stood up to revolt, there was the sound of gunfire and the water suddenly burst its banks, people in cloth clothes had shaken off the mud and stood up shining:
“The gunfire shook the sky in anger
People rise up like water bursting its banks
Vietnam from blood and fire
Shake off the mud and stand up bright"
Through this we can see that Nguyen Dinh Thi has brought us an image of an extremely beautiful country, a country that has gone through a lot of pain but in the end succeeded, bringing hope. into a brighter future.
Source: Good article
|
Bình giảng bài thơ ‘Hồi hương ngẫu thư’
Hướng dẫn
Hồi hương ngẫu thư
Hạ Tri Chương (659 – 744)
Thiếu tiểu li gia, lão đại hồi,
Hương âm vô cải, mấn mao tồi.
Nhi đồng tương kiến, bất tương thức,
Tiếu vấn: Khách tòng hà xứ lai?
Dịch thơ.
Khi đi trẻ, lúc về già,
Giọng quê vẫn thế, tóc đà khác bao.
Trẻ con nhìn lạ không chào,
Hỏi rằng: Khách ở chốn nào lại chơi?
Phạm Sĩ Vĩ dịch Trẻ đi, già trở lại nhà,
Giọng quê không đổi, sương pha mái đẩu.
Gặp nhau mà chẳng biết nhau,
Trẻ cười, hỏi: ‘Khách từ đâu đến làng?’
Trần Trọng San dịch
Gợi ý phân tích
Hạ Tri Chương (659 – 744) là một trong những thi sĩ lớn đời Đường, là bạn vong niên của Thi tiên Lí Bạch. Quê ông ở Cối Kê, thuộc tỉnh Chiết Giang, Trung Quốc. Đậu tiến sĩ năm 36 tuổi, là đại quan của triều Đường, được hoàng đế Đường Thái Tông và quần thần trọng vọng.
Thơ của Hạ Tri Chương thanh đạm, nhẹ nhàng, gợi cảm, biểu lộ một trái tim hồn hậu đáng yêu. ‘Hồi hương ngẫu thư’ là bài thơ xuất sắc của ông, được nhiều người truyền tụng. Tình yêu quê hương là cảm xúc chủ đạo của bài thơ thất ngôn tứ tuyệt này:
Thiếu tiểu li gia, lão đại hồi,
Hương âm vô cải, mấn mao tồi.
Nhi dồng tương kiến, bất tương thức,
1. Câu thơ thứ nhất dùng thủ pháp tiểu đối nêu lên một cảnh ngộ: phải li biệt gia đình từ ấu thơ, sống nơi đất khách quê người, mãi đến lúc về già mới được trở về thăm cố hương:
‘Thiếu tiểu li gia II lão đại hồi’
(Khi đi trẻ, lúc về già)
‘Thiếu tiểu’với ‘lão đại’, ‘li gia’ với ‘hồi’ hương, đối nhau. Với Hạ Tri Chương, thời gian li biệt quê hương gia đình không chỉ 3 năm, 15 năm mà hơn nửa thế kỉ, gần suốt một đời người, sao không thương nhớ? Cảnh ngộ ấy là bi kịch của vị đại quan đời Đường trên con đường công danh? Với Hạ Tri Chương, công danh thì thành đạt, nhưng suốt cuộc đời phải ‘li gia’. Nỗi sầu ‘li gia’ là một trong những nỗi đau của đời người xưa nay.
Câu thơ thứ hai, tác giả một lẩn nữa sử dụng tiểu đối tương phản rất đặc sắc, để nói lên sự gắn bó thiết tha với quê nhà:
‘Hương âm vô cải II mấn mao tồi’
(Giọng quê không đổi, sương pha mái đầu)
Suốt một đời xa quê, khách li hương giờ đây mái tóc đã bạc phơ, tóc mai đã rụng, nhưng ‘giọng quê’ (hương âm) vẫn không đổi thay! Chi tiết ‘hương âm vô cải’ (giọng quê không đổi) là một biểu hiện cảm động về tấm lòng tha thiết gắn bó với quê hương. Dòng sữa ngọt ngào, tiếng ru, tình thương của mẹ hiền, công ơn của mẹ cha, đã thấm sâu vào tâm hồn mỗi đứa con. ‘Giọng quê’ chính là tâm hồn của mỗi con người yêu thương, gắn bó với đất mẹ quê cha. Chỉ có kẻ mất gốc, kẻ bạc tình mới thay đổi ‘giọng quê’, mới coi thường tiếng mẹ đẻ!
2. Hai càu cuối rất hóm hỉnh ghi lại một tình huống nói về một nghịch lí trong cuộc đời. Có câu hỏi và nụ cười hồn nhiên khi gặp ‘người khách lạ’:
‘Nhi đồng tương kiến bất tương thức,
Tiếu vấn: Khách tòng hà xứ lai?’
Kẻ đi xa, nay trở về làng đã trở thành khách lạ. Trẻ con gặp mà không biết. Thời gian xa quê dài dằng dặc bao năm tháng. Bạn bè tuổi thơ ngày xưa, ai còn ai mất? Vì thế mới có chuyên lạ đời:
‘Trẻ con nhìn lạ không chào,
Hỏi rằng: Khách ở chốn nào lại chơi?’
Một câu hỏi hồn nhiên ngây thơ của nhi đồng để lại bao man mác, bâng khuâng trong lòng li khách. Vì cảnh ngộ mà phải xa quê. Tuổi già sức yếu vẫn trở lại cố hương. Tình yêu quê hương của Hạ Tri Chương mới thắm thiết biết bao! Tinh cảm ấy rất đẹp, rất chân thành: son sắt và thủy chung. Nhà thơ Tô’ Hữu đã từng viết:
„ Mai về, dù bạc tóc anh, cũng về!’
(‘Nước non ngàn dặm’)
‘Hồi hương ngẫu thừ’của Hạ Tri Chương là một bài thơ hay, cho ta nhiều xúc động. Tác giả sử dụng tiểu đối rất thành công, tạo nên những vần thơ hàm súc, nói ít mà gợi nhiều, đem đến chongười đọc bao liên tưởng về bi kịch và nỗi lòng của khách li hương. Một hồn thơ thâm trầm, nhẹ nhàng và hồn hậu. Tình yêu thương và tấm lòng son sắt thủy chung của nhà thơ đối với quê hương thấm đẫm trên từng vần thơ.
‘Thơ là tiếng lòng trang trải…’, ‘Hồi hương ngẫu thư’là tiếng lòng của Hạ Tri Chương. Tiếng lòng ấy mới hồn hậu và đằm thắm biết bao!
|
Commentary on the poem 'Return to Homeland'
Instruct
Impromptu repatriation
Ha Zhizhang (659 – 744)
Young master Li, old man returns,
The scent is not good, the hair is bad.
Children have the same understanding, no understanding,
Laughing question: Guests from the same country?
Translating poetry.
When young, when old,
The country voice is still the same, the hair is different.
Children looked strange and did not say hello.
Ask: Where do guests come to play?
Pham Si Vi translated: Go young, return home when old,
The country accent remains unchanged, the mist mixed with the roof of the head.
Meeting each other without knowing each other,
The child laughed and asked: 'Where do guests come from to the village?'
Translated by Tran Trong San
Analytical suggestions
He Zhizhang (659 - 744) was one of the great poets of the Tang Dynasty, and a long-time friend of Poet Li Bai. His hometown is Guiji, Zhejiang province, China. Doctor Dau at the age of 36, was a mandarin of the Tang Dynasty, respected by Emperor Thai Tong and his courtiers.
Ha Tri Chuong's poetry is frugal, gentle, and sexy, expressing a lovely, kind heart. 'Return to Homeland' is an excellent poem of his, passed down by many people. Love for the homeland is the main emotion of this four-word poem:
Young master Li, old man returns,
The scent is not good, the hair is bad.
Children have mutual views, no mutual consciousness,
1. The first verse uses a small parallel technique to highlight a situation: having to separate from one's family since childhood, living in a foreign land, and not being able to return to visit one's homeland until old age:
'The Young Master's Young Master Returns II'
(When young, when old)
'Young master' and 'old man', 'leaving home' and 'returning home', are opposites. For Ha Tri Chuong, the time of separation from his homeland and family was not only 3 years, 15 years but more than half a century, almost a lifetime, why not miss it? Is that plight the tragedy of a great mandarin of the Tang Dynasty on his path to fame? For Ha Tri Chuong, his career was successful, but he had to leave his family for the rest of his life. The sadness of 'separation' is one of the pains of human life in the past.
In the second verse, the author once again uses a very unique contrast to express his passionate attachment to his homeland:
'Huong Yin Vo Cai II Mẩm Mao Bad'
(Country voice unchanged, misty hair)
Having been away from home for a lifetime, the traveler now has gray hair and fallen sideburns, but his 'hometown accent' (incense) remains unchanged! The detail of 'huong yin va cai' (unchanged hometown accent) is a touching expression of the earnest attachment to the homeland. The sweet flow of milk, the lullaby, the love of a gentle mother, the gratitude of parents, have penetrated deeply into the soul of each child. 'Country voice' is the soul of every person who loves and is attached to the motherland and fatherland. Only those who have lost their roots and are ungrateful will change their 'country accent' and look down on their mother tongue!
2. The last two verses are very humorous and record a situation about a paradox in life. There are questions and innocent smiles when meeting 'strangers':
'Children see each other without feeling the same,
Laughing question: Guests from the same country?'
Those who went far away now return to the village and have become strangers. Children meet without knowing. The time away from home was long and many years. Old childhood friends, who is still alive and who is gone? That's why there's this strange thing:
'Children look strange and don't say hello,
Ask: Where do guests come from?'
An innocent and innocent question from a child leaves many marks and worries in the hearts of guests. Because of circumstances, I had to leave my hometown. Old age and weak health still return to the homeland. How passionate is Ha Tri Chuong's love for his homeland! That feeling is very beautiful, very sincere: loyal and loyal. Poet To' Huu once wrote:
'Tomorrow, even if your hair turns gray, you'll still come back!'
(‘Water thousands of miles away’)
'Accidental Return' by Ha Tri Chuong is a beautiful poem, giving us many emotions. The author uses small parallels very successfully, creating concise poems, saying little but evoking a lot, giving the reader many thoughts about the tragedy and feelings of the exiles. A profound, gentle and soulful poetic soul. The poet's love and loyalty to his homeland permeates every poem.
'Poetry is the voice of the heart to cover...', 'Returning home' is the voice of Ha Tri Chuong's heart. How soulful and loving that voice is!
|
Bình giảng bài thơ ‘Nguyệt’ của Trần Nhân Tông
Hướng dẫn
Trần Nhân Tông (1258 – 1308)
Bán song đãng ảnh mãn sàng thư,
Lộ trích thu dinh dạ khí hư.
Thụy khởi châm thanh vô mịch xứ,
Mộc tê hoa thượng nguyệt lai sơ.
Trăng
Bóng đèn soi nửa cửa đổ, sách đầy giường,
Sương thu rơi ngoài sân, ban đêm khí trời trống không, lặng lẽ.
Thức dậy, tiếng chày đập vải đã vắng ngắt,
Bóng trăng vừa hé gọi trên chùm hoa mộc.
Bên song, đèn rạng, sách đầy giường,
Khí lạnh, đêm thu, đượm giọt sương.
Thức dậy, tiếng chày đà lặng ngắt,
Trên chùm hoa mộc, nguyệt lồng hương.
(Bản dịch ‘Hoàng Việt thi tuyển’)
‘Nguyệt’là bài thơ thất ngôn tứ tuyệt của Trần Nhân Tông (1258 – 1308), nhà vua anh hùng – thi sĩ của Đại Việt trong thế kỉ 13. Ta dự đoán, bài thơ có thể được viết khi đất nước ta đã ‘rửa sạch mấy lần giáp hĩnh’ bước vào một kỉ nguyên mới: ‘Giặc tan muôn thuở thanh hình’ (‘Bạch Đằng Giang phú’ – Trương Hán Siêu).
Bao trùm bài thơ là một không khí, một không gian nghệ thuật êm đềm, trong sáng và thơ mộng.
Bài thơ tả cảnh một đêm thu nơi cung cấm. Nhà vua không đắm chìm trong tửu sắc, không chuếnh choáng trong nhã nhạc, mà thức khuya đọc sách. Một không gian thoáng đãng: cửa sổ rộng mở, đầy ánh sáng, ánh sáng của ngọn đèn, ánh sáng của tri thức của trí tuệ. Hình ảnh ‘mãn sàng thư’ (sách đầy giường) đã thể hiện một tâm hồn, một cốt cách cần mẫn, cao nhã và hiếu học. Sử sách cho biết Trần Nhân Tông là một con người siêng năng, giản dị và thông tuệ. Một câu thơ, một con người:
(Bên song đèn rạng, sách đầy giường)
Sau này Lê Thánh Tông cũng sống đẹp như thế:
‘Trống dời canh còn đọc sách,•
Chiêng xế hóng chửa thôi chầu’
(Tự thuật)
Câu thơ thứ hai tả cảnh đêm thu. Sương rơi. Trời đêm trong sáng mênh mỏng, êm đềm lặng lẽ. Câu thơ lấy ngoại cảnh để biểu hiện nội tâm phong phú, vô cùng thư thái. Nhà vua vừa đọc sách vừa nghe tiếng sương thu nhẹ rơi ngoài sân. Câu thơ thứhai đượm màu sắc cảm giác, xúc giác; cảnh diễn tả tinh tế nhẹ nhàng: ‘Lộ trích thu đình dạ khí hư’
(Khí lạnh đêm thu đượm giọt sương)
Hai câu 3, 4 tả cảnh nhà vua từng đọc sách suốt đêm khuya nhưng dậy rất sớm. Chưa nghe tiếng gà gáy. Chưa nghe tiếng chày đập vải. Bốn bề vắng lặng, gợi lên không khí thanh bình của đất nước. Nhà thơ ngắm nhìn hoa, nhìn trăng. Hình tượng ‘trăng lồng hoa’ rất thơ mộng hữu tình:
‘Thụy khởi chàm thanh vô mịch xứ,
Mộc tê hoa thượng nguyệt lai sơ’
(Thức dậy, tiếng chày đà lặng ngắt,
Trên chùm hoa mộc, nguyệt lồng hương)
‘Trong động cổ tĩnh, trong tĩnh có động’là một trong những thủ pháp nghệ thuật của Đường thi. Trong bài thơ ‘Trăng’ này, Trần Nhân Tông đã lấy tĩnh để tả động, làm nổi bật ‘trong tĩnh có động’, đó là ngoại cảnh thì bốn bề lặng ngắt (châm thanh vô mịch xứ), bóng trăng thì hé gọi trên chùm hoa mộc, nhưng trong lòng nhà thơ thì xao động, dào dạt sức sống và tinh thần lạc quan yêu đời. Vừa đắm mình vào sách (thi thư), vừa chan hòa vào hương hoa và ánh trăng. Đó là tâm hồn thanh cao, giàu trí tuệ, giàu tình yêu thiên nhiên.
|
Commentary on the poem 'Nguyet' by Tran Nhan Tong
Instruct
Tran Nhan Tong (1258 – 1308)
Selling double photos and full books,
Lo extracted autumn Dinh Da's bad gas.
Thuy starts the needle in the silent land,
The first hybrid of the moc ginseng flower on the moon.
Moon
The light bulb illuminating half the door collapsed, books filled the bed,
Autumn dew falls outside the yard, at night the air is empty and quiet.
Waking up, the sound of the pestle beating the cloth was gone.
The shadow of the moon just called out on the bunch of rustic flowers.
Next to the river, bright lights, books full of beds,
The air is cold, the night is autumn, filled with dew drops.
Waking up, the sound of the pestle is silent,
On the bunches of wildflowers and moonflowers, there are incense sticks.
(Translation of 'Hoang Viet's entrance exam')
'Nguyet' is a four-word poem by Tran Nhan Tong (1258 - 1308), the heroic king - poet of Dai Viet in the 13th century. We predict that the poem may have been written when our country was 'washing off the armor several times' enters a new era: 'The enemy is forever in peace' ('Bach Dang Giang Phu' - Truong Han Sieu).
The poem is surrounded by an atmosphere, a peaceful, pure and poetic artistic space.
The poem describes an autumn night in a forbidden palace. The king did not indulge in alcohol, did not get drunk in courtly music, but stayed up late reading books. An airy space: wide open windows, full of light, the light of a lamp, the light of knowledge and wisdom. The image of 'full bed books' (books full of beds) shows a soul, a diligent, noble and studious personality. History books say that Tran Nhan Tong was a diligent, simple and intelligent person. One poem, one person:
(Besides the railings, books fill the bed)
Later, Le Thanh Tong also lived beautifully like that:
'Drum shifts and still reads books,•
The chariot gong waits for you to stop adoring'
(Narrative)
The second verse describes the autumn night scene. Dew falls. The night sky is clear, thin, peaceful and quiet. The poem uses the external environment to express a rich, extremely relaxing inner mind. The king read a book while listening to the gentle sound of autumn dew falling in the yard. The second verse is filled with sensory and tactile colors; The scene is described delicately and gently: 'The atmosphere of Lo and Thu Dinh's night'
(The cold air of the autumn night is filled with dew drops)
Verses 3 and 4 describe the scene where the king once read books late at night but woke up very early. Haven't heard the cock crow yet. Haven't heard the sound of the pestle hitting the fabric. The surrounding area is quiet, evoking the peaceful atmosphere of the country. The poet looks at the flowers and the moon. The image of 'moon caged with flowers' is very poetic and charming:
'The land of indigo and darkness arises,
The first hybrid of Moc Gong flower Thuong Nguyet
(Wake up, the sound of the pestle is silent,
On a bunch of osmanthus flowers, moon and incense sticks)
'In ancient caves there is stillness, in stillness there is movement' is one of the artistic techniques of Duong Thi. In this poem 'Moon', Tran Nhan Tong used stillness to describe movement, highlighting 'in stillness there is movement', that is, the external environment is quiet on all four sides (the sound of the land is silent), the shadow of the moon is calling out. on a bunch of osmanthus flowers, but in the poet's heart, he is agitated, full of vitality and optimistic spirit of love for life. Immerse yourself in books (poems), and immerse yourself in the scent of flowers and moonlight. It is a noble soul, rich in wisdom, rich in love for nature.
|
Bình giảng bài thơ ‘Phong Kiều dạ bạc’ của Trương Kế
Hướng dẫn
Phong Kiều dạ bạc
(Đêm đỗ thuyền ở Phong Kiều)
Trương Kế
Nguyệt lạc, ô đề, sương mãn thiên,
Giang phong, ngư hỏa, đối sầu miên.
Cô Tô thành ngoại Hàn Sơn tự,
Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền.
Dịch thơ.
Trăng tà, chiếc quạ kêu sương,
Lửa chài, cây bến, sầu vương giấc hồ.
Thuyền ai đậu bến Cô Tô,
Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn Sơn.
…Bài thơ tả cảnh Phong Kiều một đêm sương khuya và tâm trạng thao thức của ly khách đang nằm trong thuyền. Trương Kế viết bài thơ theo thể thất 136 ngôn tứ tuyệt Đường luật: luật trác, vần bằng, có 3 vần thơ (thiên – miên – thuyền); gồm 11 chữ (thanh trắc) và 17 chữ (thanh bằng) gợi lên âm điệu mênh mang, lan tỏa… Bản dịch thành thơ lục bát, có 9 chữ (thanh trắc) và 19 chữ (thanh bằng), nhạc điệu trầm buồn, man mác; là một trong những bản dịch thơ Đường hay nhất từ trước tới nay ở Việt Nam. Nhiều tài liệu cho biết bản dịch thơ lục bát này là của Tản Đà thi sĩ (?).
1. Hai câu thơ đầu tả cảnh một đêm khuya trên bến Phong Kiều. Năm chi tiết nghệ thuật, tả ít mà gợi nhiều: trăng xế, quạ kêu, sương đầy trời, cây phong bên sông, ánh lửa chài. Cảnh vật được liệt kê, nối tiếp xuất hiện, đồng hiện. Một li khách đang mơ ngủ trong con thuyền trên bến sông. Cảnh vừa có màu sắc vừa có âm thanh. Màu vàng của vầng trăng xế, vầng trăng tà. Màu trắng bao la của sương đêm phủ đầy trời. Màu lửa chài le lói trong các khoang thuyền. Lùm cây phong đen sẫm ẩn hiện bên bờ sông. Và có tiếng quạ; quạ giật mình thấy sương trắng phủ đầy trời, ngỡ là trời đã sáng, cất tiếng kêu… Một cảnh buồn trên bến Phong Kiều. Và đó cũng là tâm trạng buồn của li khách đang nằm mơ ngủ trong thuyền. Ba chữ ‘đối sầu miên’ cho thấy không gian nghệ thuật và tâm trạng nghệ thuật đồng hiện. Cảnh buồn, tình buồn; nhịp thơ buồn là vậy. Hãy khẽ đọc lên, ngâm lên:
Giang phong/ ngư hỏa/ đối sầu miên’
(Trăng tà/ chiếc quạ kêu sương,
Lửa chài/ cây bến/ sầu vương giấc hồ)
Thơ chỉ gợi, tạo nên nhiều liên tưởng. Thủ pháp lấy động để tả tĩnh, lấy sáng để tả tối; tiếng quạ kêu sương nghe rõ trong đêm thanh vắng, ánh lửa chài le lói, màn sương trắng bao la đầy trời đã cho thấy bến Phong Kiều mịt mờ, mịt mùng khi trăng xế. Qua đó, ta thấy bút pháp nghệ thuật của Trương Kế rất tinh tế, biểu cảm.
2. Thời gian trôi đi lặng lẽ. Đêm đã về khuya. Khách nằm trong thuyền vẫn mơ màng… Bốn bề Phong Kiều im lìm, vắng vẻ. Bỗng một tiếng chuông, một âm thanh trong vắt từ chùa Hàn Sơn ở ngoại thành Cô Tô vọng tới, lay động hồn li khách…:
‘Cô Tô thành ngoại/ Hàn Sơn tự,
Dạ bán/ chung thanh/ đáo khách thuyền’
(Thuyền ai đậu bến Cô Tô,
Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn Sơn)
Chùa Hàn Sơn toạ lạc trên lưng chừng núi. ‘Sư cụ nằm chung với khối mây’ như nhà sư chùa Đọi mà Nguyễn Khuyến đã nhắc tới? Sư cụ thỉnh chuông hay chú tiểu đánh chuông sang canh? Chùa Hàn Sơn cách bến Phong Kiều bao xa? Tiếng chuông ngân vang từ chùa xa vọng tới, li khách nghe rất rõ. Khách chợt tỉnh hồn mai. Nghệ thuật lấy động để tả tĩnh của thi pháp cổ, một lần nữa được Trương Kế sử dụng rất đặc sắc.
Hơn một nghìn năm đã trôi qua, ai đã từng đọc thơ Đường, ai đã yêu thơ Đường, nhất là những khách li hương đó đây, vẫn cảm thấy tiếng chuông chùa Hàn Sơn được Trương Kế nói đến vẫn còn làm rung động hồn mình, làm nao nao, làm thổn thức lòng mình?
Bài thơ ‘Phong Kiều dạ bạc’ là một bức tranh tĩnh xinh xắn. Thi phẩm này từng phủ mờ bao lớp sương giai thoại, huyền thoại. Có tiếng quạ kêu buồn. Có tiếng chuông chùa trong canh khuya buồn thấm thía. Trăng đã xế, lửa chài le lói con thuyền, những lùm cây phong mờ tỏ ẩn hiện, màn sương trắng phủ đầy trời. Li khách buồn nhớ cố hương đang thao thức trong con thuyền! Mơ màng và vắng lặng bao trùm cảnh vật và hồn người. Thi liệu chắt lọc, hình tượng gợi cảm, mở ra bao liên tưởng đầy chất thơ. ‘Phong Kiều dạ bạc’ đẹp như một bức tranh thủy mặc của một danh họa; lối vẽ chấm phá, lấy động để tả tĩnh, lấy sáng để tả tối, lấy ngoại cảnh thể hiện tâm cảnh… Cái hồn của cảnh vật, nỗi lòng li khách thấp thoáng hiện lên qua những vần thơ thanh đạm đáng yêu.
|
Commentary on the poem 'Phong Kieu Da Bac' by Truong Ke
Instruct
Phong Kieu's heart is silver
(Night of boat parking in Phong Kieu)
Truong Ke
Nguyet Lac, O De, Dew of the Heavens,
Jiang wind, fish fire, opposite melancholy.
Co To city outside Han Son pagoda,
Yes, sell the elegant guest boat together.
Translating poetry.
The moon sets, the crow calls for dew,
The fishing fire, the wharf tree, the melancholy king of the lake.
Whose boat docked at Co To wharf?
At midnight, I heard the bell of Han Son pagoda.
...The poem describes the scene of Phong Kieu on a foggy night and the restless mood of the guests lying in the boat. Truong Ke wrote the poem in the form of 136 quatrains Tang luat: luat trac, rhyme flat, with 3 verses (thien - mien - boat); includes 11 words (thanh trac) and 17 words (thanh bang) evoking a vast, pervasive melody... Translated into six-eight poetry, with 9 words (thanh trac) and 19 words (thanh bang), the music is sad and sad , vague; is one of the best translations of Tang poetry ever in Vietnam. Many documents indicate that this translation of six-eight poetry is by the poet Tan Da (?).
1. The first two lines of the poem describe a scene late at night on Phong Kieu wharf. Five artistic details, less descriptive but more evocative: the setting moon, the crow's cry, the dew filling the sky, the maple tree by the river, the light of a fishing fire. Scenes are listed, appearing one after another, simultaneously. A passenger is sleeping in a boat on the river wharf. The scene has both color and sound. The yellow color of the waning moon and the waning moon. The immense white of night mist covers the sky. The color of fishing fires flickered in the boat compartments. A grove of dark maple trees looms on the riverbank. And there was the sound of crows; The crow was startled to see white mist covering the sky. Thinking it was morning, the crow cried... A sad scene on Phong Kieu wharf. And that is also the sad mood of the guest sleeping in the boat. The three words 'opposing melancholy' show that artistic space and artistic mood co-exist. Sad scene, sad love; That's the rhythm of sad poetry. Please read it softly and recite it:
Giang wind/ fish fire/ facing melancholy'
(The moon sets / the crow calls for dew,
Fishing fire/ wharf tree/ melancholy king of the lake)
Poetry only evokes and creates many associations. The technique of using movement to describe stillness, using light to describe darkness; The crow's cry was clearly heard in the quiet night, the fishing fire flickered, and the vast white mist filling the sky showed that Phong Kieu wharf was dim and misty when the moon set. Through this, we see that Truong Ke's artistic style is very delicate and expressive.
2. Time passes quietly. It was late at night. Guests lying in the boat were still dreaming... All around Phong Kieu were silent and deserted. Suddenly a bell, a clear sound came from Han Son Pagoda on the outskirts of Co To, shaking the soul of the visitor...:
'Co To's outer citadel/Han Son pagoda,
Yes sell/share bar/go to customers' boats'
(Whose boat is docked at Co To,
At midnight, I heard the bell of Han Son Pagoda)
Han Son Pagoda is located halfway up the mountain. 'The monk lies with the clouds' like the monk of Doi Pagoda that Nguyen Khuyen mentioned? The monk rings the bell or the novice rings the bell to watch? How far is Han Son Pagoda from Phong Kieu wharf? The sound of bells ringing from a distant temple could be heard very clearly. The guest suddenly woke up. The ancient poetic art of using movement to describe static is once again used very uniquely by Truong Ke.
More than a thousand years have passed, anyone who has read Tang poetry, anyone who has loved Tang poetry, especially those who have migrated here and there, still feel that the bell of Han Son Pagoda mentioned by Truong Ke still vibrates their souls. , make me feel upset, make my heart sob?
The poem 'Phong Kieu's silver color' is a lovely still painting. This poem was once shrouded in mists of anecdotes and legends. There was a sad cry of a crow. There was a sad sound of the temple bell in the late night watch. The moon has set, fishing fires flicker on the boat, the maple groves are dimly visible, white mist covers the sky. Guests sadly miss their homeland and are lying awake on the boat! Dreaminess and silence cover the landscape and people's souls. Distilled poetic material, sensuous images, opening up many poetic associations. 'Phong Kieu with silver skin' is as beautiful as a watercolor painting by a famous artist; The style of drawing is dotted, using movement to describe stillness, using light to describe darkness, using the exterior to express the mood... The soul of the scene, the feeling of alienation appears through the lovely, frugal poems.
|
Bình giảng bài thơ ‘Qua Đèo Ngang’ của Bà Huyện Thanh Quan
Hướng dẫn
Hãy khẽ ngâm và lắng nghe âm điệu réo rắt, du dương của bài thơ kiệt tác
này:
‘Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà,
Cỏ cây chen đá, lá chen hoà.
Lom khom dưới núi tiều vài chú,
Lác đác bên sông chợ mấy nhà.
Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc,
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia.
*, Dừng chân đứng lại trời non nước,
Một mảnh tình riêng ta với ta’
Bài thơ thất.ngôn bát cú Đường luật tả cảnh Đèo Ngang lúc chiều tàn và nỗi lòng của người lữ khách.
1. Câu thơ phá đề mở ra một không gian nghệ thuật là ‘Đèo Ngang’, một thời gian nghệ thuật là ‘bóng xế tà’, một tâm trạng nghệ thuật, đó là sự ngạc nhiên của người lữ khách lần đầu ‘bước tới’ một miền đất lạ. ‘Bóng xế tà’ là lúc ngày tàn, mặt trời đã gác núi, cảnh vật đi dần vào trạng thái yên tĩnh nghỉ ngơi. Khoảnh khắc ấy đối với li khách đứng trước con đèo xa lạ, sao mà chẳng buồn? Chữ ‘tà’ của vần thơ như một tiếng lòng ngân nga, rung động man mác buồn:
‘Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà’
Hai chữ ‘bước tới’ gợi cho người đọc đoán định thời điểm nữ sĩ viết bài thơ này 150 năm về trước, đó là khi nữ sĩ trên đường thiên lí vào Kinh đô Phú Xuân nhận chức nữ quan ‘Cung trung giáo tập’ của triều Nguyên.
Câu thơ thứ hai mở ra một thế giới, một cảnh sắc nơi con đèo ‘Đệ nhất hùng quan’ của Đại Việt. Cũng có cỏ và cây, tất cả phải ‘chen’ với đá. Cũng có lá nhưng phải ‘chen’ với hoà, hoa dại, hoa mua, hoa sim. Điệp từ ‘chen’ gợi tả cảnh hoang vu, hoang dại của thiên nhiên nơi con đèo. Hai tiếng ‘đá’ và ‘lá’ ở giữa câu thơ vần với nhau (vần lưng) phối âm với vần chân (tà – hoà) đã làm cho nhạc điệu trầm bổng, réo rắt, đọc lên nghe rất thú vị:
Cỏ cây chen đá, lá chen hoà’
2. Từ trên con đèo, người lữ khách nhìn về chân núi, trông về dòng sông dưới chân đèo xa xa. Điểm nhìn hướng về mấy chú tiều phu đang ‘lom khom’ gánh củi dưới núi, rồi trông về mấy nhà ‘lác đác’ chợ bên sông. Từ láy ‘lom khom’ gợi tả sự vất vả của tiều phu khi gánh củi đè nặng trên vai, đang từng bước từng bước xuống dốc núi. Từ tượng hình ‘lác đác’ làm nổi bật sự thưa thớt, lèo tèo mấy lều chợ miền núi ngày xưa. Nghệ thuật đảo ngữ và phép đối làm cho không gian nghệ thuật Đèo Ngang thêm phần hoang sơ, hoang vắng. Trước cảnh vật ấy, thế giới ấy, lữ khách càng cảm thấy lẻ loi, cô đơn. Bút pháp tả cảnh ngụ tình của nữ sĩ rất tinh tế. Cảm xúc của thi nhân như thấm sâu vào dáng hình ‘lom khom’, vào đường nét ‘lác đác’ trong màu vàng nhạt, vàng thẫm của ‘bóng xế tà’:
‘Lom khom dưới núi tiều vài chú,
Lác đác bên sông chợ mấy nhà’
Miền đất lạ, tuy có núi và sông, có mấy nhà chợ, có vài chú tiều phu, nhưng đối với lữ khách lúc chiều tàn vẫn hoang vắng cô liêu.
3. Trời tối dần, bóng hoàng hôn bao phủ Đèo Ngang. Bút pháp nghệ thuật của thi pháp Đường thi được nữ sĩ vận dụng tài tình. Cảnh đèo trở nên hoang vắng khi tiếng chim cuốc gọi đàn, khi tiếng chim gia gia giục giã. Con cuốc cuốc kêu hoài như tiếng của ‘người xưa’ thiết tha ‘nhớ nước đau lòng’… Cái gia gia gọi bầy trong nỗi niềm ‘thương n?à mỏi miệng’. Tiếng chim rừng gọi đàn cũng chính là tâm trạng ‘nhớ nước’, ‘thương nhà’ của li khách. Nữ sĩ từ Kinh kì Thăng Long của đất ‘Đàng Ngoài’, nơi chôn nhau cắt rốn của mình lần đầu đi vào xứ ‘Đàng Trong’ sao không khỏi ‘nhớ nước’ và ‘đau lòng’? Thương loài chim rừng ‘đau lòng’ và ‘mỏi miệng’ chính là tiếng than tự thương mình, ở phần luận bài ‘Qua Đèo Ngang’ khúc nhạc rừng cũng là khúc nhạc lòng buồn thương của nữ sĩ:
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia’
Một lần nữa, phép đối của luật Đường, biện pháp đảo ngữ được vận dụng một cách điêu luyện làm cho vần thơ vang lên trong nhạc điệu du dương, trong ngôn từ hài hòa cân xứng. Có thể nói đây là những vần thơ truyền cảm nhất, khi nói về một nỗi buồn đẹp: nhớ nước, thương nhà.
4.Hai câu kết cực tả nồi niềm cô đơn, lẻ loi của lữ khách khi đứng trên đỉnh Đèo Ngang lúc hoàng hôn. Chầm chậm bước, rồi ‘dừng chân đứng lại’ nhìn cao, nhìn xa, nhìn về bốn phía chỉ thấy ‘trời non nước’ bát ngát mênh mông. Giữa vũ trụ bao la ấy, nữ sĩ cảm thấy nỗi riêng của lòng mình tan ra thành ‘mảnh’. Chẳng thấy quê nhà, chẳng có người thân thương (chồng, con), chỉ có ‘ta với ta’:
‘Dừng chân đứng lại trời non nước,
Một mảnh tình riêng ta với ta’
Ba chữ ‘ta với ta’ đã thể hiện một cách sâu sắc xúc động nỗi buồn nhớ gia đình quê hương, nỗi niềm lẻ loi, cô đơn của nữ sĩ. Tâm trạng ấy một lần nữa tác giả nói đến rất thơ trong bài ‘Chiều hôm nhớ nhà’:
‘Kẻ chốn Chương Đài, người lữ thứ,
Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn’
‘Thơ là tiếng lòng của thi nhân’,thi sĩ Tô Đông Pha đã nói như vậy. Ba chữ ‘ta với ta’ trong bài ‘Qua Đèo Ngang’ nói lên nỗi buồn cô đơn lẻ loi của khách li hương. Trong câu thơ của Nguyễn Khuyến:
Bác đến chơi đáy ta với ta’
thì ba chữ ‘ta với ta’ thể hiện một tình bạn tri âm tri kỉ. Bác cũng là ta, ta cũng là bác, hai ta chan hòa trong một tình bạn thắm thiết thủy chung, cao đẹp. Qua đó, ta càng thấy rõ cá tính sáng tạo của hai nhà thơ Nôm lỗi lạc của dân tộc.
Trong bài thơ ‘Qua Đèo Ngang’ có tả thực, có ước lệ tượng trưng, có lối tả phác họa chấm phá, có lấy động nói tĩnh, lấy điểm để gợi diện, lấy ngoại cảnh để phô diễn tâm cảnh, cho thấy một hồn thơ rất tài hoà. Cảm xúc và tâm hồn nữ sĩ, nỗi buồn cô đơn, nỗi nhớ quê, nhớ nhà của khách li hương như thấm sâu vào cảnh vật.
Nghệ thuật gieo vần, phép đổi và đảo ngữ, tả cảnh ngụ tình đã làm cho nhạc điệu thơ du dương, réo rắt. Ngôn từ trang nhã, điệu thơ trang trọng, khoan thai. Đó chính là ma lực tuyệt vời của áng thơ tuyệt bút này. Đó là hồn thơ của Bà Huyện Thanh Quan từng làm cho triệu triệu người ngâm nga ngưỡng mộ ‘Qua Đèo Ngang’ gần hai thế ki nay.
|
Commentary on the poem 'Over Ngang Pass' by Ba Huyen Thanh Quan
Instruct
Please quietly recite and listen to the rumbling, melodious tones of the masterpiece poem
This:
'Step to Ngang Pass in the sunset,
Grass and trees intertwine with rocks and leaves.
Crouching under the mountain to make a few trees,
Few sporadic riverside home market.
Missing the country makes my heart ache as a hoe,
Trade the mouth so adhered fatigue.
*, Stop and stand still in the sky and water,
A piece of me with my own situation'
The eight-word poem Duong Luat describes the scene of Ngang Pass at dusk and the feelings of the traveler.
1. The poem that breaks the theme opens up an artistic space called 'Deo Ngang', an artistic time that is 'the twilight shadow', an artistic mood, that is the surprise of the first-time traveler 'stepping to a strange land. 'Sunset' is when the day ends, the sun has guarded the mountains, and the landscape gradually enters a state of quiet rest. At that moment, for a traveler standing in front of an unfamiliar pass, how could he not be sad? The word 'ta' in the poem is like a heart-wrenching sound, vibrating with sadness:
'Step to Ngang Pass in the sunset'
The two words 'step forward' remind readers to guess the time when the female poet wrote this poem 150 years ago, that is when the female poet was on the Thien Ly road to Phu Xuan Capital to receive the position of female official of the 'Central Education Department' of the Imperial Palace. Yuan Dynasty.
The second verse opens up a world, a landscape in Dai Viet's 'First Majestic Pass'. There are also grass and trees, all of which have to 'jostle' with the rocks. There are also leaves but they have to be 'intertwined' with Hoa, wildflowers, Mua flowers, and myrtle flowers. The refrain 'chen' describes the wilderness and wildness of nature at the pass. The two words 'kick' and 'leaf' in the middle of the poem rhyme together (back rhyme) combined with the foot rhyme (ta - hoa) to make the music melodious and melodious, making it very interesting to read:
The grass and trees overlap the rocks, the leaves blend together.
2. From the pass, the traveler looks at the foot of the mountain and at the river at the foot of the pass in the distance. The viewpoint looks towards the woodcutters who are 'hunching' to carry firewood under the mountain, then looks towards the 'scattered' market houses by the river. The word "lom stoop" describes the hardship of the woodcutter when carrying a heavy load of firewood on his shoulders, step by step going down the mountain slope. The pictogram 'scattered' highlights the sparseness and meagerness of the mountain market tents of the past. The art of anagrams and parallelism makes the Deo Ngang art space more wild and desolate. Before that scene, that world, the traveler feels even more alone and lonely. The female artist's penmanship in describing love scenes is very delicate. The poet's emotions seem to penetrate deeply into the 'hunched over' figure, into the 'scattered' lines in the light yellow and dark yellow of the 'sunset shadow':
'Hoop down under the mountain to weep a few trees,
Few sporadic riverside home market'
A strange land, although there are mountains and rivers, a few markets, and a few woodcutters, for travelers in the late afternoon, it is still desolate and lonely.
3. The sky gradually darkens, the shadow of sunset covers Ngang Pass. The artistic style of Tang poetry is cleverly applied by the female artist. The pass scene becomes deserted when the coot calls the flock, when the bird's voice urges. The hoe keeps calling like the voice of 'ancient people' who earnestly 'miss their country and feel pain'... The grandfather called out to the flock in 'pain and tiredness'. The sound of wild birds calling is also the mood of 'missing the country' and 'loving home' of the guest. How could a female scholar from the Thang Long period of 'Dang Ngoai', the place of her birth and birth, enter 'Dong Trong' for the first time, why couldn't she help but 'miss her country' and be 'heartbroken'? Loving the 'heartbreaking' and 'mouth-weary' forest birds is the lament of self-pity. In the essay section 'Over Ngang Pass', the forest music is also the song of the female artist's sadness:
Trade the mouth so adhered fatigue'
Once again, the parallelism of Tang law and the method of inversion are skillfully applied, making the poem resonate in melodious music and in harmonious and symmetrical language. It can be said that these are the most inspiring poems, talking about a beautiful sadness: missing the country, loving the home.
4.The two concluding sentences describe the traveler's loneliness and loneliness when standing on top of Ngang Pass at sunset. Slowly walking, then 'stopping', looking high, looking far, looking in all four directions, only saw the immense 'sky and water'. In the midst of that vast universe, the female artist felt her own feelings being shattered into 'pieces'. I can't see my hometown, I don't have loved ones (husband, children), there's only 'me and me':
'Stop and stand still in the sky and water,
A piece of me with my own situation'
The three words 'I and I' deeply and emotionally express the female artist's sadness of missing her family and homeland, her loneliness and isolation. The author once again spoke about that mood very poetically in the poem 'Homesickness in the Afternoon':
'Someone in Chuong Dai, a traveler,
Who can tell about the sadness?
'Poetry is the voice of the poet's heart', poet To Dong Pha said. The three words 'I and I' in the song 'Va Deo Ngang' express the sadness and loneliness of the travelers returning home. In Nguyen Khuyen's poem:
Uncle came to play with me'
The three words 'me and me' represent a close friendship. You are also me, I am also you, the two of us are in harmony in a loving, loyal and beautiful friendship. Through this, we can see more clearly the creative personality of the nation's two prominent Nom poets.
In the poem 'Qua Deo Ngang', there is real description, there is symbolic convention, there is sketchy and dotted description, there is static speech, points are used to suggest, and external scenes are used to show the mood, showing a different story. The poetic soul is very talented. The emotions and soul of the female artist, the sadness of loneliness, the homesickness of the returnees, seem to penetrate deeply into the landscape.
The art of rhyming, alliteration and anaphora, and describing love scenes have made the poetic music melodious and melodious. The language is elegant, the poetry is solemn and leisurely. That is the wonderful magic of this wonderful poem. That is the poetic soul of Ba Huyen Thanh Quan that has made millions of people hum and admire 'Qua Deo Ngang' for nearly two centuries now.
|
Bình giảng bài thơ ‘Thiên Trường văn vọng’ của Trần Nhân Tông
Hướng dẫn
… ‘Để biểu cảm, người viết biến đồ vật, cảnh vật, sự việc, con người… thành hình ảnh bộc lộ tình cảm của mình’.Hai bài thơ Thiên Trường văn vọng của vua Trần Nhân Tông, Côn Sơn ca của danh nhân văn hóa Nguyễn Trãi chính là hai văn bản như thế. Qua bức tranh cảnh vật và con người, hai tác giả đã bộc lộ những tình cảm thật chân thành của mình. Hai bức tranh thiên nhiên hai hồn thơ thắm thiết tình yêu quê hương, đất nước, niềm lạc quan, yêu đời, rất đáng trân trọng.
“Thiên Trường văn vọng’(Buổi chiều đứng ở phủ Thiên Trường trông ra):
‘Thôn hậu thôn tiền đạm tư yên,
Bán vô bán hữu tịch dương biên.
Mục đồng địch lí ngưu quy tận,
Bạch lộ song song phi hạ điền’
Nhà văn Ngô Tất Tố dịch là:
‘Trước xóm sau thôn tựa khói lồng,
Bóng chiều man mác có dường không.
Mục đồng sáo vẳng trâu vê hết,
Cò trắng từng đôi liệng xuống đồng’
Tương truyền: Sau khi lãnh đạo quân dân ta chiến đấu chống giặc Mông – Nguyên thắng lợi, đất nước trở lại thanh bình, nhân dịp về thăm quê hương ở Thiên Trường (thuộc tỉnh Nam Định ngày nay), vua Trần Nhân Tông đã ngẫu hứng sáng tác bài thơ này. Bài thơ được viết theo thể thơ Đường, thất ngôn tứ tuyệt, âm điệu hài hòa, nhẹ nhàng, thanh thoát.
‘Trước xóm sau thôn tựa khói lồng Bóng chiều man mác có dường không’
Thôn xóm, nhà tranh mái rạ nối nhau, sum vầy phía trước, phía sau, bốn bề san sát, khói phủ nhạt nhòa, mờ tỏ, ‘bán vô bán hữu’ nửa như có, nửa như không. Khói tỏa từ đâu ra thế? Phải chăng, đó là những làn sương chiều lãng đãng hòa quyện với những vầng khói thổi cơm ngay từ những mái nhà lan tỏa thành một màn sương – khói trắng mờ, êm dịu bay nhẹ nhàng thanh thản khiến người ngắm cảnh cảm thấy chỗ tỏ, chỗ mờ, lúc có, lúc không. Cảnh thoáng, nhẹ, khiến tàm hồn con người như cũng lâng lâng. Hay chính lòng người đang lâng lâng, mơ mộng nên nhìn thấy làng xóm, khói sương êm ả, thanh bình như thế? Ngoại cảnh và tâm cảnh hòa hợp rất tự nhiên. Xuống hai câu sau, trong cảnh có chút xao động:
‘Mục đồng sáo vẳng trâu về hết Cò trắng từng đôi liệng xuống đồng’
Bức tranh thôn dã có thêm âm thanh, màu sắc và vài ba cử động. Nơi gần, có mấy ‘mục đồng’ lùa trâu về xóm, vừa đi vừa thổi sáo, tiếng sáo vi vu, văng vẳng cất lên. Nơi xa, mấy cánh cò trắng, từng đôi, từng đôi sà xuống đồng như muốn tìm mồi, hay định nghi ngơi! Người, vật, thiên nhiên, đồng ruộng, âm thanh và màu sắc,… tất cả đã hòa nhập với nhau vẽ nên bức tranh quê hương thanh bình, êm vắng mà thật có hồn. Nhà thơ chỉ chọn vài chi tiết tiêu biểu, rồi chấm phá vài nét như muốn thổi cả tâm hồn mình vào cảnh vật. Cảnhvốn đẹp, qua hồn người càng đẹp thêm. Cả một miền quê rộng lớn được thu lại trong bốn dòng thơ hàm súc và biểu cảm. Rõ ràng cảnh tượng buổi chiều ở phủ Thiên Trường là cảnh tượng vùng qué trầm lặng mà không đìu hiu vì ở dây vẫn cố sự sống con người trong mối giao
|
Commentary on the poem 'Thien Truong Van Vong' by Tran Nhan Tong
Instruct
… 'To express, the writer turns objects, scenes, events, people... into images expressing his feelings'. Two poems Thien Truong Van Vong by King Tran Nhan Tong, Con Son ca by the famous Nguyen Trai's cultural essay are two such texts. Through paintings of landscapes and people, the two authors expressed their sincere feelings. Two natural paintings, two poetic souls, passionate love for homeland, country, optimism, love for life, very worthy of respect.
“Thien Truong Van Vong” (In the afternoon, standing at Thien Truong Palace, looking out):
'The back village of the front village is calm and quiet,
Selling non-living, selling pure and positive border.
Enemies of shepherds retreat to the oxen,
White road parallels Phi Ha Dien'
Writer Ngo Tat To translated:
'In front of village after village is like smoke from a cage,
The darkness of the afternoon seems so strange.
The shepherds and buffaloes are all gone,
White storks threw themselves into the fields in pairs.
Legend has it: After leading our army and people to fight against the Mongol-Nguyen invaders to victory, the country returned to peace, on the occasion of returning to visit his homeland in Thien Truong (in present-day Nam Dinh province), King Tran Nhan Tong spontaneously composed this poem. The poem is written in the Tang poetic style, with seven words and four verses, with a harmonious, gentle, and elegant tone.
'In front of the village, after the village, it's like smoke in a cage. The shadow of the afternoon is so dark, does it seem like it's not there'
The hamlet, thatched-roofed houses are interconnected, clustered together in front and behind, close together on all four sides, the smoke is faint and unclear, 'half non-existent, half existing' half as if there is, half as if not. Where is the smoke coming from? Perhaps, it is the romantic afternoon mist blending with the smoke from blowing rice right from the rooftops spreading into a mist - soft, translucent white smoke flying gently and serenely, making the viewer feel the place is clear. , blurred places, sometimes there, sometimes not. The scene is airy and light, making people's souls feel lightheaded. Or is it because people's hearts are lightheaded and dreamy that they see such quiet, peaceful villages and fog? The external environment and the mental environment harmonize very naturally. Down to the next two sentences, the scene is a bit disturbing:
'The shepherds' flutes and buffaloes have all returned. The white storks, in pairs, are thrown into the fields'
The rural painting has additional sounds, colors and a few movements. Nearby, there were a few 'shepherds' herding buffaloes to the village, playing the flute as they walked, the sound of the flute rang out. In the distance, a few white storks, two by two, swooped down into the fields as if looking for prey, or planning to rest! People, animals, nature, fields, sounds and colors... all have merged together to paint a picture of a peaceful, quiet, yet soulful homeland. The poet only chooses a few typical details, then adds a few strokes as if he wants to breathe his whole soul into the scene. The scene is inherently beautiful, but through the human soul it becomes even more beautiful. The entire vast countryside is captured in four concise and expressive lines of poetry. Clearly, the afternoon scene in Thien Truong Palace is a quiet scene without sadness because there is still human life in relationship.
|
Lập dàn ý cho đề văn: Bình giảng bài thơ ‘Thăng Long thành hoài cổ’
Hướng dẫn
I. Mở bài:
… Bà còn để lai 6 bài thơ Nôm đều viết theo thể thất ngôn bát cú Đường luật: ‘Qua Đèo Ngang’, ‘Chiều hôm nhớ nhà’, ‘Thăng Long thành hoài cổ’, ‘Chùa Trấn Bắc’, ‘Chơi đài Khán Xuân Trấn Võ’, ‘Tức cảnh chiều thu’.
Ngôn ngữ thơ trang nhã, điêu luyện, âm điệu du dương, réo rắt, giọng thơ buồn man mác, hoài cổ,… là những nét đặc sắc trong hồn thơ của Bà Huyện Thanh Quan.
Bài thơ nói lên nỗi nhớ xưa thành Thăng Long và nỗi đau buồn về cuộc đời tang thương.
1. Đề:
Như một lời than, nhẹ trách tạo hóa. Hí trường: sân khấu. Tinh sương: Tinh là sao, sương là sương giá. Mấy tinh sương là đã nhiều năn tháng. Ong trời gây chi thế, làm cho cuộc đời luôn biến đổi, chẳng khác gì có các lớp kịch, lớp này tiếp sang lớp khác trên sân khấu. Cho đến nay đã mấy năm thấm thoắt trôi nhanh qua. Ý thơ sâu lắng buồn man mác về cuộc đời bể dâu:
‘Tạo hóa gây chi cuộc hí trường,
Đến nay thấm thoắt mấy tinh sương’
2.Thực:
Kinh thành xưa – thuở vàng son nay còn đâu nữa? Chỉ còn vẻ hoang tàn:
‘Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo,
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương’
Đường bàn cờ dọc ngang, xưa kia xe ngựa của ông hoàng bà chúa đi lại rầm rập… nay chỉ còn lại ‘hồn thu thạo’ – hồn cỏ thu tàn tạ. Lâu đài xưa đổ nát, đã hoàng tàn nay chỉ còn lại cái ‘nền cũ’, vẻ tang thương hiện lên dưới ‘bóng tịch dương’ – bóng mặt trời chiều tối. Hai câu thơ đối nhau làm nổi bật cái hoang phế, tàn tạ, thương tâm. ‘Lối xưa’ với ‘nền cũ’, ‘xe ngựa’ với ‘Tâu đài’, ‘hồn thu thảo’ với ‘bóng tịch dương’ đăng đối, hòa hợp; nỗi đau buồn tang thương từ cảnh vật đã và đang thấm sâu vào lòng người. Đó là nỗi buồn hoài cổ về kinh thành xưa. ‘
Nỗi đau về cuộc đời tang thương biến đổi như chất chứa dồn nén vào cảnh vật:
‘Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt,
Nước còn cau mặt với tang thương’
Đá và nước đã được nhân hóa, như hai chứng nhân lịch sử. Như thách thức (trơ gan) cùng năm tháng (tuế nguyệt). Như đau đớn, giận hờn (cau mặt) với sự đổi thay, với dâu bể (tang thương). Nghê thuật chọn từ, phối thanh (bằng trắc), phép đối – được nữ sĩ vận dụng rất điêu luyện. Các triều đại đã nối tiếp nhau hưng phế. Kinh thành xưa, đế đô nghìn năm xưa, nay đã xuống cấp trở thành một tỉnh dưới triều Nguyễn. Với nữ sĩ, ông cha đã mấy đời ăn lộc triều Lê, Thăng Long lại là chốn cũ quê nhà thì nỗi đau buồn không thể nào kể xiết. Đá và nước được nói đến trong phần luận chính là nỗi lòng buồn thương của thi nhân.
4.Kết:
Hai câu kết nói về dòng chảy thời gian và nỗi đoạn trường của Bà Huyện Thanh Quan – nỗi buồn hoài cổ:
‘Ngàn năm gương cũ soi kim cổ,
Cảnh đấy người đây luống đoạn trường’
Gương cũ nghĩa bóng là lịch sử, là trang đời. Kim cổ là hiện tại và quá khử. Chuyện lịch sử qua hàng năm như soi vào quá khứ và hiện tại. Nhìn ‘cảnh đấy’ – cảnh Thăng Long tang thương, cảnh ‘sóng lớp phế hưng’ mà ‘người đây’ (nữ sĩ) đau đớn tưởng như đứt ruột (luống đoạn trường). Đó là nỗi đau của một con người, cũng là nỗi buồn của một lớp người khi nhớ về Kinh thành xưa một thời vàng son, hoa lệ.
‘Thăng Long thành hoài cổ’được viết theo thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật. Bài thơ tả cảnh ngụ tình. Cảnh thì tang thương. Tình thì hoài cổ với nỗi đau đoạn trường. Có hồn thu thảo, bóng tịch dương, đá và nước… như chứng nhàn lịch sử, san sẻ nỗi đoạn trường với thi nhân.
Thi liệu và từ ngữ chọn lọc tinh tế. Một gam màu nhạt của bóng tịch dương, phủ mờ bài thơ. Âm điệu du dương, réo rắt như một tiếng than mà ta cảm nhận được. Các từ Hán Việt (tạo hóa, hí trường, thấm thoắt, tinh sương, thu thảo, lâu đài, tịch dương, tuế nguyệt, tang thương, kim cổ, đoạn trường…) tạo nên cốt cách trang trọng, cổ kính. Điêu luyện nhất là phép đối, nghệ thuật phối thanh và nhân hóa. Bài thơ mang vẻ đẹp trang nhã và một nỗi buồn hoài cổ thấm thía. ‘Thăng Long thành hoài cổ’ – bài thơ để ta yêu, ta nhớ mãi…
|
Prepare an outline for the essay topic: Commentary on the poem 'Thang Long becomes nostalgic'
Instruct
I. Introduction:
... She also left behind 6 Nom poems, all written in the seven-word, eight-syllable Tang style: 'Crossing Ngang Pass', 'Sick of home that afternoon', 'Nostalgic Thang Long', 'Tran Bac Pagoda', 'Playing the radio' Khan Xuan Tran Vo', 'Autumn Afternoon Scene'.
Elegant and skillful poetic language, melodious and melodious tones, sad and nostalgic poetic voice... are the unique features of Ba Huyen Thanh Quan's poetic soul.
The poem expresses the nostalgia for the ancient city of Thang Long and the sadness of a tragic life.
1. Topic:
Like a lament, lightly blaming the creator. Theater: stage. Star dew: Star is star, dew is frost. A few mists is many months. What do the bees do, making life constantly change, just like having drama classes, one class after another on stage. Until now, several years have passed quickly. Deep and sad poetic thoughts about a miserable life:
'Creation caused the theater,
Up to now, a few mists have passed away.
2.Real:
Where is the ancient capital - its golden age? Only desolation remains:
'In the past, horse-drawn carriages filled with autumn grass,
The old castle's background is shaded by the ocean'
The chessboard road is vertical and horizontal, in the past the carriages of kings and queens rumbled back and forth... now only the 'soul of autumn leaves' remains - the soul of withered autumn grass. The old castle was ruined and ruined, now only the 'old foundation' remains, a mournful look appears under the 'duong shadow' - the shadow of the evening sun. The two opposing verses highlight the desolation, desolation, and sadness. 'Old ways' with 'old foundations', 'horse carriages' with 'Castles', 'autumn grass soul' with 'yang's shadow' are in harmony and harmony; The sadness and grief from the landscape has penetrated deeply into people's hearts. It is a nostalgic sadness about the ancient capital. '
The pain of a tragic life transforms like a compressed substance into the landscape:
'Stone is still brave with years and years,
The country still frowns with grief'
Stone and water have been personified, like two historical witnesses. Like a challenge (reluctance) along with the years (moon and moon). Like pain, anger (frown) with change, with sadness (mourning). The art of word choice, tone coordination (in tracing), parallelism - is used very skillfully by the female artist. Dynasties have risen and fallen one after another. The ancient capital, the imperial capital thousands of years ago, has now degraded and become a province under the Nguyen Dynasty. For female scholars, whose ancestors have enjoyed fortunes in the Le Dynasty for several generations, and Thang Long is their old hometown, the sadness is indescribable. The rocks and water mentioned in the essay represent the poet's sadness.
