vi
stringlengths
846
10.5k
en
stringlengths
799
10.5k
Đề bài: Bình giảng đoạn thơ trong Tây Tiến của Quang Dũng Bài làm Chín năm kháng chiến chống Pháp với bao gian khổ, hi sinh, mất mát nhưng đã để lại một dâu son chói lọi trong lịch sử dân lộc. Chín năm kháng chiến kháng chiên ấy tạo ra nhiều giá trị bất hủ và cũng tạo ra nguồn cảm ứng lớn cho thi ca. Nhiều bài thơ ra đời ngay từ những ngày đầu kháng chiến và đi suôt hành trình đánh giặc, tạo nên sức mạnh cho người lính đi tới thắng lợi cuối cùng, trong những bài thơ đặc sắc đó là Tây Tiến của Quang Dũng. Bình giảng đoạn thơ trong Tây Tiến của Quang Dũng Bài thơ giàu chất hiện thực nhưng lại dạt dào cảm hứng lãng mạn. Hình ảnh người chiến sĩ hiện lên trong bài thơ vừa hào hùng vừa hào hoa như nhiều người đã nhận xét. Đoạn thơ sau dù chỉ là trích đoạn, cũng cho thấy rất rõ đặc sắc ấy của bài thơ: …..Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói Mai Châu mùa em thơm nếp xôi. …..Áo bào thay chiếu anh về đất Sông Mã gầm lên khúc độc hành. Bài thơ Tây Tiến có thể chia làm 4 đoạn. Trích đoạn trên bao gồm đoạn 2 và đoạn 3. Đó là những đoạn thơ tái hiện lại hình tượng những con người Tây Bắc trong gian khổ hy sinh vẫn hiên ngang và đẹp một cách hào hoa, thanh lịch. Từ "Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói" đến "trôi dòng nước lũ hoa đong đưa" là bức tranh tuyệt vời mỹ lệ về cảnh và người Tây Bắc. Đoạn sau, những câu còn lại, dựng chân dung người lính Tây Tiến với giọng thơ trầm hùng, bi tráng. Nếu chỉ đọc phần đầu của đoạn trích này ta như lạc vào một thế giới khác một thế giới bình yên, một xứ sở mà cảnh vật và con người đều đẹp đẽ, mộng mơ như một bức tranh thuốc nước tươi mát. Cái cảm giác no ấm, yên bình gợi lên trong ta trước hết do làn khói lam chiều và mùi hương nếp xôi nồng nàn quyến rũ. Mai Châu, cái địa danh ấy dù ta chưa một lần đặt chân tới, nhưng trở nên thân thiết biết bao nhờ câu "thơm nếp xôi” và nỗi nhớ không thể không cất lên thành lời của Quang Dũng: "nhớ ôi Tây Tiến…". Tiếp theo, người đọc lại như lạc vào một thế giới của ánh sáng, vũ điệu và âm thanh; một thế giới vừa vừa hư, đầy mộng và thơ. Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa Kìa em xiêm ảo tự bao giờ Khèn lên man điệu nàng e ấp Nhạc về Viên Chăn xây hồn thư Có một cái gì đó thật lãng mạn và say đắm trong tâm hồn Quang Dũng khi ông viết những dòng thơ này. Trong ánh lửa đuốc của đêm liên hoan, hình ảnh nàng e ấp trong áo xiêm lộng lẫy và tiếng khèn man điệu khiến nhà thơ thực sự say sưa và kinh ngạc. Hai tiếng kìa em bộc lộ tất cả cái gì ngỡ ngàng; ngỡ ngàng và vui sướng. Kìa em..câu thơ như một tiếng reo vui. Hồn thơ lãng mạn của Quang Dũng như được chắp cánh bởi vẻ đẹp của con người và cảnh vật nơi đây. Một vẻ đẹp vừa mới lạ vừa huyền ảo, xa xôi và có gì đó bí ẩn của một khung tinh nơi đất lạ, trời xa… Những chữ xiêm áo, man điệu, khèn, hồn thơ gợi lên rong la cầm giác ấy. Nếu như bốn câu thơ trên tràn ngập ánh sáng, âm thanh và vũ điệu thì bốn câu thơ tiếp theo lại giầu chất thơ và chất hoạ. Một chiếc thuyền độc mộc với dáng người mềm mại in trên nền "dòng nước lũ hoa đong đưa". Những bông lau bên bờ bỗng trở nên có hồn và gợi nhớ da diết. Tất cả đều thấp thoáng, mờ ảo xong chiều sương Châu Mộc. Người xưa nói "thi trung hừu hoạ". Bốn câu thơ của Quang Dũng quả là một bức tranh lụa với những nét vẽ tài hoa, tinh tế và mềm mại lạ thường: Người đi Mộc Châu chiều sương ấy Có thấy hồn lau nẻo bến bờ Có nhớ dáng người trên độc mộc Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa Trên cái nền diễm lệ, hào hoa, mềm mại và rất đổi nên thơ, nên nhạc cút núi rừng Tây Bắc, nhà thơ dựng lên tượng đài của người chiến sĩ Tây Tiến có vẻ đẹp thật là bi hùng, bi Iráng: Tâv Tiến đoàn binh không mọc tóc Quân xanh màu lá giữ oai hùm Nhà thơ không che giấu những gian khổ hy sinh của người lính Tây Tiến. Chỉ có điều những gian khổ khó khăn, những mất mát hy sinh ấy được thể hiện bằng một bút pháp lãng mạn. Qua cách nhìn của nhà thơ, cái bi bỗng trở nên cái Hùng, mang đến cho hình ảnh người lính Tây Tiến một vẻ đẹp riêng. Cái sự thực tàn khốc mà đoàn lính Tây Tiến phải chịu đựng: tóc trụi, da xanh ngắt mài lá rừng vì sốt rét, qua con mắt nhà thơ bỗng trở nên lẫm liệt "dữ oai hùm". Cả dáng vẻ ấy cộng với đôi "mắt trừng gửi mộng” tạo nên hình ảnh người lính Tây Tiến vừa phảng phất gương mặt những trang anh hùng hào kiệt ngày xưa như nét hận cừu nguyên sơ, phú bẩm của lớp trẻ trai "chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh" thời đánh Pháp, lại vừa như hằn vết tàn phá của thuỷ tận sơn cùng nơi rừng thiêng nước độc mà người chiến sĩ đã từng qua. (Nguyễn Đình Thi – Tây Tiến, đường lên heo hút, nỗi nhớ chơi vơi – Tiếng nói tri âm T2, NXB Trẻ 1996) I Cái đẹp hào hùng, bi tráng của người chiến sĩ Tây Tiến còn được nhà thơ lại bằng những dòng thơ thật trang trọng khi nói về những mất mát hy sinh: Rải rác biên cương mồ viễn xứ Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh áo bào thay chiếu anh về đất Sông Mã gầm lên khúc độc hành. Người lính Tây Tiến ngã xuống không một manh chiếu bọc thân, nhưng trong tâm hồn nhà thơ, các anh lại được bọc trong những chiếc áo bào chói lọi. Những nầm mồ người lính nằm rải rác biên cương, nơi rừng hoang biên cương bỗng trở thành những nấm mồ tôn nghiêm nhờ những từ Hán Việl cổ kính trang trọng: biên cương, viễn xứ… Đoạn thơ kết thúc bằng tiếng gầm dữ dội và đầy uất hận của dòng sông Mã. Đó cũng là khúc nhạc bi hùng của núi rừng Tây Bắc như nói lời vĩnh biệt tiễn đưa những người không hẹn ước từ mùa xuân năm ấy còn vọng mãi đến bây giờ. Cũng chính là tiếng lòng cùa những người lính Tây Tiến còn sống nguyện trả thù cho đồng đội mình. Tiếng “gầm” ấy đã tạo ra sức mạnh phi thường, vang trong tâm thức người lính thôi thúc họ chiến đấu đến ngày toàn thắng. Và còn mãi trong lịch sử dân tộc một binh đoàn Tây tiến anh hùng, còn mãi trong lòng người đọc người lính Tây tiến hào hoa mà anh dũng tuyệt vời.
Topic: Commentary on the poem in Tay Tien by Quang Dung Assignment Nine years of resistance against the French, with many hardships, sacrifices, and losses, left a brilliant mark in the history of the people. Those nine years of resistance created many immortal values ​​and also created great inspiration for poetry. Many poems were born right from the first days of the resistance war and throughout the journey of fighting the enemy, creating strength for the soldiers to reach the final victory. Among those unique poems is Quang Dung's Tay Tien. Commentary on the poem in Tay Tien by Quang Dung The poem is rich in realism but full of romantic inspiration. The image of the soldier appearing in the poem is both heroic and gallant as many people have commented. The following poem, even though it is only an excerpt, clearly shows that unique feature of the poem: …..Remember, oh Tay Tien, the rice is steaming In Mai Chau, this season is fragrant with sticky rice. …..The robe replaces his mat to return to earth Ma River roars its solo song. The poem Tay Tien can be divided into four sections. The above excerpt includes paragraphs 2 and 3. These are verses that recreate the image of Northwest people who, despite their hardships and sacrifices, are still proud and beautiful in a pompous and elegant way. From "Remembering the smoky rice in the West" to "drifting in a flood of swaying flowers" is a wonderful and beautiful picture of the landscape and people of the Northwest. The following paragraph, the remaining sentences, create a portrait of the Tay Tien soldier with a heroic and tragic poetic voice. If we just read the first part of this excerpt, we will feel like we are lost in another world, a peaceful world, a country where the landscape and people are beautiful and dreamy like a fresh medicinal painting. The feeling of fullness and peace is evoked in us first of all by the afternoon blue smoke and the seductive scent of sticky rice. Mai Chau, that place even though we have never set foot there, has become so familiar thanks to the phrase "fragrant sticky rice" and Quang Dung's nostalgia cannot help but be expressed in words: "Remember, oh Tay Tien... Next, the reader seems lost in a world of light, dance and sound; a world that is both fictional, full of dreams and poetry. The barracks lit up with a festival of torches and flowers Behold, I've been so crazy ever since He sang her shy melody Music returned to Vientiane to build a soul book There was something truly romantic and passionate in Quang Dung's soul when he wrote these lines of poetry. In the torchlight of the festival night, the image of her shyly dressed in a splendid Siamese dress and the melodious sound of the trumpet made the poet truly intoxicated and amazed. Those two hours revealed all my surprises; surprised and happy. Behold you...the verse is like a cry of joy. Quang Dung's romantic poetic soul seems to be fueled by the beauty of the people and landscape here. A beauty that is both new and fanciful, remote and somewhat mysterious of a star frame in a strange land, far away sky... The words siamao, man tune, khe, poetic soul evoke that rong la cam sense. If the above four verses are filled with light, sound and dance, the next four verses are rich in poetry and painting. A dugout boat with a soft figure printed on a background of "swinging floodwaters of flowers". The reeds on the shore suddenly become soulful and deeply reminiscent. Everything is looming and hazy in the foggy afternoon of Chau Moc. The ancients said "the middle of the competition brings disaster". Quang Dung's four verses are truly a silk painting with unusually talented, delicate and soft strokes: People go to Moc Chau that foggy afternoon I can see the soul wiping away the shore Do you remember the figure on the dugout? Flowing in a flood of swaying flowers On the beautiful, pompous, soft and very poetic background of the Northwestern mountains and forests, the poet erected a monument of the Tay Tien soldier whose beauty is truly tragic and heroic, tragic Iráng: Tien Tien's army does not grow hair The green army holds the majestic position The poet does not hide the hardships and sacrifices of Tay Tien soldiers. It's just that those hardships, losses and sacrifices are expressed in a romantic style. Through the poet's perspective, the tragic suddenly becomes heroic, giving the image of the Tay Tien soldier a unique beauty. The cruel reality that the Tay Tien soldiers had to endure: bald hair, green skin exposed to forest leaves due to malaria, through the poet's eyes suddenly became "fierce and majestic". That appearance combined with his "dreamy eyes" creates the image of a Tay Tien soldier, reflecting the faces of heroic heroes of the past, like the innate, innate hatred of young men on the battlefield. going without regret for the green life" during the invasion of the French, but also like the traces of destruction of the mountains and the sacred forests and poisonous waters that the soldiers had passed through. (Nguyen Dinh Thi - Tay Tien, the arduous road up, nostalgia playing with – The voice of compassion T2, Tre Publishing House 1996) I The heroic and tragic beauty of the Tay Tien soldiers is also captured by the poet in solemn poetic lines when talking about the losses and sacrifices: Scattered across the border and graves far away from the battlefield, he did not regret his life, his green robes changed his mat, and he returned to the land of the Ma River, roaring its solo journey. The Tay Tien soldiers fell without a mat to cover themselves, but in the poet's soul, they were wrapped in brilliant robes. Soldiers' graves scattered across the border, in the wild frontier forests, suddenly became dignified graves thanks to the solemn ancient Chinese words: frontier, far away land... The poem ends with a fierce roar and full of resentment of the Ma River. It is also a tragic and heroic song of the Northwest mountains and forests, as if saying goodbye to those who did not make a promise from that spring that still lingers until now. It is also the voice of the surviving Tay Tien soldiers who vow to avenge their comrades. That "roar" created extraordinary power, echoing in the soldiers' minds, urging them to fight until the day of victory. And forever in the nation's history a heroic army of Westerners will remain forever in the hearts of readers, the proud and wonderfully heroic soldiers of Westerners.
Bình giảng đoạn thơ “Ôi những cánh đồng quê chảy máu..mắt người yêu” trong bài Đất nước của Nguyễn Đình Thi- Văn lớp 12 Hướng dẫn Bình giảng đoạn thơ “Ôi những cánh đồng quê chảy máu..mắt người yêu” trong bài Đất nước của Nguyễn Đình Thi- Văn lớp 12 Bài làm Đất nước là một nguồn cảm hứng sáng tác bất tận đối với các nhà thơ nhà văn. Bài thơ Đất nước của Nguyễn Đinh Thi được tác giả sáng tác trong nhiều năm trải dài theo chiều dài của đất nước, và theo diễn biến của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp sau năm 1945-1955 Tác phẩm này chính là những thực tế dung động, tình cảm chân thực tinh tế của nhà thơ khi nhìn thấy quê hương, đất nước của mình trải qua nhiều gian lao, trong cuộc kháng chiến ác liệt của lịch sử. Trong suốt bài thơ cảm hứng tự hào xen lẫn xót xa về quê hương đất nước chúng ta trong cuộc chiến chống thực dân Pháp chính là nguồn cảm hứng bất diệt của tác phẩm. Tác giả đã phác họa lại hình ảnh, con người và đất nước của chúng ta những người nông dân áo vải nhưng vô cùng anh dũng, kiên cường trong chiến đấu. Nhờ sự kiên cường, anh dũng của họ mà đất nước của chúng ta mới có ngày độc lập, tự do như hôm nay. “Ôi những cánh đồng quê chảy máu Dây thép gai đâm nát trời chiều Những đêm dài hành quân nung nấu Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu” Trong khổ thơ này Nguyễn Đình Thi đã vẽ lên một bức tranh quê hương với những nét căm hơn về sự tàn bạo độc ác của thực dân Pháp khi chúng gây ra những cuộc chiến tranh phi nghĩa, chà đạp lên quyền làm người của dân tộc ta. Những tội ác mà giặc Pháp đã gây ra không có lời lẽ nào diễn tả được, sự căm hận của đồng bào ta cũng dâng cao ngút ngàn. Trong từng câu thơ thể hiện sự căm hận, phẫn uất của tác giả Nguyễn Đình Thi với những tội ác của giặc. Bọn chúng âm mưu chia cắt người dân với lực lượng vũ trang cách mạng, không cho những chiến sĩ của ta tiếp cận nhận sự ủng hộ giúp đỡ của người dân. Nên đã thực hiện lập khu bình định, xây dựng những căn cứ,đồn bốt gần khu người dân ở, ngăn bằng những bức tường dây thép gai. Những bức tường thép gai đó nhưng đâm thủng bầu trời trong xanh yên lành của một vùng quê vốn yên ả, thơ mộng: “Ôi những cánh đồng quê chảy máu Dây thép gai đâm nát trời chiều Những đêm dài hành quân nung nấu Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu” Trong hai câu cuối của khổ thơ tâm trạng của những người chiến sĩ lại hoàn toàn ngược lại với cảm xúc căm hận phẫn uất ban đầu, mà thay đổi bằng tâm trái tim rung động của tuổi trẻ. Trong những đêm dài hành quân, trong khối óc các anh nung nấu một ý chí quyết tâm tiêu diệt kẻ thù khát khao thống nhất đất nước. Nhưng trong trái tim lại bâng khuâng những tình cảm rung động đầu đời khi nhớ tới người con gái mình thầm thương trộm nhớ nơi quê nhà. Nhớ đôi mắt của người trước khi tiễn các anh lên đường nhập ngũ. Đôi mắt của người yêu thể hiện ngàn lời muốn nói, những tình cảm nhung nhớ, lo lắng, những xúc cảm của một trái tim đang yêu mãnh liệt. Chính đôi mắt ấy đã khiến cho bàn chân các anh thêm vững vàng tiến lên phía trước. Tình yêu cá nhân cùng với tình yêu tổ quốc như hòa vào nhau tan chảy thành một tình yêu lớn. Bởi trong tổ quốc có những người yêu, người thương của các chiến sĩ, có mái nhà, kỷ niệm tuổi thơ thân thương. Chính vì vậy, chiến đấu bảo vệ tổ quốc bảo vệ mảnh đất quê hương của mình cũng chính là chiến đấu bảo vệ người yêu, bảo vệ người thân nơi quê nhà. Tình yêu đó khiến cho các anh thêm vững vàng tiến lên. Tác phẩm Đất nước của Nguyễn Đình Thi là một bài thơ hay thể hiện tình cảm yêu nước tha thiết, nồng nàn của tác giả. Hình ảnh các anh bộ đội cụ hồ được tái hiện một cách chân thực, anh dũng, bị tráng. Tác giả đã vẽ lên một bức tranh quê hương nhuốm màu tang thương bởi dòng máu đỏ, thể hiện sự căm hận của những tâm hồn yêu nước.
Commentary on the poem "Oh the bleeding countryside...your lover's eyes" in the poem Country by Nguyen Dinh Thi - Grade 12 Literature Instruct Commentary on the poem "Oh the bleeding countryside...your lover's eyes" in the poem Country by Nguyen Dinh Thi - Grade 12 Literature Assignment The country is an endless source of inspiration for poets and writers. Nguyen Dinh Thi's poem Country was composed by the author over many years, spanning the length of the country, and following the developments of the resistance war against the French colonialists after 1945-1955. This work is the poet's moving realities and subtle true feelings when he sees his homeland and country going through many hardships, in the fierce resistance of history. Throughout the poem, the feeling of pride mixed with sadness about our homeland during the war against the French colonialists is the eternal inspiration of the work. The author has sketched the image of our people and country as cotton-clad farmers who are extremely heroic and resilient in battle. Thanks to their resilience and heroism, our country has the day of independence and freedom we have today. “Oh the bleeding countryside Barbed wire punctured the afternoon sky Long nights of marching and burning "Suddenly restless, I miss my lover's eyes" In this poem, Nguyen Dinh Thi painted a picture of his homeland with more hateful features about the cruel brutality of the French colonialists when they caused unjust wars and trampled on the human rights of the nation. ta. The crimes that the French enemy committed cannot be described in words, and the hatred of our compatriots also rose to the sky. In each verse, author Nguyen Dinh Thi's hatred and resentment towards the enemy's crimes is expressed. They plot to separate the people from the revolutionary armed forces, not allowing our soldiers to access and receive support and help from the people. Therefore, a pacification zone was established, bases and posts were built near residential areas, separated by barbed wire walls. Those barbed wire walls pierce the peaceful blue sky of an inherently peaceful and poetic countryside: “Oh the bleeding countryside Barbed wire punctured the afternoon sky Long nights of marching and burning "Suddenly restless, I miss my lover's eyes" In the last two lines of the stanza, the soldiers' mood is completely opposite to the initial feelings of hatred and resentment, but is changed by the fluttering heart of youth. During the long nights of marching, in their minds there was a burning determination to destroy the enemy and their desire to unify the country. But in my heart I was filled with the first fluttering feelings of my life when I remembered the girl I secretly loved back home. Remember your eyes before sending your brothers off to join the army. The lover's eyes express thousands of words, feelings of longing, worry, and emotions of a heart in intense love. It was those eyes that made their feet move forward more firmly. Personal love and national love seem to melt together into one great love. Because in the country there are lovers and soldiers' loved ones, a home, and fond childhood memories. Therefore, fighting to protect one's homeland and protecting one's homeland is also fighting to protect one's lover and one's loved ones back home. That love makes you more steadfast in moving forward. Nguyen Dinh Thi's work Country is a good poem expressing the author's earnest and passionate patriotic feelings. The images of old soldiers are recreated realistically, heroically, and bravely. The author painted a picture of his homeland tinged with sadness and red blood, expressing the hatred of patriotic souls.
Đề bài: Bình giảng đoạn văn trong truyện ngắn Rừng xà nu: "Làng ở trong tầm đại bác…. tới chân trời" Bài làm Mở đầu tác phẩm Rừng xà nu, Nguyễn Trung Thành viết: “Làng… gà gáy”. Đó là cách giới thiệu "ngược”, ông đã đem sự việc giới thiệu trước khi giới thiệu cái làng ấy tên gì, ở đâu bằng giọng văn bình thản nhưng không kém phần gần gũi, thân thiết. Bình thản bởi sự việc giặc bắn đại bác đã thành lệ mỗi ngày hai bận như cơm ăn, nước uống của người dân Xô man. Gần gũi, thân thiết bởi mỗi người đều tìm thấy nét chung, nét đồng cảm trong những năm khốc liệt ta bắt gặp những làng trong “tầm đại bác” và bắn thành thông lệ như ở Xô man không ít trên đất nước Việt Nam này. Bình giảng truyện ngắn Rừng xà nu Chung nhưng không lẫn, làng Xô man vẫn mang những nét rất riêng. Kiêu hãnh và gan góc với “ngọn đồi xà nu cạnh con nước lớn" đã tạo ra sự khác biệt ấy. Có lẽ chính vì tính chất “riêng”, “mới lạ”, “đặc sắc”, có tính đại điện, phổ quát cao cho các dân tộc Tây Nguyên nên Rừng xà nu được Nguyễn Trung Thành miêu tả thật sinh động, gan góc như một sinh thể có hồn. Tính chất tàn phá mãnh liệt của chiến tranh in đậm trên mỗi thân cây “ cả rừng xà nu hàng vạn cây, không có cây nào không bị thương. Có cây bị chặt đứng ngang nửa thân mình đổ ào ào như một trận bão, ở chỗ vết thương, nhựa ứa ra tràn trề, thơm ngào ngạt, long lanh nắng hè gay gắt, rồi dần dần bầm đen và đặc quyện thành từng cục máu lớn". Chỉ cần ba câu văn thôi nhưng ta có thể thấy trước mắt mình của một rừng xà nu sau mỗi lần “chúng nó bắn”. Nhưng nét đẹp và sự gợi cảm của mỗi câu văn không chỉ là nói lên một hình tượng tàn khốc mang tính tàn phá huỷ diệt như thế. “Một tác phẩm sẽ chết nếu nó miêu tả chỉ để miêu tả, nếu nó không phải là sự thôi thúc mạnh mẽ mang tính chủ quan của tinh thần thời đại” (M. Gorki), “của niềm vui và nổi đau khổ, của nụ cười trong sáng hay giọt nước mắt cay đắng” (Rãnu Gamzatop). Những thương của cây xà nu không chỉ là sự phản quang tội ác của giặc, không chỉ mất mát hoàn toàn. Nguyễn Trung Thành đã miêu tả cây xà nu không chỉ là loại cây thông thường mà dưới góc độ khác, góc độ như một con người, con người Tây Nguyên gan góc, dũng mãnh, đầy quả cảm. Cây xà nu hiên ngang từ dáng đứng thẳng tắp dám hứng “hầu hết đạn đại bác”, đến phẩm chất “thơm ngào ngạt, long lanh nắng hè gay gắt”. Tác giả không miêu tả một cây, ông miêu tả cả một rừng cây. Phải chăng một chi tiết nhỏ đó thôi cũng bao hàm một lời hứa lớn. Đó là sự khái quát cao độ của hình tượng cây xà nu đông đảo, toàn diện và có phần chung chung nhưng lại không vô nghĩa, và đặc biệt không hề nhạt hoà, bé nhỏ. Nó cũng như con người: bị thương và chết đi, nhựa của nó chảy ra “dần dần bầm lại, đen và đặc quyện thành cục máu lớn”. Đây không phải là một phép so sánh giản đơn mà giường như trong tiềm thức của người nghệ sĩ, cây xà nu gần gũi thân yêu thật sự không phải là vật vô tri vô giác, ông đó là một sinh thể, là một con người. Lẽ dĩ nhiên trong văn chương có những điều “bất khả giải”, chỉ có thể cảm nhận bằng cảm giác, đôi khi rất khó tin, thậm chí không có sự “trùng khít giữa cái miêu tả và cái được miêu tả” nhưng cái tài của Nguyễn Trung Thành chính là ông đã tạo ra được “ảo tưởng giống như thiệt" (Focdine) của sự vật được phản ánh. Ông đã truyền sự rung cảm từ con tim chủ quan của người nghệ sĩ sang mỗi chúng ta là người tiếp nhân, khiến chúng ta không những yêu mà còn tin vào sức sống cũng như vẻ đẹp rất '"người” tiềm ẩn trong mỗi cây xà nu tưởng hết sức thông thuộc, bình dị. Sức sống mãnh liệt của cây xà nu chính nằm trong sự nối tiếp “cạnh một cây xà nu mới ngã gục đã có bốn năm cây con mọc lên, ngọn xanh rờn, hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời”. Đúng như Nguyễn Trung Thành nói: “Trong rừng ít có loài cây sinh sôi nảy nở khoẻ như vậy”, sức sống và sự kế tiếp của cây rừng xà nu không khỏi khiến ta cảm phục, dường như có chút gì đó rạo rực, bâng khuâng… ta chợt nhớ đến một câu thơ của Tố Hữu: Lớp cha lớp trước thân sau, Đã thành đồng chí chung câu quán hành. Có thể Nguyễn Trung Thành cũng đâu có viết về sự tiếp nối mạnh mẽ của cây rừng xà nu? Phải chăng đằng sau sức sống và sự “sinh sôi nảy nở khoẻ như vậy”, còn có một sức sống tiềm ẩn khác của con người Tây Nguyên, của dân làng Xô-man trong kháng chiến. Họ cũng dũng mãnh như cây xà nu với “hình nhọn mũi lên lao thẳng lên bầu ười”. Sức mạnh ngòi bút Nguyễn Trung Thành chính là ở ông đã nắm bắt nhuần nhuyễn đặc điểm đó, miêu tả tài hoa và tinh tế sự hoà hợp giữa con người và thiên nhiên Tây Nguyên, khiến ta thấy thấp thoáng ẩn hiện sau mỗi cây xà nu là sự gan góc, sức sống mạnh mẽ và nụ cười cởi mở của dân làng Xô-man. Sự hoà nhập đó đã tạo nên sức gợi cũng như sống tiềm tàng của mỗi câu chữ mà Nguyễn Trung Thành sử dụng. Tuy nhiên cái khéo chính là ông đã miêu tả cây xà nu tuy trong góc độ như một con người nhưng lại không phải là con người, ông không biến một sinh vật thành một người đơn giản để cuối cùng mất đi bản sắc riêng của nó. Xà nu là loại “ham ánh sáng mặt trời”. “Nó phóng lên rất nhanh để tiếp lấy ánh sáng, ánh sáng trong rừng rọi từ trên cao xuống từng luồng lớn thẳng tắp, lóng lá vô số hạt bụi vàng từ nhựa cây bay ra, thơm mỡ màng. Có những cây con vừa lớn ngang tầm ngực người lại bị đại bác chặt đứt làm đôi. ở những cây đó, nhựa còn trong, chất dầu còn loãng, vết thương không lành được, cứ loét mãi ra, mươi hôm thì cây chết. Nhưng cũng có những cây vượt lên được cao hơn đầu người, cành lá sum suê như những con chim đã đủ lông mao, lông vũ. Đạn bác không giết nổi chúng, những vết thương của chúng chóng lành như trên thân thể cường tráng. Chúng vượt lên rất nhanh, thay thế những cây đã ngã.” Thật là quật cường và cũng thật kì diệu! Có lẽ bản thân những câu văn cũng đã nói lên sức sống cùng phẩm chất ham sống tuyệt vời của cây xà nu. Nhà văn không miêu tả phiến diện đến nổi khó tin là tất cả các loại cây dưới tầm đại bác đều còn sống và đều vươn lên với sức mạnh kì diệu. Nhưng có điều rất thật “nhà văn có quyền, nhưng không chỉ miêu tả cái xấu xa, ghê tởm, thấp hèn. Thanh nam châm thu hút mọi thế hệ vẫn là cái cao thượng, cái tốt đẹp, thuỷ chung” (Nguyễn Khải). Nguyễn Trung Thành có miêu tả cái chết của đó là quy luật không tránh khỏi của cuộc sống, đặc biệt là trong chiến tranh nhưng ngay cả khi nó chết, cái còn lại vẫn là chỗ nhựa thơm “long lanh nắng gay gắt”, và đặc biệt là vẫn những cây vượt lên, sinh sôi và phát triển. Hơn bao giờ hết ta hiểu cái giá của sự sống và sức mạnh của sự sống khi nó được châm ngòi, khi nó được “cháy lên để mà toả sáng” (Raxun Gamzatop), trở nên có ích trong cộng đồng của mình “ưỡn tấm ngực lớn của mình ra, che chở cho làng. Cây xà nu là như vậy, đẹp đẽ và kiêu hãnh biết bao. “Tấm ngực lớn” của nó không chỉ thể hiện sức tráng kiện, dũng mãnh đến gai góc của một loại cây ở thời kì ưưởng thành đang nhập nhoà trong sức mạnh cộng đồng như cả dân làng Xô-man mà còn thể hiện chút chân thực đến say lòng người, cùng niềm tin mãnh liệt vào sức mạnh của chính mình. Cái hay và đặc sắc của đoạn văn chính là ở chỗ nhà văn đã nhìn rừng xà nu như một sinh thể có hồn hoà nhập vào đời sống nhiệl thành của con người Tây Nguyên nói chung, của dân làng Xô-man nói riêng. Khép lại đoạn văn và cũng là toàn tác phẩm là một câu văn đầy sức gợi: “Đứng trên đồi xà nu trông ra xa, đến hết tầm ngắm cũng không thấy gì khác ngoài những đồi xà nu nối tiếp tới chân trời”. Không phải ngẫu nhiên nhà văn Nguyễn Trung Thành sử dụng câu văn này hai lần, ở trong đoạn này và đoạn cuối tác phẩm. Rừng xà nu dường như đã lớn lên đến sức sống căng tràn nhất, trải dài khắp nẻo đường. Ta như cám giác cánh tay rừng xà nu đang vươn dài ôm lấy làng Xô-man vào lồng ngực lớn của mình, yêu thương, che trở và bảo vệ. Sức mạnh của khu rừng, của làng Xô -man và của cả một chút gì bí ẩn, hoang sơ gợi sự khát khao, kiếm tìm với người biết yêu thương và lời đe doạ đối với kẻ thù xâm lược: “Chừng nào chúng ta còn tồn tại thì các ngươi đừng hòng xâm nhập vào đây phá tan cuộc sống yên bình nơi đây". Rừng xà nu là câu chuyện của cả đời được kể trong một đêm do đó những cảm xúc về cây xà nu chính là những rung cảm mãnh liệt nhất của người nghệ sĩ “được viết ra khi cảm xúc tràn đầy” (Tố Hữu). Theo lời tác giả kể, câu truyện viết ra chỉ trong hai liếng rưỡi nhưng lại được thai nghén hàng chục năm. Ta chợt hiểu sâu sắc đằng sau mỗi dòng chữ kia là tấm lòng yêu thương chất chứa, dồn nén của người nghệ sĩ. Có lẽ ông đã dồn rất nhiều tâm huyết để dựng lên hình tượng cây xà nu đẹp, đầy gợi cảm, mang sức chứa và khái quát cao độ. Nó xứng đáng là kết tinh của thiên nhiên và con người Tây Nguyên dũng mãnh, gan góc và quật cường. Thành công lớn ở đoạn văn chính là hình tượng cây xà nu đã diễn tả sâu sắc và tinh tế nội dung toàn tác phẩm cũng như điều mà nhà văn gửi gắm, ở mỗi cây xà nu ta nhìn thấy hình ảnh một người dân Xô man. Thấy cụ Mết, Tnú, Dít, Heng và lớp lớp dân làng kiêu hãnh, gan góc bất diệt như“ Rừng xà nu”
Đề bài: Bình giảng đoạn văn trong truyện ngắn Rừng xà nu: "Làng ở trong tầm đại bác…. tới chân trời" Bài làm Mở đầu tác phẩm Rừng xà nu, Nguyễn Trung Thành viết: “Làng… gà gáy”. Đó là cách giới thiệu "ngược”, ông đã đem sự việc giới thiệu trước khi giới thiệu cái làng ấy tên gì, ở đâu bằng giọng văn bình thản nhưng không kém phần gần gũi, thân thiết. Bình thản bởi sự việc giặc bắn đại bác đã thành lệ mỗi ngày hai bận như cơm ăn, nước uống của người dân Xô man. Gần gũi, thân thiết bởi mỗi người đều tìm thấy nét chung, nét đồng cảm trong những năm khốc liệt ta bắt gặp những làng trong “tầm đại bác” và bắn thành thông lệ như ở Xô man không ít trên đất nước Việt Nam này. Bình giảng truyện ngắn Rừng xà nu Chung nhưng không lẫn, làng Xô man vẫn mang những nét rất riêng. Kiêu hãnh và gan góc với “ngọn đồi xà nu cạnh con nước lớn" đã tạo ra sự khác biệt ấy. Có lẽ chính vì tính chất “riêng”, “mới lạ”, “đặc sắc”, có tính đại điện, phổ quát cao cho các dân tộc Tây Nguyên nên Rừng xà nu được Nguyễn Trung Thành miêu tả thật sinh động, gan góc như một sinh thể có hồn. Tính chất tàn phá mãnh liệt của chiến tranh in đậm trên mỗi thân cây “ cả rừng xà nu hàng vạn cây, không có cây nào không bị thương. Có cây bị chặt đứng ngang nửa thân mình đổ ào ào như một trận bão, ở chỗ vết thương, nhựa ứa ra tràn trề, thơm ngào ngạt, long lanh nắng hè gay gắt, rồi dần dần bầm đen và đặc quyện thành từng cục máu lớn". Chỉ cần ba câu văn thôi nhưng ta có thể thấy trước mắt mình của một rừng xà nu sau mỗi lần “chúng nó bắn”. Nhưng nét đẹp và sự gợi cảm của mỗi câu văn không chỉ là nói lên một hình tượng tàn khốc mang tính tàn phá huỷ diệt như thế. “Một tác phẩm sẽ chết nếu nó miêu tả chỉ để miêu tả, nếu nó không phải là sự thôi thúc mạnh mẽ mang tính chủ quan của tinh thần thời đại” (M. Gorki), “của niềm vui và nổi đau khổ, của nụ cười trong sáng hay giọt nước mắt cay đắng” (Rãnu Gamzatop). Những thương của cây xà nu không chỉ là sự phản quang tội ác của giặc, không chỉ mất mát hoàn toàn. Nguyễn Trung Thành đã miêu tả cây xà nu không chỉ là loại cây thông thường mà dưới góc độ khác, góc độ như một con người, con người Tây Nguyên gan góc, dũng mãnh, đầy quả cảm. Cây xà nu hiên ngang từ dáng đứng thẳng tắp dám hứng “hầu hết đạn đại bác”, đến phẩm chất “thơm ngào ngạt, long lanh nắng hè gay gắt”. Tác giả không miêu tả một cây, ông miêu tả cả một rừng cây. Phải chăng một chi tiết nhỏ đó thôi cũng bao hàm một lời hứa lớn. Đó là sự khái quát cao độ của hình tượng cây xà nu đông đảo, toàn diện và có phần chung chung nhưng lại không vô nghĩa, và đặc biệt không hề nhạt hoà, bé nhỏ. Nó cũng như con người: bị thương và chết đi, nhựa của nó chảy ra “dần dần bầm lại, đen và đặc quyện thành cục máu lớn”. Đây không phải là một phép so sánh giản đơn mà giường như trong tiềm thức của người nghệ sĩ, cây xà nu gần gũi thân yêu thật sự không phải là vật vô tri vô giác, ông đó là một sinh thể, là một con người. Lẽ dĩ nhiên trong văn chương có những điều “bất khả giải”, chỉ có thể cảm nhận bằng cảm giác, đôi khi rất khó tin, thậm chí không có sự “trùng khít giữa cái miêu tả và cái được miêu tả” nhưng cái tài của Nguyễn Trung Thành chính là ông đã tạo ra được “ảo tưởng giống như thiệt" (Focdine) của sự vật được phản ánh. Ông đã truyền sự rung cảm từ con tim chủ quan của người nghệ sĩ sang mỗi chúng ta là người tiếp nhân, khiến chúng ta không những yêu mà còn tin vào sức sống cũng như vẻ đẹp rất '"người” tiềm ẩn trong mỗi cây xà nu tưởng hết sức thông thuộc, bình dị. Sức sống mãnh liệt của cây xà nu chính nằm trong sự nối tiếp “cạnh một cây xà nu mới ngã gục đã có bốn năm cây con mọc lên, ngọn xanh rờn, hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời”. Đúng như Nguyễn Trung Thành nói: “Trong rừng ít có loài cây sinh sôi nảy nở khoẻ như vậy”, sức sống và sự kế tiếp của cây rừng xà nu không khỏi khiến ta cảm phục, dường như có chút gì đó rạo rực, bâng khuâng… ta chợt nhớ đến một câu thơ của Tố Hữu: Lớp cha lớp trước thân sau, Đã thành đồng chí chung câu quán hành. Có thể Nguyễn Trung Thành cũng đâu có viết về sự tiếp nối mạnh mẽ của cây rừng xà nu? Phải chăng đằng sau sức sống và sự “sinh sôi nảy nở khoẻ như vậy”, còn có một sức sống tiềm ẩn khác của con người Tây Nguyên, của dân làng Xô-man trong kháng chiến. Họ cũng dũng mãnh như cây xà nu với “hình nhọn mũi lên lao thẳng lên bầu ười”. Sức mạnh ngòi bút Nguyễn Trung Thành chính là ở ông đã nắm bắt nhuần nhuyễn đặc điểm đó, miêu tả tài hoa và tinh tế sự hoà hợp giữa con người và thiên nhiên Tây Nguyên, khiến ta thấy thấp thoáng ẩn hiện sau mỗi cây xà nu là sự gan góc, sức sống mạnh mẽ và nụ cười cởi mở của dân làng Xô-man. Sự hoà nhập đó đã tạo nên sức gợi cũng như sống tiềm tàng của mỗi câu chữ mà Nguyễn Trung Thành sử dụng. Tuy nhiên cái khéo chính là ông đã miêu tả cây xà nu tuy trong góc độ như một con người nhưng lại không phải là con người, ông không biến một sinh vật thành một người đơn giản để cuối cùng mất đi bản sắc riêng của nó. Xà nu là loại “ham ánh sáng mặt trời”. “Nó phóng lên rất nhanh để tiếp lấy ánh sáng, ánh sáng trong rừng rọi từ trên cao xuống từng luồng lớn thẳng tắp, lóng lá vô số hạt bụi vàng từ nhựa cây bay ra, thơm mỡ màng. Có những cây con vừa lớn ngang tầm ngực người lại bị đại bác chặt đứt làm đôi. ở những cây đó, nhựa còn trong, chất dầu còn loãng, vết thương không lành được, cứ loét mãi ra, mươi hôm thì cây chết. Nhưng cũng có những cây vượt lên được cao hơn đầu người, cành lá sum suê như những con chim đã đủ lông mao, lông vũ. Đạn bác không giết nổi chúng, những vết thương của chúng chóng lành như trên thân thể cường tráng. Chúng vượt lên rất nhanh, thay thế những cây đã ngã.” Thật là quật cường và cũng thật kì diệu! Có lẽ bản thân những câu văn cũng đã nói lên sức sống cùng phẩm chất ham sống tuyệt vời của cây xà nu. Nhà văn không miêu tả phiến diện đến nổi khó tin là tất cả các loại cây dưới tầm đại bác đều còn sống và đều vươn lên với sức mạnh kì diệu. Nhưng có điều rất thật “nhà văn có quyền, nhưng không chỉ miêu tả cái xấu xa, ghê tởm, thấp hèn. Thanh nam châm thu hút mọi thế hệ vẫn là cái cao thượng, cái tốt đẹp, thuỷ chung” (Nguyễn Khải). Nguyễn Trung Thành có miêu tả cái chết của đó là quy luật không tránh khỏi của cuộc sống, đặc biệt là trong chiến tranh nhưng ngay cả khi nó chết, cái còn lại vẫn là chỗ nhựa thơm “long lanh nắng gay gắt”, và đặc biệt là vẫn những cây vượt lên, sinh sôi và phát triển. Hơn bao giờ hết ta hiểu cái giá của sự sống và sức mạnh của sự sống khi nó được châm ngòi, khi nó được “cháy lên để mà toả sáng” (Raxun Gamzatop), trở nên có ích trong cộng đồng của mình “ưỡn tấm ngực lớn của mình ra, che chở cho làng. Cây xà nu là như vậy, đẹp đẽ và kiêu hãnh biết bao. “Tấm ngực lớn” của nó không chỉ thể hiện sức tráng kiện, dũng mãnh đến gai góc của một loại cây ở thời kì ưưởng thành đang nhập nhoà trong sức mạnh cộng đồng như cả dân làng Xô-man mà còn thể hiện chút chân thực đến say lòng người, cùng niềm tin mãnh liệt vào sức mạnh của chính mình. Cái hay và đặc sắc của đoạn văn chính là ở chỗ nhà văn đã nhìn rừng xà nu như một sinh thể có hồn hoà nhập vào đời sống nhiệl thành của con người Tây Nguyên nói chung, của dân làng Xô-man nói riêng. Khép lại đoạn văn và cũng là toàn tác phẩm là một câu văn đầy sức gợi: “Đứng trên đồi xà nu trông ra xa, đến hết tầm ngắm cũng không thấy gì khác ngoài những đồi xà nu nối tiếp tới chân trời”. Không phải ngẫu nhiên nhà văn Nguyễn Trung Thành sử dụng câu văn này hai lần, ở trong đoạn này và đoạn cuối tác phẩm. Rừng xà nu dường như đã lớn lên đến sức sống căng tràn nhất, trải dài khắp nẻo đường. Ta như cám giác cánh tay rừng xà nu đang vươn dài ôm lấy làng Xô-man vào lồng ngực lớn của mình, yêu thương, che trở và bảo vệ. Sức mạnh của khu rừng, của làng Xô -man và của cả một chút gì bí ẩn, hoang sơ gợi sự khát khao, kiếm tìm với người biết yêu thương và lời đe doạ đối với kẻ thù xâm lược: “Chừng nào chúng ta còn tồn tại thì các ngươi đừng hòng xâm nhập vào đây phá tan cuộc sống yên bình nơi đây". Rừng xà nu là câu chuyện của cả đời được kể trong một đêm do đó những cảm xúc về cây xà nu chính là những rung cảm mãnh liệt nhất của người nghệ sĩ “được viết ra khi cảm xúc tràn đầy” (Tố Hữu). Theo lời tác giả kể, câu truyện viết ra chỉ trong hai liếng rưỡi nhưng lại được thai nghén hàng chục năm. Ta chợt hiểu sâu sắc đằng sau mỗi dòng chữ kia là tấm lòng yêu thương chất chứa, dồn nén của người nghệ sĩ. Có lẽ ông đã dồn rất nhiều tâm huyết để dựng lên hình tượng cây xà nu đẹp, đầy gợi cảm, mang sức chứa và khái quát cao độ. Nó xứng đáng là kết tinh của thiên nhiên và con người Tây Nguyên dũng mãnh, gan góc và quật cường. Thành công lớn ở đoạn văn chính là hình tượng cây xà nu đã diễn tả sâu sắc và tinh tế nội dung toàn tác phẩm cũng như điều mà nhà văn gửi gắm, ở mỗi cây xà nu ta nhìn thấy hình ảnh một người dân Xô man. Thấy cụ Mết, Tnú, Dít, Heng và lớp lớp dân làng kiêu hãnh, gan góc bất diệt như“ Rừng xà nu”
Bình giảng đoạn đầu bài ‘Côn Sơn ca’ của Nguyễn Trãi Hướng dẫn ‘Côn Sơn suối chảy rì rầm, Dưới màu xanh mát ta ngâm thơ nhàn’ Về Nguyễn Trãi, chúng ta biết rằng: ông là người có công lớn trong việc phụ tá vua Lê Lợi cầm quân đánh thắng giặc Minh xâm lược thế kỉ XV. Nhưng khi hòa bình trở lại, đất nước đi vào công cuộc xây dựng và phát triển thì ông bị ghen ghét, nghi ngờ bởi những kẻ xấu xa. Đang làm quan, Nguyễn Trãi phải cáo quan về ờ ẩn. Sau đó, ông lại bị chết thảm thương trong vụ án Lệ Chi Viên năm 1442. Với công lao to lớn và tài năng toàn diện, Nguyễn Trãi đã được nhân dân ta tôn vinh là anh hùng dân tộc và thế giới đã tặng ông danh hiệu Danh nhân văn hóa. Bài thơ ‘Côn Sơn ca’ có thể được ra đời khi Nguyễn Trãi cáo quan về nghỉ tại Côn Sơn. Với Nguyễn Trãi, Côn Sơn là vùng đất gắn bó bằng nhiều kỉ niệm từ thuở ấu thơ đến lúc tuổi già. Nơi đây có núi non hùng vĩ, cây cối tốt tươi, sơn thủy hữu tình. Đây là đất được phong của quan tư đồ Trần Nguyên Đán, ông ngoại Nguyễn Trãi. Cha Nguyễn Trãi từng đến dạy học nơi đây, rồi kết duyên với tiểu thư con gái quan Tư đồ. Bản thân Nguyễn Trãi cũng đã nhiều năm tuổi trẻ sống ờ đây. Khi cáo quan, Nguyễn Trãi về Côn Sơn như về với nơi chôn nhau, cắt rốn, về với bạn bè tri ki tri âm. Mỗi hòn đá, gốc cây, ngọn suối, đất nước và mây trời Côn Sơn gắn bó với người anh hùng, vị danh nhân văn hóa bàng tình cảm máu thịt. Vì thế, bài ‘Côn Sơn ca’ là tiếng nói cất lên từ trái tim sâu nặng, da diết của Nguyễn Trãi. Sống giữa Côn Sơn, Nguyễn Trãi đã nhìn ngắm, suy ngẫm và làm những việc gì? Đoạn thơ chia làm hai đoạn nhỏ thể hiện hai khía cạnh nội dung. Tã hãy đọc bốn dòng thơ đầu: ‘Côn Sơn suối chảy rì rầm, Ta nghe như tiếng đàn cầm bên tai. Côn Sơn cố đá rêu phơi, Ta ngồi trên đá như ngồi chiếu êm’ Nghe tiếng suối rì rầm, nhà thơ mường tượng ra tiếng đàn khi trầm, khi bổng, réo rắt bên tai. Nhìn thấy mặt đá phẳng có rêu phơi, nhà thơ ngồi trên đá mà ngỡ như đang ‘ngồi chiếu êm’. Trí tưởng tượng và nghệ thuật so sánh của Nguyễn Trãi thật lãng mạn, thật tài hoà. Tạo vật thiên nhiên bỗng hóa thành những vật dụng của con người, gần gũi, thân thương với con người. Đôi tai nhạy cảm của thi sĩ đã thổi hồn vào tiếng suối, khiến cho nó vốn đơn điệu trở thành cây đàn đa thanh, cuốn hút. Xúc giác tinh tế của nhà thơ đã hóa thân cho mặt đá vốn khô rắn thành mặt chiếu dịu êm. Những biến đổi ấy kì diệu làm sao! Nguyễn Trãi đã thưởng thức những nét đẹp ấy ở Côn Sơn một cách say mê, hào hứng. ‘Trong ghểnh thông mọc như nêm, Tìm nơi bóng mát ta lên ta nằm. Trong rừng có bóng trúc râm, Dưới màu xanh mát ta ngâm thơ nhàn’ Câu năm và câu sáu tiếp tục nghệ thuật so sánh tài hoa và một cử chỉ thanh thản tuyệt vời. Đọc thơ, ta ngỡ Nguyễn Trãi đang nằm giữa một rừng thông xanh ngắt, mát rợp, thả hồn trong sắc màu của cỏ cây, đắm chìm trong bóng râm, gió thoảng, ngủ một giấc ngon lành, để quên hết sự đời, rũ bỏ mọi vướng bận, để hóa thân vào hư vô, vũ trụ. Nhưng đến hai câu cuối thì bất ngờ thay, Nguyễn Trãi không ngủ, trái lại ông đã cất tiếng ngâm thơ, những bài ‘thơ nhàn’. Nếu có điều kiện đọc tiếp những dòng thơ sau đoạn này, ta sẽ thấy những bài ‘thơ nhàn’ của Nguyễn Trãi không phải nói về thú vui nhàn tản vô vị như nhiều nhà nho bế tắc thời trung đại mà là những suy nghĩ, những quan niệm sâu sắc mang tính triết lí thời đại, triết lí nhân sinh tiến bộ. Tóm lại, đoạn thơ tám dòng của ‘Bài ca Côn Sơn’cho ta thấy một sự giao hòa tuyệt đối giữa Nguyễn Trãi với cảnh vật Côn Sơn. Sự giao hòa đó vừa nói lên nhân cách thanh cao, vừa nói lên phẩm chất thi sĩ lớn lao của Nguyễn Trãi và tất cả là dựa trên một triết lí sâu xa: con người và thiên nhiên là một, muốn sống thanh thản, con người hãy đến với thiên nhiên, tìm ở thiên nhiên những vẻ đẹp, những biến dổi kì diệu để có cách ứng xử đúng nhất…’.
Commentary on the first paragraph of the poem 'Con Son Ca' by Nguyen Trai Instruct 'Con Son stream murmurs, Under the cool green, I recite leisurely poetry. About Nguyen Trai, we know that: he was a person who had great merit in assisting King Le Loi in leading troops to defeat the Ming invaders in the 15th century. But when peace returned and the country went into construction and development, he was hated and suspected by evil people. While working as a mandarin, Nguyen Trai had to report to the mandarin and go into hiding. After that, he died tragically in the Le Chi Vien case in 1442. With his great merits and comprehensive talent, Nguyen Trai was honored by our people as a national hero and the world gave him the title title of Cultural Celebrity. The poem 'Con Son Ca' may have been born when Nguyen Trai told his mandarins to return to Con Son to rest. For Nguyen Trai, Con Son is a land associated with many memories from childhood to old age. This place has majestic mountains, lush trees, and charming landscapes. This is the land conferred by the mandarin Tran Nguyen Dan, grandfather Nguyen Trai. Father Nguyen Trai once came to teach here, then got married to the young lady of the Tu Do mandarin's daughter. Nguyen Trai himself has lived here for many years as a young man. When he resigned, Nguyen Trai returned to Con Son as if he were returning to the place where he was buried, his birthplace was cut, and he was returning to friends who knew each other and loved each other. Every rock, tree, stream, country and cloud in Con Son is attached to the hero, the cultural celebrity through flesh and blood affection. Therefore, the song 'Con Son Ca' is the voice that speaks from Nguyen Trai's deep, passionate heart. Living in Con Son, what did Nguyen Trai see, ponder and do? The poem is divided into two small paragraphs expressing two aspects of the content. Please read the first four lines of the poem: 'Con Son stream murmurs, I hear the sound of a harp in my ears. Con Son has dried moss rocks, I sit on the rock like sitting on a soft mat' Listening to the murmuring sound of the stream, the poet imagines the sound of the guitar, sometimes low, sometimes high, ringing in his ears. Seeing the flat rock surface with drying moss, the poet sat on the rock and thought he was 'sitting on a soft mat'. Nguyen Trai's imagination and comparative art are so romantic and talented. Natural creatures suddenly turned into human objects, close and dear to humans. The poet's sensitive ears breathed life into the sound of the stream, turning the originally monotonous sound into a multi-voiced, attractive instrument. The poet's delicate sense of touch transformed the originally dry and hard stone surface into a soft, shining surface. How wonderful those changes are! Nguyen Trai enjoyed those beauties in Con Son passionately and excitedly. 'In the creek, pine trees grow like wedges, Find a shady place to go up and lie down. In the forest there is shade of bamboo, Under the cool green, I recite leisurely poetry. Verses five and six continue the art of brilliant comparison and a wonderfully serene gesture. Reading the poem, we think that Nguyen Trai is lying in the middle of a cool, green pine forest, losing his soul in the colors of the grass and trees, immersing himself in the shade, the breeze, sleeping soundly, forgetting all about life, falling asleep. Leave all entanglements and transform into nothingness, the universe. But in the last two sentences, surprisingly, Nguyen Trai did not sleep, on the contrary, he recited poems, 'leisurely poems'. If we have the opportunity to continue reading the lines of poetry after this paragraph, we will see that Nguyen Trai's 'leisurely poems' are not about leisurely and tasteless pleasures like many dead-end Confucian scholars in the Middle Ages, but are about thoughts, profound philosophical concepts of the times, progressive human philosophy. In short, the eight-line poem of 'Song of Con Son' shows us an absolute harmony between Nguyen Trai and the landscape of Con Son. That harmony speaks both of Nguyen Trai's noble personality and his great poetic qualities, and it is all based on a profound philosophy: humans and nature are one, if you want to live peacefully, People should come to nature, find beauty and magical changes in nature to have the most correct way to behave...'.
Bình giảng đoạn đầu của bài thơ Đất nước (Nguyễn Đình Thi) Hướng dẫn Bình giảng đoạn đầu của bài thơ Đất nước (Nguyễn Đình Thi) “Đất nước” là một bài thơ xuất sắc của Nguyễn Đình Thi nói riêng và của thơ ca kháng chiến chống Pháp nói chung. Chủ đề bao trùm toàn bộ bài thơ là lòng yêu nước nồng nàn và ý thức độc lập tự chủ, niềm tự hào dân tộc đã đứng lên đấu tranh để bảo vệ đất nước. Đặc biệt là với khổ thơ đâu đã mang tới cho chúng ta một cảm xúc và ấn tượng riêng của mùa thu Hà Nội qua cái nhìn của tác giả. Đất nước là cảm hứng thi ca mang tính chất tổng hợp về chủ Đất Nước, đó là cảm xúc về mùa thu Hà Nội, chiến khu Việt Bắc và cao hơn nữa đó là những cảm xúc về ca dao cho đất nước từ trong thương đau. Trước hết tới với những câu thơ đầu tiên nói về cảm xúc của mùa thu Hà Nội, đó là những câu thơ mang chan chứa tình cảm yêu thương và gắn bó của nhà thơ đối với quê hương mình: “Sáng mát trong như sáng năm xưa Gió thổi màu thu hương cốm mới Tôi nhớ những ngày thu đã xa Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội Những phố dài xao xác hơi may Người ra đi đầu không ngoảnh lại Sau lưng thèm nắng lá rơi đầy” Từ “lạnh” này gợi cho chúng ta liên tưởng về một Hà Nội đẹp, có lá vàng rơi, có hơi lạnh của đầu mùa nhưng cũng chưa thực sự là lạnh. Cái lạnh đang đến dần với người dân Hà Nội nhưng vẫn còn e ấp giống như một sự báo hiệu bắt đầu của thiên nhiên. Cái lạnh đó không phải là cắt da cắt thịt mà giống như một sự ban tặng từ thiên nhiên, đặc biệt là cho người nghệ sĩ. Đến với câu thơ “ Những phố dài xao xác hơi may”, tác giả đã rất khéo léo khi sử dụng biện pháp đảo trật tự cú pháp cộng với từ láy tượng thanh, từ “xao xác” thể hiện cái buồn nhẹ của buổi chiều heo may. Con người ở đây cũng hiện lên với một hình ảnh vô cùng đẹp, đó là tư thế “người ra đi đầu không ngoảnh lại” thể hiện được sự dứt khoát từ giã phố cũ trường xưa để đi chiến đấu. Bước đi đó dứt khoát nhưng vẫn có thể cảm nhận được sau lưng có tiếng lá rơi, không khỏi sự bịn rịn vấn vương. Như vậy, chỉ với đoạn đầu của bài thơ chúng ta đã có thể thấy được hình ảnh đẹp đẽ của mùa thu Hà Nội qua sự hoài niệm của nhà thơ. Một mùa thu thật đẹp và đáng nhớ trong kí ức của mỗi người. Nguồn: Bài văn hay
Commentary on the first stanza of the poem Country (Nguyen Dinh Thi) Instruct Commentary on the first stanza of the poem Country (Nguyen Dinh Thi) "Country" is an excellent poem by Nguyen Dinh Thi in particular and of anti-French resistance poetry in general. The theme that covers the entire poem is passionate patriotism and a sense of independence and self-reliance, national pride for standing up and fighting to protect the country. Especially the poem "Where" brings us a unique feeling and impression of autumn in Hanoi through the author's eyes. The country is a poetic inspiration of a general nature about the owner of the Country, it is the feelings about the fall of Hanoi, the Viet Bac war zone and even higher, it is the feelings of folk songs for the country from the pain. . First of all, the first verses talk about the feelings of autumn in Hanoi, which are verses filled with the poet's love and attachment to his homeland: “The morning is cool and clear like the morning in the past The wind blows the autumn color and smells of new green rice I miss those far away autumn days Cold early morning in the heart of Hanoi The long streets are a bit shaky The first person to leave does not look back Behind me, I long for the sun and the leaves are falling." This word "cold" reminds us of a beautiful Hanoi, with falling yellow leaves, the coldness of the beginning of the season but not really cold yet. The cold is gradually coming to the people of Hanoi but is still shy like a signal of the beginning of nature. That cold is not cutting the skin but like a gift from nature, especially for the artist. Coming to the poem "The long streets are a little sad", the author was very skillful in using the method of syntactic inversion plus onomatopoeia, the word "distressed" to express the slight sadness of the afternoon. lucky pig. The people here also appear with an extremely beautiful image, that is the posture of "the first to leave without looking back" showing the decisiveness of leaving the old town to go fight. That step was decisive, but I could still feel the sound of falling leaves behind me, and I couldn't help but feel uneasy. Thus, in just the first paragraph of the poem we can see the beautiful image of autumn in Hanoi through the poet's nostalgia. A beautiful and memorable autumn in everyone's memory. Source: Good article
Đề bài: Bình giảng đoạn đầu trong bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt Bài làm Tràn ngập bài thơ. đoạn thơ là một tình thương nhớ mênh mông, bồi hồi. Ba câu thơ đầu nói lên hai nỗi nhớ: nhớ bếp lửa, nhớ thương bà. Bếp lửa "chờn vờn sương sớm ". Đây là những vần thơ, câu thơ tha thiết của Bằng Việt gợi thương, gợi nhớ trong lòng tuổi thơ chúng ta: "Một bếp lửa chờn vờn sương sớm Một bếp lửa ấp iu nồng đượm Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa?"… Có một thời gian khổ mà khổng thể nào quên. Có những người đã gắn bó với tuổi thơ chúng ta, trở thành kỉ niệm, mang theo bao tình thương nỗi nhớ sâu nặng trong lòng ta. Bài thơ "Bếp lửa” của Bằng Việt với hình ảnh người bà đã đem đến cho ta cảm xúc và nỗi niềm bâng khuâng ấy: "Một bếp lửa chờn vờn sương sớm Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa " Đây là phần đầu bài thơ "Bếp lửa" nói lên những kỉ niệm sâu sắc tuổi thơ với bao tình thương nhớ bà của đứa cháu đi xa. Tràn ngập bài thơ. đoạn thơ là một tình thương nhớ mênh mông, bồi hồi. Ba câu thơ đầu nói lên hai nỗi nhớ: nhớ bếp lửa, nhớ thương bà. Bếp lửa "chờn vờn sương sớm” gắn bó với mỗi gia đình Việt Nam, với sự tần tảo chịu thương chịu khó cùa bà. Bếp lửa "ấp iu nồng đượm" được nhen nhóm bằng sự nâng niu, ôm ấp của tình thuơng. Nhớ bếp lửa là nhớ đến bà "biết mấy nắng mưa,trải qua nhiều vất vả. khó nhọc. Điệp ngữ "một bếp lửa" kết hợp với câu cảm thán làm cho giọng thơ bồi hồi xúc động: "Một bếp lửa chờn vờn sương sớm Một bếp lửa ấp iu nồng đượm Cháu thương bà biết mấy nắng mưa." Khổ thơ thứ hai nói về kỉ niệm tuổi thơ, kỉ niệm buồn khó quên: "năm đói mòn đói mỏi, "khô rạc ngựạ gầy", "khỏi hun nhèm mắt cháu", "sống mũi còn cay". Bằng Việt sinh năm 1941, năm nhà thơ lên 4 tuổi, là cuối năm 1944 đầu năm 1945, nạn chết đói kinh khủng đã xảy ra, hơn 2 triệu đồng bào ta bị chết đói. Đó là kỉ niệm. về "lửa khói", về "khói hun", một cảnh đời nghèo khổ gắn liền với bếp lửa gia đình trước cách mạng. Vần thơ là tiếng lòng thời thơ ấu gian khổ, rất chân thực cảm động: "Lên bốn tuổi, cháu đã quen mùi khói Năm ấy là năm đói mòn, đói mỏi Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu Nghĩ lại đến giờ sông mũi còn cay "Nghĩ lại đến giờ" đó là năm 1963, đã 19 năm trôi qua, mà đứa cháu vẫn cảm thấy '!sống mũi còn cay!". Kỉ niệm buồn, vết thương lòng, khó quên là vậy! Khổ thơ thứ ba nói về việc nhóm lửa suốt một thời gian dài 8 năm của hai bà cháu. Có tiếng chim tu hú kêu gọi mùa lúa chín trên những cánh đồng quê. Tiếng chim tu hú, những chuyện kể của bà về Huế thân yêu đã trở thành kỉ niệm. 'Tu hú kêu…", "khi tu hú kêu…", "tiêng tu hú"…, cái âm thanh đồng quê thân thuộc ấy được nhắc đi nhắc lại nhiều lần càng trở nên tha thiết bồi hồi. Đó là tiếng vọng thời gian năm tháng của kỉ niệm về gia đình (bếp lửa), về quê hương (tiếng chim tu hú) yêu thương. Cháu thầm hỏi bà hay tự hỏi lòng mình về một thời xa vắng: Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa Tu hú kêu trên những cánh đổng xa Khi tu hú kêu, bà còn nhớ không bà? Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế!" "Cháu cùng bà nhóm lửa", nhóm lửa của sự sống, nhóm ngọn.lửa của tình thuơng Tám năm ấy, đất nước có chiến tranh "Mẹ cùng cha bận công tác không về cháu ở cùng bà, cháu lớn lên trong tình thương và sự chăm sóc nuôi dưỡng của bà. Hai câu thơ 16 chữ mà chữ bà, chữ cháu đã chiếm đúng một nửa. Ngôn từ đã hội tụ tất cả tình thương của bà dành cho cháu. Một tình thương ấp ủ, chở che: "Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học Hay nhất, hàm súc nhất là những chuỗi từ ngữ: "cháu ở cùng bà", "bà bảo", "bà dạy", 'bà chăm". Vai trò người bà trong mỗi gia đìnhViệt Nam thật vô cùng to lớn. Năm tháng đã trôi qua thế mà bà vẫn "khó nhọc" vất vả "nhóm bếp lửa". Nghĩ về ngọn lửa hồng của bếp lửa, nghĩ về tiếng chim tu hú gọi bầy, đứa cháu gọi thân thiết,tiếng chim tu hú "kêu chi hoài". Câu thơ cảm thán và câu hòi tu từ diễn tả nỗi thương nhớ bà bồi hồi tha thiết. Cảm xúc cứ trào lên: "Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc, Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa.. Năm chữ "nghĩ thương bà khó nhọc" nói lên lòng biết ơn bà của đứa cháu đã và đang mang nặng trong trái tim mình tình thương cùa bà dành cho. Đoạn thơ đầy ắp kỉ niệm tuổi thơ và dào dạt cảm xúc. Cháu thương nhớ bà không bao giờ quên. Bằng thể thơ tự do 8 từ (có xen 7 từ), tác giả đã tạo nên một giọng thơ thiết tha. chất thơ trong sáng truyền cảm. hình tuợng đẹp. Bếp lửa, tiếng chim tu hú. người bà là 3 hình tượng hòa quyện trong tâm hồn đứa cháu xa quê. ở đây, tình thương nhớ bà gắn liền với tình yêu quê hương. Câu thơ của Bằng Việt có một sức lay, sức gợi ghê gớm!
Topic: Comment on the first paragraph of the poem Bep Viet's Fire Kitchen Assignment Full of poetry. The poem is an immense, nostalgic love. The first three lines of the poem express two nostalgias: missing the fire and missing my grandmother. The stove is "waiting for the morning dew". These are the heartfelt poems and verses of Bang Viet that evoke love and remind us of our childhood: "A fire flickers in the morning dew A warm, loving stove Tu howl! Don't come stay with her Why cry all the time in the distant fields?"... There was a difficult time that cannot be forgotten. There are people who have been attached to our childhood, become memories, carry so much love and deep nostalgia in our hearts. Bang Viet's poem "The Fire Stove" with the image of a grandmother brings us that feeling and wistfulness: "A fire flickers in the morning dew Why cry all the time in the fields far away? This is the first part of the poem "The Fire Stove" that speaks of the profound memories of childhood with the love of missing the grandmother of a distant grandchild. Full of poetry. The poem is an immense, nostalgic love. The first three lines of the poem express two nostalgias: missing the fire and missing my grandmother. The stove "wait for the morning dew" attached to every Vietnamese family, with her diligence and hard work. The "warmth of love" fire is kindled with the care and embrace of love. Remembering the stove means remembering her "who knew many suns and rains, went through many hardships. The alliteration "a stove" combined with the exclamation makes the poetic voice emotional: "A fire flickers with the morning dew. A fire warms with love. I love you through all the sun and rain." The second stanza talks about childhood memories, sad memories that are hard to forget: "year of hunger and fatigue, "dry and thin", "unable to burn my eyes", "the bridge of my nose still stings". Bang Viet was born in the year 1941, the year the poet was 4 years old, at the end of 1944 and early 1945, a terrible famine occurred, more than 2 million of our people died of starvation. That is the memory of "fire and smoke". hun", a scene of poverty associated with the family kitchen before the revolution. The poem is the voice of a difficult childhood, very touching and truthful: "When I was four years old, I got used to the smell of smoke That year was a year of hunger and fatigue Dad drove a cart with a thin horse I just remember the smoke blinding my eyes Thinking back to this day, my nose is still stinging "Thinking back to now" it was 1963, 19 years have passed, but the grandchild still feels '!the bridge of his nose is still stinging!' Sad memories, heartbreaks, unforgettable! The third stanza talks about building a fire for a long period of 8 years between a grandmother and her niece. There is the sound of howling birds calling for the ripe rice season in the countryside fields. The sound of birds chirping and her stories about her beloved Hue have become memories. 'Tu howl...', "when tu howl...", "tu howl"..., that familiar country sound is repeated over and over again, becoming more and more passionate. It is the echo of the times. years and years of memories of family (the fire), of the homeland (the sound of howling birds) and love. I silently asked my grandmother or asked myself about a time far away: For eight long years, I built a fire with my grandmother Howling in the fields far away Do you still remember when tu howled? She often tells stories about her days in Hue How fervent the howl!" "I'll light the fire with you", light the fire of life, light the fire of love During those eight years, the country was at war. "Mother and father were busy with work and did not come home. I stayed with her. I grew up in her love and care. Two 16-word verses with the words "grandmother" and "niece" written on them. took up exactly half of it. Her words gathered all her love for her grandchild. "I'm with you, I told you She taught me how to do things, she took care of me studying The best and most concise are the strings of words: "grandchild is with grandma", "grandmother told", "grandmother taught", 'grandmother took care of". The role of a grandmother in every Vietnamese family is extremely huge. Year Months have passed and yet she still "hardly" struggled to "light the fire". Thinking about the red flames of the stove, thinking about the howling of birds, the close calls of her grandchildren, the howling of birds. "Whatever." The exclamation poem and rhetorical question express the intense longing for her. Emotions keep rising: "It's hard to build a fire and think about her, Tu howl! Don't come stay with her Crying all the time in the fields far away.. The five words "thinking of you hard" express the grandchild's gratitude to her grandmother who has been carrying her love for her heavily in her heart. The poem is full of childhood memories and full of emotions. I miss you and will never forget you. Using a free verse form of 8 words (with 7 words interspersed), the author has created a passionate poetic voice. clear, inspiring poetry. beautiful figure. Stove fire, birds howling. The grandmother is three images that blend together in the soul of her grandchild far from home. Here, the love for her is closely linked to the love for the homeland. Bang Viet's verses have a tremendous power to move and evoke!
Bình giảngđoạn đầu bài thơ Bên kia sông Đuống của Hoàng Cầm Hướng dẫn Bình giảngđoạn đầu bài thơ Bên kia sông Đuống của Hoàng Cầm Có biết bao nhiêu dòng sông trở đi trở lại trong những trang thơ trang văn. Nguyễn Tuân với dòng sông Đà hung bạo mà trữ tình, Hoàng Phủ Ngọc Tường miêu tả dòng sông Hương mơ mộng, Quang Dũng kết thân với dòng sông Mã thì Hoàng Cầm đã rất tự hào khi viết về dòng sông Đuống của quê hương mình. Bài thơ Bên kia sông Đuống chính là tấm lòng của nhà thơ dành cho quê hương đất nước của mình. Đặc biệt ta không khỏi ấn tượng ngay từ những phần thơ đầu tiên bởi nó mang đến cảm xúc bao trùm cho cả bài, sông Đuống xưa kia và sông Đuống hiện tại tác giả đang đứng ngắm. Trước hết hai câu thơ đầu nhà thơ mang đến một giọng thơ tâm tình giữa anh và em để nói tâm trạng của chính mình và giới thiệu về con sông Đuống tới bạn đọc: “Em ơi! Buồn làm chi Anh đưa em về sông Đuống” Giọng điệu thủ thỉ tâm tình ta đã từng bắt gặp trong bài thơ đất nước của Nguyễn Khoa Điềm và ở đây một lần nữa ta lại được lắng nghe những câu thơ mang giọng điệu như thế. Tâm trạng của nhà thơ được gói gọn trong chữ “buồn” ở câu thơ thứ nhất. Nói em ơi đừng buồn nhưng chính là tác giả đang nói chính bản thân mình. Buồn làm chi như một lời an ủi động viên chính mình phải vui lên. Tiếng gọi em ơi nghe sao mà tha thiết đến thế. Nhà thơ gọi người vợ tần tảo chăm sóc mẹ già và những đứa con hay đang gọi chính bản thân mình. “Anh đưa em về sông Đuống” khiến cho ta liên tưởng đến câu hát “Theo em anh thì về thăm lại miền quê, nơi có một triền đê có dòng sông bên lở bên bồi”. Nhà thơ như dắt người “em” về với dòng sông quê hương mình. Phải chăng đó chính là cách mà nhà thơ giới thiệu về dòng sông Đuống bên lở bên bồi của quê hương Kinh Bắc?. Và quay trở lại nỗi buồn được thể hiện trong hai câu thơ trên thì chúng ta đặt ra một câu hỏi tại sao nhà thơ lại buồn?. Nhà thơ buồn bởi lẽ khi ấy quê hương Kinh Bắc của nhà thơ đang bị thực dân Pháp chiếm đóng. Dòng Sông Đuống chia quê hương thành hai bờ. Đứng bên này sông nhà thơ đau lòng khi thấy bên kia sông nơi có mẹ già vợ tần tảo và những đứa con thơ dại đang phải chịu cảnh đàn áp của lũ cướp nước. Là một người con, một người chồng, một người công dân yêu nước chứng kiến cảnh đó thì hỏi làm sao mà không buồn cho được. Và cũng như theo dòng của kỉ niệm của cảm xúc nhà thơ Hoàng Cầm đưa ta về với dòng sông Đuống ngày xưa êm ả yên bình: “Ngày xưa cát trắng phẳng lỳ Sông Đuống trôi đi Một dòng lấp lánh” Con sông quê hương của nhà thơ là con sông cát trắng phẳng lỳ, cái màu trắng cát ấy in sâu vào tâm trí nhà thơ như một màu tiền sử của mảnh đất sinh thành. Sông Đuống mềm mải như một dải lụa trôi đi một dòng lấp lánh. Nghe câu thơ chúng ta như tưởng tượng được hình ảnh con sông Đuống ngày xưa đẹp lung linh mỗi khi nắng lên. Những tia nắng chiếu soi xuống mặt gương sông nước khiến cho dòng nước lấp lánh như dát vàng dát ngọc vậy. Sông Đuống một dòng trôi giống như nhà thơ một lòng yêu quê hương đất nước. Con sông ấytrở biết bao nhiêu là kỉ niệm tuổi thơ biết bao vui buồn của con người nơi đây. Đó còn là con sống khi còn yên bình thế khi có giặc xâm lăng thì con sông đó như thế nào? Xanh xanh bãi mía bờ dâu Ngô khoai biêng biếc” Khi giặc Pháp đến xâm lược con sông ấy không còn được bình yên êm ả như trước nữa. Bởi biết bao nhiêu bom đạn của chúng nã thẳng xuống làn nước lấp lánh ấy rồi làm sao nó còn vẻ yên bình êm ả trôi nửa. Hình ảnh con sông Đuống được nhân hóa nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kỳ. Con sông nghiêng ư hay là do nhà thơ nói như thế. Nhưng theo các nhà nghiên cứu thì đứng bên này sông Đuống nhìn sang bờ bên kia thì thấy nó nghiêng nghiêng. Tuy nhiên thực chất của vấn đề sông Đuống nghiêng là cách nói nghệ thuật của nhà thơ nhằm thể hiện sự kiên cường của con sông chiến đấu với quân thù. Nó nằm nghiêng như thế để đem tấm thân dài rộng của mình che chở cho dân làng. Biết bao nhiêu bom đạn sông Đuống hứng chịu và cùng nhân dân vượt qua những khó khăn của cuộc kháng chiến gian khổ này. Cuộc chiến tranh phá hủy ác liệt như thế nhưng hai bên sông vẫn xanh xanh những bãi mía bờ dâu, ngô khoai vẫn biêng biếc. Điều đó thể hiện dù cho chiến tranh còn ác liệt thế nào thì dòng sông kia hay chính là con người Kinh Bắc vẫn cứ lao động và kiên cường đấu tranh lại chúng. “Đứng bên này sông sao nhớ tiếc Sao xót xa như rụng bàn tay” Chứng kiến những cảnh tượng đau lòng và một phần nhà thơ lo lắng cho những người thân yêu của mình từ mẹ già, vợ trẻ, con thơ đến những cô hàng xén răng đen, những văn hóa Kinh Bắc nhà thơ thấy thương lòng. Không những nuối tiếc con sông Đuống yên bình êm ả mà còn thấy xót xa cho hoàn cảnh hiện giờ. Chỉ trong một câu thơ mà Hoàng Cầm sử dụng đến hai biện pháp nghệ thuật so sánh và chuyển đổi cảm giác. Nỗi xót xa kia đau đớn như rụng đôi bàn tay vậy hay từ nỗi xót xa ấy nhà thơ chuyển đổi cảm giác sang xúc giác, tay như rơi rụng. Nói tóm lại câu thơ thể hiện sự xót xa đến đau đớn rụng rời khi chứng kiến hoàn cảnh bên kia sông Đuống. Như vậy đoạn thơ mở đầu của bài bên kia sông Đuống nhà thơ Hoàng Cầm đã giới thiệu cho chúng ta thấy hình ảnh con sông Đuống trong thời hòa bình và thời chiến tranh. Qua đó ta thấy dù ở bất cứ thời nào thì con sông cũng vẫn cứ đẹp, chỉ là nét đẹp khác nhau một chút. Ngày xưa lấp lánh hiền hòa đến đâu thì ngày chống thực dân Pháp lại kiên cường che chở đến thế. Đồng thời ta cũng cảm nhận được tình cảm của tác giả dành cho quê hương đất nước của mình. Chính vì thế khi thấy quê hương chịu đau thương nhà thơ vô cùng xót xa.