4.Conclusion:
The two concluding sentences talk about the flow of time and the sadness of Ba Huyen Thanh Quan's long life - nostalgic sadness:
'A thousand years of old mirrors reflect ancient times,
In that scene, people are devastated.'
Old mirrors figuratively represent history, a page in life. Ancient metal is present and past. Historical stories pass through the years as if reflecting on the past and present. Looking at 'that scene' - the scene of Thang Long's mourning, the scene of 'waves of destruction', 'this person' (the female artist) was in pain as if her intestines were broken (furrow and field). That is the pain of a person, also the sadness of a class of people when remembering the ancient capital of a golden and magnificent time.
'Thang Long Thanh Nostalgia' is written in the seven-word, eight-syllable Tang Luat poem form. The poem describes a love scene. The scene is tragic. Love is nostalgic with lasting pain. There is the soul of autumn grass, the shadow of the sun, rocks and water... like witnessing the leisure of history, sharing the sadness of eternity with poets.
Poetic materials and words are delicately selected. A pale color of the shadow of the ocean, overshadows the poem. The melody is melodious and rumbling like a lament that we can feel. The Sino-Vietnamese words (creation, theater, ephemeral, mist, autumn grass, castle, yang, tue moon, mourning, golden age, long distance...) create a solemn, ancient essence. The most skillful is parallelism, the art of vocal coordination and personification. The poem has elegant beauty and a poignant nostalgic sadness. 'Thang Long becomes nostalgic' - a poem for us to love, for us to remember forever...
|
Bình giảng bài thơ ‘Tuyệt cú’ trong chùm thơ sáu bài của Đỗ Phủ
Hướng dẫn
Phân tích
…. Nếu đặt tên cho bài thơ có thể viết như thế này được chăng: ‘Cảnh mưa rào buổi chiều’, hay ‘Chiều muộn, mưa rào’Khương Hữu Dụng đã dịch rất hay bài thơ theo đúng nguyên điệu của nó:
‘Chân suối mưa rào lướt,
Lưng cây bóng xế lồng.
Oanh vàng gù cách tổ,
Cá trắng nhảy tung rong’.
Đọc bài thơ này, ta có nhiều suy ngẫm. Năm 764, Đỗ Phủ và gia đình đang sống trên một con thuyền nhỏ bé trên sông Tương, ven núi. Cảnh nghèo, tuổi già, tóc bạc, ốm đau thường xuyên. Và chỉ có sáu năm sau nữa thôi, ông đã qua đời trên con thuyền rách nát ấy. Có điều bài thơ, cả bốn câu, câu nào cũng đẹp, đặc biệt câu 1 và câu 4, cảnh vật đầy sức sống. Câu 2, 3 phảng phất một nỗi buồn. Cảm giác chung khi đọc bài thơ, ta thấy hiện lên, thoáng lên một vẻ trầm ngâm, hình như sau khi mưa rào vừa tạnh, Đỗ Phủ ra đứng ở mui thuyền, hay ngồi trong khoang thuyền ngắm cảnh chiều.
Thơ Đường cũng như thơ cổ thường tả ít gợi nhiều. Bài thơ này lại được viết bằng ngũ ngôn nên rất hàm súc. Cảnh và tình, ngôn ngữ và hình ảnh như dồn nén lại. Mỗi câu là một cảnh đẹp đầy chất thơ.
Hai câu đầu đăng đối: ‘Mưa rào’ với ‘ánh tà’, ‘lướt’ với ‘chuyển’, ‘chân suối’ với ‘lưng cây’ đều đối nhau, hô ứng nhau. Sau cơn mưa rào, nước suối ào ào chảy mạnh. Câu thơ không hẻ nói đến âm thanh, nhưng qua từ ‘sảo’ (lướt qua), người đọc không chỉ nhìn thấy nước suối chảy rất mạnh mà còn như nghe thấy nước suối chảy ào ào. Nói về ‘động và tĩnh’ trong thơ Đường, Tuỳ Lý Vương đời Nguyễn có viết: ‘Đổ Tử Mỹ sở dắc cái cực độ của động’. Câu thơ tả cảnh nước suối chảy sau trận mưa rào thể hiện ‘cái cực độ của động’ trong thơ Đỗ Phủ vậy. Câu thứ hai tả ánh chiều tà (tà huy). Chiều đã muộn, ở dưới thuyền nhìn lên, nhìn cao và xa. Mặt trời lúc ấy đã gác núi, vì thế mới có cảnh ‘Lưng cây bóng xế lồng’. Câu thơ chữ Hán không có từ ‘lồng’, đó là dịch thoát. Chữ ‘chuyển’ cũng diễn tả ‘cái động’ của ánh ‘tà huy’ – chiều tà – ánh chiều tà đang chuyển dần xuống chiếu vào lưng cây, thân cây. Ngòi bút miêu tả chính xác, một nét vẽ tinh tế, gợi lên màu vàng nhạt, mờ dần, một không gian bao la êm đềm và thoáng buồn man mác.
– ‘Tà huy, tà huy hựu tà huy’(Cổ thi)
– ‘Nay hoàng hôn đã lại mai hôn hoàng’
(‘Truyện Kiểu’ – Nguyễn Du)
– Chiều trời bảng lảng bóng hoàng hôn’…
(‘Chiều hôm nhớ nhà’ – Bà Huyện Thanh Quan)
– ‘Mây hồng ngừng lại sau đèo,
Mình cây nắng nhuộm, bóng chiều không đi…’
(‘Tiếng sáo Thiên Thai’ – thế Lữ)
Trở về bài thơ của Đỗ Phủ, hai câu 3, 4 đối nhau. Cảnh vật và màu sắc hòa hợp. Thơ giàu chất hội họa. Cái cao cái thấp, sắc trắng, sắc vàng, cá trên sông và chim trên cây. Màu xanh thẫm của cây nổi lên màu vàng tươi của chim hoàng anh.
Màu nước sông xanh trong, màu rêu xanh nhạt điểm tô bởi sắc trắng của cá. Cảnh vật đẹp đầy sức sống hữu tình. Câu thơ dịch rất hay, chất thơ, hồn thơ, ý thơ, hình thơ đều đạt được cả. Đọc lên nghe rất thích:
‘Oanh vàng gù cách tổ,
Cá trắng nhảy tung rong’
Nói đến ‘cái động’ trong thơ Đường, không thể không nhắc đến câu tả cá này – bạch ngư – cá trắng: ‘Phiên tảo bạch ngư khiêu’. Tung rong cá trắng nhảy. ‘Phiên’ là động từ, đặt ở vị trí đầu câu thơ cuối bài, góp phần đặc sắc tả cái thần của cảnh vật, làm «tôn ‘cái động’ của dòng suối, của cá, dòng sông sau cơn mưa rào. Mỗi lần đọc đến câu thơ này của Đỗ Phủ, tôi cứ miên man nghĩ đến những câu thơ tả cá trong thơ văn Việt Nam. Tả cá sông Đà, thi sĩ Tản Đà có câu: ‘Sóng gợn sông Đà con cá nhảy’. Chắc là con cá Anh Vũ, một loài cá quý hiếm, đặc sản sông nước quê ta? Cũng tả cá Đà giang, nhà văn Nguyễn Tuân viết: ‘Đàn cá dầm xanh quẫy vọt lên mặt sông bụng trắng như bạc rơi thoi. Tiếng cá đập nước sông đuổi mất đàn hươu vụt biến…’ (Người lái đò sông Đà). Nói rằng đó là những câu thơ, câuvăn mang ‘hồn Đường’ cũng không phải là thiếu căn cứ?
Bài thơ của Đỗ Phủ làm người đọc liên tưởng đến bài thơ tả cảnh mưa rào trên Tây Hồ của Tô Thức đời Tống. Nguyên tác là thất ngôn tứ tuyệt. Đây là bản dịch của Nam Trân:
‘Mây đen trút mực chưa nhòa núi,
Mưa trắng gieo châu nhảy rộn thuyền.
Trận gió bỗng đâu lôi cuốn sạch,
Dưới cẩu nước gợn sống thanh thiên’
Hai câu đầu tả cơn mưa rào ập đến nhanh và dữ dội. Hai câu sau tả cảnh cơn mưa. Mưa tạnh rất nhanh. Một mái lầu hiện lên tuyệt đẹp trên mặt hồ gợn sóng, dưới bầu trời xanh. Một cái nhìn khoáng đạt, mênh mông. Tứ thơ vân động biến hóa. Cảnh tả từ cao đến thấp, từ xa đến gần. Cũng có mây, mưa, gió, cũng có núi, có thuyền, có bầu trời, con sóng trên mặt hồ và mái lầu. Câu thơ thứ tư tả cảnh trung tâm của bài thơ. Cảm hứng của bài thơ càng về cuối càng vui, chứa chan bao hi vọng.
Tóm lại, bài thơ ‘Tuyệt cú’ trên đây của Đỗ Phủ là một bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp. Mỗi câu thơ là một nét vẽ tinh tế, giàu hình tượng. Cảnh vật chiều tà sau cơn mưa rào trên dòng Tương giang cách xa trên 13 thế kỉ thấm một nỗi buồn của khách li hương. Thơ viết về thiên nhiên của Đỗ Phủ bao giờ cũng hàm súc, hữu tình. Tâm hồn ông lúc vui cũng như lúc’ buồn đều chan hòa và thấm sâu vào cảnh vật, làm cho cảnh sắc thiên nhiên trở nên hữu tình đáng yêu.
|
Commentary on the poem 'Great Owl' in a series of six poems by Du Phu
Instruct
Analysis
…. If the title of the poem could be written like this: 'Scene of afternoon shower', or 'Late afternoon, shower' Khuong Huu Dung has translated the poem very well in its original rhythm:
'At the foot of the stream, showers and rain glide,
The back of the tree is shaded by a cage.
The golden hunchback of the group,
White fish jump around.
Reading this poem, we have many thoughts. In 764, Du Fu and his family were living on a small boat on the Xiang River, on the edge of the mountains. Poverty, old age, gray hair, frequent illness. And only six years later, he passed away on that tattered boat. But the poem, all four lines, are all beautiful, especially verses 1 and 4, the scenery is full of life. Sentences 2 and 3 have a hint of sadness. The general feeling when reading the poem, we see it appear, a glimpse of contemplation, it seems that after the shower has stopped, Do Phu stood on the boat's bow, or sat in the boat's cabin admiring the afternoon scenery.
Tang poetry, like ancient poetry, often describes less and evokes more. This poem is written in five languages so it is very concise. Scenes and feelings, language and images seem compressed. Each sentence is a beautiful poetic scene.
The first two sentences are contrasting: 'Rain shower' with 'sunlight', 'surfing' with 'transition', 'foot of stream' with 'back of tree' are all opposite and correspond to each other. After a heavy rain, the stream water rushed and flowed strongly. The poem does not specifically mention sound, but through the word 'sao' (glide), the reader not only sees the stream water flowing very strongly but also hears the stream water rushing. Talking about 'movement and stillness' in Tang poetry, King Tuy Ly of the Nguyen Dynasty wrote: 'Do Tu My possesses the extreme of movement'. The poem describing the scene of flowing stream water after a heavy rain represents 'the extreme of the cave' in Do Phu's poetry. The second sentence describes the sunset light (ta Huy). It was late in the afternoon, looking up from the boat, looking high and far away. The sun was guarding the mountain at that time, so there was the scene 'The shadow of the tree's back'. The Chinese poem does not have the word 'cage', which is an escape translation. The word 'shift' also describes the 'motion' of the 'twilight' light - sunset - the sunset light is gradually moving down to shine on the back of the tree, the tree trunk. The pen describes accurately, with a delicate brushstroke, evoking pale yellow color, fading, a vast, peaceful and slightly sad space.
– ‘Evil Hui, Evil Hui Huu Evil Hui’ (Ancient poem)
– 'Today is sunset, tomorrow will be sunset'
(‘Story Stories’ – Nguyen Du)
– In the afternoon, the sky is filled with sunset shadows…
('Missing home that afternoon' - Mrs. Huyen Thanh Quan)
– ‘The pink clouds stopped after the pass,
My body is dyed by the sun, but the shadow does not go away...'
(‘The Sound of Thien Thai Flute’ – The Lu)
Returning to Du Phu's poem, verses 3 and 4 are opposite each other. Scenery and colors are in harmony. Poetry is rich in painting. Tall, short, white, yellow, fish in the river and birds in the trees. The dark green of the tree stands out against the bright yellow of the oriole.
The color of the river water is clear green, the color of light green moss is highlighted by the white color of fish. Beautiful scenery full of charming life. The translated verse is very good, the poetic quality, poetic soul, poetic meaning, poetic form are all achieved. It's very enjoyable to read:
'Golden and hunchback',
White fish jumping around
When talking about 'the cave' in Tang poetry, we cannot help but mention this sentence describing fish - white fish - white fish: 'The seaweed and white fish dance'. Toss in jumping white fish. 'Phan' is a verb, placed at the beginning of the last verse of the poem, making a unique contribution to describing the spirit of the scene, enhancing the 'cave' of the stream, fish, and river after a shower. Every time I read this verse by Do Phu, I keep thinking of the verses describing fish in Vietnamese poetry. Describing the fish of the Da River, the poet Tan Da has a saying: 'The ripples in the Da River cause the fish to jump'. Probably Anh Vu fish, a rare fish, a specialty of our country's river? Also describing the Da Giang fish, writer Nguyen Tuan wrote: 'The flock of blue beam fish jumped up to the surface of the river, their bellies as white as falling silver. The sound of fish hitting the river water, chasing away the herd of deer, suddenly disappeared...' (Da River ferryman). Is it not unfounded to say that these are poems and sentences carrying the 'soul of Duong'?
Du Phu's poem reminds readers of To Thuc's poem describing the shower scene on West Lake in the Song Dynasty. The original work is seven words and four absolute words. This is Nam Tran's translation:
'The black clouds pouring out ink have not yet erased the mountains,
The white rain sowed pearls and jumped on the boats.
The wind suddenly swept away everything,
Beneath the river, there are ripples of clear blue water.
The first two sentences describe the shower coming quickly and fiercely. The following two sentences describe the rain. The rain stopped very quickly. A rooftop appears beautifully above the ripples of the lake, under the blue sky. A spacious, immense view. The four poems are constantly changing. Scenes are described from high to low, from far to near. There are also clouds, rain, wind, mountains, boats, sky, waves on the lake and rooftops. The fourth verse describes the central scene of the poem. The poem's inspiration becomes happier and full of hope towards the end.
In short, the poem 'Great Owl' above by Du Phu is a beautiful picture of nature. Each verse is a delicate drawing, rich in imagery. The scene of sunset after a shower on the Tuong Giang River over 13 centuries away is imbued with the sadness of travelers returning home. Du Phu's poems about nature are always concise and charming. His soul, both happy and sad, permeated and penetrated deeply into the landscape, making the natural scenery become charming and lovely.
|
Bình giảng bài thơ ‘Xa ngắm thác núi Lư’ của Lí Bạch
Hướng dẫn
Nếu thơ Đỗ Phú là những bức tranh hiện thực của bao nỗi cơ cực buồn thương thì thơ Lí Bạch là tiếng lòng lãng mạn trữ tình lành mạnh. Chúng ta dễ bắt gặp ở thơ ông sự liên tưởng độc đáo, mạnh mẽ của một trí tưởng tượng phong phú, sự rung động sâu xa của một tấm lòng yêu đất nước nồng nàn và tha thiết. ‘Xa ngắm thác núi Lư’ là một minh chứng. Sâu đây là bản dịch của bài thơ ấy:
‘Nắng rọi Hương Lô khói tía bay,
Xa trông dòng thác trước sông này.
Nước bay thẳng xuống ba nghìn thước,
Tưởng dải Ngân Hà tuột khỏi mảy’
Đầu đề của nguyên tác là: ‘Vọng Lư Sơn bộc bố’, nghĩa là xa ngắm thác bạc trên Lư Sơn. Lư Sơn là dãy núi ở Giang Tây Trung Quốc có nhiều ngọn chạy dài, nhưng chỉ có một ngọn là có thác đổ:
‘Nắng rọi Hương Lô khói tía bay,
Xa trông dòng thác trước sông này’
Hương Lô hay Hương Lư là núi Lư Hương, một ngọn của dãy núi Lư trông giống như chiếc bình hương. Hai câu đầu của bài thơ là cảnh tổng quát của bức tranh sông núi hùng vĩ. Nhà thơ’đứng ngắm thác từ phía xa và ở một vị trí thấp hơn nhiều so với chiều cao của thác. Do đó, trước mắt ông, cảnh dòng thác và núi Lư đâu khác gì một bức tranh sơn thủy trẹo ở lưng chừng trời. Bức tranh này có nhiều màu sắc và có vẻ đẹp huyền ảo. Ở độ cao ba nghìn thước, dòng thác đổ xuống như bay, hơi nước bốc lên thành những làn khói. Các làn khói nước này với muôn ngàn thấu kính li ti được ánh nắng mặt trời rọi vào, tạo nên một sắc tía cầu vồng kì ảo, đó là khói tía. Màu vàng của nắng, sắc tía có khói nước gợi lên vẻ đẹp huyền ảo của toàn cảnh. Dáng núi lại gợi hình giống chiếc bình hương. Bởi vậy, khi nhìn vào, nhà thơ chợt nghĩ đến chiếc bình hương khổng lồ đang toả khói nghi ngút giữa trời và nước.
Bức tranh kì vĩ của núi sông này như được bàn tay của người thợ vẽ tài hoa là tạo hóa đã pha màu tạo sắc. Giữa nền xanh cùa núi, hơi nước nắng rọi tỏa bay như khói hương là dòng nước bạc đồ sộ, tuôn dài như một tấm vải trắng. Chữ Hán bộc là thác, bố là tấm vải. Bộc bố ý nói thác nước tuôn như một tấm vải trắng: ‘Nước bay thẳng xuống ba nghìn thước’
Lời thơ và nhịp thơ mạnh mẽ làm nổi bật hẳn lên hình ảnh hùng vĩ kì diệu của một dòng thác từ trên cao gần ba ngàn thước ‘bay thẳng xuống’.
Chỉ với ba câu thơ ngắn, ngòi bút tài tình của nhà thơ Lí Bạch, khung cảnh Lư Sơn hiện ra trước mắt ta với đầy đủ màu sắc, hình khối, đường nét… Nhưng dường như ba câu thơ ấy chỉ để chuẩn bị. Sức mạnh của bài thơ, vẻ đẹp huyền ảo kì v và đồ sộ của dòng thác núi Lư đã được dồn vào câu kết:
‘Tưởng dải Ngân Hà tuột khỏi mây’
Câu thơ, trước hết là cảm nghĩ của nhà thơ khi đứng trước cảnh thực. Ông so sánh thác bay thẳng xuống như dải Ngân Hà tuột khỏi mây. Thật là một so sánh sáng tạo bất ngờ đầy thú vị và sảng khoái cho người đọc: ‘Nghi thị Ngân Hà lạc cửu thiên’. Dải Ngân Hà là nơi tập trung dày đặc muôn vàn vì tinh tú vắt ngang trời. Ánh sáng của dải sao này được so sánh với dòng sông bạc trên trời. Cách so sánh ấy cũng làm tôn thêm vẻ đẹp kì vĩ của dòng thác núi Lư có thực ở trấn thế.
Bài ‘Xa ngắm thác núi Lư’ của Thi tiên Lí Bạch đã lưu lại cho muôn đời bằng phương tiện văn học cái đẹp hùng vĩ của một dòng thác khổng lồ kì lạ.
Càng đọc thơ ông, ta càng thêm yêu thiên nhiên đất nước và càng khâm phục sự phóng khoáng của một nhà thơ có trí tưởng tượng dồi dào, phong phú, có nghệ thuật sử dụng ngôn từ và tài hoa vào bậc nhất đời Đường.
|
Commentary on the poem 'Looking at Lu Mountain Waterfall from afar' by Ly Bach
Instruct
If Do Phu's poems are realistic pictures of many hardships and sorrows, then Ly Bach's poems are the sound of healthy lyrical romance. We can easily see in his poetry the unique and strong associations of a rich imagination and the deep vibration of a heart that loves the country passionately and earnestly. 'Viewing Lu Mountain Waterfall from afar' is a proof. Here is the translation of that poem:
'The sun shines on Huong Lo's purple smoke,
In the distance, you can see the waterfall in front of this river.
The water flew straight down three thousand meters,
It seemed like the Milky Way had slipped away.
The title of the original work is: 'Vong Lu Son Boi', meaning from afar, looking at the silver waterfall on Lu Son. Lushan is a mountain range in Jiangxi China with many long peaks, but only one peak has a waterfall:
'The sun shines on Huong Lo's purple smoke,
Far away I see the waterfall in front of this river'
Huong Lo or Huong Lu is Lu Huong mountain, a peak of the Lu mountain range that looks like an incense pot. The first two lines of the poem are an overview of the majestic river and mountain picture. The poet stood and watched the waterfall from afar and in a position much lower than the height of the waterfall. Therefore, before his eyes, the scene of the waterfall and Mount Lu was nothing more than a landscape painting twisted in the middle of the sky. This painting is colorful and has a magical beauty. At a height of three thousand meters, the waterfall falls like flying, steam rising into clouds of smoke. These water smoke with thousands of tiny lenses are illuminated by sunlight, creating a magical purple rainbow color, that is purple smoke. The yellow color of sunlight and the purple color of water smoke evoke the magical beauty of the whole scene. The shape of the mountain resembles an incense vase. Therefore, when looking, the poet suddenly thought of the giant incense vase emitting smoke between the sky and the water.
This magnificent picture of mountains and rivers seems to have been mixed with color by the hands of a talented painter. In the middle of the green background of the mountains, the sunlight's steam rising like incense smoke is a massive silver stream, flowing like a white cloth. The Chinese character bu is waterfall, dad is cloth. Boc Bo meant that the waterfall flowed like a white cloth: 'The water flew straight down three thousand meters'
The strong poetic lyrics and rhythm clearly highlight the majestic and magical image of a waterfall 'flying straight down' from nearly three thousand meters high.
With just three short verses, the talented pen of poet Ly Bach, the scene of Lu Son appears before our eyes with full colors, shapes, lines... But it seems that those three verses are just preparation. The power of the poem, the mysterious and majestic beauty of the Lu mountain waterfall, has been concentrated in the ending sentence:
'I thought the Milky Way had slipped out of the clouds'
The poem is, first of all, the poet's feelings when facing the real scene. He compared the waterfall flying straight down like the Milky Way slipping out of the clouds. What an unexpectedly creative comparison that is full of fun and refreshment for the reader: 'Nghi Thi Ngan Ha touches nine heavens'. The Milky Way is a dense concentration of countless stars spanning across the sky. The light of this strip of stars is compared to the silver river in the sky. That comparison also enhances the majestic beauty of the real Lu Mountain waterfall in this town.
Poet Ly Bach's poem 'From afar, contemplating Lu Mountain Waterfall', has saved forever through literary means the majestic beauty of a strange giant waterfall.
The more I read his poetry, the more I love the country's nature and the more I admire the generosity of a poet with a rich imagination, the art of using words, and the greatest talent of the Tang Dynasty.
|
Bình giảng bài thơ “Hoàng hạc lâu” của Thôi Hiệu
Hướng dẫn
Bình giảng bài thơ “Hoàng hạc lâu” của Thôi Hiệu
Thôi Hiệu (704-754) quê ở Biện Châu, phủ Khai Phong, tỉnh Hà Nam. Ông là thi nhân thời Đường, đỗ tiến sĩ năm Khai Nguyên thứ 11, làm quan đến chức Tư Huân viên ngoại lang. Ông sáng tác ra rất nhiều bài thơ với những đề tài khác nhau nhưng bài nào cũng trở thành những bài được dân gian lưu truyền qua hàng ngàn năm. Tiêu biểu nhất có bài “Hoàng hạc lâu”, bài thơ thể hiện tâm trạng u hoài của tác giả trước thời thế mà tác giả sống, bài thơ được viết theo thể thất ngôn bát cú. Thi sĩ Tản Đà đã sáng tạo dịch thành thơ lục bát, nhiều nhà thơ Việt Nam đã thử bút dịch bài thơ này, nhưng không ai có thể dịch hay hơn Tản Đà:
“Hạc vàng ai cưỡi đi đâu,
Mà đây Hoàng Hạc riêng lầu còn trơ.
Hạc vàng đi mất từ xưa
Nghìn năm mây trắng bây giờ còn bay
Hán Dương sông tạnh cây bày,
Bãi xa Anh Vũ xanh dày cỏ non.
Quê hương khuất bóng hoàng hôn,
Trên sông khói song cho buồn lòng ai?”
Lầu Hoàng Hạc là một thắng cảnh ở Vũ Xương thuộc tỉnh Hồ Bắc, Trung Quốc. Lầu đẹp, phong cảnh nên thơ, lại được bao phủ bởi một lớp sương mờ càng trở lên đẹp và hấp dẫn lòng người. Xưa tương truyền rằng Phí Văn Vi, tu tiên đắc đạo, thường cưỡi hạc vàng đến chơi. Có biết bao tao nhân mặc khách, những kẻ sĩ đã đến thăm chốn này và làm nhiều bài thơ hay.
“Hạc vàng ai cưỡi đi đâu,
Mà đây Hoàng Hạc riêng lầu còn trơ”
Niềm thương nhớ cảm hoài mỗi lúc một dâng cao, hạc vàng đã cùng tiên bay đi và có khi chẳng bao giờ quay về nữa. Nỗi lòng của tác giả chợt dâng lên một nỗi man macs sầu thương. Nhìn mây trắng phủ trên mái lầu, lơ lửng bay theo gió trên bầu trời xanh kia, làm cho nhà thơ sực tỉnh:
“Hạc vàng đi mất từ xưa!
Nghìn năm mây trắng bây giờ còn bay”
Hạc vàng với mây trắng, quá khứ và hiện tại, cái mất đi từ nghìn đời xưa với cái hữu hình “còn bay” đối ứng tạo nên những vần thơ đẹp khiến người đọc như chìm sâu vào từng câu chữ. Trong phần đề và thực của “hoàng hạc lâu”, từ “hoàng hạc” xuất hiện ba lần chỉ trong bốn câu thơ lại xuất hiện cùng với nền mây trắng làm cho bài thơ có màu sắc hài hòa tươi đẹp làm gợi lên cảnh sắc mỹ lệ cho bài thơ. Sáu thanh chắc ở câu thứ tư đã làm cho luật thơ Đường bị phá cách “Hoàng Hạc nhất khứ khất phục phản. Âm hưởng câu thơ đột nhiên như bị “thắt” lại thể hiện cảm giác ngẩn ngơ, tiếc nuối của những thi nhân, du khách khi tới thăm lầu vàng. Tác giả phối thanh hòa sắc để tạo nên những vần thơ xuất sắc cho ta nhiều cảm xúc.
Ngắm trời xanh, mây trắng, lầu vàng mỗi bước chân của thi nhân như dẫn hồn mình phiêu du vào nơi thần tiên. Rồi nhà thơ bâng khuâng nhìn ra phía chân trời xa xa, mặt sông lúc trời tạnh, sáng trong như tấm gương phản chiếu cây cối của nơi Hán Dương rõ ràng. Hai câu luận tiếp theo được cấu trúc đăng đối hài hòa, cặp từ láy “lình lịch- “thê thê” là hai nét vẽ tinh tế khắc họa cái hồn nơi cảnh trí non sông. Tác giả đã vẽ lên một kiệt tác với gam màu tươi sáng giúp sống dậy thiên nhiên nơi đây:
“Tình xuyên lịch lịch Hán Dương thụ,
Phương thảo thê thê Anh Vũ châu”.
Thiên nhiên đẹp như một bức tranh sơn thủy với đường nét màu sắc dịu nhẹ: nắng chiếu trên hàng cây trên bến Hán Dương còn thêm cả màu xanh của thảm cỏ non trên bãi xa Anh Vũ. Với nghệ thuật miêu tả tinh tế chỉ vài nét chấm phá mà tác giả đã thể hiện được thần thái cảnh vật. Tuy cảnh vật tươi mới nhưng nói có cái gì đó phảng phất cô lieu và hoang vắng như thế lại càng làm cho con người cảm thấy sầu thêm.
Kết thúc bài thơ, với nhịp văn chậm và trầm tĩnh có lẽ ở hai câu cuối này đã làm cho người đọc cảm thấy tiếc nuối và xót xa nhất, buồn nhất do nhịp thơ 2/2/1/2 trong bản phiên âm và nhịp thơ 2/2/2 trong bản dịch của Tản Đà. Ở hai câu cuối thể hiện sư nhớ quê hương da diết của tác giả:
Yên ba giang thượng sử nhân sầu”
(Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai)
Hình ảnh thấy khói sóng nhớ nhà làm ta lại liên tưởng tới bài Tràng Giang của Huy Cận cũng có câu nhắc tới “khói sóng”:
Lòng quê dờn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
Thôi Hiệu và Huy Cận đều có chung một nỗi nhớ của một người xa quê hương khi chiều về. Nhưng Thôi Hiệu là nhìn thấy khói và sóng nên mới sinh ra tâm trạng buồn thương ấy, còn trong thơ của Huy Cận ông lại nói rằng “không khói hoàng hôn” phải chăng là không có gì gợi nhớ, nhưng vẫn nhớ tới nhà tới quê hương.
Khi đọc bài thơ của Thôi Hiệu đã làm cho người đọc có những cảm xúc khác nhau. Tuy rằng có rất nhiều các thi nhân tới đây vì tức cảnh sinh tình nhưng bài thơ “Hoàng Hạc lâu” của Thôi Hiệu vẫn là xuất sắc hơn cả. Bài thơ nhuốm màu buồn, trải dài từng nhịp từng câu thơ chậm rãi, nhẹ nhàng như da diết đến kết thúc bài thơ thì lại cảm thấy chua xót, nuối tiếc.
|
Commentary on the poem "Royal Crane Tower" by Thoi Hieu
Instruct
Commentary on the poem "Royal Crane Tower" by Thoi Hieu
Thoi Hieu (704-754) was from Bien Chau, Khai Phong district, Ha Nam province. He was a poet of the Tang Dynasty, passed his doctorate in the 11th year of Khai Nguyen, and worked as a mandarin to the rank of Tu Huan Nguyen Lang. He composed many poems with different themes, but all of them became folk songs that have been passed down for thousands of years. The most typical is the poem "Hoang Hac Lau", the poem expresses the author's melancholy mood before the times in which the author lived, the poem is written in the form of seven words and eight sentences. Poet Tan Da creatively translated it into six-eight poem. Many Vietnamese poets have tried to translate this poem, but no one can translate it better than Tan Da:
“Who rides the golden crane and goes where?
But here, the Hoang Hac private building is still bare.
The golden crane disappeared long ago
Thousands of years of white clouds are still flying now
Han Yang river stops and trees spread out,
The beach far from Anh Vu is thick with green grass.
The homeland disappears into the sunset,
On the river, the smoke will make anyone sad?
Yellow Crane Tower is a scenic spot in Wuchang, Hubei province, China. The floor is beautiful, the scenery is poetic, and it is covered by a layer of mist, making it even more beautiful and attractive to people. Legend has it that Phi Van Vi, an immortal who attained enlightenment, often rode a golden crane to visit. There are so many famous people and scholars who have visited this place and written many good poems.
“Who rides the golden crane and goes where?
But here the Yellow Crane private building is still empty."
The feeling of longing and nostalgia increases each time, the golden crane flies away with the fairy and sometimes never comes back again. The author's heart suddenly surged with sadness. Looking at the white clouds covering the roof, floating with the wind in that blue sky, made the poet awake:
“The golden crane disappeared long ago!
A thousand years of white clouds are still flying"
Yellow cranes with white clouds, past and present, things lost thousands of years ago with tangible things "still flying" create beautiful poems that make the reader feel deeply immersed in each word. In the title and title of "Huang Hac Lau", the word "Yellow Crane" appears three times in just four verses and appears with a white cloud background, giving the poem a beautiful, harmonious color that evokes the scenery. beauty for the poem. The six stanzas in the fourth verse break the rules of Tang poetry: "Hoang Hac once and for all begged and rebelled." The poem's resonance suddenly seems to be "tied up", expressing the feeling of bewilderment and regret of poets and tourists when visiting the golden palace. The author mixes tones and colors to create excellent poems that give us many emotions.
Looking at the blue sky, white clouds, and golden buildings, each step of the poet seems to lead his soul to travel to a fairyland. Then the poet wistfully looked out at the distant horizon, the river surface at calmness, bright and clear like a mirror reflecting the trees of Han Duong clearly. The next two sentences are structured in a harmonious contrast, the pair of words "linh calendar - "the couple" are two delicate strokes that portray the soul of the mountainous landscape. The author has painted a masterpiece with bright colors that help revive the nature here:
“Love crosses the Han and Yang calendar,
Phuong is married to Anh Vu Chau.
Nature is as beautiful as a watercolor painting with gentle color lines: sunlight shines on the trees on Han Duong wharf and also adds the green color of young grass on Anh Vu beach far away. With delicate descriptive art, with just a few touches, the author can express the spirit of the scene. Even though the scenery is fresh, there is something so lonely and desolate that it makes people feel even more sad.
At the end of the poem, with a slow and calm rhythm, perhaps these last two sentences make the reader feel the most regretful and sad, due to the poetic rhythm of 2/2/1/2 in the transcription and Rhythm 2/2/2 in Tan Da's translation. The last two sentences express the author's strong nostalgia for his homeland:
Yen's three depressed using the upper stretch"
(The homeland disappears into the sunset
On the river smoke waves to sad anyone)
The image of seeing smoke and waves reminds us of the song Trang Giang by Huy Can, which also has a sentence mentioning "smoke of waves":
The heart of the countryside is filled with water
No smoke at sunset also reminds me of home.
Cui Hieu and Huy Can both share the same nostalgia of someone far from home in the afternoon. But Thoi Hieu saw smoke and waves that created that sad mood, while in Huy Can's poem he said that "no smoke at sunset" means there is nothing to remind you of, but you still remember your next home. hometown.
When reading Thoi Hieu's poem, the reader has different emotions. Although there are many poets who come here because of the scene of love, the poem "Hoang Hac Lau" by Thoi Hieu is still the most outstanding. The poem is tinged with sadness, spanning each beat and each line slowly and gently, until the end of the poem feels bitter and regretful.
|
Bình giảng bài thơ “Thương vợ” của Trấn Tế Xương
Hướng dẫn
Bình giảng bài thơ “Thương vợ” của Trấn Tế Xương
Hướng dẫn
Tú Xương nổi bật trong nền văn học Việt Nam với ngòi bút trào phúng đầy sắc nhọn chĩa về xã hội thối nát thực dân phong kiến đương thời. Tuy nhiên, bên cạnh đó, ông cũng có rất nhiều bài thơ cảm động, mà tiêu biểu phải kể đến “Thương vợ”.
Ngay từ cái nhan đề đã toát lên tình cảm thương yêu chứa chan của nhà thơ dành cho bà Tú. Mở đầu bài thơ, bà Tú hiện lên với hình ảnh của một phụ nữ tất bật với công việc, gia đình:
“Quanh năm buôn bán ở mom sông,
Nuôi đủ năm con với một chồng”
“Mom sông” là nơi có mỏm đất nhô ra, rất chênh vênh. Nó cho thấy cái nỗi vất vả, cơ cực của bà Tú khi phải lặn lội kiếm sống từ ngày này qua ngày khác để chăm chồng, chăm con. Dường như mọi gánh nặng trong gia đình đều đổ dồn lên một vai bà.
“Lặn lội thân cò nơi quãng vắng
Eo sèo mặt nước buổi đò đông”
Bình giảng bài “Thương vợ” của Tú Xương
“Eo sèo” chỉ sự rầy rà bằng lời gọi liên tiếp dai đẳng. Để có thể trang trải được mọi chi phí cho gia đình, bà Tú đã phải chật vật, giành giật từng miếng cơm, manh áo trong thời buổi cơ cực.
“Một duyên hai nợ, âu đành phận,
Năm nắng, mười mưa dám quản công.”
Tú Xương đã rất thành công trong việc sử dụng hai câu thành ngữ quen thuộc của nhân dân ta: “một duyên hai nợ” và “năm nắng mười mưa”. “Duyên” ở đây ý chỉ đến cái duyên phận, duyên “nợ” mà bà Tú phải cam phận, chịu đựng. “Nắng”, “mưa” vốn là những hình ảnh tượng trưng cho sự vất vả. Bà Tú đã phải âm thầm chịu đựng mọi khó khăn để đảm bảo cuộc sống no đủ cho cả gia đình. Bà mang dáng dấp tiêu biểu của người phụ nữ Việt Nam: chịu thương, chịu khó, âm thầm hi sinh tất cả vì gia đình. Có lẽ bởi vậy mà ông Tú lại càng thấy trách chính bản thân mình:
“Cha mẹ thói đời ăn ở bạc,
Có chồng hờ hững cũng như không!”
Ông tự thấy bản thân là một kẻ “ăn bám vợ”, vô tích sự trong gia đình, thậm chí còn “hờ hững” với cả vợ, cả con. Câu thơ như lời tâm sự của nhà thơ, khiến ta không thể giận ông, mà chỉ có thể căm ghét xã hội đã đẩy con người phải sống một cuộc đời lam lũ, khó khăn.
Lời thơ giản dị, gần gũi, bài thơ “Thương vợ” đến với độc giả một cách nhẹ nhàng, đầy sâu lắng. Hình ảnh bà Tú đẹp như bao người mẹ, người chị trong gia đình Việt Nam, khiến ta cảm thấy quen thuộc, mến yêu hơn.
|
Commentary on the poem "Loving Wife" by Tran Te Xuong
Instruct
Commentary on the poem "Loving Wife" by Tran Te Xuong
Instruct
Tu Xuong stands out in Vietnamese literature with his sharp satirical pen pointing at the corrupt feudal colonial society of his time. However, besides that, he also wrote many touching poems, most notably "Love Your Wife".
Right from the title, the poet's overflowing love and affection for Mrs. Tu is evident. At the beginning of the poem, Mrs. Tu appears with the image of a woman busy with work and family:
“Trading all year round at Mom River,
Raising five children with one husband"
"Mom river" is a place with a protruding, very precarious cliff. It shows the hardship and misery of Mrs. Tu as she has to earn a living day after day to take care of her husband and children. It seems that all the burdens in the family fall on her shoulders.
“Diving like a stork in a deserted place
The tightness of the water surface on a winter boat day"
Binh lectures on the lesson "Loving your wife" by Tu Xuong
“Easy” refers to being annoyed by continuous, persistent calls. To be able to cover all the family's expenses, Mrs. Tu had to struggle, scrambling for every morsel of food and clothing in difficult times.
"One fate, two debts, I can't help it,
In five sunny years, in ten rainy days, dare to take charge."
Tu Xuong was very successful in using two familiar idioms of our people: "one fate, two debts" and "a year of sunshine and ten years of rain". "Destiny" here refers to the fate, the "debt" that Mrs. Tu has to endure and endure. “Sunshine” and “rain” are images that symbolize hardship. Mrs. Tu had to silently endure all difficulties to ensure a prosperous life for the whole family. She has the typical appearance of a Vietnamese woman: patient, hard-working, silently sacrificing everything for her family. Perhaps that's why Mr. Tu blames himself even more:
“Parents are accustomed to living a bad life,
Having an indifferent husband is as good as not having one!”
He sees himself as a "wife parasite", useless in the family, and even "indifferent" to his wife and children. The poem is like the poet's confession, making us unable to be angry with him, but can only hate the society that forces people to live a miserable and difficult life.
The lyrics are simple and close, the poem "Loving Wife" reaches readers gently and deeply. The image of Mrs. Tu is as beautiful as any mother or sister in a Vietnamese family, making us feel more familiar and loved.
|
Bình giảng bài thơ “Tỏ lòng” (Thuật hoài) của Phạm Ngũ Lão
Hướng dẫn
Bình giảng bài thơ “Tỏ lòng” (Thuật hoài) của Phạm Ngũ Lão
Hướng dẫn
Phạm Ngũ Lão là một danh tướng đời Trần, văn võ song toàn. Ta không chỉ biết đến ông là một danh tướng mà ông còn là một nhà thơ có tiếng. “Tỏ lòng” là một bài thơ được ông sáng tác để bày tỏ nỗi lòng của mình khi đất nước bị xâm lăng.
“Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu”
“Hoành sóc” là tư thế chiến đấu mà tay cầm ngang ngọn giáo – một tư thế hiên ngang, dũng mãnh. Cùng với không gian rộng lớn bao trùm – “giang sơn” kết hợp với thời gian trải dài theo lịch sử – “kháp kỉ thu”, Phạm Ngũ Lão đem lại một hình tượng người chiến sĩ anh dũng, hào hùng. Trải qua bao tháng năm, người chiến sĩ ấy vẫn hiên ngang cầm ngọn giáo chiến đấu để bảo vệ non song gấm vóc.
“Tam quân tì hổ khí thôn ngưu”
Trong khi đó, đội quân thì lại vô cùng hùng hậu, trùng điệp “tam quân” mà sức mạnh phi thường tựa “tì hổ”. “Khí thôn Ngưu” – khí thế ngùn ngụt che lấp cả ánh sao Ngưu – lại càng thể hiện được sức mạnh vô song của đoàn quân bách chiến bách thắng, ý chí kiên cường quyết tâm đánh bại mọi kẻ thù.
Hai câu cuối sử dụng điển tích Vũ Hầu để nói về nợ công danh của nam nhi thời loạn lạc:
Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu.”
“Công danh” ở đây không phải là những thứ bổng lộc, chức tước do triều đình ban tặng. Đó là công danh của một đấng nam nhi đầu đội trời, chân đạp đất muốn được vẫy vùng, lập chiến công hiển hách cho nước nhà. Họ sẵn sàng hi sinh xương máu để đất nước được trường tồn. Vậy nên, họ luôn khiêm nhường, cho rằng mình kém cỏi mà ra sức rèn luyện bản thân, học tập binh pháp, binh thư để bảo vệ quê hương, tổ quốc.
Bài thơ viết theo thể thơ tứ tuyệt – tuy không dài nhưng từng câu, từng chữ đã chứa đựng những giãi bày của Phạm Ngũ Lão. Bài thơ như một bản nhạc hào hùng, trang nghiêm của các anh hùng tướng sĩ đời Trần – hết lòng tận trung với đất nước.
|
Commentary on the poem "Confessing Your Heart" (Thuat Hoi) by Pham Ngu Lao
Instruct
Commentary on the poem "Confessing Your Heart" (Thuat Hoi) by Pham Ngu Lao
Instruct
Pham Ngu Lao was a famous general of the Tran Dynasty, both civil and martial. Not only do we know him as a famous general, but he is also a famous poet. "Confessing Your Heart" is a poem he composed to express his feelings when his country was invaded.
“Hoang Soc Giang Son is enjoying the autumn period”
"Hoang squirrel" is a fighting position in which the hand holds a spear horizontally - a brave and courageous position. Along with the vast, vast space - "mountains" combined with the long period of history - "autumn period", Pham Ngu Lao brings an image of a brave and heroic soldier. After many years, that soldier still bravely held the spear to fight to protect the mountains and rivers.
"Three armies, tigers, village ox"
Meanwhile, the army is extremely powerful, overlapping "three armies" with extraordinary strength like "a tiger". "Nuu village's atmosphere" - the overwhelming atmosphere that obscures the light of the Nguu star - further demonstrates the unparalleled strength of the invincible army, their strong will and determination to defeat all enemies.
The last two sentences use the story of Vu Hau to talk about the reputational debt of men in times of chaos:
Cultivator hears false stories about Vu Hau.”
"Reputation" here is not the benefits and titles bestowed by the royal court. That is the reputation of a man with his head held high in the sky and his feet on the ground who wanted to strive and achieve glorious victories for his country. They are willing to sacrifice their blood so that the country can survive. Therefore, they are always humble, thinking that they are incompetent, but try their best to train themselves, study military techniques and military books to protect their homeland and fatherland.
The poem is written in quatrain form - although not long, each sentence and each word contains Pham Ngu Lao's confessions. The poem is like a heroic, solemn song of the heroes and soldiers of the Tran Dynasty - wholeheartedly devoted to the country.
|
Bình giảng bài thơ “Tỏ lòng” của Phạm Ngũ Lão- Văn lớp 12
Hướng dẫn
Bình giảng bài thơ “Tỏ lòng” của Phạm Ngũ Lão- Văn lớp 12
Bài làm
Phạm Ngũ Lão là một nhà thơ trong thời kỳ cổ đại, đồng thời ông cũng là một vị tướng lẫy lừng, anh hùng tài ba xuất chúng. Phạm Ngũ Lão không sáng tác nhiều tác phẩm những mỗi tác phẩm của ông đều để lại một dấu ấn cá nhân riêng biệt, đi sâu vào lòng người đọc.
Bài thơ “Tỏ lòng” thể hiện nỗi lòng của tác giả trước cảnh quê hương chìm trong binh đao khói lửa, thể hiện tình yêu quê hương, đất nước mãnh liệt của tác giả, thể hiện khát khao muốn đòi lại độc lập, chủ quyền dân tộc của của Phạm Ngũ Lão.
Bài thơ thể hiện tinh thần khát khao tự do, thể hiện ý chí của người nam nhi quân tử “Nam nhi chí ở bốn phương” của những người thanh niên trẻ thời xưa.
Trong những câu ca dao, tục ngữ của dân tộc Việt Nam ta từ xa xưa đã có nhiều bài thơ thể hiện tính cách nam nhi đại trượng phu của những người trai tráng như bài”
Làm trai cho đáng nên trai
Xuống Đông Đông tĩnh, lên Đoài Đoài yên”
Thể hiện khát khao lập nghiệp thành danh, người đàn ông thì phải có ý chí, phải có tinh thần khát khao lập được nghiệp lớn, báo đáp công lao cha mẹ, quê hương đất nước, có như vậy mới xứng đáng làm nam nhi.
Bài thơ không dài chỉ có bốn câu nhưng đã lột tả được nhiều tâm trạng của tác giả trong đó:
Múa giáo non sông trải mấy thu
Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu
Trong hai câu thơ này tác giả Phạm Ngũ Lão khắc họa lên hình ảnh người nam nhi anh hùng, kiên cường cầm mũi giáo múa lên thể hiện cho tinh thần anh dũng, xông pha trận mạc, không sợ hiểm nguy. Đồng thời thể hiện cho hình ảnh người nam nhi văn ôn võ luyện vừa có ý chí vừa có uy lực sức mạnh.
Trong mỗi câu thơ toát lên phong thái khí chất của một người lính xông pha trận mạc, thể hiện sự uyển chuyển, nhẹ nhàng nhưng dứt khoát, kiên cường của một tướng lĩnh cầm đầu ba quân trên chiến trường.
Khí phách hào hùng của người lính khi ra trận giết giặc vô cùng ngút trời, khí thế ấy như có thể làm nuốt trôi cả một con trâu mộng to lớn. Tác giả Phạm Ngũ Lão vô cùng tinh tế khi mà lấy cái vô hình để so sánh với cái hữu hình. Chí khí anh hùng của người con trai xông pha trận mạc với hình ảnh một con trâu.
Công danh nam tử còn vương nợ
Luống thẹn khi nghe chuyện vũ hầu
Người con trai được sinh ra trên đời này cần phải có chí khí, có ước mơ hoài bão. Dù cuộc sống có khó khăn, nghiệt ngã thì người nam nhi cũng phải cố gắng phấn đấu gây dựng sự nghiệp của mình.
Câu thơ của Phạm Ngũ Lão không chỉ nói tới công danh bình thường như việc thăng quan tiến chức, hay thi cử đỗ đạt, mà nói tới đường công danh binh trường, làm nên sự nghiệp trong việc bảo vệ quê hương đất nước, được lưu danh thiên sử.
Chữ “nợ” được tác giả Phạm Ngũ Lão viết lên sự hổ thẹn của bản thân mình với quê hương đất nước, bởi người anh hùng khi chưa làm được việc lớn, chưa tạo ra những thành tích huy hoàng giống như cha ông mình đời trước thì sẽ cảm thấy hổ thẹn với bản thân với tổ tiên dòng họ.
Trong bối cảnh đất nước ta còn đang lao đao khốn đốn bởi nạn giặc xâm lăng thì người anh hùng như Phạm Ngũ Lão sẽ cảm thấy day dứt không yên, cảm thấy xấu hổ với thế hệ cha ông đi trước.
|
Commentary on the poem "Confessing Your Heart" by Pham Ngu Lao - Grade 12 Literature
Instruct
Commentary on the poem "Confessing Your Heart" by Pham Ngu Lao - Grade 12 Literature
Assignment
Pham Ngu Lao was a poet in ancient times, and at the same time he was also a famous general and an outstandingly talented hero. Pham Ngu Lao did not compose many works, but each of his works left a distinct personal mark, going deep into the hearts of readers.
The poem "Confessing Your Heart" expresses the author's feelings at the sight of his homeland engulfed in fire and war, expressing the author's strong love for his homeland and country, expressing his desire to reclaim independence and sovereignty. Pham Ngu Lao's national rights.
The poem expresses the spirit of desire for freedom, the will of the young men of ancient times.
In the folk songs and proverbs of our Vietnamese people since ancient times, there have been many poems expressing the macho character of young men like this poem.
Younger son should do for good
Down to the quiet East, up to quiet Doai Doai"
Expressing the desire to establish a successful career, a man must have the will, must have the spirit of desire to establish a great career, repay the efforts of his parents, his homeland, and only then is he worthy of being a man. .
The poem is not long, only four lines, but it describes many of the author's feelings in it:
Dancing across the mountains and rivers for several autumns
Three strong military weapons devoured buffaloes
In these two verses, author Pham Ngu Lao portrays the image of a heroic man, tenaciously holding a spear and dancing to show his heroic spirit, rushing into battle, not afraid of danger. At the same time, it represents the image of a man who is well-versed in martial arts and has both will and power.
Each verse exudes the temperament of a soldier rushing into battle, demonstrating the flexibility, gentleness but decisiveness, and resilience of a general leading three armies on the battlefield.
The heroic spirit of a soldier when going into battle to kill the enemy is extremely sky-high, as if it could swallow a huge buffalo. Author Pham Ngu Lao is extremely subtle when comparing the invisible with the visible. The son's heroic spirit rushes into battle with the image of a buffalo.
A man's reputation is still in debt
Embarrassed when hearing the story of the Marquis
A son born into this world needs to have courage and dreams and ambitions. Even though life is difficult and cruel, men must strive to build their career.
Pham Ngu Lao's poem does not only refer to normal careers such as promotion to positions, or passing exams, but to the path of military fame, making a career in protecting the homeland and country, being recognized. save the history of history.
The word "debt" was written by author Pham Ngu Lao to represent his own shame towards his homeland, because the hero has not yet accomplished great deeds and created glorious achievements like his ancestors. Before, you will feel ashamed of yourself and your family ancestors.
In a context where our country is still struggling due to enemy invasion, a hero like Pham Ngu Lao will feel uneasy and feel ashamed of the previous generation.
|
Bình giảng bài thơ “Tỏ lòng” của Phạm Ngũ Lão
Hướng dẫn
Bình giảng bài thơ “Tỏ lòng” của Phạm Ngũ Lão
Bài làm
Phạm Ngũ Lão không chỉ là một danh tướng tài ba đối với đất nước, mà ông còn là một tác giả sáng tác rất nhiều những tác phẩm có ý nghĩa sâu sắc dành cho dân tộc. Trong đó, bài thơ “ Tỏ lòng” là một tác phẩm nổi tiếng của ông về khát vọng tự do, khát vọng được làm chủ bản thân, được là chính mình cũng như mong mỏi giành được độc lập tự do của những người trẻ, những đấng nam nhi cùng chung chí hướng.
“ Tỏ lòng” là bài thơ được viết theo thể thất ngôn tứ tuyệt bằng chữ Hán, với bố cục rõ ràng, chặt chẽ. Chỉ qua bốn câu thơ nhưng cũng nói lên được ý chữ cũng như lý tưởng sống của nhà thơ. Mở đầu bài thơ là câu thơ:
” Múa giáo non sông trải mấy thu”.
Chiến tranh thuở xưa không thể thiếu hình ảnh cây giáo, một hình ảnh gợi lên sự mất mát và tàn khốc. Từ xa xưa, dân tộc ta đã phải trải qua không biết bao nhiêu lần đau thương, chịu bao mất mát, hy sinh cả máu và nước mắt để giành lại độc lập dân tộc. Đọc câu thơ, ta thấy được một phong thái mãnh mẽ của người ra trận. Sự uyển chuyển múa giáo, dù mềm mại nhưng vẫn có sự dứt khoát, oai phong. Việc đó không chỉ trải qua ở một giai đoạn, một thời điểm, mà là “ trải mấy thu”. Đó là khoảng thời gian không thể đo đếm được, nhưng phần nào đó đã lột tả rõ được cốt cách cũng như khí chất của người anh hùng thời chiến.
Tác giả đã khắc họa phong thái, khí chất của người anh hùng ra trận ở câu thơ đầu tiên. Đến câu thơ thứ hai, tác giả lại khuấy lên không khí, ý chí chiến đấu sục sôi, dũng mãnh của cả dân tộc. Từng đoàn quân ra trận như một trần cuồng phong có thể nuốt trôi trâu. Hình ảnh “ nuốt trôi trâu” là hình ảnh ẩn dụ, tượng trưng cho sức mạnh phi thường, không gì có thể đánh bại được.
Hai câu thơ với giọng thơ mạnh mẽ, dứt khoát, làm bật lên hình tượng những người anh hùng ra trận trong thời kỳ đất nước lâm nguy.
Đến hai câu thơ cuối, quan điểm và lý tưởng sống của đấng nam nhi đã được tác giả bày tỏ:
” Công danh nam tử còn vương nợ
Luống thẹn khi nghe chuyện vũ hầu”.
Sinh ra là đấng nam nhi, sống cần phải có ý chí, có tham vọng và ước mơ. Cho dù có gặp bao nhiêu khó khăn, sự vất vả, đau thương đến đâu cũng phải dũng cảm đứng lên để phấn đấu. Và một trong những động lực để đấng nam nhi phấn đấu chính là công danh. Đã là nam nhi thì phải có công danh, có sự nghiệp vẻ vang. Ở đây, Phạm Ngũ Lão đã dùng hình ảnh Vũ Hầu( Khổng Minh) để nói đến chí khí, cũng như sự tài ba của người anh hùng trong thiên hạ.
“ Tỏ lòng” là bài thơ giãi bày tâm tư, nguyện vọng cũng như lý tưởng của những đấng nam nhi trong xã hội dù là thời xưa hay thời nay. Nhân cách, tâm hồn của Phạm Ngũ Lão thật cao đẹp và đầy chí khí, cũng như tài năng của ông xứng đáng được ca ngợi đến muôn đời sau.
Nguồn: Tài liệu trực tuyến
|
Commentary on the poem "Confessing Your Heart" by Pham Ngu Lao
Instruct
Commentary on the poem "Confessing Your Heart" by Pham Ngu Lao
Assignment
Pham Ngu Lao is not only a talented famous general for the country, but he is also an author who composed many works with profound meaning for the nation. In particular, the poem "Confessing Your Heart" is a famous work of his about the desire for freedom, the desire to master oneself, to be oneself as well as the desire for independence and freedom of young people. men with the same intention.
“Confessing Your Heart” is a poem written in seven-line, four-quatrain form in Chinese characters, with a clear and tight layout. Through just four lines of poetry, it still conveys the poet's meaning as well as his ideal of life. The poem begins with the verse:
"Dancing on the mountains and rivers for several autumns".
Ancient wars could not lack the image of a spear, an image that evokes loss and cruelty. Since ancient times, our nation has had to go through countless times of pain, suffer countless losses, and sacrifice blood and tears to regain national independence. Reading the poem, we see the strong demeanor of someone going to war. The flexibility of spear dancing, although soft, still has decisiveness and majesty. That is not just experienced in one stage, one time, but "over several autumns". It was an unmeasurable period of time, but it somehow clearly portrayed the character and temperament of the wartime hero.
The author portrays the demeanor and temperament of the hero going into battle in the first verse. In the second verse, the author stirs up the atmosphere again, the boiling and courageous fighting will of the entire nation. Each army went into battle like a hurricane that could swallow buffaloes. The image of "swallowing a buffalo" is a metaphor, symbolizing extraordinary strength that nothing can defeat.
Two verses with a strong, decisive poetic voice highlight the images of heroes going to war during a time when the country was in danger.
In the last two verses, the author's views and ideals of life for men were expressed:
"A man's reputation still has debts
Embarrassed when hearing the story of Marquis Vu.
Born as a man, to live requires will, ambition and dreams. No matter how many difficulties, hardships, and pain you encounter, you must have the courage to stand up and strive. And one of the motivations for men to strive is fame. To be a man, you must have fame and a glorious career. Here, Pham Ngu Lao used the image of Vu Hau (Khong Minh) to refer to the character and talent of heroes in the world.
"Confessing Your Heart" is a poem expressing the thoughts, aspirations and ideals of men in society, whether in the past or today. Pham Ngu Lao's personality and soul are noble and full of spirit, as well as his talent, which deserves to be praised forever.
Source: Online documents
|
Bình giảng bài thơ “Tống biệt hành” của Thâm Tâm
Hướng dẫn
Bình giảng bài thơ “Tống biệt hành” của Thâm Tâm
Bài làm
Thơ mới chỉ có hai cuộc tiễn đưa đặc biệt: một của Thế Lữ – “Giây phút chạnh lòng” và một nửa của Thâm Tâm – “Tống biệt hành”. Còn thì chỉ là những cuộc biệt ly thông thường, cuộc chia tay giữa người tình với người tình, giữa người thân với người thân. Thương nhớ chỉ quẩn quanh nơi những không gian xa cách, những mối tình phôi pha…
Anh biết em đi chẳng trở về
Dặm ngàn liễu khuất với sương khe
Em đừng quay lại nhìn anh nữa
Anh biết em đi chẳng trở về.