Commentary on the first stanza of the poem Across the Duong River by Hoang Cam Instruct Commentary on the first stanza of the poem Across the Duong River by Hoang Cam There are so many rivers that come back again and again in the pages of poetry and literature. Nguyen Tuan with the violent but lyrical Da River, Hoang Phu Ngoc Tuong described the dreamy Perfume River, Quang Dung became friends with the Ma River, Hoang Cam was very proud when writing about the Duong River of his homeland. The poem Across the Duong River is the poet's heart for his homeland. In particular, we cannot help but be impressed right from the first parts of the poem because it brings an overarching feeling to the whole poem, the Duong River in the past and the Duong River the author is currently watching. First of all, the first two lines of the poem bring a poetic voice between brother and sister to express their own feelings and introduce the Duong River to readers: "Hey! Why sad? I'll take you back to Duong River." The tone of whispering feelings we have encountered in Nguyen Khoa Diem's ​​country poems and here again we can listen to verses with such a tone. The poet's mood is encapsulated in the word "sad" in the first verse. Tell me, don't be sad, but it's the author talking about himself. Being sad is nothing but a word of comfort to encourage yourself to be happy. The voice calling you, my dear, sounds so earnest. The poet calls the wife who diligently takes care of her elderly mother and children or calls herself. "I'll take you back to the Duong River" makes us think of the song "Following you, I'll go back to visit the countryside, where there is a dyke with a river on the side eroding on the side." The poet seems to lead his "younger brother" back to his hometown river. Is that the way the poet introduces the Duong River, the landslide and mudflats of Kinh Bac hometown?. And returning to the sadness expressed in the two verses above, we ask the question why is the poet sad? The poet was sad because at that time his hometown of Kinh Bac was occupied by the French colonialists. The Duong River divides the homeland into two banks. Standing on this side of the river, the poet was heartbroken when he saw the other side of the river, where an old mother, a hard-working wife and young children were suffering from oppression by country robbers. As a son, a husband, and a patriotic citizen, witnessing that scene, how could one not be sad? And just like following the flow of memories and emotions, poet Hoang Cam takes us back to the Duong River of the past, calm and peaceful: “In the past, the sand was flat and white Duong River flows away A sparkling stream” The poet's hometown river is a flat white sand river. That white sand color is deeply imprinted in the poet's mind as a prehistoric color of the land of birth. The Duong River is as soft as a strip of silk, flowing in a sparkling stream. Listening to the poem, we can imagine the image of Duong River shimmering beautifully in the past every time the sun rises. The rays of sunlight shine down on the mirror surface of the river, making the water sparkle like gold and jade. The Duong River flows like a poet who loves his homeland. That river holds so many childhood memories, so many joys and sorrows for the people here. That's what that river was like when it was peaceful, so when an enemy invaded, what was that river like? Green and green sugarcane fields and strawberry banks Sweet corn and potatoes" When the French invaded, the river was no longer as peaceful as before. Because so many of their bombs and bullets fell straight into that sparkling water, how could it still seem peaceful and calm? The image of the Duong River is personified lying sideways during the long resistance war. Is the river tilted or is it because the poet said so? But according to researchers, standing on this side of the Duong River and looking to the other side, you can see that it is tilted. However, the essence of the problem of the Duong river is the poet's artistic expression to show the river's resilience in fighting the enemy. It lies on its side like that to use its long, wide body to protect the villagers. So many bombs and bullets that Duong River suffered and together with the people, they overcame the difficulties of this arduous resistance war. Despite the fierce destruction of the war, both sides of the river are still green, the sugarcane fields and mulberry banks, corn and potatoes are still clear. That shows that no matter how fierce the war is, that river or the people of Kinh Bac still work and stubbornly fight against them. “Standing on this side of the river, why do you miss it? Why is it so painful like losing my hand? Witnessing the heartbreaking scenes and part of the poet worrying about his loved ones from his old mother, young wife, young children to the black-toothed market girls, the Kinh Bac culture, the poet felt sorry for them. Not only do I regret the peaceful Duong River, but I also feel sorry for the current situation. In just one verse, Hoang Cam uses two artistic methods of comparing and converting feelings. That sadness is as painful as the loss of a pair of hands, or from that sadness the poet changes feeling to touch, the hands feel like they are falling off. In short, the poem shows sadness and pain when witnessing the situation on the other side of the Duong River. Thus, in the opening poem of the poem "The other side of the Duong River", poet Hoang Cam introduced to us the image of the Duong River in times of peace and times of war. Through this, we can see that no matter what time period, the river is still beautiful, just with a slightly different beauty. No matter how gentle and sparkling the old days were, in the days of fighting against the French colonialists, they were so resilient and protective. At the same time, we also feel the author's affection for his homeland. That's why when he saw his homeland suffering, the poet felt extremely sad.
Đề bài: Bình luân về văn minh, lịch sự trong xây dựng nếp sống mới, con người mới hiện nay ở đất nước ta Bài làm Xây dựng và phát triển nền văn hóa mới, con người mới của xã hội mới mang vẻ đẹp mới đậm đà bản sắc dân tộc đã được nhiều người nhắc tới, lưu ý nhiều đến văn minh, lịch sự. Đây là một vấn đề có nội dung rộng lớn, phong phú, vừa mang tính truyền thông vừa mang tính hiện đại, rất thiết thân đối với mỗi chúng ta trong cuộc sống và nếp sống hằng ngày. Thế nào là văn minh, lịch sự? – Văn minh là một khái niệm khá rộng lớn nói về trình độ phát triển đạt đến một mức nhất định của xã hội loài ngoài, có nền văn hóa vật chất và tinh thần với những đặc trưng riêng. Ví dụ, văn minh Ai Cập; văn minh phương Đông… Hiểu theo nghĩa hẹp thì văn minh là chỉ con người, sự vật nếp sống, nếp sinh hoạt đã được định hình với những đặc trưng trong sáng, đẹp đẽ của nền văn hóa phát triển cao. Ví dụ,, một nếp sống văn minh, một con người văn minh. Bình luân về văn minh, lịch sự trong xây dựng nếp sống mới Vậy thế nào là lịch sự? – Lịch sự là có thái độ, cử chỉ nhã nhặn, lễ độ khi tiếp xúc phù hợp với quan niệm và phép tắc xã giao của cộng đồng, của xã hội. Ví dụ, ăn nói lịch sự. Nói đến lịch sự là nói đến cách sống đẹp vừa sang trọng, vừa nhã nhặn từ lới nói, cử chỉ, thái độ, hành động, cách ăn mặc, cách sống. Được đồng loại quý mến, trân trọng. Ở đây, chúng tôi chỉ bàn về nghĩa cụ thể, nghĩa hẹp của vấn đề văn minh, lịch sự. Bước sang thế kỉ XXI, đất nước ta, xã hội ta nhiều đổi mới và phát triển đáng tự hào. Nhiều khu đô thị mới ra đời. Giao thông phát triển mạnh. Đường sá, cầu cống đi lại thuận tiện, nhanh chóng. Bến đò ngang, cầu khỉ, cảnh xếp hàng chen lấn… đang được khẩn trương giải quyết. Trong tập thơ Dòng nước ngược, Tú Mỡ từng viết: Phá đình đi! Phá đình đi. Còn đình hủ tục, còn di hại nhiều! Có biết bao hủ tục từng diễn ra nơi cái đình “xôi thịt” ngày xưa của những lí đương, lí cựu, của nghị Quế., mà Ngô Tất Tố đã nói đến trong tiểu thuyết Tắt đèn, trong phóng sự Việc làng, nay đã bị xóa bỏ. Nhưng những đình làng Mông Phụ xứ Đoài, đình làng Đình Bảng ở Bắc Ninh, và hàng nghìn đình làng khác ở xứ Đông, ở Sơn Nam Hạ… vẫn được tồn tại giữ gìn, vì đó là biểu tượng cho nền văn hóa cổ truyền của dân tộc. Những túp lều gianh xiêu vẹo ẩm thấp đã được thay thế trong phong trào “ngói hóa”. Các công trình đường, trường, trại, điện đã làm thay đổi hẳn bộ mặt nhiều xóm làng. Nông thôn Việt Nam đã và đang phát triển trên con đường văn minh; kĩ thuật canh tác mới đã làm cho nền sản xuất nông nghiệp được công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Việt Nam trở thành nước xuất khẩu lúa gạo đứng thứ hai trên thế giới. Tết trồng cây gây rừng được tổ chức thành phong trào quần chúng rộng khắp. Toàn dân hưởng ứng bảo vệ môi trường xanh, sạch, đẹp. Xử lí ô nhiễm nguồn nước, bầu không khí, chống lối sống, nếp sống, thói quen xấu như xả rác bừa bải khắp mọi nơi… để tạo nên cảnh quan đẹp, nếp sống mới văn minh. Đẩy lùi các tệ nạn mại dâm, cờ bạc, ma túy. Các lễ hội dân gian đầu xuân được tổ chức đông vui; vẻ đẹp dân tộc truyền thông được giữ gìn và phát triển theo hướng văn minh, hiện đại. vẻ đẹp văn minh thể hiện ở trường học, bệnh viện, nhà trẻ, nhà máy, cơ quan, công viên, nông thôn, thành phố.. Cuộc sống và phong cách sống của các thế hệ trẻ in rõ nhất dấu ấn văn minh hiện đại, mà đến đâu ta cũng dễ dàng nhìn thấy. Có văn minh mới có lịch sự; có lịch sự mới có văn minh. Chỉ xin nói về lịch sự trong sinh hoạt, nếp sông cá nhân giữa cộng đồng. Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt, không nói tục, chửi bậy để làm cho con người sống lịch sự hơn. Ăn mặc không rách rưới: áo quần sạch sẽ, gọn gàng, đầu tóc, mặt mày sạch sẽ, ngay ngắn; không chen lấn, xô đẩy kiểu mạnh ai nấy làm; trên xe bus, biết nhường chỗ ngồi cho người tàn tật, cụ già, đàn bà mang thai, em nhỏ…; đó là lịch sự trong ứng xử, trong nếp sống. Kẻ bất lịch sự bị chê cười. Ai cũng cảm thấy sống lịch sự là đẹp. Mọi người biết trên kính, dưới nhường. Trẻ em lễ phép, ngoan ngoãn biết “gọi dạ bảo vâng”, thực hiện đúng Năm điều Bác Hồ dạy; niềm nở khi khách đến nhà; thân tình, vui vẻ, hòa nhã trong quan hệ bạn bè, láng giềng. Tuy đó đây còn có hiện tượng cảnh lộn xộn, chụp giật, xô bồ, bẩn thỉu; còn có loại người gian manh, bất hiếu, bất nghĩa, vô lễ, càn quấy, sống buông thả, nhếch nhác. Tuy đó đây còn bao hiện tượng tiêu cực làm cho bức tranh xã hội bị hoen ố. Nhưng mỗi chúng ta có thể tự hào về đất nước ta, con người Việt Nam đã và đang đổi mới, ngày càng văn minh, lịch sự. Khách du lịch kéo đến Việt Nam ngày một nhiều. Hà Nội là thủ đô hòa bình. Con người Việt Nam lịch sự, mến khách. Xin được nhắc lại câu ca dao: “Chẳng thơm cũng thể hoa nhài/ Dẫu không thanh lịch cũng người Tràng An”. Thanh lịch là nét đẹp của người Hà Nội, của người dân Việt. Bàn về văn minh, lịch sự, nhắc lại câu ca dao trên, mỗi chúng ta cùng cảm thấy ít nhiều thú vị.
Topic: Commentary on civilization and politeness in building a new lifestyle and new people today in our country Assignment Building and developing a new culture, new people of a new society with a new beauty imbued with national identity has been mentioned by many people, paying much attention to civilization and politeness. This is an issue with vast and rich content, both traditional and modern, very close to each of us in our daily lives and lifestyles. What is civilized and polite? - Civilization is a fairly broad concept that refers to the level of development reaching a certain level of a foreign society, with a material and spiritual culture with its own characteristics. For example, Egyptian civilization; Eastern civilization... In a narrow sense, civilization refers to people, things, and lifestyles that have been shaped with the pure and beautiful characteristics of highly developed culture. For example, a civilized lifestyle, a civilized person. Comment on civilization and politeness in building a new lifestyle So what is politeness? – Politeness is having a courteous and polite attitude and gesture when interacting in accordance with the concepts and etiquette of the community and society. For example, speak politely. Speaking of politeness is talking about a beautiful, luxurious and courteous way of life from words, gestures, attitudes, actions, ways of dressing, and ways of living. Loved and respected by fellow human beings. Here, we only discuss the specific, narrow meaning of civilization and politeness. Entering the 21st century, our country and society have many innovations and developments to be proud of. Many new urban areas were born. Traffic develops strongly. Roads, bridges and sewers are convenient and quick to travel. Cross ferry terminals, monkey bridges, crowded queues... are being urgently resolved. In his poetry collection Backwater, Tu Mo once wrote: Destroy the family! Destroy the family. There are still many bad customs and practices that cause much harm! There are so many bad customs that used to take place in the old "sticky rice and meat" communal houses of the Ly Duong, Ly Former, and Que Parliamentarians, which Ngo Tat To talked about in the novel Lights Out, in the reportage Village Affairs, today. has been deleted. But the communal houses of Mong Phu village in Doai region, Dinh Bang communal house in Bac Ninh, and thousands of other communal houses in the East, in Son Nam Ha... are still preserved, because they are symbols of traditional culture. of the nation. The damp, ramshackle huts were replaced in the "tiledization" movement. Road, school, camp, and electricity projects have completely changed the face of many villages. Vietnam's countryside has been developing on the path of civilization; New farming techniques have made agricultural production industrialized and modernized. Vietnam has become the second largest rice exporter in the world. The Tree Planting Festival is organized as a widespread mass movement. All people respond to protecting a green, clean and beautiful environment. Treat water and air pollution, combat lifestyle, bad habits such as littering everywhere... to create a beautiful landscape and a new, civilized way of life. Push back the evils of prostitution, gambling, and drugs. Early spring folk festivals are held in large numbers; Traditional national beauty is preserved and developed in a civilized and modern direction. Civilized beauty is shown in schools, hospitals, kindergartens, factories, agencies, parks, rural areas, cities... The life and lifestyle of the young generations have the clearest imprint of civilization. modern, but we can easily see it wherever we go. Where there is civilization, there is politeness; Only with politeness can there be civilization. I would just like to talk about politeness in daily life and personal life in the community. Maintain the purity of the Vietnamese language, do not use profanity or curse words to make people live more politely. Dress not in rags: clean and neat clothes, hair and face clean and neat; Don't jostle or push like everyone else; On the bus, know how to give up your seat to the disabled, the elderly, pregnant women, children...; That is politeness in behavior and lifestyle. Impolite people are laughed at. Everyone feels that living politely is beautiful. Everyone knows above respect, below respect. Children are polite and obedient, know how to "call yes and say yes", and correctly implement the Five Things Uncle Ho taught; warm when guests come to the house; cordial, cheerful, gentle in relationships with friends and neighbors. However, here and there there are still scenes of chaos, robbery, hustle and bustle, and filth; There are also people who are deceitful, unfilial, unjust, disrespectful, insolent, carefree, and unkempt. However, there are still many negative phenomena that make the social picture tarnished. But each of us can be proud of our country, the Vietnamese people have been innovating, becoming more and more civilized and polite. More and more tourists flock to Vietnam. Hanoi is the capital of peace. Vietnamese people are polite and hospitable. I would like to remind you of the folk song: "Even if it's not fragrant, it's like jasmine/ Even if it's not elegant, you're still from Trang An." Elegance is the beauty of Hanoi and Vietnamese people. Discussing civilization and politeness, repeating the above folk song, each of us feels more or less interesting.
Bình luận 2 câu thơ trong bài Đề Đền Sầm Nghi Đống Hướng dẫn Thế kỉ* 19, trên thi đàn Việt Nam xuất hiện những nữ sĩ tài ba như Bà Huyện Thanh Quan, Hồ Xuân Hương,… Nữ sĩ Hồ Xuân Hương chiếm một địa vị vẻ vang, được nhà thơ Xuân Diệu ngợi là ‘bà chúa thơ Nôm’. Bà để lại trên dưới 50 bài thơ Nôm thất ngôn tứ tuyệt và thất ngôn bát cú, Thơ trữ tình cũng như thơ trào phúng của bà độc đáo, hóm hỉnh, sâu sắc vô cùng. ‘Đề đền Sẩm Nghi Đống’,bài thơ tứ tuyệt, đề tài nhỏ mà đa nghĩa, tiêu biểu cho phong cách thơ Hồ Xuân Hương. Hai câu cuối của bài thơ, bà đã viết: “… Ví đây đổi phận làm trai được, Thì sự anh hùng há bấy nhiêu?’ 1.Ý nghĩa hai câu thơ: Sầm Nghi Đống là một võ tướng của nhà Thanh cùng Tôn Sĩ Nghị mang 29 vạn quân sang xâm lược nước ta. Chúng đã bị vua Quang Trung đánh cho đại bại. Sầm Nghi Đống thất trận, cùng kế phải thắt cổ tự tử. Hắn được Hoá kiều lập đền thờ ở một hẻm phố thành Thăng Long. Nếu như hai câu đầu, nữ sĩ tả ngôi đền và nói lên thái độ khinh miệt của mình thì hai câu cuối, bà nêu lên một giả định so sánh để bình giá ‘cái sự anh hùng’, cái nhân cách quá tầm thường của tên tướng Thiên triều bại trận. Ý thơ còn biểu lộ một khát vọng về quyền nam nữ bình đẳng của người đàn bà nước Nam. Xã hội phong kiến, nhất là bọn vua quan rất coi thường phụ nữ. Thế mà Hồ Xuân Hương lại đem chính mình ra so sánh với quan Thái thú phương Bắc, bĩu môi bình giá ‘cái sự anh hùng’ của tên tướng Thiên triều là một lối nói giễu cợt, mỉa mai, coi thường. ‘Đây’ là đại từ nhân xưng để trỏ, chỉ dùng trong mối quan hệ thân tình hoặc coi thường. ‘Cái sự anh hùng’ của kẻ đang được Hoá kiều thờ cúng trong ngôi đền ấy thực ra tài năng không bằng một người đàn bà (trong xã hội trọng nam khinh nữ)! Nữ sĩ đã tạo nên một ý thơ sắc nhọn, bằng lối nói giả định so sánh để bình giá và đã lột trần chân tướng và giá trị thật của Sầm Nghi Đống. Câu hỏi tu từ với ba tiếng ‘há bấy nhiêu’ cho thấy bà đã bĩu môi châm biếm nhân cách tầm thường, cách ứng xử đê hèn của một viên tướng trong vòng tênđạn, gươm giáo. Anh hùng thì phải mưu lược, quả cảm, võ công lừng lẫy, có chết trong trận mạc thì cũng được ‘bọc thây da ngựa’ lưu lại tiếng thơm muôn đời. Anh hùng phải vị nghĩa, vì nước vì dân, ‘giữa đường dẫu thấy ỈỊâ’t bằng mà tha’ (Kiều). Trái lại, hành động của quan Thái thú là đem quân đi ăn cướp nước người, lúc bị quân ta đánh cho tơi bời, lúc sa cơ hắn lại treo cổ tự tử! Viên bại tướng với cái chết nhục nhã không đáng mặt nam nhi, không có một chút gì đáng gọi là ‘sự anh hùng’cả. 1.Luận: Hai câu thơ phản ánh một tâm thế đàng hoàng, tự tin về tài năng, phẩm hạnh của mình, của giới mình, của người đàn bà Việt Nam. Ta đã biết Hồ Xuân Hương từng có thái độ ‘bất kính’, coi thường các bậc hiền nhân quân tử, giới mày râu trong xã hội phong kiến. Bà chế giễu, châm biếm bộ mặt đạo đức giả của họ. Nữ sĩ mỉm cười hỏi viên hoạn quan ‘đem cái xuân tình vứt bỏ đâu?’, đả kích bọn công tử dốt nát mà lại ngông nghênh, chẳng khác gì ‘ong non ngứa nọc châm hoa rữa. Dê cỏn buồn sừng húc dậu thưa’, hoặc báng bổ lối tu hành của các nhà sư hố mang: ‘oản dâng trước mặt năm ba phẩm, Vãi nấp sau lưng sáu, bảy bà’, v.v… Nhà thơ đã góp một giọng thơ trào phúng, để lại một bức biếm họa thần tình, lột tả bộ mặt xấu xa, tàn ác, bất tài của bọn Thái thú ‘Thiên triều’ có nhiều tội ác đẫm máu đối với dân tộc ta. Cái đền thờ Sầm Nghi Đống mãi mãi là một vết nhơ cho tất cả bọn chúng. Ý thơ biểu thị một lập trường dân tộc, một ý thức dân tộc. Nữ sĩ tuy không thể ‘đổi phận làm trai được’, nhưng lịch sử chống xâm lăng của nhân dân ta, những gương sáng của Hai Bà Trưng, của Lê Chân, của Bà Triệu,… đã tạo nên cảm hứng tự hào để nữ sĩ xuất khẩu thành những vần thơ bất hủ ấy! Hai câu thơ, qua hình thức nghệ thuật cảm thán (mỉa mai) và câu hỏi tu từ (hỏi đề bình giá) đã biểu lộ một khát vọng về bình đẳng nam nữ, về quyền sống của ‘phận gái’ muốn được thi thố tài năng, đức hạnh với đời. vẻ đẹp nhân văn tiềm ẩn, lấp lánh trong hai câu thơ đặc sắc ấy. Tóm lại, hai câu thở ‘Ví đây đổi phận…’ có một giá trị tư tưởng và nghệ thuật cao. Nó không chỉ chế giễu bọn Thái thú phương Bắc sang xâm lược và đô hộ nước ta mà còn thể hiện một ý thức tự tôn dân tộc, một khát vọng về quyền bình đẳng nam nữ. Đọc những vần thơ ấy, ta cảm nhận được một phần nào ngôn ngữ thơ ca, tính cách và vẻ đẹp tâm hồn của nữ sĩ Hồ Xuân Hương.
Comment on 2 verses in the article Sam Nghi Dong Temple Instruct In the 19th century, on the Vietnamese poetry scene, talented female poets appeared such as Ba Huyen Thanh Quan, Ho Xuan Huong, etc. Female poet Ho Xuan Huong occupied a glorious position, praised by poet Xuan Dieu as 'the princess'. Nom poetry'. She left behind about 50 Nom poems with seven quatrains and seven verses. Her lyrical poetry as well as satirical poetry are unique, witty, and extremely profound. 'Theme of Sam Nghi Dong Temple', a quatrain poem, has a small but multi-meaning theme, typical of Ho Xuan Huong's poetic style. In the last two lines of the poem, she wrote: “… If I could change my destiny to be a boy, So how much heroism is there?' 1. Meaning of two verses: Sam Nghi Dong was a military general of the Qing Dynasty and Ton Si Nghi brought 290,000 troops to invade our country. They were defeated by King Quang Trung. Sam Nghi Dong lost the battle and decided to hang himself. Hoa Kieu built a temple for him in an alley of Thang Long city. If in the first two sentences, the female artist describes the temple and expresses her contemptuous attitude, then in the last two sentences, she raises a comparative assumption to evaluate the 'heroism', the too ordinary personality of The name of the defeated Thien Trieu general. The poem's meaning also expresses a desire for the equal rights of men and women of Southern women. Feudal society, especially kings and mandarins, looked down on women. Yet, Ho Xuan Huong compared himself to the Northern Governor, pouting and commenting on the 'heroism' of the Thien Trieu general as a way of mocking, ironic, and contemptuous. ‘This’ is a pointing pronoun, only used in intimate or contemptuous relationships. The 'heroism' of the person being worshiped by Hoa Kieu in that temple is actually not as talented as a woman (in a society that favors men and despises women)! The female artist has created a sharp poetic idea, using the comparative and hypothetical language to evaluate and have exposed Sam Nghi Dong's true identity and value. The rhetorical question with the three words 'how much' shows that she pouted and satirized the mediocre personality and despicable behavior of a general amidst bullets and swords. A hero must be strategic, brave, and have excellent martial arts skills. Even if he dies in battle, he will be 'wrapped in horse skin', leaving behind a lasting reputation. A hero must be righteous, for the country and the people, 'in the middle of the road, even if I see that I'm not fair, I will forgive' (Kieu). On the contrary, the action of the Thai beast mandarin was to use his troops to rob other people's country. When he was beaten by our troops, when he fell into trouble, he hanged himself! The defeated general's humiliating death was not worthy of a man, and there was nothing worthy of being called 'heroic' at all. 1. Essay: The two verses reflect a dignified mindset and confidence in one's talents, virtues, one's gender, and one's Vietnamese women. We know that Ho Xuan Huong used to have an 'irreverent' attitude, looking down on the wise men and men in feudal society. She mocked and satirized their hypocrisy. The female officer smiled and asked the eunuch, 'Where can I throw away the spring of love?', attacking the ignorant yet arrogant young men, who are no different from 'young bees itching and stinging rotting flowers. The goats are sad and the horns of the roosters, or blaspheme the monks' way of practice: 'offering in front of five or three monks, but hiding behind six or seven ladies', etc. The poet contributed a satirical poetic voice, leaving behind a charming caricature, portraying the evil, cruel, and incompetent face of the 'Heavenly Dynasty' rulers who committed many bloody crimes against our nation. . The Sam Nghi Dong temple will forever be a stain for all of them. The poetic meaning represents a national stance, a national consciousness. Although female scholars cannot 'change their fate to be men', our people's history of resisting invasion, the shining examples of Hai Ba Trung, of Le Chan, of Ba Trieu,... have created a sense of pride for women. The artist exported those immortal poems! The two verses, through the art form of exclamation (sarcasm) and rhetorical question (asking for evaluation), express a desire for equality between men and women, for the right to life of 'girls' that they want to compete for. talent, virtue in life. Hidden human beauty sparkles in those two unique verses. In short, the two breathing lines 'If this is a change of fate...' have a high ideological and artistic value. It not only mocks the Northern Thai Beasts who invaded and colonized our country, but also shows a sense of national pride and a desire for equal rights between men and women. Reading those poems, we feel a part of the poetic language, personality and spiritual beauty of female artist Ho Xuan Huong.
Bình luận 5 khổ thơ cuối cùng của bài thơ “Sóng” Xuân Quỳnh Hướng dẫn Bình luận 5 khổ thơ cuối cùng của bài thơ “Sóng” Xuân Quỳnh Xuân quỳnh là một nhà thơ nổi tiếng với rất nhiều bài thơ nhưng nổi bật nhất là bài “sóng”. Sóng là bài thơ nói về tình yêu và sóng. Đó là nhân vật em và sóng biển, hai cái này bổ trợ cho nhau tạo nên một bài thơ về tình yêu đặc sắc. Đặc biệt là ở những khổ thơ cuối cùng của bài thơ càng nói lên rõ về những nỗi nhớ và xúc cảm của sóng và em. Ở đoạn thơ này chúng ta như thấy được sự thương nhớ của người con gái giành cho tình yêu của mình: “Con sóng dưới lòng sâu Con sóng trên mặt nước Ôi con sóng nhớ bờ Ngày đêm không ngủ được Lòng em nhớ đến anh Cả trong mơ còn thức Dẫu xuôi về phương bắc Dẫu ngược về phương nam Nơi nào em cũng nghĩ Hướng về anh – một phương Ở ngoài kia đại dương Trăm nghìn con sóng đó Con nào chẳng tới bờ Dù muôn vời cách trở” Dù đã thú nhận về sự thất bại của mình về việc truy tìm tới cội nguồn của tình yêu nhưng Xuân Quỳnh vẫn có thể phát hiện ra được những con người đang yêu đó sẽ như thế nào, và ra sao. Đó chính là sự nhớ nhung da diết khó tả và khôn nguôi. Sóng ở mặt nước hay ở vực sâu thì đêu nhớ đến bờ cũng như người con trai là bến bờ của cô gái kia. Sự nhớ nhung đó được diễn tả thực sự là rất hay, đó là sự nhớ nhung ngày cả khi đang còn thức hay là ngủ mơ. Nói như vậy thì không có nghĩa là Xuân Quỳnh mơ mà lại thức được. Chứng tỏ rằng khi nằm mơ hình bóng của chàng trai vẫn luôn hiện lên thật đẹp. Và cách nói dù đi đâu hay ngược về đâu thì cô vẫn luôn nhớ về anh, trăm nghìn những con sóng ở ngoài đại dương vẫn vượt qua được mọi cách trở mà về với bến bờ của mình thì nỗi nhớ mong của em cũng vượt qua được những gian khó để có thể trở về bê anh. Hai khổ thơ cuối cùng đã thể hiện sự khát vọng về tình yêu của Xuân Quỳnh: “Cuộc đời tuy dài thế Năm tháng vẫn đi qua Như biển kia dẫu rộng Mây vẫn bay về xa Làm sao được tan ra Thành trăm con sóng nhỏ Giữa biển lớn tình yêu Để ngàn năm còn vỗ” Khổ thơ này cho chúng ta thấy được về quy luật nghiệt ngã của thời gian, của cuộc đời, dẫu cho nó dài thì cũng chỉ đến trăm năm, dài như thế nhưng mà khu tuổi xuân đi qua thì nó chẳng thể nào mà tươi đẹp được nữa. Vậy mà năm tháng đó vẫn đi qua một cách vô tình đến như vậy. Qua đây thì chúng ta có thể thấy được tạo hóa thực nghịch cảnh với khát vọng về tình yêu của con người. Cô đã ước được làm con sống để được mãi vỗ về trên những biển cả mênh mông. Nguồn: Bài văn hay phân tích 5 khổ cuối bài sóng
Comment on the last 5 stanzas of the poem "Waves" by Xuan Quynh Instruct Comment on the last 5 stanzas of the poem "Waves" by Xuan Quynh Xuan Quynh is a famous poet with many poems, but the most outstanding is the poem "Wave". Waves is a poem about love and waves. Those are the characters of you and the ocean waves, these two complement each other to create a unique love poem. Especially in the last stanzas of the poem, it clearly speaks about the nostalgia and emotions of the waves and you. In this poem we can see the girl's longing for her love: “The wave in the depths Waves on the water Oh, the waves miss the shore Can't sleep day and night My heart misses you Even in dreams and still awake Even if it goes north Even though it's back to the south Everywhere I think Towards you – one direction Out there in the ocean Hundreds of thousands of waves None of them reached the shore Despite all the obstacles" Even though she confessed her failure to find the source of love, Xuan Quynh was still able to discover what those people in love would be like, and what they would be like. That is a longing that is indescribable and inconsolable. Waves, whether on the surface of the water or in the depths, always remember the shore, just as the boy is the shore of the girl. That longing is described really very well, it's a longing all day long even when you're awake or asleep. Saying so does not mean that Xuan Quynh dreams but is awake. Proves that when dreaming, the image of a young man always appears beautifully. And the way to say that no matter where she goes or where she comes back, she will always remember him, hundreds of thousands of waves in the ocean can still overcome all ways to return to her shore, then my longing will also overcome. endured hardships to be able to return to him. The last two stanzas express Xuan Quynh's desire for love: “Life is so long Years still pass Like the ocean, even though it is wide Clouds still fly far away How to dissolve? Into hundreds of small waves In the middle of a great sea of ​​love Let it still flap for a thousand years" This poem shows us the cruel rule of time and life, even if it is long, it is only a hundred years. Even though it is long, it cannot be beautiful when youth passes by. more. Yet those years still passed by so unintentionally. Through this, we can see the true creation of adversity and human desire for love. She wished to be a living child to be comforted forever on the vast seas. Source: Good article Analyze the last 5 stanzas of the poem
Bình luận bài ca dao ” Công cha như núi thái sơn” – Đề và văn mẫu 8 Hướng dẫn Bài làm Trong cuộc sống hàng ngày, đôi khi chúng ta vẫn còn gặp những hiện tượng con cái bất hiếu, vô lễ với cha mẹ. Những hành vi vô đạo đức đó đã gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến truyền thông đạo đức của dân tộc, xúc phạm đến tình mẫu tử thiêng liêng. Để khuyên răn, giáo dục họ về đạo làm con, ông cha ta từ xưa đã có một bài ca dao rất nổi tiếng mà không một người Việt Nam nào không thuộc: Công cha như núi Thái Sơn, Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra. Một lòng thờ mẹ kính cha Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con. Công cha nghĩa mẹ thật là to lớn và vô tận biết bao! Sự to lớn của công cha được ca ngợi, được so sánh với hình ảnh cao vời vợi của núi Thái Sơn, một ngọn núi cao nổi tiếng ở Trung Quốc, mà ngày xưa trong thơ văn, các nhà văn nhà thơ thường mượn hình ảnh này để nói lên các lớn lao của sự vật. Và nước trong nguồn là dòng nước chảy không bao giờ cạn là hình ảnh được dùng để thể hiện sự vô tận, vô cùng của nghĩa mẹ, của công mẹ. Ca ngợi công lao vừa to lớn, vừa bất tận của cha mẹ, bài ca dao muốn nhắc nhở mọi người về bổn phận làm con, đạo làm con phải thờ mẹ kính cha, phải cho tròn chữ hiếu. Đạo là đường lối phải theo cho phù hợp với luân lí xã hội. Hiếu là lòng kính yêu của con cái đối với cha mẹ. Thờ, kính là sự yêu mến, sự tôn trọng và chăm lo một cách tôn kính. Toàn bài ca dao đã phản ánh một vấn đề đạo đức là làm con phải có hiếu với cha mẹ. Đó là hành vi đạo đức được bao đời ca ngợi. Ngoài ra, câu ca dao còn rất đúng vì nó là một giá trị đạo đức to lớn, đem lại nhiều lợi ích trong cuộc sống, nhất là nó không bị phai mờ mà còn tồn tại cho đến ngày hôm nay. Trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam, chúng ta vẫn còn gặp những câu tục ngữ mang ý nghĩa tương tự: Nghĩa mẹ như nước ngời ngời biển Đông. Những lí lẽ và dẫn chứng trên đã một lần nữa khẳng định sự đúng đắn của câu ca dao trên, khẳng định đó cũng chính là một chân lí của cuộc sống, một cơ sở đạo đức của xã hội, của con người. Tuy nhiên, hiếu với cha mẹ đồng thời phải hiếu với nhân dân như Bác Hồ đã dạy: Trung với Đảng, hiếu với dân. Một người con có hiếu với cha còn phải là một người con của nhân dân, có hiếu với nhân dân, một lòng phục vụ nhân dân. Khi Tổ quốc và nhân dân yêu cầu, người con có hiếu đó vẫn có thể tạm gác việc nuôi dưỡng chăm sóc cha mẹ để lo việc dân, việc nước. Trong trường hợp đó, hiếu với dân cũng là hiếu thảo với cha mẹ. Biết bao nhiêu chiến sĩ cách mạng đã phải gác lại tình cha nghĩa mẹ để dấn thân vào cuộc đấu tranh một mất một còn với kẻ thù mà lòng vẫn canh cánh rằng chữ hiếu vẫn chưa tròn. Họ không phụng dưỡng được cha mẹ lúc tuổi già nhưng vẫn một lòng thờ mẹ kính cha, họ vẫn là người con chí hiếu. Vậy chúng ta phải hiếu với cha mẹ như thế nào? Người con có hiếu là người yêu thương kính trọng cha mẹ, vâng lời cha mẹ, biết tuân theo những lời chỉ bảo đúng đắn của cha mẹ. Người con có hiếu phải biết làm cho cha mẹ vui lòng bằng cách chăm chỉ học tập, bằng những lời nói và việc làm có đạo đức như đi thưa, về trình và luôn giúp đỡ cha mẹ trong công việc gia đình. Nhất là khi cha mẹ già yếu, ốm đau, người con càng phải hết lòng chăm sóc, phụng dưỡng với tất cả tình cảm quý trọng của mình. Hành động hiếu thảo này chính là lời khuyên mang ý nghĩa sâu sắc của bài ca dao. Bài ca dao vừa là lời ca ngợi một đạo lí tốt đẹp của dân tộc, vừa là lời khuyên bảo thật cao quý. Giá trị to lớn của bài ca dao là một nghệ thuật độc đáo, ở tài sử dụng nghệ thuật so sánh, với cách nói ngắn gọn dễ hiểu giúp cho mọi người dễ nhớ một nội dung đạo đức cao quý, đó là lòng hiếu thảo của con cái đối với cha mẹ. Đây cũng chính là mong ước của cha ông ta ngày trước muốn cho con cái đời sau luôn luôn sống có nhân nghĩa, biết nhớ đến công của cha mẹ: Núi cao biển rộng mênh mông Cù lao chín chữ, ghi lòng con ơi! Tags:Văn 8
Commentary on the folk song "A father's work is like a Thai mountain" - Topics and sample essays 8 Instruct Assignment In daily life, sometimes we still encounter the phenomenon of children being disrespectful and disrespectful to their parents. These immoral acts have seriously affected the nation's moral communication and offended the sacred love of motherhood. To advise and educate them about filial piety, our ancestors from ancient times had a very famous folk song that no Vietnamese person does not know: The father as a mountain, Motherhood is like water flowing from a source. One Heart Worship Mother Glass Father Fulfilling filial piety is the way of children. How great and endless is the merit of a father and mother! The greatness of his father's work was praised and compared with the towering image of Mount Tai, a famous high mountain in China, whose image in ancient times was often borrowed by writers and poets. This is to express the greatness of things. And the water in the source is a never-ending stream of water, an image used to express the infinity and limitlessness of motherhood and motherhood. Praising the great and endless merits of parents, the folk song wants to remind everyone of their filial duties and filial piety. Religion is a path that must be followed in accordance with social morality. Filial piety is the respect and love of children for their parents. Worship and reverence are love, respect and reverent care. The entire folk song reflects the moral issue of being filial to your parents as children. It is a moral act that has been praised for many generations. In addition, the folk song is very true because it is a great moral value, bringing many benefits in life, especially because it has not faded but still exists today. In the treasury of Vietnamese folk literature, we still encounter proverbs with similar meanings: Motherhood is like the shining water of the East Sea. The above arguments and evidence have once again confirmed the correctness of the above folk song, affirming that it is also a truth of life, a moral basis of society and people. However, being filial to your parents must also be filial to the people as Uncle Ho taught: Loyal to the Party, filial to the people. A son who is filial to his father must also be a son of the people, filial to the people, and wholeheartedly serve the people. When the Fatherland and the people request, that filial child can still temporarily put aside raising and taking care of his parents to take care of people's and country's affairs. In that case, being filial to the people is also being filial to your parents. How many revolutionary soldiers had to put aside the love of father and mother to engage in a life-or-death struggle with the enemy while still worrying that filial piety was not yet fulfilled. They cannot take care of their parents in their old age, but they still respect their mother and father, and are still filial children. So how should we be filial to our parents? A filial child is one who loves and respects his parents, obeys his parents, and knows how to follow their parents' correct instructions. A filial child must know how to make his parents happy by studying hard, by speaking and doing virtuous actions such as going to work, reporting, and always helping his parents with family work. Especially when parents are old or sick, children must wholeheartedly care for and support them with all their precious feelings. This act of filial piety is the advice that carries the profound meaning of the folk song. The folk song is both a praise for a good morality of the nation and a noble piece of advice. The great value of folk songs is a unique art, in the ability to use the art of comparison, with short, easy-to-understand words that help people easily remember a noble moral content, which is filial piety. of children to their parents. This is also the wish of our ancestors in the past for their children to always live with kindness and remember their parents' merits: High mountains, vast sea Nine-word island, take it to heart, my child! Tags: Literature 8
Bình luận bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt. Hướng dẫn Chúng ta đã được đọc nhiều áng thơ hay về tình yêu quê hương, tình cảm gia đình. Có người thích vẻ đẹp thiết tha, nồng nàn của Tế Hanh ở bài Quê hương. Có người yêu sự mộng mơ, lãng mạn của tình mẹ con trong bài Mây và Sóng của Ta-go… Riêng tôi, tôi đồng cảm cùng tình bà cháu nồng đượm, đằm thắm trong bài Bếp lửa của Bằng Việt. Bếp lửa là một bài thơ của nỗi nhớ về một bếp lửa tuổi thơ, nhớ rành rọt, nhớ ngọn ngành. Không dễ gì mà biết nhớ như vậy. Nhà thơ đã thổi bùng lên một bếp lửa ấp iu nồng đượm trong kí ức để hiện lên mối tình bà cháu đẹp như trong truyện cổ tích. Một bếp lửa chờn vờn sương sớm Một bếp lửa ấp iu nồng đượm Cháu thương bà biết mấy nắng mưa, Trong thơ văn, còn có mối tình bà cháu nào cảm động hơn? Mối tình bà cháu như một dòng sông, dòng sông êm đềm và trong vắt, một dòng sông chở đầy kỉ niệm: một bếp lửa và một làn sương sớm. Tiếng tu hú và giọng kể chuyện của bà. Rồi những ngày đói khổ làm nhòa mắt đứa cháu còn bé… Và kỉ niệm này xin để nguyên khôi, không dám lược bớt: Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay! Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu, nhà thơ nói thế, chúng ta cũng thấy cay sống mũi. Những kỉ niệm trôi theo một nhạc điệu tâm tình âm ỉ, thầm thì, triền miên như nỗi nhớ. Dòng sông êm đềm và trong vắt vẫn âm thầm chảy. Chúng ta được dạo trên chiếc thuyền thơ với một tay lái khoan thai, chúng ta đang say mê với những kỉ niệm thì thấy biển cả hiện ra trước mắt! Dòng sông của tình bà cháu đã đổ vào biển cả của tình yêu nước. Biển yên sóng lặng thôi, nhưng cũng bát ngát sâu thẳm. Năm giặt đốt làng cháy tàn cháy rụi Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh Vẫn vững lòng, bà dặn cháu đinh ninh Bố ở chiến khu bố còn việc bố Mày có viết thư chớ kể này kể nọ Cứ bảo nhà vẫn được bình yên! Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen… Mấy câu thơ chẳng có gì là kĩ xảo, chẳng có gì là gọt tỉa, giản dị như lời nói thường thôi: như được nghe chính lời bà thủ thỉ, như có một thứ gió lạ kì lay động tâm hồn ta mãi. Đứa cháu có nghĩa có tình đã biết đã quý điều bà thường cất giấu kín đáo trong rương trong hòm. Và chính ánh sáng của những thứ của quý đó đã từng rọi vào tâm hồn thơ bé của đứa cháu, nhóm dậy, nhóm dậy, nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ. Nhịp thơ trở nên xốn xao như sự sống sinh đôi, như cây non xòe lá, như chim non chớp cánh. Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn khói trăm tàu Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa? Những năm tháng sống ở nước ngoài, giữa ngọn khói trăm tàu, lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả, giữa những hoa mĩ, dễ hấp dẫn lòng người, nhưng nhà thơ tỏ ra không bị choáng ngợp. Có thể nói, tình cảm chủ đạo chi phối tâm não tác giả là những hình ảnh thân yêu quen thuộc của quê hương đất nước, đã từ lâu gắn bó với tuổi thơ. Vì thế nhà thơ đã gửi về bà – người bà rất đỗi kính yêu – như lời tâm tình chân thật, thiết tha: sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa? Từ tình bà cháu đẹp như trong truyện cổ tích, bài thơ gợi lên những yêu thương đầu tiên, những suy nghĩ đầu tiên về cuộc đời, về đất nước… Cảm xúc tinh tế, chân thật và đượm buồn của nhà thơ trỗi dậy trong kí ức người đọc những kỉ niệm về cuộc sống gia đình, về truyền thống tình nghĩa của dân tộc. Và đó chính là sức hấp dẫn của bài thơ Bếp lửa. Nêu cảm nghĩ về tình bà cháu trong bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt. Phân tích đề Đây là bốn dạng đề mở. Vì vậy, học sinh có thể trình bày suy nghĩ, cảm nhận của bản thân về tình bà cháu trong bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt. Học sinh có thể trình bày bài làm của mình dưới nhiều cách, song cần đáp ứng được một sốyêu cầu cơ bản bên dưới. Gợi ý viết bài I. Mở bài Giới thiệu khái quát về tác giả Bằng Việt (thuộc thế hệ nhà thơ trưởng thành trong thời kì chống Mĩ cứu nước. Thơ Bằng Việt hấp dẫn người đọc bởi sự trong trẻo, mượt mà và chiều sâu triết lí). Hoàn cảnh sáng tác bài thơ Bếp lửa và nội dung chủ yếu. II. Thân bài Tình bà cháu thắm thiết, cảm động được khơi gợi qua hình ảnh bếp lửa. – Những suy ngẫm về người bà: đó là những suy ngẫm về cuộc đời nhiều gian khổ nhưng giàu hi sinh, tần tảo của người bà. Bà là người nhóm lửa, cũng là người giữ cho ngọn lửa luôn ấm nóng và tỏa sáng trong mỗi gia đình: Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ / Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm / Nhóm bếp lửa ấp ui nồng đượm… Bà không chỉ là người nhóm lửa, giữ lửa mà còn là người truyền lửa – ngọn lửa của sự sống, của niềm tin cho các thế hệ sau: Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen / Một ngọn lửa, lòng bà luôn ủ sẵn / Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng… – Đứa cháu dù đi xa, vẫn không thể quên bếp lửa của bà, không quên tấm lòng thương yêu đùm bọc của bà. Bếp lửa ấy đã trở thành kỉ niệm ấm lòng, thành niềm tin, nâng bước cháu trên chặng đường dài. Kì diệu hơn, người cháu nhờ hiểu và yêu bà mà thêm hiểu nhân dân, dân tộc mình. Bếp lửa và bà đã trở thành biểu tượng cho hình ảnh quê hương xứ xở. III. Kết luận – Bài thơ khiến người đọc xúc động bởi tình cảm bà cháu chân thành, thắm thiết. Nhà thơ đã khéo sử dụng hình ảnh bếp lửa. Đây là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo, có giá trị thẩm mĩ cao: vừa cụ thể, chân thực vừa mang ý nghĩa biểu tượng, góp phần thể hiện chiều sâu triết lí của bài thơ. – Tình cảm yêu quý, biết ơn của người cháu đôi với bà trong bài thơ chính là biểu hiện cụ thể của tình yêu thương, sự gắn bó với gia đình, quê hương, điểm khởi đầu của tình yêu đất nước. Từ bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt, hãy kể vẽ kỉ niệm của mình gắn liền với hình ảnh bếp lửa ấy. Bài làm Những ngày giáp Tết, ngồi bó gối trông nồi bánh Tét sôi sùng sục, lại nhớ cái bếp lửa ngày nào. Bếp lửa trong kí ức tôi là bếp bằng đất nung, là ba ông đầu rau chính hiệu được đặt trên một tấm tôn cán phẳng. Đó chính là giang sơn của bếp. Tro bếp lúc nào cũng nhiều. Bà tôi hốt tro cho vào những cái lu sành, thỉnh thoảng bán cho những người đi mua tro mỗi chiều vẫn cất tiếng rao trước ngõ. Tuổi thơ tôi gắn liền với nhà sàn, với bếp. Lên năm tuổi tôi đã biết thổi lửa nấu cơm (dĩ nhiên là có người lớn, hoặc chị lớn trông chừng). Buổichiều mát, mấy chị em thơ thẩn bên hông nhà, nhặt nhạnh những cành vú sữa khô rụng, bó lại, để dành nhóm bếp. Có khi lại rủ nhau vào hẻm lượm những tàn thuốc lá người ta hút bỏ dở về cho bà. Bà sẽ lấy sợi thuốc còn mà quấn lại làm thuốc mới. Nếu như là bây giờ, chắc bọn nhỏ chúng tôi sẽ khuyên bà bỏ thuốc. Nhưng thời ấy đã quá xa… Trong tôi, kí ức về bà không nhiều bởi bà đã đi xa khi tôi còn chưa từng bước chân đến trường học. Nhưng hình ảnh bà bên bếp lửa, củi là cành vú sữa làm khói um lên, kho một nồi cá to, pha chén bột mì tinh cho vào cái chén nhựa đỏ, gọi tôi đến cho ăn… là những kỉ niệm khó quên. Chị em tôi không được thấy “một bếp lửa chờn vờn sương sớm”, cũng không được nghe tiếng tu hú gọi bầy, nhưng hình ảnh bếp lửa trong thơ Bằng Việt đã lung linh suốt bao năm ròng. Có lẽ vì hình ảnh bếp lửa quá đỗi thân quen, nên chị hai người chị của tôi đã thuộc lòng Bếp lửa cho đến bây giờ; và tôi, đứa bé nhất – đứa hay đọc ké sách giáo khoa của chị, cũng thuộc lòng bài thơ trước khi cầm trên tay quyển sách văn 9. Hai mươi năm rồi, bếp nhà đã từ bếp ông Táo sang bếp dầu, bếp ga, nhưng tôi nhớ hoài tấm tôn đầy tro bếp, cái ông đồng thổi lửa, bụi chuối, hàng dừa, hàng bình bát sau nhà và cả hàng tre xào xạc trước sân. Lâu lắm rồi không thấy khói bay lên. Cũng lâu lắm rồi khóe mắt chẳng còn cay. Ơi bếp lửa.
Bình luận bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt. Hướng dẫn Chúng ta đã được đọc nhiều áng thơ hay về tình yêu quê hương, tình cảm gia đình. Có người thích vẻ đẹp thiết tha, nồng nàn của Tế Hanh ở bài Quê hương. Có người yêu sự mộng mơ, lãng mạn của tình mẹ con trong bài Mây và Sóng của Ta-go… Riêng tôi, tôi đồng cảm cùng tình bà cháu nồng đượm, đằm thắm trong bài Bếp lửa của Bằng Việt. Bếp lửa là một bài thơ của nỗi nhớ về một bếp lửa tuổi thơ, nhớ rành rọt, nhớ ngọn ngành. Không dễ gì mà biết nhớ như vậy. Nhà thơ đã thổi bùng lên một bếp lửa ấp iu nồng đượm trong kí ức để hiện lên mối tình bà cháu đẹp như trong truyện cổ tích. Một bếp lửa chờn vờn sương sớm Một bếp lửa ấp iu nồng đượm Cháu thương bà biết mấy nắng mưa, Trong thơ văn, còn có mối tình bà cháu nào cảm động hơn? Mối tình bà cháu như một dòng sông, dòng sông êm đềm và trong vắt, một dòng sông chở đầy kỉ niệm: một bếp lửa và một làn sương sớm. Tiếng tu hú và giọng kể chuyện của bà. Rồi những ngày đói khổ làm nhòa mắt đứa cháu còn bé… Và kỉ niệm này xin để nguyên khôi, không dám lược bớt: Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay! Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu, nhà thơ nói thế, chúng ta cũng thấy cay sống mũi. Những kỉ niệm trôi theo một nhạc điệu tâm tình âm ỉ, thầm thì, triền miên như nỗi nhớ. Dòng sông êm đềm và trong vắt vẫn âm thầm chảy. Chúng ta được dạo trên chiếc thuyền thơ với một tay lái khoan thai, chúng ta đang say mê với những kỉ niệm thì thấy biển cả hiện ra trước mắt! Dòng sông của tình bà cháu đã đổ vào biển cả của tình yêu nước. Biển yên sóng lặng thôi, nhưng cũng bát ngát sâu thẳm. Năm giặt đốt làng cháy tàn cháy rụi Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh Vẫn vững lòng, bà dặn cháu đinh ninh Bố ở chiến khu bố còn việc bố Mày có viết thư chớ kể này kể nọ Cứ bảo nhà vẫn được bình yên! Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen… Mấy câu thơ chẳng có gì là kĩ xảo, chẳng có gì là gọt tỉa, giản dị như lời nói thường thôi: như được nghe chính lời bà thủ thỉ, như có một thứ gió lạ kì lay động tâm hồn ta mãi. Đứa cháu có nghĩa có tình đã biết đã quý điều bà thường cất giấu kín đáo trong rương trong hòm. Và chính ánh sáng của những thứ của quý đó đã từng rọi vào tâm hồn thơ bé của đứa cháu, nhóm dậy, nhóm dậy, nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ. Nhịp thơ trở nên xốn xao như sự sống sinh đôi, như cây non xòe lá, như chim non chớp cánh. Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn khói trăm tàu Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa? Những năm tháng sống ở nước ngoài, giữa ngọn khói trăm tàu, lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả, giữa những hoa mĩ, dễ hấp dẫn lòng người, nhưng nhà thơ tỏ ra không bị choáng ngợp. Có thể nói, tình cảm chủ đạo chi phối tâm não tác giả là những hình ảnh thân yêu quen thuộc của quê hương đất nước, đã từ lâu gắn bó với tuổi thơ. Vì thế nhà thơ đã gửi về bà – người bà rất đỗi kính yêu – như lời tâm tình chân thật, thiết tha: sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa? Từ tình bà cháu đẹp như trong truyện cổ tích, bài thơ gợi lên những yêu thương đầu tiên, những suy nghĩ đầu tiên về cuộc đời, về đất nước… Cảm xúc tinh tế, chân thật và đượm buồn của nhà thơ trỗi dậy trong kí ức người đọc những kỉ niệm về cuộc sống gia đình, về truyền thống tình nghĩa của dân tộc. Và đó chính là sức hấp dẫn của bài thơ Bếp lửa. Nêu cảm nghĩ về tình bà cháu trong bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt. Phân tích đề Đây là bốn dạng đề mở. Vì vậy, học sinh có thể trình bày suy nghĩ, cảm nhận của bản thân về tình bà cháu trong bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt. Học sinh có thể trình bày bài làm của mình dưới nhiều cách, song cần đáp ứng được một sốyêu cầu cơ bản bên dưới. Gợi ý viết bài I. Mở bài Giới thiệu khái quát về tác giả Bằng Việt (thuộc thế hệ nhà thơ trưởng thành trong thời kì chống Mĩ cứu nước. Thơ Bằng Việt hấp dẫn người đọc bởi sự trong trẻo, mượt mà và chiều sâu triết lí). Hoàn cảnh sáng tác bài thơ Bếp lửa và nội dung chủ yếu. II. Thân bài Tình bà cháu thắm thiết, cảm động được khơi gợi qua hình ảnh bếp lửa. – Những suy ngẫm về người bà: đó là những suy ngẫm về cuộc đời nhiều gian khổ nhưng giàu hi sinh, tần tảo của người bà. Bà là người nhóm lửa, cũng là người giữ cho ngọn lửa luôn ấm nóng và tỏa sáng trong mỗi gia đình: Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ / Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm / Nhóm bếp lửa ấp ui nồng đượm… Bà không chỉ là người nhóm lửa, giữ lửa mà còn là người truyền lửa – ngọn lửa của sự sống, của niềm tin cho các thế hệ sau: Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen / Một ngọn lửa, lòng bà luôn ủ sẵn / Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng… – Đứa cháu dù đi xa, vẫn không thể quên bếp lửa của bà, không quên tấm lòng thương yêu đùm bọc của bà. Bếp lửa ấy đã trở thành kỉ niệm ấm lòng, thành niềm tin, nâng bước cháu trên chặng đường dài. Kì diệu hơn, người cháu nhờ hiểu và yêu bà mà thêm hiểu nhân dân, dân tộc mình. Bếp lửa và bà đã trở thành biểu tượng cho hình ảnh quê hương xứ xở. III. Kết luận – Bài thơ khiến người đọc xúc động bởi tình cảm bà cháu chân thành, thắm thiết. Nhà thơ đã khéo sử dụng hình ảnh bếp lửa. Đây là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo, có giá trị thẩm mĩ cao: vừa cụ thể, chân thực vừa mang ý nghĩa biểu tượng, góp phần thể hiện chiều sâu triết lí của bài thơ. – Tình cảm yêu quý, biết ơn của người cháu đôi với bà trong bài thơ chính là biểu hiện cụ thể của tình yêu thương, sự gắn bó với gia đình, quê hương, điểm khởi đầu của tình yêu đất nước. Từ bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt, hãy kể vẽ kỉ niệm của mình gắn liền với hình ảnh bếp lửa ấy. Bài làm Những ngày giáp Tết, ngồi bó gối trông nồi bánh Tét sôi sùng sục, lại nhớ cái bếp lửa ngày nào. Bếp lửa trong kí ức tôi là bếp bằng đất nung, là ba ông đầu rau chính hiệu được đặt trên một tấm tôn cán phẳng. Đó chính là giang sơn của bếp. Tro bếp lúc nào cũng nhiều. Bà tôi hốt tro cho vào những cái lu sành, thỉnh thoảng bán cho những người đi mua tro mỗi chiều vẫn cất tiếng rao trước ngõ. Tuổi thơ tôi gắn liền với nhà sàn, với bếp. Lên năm tuổi tôi đã biết thổi lửa nấu cơm (dĩ nhiên là có người lớn, hoặc chị lớn trông chừng). Buổichiều mát, mấy chị em thơ thẩn bên hông nhà, nhặt nhạnh những cành vú sữa khô rụng, bó lại, để dành nhóm bếp. Có khi lại rủ nhau vào hẻm lượm những tàn thuốc lá người ta hút bỏ dở về cho bà. Bà sẽ lấy sợi thuốc còn mà quấn lại làm thuốc mới. Nếu như là bây giờ, chắc bọn nhỏ chúng tôi sẽ khuyên bà bỏ thuốc. Nhưng thời ấy đã quá xa… Trong tôi, kí ức về bà không nhiều bởi bà đã đi xa khi tôi còn chưa từng bước chân đến trường học. Nhưng hình ảnh bà bên bếp lửa, củi là cành vú sữa làm khói um lên, kho một nồi cá to, pha chén bột mì tinh cho vào cái chén nhựa đỏ, gọi tôi đến cho ăn… là những kỉ niệm khó quên. Chị em tôi không được thấy “một bếp lửa chờn vờn sương sớm”, cũng không được nghe tiếng tu hú gọi bầy, nhưng hình ảnh bếp lửa trong thơ Bằng Việt đã lung linh suốt bao năm ròng. Có lẽ vì hình ảnh bếp lửa quá đỗi thân quen, nên chị hai người chị của tôi đã thuộc lòng Bếp lửa cho đến bây giờ; và tôi, đứa bé nhất – đứa hay đọc ké sách giáo khoa của chị, cũng thuộc lòng bài thơ trước khi cầm trên tay quyển sách văn 9. Hai mươi năm rồi, bếp nhà đã từ bếp ông Táo sang bếp dầu, bếp ga, nhưng tôi nhớ hoài tấm tôn đầy tro bếp, cái ông đồng thổi lửa, bụi chuối, hàng dừa, hàng bình bát sau nhà và cả hàng tre xào xạc trước sân. Lâu lắm rồi không thấy khói bay lên. Cũng lâu lắm rồi khóe mắt chẳng còn cay. Ơi bếp lửa.
Bình luận bài thơ Khuyên thanh niên Hướng dẫn Bình luận bài thơ Khuyên thanh niên Không có việc gì khó Chỉ sợ lòng không bền Đào núi và lấp biển Quyết chí ắt làm nên. Trong cuộc sống của chúng ta có rất nhiều câu nói hay và ý nghĩa nhằm răn đe và dạy dỗ con người. Nổi bật nhất trong những câu nói đó là câu của Bác Hồ khuyên răn thế hệ thanh niên Việt Nam:không có việc gì khó, chỉ sợ lòng không bền, đào núi và lấp biển, quyết chí ắt làm nên.Đây là bài thơ tứ tuyệt hoàn chỉnh khi Bác đến thăm một tiểu đội xung kích và đã tặng cho tiểu đội ấy “Không có việc gì khó Chỉ sợ lòng không bền Đào núi và lấp biển Quyết chí ắt làm nên” Đến với câu thơ đầu tiên thì chúng ta đã thấy được rằng trên đời này không có việc gì là khó cả, chỉ có lòng sắt đá và quyết tâm thì không gì là không thể làm được. còn ở câu thứ hai muốn nói rằng mọi khó khăn trên cuộc sống này cho dù có đến đâu thì chỉ cần chúng ta có sự quyết tâm thì sẽ làm nên. Lời thơ mà Bác làm nên thật giản dị và hồn hậu biết bao nhiêu. Chủ đề xuyên suốt toàn bài thơ là ý chí quyết tâm cho dù có khó khăn thì cũng sẽ vượt được qua. Còn hình ảnh đào núi và lấp biển là một ình ảnh ước lệ khái quát tượng trưng cho những công việc phi thường tưởng chừng như không thực hiện được. Bài thơ của Bác đã làm toát lên được một tinh thần triết lí giàu nhân văn cao cả: nếu như có ý chí, có nghị lực và giàu sự nỗ lực thì con người nhất định sẽ đạt được ước mơ của mình. Chân lí ấy thật giản dị và chân thành biết bao. Lịch sử của đất nước đã có biết bao nhiêu tấm gương để nêu cao tinh thần chiến đấu vượt qua mọi chông gai thử thách. Đó còn là câu chuyện của chàng thanh niên Nguyễn Tất Thành đã ra đi tìm đường cứu nước từ khi còn trẻ,chàng thanh niên đó đã phải chịu nhiều khó khăn gian khổ nhiều lúc tưởng chừng như cận kề với cái chết. Đó là quãng thời gian cực khổ nhất khi bị quân Tưởng bắt giam vào ngục tù nhưng cuối cùng đã vượt qua mọi gian khổ đi đến thắng lợi cuối cùng. Vậy qua đó chúng ta phải hiểu được rằng là thanh niên không bao giờ bỏ cuộc, lùi bước mà hãy luôn vươn lên phía trước không ngại gian khó. Đó là một biểu tượng cao cả chúng ta cần phải học tập và noi theo. Đó còn là câu chuyện của chàng trai Nguyễn Ngọc Kí bị cụt cả hai tay, tưởng chừng như không làm được gì nhưng đối với anh, anh không từ bỏ và phó mặc ở đây. Vậy mà anh mặc kệ qua tất cả những lời chọc tức mình, bỏ qua những cơn chuột rút đau đến thắt quặn nhưng anh không hề nản lòng. Vẫn tập viết bằng chân và cuối cùng chàng trai ấy đã thành công trên con đường mà mình đã lựa chọn. Và tất nhiên còn rất nhiều những tấm gương đâu đây để chúng ta đáng phải học tập và noi theo.Những con người đó bằng chính thực lưc của mình đã vượt qua tất cả những khó khăn gian khổ để đi tới vinh quang, được xã hội công nhận. Bên cạnh những thanh niên có ý thức và nghị lực vươn lên thì chúng ta cũng cần nhìn lại một số bộ phận thanh niên đang xuống dốc trầm trọng đã làm cho thể hệ cha ông phải quan tâm và lo lắng, đó là những thanh niên sống bất cần và không có lí tưởng, chưa làm đã nản chí,không chấp hành mọi nội quy của nhà trường và pháp luật đề ra. Quay lại lời của Bác thì sự quyết chí ở đây phải đi đôi với thực hành chứ không phải là một lời nói suông. Hiểu được sâu sắc và thấm nhuần lời dạy của Bác, từ đó chúng ta phải biết tự vươn lên phía trước, phấn đấu và rèn luyện để xây dựng tươi đẹp nước nhà.
Comment on the poem Advice to young people Instruct Comment on the poem Advice to young people Nothing is difficult Only fear unstable heart Digging up mountains and filling in seas Surely made a firm decision. In our lives there are many good and meaningful sayings to warn and teach people. The most prominent of those sayings is Uncle Ho's admonition to the young generation of Vietnam: Nothing is difficult, just fear that your heart will not be strong, dig mountains and fill the sea, with determination you can achieve it. This is a poem The quartet was completed when Uncle Ho visited an assault squad and gave it to that squad "Nothing is difficult Only fear unstable heart Digging up mountains and filling in seas Surely made a firm decision" Coming to the first verse, we have seen that nothing in this world is difficult, with only a strong heart and determination, nothing is impossible. In the second sentence, we want to say that no matter how difficult it is in this life, we can overcome it as long as we have determination. The poetry that Uncle Ho wrote was so simple and soulful. The theme running through the entire poem is determination, no matter how difficult it is, to overcome it. The image of digging mountains and filling seas is a general conventional image that symbolizes extraordinary tasks that seem impossible to accomplish. Uncle Ho's poem exudes a philosophical spirit rich in noble humanity: if people have will, energy and effort, people will definitely achieve their dreams. How simple and sincere that truth is. The country's history has countless examples to uphold the fighting spirit to overcome all difficulties and challenges. It is also the story of young man Nguyen Tat Thanh, who left to find a way to save his country at a young age. That young man had to endure many hardships and at times seemed close to death. It was the most miserable time when he was imprisoned by Chiang's army, but in the end he overcame all hardships to reach the final victory. So through that, we must understand that as young people, never give up or step back, but always move forward without fear of difficulties. It is a noble symbol we need to learn and follow. It is also the story of a young man, Nguyen Ngoc Ki, who had both arms amputated. It seemed like he couldn't do anything, but for him, he did not give up and give up here. Yet he ignored all the words that irritated him, ignored the painful cramps, but he was not discouraged. Still practicing writing with his feet and finally the guy succeeded on the path he chose. And of course there are many examples here and there that we should learn and follow. Those people, with their own strength, overcame all the difficulties and hardships to reach glory and be recognized by society. recognition association. In addition to the young people who have the awareness and determination to rise, we also need to look back at some youth groups that are seriously declining and have made our ancestors' generation concerned and worried. These are young people. living carelessly and without ideals, becoming frustrated without doing anything, not obeying all the rules and regulations of the school and the law. Going back to Uncle Ho's words, determination here must go hand in hand with practice, not just words. Deeply understanding and absorbing Uncle Ho's teachings, from then on we must know how to push ourselves forward, strive and practice to build a beautiful country.
Đề bài: Bình luận bài thơ Viếng lăng Bác của Viễn Phương Bài làm Hoà cùng dòng cảm hứng viết về sự ra đi của Người trong những ngày tháng chín năm 1969, qua bài thơ Viếng lăng Bác, nhà thơ Viễn Phương đã nói lên tấm lòng của đồng bào miền Nam cũng như muốn nói Bác bất tử trong niềm thương kính của nhân dân. Viết về lần thăm viếng một con người vĩ đại, dòng cảm xúc của bài thơ đi theo trình tự thời gian nhưng chủ yếu cảm xúc được gửi vào những không gian bên lăng. Bao trùm cả bài thơ là niềm xúc động thiêng liêng, thành kính, lòng biết ơn và tự hào pha lẫn nỗi xót đau của nhà thơ. Mở đầu bài thơ là lời giới thiệu giản dị mà hàm súc: Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác Nhà thơ xưng con – một tiếng nói nghẹn ngào được nén chặt suốt hai mươi năm lăm xa cách. Một tiếng con giản dị nhưng lại như tiếng nấc xót đau. Tiếng con vừa thân thương mà lại vừa gần gũi. Người con ấy từ miền Nam, đang thực hiện ước nguyện được gặp Người..Khi sinh thời, Người vẫn nói miền Nam trong trái tim tôi và ước nguyện lớn lao của Người đó là Tổ quốc thống nhất, Bắc Nam sum vầy. Bác dành cho miền Nam một tình cảm đặc biệt: Bác nhớ miền Nam nỗi nhớ nhà Miền Nam mong Bác nỗi mong cha (Tố Hữu) Giờ đây, khi đất nước đã sạch bóng quân thù, con từ miền Nam về đây gặp Người thì Người đã đi xa. Câu thơ chỉ là lời giới thiệu giản dị, nhưng lại chứa đựng bao tiếc đau và nước mắt. Trong phút bên lăng ấy, nhà thơ bắt gặp những hàng tre: Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát Hàng tre có thực bên lăng nhờ từ bát ngát đã trở thành hàng tre đất nước, hàng tre biểu tượng cho sức sống bền bỉ, sự kiên cường bất khuất, dáng đứng hiên ngang của dân tộc Việt Nam. Qua bão táp mưa Sa hàng tre vẫn đứng thẳng, vẫn kiên cường như những người dân Việt: Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng. Cảm xúc dồn nén giờ bật lên thành lời: Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam Hàng tre kia đã được gắn với tên Tổ quốc, hai tiếng Việt Nam đầy thân thương. Nơi lăng Bác, ý nguyện của Người về đất nước độc lập, tự do vẫn vẹn nguyên, tươi xanh trong hình ảnh hàng tre. Nếu như dòng thơ đầu là nỗi tiếc đau của tác giả thì ba dòng thơ còn lại Viễn Phương nói về tre, nghĩ về tre và cũng là nói về Bác. Bên lăng, trong cảm xúc xúc động của nhà thơ, hình ảnh Bác gắn liền với hình ảnh đất nước kiên cường. Bác đã đi xa mãi mãi nhưng với Viễn Phương, hình ảnh Bác bất tử trong mối liên tưởng với mặt trời và tràng hoa – dòng người viếng Bác: Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ. Thời gian là bất tận. Vòng tuần hoàn thời gian vẫn cứ trôi lặng lẽ. Như vầng dương chói sáng đem lại ánh sáng cho thiên nhiên, Bác là nguồn sáng của dân tộc Việt Nam. Bác là người đã rọi sáng con đường tự do dẫn cả dân tộc bước tới. Chính Bác đã mang đến sự sống cho cả một dân tộc. Phải có lòng kính yêu, chân thành, thiết tha mới có cảm xúc liên tưởng Bác với mặt trời như thế. Ví Bác với mặt trời vừa nói lên sự vĩ đại của Bác vừa nói lên sự trân trọng, tấm lòng thành kính của Bác và cũng qua hình ảnh ẩn dụ ấy còn là sự bất tử bởi Người đã hoá thân vào những gì vĩnh cửu của thiên nhiên, vũ trụ. Không chỉ so sánh bằng hình ảnh tĩnh mặt trời mà mặt trời Bác còn là một vầng dương rất đỏ. Vầng dương rực đỏ như bầu nhiệt huyết của một vị lãnh tụ suốt đời hi sinh cho Tổ quốc. Bầu nhiệt huyết ấy như vẫn chói sáng, vẫn căng tràn dù rằng con người ấy không còn. Đặt Bác trong mối liên tưởng với mặt trời dù đã là sự suy tôn cao nhất nhưng tác giả vẫn gắn thêm định ngữ rất đỏ như muôn khẳng định: Bác vẫn tồn tại, toả thắm như vầng mặt trời toả sáng. Với Viễn Phương, hình ảnh không chỉ bất tử khi được ví như mặt trời mà người còn mãi trong những dòng thương nhớ: Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ Trong con mắt tác giả, cảm xúc đã khiến không gian lặng không còn là không gian tự nhiên mà là không gian của lòng người, không gian thương nhớ. Một năm sau ngày đất nước thống nhất, lòng thương kính vẫn vẹn nguyên khi nhà thơ hoà cùng dòng người viếng Bác. Sự ra đi của Người như mới chỉ là ngày hôm qua. Tất cả vẫn như còn lại đó, không đổi thay, xoay chuyển, vẫn luôn là dòng người với nỗi đau, cảm giác mất mát, thiếu vắng. Từ hình ảnh thực ấy, tác giả liên tưởng dòng người như kết thành tràng hoa. Tuy không còn nữa nhưng sự ra đi của Người lại gắn kết những người còn sống theo đúng ước nguyện của Người: Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân… Dòng người không chỉ đến viếng một Người đã khuất mà viếng một cuộc đời bảy mươi chín mùa xuân. Nhà thơ không gọi bằng tuổi mà nói bằng mùa xuân là để hoá xuân, vĩnh cửu hoá cuộc đời Người. Bởi cuộc đời ấy đẹp như mùa xuân và mùa xuân ấy đã mang lại sức xuân cho cả một dân tộc. Cuộc đời Bác là một mùa xuân đẹp nhất trong hàng ngàn mùa xuân nhỏ của dân tộc anh hùng. Khổ thơ có sự lặp lại cấu trúc: Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng… Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ Mặt trời lặn mọc mỗi ngày trên lăng cũng như dòng người vào lăng viếng Bác vẫn còn mãi như niềm yêu kính của nhân dân và cũng bởi vậy mà Bác Hồ là bất tử. Theo bước chân của dòng người, nhà thơ được tiếp cận di hài Bác và cảm thấy một niềm tiếc thương vô hạn, niềm đau xót khôn nguôi: Bác nằm trong giấc ngủ bình yên Khung cảnh và không gian thanh tĩnh trong lăng như ngưng kết cả thời gian và không gian. Cả cuộc đời Bác là những chuỗi ngày dài không ngủ. Chỉ giờ đây Người mới có giấc ngủ ngàn thu yên bình. Trong không gian lăng tĩnh lặng, trang nghiêm như thế, trong dòng cảm xúc trào dâng những ý thơ, trăng vốn gắn bó với người lúc sinh thời như hiện về trong tâm tưởng: Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền Nếu hai dòng thơ đầu là cảm xúc của nhà thơ trong phút đầu gặp Người thì hai dòng thơ sau là một nỗi xót đau: Vẫn biết trời xanh là mãi mãi Mà sao nghe nhói ở trong tim! Câu thơ như một lời tự hỏi, một câu phân vân giữa ý chí và tình cảm. Tiếng nói của ý chí vẫn biết trời xanh là mãi mãi – Người vẫn còn như trời xanh còn mãi nhưng điều đó chẳng thể ngăn được tình cảm nhói đau chợt đến Mà sao nghe nhói ở trong tim. Cặp quan hệ từ vẫn biết – mà sao diễn đạt cái diễn biến không lường được, không kiểm soát nổi cảm xúc của tác giả, của người về muộn bên di hài Người cha tôn kính. Những xót đau, thương tiếc đã trở thành ước nguyện hoá thân làm đẹp nơi yên nghỉ của Người, làm người con trung hiếu của Bác trong bài thơ: Mai về miền Nam thương trào nước mắt Thời gian phải rời xa còn rất ngắn. Không gian trở về xa cách. Và khoảng cách lòng người tuy xa mà gần. Nghĩ đến điều ấy mà nước mắt lại trào trên mi, chẳng thể nào xuôi vào trong được nữa. Nước mắt cứ trào ra, pha lẫn cả nỗi đau thương mất mát với những quyến luyến bịn rịn. Trong quãng thời gian chỉ còn được tính bằng ngày, bởi không nỡ xa Người nên tác giả ước nguyện hoá thân để ở lại bên Bác: Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác Muốn làm đoá hoa toả hương đâu đây Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này. Muốn được hoá thân thành con chim hót bên lăng, thành đóa hoa toả hương, thành cây tre trung hiếu cũng có nghĩa là ước nguyện để lại một thanh âm, một làn hương làm đẹp cõi Bác và lớn hơn đó là làm một cây tre trung hiếu. Khổ đầu bài thơ, từ hàng tre bên lăng liên tưởng tới hàng tre Việt Nam bất khuất, kiên cường. Giờ đây, tác giả muốn làm một cây tre trong hàng tre ấy, muốn là một người con trung hiếu di theo con đường mà Bác đã đi. Tất cả những ước nguyện đó đều đẹp đẽ, chân thành, tha thiết. Điệp ngữ muốn làm mở đầu cho những dòng thơ càng tôn lên những ước nguyện đẹp đẽ ấy. Nằm trong số rất nhiều những bài thơ viết về sự ra đi của Người, Viếng lăng Bác của nhà thơ Viễn Phương vừa mang những cái chung đó là niềm tiếc thương, xót đau vô hạn lại vừa có cả những cái rất riêng, rất đặc biệt. Cái riêng, cái đặc biệt chính bởi sự liên tưởng để bác mãi mãi là bất tử trong lòng mỗi người dân đất Việt. Bài thơ như một lời tưởng niệm với con người đã khuất. Hơn nữa, nó đã nâng tầm vóc một con người lên một tầm cao, vĩ đại.