(Thái Can – Anh biết em đi)
Tất nhiên, những khúc ly biệt ấy đều có những giá trị, những hấp dẫn. Nhưng ta càng biết quý những cuộc biệt ly của những tầm cao nhân cách.
Đó là những khúc biệt ly mang chất thẩm mỹ bi tráng.
Thế Lữ và Thâm Tâm đã cảm hứng từ cuộc tiễn đưa con người chí lớn, con người khát vọng cái cao cả – khát vọng lý tưởng nồng cháy:
Non nước đang chờ gót lãng du
Đâu đây vẳng tiếng hát chinh phu
Lòng tôi phơi phới quên thương tiếc
Đưa tiễn anh ra chốn hải hồ
Anh đi vui cảnh lạ đường xa
Đem chí bình sinh giải nắng mưa
Thân đã hiến cho đời gió bụi
Đâu còn lưu luyến chút duyên tơ
(Giây phút chạnh lòng)
Ly khách! Ly khách! Con đường nhỏ
Chí lớn chưa về, bàn tay không
Thì đừng bao giờ nói trở lại
Ba năm mẹ già cũng đừng mong
(Tống biệt hành)
Trong bi kịch, các nhân vật trữ tình này vẫn lồng lộng chất tráng ca.
Đó cũng chính là tâm hồn thời đại trong bối cảnh không khí thời đại.
Thuở ấy, những thanh niên trí thức, sinh viên học sinh đã cảm nhận được cái vô nghĩa của những nhân cách an phận, nhàn du nhỏ bé mà sau này, Chế Lan Viên viết:
Lũ chúng ta ngủ trong giường chiếu hẹp
Giấc mơ con đè nát cuộc đời con
Hạnh phúc đựng trong một tà áo đẹp
Một mái nhà yên rủ bóng xuống tâm hồn
…
Lương thiện đấy, nhưng không có nội dung!
Thậm chí, có những người “vô tư”
Quanh Hồ Gươm không ai bàn chuyện vua lê
Lòng ta đã hóa thành rêu phong chuyện cũ.
Những con người nhỏ bé ấy đã đứng ngoài những cảm nhận về nỗi dân tộc đang trong gông xiềng nô lệ, về nỗi nhân dân đang đói khổ, đau khổ… Kiếp người cơm vãi cơm rơi, Biết đâu nẻo đất phương trời mà đi…” (Tố Hữu), về nỗi những Chí Phèo đang lâm vào thảm trạng tha hóa, và đang bị cự tuyệt quyền làm người lương thiện… (nhân vật của Nam Cao).
Có một tầng lớp thanh niên có học biết nặng lòng với đất nước, với nhân dân. Họ ưu tư, trăn trở trên đời sống chung của dân tộc. Nhưng nhìn quanh, họ chỉ thấy những bức tường bế tắc!
Thuở ấy, không khí thời đại ảm đạm lắm.
Một lá cờ Cần Vương phất cao với bao tâm huyết. Rồi từ Bắc chí Nam, Cần Vương đi vào thất bại. Những chiến sĩ Đông Kinh Nghĩa Thục ra quân, những Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh… cũng lâm vào thất bại. Vận hội may mắn của cái dân tộc điêu linh này chưa tới? Rồi Việt Nam Quốc Dân đảng nồng nhiệt liều thân… cũng chỉ để lại một tiếng bom của Phạm Hồng Thái. Không thành công cũng thành nhân”…
Đúng như sau này, Chế Lan Viên viết:
Cha ông xưa từng đấm nát tay trước cửa cuộc đời.
Cửa vẫn đóng và đời im ỉm khóa
Những pho tượng chùa Tây Phương không biết cách trả lời.
Cả dân tộc đói nghèo trong rơm rạ
Văn chiêu hồn từng giọt thấm mưa rơi…
Trong không khí thời đại ấy, những con người có học, có tâm huyết đã buồn. Ai đã chê Thơ Mới buồn? Thậm chí, ai đã cho Thơ Mới là bạc nhược? Hơn nữa, ai đã kết tội Thơ Mới là có lợi cho địch? Đến bây giờ, khi không khí của hai cuộc chiến tranh đã lùi xa, khi mọi lí lẽ đã được suy ngẫm, kiểm nghiệm, chúng ta mới biết sợ những thái độ “khoa học” chưa hoàn chỉnh này.
Chất buồn của Thơ Mới là chất buồn mang tầm cao thời đại. Đó là chất buồn nhân tính.
“Tống biệt hành” là khúc trữ tình buồn ấy, là khúc bi tráng ca của một tâm hồn non nước.
Đưa người ta không đưa qua sông,
Sao có tiếng sóng ở trong lòng?
Bóng chiều không thắm, không vàng vọt,
Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong?
Trên bình diện nội dung công khai, đã có hai nhân vật trữ tình: người ra đi và người đưa tiễn. Rồi cả ở những đoạn thơ sau, vẫn là hai con người ấy:
… Ta biết người buồn chiều hôm trước
… Ta biết người buồn sáng hôm nay
Nhưng có thật là có hai người không? Hay chỉ là một nhân vật trữ tình ở dạng phân thân? Hai con người này có những ranh giới nhập nhoạng mơ hồ, có khi chập vào nhau:” ”… tiếng sóng ở trong lòng” và “hoàng hôn trong mắt trong”; có khi ở trong nhau mà tự vấn:
Người đi? ừ nhỉ, người đi thật!
Đoạn thơ đầu, bằng thể thất ngôn cổ điển, bằng nghi vấn tu từ thể điệp… Thâm Tâm đưa ta vào một không khí Đường thi trang trọng. Ta chìm vào trong một trầm tư.
Đưa người, ta chỉ đưa người ấy
Một giã gia đình một dửng dưng…
Ly khách! Ly khách! Con đường nhỏ,
Chí lớn chưa về bàn tay không
Thì không bao giờ nói trở lại!
Ba năm, mẹ già cũng đừng mong.
Như một hành động chọn lọc “…ta chỉ đưa người ấy” cuộc tiễn đưa bắt đầu đi vào chiều hoành tráng “một giã gia đình, một dửng dưng”. Tính cách thời đại xuất hiện. Con người ấy có dáng dấp Kinh Kha “Ai đồng chí trong đám người tiểu kỷ, Trên kinh thành lơ lửng một thanh gươm…” con người ấy mang phong thái chiến sĩ “Tráng sĩ một đi không trở về…”.
Cái chất lãng mạn hoành tráng này, về sau sẽ được tái diễn trong những vần thơ của Quang Dũng, Chính Hữu ở giai đoạn thơ thời đầu kháng chiến chống Pháp (1946-1947-1948):
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
Nhớ về rừng núi nhớ chơi
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
(Tây Tiến – Quang Dũng)
Nhớ đếm ra đi đất trời bốc lửa
Cả đô thành nghi ngút cháy sau lưng
Những chàng trai chưa trắng nợ anh hùng
Hồn mười phương phất phơ cờ đỏ thắm
Rách tả tơi rồi đôi giày vạn dặm
Bụi trường chinh phai bạc áo hào hoa…
(Ngày về – Chính Hữu)
Cao cả trác tuvệt như vậy mà ai lại dám bảo đó là những vần thơ “buồn rớt, mộng rớt… yêng hùng…” ai lại dám bắt “lột xác, nhận đường…”
Ta biết người buồn chiều hôm trước
Vì sao người buồn? Không phải vì cuộc ra đi bịn rịn. Người buồn vì nỗi những nhân cách ở tầm thông thường không thể hiểu người. Đó là những “một chị, hai chị cũng như sen, khuyên nốt em trai dòng lệ sót”
Nỗi buồn ấy hiện ra trong buổi chiều.
Ta biết người buồn sáng hôm nay
Vì sao người buồn? Vì phải xa những tấm lòng trẻ thơ, xa những “em nhỏ ngây thơ đôi mắt biếc”. Nỗi buồn ấy lấy bối cảnh một ban mai rực rỡ (Trời chưa mùa thu tươi lắm thay) tương ứng hài hòa với ánh sáng tinh khôi trong mắt trẻ. Đó là thẩm mỹ của cái đẹp – buồn.
Người đi? Một dấu hỏi.
Ừ nhỉ, người đi thực!
Một trả lời trong cảm thán. Cũng có thể là một tự hỏi mình.
Mẹ thà coi như chiếc lá bay
Nhân vật bà mẹ đến đây mới thật sư xuất hiện. Trước, trong câu: Ba năm mẹ già cũng đừng mong, chỉ là một cách nói. Bi kịch của lòng mẹ là bi kịch của:
Lá vàng thì ở trên cây
Lá xanh rụng xuống trời hay chăng trời
(Ca dao)
Chị thà coi như là hạt bụi
Đó là một câu tâm lý học. Các bà chị đã tự bằng lòng mình về việc thương em (Khuyên nốt em trai dòng lệ sót); bây giờ, lòng thành thanh thản.
Em thà coi như hơi rượu say
Thâm Tâm dành cho “em” cái ngôi kết thúc. Người tình của Dũng là nàng Loan (nhân vật của Nhất Linh), trong tiến đưa đã:
Lòng tôi phơi phới quên thương tiếc
Dưa tiễn anh ra chốn hải hồ
Thế Lữ
Người tình của chàng trai chí lớn này thì, trong ly biệt, hoài niệm một chất nồng say đã được hưởng… Câu thơ không tiếc nuối, chỉ là man mác. Nó ngân vang tạo ra dư âm chung của toàn bài…
Sau 1945, Thâm Tâm cùng với dân tộc, đi vào cuộc trường kỳ kháng chiến chống Pháp. Và anh đã chết cái chết đẹp của người chiến sĩ.
Phải chăng, bằng chính cuộc đời mình, Thâm Tâm đã thực hiện hóa cái giấc mơ của nhân vật trữ tình trong thơ mình?
|
Bình giảng bài thơ “Tống biệt hành” của Thâm Tâm
Hướng dẫn
Bình giảng bài thơ “Tống biệt hành” của Thâm Tâm
Bài làm
Thơ mới chỉ có hai cuộc tiễn đưa đặc biệt: một của Thế Lữ – “Giây phút chạnh lòng” và một nửa của Thâm Tâm – “Tống biệt hành”. Còn thì chỉ là những cuộc biệt ly thông thường, cuộc chia tay giữa người tình với người tình, giữa người thân với người thân. Thương nhớ chỉ quẩn quanh nơi những không gian xa cách, những mối tình phôi pha…
Anh biết em đi chẳng trở về
Dặm ngàn liễu khuất với sương khe
Em đừng quay lại nhìn anh nữa
Anh biết em đi chẳng trở về.
(Thái Can – Anh biết em đi)
Tất nhiên, những khúc ly biệt ấy đều có những giá trị, những hấp dẫn. Nhưng ta càng biết quý những cuộc biệt ly của những tầm cao nhân cách.
Đó là những khúc biệt ly mang chất thẩm mỹ bi tráng.
Thế Lữ và Thâm Tâm đã cảm hứng từ cuộc tiễn đưa con người chí lớn, con người khát vọng cái cao cả – khát vọng lý tưởng nồng cháy:
Non nước đang chờ gót lãng du
Đâu đây vẳng tiếng hát chinh phu
Lòng tôi phơi phới quên thương tiếc
Đưa tiễn anh ra chốn hải hồ
Anh đi vui cảnh lạ đường xa
Đem chí bình sinh giải nắng mưa
Thân đã hiến cho đời gió bụi
Đâu còn lưu luyến chút duyên tơ
(Giây phút chạnh lòng)
Ly khách! Ly khách! Con đường nhỏ
Chí lớn chưa về, bàn tay không
Thì đừng bao giờ nói trở lại
Ba năm mẹ già cũng đừng mong
(Tống biệt hành)
Trong bi kịch, các nhân vật trữ tình này vẫn lồng lộng chất tráng ca.
Đó cũng chính là tâm hồn thời đại trong bối cảnh không khí thời đại.
Thuở ấy, những thanh niên trí thức, sinh viên học sinh đã cảm nhận được cái vô nghĩa của những nhân cách an phận, nhàn du nhỏ bé mà sau này, Chế Lan Viên viết:
Lũ chúng ta ngủ trong giường chiếu hẹp
Giấc mơ con đè nát cuộc đời con
Hạnh phúc đựng trong một tà áo đẹp
Một mái nhà yên rủ bóng xuống tâm hồn
…
Lương thiện đấy, nhưng không có nội dung!
Thậm chí, có những người “vô tư”
Quanh Hồ Gươm không ai bàn chuyện vua lê
Lòng ta đã hóa thành rêu phong chuyện cũ.
Những con người nhỏ bé ấy đã đứng ngoài những cảm nhận về nỗi dân tộc đang trong gông xiềng nô lệ, về nỗi nhân dân đang đói khổ, đau khổ… Kiếp người cơm vãi cơm rơi, Biết đâu nẻo đất phương trời mà đi…” (Tố Hữu), về nỗi những Chí Phèo đang lâm vào thảm trạng tha hóa, và đang bị cự tuyệt quyền làm người lương thiện… (nhân vật của Nam Cao).
Có một tầng lớp thanh niên có học biết nặng lòng với đất nước, với nhân dân. Họ ưu tư, trăn trở trên đời sống chung của dân tộc. Nhưng nhìn quanh, họ chỉ thấy những bức tường bế tắc!
Thuở ấy, không khí thời đại ảm đạm lắm.
Một lá cờ Cần Vương phất cao với bao tâm huyết. Rồi từ Bắc chí Nam, Cần Vương đi vào thất bại. Những chiến sĩ Đông Kinh Nghĩa Thục ra quân, những Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh… cũng lâm vào thất bại. Vận hội may mắn của cái dân tộc điêu linh này chưa tới? Rồi Việt Nam Quốc Dân đảng nồng nhiệt liều thân… cũng chỉ để lại một tiếng bom của Phạm Hồng Thái. Không thành công cũng thành nhân”…
Đúng như sau này, Chế Lan Viên viết:
Cha ông xưa từng đấm nát tay trước cửa cuộc đời.
Cửa vẫn đóng và đời im ỉm khóa
Những pho tượng chùa Tây Phương không biết cách trả lời.
Cả dân tộc đói nghèo trong rơm rạ
Văn chiêu hồn từng giọt thấm mưa rơi…
Trong không khí thời đại ấy, những con người có học, có tâm huyết đã buồn. Ai đã chê Thơ Mới buồn? Thậm chí, ai đã cho Thơ Mới là bạc nhược? Hơn nữa, ai đã kết tội Thơ Mới là có lợi cho địch? Đến bây giờ, khi không khí của hai cuộc chiến tranh đã lùi xa, khi mọi lí lẽ đã được suy ngẫm, kiểm nghiệm, chúng ta mới biết sợ những thái độ “khoa học” chưa hoàn chỉnh này.
Chất buồn của Thơ Mới là chất buồn mang tầm cao thời đại. Đó là chất buồn nhân tính.
“Tống biệt hành” là khúc trữ tình buồn ấy, là khúc bi tráng ca của một tâm hồn non nước.
Đưa người ta không đưa qua sông,
Sao có tiếng sóng ở trong lòng?
Bóng chiều không thắm, không vàng vọt,
Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong?
Trên bình diện nội dung công khai, đã có hai nhân vật trữ tình: người ra đi và người đưa tiễn. Rồi cả ở những đoạn thơ sau, vẫn là hai con người ấy:
… Ta biết người buồn chiều hôm trước
… Ta biết người buồn sáng hôm nay
Nhưng có thật là có hai người không? Hay chỉ là một nhân vật trữ tình ở dạng phân thân? Hai con người này có những ranh giới nhập nhoạng mơ hồ, có khi chập vào nhau:” ”… tiếng sóng ở trong lòng” và “hoàng hôn trong mắt trong”; có khi ở trong nhau mà tự vấn:
Người đi? ừ nhỉ, người đi thật!
Đoạn thơ đầu, bằng thể thất ngôn cổ điển, bằng nghi vấn tu từ thể điệp… Thâm Tâm đưa ta vào một không khí Đường thi trang trọng. Ta chìm vào trong một trầm tư.
Đưa người, ta chỉ đưa người ấy
Một giã gia đình một dửng dưng…
Ly khách! Ly khách! Con đường nhỏ,
Chí lớn chưa về bàn tay không
Thì không bao giờ nói trở lại!
Ba năm, mẹ già cũng đừng mong.
Như một hành động chọn lọc “…ta chỉ đưa người ấy” cuộc tiễn đưa bắt đầu đi vào chiều hoành tráng “một giã gia đình, một dửng dưng”. Tính cách thời đại xuất hiện. Con người ấy có dáng dấp Kinh Kha “Ai đồng chí trong đám người tiểu kỷ, Trên kinh thành lơ lửng một thanh gươm…” con người ấy mang phong thái chiến sĩ “Tráng sĩ một đi không trở về…”.
Cái chất lãng mạn hoành tráng này, về sau sẽ được tái diễn trong những vần thơ của Quang Dũng, Chính Hữu ở giai đoạn thơ thời đầu kháng chiến chống Pháp (1946-1947-1948):
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
Nhớ về rừng núi nhớ chơi
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
(Tây Tiến – Quang Dũng)
Nhớ đếm ra đi đất trời bốc lửa
Cả đô thành nghi ngút cháy sau lưng
Những chàng trai chưa trắng nợ anh hùng
Hồn mười phương phất phơ cờ đỏ thắm
Rách tả tơi rồi đôi giày vạn dặm
Bụi trường chinh phai bạc áo hào hoa…
(Ngày về – Chính Hữu)
Cao cả trác tuvệt như vậy mà ai lại dám bảo đó là những vần thơ “buồn rớt, mộng rớt… yêng hùng…” ai lại dám bắt “lột xác, nhận đường…”
Ta biết người buồn chiều hôm trước
Vì sao người buồn? Không phải vì cuộc ra đi bịn rịn. Người buồn vì nỗi những nhân cách ở tầm thông thường không thể hiểu người. Đó là những “một chị, hai chị cũng như sen, khuyên nốt em trai dòng lệ sót”
Nỗi buồn ấy hiện ra trong buổi chiều.
Ta biết người buồn sáng hôm nay
Vì sao người buồn? Vì phải xa những tấm lòng trẻ thơ, xa những “em nhỏ ngây thơ đôi mắt biếc”. Nỗi buồn ấy lấy bối cảnh một ban mai rực rỡ (Trời chưa mùa thu tươi lắm thay) tương ứng hài hòa với ánh sáng tinh khôi trong mắt trẻ. Đó là thẩm mỹ của cái đẹp – buồn.
Người đi? Một dấu hỏi.
Ừ nhỉ, người đi thực!
Một trả lời trong cảm thán. Cũng có thể là một tự hỏi mình.
Mẹ thà coi như chiếc lá bay
Nhân vật bà mẹ đến đây mới thật sư xuất hiện. Trước, trong câu: Ba năm mẹ già cũng đừng mong, chỉ là một cách nói. Bi kịch của lòng mẹ là bi kịch của:
Lá vàng thì ở trên cây
Lá xanh rụng xuống trời hay chăng trời
(Ca dao)
Chị thà coi như là hạt bụi
Đó là một câu tâm lý học. Các bà chị đã tự bằng lòng mình về việc thương em (Khuyên nốt em trai dòng lệ sót); bây giờ, lòng thành thanh thản.
Em thà coi như hơi rượu say
Thâm Tâm dành cho “em” cái ngôi kết thúc. Người tình của Dũng là nàng Loan (nhân vật của Nhất Linh), trong tiến đưa đã:
Lòng tôi phơi phới quên thương tiếc
Dưa tiễn anh ra chốn hải hồ
Thế Lữ
Người tình của chàng trai chí lớn này thì, trong ly biệt, hoài niệm một chất nồng say đã được hưởng… Câu thơ không tiếc nuối, chỉ là man mác. Nó ngân vang tạo ra dư âm chung của toàn bài…
Sau 1945, Thâm Tâm cùng với dân tộc, đi vào cuộc trường kỳ kháng chiến chống Pháp. Và anh đã chết cái chết đẹp của người chiến sĩ.
Phải chăng, bằng chính cuộc đời mình, Thâm Tâm đã thực hiện hóa cái giấc mơ của nhân vật trữ tình trong thơ mình?
|
Bình giảng bài thơ “Xuất dương lưu biệt” của Phan Bội Châu
Hướng dẫn
Bình giảng bài thơ “Xuất dương lưu biệt” của Phan Bội Châu
Phiên âm:
Sinh vi nam tử yếu hi kì,
Khẳng hứa càn khôn tự chuyển di.
Ư bách niên trung tu hữu ngã,
Khởi thiên tải hậu cánh vô thùy.
Giang sơn tử hĩ sinh đồ nhuế
Hiền thánh liêu nhiên tụng diệc si!
Nguyện trục trường phong Đông hải khứ,
Thiên trùng bạch lãng nhất tề phi.
Dịch thơ:
Làm trai phải lạ ở trên đời,
Há để càn khôn tự chuyển dời.
Trong khoảng trăm năm cần có tớ
Sau này muôn thuở, há không ai?
Non sông đã chết, sống thêm nhục,
Hiền thánh còn đâu, học cũng hoài!
Muốn vượt bể Đông theo cánh gió,
Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi.
(Tôn Quang Phiệt dịch)
GỢI Ý LÀM BÀI
Xuất dương lưu biệt (Lưu biệt trước khi ra nước ngoài) là một trong những bài thơ tiêu biểu cho tư tưởng, tâm hồn và phong cách nghệ thuật của Phan Bội Châu. Bài thơ đã được bình giảng, phân tích ở nhiều tài liệu. Về nội dung, cơ bản các tài liệu thống nhất trong cách đánh giá lý tưởng của Phan Bội Châu gắn với hoàn cảnh đất nước ta lúc bấy giờ (thực dân Pháp xâm chiếm, nhân dân nô lệ, chế độ phong kiến suy tàn, bạc nhược). Tuy nhiên, về mặt nghệ thuật, có những đánh giá khác nhau. Bài thơ được viết theo thể thất ngôn bát cú luật Đường, nhưng không thể chỉ căn cứ vào hình thức thể loại để khẳng định đây là một sáng tác hoàn toàn nằm trong phạm trù văn học trung đại. Chính tư tưởng, quan niệm mới mẻ của Phan Bội Châu trước thời đại đã khiến bài thơ, cùng với nhiều sáng tác khác của ông, đánh dấu một bước chuyển mình mạnh mẽ của văn học Việt Nam trên con đường hiện đại hóa. Vì thế, Xuất dương lưu biệt chưa phải là bài Thơ mới, nhưng cũng không thuần túy là một sáng tác của những nhà nho ở thế kỉ XVIII, XIX. Khi phân tích, bình giảng cần thấy được đặc điểm này để hiểu đúng giá trị của tác phẩm.
BÀI LÀM
Trong lịch sử dân tộc Việt Nam, thời kì nào cũng xuất hiện những đấng anh hùng làm rạng danh sông núi. Có người anh hùng lẫy lừng chiến công. Có người anh hùng “thất thế nhưng vẫn hiên ngang”. Những anh hùng ấy được văn chương ghi tạc hay tự mình bày tỏ chí khí. Bài Xuất dương lưu biệt của Phan Bội Châu là một cách bày tỏ thật mạnh mẽ chí khí của đấng anh hùng trong hoàn cảnh đầy bi kịch của đất nước ta ở những thập niên đầu của thế kỉ hai mươi.
Sinh vi nam tử yếu hi kì,
Khẳng hứa càn khôn tự chuyển di.
Lập nên sự nghiệp là khát vọng của những bậc tài danh trong lịch sử. Thời nào, khát vọng ấy cũng được thể hiện. Chúng ta từng có hoài bão của Phạm Ngũ Lão:
Hoành sóc giang sơn cáp kỉ thu
Tam quẩn tì hổ khí thôn ngưu.
Nam nhi vị liễu công danh trái,
Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu.
Và, cách Phan Bội Châu trước đó không xa, là chí nam nhi của Nguyễn Công Trứ:
Thông minh nhất nam tử,
Yếu vi thiên hạ kì.
(Người con trai thông minh phải làm việc kì lạ cho thiên hạ).
Khẩu khí có lẽ giống nhau, nhưng ý tứ mồi thời đã có khác. Phạm Ngũ Lão thời Trần cảm thấy hỗ thẹn Gia Cát tiên sinh vì chưa trả xong nợ công danh. Nguyễn Công Trứ quả quyết đà là người tài trai thì phải làm nên những việc kì lạ cho thiên hạ. Dĩ nhiên, cái “công danh” hay việc “kì lạ” mà họ Phạm và họ Nguyễn từng nêu không phải là chuyện cá nhân, tất thảy đều mang ý nghĩa cao cả. Song, dù sao đi nữa cả hai ông đều nói đến sự phấn đấu của đấng nam nhi nhưng không vượt ra ngoài “con Tạo”. Có lẽ, thời Phạm Ngũ Lão, “thiên định” đang rất phù hợp với lòng người. Thời Nguyễn Công Trứ tuy có suy vi, xáo trộn, song vẫn còn đang ở trong bối cảnh chung ấy. Nhưng đến Phan Bội Châu, chuyện kinh thiên động địa đã xảy ra: non sông đất nước lần lượt rơi vào tay giặc, những người “thừa mệnh trời” vẫn còn ở đó nhưng bất lực, yếu đuối. Vì thế, chuyện “kì lạ” mà Phan Sào Nam muốn làm không phải là tôn vinh hay duy trì một trật tự đã có. Ông khao khát làm việc lớn hơn nhiều:
Khẳng hứa càn khôn tự chuyển di.
Hai câu đề đã nói khá rõ chí nam nhi của Phan Bội Châu. Soi rọi vào hoàn cảnh cụ thể của đất nước Việt Nam thời kì đó sẽ thấy sự mãnh liệt của nó. Câu thơ có thể biến thành một khẩu hiệu, một lời tuyên ngôn mới của một thế hệ, một giai đoạn lịch sử.
Hai câu thực bày tỏ niềm tin tưởng của nhà thơ vào tiền đồ của đất nước:
Ư bách niên trung tu hữu ngã,
Khởi thiên tải hậu cánh vô thùy.
Có người đã bình một ý của câu thơ này như sau: “Cụm từ “trăm năm này (hiện nay) phải có ta” đối lập cụm từ “ngàn năm sau không có ai” – câu trên khẳng định, câu dưới phủ định – thể hiện một ý thức cao cả và một nỗi lo, một dự cảm xa rộng của nhà cách mạng trẻ tuổi đối với hiện trạng đất nước lúc bấy giờ”. Thực ra, ở đây chẳng có câu phủ định nào cả. “Trong khoảng trăm năm cần có tớ / Sau này muôn thuở há không ai” là sự khẳng định một nhân cách, một tài năng, một bản ngã, dĩ nhiễn sắc thái có phần cường điệu để bày tỏ thật triệt để khát vọng của mình chứ không phải đề cao cá nhân. Vì thế, câu thơ kế tiếp cũng là một lời khẳng định dưới hình thức câu hỏi. Phan Bội Châu là bậc trượng phu luôn hiểu rõ và đề cao lịch sử, truyền thống của dân tộc. Đồng thời, ông cũng là người lại luôn có niềm tin vào những thế hệ mới. Chỉ thấy Phan Bội Châu đề cao chí khí của mình là hạ thấp một nhân cách kì vĩ và không hiểu vì sao chính ông đã luôn tìm cách đưa những người trẻ tuổi ra nước ngoài để học tập đặng trở về cứu nước.
Để thực hiện được hoài bão của mình, Phan Bội Châu phải kiếm tìm con đường cứu nước. Ở vào hoàn cảnh cụ thể của đất nước thời đó, Phan Bội Châu đã nhìn thấy trước sự thất bại nếu đứng lên khởi nghĩa khi lực lượng quá yếu so với kẻ thù. Khoa cử là con đường lập thân của biết bao đấng nam nhi ngày trước bây giờ đã không còn phù hợp, vì cả triều đình đă trở thành bù nhìn cho ngoại bang. Vì thế, hai câu luận thực chất là sự cắt nghĩa về tính tất yếu của cuộc “lưu biệt”:
Hiền thánh liêu nhiên tụng diệc si!
(Non sông đã chết, sống thêm nhục,
Hiền thánh còn đâu, học cũng hoài).
Non sông đất nước một khi đã rơi vào tay giặc coi như đã mất. Sống cam chịu, nhục nhã trong kiếp nô lệ thực chất là đã chết. “Hiền thánh” là những người kì tài, xuất chúng, nhưng cũng có nghĩa là các bậc khai sáng ra một hệ tư tưởng (Nho giáo) không còn (và bản thân hệ tư tưởng ấy không còn cơ sở hiện thực) thì việc học và xa hơn là sự lập thân bằng con đường cử nghiệp liệu có ích gì? Luận bàn về lý do mình phải ra đi như vậy thật triệt để. Có thể nói, Phan Bội Châu đã thực sự phủ định hệ tư tưởng mà mình vốn đã từng tiếp thu, Vì thế không thể xem chí làm trai của Phan Bội Châu vẫn còn nằm trong phạm trù ý thức hệ Nho gia như cố người đã từng đánh giá.
Hai câu kết là sự thể hiện khát vọng được biến hoài bão của đấng nam nhi thành hiện thực:
Nguyện trục trường phong Đông hải khứ,
Thiên trùng bạch lãng nhất tề phi.
(Muốn vượt bể Đông theo cánh gió,
Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi).
Con đường phía trước không bằng phẳng. Trái lại, đầy phong ba bão tố. Nhưng đấy mới chính là chỗ để đấng nam nhi thể hiên ý chí, khát vọng của mình.
Cuộc đời Phan Bội Châu như ông từng nhận xét, trăm lần thất bại, không một lần thành công, song ông đã sống đúng với lý tưởng, hoài bão của mình. Nhà chí sĩ không thành công trong sự nghiệp mong được cứu nước, cứu dân, nhưng hình bóng, nhân cách, tâm hồn ông vẫn luôn là một biểu tượng đẹp đẽ và hào hùng cho những thế hệ trẻ Việt Nam. Và cũng chính nhân cách, tâm hồn ấy, khi được thể hiện bằng thơ, dù trong lớp áo cũ kĩ của thể thơ thất ngôn luật Đường, đã vang lên mạnh mẽ, như khúc tráng ca, lời ly biệt trở thành tiếng thúc giục lên đường vì non sông đất nước.
Nguồn: Tài liệu văn học
|
Bình giảng bài thơ “Xuất dương lưu biệt” của Phan Bội Châu
Hướng dẫn
Bình giảng bài thơ “Xuất dương lưu biệt” của Phan Bội Châu
Phiên âm:
Sinh vi nam tử yếu hi kì,
Khẳng hứa càn khôn tự chuyển di.
Ư bách niên trung tu hữu ngã,
Khởi thiên tải hậu cánh vô thùy.
Giang sơn tử hĩ sinh đồ nhuế
Hiền thánh liêu nhiên tụng diệc si!
Nguyện trục trường phong Đông hải khứ,
Thiên trùng bạch lãng nhất tề phi.
Dịch thơ:
Làm trai phải lạ ở trên đời,
Há để càn khôn tự chuyển dời.
Trong khoảng trăm năm cần có tớ
Sau này muôn thuở, há không ai?
Non sông đã chết, sống thêm nhục,
Hiền thánh còn đâu, học cũng hoài!
Muốn vượt bể Đông theo cánh gió,
Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi.
(Tôn Quang Phiệt dịch)
GỢI Ý LÀM BÀI
Xuất dương lưu biệt (Lưu biệt trước khi ra nước ngoài) là một trong những bài thơ tiêu biểu cho tư tưởng, tâm hồn và phong cách nghệ thuật của Phan Bội Châu. Bài thơ đã được bình giảng, phân tích ở nhiều tài liệu. Về nội dung, cơ bản các tài liệu thống nhất trong cách đánh giá lý tưởng của Phan Bội Châu gắn với hoàn cảnh đất nước ta lúc bấy giờ (thực dân Pháp xâm chiếm, nhân dân nô lệ, chế độ phong kiến suy tàn, bạc nhược). Tuy nhiên, về mặt nghệ thuật, có những đánh giá khác nhau. Bài thơ được viết theo thể thất ngôn bát cú luật Đường, nhưng không thể chỉ căn cứ vào hình thức thể loại để khẳng định đây là một sáng tác hoàn toàn nằm trong phạm trù văn học trung đại. Chính tư tưởng, quan niệm mới mẻ của Phan Bội Châu trước thời đại đã khiến bài thơ, cùng với nhiều sáng tác khác của ông, đánh dấu một bước chuyển mình mạnh mẽ của văn học Việt Nam trên con đường hiện đại hóa. Vì thế, Xuất dương lưu biệt chưa phải là bài Thơ mới, nhưng cũng không thuần túy là một sáng tác của những nhà nho ở thế kỉ XVIII, XIX. Khi phân tích, bình giảng cần thấy được đặc điểm này để hiểu đúng giá trị của tác phẩm.
BÀI LÀM
Trong lịch sử dân tộc Việt Nam, thời kì nào cũng xuất hiện những đấng anh hùng làm rạng danh sông núi. Có người anh hùng lẫy lừng chiến công. Có người anh hùng “thất thế nhưng vẫn hiên ngang”. Những anh hùng ấy được văn chương ghi tạc hay tự mình bày tỏ chí khí. Bài Xuất dương lưu biệt của Phan Bội Châu là một cách bày tỏ thật mạnh mẽ chí khí của đấng anh hùng trong hoàn cảnh đầy bi kịch của đất nước ta ở những thập niên đầu của thế kỉ hai mươi.
Sinh vi nam tử yếu hi kì,
Khẳng hứa càn khôn tự chuyển di.
Lập nên sự nghiệp là khát vọng của những bậc tài danh trong lịch sử. Thời nào, khát vọng ấy cũng được thể hiện. Chúng ta từng có hoài bão của Phạm Ngũ Lão:
Hoành sóc giang sơn cáp kỉ thu
Tam quẩn tì hổ khí thôn ngưu.
Nam nhi vị liễu công danh trái,
Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu.
Và, cách Phan Bội Châu trước đó không xa, là chí nam nhi của Nguyễn Công Trứ:
Thông minh nhất nam tử,
Yếu vi thiên hạ kì.
(Người con trai thông minh phải làm việc kì lạ cho thiên hạ).
Khẩu khí có lẽ giống nhau, nhưng ý tứ mồi thời đã có khác. Phạm Ngũ Lão thời Trần cảm thấy hỗ thẹn Gia Cát tiên sinh vì chưa trả xong nợ công danh. Nguyễn Công Trứ quả quyết đà là người tài trai thì phải làm nên những việc kì lạ cho thiên hạ. Dĩ nhiên, cái “công danh” hay việc “kì lạ” mà họ Phạm và họ Nguyễn từng nêu không phải là chuyện cá nhân, tất thảy đều mang ý nghĩa cao cả. Song, dù sao đi nữa cả hai ông đều nói đến sự phấn đấu của đấng nam nhi nhưng không vượt ra ngoài “con Tạo”. Có lẽ, thời Phạm Ngũ Lão, “thiên định” đang rất phù hợp với lòng người. Thời Nguyễn Công Trứ tuy có suy vi, xáo trộn, song vẫn còn đang ở trong bối cảnh chung ấy. Nhưng đến Phan Bội Châu, chuyện kinh thiên động địa đã xảy ra: non sông đất nước lần lượt rơi vào tay giặc, những người “thừa mệnh trời” vẫn còn ở đó nhưng bất lực, yếu đuối. Vì thế, chuyện “kì lạ” mà Phan Sào Nam muốn làm không phải là tôn vinh hay duy trì một trật tự đã có. Ông khao khát làm việc lớn hơn nhiều:
Khẳng hứa càn khôn tự chuyển di.
Hai câu đề đã nói khá rõ chí nam nhi của Phan Bội Châu. Soi rọi vào hoàn cảnh cụ thể của đất nước Việt Nam thời kì đó sẽ thấy sự mãnh liệt của nó. Câu thơ có thể biến thành một khẩu hiệu, một lời tuyên ngôn mới của một thế hệ, một giai đoạn lịch sử.
Hai câu thực bày tỏ niềm tin tưởng của nhà thơ vào tiền đồ của đất nước:
Ư bách niên trung tu hữu ngã,
Khởi thiên tải hậu cánh vô thùy.
Có người đã bình một ý của câu thơ này như sau: “Cụm từ “trăm năm này (hiện nay) phải có ta” đối lập cụm từ “ngàn năm sau không có ai” – câu trên khẳng định, câu dưới phủ định – thể hiện một ý thức cao cả và một nỗi lo, một dự cảm xa rộng của nhà cách mạng trẻ tuổi đối với hiện trạng đất nước lúc bấy giờ”. Thực ra, ở đây chẳng có câu phủ định nào cả. “Trong khoảng trăm năm cần có tớ / Sau này muôn thuở há không ai” là sự khẳng định một nhân cách, một tài năng, một bản ngã, dĩ nhiễn sắc thái có phần cường điệu để bày tỏ thật triệt để khát vọng của mình chứ không phải đề cao cá nhân. Vì thế, câu thơ kế tiếp cũng là một lời khẳng định dưới hình thức câu hỏi. Phan Bội Châu là bậc trượng phu luôn hiểu rõ và đề cao lịch sử, truyền thống của dân tộc. Đồng thời, ông cũng là người lại luôn có niềm tin vào những thế hệ mới. Chỉ thấy Phan Bội Châu đề cao chí khí của mình là hạ thấp một nhân cách kì vĩ và không hiểu vì sao chính ông đã luôn tìm cách đưa những người trẻ tuổi ra nước ngoài để học tập đặng trở về cứu nước.
Để thực hiện được hoài bão của mình, Phan Bội Châu phải kiếm tìm con đường cứu nước. Ở vào hoàn cảnh cụ thể của đất nước thời đó, Phan Bội Châu đã nhìn thấy trước sự thất bại nếu đứng lên khởi nghĩa khi lực lượng quá yếu so với kẻ thù. Khoa cử là con đường lập thân của biết bao đấng nam nhi ngày trước bây giờ đã không còn phù hợp, vì cả triều đình đă trở thành bù nhìn cho ngoại bang. Vì thế, hai câu luận thực chất là sự cắt nghĩa về tính tất yếu của cuộc “lưu biệt”:
Hiền thánh liêu nhiên tụng diệc si!
(Non sông đã chết, sống thêm nhục,
Hiền thánh còn đâu, học cũng hoài).
Non sông đất nước một khi đã rơi vào tay giặc coi như đã mất. Sống cam chịu, nhục nhã trong kiếp nô lệ thực chất là đã chết. “Hiền thánh” là những người kì tài, xuất chúng, nhưng cũng có nghĩa là các bậc khai sáng ra một hệ tư tưởng (Nho giáo) không còn (và bản thân hệ tư tưởng ấy không còn cơ sở hiện thực) thì việc học và xa hơn là sự lập thân bằng con đường cử nghiệp liệu có ích gì? Luận bàn về lý do mình phải ra đi như vậy thật triệt để. Có thể nói, Phan Bội Châu đã thực sự phủ định hệ tư tưởng mà mình vốn đã từng tiếp thu, Vì thế không thể xem chí làm trai của Phan Bội Châu vẫn còn nằm trong phạm trù ý thức hệ Nho gia như cố người đã từng đánh giá.
Hai câu kết là sự thể hiện khát vọng được biến hoài bão của đấng nam nhi thành hiện thực:
Nguyện trục trường phong Đông hải khứ,
Thiên trùng bạch lãng nhất tề phi.
(Muốn vượt bể Đông theo cánh gió,
Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi).
Con đường phía trước không bằng phẳng. Trái lại, đầy phong ba bão tố. Nhưng đấy mới chính là chỗ để đấng nam nhi thể hiên ý chí, khát vọng của mình.
Cuộc đời Phan Bội Châu như ông từng nhận xét, trăm lần thất bại, không một lần thành công, song ông đã sống đúng với lý tưởng, hoài bão của mình. Nhà chí sĩ không thành công trong sự nghiệp mong được cứu nước, cứu dân, nhưng hình bóng, nhân cách, tâm hồn ông vẫn luôn là một biểu tượng đẹp đẽ và hào hùng cho những thế hệ trẻ Việt Nam. Và cũng chính nhân cách, tâm hồn ấy, khi được thể hiện bằng thơ, dù trong lớp áo cũ kĩ của thể thơ thất ngôn luật Đường, đã vang lên mạnh mẽ, như khúc tráng ca, lời ly biệt trở thành tiếng thúc giục lên đường vì non sông đất nước.
Nguồn: Tài liệu văn học
|
Đề bài: Bình giảng bài Tự tình của Hồ Xuân Hương
Bài làm
Hồ Xuân Hương là một nữ thi sĩ tài ba với phong cách sáng tác thơ nôm tả cảnh ngụ tình sâu sắc cùng ý tứ chân thành nhằm giãi bày tâm sự lòng mình.
Bà là một hiện tựơng khá độc đáo trong lịch sử văn học Việt Nam, đó là nhà thơ phụ nữ viết về phụ nữ, trào phúng mà trữ tình. Nổi bật trong sáng tác của bà là tiếng nói thưong cảm đối với phụ nữ, là sự khẳng định đề cao vẻ đẹp và khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc mãnh liệt trong trái tim họ. Và một lần nữa ta bắt gặp điều đó qua những câu thơ rất đỗi chân thành trong bài thơ Tự tình 2 trong chùm thơ Tự tình được viết nên từ những cung bậc tình cảm dừơng như đang làm rối bời tâm trạng nhà thơ…
Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn
…
Mảnh tình san sẻ tí con con
Tình là gì ai biết không? Tình là vầng dương, tình là ngàn sao hay tình chỉ là vầng trăng khuyết, câu hát vang lên bằng một câu hỏi tu từ hỏi đời rằng trên thế gian còn gì hạnh phúc bằng tình yêu hay có gì làm lòng người đau khổ bằng thất bại trong tình cảm, nỗi đau khổ đó không chỉ làm bão giông trong bao trái tim người đời và trong đó có trái tim hồ xuân hương, nỗi cô đơn đã dằn vặt làm thao thức tác giả trong cái yên ắng và lạnh lùng của đêm khuya.
Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn
Trơ cái hồng nhan với nước non
Trong cái tĩnh mịch u buồn của đêm giá lạnh thoáng nghe tiếng trống canh văng vẳng từ môt chòi canh xa vọng đến báo hiệu đã nữa đêm, tiếng trống mỗi lúc một dồn dập hơn xa đến gần càng lúc như nhanh hơn trôi theo từng khoảnh khắc của thời gian và rút ngắn tuổi đời của một ng phụ nữ “hồng nhan” nhưng “trơ” đi trước cuộc đời, trước cảnh vật tựa như gỗ đá đã bị mất hết cảm giác vì bao nỗi phiền muộn đợi chờ một thứ hạnh phúc mong manh, giọng thơ trĩu xuống tăng thêm nỗi chán chường và cái cô đơn đang bủa quanh tác giả. Cách sử dụng đão ngữ nhấn mạnh thêm sự trơ trọi bẽ bàng và tủi hổ.
Trước cuộc đời, trước duyên phận hẩm hiu người phụ nữ ấy chua xót cho chính mình, thân phận lẻ loi mong manh giữa bao vùi dập của cái xã hội đầy bất công thị phi ngang trái. Thân phận hồng nhan bây giờ phải trải qua những đêm dài cay đắng cho tấm lòng thủy chung vì cuộc tình dang dở.Tiếng thở dài ngao ngán và ý nguyện muốn thoát khỏi nỗi sầu muộn dấy lên trong lòng nhưng cuối cùng cũng rơi vào bế tắc, dừong như nghịch cảnh khôg buông tha cho người phụ nữ ấy, mựợn rựou quên đi nhưng lại càng nhớ:
Chén rượu hương đưa say lại tỉnh
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn
Chén rượu cầm hững hờ trên tay mặc cho hương nồng của rựơu phả vào mặt xộc vào mũi, tác giả mong rượu có thể giải tỏa hộ nỗi lòng của mình, mong cơn say mau tìm đến để đưa ng đến một nơi yên bình dù trong thời gian ngắn ngủi cũng đỡ hơn khi phải một mình đối diện nỗi cô đơn đang giày xéo tâm can.Nhưng say rồi lại tỉnh cứ chập chờn chập chờn mơ hồ trong cái vòng lẩn quẩn.Thời gian thì cứ trôi tác giả lúc thì tỉnh để nhận ra cái éo le của cuộc đời lúc thì chìm vào cơn say quên đi bao tuyệt vọng, mong mỏi phút giây nào đếy có thể gạt dc tất cả qua một bên để sống với những khao khát của chính mình nhưng mong ứơc bé nhỏ ấy cũng bị cuốn phăng đi vô tình. Nỗi buồn tủi bắt đầu xâm chiếm, bao đêm dài thao thức đợi chờ nhưng vô vọng, chờ nhiều đợi nhiều mà hạnh phúc chẵng bao nhiêu trong khi cái xuân thì ngày càng rời xa tác giả.
Vầng trăng xuất hiện để làm chứng nhân cho bao cuộc tình mà sao khi tác giả thấy trăng thì lại không dc tròn đầy mà là hình ảnh đối lập là khuyết, phải chăng cuộc tình này cũng thế chẳng bao giờ có một cái kết trọn vẹn. Đến bao giờ thì trăng mới tròn đến khi nào thì hạnh phúc mới trong tầm tay và bao lâu nữa thì nỗi cô đơn này thôi xuất hiện làm xót lòng. Tác giả khao khát và mong chờ, nỗi niềm đó nhân lên theo ngày tháng, nhưng càng hi vọng thì càng đau khổ, bi kịch có bao giờ được kết thúc cho những người phụ nữ quá lứa lỡ thì cùng tình duyên ngang trái trong cái XHPK ngày xưa. Nỗi buồn dâng đầy trong lòng rồi lan tỏa ra không gian khắp bốn bề, khẽ đưa mắt nhìn ra khoảng trống trước mặt những hình ảnh thiên nhiên đập vào mắt và như hòa vào tâm trạng nhuốm nỗi buồn phiền của tác giả.
Xiên ngang mặt đất rêu từng đám
Đâm toạc chân mây đá mấy hòn
Câu thơ tả cảnh với cấu trúc tương phản hình ảnh những đám “rêu” bé nhỏ yếu ớt với sức mạnh “xiên ngang” cả lớp đất dày vưon lên với sức sống mãnh liệt hay “đá mấy hòn” nhưng lại có khả năng đâm toạc chân mây trứoc mắt. Thái độ phản ứng khá mạnh mẽ trứoc duyên tình lận đận thể hiện qua cả gịong thơ ngang ngạnh phản kháng và ấm ức. Thiên nhiên trong mắt nhà thơ tiềm ẩn một sức sống đang bị đè nén và đang vươn lên mãnh liệt. Ta thấy rõ được tác dụng của nghệ thuật tả cảnh ngụ tình ở hai câu thơ này, dừơng như có một điểm giống nhau giữa tâm hồn thơ và những hình ảnh thiên nhiên ấy. Rêu và đá bé nhỏ là thế nhưng chúng giống nhau ở sức sống mạnh mẽ vô cùng và nhà thơ cũng vậy.
Dù trong hoàn cảnh xót xa nhưng tâm hồn lúc nào cũng tràn đầy một niềm hy vọng, bi kịch dẫu đắng cay nhưng bằng cả nghị lực tác giả vẫn cố gắng gựơng mong chờ vựơt qua để đến bến bờ bình yên cho mình. Hai câu thơ hay ẩn dụ được khát vọng rất lớn không chỉ của riêng Hồ Xuân Hương mà là tiếng lòng chung của bao số phận hồng nhan hẩm hiu về một cuộc đời hạnh phúc hơn. Dâng tràn trong họ là tất cả hy vọng mong chờ bằng cả niềm tin dù bao nghịch cảnh. Nhưng đáng buồn thay vòng xoay cuộc đời một lần nữa làm người rơi vào bế tắc.
Cuộc đời nhà thơ là những thắng ngày buồn tủi không chỉ một mà đến hai lần người đều là vợ lẽ và âu cũng vì vậy mà bao phẫn uất kết tụ đến hồi bộc phát khi thực tại vẫn là bao chua xót não nề. Khao khát được yêu thương được sống hạnh phúc như những người phụ nữ bình thường nhưng càng vô vọng, đêm đã khuya mà nhà thơ vẫn còn trằn trọc thao thức ưu tư, nỗi đau bị dồn tụ khi tác giả nhìn lại chính mình thì cũng là lúc nỗi cô đơn đâng đầy hơn bao giờ hết trong tâm trạng chán chừờng và mệt mỏi thậm chí là thất vọng với sự thực trước mắt
Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại
Mảnh tình san sẻ tí con con
Tiếng lòng than thở của nhà thơ vang lên qua từ “ngán” được rõ nét hơn.Mùa xuân có đi rồi cũng đến ngày sẽ quay về với thiên nhiên nhưng còn tình duyên thì mới bao giờ trở lại với con tim chung tình đang chịu nỗi đau.Tuổi xuân người phụ nữ trôi nhanh nhưng cũng không bằng cuộc tình dang dở, hạnh phúc ngắn ngủi để rồi bây giờ chỉ còn nhà thơ quạnh hiu trong nỗi cô đơn đang ngấm buốt tê lòng. Tình duyên lỡ làng tan vỡ như mảnh vụn chỉ dành nhà thơ được một chút nhưng lại phải “san sẻ” để còn trong nhà thơ là “tí con con”. Buộc lòng cam chịu cảnh ngộ đơn chiếc đang ngày đêm trải qua sự đợi chờ mỏi mòn. Nỗi đau như thế chưa đủ hay sao mà còn tình cảm nhận được chẳng những quá ít mà còn quá vô tình, quá hờ hững.
Câu thơ tả thực nỗi chua chát ngấm từ trong lòng. Nỗi trống trải cô đơn làm tác giả chán nản nới những mong chờ mà đáp lại chỉ là sự lành lùng tàn nhẫn. Mổi từ như một giọt nước mắt rưng rưng chỉ chực trào ra theo những tủi hờn trách móc. Có mấy ai hiểu được những gì đang hành hạ tâm hồn mỏng manh của người, thấu chăng nơi đây đang có bóng hình chờ và đợi. Đau lắm nhưng cũng phải tự nén lòng và nuốt nghẹn đắng vào trong. Cuộc đời thì cứ đùa cợt trêu đùa với những người làm vợ lẽ, phải chịu bao phân biệt và bất công có ai thấu hiểu dùm.
Cố đấm ăn xôi xôi lại hỏng
Cầm lòng làm mướn mướn không công
Cả bài thơ là muôn vàn sắc thái tình cảm của nhà thơ có buồn có hờn có giận có chua chát có lúc phản kháng dữ dội nhưng rồi chán chường vì thất vọng. Tiếng thơ táo bạo chân thành thễ hiện khát vọng mưu cầu hạnh phúc lứa đôi của bao hồng nhan trong xã hội phong kiến bấy giờ, qua đó đã dẫn dắt cho người đọc đi vào thế giới tâm hồn đa dạng của họ và có cơ hội cảm thông với bao nỗi buồn mà họ phải gánh chịu.Ngôn ngữ thơ mang đậm chất dân gian được sử dụng khéo léo giàu sức biểu cảm tinh tế. Tài thơ nôm của Hồ Xuân Hương còn thể hiện qua việc viết thơ đường luật bằng tiếng Việt thật tài tình, quả không hổ danh là bà chúa thơ nôm.
|
Đề bài: Bình giảng bài Tự tình của Hồ Xuân Hương
Bài làm
Hồ Xuân Hương là một nữ thi sĩ tài ba với phong cách sáng tác thơ nôm tả cảnh ngụ tình sâu sắc cùng ý tứ chân thành nhằm giãi bày tâm sự lòng mình.
Bà là một hiện tựơng khá độc đáo trong lịch sử văn học Việt Nam, đó là nhà thơ phụ nữ viết về phụ nữ, trào phúng mà trữ tình. Nổi bật trong sáng tác của bà là tiếng nói thưong cảm đối với phụ nữ, là sự khẳng định đề cao vẻ đẹp và khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc mãnh liệt trong trái tim họ. Và một lần nữa ta bắt gặp điều đó qua những câu thơ rất đỗi chân thành trong bài thơ Tự tình 2 trong chùm thơ Tự tình được viết nên từ những cung bậc tình cảm dừơng như đang làm rối bời tâm trạng nhà thơ…
Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn
…
Mảnh tình san sẻ tí con con
Tình là gì ai biết không? Tình là vầng dương, tình là ngàn sao hay tình chỉ là vầng trăng khuyết, câu hát vang lên bằng một câu hỏi tu từ hỏi đời rằng trên thế gian còn gì hạnh phúc bằng tình yêu hay có gì làm lòng người đau khổ bằng thất bại trong tình cảm, nỗi đau khổ đó không chỉ làm bão giông trong bao trái tim người đời và trong đó có trái tim hồ xuân hương, nỗi cô đơn đã dằn vặt làm thao thức tác giả trong cái yên ắng và lạnh lùng của đêm khuya.
Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn
Trơ cái hồng nhan với nước non
Trong cái tĩnh mịch u buồn của đêm giá lạnh thoáng nghe tiếng trống canh văng vẳng từ môt chòi canh xa vọng đến báo hiệu đã nữa đêm, tiếng trống mỗi lúc một dồn dập hơn xa đến gần càng lúc như nhanh hơn trôi theo từng khoảnh khắc của thời gian và rút ngắn tuổi đời của một ng phụ nữ “hồng nhan” nhưng “trơ” đi trước cuộc đời, trước cảnh vật tựa như gỗ đá đã bị mất hết cảm giác vì bao nỗi phiền muộn đợi chờ một thứ hạnh phúc mong manh, giọng thơ trĩu xuống tăng thêm nỗi chán chường và cái cô đơn đang bủa quanh tác giả. Cách sử dụng đão ngữ nhấn mạnh thêm sự trơ trọi bẽ bàng và tủi hổ.
Trước cuộc đời, trước duyên phận hẩm hiu người phụ nữ ấy chua xót cho chính mình, thân phận lẻ loi mong manh giữa bao vùi dập của cái xã hội đầy bất công thị phi ngang trái. Thân phận hồng nhan bây giờ phải trải qua những đêm dài cay đắng cho tấm lòng thủy chung vì cuộc tình dang dở.Tiếng thở dài ngao ngán và ý nguyện muốn thoát khỏi nỗi sầu muộn dấy lên trong lòng nhưng cuối cùng cũng rơi vào bế tắc, dừong như nghịch cảnh khôg buông tha cho người phụ nữ ấy, mựợn rựou quên đi nhưng lại càng nhớ:
Chén rượu hương đưa say lại tỉnh
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn
Chén rượu cầm hững hờ trên tay mặc cho hương nồng của rựơu phả vào mặt xộc vào mũi, tác giả mong rượu có thể giải tỏa hộ nỗi lòng của mình, mong cơn say mau tìm đến để đưa ng đến một nơi yên bình dù trong thời gian ngắn ngủi cũng đỡ hơn khi phải một mình đối diện nỗi cô đơn đang giày xéo tâm can.Nhưng say rồi lại tỉnh cứ chập chờn chập chờn mơ hồ trong cái vòng lẩn quẩn.Thời gian thì cứ trôi tác giả lúc thì tỉnh để nhận ra cái éo le của cuộc đời lúc thì chìm vào cơn say quên đi bao tuyệt vọng, mong mỏi phút giây nào đếy có thể gạt dc tất cả qua một bên để sống với những khao khát của chính mình nhưng mong ứơc bé nhỏ ấy cũng bị cuốn phăng đi vô tình. Nỗi buồn tủi bắt đầu xâm chiếm, bao đêm dài thao thức đợi chờ nhưng vô vọng, chờ nhiều đợi nhiều mà hạnh phúc chẵng bao nhiêu trong khi cái xuân thì ngày càng rời xa tác giả.
Vầng trăng xuất hiện để làm chứng nhân cho bao cuộc tình mà sao khi tác giả thấy trăng thì lại không dc tròn đầy mà là hình ảnh đối lập là khuyết, phải chăng cuộc tình này cũng thế chẳng bao giờ có một cái kết trọn vẹn. Đến bao giờ thì trăng mới tròn đến khi nào thì hạnh phúc mới trong tầm tay và bao lâu nữa thì nỗi cô đơn này thôi xuất hiện làm xót lòng. Tác giả khao khát và mong chờ, nỗi niềm đó nhân lên theo ngày tháng, nhưng càng hi vọng thì càng đau khổ, bi kịch có bao giờ được kết thúc cho những người phụ nữ quá lứa lỡ thì cùng tình duyên ngang trái trong cái XHPK ngày xưa. Nỗi buồn dâng đầy trong lòng rồi lan tỏa ra không gian khắp bốn bề, khẽ đưa mắt nhìn ra khoảng trống trước mặt những hình ảnh thiên nhiên đập vào mắt và như hòa vào tâm trạng nhuốm nỗi buồn phiền của tác giả.
Xiên ngang mặt đất rêu từng đám
Đâm toạc chân mây đá mấy hòn
Câu thơ tả cảnh với cấu trúc tương phản hình ảnh những đám “rêu” bé nhỏ yếu ớt với sức mạnh “xiên ngang” cả lớp đất dày vưon lên với sức sống mãnh liệt hay “đá mấy hòn” nhưng lại có khả năng đâm toạc chân mây trứoc mắt. Thái độ phản ứng khá mạnh mẽ trứoc duyên tình lận đận thể hiện qua cả gịong thơ ngang ngạnh phản kháng và ấm ức. Thiên nhiên trong mắt nhà thơ tiềm ẩn một sức sống đang bị đè nén và đang vươn lên mãnh liệt. Ta thấy rõ được tác dụng của nghệ thuật tả cảnh ngụ tình ở hai câu thơ này, dừơng như có một điểm giống nhau giữa tâm hồn thơ và những hình ảnh thiên nhiên ấy. Rêu và đá bé nhỏ là thế nhưng chúng giống nhau ở sức sống mạnh mẽ vô cùng và nhà thơ cũng vậy.