Đề bài: Bình luận bài thơ Viếng lăng Bác của Viễn Phương Bài làm Hoà cùng dòng cảm hứng viết về sự ra đi của Người trong những ngày tháng chín năm 1969, qua bài thơ Viếng lăng Bác, nhà thơ Viễn Phương đã nói lên tấm lòng của đồng bào miền Nam cũng như muốn nói Bác bất tử trong niềm thương kính của nhân dân. Viết về lần thăm viếng một con người vĩ đại, dòng cảm xúc của bài thơ đi theo trình tự thời gian nhưng chủ yếu cảm xúc được gửi vào những không gian bên lăng. Bao trùm cả bài thơ là niềm xúc động thiêng liêng, thành kính, lòng biết ơn và tự hào pha lẫn nỗi xót đau của nhà thơ. Mở đầu bài thơ là lời giới thiệu giản dị mà hàm súc: Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác Nhà thơ xưng con – một tiếng nói nghẹn ngào được nén chặt suốt hai mươi năm lăm xa cách. Một tiếng con giản dị nhưng lại như tiếng nấc xót đau. Tiếng con vừa thân thương mà lại vừa gần gũi. Người con ấy từ miền Nam, đang thực hiện ước nguyện được gặp Người..Khi sinh thời, Người vẫn nói miền Nam trong trái tim tôi và ước nguyện lớn lao của Người đó là Tổ quốc thống nhất, Bắc Nam sum vầy. Bác dành cho miền Nam một tình cảm đặc biệt: Bác nhớ miền Nam nỗi nhớ nhà Miền Nam mong Bác nỗi mong cha (Tố Hữu) Giờ đây, khi đất nước đã sạch bóng quân thù, con từ miền Nam về đây gặp Người thì Người đã đi xa. Câu thơ chỉ là lời giới thiệu giản dị, nhưng lại chứa đựng bao tiếc đau và nước mắt. Trong phút bên lăng ấy, nhà thơ bắt gặp những hàng tre: Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát Hàng tre có thực bên lăng nhờ từ bát ngát đã trở thành hàng tre đất nước, hàng tre biểu tượng cho sức sống bền bỉ, sự kiên cường bất khuất, dáng đứng hiên ngang của dân tộc Việt Nam. Qua bão táp mưa Sa hàng tre vẫn đứng thẳng, vẫn kiên cường như những người dân Việt: Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng. Cảm xúc dồn nén giờ bật lên thành lời: Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam Hàng tre kia đã được gắn với tên Tổ quốc, hai tiếng Việt Nam đầy thân thương. Nơi lăng Bác, ý nguyện của Người về đất nước độc lập, tự do vẫn vẹn nguyên, tươi xanh trong hình ảnh hàng tre. Nếu như dòng thơ đầu là nỗi tiếc đau của tác giả thì ba dòng thơ còn lại Viễn Phương nói về tre, nghĩ về tre và cũng là nói về Bác. Bên lăng, trong cảm xúc xúc động của nhà thơ, hình ảnh Bác gắn liền với hình ảnh đất nước kiên cường. Bác đã đi xa mãi mãi nhưng với Viễn Phương, hình ảnh Bác bất tử trong mối liên tưởng với mặt trời và tràng hoa – dòng người viếng Bác: Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ. Thời gian là bất tận. Vòng tuần hoàn thời gian vẫn cứ trôi lặng lẽ. Như vầng dương chói sáng đem lại ánh sáng cho thiên nhiên, Bác là nguồn sáng của dân tộc Việt Nam. Bác là người đã rọi sáng con đường tự do dẫn cả dân tộc bước tới. Chính Bác đã mang đến sự sống cho cả một dân tộc. Phải có lòng kính yêu, chân thành, thiết tha mới có cảm xúc liên tưởng Bác với mặt trời như thế. Ví Bác với mặt trời vừa nói lên sự vĩ đại của Bác vừa nói lên sự trân trọng, tấm lòng thành kính của Bác và cũng qua hình ảnh ẩn dụ ấy còn là sự bất tử bởi Người đã hoá thân vào những gì vĩnh cửu của thiên nhiên, vũ trụ. Không chỉ so sánh bằng hình ảnh tĩnh mặt trời mà mặt trời Bác còn là một vầng dương rất đỏ. Vầng dương rực đỏ như bầu nhiệt huyết của một vị lãnh tụ suốt đời hi sinh cho Tổ quốc. Bầu nhiệt huyết ấy như vẫn chói sáng, vẫn căng tràn dù rằng con người ấy không còn. Đặt Bác trong mối liên tưởng với mặt trời dù đã là sự suy tôn cao nhất nhưng tác giả vẫn gắn thêm định ngữ rất đỏ như muôn khẳng định: Bác vẫn tồn tại, toả thắm như vầng mặt trời toả sáng. Với Viễn Phương, hình ảnh không chỉ bất tử khi được ví như mặt trời mà người còn mãi trong những dòng thương nhớ: Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ Trong con mắt tác giả, cảm xúc đã khiến không gian lặng không còn là không gian tự nhiên mà là không gian của lòng người, không gian thương nhớ. Một năm sau ngày đất nước thống nhất, lòng thương kính vẫn vẹn nguyên khi nhà thơ hoà cùng dòng người viếng Bác. Sự ra đi của Người như mới chỉ là ngày hôm qua. Tất cả vẫn như còn lại đó, không đổi thay, xoay chuyển, vẫn luôn là dòng người với nỗi đau, cảm giác mất mát, thiếu vắng. Từ hình ảnh thực ấy, tác giả liên tưởng dòng người như kết thành tràng hoa. Tuy không còn nữa nhưng sự ra đi của Người lại gắn kết những người còn sống theo đúng ước nguyện của Người: Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân… Dòng người không chỉ đến viếng một Người đã khuất mà viếng một cuộc đời bảy mươi chín mùa xuân. Nhà thơ không gọi bằng tuổi mà nói bằng mùa xuân là để hoá xuân, vĩnh cửu hoá cuộc đời Người. Bởi cuộc đời ấy đẹp như mùa xuân và mùa xuân ấy đã mang lại sức xuân cho cả một dân tộc. Cuộc đời Bác là một mùa xuân đẹp nhất trong hàng ngàn mùa xuân nhỏ của dân tộc anh hùng. Khổ thơ có sự lặp lại cấu trúc: Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng… Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ Mặt trời lặn mọc mỗi ngày trên lăng cũng như dòng người vào lăng viếng Bác vẫn còn mãi như niềm yêu kính của nhân dân và cũng bởi vậy mà Bác Hồ là bất tử. Theo bước chân của dòng người, nhà thơ được tiếp cận di hài Bác và cảm thấy một niềm tiếc thương vô hạn, niềm đau xót khôn nguôi: Bác nằm trong giấc ngủ bình yên Khung cảnh và không gian thanh tĩnh trong lăng như ngưng kết cả thời gian và không gian. Cả cuộc đời Bác là những chuỗi ngày dài không ngủ. Chỉ giờ đây Người mới có giấc ngủ ngàn thu yên bình. Trong không gian lăng tĩnh lặng, trang nghiêm như thế, trong dòng cảm xúc trào dâng những ý thơ, trăng vốn gắn bó với người lúc sinh thời như hiện về trong tâm tưởng: Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền Nếu hai dòng thơ đầu là cảm xúc của nhà thơ trong phút đầu gặp Người thì hai dòng thơ sau là một nỗi xót đau: Vẫn biết trời xanh là mãi mãi Mà sao nghe nhói ở trong tim! Câu thơ như một lời tự hỏi, một câu phân vân giữa ý chí và tình cảm. Tiếng nói của ý chí vẫn biết trời xanh là mãi mãi – Người vẫn còn như trời xanh còn mãi nhưng điều đó chẳng thể ngăn được tình cảm nhói đau chợt đến Mà sao nghe nhói ở trong tim. Cặp quan hệ từ vẫn biết – mà sao diễn đạt cái diễn biến không lường được, không kiểm soát nổi cảm xúc của tác giả, của người về muộn bên di hài Người cha tôn kính. Những xót đau, thương tiếc đã trở thành ước nguyện hoá thân làm đẹp nơi yên nghỉ của Người, làm người con trung hiếu của Bác trong bài thơ: Mai về miền Nam thương trào nước mắt Thời gian phải rời xa còn rất ngắn. Không gian trở về xa cách. Và khoảng cách lòng người tuy xa mà gần. Nghĩ đến điều ấy mà nước mắt lại trào trên mi, chẳng thể nào xuôi vào trong được nữa. Nước mắt cứ trào ra, pha lẫn cả nỗi đau thương mất mát với những quyến luyến bịn rịn. Trong quãng thời gian chỉ còn được tính bằng ngày, bởi không nỡ xa Người nên tác giả ước nguyện hoá thân để ở lại bên Bác: Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác Muốn làm đoá hoa toả hương đâu đây Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này. Muốn được hoá thân thành con chim hót bên lăng, thành đóa hoa toả hương, thành cây tre trung hiếu cũng có nghĩa là ước nguyện để lại một thanh âm, một làn hương làm đẹp cõi Bác và lớn hơn đó là làm một cây tre trung hiếu. Khổ đầu bài thơ, từ hàng tre bên lăng liên tưởng tới hàng tre Việt Nam bất khuất, kiên cường. Giờ đây, tác giả muốn làm một cây tre trong hàng tre ấy, muốn là một người con trung hiếu di theo con đường mà Bác đã đi. Tất cả những ước nguyện đó đều đẹp đẽ, chân thành, tha thiết. Điệp ngữ muốn làm mở đầu cho những dòng thơ càng tôn lên những ước nguyện đẹp đẽ ấy. Nằm trong số rất nhiều những bài thơ viết về sự ra đi của Người, Viếng lăng Bác của nhà thơ Viễn Phương vừa mang những cái chung đó là niềm tiếc thương, xót đau vô hạn lại vừa có cả những cái rất riêng, rất đặc biệt. Cái riêng, cái đặc biệt chính bởi sự liên tưởng để bác mãi mãi là bất tử trong lòng mỗi người dân đất Việt. Bài thơ như một lời tưởng niệm với con người đã khuất. Hơn nữa, nó đã nâng tầm vóc một con người lên một tầm cao, vĩ đại.
Đề bài: Phân tích – Bình luận bài thơ Đập đá ở Côn Lôn của Phan Châu Trinh. Bài làm Như ta đã biết, vào những năm đầu thế kỉ XX, cùng hoạt động cứu nước, cùng sáng tác văn chương, bên cạnh cụ Phan Bội Châu có một số chí sĩ yêu nước khác cũng rất đáng kính, trong đó, nổi bật là cụ Phan Châu Trinh. Chặng đường hoạt động của cụ Châu Trinh ngắn hơn cụ Bội Châu. Năm 1908, cụ đã bị giặc bắt, rồi bị đày ra Côn Đảo. Tại đíìy, Phan Châu Trinh đã sáng tác một số bài thơ nổi tiếng. Trong đó nhiều người biết đến nhất là bài Đập đá ở Côn Lôn. So với bài Vào nhà ngục Quàng Đông cảm tác của Phan Bội Châu, Đập đá ở Côn Lôn ra dời trước sáu năm. Xa cách về thời gian, về không gian, nhưng cảnh ngộ tác giả – người anh hùng chí lớn bị mất tự do – nhất là bản lĩnh làm người của hai nhà thơ thì tương tự, nên tác phẩm có đôi ba nét tương đồng. Nét tương đồng dễ thấy giữa hai bài thơ là về thể thơ, cả hai đều là thơ Nôm thất ngôn bát cú Đường luật; về đề tài, cả hai đều là thơ viết trong tù vượt trên xiềng xích, nói lên chí hướng, lí tưởng, tự hoạ chân dung nhân cách của chính mình; về giọng điệu, cá hai đều là thơ khẩu khí hào hùng, mạnh mẽ, đậm chất anh hùng ca,… Tất nhiên, xét về nội dung, ngôn từ, hình ảnh,… cụ thể của tác phẩm, Đập đá ở Côn Lôn khác với Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác. Điểm sáng chói nhất trong bài thơ của cụ Phan Châu Trinh là hình tượng một đấng tài trai hiên ngang, ngạo nghễ vung cao chiếc búa… đứng giữa đất Côn Lôn rải rác đá hòn, đá táng và bời bời sóng gió đại dương. Bài thơ có bố cục quen thuộc của thơ Đường luật: đề, thực, luận, kết. Tuy nhiên nếu ta quan sát kĩ hình tượng nhân vật trữ tình – cũng là hình ảnh nhà thơ – ta thấy có hai nét nổi bật: 1. Bốn cấu đầu khắc hoạ dáng vẻ bề ngoài của bức chân dung: Làm trai đứng giữa đất Côn Lôn, Lừng lẫy làm cho lở núi non. Xách bứa đánh tan năm bay đống, Ra tay đập bể mấy trăm hòn. Hai câu để trực tiếp miêu tả người đập đá, tư thế, địa điểm, sức mạnh của động tác và hiệu quá công việc, thật rõ ràng. Đó là một đấng nam nhi, đứng hiên ngang giữa “đất cỏn Lôn”… Nói tới Côn Lôn, mọi người Việt Nam thuở ấy đều hiểu rằng đây là “Côn Đảo”, mảnh đất giữa đại dương mênh mông, nơi thực dân Pháp dùng để xây nhà tù, giam cầm, đày đoạ những người yêu nước đứng lên chống lại chúng. Cho nên, hình ảnh “Làm trai đứng giữa đất Côn Lôn” dễ dàng làm cho người đọc nghT tới một con người hiên ngang, ngạo nghễ giữa tù ngục, xiềng xích. Người trai ấy đang làm gì? Thì ra người đang đập đá. Câu thứ nhất tĩnh, xuống câu thứ hai chuyển sang nét động. Từ lừng lẫy đầu câu chưa thật rõ nghĩa. Nhưng đến cụm từ sau “làm cho lở núi non” thì ý thơ mở ra, hình tượng nhân vật hiện lên oai phong lẫm liệt như một vị thần. Ngỡ như vị thần ấy đang xẻ núi, khơi sông để sắp xếp lại núi non, trời đất. Trong thực tế, Phan Châu Trinh đang phải làm lao dịch khổ sai, đập đá, chuyển đá để làm đường, xây nhà,… theo sự ép buộc của bọn cai ngục, sự quản thúc của bọn lính ngục. Đó là công việc chẳng hứng thú gì nếu không nói là vô cùng cực khổ. Vậy mà, tác giả lại nói như thế, viết như thế. Thật là những cãu thơ lãng mạn của một bản lĩnh người anh hùng vượt lên trên mọi đau khổ của cuộc đời, để khẳng định phong cách làm người, một phong cách sống. Đến hai câu thực, phong cách sống ấy bộc lộ rõ nét hơn nữa: Xách búa đánh tan năm bảy đống, Ra tay đập bể mấy trăm hòn. Về nghĩa tả thực, cũng như nghĩa tượng trưng, bóng bẩy, ta có cảm giác người tù – vị thần ấy đang làm việc hết mình, tung hoành, ngang dọc, đập phá quyết liệt cái đối tượng mà mình đang đối mặt. Hình ảnh đối xứng hài hoà, kết hợp các từ ngữ nôm na vừa chạm khắc chân dung nhân vật, vừa ngân vang âm thanh, nhịp điệu của công việc. Hoá ra, đây đâu phải việc đập đá tầm thường như kẻ địch ép buộc người tù mà chính là việc biến cải càn khôn, vũ trụ của người dũng sĩ phá tan những gò đống, đập vỡ những tảng, những hòn ngăn cản đường đi… Cặp cụm từ đánh tan, đối xứng với đập bể vang lên, nghe thật sướng tai! Có thể nói, bốn câu thơ đầu của bài thơ Đập đá ở Côn Lôn thiên về miêu tả ngoại hình nhân vật trữ tình – cũng là hình ảnh Phan Châu Trinh khi phải làm khổ sai ở Côn Đảo. Nhưng nhà thơ không dùng bút pháp tả thực mà phóng bút, dùng tưởng tượng và nghĩ suy để tự hoạ chân dung mình. Do đó, từ một việc bình thường, thậm chí tầm thường, khổ cực, tác giả đã nâng lên miêu tả hình ảnh một con người phi phàm, một anh hùng thần thoại đang thực hiện sứ mệnh thiêng liêng: khai sông, phá núi, vạt đồi, chuyển đá để tạo dựng càn khôn đổi thay vũ trụ… công việc ấy lẫy lừng, vang dộng cả đất Côn Lôn. 2. Sang đến bốn câu sau – hai câu luận và hai câu kết, nhà thơ chuyển giọng từ miêu tả tung phá sang suy nghĩ lắng sâu: Tháng ngày hao quản thân sành sỏi, Mưa nắng càng bền dạ sắt son. Những kẻ vá trời khỉ lỡ bước, Gian nan chi kể việc con con! Đây là những lời tự nhủ, tự động viên mình hãy vững vàng trước những khó khăn, thử thách. Hai câu luận cũng có hai cặp đối xứng khá chặt chẽ: “tháng ngày” – “mưa nắng” ; “thân sành sỏi” – “dạ sắt son”. Ý thơ mở rộng, không chỉ nói việc đập đá mà khái quát thời gian, không gian, những “nắng mưa”, bão tố của cuộc đời đang đợi mình phía trước. Đấy là nhà tù, là gông xiềng, tra tấn, là nối tiếp những lao dịch khổ sai, những cơ cực gấp bội phần việc đập đá. Nhưng, tất cả, minh đều chấp nhận, thậm chí đều coi là điều kiện, là trường học để tôi luyện cho thân thêm “sành sỏi”, cứng rắn hơn, cho dạ “sắt son”, lòng trung thành với dân với nước càng bền vững hơn. Nghe được những tiếng tự tình như thế của nhà thơ, ta phát hiện thêm một vẻ đẹp nữa của thơ. Đó là hai cặp tiểu dối khá tinh tế: Tháng ngày – biểu tượng cho sự thử thách kéo dài đối chọi với “thân sành sỏi” ; Mưa nắng – biểu tượng cho những gian khổ ở dời đối chọi với “dạ sắt son”. Đồng thời, ta c.òn nhận ra nghệ thuật ẩn dụ cũng khá thú vị của hai củu thơ. Dùng hai hình anh “sành sỏi” và “sắt son”, vốn rất gần gũi cuộc sống đời thường ngầm ví với bản lĩnh tinh thần và sức lực của con người khiến cho thơ mang âm điệu dân dã mà vẫn trang trọng, dễ hiểu. Đến hai câu kết lại xuất hiện một ẩn dụ nữa cũng đậm tính dân gian và cũng rất ấn tượng: Những kẻ vá trời khi lỡ bước, Gian nan chi kể việc con con. Hình ảnh “kẻ vá trời” nhắc người đọc nhớ tới huyền thoại vé bà “Nữ Oa dội đá vá trời”. Tự ví mình là kẻ vá trời, tương tự một vị thần kì diệu như thế là cách nói khoa trương, cường điệu. Song ngẫm ra, cũng không phải là quá lời. Bởi vì, sự nghiệp cứu dân cứu nước thoát khỏi ách thống trị của thực dân Pháp hơn nửa thế kỉ mà các cụ Phan Châu Trinh, Phan Bội Châu theo đuổi lúc bấy giờ quả là một việc to lớn, táo bạo, nặng nề và đầy ý nghĩa, chẳng kém gì bà Nữ Oa xưa đội đá vá trời, nhằm đem lại cho nhân dân áo ấm, cơm no. Với hình ảnh vá trời ấy, nhà thơ nhấn mạnh thêm bức chân dung người đập đá ở những câu thơ trên. Đồng thời, cũng muốn ngầm ví công việc khổ sai mà người tù đang phải làm chỉ là việc con con. Như thế, cả về niêm, luật của Đường thi lẫn nội dung, ý nghĩa, hai câu kết đã tô đậm thêm tư thế, bản lĩnh và ý chí của người anh hùng, đấng tài trai đứng giữa đất Côn Lôn. Đốt cho tiêu kiếp tù đầy Cho bừng lửa hận, biết tay anh hùng. Giống cảnh ngộ cụ Phan Châu Trinh, nhà thơ Sóng Hồng khi bị giam ở nhà tù Sơn La phải lên rừng kiếm củi về cho bọn lính ngục đun bếp, đốt lửa,… Từ một việc lao dịch khổ sai như thế, người tù – thi sĩ ấy đã viết nên những vần thơ ngời sáng hào khí anh hùng, thật đáng kính phục. Đọc những vần thơ khẩu khí kiểu Đập đá ỏ Côn Lôn, Vào nhà ngục Quàng Đôn ạ cảm tác hay Lấy củi, chúng ta không chí nhìn thấy nét dẹp hình tượng nhân vật trong thơ mà còn ngẫm được nhiều bài học bổ ích từ cách sống, cách nghĩ của tác giả. Hãy sống hết mình, hăy nghĩ phóng khoáng, biến những gian khổ, vất vả trong công việc đời thường thành những hành động hào hứng, những khát khao bay bổng để làm việc hăng hái hơn, sống có ý nghĩa hơn…
Đề bài: Phân tích – Bình luận bài thơ Đập đá ở Côn Lôn của Phan Châu Trinh. Bài làm Như ta đã biết, vào những năm đầu thế kỉ XX, cùng hoạt động cứu nước, cùng sáng tác văn chương, bên cạnh cụ Phan Bội Châu có một số chí sĩ yêu nước khác cũng rất đáng kính, trong đó, nổi bật là cụ Phan Châu Trinh. Chặng đường hoạt động của cụ Châu Trinh ngắn hơn cụ Bội Châu. Năm 1908, cụ đã bị giặc bắt, rồi bị đày ra Côn Đảo. Tại đíìy, Phan Châu Trinh đã sáng tác một số bài thơ nổi tiếng. Trong đó nhiều người biết đến nhất là bài Đập đá ở Côn Lôn. So với bài Vào nhà ngục Quàng Đông cảm tác của Phan Bội Châu, Đập đá ở Côn Lôn ra dời trước sáu năm. Xa cách về thời gian, về không gian, nhưng cảnh ngộ tác giả – người anh hùng chí lớn bị mất tự do – nhất là bản lĩnh làm người của hai nhà thơ thì tương tự, nên tác phẩm có đôi ba nét tương đồng. Nét tương đồng dễ thấy giữa hai bài thơ là về thể thơ, cả hai đều là thơ Nôm thất ngôn bát cú Đường luật; về đề tài, cả hai đều là thơ viết trong tù vượt trên xiềng xích, nói lên chí hướng, lí tưởng, tự hoạ chân dung nhân cách của chính mình; về giọng điệu, cá hai đều là thơ khẩu khí hào hùng, mạnh mẽ, đậm chất anh hùng ca,… Tất nhiên, xét về nội dung, ngôn từ, hình ảnh,… cụ thể của tác phẩm, Đập đá ở Côn Lôn khác với Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác. Điểm sáng chói nhất trong bài thơ của cụ Phan Châu Trinh là hình tượng một đấng tài trai hiên ngang, ngạo nghễ vung cao chiếc búa… đứng giữa đất Côn Lôn rải rác đá hòn, đá táng và bời bời sóng gió đại dương. Bài thơ có bố cục quen thuộc của thơ Đường luật: đề, thực, luận, kết. Tuy nhiên nếu ta quan sát kĩ hình tượng nhân vật trữ tình – cũng là hình ảnh nhà thơ – ta thấy có hai nét nổi bật: 1. Bốn cấu đầu khắc hoạ dáng vẻ bề ngoài của bức chân dung: Làm trai đứng giữa đất Côn Lôn, Lừng lẫy làm cho lở núi non. Xách bứa đánh tan năm bay đống, Ra tay đập bể mấy trăm hòn. Hai câu để trực tiếp miêu tả người đập đá, tư thế, địa điểm, sức mạnh của động tác và hiệu quá công việc, thật rõ ràng. Đó là một đấng nam nhi, đứng hiên ngang giữa “đất cỏn Lôn”… Nói tới Côn Lôn, mọi người Việt Nam thuở ấy đều hiểu rằng đây là “Côn Đảo”, mảnh đất giữa đại dương mênh mông, nơi thực dân Pháp dùng để xây nhà tù, giam cầm, đày đoạ những người yêu nước đứng lên chống lại chúng. Cho nên, hình ảnh “Làm trai đứng giữa đất Côn Lôn” dễ dàng làm cho người đọc nghT tới một con người hiên ngang, ngạo nghễ giữa tù ngục, xiềng xích. Người trai ấy đang làm gì? Thì ra người đang đập đá. Câu thứ nhất tĩnh, xuống câu thứ hai chuyển sang nét động. Từ lừng lẫy đầu câu chưa thật rõ nghĩa. Nhưng đến cụm từ sau “làm cho lở núi non” thì ý thơ mở ra, hình tượng nhân vật hiện lên oai phong lẫm liệt như một vị thần. Ngỡ như vị thần ấy đang xẻ núi, khơi sông để sắp xếp lại núi non, trời đất. Trong thực tế, Phan Châu Trinh đang phải làm lao dịch khổ sai, đập đá, chuyển đá để làm đường, xây nhà,… theo sự ép buộc của bọn cai ngục, sự quản thúc của bọn lính ngục. Đó là công việc chẳng hứng thú gì nếu không nói là vô cùng cực khổ. Vậy mà, tác giả lại nói như thế, viết như thế. Thật là những cãu thơ lãng mạn của một bản lĩnh người anh hùng vượt lên trên mọi đau khổ của cuộc đời, để khẳng định phong cách làm người, một phong cách sống. Đến hai câu thực, phong cách sống ấy bộc lộ rõ nét hơn nữa: Xách búa đánh tan năm bảy đống, Ra tay đập bể mấy trăm hòn. Về nghĩa tả thực, cũng như nghĩa tượng trưng, bóng bẩy, ta có cảm giác người tù – vị thần ấy đang làm việc hết mình, tung hoành, ngang dọc, đập phá quyết liệt cái đối tượng mà mình đang đối mặt. Hình ảnh đối xứng hài hoà, kết hợp các từ ngữ nôm na vừa chạm khắc chân dung nhân vật, vừa ngân vang âm thanh, nhịp điệu của công việc. Hoá ra, đây đâu phải việc đập đá tầm thường như kẻ địch ép buộc người tù mà chính là việc biến cải càn khôn, vũ trụ của người dũng sĩ phá tan những gò đống, đập vỡ những tảng, những hòn ngăn cản đường đi… Cặp cụm từ đánh tan, đối xứng với đập bể vang lên, nghe thật sướng tai! Có thể nói, bốn câu thơ đầu của bài thơ Đập đá ở Côn Lôn thiên về miêu tả ngoại hình nhân vật trữ tình – cũng là hình ảnh Phan Châu Trinh khi phải làm khổ sai ở Côn Đảo. Nhưng nhà thơ không dùng bút pháp tả thực mà phóng bút, dùng tưởng tượng và nghĩ suy để tự hoạ chân dung mình. Do đó, từ một việc bình thường, thậm chí tầm thường, khổ cực, tác giả đã nâng lên miêu tả hình ảnh một con người phi phàm, một anh hùng thần thoại đang thực hiện sứ mệnh thiêng liêng: khai sông, phá núi, vạt đồi, chuyển đá để tạo dựng càn khôn đổi thay vũ trụ… công việc ấy lẫy lừng, vang dộng cả đất Côn Lôn. 2. Sang đến bốn câu sau – hai câu luận và hai câu kết, nhà thơ chuyển giọng từ miêu tả tung phá sang suy nghĩ lắng sâu: Tháng ngày hao quản thân sành sỏi, Mưa nắng càng bền dạ sắt son. Những kẻ vá trời khỉ lỡ bước, Gian nan chi kể việc con con! Đây là những lời tự nhủ, tự động viên mình hãy vững vàng trước những khó khăn, thử thách. Hai câu luận cũng có hai cặp đối xứng khá chặt chẽ: “tháng ngày” – “mưa nắng” ; “thân sành sỏi” – “dạ sắt son”. Ý thơ mở rộng, không chỉ nói việc đập đá mà khái quát thời gian, không gian, những “nắng mưa”, bão tố của cuộc đời đang đợi mình phía trước. Đấy là nhà tù, là gông xiềng, tra tấn, là nối tiếp những lao dịch khổ sai, những cơ cực gấp bội phần việc đập đá. Nhưng, tất cả, minh đều chấp nhận, thậm chí đều coi là điều kiện, là trường học để tôi luyện cho thân thêm “sành sỏi”, cứng rắn hơn, cho dạ “sắt son”, lòng trung thành với dân với nước càng bền vững hơn. Nghe được những tiếng tự tình như thế của nhà thơ, ta phát hiện thêm một vẻ đẹp nữa của thơ. Đó là hai cặp tiểu dối khá tinh tế: Tháng ngày – biểu tượng cho sự thử thách kéo dài đối chọi với “thân sành sỏi” ; Mưa nắng – biểu tượng cho những gian khổ ở dời đối chọi với “dạ sắt son”. Đồng thời, ta c.òn nhận ra nghệ thuật ẩn dụ cũng khá thú vị của hai củu thơ. Dùng hai hình anh “sành sỏi” và “sắt son”, vốn rất gần gũi cuộc sống đời thường ngầm ví với bản lĩnh tinh thần và sức lực của con người khiến cho thơ mang âm điệu dân dã mà vẫn trang trọng, dễ hiểu. Đến hai câu kết lại xuất hiện một ẩn dụ nữa cũng đậm tính dân gian và cũng rất ấn tượng: Những kẻ vá trời khi lỡ bước, Gian nan chi kể việc con con. Hình ảnh “kẻ vá trời” nhắc người đọc nhớ tới huyền thoại vé bà “Nữ Oa dội đá vá trời”. Tự ví mình là kẻ vá trời, tương tự một vị thần kì diệu như thế là cách nói khoa trương, cường điệu. Song ngẫm ra, cũng không phải là quá lời. Bởi vì, sự nghiệp cứu dân cứu nước thoát khỏi ách thống trị của thực dân Pháp hơn nửa thế kỉ mà các cụ Phan Châu Trinh, Phan Bội Châu theo đuổi lúc bấy giờ quả là một việc to lớn, táo bạo, nặng nề và đầy ý nghĩa, chẳng kém gì bà Nữ Oa xưa đội đá vá trời, nhằm đem lại cho nhân dân áo ấm, cơm no. Với hình ảnh vá trời ấy, nhà thơ nhấn mạnh thêm bức chân dung người đập đá ở những câu thơ trên. Đồng thời, cũng muốn ngầm ví công việc khổ sai mà người tù đang phải làm chỉ là việc con con. Như thế, cả về niêm, luật của Đường thi lẫn nội dung, ý nghĩa, hai câu kết đã tô đậm thêm tư thế, bản lĩnh và ý chí của người anh hùng, đấng tài trai đứng giữa đất Côn Lôn. Đốt cho tiêu kiếp tù đầy Cho bừng lửa hận, biết tay anh hùng. Giống cảnh ngộ cụ Phan Châu Trinh, nhà thơ Sóng Hồng khi bị giam ở nhà tù Sơn La phải lên rừng kiếm củi về cho bọn lính ngục đun bếp, đốt lửa,… Từ một việc lao dịch khổ sai như thế, người tù – thi sĩ ấy đã viết nên những vần thơ ngời sáng hào khí anh hùng, thật đáng kính phục. Đọc những vần thơ khẩu khí kiểu Đập đá ỏ Côn Lôn, Vào nhà ngục Quàng Đôn ạ cảm tác hay Lấy củi, chúng ta không chí nhìn thấy nét dẹp hình tượng nhân vật trong thơ mà còn ngẫm được nhiều bài học bổ ích từ cách sống, cách nghĩ của tác giả. Hãy sống hết mình, hăy nghĩ phóng khoáng, biến những gian khổ, vất vả trong công việc đời thường thành những hành động hào hứng, những khát khao bay bổng để làm việc hăng hái hơn, sống có ý nghĩa hơn…
Bình luận bài Về luân lí xã hội ở nước ta của Phan Châu Trinh Hướng dẫn Bình luận bài Về luân lí xã hội ở nước ta của Phan Châu Trinh Phan Châu Trinh sinh năm 1872 và mất năm 1926, là một nhà chiến sĩ yêu nước nổi tiếng. Ông luôn ý thức được dùng văn chương để làm cách mạng, chính vì thế mà những tác phẩm của ông đều mang tính chất hùng biện và lập luận chặt chẽ,đanh thép,thấm nhuần được tư tưởng yêu nước.Một trong những tác phẩm chính của Phan Châu Trinh đó là đạo đức lí luận đông tây và lí luận về xã hội ở nước ta. Nổi bật lên trong đoạn trích là dũng khí của một người yêu nước. Qua đó có thể vạch trần được tình trạng đen tối của xã hội,và đề cao tư tưởng đoàn thể vì sự tiến bộ, hướng đến một tương lai tươi sáng hơn. Với đoạn trích này thì tác giả muốn hướng tới cho toàn thể con người Việt Nam,khôi phục được ý thức trách nhiệm của mỗi người dân đối với sự phát triển của đất nước. Vậy qua đó chúng ta hãy tìm hiểu xem cái lí luận xã hội được tác giả nhắc tới đó là gì? Đó có nghĩa là lí luận của chủ nghĩa xã hội, coi trọng sự bình đẳng của con người, không chỉ là quan tâm tới từng gia đình hay quốc gia mà còn đến cả một thế giới. Theo như Phan Chu Trinh thì trong xã hội Việt Nam đương thời thì gia đình nào biết gia đình nấy và lí luận quốc gia thì quốc gia nào lo cũng cố, phát triển quốc gia nấy. Ông cho rằng hai lí luận này đều tiêu vong và đó chính là nguyên nhân dẫn tới mất nước. Ông cho rằng ở Châu Âu thì họ có ý thức đoàn thể và sẵn sàng làm việc chung sẵn sàng giúp đỡ lẫn nhau còn ở Việt Nam thì tác giả cho rằng nước chúng ta không có luân lí xã hội. Thứ nhất là dân ta chỉ biết lo cho bản thân mà không quan tâm tới người khác “Người mình thì phải ai tai nấy, ai chết mặc ai! Đi đường gặp người bị tai nạn, gặp người yếu bị kẻ mạnh bắt nạt cũng ngơ mắt đi qua, hình như người bị nạn khốn ấy không can thiệp gì đến mình”. Tiếp đến, tác giả đã viết: “ đã biết sống thì phải bênh vực nhau, biết góp gió thành bão, giụm cây làm rừng không đến nỗi trơ trọi, lơ láo, sợ sệt, ù lì như ngày nay” và còn dùng một số câu thành ngữ như “không ai bẻ đũa cả nắm” hay “Nhiều tay làm nên bộp” để chỉ rõ trước kia dân tộc Việt Nam cũng biết đến đoàn thể, công ích, biết đến sức mạnh của tình đoàn kết nhưng hiện nay thì không còn nữa. Bên cạnh phê phán bọn tham quan thì tác giả cũng đã chỉ ra được sự hèn kém của dân mình đó là “dầu tham, dầu nhũng dầu rút tỉa của dân thế nào cũng không ai bình phẩm; dầu lấy lúa của dân mua vườn sắm ruộng, xây nhà làm cửa cũng không ai chê bai”. Cuối cùng đó là thái độ gió chiều nào thì xoay chiều ấy, thấy được quyền thế thì chạy theo quỵ lụy và dựa dẫm, nào lo cho quan rồi lót cho quan, nào chạy ngược rồi chạy xuôi: Thương ôi! Làng có một trăm dân mà người này đối với kẻ kia đều ngó theo sức mạnh, không có chút gì gọi là luân lí đạo đức cả”. Theo tác giả thì muốn có luân lí xã hội thì phải gây dựng đoàn thể để có thể giúp đỡ lẫn nhau trong cuộc sống của chúng ta. Đồng thời thì xóa bỏ chế độ phong kiến đã mục nát để xây dựng một chế độ xã hội chủ nghĩa theo đúng như nghĩa của nó, nâng cao được ý thức của dân trí, hướng cho dân tới mục tiêu để giành được độc lập tự do cho toàn thể dân tộc. Nguồn: Bài văn hay
Comment on the article On social morality in our country by Phan Chau Trinh Instruct Comment on the article On social morality in our country by Phan Chau Trinh Phan Chau Trinh was born in 1872 and died in 1926. He was a famous patriot. He was always aware of using literature to make revolution, which is why his works are eloquent and have strong, strong arguments, imbued with patriotic ideology. One of his works Phan Chau Trinh's main work is the moral theory of East and West and the theory of society in our country. What stands out in the excerpt is the courage of a patriot. Thereby it is possible to expose the dark situation of society, and promote the collective ideology for progress, towards a brighter future. With this excerpt, the author wants to reach out to all Vietnamese people, restoring each person's sense of responsibility for the country's development. So let's find out what the social theory mentioned by the author is? That means the theory of socialism, valuing human equality, not only caring for each family or country but also for the whole world. According to Phan Chu Trinh, in contemporary Vietnamese society, every family knows its own family, and according to national theory, every country takes care to strengthen and develop its own country. He believes that these two arguments are doomed and that is the cause of the loss of country. He believes that in Europe, they have a sense of solidarity and are willing to work together and help each other. In Vietnam, the author believes that our country has no social morality. Firstly, our people only know how to care for themselves and do not care about others. On the road, when I see someone in an accident, I see a weak person being bullied by a strong person, I just turn a blind eye and pass by, it seems like that miserable person doesn't have anything to do with me. Next, the author wrote: "If you know how to live, you must defend each other, know how to contribute to the wind to create storms, and push down trees to make the forest not so lonely, careless, afraid, and inert as it is today" and also used a Some idioms such as "no one can break chopsticks" or "Many hands make a success" to show that in the past the Vietnamese people also knew about unions, common good, and the power of solidarity, but now is no more. Besides criticizing the corrupt people, the author also pointed out the cowardice of his people: "No matter how greedy or greedy the people are, no one will criticize them; Even if we take people's rice to buy gardens and fields, and build houses, no one will criticize us." In the end, it is the attitude that the wind turns in any direction, when you see power and power, you run after it, being submissive and dependent, not worrying about the officials and then paying for the officials, not running backwards and then running forwards: Oh my god! The village has a hundred people, but each person looks at each other according to strength, there is no such thing as morality at all. According to the author, if we want to have social morality, we must build unions to be able to help each other in our lives. At the same time, we will eliminate the rotten feudal regime to build a socialist regime in its true sense, raise the people's consciousness, and guide the people towards the goal of gaining independence. for the entire nation. Source: Good article
Đề bài: Trong Bài ca vỡ đất, nhà thơ Hoàng Trung Thông đã khẳng định: Bàn tay ta làm nên tất cả Có sức người sỏi đá cũng thành cơm. Em hãy bình luận chứng minh để làm sáng tỏ ý kiến trên. Bài làm Trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, nhân dân ta phải vượt qua nhiều khó khăn, gian khổ để vừa chống giặc ngoại xâm, vừa đảm bảo đời sống vật chất. Để phục vụ kháng chiến, rất nhiều đoàn nông binh đã hăng hái lên rừng khai hoang vỡ đất, trồng lúa trồng ngô, lấy lương thực nuôi quân đánh giặc. Ca ngợi những chiến sĩ nông binh đó, nhà thơ Hoàng Trung Thông đã viết: Bàn tay ta làm nên tất cả, Có sức người, sỏi đá cũng thành cơm. (Bài ca vỡ đất -1948) Thực tế cuộc sống lao động xây dựng đất nước trong mấy chục năm qua cho thấy khẳng định của nhà thơ Hoàng Trung Thông là hoàn toàn có cơ sở. Thông qua những,hình ảnh giàu ý nghĩa tượng trưng: bàn tay tượng trưng cho sức lao động của con người, sỏi đá tượng trưng cho khó khăn, trở ngại, cơm tượng trưng cho thành quả lao động, nhà thơ đã ca ngợi con người có khả năng cải tạo thiên nhiên để tạo lập cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Tất cả của cải vật chất và tinh thần của nhân loại từ trước tới nay đều do bàn tay, khối óc của con người sáng tạo ra. Con người biết trồng trọt, chăn nuôi, biết dựng nhà, dựng cửa, biết chế tạo ra công cụ lao động và những vật dụng cần thiết… để cuộc sống văn minh, tiến bộ hơn hẳn loài cầm thú. Con người còn biết vẽ tranh, nặn tượng, biết làm ra cây sáo, cây đàn, bộ trống… để làm cho cuộc đời thêm phong phú, đáng yêu. Ở vùng ven biển Thái Bình, Nam Hà, những con đê quai ngày càng tiến dần về phía biển Đông để mở rộng diện tích đất trồng trọt. Đồi núi Lục Ngạn, Hà Bắc vốn khô cằn sỏi đá, nhờ bàn tay lao động cẩn cù và sáng tạo của con người, nay đã thành vùng chuyên canh cây ăn quả. Những vườn vải thiều chín đỏ, những vườn cam chín vàng… đã đem lại cuộc sống ấm no, giàu có cho người dân ở đây. Sau ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, nhân dân ở những vùng chiến trường cũ như Khe Sanh, Plâyku, Lộc Ninh… đã đổ biết bao mồ hôi, công sức để biến sắt thép, bom mìn, cỏ dại thành vườn cây trĩu quả, thành rừng cao su bạt ngàn và những nông trường cà phê xanh tốt. Con người có khả năng rất tiềm tàng nhưng để biến khả năng ấy thành hiện thực, chúng ta phải cố gắng rất nhiều, cố gắng tiếp thu kiến thức của nhân loại, cố gắng sáng tạo ra những điều mới mẻ, hữu ích. Việc học tập của mỗi học sinh cũng chính là nhằm vào mục đích ấy. Hai câu thơ trên của nhà thơ Hoàng Trung Thông như lời động viên khích lệ chúng ta hãy tin tưởng vào đôi bàn tay Cần cù và khối óc năng động, sáng tạo của chính mình trên bước đường tạo dựng sự nghiệp.
Topic: In The Song of Broken Earth, poet Hoang Trung Thong affirmed: Our hands can make everything. With human strength, even stones and rocks can become rice. Please comment with proof to clarify the above opinion. Assignment During the early period of the resistance war against the French, our people had to overcome many difficulties and hardships to both fight against foreign invaders and ensure their material life. To serve the resistance war, many groups of peasant soldiers enthusiastically went to the forest to reclaim land, grow rice and corn, and get food to feed the troops fighting the enemy. Praising those peasant soldiers, poet Hoang Trung Thong wrote: Our hands make it all, Man's strength stones into the rice. (Song of Broken Earth -1948) The reality of working life in building the country over the past few decades shows that poet Hoang Trung Thong's assertion is completely well-founded. Through images rich in symbolic meaning: hands symbolizing human labor, stones symbolizing difficulties and obstacles, and rice symbolizing the results of labor, the poet praised his children. People have the ability to transform nature to create a prosperous and happy life. All the material and spiritual wealth of mankind up to now has been created by human hands and minds. Humans know how to grow crops, raise livestock, build houses, build doors, and create working tools and necessary items... to lead a more civilized and progressive life than animals. People also know how to draw pictures, sculpt statues, know how to make flutes, guitars, drum sets... to make life more rich and lovely. In the coastal areas of Thai Binh and Nam Ha, cofferdams are increasingly moving towards the East Sea to expand the area of ​​​​cultivated land. Luc Ngan and Ha Bac hills and mountains, which were originally dry and rocky, thanks to the diligent and creative hands of people, have now become a specialized fruit growing area. Ripe red lychee gardens, ripe yellow orange gardens... have brought a prosperous and wealthy life to the people here. After the liberation of the South and unification of the country, people in former battlefield areas such as Khe Sanh, Pleiku, Loc Ninh... poured a lot of sweat and effort into turning steel, mines, mines, and weeds into gardens. Fruit-laden trees, vast rubber forests and lush green coffee farms. Humans have great potential, but to turn that ability into reality, we have to try very hard, try to absorb human knowledge, try to create new and useful things. Each student's learning is also aimed at that purpose. The above two verses by poet Hoang Trung Thong serve as encouragement for us to believe in our own diligent hands and dynamic, creative minds on the path to building a career.
Bình luận chứng minh câu tục ngữ: Có công mài sắt có ngày nên kim Hướng dẫn Bình luận chứng minh câu tục ngữ: Có công mài sắt có ngày nên kim Tục ngữ là trí khôn muôn đời của nhân dân. Mỗi câu tục ngữ là một bài học lớn. Một trong những bài học ấy được đúc kết trong câu tục ngữ hàm súc: Có công mài sắt có ngày nên kim Câu tục ngữ đã nêu lên một chân lí lớn bằng một hình ảnh tượng trưng đầy sức thuyết phục. Sắt là một loại kim loại cứng nhưng mài mãi cũng sẽ thành cây kim nhỏ. Đó là một sự cố gắng, kiên trì phi thường. Từ thỏi sắt to trở thành cái kim nhỏ phải tốn bao công sức, mồ hôi mới có được. Mới nghĩ đến, ta đã thấy ngại ngùng. Chẳng ai hơi đâu ngồi kì công mài sắt thành kim như thế. Công việc này tưởng như khó khăn không thể làm nổi. Thế mà vẫn có người không quản gian lao, không sá công phu, vẫn gắng sức làm cho kì được. Cho nên cây kim dù rất nhỏ bé, không đáng gì nhưng nó là thành quả của biết bao sự cố gắng, kiên trì nhẫn nại. Nghĩa đen của câu tục ngữ chỉ là việc mài sắt thành kim, nhưng nếu suy ra nghĩa bóng thì thật là rộng. Đó là một lời khuyên, một bài học mà ông cha ta đã đúc kết từ ngàn đời truyền lại cho con cháu hôm nay và mai sau. Đó là lời răn dạy: Có sự kiên trì nhẫn nại và quyết tâm lớn thì việc gì cũng làm xong cho dù việc đó rất khó khăn, tưởng như không thể hoàn thành được. Bác Hồ từng dạy: Chỉ sợ lòng không bền Đào núi và lấp biển Quyết chí ắt làm nên” cũng là nói về tinh thần không ngại khó. Qua lời Bác dạy ta càng hiểu thêm về sức mạnh của lòng kiên trì, bền bỉ. Có quyết tâm lớn thì việc gì cũng làm được, cho dù đó là việc “đào núi và lấp biển”. Trong cuộc sống của chúng ta có biết bao tấm gương tiêu biểu đã “mài sắt” để có ngày “nên kim”. Tấm gương ấy không đâu xa lạ, đó chính là Bác Hồ – Nguời Cha của dân tộc. Đất nước ta được hòa bình tự do như ngày hôm nay chính là một phần nhờ vào lòng kiên trì “bền vững chí” của Bác. Khi còn là chàng thanh niên trẻ tuổi, Bác đã từ biệt mọi người ra đi tìm đường cứu nước. Ở nơi đất khách quê người Bác đã làm mọi việc để kiếm sống: làm phụ bếp trên tàu, làm người cào tuyết giữa mùa đông giá lạnh ở châu Âu… Có nhớ chăng hỡi gió rét thành Ba Lê Một viên gạch hồng Bác chống lại cả một mùa băng giá Và sương mù thành Luân Đôn, người có nhớ Giọt mồ hôi Người nhỏ giữa đêm khuya (Chế Lan Viên – Người đi tìm hình của nước) Biết bao nhiêu vất vả cực nhọc, Bác chẳng sờn lòng, Bác kiên trì đi đến tất cả các nước, các dân tộc trên thế giới để tìm hiểu con đường giải phóng dân tộc của họ. Cuối cùng sự kiên nhẫn của Bác đã được đền đáp xứng đáng. Người đã tìm thấy con đường đi cho dân tộc thoát khỏi cảnh nô lệ lầm than. Tấm gương Bác Hồ chói sáng và rực rỡ, trước hết là ở chỗ “Có công mài sắt có ngày nên kim”. Những sáng tác của ông là kết quả của một sự rèn luyện không ngừng, không biết mệt mỏi “lao tâm khổ tứ”. Thiên tài không thể một sáng một chiều mà thành công được. Một nhà văn phương Tây đã khẳng định: “Thiên tài là một sự kiên nhẫn lâu dài”. Quả đúng như vậy. Để trở thành một nhà thơ lớn, Nguyễn Khuyến đã trải qua cuộc sống nghèo khổ, túng thiếu. Theo giai thoại: ông nhà nghèo, mỗi buổi sớm đến trường phải mang theo một cái giậm để sau buổi bình văn đi bắt cá. Quê ông vốn là đồng chiêm trũng nên có rất nhiều. Có những buổi sớm rất lạnh, thầy đồ vẫn thất anh học trò nghèo lam lũ dưới ao sâu. Tối về nhà, không có đèn, anh học trò Nguyễn Khuyến học người xưa bỏ đom đốm vào vỏ trứng hoặc ánh trăng để học bài. Tài năng của Nguyễn Khuyến không chỉ ở thông minh mà còn là sự kiên trì nhẫn nại. Trong lao động, tấm gương của nhà bác học Lương Định Của đúng là một bằng chứng hùng hồn. Để lai tạo một giống lúa mới có năng suất cao, có khả năng chống rầy tốt, ông phải làm việc vô cùng vất vả, khó nhọc. Hàng ngày từ tờ mờ đất, ông đa ra ruộng lội bì bõm nghiên cứu, thử nghiệm đến tối mịt mới về. Qua vài vụ lúa, một giống lúa mới được tạo thành. Chính sự kiên nhẫn bền bỉ của ông đã đem no ấm đen cho đời. Rồi Mai An Tiêm, rõ ràng nhờ chăm chỉ, kiên trì đã làm chủ cuộc sống nơi đảo hoang không một bóng người. Không chỉ học tập những con người nổi tiếng, mà tấm gương của những người lao động xung quanh mình cũng rất đáng tuyên dương, ở huyện em, mọi người đều yêu quí chị Lan. Chị bị liệt tay phải và một chân. Tuy phải viết bằng tay trái và đi lại khó khăn song chị là học sinh giỏi toàn điện, vừa rồi hai tác phẩm chị đã viết được xuất bản gây tiếng vang lớn. Em nghĩ chị cũng là tấm gương của lòng kiên trì đáng cho chúng ta học tập. Qua các tấm gương trên, em thấy mình còn phải cố gắng nhiều, trước hết là lòng kiên trì nhẫn nại, không quản khó khăn vất vả để trở thành người công dân tốt. Đó là bước mở đầu của quá trình hình thành nhân cách con người. Là một đứa con trong gia đình, em phải học tập tốt để xứng đáng với lòng tin yêu của cha mẹ. Là một công dân của đất nước, em phải cố gắng tu dưỡng nhiều để trở thành chủ nhân của tương lai. Lời khuyên răn của ông cha luôn đúng đắn, thiết thực. Nó sẽ có ý nghĩa lớn hơn khi ta thực hiện tốt lời dạy đó.
The comment proves the proverb: If you work hard, you will make money Instruct The comment proves the proverb: If you work hard, you will make money Proverbs are the eternal wisdom of the people. Each proverb is a great lesson. One of those lessons is summarized in a concise proverb: Has iron grinding makes perfect The proverb has stated a great truth with a convincing symbolic image. Iron is a hard metal, but if you keep grinding it, it will turn into a small needle. It was an extraordinary effort and perseverance. From a big iron ingot to a small needle takes a lot of effort and sweat to get. Just thinking about it, I feel shy. No one would sit down and grind iron into needles like that. This job seems difficult and impossible to do. Yet there are still people who don't work hard, don't put in the effort, and still try their best to get it done. So even though the needle is very small and insignificant, it is the result of so much effort and patience. The literal meaning of the proverb is just grinding iron into needles, but if we extrapolate the figurative meaning, it is very broad. That is an advice, a lesson that our ancestors have learned for thousands of generations to pass on to their children today and tomorrow. That is the teaching: With great perseverance and determination, anything can be accomplished even if it is very difficult and seems impossible to complete. Uncle Ho once taught: Only fear unstable heart Digging up mountains and filling in seas Surely made a firm decision" It is also about the spirit of not being afraid of difficulties. Through Uncle Ho's teachings, we understand more about the power of perseverance and perseverance. With great determination, anything can be done, even if it is "digging mountains and filling the sea". In our lives, there are so many typical examples who have "sharpened iron" to one day "be successful". That example is not unfamiliar, it is Uncle Ho - the Father of the nation. Our country is peaceful and free today thanks in part to Uncle Ho's "steadfast will" perseverance. When he was still a young man, Uncle Ho said goodbye to everyone and went to find a way to save the country. In a foreign land, Uncle Ho did everything to make a living: working as a kitchen assistant on a train, working as a snow plower in the cold winter of Europe... Do you remember, oh cold wind of Paris? A pink brick He resisted an entire season of frost And the fog of London, do you remember? Small drops of human sweat in the middle of the night (Che Lan Vien - The person looking for the image of water) Despite all the hardships and hardships, Uncle Ho did not lose heart. He persistently went to all countries and peoples in the world to learn about the path to national liberation. In the end, Uncle Ho's patience was rewarded. He found the way for the nation to escape from slavery and misery. Uncle Ho's example is bright and brilliant, first of all in the fact that "If you work hard, you will make money." His compositions are the result of a constant, tireless practice of "hard work and hard work". Geniuses cannot become successful overnight. A Western writer affirmed: "Genius is a long patience." That's right. To become a great poet, Nguyen Khuyen experienced a life of poverty and deprivation. According to an anecdote: a poor man, every morning when he went to school, he had to bring a stamp so that he could go fishing after the commentary. His hometown was originally a low-lying field, so there were many of them. There were very cold mornings, the teacher still saw his poor student drowning in a deep pond. At night when he gets home, there is no light, student Nguyen Khuyen learns that ancient people put spotted flies in eggshells or moonlight to study. Nguyen Khuyen's talent is not only intelligence but also perseverance. In labor, the example of scientist Luong Dinh Cua is truly an eloquent proof. To breed a new rice variety with high yield and good resistance to leafhoppers, he had to work extremely hard. Every day, from dawn on the ground, he went out to the fields to research and experiment until late at night before returning. After several rice seasons, a new rice variety is created. It was his persistent patience that brought prosperity to life. Then Mai An Tiem, clearly thanks to hard work and perseverance, mastered life on a deserted island with no one in sight. Not only learning from famous people, but the example of the workers around us is also very commendable. In my district, everyone loves Ms. Lan. She was paralyzed in her right arm and one leg. Although she has to write with her left hand and has difficulty walking, she is an excellent student. Recently, two works she wrote were published to great success. I think she is also an example of perseverance worth studying. Through the above examples, I see that I still have to try a lot, first of all, perseverance and patience, regardless of difficulties and hardships, to become a good citizen. That is the opening step in the process of forming human personality. As a child in the family, I must study well to be worthy of my parents' trust and love. As a citizen of the country, you must try to cultivate a lot to become the owner of the future. The advice of our ancestors is always correct and practical. It will have greater meaning when we implement that teaching well.
Đề bài: Chứng minh rằng thiên nhiên là bạn tốt của con người. Con người cần phải yêu thương và bảo vệ thiên nhiên. Bài làm Từ thuở khai thiên lập địa, con người đã gắn bó chặt chẽ với thiên nhiên. Ngày nay, dù sống trong những tòa nhà bê tông cao tầng, có máy điều hòa nhiệt độ, có đầy đủ tiện nghi hiện đại… nhưng chúng ta vẫn không thể thiếu cây xanh, thảm cỏ, nước, không khí… Có thể nói thiên nhiên là bạn tốt của con người. Thiên nhiên tạo điều kiện cho con người tồn tại và phát triển. Thiên nhiên, đó là rừng vàng cung cấp đủ loại lâm sản. Rừng ngăn nước lũ, chắn gió, chắn cát để bảo vệ mùa màng… Thiên nhiên, đó là biển bạc cung cấp cho con người bao loại hải sản quý giá. Biển còn là đường giao thông thuận tiện nối liền các đại lục từ Đông sang Tây, từ Bắc xuống Nam. Thiên nhiên, đó là đất cho con người trồng trọt, canh tác. Từ lúa, ngô, khoai, rau, đậu cho đến cam, nho, táo, mận… Có đất trồng trọt, con người mới có lương thực, thực phẩm để duy trì sự sống. Thiên nhiên, đó là nước, là không khí, là mỏ vàng, mỏ sắt, mỏ dầu, mỏ kim cương… Thiên nhiên cung cấp cho con người mọi điều kiện vật chất để không ngừng nâng cao cuộc sống. Không những thế, thiên nhiên còn đem đến cho con người những món ăn tinh thần vô giá. Còn gì thích thú bằng được đón bình minh trên biển hay từ đỉnh núi cao thưởng thức vẻ đẹp của bầu trời và mặt đất?! Lúc này, thiên nhiên là một bức tranh với những đường nét, màu sắc kì ảo tuyệt vời là đề tài hấp dẫn cho các họa sĩ. Còn gì khoan khoái bằng được ngắm ánh trăng rằm chiếu sáng khắp xóm làng yên ả, hay khi thấy cảnh: Vì chưng gió thổi hoa cười với trăng. Thiên nhiên đem đến nhiều lợi ích nhưng thiên nhiên không phải là kho tàng vô tận cho con người hưởng thụ. Săn bắt mãi thì thú rừng sẽ hết, mỏ khai thác mãi cũng cạn… Danh lam thắng cảnh nếu không được giữ gìn thì còn đâu để cho con cháu ngày sau chiêm ngưỡng?! Chính vì vậy mà con người phải bảo vệ thiên nhiên, bảo vệ môi trường sống của mình. Cùng với việc khai thác rừng phải biết trồng rừng. Cùng với việc đánh bắt thủy sản thì phải bảo vệ chúng, giữ cho mặt biển trong xanh không khí trong lành… Khai thác tài nguyên phải có kế hoạch hợp lí, tránh lãng phí. Ngày nay, nhiều quốc gia đang tuyên truyền vận động mọi người nâng cao ý thức bảo vệ môi trường, giữ gìn ngôi nhà chung của thế giới. Trồng thêm một cây xanh, tiết kiệm một thùng nước sạch, không vứt rác ra đường… đó là những biểu hiện cụ thể của ý thức bảo vệ thiên nhiên của mỗi chúng ta.
Topic: Proving that nature is a good friend of humans. People need to love and protect nature. Assignment Since the beginning of time, humans have been closely associated with nature. Nowadays, even though we live in high-rise concrete buildings, have air conditioning, and have full modern amenities... we still cannot lack trees, grass, water, air... It can be said that Nature is man's good friend. Nature creates conditions for humans to survive and develop. Nature, which is the golden forest, provides all kinds of forest products. Forests prevent floodwaters, block wind, block sand to protect crops... Nature, it is the silver sea that provides people with many types of precious seafood. The sea is also a convenient transportation route connecting the continents from East to West, from North to South. Nature is land for people to grow and cultivate. From rice, corn, potatoes, vegetables, beans to oranges, grapes, apples, plums... Only with arable land can people have food to maintain life. Nature is water, air, gold mine, iron mine, oil mine, diamond mine... Nature provides people with all material conditions to constantly improve their lives. Not only that, nature also gives people priceless spiritual food. What could be more enjoyable than catching the sunrise on the sea or enjoying the beauty of the sky and earth from the top of a mountain?! At this time, nature is a picture with wonderful, magical lines and colors that are an attractive subject for artists. There's nothing more refreshing than watching the full moon shine throughout a quiet village, or seeing the scene: Because the wind blows the flowers and smiles at the moon. Nature brings many benefits, but nature is not an endless treasure for humans to enjoy. If you keep hunting, the wild animals will run out, and the mines will run out forever... If scenic spots are not preserved, where will there be left for future generations to admire?! That is why people must protect nature and their living environment. Along with exploiting forests, we must know how to plant forests. Along with catching aquatic products, we must protect them, keep the sea surface clear and the air fresh... Exploiting resources must have a reasonable plan, avoiding waste. Today, many countries are propagandizing and encouraging people to raise awareness of environmental protection and preserving the world's common home. Planting one more tree, saving a bucket of clean water, not throwing trash on the street... these are concrete manifestations of each of us's sense of protecting nature.
Đề bài: Thể dục thể thao là hoạt động cần thiết và bổ ích cho cuộc sống con người. Em hãy viết một bức thư cho bạn để chứng minh ý kiến trên. Bài làm Hà Nội, ngày … tháng … năm 2009 Phan Quang xa nhớ! Đã lâu rồi mình không nhận được thư bạn. Không biết dạo này bạn có khỏe Không? Miền Nam khí hậu ôn hòa nên mình hỉ vọng bạn sẽ khỏe mạnh hơn hồi ở ngoài này. Càng ngày mình càng hiểu rõ sức khỏe là vốn quý, Có một triết gia đã nói: Ai không khỏe mạnh thì lúc nào cũng chỉ nghĩ đến sức khỏe. Còn người khỏe mạnh thì nghĩ đến mọi điều. Tuổi trẻ chúng mình cần phải có sức khỏe. Chính vì thế mình khuyên Quang nên quan tâm hơn đến các hoạt động thể dục thể thao. Chắc bạn cũng đổng ý với mình rằng thể dục thể thao là một hoạt động bổ ích, cần thiết cho mọi người. Từ vị lãnh tụ cho đến các cụ già, em nhỏ… ai ai cũng có thể tham gia, nhất là đối với lứa tuổi thanh thiếu niên chúng mình. Thời kì kháng chiến chống Pháp, Bác Hồ đã từng kêu gọi nhân dân rèn luyện sức khỏe để phụng sự đất nước. Bác chỉ rõ rằng sức khỏe của mỗi cá nhân liên quan chặt chẽ đến sự hưng thịnh của quốc gia. Với mỗi người, thể dục thể thao có ý nghĩa khác nhau. Được xem thi đấu thể thao là một niềm vui, là một cách giải trí lành mạnh của nhiều người. Bạn thấy đấy, cả thế giới sôi sục vào những mùa thi đấu bóng đá châu Âu, bóng đá quốc tế. Chúng mình chẳng đã từng cổ vũ nhiệt thành cho đội bóng lớp 7A đó sao? Thể dục thể thao đem lại cho con người sức khỏe và sự hưng phấn. Buổi sáng ngủ dậy, chỉ cần dành mười phút tập thể dục thì khi bắt đầu làm việc, chúng ta sẽ cảm thấy nhanh nhẹn, sảng khoái hơn. Những ngày nóng nực, còn gì thích thú bằng được cùng các bạn vùng vẫy trong bể bơi. Môn bơi lội không chỉ hấp dẫn bởi người ta được tắm mát, được đùa giỡn trong làn nước mát mà còn làm cho hình dáng cân đối, cơ bắp săn chắc. Vì thế mà mùa hè, các bể bơi đông nghịt người. Các môn thể thao khác như bóng bàn, cầu lông, bóng rổ, bóng chuyền, chạy, nhảy cao, nhảy xa… đều luyện cho chúng ta sự bền bỉ, dẻo dai và sức mạnh. Ở ngoài này, các bạn ai cũng nhớ “công tử bột Phan Quang” rất giỏi Toán nhưng chân tay thì khẳng khiu, mỗi khi thay đổi thời tiết lại sổ mũi, nhức đầu. Theo mình, bạn nên chọn môn cầu lông hay bóng bàn để tập cho vừa sức. Dẩn dần, bạn sẽ khỏe khoắn hơn cho mà xem. Không những chỉ đem lại sức khỏe cho bản thân từng người mà thể dục thể thao còn đem lại vinh dự cho đất nước đấy Quang ạ! Chắc bạn đã từng nghe danh Lý Đức, lực sĩ thể hình nước mình tham gia thi đấu quốc tế nhiều lần và đã đoạt nhiều giải cao. Mình phục nhất chị Nguyễn Thuý Hiền, vận động viên môn Wushu đã làm vẻ vang cho đất nước bằng hàng chục Huy chương vàng thể thao châu Á. Mình cũng đã ghi tên theo học lớp võ Karate ở nhà văn hóa quận Ba Đình rồi đấy! Mình mong thư trả lời của bạn và chờ đợi Quang chia sẻ tin vui về học tập và cả thành tích rèn luyện thể dục thể thao nữa. Chúc bạn thành công! Bạn thân Đức Tâm..
Topic: Sports are necessary and useful activities for human life. Please write a letter to your friend to prove the above opinion. Assignment Hanoi, date … month … 2009 Miss Phan Quang! It's been a long time since I received your letter. I wonder how you are doing these days? The climate in the South is mild so I hope you will be healthier than when you were out here. More and more, I understand that health is a precious asset. There is a philosopher who said: Those who are not healthy always think only about health. Healthy people think about everything. Our youth need to be healthy. That's why I advise Quang to pay more attention to sports activities. Surely you also agree with me that sports is a useful and necessary activity for everyone. From the leader to the elderly, children... anyone can participate, especially our teenagers. During the resistance war against the French, Uncle Ho once called on people to exercise to serve the country. He pointed out that each individual's health is closely related to the prosperity of the nation. For each person, sports has different meanings. Watching sports competitions is a joy and a healthy entertainment for many people. You see, the whole world is excited about European football and international football competition seasons. Haven't we enthusiastically cheered for that Class 7A football team? Sports bring people health and excitement. When we wake up in the morning, just spend ten minutes exercising, when we start work, we will feel more agile and refreshed. On hot days, there's nothing more enjoyable than splashing around in the swimming pool with your friends. Swimming is not only attractive because people can bathe and play in cool water, but it also makes their body shape balanced and their muscles firm. That's why in the summer, the swimming pools are crowded with people. Other sports such as table tennis, badminton, basketball, volleyball, running, high jump, long jump... all train us for endurance, flexibility and strength. Out here, everyone remembers that "little guy Phan Quang" is very good at Math but his limbs are skinny, and every time the weather changes, he has a runny nose and headaches. In my opinion, you should choose badminton or table tennis to practice to get fit. Gradually, you will become healthier. Not only does it bring health to each person, but sports also brings honor to the country, Quang! You've probably heard of Ly Duc, our country's bodybuilder who participated in international competitions many times and won many high prizes. I admire Ms. Nguyen Thuy Hien the most, a Wushu athlete who has brought glory to the country with dozens of Asian sports gold medals. I have also signed up to take a Karate class at the Ba Dinh district cultural house! I look forward to your reply and wait for Quang to share good news about his studies and sports training achievements. Good luck! Best friend Merit attention..
Đề bài: Ca dao dân ca xưa để lại luôn là những bài học sâu sắc, những lời khuyên chí nhân. Anh chị hãy viết bài văn bình luận câu ca dao Ai ơi giữ chí cho bền Dù ai xoay hướng đổi nền mặc ai để thấy rõ điều đó. Bài làm Trong cuộc sống hằng ngày, sự tác động của hoàn cảnh khách, quan, của dư luận đối với mỗi con người là chuyện tất yếu. Song, điều cơ bản là thái độ của con người trước những tác động đó như thế nào? Nên chủ động, tự tin vào mình hay lệ thuộc vào hoàn cảnh? Từ xưa, nhân dân ta đả có nhận thức rất đúng đắn về vai trò của ý chí, lập trường trong hành động, coi đó là điều kiện quan trọng quyết định thành công hay thất bại. Đồng thời coi ý chí và nghị lực là phẩm chất hàng đầu của người lao động. Quan điểm trên được phản ánh trong câu ca dao mộc mạc giống như một lời khuyên nhủ chân tình: Ai ơi giữ chí cho bền, Dù ai xoay hướng đổi nền mặc ai. Không phải ngẫu nhiên người xưa mượn chuyện làm nhà để nói lên ý chí con người. Có ba việc lớn trong đời mà người ta phải làm. Đó là: Làm nhà, lấy vợ, tậu trâu. Ba việc ấy thể hiện bản lĩnh và khả năng của con người. Trong chuyện làm nhà thì việc chọn hướng, đổ nền là cốt yếu. Phải chọn hướng nhà sáng sủa thoáng mát để cuộc sống trở nên dễ chịu, bảo đảm sức khoẻ. Phải để nền cho cao, cho chắc để tránh ẩm thấp, tối tăm… Những việc ấy, người làm nhà phải tự chọn, tự quyết, một khi thấy như thế là đúng đắn thì không thể vì lời bàn ra tán vào của những người xung quanh mà hoang mang, dao động, thay đổi chủ kiến ban đầu. Nghĩa chính của câu ca dao trên là vậy, và trên cơ sở đó, người xưa muốn bày tỏ quan điểm của mình về tính mục đích, ý chí, nghị lực trong hành động. Thông thường, trước khi bắt tay vào làm một việc gì đó, người ta đều đặt ra mục đích và luôn luôn mong ước đạt được mục đích. Nhưng có mục đích không thôi thì chưa đủ mà phải có ý chí, nghị lực, cùng quyết tâm vượt mọi khó khăn trở ngại mới mong gặt hái được kết quả tốt đẹp. Trong quá trình làm việc, không phải tất cả đều dễ dàng, suôn sẻ. Người tiến hành công việc sẽ gặp những khó khăn trong dự tính và cả ngoài dự tính, tránh sao khỏi lời bàn tán xung quanh. Thực tế cho thấy không ít người do quá phụ thuộc vào dư luận mà hỏng việc, bởi chín người mười ý, chẳng ai giống ai. Giống y anh chàng đẽo cày giữa đường trong truyện cổ dân gian, vừa đáng cười vừa đáng thương. Trước những dư luận phức tạp, cần phải có lập trường, ý chí vững vàng và quyết tâm cao. Vì ý chí sẽ đem lại sức mạnh và óc sáng tạo cho con người, giúp con người đi đến đích cuối cùng. Vai trò của ý chí lớn như vậy nên nó được coi là phẩm chất cao quý hàng đầu của người lao động. Chúng ta có thể đặt ra giả thuyết: nếu dư luận xung quanh việc làm của ta là đúng đắn, thì liệu ta có nên nghe theo hay cứ khăng khăng giữ chí của mình ngay cả khi sai? Câu ca dao trên đây là một lời khuyên nhủ chân tình và là một bài học sâu sắc rút ra từ thực tế đời sống trải qua bao thế kỉ của dân tộc ta. Trong hành trang bước vào đời của mỗi con người, không thể thiếu bài học quý giá đó. Nhưng để có được một ý chí bền vững, một lập trường kiên định và một quyết tâm cao, chúng ta bắt buộc phải trải qua quá trình phấn đấu lâu dài, gian khổ, rèn luyện cho mình khả năng vượt khó và niềm tin vững chắc vào bản thân trong quá trình lao động, khi mục đích ban đầu đặt ra là đúng đắn và phù hợp với hoàn cảnh khách quan.