Dù trong hoàn cảnh xót xa nhưng tâm hồn lúc nào cũng tràn đầy một niềm hy vọng, bi kịch dẫu đắng cay nhưng bằng cả nghị lực tác giả vẫn cố gắng gựơng mong chờ vựơt qua để đến bến bờ bình yên cho mình. Hai câu thơ hay ẩn dụ được khát vọng rất lớn không chỉ của riêng Hồ Xuân Hương mà là tiếng lòng chung của bao số phận hồng nhan hẩm hiu về một cuộc đời hạnh phúc hơn. Dâng tràn trong họ là tất cả hy vọng mong chờ bằng cả niềm tin dù bao nghịch cảnh. Nhưng đáng buồn thay vòng xoay cuộc đời một lần nữa làm người rơi vào bế tắc.
Cuộc đời nhà thơ là những thắng ngày buồn tủi không chỉ một mà đến hai lần người đều là vợ lẽ và âu cũng vì vậy mà bao phẫn uất kết tụ đến hồi bộc phát khi thực tại vẫn là bao chua xót não nề. Khao khát được yêu thương được sống hạnh phúc như những người phụ nữ bình thường nhưng càng vô vọng, đêm đã khuya mà nhà thơ vẫn còn trằn trọc thao thức ưu tư, nỗi đau bị dồn tụ khi tác giả nhìn lại chính mình thì cũng là lúc nỗi cô đơn đâng đầy hơn bao giờ hết trong tâm trạng chán chừờng và mệt mỏi thậm chí là thất vọng với sự thực trước mắt
Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại
Mảnh tình san sẻ tí con con
Tiếng lòng than thở của nhà thơ vang lên qua từ “ngán” được rõ nét hơn.Mùa xuân có đi rồi cũng đến ngày sẽ quay về với thiên nhiên nhưng còn tình duyên thì mới bao giờ trở lại với con tim chung tình đang chịu nỗi đau.Tuổi xuân người phụ nữ trôi nhanh nhưng cũng không bằng cuộc tình dang dở, hạnh phúc ngắn ngủi để rồi bây giờ chỉ còn nhà thơ quạnh hiu trong nỗi cô đơn đang ngấm buốt tê lòng. Tình duyên lỡ làng tan vỡ như mảnh vụn chỉ dành nhà thơ được một chút nhưng lại phải “san sẻ” để còn trong nhà thơ là “tí con con”. Buộc lòng cam chịu cảnh ngộ đơn chiếc đang ngày đêm trải qua sự đợi chờ mỏi mòn. Nỗi đau như thế chưa đủ hay sao mà còn tình cảm nhận được chẳng những quá ít mà còn quá vô tình, quá hờ hững.
Câu thơ tả thực nỗi chua chát ngấm từ trong lòng. Nỗi trống trải cô đơn làm tác giả chán nản nới những mong chờ mà đáp lại chỉ là sự lành lùng tàn nhẫn. Mổi từ như một giọt nước mắt rưng rưng chỉ chực trào ra theo những tủi hờn trách móc. Có mấy ai hiểu được những gì đang hành hạ tâm hồn mỏng manh của người, thấu chăng nơi đây đang có bóng hình chờ và đợi. Đau lắm nhưng cũng phải tự nén lòng và nuốt nghẹn đắng vào trong. Cuộc đời thì cứ đùa cợt trêu đùa với những người làm vợ lẽ, phải chịu bao phân biệt và bất công có ai thấu hiểu dùm.
Cố đấm ăn xôi xôi lại hỏng
Cầm lòng làm mướn mướn không công
Cả bài thơ là muôn vàn sắc thái tình cảm của nhà thơ có buồn có hờn có giận có chua chát có lúc phản kháng dữ dội nhưng rồi chán chường vì thất vọng. Tiếng thơ táo bạo chân thành thễ hiện khát vọng mưu cầu hạnh phúc lứa đôi của bao hồng nhan trong xã hội phong kiến bấy giờ, qua đó đã dẫn dắt cho người đọc đi vào thế giới tâm hồn đa dạng của họ và có cơ hội cảm thông với bao nỗi buồn mà họ phải gánh chịu.Ngôn ngữ thơ mang đậm chất dân gian được sử dụng khéo léo giàu sức biểu cảm tinh tế. Tài thơ nôm của Hồ Xuân Hương còn thể hiện qua việc viết thơ đường luật bằng tiếng Việt thật tài tình, quả không hổ danh là bà chúa thơ nôm.
|
Bình giảng bài ‘Tuyệt cú’ trong chùm thơ bốn bài của Đỗ Phủ
Hướng dẫn
Tuyệt cú
Lưỡng cá hoàng li minh thúy liễu,
Nhất hàng bạch lộ thướng thanh thiên.
Song hàm Tây Lĩnh thiên thu tuyết,
Môn bạc Đông Ngô vạn lí thuyền.
Đỗ Phủ
Đôi chim oanh vàng hót trong liễu biếc,
Một hàng cò trắng bay lên trời xanh.
Cửa sổ ngậm tuyết Tây Lĩnh đọng hàng nghìn năm, Trước cửa, thuyền Đông Ngô từ muôn dặm đến đỗ.
Hai cái oanh vàng kêu liễu biếc Một hàng cò trắng vút trời xanh.
Nghìn năm tuyết núi song in sắc,
Muôn dặm thuyền Ngô cửa rập rình.
Tản Đà dịch
Liễu xanh hót cặp oanh vàng,
Trời xanh trắng điểm một hàng cò bay.
Song lồng mái tuyết non Tây,
Thuyền Ngô muôn dặm đổ ngay cửa ngoài.
Tương Như dịch
Gợi ý làm bài
… đã bị gió thu thổi tốc mái. Sau đó, gia đình nhà thơ đã xuống ở trong một chiếc thuyền trên sông Tương bồng bềnh theo sóng nước.
Có người gọi bài ‘Tuyệt cú’ này là một bức tranh tứ bình tuyệt mĩ. Mỗi câu thơ là một bức tiểu họa xinh xắn. Câu thứ nhất có hình ảnh khóm liễu xanh biếc, trong đó cất lên tiếng hót của đôi chim oanh vàng. Bức tranh đẹp lộng lẫy: nổi lên trên nền biếc của liễu là màu Vàng của đôi chim oanh bé nhỏ hót ríu rít. Thơ vừa có nhạc vừa có họa đầy mĩ lệ và ấn tượng:
Câu thơ thứ hai tả bầy cò ở phía xa và trên tầm cao. Cò trắng bay thành hàng, bay hướng lên trời xanh, sắc trắng của hàng cò nổi bật trên nền xanh của bầu trời. Bức tiểu họa này cho thấy nghệ thuật phối sắc thần tình. Đàn cò được miêu tả trong trạng thái ‘động’ đang bay giữa trời xanh: ‘Một hàng cò trắng vút trời xanh’.
Câu 1 và câu 2 được cấu trúc đăng đối hài hòa. Cảnh vật thiên nhiên đang cùng tồn tại, vật này cảnh này hòa hợp với vật kia, cảnh kia:
‘Hai cái oanh vàng kêu liễu biếc,
Một hàng cò trắng vút trời xanh’
‘Hai cái oanh vàng hót’đối với ‘một hàng cò trắng bay’, ‘liễu biếc’ đối với ‘trời xanh’. Thiên nhiên vốn đẹp như vậy. Có liễu biếc và trời xanh, có oanh vàng và hàng cò trắng. Màu sắc tươi sáng, rực rỡ: vàng, biếc, xanh. Có liễu bay, chim hót, có hàng cò vỗ cánh giữa trời xanh. Có điểm và diện, có cái nhỏ bé và cái bao la. Thật là mĩ lệ và thần tình trong bút pháp miêu tả.
Càu thứ 3 đích thực là cảnh thu phương Bắc rồi. Ở câu thơ trên mới nói đến trời xanh, câu này nói đến núi tuyết. Cảnh sắc bao la một màu ‘thiên thu tuyết’–,
tuyết trùm lên các đỉnh non Tây, tuyết tràn ra ‘cửa sổ ngậm tuyết’. Cả không gian là một màu trắng lạnh, vắng lặng mênh mông. Nhà thơ hình như đang đứng trong con thuyền – ngôi nhà mình, vén bức màn thư nơi cửa sổ khoang thuyền bâng khuâng ngắm tuyết:
Câu thứ tư miêu tả dòng sông tương. Có cơ man nào thuyền Đông Ngô từ muôn dặm đến đỗ trước cửa – con thuyền nhà thơ. Hình ảnh những thuyền từ Đông Ngô xa muôn dặm đến đã gợi lên trong lòng nhà thơ – kẻ tha hương biết bao nỗi niềm: ’.
‘Muôn dặm thuyền Ngô của rập rình’
Nhiều nhà nghiên cứu thơ Đường cho rằng Đỗ Phủ dùng hình ảnh những chiếc thuyền này để gửi gắm ý định rời Tứ Xuyên đi về phía Đông rồi vòng lên quê nhà tại Hà Nam. Trong những bài thơ cuối đời, Đỗ Phủ luôn gửi gắm ý định về quê vào hình ảnh những chiếc thuyền:
– ‘Con thuyền buộc chặt mối tình nhà’…
(Thu hứng)
‘Bạn bè một chữ vẫn không,
Thán già ma bệnh chiếc bồng lẻ loi…’
(Lên lầu Nhạc Dương)
Hai câu thơ 3, 4 cũng cấu trúc đăng đối: ‘ngoài song’với ‘trước cửa’, ‘Tây Lĩnh’với ‘Đông Ngô’, ‘thiên thu tuyết’với ‘vạn lí thuyền’đã làm hiện lên bức
tranh thu lạnh lẽo, mênh mông, xa vời; bức tranh thiên nhiên ấy trải dài, trải rộng trên một không gian tuyết đầy núi, thuyền đầy sông. Cảnh đẹp mà lòng nhà thơ nhiều man mác:
‘Song hàm Tây Lĩnh thiên thu tuyết,
Môn bạc Đông Ngô vạn lý thuyền’ ị Song lồng mái tuyết non Tây,
Thuyền Ngô muôn dặm đố ngay cửa ngoài)
Bài thơ này chỉ có hai vần: ‘thiên’ câu 2 vần với ‘thuyền’ câu 4. Câu 1 và 2 câu 3 và 4 đối nhau từng cặp một. Có thể nói bài tuyệt cú này là hình ảnh phần thực và phần luận của một bài thơ thất ngôn bát cú Đường luật.Mỗi câu thơ là một cảnh thu. Câu nào cũng có màu sắc, đường nét hoặc âm thanh. Có chim hót, liễu buông, có cò bay, có sắc biếc của liễu, có màu trắng bầy cò xếp hàng chữ nhất trên nền trời xanh, có màu trắng tuyết lạnh của Tây Lĩnh,… Cảnh đẹp nhưng chứa ẩn bao nỗi niềm của kẻ tha hương: gia cảnh nghèo, tuổi già, lắm bệnh, bâng khuâng nhớ quê buổi thu về.
|
Binh lectures on the poem 'Great Owl' in a series of four poems by Do Phu
Instruct
Awesome
Two royal fish li ming thuy willow,
One row of white roads resembles the clear sky.
Song Han Tay Linh autumn snow,
Dong Ngo silver gate with thousands of ships.
Do Phu
A pair of golden robins sing in the willow trees,
A row of white storks flew into the blue sky.
The window is filled with Tay Linh snow that has accumulated for thousands of years. In front of the door, Dong Ngo boats come from miles away to park.
Two golden birds chirping loudly. A row of white storks soar into the blue sky.
Thousands of years of snow and mountains,
Thousands of miles of Ngo boats lurking at the door.
Translated by Tan Da
The green willow sings with a pair of golden trumpets,
The blue and white sky is dotted with a row of storks flying.
Twin nests of snowy roofs in the West,
The thousand-mile Ngo boat crashed right at the outside door.
Tuong Nhu translated
Suggestions for homework
... was blown away by the autumn wind. After that, the poet's family got into a boat on the Tuong River, floating with the waves.
Some people call this song 'Great Owl' a beautiful four-square painting. Each verse is a lovely miniature. The first sentence has the image of a green willow cluster, in which the song of a pair of golden robins is heard. The picture is gorgeous: emerging on the blue background of the willows is the yellow color of a pair of small robins chirping. Poetry has both music and beautiful and impressive paintings:
The second verse describes a flock of storks in the distance and at high altitude. White storks fly in a row, flying towards the blue sky, the white color of the stork row stands out against the blue background of the sky. This miniature shows the magical art of color mixing. The flock of storks is described in a 'dynamic' state, flying in the blue sky: 'A row of white storks soar into the blue sky'.
Sentences 1 and 2 are structured in harmony. Natural scenes are coexisting, this object and this scene are in harmony with that object and that scene:
'Two golden bombs make a loud noise,
A row of white storks soaring into the blue sky'
'Two golden birds sing' for 'a row of white storks flying', 'blue willow' for 'the blue sky'. Nature is inherently beautiful like that. There are willows and blue sky, there are yellow roses and rows of white storks. Bright, vibrant colors: yellow, blue, green. There are willows flying, birds singing, and rows of storks flapping their wings in the blue sky. There are points and aspects, there is the small and the vast. It is truly beautiful and magical in its descriptive style.
The third scene is truly a northern autumn scene. In the above verse, we only mention the blue sky, this verse refers to the snowy mountains. The vast landscape is the color of 'autumn snow' -,
Snow covers the peaks of the Western mountains, snow pours out of the 'snow windows'. The whole space is cold white, immense silence. The poet seems to be standing in the boat - his house, lifting the curtain at the cabin window and wistfully admiring the snow:
The fourth sentence describes the soy sauce river. There are countless Dong Ngo boats from thousands of miles away to park in front of the door - the poet's boat. The image of boats coming from Dong Ngo thousands of miles away evoked so many feelings in the heart of the poet - an exile: '.
'Thousands of miles of Ngo's boats lurking'
Many researchers of Tang poetry believe that Du Fu used the image of these boats to convey his intention to leave Sichuan to go east and then return to his hometown in Henan. In his late poems, Do Phu always conveyed his intention to return home in the images of boats:
– ‘The boat that binds family love’…
(Inspiration)
'Friends are still nothing,
The old ghost is sick and alone in a lonely basket...'
(Upstairs Nhac Duong)
The two verses 3 and 4 also have a parallel structure: 'outside the river' with 'in front of the door', 'Tay Linh' with 'Dong Ngo', 'autumn snow' with 'ten thousand li boats', creating a picture of
The autumn painting is cold, vast, distant; That picture of nature stretches and spreads across a space of snow full of mountains and boats full of rivers. The scene is beautiful but the poet's heart is filled with sadness:
'Double Ham Tay Linh autumn snow,
The East's silver gate, thousands of miles of boats' pooping, The snowy roofs of the West's mountains,
Ngo boat is miles away right outside the door)
This poem has only two rhymes: 'thien' in line 2 rhymes with 'boat' in line 4. Lines 1 and 2, lines 3 and 4 are opposite each other in pairs. It can be said that this poem is the image of the real part and the argument part of a seven-word, eight-syllable Tang luat poem. Each verse is an autumn scene. Every sentence has colors, lines or sounds. There are birds singing, willows falling, storks flying, the blue color of willows, the white flock of storks lined up against the blue sky, the cold white snow of Tay Linh,... The scene is beautiful but contains so many hidden feelings. expatriates: poor family background, old age, many illnesses, wistfully missing their homeland in the fall.
|
Bình giảng bài ‘Tụng giá hoàn kinh sư’của Trần Quang Khải
Hướng dẫn
…Sau chiến thắng Hàm Tử, rồi chiến thắng Chương Dương năm 1285, trong ngày vui đất nước được giải phóng, Trần Quang Khải vinh dự đón nhà vua về Kinh đô. Trên đường đi, ông đã hứng khởi sáng tác bài thơ ‘Tụng giá hoàn kinh sư’.Bàithơ nguyên văn bằng chữ Hán, theo thể thơ Đường ngũ ngôn tứ tuyệt, toàn bài bốn câu, mỗi câu năm tiếng tuyệt hay. Tác phẩm thuộc loại biểu ý là chính, nhưng đằng sau những ý tưởng lớn lao vẫn dạt dào biết bao cảm xúc sâu lắng. Đây là khúc khải hoàn đầu tiêncủa dân tộc trong công cuộc kháng chiến chống ngoại xâm.
Trước thời đại nhà Trần, dân tộc ta từng đã nhiều lần đánh tan bọn giặc ngoại xâm. Nhưng sau những chiến công ấy, chúng ta chưa được đọc, được nghe một tác phẩm văn chương nào viết về chiến thắng, hoan ca khúc khải hoàn. Do đó,, bài thơ ‘Phò giá về kinh’ của vị thượng tướng – thi sĩ không những có tính lịch sử mà còn có giá trị văn chương. Chúng ta hãy đọc nguyên tác bài thơ phiên âm chữ Hán:
‘Đoạt sáo Chương Dương độ,
Cầm Hồ Hàm Tử quan.
Thái bình tu trí lực,
Vạn cổ thử giang san’.
Và đọc bản dịch thơ của Trần Trọng Kim:
‘Chương Dương cướp giáo giặc,
Hàm Tử bắt quân thù.
Thái bình nên gắng sức,
Non nước ấy ngàn thu’.
bố cục tác phẩm gồm hai phần khá mạch lạc. Hào khí chiến thắng được thể hiện ở hai câu đầu:
‘Chương Dương cướp giáo giặc,
Hàm Tử bắt quân thù’
Tìm hiểu lịch sử, ta biết rằng trong công cuộc kháng chiến chống giặc Mông – Nguyên đời Trần, quân dân ta đã giành nhiều chiến thắng trong nhiều chiến dịch, nổi tiếng nhít là chiến thắng trên sông Bạch Đằng. Nhưng Trần Quang Khải chỉ nói tới hai chiến thắng ở Chương Dương và Hàm Tử. Tại sao? Phải chăng đây là hai chiến dịch tiêu biểu, có tính quyết định để giành thắng lợi cuối cùng? Phải chăng nhờ hai chiến thắng này, xa giá nhà vua và cả triều đình sau thời gian sơ tán, tạm lánh về nông thôn, được trở về kinh đô, vui lắm, phấn khởi lắm, đáng làm thơ, đáng ca hát lắm? Trong thực tế, chiến thắng Hàm Tử diễn ra trước (tháng 4 năm 1285), chiến thắng Chương Dương sau (tháng 6 năm 1285). Tại sao tác giả nêu Chương Dương trước, sau đó là Hàm Tử? Đây cũng là câu hỏi thú vị.
Có lẽ vì thế trong phút ngẫu hứng, vị thượng tướng đã nhắc ngay tới Chương Dương, rồi mới hồi tưởng Hàm Tử. Trong cả hai chiến dịch Chương Dương và Hàm Tử, chắc quân dân ta đã chiến đấu vô cùng dũng cảm, khí thế trận mạc vô cùng sôi động, thành tích chiến đấu vô cùng phong phú… Song, tác giả chí đúc lại trong hai câu thơ ngắn gọn, mười âm tiết. Ớ mỗi chiến thắng, cũng đúc lại bằng hai từ: ‘Đoạt sáo’ (cướp giáo), ‘cẩm Hồ’ (bắt quân Hồ). Cần chú ý câu thơ nguyên tác ‘đoạt sáo’. ‘Đoạt’ nghĩa gốc là ‘lấy hẳn được về cho mình qua đấu tranh với người khác’w. Như vậy, dùng từ ‘đoạt sáo’, nhà thơ vừa ghi chiến công, vừa ngợi ca hành động chính nghĩa và dũng cảm của quân dân ta. Bản dịch dùng từ ‘cướp giáo’ làm giảm phần nào vẻ đẹp của chiến thắng, Ở Chương Dương, ta giành được gươm giáo, vũ khí quàn giặc. Còn ở Hàm Tử, ta bắt được quân tướng của chúng.
Mỗi chiến dịch một thành tích khác nhau bổ sung cho nhau, thật hài hòa, toàn diện. Trong chiến trận, chắc có thương vong, quân giặc chắc bị ta tiêu diệt, giết chết, đuổi chạy khá nhiều. Nhưng lời thơ không nói tới cảnh máu chảy, đầu rơi, mà chỉ nhắc hai hành động ‘đoạt sáo’, ‘cầm Hồ’. Cách nói ấy nhẹ mà sâu, biểu hiện rõ mục đích chiến đấu của dân tộc ta không phải là chém giết mà là giành lại nền độc lập, bắt kẻ thù phải quy thuận, trả lại non sông, đất nước cho ta.
Xuống hai câu dưới, âm điệu thơ như lắng lại. Nhà thơ suy nghĩ về tương lại đất nước:
Thái bình nên gắng sức,
Non nước ấy ngàn thu.
Đây là lời tự nhủ của vị thượng tướng về ngày mai của đất nước, cũng là lời nhắn nhủ toàn thể quân dân ta bấy giờ. Tiếng nói, khát vọng, của một người đã trở thành ý nghĩ, quyết tâm của toàn dân tộc. Trần Quang Khải tự nhắc mình nêu cao trách nhiệm, cố gắng ‘tu trí lực’, tức là rèn luyện, tu dưỡng tài năng, sức lực. Đồng thời động viên quân dân ‘gắng sức, đồng lòng’ phát huy thành quả chiến thắng để xây dựng đất nước thanh bình bền vững dài lâu. Câu thơ kết ‘Vạn cổ thử giang san’ vừa chỉ ra cái đích đi tới của đất nước vừa bày tỏ lòng mong muốn, niềm khát khao mãnh liệt về một tương lai tươi sáng muôn đời của dân tộc. Nghĩa của thơ biểu ý, nhưng nhạc của thơ biểu cảm. Lời răn dạy hài hòa niềm tin, niềm hi vọng.
Ba năm sau khi bài thơ ‘Tụng giá hoàn kinh sư’ ra đời, vào tháng 4 năm 1288, trong buổi tế thần tại Chiêu Lăng (lăng vua Trần Thái Tông), đức vua Trần Nhân Tông đã ngẫu hứng đọc hai câu thơ:
Xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã,
(Xã tắc hai phen chồn ngựa đá,
Non sông nghìn thuở vững âu vàng’
Phải chăng hai câu thơ trên của nhà vua đã đồng vọng với bài thơ Tụng giá hoàn kinh sư của thượng tướng Trần Quang Khải? Và phải chăng đấy cũng chính là hào khí của cả dân tộc ta thời đại nhà Trần, mà sau này người đời gọi là Hàokhí Đông – A? Hào khí Đông – A nghĩa là thế nào? Đông A là chiết tụ tên họ Trần, gồm hai chữ: Chữ Đông ghép với chữ A trong Hán tự. Hào khí Đông A là lòng yêu.nước, niềm tự hào dân tộc, là khí thế, quyết tâm lớn lao của quân dân đời Trần trong sự nghiệp chống ngoại xâm và xây dựng đất nước thanh bình, bền vững. Hào khí Đông A không chí là tư tưởng, tâm hồn của con người mà còn là nội dung tư tưởng, là âm hưởng bao trùm trong rất nhiều tác phẩm thơ văn Việt Nam thời nhà Trần, thế kỉ XII, XIII.
Trở lại với bài thơ Phò giá về kinh của Trần Quang Khải, ta thấy bài thơ thật ngắn gọn, hàm súc, biểu ý sâu SẶC, biểu cảm dạt dào. Trong bài thơ có nhiều từ Hán Việt, nhưng khá quen thuộc với chúng ta ngày nay, như: ‘Chương Dương độ, Hàm Tử quan, thái bình, trí lực, vạn cổ, giang sơn’. Do đó, đọc thơ, chịu khó tìm tòi, suy ngẫm, chúng ta vẫn hiểu được và rung cảm được với ý thơ, hồn thơ của tác giả – người sống cách chúng ta gần một ngàn năm.
Nếu ta gọi bài thơ ‘Sông núi nước Nam’là bản Tuyên ngôn độc lập đầu tiên, thì cũng có thể coi ‘Phò giá về kinh’là khúc khải hoàn ca đầu tiên trong lịch sử chống ngoại xâm và trong lịch sử văn học Việt Nam. Bằng hình thức diễn đạt cô đúc, dồn nén cảm xúc vào bên trong ý tưởng, bài thơ ‘Phò giá về kinh’ đã thể hiện hào khí chiến thắng và khát vọng lớn lao của dân tộc ta ỏ thời đại nhà Trần.
|
Binh lectures on the lesson 'Chanting the Complete Sutra' by Tran Quang Khai
Instruct
...After the Ham Tu victory, then the Chuong Duong victory in 1285, on the happy day the country was liberated, Tran Quang Khai honorably welcomed the king back to the capital. On the way, he was inspired to compose the poem 'Chanting Gia Hoan Kinh Su'. The poem was originally written in Chinese characters, following the Tang poetic style of five words and four absolute words, the entire poem has four lines, each sentence has five beautiful words. The work is mainly symbolic, but behind the great ideas there are still many deep emotions. This is the nation's first triumph in the resistance war against foreign invaders.
Before the Tran Dynasty, our people defeated foreign invaders many times. But after those victories, we have not read or heard any literary works about victory and triumphant songs. Therefore, the poem 'Reporting to the capital' by the general - the poet is not only historical but also has literary value. Let's read the original poem transliterated in Chinese:
‘Winning the flute of Chuong Duong Do,
Cam Ho Ham Tu Quan.
Peaceful cultivation of wisdom,
Eternal life tries the river'.
And read the translation of Tran Trong Kim's poem:
'Chang Duong stole the enemy's spear,
Ham Tu captured the enemy.
Peace should strive,
That country is thousands of years old'.
The composition of the work consists of two quite coherent parts. The spirit of victory is expressed in the first two sentences:
'Chang Duong stole the enemy's spear,
Ham Tu captured the enemy'
Studying history, we know that during the resistance war against the Mongol - Yuan invaders during the Tran Dynasty, our army and people won many victories in many campaigns, the most famous being the victory on the Bach Dang River. But Tran Quang Khai only mentioned two victories at Chuong Duong and Ham Tu. Why? Are these two typical, decisive campaigns for ultimate victory? Is it possible that thanks to these two victories, the king and the whole court, after being evacuated and temporarily retreating to the countryside, returned to the capital, very happy, very excited, worth writing poetry, worth singing about? In reality, the Ham Tu victory took place first (April 1285), the Chuong Duong victory came later (June 1285). Why does the author mention Chuong Duong first, then Ham Tu? This is also an interesting question.
Perhaps that's why, in a moment of improvisation, the general immediately mentioned Truong Duong, then recalled Ham Tu. In both the Chuong Duong and Ham Tu campaigns, our army and people must have fought extremely bravely, the battle atmosphere was extremely exciting, and the combat achievements were extremely rich... However, the author summarizes in two Short verse, ten syllables. Every victory is summed up in two words: 'Dooc the flute' (capture the spear), 'cam Ho' (capture the Ho army). It is important to pay attention to the original poem 'winning the flute'. 'Obtain' the original meaning is 'to take back for yourself through fighting with others'w. Thus, using the word 'winning the flute', the poet both recorded the victory and praised the righteous and courageous actions of our people and soldiers. The translation uses the word 'stealing spears' which somewhat reduces the beauty of victory. In Chuong Duong, we won swords and spears, weapons to defeat the enemy. And in Ham Tu, we captured their general.
Each campaign has a different achievement that complements each other, truly harmonious and comprehensive. In battle, there will certainly be casualties, the enemy troops will probably be destroyed, killed, and chased away quite a lot by us. But the poem does not mention the scenes of blood flowing or heads falling, but only mentions the two actions of 'taking the flute' and 'holding the lake'. That way of speaking is light but profound, clearly demonstrating that our nation's fighting purpose is not to kill but to regain independence, force the enemy to submit, and return the mountains and country to us.
In the two sentences below, the poetic tone seems to calm down. The poet thinks about the future of the country:
Peace should strive,
That country is thousands of years old.
This was the general's self-talk about the country's future, and also a message to all our people and soldiers at that time. The voice and aspirations of one person have become the thoughts and determination of the entire nation. Tran Quang Khai reminded himself to uphold his responsibility and try to 'cultivate his mind', that is, practice and cultivate his talents and strength. At the same time, encourage the army and people to 'try their best and unite' to promote the results of victory to build a long-lasting, peaceful country. The concluding line of the poem "Van Co Tri Giang San" not only points to the country's destination but also expresses the nation's strong desire and longing for an eternally bright future. The meaning of poetry is expressive, but the music of poetry is expressive. The teachings harmonize faith and hope.
Three years after the poem 'Chanting Hoan Kinh Su' was published, in April 1288, during the sacrifice ceremony at Chieu Lang (the mausoleum of King Tran Thai Tong), King Tran Nhan Tong spontaneously read two verses:
Xa Tac Bihu Lao Thach Ma,
(The commune has two times weasels and horses fight,
The mountains and rivers are forever strong and stable'
Is it true that the above two lines of the king's poem echo the poem Tung Gia Hoan Kinh Su by Lieutenant General Tran Quang Khai? And is that also the pride of our entire nation during the Tran Dynasty, which people later called the East-A Pride? What does East-A pride mean? Dong A is a combination of the Tran family name, consisting of two words: The word Dong combined with the letter A in Chinese characters. Dong A's pride is patriotism, national pride, and the great spirit and determination of the Tran Dynasty's army and people in the cause of fighting against foreign invaders and building a peaceful and sustainable country. The pride of Dong A is not only the thoughts and souls of people, but also the ideological content and the overarching sound in many Vietnamese poetic works during the Tran Dynasty, 12th and 13th centuries.
Returning to Tran Quang Khai's poem "Praying for the Kinh", we see that the poem is very concise, concise, deeply expressive, and full of expression. In the poem there are many Sino-Vietnamese words, but quite familiar to us today, such as: 'Zhang Duong do, Ham Tu quan, peace, intelligence, eternal life, river and mountain'. Therefore, by reading poetry, diligently researching and pondering, we can still understand and be moved by the poetic ideas and poetic soul of the author - who lived nearly a thousand years away from us.
If we call the poem 'Rivers and Mountains of the South' the first Declaration of Independence, then we can also consider 'Returning to the Capital' as the first triumphal song in the history of fighting foreign invaders and in the history of literature. Vietnam. With a condensed form of expression, compressing emotions into ideas, the poem 'Pho Gia returning to Kinh' expressed the victorious spirit and great aspirations of our nation in the Tran dynasty.
|
Bình giảng bài “Côn sơn ca” của Nguyễn Trãi
Hướng dẫn
Bình giảng bài “Côn sơn ca” của Nguyễn Trãi
Ông nằm trong danh sách 14 vị anh hùng dân tộc Việt Nam. Không chỉ là một vị tướng tài giỏi, ông còn là một nhà văn hóa lớn, có đóng góp to lớn vào nền văn học Việt Nam. Ông là Nguyễn Trãi (1380-1442), hiệu là Ức Trai, là một nhà chính trị nhà thơ dưới thời nhà Hồ và Lê sơ Việt Nam. Thi đỗ Thái học sinh, làm quan dưới triều nhà Hồ, nhưng sau đó nhà Minh xâm lược ông tham gia vào cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, ông đóng một vai trò quan trọng trong cuộc khởi nghĩa này. Các tác phẩm thơ ca văn học của ông kể ra không xuể, tiêu biểu là có tác phẩm Côn Sơn Ca trích trong tập “Ức trai thi tập” của tác giả Nguyễn Trãi. Bài thơ được học giả Đào Duy Anh xếp vào bài thơ số 87 của tập “Ức trai thi tập”. Nguyên tác bằng chữ Hán, viết theo thể ca, gồm có 36 câu, câu ngắn nhất gồm bốn chữ, câu dài nhất là mười chữ, phần lớn là ngũ ngôn và thất ngôn. Dịch giả đã chuyển thành thơ lục bát, thể hiện tâm hồn của nhà thơ lúc ở ẩn tại động Thanh Hư thuộc Côn Sơn Ca. Côn Sơn không chỉ là mảnh đất quê mà còn là mảnh đất nuôi dưỡng tâm hồn nhà thơ của nhà thơ. Nguyễn Trãi đã viết rất nhiều về Côn Sơn và Côn Sơn là nguồn cảm hứng không bao giờ vơi cạn của hồn thơ ông.
Bài thơ Côn Sơn ca (bài ca Côn Sơn) là bài ca thiên nhiên và là bài ca mà thể hiện rõ tâm trạng của nhà thơ lức bấy giờ. Trong bài ca, nhà thơ nói về cảnh vật Côn Sơn khá nhiều như: dòng suối, phiến đá, rừng tùng, rừng trúc. Đáng lưu ý hơn cả chính là cảnh vật Côn Sơn được gợi lên bằng ngòi bút “đặc tả”: suối chảy róc rách, rì rầm như tiếng đàn lúc khoan, lúc nhặt; phiến đá Thạch Bàn qua mưa, rêu phô xanh biếc như phủ chiếu tiêu; cây tùng xòe tán lá như chiếc lọng xanh; rừng trúc bạt ngàn màu xanh tươi mát. Cảnh Côn Sơn hiện lên mang những đặc điểm riêng không lẫn với bất cứ bức tranh sơn thủy hữu tình nào chỉ bằng nét vẽ đặc tả này.
Tác giả về ở Côn Sơn như về với ngôi nhà của mình. Chỉ cần chú ý ta sẽ thấy trong thơ có giọng thơ phóng khoáng, nhịp thơ thoải mái, câu thơ tự do trong phần phiên âm chữ Hán:
“Côn Sơn hữu tuyền,
Kì thanh linh tinh nhiên
Ngô dĩ vi cầm huyền.
Côn Sơn hữu thạch,
Vũ tẩy đài phô bích,
Ngô dĩ vi đạm tịch.”
Đọc bài thơ nên ta thấy như có tiết tấu, nhạc điệu vậy. Chính chất hào sảng trong tâm hồn của nhà thơ đã tạo nên chất hào sảng của thơ. Ông là một vị tướng tài, làm quan có vị trí quan trọng, bận rộn với việc nước, cống hiến sức lực vì nước vì dân, những năm cuối đời sống trong vòng ganh ghét đố kị, khi trở về với Côn Sơn ông thật sự cảm thấy tự do,thoải mái. Đọc thơ, ta thấy Nguyễn Trãi ở trong thơ, thấy ông lúc nằm nghỉ, lúc dạo chơi, khi trò chuyện tâm sự, lúc lại ngâm nga,… Lúc này, ông thật sự tự do, thanh bạch, hào phóng, cởi mở, ông như con chim xổ lồng vui say giữa chốn quê thanh bình. Bản dịch thơ lục bát đã cố gắng lột tả tâm trạng tự do, khoáng đạt của ông khi về với Côn Sơn, nhưng cái nhịp điệu như tiếng suối reo, như bước chân lên xuống, khi chạy, khi rừng thì bản dịch thơ lại không thể lột tả được.
“Về đi sao chẳng sớm toan,
Nửa đời vương vấn bụi trần làm chi”
Câu hỏi khiến ta thấy lạ. Ngạc nhiên hơn nữa khi Nguyễn Trãi ca khúc “Quy khứ lai từ” của Đào Tiềm với tâm trạng thanh thản, nhẹ tênh. Có vẻ như tác giả còn đi xa hơn cả Đào Tiềm, đi lạc hơn Đào Tiềm với những câu thơ triết lí đầy chất phóng nhiệm:
“Trăm năm trong cuộc nhân sinh.
Người như cây cỏ thân hình nát tan.”
Còn thơ Nguyễn Trãi là: “ Núi gò đài các đó đây,
Chết rồi ai biết đâu ngày nhục vinh”
Một người yêu ghét phân minh, rạch ròi như Nguyễn Trãi lẽ nào lại xếp Nguyên Tải cùng với Bá Di, Trúc Tề vào chung một số kiếp để người đời cảm thông?
Nguyễn Trãi viết bài Côn Sơn ca trước bao lâu vụ án Lệ Chi Viên xảy ra? Tâm trạng thời thế, triết lí về cuộc đời mà Nguyễn Trãi nói đến trong phần cuối của bài ca là một nỗi buồn thầm sâu, tảo rộng trong tâm hồn Ức Trai. Bi kịch của Nguyễn Trãi là bi kịch của kẻ sĩ trong xã hội phong kiến, là một bi kịch không ai có thể hiểu thấu.
“Sào Do bằng có tái sinh,
Hãy nghe khúc hát bên ghềnh Côn Sơn”
Nguyễn Trãi có đồng ý với ý kiến của Sào Phủ, còn Hứa Do là hai cao sĩ ẩn dật thời vua Ngô. Lời giả mã hai câu thơ trên vẫn chưa được làm rõ. Có điều là sau đó không lâu, Nguyễn Trãi lại hăm hở tham gia xây dựng đất nước theo lời mời của vua Lê Thái Tông.
Qua bài Côn Sơn ca ta thấy rõ được tài năng của Nguyễn Trãi và tâm hồn thanh bạch, ông dám sống thật với chính mình. Ông là người anh hùng yêu thiên nhiên, yêu con người, quê hương đất nước, ông luôn một lòng vì nước vì dân.
|
Binh lectures on "Con Son Ca" by Nguyen Trai
Instruct
Binh lectures on "Con Son Ca" by Nguyen Trai
He is on the list of 14 Vietnamese national heroes. Not only was he a talented general, he was also a great cultural figure, making great contributions to Vietnamese literature. He was Nguyen Trai (1380-1442), nicknamed Uc Trai, a politician and poet during the Ho and Le dynasties of Vietnam. Passed the Thai student exam, became a mandarin under the Ho Dynasty, but then the Ming Dynasty invaded, he participated in the Lam Son uprising, he played an important role in this uprising. His poetic and literary works are countless, typically the work Con Son Ca quoted in the collection "Uc Trai Thi Tap" by author Nguyen Trai. The poem was classified by scholar Dao Duy Anh as poem number 87 of the collection "Uc trai thi tap". The original work is written in Chinese characters, written in song form, and includes 36 sentences, the shortest sentence consists of four words, the longest sentence is ten words, mostly five words and seven words. The translator turned it into six-eight poetry, expressing the poet's soul while in hiding at Thanh Hu cave in Con Son Ca. Con Son is not only a rural land but also a land that nurtures the poet's soul. Nguyen Trai has written a lot about Con Son and Con Son is an inexhaustible source of inspiration for his poetic soul.
The poem Con Son ca (Con Son song) is a nature song and a song that clearly expresses the poet's mood at that time. In the song, the poet talks about many landscapes of Con Son such as: streams, rocks, pine forests, bamboo forests. Most noteworthy is the landscape of Con Son evoked by the "specification" pen: the gurgling stream, murmuring like the sound of a guitar when drilling and picking; Thach Ban stone slabs, through the rain, show green moss as if covered with pepper mats; The pine tree spreads its foliage like a green parasol; Vast green bamboo forest. The Con Son scene that appears has unique characteristics that are unmistakable with any other charming landscape painting with just this descriptive brushstroke.
The author's return to Con Son is like returning to his home. Just pay attention and we will see that the poem has a liberal poetic voice, a comfortable rhythm, and free verses in the Chinese transcription:
“Con Son has Tuyen,
Quiet and pure
Ngo Di Vi Cam Huyen.
Con Son Huu Thach,
Dance at the stage of pho bich,
Ngo Di Vi is calm and quiet."
Reading the poem, we see that there is rhythm and music. It is the generosity in the poet's soul that creates the generosity of poetry. He was a talented general, held an important position as an official, busy with state affairs, dedicating his strength to the country and the people. In the last years of his life, he lived in a cycle of jealousy and envy. When he returned to Con Son, he was truly feeling of freedom and comfort. Reading poetry, we see Nguyen Trai in the poem, we see him resting, walking, chatting, confiding, humming... At this time, he is truly free, transparent, generous, and open. , he was like a bird freed from its cage, happily drunk in the peaceful countryside. The translation of the poem Luc Bat tried to portray his free and open mood when returning to Con Son, but the rhythm was like the sound of a stream, like the up and down steps, when he ran, when in the forest, the translation of the poem was wrong. indescribable.
“Why don't you go home early?
What's the point of lingering on the dust of the world?"
The question makes me feel strange. Even more surprising was when Nguyen Trai sang Dao Tiem's song "Qui Qua Lai Tu" with a peaceful, light mood. It seems that the author goes further than Dao Tiem, strays further than Dao Tiem with his philosophical verses full of indulgence:
“Hundred years in life.
People are like plants, their bodies are broken.”
And Nguyen Trai's poem is: "There are mountains and mounds here and there,
After death, who knows what day of shame and honor will come."
A person who loves and hates as clearly and clearly as Nguyen Trai, would he put Nguyen Tai along with Ba Di and Truc Te together in a number of lives so that people can sympathize?
How long before the Le Chi Vien case happened did Nguyen Trai write the article Con Son ca? The mood of the times and the philosophy of life that Nguyen Trai talks about in the last part of the song are a deep, widespread sadness in Uc Trai's soul. Nguyen Trai's tragedy is the tragedy of a scholar in a feudal society, a tragedy that no one can understand.
“If Sao Do is reborn,
Listen to the song by the Con Son rapids"
Nguyen Trai agreed with Sao Phu's opinion, and Hua Do were two reclusive masters during King Ngo's time. The decoding of the above two verses has not yet been clarified. However, not long after that, Nguyen Trai eagerly participated in building the country at the invitation of King Le Thai Tong.
Through the song Con Son Ca, we can clearly see Nguyen Trai's talent and pure soul, he dared to live true to himself. He is a hero who loves nature, people, his homeland, and is always devoted to the country and the people.
|
Bình giảng câu ca dao: Chiều chiều ra đứng ngõ sau…
Hướng dẫn
Bình giảng câu ca dao: Chiều chiều ra đứng ngõ sau…
Chiều chiều ra đứng ngõ sau,
Trông về quê mẹ, ruột đau chín chiều.
Bài làm
Kho tàng ca dao dân gian Việt Nam vô cùng phong phú và đẹp đẽ. Nó rực rỡ và thơm ngát như bông sen trong đầm. Nó thân thuộc với người dân cày Việt Nam như luỹ tre xanh bao bọc làng quê, như cánh cò “bay lả bay la” trên đồng lúa.. Nó gắn bó với tâm hồn nhân dân ta từ bao đời nay. Trong đó, những bài ca dao nói về tình cảm gia đình sao hồn hậu, thắm thiết thế. Tình cha, nghĩa mẹ, tình yêu thương anh chị em, tình yêu nam nữ, tình nghĩa vợ chồng…, những giai điệu tâm tình ấy từng làm say đắm hồn người xưa, nay… Nhiều câu ca dao “sống” với ta như một kỉ niệm đẹp không bao giờ quên.
Bài ca dao nói về tình thương nỗi nhớ của người con gái đối với mẹ già là một ví dụ làm cho ta cảm động: “Chiều chiều ra đứng ngõ sau, Trông về quê mẹ, ruột đau chín chiều”. Thơ lục bát vốn nhịp nhàng, êm đềm. Hai câu ca dao này, cũng vậy, nhịp hai cân đối hài hòa, với chín thanh bằng quá bán, với ba tiếng “chiều chiều… chiều” đứng ở đầu và cuối câu đã tạo nên nhạc điệu, giai điệu nhè nhẹ, buồn thương. Điệu tâm hồn của câu ca dao là vô cùng đặc sắc, nó quyện lấy người đọc người nghe. Sức hấp dẫn trước hết ở giọng điệu tâm tình.
Chiều chiều ra đứng ngõ sau,
Trông về quê mẹ, ruột đau chín chiều
Quê mẹ khuất sau lũy tre xanh. Có cây đa, bến nước, sân đình. Có con đò nhỏ và dòng sông xanh uốn quanh. Có cánh đồng “mênh mông bát ngát… bát ngát mênh mông” ngào ngạt bốn mùa hương lúa. Có bà con chất phác, hiền lành và lam lũ sớm hôm. Có ngôi nhà gianh nhỏ bé thân yêu, nơi người con gái sinh ra với bao kỉ niệm đẹp đẽ của tuổi thơ, của thời thiếu nữ. Quê mẹ là nơi anh chị em ruột thịt quây quần xung quanh mâm cơm dẻo thơm có “canh rau muống… cà dầm tương”: Quê mẹ giờ đây có người mẹ già tóc bạc phơ đang tựa cửa thương nhớ đứa con gái đi xa.. Chính trong cảnh hoàng hôn, nghe tiếng chim vịt gọi bầy, kẻ tha hương lại càng bâng khuâng nhớ mẹ hiền không xiết kể:
Bâng khuâng nhớ mẹ chín chiều ruột đau”
Ca dao nói ít, tả ít mà gợi nhiều bởi nó là “cây đàn muôn điệu” của dân gian. Chỉ hai chữ “Quê mẹ” thôi mà đâ đem đến cho người đọc một trường liên tưởng chứa chan tình quê hương. Người con “trông về quê mẹ”, càng trông càng nhớ day dứt, tha thiết, nhớ khôn nguôi. Bốn tiếng “ruột đau chín chiều” diễn tả cực hay nỗi nhớ đó. Nhà thơ dân gian không sử dụng một bổ ngữ, một trạng ngữ mà lại dùng số từ “chín chiều” để biểu lộ tâm trạng, thật là độc đáo. Tục ngữ, thành ngữ có “chín nhớ mười thương” thì ở câu ca dao này lại có “ruột đau chín chiều”. Buổi chiều nào cũng thấy nhớ thương, đau đớn. Đứng trông về chiều hướng nào, phương hướng nào, người con tha hương cũng buồn đau tê tái, nỗi nhớ quê, nhớ mẹ, nhớ người thân thương vơi đầy dâng lên, nên càng thấy cô đơn lẻ loi vô cùng.
Tình mẹ con, tình yêu quê hương được nói đến trong bài ca dao trên đã để lại một ấn tượng sâu sắc trong tâm hồn mỗi chúng ta. Tình thương nỗi nhớ gắn liền với tấm lòng biết ơn của người con gái đi xa đối với mẹ già. Giọng điệu tâm tình, sâu lắng dàn trải khắp vần thơ, một nỗi buồn đẹp khơi dậy trong lòng người đọc bao liên tưởng về quê hương vêu dấu, về tuổi thơ. Có thể nói đây là một trong những bài ca dao trữ tình hav nhất nói về tình thương nhớ mẹ già, một đóa hoa đồng nội tươi thắm mài với thời gian và con người quê ta.
|
Commentary on the folk song: In the afternoon, go out and stand in the back alley...
Instruct
Commentary on the folk song: In the afternoon, go out and stand in the back alley...
Lane stood next afternoon,
Looking back to my mother's hometown, my stomach aches nine times.
Assignment
The treasure trove of Vietnamese folk songs is extremely rich and beautiful. It is as bright and fragrant as a lotus in a lagoon. It is as familiar to the Vietnamese plowing people as the green bamboo that surrounds the countryside, like the stork's wings "flying away" in the rice fields... It has been attached to the souls of our people for many generations. In it, folk songs talk about family love that is so kind and passionate. Father's love, mother's love, brother and sister love, love between men and women, love between husband and wife..., these sentimental melodies have captivated the souls of people in the past and present... Many folk songs "live" with us like A beautiful memory that will never be forgotten.
The folk song about a daughter's love and nostalgia for her elderly mother is a touching example: "In the afternoon, standing in the back alley, looking back at my mother's hometown, my stomach hurts in nine directions." Luc Bat poetry is inherently rhythmic and peaceful. These two folk songs, too, have a harmoniously balanced rhythm, with nine overtones, and three words "afternoon, afternoon... afternoon" standing at the beginning and end of the sentence, creating a gentle, sad melody. love. The soulful melody of the folk song is extremely unique, it entwines with the reader and listener. The attraction is first of all in the emotional tone.
Lane stood next afternoon,
Looking back to my mother's hometown, my stomach aches nine times
My mother's homeland is hidden behind green bamboo. There is a banyan tree, a water wharf, and a communal yard. There is a small boat and a green river winding around. There is a field that is "immense... immense" filled with the scent of rice in all four seasons. There are people who are simple, gentle and work hard every morning. There is a lovely little house where a girl was born with many beautiful memories of childhood and girlhood. Mother's hometown is where siblings gather around a tray of fragrant rice with "water spinach soup... pickled eggplant with soy sauce": Mother's hometown now has an old mother with gray hair leaning on the door, missing her daughter who is far away. . It is in the sunset, listening to the sound of birds and ducks calling, that the exile feels even more nostalgic about his gentle mother:
Missing my mother for nine afternoons makes my stomach ache."
Folk songs say little, describe little, but evoke a lot because it is the "musical instrument" of the people. Just the two words "Motherland" bring to the reader a field of associations filled with love for the homeland. The son "looks back to his motherland", the more he looks, the more he misses it, passionately, inconsolably. The four words "nine-dimensional pain in the intestines" describe that nostalgia very well. Folk poets do not use a complement or an adverb but instead use a number of "nine-dimensional" words to express their mood, which is truly unique. In proverbs and idioms, there are "nine thoughts and ten pains", but in this folk song, there is "nine-dimensional pain in the intestines". Every afternoon I feel nostalgic and painful. Standing in any direction, no matter what direction, the exiled child feels pain and numbness. The longing for his hometown, his mother, and his loved ones overflow, making him feel even more lonely and lonely.
The love between mother and child and the love of the homeland mentioned in the above folk song has left a deep impression in each of our souls. Love and nostalgia are closely linked to the gratitude of a distant daughter towards her elderly mother. The sentimental, deep tone spreads throughout the poem, a beautiful sadness that evokes in the reader many thoughts of his beloved homeland and childhood. It can be said that this is one of the most lyrical folk songs about the love of missing an old mother, a fresh flower of the field that is deeply in touch with the time and people of our hometown.
|
Đề bài: Bình giảng cảnh Thúy Kiều báo ân báo oán trong Truyện Kiều của thi hào Nguyễn Du
Bài làm
Từ Hải chuộc Kiều ra khỏi chốn thanh lâu, Kiều trở thành một mệnh phụ phu nhân. Chẳng bao lâu sau, Từ Hải đã có binh cường tướng mạnh:
Trong tay mười vạn tinh binh,
Kéo về đóng chật một thành Lâm Tri.
Kiều đã dựa vào uy thế Từ Hải để báo ân báo oán.
Trong Truyện Kiều, cảnh báo ân báo oán là một tình huống giàu kịch tính, thể hiện ước mơ công lí ở đời. Cảnh báo ân báo oán được kể trong một đoạn thơ dài 162 câu thơ (từ câu 2289 đến câu 2450), Thúc Sinh, mụ quản gia, vãi Giác Duyên được báo ân. Hoạn Thư cùng 7 tên khác bị báo oán:
Trước là Bạc Hạnh, Bạc Bà,
Bên là Ưng Khuyển, bên là Sở Khanh.
Tú Bà với Mã Giám Sinh,
Các tên tội ấy đáng tình còn sao?
ở đây, chúng ta chỉ nói đến hai tình tiết: Kiều báo ân Thúc Sinh và báo oán Hoạn Thư. Tâm lí và cách ứng xử của Thúy Kiều, tính sáng tạo của Nguyễn Du là những điều mà ta có thể tìm hiểu và cảm nhận trong đoạn thơ này.
Sau khi mắc lừa Sở Khanh, Thúy Kiều bị Tú Bà bắt ép làm gái lầu xanh. Và Kiều đã gặp Thúc Sinh "cũng nòi thư hương”, là con rể của quan Thượng thư, một con người phong tình "quen thói bốc rời". Lúc đầu chỉ là "trăm gió", nhưng về sau, Thúc Sinh và Thúy Kiều trở thành "đá vàng”. Thúc Sinh đã chuộc Kiều, lấy làm vợ lẽ: "Gót tiên phút đã thoát vòng trần ai". Mặc dù sau này có chuyện đánh ghen, bị làm nhục, nhưng Thúc Sinh trong điều kiện có thể, nói với Hoạn Thư đưa Kiều ra Quan Âm các "giữ chùa, chép kinh", thoát khỏi kiếp tôi đòi. Tuy "thấp cơ thua trí đàn bà" nhưng tình cảm của Thúc Sinh đối với Thúy Kiều, trong bi kịch vẫn "nặng lòng":
Bây giờ kẻ ngược người xuôi,
Biết bao giờ lại nối lời nước non?
Có thể chê trách Thúc Sinh này nợ, nhưng Thúc Sinh là ân nhân của Kiều, đã giúp Kiều hoàn lương. Kiều là một người phúc hậu, nên nàng không bao giờ có thể quên ơn chàng.
Trong cuộc tầm nã của ba quân, gia đình Thúc Sinh đã được Kiều quan tâm “ giữ giàng":
Lại sai lệnh tiễn truyền qua,
Giữ giàng họ Thúc một nhà cho yên.
Cảnh báo ân diễn ra, Kiều đã dùng một chữ "mời" rất trọng vọng "cho gươm mời đến Thúc Lang". Kiều nói về "nghĩa", về chữ "tòng", đề cao đạo lí thủy chung. Thúc Sinh là "người cũ", là "cố nhân" mà Kiều "há dám phụ".
Nàng khẳng định cái tình nghĩa của Thúc Sinh đối với mình ngày xưa là vô cùng to lớn, sâu nặng: "nghĩa nặng nghìn non…". Kiều đã dùng một số từ như: "nghĩa, nghìn non, Sâm Thương, chữ tòng, người cũ, cố nhân…" cùng với giọng điệu ôn tồn, biểu lộ một tấm lòng trân trọng, biết ơn một người đàn ông đã từng yêu thương mình, cứu vớt mình. Trái tim của Kiều rất nhân tình, nhân hậu; cách ứng xử của nàng đối với Thúc Sinh là giàu ân nghĩa thủy chung:
Nàng rằng: "Nghĩa nặng nghìn non,
Lâm Tri người cũ chàng còn nhớ không?
Sâm Thương chẳng vẹn chữ tòng,
Tại ai há dám phụ lòng cố nhân?
Cái lễ vật chất mà Kiều báo ân Thúc Sinh cũng thật "hậu", khẳng định cái nghĩa đối với "cố nhân" trong những năm tháng ở Lâm Tri là vô cùng sâu nặng:
Gấm trăm cuốn, ạục nghìn cân.
Tạ lòng dễ xứng báo ân gọi là.
Sau đó, Kiều dùng lời lẽ dân dã, sắc sảo để nói về "vợ chàng". Bao năm tháng đã trôi qua, lòng Kiều vẫn chưa nguôi. "Miếng ngon nhớ mãi, đòn đau nhớ đời" có phải như thế không? Vị thế đã đổi thay: kẻ là phạm tội, người là quan tòa đang ngồi trong trướng hùm giữa cảnh "gươm lớn giáo dài":
Vợ chàng quỷ quái tinh ma,
Phen này kè cắp bà già gặp nhau.
Kiến bò miệng chén chưa lâu,
Mưu sâu cũng trả nghĩa sâu cho vừa.
Kiều đã có 2 cách nói khác nhau: nói về ân nghĩa thì trang trọng, ôn tồn; nói về oán thì nôm na, chì chiết. Nguyễn Du đã tạo nên hai giọng điệu, hai thứ ngôn ngữ trong một lượt lời của Thúy Kiều, điều đó cho thấy thi hào rất tinh tế, sâu sắc khi thể hiện tâm lí nhân vật.
Dù là được báo ân, nhưng đứng trước cảnh “Vác đòng chật đất, tinh kì rợp sân", Thúc Sinh cực kì khủng khiếp: "Mặt như chàm đổ, mình dường dẽ run", mồ hôi toát ra "ướt dầm", không nói được một lời nào, sống trong tâm trạng vừa "mừng", vừa "sợ":
Lòng riêng mừng sợ khôn cầm,
Sợ thay mà lại mừng thầm cho ai.
2.Từ lần bị đánh ghen đêm ấy, đến nay đã bao năm tháng? Gặp lại Hoạn Thư lần này, trong tư thế của người "chiến thắng" ra tay báo oán, Kiều đã "chào thưa" bằng những lời "mát mẻ":
Thoắt trông nàng đã chào thưa:
Tiểu thư cũng có bây giờ đến đây!
Giọng nói trở nền chì chiết, đay nghiến. Các chữ "mấy tay", "mấy mặt", "mấy gan" như những mũi dao sắc lạnh:
"Đàn bà dễ có mấy tay
Đời xưa mấy mặt, đời này mấy gan!"
Kiều nghiêm giọng cảnh cáo Hoạn Thư đã từng hành hạ mình, làm cho mình đau khổ: "Càng cay nghiệt lắm, càng oan trái nhiều".
Là "thủ phạm" đang đứng giữa pháp trường, xung quanh là bọn đao phủ đã “gươm tuốt nắp ra", Hoạn Thư "hồn lạc phách xiêu". Người đàn bà này tự biết tội trạng mình, cảnh ngộ mình, khó lòng thoát khỏi lưỡi gươm trừng phạt? Vốn khôn ngoan, sắc sảo, đứa con của "họ Hoạn danh gia" đã trấn tĩnh lại, tìm cách gỡ tội. Một cái "khấu đẩu" giữ lễ, khi chân tay đang bị trói. Trước hết nhận tội "ghen tuông" và lí giải đó là chuyện "thường tình" của đàn bà. Tiếp theo Hoạn Thư gợi lại chút "ân tình" ngày xưa: một là, đã cho Kiều xuống Quan Âm các "giữ chùa chép kinh", không bắt làm thị tì nữa; hai là, khi Kiều bỏ trốn mang theo chuông vàng khánh bạc, đã bỏ qua. Cách nói rất khéo, chỉ gợi sự thật và chuyện cũ ra, chỉ người trong cuộc mới biết. "Nghĩ cho" là nhớ lại cho, suy nghĩ lại cho:
Nghĩ cho khi gác viết kinh,
Với khi khỏi cửa dứt tình chẳng theo.