Topic: Ancient folk songs always leave behind profound lessons and wise advice. Please write an essay commenting on the folk song Ai, keep your will, no matter who turns or changes the background, to see it clearly. Assignment In everyday life, the impact of objective circumstances and public opinion on each person is inevitable. However, the basic thing is what is people's attitude towards those impacts? Should I be proactive, confident in myself or dependent on circumstances? Since ancient times, our people have had a very correct awareness of the role of will and stance in action, considering it an important condition that determines success or failure. At the same time, considering will and energy as the top qualities of workers. The above viewpoint is reflected in a simple folk song that resembles a sincere advice: Hey, keep your will strong, No matter who turns the direction and changes the background. It is no coincidence that the ancients used the story of building a house to express human will. There are three big things in life that people must do. That is: Build a house, get married, buy a buffalo. Those three things demonstrate human bravery and ability. When building a house, choosing the direction and pouring the foundation is crucial. You must choose a bright and airy house direction to make life comfortable and ensure health. The foundation must be high and solid to avoid dampness and darkness... Those things, the home builder must choose and decide on their own. Once they see that it is right, they cannot rely on the gossip of others. confused, wavered, and changed their original opinions. That is the main meaning of the folk song above, and on that basis, the ancients wanted to express their views on purpose, will, and energy in action. Usually, before starting to do something, people set a goal and always wish to achieve it. But having a goal alone is not enough, you must have will, energy, and determination to overcome all difficulties and obstacles to achieve good results. During work, not everything is easy or smooth. The person carrying out the work will encounter both expected and unexpected difficulties, avoiding gossip around them. Reality shows that many people fail because they depend too much on public opinion, because nine people have ten opinions, no one is the same. Just like the guy plowing the middle of the road in the folk tale, both laughable and pitiful. In the face of complicated public opinion, it is necessary to have a strong stance, will and determination. Because the will will bring strength and creativity to people, helping people reach their final destination. The role of will is so great that it is considered the top noble quality of workers. We can hypothesize: if the public opinion surrounding our actions is correct, should we listen or persist in sticking to our will even when it is wrong? The above folk song is a sincere advice and a profound lesson drawn from the reality of our nation's centuries-long life. In every person's journey into life, that valuable lesson cannot be missing. But to have a lasting will, a steadfast stance and a high determination, we are required to go through a long and arduous process of striving, training ourselves to overcome difficulties and have strong faith. Be sure of yourself during the working process, when the initial purpose set is correct and consistent with objective circumstances.
Bình luận câu ca dao Bầu ơi thương lấy bí cùng Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn Hướng dẫn Bình luận câu ca dao Bầu ơi thương lấy bí cùng Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn Bài làm Ca dao dân ca là cây đàn muôn điệu. Tiếng đàn ngọt ngào và sâu lắng ấy đã diễn tả đời sống tâm tình của con người Việt Nam từ bao đời nay. Ca dao dân ca có sức mạnh lớn lao, nó cho ta bao bài học về tình thương, đạo lí. Trên chặng đường lịch sử mấy ngàn năm dựng nước và giữ nước vẻ vang, ông cha ta luôn luôn nhắc nhở con cháu: “Bầu ơi thương lấy bí cùng, Tuy rằng khác giống những chung một giàn”. Bầu và bí là hai loại cây thân thuộc của mỗi vườn quê, của mỗi gia đình nông dân Việt Nam. Là loại cây leo, nhưng bầu và bí lại “khác giống”. Hoa bí vàng, hoa bầu trắng nhạt. Quả bí thì dài, quả bầu thì tròn. Bầu chớ ngại bí nhám hơn bầu mà cách biệt nhau. Tuy “khác giống”, nhưng bí và bầu lại “chung giàn” nghĩa là chung cảnh ngộ, chung điều kiện sống, gần gũi bên nhau, chở che nhau để xanh tươi tồn tại, Khi trời ấm áp mùa xuân, mưa nắng thuận hòa mùa hạ, đất màu tươi tốt, thì bí, bầu chung hưởng, hoa trái trĩu cành. Gặp lúc nắng hạn bão tố, sâu bệnh, giàn đổ “lá gãy cành rơi” thì bí và bầu cùng chung hoạn nạn, cay đắng ngọt bùi có nhau. Cho nên thật tự nhiên và giản dị “Bầu ơi thương lấy bí cùng”. Tám mươi triệu người Việt Nam tuy “khác giống”, là Kinh, Thượng hay Mán, Mường, v.v…, là miền Bắc hay miền Nam, ở miền xuôi hay miền ngược, chúng ta có chung một Tổ quốc, một lịch sử, một nền văn hóa, một cơ đồ Việt Nam,… Chúng ta có thể khác nhau về gia đình, về cảnh ngộ, điều kiện sống, về trình độ văn hóa… nhưng lại đang tồn tại bên nhau, đang sống, học tập và làm ăn trong chế độ xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Trong cộng đồng người Việt, chúng ta có bao cái “chung” như bí và bầu “chung một giàn” vậy. Chung Tổ quốc, ấy là nghĩa đồng bào. “Một giọt máu đào hơn ao nước lã”. Chung làng xóm, phố phường, ấy là tình đồng hương. Chung trường, lớp, ấy là tình đồng học, bạn đồng môn. Ta còn có tình đồng nghiệp tình đồng cảnh cùng chung ước mơ, hoài bão, v.v… Những nét “chung” ấy đã gắn bó mọi tâm hồn Việt Nam, xây nên tình yêu thương nhân dân đất nước. Tóm lại, câu ca dao đã nêu lên bài học tình thương, đạo lý nhắc nhở chúng ta biết yêu thương, đùm bọc, chở che, giúp đỡ lẫn nhau để xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc lâu dài. Không ai có thể sống trong cô độc mà được hạnh phúc? Cuộc sống biến động, thiên tai địch họa triền miên, chỉ có tình thương yêu mới cho ta sức mạnh để vượt qua mọi thử thách và chiến thắng. Tình thương yêu, chở che… còn cho ta niềm tin để “Đi tới và làm nên thắng trận”, hướng tới một ngày mai ca hát: Còn non, còn nước, còn người..”. Một nghìn năm Bắc thuộc, một thế kỉ bị thực dân Pháp thống trị, lịch sử đã cho ta bài học về tình thương yêu đoàn kết dân tộc. Đạo lí dân tộc ta coi trọng tình yêu thương, giúp đỡ lẫn nhau. “Anh em như thể chân tay … Người trong một nước thì thương nhau cùng… Một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ v.v… Bằng máu, mồ hôi và nước mắt, bằng kinh nghiệm sống qua bốn nghìn năm lao động và chiến đấu, nhân dân ta đã lấy tình thương để tạo nên bản sắc dân tộc, bản lĩnh giống nòi. Chúng ta tự hào về truyền thống nhân nghĩa, nhân ái cao đẹp đã hun đúc nên sức mạnh Việt Nam. Tuy tằng khác giống nhưng chung một giàn”. Tiếng gọi thiết tha của cha ông hay lời non nước? Trên hành trình đi tới ngày mai, mỗi con người Việt Nam có nghĩa vụ xây đắp đạo lí tình thương vì một nước Việt Nam giàu đẹp. Nguồn: Tài liệu văn học
Comment on the folk song Bau Oi, I love you, take the same pumpkin. Although they are different, they share the same frame Instruct Comment on the folk song Bau Oi, I love you, take the same pumpkin. Although they are different, they share the same frame Assignment Folk songs are an instrument with many melodies. That sweet and profound sound has expressed the emotional life of Vietnamese people for many generations. Folk songs have great power, they give us many lessons about love and morality. During the thousands of years of history building and defending the country, our ancestors always reminded their children and grandchildren: "Oh get elected trade secrets together, Even though they're different, they're all in the same frame." Gourds and squash are two familiar plants of every countryside garden and every Vietnamese farming family. Although it is a climbing plant, gourds and squashes are "different species". Yellow pumpkin flowers, pale white gourd flowers. Pumpkins are long, gourds are round. Don't be afraid that pumpkins are rougher than gourds but separate from each other. Although "different breeds", pumpkins and gourds "share the same trellis" meaning the same situation, the same living conditions, being close to each other, protecting each other so that they can survive, when the weather is warm in spring, the rain and sun are favorable. Summer is harmonious, the soil is lush, pumpkins and gourds enjoy it, and flowers and fruits are abundant. During times of drought, storms, pests, or trellises collapsing, "broken leaves and falling branches", pumpkins and gourds share the same tribulation, bitterness and sweetness together. So it's very natural and simple, "My dear, I love you so much." Eighty million Vietnamese people, although "different breeds", whether they are Kinh, Thuong or Man, Muong, etc., whether they are North or South, in the lowlands or uplands, we have the same Fatherland, one history, one culture, one Vietnamese fortune,... We may have different families, circumstances, living conditions, educational levels... but we exist together, live, study and doing business in Vietnam's socialist regime. In the Vietnamese community, we have many "common" things like pumpkins and gourds "sharing the same trellis". Sharing the Fatherland is the meaning of compatriots. “A drop of blood is thicker than water.” Sharing villages, streets, and towns is the love of fellow countrymen. Sharing the same school and class is the love of fellow students and fellow students. We also have the love of colleagues, the same situation, the same dreams, ambitions, etc. Those "common" features have attached every Vietnamese soul, building love for the people of the country. In short, the folk song raises a lesson of love and morality that reminds us to love, care for, protect, and help each other to build a prosperous, long-lasting life. No one can live in solitude and be happy? Life is volatile, natural disasters are constant, only love gives us the strength to overcome all challenges and win. Love, protection... also gives us the faith to "Go forward and win the battle", towards a tomorrow singing: Still young, still water, still people...". A thousand years of Northern domination, a century of French colonial rule, history has taught us lessons about love and national unity. Our nation's ethics value love and helping each other. “Brothers are like limbs... People in a country love each other the same... A horse hurts the entire ship, etc. Through blood, sweat and tears, through the experience of living through four thousand years of labor and battle, Our people have used love to create national identity and racial bravery. We are proud of the beautiful tradition of kindness and compassion that has forged Vietnam's strength. Even though they are different, they share the same trellis. The passionate call of our ancestors or the empty words? On the journey to tomorrow, every Vietnamese person has the obligation to build ethics of love for a rich and beautiful Vietnam. Source: Literary documents
Đề bài: "Cầm vàng mà lội qua sông Vàng rơi không tiếc, tiếc công cầm vàng". Em hãy giải thích và bình luận câu ca dao trên Bài làm Trong cuộc sống, không ít lần chúng ta gặp thất bại, cũng có khi chúng ta đầu tư rất nhiều công sức, tình cảm vào một việc gì đó và tưởng chừng thành công nằm trong tầm tay nhưng rốt cuộc, kết quả hoàn toàn trái ngược. Rơi vào hoàn cảnh như thế, có lẽ ai cũng buồn cũng tiếc. Người xưa cũng đã thấy được điều này: Cầm vàng mà lội qua sông Vàng rơi không tiếc, tiếc công cầm vàng. Vàng ở đây chỉ chung những thứ quý giá: quý như vàng, đắt như vàng… Cầm vàng là có trong tay một cái gì đó rất có giá trị. Lội qua sông là vượt qua khó khăn, trở ngại. Còn vàng rơi, vật quý mất cũng không tiếc mà chỉ tiếc công giữ gìn nó thôi. Cầm vàng mà lội qua sông Vàng rơi không tiếc, tiếc công cầm vàng Hiểu như vậy chỉ là hiểu trên bề mặt ngôn từ – nghĩa tường minh chứ chưa hiểu được nghĩa hàm ẩn của nó. Vậy, vật quý kia là gì? Một hiện thực tuyệt vời? Một ước mơ huy hoàng? Hay một thứ gì khác? Lời ẩn dụ ngắn gọn quá không dễ hiểu. Cụm từ “tiếc công” may ra có thể là một gợi ý. “Tiếc công” có mặt trong nhiều câu ca dao như một mô-típ: Tiếc công anh đắp đập be bờ, Để ai quảy đó mang lờ đến đơm; Tiếc công anh gánh gạch xây thành, Trồng cây nên trái để dành ai ăn; Tiếc công anh đi xuống đi lên, Mòn đằng chết cỏ chẳng nên cang thường… Trong bài ca dao này, ta chưa thấy vàng hay thấy vật qúy cụ thể là gì nhưng ý ám chỉ tình yêu thì thấy rõ. Công cầm vàng không thấy nhưng thấy công phu bỏ ra theo đuổi, nhen nhúm, bồi đắp cho một mối tình. Còn vàng không phải chỉ rơi mà biến mất dạng, mất tăm, hoặc tình chẳng bén mà lại tan vỡ phũ phàng. Vậy sự thất bại ở câu ca dao này trước hết là sự thất bại về tình yêu. Giọng điệu câu ca có gì như bẽ bàng, chua chát. Có thể hình dung sự tình như thế này chăng: Từ chỗ hiểu nhau, yêu nhau đến chỗ hẹn ước, thề nguyền gắn bó trăm năm. Tình yêu ấy không phải tự nhiên mà có. Nó ắt phải trải qua ngọt bùi, đắng cay, thử thách. Vì thế, nó quý giá hơn mọi thứ trên đời. Những tưởng hạnh phúc đã gần kề, ai ngờ sóng gió dẫn tới ly tan, nước mây đôi ngả. Người yêu rời bỏ anh, hoặc anh không giữ được người yêu. Sóng gió ấy quá lớn không thể vượt qua nên người trong cuộc chỉ còn biết ngậm ngùi, than thở. Mình than với mình rồi lặng đi trong niềm xót đau, chua chát. Nhưng thực tế ở đời cho thấy: thất vọng trong tình yêu không chỉ có một lối thoát duy nhất là chết mòn vì tương tư. vết thương trên da thịt dần dần sẽ lành: vết thương trong lòng cũng vậy. Có đau khổ một thời gian nhưng theo ngày tháng, nỗi khổ ấy sẽ nguôi dần. Người ta sẽ tỉnh ra và nghĩ lại. Kẻ kia tình đã nhạt chăng? Mắt họ đã bị cuốn hút vào chỗ giàu sang chàng? Hay là chung quanh dèm pha? Gia đình ngăn trở?… Mình biết thân phận mình. Thế thì thôi! Nói như các anh con trai khác, ở câu ca dao trên kia, họ chẳng sá gì đến việc kẻ khác đến đơm cá, đến ăn trái, mà họ chỉ tiếc công mình đắp đập be bờ, gánh gạch xây thành, trồng cây… Còn mình, tình yêu đã mất, vàng đã rơi, công lênh cũng chẳng ít, nhưng tiếc làm chi! Chỉ tiếc công bỏ ra bấy lâu xây đắp mối tình vàng ngọc kia mà thôi. Bởi tình này mất còn tìm tình khác được, chứ công lao đã bỏ ra, thời gian đã mất đi làm sao tìm lại được? Tiếc công cầm vàng là vậy. Từ lĩnh vực tình yêu, ta có thể mở rộng, nâng cao ý nghĩa của câu ca dao trên sang lĩnh vực khác. Không phải chỉ là tình yêu mà có thể là một ưởc mơ tốt đẹp: đỗ đạt cao, tài năng lớn, làm giàu nhanh… Đeo đuổi một ước mơ như thế phải tốn bao công sức, tiền bạc, thời gian. Nhưng cuối cùng mơ ước chẳng được, chỉ tiếc cho công lao đã bỏ ra. Mỗi lần vấp ngã, mỗi lần thất bại đều để lại cho chúng ta những bài học sâu sắc và con người ta lớn lên rất nhiều sau những thử thách, vấn đề quan trọng là thắng không kiêu, bại không nản, mỗi người có đủ nghị lực, can đảm, lí trí sáng suốt để tìm cho mình những chất vàng ròng tinh túy của đời sống tâm hồn hay không. Bài ca dao là một lời khuyên thiết thực về chuyện theo đuổi những mơ ước đẹp đẽ ở đời.
Theme: "If you hold gold, wade across the river. Gold will fall without regret. You will regret holding the gold." Please explain and comment on the above folk song Assignment In life, many times we encounter failure, sometimes we invest a lot of effort and emotion into something and think success is within reach but in the end, the result is completely opposite. reverse. Falling into such a situation, everyone is probably sad and regretful. The ancients also saw this: Take the gold and wade across the river No regrets for falling gold, no regrets for holding it. Gold here refers to precious things: as precious as gold, as expensive as gold... Holding gold means having something very valuable in your hands. Wading across the river means overcoming difficulties and obstacles. As for fallen gold or lost precious objects, there is no regret but only regret for preserving it. Holding the gold and wading across the river, the gold falls without regret, regretting the effort of holding the gold Understanding like that is only understanding the surface of the words - the explicit meaning but not understanding its hidden meaning. So, what is that precious thing? A wonderful reality? A glorious dream? Or something else? The metaphor is too brief and not easy to understand. The phrase “regret effort” may be a hint. "It's a pity" appears in many folk songs as a motif: It's a pity that you built a dam to protect the shore, so that someone else will bring it to fruition; It's a pity that he carried bricks to build the citadel, planted trees to produce fruit for someone to eat; It's a pity that you've gone down and up, the grass is so worn out that you can't bear it... In this folk song, we have not yet seen gold or a specific precious object, but the implication of love is clear. He didn't see the gold, but he saw the effort spent pursuing, rekindling, and fostering a love affair. Gold does not just fall but disappears, disappears, or the love is not strong but is brutally broken. So the failure in this folk song is first of all a failure in love. The tone of the song is somewhat humiliating and bitter. Can you imagine the situation like this: From understanding each other and loving each other to making a promise and vowing to stay together for a hundred years. That love does not come naturally. It must go through sweet, bitter, and challenging. Therefore, it is more valuable than anything in the world. Thought happiness was near, but who knew that turbulence would lead to separation and the clouds split apart. Your lover leaves you, or you cannot keep your lover. The storm was too big to overcome, so the people involved could only pity and lament. I complained to myself and then remained silent in pain and bitterness. But reality in life shows that there is not only one way out of disappointment in love, which is to die because of longing. The wound on the skin will gradually heal: so will the wound in the heart. There will be suffering for a while, but as the days pass, that suffering will gradually subside. People will wake up and think again. Has the other person's love faded? Were their eyes drawn to his wealth? Or are there detractors around you? Family hinders?... I know my fate. Oh well! Like the other boys, in the folk song above, they don't care about other people coming to catch fish or eat fruit, but they only regret their own efforts to build dams, carry bricks to build citadels, and plant trees... As for me, my love has been lost, my gold has fallen, my achievements are not few, but why regret it! I just regret the effort I spent so long building that golden love relationship. Because if this love is lost, you can still find another love, but how can you find the effort that has been spent and the time lost? It's a pity that holding the gold is like that. From the field of love, we can expand and enhance the meaning of the above folk song to other fields. It's not just love, it can be a good dream: getting high grades, great talent, getting rich quickly... Pursuing such a dream takes a lot of effort, money, and time. But in the end, my dream didn't come true, I just regret the effort I spent. Every stumble, every failure leaves us with profound lessons and people grow a lot after challenges. The important thing is to win without being arrogant, when losing without being discouraged, each person has enough. will you have the strength, courage, and clear mind to find for yourself the quintessential pure gold of spiritual life? The folk song is practical advice about pursuing beautiful dreams in life.
Bình luận câu ca dao “Lời nói chẳng mất tiền mua, lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau” Hướng dẫn Bình luận câu ca dao “Lời nói chẳng mất tiền mua, lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau” Bài làm Ca dao tục ngữ từ xưa đến nay vẫn là một kho tàng quý báu về cách sống, cách làm người mà ông cha ta để lại cho con cháu. Xã hội chúng ta là một tập thể, mọi người đều phải kết nối với nhau, không ai có thể sống một mình. Vì vậy, trong cuộc sống, chúng ta không thể nào tránh khỏi việc giao tiếp với người khác. Vậy chúng ta cần làm như thế nào để có thể làm cho đối phương vừa lòng? Ông cha ta có một câu ca dao về vấn đề này, đó là: “Lời nói chẳng mất tiền mua Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau.” Câu ca dao nói về thái độ, lời nói của mỗi chúng ta khi giao tiếp: cần phải nhẹ nhàng, nói những lời lẽ đúng mức, lịch sự, để không gây khó chịu cho đối phương. Lời nói là của chúng ta. Nói lời hay cũng không sao, mà nói lời dở cũng chẳng vấn đề gì. Tất nhiên là không mất tiền mua, vì đó chính là một thứ xuất phát từ bản thân mình, được coi như một thứ tài sản của mình. Đó không phải là một thứ mình phải tốn công sức, tiền của quá nhiều thì mới có được. Đó là công cụ để chúng ta giao tiếp với mọi người trong cuộc sống hàng ngày. Có những người thì lúc nào cũng nói năng một cách bỗ bã, thô thiển khiến cho người nghe cảm thấy khó chịu. Ngược lại, cũng có những người có cách nói chuyện rất duyên dáng, hóm hỉnh, khiến mọi người rất muốn trò chuyện cùng. Ngoài ra, lời nói cũng phụ thuộc một phần vào trình độ văn hóa và môi trường giáo dục. Nếu như một người được giáo dục một cách cẩn thẩn sẽ khác với một người không đi học, không biết chữ. Như vậy, khi chúng ta giao tiếp với nhau, cần phải chú ý đến đối tượng giao tiếp, để có thể có cách diễn đạt, sử dụng ngôn ngữ một cách hợp lí. Tuy nhiên, để có thể có khả năng nhận biết tình huống hay nói năng một cách nhẹ nhàng, dễ nghe thì chúng ta phải trải qua một quá trình học tập, rèn luyện rất chăm chỉ. Cần biết để ý, quan sát mọi người xung quanh, để học hỏi và rút kinh nghiệm. Những người biết chú ý quan sát mọi người, sẽ biết được những điều nên làm và những điều nên tránh. Ông cha ta có câu: “Học ăn, học nói, học gói, học mở”. Mọi việc trong cuộc sống của chúng ta, ngay từ những việc nhỏ nhặt nhất như việc ăn như thế nào cho lịch sự, nói thế nào cho đúng, cho hay cũng là cả một quá trình. Khi còn nhỏ, chúng ta được thầy cô, cha mẹ dạy phải biết lễ phép với người lớn, hòa nhã với bạn bè, nhường nhịn những người ít tuổi hơn. Và bài học ấy, vẫn luôn theo chúng ta trên mọi bước đường đời. Nếu chúng ta biết thực hiện đúng những điều mà chúng ta được dạy, được học, thì chúng ta sẽ trở thành một người được rất nhiều người xung quanh, vì cách nói chuyện dễ mến, nhẹ nhàng và lịch sự. Trong cuộc sống của chúng ta, có rất nhiều cuộc giao tiếp với nhiều mục đích khác nhau. Chúng ta cần biết cách ứng xử phù hợp với từng tình huống, để có thể đạt được một cuộc giao tiếp vui vẻ, thoải mái cho cả hai bên. Tuy nhiên, cũng cần phải biết thẳng thắn khi đúng lúc, chứ không chỉ lúc nào cũng chỉ vì muốn “vừa lòng nhau” mà nói những lời ngon ngọt, hãy trở thành một người nói chuyện thông minh.
Comment on the folk song "Words cost nothing to buy, choose your words to please each other" Instruct Comment on the folk song "Words cost nothing to buy, choose your words to please each other" Assignment Folk songs and proverbs from ancient times until now are still a precious treasure about the way of life and how to be human that our ancestors left to their children and grandchildren. Our society is a collective, everyone must connect with each other, no one can live alone. Therefore, in life, we cannot avoid communicating with others. So what do we need to do to make the other person satisfied? Our ancestors had a folk song about this issue, which is: “Words cost nothing to buy Choose your words carefully to please each other." The folk song talks about the attitude and speech of each of us when communicating: we need to be gentle, speak the right words, and be polite, so as not to cause discomfort to the other person. The words are ours. It's okay to say good things, but it's also okay to say bad things. Of course, you don't have to spend money to buy it, because it's something that comes from yourself and is considered your property. It's not something you have to spend too much effort or money to get. It is a tool for us to communicate with people in everyday life. There are people who always speak rudely and crudely, making listeners feel uncomfortable. On the contrary, there are also people who have a very charming and humorous way of speaking, making people want to talk to them. In addition, speech also depends partly on cultural level and educational environment. If a person is carefully educated, he will be different from a person who does not go to school and is illiterate. Thus, when we communicate with each other, we need to pay attention to the object of communication, so that we can express and use language appropriately. However, to be able to recognize situations or speak in a gentle, easy-to-listen manner, we must go through a very hard learning and training process. You need to pay attention and observe people around you to learn and gain experience. People who know how to pay attention to people will know what to do and what to avoid. Our ancestors had a saying: "Learn to eat, learn to speak, learn to package, learn to open". Everything in our lives, right from the smallest things like how to eat politely, how to speak correctly, and how to speak well is also a process. When we were children, we were taught by teachers and parents to be polite to adults, gentle with friends, and tolerant of younger people. And that lesson still follows us in every step of life. If we know how to do exactly what we are taught and learned, then we will become a person loved by many people because of our likable, gentle and polite way of speaking. In our lives, there are many communications with many different purposes. We need to know how to behave appropriately in each situation, so that we can achieve a happy and comfortable communication for both parties. However, you also need to know how to be frank when the time is right, not just saying sweet words just because you want to "please each other", become a smart talker.
Bình luận câu ca dao: Nhiễu điều phủ lấy giá gương Người trong một nước phải thương nhau cùng Hướng dẫn Bình luận câu ca dao: Nhiễu điều phủ lấy giá gương Người trong một nước phải thương nhau cùng Tình yêu thương giữa con người với con người là một trong những đạo lí truyền thống của nhân dân ta từ bao đời nay. Bàn về vấn đề này thì có rất nhiều câu ca dao tục ngữ khuyên răn con người, nhưng điển hình nhất đó là câu: “Nhiễu điều phủ lấy giá gương Người trong một nước phải thương nhau cùng” Trước tiên chúng ta cần phải hiểu được câu thơ trên nó có ý nghĩa như thế nào. “nhiễu điều” có nghĩa là một tấm vải đỏ trông rất sang trọng. Người xưa thường lấy tấm vải đỏ này để che các bài vị của những người đã mất đi. Và thời xưa thì chỉ có những tầng lớp quý tộc mới có loại vải này còn bình dân thì không hay dùng tới. Gía gương là những giá để đỡ lấy những chiếc gương để cho nó không bị rơi xuống. Và ý nghĩa cả câu “nhiễu điều phủ lấy giá gương” đó là một vật dụng để che đậy để cho chiếc gương không bị bụi bẩn. Hình ảnh này gợi lên hình ảnh yêu thương đùm bọc lẫn nhau của nhân dân ra. Cha ông đã khuyên con cháu của mình rằng nếu là người ở trong một nước thì phải hết sức yêu thương đùm bọc lẫn nhau. Từ miền Trung cho tới miền Nam, từ miền núi cho tới thành thị tất cả chúng ta đều có một sợi dây gắn kết lại bởi vì chúng ta được sinh ra trong một bọc trăm trứng nở ra trăm con của người mẹ Âu Cơ, và chúng ta đều như anh em con cháu trong một nhà, mà đã là anh em con cháu thì cần phải biết yêu thương quý trọng lẫn nhau. Dù có là ai đi chăng nữa hay cho dù có bị ra sao thì con người vẫn cần có tình yêu thương của nhân loại. Đồ vật, con vật còn có cảm xúc huống chi là con người. Vì thế cho nên câu ca dao này lên án những người không có được sự hòa hiếu yêu thương lẫn nhau, san sẻ những tình cảm và vật chất cuộc sống của con người. Nếu như đất nước của chúng ta không có sự đùm bọc yêu thương lẫn nhau thì sẽ như thế nào và ra sao. Hãy để cho những tình cảm đẹp đẽ ấy sáng lên trong sáng như chiếc gương. Chúng ta có thể thấy rõ ràng được tinh thần yêu thương đoàn kết lẫn nhau ở trong cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm. Trong tình hình đất nước như hiện nay thì còn có rất nhiều những khó khăn nhưng chúng ta luôn cần lắm những cánh tay để cùng nhau đoàn kết hướng tới biển đảo của tổ quốc để giữ gìn đất nước. Nếu như một cộng đồng người mà không có sự hòa nhập đối với nhau thì có lẽ cuộc sống này thực sự tẻ nhạt hơn bao giờ hết. Tình cảm cộng đồng sẽ tạo nên một sức mạnh hết sức to lớn về cả vật chất lẫn tinh thần khiến cho con người vượt được qua bao nhiêu là khó khăn để có thể chiến thắng được kẻ thù, hướng tới cuộc sống ấm no và hạnh phúc. Những hành động tuy là nhỏ nhưng cũng đã khiến cho chúng ta thấy ấm lòng hơn khi giúp đỡ những người gặp khó khăn ở trong cuộc sống.Ta cũng thấy thấy thất vọng khi đức tính đoàn kết đó ngày càng bị xuống dốc. Nguồn: Bài văn hay
Comment on the folk song: Noise covers the mirror. People in a country must love each other Instruct Comment on the folk song: Noise covers the mirror. People in a country must love each other Love between people is one of the traditional morals of our people for many generations. Discussing this issue, there are many folk songs and proverbs that advise people, but the most typical is the sentence: "Government interference that takes the mirror People in a country to trade together" First we need to understand what the above verse means. “noise” means a red cloth that looks very luxurious. Ancient people often used this red cloth to cover the tablets of those who had passed away. And in ancient times, only the aristocracy had this type of fabric and the common people did not often use it. Mirror stands are shelves that hold mirrors so they don't fall. And the meaning of the phrase "noise covers the mirror shelf" is that it's a cover-up to keep the mirror from getting dirty. This image evokes the image of people's love and mutual support. His father advised his children and grandchildren that if they were people in a country, they must love and care for each other. From the Central region to the South, from the mountains to the cities, we all have a bond that connects us because we were born in a bag of hundreds of eggs that hatched into a hundred children of mother Au Co, and We are all like brothers and sisters in one family, and as brothers and sisters, we need to know how to love and respect each other. No matter who you are or what happens, people still need the love of humanity. Objects and animals have emotions, let alone people. Therefore, this folk song condemns people who do not have peace, love and respect for each other, sharing emotions and material things in human life. If our country did not have mutual support and love, what would it be like and what would happen? Let those beautiful feelings shine brightly like a mirror. We can clearly see the spirit of mutual love and solidarity in the resistance war against foreign invaders. In the current situation of the country, there are still many difficulties, but we always need many hands to unite together towards the islands of the country to preserve the country. If a community of people does not integrate with each other, perhaps this life is truly more boring than ever. Community sentiment will create a tremendous strength both physically and mentally, helping people overcome many difficulties to defeat enemies and lead a prosperous and happy life. happiness. Although these actions are small, they still make us feel warmer when we help those facing difficulties in life. We also feel disappointed when that virtue of solidarity is increasingly declining. Source: Good article
Đề bài: Bình luận câu cổ ngữ: "Ngọc vô cùng quý giá, nhưng ngọc tâm hồn còn quý giá hơn nhiều" Bài làm Sống ở trên đời đã mấy người có ngọc làm gia báo, làm đồ trang sức, làm tài sản? Thế mà cổ ngữ lại có câu: “Ngọc vô cùng quý giá, nhưng ngọc tâm hồn còn quý giá hơn nhiều”. Ngọc vô cùng quý giá, nhưng ngọc tâm hồn còn quý giá hơn nhiều Một sự so sánh nhiều ý nghĩa, giúp cho mỗi chúng ta hiểu rõ và trân trọng giá trị của ngọc tâm hồn. 1. Ngọc còn có tên là hạt minh châu rất quý hiếm, có giá trị kinh tế cao, hơn hẳn vàng, Ngọc rất cứng, có màu sắc lóng lánh, đủ loại: bạch ngọc, hồng ngọc, ngọc lam, huyền ngọc, ngọc lưu li… Ngọc được chế tác thành nhiều vật dụng tuyệt dẹp: chén ngọc, ấn ngọc, tượng ngọc, đồ nữ trang… Trên thị trường thế giới, có những viên ngọc giá nhiều triệu đô la. Thật vậy, ngọc vô cùng quý giá. Đã mấy ai sỡ hữu được ngọc; có ngọc làm tài sản, làm đồ gia bảo? 2. “Nhưng ngọc tâm hồn còn quý giá hơn nhiều” – tại sao? Trong câu cổ ngữ này, ngọc tâm hồn là một ẩn dụ, một hình tượng nhằm khẳng định, ngợi ca tâm hồn đẹp hơn, trong sáng hơn, quý giá hơn thứ ngọc vật chất. Tâm hồn thì người nào chẳng có, nhưng ngọc tâm hồn thì không phải ai cũng có. Không phải đá nào cũng có ngọc. "Người ba đấng, của ba loài” (Tục ngữ). Không phân biệt tuổi tác, giới tính, học vấn, địa vị xã hội… mà có ngọc tâm hồn. Một em bé học sinh nhảy xuống hồ Bảy Mẫu cứu bạn thoát khỏi chết đuối. Một cụ già “thất thập cổ lai hi”, trước lúc qua đời gửi lại sổ tiết kiệm, với lời trăng trói “gửi tặng các cháu mồ côi”. Một thầy thuốc giàu y đức cứu chữa được nhiều người bệnh mà không hề lấy tiền công, tiền thuốc,… Đó là những tấm gương sáng ngời ngọc tâm hồn mà báo chí từng ngợi ca, hàng triệu người ngưỡng mộ. Không phải có học vấn cao, chức vụ cao, giàu sang phú quý… mà có ngọc tâm hồn. Người có ngọc tâm hồn là người giàu tình thương, thương mình, thương người, biết san sẻ, đồng cảm, cưu mang đồng loại. Có tấm lòng “thương người như thể thương thân", coi trọng tình người hơn vàng bạc… là có ngọc tâm hồn. Phong cách sống của người có ngọc tâm hồn rất đẹp: thanh cao, bao dung, lễ độ. Khổng Tử có nói: “Văn nhã, hòa khí, khiêm tốn là cốt cánh kẻ sĩ”. Phải chăng văn nhã, hòa khí, khiêm tốn là ngọc tâm hồn? Cách ứng xứ của người có ngọc tâm hồn bất cứ hoàn cảnh nào, tình thế nào đều thể hiện một tâm thế, một bản lĩnh rất đẹp, như người xưa đã nói: “Phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất”. 3. Ngọc tâm hồn là một giá trị tinh thần, có thể biến đổi trong thời gian và không gian. Nó có thể phai mờ, cũng có thể mỗi ngày thêm tỏa sáng. Cho nên phải tu dường, rèn luyện như ông cha từng nhắc nhở: “Ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”. Trang sách giáo khoa và những lời dạy dỗ, giáo huấn của thầy cô giáo là những nhân tố bồi đắp nuôi dưỡng ngọc tâm hồn của tuổi trẻ. Tiếng ru, điệu hát của bà, của mẹ là chất liệu hình thành và làm sáng trong ngọc tâm hồn của tuổi thơ. Có đứa con, đứa cháu nào dám quên? Mẹ ru cái lẽ ở đời, Sữa nuôi phần xác, hát nuôi phần hồn. Bà ru mẹ, mẹ ru con, Liệu mai sau các con còn nhớ chăng? (Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa – Nguyễn Du) Nhân dân ta có nhiều câu ca trở thành điệu ru, tiếng hát nói về ngọc tâm hồn, mà nhiều người luôn nhắc nhở để làm bài học: – Thà chết vinh còn hơn sống nhục. – Thức trong còn hơn sống đục. – Gần bùn mà chảng hôi tanh mùi bùn. – Ngọc kia có giũa có mài, Mới thành hữu dụng kẻo hoài ngọc đi. 4. Tóm lại, “Ngọc vô cùng quý giá, nhưng ngọc tâm hồn còn quý giá hơn nhiều”. Ngọc tâm hồn là thứ tài sản tinh thần vô giá của đời người. Người có ngọc tâm hồn thật đáng quý trọng. Tuổi trẻ cần phấn đấu học tập văn hóa ngoại ngữ, khoa học kĩ thuật, và rèn luyện tu dưỡng đạo đức để có ngọc tâm hồn, ngẩng cao đầu trước thiên hạ. Đừng nên “ăn xổi ở thì”, mà phải biết: “Vô kiến tiểu lợi, vô cầu tốc thành”, nghĩa là không coi trọng cái lợi nhỏ trước mắt, không vội vàng để mong thành đạt.