Đối với Kiều, Hoạn Thư đã từng nói với Thúc Sinh: “Rằng: tài nên trọng mà tình nên thương". Tuy "chồng chung chưa dễ ai chiều cho ai", nhưng trong thâm tâm, Hoạn Thư "kính yêu" Thúy Kiều. Hoạn Thư tự nhận tội và xin Thúy Kiều rộng lượng:
Trót lòng gây việc chông gai,
Còn nhờ lượng bể thương bài nào chăng.
Lời gỡ tội của Hoạn Thư vừa có lí, vừa có tình. Lời cầu xin đúng mực, chân thành. Vì thế, Kiều phải "khen cho” "Khôn ngoan đến mức nói năng phải lời". Không thể là "người nhỏ nhen", Kiều đã tha tội cho Hoạn Thư:
Đã lòng tri quá thì nên:
Truyền quân lệnh xuống trướng tiền tha ngay.
Sự việc diễn ra quá bất ngờ, ngoài sức tưởng tượng của nhiều người, vốn là một phụ nữ trung hậu, đã từng nếm trải bao cay đắng và ngang trái trong cuộc đời, vả lại Kiều cũng tự biết rằng mình đã xâm phạm đến hạnh phúc của người khác. Tha tội Hoạn Thư, Thúy Kiều càng tỏ ra vô cùng cao thượng.
Ai đã từng đọc bản dịch Kim Vân Kiều truyện, đem đối chiếu với Truyện Kiều, ta mới thấy hết tài sáng tạo của ngòi bút thiên tài Nguyễn Du, nhất là trong cảnh báo ân báo oán. Cảnh pháp trường thời trung cổ được miêu tả ước lệ mà không kém phần uy nghiêm! Lời thoại rất gọn mà sắc đã làm nổi bật tâm lí, tính cách nhân vật Thúc Sinh lành mà nhát sợ, Hoạn Thư thì khôn ngoan, sắc sảo. Kiều rất trung hậu, cao thượng, bao dung.
Nguyễn Du đã sáng tạo nên những lời thoại biến hóa để nói lên chuyện ân oán, cái lẽ đời xưa nay, ca ngợi sự thủy chung tình nghĩa, lên án bọn bạc ác tinh ma. Cảnh báo ân báo oán là một tinh tiết rất đậm làm nổi bật tinh thần nhân đạo của Truyện Kiều.
|
Đề bài: Bình giảng cảnh Thúy Kiều báo ân báo oán trong Truyện Kiều của thi hào Nguyễn Du
Bài làm
Từ Hải chuộc Kiều ra khỏi chốn thanh lâu, Kiều trở thành một mệnh phụ phu nhân. Chẳng bao lâu sau, Từ Hải đã có binh cường tướng mạnh:
Trong tay mười vạn tinh binh,
Kéo về đóng chật một thành Lâm Tri.
Kiều đã dựa vào uy thế Từ Hải để báo ân báo oán.
Trong Truyện Kiều, cảnh báo ân báo oán là một tình huống giàu kịch tính, thể hiện ước mơ công lí ở đời. Cảnh báo ân báo oán được kể trong một đoạn thơ dài 162 câu thơ (từ câu 2289 đến câu 2450), Thúc Sinh, mụ quản gia, vãi Giác Duyên được báo ân. Hoạn Thư cùng 7 tên khác bị báo oán:
Trước là Bạc Hạnh, Bạc Bà,
Bên là Ưng Khuyển, bên là Sở Khanh.
Tú Bà với Mã Giám Sinh,
Các tên tội ấy đáng tình còn sao?
ở đây, chúng ta chỉ nói đến hai tình tiết: Kiều báo ân Thúc Sinh và báo oán Hoạn Thư. Tâm lí và cách ứng xử của Thúy Kiều, tính sáng tạo của Nguyễn Du là những điều mà ta có thể tìm hiểu và cảm nhận trong đoạn thơ này.
Sau khi mắc lừa Sở Khanh, Thúy Kiều bị Tú Bà bắt ép làm gái lầu xanh. Và Kiều đã gặp Thúc Sinh "cũng nòi thư hương”, là con rể của quan Thượng thư, một con người phong tình "quen thói bốc rời". Lúc đầu chỉ là "trăm gió", nhưng về sau, Thúc Sinh và Thúy Kiều trở thành "đá vàng”. Thúc Sinh đã chuộc Kiều, lấy làm vợ lẽ: "Gót tiên phút đã thoát vòng trần ai". Mặc dù sau này có chuyện đánh ghen, bị làm nhục, nhưng Thúc Sinh trong điều kiện có thể, nói với Hoạn Thư đưa Kiều ra Quan Âm các "giữ chùa, chép kinh", thoát khỏi kiếp tôi đòi. Tuy "thấp cơ thua trí đàn bà" nhưng tình cảm của Thúc Sinh đối với Thúy Kiều, trong bi kịch vẫn "nặng lòng":
Bây giờ kẻ ngược người xuôi,
Biết bao giờ lại nối lời nước non?
Có thể chê trách Thúc Sinh này nợ, nhưng Thúc Sinh là ân nhân của Kiều, đã giúp Kiều hoàn lương. Kiều là một người phúc hậu, nên nàng không bao giờ có thể quên ơn chàng.
Trong cuộc tầm nã của ba quân, gia đình Thúc Sinh đã được Kiều quan tâm “ giữ giàng":
Lại sai lệnh tiễn truyền qua,
Giữ giàng họ Thúc một nhà cho yên.
Cảnh báo ân diễn ra, Kiều đã dùng một chữ "mời" rất trọng vọng "cho gươm mời đến Thúc Lang". Kiều nói về "nghĩa", về chữ "tòng", đề cao đạo lí thủy chung. Thúc Sinh là "người cũ", là "cố nhân" mà Kiều "há dám phụ".
Nàng khẳng định cái tình nghĩa của Thúc Sinh đối với mình ngày xưa là vô cùng to lớn, sâu nặng: "nghĩa nặng nghìn non…". Kiều đã dùng một số từ như: "nghĩa, nghìn non, Sâm Thương, chữ tòng, người cũ, cố nhân…" cùng với giọng điệu ôn tồn, biểu lộ một tấm lòng trân trọng, biết ơn một người đàn ông đã từng yêu thương mình, cứu vớt mình. Trái tim của Kiều rất nhân tình, nhân hậu; cách ứng xử của nàng đối với Thúc Sinh là giàu ân nghĩa thủy chung:
Nàng rằng: "Nghĩa nặng nghìn non,
Lâm Tri người cũ chàng còn nhớ không?
Sâm Thương chẳng vẹn chữ tòng,
Tại ai há dám phụ lòng cố nhân?
Cái lễ vật chất mà Kiều báo ân Thúc Sinh cũng thật "hậu", khẳng định cái nghĩa đối với "cố nhân" trong những năm tháng ở Lâm Tri là vô cùng sâu nặng:
Gấm trăm cuốn, ạục nghìn cân.
Tạ lòng dễ xứng báo ân gọi là.
Sau đó, Kiều dùng lời lẽ dân dã, sắc sảo để nói về "vợ chàng". Bao năm tháng đã trôi qua, lòng Kiều vẫn chưa nguôi. "Miếng ngon nhớ mãi, đòn đau nhớ đời" có phải như thế không? Vị thế đã đổi thay: kẻ là phạm tội, người là quan tòa đang ngồi trong trướng hùm giữa cảnh "gươm lớn giáo dài":
Vợ chàng quỷ quái tinh ma,
Phen này kè cắp bà già gặp nhau.
Kiến bò miệng chén chưa lâu,
Mưu sâu cũng trả nghĩa sâu cho vừa.
Kiều đã có 2 cách nói khác nhau: nói về ân nghĩa thì trang trọng, ôn tồn; nói về oán thì nôm na, chì chiết. Nguyễn Du đã tạo nên hai giọng điệu, hai thứ ngôn ngữ trong một lượt lời của Thúy Kiều, điều đó cho thấy thi hào rất tinh tế, sâu sắc khi thể hiện tâm lí nhân vật.
Dù là được báo ân, nhưng đứng trước cảnh “Vác đòng chật đất, tinh kì rợp sân", Thúc Sinh cực kì khủng khiếp: "Mặt như chàm đổ, mình dường dẽ run", mồ hôi toát ra "ướt dầm", không nói được một lời nào, sống trong tâm trạng vừa "mừng", vừa "sợ":
Lòng riêng mừng sợ khôn cầm,
Sợ thay mà lại mừng thầm cho ai.
2.Từ lần bị đánh ghen đêm ấy, đến nay đã bao năm tháng? Gặp lại Hoạn Thư lần này, trong tư thế của người "chiến thắng" ra tay báo oán, Kiều đã "chào thưa" bằng những lời "mát mẻ":
Thoắt trông nàng đã chào thưa:
Tiểu thư cũng có bây giờ đến đây!
Giọng nói trở nền chì chiết, đay nghiến. Các chữ "mấy tay", "mấy mặt", "mấy gan" như những mũi dao sắc lạnh:
"Đàn bà dễ có mấy tay
Đời xưa mấy mặt, đời này mấy gan!"
Kiều nghiêm giọng cảnh cáo Hoạn Thư đã từng hành hạ mình, làm cho mình đau khổ: "Càng cay nghiệt lắm, càng oan trái nhiều".
Là "thủ phạm" đang đứng giữa pháp trường, xung quanh là bọn đao phủ đã “gươm tuốt nắp ra", Hoạn Thư "hồn lạc phách xiêu". Người đàn bà này tự biết tội trạng mình, cảnh ngộ mình, khó lòng thoát khỏi lưỡi gươm trừng phạt? Vốn khôn ngoan, sắc sảo, đứa con của "họ Hoạn danh gia" đã trấn tĩnh lại, tìm cách gỡ tội. Một cái "khấu đẩu" giữ lễ, khi chân tay đang bị trói. Trước hết nhận tội "ghen tuông" và lí giải đó là chuyện "thường tình" của đàn bà. Tiếp theo Hoạn Thư gợi lại chút "ân tình" ngày xưa: một là, đã cho Kiều xuống Quan Âm các "giữ chùa chép kinh", không bắt làm thị tì nữa; hai là, khi Kiều bỏ trốn mang theo chuông vàng khánh bạc, đã bỏ qua. Cách nói rất khéo, chỉ gợi sự thật và chuyện cũ ra, chỉ người trong cuộc mới biết. "Nghĩ cho" là nhớ lại cho, suy nghĩ lại cho:
Nghĩ cho khi gác viết kinh,
Với khi khỏi cửa dứt tình chẳng theo.
Đối với Kiều, Hoạn Thư đã từng nói với Thúc Sinh: “Rằng: tài nên trọng mà tình nên thương". Tuy "chồng chung chưa dễ ai chiều cho ai", nhưng trong thâm tâm, Hoạn Thư "kính yêu" Thúy Kiều. Hoạn Thư tự nhận tội và xin Thúy Kiều rộng lượng:
Trót lòng gây việc chông gai,
Còn nhờ lượng bể thương bài nào chăng.
Lời gỡ tội của Hoạn Thư vừa có lí, vừa có tình. Lời cầu xin đúng mực, chân thành. Vì thế, Kiều phải "khen cho” "Khôn ngoan đến mức nói năng phải lời". Không thể là "người nhỏ nhen", Kiều đã tha tội cho Hoạn Thư:
Đã lòng tri quá thì nên:
Truyền quân lệnh xuống trướng tiền tha ngay.
Sự việc diễn ra quá bất ngờ, ngoài sức tưởng tượng của nhiều người, vốn là một phụ nữ trung hậu, đã từng nếm trải bao cay đắng và ngang trái trong cuộc đời, vả lại Kiều cũng tự biết rằng mình đã xâm phạm đến hạnh phúc của người khác. Tha tội Hoạn Thư, Thúy Kiều càng tỏ ra vô cùng cao thượng.
Ai đã từng đọc bản dịch Kim Vân Kiều truyện, đem đối chiếu với Truyện Kiều, ta mới thấy hết tài sáng tạo của ngòi bút thiên tài Nguyễn Du, nhất là trong cảnh báo ân báo oán. Cảnh pháp trường thời trung cổ được miêu tả ước lệ mà không kém phần uy nghiêm! Lời thoại rất gọn mà sắc đã làm nổi bật tâm lí, tính cách nhân vật Thúc Sinh lành mà nhát sợ, Hoạn Thư thì khôn ngoan, sắc sảo. Kiều rất trung hậu, cao thượng, bao dung.
Nguyễn Du đã sáng tạo nên những lời thoại biến hóa để nói lên chuyện ân oán, cái lẽ đời xưa nay, ca ngợi sự thủy chung tình nghĩa, lên án bọn bạc ác tinh ma. Cảnh báo ân báo oán là một tinh tiết rất đậm làm nổi bật tinh thần nhân đạo của Truyện Kiều.
|
Bình giảng hai câu thơ đầu trong tập thơ Đây Thôn Vĩ Dạ
Hướng dẫn
Bình giảng hai câu thơ đầu trong tập thơ Đây Thôn Vĩ Dạ
Hàn Mặc Tử là nhà thơ có tâm hồn nhạy cảm, những sáng tác của ông được sáng tác và đi vào lòng người cũng một cách rất tự nhiên sâu lắng, để lại nhiều suy ngẫm cho độc giả. Một trong những bài thơ như thế chính là bài thơ “ Đây thôn vĩ dạ”, bài thơ nhắc tới miền quê xứ Huế thơ mộng, với vẻ đẹp vừa giản dị vừa yêu kiều như chính người con gái mà tác giả đang thầm thương trộm nhớ. Không những thế, bài thơ còn nói lên niềm khát khao, tình yêu quê và sự gắn bó thiết tha của thi sĩ.
Không giống với các bài thơ khác,mở đầu bài thơ “ đây thôn Vĩ Dạ” lại không phải là một câu miêu tả hay câu cảm thán, mà là câu hỏi tu từ:” Sao anh không về chơi thôn Vĩ”. Cảm hứng của bài thơ được khơi nguồn từ bức thư của Hoàng Thị Kim Cúc, viết cho Hàn Mặc Tử, những lời thơ khiến cảm xúc của tác giả ùa về, lại khơi gợi ra những nỗi nhớ về một miền thơ mộng hữu tình. Mở đầu chỉ với 4 câu thơ ngắn ngủi thôi, nhưng cảm xúc lay động tới độc giả là không hề nhỏ:
Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.
Lại nói về câu hỏi tu từ ở câu đầu của bài thơ, mở đầu một câu hỏi đã lạ, lại mở đầu với câu hỏi mà không có người trả lời,khiến mạch cảm xúc của bài thơ trở nên bâng khuâng khó tả. Tuy không ở gần, không được một lần về thăm Vĩ Dạ, nhưng bằng với nỗi nhớ diết da đã đưa Hàn Mặc Tử về với quê hương. Câu hỏi tu từ như một lời trách móc,hờn giỗi của một cô gái như thủ thỉ ràng, sao lâu rồi mà tác giả không về thăm quê lấy một lần. Câu hỏi vốn đưa ra không phải để trả lời, mà gợi ra cảm giác bâng khuâng, khó tả. Nó giống như một lời mời gọi, vừa như là một lời giới thiệu mà cũng là sự tiếc nuối của chính tác giả lâu không về thăm thôn Vĩ. “ Sao anh không về chơi thôn Vĩ” như một lời tự vẫn, tự trách móc mình.
Câu thơ thứ nhất như một lời hờn trách nhẹ nhàng: Sao anh không về chơi thôn Vĩ? Trách mà ngụ ý mời mọc ân cần, lại bằng cái giọng ngọt lịm của người con gái Huế nên chỉ mới nghe qua, khách đã thấy lòng xao xuyến, bởi tấm chân tình cùng với nỗi khắc khoải đợi mong của người con gái thôn Vĩ ẩn chứa trong lời mời ấy.
Không trực tiếp ở Vĩ Dạ, nhưng với nỗi niềm nhớ Vĩ Dạ tha thiết khiến tác giả có thể tượng tương ra cảnh chính mình đang đặt bước chân về với quê hương thân yêu. Mỗi câu thơ như dẫn ra một vẻ đẹp của nơi đây, không những thế, ngôn từ dùng để miêu tả khung cảnh, không chỉ đẹp mà còn có tính gợi. Mọi thứ như đều hoà hợp và ánh lên một vẻ đẹp thanh tú, thuần khiết. HÌnh ảnh hàng cau gợi ra những vẻ đẹp thanh thoát, cao vút và vươn lên đón ánh nắng sớm mai. Len lỏi vào đó là những tia nắng bình minh vừa rực rỡ lại vừa dịu dàng, như trải lên cho Vĩ Dạ một vẻ thân thiện lại đầy sự mời mọc. Nắng ở đây càng trở nên đẹp hơn, kì lạ hơn khi tác giả khoác cho nó với ngôn từ “ nắng mới lên thật tinh khiết mà cũng thật trong trẻo,không một chút gợn của một ngày dài đã trải qua. Chỉ với hai câu thơ ngắn ấy thôi mà mọi thứ của thôn Vĩ dần hiện ra thật đẹp thật thơ mộng. Hai câu mở đầu chính là cái hồn cho toàn bài thơ, và còn cả là cái cớ để tác giả bộc bạch tâm sự.
Nguồn: Bài văn hay
|
Commentary on the first two verses in the poetry collection This Thon Vi Da
Instruct
Commentary on the first two verses in the poetry collection This Thon Vi Da
Han Mac Tu is a poet with a sensitive soul. His compositions are composed and reach people's hearts in a very natural and profound way, leaving many thoughts for readers. One of such poems is the poem "This is Vi Da village", the poem refers to the romantic countryside of Hue, with a beauty that is both simple and graceful like the girl the author is secretly in love with. miss. Not only that, the poem also speaks of the poet's longing, love for his hometown, and passionate attachment.
Unlike other poems, the opening of the poem "This is Vi Da village" is not a description or an exclamation, but a rhetorical question: "Why don't you go visit Vi village?" The inspiration of the poem was derived from a letter written by Hoang Thi Kim Cuc to Han Mac Tu. The poetic words made the author's emotions rush back, evoking nostalgia for a charming poetic region. It opens with only 4 short verses, but the emotions that move readers are not small:
Why don't you go back to visit Vi village?
The garden is so lush and green like jade
Horizontal bamboo leaf cover complete typeface.
Talking about the rhetorical question in the first line of the poem, starting with a strange question, starting with a question without anyone answering, makes the emotional flow of the poem become indescribably wistful. Even though we weren't close by and didn't get to visit Vi Da once, the feeling of longing brought Han Mac Tu back to his homeland. The rhetorical question is like a girl's reproach and resentment, like whispering, why hasn't the author come back to visit her hometown in a long time? The question was not meant to be answered, but evoked a feeling of sadness and indescribability. It is like an invitation, both an introduction and also the author's own regret for not having visited Vi village for a long time. "Why don't you go back to visit Vi village" is like a suicide, blaming yourself.
The first verse is like a gentle complaint: Why don't you go back to visit Vi village? It's no wonder that it implies a kind invitation, and it's in the sweet voice of a Hue girl, so just by hearing it, the guests feel their hearts flutter, because of the sincerity and the anxious anticipation of the girl from Vi village. hidden in that invitation.
Not directly at Vi Da, but with the intense nostalgia for Vi Da, the author can imagine himself stepping foot back to his beloved homeland. Each verse seems to cite a beauty of this place, not only that, the language used to describe the scene is not only beautiful but also evocative. Everything seems to be in harmony and radiates a delicate, pure beauty. The image of rows of areca trees evokes elegant beauty, soaring and rising to welcome the morning sunlight. Weaving in there are rays of dawn that are both brilliant and gentle, as if giving Vi Da a friendly and inviting look. The sunshine here becomes even more beautiful and strange when the author dresses it up with the words "the newly rising sun is so pure and yet so clear, without the slightest ripple of a long day gone by. With just those two short verses, everything about Vi village gradually appears so beautiful and poetic. The opening two sentences are the soul of the entire poem, and are also an excuse for the author to express his feelings.
Source: Good article
|
Đề bài: Bình giảng hai khơ thơ đầu bài Sang thu của Hữu Thỉnh
Bài làm
Nếu mùa xuân là mùa hội tụ của những bàn tay nghệ sĩ tài hoa thì mùa thu bước vào trong thơ ca cũng tự nhiên và gần gũi. Trước đây, Nguyễn Khuyến nổi tiếng với ba bài thơ thu: Thu điếu, Thu vịnh, Thu ẩm, sau này Xuân Diệu có Đây mùa thu tới. Nhỏ nhẹ, khiêm nhường, Hữu Thỉnh cũng góp vào cho mùa thu đất nước một góc quê hương sang thu:
Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về.
Sông được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu.
Đoạn thơ có cái hương vị ấm nồng của chớm thu ở một miền quê nhỏ. Tín hiệu đầu tiên để tác giả nhận ra là hương vị ổi phả trong gió. Mùi hương quê nhà mộc mạc được gió đưa trong không gian cứ lan tỏa, thoang thoảng bay. Cảm giác bất chợt đến với nhà thơ: “bỗng nhận ra". Một sự bất ngờ mà như đã đợi sẵn, đợi từ lâu rồi, để giờ đây có dịp là buông ra ngay. Trong số chúng ta chắc chắn không ai chưa một lần nếm vị ổi: giòn ngọt, chua chua nơi đầu lưỡi. Cái dư vị của hương thơm đó cứ vấn vít vương lại trong ta khi chợt đọc câu thơ của Hữu Thỉnh. Có hương ổi. Và gió. Và sương. Những hạt sựơng thu mềm mại, ươn ướt giăng màn qua ngõ. Mùa thu lại về. Mùa thu mang theo hương quê và mang theo sương mờ ướt lạnh. Dường như có thêm sương nên thu dễ nhận hơn. “Sương chùng chình qua ngõ", “chùng chình" hay là đợi chờ gì đây? Cứ dần dần như thế, cứ nhẹ nhàng, mềm mại như thế, thu đến tự lúc nào không hay. “Hình như thu đã về". Nhà thơ giật mình, hơi bối rối. Tự bao giờ nhỉ? Thu về? Từ hương ổi hay từ gió, hay từ sương? Hữu Thỉnh cũng hơi ngỡ ngàng trước thoáng đi bất chợt của mùa thu. Thu về, thu lại về trên quê hương, trên những con đường bờ đê và trên cả những con sông, cánh chim trời.
Cái bỡ ngỡ ban đầu vụt tan biến đi nhường chỗ cho sự rung cảm mãnh liệt trước mùa thu:
Sông được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu.
Con sông quê hương dềnh nước chở mùa thu. Những cánh chim hay vội vã. Tất cả đều hối hả, xôn xao khi thu về. Không còn cái gay gắt của mùa hè nóng nực, chỉ còn lại một bầu không gian ẩm ướt và se lạnh. Một thoáng để rồi nhường lại cho thu. Mùa thu vừa chớm rất nhẹ rất dịu, rất êm, mơ hồ như cả đất trời đang rùng mình thay áo mới. Hữu Thỉnh không tả trời thu “xanh ngắt mấy tầng cao" như Nguyễn Khuyến mà chỉ điểm vào bức tranh thu một chút mây vương lại của mùa hè vừa qua:
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu.
Mây trời vắt nửa mình sang thu. Lối diễn đạt của nhà thơ thật độc đáo. Hình như trong đám mây đổ còn lại một vài làn nắng ấm mùa hè nên mới "vắt nửa mình". Thu về làm cho bao cảnh vật đổi thay và đám mây cũng khác lạ.
Với một đoạn thơ ngắn vẻn vẹn hai khổ mà nhà thơ đã dựng lại một bức tranh thu nồng đượm hơi ấm cuộc đời, hơi ấm quê nhà. Những hình ảnh sang thu thân quen, giản dị mà tươi tắn, sống động. Với những từ ngữ lấp láy: "chùng chình", “vội vã”, "dềnh dàng", và một giọng thơ vừa có thoáng ngỡ ngàng, vừa vui sướng, Hữu Thỉnh đã đưa ta về một miền quê dân dã mà ấm áp tình người.
Sang thu – một hình ảnh quê hương tự nó đã tôn thêm vẻ đẹp cho đất nước, cho quê nhà, cho đồng quê trong mùa thu chung của cả đất trời Việt Nam.
|
Topic: Commentary on the first two poems of Sang Thu by Huu Thinh
Assignment
If spring is the gathering season of talented artists, then autumn's entry into poetry is also natural and close. Previously, Nguyen Khuyen was famous for three autumn poems: Thu eulogy, Thu bay, Thu wet, later Xuan Dieu has Here comes the autumn. Small and humble, Huu Thinh also contributed to the country's autumn a corner of his homeland in autumn:
Suddenly I noticed the scent of guava
Blown into the wind
The fog drifted through the alley
Thu seemed to have about.
The river is gentle at times
Birds began to rush
There are summer clouds
Squeeze half of yourself into autumn.
The poem has the warm flavor of early autumn in a small countryside. The first signal for the author to recognize is the scent of guava blowing in the wind. The rustic scent of home is carried by the wind in the space and spreads faintly. A sudden feeling came to the poet: "sudden realization". A surprise that seemed to have been waiting, waiting for a long time, so that now had the opportunity to let go immediately. Among us, there is certainly no one who has not experienced it. once tasted the taste of guava: sweet and sour on the tip of the tongue. The aftertaste of that fragrance lingered in my mind when I suddenly read Huu Thinh's poem Soft, wet autumn spreads its curtain across the alley. Autumn comes again. Autumn brings with it the scent of the countryside and brings with it a cold, wet fog. It seems that there is more dew so autumn is easier to perceive. "Less" or what are you waiting for? Gradually like that, so gentle, so soft, autumn comes without even realizing it. "It seems like autumn has come". The poet was startled and a bit confused. Since when? Return? From the scent of guava, from the wind, or from the dew? Huu Thinh was also a bit surprised by the sudden passing of autumn. Fall back, fall back in the homeland, on the roads and dikes, on the rivers, on the wings of the birds in the sky.
The initial surprise suddenly disappeared and gave way to a strong feeling before autumn:
The river is gentle at times
Birds began to rush
There are summer clouds
Squeeze half of yourself into autumn.
The hometown river flows with autumn water. Birds are often in a hurry. Everyone is in a hurry and excited when autumn arrives. There is no longer the harshness of the hot summer, only a damp and chilly atmosphere remains. For a moment, then give it up to autumn. Autumn has just begun, very light, very gentle, very quiet, vague as if the whole world is shivering and changing into new clothes. Huu Thinh did not describe the autumn sky as "green for several floors" like Nguyen Khuyen, but only pointed to the autumn picture with a bit of lingering clouds from the past summer:
There are summer clouds
Squeeze half of yourself into autumn.
The clouds are halfway into autumn. The poet's expression is unique. It seems like there's still a few rays of warm summer sunshine left in the falling clouds, so we "squeeze out half of it". Fall makes many landscapes change and the clouds are also different.
With a short poem of just two stanzas, the poet has recreated a picture of autumn filled with the warmth of life, the warmth of home. The autumn images are familiar, simple but fresh and lively. With sparkling words: "slowly", "hastily", "easily", and a poetic voice that is both surprised and happy, Huu Thinh takes us back to a rustic but warm countryside. humanity.
Sang autumn - an image of the homeland itself has added beauty to the country, to the homeland, to the countryside in the common autumn of the whole country of Vietnam.
|
Bình giảng hai khổ thơ cuối trong bài thơ “Sóng” của Xuân Quỳnh
Hướng dẫn
Bình giảng hai khổ thơ cuối trong bài thơ “Sóng” của Xuân Quỳnh
Tình yêu là một đề tài muôn thuở của thơ ca. Không ít nhà thơ đã gửi gắm nỗi niềm tương tư của mình vào những trang thơ đầy cảm xúc. Xuân Quỳnh cũng vậy – một người con gái trẻ tuổi đã không ngại ngần bộc bạch niềm khát khao về tình yêu của mình qua những con sóng « dữ dội và dịu êm«, «ồn ào và lặng lẽ«:
«Cuộc đời tuy dài thế
Năm tháng vẫn đi qua
Như biển kia dẫu rộng
Mây vẫn bay về xa
Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ«.
Sau những trải nghiệm về sóng, Xuân Quỳnh đã hóa thân mình vào biển lớn của tình yêu, của những con sóng ngàn năm vẫn xô bờ cát trắng… Hai khổ thơ trên nằm ở phần cuối trong tác phẩm «Sóng« của Xuân Quỳnh. Từng câu từng chữ như cuồn cuộn cùng những lớp sóng xa xăm.
Có lẽ lúc này, nỗi khát khao về tình yêu đang rực cháy trong trái tim nhà thơ. Đứng trước biển cả là sóng, là nước mênh mông và bao la rộng lớn nhưng trong trái tim cô lại là lửa, lửa của tình yêu, của khát vọng. Nhưng càng yêu mãnh liệt bao nhiêu, Xuân Quỳnh lại càng thổn thức, băn khoăn bấy nhiêu. Cuộc đời người không ai có thể đo đếm được, những tưởng như dài lắm, xa lắm, nhưngg rồi ngày tháng cũng vẫn đi qua. Và biết bao nhiêu cuộc đời đã đi vào dĩ vãng. Thời gian là vô tận đấy, nhưng đời người có ai tồn tại mãi được với thời gian? Tình yêu cũng thế. Không có một định lý hay định nghĩa nào có thể đong đếm được tình yêu nhưng khi đời người khép lại, tình yêu cũng vụt tắt theo. Giống như biển kia, dẫu có rộng lớn mênh mông nhưng vẫn có bờ, và vì có bờ nên sóng mới xô được vào bến đỗ. Tình yêu dù là trừu tượng, nhưng khi yêu con người ta vẫn có thể cảm nhận được rất rõ qua những rung động, những xúc cảm. Và giờ đây, Xuân Quỳnh – người con gái trẻ tuổi đang thổn thức, đang bồi hồi với một tình yêu cô ấp ủ trong tim. Những con sóng trước mắt cô tự bao giờ đã nhuốm màu cảm xúc, khiến người con gái ấy muốn hóa mình thành sóng – những con sóng của biển lớn tình yêu. Nhà thơ Xuân Diệu cũng đã từng vì yêu, yêu cuồng nhiệt, yêu si mê nhưng lại băn khoăn:
(«Vội vàng« – Xuân Diệu)
Nếu như Xuân Diệu yêu cuộc sống đến điên dại, thì ở đây Xuân Quỳnh yêu thiết tha và mãnh liệt đến nỗi cô muốn được tan ra thành hàng trăm con sóng nhỏ, để được vỗ vào bờ cả ngàn năm. Ngàn năm không biết cụ thể là bao nhiêu năm, chỉ biết rằng, sẽ mãi mãi Xuân Quỳnh vẫn một lòng chung thủy với người mình yêu.
Tình yêu của Xuân Quỳnh thật đẹp biết bao. Chỉ có những cô gái mạnh mẽ, can đảm và tâm hồn trong sáng mới có được những cảm xúc như vậy. Có lẽ, ở bên kia bến bờ, người con trai mà Xuân Quỳnh ngày đêm thương nhớ cũng cảm nhận được bao nỗi niềm của người con gái phương xa đang hướng về mình. Giữa biển rộng bao la, có thể nhà thơ không hiểu Sóng bắt đầu từ đâu và gió thổi từ phương nào, ngay cả tình yêu của mình, Xuân Quỳnh cũng không nhớ «khi nào ta yêu nhau«. Nhưng có một điều chắc chắn rằng, con sóng của tình yêu mà Xuân Quỳnh đang ấp ủ sẽ chạy dài từ con tim cô đến nơi người con trai kia đang công tác. «Dẫu xuôi về phương bắc «hay có «ngược về phương nam«, con sóng ấy đến cuối cùng vẫn xô vào bến bờ hạnh phúc như một lẽ tự nhiên. Đó cũng chính là niềm tin son sắt của người con gái trẻ, cô tin chắc chắn rằng mình sẽ vượt qua được tất cả, dẫu có gian nan hay trắc trở, chỉ cần tình yêu ấy là đúng đắn, là chính đáng thì hạnh phúc nhất định sẽ đến.
Các bạn chẳng giống như những con sóng chung thủy của Xuân Quỳnh, luôn nỗ lực cố gắng vượt qua bão bùng mưa gió để xô vào bến bờ hạnh phúc. Đó mới là một tình yêu đẹp, tình yêu đúng đắn và trưởng thành. Tình yêu ngọt ngào của Xuân Quỳnh vừa mang đến cho người đọc sự cảm nhận về lòng chung thủy và niềm tin yêu của một cô gái trẻ có người yêu phương xa, vừa làm thức tỉnh các bạn trẻ nghĩ suy lại về tình yêu của chính mình. Yêu sao cho đúng đắn, cho thủy chung và bền vững.
|
Commentary on the last two stanzas of the poem "Waves" by Xuan Quynh
Instruct
Commentary on the last two stanzas of the poem "Waves" by Xuan Quynh
Love is an eternal topic of poetry. Many poets have expressed their feelings and thoughts into emotional poems. The same goes for Xuan Quynh - a young girl who did not hesitate to express her desire for love through the waves of "fierce and gentle", "noisy and quiet":
«Life is so long
Years still pass
Like the ocean, even though it is wide
Clouds still fly far away
How to dissolve?
Into hundreds of small waves
In the middle of a great sea of love
Let it still clap for thousands of years.
After experiencing the waves, Xuan Quynh transformed herself into the great sea of love, of the waves that have been crashing on the white sand for thousands of years... The above two stanzas are at the end of Xuan Quynh's work «Waves«. Each sentence and each word seemed to roll along with distant waves.
Perhaps at this time, the desire for love is burning in the poet's heart. Standing in front of the ocean are waves, vast and vast water, but in her heart is fire, the fire of love, of desire. But the more intensely she loved, the more Xuan Quynh sobbed and wondered. No one can measure a person's life. It seems very long and far away, but the days still pass. And so many lives have gone into the past. Time is endless, but whose life can last forever? Love is the same. There is no theorem or definition that can measure love, but when life ends, love also disappears. Just like the sea, even though it is vast and vast, it still has a shore, and because there is a shore, the waves can rush into the harbor. Even though love is abstract, when we love people, we can still feel it clearly through vibrations and emotions. And now, Xuan Quynh - a young girl is sobbing, recovering with a love she cherishes in her heart. The waves before her eyes were always tinged with emotions, making that girl want to turn herself into waves - the waves of the great ocean of love. Poet Xuan Dieu also once loved, loved passionately, loved passionately but wondered:
(«Hurry« – Xuan Dieu)
If Xuan Dieu loves life to the point of madness, then here Xuan Quynh loves so passionately and intensely that she wants to melt into hundreds of small waves, to be lapped on the shore for a thousand years. Thousands of years, I don't know exactly how many years, I only know that forever, Xuan Quynh will remain faithful to the person she loves.
Xuan Quynh's love is so beautiful. Only strong, courageous and pure-hearted girls can have such feelings. Perhaps, on the other side of the shore, the boy that Xuan Quynh misses day and night also feels the feelings of the girl from far away looking towards him. In the middle of the vast ocean, the poet may not understand where the waves start and which direction the wind blows from. Even his love, Xuan Quynh does not remember "when we loved each other". But one thing is certain, the wave of love that Xuan Quynh is cherishing will run from her heart to where the other boy is working. "Whether it flows to the north" or "back to the south", that wave will eventually rush to the shore of happiness as if it were natural. That is also the young girl's steadfast belief. She firmly believes that she will overcome everything, no matter how difficult or difficult it is, as long as that love is right and legitimate, she will be happy. will definitely come.
You are not like Xuan Quynh's faithful waves, always trying to overcome the storms of rain and wind to rush to the shore of happiness. That is beautiful love, true and mature love. Xuan Quynh's sweet love not only gives readers a sense of the loyalty and love of a young girl with a distant lover, but also awakens young people to rethink their own love. me. Love properly, faithfully and sustainably.
|
Bình giảng khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
Hướng dẫn
Bình giảng khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
BÀI LÀM
Tây Tiến, đối với con sông Mã và núi rừng miền Tây xa xôi. Đó là nỗi nhớ “ chơi vơi” bao kỉ niệm đẹp và cảm động một thời trận mạc đầy gian khổ, hi sinh. Đây là đoạn thơ thứ ba trong bài Tây Tiến, đã khắc họa khí phách anh hùng và tâm hồn lãng mạn của người chiến sĩ trong máu lửa:
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc (…)
Sông Mã gầm lên khúc độc hành
Trên những nẻo đường hành quân chiến đấu, vượt qua bao núi cao dốc thẳm “Heo hút cồn mây súng ngửi trời”, đoàn binh Tây Tiến hiện ra giữa màu xanh của núi rừng trùng điệp, vừa kiêu hùng vừa cảm dộng. Người chiến binh với quân trang màu xanh của lá rừng, với nước da xanh phong sương vì sốt rét rừng, thiếu thuốc men, lương thực: “không mọc tóc”. Câu thơ trần trụi như hiện thực chiến tranh những năm đầu kháng chiến vốn thế. “Không mọc tóc” là hình ảnh phán ánh cái khốc liệt của chiến trường:
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm.
Cái hình hài không lấy gì làm đẹp: “quân xanh màu lá”, “không mọc tóc” tương phản với “dữ oai hùm” là một nét chạm khắc tài tình làm nổi bật chí khí hiên ngang, tình thần quả cảm xung trận của các chiến binh Tây Tiến từng làm cho quân giặc phải khiếp sợ. “Dữ oai hùm” là một hình ảnh ẩn dụ nói lên chí khí người lính mang tính kế thừa và sáng tạo của Quang Dũng. Các chiến binh “Sát Thát” đời Trần: “Tam quân tì hổ khí thôn Ngưu” (Phạm Ngũ Lão); “Tì hổ ba quân, giáo gươm sáng chói” (Trương Hán Siêu). Nghĩa quân Lam Sơn xung trận trong khí thế “bình Ngô”: “Sĩ tốt kén tay tì hổ – Bề tôi chọn kẻ vuốt nanh” (Bình Ngô đại cáo) — Một dân tộc anh hùng trên trận tuyến đánh quân thù, thời đại nào cũng có những chiến sĩ “ti hổ” và “dữ oai hùm” như thế đó! Với niềm tự hào, Quang Dũng đã viết nên mội câu thơ rất hay: “Quân xanh màu lá dữ oai hùng”, lấy cái “thô”, cái “mộc” để tô đậm cái đẹp, cái dũng khí ẩn chứa trong tâm hồn người chiến sĩ.
Mát trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.
Mộng và mơ gửi về hai phía chân trời: biên giới và Hà Nội, nơi còn đầy bóng giặc. “Mắt trừng” – hình ảnh gợi tả nét dữ dội, oai phong lẫm liệt, tinh thần cảnh giác, tỉnh táo của người lính trong khói lửa ác liệt. “Mộng qua biên giới” – mộng tiêu diệt quân thù, bảo vệ biên cương, lập nên bao chiến công nêu cao truyền thông anh hùng của đoàn binh Tây Tiến. Lại có những giấc mơ đẹp. Chiến sĩ Tây Tiến vốn là những học sinh, sinh viên, những chàng trai Hà hành “xếp bút nghiên theo việc đao, cung”, giàu lòng yêu nước, phong độ hào hoa: “Từ thuở mang gươm đi giữ nước – Nghìn năm thương nhớ đất Thăng Long” (Huỳnh Vàn Nghệ). Sống giữa núi rừng miền Tây, gian khổ, ác liệt, cái chết bủa vây, lửa đạn mịt mù, nhưng các anh vẫn mơ về Hà Nội. Quên sao dược những hàng me, hàng sấu, nhưng phố cũ trường xưa, “Những phố dài xao xác hơi may?”… Quên sao được những tà áo trắng, những thiếu nữ thương yêu, những “dáng kiều thơm” từng hò hẹn. Hình ảnh “dáng kiều thơm” trong câu thơ của Quang Dũng đem đến cho người đọc nhiều thú vị: ngôn từ vốn có trong thơ lãng mạn thời “tiền chiến” nhưng dưới ngòi bút nhà thơ – chiến sĩ nó trở nên có hồn, đặc tả chất lính hào hoa, trẻ trung, lãng mạn của người lính trẻ đoàn binh Tây Tiến trong trận mạc.
Nếu người nông dân mặc áo lính trong thơ Chính Hữu mang theo nỗi nhớ ‘giếng nước gốc đa”, nhớ mái nhà gianh, nhớ ruộng nương…; trong thơ Hồng Nguyên là nỗi nhớ “người vợ trẻ – Mòn chân bên cối gạo canh khuya”, … thì người chiến sĩ trong thơ Quang Dũng, nỗi nhớ gắn liền với “mộng” và “mơ”. Mộng lập chiến công, mơ “dáng kiều thơm”. Hữu Loan trong bài thơ Màu tím hoa sim cũng viết rất hay về nỗi nhớ của người lính chống Pháp:
Nhớ về ái ngại
Lấy chồng thời chiến tranh
Mấy người đi trở lại
Lỡ khi mìnlh không về
Thì thươmg người vợ bé bỏng chiều quê…
Viết về “ruộng’’ và “mơ” của người chiến binh Tây Tiến, Quang Dũng đã ca ngợi tinh thần lạc quan yêu đời của đồng đội. Đó là một nét khám phá của nhà thơ khi vẽ chân dung “anh bộ đội Cụ Hồ” xuất thân từ tầng lớp tiểu tư sản trong chín năm kháng chiến chống Pháp.
Bốn câu thơ tiếp theo là những nét vẽ bổ trợ, tô đậm bức chân dung người lính.
Rải rác biên cương mồ viễn xứ.
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất,
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.
Trong gian khổ và chiến trận, bao đồng đội đã ngã xuông trên chiến trường miền Tây. Họ nằm lại nơi chân đèo góc núi. Nấm mồ người chiến sỉ “rải rác biên cương”. Câu thơ để lại trong lòng ta nhiều thương cảm, biết ơn, tự hào: “Rải rác biên cương mồ viễn xứ”. Nếu tách câu thơ trên ra khỏi đoạn thơ thì nó tựa như bức tranh xám lạnh, ảm đạm và hiu hắt, đem đến nhiều xót thương. Nhưng nằm trong văn cảnh, đoạn mạch, câu thơ tiếp theo: Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”, đã nâng cao chí khi và tầm vóc người lính. Các anh đã ra trận vì một lí tưởng rất đẹp. “Đời xanh’ là: trai trẻ, là tuổi thanh xuân của “Những chàng trai chưa trắng nợ anh hùng…” những học sinh, sinh viên Hà Nội. Họ lên đường đầu quân vì nghĩa lớn của chí khí làm trai. Họ “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Câu thơ “Chiến truờng đi chẳng tiếc đời xanh” vang lên như một lời thề thiêng liêng, cao cả. Các anh quyết đem xương máu để bảo vệ độc lập, tự do cho Tổ quốc. Anh bộ đội cũng như nhân dân ta đã đứng lên kháng chiến với quyết tâm sắt đá: “ Chúng ta thà hi sinh tất cả, chứ nhất định không chịu làm nô lệ”. Quang Dũng ghi lại cảnh bi tráng giữa chiến trường miền Tây thuở ấy:
Áo bào thay chiếu anh vế đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.
Các tráng sĩ ngày xưa giữa chốn sa trường lấy da ngựa bọc thây làm niềm kiêu hãnh. Các chiến sĩ Tây Tiến với chiếc chiếu đơn sơ, với tấm “áo bào” bình dị ấy: “anh về đất”. Một cái chết nhẹ nhàng, thanh thản. Anh ra trận giết giặc vì quê hương. Anh ngã xuống là: “về đất”, nằm trong lòng Mẹ Tổ quốc thân yêu. Nhà thơ không dùng từ “chết”, từ “hy sinh” mà lấy cụm từ “về đất” để ca ngợi sự hi sinh cao cả mà bình dị, thầm lặng mà thanh thản, nhẹ nhàng coi cái chết nhẹ tựa lông hồng. Người chiến binh Tây Tiến đã sống và chiến đấu cho quê hương, đã chết vì đất nước quê hương. “Anh về đất” bằng tất cả tấm lòng chung thủy của người chiến sĩ. Tiếng thác sông Mã “gầm lên” giữa núi rừng miền Tây như tiếng kèn trong bài “Chiêu hồn liệt sĩ” tống tiễn linh hồn liệt sĩ về nơi an giấc ngàn thu. Câu “Sông Mã gầm lên khúc độc hành” là một câu thơ hay vì gợi tả được không khí thiêng liêng, trang trọng, đồng thời tạo nên âm điệu trầm hùng, thương tiếc. Phong cách ngôn ngữ của Quang Dũng rất đặc sắc, bên cạnh những từ ngữ bình dị đời lính như: gục, không mọc tóc, dữ, trừng, về đất, chiếu, gầm lên… lại có một số từ Hán Việt như: mộng, mơ, biên giới, dáng kiều, biên cương, viễn xứ, áo bào, khúc độc hành – nhờ đó mà cái bình dị làm nổi bật cái cao cả thiêng liêng, cái bình thường tô đậm cái anh hùng, vĩ đại. Chất bi tráng và màu sắc lãng mạn từ vần thơ tỏa rộng trong không gian và chiều dài lịch sử.
Nguồn: Tài liệu trực tuyến
|
Bình giảng khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
Hướng dẫn
Bình giảng khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
BÀI LÀM
Tây Tiến, đối với con sông Mã và núi rừng miền Tây xa xôi. Đó là nỗi nhớ “ chơi vơi” bao kỉ niệm đẹp và cảm động một thời trận mạc đầy gian khổ, hi sinh. Đây là đoạn thơ thứ ba trong bài Tây Tiến, đã khắc họa khí phách anh hùng và tâm hồn lãng mạn của người chiến sĩ trong máu lửa:
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc (…)
Sông Mã gầm lên khúc độc hành
Trên những nẻo đường hành quân chiến đấu, vượt qua bao núi cao dốc thẳm “Heo hút cồn mây súng ngửi trời”, đoàn binh Tây Tiến hiện ra giữa màu xanh của núi rừng trùng điệp, vừa kiêu hùng vừa cảm dộng. Người chiến binh với quân trang màu xanh của lá rừng, với nước da xanh phong sương vì sốt rét rừng, thiếu thuốc men, lương thực: “không mọc tóc”. Câu thơ trần trụi như hiện thực chiến tranh những năm đầu kháng chiến vốn thế. “Không mọc tóc” là hình ảnh phán ánh cái khốc liệt của chiến trường:
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm.
Cái hình hài không lấy gì làm đẹp: “quân xanh màu lá”, “không mọc tóc” tương phản với “dữ oai hùm” là một nét chạm khắc tài tình làm nổi bật chí khí hiên ngang, tình thần quả cảm xung trận của các chiến binh Tây Tiến từng làm cho quân giặc phải khiếp sợ. “Dữ oai hùm” là một hình ảnh ẩn dụ nói lên chí khí người lính mang tính kế thừa và sáng tạo của Quang Dũng. Các chiến binh “Sát Thát” đời Trần: “Tam quân tì hổ khí thôn Ngưu” (Phạm Ngũ Lão); “Tì hổ ba quân, giáo gươm sáng chói” (Trương Hán Siêu). Nghĩa quân Lam Sơn xung trận trong khí thế “bình Ngô”: “Sĩ tốt kén tay tì hổ – Bề tôi chọn kẻ vuốt nanh” (Bình Ngô đại cáo) — Một dân tộc anh hùng trên trận tuyến đánh quân thù, thời đại nào cũng có những chiến sĩ “ti hổ” và “dữ oai hùm” như thế đó! Với niềm tự hào, Quang Dũng đã viết nên mội câu thơ rất hay: “Quân xanh màu lá dữ oai hùng”, lấy cái “thô”, cái “mộc” để tô đậm cái đẹp, cái dũng khí ẩn chứa trong tâm hồn người chiến sĩ.
Mát trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.
Mộng và mơ gửi về hai phía chân trời: biên giới và Hà Nội, nơi còn đầy bóng giặc. “Mắt trừng” – hình ảnh gợi tả nét dữ dội, oai phong lẫm liệt, tinh thần cảnh giác, tỉnh táo của người lính trong khói lửa ác liệt. “Mộng qua biên giới” – mộng tiêu diệt quân thù, bảo vệ biên cương, lập nên bao chiến công nêu cao truyền thông anh hùng của đoàn binh Tây Tiến. Lại có những giấc mơ đẹp. Chiến sĩ Tây Tiến vốn là những học sinh, sinh viên, những chàng trai Hà hành “xếp bút nghiên theo việc đao, cung”, giàu lòng yêu nước, phong độ hào hoa: “Từ thuở mang gươm đi giữ nước – Nghìn năm thương nhớ đất Thăng Long” (Huỳnh Vàn Nghệ). Sống giữa núi rừng miền Tây, gian khổ, ác liệt, cái chết bủa vây, lửa đạn mịt mù, nhưng các anh vẫn mơ về Hà Nội. Quên sao dược những hàng me, hàng sấu, nhưng phố cũ trường xưa, “Những phố dài xao xác hơi may?”… Quên sao được những tà áo trắng, những thiếu nữ thương yêu, những “dáng kiều thơm” từng hò hẹn. Hình ảnh “dáng kiều thơm” trong câu thơ của Quang Dũng đem đến cho người đọc nhiều thú vị: ngôn từ vốn có trong thơ lãng mạn thời “tiền chiến” nhưng dưới ngòi bút nhà thơ – chiến sĩ nó trở nên có hồn, đặc tả chất lính hào hoa, trẻ trung, lãng mạn của người lính trẻ đoàn binh Tây Tiến trong trận mạc.
Nếu người nông dân mặc áo lính trong thơ Chính Hữu mang theo nỗi nhớ ‘giếng nước gốc đa”, nhớ mái nhà gianh, nhớ ruộng nương…; trong thơ Hồng Nguyên là nỗi nhớ “người vợ trẻ – Mòn chân bên cối gạo canh khuya”, … thì người chiến sĩ trong thơ Quang Dũng, nỗi nhớ gắn liền với “mộng” và “mơ”. Mộng lập chiến công, mơ “dáng kiều thơm”. Hữu Loan trong bài thơ Màu tím hoa sim cũng viết rất hay về nỗi nhớ của người lính chống Pháp:
Nhớ về ái ngại
Lấy chồng thời chiến tranh
Mấy người đi trở lại
Lỡ khi mìnlh không về
Thì thươmg người vợ bé bỏng chiều quê…
Viết về “ruộng’’ và “mơ” của người chiến binh Tây Tiến, Quang Dũng đã ca ngợi tinh thần lạc quan yêu đời của đồng đội. Đó là một nét khám phá của nhà thơ khi vẽ chân dung “anh bộ đội Cụ Hồ” xuất thân từ tầng lớp tiểu tư sản trong chín năm kháng chiến chống Pháp.
Bốn câu thơ tiếp theo là những nét vẽ bổ trợ, tô đậm bức chân dung người lính.
Rải rác biên cương mồ viễn xứ.
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất,
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.
Trong gian khổ và chiến trận, bao đồng đội đã ngã xuông trên chiến trường miền Tây. Họ nằm lại nơi chân đèo góc núi. Nấm mồ người chiến sỉ “rải rác biên cương”. Câu thơ để lại trong lòng ta nhiều thương cảm, biết ơn, tự hào: “Rải rác biên cương mồ viễn xứ”. Nếu tách câu thơ trên ra khỏi đoạn thơ thì nó tựa như bức tranh xám lạnh, ảm đạm và hiu hắt, đem đến nhiều xót thương. Nhưng nằm trong văn cảnh, đoạn mạch, câu thơ tiếp theo: Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”, đã nâng cao chí khi và tầm vóc người lính. Các anh đã ra trận vì một lí tưởng rất đẹp. “Đời xanh’ là: trai trẻ, là tuổi thanh xuân của “Những chàng trai chưa trắng nợ anh hùng…” những học sinh, sinh viên Hà Nội. Họ lên đường đầu quân vì nghĩa lớn của chí khí làm trai. Họ “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Câu thơ “Chiến truờng đi chẳng tiếc đời xanh” vang lên như một lời thề thiêng liêng, cao cả. Các anh quyết đem xương máu để bảo vệ độc lập, tự do cho Tổ quốc. Anh bộ đội cũng như nhân dân ta đã đứng lên kháng chiến với quyết tâm sắt đá: “ Chúng ta thà hi sinh tất cả, chứ nhất định không chịu làm nô lệ”. Quang Dũng ghi lại cảnh bi tráng giữa chiến trường miền Tây thuở ấy:
Áo bào thay chiếu anh vế đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.
Các tráng sĩ ngày xưa giữa chốn sa trường lấy da ngựa bọc thây làm niềm kiêu hãnh. Các chiến sĩ Tây Tiến với chiếc chiếu đơn sơ, với tấm “áo bào” bình dị ấy: “anh về đất”. Một cái chết nhẹ nhàng, thanh thản. Anh ra trận giết giặc vì quê hương. Anh ngã xuống là: “về đất”, nằm trong lòng Mẹ Tổ quốc thân yêu. Nhà thơ không dùng từ “chết”, từ “hy sinh” mà lấy cụm từ “về đất” để ca ngợi sự hi sinh cao cả mà bình dị, thầm lặng mà thanh thản, nhẹ nhàng coi cái chết nhẹ tựa lông hồng. Người chiến binh Tây Tiến đã sống và chiến đấu cho quê hương, đã chết vì đất nước quê hương. “Anh về đất” bằng tất cả tấm lòng chung thủy của người chiến sĩ. Tiếng thác sông Mã “gầm lên” giữa núi rừng miền Tây như tiếng kèn trong bài “Chiêu hồn liệt sĩ” tống tiễn linh hồn liệt sĩ về nơi an giấc ngàn thu. Câu “Sông Mã gầm lên khúc độc hành” là một câu thơ hay vì gợi tả được không khí thiêng liêng, trang trọng, đồng thời tạo nên âm điệu trầm hùng, thương tiếc. Phong cách ngôn ngữ của Quang Dũng rất đặc sắc, bên cạnh những từ ngữ bình dị đời lính như: gục, không mọc tóc, dữ, trừng, về đất, chiếu, gầm lên… lại có một số từ Hán Việt như: mộng, mơ, biên giới, dáng kiều, biên cương, viễn xứ, áo bào, khúc độc hành – nhờ đó mà cái bình dị làm nổi bật cái cao cả thiêng liêng, cái bình thường tô đậm cái anh hùng, vĩ đại. Chất bi tráng và màu sắc lãng mạn từ vần thơ tỏa rộng trong không gian và chiều dài lịch sử.
Nguồn: Tài liệu trực tuyến
|
Đề bài: Bình giảng khổ cuối bài Tương tư của Nguyễn Bính
Bài làm
"Nhà em có một giàn giầu,
Nhà anh có một hàng cau liên phòng.
Thôn Đoài thì nhà thôn Đông,
Cau thôn Đoài, nhớ giầu không thôn nào?".
"Nắng mưa là bệnh cửa giời – Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng"… Đó là thơ Nguyễn Bính. Nhà thơ tự học mà thành tài. Hoài Thanh, trong "Thi nhân Việt Nam" cho biết, Nguyễn Bính vào tuổi hai mươi đã làm gần một nghìn bài thơ. Nguyễn Bính sử dụng nhiều thể thơ, điệu thơ, nhưng thành công nhất là thơ lục bát, ở những bài thơ ấy, "ta bỗng thấy vườn cau bụi chuối là hoàn cảnh tự nhiên của ta", ta cảm thấy một điều đáng quý báu vô ngần, đó là "hồn xưa của đất nước".
Những bài thơ tình của Nguyễn Bính có một giọng điệu riêng, đẹp như ca dao, mang tính cách ca dao… Nhiều câu thơ đoạn thơ cứ thấm vào hồn ta mãi:
"Nhà em có một giàn giầu,
Nhà anh có một hàng cau liên phòng.
Thôn Đoài thì nhà thôn Đông,
Cau thôn Đoài, nhớ giầu không thôn nào?".
Đoạn thơ trên đây trích trong bài thơ "Tương tư", rút trong tập thơ "Lỡ bước sang ngang" (1940) của thi sĩ Nguyễn Bính. Bài thơ gồm có 20 câu lục bát; 16 câu đầu nói về nỗi buồn nhớ tương tư, trách móc tôi hờn: "Có xa xôi mấy mà tình xa xôi?"… Bốn câu cuối nói lên niềm mong ước của chàng trai đa tình về một tình yêu hạnh phúc với một thiếu nữ khác thôn chung làng.
Cấu trúc song hành đối xứng, bốn câu thơ liên kết thành hai cặp, gắn bó với nhau rất hồn nhiên, tự nhiên như duyên trời đã định giữa nhà em và nhà tôi, giữa em và anh, giữa thôn Đoài với thôn Đông, giữa cau với giầu vậy. Giọng thơ thì thầm ngọt ngào như một lời cầu mong, ước ao khao khát. Từ chỗ gọi "nàng": "Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng" đã chuyển thành một tiếng "em” gần gũi, thân thiết yêu thương: "Nhà em có một giàn trầu… ". Cách xưng hô từ "tôi" – "nàng" dẫn đến "em" – "anh" thân thiết hơn, phong tình và yêu thương hơn.
Giầu với cau đã cố kết bền đẹp từ ngàn xưa, nên bây giờ mới có sự tương giao tương hợp như một thiên duyên đẹp kì lạ:
"Nhà em có một giàn giầu,
Nhà anh có một hàng cau liên phòng."
Điệp ngữ "nhà… cố một" làm cho ý thơ vang lên khẳng định về một sự sóng đôi tồn tại. Tuy rằng "hai thôn chung lại một làng", chẳng xa xôi mấy, nhưng "giàn giầu" nhà em và "hàng cau liên phòng" của nhà anh vẫn còn ở về hai phía không gian. Nhà em và nhà anh mới chỉ "có một" chưa chưa có đôi. Chữ một trong hai câu thơ rất ý vị, nó đã nói lên ước mong về hạnh phúc lứa đôi: duyên giầu – cau cũng là duyên lứa đôi bền chặt, sắt son, thủy chung.
Trong bài "Tương tư", Nguyễn Bính sử dụng nhiều câu hỏi tu từ để diễn tả nỗi buồn tương tư "mãi chẳng ra":
Cớ sao bên ấy chẳng sang bên này?
Có xa xôi mấy mà tình xa xôi?
Biết cho ai, hỏi ai người biết cho?
Bao giờ bến mới gặp đò?
Và khép lại bài thơ, chàng trai tự hỏi mình trong mơ ước và hi vọng:
"Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông,
Cau thôn Đoài nhờ giầu không thôn nào?"
Cả một trời thương nhớ, đâu chỉ tôi nhớ nàng, anh nhớ em, mà còn có "Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông". Cảnh vật cũng dan díu nhớ mong: "Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào?" Một lối nói nhỏ lửng, rất tế nhị, duyên dáng, đậm đà. Anh tự hỏi mình, và cũng là thổ lộ cùng em. Câu hỏi tu từ với câu trúc bỏ lửng đã thể hiện một tình yêu chân thành về một ước mơ hạnh phúc tốt đẹp. Ước mơ ấy thật nhân văn.
Đoạn thơ cho thấy vẻ đẹp riêng trong thơ tình của Nguyễn Bính. Tác giả đã vận dụng sáng tạo các chất liệu văn học dân gian như giầu – cau, thôn Đoài – thôn Đông, câu thơ lục bát giàu vần điệu nhạc điệu để nói lên nỗi khát khao tình yêu hạnh phúc của lứa đôi. Một tình yêu đằm thắm, chân quê. "Tương tư" thấm một nỗi buồn, nhưng đoạn kết đã mở ra một chân trời hi vọng…
|
Topic: Commentary on the last stanza of the article "Sad Thoughts" by Nguyen Binh
Assignment
"My house has a trellis,
His house has a row of areca palms in each room.
Doai village is home to Dong village,
Areca in Doai village, do you remember which village is rich?
"Sunshine and rain is the disease of the world - Lust is the disease of me loving her"... That is Nguyen Binh's poem. The poet is self-taught and talented. Hoai Thanh, in "Vietnamese Poets", said that at the age of twenty, Nguyen Binh wrote nearly a thousand poems. Nguyen Binh uses many poetic forms and rhythms, but the most successful is Luc Bat poetry. In those poems, "we suddenly see that the areca garden and banana bushes are our natural situation", we feel something precious. boundless treasure, it is "the ancient soul of the country".
Nguyen Binh's love poems have a unique tone, beautiful like a folk song, with a folk song character... Many verses and verses keep penetrating our souls forever:
"My house has a trellis,
His house has a row of areca palms in each room.
Doai village is home to Dong village,
Areca in Doai village, do you remember which village is rich?
The above poem is excerpted from the poem "Similar Love", taken from the collection of poems "Accidentally Stepping Sideways" (1940) by poet Nguyen Binh. The poem consists of 20 verses; The first 16 verses talk about the sadness and longing for love, blaming me for resentment: "How far away is love?"... The last four sentences express the wish of an amorous young man for a happy love with a young man. Women from different villages share the same village.
The parallel structure is symmetrical, the four lines of the poem are linked into two pairs, attached to each other very innocently and naturally like the predestined fate between your house and my house, between you and me, between Doai village and Dong village, between areca and rich. The poetic voice whispers sweetly like a wish, a wish, a desire. From calling "her": "Love is my disease, I love her" has turned into a close, intimate and loving "you": "My house has a betel tree...". How to address the word "I" - "she" leads to "you" - "you" is more intimate, more affectionate and more loving.
Rich and areca nuts have been firmly united since ancient times, so now there is a compatible relationship like a strangely beautiful fate:
"My house has a trellis,
My house has a row of areca palms in every room."
The alliteration "house... is one" makes the poetic meaning resonate with the affirmation of a dual existence. Even though "two villages together in one village" is not very far away, my house's "rich platform" and my house's "areca nut row" are still on two sides of the space. Your family and my family are only "one" and not a couple yet. The word in one of the two verses is very meaningful, it speaks of the wish for a couple's happiness: the relationship between being rich and areca nuts is also a strong, strong, and faithful couple's relationship.
In the article "Love for Love", Nguyen Binh uses many rhetorical questions to express the sadness of love for "never ending":
Why doesn't that side go to this side?
How far away is love?
If you know, who should you ask?
When will the wharf meet the ferry?
And closing the poem, the boy asks himself in his dreams and hopes:
"Doai village remembers Dong village,
Is the Areca village of Doai village rich?
A whole world of memories, not only I miss her, I miss you, but also "Doai village misses Dong village". The scenery is also filled with longing: "Areca trees in Doai village remember how rich they are?" A small way of speaking, very delicate, charming, rich. I asked myself, and also confessed to you. The rhetorical question with the suspended sentence expressed a sincere love for a good, happy dream. That dream is very humane.
The poem shows the unique beauty of Nguyen Binh's love poetry. The author has creatively used folk literature materials such as rich - areca, Doai village - Dong village, six-eight verses rich in musical rhymes to express the couple's desire for happy love. A loving, sincere love. "Love" is filled with sadness, but the ending opens up a horizon of hope...
|
Đề bài: Bình giảng khổ thơ thứ hai bài Tràng giang của Huy Cận
Bài làm
"Tràng giang" là bài thơ kiệt tác của Huy Cận rút trong tập thơ "Lửa thiêng" (1940). Bài thơ có một câu đề từ rất đậm đà: "Bâng khuâng trời rộng, nhớ sông dài". Tác giả đã có lần nói: "Tràng giang” là một bài thơ tình và tình gặp cảnh, một bài thơ về tâm hồn". "Tràng giang" tiêu biểu cho vẻ đẹp của hồn thơ Huy Cận trước cách mạng: hàm súc, cổ điển, giàu chất suy tưởng triết lí, thấm thía một nỗi buồn nhân thế "sầu trăm ngả".
Bài thơ được viết theo thể thơ thất ngôn trường thiên, có 4 khổ thơ hợp thành một bộ tứ bình về tràng giang một chiều thu. Đây là khổ thơ thứ hai của "Tràng giang":
"Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu".
Từ dòng sông, sóng gợn, con thuyền xuôi mái và cành củi khô bập bềnh trôi dạt trên sóng… ở khổ một, Huy Cận nói đến cảnh tràng giang một buổi chiều mênh mông, vắng vẻ. Giọng thơ nhè nhẹ man mác buồn. Không gian nghệ thuật được mở rộng về đôi bờ và bầu trời. Những cồn cát thưa thớt nhấp nhô "lơ thơ" như nối tiếp mãi dài ra. Gió chiều nhè nhẹ thổi "đìu hiu" gợi buồn khôn xiết kể. Hai chữ "đìu hiu" gợi nhớ trong lòng người đọc một vần thơ cổ:
"Non Kì quạnh quẽ trăng treo,
Bến Phì gió thổi đìu hiu mấy gò
(Chinh phụ ngâm)
Làng xóm đôi bờ sông, trong buổi chiều tàn cũng rất vắng lặng. Một chút âm thanh nhỏ bé lao xao trong khoảnh khắc tan chợ. vãn chợ ở đâu đây, ở từ một làng xa vẳng đến. Lấy động để tả tĩnh, câu thơ "Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều" đã làm nổi bật sự ngạc nhiên, chút bâng khuâng của người lữ khách về cái vắng vẻ, cái hoang vắng của đôi bờ tràng giang. Các nhà thơ mới coi trọng tính nhạc trong thơ, vận dụng nghệ thuật phối âm, hòa thanh rất thần tình, tạo nên những vần thơ giàu âm điệu, nhạc điệu, đọc lên nghe rất thích. Hai câu thơ đầu đoạn có điệp âm "lơ thơ" và "đìu hiu", có vần lửng: "nhỏ – giỏ", có vần chân: "hiu – chiều". Câu thơ của Huy Cận làm ta liên tưởng đến câu thơ của Xuân Diệu:
"Con đường nhỏ nhỏ gió xiêu xiêu
Lả lả cành hoang nắng trở chiều"…
(Thơ duyên").
Các điệp thanh: "nhỏ nhỏ", "xiêu xiêu", "lả lả"', các vần thơ, như vần lưng "nhỏ" với "gió” vần chân "xiêu” với "chiều". Những vần thơ "tươi nhạc tươi vần" ấy đã trở thành câu thơ trong trí nhớ của hàng triệu con người yêu thích văn học.
Trở lại đoạn thơ trong bài "Tràng giang” của Huy Cận, ta như được nhập hồn minh vào cõi vũ trụ mênh mông và bao la. Trời đã về chiều. Nắng từ trên cao chiếu rọi xuống làm hiện ra những khoảng sâu thăm thẳm trên bầu trời, vẻ đẹp của bầu trời thu quê hương ta đã trở thành vẻ đẹp của thi ca dân tộc: "Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao" (Thu vịnh); "Trời cao xanh ngắt – Ồ kìa…" (Tiếng sáo Thiên Thai), "Xanh biếc trời cao, bạc đất bằng" (Xuân Diệu). Thi sĩ Huy Cận lại nhận diện bầu trời không phải là cao mà là sâu, "sâu chót vót":
"Nắng xuống /trời lên sâu chót vót"
Bầu trời và lòng sông "sóng gợn" là không gian hai chiều, rộng và cao, sâu. Trời cao thăm thẳm, rộng mênh mông in xuống, soi xuống lòng sông. Người ta thường nói "cao chót vót" và "sâu thăm thẳm", nhưng Huy Cận lại cảm nhận là "sâu chót vót” vừa để làm nổi bật hai vế tiểu đối: "nắng xuống" // "trời lên", vừa gây ấn tượng về cái bao la, mênh mông đến rợn ngợp của không gian vũ trụ vô tận, và cũng là nỗi buồn như vô tận trong lòng người. Khách li hương càng cảm thấy nhỏ bé, lẻ loi và cô đơn trước không gian vô hạn của vũ trụ. Dòng sông như dài thêm ra, bầu trời như rộng thêm ra, bến đò (hay bến lòng?) như cô liêu hơn, xa vắng, quạnh hiu hơn. Lời đề từ nhà thơ đã viết: "Bâng khuâng trời rộng, nhớ sông dài", cảm hứng ấy đã được láy lại ở câu thơ số 8, mở ra một trường liên tưởng đầy ám ảnh về vũ trụ thì vô hạn vô cùng, còn kiếp người thì nhỏ hé, hữu hạn:
"Sông dài, trời rộng, bến cô liêu".
Cảnh sắc tràng giang được nói đến trong đoạn thơ là một không gian nghệ thuật đẹp mà buồn, vẻ đẹp của những dòng sông trên mọi miền đất nước hội tụ trong tâm hồn thi nhân, vẻ đẹp của tình yêu quê hương, tình yêu sông núi. Tình yêu đó mang nỗi buồn sông núi, nỗi buồn về đất nước của Huy Cận, của thế hệ các nhà thơ thời tiền chiến. "Tràng giang" đã hợp lưu trong lòng người hơn 60 năm rồi. Đọc đoạn thơ trên, ta mới thấu hiểu nỗi lòng thi nhân trước cách mạng: "Chàng Huy Cận khi xưa hay xấu lắm…
|
Topic: Commentary on the second stanza of Huy Can's poem Trang Giang
Assignment
"Trang Giang" is Huy Can's masterpiece poem drawn from the collection of poems "Sacred Fire" (1940). The poem has a very bold title: "Wanting about the wide sky, missing the long river". The author once said: "Trang Giang" is a poem of love and situation, a poem about the soul. "Trang Giang" represents the beauty of Huy Can's poetic soul before the revolution: concise, classic, rich in philosophical thoughts, and penetrating a human sadness of "hundreds of sorrows".
The poem is written in a seven-word long poem form, with four stanzas forming a tetralogy about the river on an autumn afternoon. This is the second stanza of "Trang Giang":
"Loose poetry, small dunes, desolate wind
The sound of the village is far away from the afternoon market
The sun goes down, the sky rises to a towering depth
Song Long, wide sky, lonely station".
From the river, the ripples, the boat sailing down the roof and the dry wood branches floating on the waves... in stanza one, Huy Can talks about the vast, deserted afternoon of the river. The poetic voice is gentle and sad. The art space is expanded to the shore and sky. The sparse, undulating sand dunes seem to continue to grow longer and longer. The gentle afternoon wind blows "sorrowfully" and evokes unspeakable sadness. The two words "sadness" remind the reader of an ancient poem:
"Non Ky is lonely and the moon hangs,
Ben Phi's wind blew a few mounds
(Conqueror soaking)
The villages on both banks of the river are very quiet in the late afternoon. A little sound buzzing in the moment of closing the market. The market is here somewhere, coming from a far away village. Using movement to describe stillness, the poem "Where the sounds of the village are far away from the afternoon market" highlights the traveler's surprise and sadness about the solitude and desolation of the banks of the river. The new poets attach great importance to the musicality of poetry, applying the art of mixing sounds and harmonies in a very magical way, creating poems rich in rhythm and music that are very enjoyable to read. The first two verses of the paragraph have the alliteration "lo poetry" and "diu huu", with a suspended rhyme: "small - basket", with a foot rhyme: "solemn - afternoon". Huy Can's poem reminds us of Xuan Dieu's poem:
"The small road is windy and swaying
Loose branches in the afternoon sun"…
(Love Poetry").
The vocal refrains: "small", "swaying", "lazy"', poetic rhymes, such as the back rhyme "small" with "wind" and the foot rhyme "xiao" with "afternoon". Those "fresh, musical and rhymed" poems have become verses in the memories of millions of people who love literature.
Returning to the poem in the poem "Trang Giang" by Huy Can, we feel like we have entered the soul into the vast and vast universe. It is late afternoon. The sun shines down from above, revealing deep spaces. in the sky, the beauty of our homeland's autumn sky has become the beauty of national poetry: "The autumn sky is so blue many floors high" (Thu bay); "The sky is so blue - Oh look..." (Tiếng Thien Thai flute), "The sky is blue, the land is silver" (Xuan Dieu). Poet Huy Can identifies the sky not as high but as deep, "toweringly deep":
"The sun goes down/the sky rises so deeply"
The sky and the "rippled" riverbed are two-dimensional space, wide, high, and deep. The sky is high and deep, vast and vast, reflecting down on the riverbed. People often say "towering high" and "deeply deep", but Huy Can feels that "towering deep" both serves to highlight the two opposites: "sunset" // "sky rises", and leaving an impression of the immense, overwhelming immensity of endless space, and also the endless sadness in people's hearts. Travelers feel even more small, alone and lonely in space limitless universe. The river seems longer, the sky seems wider, the wharf (or wharf?) seems more lonely, remote, lonely "expanding the wide sky, remembering the long river", that inspiration was repeated in verse number 8, opening up a field of haunting thoughts about the universe being infinite and infinite, while human life is small and finite:
"Song Long, wide sky, lonely station".
The landscape of Trang Giang mentioned in the poem is a beautiful but sad artistic space, the beauty of rivers in all parts of the country converges in the poet's soul, the beauty of love for the homeland, love of rivers. mountain. That love carries the sadness of the mountains and rivers, the sadness of Huy Can's country, of the generation of pre-war poets. "Trang Giang" has been confluent in people's hearts for more than 60 years. Reading the above poem, we can understand the poet's feelings before the revolution: "Guy Huy Can used to be very ugly in the past...
|
Đề bài: Bình giảng khổ thơ đầu bài Mùa xuân nho nhỏ của Thanh Hải
Bài làm
Thơ là cái đẹp muôn đời, cái đẹp của thiên nhiên, cái đẹp của con người. Có lẽ mùa xuân là thời gian hội tụ bao vẻ đẹp của đất nước và con người Việt Nam nên thơ xuân mới hay và đậm đà như thế. Ta bâng khuâng một nét xuân trong thơ vua Trần Nhân Tông:
Song song đôi bướm trắng
Phất phới phấn hoa bay.
(Buổi sớm mùa xuân)
Ta cảm một sắc xuân tươi xinh rực rỡ trong thơ của thi hào Nguyễn Du:
Cỏ non xanh tận chân trời,
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.
(Truyện Kiều)
Ta rạo rực dõi nhìn một cánh đu bay trong ngày hội xuân của làng quê thân thuộc:
Bốn mảnh quần hồng bay phấp phới,
Hai hàng chân ngọc duỗi song song.
(Đánh du- Hồ Xuân Hương)
Và đây là thơ xuân của Thanh Hải:
Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
ơi con chim chiền chiện
Hót chi mù vang trời
Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng…
Có người đã cho rằng: “Đoạn thơ đẹp như bức tranh”. Đó là bức tranh xuân của "Huế đẹp và thơ", quê mẹ hương yêu của thi sĩ Thanh Hải.
Hai câu thơ đầu là một sắc xuân tươi xinh rực rỡ tắm mát tâm hồn chúng ta. Vần thơ như một tiếng nói thốt lên khi ngạc nhiên chợt thấy một cảnh đẹp mà lòng xôn xao xúc động:
Mọc giữa dòng sông xanh Một bông hoa tím biếc.
Có sông và hoa. Có màu “xanh” của dòng sông làm nền để tô điểm màu "tím biếc" của hoa, bông hoa xuân mới "mục", mới nở. Dòng sông hiện hữu trong bài thơ Thanh Hải không phải là con sông chung chung nào, mà người đọc dễ nhận ra, đó là sông Hương “bùi thư trữ tình cố đô Huế” như thi sĩ Tố Hữu tâm sự:
Hương Giang ơi, dòng sông êm
Qua tim ta, vẫn ngày đêm tự tình…
“Bông hoa tím biếc" mọc giữa dòng sông xanh chỉ có thể là hoa súng, hoa lục bình dân dã mà Lê Anh Xuân từng say mê ngắm nhìn sau những năm dài xa cách mới trở về quê nội:
Hoa lục bình tím củ bờ sông.
Chữ “mọc” nằm đầu câu thơ “Mọc giữa dòng sông xanh" thể hiện một nét xuân đột hiện, một sức xuân mạnh mẽ xuất hiện xinh đẹp, non lơ, lộng lẫy như một nàng xuân trong sắc áo “tím biếc” kiêu sa trên cái nền xanh của dòng sông. Thanh Hải đã sử dụng hai gam màu tươi sáng để vẽ lên một nét xuân đẹp trên bức tranh xuân đẹp.
Ngắm dòng sông, bâng khuâng nhìn hoa xuân đẹp, nhà thơ khẽ reo lên khi bỗng nghe chim hót “vang trời”:
Ơi! Con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời.
“Ơi” là từ cảm thán biểu đạt sự xúc động bồi hồi của nhà thơ khi nghe chim chiền chiện hót. Tiếng chim hót là khúc nhạc đồng quê. Chim chiền chiện làm tổ trên luống cày, nó là người bạn thân thiết của nhà nông. Nghe chiền chiện hót mà mừng vui, chim báo sẽ được mùa:,"Chiền chiện hót lúa tốt bời bời "(Tục ngữ). Hai tiếng "hót chi” rất gợi cảm, là cách nói "dịu ngọt” của bà con “xứ Huế chúng miềng". Qua đó, ta thấy nét xuân thứ hai được nhà thơ cảm nhận là một nét vui. Qua tiếng chim hót mà ta cảm được cái mênh mông trong sáng của bầu trời xuân. Ta cảm được tấm lòng hồn hậu của đứa con xứ Huế. Một cử chỉ rất tao nhã đáng yêu:
Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng
Không hề nói đến nắng mà ta vẫn cảm nhận được ánh hồng bình minh làm long lanh những giọt sương tròn như hòn ngọc bé tí treo trên đầu ngọn cỏ, lá cây. "Từng giọt long lanh rơi" cũng có thể là những chuỗi âm thanh, từng chuỗi tiếng chim chiền chiện từ trời cao vọng đến, "rơi" xuống? Cái cử chỉ “đưa tay… hứng” thể hiện một hồn thơ chan hòa với thiên nhiên, đất ười, tạo vật.
Thơ đích thực mở ra trong lòng người đọc những sắc màu và chân trời bao la. Tiếng chim hót, giọt long lanh trong thơ Thanh Hải cũng vậy, nó mở ra bao thế giới về cảnh sắc ban mai trên đồng quê. Cảnh sắc thân thuộc đáng yêu biết bao:
Mặt trời lên càng tỏ
Bông lúa chín thêm vàng
Sương treo trên đầu cỏ
Sương lại cùng long lanh
Bay vút tận trời xanh
Chiền chiện cao tiếng hót…
(Thăm lúa – Trần Hữu Thung)
Đoạn thơ ngũ ngôn sáu câu ba mươi chữ của Thanh Hải quả là một bức tranh xuân đẹp và tươi vui. Có bầu trời và dòng sông. Có hoa khoe sắc và chim cất tiếng hót. Có giọt sương mai long lanh. Hình ảnh con người xuất hiện trên bức tranh xuân với cử chỉ tao nhã, ung dung, với tâm hồn trong sáng, lạc quan yêu đời và giàu tình yêu thiên nhiên.
Mùa xuân nho nhỏ là một bức thơ xuân kiệt tác của Thanh Hải. Ông viết bài thơ này vào tháng 11 năm 1980, một tháng trước lúc ông qua đời. Có thể nói, đoạn thơ trên đây là khát vọng mùa xuân muôn đời.
|
Topic: Commentary on the first stanza of Thanh Hai's Little Spring
Assignment
Poetry is eternal beauty, the beauty of nature, the beauty of people. Perhaps spring is the time when the beauty of the country and people of Vietnam converges, so spring poetry is so beautiful and rich. I feel a glimpse of spring in King Tran Nhan Tong's poetry:
Pair of white butterflies
Flying pollen.
(Spring morning)
We feel a bright and beautiful spring color in the poetry of poet Nguyen Du:
Green grass reaches the horizon,
There are some blossoms on the white pear branch.
(Kieu story)
I excitedly watched a flying swing in the spring festival of a familiar village:
Four pieces of pink pants fluttering,
Two parallel rows stretching pearl pins.
(Travel - Xuan Huong Lake)
And this is Thanh Hai's spring poetry:
Growing in the middle of the green river
A purple flower
Hey lark
Singing loudly in the sky
Every drop of glitter falls
I put my hand inspiration…
Someone said: "The poem is as beautiful as a painting." It is a spring painting of "beautiful and poetic Hue", the beloved motherland of poet Thanh Hai.
The first two verses are a bright, beautiful spring color that cools our souls. The poem is like a voice uttered when surprised and suddenly sees a beautiful scene that makes the heart stir with emotion:
Growing in the middle of the blue river, a deep purple flower.
There are rivers and flowers. There is the "blue" color of the river as a background to highlight the "purple" color of the flowers, the "rotten" spring flowers that have just bloomed. The river that exists in Thanh Hai's poem is not any common river, but the reader can easily recognize it, it is the Perfume River, "the lyrical book of the ancient capital of Hue" as poet To Huu confided:
Dear Huong Giang, the river is calm
Through my heart, I still love myself day and night...
The "blue purple flower" growing in the middle of the green river can only be the water lily and the common hyacinth flower that Le Anh Xuan once passionately looked at after returning to his hometown after many years of separation:
Purple water hyacinth bulbs on the riverbank.
The word "grow" at the beginning of the poem "Grow in the middle of the green river" represents a sudden appearance of spring, a strong spring energy that appears beautiful, tender, and splendid like a spring girl in a proud "blue purple" dress. sand on the green background of the river. Thanh Hai used two bright colors to paint a beautiful spring look on the beautiful spring painting.
Admiring the river, wistfully looking at the beautiful spring flowers, the poet exclaimed softly when he suddenly heard birds singing "resounding in the sky":
Yeah! The lark
Why sing to the sky?
“Oi” is an exclamation expressing the poet's emotional excitement when hearing the lark sing. Birdsong is country music. The lark nests in the furrow, it is a close friend of the farmer. Listening to the song of the lark makes you happy, the bird announces a good harvest: "The lark sings of good rice" (Proverb). The two sounds of "singing chi" are very sexy, a "sweet" way of saying "Hue people of the land". Through this, we see that the second spring feature that the poet feels is a happy feature. Through the sound of birds singing but we feel the vastness and purity of the spring sky. We feel the kind heart of the children of Hue. A very elegant and lovely gesture:
Every drop of glitter falls
I put my hand inspiration
Without mentioning the sun, we can still feel the pink light of dawn making round dew drops sparkle like tiny pearls hanging on the tips of grass and leaves. "Every falling drop of glitter" could also be a series of sounds, a series of larks calling from the sky, "falling" down? The gesture of "raising your hand... for inspiration" shows a poetic soul in harmony with nature, the land, and creation.
True poetry opens up vast colors and horizons in the reader's heart. The sound of birds singing and sparkling drops in Thanh Hai's poetry are the same, they open up many worlds of the morning scenery in the countryside. How lovely the familiar scenery is:
The sun rises more clearly
Ripe rice flowers turn golden
Dew hangs on top of the grass
The dew sparkled again
Soaring into the blue sky
Skylarks sing loudly...
(Visit rice – Tran Huu Thung)
Thanh Hai's five-line, six-line, thirty-word poem is truly a beautiful and cheerful picture of spring. There is the sky and the river. There are flowers blooming and birds singing. There are glittering drops of morning dew. Images of people appear in spring paintings with elegant and leisurely gestures, with a pure soul, optimistic about life and rich in love for nature.
Little Spring is a masterpiece spring poem by Thanh Hai. He wrote this poem in November 1980, one month before his death. It can be said that the above poem is the eternal desire for spring.
|
Bình giảng khổ thơ đầu bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ
Hướng dẫn
Đến với thơ từ khi mới 16 tuổi, sự nghiệp sáng tác của ông phôi thai và phát triển cực điểm cho đến tận hơi thở cuối cùng. Dù ở đề tài nào, người đọc vẫn tìm thấy chính cuộc đời thăng trầm, dâu bể của ông sau những vần thơ. “Đây thôn Vĩ Dạ” là một tác phẩm nổi tiếng đã góp phần đưa tên tuổi của Hàn Mặc Tử bừng sáng giữa bầu trời lấp lánh sao của văn thơ Việt Nam buổi nào.
“Đây thôn Vĩ Dạ” được nhà thơ lấy cảm hứng từ sự khơi gợi về một kỷ niệm của người yêu cũ. Bài thơ có 12 câu, chia làm 3 khổ, mỗi khổ thơ như một bức tranh tuyệt đẹp về xứ Huế mộng mơ. Khổ đầu tiên là bức tranh hừng đông nơi thôn, khổ thứ hai là cảnh trăng về trên thôn và khổ cuối cùng là hoài niệm về người xưa nơi thôn Vĩ. Chúng ta cùng thưởng thức cảnh bình minh trên thôn Vĩ qua khổ thơ đầu để cảm nhận được sức sáng tạo tuyệt mĩ, hồn nhiên, trong trẻo lạ thường nơi tâm hồn thơ Hàn Mặc Tử.
"Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền"
Nhà thơ mở đầu bài bằng một câu hỏi tu từ đa phong cách “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?” Lời mời mọc tế nhị, kín đáo này của người con gái xứ Huế xinh đẹp và nên thơ, chở đầy sức hấp dẫn lạ kỳ. Đó cũng được xem là lời trách yêu của người con gái ấy đối với thi nhân. Câu thơ đầy ý nhị, với nỗi nhớ nhung da diết của cô thiếu nữ đang yêu, nhưng dù là lời mời, lời trách cứ hay lời nhắc yêu đi nữa vẫn dễ mến lạ lùng. Không lồ lộ, bỗ bã, nói anh về thăm em, mà nói anh về thăm thôn Vĩ, nhắc nhở anh rằng, hãy nhớ quê hương, anh nhớ quê hương thì anh nhớ em, nơi quê hương có em. Quê hương là em, thôn Vĩ là em và ngược lại.
Câu thơ tiếp theo đã gợi lên trước mắt độc giả một bức tranh hừng đông nơi thôn Vĩ có "nắng mới lên" phơn phớt hồng đượm vẻ tinh khôi của bình minh long lanh trên những tàu cau còn đọng những giọt sương đêm.
“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên”
Cau là loại cây thân nhỏ và cao vút, có quả dùng để ăn với trầu và thường được trồng ở trước nhà. Vì có dáng cao vút nên cây cau dễ dàng tiếp nhận những tia nắng đầu tiên của một ngày mới. Tác giả sử dụng nghệ thuật lặp từ ngữ "nắng…nắng". Bút pháp nghệ thuật giản dị nhưng mang lại hiệu quả cao trong việc nhấn mạnh vẻ đẹp và cái thần của sắc nắng ban mai. Chỉ với một câu thơ tác giả đã làm hiện lên trước mặt người đọc những nét đẹp đầu tiên của vườn cây nơi thôn Vĩ. Cũng qua đó chúng ta cảm nhận sâu sắc cái nhìn âu yếm, thiết tha như chờ đón cái đẹp xuất hiện từ lưng chừng trời của thi nhân.
Ở câu thơ thứ ba, “Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”, “Ai” – đây là một đại từ nhân xưng phiếm chỉ được tác giả sử dụng để nói về khu vườn đẹp này chính là khu vườn nhà cô gái ông yêu. Với vhir một từ mà khẳng định được vẻ đẹp của khu vườn nhà người con gái mà mình từng đắm say mơ mộng, từng khao khát hạnh phúc lứa đôi. Tiếp sau đó nữa là “mướt quá”, giá trị của từ “mướt” trong câu thơ này gợi cái sắc vẻ bóng láng và mỡ màng nhìn thấy thích mắt của những lá cành vươn lên trong khu vườn trù mật, phì nhiêu được con người cần cù chăm sóc. Thêm vào đó, chữ "quá" làm tăng màu sắc biểu cảm của tứ thơ. Thông thường từ "quá" nói lên cái mức độ vượt ra ngoài ngưỡng trung bình. Nhưng ở câu thơ này, nó mang âm hưởng của một tiếng reo trong niềm sung sướng, ngất ngây, một lời trầm trồ buột ra tự nhiên khi chợt nhận ra một vẻ đẹp bất ngờ của khu vườn ở một khoảnh khắc đặc biệt. Cùng với nghệ thuật so sánh từ "xanh như ngọc", nhà thơ càng làm tăng cái vẻ đẹp đến thanh cao, quý phái của khu vườn, mơn mởn dưới ánh sáng bình minh.
Câu thơ cuối khổ là một khám phá nghệ thuật độc đáo và rất đẹp của thi sĩ Hàn Mặc Tử “Lá trúc che ngang mặt chữ điền”. Mới đọc xong câu thơ, chúng ta thườn nghĩ ngay đến là tác giả đang ca tụng khuôn mặt chữ điền nào đó thấp thoáng sau nhành trúc. Mặt chữ điền chỉ tướng mạo đẹp của một người có bản chất tốt, phúc hậu, thủy chung. Nhưng nếu chỉ hiểu theo nghĩa đen kia thì e rằng chưa thực thấu hiểu hết suy tư của tác giả. Cần hiểu câu thơ theo nghĩa của nghệ thuật cách điệu hóa chứ không phải tả thực, tuy cách điệu hóa cũng xuất phát từ hiện thực. Cách điệu hóa thường chỉ giữ lại một dáng điệu, cái đường nét chung của sự vật, từ đó, sáng tạo nên một hình tượng có ý nghĩa biểu trưng cho vẻ đẹp của sự vật ấy. Ở đây thi nhân muốn diễn tả những gương hiền lành, phúc hậu thấp thoáng sau tre trúc nơi vườn cây cảnh, cây trái xinh đẹp ở thôn Vĩ Dạ mỗi buổi sớm mai.
Sâu xa hơn nữa, ẩn sau mỗi ý thơ là nỗi niềm luyến tiếc, vấn vương về cái đẹp của cảnh và người xứ Huế ở thôn Vĩ, sông Hương đối với nhà thơ tại thời điểm ấy chỉ còn là hoài niệm. Tình cảm yêu quý, trân trọng của thi nhân gửi gắm qua cái nhìn cảnh vật ấy, chợt gợi nhớ, gợi thương trong tâm hồn độc giả chúng ta hai câu thơ của Bích Khê:
"Vĩ Dạ thôn, Vĩ Dạ thôn
Biếc che cần trúc không buồn mà say."
(Huế đa tình)
Bức ảnh phong cảnh Huế của Hoàng Thị Kim Cúc gửi cho Hàn Mặc Tử là nguồn cảm hứng để tác giả cho ra đời bài thơ. Người gửi đã nhiều thâm tình, người nhận được – nhà thơ lại càng sắc sảo hơn. Tác giả nghe như có lời mời mọc, lời trách yêu, hờn dỗi vang lên của người con gái xứ Huế. Từ đó ùa về trong tâm tưởng của ông, khung cảnh thôn Vĩ hừng đông vần vật nhựa sống. Phải là một con người yêu Huế mãnh liệt, nồng nàn, găn bó máu thịt với thôn Vĩ, sông Hương, thi nhân Hàn Mặc Tử mới lột tả cảnh và người xứ Huế có hồn đến thế. Và cái làm cho người đọc thực sự cảm kích cũng chính cái đẹp nhất của đoạn thơ là "tâm hồn tác giả luôn hướng về cái thánh thiện, khát khao với cái đẹp của tình người, tình đời dù xa xôi mờ ảo."
Nguồn:
|
Commentary on the first stanza of the poem This Vi Da village
Instruct
Coming to poetry at the age of 16, his creative career was embryonic and developed to its peak until his last breath. Regardless of the topic, readers can still find his ups and downs and troubled life behind his poems. "This Vi Da Village" is a famous work that has contributed to making Han Mac Tu's name shine in the starry sky of Vietnamese literature and poetry.
“This is Vi Da village” was inspired by the poet from the evocation of a memory of his ex-lover. The poem has 12 lines, divided into 3 stanzas, each stanza is like a beautiful picture of the dreamy land of Hue. The first stanza is a picture of the dawn in the village, the second stanza is the scene of the moon returning to the village and the last stanza is the nostalgia for the ancients in Vi village. Let's enjoy the sunrise over Vi village through the first stanza of the poem to feel the beautiful, innocent, and exceptionally clear creativity in Han Mac Tu's poetic soul.
"Why don't you go back and visit Vi village?
New row sun sunny scowling look up
The garden is so lush and green like jade
Horizontal bamboo leaf cover complete typeface"
The poet opens the poem with a multi-style rhetorical question: "Why don't you go back to visit Vi village?" This delicate, discreet invitation from a beautiful and poetic Hue girl is full of strange charm. That is also considered the girl's reprimand for the poet. The poem is full of subtlety, with the deep longing of a young girl in love, but whether it is an invitation, a rebuke or a reminder of love, it is still strangely endearing. Don't be obvious or rude, say that I'm coming to visit you, but say that I'm coming to visit Vi village, reminding me that remember my homeland, when I miss my homeland, I miss you, where my homeland is you. My hometown is me, Vi village is me and vice versa.
The next verse evokes before the readers' eyes a picture of dawn in Vi village with a "newly rising sun" with a pink blush filled with the purity of the dawn glistening on the areca trees still covered with drops of night dew.
"New row sun sunny scowling look up"
Areca is a small and tall tree with fruit that can be eaten with betel and is often planted in front of the house. Because of its tall shape, the areca tree easily receives the first rays of sunlight of a new day. The author uses the art of repeating the word "sunny...sunny". The artistic style is simple but highly effective in emphasizing the beauty and spirit of the morning sunlight. With just one verse, the author has shown to the reader the first beauties of the garden in Vi village. Through that, we deeply feel the poet's loving, passionate look as if waiting for beauty to appear from halfway up the sky.
In the third verse, "Whose garden is so lush and green like jade", "Ai" - this is a casual personal pronoun used only by the author to talk about this beautiful garden, which is the garden of the girl he loves. . With vhir, a word that affirms the beauty of the garden of the girl's house whom I once passionately dreamed about, who longed for marital happiness. Next is "so smooth", the value of the word "smooth" in this poem evokes the glossy and greasy appearance that is pleasing to the eye of the leaves and branches rising in the dense, fertile garden. diligent and caring person. In addition, the word "too" increases the expressive color of the four poems. Usually the word "too" refers to a level that exceeds the average threshold. But in this verse, it carries the sound of a cry of joy and ecstasy, a word of admiration that spontaneously blurs out when suddenly realizing the unexpected beauty of the garden at a special moment. Along with the art of comparing the word "green as jade", the poet further enhances the noble and noble beauty of the garden, lush under the dawn light.
The last verse of the stanza is a unique and beautiful artistic discovery by poet Han Mac Tu: "Bamboo leaves cover the face of the field". Just after reading the poem, we often think that the author is praising a square face looming behind a bamboo branch. The square face indicates the beautiful appearance of a person with a good, kind, and faithful nature. But if we only understand it literally, I'm afraid we don't fully understand the author's thoughts. It is necessary to understand the poem in the sense of stylized art, not realistic depiction, although stylization also comes from reality. Stylization often only retains a pose, the general outline of an object, thereby creating a meaningful image that represents the beauty of that object. Here the poet wants to describe the examples of gentleness and kindness that loom behind the bamboo in the beautiful ornamental and fruit garden in Vi Da village every morning.
Even deeper, hidden behind each poetic idea is a lingering feeling of nostalgia for the beauty of the scene and people of Hue in Vi village, the Perfume River for the poet at that time was just a nostalgia. The poet's feelings of love and respect conveyed through the sight of that scene suddenly evoked memories and evoked love in the hearts of our readers two lines of Bich Khe's poem:
"Vi Da village, Vi Da village
Biec che can bamboo is not sad but drunk."
(Lovely Hue)
The photo of Hue landscape that Hoang Thi Kim Cuc sent to Han Mac Tu was the author's inspiration for the poem. The sender was more sincere, the recipient - the poet - was even more astute. The author heard as if there was an invitation, a love rebuke, and a sulky voice from a girl from Hue. From then on, the scene of Vi village at dawn came rushing back to life. It must be a person who loves Hue fiercely and passionately, and is closely tied by blood and flesh to Vi village and Perfume River, for poet Han Mac Tu to describe the scene and people of Hue so soulfully. And what makes the reader truly appreciate the most beautiful part of the poem is that "the author's soul is always oriented toward holiness, yearning for the beauty of human love and life's love, even though it is distant and dim."
Source:
|
Đề bài: Bình giảng khổ thơ đầu trong bài Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử
Bài làm
Hàn Mặc Tử (1912-1940) là một trong những nhà thơ tiêu biểu của phong trào "Thơ mới" (1932-1941). Ông là nhà thơ đa phong cách. Bên cạnh những kịch thơ huyền ảo thơ mộng là những bài thơ "thuận nghịch độc" cực kì điêu luyện, bên cạnh những vần thơ điên loạn, thi sĩ nhiều khi lại sáng tạo nên những hình ảnh tuyệt mĩ và hồn nhiên, trong trẻo lạ thường. "Mùa xuân chín", "Đây thôn Vĩ Dạ",… là những bài thơ tuyệt bút đầy hương sắc trong vườn thơ Việt Nam hiện dại.
"Đây thôn Vĩ Dạ" viết về cảnh sắc thiên nhiên và con người xứ Huế đáng yêu, nói lên nỗi niềm khao khát được hòa hợp, gắn bó với người, với cảnh của nhà thơ đối với một miền quê thơ mộng. Đây là khổ đầu của áng thơ trữ tình này:
"Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền?"
Vĩ Dạ, một làng cổ nổi tiếng, nơi cố đô Huế, nằm bên bờ Hương Giang. Cảnh vườn tược xanh tươi, cây trái bốn mùa, với sông nước con đò và những nếp nhà duyên dáng, êm đềm… Vĩ Dạ từng gắn liền với những câu hò Mái nhì, Mái đẩy, hò Giã gạo…, từng làm say đắm lòng người đã mấy trăm năm qua:
"Núi Truồi ai đắp mà cao,
Sông Hương ai bới, ai đào mà sâu?
Nong tằm ao cá nương dâu
Đò xưa bến cũ nhớ câu hẹn hò "
Những tiếng "ai" thân thương trong câu hò xứ Huế ấy đã vọng vào thơ Hàn Mặc Tử, gợi nên bao ám ảnh thương nhớ bồi hồi: "Vườn ai… Thuyền ai… Ai biết tình ai có đậm đà”.
Câu thơ đầu mang tính lưỡng ngôn vừa như một lời chào mời thân mật, vừa như một lời trách nhẹ nhàng sơ sơ mà nghe rất đáng yêu: "Sao anh không về chơi thôn Vĩ?". Câu hỏi tu từ chứa đựng bao hoài niệm bâng khuâng. Sáu thanh bằng liên tiếp, rồi đọng lai một thanh trắc "Vĩ", âm điệu vần thơ lâng lâng, tình tứ: đã lâu anh không về thăm thôn Vĩ và thăm… em. Vĩ Dạ phải là nơi để lại trong lòng Hàn Mặc Tử nhiều kỉ niệm đẹp mới thoáng hiện chút tâm tình ấy.
Câu thứ 2, thứ 3 tả cảnh sắc Vĩ Dạ:
"Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc".
"Nắng mới lên" là nắng sớm bình minh, cảnh được nhìn từ xa với bao trìu mến, vẫy gọi. Hàng cau cao vút, thẳng tắp là hình ảnh thân thuộc của Vĩ Dạ, ở đây, hầu như vườn nhà nào cũng có một, hai hàng cau thẳng tắp, vút cao lên như đón chào du khách từ xa, như trầm mặc trong sương sớm, lắng nghe chuông chùa Diệu Đế, Thiên Mụ, và tắm ánh hình minh rạng ngời tàu cau. Nhịp thơ 1- 3-3: "Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên" như nhịp bước khoan thai của khách xa, rồi đứng dừng lại, trầm ngâm ngắm nhìn nắng mới trên những tàu cau xanh biếc rạng ngời.
Câu thơ "Vườn ai mướt quá xanh như ngọc" như một lời trầm trồ, ngạc nhiên thốt lên trước vẻ đẹp lộng lẫy của cỏ cây, hoa trái. "Vườn ai" không xác định, một chút ngỡ ngàng bâng khuâng. Đích thị là vườn xuân của cô gái, của nhà em; của lòng em, vẫn là cảnh cũ người xưa, nhưng đã lâu chưa về chơi nên ngỡ ngàng mới thốt lên như vậy. Vườn tược Vĩ Dạ xanh tươi và sum sê bốn mùa. Lá xanh mỡ màng ướt đẫm sương đêm, láng mướt lên, ánh ngời lên dưới nắng hồng bình minh màu xanh ngọc bích. Hai tiếng "mướt quá" và hình ảnh so sánh "xanh như ngọc” là những nét vẽ thần tình đã tô đậm cái hồn của cây lá trong "vườn ai. Tưởng như nghe thấy tiếng nhựa đang chuyển lên cành lá xôn xao. Tất cả đều tưng hừng, rạo rực, đầy sức sống. Chỉ có vườn xuân mới có màu xanh mướt mỡ màng như ngọc vậy. Chỉ có "vườn em" mới đáng yêu và hữu tình như thế!
Sau cảnh đẹp là hóng hình thôn nữ:
"Lá trúc che ngang mặt chữ điền?"
Gương mặt cô gái Huế thường gắn liền với chiếc nón bài thơ. "Lá trúc che ngang" là một nét vẽ tài hoa, gợi tả thấp thoáng gương mặt thiếu nữ. Một nét vẽ rất đẹp gợi tả vẻ dịu dàng, duyên dáng và tình tứ của thiếu nữ sông Hương. Lá trúc thanh mảnh biếc xanh đã làm tôn thêm vẻ đẹp phúc hậu của gương mặi chữ điền. Đã có giai nhân vin cành mẩu đơn. Đã có mĩ nhân ngắm hoa tử kim nở, hức thêu dở dang trên đôi tay thon nhỏ, nõn nà. Và ở đây, trong thư Hàn Mặc Tử lại có "gương mặt chữ điền" ẩn hiện thấp thoáng sau cành trúc, lá trúc. Cây đẹp, cảnh đẹp và người đẹp là thế! Hàn Mặc Tử cũng tả ít mà gợi nhiều như các tao nhân nghìn xưa. Có màu phơn phới hồng bình minh. Có màu ngọc xanh mướt của cây lá. Có đường nét thanh mảnh xinh xắn của lá trúc. Và còn có gương mặt dịu dàng, e ấp, phúc hậu của thiếu nữ. Nếu tách riêng khổ thơ này ra khỏi bài thơ, nó là một bài tứ tuyệt đặc sắc. Cảnh và người đều thình lình thương mến, bâng khuâng. Bức tranh quê hương xinh đẹp, tràn đầy sức sống mơn mởn và có sức quyến rũ lạ lùng.
"Sao anh không về chơi thôn Vĩ ". Cảnh đẹp thế, người đáng yêu thế sao đã lâu anh không về chơi? Đâu chỉ là sự mời chào, hay lời nhẹ trách mà còn hàm chứa cả niềm tiếc nuối, bâng khuâng của thi sĩ. Trên cái nền phong cảnh đầy hương sắc ấy, vương vấn một hoài niệm, một tiếng thầm thì của tình yêu.
Người đọc tưởng như nhà thơ đang đi tìm bóng hình giai nhân, bóng hình cô gái Huế sau lá trúc của "vườn ai" mờ sương khói nơi Vĩ Dạ.
|
Topic: Comment on the first stanza of the poem This Vi Da Village by Han Mac Tu
Assignment
Han Mac Tu (1912-1940) was one of the typical poets of the "New Poetry" movement (1932-1941). He is a poet of many styles. Besides the poetic and magical plays, there are extremely skillful "contradictory" poems. Besides the crazy poems, poets often create beautiful, innocent, and pure images. unusual. "Spring Ripe", "This is Vi Da Village",... are wonderful poems full of flavor in the garden of modern Vietnamese poetry.
"This Vi Da Village" is written about the natural scenery and lovely people of Hue, expressing the poet's longing for harmony and attachment to people and scenes in a poetic countryside. This is the first stanza of this lyrical poem:
"Why don't you go back and visit Vi village?
New row sun sunny scowling look up
The garden is so lush and green like jade
Horizontal bamboo leaf cover complete typeface?"
Vi Da, a famous ancient village, where the ancient capital of Hue is located on the banks of Huong Giang. Lush green gardens, four-season fruit trees, rivers and boats and charming, peaceful houses... Vi Da was once associated with the chants Mai Nhi, Mai Push, and Pounding Rice..., which once captivated people. human hearts for hundreds of years:
"Who built Truoi Mountain to make it high?
Who digs the Perfume River, who digs deep?
Nourishing silkworms in fish ponds in mulberry fields
Old boats, old wharves, remember the saying "dating"
The beloved "ai" words in that Hue folk song were echoed in Han Mac Tu's poetry, evoking many haunting and nostalgic memories: "Whose garden... Whose boat... Who knows whose love is rich?"
The first line of the poem is ambiguous, both as an intimate invitation and as a gentle, simple reprimand that sounds very lovely: "Why don't you go back to visit Vi village?". The rhetorical question contains many wistful memories. Six flat tones in a row, then a single tone "Vi", the rhythm of the poem is light and romantic: it's been a long time since I've visited Vi village and visited... you. Vi Da must be a place that leaves many beautiful memories in Han Mac Tu's heart to have a glimpse of that feeling.
The second and third sentences describe the scenery of Vi Da:
"New row sun sunny scowling look up
The garden is so lush and green like jade."
"New sunrise" is the early morning sunlight, a scene seen from afar with so much affection and beckoning. Tall, straight rows of areca nut trees are a familiar image of Vi Da. Here, almost every garden has one or two rows of straight areca nut trees, soaring high as if welcoming visitors from afar, as if quiet in the mist. Early in the morning, listen to the bells of Dieu De and Thien Mu pagodas, and bathe in the radiant light of the areca trees. Rhythm 1-3-3: "Looking at the new sun rising on the areca trees" is like the leisurely pace of a traveler, then stopping, contemplating the new sunlight on the radiant green areca trees.
The poem "Whose garden is so lush and green like jade" is like a word of admiration and surprise at the splendid beauty of the trees, flowers and fruits. "Whose garden" is unknown, a bit surprised and wistful. It is definitely the spring garden of the girl, of my family; In my heart, it's still the same old scene, but I haven't been back for a long time, so I'm surprised to say that. Vi Da garden is green and lush in all seasons. The greasy green leaves are drenched in night dew, smooth and shiny under the emerald green morning sun. The two words "so soft" and the comparison image "green as jade" are the magical strokes that have highlighted the soul of the trees and leaves in "ai's garden. It was as if I could hear the sound of plastic moving onto the branches and leaves. Everything is jubilant, vibrant, full of vitality. Only spring gardens are green and lush like jade. Only "your garden" is so lovely and charming!
After the beautiful scene, there is a glimpse of village women:
"Horizontal bamboo leaf cover complete typeface?"
Hue girls' faces are often associated with hats in poems. "Horizontal bamboo leaves" is a talented drawing, vaguely depicting a young woman's face. A very beautiful drawing depicting the gentleness, grace and love of the Perfume River girl. The slender green bamboo leaves enhance the benevolent beauty of the square face. There was a beautiful woman with a single branch. There were beauties who watched the purple flowers bloom, eagerly embroidering them unfinished on their slender, delicate hands. And here, in Han Mac Tu's letter, there is a "square face" hidden behind bamboo branches and leaves. Beautiful trees, beautiful scenery and beautiful people! Han Mac Tu also describes little but evokes much like the people of thousands of years ago. Has the pink color of dawn. Has the green jade color of the leaves. There are beautiful, slender lines of bamboo leaves. And there is also the gentle, shy, kind face of the girl. If this stanza is separated from the poem, it is a unique quatrain. Scenes and people suddenly felt love and sadness. The picture of the homeland is beautiful, full of fresh vitality and has a strange charm.
"Why don't you go back and visit Vi village?" Such a beautiful scene, such lovely people, why haven't you come back for a long time? It is not just an invitation or a light reprimand, but also contains the poet's regret and wistfulness. On the background of that colorful landscape, there lingers a nostalgia, a whisper of love.
The reader feels like the poet is looking for the shadow of a beautiful woman, the shadow of a Hue girl behind the bamboo leaves of the foggy "ai garden" at Vi Da.
|
Bình giảng khổ thơ “Dốc lên khúc khuỷu…mưa xa khơi” trong bài thơ Tây Tiến của nhà thơ Quang Dũng- Văn lớp 12
Hướng dẫn
Bình giảng khổ thơ “Dốc lên khúc khuỷu…mưa xa khơi” trong bài thơ Tây Tiến của nhà thơ Quang Dũng- Văn lớp 12
Bài làm
Quang Dũng là một nhà thơ nổi tiếng trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của dân tộc ta. Ông không chỉ là một nhà thơ mà còn là một nhạc sĩ, một họa sĩ, nhà điêu khắc… Nên trong thơ ông thường có chất nhạc, chất họa, trữ tình lãng mạn, nhưng không kém phần anh hùng, bi tráng.
Bài thơ Tây Tiến là một bài thơ hay, với đề tài người lính trong kháng chiến tuy không phải là lạ lẫm với người đọc, nhưng thông qua cái nhìn của nhà thơ Quang Dũng thì hình ảnh người lính hiện lên vô cùng sinh động, chân thực, nhưng cũng rất lãng mạn đậm chất trữ tình, oai hùm.
Trong khổ thơ này thể hiện sự khó khăn, vất vả của người lính trên con đường hành quân gian nan của mình, gặp nhiều khó khăn, nhiều tình huống bi ai, đau xót khi người lính phải đối diện với cái chết, nhưng tất cả hiện lên vô cùng đơn sơ, chân thực, nhẹ tựa lông hồng, khiến người đọc cảm nhận được sự anh hùng của người lính.
“Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây, súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”.
Đoạn thơ thể hiện cảnh chiến trường vô cùng gian nan nguy hiểm. Trong khổ thơ này tác giả sử dụng nghệ thuật đối lập giữa lên và xuống thể hiện sự trùng điệp của núi non hiểm trở, những khó khăn mà binh đoàn Tây Tiến phải vượt qua trong quá trình hành quân của mình.
Cảnh rừng Tây Bắc vô cùng hiểm trở hoang sơ, được tác giả Quang Dũng tái hiện lại vô cùng rõ nét, như một bức tranh thiên nhiên hoang vu, hiểm ác, khắc họa sự chân thực của cuộc sống người lính trong rừng như thế nào.
Người lính Tây Tiến phải đối diện những thử thách ghê gớm, rợn người với những giờ phút sinh tử có thể cận kề bất cứ lúc nào ám ảnh người đọc bởi sự thiếu thốn về vật chất, những trận sốt rét rừng.
Có những lúc người lính leo lên tới đỉnh núi cảm nhận thấy như ngọn súng chiến đấu của mình chạm tới những đám mây trên trời. Hình ảnh heo hút cồn mây súng ngửi trời thể hiện sự hiểm trở, hẻo lánh của vùng núi rừng Tây Bắc.
Nhưng cũng là hình ảnh nghệ thuật vô cùng tươi đẹp, thể hiện chất nhạc chất họa trong thơ của Quang Dũng. Thể hiện tinh thần chiến đấu của người chiến sĩ lúc nào cũng sẵn sàng cho tình huống đối diện với giặc, nên ngọn súng dương cao không bao giờ ngủ yên, hay cúi xuống, tư thế sẵn sàng chiến đấu của người lính trong binh đoàn Tây Tiến.
“Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”.
Hình ảnh đoàn quân nghỉ chân giữa lưng chừng núi, giữa bốn bề hoang vu không gian bao la, người lính nhìn thấy những ngôi nhà xa xa những khói bếp quê nhà gợi lên ấm áp tình cảm quê hương, con người thân thiết.
Đó chính là sự tài tình của Quang Dũng khi viết bài thơ Tây Tiến, sự tinh tế của tác giả trong việc sử dụng ngôn ngữ tạo cho bài thơ những âm hưởng giai điệu riêng, vô cùng độc đáo phóng khoáng.
Bài thơ Tây Tiến là bài thơ thể hiện khí chất anh hùng, bi tráng nhưng không kém phần lãng mạn của những người chiến sĩ bộ đội cụ Hồ trong kháng chiến chống thực dân Pháp giải phóng dân tộc.
|
Commentary on the stanza "The slope is winding...the rain is far away" in the poem Tay Tien by poet Quang Dung - Grade 12 Literature
Instruct
Commentary on the stanza "The slope is winding...the rain is far away" in the poem Tay Tien by poet Quang Dung - Grade 12 Literature
Assignment
Quang Dung is a famous poet in our nation's resistance war against the French colonialists. He is not only a poet but also a musician, a painter, a sculptor... So in his poems there are often musical, painterly, and romantic lyrical qualities, but no less heroic and tragic.
The poem Tay Tien is a good poem, with the topic of soldiers in the resistance war, although not unfamiliar to readers, but through the eyes of poet Quang Dung, the image of a soldier appears extremely vividly. authentic, but also very romantic, lyrical and majestic.
In this stanza, it shows the difficulties and hardships of the soldier on his arduous march, encountering many difficulties, many tragic and painful situations when the soldier has to face death, but all Everything appears extremely simple, realistic, light as a feather, making the reader feel the heroism of the soldier.
“The slope is winding, the slope is steep
Pigs smell the clouds, guns smell the sky
A thousand meters up, a thousand meters down
Whose house is Pha Luong, the rain is far away from the sea".
The poem shows an extremely difficult and dangerous battlefield scene. In this stanza, the author uses the art of contrasting up and down to show the overlap of dangerous mountains and the difficulties that the Tay Tien army had to overcome during their march.
The scene of the Northwest forest is extremely rugged and wild, recreated very clearly by author Quang Dung, like a picture of wild, cruel nature, depicting the authenticity of a soldier's life in the forest like that. any.
The Tay Tien soldiers had to face terrible, terrifying challenges with moments of life and death that could be near at any time, haunting the reader with material deprivation and bouts of jungle fever.
There are times when the soldier climbing to the top of the mountain feels like his combat gun is touching the clouds in the sky. The image of a pig sucking on a rattan and sniffing the sky represents the ruggedness and remoteness of the Northwest mountains and forests.
But it is also an extremely beautiful artistic image, expressing the musical and painterly qualities of Quang Dung's poetry. Showing the fighting spirit of a soldier who is always ready to face the enemy, the gun held high never sleeps, or bends down, the ready-to-fight posture of a soldier in the army. Tay Tien.
"Whose house is Pha Luong, the rain is far away from the sea".
The image of the army resting halfway up the mountain, amidst the vast wilderness of space, the soldiers seeing far away houses and the smoke from their hometown stoves evokes warm feelings for the homeland and close people.
That is Quang Dung's ingenuity when writing the poem Tay Tien, the author's sophistication in using language to give the poem its own melodies, extremely unique and generous.
The poem Tay Tien is a poem that shows the heroic, tragic but no less romantic temperament of Uncle Ho's soldiers in the resistance war against the French colonialists to liberate the nation.
|
Bình giảng truyện cổ tích Tấm Cám
Hướng dẫn
Bình giảng truyện cổ tích Tấm Cám
Truyện cổ tích là một loại truyện vô cùng phong phú và đa dạng nó nói về cách sống và đạo lí ở đời. Mỗi một câu chuyện cổ tích là một bài học sâu xa cho mỗi người ở một thời đại khác nhau. Và trong đó truyện Tấm Cám là một trong những truyện cổ tích tiêu biểu được rất nhiều người biết đến. Truyện kể về đạo đức và cái thiện cái ác ở đời. Dù như thế nào thì cái thiện luôn luôn thắng cái ác.
Truyện kể về một cô gái có tên là Tấm rất xinh đẹp và ngoan ngoãn hiền lành. Do mẹ mất sớm cha đi thêm bước nữa nên Tấm có dì ghẻ. Gì ghẻ của Tấm sinh ra một người con gái có tên là Cám. Là chị em cùng cha, khác mẹ nên Cám có tính cách vô cùng ngang ngược và xấu xa. Từ nhỏ Cám đã được nuông chiều vì thế mà hay bắt nạt Tấm. Nhưng Tấm không than trách mà vẫn lặng lẽ hàng ngày nghe lời mẹ con Cám. Một hôm dì ghẻ gọi tấm và Cám vào bảo đi bắt cá nếu ăn bắt được nhiều hơn sẽ có thưởng. Tấm miệt mài dưới áo để bắt cá, Tấm bắt được rất nhiều cá còn Cám chỉ biết ham chơi không chịu làm. Khi thấy giỏ cá của Tấm để trên bờ được nhiều Cám liền lừa tấm ra xa rồi chút hết vào giỏ của mình mang về khoe mẹ để được thưởng. Lúc này Tấm lên mà thấy trong giỏ trống trơn. Tấm không biết làm gì chỉ biết khóc lóc rồi có ông bụt hiện lên. May trong giỏ của Tấm còn một con bống nhỏ, Tấm nghe lời ông bụt mang bống về nuôi ở giếng. khi về tấm đã bị ghì ghẻ quát mắng đánh cho một trận.
Như vậy ta thấy Tấm là một người luôn bị chịu đau đớn và hanh hạ từ mẹ con Cám. Nhưng Tấm không một lời oán trách Tấm vẫn ngày ngày chịu đựng. Còn Cám thì như được nước càng ngày càng lấn tới. Đồng thờ Cám càng ngày càng dở trò để bắt nạt Tấm. Cám quả là một người xấu xa mà. Không những Cám xấu xa mà rất nhẫn tâm.
Tấm chỉ có duy nhất mình con bống làm bạn vậy mà mẹ con Cám cũng bắt thịt nốt của Tấm khiến Tấm không có lấy một người bạn thân để bầu bạn. Mẹ con cám đúng là những người xấu xa và tàn nhẫn không còn gì để nói.
Trong ngày hội còn không cho Tấm đi hội và trộn các loại đỗ thành một thúng lớn mang ra bắt Tấm nhặt hết mới cho đi chơi. Mà tấm chỉ có hai tay trong khi hai đỗ thì rất nhỏ mà nhiều tấm nhặt đến bao giờ mới hết. Tấm chỉ biết than khóc ngậm ngùi và chịu đựng bởi Tấm chỉ là con ghẻ. Cám xảo trá tới mức giành luôn chiếc hài của Tấm đánh rơi khi nhà vua tuyên bố ai đeo vừa sẽ lấy làm vợ.
Nhưng sự ngoan hiền và chăm chỉ của Tấm cũng được đáp lại tấm được nhà vua lấy về làm vợ và rất thương yêu Tấm. Tấm cảm thấy rất hạnh phúc vì cuối cùng những gì mình chịu đựng cũng được ông trời đền đáp. Nhưng mọi chuyện chưa được dừng lại ở đây mẹ con Cám nhân ngày giỗ cha Tấm về và độc ác giết Tấm rồi để Cám thay tấm về làm vợ vua.
Câu chuyện kết thúc thật có hậu. Những yếu tố kì ảo trong truyện thể hiện khát vọng cái thiện luôn luôn thắng cái ác. Mới đầu ta thấy Tấm xuất hiện là một cô gái hiền lành nhưng càng về sau thì Tấm càng mạnh mẽ và quyết định quay về trả thù mẹ con Cám. Điều này cũng nhấn mạnh cái xấu phải bị trừng trị thì xã hội mới tốt đẹp lên được.
Những lần mà Tấm hóa thân đều là để khẳng định những quyền lợi mà Tấm vốn có nhưng mỗi lần cô hóa thân đều bị Cám giết. Tấm uất ước không thể chịu được bắt đầu vùng lên để giết Cám và đòi quyền lợi dành cho mình. Chỉ có như vậy thì mẹ con Cám mới hết đi hại người khác bởi Tấm đã bị hành hạ quá dã man. Dù là con ghẻ nhưng vẫn là con vậy mà người mẹ độc ác này nhẫn tâm đi giết cả con. Em cùng cha cũng vậy đi giết cả chị để hưởng thụ cuộc sống của chị. Điều này càng thể hiện bản chất quá xấu xa và tàn nhẫn của mẹ con Cám.
Câu chuyện như một bài học quý báu giáo dục nhân cách và phẩm chất con người. Hướng cho con người có những suy nghĩ tốt đẹp và biết sống vì mọi người. Đừng sống ộc ác và xấu xa như mẹ con Cám rồi sẽ chẳng có kết cục đẹp. Hãy sống biết mình biết mọi người, sống phù hợp với chuẩn mực của đạo đức không nên đi hãm hại người khác. Từ đó ta cảm thấy cuộc sống sẽ tốt đẹp hơn. Người ta thường nói ông trời có mắt nên “gieo nhân nào thì gặp quả đấy”. Vậy nên hãy hoàn thiện nhân cách tốt đẹp từ nhỏ sau này lớn lên sẽ là những người có ích.
Qua truyện cổ tích Tấm Cám để lại bài học vô cùng sâu sắc cho thế hệ hôm nay và mai sau. Và truyện muốn nói nên một chân lí “ Cái thiện luôn luôn thắng cái ác”. Vì thế chúng ta hãy sống sao cho cuộc sống có ý nghĩa hơn chứ đừng như mẹ con Cám xấu xa quá đến lúc chết cũng không được trọn vẹn.
|
Commentary on the fairy tale Tam Cam
Instruct
Commentary on the fairy tale Tam Cam
Fairy tales are an extremely rich and diverse type of story that talks about the way of life and morality in life. Each fairy tale is a profound lesson for each person in a different era. And the story Tam Cam is one of the typical fairy tales known to many people. The story is about morality and good and evil in life. No matter what, good always wins over evil.
The story is about a girl named Tam who is very beautiful and docile. Because his mother passed away early and his father moved further, Tam has a stepmother. Tam's scabies gave birth to a daughter named Cam. As sisters with the same father and different mothers, Cam has an extremely stubborn and evil personality. Since childhood, Cam was pampered, so he often bullied Tam. But Tam did not complain and still quietly listened to Cam and his mother's words every day. One day, my stepmother called me and Cam told me to go catch fish and if I caught more fish, I would get a reward. Tam worked hard under his shirt to catch fish. Tam caught a lot of fish while Cam only wanted to play and refused to work. When he saw that Tam's fish basket on the shore had a lot of fish, Cam immediately pushed Tam away and put some of it in his own basket to show off to his mother to get a reward. At this time, Tam went up and saw that the basket was empty. Tam didn't know what to do but cry and then the Buddha appeared. Fortunately, there was a small goby in Tam's basket. Tam listened to the Buddha's advice and brought the goby to the well to raise. When he returned home, he was scolded, scolded and beaten.
So we see that Tam is a person who always suffers pain and suffering from Cam and his mother. But Tam did not complain a word. Tam still suffered every day. As for Cam, it was like the water was encroaching more and more. Cam worships more and more bad tricks to bully Tam. Cam is truly an evil person. Not only is Cam evil, but he is also very cruel.
Tam only had her goby as her friend, but Cam and her mother also captured Tam's meat, leaving Tam without a single close friend to keep her company. My mother and I are truly evil and cruel people who have nothing to say.
During the festival, he didn't even let Tam go to the festival and mixed all kinds of beans into a large basket and made him pick them all up before letting him go out. But the plate only has two hands while the two beans are very small, so it takes a long time to pick up many plates. Tam only knows how to mourn and endure because Tam is just a stepchild. Cam was so cunning that he took Tam's shoe and dropped it when the king announced that whoever wore it would marry him.
But Tam's kindness and diligence were also rewarded, the king took her as his wife and loved her very much. Tam feels very happy because God has finally rewarded what he endured. But everything did not stop here, Cam and her mother took advantage of Tam's father's death anniversary and cruelly killed Tam and then let Cam take her place and become the king's wife.
The story ends really happily. The magical elements in the story express the desire for good to always overcome evil. At first we see that Tam appears to be a gentle girl, but later on, Tam becomes stronger and decides to return to take revenge on Cam and her mother. This also emphasizes that evil must be punished for society to become better.
The times that Tam reincarnated were all to assert the rights that Tam inherently had, but each time she reincarnated, Cam killed her. Tam, unable to bear the resentment, began to rise up to kill Cam and claim his rights. Only then will Cam and her mother stop harming others because Tam has been brutally tortured. Even though he was a stepchild, he was still a child, yet this cruel mother cruelly killed him. Me and my father also went to kill my sister to enjoy her life. This further shows the evil and cruel nature of Cam and her mother.
The story is a valuable lesson in educating human personality and qualities. Guide people to have good thoughts and know how to live for everyone. Don't live cruel and ugly lives like your mother and Cam, it won't have a happy ending. Live knowing yourself and everyone, living in accordance with moral standards and not harming others. From there we feel that life will be better. People often say that God has eyes, so "whatever you sow, you will reap the results". So let's perfect our good personality from a young age and then grow up to be useful people.
Through the fairy tale, Tam Cam leaves a very profound lesson for today and future generations. And the story wants to say a truth: "Good always wins over evil". So let's live in a way that makes life more meaningful, not like Cam and her mother, who are so evil that even when they die, they won't be complete.
|
Bình giảng về bài thơ Thương vợ của Trấn Tế Xương
Hướng dẫn
Bình giảng về bài thơ Thương vợ của Trấn Tế Xương
Thương vợ của Trấn Tế Xương là một bài thơ gây xúc động rất lớn cho người đọc. Đọc thơ bạn đọc không khỏi rơi nước mắt trước nỗi vất vả, khổ cực mà người vợ-người phụ nữ Việt Nam trong xã hội cũ phải chịu đựng.
Bà Tú Xương đã phải chịu nhiều nghiệt ngã của cuộc đời nhưng bà lại có niềm hạnh phúc lớn lao đó là ngay lúc còn sống bà đã đi vào thơ ông Tú Xương với tất cả niềm thương yêu, trân trọng của chồng.Thơ Tú Xương có một mảng lớn viết về người vợ mà bài Thương vợ là một trong những bài xuất sắc nhất.
Câu thơ mở đầu nói hoàn cảnh làm ăn buôn bán của bà Tú. Đó là cảnh vất vả, lam lũ được gợi lên qua cách nói thời gian, cách nêu địa điểm. Thời gian quanh năm là suốt cả năm, không trừ ngày nào dù mưa hay nắng. Là năm này tiếp năm khác đến chóng mặt, đến rã rời chứ đâu phải chỉ một năm. Nơi bà Tú buôn bán là mom sông, cái doi đất nhô như lời giới thiệu, lại như một bối cảnh làm hiện lên hình bà Tú tần tảo, tất bật ngược xuôi:
Quanh năm buôn bán ở mom sông.
Thấm thìa nỗi vất vả, gian lao của vợ, Tú Xương mượn hình ảnh con cò trong ca dao để nói về bà Tú. Có điều hình ảnh con cò trong ca dao đầy tội nghiệp mà hình ảnh con cò trong thơ Tú Xương còn tội nghiệp hơn. Con cò trong thơ Tú Xương không chỉ xuất hiện trong cái rợn ngợp của không gian (như con cò trong ca dao) mà cái rợn ngợp của thời gian. Chỉ bằng ba từ khi quãng vắng, tác giả đã nói lên được cả thời gian, không gian heo hút, rợn ngợp, chứa đầy lo âu cái rợn ngợp của thời gian, đã làm hao hụt cả ý thơ. So với câu ca dao: Con cò lặn lội bờ sông, câu thơ của Tú Xương:
Là cả một sự sáng tạo. Cách đảo ngữ – đưa ra từ lặn lội lên đầu câu, cách thay từ – thay từ con cò bằng thân cò, càng làm tăng nỗi vất vả gian truân của bà Tú. Từ thân cò gợi cả nỗi đau thân phận, so với từ con của Tú Xương cũng sâu sắc, thấm thía hơn.
Nếu câu thơ thứ ba gợi nỗi vất vả đơn chiếc thì câu thứ tư lại làm rõ sự vật lộn với cuộc sống của bà Tú:
Eo sèo mặt nước buổi đò đông.
Câu thơ gợi cảnh chen chúc, bươn chải trên sông nước của những người buôn bán nhỏ. Sự cạnh tranh chưa đến mức sát phạt nhau nhưng cũng không thiếu lời qua tiếng lại. Buôi dò đông đâu phải là ít lo âu, nguy hiểm hơn khi quãng vắng. Trong ca dao, người mẹ từng dặn con rằng:
Con ơi nhớ lấy câu này
Sông sâu chớ lội, đò đầy chớ qụa.
Buổi đò đông không chỉ có những lời phàn nàn, mè nheo, cáu gắt, những sự chen lấn, xô đẩy mà còn chứa đầy bất trắc hiểm nguy. Hai cáu thực đối nhau về ngữ (khi quãng vắng đối với buổi đò đông) nhưng lại thừa tiếp nhau về ý để làm nổi bật sự vất vả gian truân của bà Tú: đã vất vả, đơn chiếc, lại thêm sự bươn chải trong hoàn cảnh chen chúc làm ăn. Hai câu thực nói thực cảnh bà Tú đồng thời cho ta thấy thực tình của Tú Xương, đó là tấm lòng xót thương da diết.
Cuộc sống vất vả gian truân càng ngời lên phẩm chất cao đẹp của bà Tú. Bà là người đảm đang tháo vát:
Nuôi đủ năm con với một chồng.
Mỗi chữ trong câu thơ Tú Xương đều chất chứa bao tình ý, từ đủ trong nuôi đủ vừa nói số lượng, vừa nói chất lượng. Bà Tú nuôi đủ cả con, cả chồng, nuôi đảm bảo đến mức:
Cơm hai bữa: cá kho rau muống
Quà một chiều: khoai lang, lúa ngô
(Thầy đồ dạy học)
Trong hai câu luận, Tú Xương một lần nữa cảm phục sự hy sinh rất mực của vợ:
Năm nắng mười mưa dám quản công
Ở câu thơ này, nắng mưa chỉ sự vất vả, năm mười là số lượng phiếm chỉ, để nói số nhiều, được tách ra tạo nên một thành ngữ chéo (năm nắng mười mưa) vừa nói lên sự vất vả gian lao, vừa thể hiện được đức tính chịu thương chịu khó, hết lòng vì chồng vì con của bà Tú.
Trong những bài thơ viết về vợ của Tú Xương, bao giờ ta cũng bắt gặp hình ảnh hai người: bà Tú hiện lên phía trước, ông Tú khuất lấp ở phía sau, nhìn tinh mới thấy. Ở bài thơ thương vợ cũng vậy. Ông Tú không xuất hiện trực tiếp nhưng vẫn hiển hiện trong từng câu thơ. Phía sau cốt cách khôi hài, trào phúng là cả một tấm lòng, không chỉ thương mà còn tri ân vợ. về câu thơ Nuôi đủ năm con vói một chồng, có người cho rằng ở đây ông Tú tự coi mình là một thứ con đặc biệt để bà Tú phải nuôi.Tác gỉa đã không gộp mình với con để nói mà tách riêng, con riêng rất rạch ròi là để ông tự riêng tri ân vợ.
Nhà thơ không chỉ cảm phục, biết ơn sự hi sinh rất mực của vợ mà ông còn tự trách, tự lên án bản thân. Bản thân không dựa vào duyên số để trút bỏ trách nhiệm. Việc bà Tú lấy ông là do duyên nhưng duyên một mà nợ hai. Tác giả tự coi mình là cái nợ mà bà Tú phải gánh chịu. Nợ gấp đòi duyên, duyên ít nợ nhiều, ồng chửi thói đời bạc bèo, vì thói đời là một nguyên nhân sâu xa khiến bà Tú phải khổ. Nhưng Tú Xương cũng không đổ vấy cho thói đời. Sự hờ hừng của ông với con cũng là một biểu hiện của thói đời bạc bẽo. Câu thơ Tú Xương tự rủa mát mình cũng là lời tự phán xét, tự lên án:
Ở cái thời mà xả hội đã có luật không thành văn đối với người phụ nữ: xuất giả tòng phu (lấy chồng theo chồng), đối với mối quan hệ vợ chồng thì phu xướng, phụ tùy (chồng nói, vợ theo), thế mà có một nhà nho dám sòng phẳng với bản thân, với cuộc đời, dám tự thừa nhận mình là quán ăn lương vợ, không những đã biết nhận ra thiếu sót, mà còn dám tự nhận khuyèt điểm. Một con người như thế chẳng đẹp lắm sao.
Nhan đề Thương vợ chưa nói hết sự sâu sắc trong tình cảm của Tú Xương đối với vợ cũng như chưa thể hiện được đầy đủ vẻ đẹp nhân bản của hồn thơ mình. Tác giả không chỉ thương vợ mà còn ơn vợ, không chỉ lên án thói đời mà còn tự trách.
Tình thương yêu, quý trọng vợ là cảm xúc có phần mới mẻ so với những cảm xúc quen thuộc trong văn học trung đại. Một cảm xúc mới mẻ đó lại được diễn tả bằng hình ảnh và ngôn ngữ quen thuộc của văn học dân gian, chứng tỏ hồn thơ Tú Xương dù mới lạ, độc đáo vẫn rất gần gũi với mọi người, vần có gốc rễ sâu xa trong tâm thức dân tộc.
Lòng thương vợ của Tú Xương thể hiện qua bài thơ thật khiến người ta phải khâm phục!
|
Commentary on the poem Loving Wife by Tran Te Xuong
Instruct
Commentary on the poem Loving Wife by Tran Te Xuong
Loving Tran Te Xuong's wife is a poem that greatly touches the reader. Reading the poem, readers cannot help but shed tears at the hardships and hardships that Vietnamese wives and women in the old society had to endure.
Mrs. Tu Xuong had to endure many hardships in life, but she had great happiness that while she was still alive, she entered Mr. Tu Xuong's poetry with all the love and respect of her husband. Tu Xuong Poetry There is a large section written about wives, of which the article Loving Wife is one of the best.
The opening verse talks about Ms. Tu's business situation. It is a scene of hardship and hardship evoked through the way of speaking of time and place. Year-round time is all year round, no day is excluded whether rain or shine. It's year after year until it's dizzying and exhausting, not just one year. The place where Mrs. Tu does business is the river mother, the promontory protruding like an introduction, is like a backdrop that shows the image of Mrs. Tu working hard, bustling back and forth:
Trade all year round at Mom River.
Understanding the hardships and hardships of his wife, Tu Xuong borrowed the image of a stork in folk songs to talk about Mrs. Tu. However, the image of the stork in folk songs is pitiful, but the image of the stork in Tu Xuong's poetry is even more pitiful. The stork in Tu Xuong's poem not only appears in the horror of space (like the stork in folk songs) but also in the horror of time. With just three words in the absence, the author has expressed the time and space that is remote, overwhelming, filled with anxiety, the horror of time, which has wasted the entire poetic meaning. Compared to the folk song: The stork wades along the riverbank, the poem by Tu Xuong:
It's a whole creation. The inversion - putting the word diving at the beginning of the sentence, the word substitution - replacing the word stork with the body of a stork, further increases Mrs. Tu's hardships. The word stork evokes the pain of one's fate, compared to Tu Xuong's word child, which is also deeper and more profound.
If the third verse evokes the hardship of loneliness, the fourth verse clarifies Mrs. Tu's struggle with life:
The tightness of the water surface during the winter ferry.
The poem evokes the hustle and bustle of small traders struggling on the river. The competition is not to the point of killing each other, but there is no shortage of words. Being in the winter does not mean less anxiety or danger than being away. In a folk song, the mother once told her child:
My son remember this sentence
The river is deep, don't wade, the boat is full, don't drown.
The crowded ferry is not only full of complaints, whining, irritation, jostling and pushing, but is also full of dangers and uncertainties. The two sentences are opposite in terms of language (when the time is empty for the winter ferry) but they overlap each other in meaning to highlight the hardships of Mrs. crowded business situation. These two sentences tell the real story of Mrs. Tu and at the same time show us Tu Xuong's true feelings, which is a heart of deep compassion.
The hardships and hardships of life highlight Ms. Tu's noble qualities even more. She is a resourceful person:
Raising five children with one husband.
Each word in Tu Xuong's poem contains so much love, the word "enough" means both quantity and quality. Mrs. Tu takes care of both her children and her husband, ensuring that:
Two meals: braised fish with water spinach
One-way gifts: sweet potatoes, rice and corn
(Teaching teacher)
In two sentences, Tu Xuong once again admired his wife's great sacrifice:
Year of sunshine, ten days of rain, dare to manage the work
In this verse, sunshine and rain refer to hardship, five ten is a trivial number, to say the plural, it is separated to create a diagonal idiom (sunny year, ten rain) that both speaks of hardship and hardship. Demonstrates Mrs. Tu's virtue of being patient and hard-working, devoted to her husband and children.
In the poems written about Tu Xuong's wife, we always see the image of two people: Mrs. Tu appears in the front, Mr. Tu is hidden behind, only when you look closely can you see it. The same is true in the poem about loving your wife. Mr. Tu does not appear directly but is still visible in each verse. Behind the humorous and satirical style is a whole heart, not only loving but also grateful to his wife. Regarding the poem Raising five children with one husband, some people think that here Mr. Tu considers himself a special child for Mrs. Tu to raise. The author did not combine himself with his children to speak but separate them, their own children. It's very clear that he wants to express his gratitude to his wife in private.
The poet not only admired and was grateful for his wife's great sacrifice, but he also blamed and condemned himself. I do not rely on fate to relieve myself of responsibility. The fact that Mrs. Tu married him was due to fate, but one fate owes two. The author considers himself the debt that Mrs. Tu must bear. Urgent debt demands fate, little fate owes much, he curses bad life habits, because life habits are a profound cause of Mrs. Tu's suffering. But Tu Xuong does not blame life's habits. His indifference to his children is also a manifestation of ungrateful life habits. Tu Xuong's poem cursing himself is also a word of self-judgment and self-condemnation:
In a time when society had an unwritten law for women: to follow the husband (marrying and following the husband), in the relationship between husband and wife, it was the husband and wife who initiated and followed (the husband said, the wife followed). Yet there is a Confucian scholar who dares to be fair with himself and with life, dares to admit that he is a salaried wife, not only knows how to recognize his shortcomings, but also dares to admit his own shortcomings. Isn't a person like that very beautiful?
The title Loving Wife does not fully express the depth of Tu Xuong's feelings for his wife nor does it fully express the human beauty of his poetic soul. The author not only loves his wife but is also grateful to her, not only condemns life's habits but also blames himself.
Love and respect for one's wife are somewhat new emotions compared to familiar emotions in medieval literature. That new feeling is expressed in familiar images and language of folk literature, proving that the soul of Tu Xuong's poetry, although new and unique, is still very close to everyone, rhymes have deep roots. in the national consciousness.
Tu Xuong's love for his wife expressed through the poem truly makes people admire!
|
Đề bài: Bình giảng đoạn thơ Kiều Nguyệt Nga đi cống giặc Ô Qua trích trong Truyện Lục Vân Tiên của nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu
Bài làm
Không thể nào mua chuộc, ép buộc Kiều Nguyệt Nga lấy con trai mình, quan thái sư đã trả thù một cách xảo quyệt, hèn hạ. Ăn không được thì phải đạp đổ. Kiều Nguyệt Nga trở thành vật hi sinh. Người đẹp trở thành cống phẩm dâng chúa Ô Qua để giặc lui binh.
Đoạn thơ ghi lại tâm trạng đau khổ của Nguyệt Nga trên đường đi cống giặc và ca ngợi tấm lòng son sắt thủy chung trong tình yêu của nàng.
Nguyệt Nga là một thiếu nữ xinh đẹp "’vóc ngọc mình vàng" có thị tì Kim Liên hầu hạ. Nàng xuất thân trong tầng lớp quý tộc, là “con quan tri phủ ở miền Hà Khê". Nguyệt Nga là một con người giàu lòng trung nghĩa; trước hành động nghĩa hiệp của Lục Vân Tiên, nàng đã nói:
Gẫm câu báo đức thù công,
Lấy chi cho phỉ tấm lòng cùng ngươi.
Cảm phục trước hành động: anh hùng và hào hiệp của người con trai xa lạ vừa đánh cướp cứu mình, Kiều Nguyệt Nga đã khắc sâu trong trái tim mình hình ảnh Lục Vân Tiên, và nàng đã vẽ bức tượng hình chàng luôn mang theo bên mình. Con gái Kiều Công quả là một thiếu nữ đa cảm, đa tình. Mối tình đơn phương ấy thật đẹp và son sắt thủy chung.
Bị bắt đi cống giặc là một thử thách đầy bi kịch. Đã mười ngày trôi qua, Kiều Nguyệt Nga đã đi tới ải Đồng, bên này là quê hương mình, bên kia là xứ người, là đất giặc Ô Qua.
Dòng sông bao la “mênh mông", tiếng sóng vỗ “đùng đùng”, trăng "vằng vặc", sao “mờ mờ" gần xa, cả một bầu trời “lặng lẽ như tờ". Nguyễn Đình Chiểu đã lấy ngoại cảnh sông, nước, trăng, sao để diễn tả tâm trạng cô đơn của người đẹp trên đường đi cống; lấy tĩnh để tả động, trời thì “lặng lẽ" mà trong lòng kẻ bạc mệnh thì quặn đau tê tái và cô đơn. Sóng vỗ trên sông hay đang vỗ trong lòng nàng?
Mười ngày đã tới ải Đồng,
Minh mông biển rộng, đùng đùng sóng xao.
Đêm nay chẳng biết đêm nào,
Bóng trăng vằng vặc bóng sao mờ mờ.
Trên trời lặng lẽ như tờ.
Trước cảnh xa lạ, bao la và mịt mờ ấy, Kiều Nguyệt Nga cất lời than. Vừa thương mình vừa thương người quân tử mà mình đã mang nặng ân sâu; chàng trai anh hùng hào hiệp mà mình đã yêu dấu sắt son, đã thủ tiết đợi chờ:
Than rằng: “Nợ nước kìa non,
Cảnh thời thấy đỏ, người còn về đâu?
“Người" mà Kiều Nguyệl Nga nhắc đến chính là Lục Vân Tiên. Câu hỏi “‘người còn về đâu" chứa đầy tâm trạng đau đớn, cô đơn và sầu tủi.
Nếu như Nguyễn Du dùng hai câu tả cảnh vật giờ khắc quyết định tự tử của Kiều trên sông Tiền Đường: “Cửu bồng vội mở rèm châu – Trời cao sông rộng một màu bao la", thì ở đây, Nguyễn Đình Chiểu cũng đã viết cái phút đớn đau ấy của Kiều Nguyệt Nga bằng những vần thơ ứa lệ:
Quân hầu đều đã ngủ lâu,
Lén ra mở bức rèm châu một mình.
Giai nhân mệnh bạc tự thương và tự than thân, vầng trăng trên trời cao là chứng nhân cho lời thề son sắt thủy chung, cho quyết tâm “ giữu ngọc gìn vàng" của người thiếu nữ, “thủ tiết" bằng cái chết để giữ trọn “một tấm lòng ngay" với tình nhân mà mình đã từng tôn thờ, đã từng ôm ấp:
Vắng người có bóng trăng thanh,
Trăm năm xin gởi chút tình lại đây.
Vân Tiên anh hỡi có hay?
Thiếp nguyền một tấm lòng ngay với chàng.
Bao nhiêu nước mắt đã chảy xuống? Để giữ trọn “tấm lòng ngay với chàng”, Kiều Nguyệt Nga đã hành động một cách quyết liệt:
Than rồi lấy tượng vai mang,
Nhắm dòng nước chảy vội vàng nhảy ngay.
Lúc xa cách thì vẽ chân dung người yêu để sớm tối được ôm ấp, ngắm nghía. Lúc sống trong lận đận khó khăn, hình tượng người yêu là nơi nương tựa tinh thần. Lúc nhảy xuống sông tự tử, Kiều Nguyệt Nga vẫn vai mang tượng Lục Vân Tiên đi sang thế giới bên kia với lời nguyền son sắt thuỷ chung.
Cũng là bi kịch giai nhân xưa nay, nhưng mỗi người một khác. Cũng là “phận hồng nhan”, “chốn đoạn trường" nhưng nào ai giống ai? Sau khi Từ Hải vì mắc lừa Hồ Tôn Hiến mà bị giết chết, Kiều phải hầu rượu đánh đàn trong bữa tiệc quan, rồi bị ép lấy viên thổ quan, nàng phải nhảy xuống sông Tiền Đường tự tử:
Giết chồng mà lại lấy chồng,
Mặt nào còn đứng ở trong cõi đời?
Thôi thì một thác cho rồi,
Tấm lòng phó mặc trên trời dưới sông.
Kiều phải tự tử vì đau khỏ và ân hận. Kiều Nguyệt Nga phải nhảy xuống sông để “ gửi chút tình" với trăng nước, để giữ tròn “tấm lòng ngay" với Lục Vân Tiên. Tiết hạnh của Kiều Nguyệt Nga vằng vặc như trăng sao. Hành động tự tử của Kiều Nguyệt Nga là để thủ tiết với Lục Vân Tiên, là để chống lại mọi âm mưu hèn hạ, xảo quyệt của tên thái sư, vị đại quan đầu triều.
Đoạn thơ đã thể hiện bút pháp nghệ thuật tả cảnh ngụ tình của Nguyễn Đình Chiểu. Sự kết hợp hài hòa giữa miêu tả, tự sự và độc thoại trữ tình đã tô đậm tính cách Kiều Nguyệt Nga: son sắt, thủy chung và tiết hạnh.
Nhân vật Kiều Nguyệt Nga là một nhân vật lí tưởng của Nguyễn Đình Chiểu, đã nêu cao tấm gương tiết hạnh của một giai nhân:
Gái thời tiết hạnh là câu trau mình.
Phẩm giá của người con gái khuê các trong xã hội ngày xưa được thể hiện qua đoạn thơ này vẫn ít nhiều làm ta xúc động.
|
Topic: Commentary on the poem Kieu Nguyet Nga goes to pay tribute to O Qua enemy, excerpted from The Story of Luc Van Tien by poet Nguyen Dinh Chieu
Assignment
Unable to bribe or force Kieu Nguyet Nga to marry her son, the royal priest took revenge in a cunning and cowardly way. If you can't eat it, you have to knock it down. Kieu Nguyet Nga became a sacrifice. The beauty became a tribute to Lord O Qua to help the enemy retreat.
The poem captures Nguyet Nga's painful mood on her way to pay tribute to the enemy and praises her loyal heart in love.
Nguyet Nga is a beautiful young woman with "a golden body" and is served by her concubine Kim Lien. She came from the aristocracy, was "the daughter of a governor in the Ha Khe region". Nguyet Nga was a person rich in loyalty; in response to Luc Van Tien's chivalrous actions, she said:
Meditate on the verse of revenge for virtue and merit,
What can I do to destroy my heart and you?
Admired by the heroic and gallant actions of the strange man who had just fought a robber to save her, Kieu Nguyet Nga engraved in her heart the image of Luc Van Tien, and she drew a statue of him that she always carried with her. beside me. Kieu Cong's daughter is truly a sentimental and sentimental young woman. That unrequited love was so beautiful and faithful.
Being forced to pay tribute to the enemy was a tragic ordeal. Ten days have passed, Kieu Nguyet Nga has reached the Dong pass, this side is her homeland, the other side is a foreign land, the land of the O Qua enemy.
The vast river is "immense", the sound of waves is "loud", the moon is "bright", the stars are "dim" near and far, the whole sky is "quiet as paper". Nguyen Dinh Chieu took the river's exterior. , water, moon, and stars to describe the lonely mood of the beauty on the road to the sewers; using stillness to describe movement, the sky is "quiet" but in the heart of the unfortunate person, there is pain, numbness, and loneliness. Are the waves crashing on the river or are they pounding in her heart?
Ten days to reach Dong pass,
The sea is wide and the waves are noisy.
Tonight, I don't know which night,
The shadow of the moon is bright and the shadow of the stars is dim.
The sky was as quiet as paper.
Faced with that strange, vast and obscure scene, Kieu Nguyet Nga lamented. I love both myself and the gentleman to whom I owe such deep gratitude; The gallant heroic boy whom I have loved dearly, has been waiting patiently for:
Complaining: "The country's debt is huge,
The scene is red, where are you going?
The "person" that Kieu Nguyet Nga mentioned is Luc Van Tien. The question "where are you going" is filled with feelings of pain, loneliness and sadness.
If Nguyen Du used two sentences to describe the scene at the moment of Kieu's decision to commit suicide on the Tien Duong River: "Cuu quickly opened the pearl curtain - The sky is high and the river is wide and vast", then here, Nguyen Dinh Chieu has also said Kieu Nguyet Nga wrote that painful moment in tearful poems:
The soldiers have all slept for a long time,
Sneaking out to open the pearl curtain alone.
The silver-descended beauty pitied herself and lamented herself, the moon high in the sky was a witness to the young woman's steadfast vow of fidelity, to her determination to "preserve her pearls and preserve her gold", "confident" with death to keep with "an honest heart" with the lover whom I once worshiped and embraced:
Without people there is a clear moon shadow,
After a hundred years, please send me some love.
Van Tien, are you okay?
I swear a sincere heart to you.
How many tears have flowed down? To maintain her "right heart with him", Kieu Nguyet Nga acted decisively:
Than then take the shoulder statue,
Aim at the flowing water and jump immediately.
When they are far apart, they draw a portrait of their lover so that they can hug and admire them morning and night. When living in hardship, the image of a lover is a spiritual refuge. When she jumped into the river to commit suicide, Kieu Nguyet Nga still carried the statue of Luc Van Tien to the other world with the curse of steadfast loyalty.
It's the same tragedy as always, but each person is different. It's also a "beautiful fate", "a place of eternal life" but who is the same? After Tu Hai was killed because he was tricked by Ho Ton Hien, Kieu had to serve wine and play the piano at the mandarin's banquet, then was forced to take the pill. officials, she had to jump into the Tien Duong River to commit suicide:
Kill your husband but get married again,
Which side still stands in this world?
Well, it's just a waterfall.
The heart rests on the sky and on the river.
Kieu had to commit suicide because of pain and regret. Kieu Nguyet Nga had to jump into the river to "send a little love" to the water moon, to keep her "honest heart" with Luc Van Tien. Kieu Nguyet Nga's virtue is as bright as the moon and stars. Kieu Nguyet Nga's act of suicide was to confess to Luc Van Tien, to counteract all the vile and cunning plots of the grand master, the top mandarin of the court.
The poem demonstrates Nguyen Dinh Chieu's artistic style of describing love scenes. The harmonious combination of description, narrative and lyrical monologue highlights Kieu Nguyet Nga's personality: loyal, faithful and virtuous.
The character Kieu Nguyet Nga is an ideal character of Nguyen Dinh Chieu, who exalted the virtuous example of a beautiful woman:
A girl with a happy weather is a sentence to cultivate herself.
The dignity of a noble girl in ancient society expressed through this poem still makes us more or less touched.
|
Bình giảng đoạn thơ sau trong ‘Chinh phụ ngâm khúc’
Hướng dẫn
1. Trông bến nam bãi che mặt nước,
Cỏ biếc um dâu mướt màu xanh,
Nhà thôn mấy xóm chông chênh,
Một đàn cò đậu trước ghềnh chiều hôm.
2. Trông đường bắc đôi chòm quán khách,
Rườm rà cây xanh ngất núi non,
Lúa thành thoi thót bên cồn
Nghe thôi ngọc địch véo von trên lầu.
3. Non đông thấy lá hầu chất đống,
Trĩ xập xòe, mai cũng be’ bai,
Khói mù nghi ngút ngàn khơi,
Con chim bạt gió, lạc loài kêu sương.
4. Lũng Tây thấy nước dường uốn khúc,
Nhạn triện không, sóng giục thuyền câu,
Ngàn thông chen chúc khóm lau,
Cách ghềnh thấp thoáng người đâu đi về.
… Mỗi cảnh là một phương hướng, trong một mùa. Có nam, bắc, đông, tây. Có xuân, hạ, thu, đông. Bút pháp miêu tả ước lệ, tượng trưng, cấu trúc cân xứng qui phạm theo ‘tứ bình’, đó là vẻ đẹp cổ điển.
Mùa xuân đến, người vợ trẻ ‘trông bển nam’ chỉ nhìn thấy một màu xanh của ‘cỏ biếc um’, của ‘dâu mướt’ mà thôi. Thấy nhà thôn ‘chông chênh’ xa gần mấy xóm, thấy đàn cò đậu trước ghềnh chiều hôm. sắc của cỏ, dâu thì mơn mởn. Cảnh đàn cò kết bầy kết đôi. Ngoại cảnh ấy gợi lên trong lòng nàng chinh phụ còn trẻ nhiều khao khát, mong đợi. Tủi cho thân phận cô đơn của mình.
Mùa hè đến, nàng ‘trông đường bắc’ nhìn xa chỉ thấy ‘rườm rà cây xanh ngất núi non’, mịt mù; trông gần chỉ thấy ‘đôi chòm quán khách’ cũng gợi tả nỗi buồn lẻ loi đơn chiếc. Câu thơ ‘Lúa thành thoi thót bên cồn’ cũng mượn ngoại cảnh ngọn lúa bay rập rờn trước gió bên bờ thành để đặc tả nỗi ám ảnh buồn thương tiêu điều của hàng chinh phụ. Nàng chợt nghe tiếng sáo ngọc ngân lên véo von, dồn dập. Cũng là âm thanh gợi nhớ, gợi thương, não nùng thê thiết!
Nghe thôi ngọc địch véo von trên lầu’
Mùa thu đến, nàng thấy ‘non đông’ lá rụng ‘chất đống’ tàn tạ buồn thương. Trĩ từng đôi ‘xập xòe’, khóm mai ‘bẻ bai’ uốn lượn. Câu thơ ‘Trĩ xập xòe, mai cũng bẻ bai’ là một nét vẽ tương phản đầy ấn tượng, cỏ hoa, chim chóc được sánh đôi múa lượn còn nàng thì gối chiếc chăn đơn. Nàng càng thêm sầu tủi, cô đơn, lẻ loi hơn bao giờ hết khi nghe tiếng nhạn lạc bầy kêu lên trong màn sương khói mịt mù: ‘Khói mù nghi ngút ngàn khơi,
Con chim bạt gió lạc loài kêu sương’
Ngọn gió thu lạnh thổi bạt cánh nhạn lạc bầy. Và đó cũng là bão táp chiến tranh làm cho những lứa đôi trở nên lẻ loi, đơn chiếc, lạnh lùng. Nàng chinh phụ thổn thức thương mình bao nhiêu lại thương chồng nơi ải xa đang dãi dầu sương tuyết bấy nhiêu.
Mùa đông đến, nàng lại nhìn về phương tây, nhìn về Lũng Tây bãi chiến trường núi xương sông máu,… Nàng chỉ nhìn thấy sông nước mịt mù, ngàn thông, rừng lau trùng điệp. Cánh nhạn chao liệng trên từng không. Xa xa thấp thoáng có bóng người đi về… Cánh nhạn và bóng người thấp thoáng là hai nét vẽ đầy ấn tượng. Nhìn cánh nhạn, cô phụ ngỡ là cánh nhạn đưa thư. Nhìn về phía bên kia ghềnh, thấy thấp thoáng ‘người đâu đi về’, chinh phụ tưởng là người chồng thân yêu từ chiến trường xa trở về… Nhớ quá, thương nhiều, đợi chờ, mòn mỏi, nên chinh phụ mới cảm nhận hư ảo ấy. Hi vọng lắm nên càng thất vọng nhiều. Càng thất vọng lại càng sầu tủi!
Cách ghềnh thấp thoáng người đâu đi về’
Nét đặc sắc nghệ thuật là vẻ đẹp màu sắc cổ điển.
Cảnh vật mang tính ước lệ tượng trưng (ngọc địch, mai, trĩ, nhạn, thuyền câu, thông, lau, Lũng Tây, bóng người…), cấu trúc cân xứng: xuân, hạ, thu, đông; nam, bắc, đông, tây. Lối diễn đạt cũng hài hòa cân xứng:
… Trông bến nam…
… Trông đường bắc…
… Non đông thấy…
… Lũng Tây thấy…
Bút pháp tả cảnh ngụ tình đặc sắc, điêu luyện.Thi sĩ mượn ngoại cảnh bôn phương trời, bốn mùa xuân, hạ, thu, đông; lấy cỏ, dâu, lúa, thông, lau, bãi, núi, sông, ghềnh; lấy khói mù, sương, gió, lấy đàn cò, chim trĩ, chim nhạn,v.v… bấy nhiêu nét vẽ ngoại cảnh đều góp phần đặc tả tâm cảnh, khắc họa những biến thái, những rung động trong tâm hồn, những nhớ mong, thương nhớ, đợi chờ, cô đơn, hi vọng để rồi thất vọng mà thêm sầu tủi…
Ngôn ngữ thi ca giàu hình tượng và biểu cảm.Các từ chỉ màu sắc (cỏ biếc um dâu mướt màu xanh… Khói mù nghi ngút ngàn khơi…), các từ tượng thanh tượng hình (chông chênh, rườm rà, thoi thót, véo von, xập xòe, bẻ bai, nghi ngút, chen chúc, thấp thoáng’ được thi sĩ (dịch giả) vận dụng rất thần tình, cho thấy bút pháp điêu luyện, sự giàu có về từ ngữ, trí tưởng tượng tuyệt vời. Đến bản dịch
Vần điệu, âm điệu, nhạc điệucủa ‘Chinh phụ ngâm khúc’là một thành tựu tuyệt mĩ.
Thơ song thất lục bát còn gọi là song thất, một điệu ngâm, một thể thơ dân tộc giàu có về vần điệu, âm điệu, nhạc điệu. Trong bốn câu thơ ‘song thất lục bát’ có đến bảy tiếng để gieo vần, vừa có vần chân vừa có vần lưng, vừa có vần bằng vừa có vần trắc, tạo nên điệu ngâm du dương, réo rắt, trầm bổng, đọc lên nghe rat thú vị (xem các từ in nghiêng, đọc đúng trọng âm các từ gieo vần). Sự phối hợp giữa nhịp lẻ và nhịp chẵn ở câu 7 và câu lục bát làm cho âm điệu thơ, giai điệu thơ biến hóa đa thanh, phức điệu.
Đoạn thơ ‘Trông bến nam… người đâu đi về’ giúp ta cảm nhận vẻ đẹp văn chương qua bút pháp tả cảnh ngụ tình và sử dụng ngôn ngữ dân tộc. Bút pháp điêu luyện, thơ giàu cảm xúc, giàu hình tượng. Lấy thời gian bôn mùa, lấy không gian bôn phương trời để tả tâm trạng nhân vật trữ tình, tác giả và dịch giả đã làm nổi bật nỗi mong nhớ đợi chờ chồng, nỗi buồn cô đơn… của nàng chinh phụ trong một thời loạn lạc. Giá trị nhân bản của đoạn thơ lay động mọi tâm hồn người xưa nay.
|
Comment on the following poem in 'Chinh Phu's Song'
Instruct
1. Looking at the south wharf, the beach covers the water surface,
The grass is luxuriant and the mulberries are green,
The village houses in some hamlets are unstable,
A flock of storks perched in front of the rapids that afternoon.
2. Looking at the road north of a pair of guest shops,
Dotted with green trees and mountains,
Rice fields are barely hanging on the dunes
Just listen to the nemesis chirping upstairs.
3. In the winter, see the leaves piled up,
Hemorrhoids are fluttering, tomorrow will also be broken,
Smoke and smoke are everywhere,
The wind-whipped, stray bird calls for dew.
4. In Lung Tay, the water seems to meander,
The swallows are empty, the waves urge fishing boats,
Thousands of pine trees crowd reed bushes,
Near the rapids, there are glimpses of people going back and forth.
… Each scene is a direction, in a season. There is south, north, east, west. There is spring, summer, autumn, winter. The writing style depicts convention, symbolism, and symmetrical structure according to the 'four squares', which is classical beauty.
When spring comes, the young wife who 'looks like a man' only sees the green color of 'blue grass' and 'lush strawberries'. Seeing the village house 'unsteady' several hamlets far away, seeing a flock of storks perched in front of the rapids that afternoon. The colors of grass and mulberries are lush. Scene of flocks of storks forming pairs. That external scene evoked many desires and expectations in the young concubine's heart. Pity for your lonely fate.
Summer came, she 'looked at the north road' and saw in the distance only 'a lot of green trees and mountains', a blur; Looking up close, we can only see 'a pair of restaurant bars', which also depicts the sadness of loneliness. The poem 'The rice citadel is fluttering on the dunes' also borrows from the external scene of the rice blades fluttering in the wind on the citadel's banks to describe the sad and desolate obsession of the conquerors. She suddenly heard the jade flute's sharp, urgent sound. It's also a reminiscent, sad, and sad sound!
Listen to the jade enemy pinching upstairs'
When autumn comes, she sees the leaves fall and fall in piles of sadness and sadness. The hemorrhoids are 'splayed' in pairs, the apricot clusters are 'broken' and winding. The poem 'The pheasant flutters, the tomorrow also breaks' is an impressive contrasting drawing, the grass, flowers, and birds are dancing side by side while she is pillowed with a single blanket. She was even more sad, lonely, and lonely than ever when she heard the sound of a flock of swallows calling out in the mist and smoke: 'The smoke is endless,
A lost bird calling for dew'
The cold autumn wind blew away the flocks of swallows. And that is also the storm of war that makes couples become lonely, single, and cold. The concubine's wife sobbed and loved her as much as she loved her husband in a faraway land that was drenched in frost and snow.
Winter came, she looked to the west again, to Lung Tay, the battlefield of mountains, bones and rivers of blood... She only saw misty rivers, thousands of pine trees, and endless reed forests. The swallow's wings fluttered in the air. In the distance, there is a glimpse of a person walking back... The swallow's wing and the looming silhouette of a person are two impressive drawings. Looking at the swallow, the woman thought it was a swallow carrying a letter. Looking at the other side of the rapids, I saw a glimpse of 'someone who has come and gone'. The concubine thought it was her beloved husband returning from a distant battlefield... Missing so much, loving so much, waiting, tired, that's why the concubine felt it. That's unreal. I had so much hope that I was even more disappointed. The more disappointed you are, the more sad you are!
The way through the rapids, people are nowhere to be seen.
The unique artistic feature is the beauty of classic colors.
The landscape has symbolic convention (jade, apricot, pheasant, swallow, fishing boat, pine, reed, Lung Tay, human shadow...), symmetrical structure: spring, summer, autumn, winter; south, north, east, west. The expression is also harmonious and symmetrical:
… Looking at the south wharf…
… Looking at the northern road…
… The mountains are crowded…
… Lung Tay sees…
The writing style of describing love scenes is unique and skillful. The poet borrows from the four seasons of spring, summer, autumn, and winter; take grass, mulberry, rice, pine, reed, beaches, mountains, rivers, rapids; Take the haze, mist, wind, take the flock of storks, pheasants, swallows, etc., so many external strokes contribute to describing the mood, portraying the metamorphoses, the vibrations in the soul, the longings. , missing, waiting, lonely, hoping, then disappointed and more sad...
Poetic language is rich in images and expressions. Words denoting colors (green grass, lush green mulberries... Thousands of clouds of smoke...), onomatopoeic words (unsteady, cumbersome, throbbing, pinching, fluttering, cracking, bursting, jostling, flickering' are used very skillfully by the poet (translator), showing skillful writing style, richness of words, and great imagination. Go to translation
The rhyme, melody, and music of 'Chinh Phu Ngam Khuc' is a beautiful achievement.
Song That Luc Bat poetry is also called Song That, a recitative melody, a national poetry rich in rhyme, melody, and music. In the four lines of the poem 'Song That Luc Bat', there are up to seven words to rhyme, with both feet and back rhymes, flat rhymes and cross rhymes, creating a melodious, melodious, melodious, recitative melody. It's very interesting to listen to (see the words in italics, read the correct stress on the rhyming words). The combination of odd and even rhythms in verse 7 and verse 6 makes the poetic tone and melody change into multi-tone and polyphonic.
The poem 'Looking at the southern dock... where do people go' helps us feel the literary beauty through the style of describing love scenes and using ethnic language. Skilled penmanship, poetry rich in emotions and images. Using the time of the seasons and the space of the sky to describe the mood of the lyrical character, the author and translator have highlighted the longing for her husband, the sadness of loneliness... of the concubine in a time of turmoil. lost. The human value of the poem touches every soul of people past and present.
|
Bình giảng đoạn thơ sau đây trong bài Sóng của Xuân Quỳnh
Hướng dẫn
Bình giảng đoạn thơ sau đây trong bài Sóng của Xuân Quỳnh:
Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được
Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức
Dẫu xuôi về phương bắc
Dẫu ngược về phương nam
Nơi nào em cũng nghĩ
Hướng về anh – một phương.
( Văn học 12, tập một, phần Văn học Việt Nam, NXB Giáo dục, 2002, tr. 229)
Các ý cơ bản cần có:
1. Giới thiệu về tác giả, tác phẩm và vị trí đoạn trích:
– Xuân Quỳnh (1942 – 1988) là một trong những gương mặt nổi bật của thế hệ nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
– Sóng là bài thơ tiêu biểu cho hồn thơ Xuân Quỳnh: luôn luôn trăn trở, khát khao được yêu thương gắn bó. Bài thơ được in ở tập Hoa dọc chiến hào (1968).
– Đoạn thơ trích nằm ở phần giữa của bài thơ. Có thể xem đó là đoạn tiêu biểu của tác phẩm. Giống như toàn bài, ở đoạn thơ này, hai hình tượng sóng và em luôn tồn tại đan cài, khắc họa rõ nét nỗi nhớ, sự thủy chung tha thiết của nhà thơ. Mỗi trạng thái tâm hồn của người phụ nữ đều có thể tìm thấy sự tương đồng với một đặc điểm nào đó của sóng.
– Nỗi nhớ bao trùm cả không gian, thời gian: lòng sâu – mặt nước, ngày – đêm.
– Nỗi nhớ thường trực, không chỉ tồn tại khi thức mà cả khi ngủ, len lỏi cả vào trong giấc mơ, trong tiềm thức (Cả trong mơ còn thức).
– Cách nói có cường điệu nhưng đúng và chân thành biểu hiện nỗi nhớ của một tình yêu mãnh liệt (Ngày đêm không ngủ được).
– Mượn hình tượng sóng để nói lên nỗi nhớ vẫn chưa đủ, chưa thoả, nhà thơ trực tiếp bộc lộ nỗi nhớ của mình (Lòng em nhớ đến anh).
3. Bình giảng 4 câu tiếp theo:
– Khẳng định lòng chung thủy: dù ở phương nào, nơi nào cũng chỉ hướng về anh – một phương.
– Trong cái mênh mông của đất trời, đã có phương bắc, phương nam thì cũng có phương anh. Đây chính là “phương tâm trạng”, “phương” của người phụ nữ đang yêu say đắm, thiết tha.
4. Một số điểm đặc sắc về mặt nghệ thuật của cả đoạn thơ:
– Thể thơ 5 chữ được dùng một cách sáng tạo, thể hiện nhịp của sóng biển, nhịp lòng của thi sĩ.
– Các biện pháp điệp từ, điệp cú pháp góp phần tạo nên nhịp điệu nồng nàn, say đắm, thích hợp cho việc diễn tả nỗi nhớ mãnh liệt: con sóng (3 lần), dưới lòng sâu – trên mặt nước, dẫu xuôi – dẫu ngược…
– Trong đoạn thơ, Xuân Quỳnh đã thể hiện rất gợi cảm, sinh động những trạng thái cảm xúc, những khát khao mãnh liệt của một người phụ nữ đang yêu.
– Từ đoạn thơ, có thể nói tới tâm hồn của người phụ nữ Việt Nam trong tình yêu: táo bạo, mạnh mẽ nhưng vẫn giữ được nét truyền thống tốt đẹp (sự thuỷ chung, gắn bó).
|
Comment on the following poem in the poem Waves by Xuan Quynh
Instruct
Comment on the following poem in the poem Waves by Xuan Quynh:
Waves in the depths
Waves on the water
Oh, the waves miss the shore
Can't sleep day and night
My heart misses you
Even in dreams and still awake
Even if it goes north
Even though it's back to the south
Everywhere I think
Towards you – one direction.
(Literature 12, volume one, Vietnamese Literature section, Education Publishing House, 2002, p. 229)
Basic ideas needed:
1. Introduction to the author, work and excerpt location:
– Xuan Quynh (1942 – 1988) is one of the prominent faces of the generation of poets who grew up during the resistance war against America to save the country.
– Waves is a poem that represents the soul of Xuan Quynh's poetry: always worrying, longing for love and attachment. The poem was published in the collection Flowers Along the Trenches (1968).
– The excerpt is located in the middle of the poem. It can be considered a typical passage of the work. Like the whole poem, in this poem, the two images of wave and you always exist interwoven, clearly portraying the poet's nostalgia and earnest loyalty. Each state of a woman's soul can be found similar to a certain characteristic of the wave.
– Nostalgia covers both space and time: deep heart – water surface, day – night.
- Permanent nostalgia, not only exists when awake but also when sleeping, creeps into dreams, in the subconscious (Even in dreams while awake).
– The way of speaking is exaggerated but true and sincere, expressing the nostalgia of a strong love (Can't sleep day and night).
– Borrowing the image of waves to express that nostalgia is still not enough or satisfied, the poet directly expresses his nostalgia (My heart misses you).
3. Comment on the next 4 sentences:
– Affirming loyalty: no matter where you are or where you are, it only points towards you – one direction.
– In the vastness of heaven and earth, if there is a north and a south, there is also a direction. This is the "mood direction", the "direction" of a woman who is passionately and passionately in love.
4. Some unique artistic points of the whole poem:
– The 5-word poetic form is used creatively, expressing the rhythm of the ocean waves, the rhythm of the poet's heart.
– Alliteration and syntactic measures contribute to creating a passionate, passionate rhythm, suitable for expressing intense nostalgia: the wave (3 times), deep inside - on the water, even down – even though it's the opposite…
– In the poem, Xuan Quynh expressed very sensually and vividly the emotional states and intense desires of a woman in love.
– From the poem, it can be said about the soul of Vietnamese women in love: bold, strong but still retaining good traditions (faithfulness, attachment).
|
Đề bài: Bình giảng đoạn thơ sau đây trong Truyện Lục Vân Tiên: "Thưa rằng….phi anh hùng"
Bài làm
“Thưa rằng: Tôi Kiều Nguyệt Nga"
Con này tì tất tên là Kim Liên.
…
Nhớ câu kiến ngãi bất vi,
Làm người thế ấy cũng phi anh hùng.”
Nếu đọc “Truyện Kiều”, người đọc vô cùng sảng khoái với hành động khuấy nước chọc trời của Từ Hải thì đọc “Lục Vân Tiên" người đọc lại vô cùng hả hê với hành động đánh cướp cứu Kiều Nguyệt Nga của Lục Vân Tiên. Một anh học trò trên đường đi thi, “giữa đường gặp sự bất bằng”, “bẻ cây làm gậy" đánh tan bọn cướp cứu người lương thiện. Để cho cái thiện toàn thắng là một cách nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu biểu dương sức mạnh của chính nghĩa, của vị nghĩa.
Khi “ tả đột hữu xông" đánh cướp, Lục Vân Tiên chỉ biết cứu dân, dẹp bọn “ hồ đồ hại dân", hành động anh hùng của Vân Tiên thật là trọn vẹn (nếu Vân Tiên biết mình đánh để cứu người đẹp, thì lòng dũng cảm của người anh hùng bị hoài nghi). Nhưng gieo cái gì thì gặt cái đó. Sau khi “dẹp rồi lũ kiến chồm ong”, người được chàng cứu nạn lại là một giai nhân.
Đoạn thơ dưới đây, nhà thơ kể lại cuộc hội ngộ buổi đầu giữa Lục Vân Tiên và Kiều Nguyệt Nga, anh hùng và giai nhân:
"… Thưa rằng: tôi Kiều Nguyệt Nga,
Con này tì tất tên là Kim Liên.
…..
Nhớ câu kiến ngãi bất vi,
Làm người thế ấy cũng phi anh hùng.”
Trước đoạn đối thoại này là thái độ ngạc nhiên của Lục Vân Tiên khi nhìn thấy trong xe hai tiểu thư đẹp như mộng. Chàng hỏi:
“Tiểu thư con gái nhà ai,
Đi đâu đến nỗi mang tai bất kì.
Chẳng hay tên họ là chi,
Khuê môn phận gái việc gì đến đây?
Trước sau chưa hãn dạ này,
Hai nàng ai tớ ai thầy nói ra?”
Nguyệt Nga trả lời ngay vào điều mà Vân Tiên cần biết ấy là tên tuổi của nàng: "… Thưa rằng: tôi Kiều Nguyệt Nga,
Con này tì tất tên là Kim Liên."
Lời thưa của tiểu thư lễ độ, tỏ ra là con nhà gia giáo. Nàng chọn đại từ "tôi" trung hòa về tình cảm, lịch thiệp mà không suồng sã. Lời lẽ của nàng chân thật:
"Quê nhà ở quận Tây Xuyên,
Cha làm tri phủ ớ miền Hà Khê. ”
Thì ra tiểu thư là con của một viên quan tri phủ. Tất nhiên là qua lời kể. Lục Vân Tiên mới hay. (Nếu Lục Vân Tiên biết trước là cứu con quan thì người ta cũng dễ nghi lòng dũng cảm của người anh hùng. Người ta có thể luận rằng vì cứu con quan nên anh chàng mới đánh hãng như vậy…)
Có một chi tiết rất khó nói, vậy mà Kiều Nguyệt Nga lại nói trôi chảy và tự nhiên:
"Sai quan đem bức thư về,
Rước tôi qua đó định bề nghi gia. "
Nói ra lời đó, chứng tỏ nàng là một người chân thật. Lời thành thật của nàng gây ra mội chút kịch tính trong buổi đàm thoại. Anh học trò Vân Tiên làm sao khỏi bị “sốc" trước sự “định bề nghi gia" của người cha như vậy. Kịch tính càng tăng lên thêm khi tiểu thư càng thành thật:
'"Làm con đâu dám cãi cha,”
Trái tim người anh hùng cảm thấy êm ái là khi nghe Kiều Nguvệt Nga "bình công" xứng đáng cử chỉ dũng cảm của chàng:
"Lâm nguy chẳng gặp giải nguy,
Tiết trăm năm cũng bỏ đi một hồi."
Vân Tiên chưa kịp đáp thì Kiều Nguyệt Nga tiếp lời, tìm cách đền ân cho chàng:
“Trước xe quân tử tạm ngồi,
Xin cho tiện thiếp lạy rồi sẽ thưa.
Chút tôi liễu yếu đào tơ,
Giữa đường gặp phải bụi dơ đã phần.
Hà Khê qua đó cũng gần
Xin theo cùng thiếp đền ân cho chàng."
Từ cách xưng hô nhún nhường (tiện thiếp) cho đến cử chỉ “lạy" rất thành kính chứng tỏ Kiều Nguyệt Nga hết sức thấm thía với cử chỉ nghĩa hiệp của Vân Tiên. Lời mời mọc của nàng cũng khéo léo:
"Gặp đây đương lúc giữa đàng, của tiền chẳng có, bạc vàng cũng không?”
Trong lời phân bua của Nguyệt Nga, cái gì cũng không "của tiền chẳng có, bạc vàng cũng không", vậy mà có, có cái còn quí hơn của tiền, bạc vàng là tấm lòng thành của kẻ chịu ơn, là cái tình của nhi nữ.
Lục Vân Tiên nghe Kiều Nguyệt Nga giãi bày hẳn là mát lòng, mát dạ, nhưng với tư cách là một anh học trò, bụng đầy chữ của thánh hiền thì từng lời của Nguyệt Nga có chỗ không tránh khỏi nữ nhi thường tình:
“Vân Tiên nghe nói liền cười,
Làm ơn há để cùng người trả ơn.''
Nụ cười của Vân Tiên là nụ cười của một người anh hùng, hồn nhiên, vô tư, không vụ lợi. Lời nói "làm ơn há để trông người trả ơn" cũng chân thành. Hành động đánh cướp cứu dân của Vân Tiên là hành động cao cả, thể hiện lý tưởng của người anh hùng:
"Nhớ câu kiến ngãi bất vi,
Làm người thế ấy cũng phi anh hùng."
Người Nam Bộ thích Lục Vân Tiên chính là lý tưởng vì nghĩa này.
Đây là một đoạn truyện hay trong “Truyện Lục Vân Tiên” của Nguyễn Đình Chiểu. Bằng lối kể chuyện nôm na mà chân thật, tác giả đã dựng lên cuộc gặp gỡ sinh động giữa Lục Vân Tiên và Kiều Nguyệt Nga, anh hùng và giai nhân. Lòng biết ơn chân thành của Kiều Nguyệt Nga và thái độ vì nghĩa của Lục Vân Tiên tạo ra sức hấp dẫn của đoạn thơ. Người đọc “'Lục Vân Tiên", nếu còn một chút gì để nhớ thì chính là ở cái triết lý này đây:
“Nhớ câu kiến ngãi bất vi,
Làm người thế ấy cũng phi anh hùng."
|
Topic: Comment on the following poem in The Story of Luc Van Tien: "Sir....not a hero"
Assignment
"Say: I'm Kieu Nguyet Nga"
This cub's name is Kim Lien.
…
Remember the saying: view is unchangeable,
Being that kind of person is also unheroic.”
If reading "The Story of Kieu", the reader is extremely happy with Tu Hai's act of stirring up water to reach the sky, then reading "Luc Van Tien" the reader is extremely gloating with Luc Van Tien's act of robbing and saving Kieu Nguyet Nga. . A student on his way to take the exam, "encountered injustice in the middle of the road", "breaking a tree to make a stick" to defeat robbers to save honest people. Letting good prevail is a way for poet Nguyen Dinh Chieu to demonstrate the power of justice and righteousness.
When "left suddenly attacked right" to attack bandits, Luc Van Tien only knew how to save the people, put down the "criminals who harmed the people", Van Tien's heroic actions were truly complete (if Van Tien knew he was fighting to save the beauty, then the hero's courage is doubted). But what you sow is what you reap. After "putting away the ants and bees", the person he rescued turned out to be a beautiful woman.
In the poem below, the poet recounts the first reunion between Luc Van Tien and Kieu Nguyet Nga, hero and beauty:
"... Say: I am Kieu Nguyet Nga,
This cub's name is Kim Lien.
…..
Remember the saying: view is unchangeable,
Being that kind of person is also unheroic.”
Before this dialogue was Luc Van Tien's surprised attitude when he saw two dreamy beautiful ladies in the car. He asked:
“Whose family's daughter is the young lady?
Wherever you go, you'll hear anything.
I don't know what their names are,
Why is Khue Mon's daughter here?
Never been this proud before,
Who are the two girls? Can you tell me?"
Nguyet Nga immediately replied that what Van Tien needed to know was her name: "... Say: I am Kieu Nguyet Nga,
This cub's name is Kim Lien."
The lady's words were polite, showing that she was a child of good family. She chooses the emotionally neutral pronoun "I", polite but not flippant. Her words are true:
"Hometown is in Tay Xuyen district,
My father was a governor in the Ha Khe region. ”
It turned out that the lady was the daughter of a government official. Of course through words. Luc Van Tien is good. (If Luc Van Tien knew in advance that he was going to save the mandarin's son, people would easily doubt the hero's courage. One could argue that it was because he saved the mandarin's son that he beat the company like that...)
There is a detail that is very difficult to say, but Kieu Nguyet Nga said it fluently and naturally:
"The official brought the letter back,
Take me there to settle down for the family. "
Saying those words proves that she is a sincere person. Her honest words caused a bit of drama in the conversation. How could the student Van Tien not be "shocked" by his father's "family stability" like that? The drama increases as the lady becomes more honest:
'"As a son, I don't dare to argue with my father,"
The hero's heart feels comforted when he hears that Kieu Nguvet Nga "merited" his brave gesture:
"In danger there is no solution,
The 100-year period will also be gone for a while."
Before Van Tien could answer, Kieu Nguyet Nga continued, trying to repay his kindness:
“In front of the carriage, the gentleman temporarily sits,
Please allow me to bow before I speak.
A little bit of willow, weak willow, peach silk,
In the middle of the road, I encountered some dust.
Ha Khe is also close there
Please come with me to repay your favor."
From the humble way of addressing her (concubine) to the very respectful "bowing" gesture, it proves that Kieu Nguyet Nga is deeply impressed with Van Tien's chivalrous gesture. Her invitation is also clever:
"Meeting here in the middle of the road, no money, no silver or gold?"
In Nguyet Nga's condolences, there is nothing "there is no money, there is no silver or gold", yet there is, there is something more precious than money, silver and gold is the sincerity of the grateful person, the love. of female children.
Luc Van Tien heard Kieu Nguyet Nga confide in her heart, but as a student, with a belly full of words from saints, Nguyet Nga's every word had a place that could not avoid common girls:
“When Van Tien heard this, he laughed.
Please let me repay the favor.''
Van Tien's smile is the smile of a hero, innocent, carefree, and not for profit. The words "doing a favor is to expect someone to repay the favor" are also sincere. Van Tien's act of fighting robbers to save the people is a noble act, expressing the ideal of a hero:
"Remember the saying that views do not change,
Being that kind of person is also unheroic."
Southerners who like Luc Van Tien are ideal for this reason.
This is a good story in "The Story of Luc Van Tien" by Nguyen Dinh Chieu. Using a simple yet realistic storytelling style, the author created a lively meeting between Luc Van Tien and Kieu Nguyet Nga, hero and beauty. Kieu Nguyet Nga's sincere gratitude and Luc Van Tien's righteous attitude create the appeal of the poem. Readers of "'Luc Van Tien", if there is anything left to remember, it is this philosophy:
“Remember the saying that views are unchangeable,
Being that kind of person is also unheroic."
|
Đề bài: Bình giảng đoạn thơ thứ hai trong bài Tâm tư trong tù của Tố Hữu
Bài làm
Tập thơ "Từ ấy" – tập thơ 10 năm của Tố Hữu (1937-1946) gồm có 72 bài thơ, trong đó, những bài trong phần "Xiềng xích" nói lên nỗi buồn cô đơn, niềm khao khát tự do và tự khẳng định bản lĩnh mình của người thanh niên cộng sản trong cảnh tù đày. Đây là đoạn thơ hay nhất, xúc động nhất trong bài thơ. Giọng thơ bồi hồi, náo nức:
" Cô đơn thay là cảnh thân tù,
…Dưới đường xa nghe tiếng guốc đi về”.
Bài thơ này được viết vào ngày 29.4.1939, khi nhà thơ bị thực dân Pháp bắt giam tại nhà lao tỉnh Thừa Thiên – Huế. Đó là một thời kì đen tối: giặc Pháp khủng bố trắng, biết bao nhiêu chiến sĩ của Đảng bị giặc giết hại và cầm tù. Cả đoạn thơ ghi lại diễn biến tâm trạng của Tố Hữu trong những ngày đầu sống trong cảnh tù ngục.
Đoạn thơ gồm có 8 câu,; 4 câu đầu như một điệp khúc, hai lần được nhắc lại thiết tha bồi hồi. Nỗi buồn cô đơn đầy ắp tâm trạng. Lần đầu tiên người chiến sĩ trẻ bị đế quốc bắt giam và cầm tù. Cảnh ngộ mới bi thảm, sao mà chẳng cô đơn khi bị nhốt "giữa bốn tường vôi khắc khổ'"? Trước đó không lâu, tác giả còn là một thanh niên học sinh, được giác ngộ lí tưởng cộng sản, hăng hái hoạt động cách mạng, trong phong trào sinh viên học sinh yêu nước. Niềm vui dào dạt trái tim tuổi thanh xuân:
"Ô vui quá! Rộn ràng trên vạn nẻo
Bốn phương trời và sau dấu muôn chân
Cũng như tôi, tất cả tuổi đương xuân
Chen bước nhẹ trong gió đầy ánh sáng".
(Hi vọng – 1938)
Tâm hồn người chiến sĩ cách mạng trẻ "lù một vườn hoa lú – Rất đậm hương vù rộn tiếriỊ> chim". Cuộc đời phía ưước là những mùa xuân bát ngát với bao niềm say mê lạc quan yêu đời: "Bạn đời ơi, vui chút với trời hồng!". Thế mà giờ đây bị cùm trói, nằm trên xà lim lạnh lẽo, tốì tăm, bị ngăn cách hoàn loàn với thế giới bên ngoài. Đữ là những thử ihách hết sức nặng nề. Làm sao tránh khỏi cảm giác cô đơn?
"Cỏ đơn thay lù cảnh thân tù!". Đó không phải là sự than thở, một tiếng kêu rên hèn yếu. Đó là sự xác nhận – xác nhận một sự thật phũ phàng, cay đắng. Thời gian trôi qua trong nhà tù dài lê thê, nặng nề: "Nhất nhật tại tù, thiên thu tại ngoại". Lại bị cách biệt với đồng chí, đồng bào nên càng cô đơn. Suốt đêm ngày, người chiến sĩ trẻ bị giam hãm trong ngục tối luôn luôn hướng ra bện ngoài với bao day dứt và khao khát:
"Tai mở rộng và lòng sôi rạo rực,
Tôi lắng nghe tiếng đời lăn náo nức
Ở ngoài kia vui sướng biết bao nhiêu!".
Hai thế giới cách biệt bởi song sắt nhà tù. Một chút ánh sáng "nhỏ nhẹ" cũng phải len qua khe cửa nhà ngục mới đến đưực với người chiến sĩ. Nhà thơ chỉ còn biết "lắng nghe" mọi âm thanh, ngoài đời vọng đến. Người tù cấm cố đón nhận mọi âm thanh, với một thái độ náo nức, mãnh liệt, với tấm lòng ham sống, thiết tha, yêu đời, để rồi thốt lên tiếc nuối: "Ở ngoài kia vui sướng biết bao nhiêu!".
Chữ "nghe” được nhắc lại nhiều lần. Tâm trạng bồn chồn như được xoáy sâu. Giọng thơ trở nên xúc động bồi hồi, tha thiết. Cuộc sống trào lên như nhắc nhở, nghe như vẫy gọi. Phải gắn bó với nhịp sống bên "ngoài kia". Phải gắn bó với phong trào cách mạng. Nhà thơ lắng tai nghe tiếng chim hót ban mai, tiếng gió thổi, tiếng dơi chiều đập cánh lúc hoàng hôn. Những âm thanh xa, gần, mơ hồ, thân thuộc ấy, giờ đây cảm thấy mới hơn, sôi động và náo nức hơn. Chim không chỉ hót mà “ reo”, gió không chỉ thổi mà dâng lên như thủy triều vỗ sóng, và tiếng dơi chiều đập cánh nghe “ voojij vã” khác thường! Nằm trong phòng biệt giam, người chiến sĩ trẻ rung lên vì cảm động. Bức tranh sinh hoạt của quê hương được đặc tả qua tiếng nhạc ngựa, tiếng guốc gõ trên con đường nghe nhỏ, gần rồi xa dần trong đêm khuya:
"Nghe lạc ngựa rùng chân bên giếng lạnh,
Dưới đường xa nghe tiếng guốc đi về…
Thật là tinh tế trong gợi tả và biểu cảm. Một sự tiếc nuối dâng lên. Chỉ một tiếng lạc ngựa cũng đủ khơi gợi bao cảm xúc và tưởng tượng. Nhà thơ cảm nhận và hình dung ra cái "rùng chân" của con ngựa bên giếng cổ, và cả cái lạnh đã thấm sâu vào làn nước ở đáy tầng sâu. Người tù thao thức càng cảm thấy mình cô đơn và lạnh lẽo hơn bao giờ hết! ở hoàn cảnh tù đày, sự cô đơn không hề làm cho người chiến sĩ cách mạng tàn lụi và bé nhỏ đi, mà trái lại, cô đơn là để thức tỉnh, lay gọi và vươn tới, khẳng định một tâm thế giữ trọn "trinh bạch linh hồn trong bụi bẩn".
Câu thơ "Dưới đường xa nghe tiếng guốc đi về" là một câu thơ rất hay, vần thơ bình dị mộc mạc ấy lại có sức lay động lòng người một cách thấm thía. Tất cả mọi âm thanh được nhắc đến bên trên (chim reo, tiếng dơi chiều đập cánh, tiếng gió thổi, tiếng lạc ngựa rung chân,…) chỉ là những nốt nhạc dạo đầu, khơi dòng tâm tư,… Và chỉ khi tiếng guốc to, nhỏ xa dần xuất hiện mới nhức nhối lòng người, mới xoáy sâu vào trái tim lòng người. Bởi lẽ, tất cả mọi âm thanh ấy đều hãy còn xa con người, chưa mang hơi ấm của con người. Chỉ có tiếng guốc bình dị yêu thương, mới là cuộc sống đích thực, mới nghe qua tưởng chừng lạc lõng, thậm chí còn tầm thường nữa. Tiếng guốc ấy gắn liền với mồ hôi, nước mắt của cần lao với bao lo toan về cơm áo hàng ngày. Tiếng guốc ấy cũng nhức nhối như "một tiếng rao đêm” nghe được giữa đêm khuya sau song sắt nhà tù:
"Rao đi em, kẻo nữa quá khuya rồi,
Anh nằm nghe qua cửa khám, xa xôi
Tiếng em bước trên đường đêm nhỏ nhỏ
Nhưng cũng đủ cho lòng anh nắm rõ”
(Xà lim Quy Nhơn, tháng 11.1941 )
Từ mái trường đến với con đường cách mạng, rồi bị tù đày, tiếng guốc gợi nhớ gợi thương một thời trai trẻ với bao mộng đẹp. Nó chạm tới nơi sâu thẳm đáy tâm hồn và cuộc sống nên vang động sâu xa trong tâm tư nhà thơ. Mà nhà thơ lại đang bị tách khỏi cuộc sống, trong cảnh ngộ thân tù cô đơn, tiếng guốc dưới đường xa đi về càng nhói mạnh, càng quặn thắt nhói đau tim gan.
Có đặt tám câu thơ trên vào trong cả bài thơ và gắn nó với ba tiếng "Bạn đời ơi” như một điệp khúc vang ngân trong tập thơ "Từ ấy" mới cảm nhận đầy đủ ý nghĩa sâu xa, lòng khao khát tự do cháy bỏng. Và tâm hồn người chiến sĩ trẻ lúc nào cũng hướng về ánh sáng, muốn thoát khỏi cảnh tù đày cùng đồng chí dấn thân vào gió bụi. Cũng như "Tâm tư trong tù", bài thơ "Khi con tu hú…" chứa đầy tâm trạng:
"Ta nghe hè dậy bên lòng,
Mà chân muốn đạp tan phòng, hè ôi!
Ngột lùm sao, chết uất thôi,
Con chim tu hú ngoài trời cứ kêu!".
Thơ là sự cách điệu tâm hồn. Thơ hay là ở sự chân thực, là sự diễn tả tinh tế những rung động của hồn người trong chiều sâu và tầm cao của mạch sông và cuộc đời. Đoạn thơ trên vừa hướng nội, vừa hướng ngoại. Tưởng là cô đơn sầu não, nhưng sôi sục, trào dâng nhiệt huyết, bừng bừng khí thế. Nó là khúc tráng ca tự do.
|
Topic: Comment on the second poem in To Huu's Thoughts in Prison
Assignment
The poetry collection "From That" - a 10-year collection of poems by To Huu (1937-1946) includes 72 poems, of which, the poems in the "Chains" section express the sadness of loneliness, the desire for freedom and liberty. affirming the bravery of communist youth in prison. This is the best and most touching passage in the poem. The poetic voice is restless and excited:
"Loneliness is better than imprisonment,
... Down the road, I heard the sound of clogs coming back."
This poem was written on April 29, 1939, when the poet was imprisoned by the French colonialists in the prison of Thua Thien - Hue province. It was a dark period: the French invaded white terror, countless Party soldiers were killed and imprisoned by the enemy. The entire poem records the evolution of To Huu's mood during the first days of living in prison.
The poem consists of 8 lines; The first 4 verses are like a chorus, repeated twice passionately. Sadness and loneliness filled the mood. For the first time, the young soldier was captured and imprisoned by the empire. The new situation is tragic, how can one not be lonely when locked "between four harsh lime walls"? Not long ago, the author was still a young student, enlightened to communist ideals, enthusiastically participating in revolutionary activities, in the patriotic student movement. Joy abounds in the hearts of youth:
"Oh so much fun! Bustling all over the place
The four directions of heaven and the footprints of thousands of feet
Just like me, all in my youth
Chen walked lightly in the wind filled with light."
(Hope – 1938)
The soul of the young revolutionary soldier "is filled with a garden of wild flowers - rich in fragrance and bustling with birds". Life on the other side is boundless spring with so much passion, optimism and love for life: "My life partner, have some fun with the pink sky!". But now he is shackled, lying in a cold, dark cell, completely isolated from the outside world. These are extremely heavy challenges. How to avoid feeling lonely?
"Single grass replaces prison life!". It was not a lament, a weak cry. It was confirmation – confirmation of a harsh, bitter truth. The time that passes in prison is long and heavy: "One day in prison, one day on bail." Being separated from comrades and compatriots made me even more lonely. All day and night, the young soldier imprisoned in the dungeon always looked out with torment and longing:
"Ears open and hearts aflame,
I listen to the bustling sound of life
There's so much joy out there!".
Two worlds separated by prison bars. A little bit of "soft" light had to pass through the prison door to reach the soldier. The poet can only "listen" to every sound that comes from outside. The prisoner tries to receive every sound, with an excited, intense attitude, with a heart that wants to live, is passionate, loves life, and then exclaims regretfully: "How much joy there is out there!" .
The word "listen" is repeated many times. The restless mood seems to be deepened. The poetic voice becomes emotional and passionate. Life rises up like a reminder, sounds like a beckoning. Must stick to the rhythm of life. "out there". The poet must listen to the sounds of birds singing in the morning, the sound of the wind blowing, the sound of bats flapping their wings at sunset. The sounds are far, near, vague, familiar belonging to that, now feels newer, more vibrant and exciting. Birds not only sing but "ring", the wind not only blows but rises like a tidal wave, and the sound of the afternoon bats flapping their wings sounds "voojij". unusual! Lying in the solitary confinement room, the young soldier trembled with emotion. The picture of his hometown's life was depicted through the sound of horse music, the sound of clogs on the road, sounding small, near and then gradually far away in the dead of night. :
"Hearing the lost horse's legs shivering at the cold well,
Down the road, I heard the sound of clogs coming back...
It's so delicate in its description and expression. A feeling of regret arose. Just one horse's sound is enough to evoke many emotions and imaginations. The poet feels and imagines the "shivering legs" of the horse next to the ancient well, and the cold that has penetrated deep into the water at the bottom of the deep layer. The restless prisoner feels more lonely and cold than ever! In a situation of imprisonment, loneliness does not make a revolutionary soldier wither or become smaller, but on the contrary, loneliness is to awaken, inspire and reach out, affirming a mindset of integrity. purity of soul in dirt".
The poem "Down the road, I heard the sound of clogs coming home" is a very beautiful poem, that simple and rustic poem has the power to deeply move people's hearts. All the sounds mentioned above (birds chirping, the sound of bats flapping their wings in the afternoon, the sound of wind blowing, the sound of horses shaking their legs,...) are just the opening notes, evoking the flow of thoughts,... And only when the sound Big and small clogs gradually appear in the distance to ache people's hearts, to pierce deeply into people's hearts. Because all of these sounds are still far from humans, and do not yet carry human warmth. Only the simple sound of love is true life, at first it seems out of place, even trivial. The sound of clogs is associated with the sweat and tears of hard work and the daily worries of food and clothing. The sound of clogs was as painful as "a night cry" heard in the middle of the night behind prison bars:
"Tell me, or else it will be too late,
He lay listening through the examination door, far away
The sound of you walking on the night road is small
But it's enough for you to understand clearly."
(Quy Nhon cell, November 1941)
From school to the revolutionary path, then to prison, the sound of clogs reminds me of a time when I was young with many beautiful dreams. It touches the depths of the soul and life, so it resonates deeply in the poet's mind. But the poet is separated from life, in a lonely prison situation, the sound of clogs on the long road on the way back and forth becomes more and more painful, more painful and heart-wrenching.
Only by placing the above eight verses in the whole poem and attaching them to the three words "My life partner" like a resounding chorus in the poem collection "From That" can we fully feel the deep meaning, the desire for freedom. burning. And the young soldier's soul always turned towards the light, wanting to escape from prison and join his comrades in the dust. Just like "Thoughts in Prison", the poem "When I howl... " filled with mood:
"I hear summer rising in my heart,
But my feet want to smash the room, oh summer!
I'm so sad, I'll die of anger,
The bird outside keeps calling!".
Poetry is the stylization of the soul. Good poetry lies in its authenticity, the subtle expression of the vibrations of the human soul in the depth and height of the river and life. The above poem is both introverted and extroverted. Thought it was lonely and sad, but it was seething, overflowing with enthusiasm, full of spirit. It is an epic song of freedom.
|
Bình giảng đoạn thơ Trao Duyên trong Truyện Kiều
Hướng dẫn
Bình giảng đoạn thơ Trao Duyên trong Truyện Kiều
Trao duyên là đoạn thơ hay và có ý nghĩa rất lớn trong Truyện Kiều của Nguyễn Du. Đoạn thơ nói về bi kịch tình yêu của Kiều và mở đầu cuộc đời mười năm năm lưu lạc chốn phương xa. Đoạn thơ này dài 84 câu, từ cầu 693-776, như thấm đẩy giọt lệ của người con gái xinh đẹp “ Hồng nhan bạc mệnh”.
Kiều quyết định bán thân để cứu cha và em trai vượt qua cơn hoạn nạn. Trong lúc đó Kiều đã nghĩ đến tình yêu son sắc của mình và quyết định sang trao duyên cho e gái Thúy Vân để đàn đáp tình cảm đôi lứa.
Mở đầu bài thơ là lời khẩn cầu của Thúy Kiều nhờ Thúy Vân:
Cậy em, em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa.
Giữa đường đứt gánh tương tư.
Keo loan chắp mỏi tơ thừa mặc em.
Tác giả đã xây dựng nên tình huống éo le thật độc đáo. Ngôn từ mà Kiều giành cho Thúy Vân cũng không phải những lời lẽ hàng ngày mà là nhưng lời nói nề nếp gia giáo khi nhờ người khác giúp mình. Kiều cảm thấy sót xa cho bản thân khi rơi vào bi kịch tình yêu bị tan vỡ. Trong khi tình yêu giữ Kiều và Kim “Người quốc sắc, kẻ thiên tài”, Kiều muốn giữ lời thề nên “Cậy” Thúy Vân. Vì chỉ có Thúy Vân mới hiểu được mình. Kiều biết làm vậy sẽ rất khó cho Thúy Vân nhưng sau khi bán mình chuộc cha Kiều cũng không biết cuộc đời mình chôi dạt về đâu nên chỉ còn cách khẩn khoản cầu xin em gái giúp mình. Hai chữ “keo loan” và “mặc em” là lời phó thác đầy tin cậy, tin tưởng. Kiều tĩnh trí nói với em về mối tình của chị đối với chàng Kim là vô cùng sâu nặng và thắm thiết.
Ngày xuân em hãy còn dài,
Xót tình máu mủ thay lời nước non.
Chị dù thịt nát xương mòn,
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây.
Kiều đã mang cả cái chết của mình ra để nói bởi khi Kiều khi ra khỏi nhà rồi Kiều sẽ không biết cuộc đời mình ra sao và mất đi lúc nào. Lời thỉnh cầu của Kiều vừa chân thành vừa tha thiết khiến Thúy Vân nghẹn ngào trong lòng buộc phải chấp nhận để giúp chị. Dù gì cũng là chị em ruột thịt lớn lên cùng nhau thôi thì chuyện đã đình nên Thúy Vân đã chấp nhận hi sinh tình yêu và tuổi xuân của mình để giúp chị cũng như giúp cho gia đình.
Một chữ “cười”, hai chữ “thơm lây” cũng đủ cho ta thấy Thúy Kiều là thiếu nữ nhân hậu, luôn nghĩ đến tình nghĩa thuỷ chung. Lúc đau khổ tột cùng, lòng nàng vẫn trong sáng hướng tới hạnh phúc người khác. Tấm lòng ấy mang vẻ đẹp đôn hậu, đức hi sinh của người phụ nữ người chị quê ta.
Vậy mà khi trao những kỉ vật cho Vân, Kiều lại thấy mất mát to lớn không gì bù đắp nổi. Tay Kiều thì trao nhưng lòng Kiều còn cố níu kéo giữ lại một chút gì cho mình:
Chiếc thoa với bức tờ mây
Duyên này thì giữ vật này của chung.
Mai sau dù có bao giờ
Đốt là hương ấy, so tơ phím này.
Trông ra ngọn cỏ lá cây
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về.
Hồn còn mang nặng lời thề,
Nát thân, bồ liễu đền nghi trúc mai
Dạ đài cách mặt khuất lời,
Rảy xin chém nước cho người thác oan.
Những lời Kiều nói đầy tang thương như thể người ở thế giới bên kia đang nói chuyện với người ở thế giới bên này. Điều này càng thể hiện rõ tình yêu rất sâu đậm mà Kiều giành cho Kim Trọng một lòng son sắc thủy chung. Khi đã cố gắng gồng mình nên để trao duyên cho em gái nhưng trong lòng thì vẫn sót xa. Kiều là cô gái tài sắc vẹn toàn nhưng bị xã hội xưa vùi dập nên cuộc đời bấp bênh rơi vào bi kịch tình yêu lớn, hạnh phúc lớn tưởng trừng không gì chia cắt được ấy vậy mà bây giờ bị tan vỡ. Kiều đau đớn lắm nhưng vì chữ “Hiếu” nên Kiều chấp nhận hết.
Bây giờ trâm gãy gương tan
Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân.
Kiều đang đối diện với Thuý Vân, thế rồi nàng chuyển sang nói với người yêu trong tâm tưởng. Kiều khóc cho “tơ duyên ngắn ngủi”, khóc cho “trâm gãy bình tan”, đau đớn cam chịu số phận.
Đã đành nước chảy, hoa trôi lỡ làng”.
Càng khóc, Kiều càng vật vã đau đớn, nàng chìm dần trong mê sảng.. Hai lần nàng nhắc đến tên người yêu. Nghe nàng khóc mà người đời xót xa thương cảm:
“Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang!
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây”.
Câu thơ thật hay nói hết nên tâm trạng bị tịch tình yêu tan vỡ nên tột đỉnh. Nàng Kiều sống hết mình trong nỗi đau tột cùng của mình, nhưng trước sau vẫn là một con người giàu lòng vị tha. Kiều thương chàng Kim hơn cả chính bản thân mình, Kiều không đổ lỗi cho hoàn anh mà tự nhận trách nhiệm về mình. Có thể nói, chỉ một chữ phụ thôi mà đã im sáng lên vẻ đẹp nhân cách cao thượng, giàu lòng vị tha của nàng Kiều.
Đoạn thơ “Trao duyên” thật hay và ý nghĩa mặc dù là bi kịch tình yêu tan vỡ đầy đau buồn nhưng qua đó thể hiện tình yêu chung thủy mà Kiều giành cho Kim. Kiều chấp nhận hi sinh bản thân đêm hạnh phúc của mình cho người khác phù hợp nhằm đáp lại tình cảm của Kim giành cho mình. Đồng thời qua đoạn trích đã làm toát nên phẩm chất cao đẹp của người con gái xưa vừa hiền lành giỏi giang lại có hiếu. Nguyễn Du đã phác họa rất thành công nhân vật điển hình trong xã hội xưa và miêu tả rất tinh tế tâm lí, trạng thái của nhân vật để người đọc dễ hiểu và cảm nhận một cách sâu sắc hơn.
|
Commentary on the poem "Giving Duyen" in The Tale of Kieu
Instruct
Commentary on the poem "Giving Duyen" in The Tale of Kieu
Giving love is a beautiful and very meaningful poem in The Tale of Kieu by Nguyen Du. The poem talks about Kieu's love tragedy and the beginning of her life of ten or five years of wandering in a far away place. This poem is 84 lines long, from verses 693-776, as if soaking up the tears of the beautiful girl "The red beauty of fate".
Kieu decided to sell her body to save her father and younger brother from hardship. Meanwhile, Kieu thought about her eternal love and decided to give love to her younger sister Thuy Van to reciprocate the couple's feelings.
The poem begins with Thuy Kieu's request to Thuy Van:
Trust me, I agree
Sit up so I can bow and then speak.
In the middle of the road, the burden of love is broken.
Glue loan patched up the excess silk and wore me.
The author has created a unique situation. The words that Kieu gave Thuy Van were not everyday words but rather polite words when asking others to help her. Kieu felt sorry for herself when she fell into the tragedy of broken love. While love keeps Kieu and Kim "The national character, the genius", Kieu wants to keep her oath so she "Trusts" Thuy Van. Because only Thuy Van can understand me. Kieu knew that doing so would be very difficult for Thuy Van, but after selling herself to ransom her father, Kieu did not know where her life was headed, so she had no choice but to beg her sister to help her. The words "glue loan" and "let me" are words of trust and confidence. Kieu calmly told me about her love for Kim, which is extremely deep and passionate.
My spring days are still long,
Merciful love of immature blood instead of words.
Even though my flesh is broken and my bones are worn out,
Smiling until the stream is still fragrant.
Kieu brought her own death to talk about because when Kieu leaves home, Kieu will not know what her life turned out to be or when she died. Kieu's request was both sincere and earnest, making Thuy Van choked up and forced to accept to help her. After all, they were siblings who grew up together, so things were over, so Thuy Van accepted to sacrifice her love and youth to help her sister as well as the family.
One word "laugh" and two words "fragrant" are enough to show us that Thuy Kieu is a kind-hearted girl, always thinking of faithful love. In times of extreme suffering, her heart was still pure towards the happiness of others. That heart carries the beauty of kindness and sacrifice of a woman from our hometown.
Yet when giving the souvenirs to Van, Kieu felt a huge loss that nothing could compensate for. Kieu's hand was given, but Kieu's heart still tried to hold on and keep something for herself:
A dab with a cloud painting
This fate keeps this thing in common.
Tomorrow, no matter when
Burning is incense, compare this key.
Looking out over the grass and leaves
Seeing the cool breeze means she's coming home.
The soul still carries a heavy oath,
If the body is broken, the willow tree will pay tribute to the apricot tree
The night stage is hidden from view,
Sprinkle water for the wronged person.
Kieu's words were full of sadness as if people from the other world were talking to people from this world. This further shows the very deep love that Kieu has for Kim Trong and her faithfulness. When I tried my best to give love to my sister, in my heart I was still far away. Kieu is a talented and beautiful girl, but was crushed by the old society, so her unstable life fell into the tragedy of great love, great happiness that seemed inseparable, but now it is broken. Kieu was in a lot of pain, but because of the word "Hieu", Kieu accepted everything.
Now the brooch is broken and the mirror is dissolved
Tell me how countless the love is.
Kieu was facing Thuy Van, then she turned to talk to her lover in her mind. Kieu cried for her "short-lived relationship", cried for her "broken vase", painfully resigned to her fate.
As the water flows, the flowers drift away and miss the village."
The more Kieu cried, the more she struggled in pain, she gradually sank into delirium. Twice she mentioned her lover's name. Hearing her cry makes people feel pity and pity:
“Oh Kim lang! Oh Kim lang!
Well, I'll help you from here on."
The poem is so beautiful that it sums up the mood of being lost and broken love is at its peak. Ms. Kieu lived her life to the fullest despite her extreme pain, but was still a altruistic person. Kieu loves Kim more than herself. Kieu does not blame him but takes responsibility for herself. It can be said that just one extra word illuminates the beauty of Kieu's noble and altruistic personality.
The poem "Giving Love" is beautiful and meaningful, although it is a sad and broken love tragedy, but it shows the loyal love that Kieu has for Kim. Kieu agreed to sacrifice herself and her happy night for someone else to reciprocate Kim's feelings for her. At the same time, the excerpt exudes the noble qualities of the old girl who is both gentle, talented and filial. Nguyen Du has successfully sketched a typical character in ancient society and very delicately described the psychology and state of the character so that readers can easily understand and feel more deeply.
|
Bình giảng đoạn thơ trong bài “Vội vàng” của Xuân Diệu
Hướng dẫn
Bình giảng đoạn thơ trong bài “Vội vàng” của Xuân Diệu
“Tôi muốn tắt nắng đi
…
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân”
BÀI LÀM
Vội vàng là một trong những bài thơ tiêu biểu nhất của Xuân Diệu, được in trong tập Thơ Thơ, xuất bản lần đầu năm 1938. Vội vàng là tiếng nói của tâm hồn yêu đời, yêu sống đến cuồng nhiệt và quan niệm nhân sinh mới chưa từng thấy trong thơ ca truyền thống. Đoạn thơ đầu của bài thơ thể hiện cảm xúc: Với rộn ràng, say đắm của nhà thơ khi mùa xuân đến.
Mở đầu đoạn thơ là ý nguyện của thi sĩ – một tâm hồn yêu đời:
“Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi”
Bằng biện pháp điệp ngữ, bài thơ thể hiện ý chí của chủ thể trữ tình cái “tôi” muốn tắt nắng để đừng mất màu đẹp rực rỡ, buộc gió không cho hương bay đi, để được hưởng thụ nó, thưởng thức nó. Ý nguyện của thi sĩ là muốn tác động vào vũ trụ để giữ nguyên vẻ đẹp của thiên nhiên, vẻ đẹp thực của nó trong hiện tại, vẻ đẹp chóng mất, chóng phai tàn. Đó là một ý nguyện chủ quan của thi sĩ. Điều đó dường như vô lí “xa rời cuộc sống”, “thoát li hiện thực” nhưng nó lại có lí trong tâm hồn thi sĩ yêu đời, trân trọng và nâng niu cuộc sống.
Tình yêu thiên nhiên – một tình cảm muôn đời của người nghệ sĩ nhưng sự cảm nhận của Xuân Diệu – thi sĩ “mới nhất trong các nhà thơ mới” (Hoài Thanh) thật lạ. Dường như mọi giác quan của thi sĩ đều run lên đón nhận mọi âm thanh, mọi sắc màu, đón nhận cái hữu tình và cả cái vô tình vấn vương của tạo hóa. Từ ý nguyện dẫn đến hành động; ý nguyện giữ mãi cuộc sống, để hưởng thụ cuộc sống. Điều đó thể hiện nhiệt tình sống của tác giả khi chợt đến mùa xuân.
Rồi đây nữa, hình ảnh của sự sống muôn màu sắc, thật tốt tươi, thật ngon lành đang dạt dào ùa vào tâm hồn thi sĩ:
“Của ong bướm này đây tuần tháng mật
Này đây hoa của đồng nội xanh rì
Này đây lá của cành tơ phơ phất
Của yến anh này đây khúc tình si
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi”.
Điệp ngữ “này đây” liệt kê một loạt những hình ảnh đẹp miêu tả xuân: hoa của đồng nội xanh rì; lá của cành tơ phơ phất; của yến oanh khúc hát tình ca say mê cuồng nhiệt trong tình yêu; ánh sáng chớp hàng mi.
Những hình ảnh thơ thật chân thật, tươi nguyên và tràn trề nhựa sống. Nhà thơ lãng mạn đón nhận sự sống thanh xuân bằng – cặp mắt “xanh non”, cặp mắt, “biếc rờn” ngơ ngát và đầy vui sướng. Nhà thơ đã phát hiện ra biết bao vẻ đáng yêu, đáng say đắm của thế giới thiên nhiên và con người trần thế rất đỗi bình dị và gần gũi này. Phát hiện ra nó, đón nhận nó và cao hơn nữa là sự níu giữ sự sống bằng cả tấm lòng, bằng cả ý muốn chủ quan của mình. Điều đó giải thích tại. sao “tôi muốn”, lí giải ý nguyện của mình vì: Mùa xuân đẹp lắm.
Sự sống mùa xuân quanh ta thật hấp dẫn, thật say lòng người khiến tâm hồn thi sĩ như cất lên tiếng reo vui:
“Mỗi buổi sớm thần Vui hàng gõ cửa”
Vẻ đẹp mùa xuân – một vẻ đẹp say đắm, xanh non, tươi trẻ, vẻ đẹp thực của trần thế rất bình dị và gần gũi, nó không phải là vẻ đẹp ở chốn tiên thơ mộng, huyền ảo và hấp dẫn mà Thế Lữ đã tìm ra:
“Trời cao – xanh ngắt – Ô kìa
Hai con hạc trắng bay về Bồng Lai
Theo chim, tiếng sáo lên khơi
Lại theo dòng suối bên người tiên nga”
(tiếng sáo thiên thai – Thế Lữ)
Vẻ đẹp mà Xuân Diệu cảm thấy là vẻ đẹp của thiên nhiên quanh ta nhưng nó đẹp – một vẻ đẹp tươi trẻ, say đắm, nó hợp với con người nơi trần thế và trong vẻ đẹp tươi trẻ của mùa xuân ấy, cảm xúc của nhà thơ thật vui, rộn ràng và say đắm.
Niềm say mê ấy thật cuồng nhiệt và mãnh liệt biết bao khi thi sĩ thốt lên: “Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”.
Hình ảnh thơ độc đáo, hình ảnh so sánh rất Xuân Diệu. Nhà thơ đã so sánh khái niệm thời gian “tháng giêng” – một hình ảnh vô hình với một hình ảnh cụ thể “cặp môi” và truyền cho người đọc một cảm giác thật cụ thể “ngon”, “gần”.
Sau cái phút giây bồng bột cảm hứng ấy, nhà thơ chợt tỉnh lại được và tự ý thức được về thời gian:
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân”
Một trạng thái đối lập mở ra một trạng thái tâm hồn mới: mùa xuân đẹp hấp dẫn làm cho thi sĩ “sung sướng” nhưng rồi có cái gì đó khiến cho thi sĩ phải “vội vàng”, phải hưởng thụ mùa xuân ngay lúc mùa xuân đến, phải hưởng thụ ngay cái vẻ say đắm của nó trong hiện tại, phải tận hưởng mùa xuân khi nó còn tươi non, hấp dẫn và phải hưởng ngay khi nó còn “mới bắt đầu” để sau này khi mùa xuân đã qua, mùa hạ đến không phải nuối tiếc, ân hận.
Nhà thơ bộc lộ niềm say mê, vui sướng bất chợt khi mùa xuân vừa đến nhưng rồi nhà thơ chợt tỉnh lại được, ý thức được về thời gian mà từ đó hưởng thụ mùa xuân ngay trong thực tại.
Đoạn thơ làm nổi bật phong cách thơ Xuân Diệu: dùng diệp ngữ, sử dụng biện pháp thậm xưng, hình ảnh đẹp, độc đáo, táo bạo. Thơ xưa nào đã mấy ai dám bộc lộ tiếng nói cương quyết và dứt khoát như sự lên tiếng của Xuân Diệu? Và đã mấy ai dám so sánh mùa xuân với hình ảnh cụ thể, rất thực “cặp môi gần” trong tình yêu lứa đôi, vật chất hóa khái niệm trừu tượng là thời gian ca ngợi vẻ hấp dẫn của mùa tháng giêng, mùa xụân. Không có tình yêu tha thiết, yêu cuộc sống đến mức cuồng nhiệt làm sao có được những vần thơ mê say và cháy bỏng ấy.
Ta hãy lật giở những trang thơ mùa xuân của các thi sĩ xưa và nay xem họ tìm thấy và cảm nhận được những gì ở mùa xuân:
“Cỏ non xanh tận chân trời,
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”
(Truyện Kiều – Nguyễn Du)
Một vẻ đẹp kiều diễm. Còn đây hình ảnh rất gần gũi, bình dị nhưng gợi buồn:
“Mưa đổ bụi êm đềm trên bến vắng
Đò biếng lười nằm mặc nước sông trôi
Quán tranh đứng im lìm trong vắng lặng
Bên chòm xoan hoa tím rụng tơi bời”
(Chiều Xuân – Anh Thơ)
Còn xuân ở đây rất đẹp, tràn trề sức sống, rạo rực niềm vui:
“Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
Ôi! Con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời
Tôi đưa tay, tôi hứng”
(Mùa xuân nho nhỏ – Thanh Hải)
“Nhà thơ thực sự đón nhận mùa xuân với tất cả tài hoa của ngòi bút, sự thăng hoa của tâm hồn… Nghe bằng tai chưa đã, anh nghe cả bằng trái tim xáo động, bằng trí tưởng tượng, liên tưởng độc đáo” (Vũ Dương Quỹ).
“Tự bén hơi xuân tốt lại thêm
Đây buồng lạ, mầu thâu đêm
Tình như một bức phong còn kín
Gió nơi đâu gượng mở xem”
(Cây chuối)
Một sự giao cảm của thiên nhiên, một hình ảnh rất thực, đẹp đẽ và thanh tú nhưng cũng hết sức phong tình. Bài thơ làm ta liên tưởng một mối tình vừa chớm nở trong trắng, say đắm, kín đáo, e ấp. Điều đó càng làm chúng ta thấy rõ: xưa và nay các nhà thơ đã viết và viết nhiều về mùa xuân nhưng nó rất giản dị, rất đời thường và có chăng chỉ bộc lộ một cách kín đáo, tế nhị như Nguyễn Trãi đã viết trong bài thơ trên mà thôi. Và càng chứng minh cho chúng ta thấy sự táo bạo của Xuân Diệu.
Thi sĩ cảm nhận thiên nhiên, cuộc sống bằng con mắt tươi non và từ đó diễn tả niềm ham sống say mê, mãnh liệt, một khát vọng hưởng thụ vẻ đẹp có thực nơi trần thế.
Niềm khao khát giao cảm với đời đặt vào hoàn cảnh thanh niên sống nỗi sầu thế kỉ, nỗi buồn thời đại, những dòng thơ này có ý nghĩa giúp cho con người tình yêu cuộc sống và tận hưởng niềm hạnh phúc trần thế, giúp cho chúng ta – mỗi con người phải biết quý trọng tuổi thanh xuân của mình, tuổi thanh xuân không phải bao giờ trở lại để cho chúng ta sau này không phải ân hận, nuối tiếc. Đoạn thơ cũng thể hiện một quan niệm nhân sinh mới mẻ. Tuy Xuân Diệu không nói đến sự cống hiến nhưng chúng ta phải nhận thức được điều đó: yêu đời, yêu cuộc sống để có trách nhiệm với đời, để làm cho cuộc sống có ý nghĩa xứng đáng chứ không phải chỉ tận hưởng, hưởng thụ những gì tốt đẹp nhất của mùa xuân, của tuổi thanh xuân cho thỏa mãn,
Đoạn thơ càng làm cho chúng ta hiểu hơn về Xuân Diệu một tâm hồn yêu đời, yêu sống đến cuồng nhiệt và hiểu được cách nhìn, đón nhận một cảm xúc của ông khi mùa xuân đến. Đoạn thơ cũng giúp cho chúng ta càng yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống hơn. Trân trọng biết bao biết bao một tâm hồn – một nhà thơ của mùa xuân và tuổi trẻ, luôn luôn sôi nổi tình yêu, dạt dào tình đời đã, đang và sẽ mãi mãi sống trong lòng những người biết và yêu thơ ông
|
Bình giảng đoạn thơ trong bài “Vội vàng” của Xuân Diệu
Hướng dẫn
Bình giảng đoạn thơ trong bài “Vội vàng” của Xuân Diệu
“Tôi muốn tắt nắng đi
…
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân”
BÀI LÀM
Vội vàng là một trong những bài thơ tiêu biểu nhất của Xuân Diệu, được in trong tập Thơ Thơ, xuất bản lần đầu năm 1938. Vội vàng là tiếng nói của tâm hồn yêu đời, yêu sống đến cuồng nhiệt và quan niệm nhân sinh mới chưa từng thấy trong thơ ca truyền thống. Đoạn thơ đầu của bài thơ thể hiện cảm xúc: Với rộn ràng, say đắm của nhà thơ khi mùa xuân đến.
Mở đầu đoạn thơ là ý nguyện của thi sĩ – một tâm hồn yêu đời:
“Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi”
Bằng biện pháp điệp ngữ, bài thơ thể hiện ý chí của chủ thể trữ tình cái “tôi” muốn tắt nắng để đừng mất màu đẹp rực rỡ, buộc gió không cho hương bay đi, để được hưởng thụ nó, thưởng thức nó. Ý nguyện của thi sĩ là muốn tác động vào vũ trụ để giữ nguyên vẻ đẹp của thiên nhiên, vẻ đẹp thực của nó trong hiện tại, vẻ đẹp chóng mất, chóng phai tàn. Đó là một ý nguyện chủ quan của thi sĩ. Điều đó dường như vô lí “xa rời cuộc sống”, “thoát li hiện thực” nhưng nó lại có lí trong tâm hồn thi sĩ yêu đời, trân trọng và nâng niu cuộc sống.
Tình yêu thiên nhiên – một tình cảm muôn đời của người nghệ sĩ nhưng sự cảm nhận của Xuân Diệu – thi sĩ “mới nhất trong các nhà thơ mới” (Hoài Thanh) thật lạ. Dường như mọi giác quan của thi sĩ đều run lên đón nhận mọi âm thanh, mọi sắc màu, đón nhận cái hữu tình và cả cái vô tình vấn vương của tạo hóa. Từ ý nguyện dẫn đến hành động; ý nguyện giữ mãi cuộc sống, để hưởng thụ cuộc sống. Điều đó thể hiện nhiệt tình sống của tác giả khi chợt đến mùa xuân.
Rồi đây nữa, hình ảnh của sự sống muôn màu sắc, thật tốt tươi, thật ngon lành đang dạt dào ùa vào tâm hồn thi sĩ:
“Của ong bướm này đây tuần tháng mật
Này đây hoa của đồng nội xanh rì
Này đây lá của cành tơ phơ phất
Của yến anh này đây khúc tình si
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi”.
Điệp ngữ “này đây” liệt kê một loạt những hình ảnh đẹp miêu tả xuân: hoa của đồng nội xanh rì; lá của cành tơ phơ phất; của yến oanh khúc hát tình ca say mê cuồng nhiệt trong tình yêu; ánh sáng chớp hàng mi.
Những hình ảnh thơ thật chân thật, tươi nguyên và tràn trề nhựa sống. Nhà thơ lãng mạn đón nhận sự sống thanh xuân bằng – cặp mắt “xanh non”, cặp mắt, “biếc rờn” ngơ ngát và đầy vui sướng. Nhà thơ đã phát hiện ra biết bao vẻ đáng yêu, đáng say đắm của thế giới thiên nhiên và con người trần thế rất đỗi bình dị và gần gũi này. Phát hiện ra nó, đón nhận nó và cao hơn nữa là sự níu giữ sự sống bằng cả tấm lòng, bằng cả ý muốn chủ quan của mình. Điều đó giải thích tại. sao “tôi muốn”, lí giải ý nguyện của mình vì: Mùa xuân đẹp lắm.
Sự sống mùa xuân quanh ta thật hấp dẫn, thật say lòng người khiến tâm hồn thi sĩ như cất lên tiếng reo vui:
“Mỗi buổi sớm thần Vui hàng gõ cửa”
Vẻ đẹp mùa xuân – một vẻ đẹp say đắm, xanh non, tươi trẻ, vẻ đẹp thực của trần thế rất bình dị và gần gũi, nó không phải là vẻ đẹp ở chốn tiên thơ mộng, huyền ảo và hấp dẫn mà Thế Lữ đã tìm ra:
“Trời cao – xanh ngắt – Ô kìa
Hai con hạc trắng bay về Bồng Lai
Theo chim, tiếng sáo lên khơi
Lại theo dòng suối bên người tiên nga”
(tiếng sáo thiên thai – Thế Lữ)
Vẻ đẹp mà Xuân Diệu cảm thấy là vẻ đẹp của thiên nhiên quanh ta nhưng nó đẹp – một vẻ đẹp tươi trẻ, say đắm, nó hợp với con người nơi trần thế và trong vẻ đẹp tươi trẻ của mùa xuân ấy, cảm xúc của nhà thơ thật vui, rộn ràng và say đắm.
Niềm say mê ấy thật cuồng nhiệt và mãnh liệt biết bao khi thi sĩ thốt lên: “Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”.
Hình ảnh thơ độc đáo, hình ảnh so sánh rất Xuân Diệu. Nhà thơ đã so sánh khái niệm thời gian “tháng giêng” – một hình ảnh vô hình với một hình ảnh cụ thể “cặp môi” và truyền cho người đọc một cảm giác thật cụ thể “ngon”, “gần”.
Sau cái phút giây bồng bột cảm hứng ấy, nhà thơ chợt tỉnh lại được và tự ý thức được về thời gian:
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân”
Một trạng thái đối lập mở ra một trạng thái tâm hồn mới: mùa xuân đẹp hấp dẫn làm cho thi sĩ “sung sướng” nhưng rồi có cái gì đó khiến cho thi sĩ phải “vội vàng”, phải hưởng thụ mùa xuân ngay lúc mùa xuân đến, phải hưởng thụ ngay cái vẻ say đắm của nó trong hiện tại, phải tận hưởng mùa xuân khi nó còn tươi non, hấp dẫn và phải hưởng ngay khi nó còn “mới bắt đầu” để sau này khi mùa xuân đã qua, mùa hạ đến không phải nuối tiếc, ân hận.
Nhà thơ bộc lộ niềm say mê, vui sướng bất chợt khi mùa xuân vừa đến nhưng rồi nhà thơ chợt tỉnh lại được, ý thức được về thời gian mà từ đó hưởng thụ mùa xuân ngay trong thực tại.
Đoạn thơ làm nổi bật phong cách thơ Xuân Diệu: dùng diệp ngữ, sử dụng biện pháp thậm xưng, hình ảnh đẹp, độc đáo, táo bạo. Thơ xưa nào đã mấy ai dám bộc lộ tiếng nói cương quyết và dứt khoát như sự lên tiếng của Xuân Diệu? Và đã mấy ai dám so sánh mùa xuân với hình ảnh cụ thể, rất thực “cặp môi gần” trong tình yêu lứa đôi, vật chất hóa khái niệm trừu tượng là thời gian ca ngợi vẻ hấp dẫn của mùa tháng giêng, mùa xụân. Không có tình yêu tha thiết, yêu cuộc sống đến mức cuồng nhiệt làm sao có được những vần thơ mê say và cháy bỏng ấy.
Ta hãy lật giở những trang thơ mùa xuân của các thi sĩ xưa và nay xem họ tìm thấy và cảm nhận được những gì ở mùa xuân:
“Cỏ non xanh tận chân trời,
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”
(Truyện Kiều – Nguyễn Du)
Một vẻ đẹp kiều diễm. Còn đây hình ảnh rất gần gũi, bình dị nhưng gợi buồn:
“Mưa đổ bụi êm đềm trên bến vắng
Đò biếng lười nằm mặc nước sông trôi
Quán tranh đứng im lìm trong vắng lặng
Bên chòm xoan hoa tím rụng tơi bời”
(Chiều Xuân – Anh Thơ)
Còn xuân ở đây rất đẹp, tràn trề sức sống, rạo rực niềm vui:
“Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
Ôi! Con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời
Tôi đưa tay, tôi hứng”
(Mùa xuân nho nhỏ – Thanh Hải)
“Nhà thơ thực sự đón nhận mùa xuân với tất cả tài hoa của ngòi bút, sự thăng hoa của tâm hồn… Nghe bằng tai chưa đã, anh nghe cả bằng trái tim xáo động, bằng trí tưởng tượng, liên tưởng độc đáo” (Vũ Dương Quỹ).
“Tự bén hơi xuân tốt lại thêm
Đây buồng lạ, mầu thâu đêm
Tình như một bức phong còn kín
Gió nơi đâu gượng mở xem”
(Cây chuối)
Một sự giao cảm của thiên nhiên, một hình ảnh rất thực, đẹp đẽ và thanh tú nhưng cũng hết sức phong tình. Bài thơ làm ta liên tưởng một mối tình vừa chớm nở trong trắng, say đắm, kín đáo, e ấp. Điều đó càng làm chúng ta thấy rõ: xưa và nay các nhà thơ đã viết và viết nhiều về mùa xuân nhưng nó rất giản dị, rất đời thường và có chăng chỉ bộc lộ một cách kín đáo, tế nhị như Nguyễn Trãi đã viết trong bài thơ trên mà thôi. Và càng chứng minh cho chúng ta thấy sự táo bạo của Xuân Diệu.
Thi sĩ cảm nhận thiên nhiên, cuộc sống bằng con mắt tươi non và từ đó diễn tả niềm ham sống say mê, mãnh liệt, một khát vọng hưởng thụ vẻ đẹp có thực nơi trần thế.
Niềm khao khát giao cảm với đời đặt vào hoàn cảnh thanh niên sống nỗi sầu thế kỉ, nỗi buồn thời đại, những dòng thơ này có ý nghĩa giúp cho con người tình yêu cuộc sống và tận hưởng niềm hạnh phúc trần thế, giúp cho chúng ta – mỗi con người phải biết quý trọng tuổi thanh xuân của mình, tuổi thanh xuân không phải bao giờ trở lại để cho chúng ta sau này không phải ân hận, nuối tiếc. Đoạn thơ cũng thể hiện một quan niệm nhân sinh mới mẻ. Tuy Xuân Diệu không nói đến sự cống hiến nhưng chúng ta phải nhận thức được điều đó: yêu đời, yêu cuộc sống để có trách nhiệm với đời, để làm cho cuộc sống có ý nghĩa xứng đáng chứ không phải chỉ tận hưởng, hưởng thụ những gì tốt đẹp nhất của mùa xuân, của tuổi thanh xuân cho thỏa mãn,
Đoạn thơ càng làm cho chúng ta hiểu hơn về Xuân Diệu một tâm hồn yêu đời, yêu sống đến cuồng nhiệt và hiểu được cách nhìn, đón nhận một cảm xúc của ông khi mùa xuân đến. Đoạn thơ cũng giúp cho chúng ta càng yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống hơn. Trân trọng biết bao biết bao một tâm hồn – một nhà thơ của mùa xuân và tuổi trẻ, luôn luôn sôi nổi tình yêu, dạt dào tình đời đã, đang và sẽ mãi mãi sống trong lòng những người biết và yêu thơ ông
|
Subsets and Splits
No community queries yet
The top public SQL queries from the community will appear here once available.