Topic: Comment on the old saying: "Jade is extremely valuable, but the pearl of the soul is much more precious" Assignment How many people living in this world have jade as heirlooms, jewelry, or assets? Yet there is an ancient saying: "Jade is extremely valuable, but the pearl of the soul is much more precious." Gems are extremely valuable, but soul gems are even more valuable A meaningful comparison, helping each of us understand and appreciate the value of soul gems. 1. Jade is also known as pearl beads, very rare, has high economic value, much better than gold. Jade is very hard, has sparkling colors, of all kinds: white jade, ruby, turquoise, black jade, Lapis lazuli... Jade is crafted into many wonderful objects: jade cups, jade seals, jade statues, jewelry... On the world market, there are jade worth many millions of dollars. Indeed, jade is extremely valuable. Few people have owned pearls; Have jade as an asset or a family heirloom? 2. “But the pearl of the soul is much more precious” – why? In this ancient saying, the pearl of the soul is a metaphor, an image that affirms and praises the soul as more beautiful, purer, and more valuable than material pearls. Everyone has a soul, but not everyone has soul gems. Not all stones have jade. "People of three types, of three species" (Proverb). Regardless of age, gender, education, social status... there are pearls of the soul. A student jumped into Bay Mau Lake to save his friend from drowning. An old man, "seventy years old, came back", before he passed away, sent back his savings book, with the words "send it to the orphans". A doctor rich in medical ethics can cure many sick people without taking any salary, medicine fees, etc. These are shining examples of pearls of the soul that the press has praised and millions of people admire. Not having high education, high position, wealth... but having soul gems. People with soul gems are people who are rich in love, love themselves, love others, know how to share, sympathize, and take care of their fellow human beings. Having the heart to "love others as if loving yourself", valuing human love more than gold and silver... is to have a pearl of the soul. The lifestyle of people with soul gems is very beautiful: noble, tolerant, polite. Confucius said: "Elegance, peace, and humility are the core of a scholar." Are elegance, harmony, and humility the pearls of the soul? The way a person with a soul gem responds to any situation or situation shows a very beautiful mentality and bravery, as the ancients said: "Rich people cannot be sexually immoral, poor people cannot move. Mighty and invincible". 3. Soul jade is a spiritual value that can change in time and space. It can fade, or it can shine brighter every day. Therefore, we must cultivate and practice as our ancestors once reminded us: "The more jade is polished, the brighter it is, the more gold is refined, the purer it becomes." The pages of textbooks and the teachings and instructions of teachers are factors that nourish the soul of youth. The lullabies and songs of grandmothers and mothers are the materials that form and brighten the soul of childhood. Which child or grandchild would dare to forget? Mother lulls the reason in life, Milk nourishes the body, singing nourishes the soul. Grandmother lulls mother, mother lulls child, Will you still remember in the future? (Sitting sadly, remembering my mother in the past - Nguyen Du) Our people have many songs that become lullabies, songs that talk about pearls of the soul, which many people always remind of as lessons: – It is better to die with honor than to live in disgrace. - Clear consciousness is better than cloudy life. – Near mud but doesn't smell like mud. – That jade has both a file and a sharpener, Only when you become useful don't waste your pearls. 4. In short, "Jade is extremely precious, but the pearl of the soul is much more precious." Soul gems are priceless spiritual assets in human life. People with soul gems are truly precious. Young people need to strive to learn foreign languages, science and technology, and practice and cultivate morality to have the pearl of the soul and hold their heads high before the world. Don't "eat a quick meal at the drop of a hat", but know: "If you don't see small benefits, don't seek quick success", which means not appreciating the small benefits in front of you, not being in a hurry to hope for success.
Đề bài: Em hãy viết bài văn bình luận câu ngạn ngữ HI Lạp: Học vấn có những chùm rễ đắng cay nhưng hoa quả lại ngọt ngào. Bài làm Trong lịch sử phát triển của thế giới suốt mấy ngàn năm qua, ở bất cứ quốc gia nào, dân tộc nào, dù lớn hay nhỏ đều có những tài năng xuất chúng, những học giả uyên bác đã cống hiến cho đời nhiều điều, đem lại lợi ích không nhỏ, làm thay đổi cơ bản cuộc sống vật chất và tinh thần của con người. Cả nhân loại ngưỡng mộ tài năng của Niu-tơn, Men-đê-lê-ép, Anh-xtanh, Đác-uyn, Lô-mô-nô-xốp, Sô-panh, Mô-da, Tôn-xtôi, Vic-to Hu-gô, Ban-zăc… Nhưng liệu mấy ai hiểu rằng để có được những thành tựu khoa học, nghệ thuật lớn lạo như vậy, họ đã phải học tập và làm việc miệt mài, vất vả đến mức nào. Thực tế cho thấy muốn thành công thì phải học tập để tích luỹ và nâng cao tri thức. Con đường học tập là con đường gian nan, khổ ải nhưng cuối con đường là ánh sáng, là tương lai. Bàn về vấn đề này, ngạn ngữ Hi Lạp có câu: Học vấn có những chùm rễ đắng cay nhưng hoa quả lại ngọt ngào. Trước hết, chúng ta phải hiểu thế nào là học vấn và học vấn có vai trò quan trọng ra sao trong đời sống con người. Học vấn thường được hiểu là trình độ hiểu biết của người có học. Trình độ hiểu biết này được nâng cao dần dần qua từng cấp học (phổ thông, đại học, sau đại học…) và quá trình tự học kéo dài suốt cả cuộc đời. Học vấn của một con người không chỉ hạn chế trong một lĩnh vực nào đó mà có thể mở rộng ra nhiều lĩnh vực khác nhau. Học vấn đem lại niềm vui và hạnh phúc cho con người: Bộ lông làm đẹp con công, học vấn làm đẹp con người (ngạn ngữ cổ). Ông cha ta xưa cũng đã từng giáo huấn con cháu: Bất học bất tri lí (Không học không biết đâu là lẽ phải). Hay: Cô học thì như lúa như nếp, không học thì như rơm như cỏ. Học vấn cần thiết đối với mỗi con người như vậy nhưng con đường đến với học vấn quả là gian nan, vất vả. Việc tích lũy và nâng cao tri thức không phải là chuyện ngày một ngày hai mà là chuyện cả đời người: Bể học không bờ (Khổng Tử), Học, học nữa, học mãi, Học ở trường, học trong sách vở, học lẫn nhau và học ở dân (Lênin). Muốn có học vấn, chúng ta phải có ý chí và nghị lực phấn đấu rất cao. Hãy nhìn con kiến tha mồi, con ong làm mật. Việc tích luỹ kiến thức của con người giống như Kiến tha lâu cũng đầy tổ (tục ngữ). Nếu cố gắng học hành thì đến một ngày nào đó, chúng ta có được một trình độ học vấn vững vàng, phong phú. Thực tế lịch sử cho thấy những người nổi tiếng uyên bác đều trải qua quá trình học tập, nghiên cứu lâu dài, lao tâm khổ trí; phải nếm trải không ít vị đắng cay của thất bại; thậm chí cả sự nguy hiểm đôi với mạng sống của mình. Nhưng với lòng ham mê hiểu biết và khát vọng chinh phục, họ đã vượt qua tất cả để đi đến thành công. Trong quá trình tích lũy nâng cao học vấn, chúng ta thấy rất ít người có đầy đủ điều kiện học tập mà phần lớn là gặp khó khăn. Khó khăn khách quan như thiếu tài liệu, như bài giảng khó hiểu, bài tập khó giải hay những vấn đề phức tạp trong quá trình học tạp, nghiên cứu… Bên cạnh đó là những khố khăn chủ quan như gia đình nghèo túng, bản thân phải vừa học vừa làm thêm để kiếm sống… Tất cả những cái đó ảnh hưởng không nhỏ tới quá trình học tập của mỗi người, đòi hỏi chúng ta phải biết vượt lên để đi tới đích. Những nhà bác học như Lương Đình Của, Võ Tòng Xuân… suốt đời cống hiến cho sự nghiệp nghiên cứu khoa học về các giống lúa có khả năng chống sâu rầy và mang lại năng suất cao nhất để góp phần cải thiện đời sống nhân dân, đưa Việt Nam từ một nước nông nghiệp lạc hậu trở thành nước xuất khẩu gạo đứng thứ ba trên thế giới. Việc học hành vô cùng quan trọng. Nó chi phối và có tác dụng quyệt định đến cả đời người. Những đắng cay trên bước đường nâng cao học vấn giúp chúng ta hoàn thiện nhân cách và biết quý trọng hơn những hoa quả ngọt ngào mà học vấn mang lại cho cuộc sống. Ý nghĩa của câu ngạn ngữ Hi Lạp: Học vấn có những chùm rễ đắng cay nhưng hoa quả lại ngọt ngào đã trở thành chân lí trong mọi thời đại, nhất là trong thời đại hiện nay 1 nền kinh tế tri thức đang là vấn đề được đặt lên hàng đầu.
Topic: Write an essay commenting on the Greek proverb: Education has bitter roots but its fruits are sweet. Assignment In the history of the world's development over the past several thousand years, in every country and nation, no matter how big or small, there have been outstanding talents and erudite scholars who have contributed many things to life. brings significant benefits, fundamentally changing people's material and spiritual lives. All mankind admires the talents of Newton, Mendeleev, Einstein, Darwin, Lomonosov, Chopin, Moda, Tony, Vic. to Hugo, Banzac... But how many people understand how hard they had to study and work to achieve such great scientific and artistic achievements? Reality shows that if you want to be successful, you must study to accumulate and improve knowledge. The path of learning is a difficult and painful path, but at the end of the path is light, the future. Discussing this issue, there is a Greek proverb: Education has bitter roots but its fruits are sweet. First of all, we must understand what education is and what important role education plays in human life. Education is often understood as the level of knowledge of an educated person. This level of knowledge is gradually improved through each level of education (high school, university, postgraduate...) and the self-study process lasts throughout life. A person's education is not limited to a certain field but can expand to many different fields. Education brings joy and happiness to people: Plumage beautifies the peacock, education beautifies the person (ancient proverb). Our ancestors in the past also taught their children: No learning, no reason (If you don't learn, you won't know what is right). Or: If you study, you are like rice and sticky rice. If you don't study, you are like straw and grass. Education is necessary for every person, but the path to education is arduous and difficult. Accumulating and improving knowledge is not a matter of a day or two but a matter of a lifetime: The pool of learning has no shore (Confucius), Study, study more, study forever, Study at school, study in books, study each other and learn from the people (Lenin). To have an education, we must have a very high will and determination to strive. Look at the ant that retrieves prey, the bee that makes honey. The accumulation of human knowledge is like a nest full of ants (proverb). If we try to study, one day we will have a solid and rich level of education. Historical reality shows that famous and erudite people have gone through a long process of study, research, and hard work; have to experience the bitter taste of failure; even the danger to his own life. But with their passion for knowledge and desire to conquer, they overcame everything to achieve success. In the process of accumulating and improving education, we see that very few people have adequate learning conditions and most of them face difficulties. Objective difficulties such as lack of materials, difficult-to-understand lectures, difficult-to-solve exercises, or complicated problems in the learning and research process... In addition, there are subjective difficulties such as poor families, family history, etc. I have to study and work part-time to make a living... All of these things greatly affect each person's learning process, requiring us to know how to overcome them to reach our destination. Scholars like Luong Dinh Cua, Vo Tong Xuan... devoted their lives to scientific research on rice varieties that are resistant to pests and bring the highest yield to contribute to improving people's lives. , bringing Vietnam from a backward agricultural country to the third largest rice exporter in the world. Studying is extremely important. It governs and has a determining effect on a person's entire life. The bitterness on the path to improving our education helps us perfect our personality and learn to appreciate more the sweet fruits that education brings to life. The meaning of the Greek proverb: Education has bitter roots but sweet fruits has become a truth in all times, especially in the current era where a knowledge economy is a problem. Put on top.
Bình luận câu nói của Hồ Chí Minh: Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận. Anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy Hướng dẫn Bình luận câu nói của Hồ Chí Minh: Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận. Anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy Bài làm Chủ tịch Hồ Chí Minh là vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc ta. Người không chỉ xuất sắc trong việc lãnh đạo nhân dân kháng chiến, mà trong lĩnh vực văn hóa nghệ thuật, Người cũng là một tác giả vô cùng xuất sắc. Người luôn biết cách dùng thơ ca để cổ vũ, động viên tinh thần những người chiến sĩ của mình. Vào năm 1951, khi cuộc kháng chiến chống Pháp đang diễn ra vô cùng cam go và khốc liệt, người đã gửi cho anh em họa sĩ một tấm chân tình: Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận. Anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy. Trong cuộc đời cách mạng của mình, Hồ Chí Minh luôn đặt lý tưởng độc lập tự do của cả dân tộc cao hơn văn chương. Mặc dù vậy, Người cũng rất coi trọng văn chương và sứ mệnh cao cả của những người nghệ sĩ chân chính. Chỉ bằng một câu nói ngắn ngủi và xúc động, Bác đã một lần nữa nhấn mạnh tầm quan trọng của nghệ sĩ đối với cách mạng: Văn hóa nghệ thuật là một mặt trận. Anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy. Không chỉ vậy, văn học nghệ thuật còn như tiếng nói đòi quyền lợi cho giai cấp của tác giả, “ là tiếng nói tình cảm, là hình thức nhuần nhị và sắc bén của tư tưởng”. Có thể nói, văn học nghệ thuật chính là một mặt trận nóng bỏng, không kém gì so với những mặt trận đấu tranh thông thường. Bởi ở đó luôn diễn ra những cuộc tranh đấu không ngừng của sự thay đổi giữa cái mới và cái cũ, giữa sự tiến bộ và sự lạc hậu, giữa cái nhân ái, nhân văn và phi nhân văn. Cũng như cuộc chiến giữa ta và địch, sự phân chia ranh giới thiện ác luôn rất quyết liệt. Hồ Chủ tịch xem văn học nghệ thuật như một mặt trận là nhằm nhấn mạnh tính cạnh tranh, sự chiến đấu của nền văn học vô sản và sự quyết liệt trên mặt trận này. Dù không có tiếng súng, không có bom đạn nhưng cuộc chiến vẫn vô cùng quyết liệt và phức tạp. Qua đây có thể thấy, quan điểm của Hồ Chí Minh về những người chiến sĩ trên mặt trận văn hóa nghệ thuật là vô cùng đúng đắn và mới mẻ. Người đã đề cao cũng như nêu rõ được vai trò quan trọng của những người nghệ sĩ trong giai đoạn đất nước đang đấu tranh giành lại độc lập và thống nhất đất nước.
Commenting on Ho Chi Minh's quote: Art and culture are also a front. You are soldiers on that front Instruct Commenting on Ho Chi Minh's quote: Art and culture are also a front. You are soldiers on that front Assignment President Ho Chi Minh is the great leader of our nation. He not only excelled in leading the people's resistance war, but in the field of culture and art, he was also an extremely excellent author. He always knew how to use poetry to cheer and motivate his soldiers. In 1951, when the resistance war against the French was taking place extremely arduous and fierce, he sent the artists a sincere message: Art and culture are also a front. You are soldiers on that front. During his revolutionary life, Ho Chi Minh always placed the ideal of independence and freedom of the entire nation higher than literature. However, he also highly valued literature and the noble mission of true artists. With just a short and emotional sentence, Uncle Ho once again emphasized the importance of artists to the revolution: Art and culture are a front. You are soldiers on that front. Not only that, literature and art are also like the author's voice demanding the rights of his class, "the voice of emotion, the subtle and sharp form of thought". It can be said that literature and art is a hot front, no less than the usual fronts of struggle. Because there is always a constant struggle of change between the new and the old, between progress and backwardness, between the compassionate, humane and inhumane. Just like the war between us and the enemy, the division between good and evil is always very drastic. President Ho Chi Minh considered literature and art as a front to emphasize the competitiveness and fighting of proletarian literature and the fierceness on this front. Even though there were no guns or bombs, the war was still extremely fierce and complicated. Through this, it can be seen that Ho Chi Minh's perspective on soldiers on the cultural and artistic front is extremely correct and new. He promoted and highlighted the important role of artists during the period when the country was fighting to regain independence and national unity.
Bình luận câu nói Phải dũng cảm trong cuộc sống – Văn mẫu tuyển chọn Hướng dẫn Lòng dũng cảm mang đến sức mạnh để con người hoàn thành tốt mọi công việc. Bàn về vai trò của lòng dũng cảm đã có câu nói Phải dũng cảm trong cuộc sống. Anh chị hãy viết bài nghị luận bình luận về câu nói Phải dũng cảm trong cuộc sống. I. Dàn ý chi tiết cho đề nghị luận câu nói Phải dũng cảm trong cuộc sống 1. Mở bài Giới thiệu vấn đề nghị luận: lòng dũng cảm trong cuộc sống 2. Thân bài – Giải thích: dũng cảm là một phẩm chất tốt đẹp của con người – Chứng minh: + Trong chiến tranh có biết bao người dám hy sinh vì Tổ quốc + Trong xã hội hiện đại cũng có những người dám xả thân vì người khác + Dám làm điều bản thân mình muốn Đó là dũng cảm – Tác dụng của lòng dũng cảm?: +người có lòng dũng cảm sẽ tự tin hơn vào bản thân, có bản lĩnh vượt qua mọi khó khăn trong cuộc sống + được mọi người yêu mến – Bài học bản thân: để trở thành một người dung cảm phải luôn vững tin vào hành động của bản thân 3. Kết bài Khẳng định vấn đề nghị luận: hãy luôn dũng cảm làm điều mình muốn vì cuộc sống này là của bạn. II. Bài tham khảo Một trong những đức tính quan trọng của con người là lòng dũng cảm. Dù ở bất cứ nơi đâu, trong bất cứ hoàn cảnh nào chúng ta cũng cần lòng dũng cảm. Dũng cảm ở đây là không sợ nguy hiểm, không sợ khó khăn. Người có lòng dũng cảm là người dám làm những điều bản thân mình muốn, dám đứng lên chống lại cái xấu, cái ác, bảo vệ chính nghĩa. Dũng cảm là một phẩm chất tốt đẹp của con người. Trong chiến tranh đã có biết bao người anh dũng chiến đấu quyết tâm bảo vệ Tổ quốc để rồi họ mãi yên nghỉ nơi chiến trường. Có biết bao lá thư tay được viết bằng máu của các chiến sĩ xin lên đường ra trận, bao nhiêu con người lấy thân mình lấp lỗ châu mai… Khi chiến tranh qua đi, dũng cảm không còn ở việc lên đường ra trận mà ở ngay trong những lần phòng chống tội phạm của các chiến sĩ công an. Rồi cũng có rất nhiều tấm gương sẵn sàng hy sinh bản thân để giúp đỡ người khác. Đó là câu chuyện của Nguyễn Văn Nam (học sinh lớp 12T7, trường THPT Đô Lương 1, Nghệ An). Khi đi ngang qua sông Lam thấy nhóm học sinh chới với giữa dòng nước, nam sinh không hề đắn đo mà nhanh chóng lao xuống cứu người. Sau khi đã cứu được bốn em học sinh vào bờ, Nam thấy vẫn còn một em đang dần bị ngạt nước, cậu bạn đã dùng hết sức lực giúp em nhỏ được vào bờ. Nhưng tiếc thay, chàng trai trẻ đã bị kiệt sức rồi dần bị nước cuốn trôi. Đó còn là câu chuyện về chàng trai trẻ Trần Hữu Hiệp (sinh năm 1988) – một trong chín nạn nhân trong vụ lật cano trên sông Soài Rạp (huyện Cần Giờ. TP.HCM) đã dũng cảm nhường áo phao cho những người gặp nạn khác, cứu sống được năm người. Đó là dũng cảm. Và hàng ngày cũng có rất rất nhiều những câu chuyện, những tấm gương dũng cảm sẵn sàng hy sinh bản thân để bảo vệ người khác. Nhưng dũng cảm còn thể hiện ở việc bạn dám làm những điều mà bản thân bạn muốn. Bạn chưa từng có kinh nghiệ làm lớp trưởng trong suốt nhiều năm học nhưng vẫn dám dơ tay ứng cử cho chức vụ này, đó là dũng cảm. Bạn ưng ý một bộ quần áo nhưng nó có vẻ khác lạ so với mọi người nhưng bạn vẫn dám mặc nó, đó là dũng cảm. Bạn dám đứng lên bảo vệ ý kiến của bản thân mình, đó cũng là dũng cảm… Trước khi dũng cảm làm những điều cao siêu hãy bắt đầu từ việc làm điều mình muốn. Người có lòng dũng cảm sẽ có bản lĩnh hơn, sẽ tự tin hơn vào bản thân mình. Hiện nay lòng dũng cảm đã trở thành một chuẩn mực đạo đức của xã hội, là một trong những thước đo quan trọng để đánh giá nhân cách của con người. Để trở thành một người dũng cảm bạn cần phải luôn vững tin vào hành động của bản thân, dám làm dám chịu. Và tôi tin chắc rằng một người dũng cảm làm điều mình muốn, dám dũng cảm bảo vệ cái tốt chắc chắn sẽ được nhiều người quý mến và trở thành tấm gương của nhiều người. Đừng giống như một con rùa chỉ biết chui vào trong vỏ bọc của nó khi có động mà hãy dũng cảm làm những điều mà bạn muốn vì cuộc sống này là của bạn và bạn có quyền hưởng thụ nó theo cách riêng của mình. Theo
Comment on the saying Must be brave in life - Selected essay sample Instruct Courage gives people the strength to complete every job well. Discussing the role of courage, there is a saying: Must be brave in life. Please write an essay commenting on the saying "Be brave in life". I. Detailed outline for a proposed essay on the statement Must be brave in life 1. Open the lesson Introducing the discussion issue: courage in life 2. Body of the article – Explanation: courage is a good human quality - Prove: + In war, there are so many people who dare to sacrifice for the Fatherland + In modern society there are also people who dare to sacrifice their lives for others + Dare to do what you want That's courage – Effects of courage?: + People with courage will be more confident in themselves and have the courage to overcome all difficulties in life + loved by everyone – Personal lesson: to become a brave person, you must always believe in your own actions 3. Conclusion Affirming the argument: always have the courage to do what you want because this life is yours. II. Reference article One of the important human virtues is courage. No matter where we are, in any situation we need courage. Courage here means not being afraid of danger, not afraid of difficulties. A person with courage is someone who dares to do what they want, dares to stand up against evil and evil, and defend justice. Courage is a good human quality. During the war, there were countless people who fought bravely and determined to protect the Fatherland, only to rest forever on the battlefield. There are so many handwritten letters written in the blood of soldiers asking to go to war, so many people using their bodies to fill holes in the battlements... When the war is over, courage no longer lies in going to war but in even during crime prevention efforts by police officers. Then there are also many examples of people willing to sacrifice themselves to help others. That is the story of Nguyen Van Nam (grade 12T7 student, Do Luong 1 High School, Nghe An). When passing by the Lam River and seeing a group of students floating in the middle of the water, the male student did not hesitate and quickly jumped in to save them. After rescuing four students to shore, Nam saw that one student was still slowly drowning. His friend used all his strength to help the child get to shore. But unfortunately, the young man was exhausted and was gradually swept away by the water. It is also the story of young man Tran Huu Hiep (born in 1988) - one of nine victims in the canoe capsizing incident on the Soai Rap River (Can Gio district. Ho Chi Minh City) who bravely gave up his life jacket to those he encountered. In another accident, five people were saved. That's courage. And every day there are many stories and examples of brave people willing to sacrifice themselves to protect others. But courage also shows that you dare to do what you want. You have never had the experience of being a class president during many years of school but still dare to raise your hand to run for this position, that is courage. You like an outfit but it looks different from everyone else but you still dare to wear it, that is courage. You dare to stand up for your own opinion, that is also courage... Before being brave to do noble things, start from doing what you want. People with courage will have more bravery and will be more confident in themselves. Currently, courage has become a moral standard of society, one of the important measures to evaluate human personality. To become a brave person, you need to always believe in your own actions, dare to do and dare to endure. And I firmly believe that a brave person who does what he wants and dares to courageously defend what is good will certainly be loved by many people and become an example for many people. Don't be like a turtle that only crawls into its shell when there is a move, but be brave and do what you want because this life is yours and you have the right to enjoy it in your own way. According to
Bình luận câu nói sau đây của nhà văn Pháp Đi-đơ-rô: Nếu không có mục đích, anh không làm được gì cả, anh cũng không làm được cái gì nếu múc đích tầm thường. Hướng dẫn Bình luận câu nói sau đây của nhà văn Pháp Đi-đơ-rô: Nếu không có mục đích, anh không làm được gì cả, anh cũng không làm được cái gì nếu múc đích tầm thường. Bài làm Mỗi khi muốn nhắc nhở ai đó về lẽ sống, mục đích cuộc đời, người ta thường nhớ đến câu nói của Đi- đơ- rô: Nếu không có mục đích, anh không làm được gì cả, anh cũng không làm được cái gì nếu mục đích tầm thường. Đi-đơ-rô là không chỉ là nhà văn mà còn là nhà lý luận, phê bình nghệ thuật và nhà triết học duy vật rất vĩ đại và nổi tiếng của Pháp vào khoảng thế kỷ XVIII. Những câu nói, tư tưởng của ông đều được mọi người vô cùng ngưỡng mộ, và câu nói trên đây cũng vậy, cũng là một trong những tư tưởng xuất sắc của Đi-đơ-rô. Mục đích mà tác giả nhắc tới ở đây, đơn giản là những điều người ta muốn tiến tới, muốn thực hiện cho bằng được và có được thành công với điều đã đặt ra. Mục đích cũng gắn liền với lý tưởng cũng như mơ ước của mỗi con người. Bởi vì có mục đích, có ước mơ, nên chúng ta phải sống thế nào để có thể thực hiện được những điều đó? Có những mơ ước nhỏ bé thôi, nhưng cũng có những mơ ước to lớn, cao siêu mà đôi khi cả đời ta cũng chưa thể thực hiện được. Nhưng chỉ khi chúng ta có mục đích, mục tiêu rõ ràng, ta mới có động lực mạnh mẽ để cố gắng thực hiện những điều mình đã đề ra. Nhưng chúng ta cũng không nên chỉ có những mục đích, suy nghĩ tầm thường, muốn làm những điều bình thường như bao người khác. Bởi trong một tập thể, nếu không phải là người đứng đầu, anh sẽ chẳng là gì cả. Sống với sự bằng lòng với bản thân, ta sẽ không có động lực để cố gắng, từ đó những điều to lớn ta sẽ chẳng bao giờ có khả năng làm được. Ai đó chắc sẽ thắc mắc rằng, làm điều không tầm thường là làm những việc gì? Câu hỏi này rất khó, tôi chỉ biết nói rằng các bạn hãy không ngừng cố gắng nỗ lực mà thôi. Bởi không ai biết trước được ngày mai, tương lai thế nào. Từ xưa đến nay có rất nhiều những vị anh hùng, những tấm gương sáng cho chúng ta noi theo. Họ cũng là những người bình thường, lớn lên trong hoàn cảnh như bao người khác. Nhưng mục tiêu họ đặt ra thì khác mọi người. Chính vì những mục tiêu to lớn, nên mới có thể sinh ra những con người vĩ đại như chúng ta đã thấy Thật vậy, không một con đường nào không có chông gai, thử thách, nhưng chúng ta hãy luôn cố gắng nỗ lực, sống phải có mục đích, có hoài bão và có ước mơ. Đã mơ thì hãy thử dũng cảm mơ lớn, biết đâu một ngày nào đó nhìn lại, ta sẽ có được những điều ta mong muốn và cảm thấy hạnh phúc vì những gì mình đã cố gắng vượt qua.
Comment on the following quote from French writer Didero: If you don't have a goal, you can't do anything, and you can't do anything if you aim for a trivial goal. Instruct Comment on the following quote from French writer Didero: If you don't have a goal, you can't do anything, and you can't do anything if you aim for a trivial goal. Assignment Whenever we want to remind someone about the reason for living, the purpose of life, people often remember Di-De-ro's saying: If you don't have a purpose, you can't do anything, you can't do anything. if the purpose is trivial. Didero was not only a writer but also a great and famous theorist, art critic and materialist philosopher of France around the 18th century. His sayings and thoughts are greatly admired by everyone, and the above quote too, is also one of Didero's outstanding thoughts. The purpose that the author mentions here is simply what people want to move forward, want to accomplish and have success with what they have set out to do. Purpose is also associated with each person's ideals and dreams. Because we have goals and dreams, how should we live to be able to accomplish those things? There are only small dreams, but there are also big, lofty dreams that sometimes we cannot fulfill in our lifetime. But only when we have clear goals and objectives, will we have strong motivation to try to accomplish what we have set out to do. But we should not only have ordinary goals and thoughts, and want to do ordinary things like everyone else. Because in a group, if you are not the leader, you will be nothing. Living with self-satisfaction, we will not have the motivation to try, from there we will never be able to do great things. Someone will probably wonder, what are the things that are not trivial to do? This question is very difficult, I can only say that you should keep trying. Because no one knows tomorrow, what the future will be like. From ancient times until now, there are many heroes and shining examples for us to follow. They are also normal people, growing up in the same circumstances as everyone else. But the goals they set are different from everyone else. It is because of great goals that great people like we have seen can be born Indeed, there is no path without thorns and challenges, but we should always try our best, live with purpose, ambition and dreams. If you dream, try to be brave and dream big, maybe one day looking back, you will get what you want and feel happy for what you have tried to overcome.
Đề bài: Bình luận câu nói "Có nhân hậu mới biết đồng cảm và sẻ chia" Bài làm Một trong những đức tính tốt đẹp nhất của con người là lòng nhân hậu. Có nhân hậu mới biêt đồng cảm và sẻ chia. 1. Nhân hậu là gì? Nhân là lòng thương người; nhân hậu là tình thương bao la, mênh mông và sâu sắc đối với mọi người. Cảm thông với cảnh ngộ, với nỗi niềm của đồng loại là đồng cảm: biết chia ngọt, sẻ bùi, biết xót thương với những người bất hạnh là san sẻ. Cây có cội, nước có nguồn: nhân hậu như cội, như nguồn; đồng cảm, san sẻ tựa như cội, như nguồn của lòng nhân hậu. Hơn 2.000 năm về trước, Khổng Tử đã ca ngợi cái nhân của con người; và ngài đã khẳng định: Nhân là cái gốc của đạo lí; kẻ có nhân mới có thể tích đức, tu thân, tề gia trị quốc, bình thiên hạ. Có nhân hậu mới biết đồng cảm và sẻ chia 2. Trên đời đầy ngang trái, bất công, thảm cảnh. Người có lòng nhân hậu tựa như ngọn lửa, như ánh sáng góp phần xua tan bóng tối, đem lại hơi ấm và hạnh phúc cho đồng loại, đem lại niềm vui và hi vọng của kẻ cô đơn, người bần cùng, bất hạnh. Một bát cơm cho người hành khất, một tấm áo cho người rét giữa mùa đông lạnh lẽo, một chén thuốc cho người ốm đau, một lời an ủi, động viên cho người hoạn nạn,… đó là những cử chỉ, hành động, những biểu hiện cụ thể trong nhân hậu, sự đồng cảm, san sẻ. 3. Nhân dân ta giàu lòng nhân ái, “thương người như thể thương thân”, trong hoạn nạn cơ hàn biết ‘lá lành đùm lá rách”, nhường cơm sẻ áo cho nhau. Lời ru, tiếng hát của bà, của mẹ, đã in sâu vào tâm hồn tuổi thơ mỗi chúng ta: “Thấy người hoạn nạn thì thương / thấy người đói rét, ta nhường áo cơm”. Một chữ ‘‘thương’' in đậm trong lòng tuổi học trò qua những trang thơ văn của dân tộc giàu giá trị nhân đạo. Bầu ơi thương lấy bí cùng Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn. (Ca dao) Thương nhau chia củ sắn lùi. Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng. (Tố Hữu) Những nhân vật như Thúy Kiều, Lục Vân Tiên, Kiều Nguyệt Nga, những em bé đáng thương như cái Tí trong tác phẩm Tắt đèn của Ngô Tất Tố, những cụ già đau khổ như lão Hạc trong truyện ngắn của Nam Cao… đã để lại trong lòng người bao tiếng thở dài, bao giọt nước mắt. Vì văn sĩ, thi sĩ có trái tim nhân hậu bao la nên câu thơ lời văn mới trở thành tiếng khóc muôn đời mai hậu: Đau đớn thay phận đàn bà. Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung. (Truyện Kiều) 4. – Đất nước ta trải qua 30 năm chiến tranh (1945-1975), hàng triệu người đã ngã xuống trong mưa bom bão đạn của quân xâm lược, hàng chục vạn cô nhi quá phụ. hàng trăm nghìn nạn nhân chất độc da cam, là vết thương chiến tranh. Thiên tai, hạn hán, lũ lụt, bão tố xảy ra triền miên. Chính trong cảnh ngộ ấy, ta càng thấm thía về truyền thông nhân ái bao la của dân tộc, ta càng tự hào về đạo lí cùa nhân dân ta. Nhiễu điều phủ lấy giá gương, Người trong một nước phải thương nhau cùng. (Ca dao) Những quỹ tình thương, những mái nhà tình nghĩa, các phong trào cứu trợ nhân đạo dân vùng bị thiên tai, vùng sâu, vùng xa đã làm bớt bao nỗi đau, bao hoàn cảnh khó khăn của đồng bào. Và qua đó, ta càng hiểu một cách sâu sắc chân lí tỏa sáng tâm hồn dân tộc: “Có nhân hậu mới biết đồng cảm và sẻ chia". Người nhân hậu là người đẹp nhất. Sống trong tình thương là sống hạnh phúc nhất.
Topic: Comment on the saying "If you have kindness, you can sympathize and share" Assignment One of the best human qualities is kindness. Only with kindness can we sympathize and share. 1. What is kindness? Humanity is compassion for people; Kindness is immense, immense and profound love for everyone. Sympathizing with the plight and feelings of fellow human beings is empathy: knowing how to share sweets and pains, knowing how to have compassion for unfortunate people is sharing. Trees have roots, water has sources: kindness is like the roots, like the source; sympathy and sharing are like roots and sources of kindness. More than 2,000 years ago, Confucius praised human kindness; and he affirmed: Humanity is the root of morality; Only those who are benevolent can accumulate virtue, cultivate themselves, rule the country, and bring peace to the world. Only with kindness can we sympathize and share 2. The world is full of injustice, injustice, and tragedy. People with kindness are like a fire, like light that helps dispel darkness, bring warmth and happiness to fellow human beings, and bring joy and hope to the lonely, the poor, and the unfortunate. A bowl of rice for a beggar, a shirt for a cold person in the cold winter, a bowl of medicine for a sick person, a word of comfort and encouragement for a person in need... these are gestures, actions, Specific expressions of kindness, sympathy, and sharing. 3. Our people are rich in compassion, "loving others as if they loved themselves", knowing in times of need that 'good leaves cover torn leaves', giving each other food and clothes. The lullabies and songs of our grandmothers and mothers were deeply imprinted in each of our childhood souls: "When I see people in need, I pity them / When I see people who are hungry and cold, I give them my clothes and food." The word "love" is imprinted in the hearts of students through the pages of poetry of a nation rich in humanitarian values. Oh get elected trade secrets together Although other varieties but share a rig. (Folk) Love each other and share cassava roots. Sharing half bowl of rice, covered with blankets sui. (To Huu) Characters like Thuy Kieu, Luc Van Tien, Kieu Nguyet Nga, pitiful babies like Ti in Ngo Tat To's Light Out, miserable old people like Mr. Hac in Nam Cao's short story... have left There are many sighs and tears in people's hearts. Because writers and poets have immense kind hearts, the verses and lyrics become eternal cries: Woman pain rather division. Word that silver is also a common destiny. (Kieu story) 4. – Our country went through 30 years of war (1945-1975), millions of people fell in the rain of bombs and bullets from the invaders, and tens of thousands of orphans and widows. Hundreds of thousands of victims of Agent Orange, wounds of war. Natural disasters, droughts, floods, and storms occur constantly. In that situation, the more we understand the nation's immense compassion, the more proud we are of our people's morality. Government interference that takes the mirror, People in a country to trade together. (Folk) Charity funds, charity homes, and humanitarian relief movements for people in natural disaster-stricken and remote areas have alleviated much pain and suffering. the difficult circumstances of the people. And through that, we understand more deeply the truth that shines through the nation's soul: "Only with kindness can we sympathize and share." Kind-hearted people are the most beautiful people. Living in love is the happiest life. .
Bình luận câu nói “Ôi sống đẹp là sống sao hỡi bạn” của Tố Hữu- Văn lớp 10 Hướng dẫn Bình luận câu nói “Ôi sống đẹp là sống sao hỡi bạn” của Tố Hữu- Văn lớp 10 Bài làm Từ xa xưa ông bà ta đã luôn khuyên nhủ con cháu mình phải sống sao cho đúng lễ nghĩa, sống đúng với đạo làm người của mình. Như “Đói cho sạch rách cho thơm” hay phải “Tôn sư trọng đạo” kính trên nhường dưới, có hiếu với ông bà cha mẹ, yêu quý bạn bè, người khó khăn xung quanh mình “lá lành đùm lá rách” Ước mơ sống đẹp chính là một cuộc sống có ích, sống có ý nghĩa tạo dựng được những thành tựu to lớn, sống cống hiến sức lực, trí tuệ cho quê hương đất nước. Cho những lý tưởng cao đẹp của tổ quốc. Nhưng trong thời kỳ chiến tranh chống giặc ngoại xâm, nhiều thế hệ cha anh của chúng ta đã đi theo lý tưởng cách mạng “Quyết tử cho tổ quốc quyết sinh”. Họ không ngần ngại hy sinh bản thân mình, hy sinh máu xương để giữ vững cho được nền độc lập của dân tộc mình. Trong thời kỳ kháng chiến có rất nhiều người con trai con gái, tuổi hai mươi xuân xanh phơi phới, nhưng họ không ngại hy sinh thân mình đi theo lý tưởng cao đẹp của tổ quốc. Đó chính là lý tưởng bảo vệ quê hương, bảo vệ dân tộc khỏi ách áp bức bóc lột của thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Vâng theo lời Bác dạy, nhiều người con của dân tộc Việt Nam đã không ngại hy sinh gian khổ để lên đường đi chiến đấu, cầm súng, gươm, giáo để đánh cho Mỹ cút, đánh cho Ngụy nhào. Trong thời kỳ chiến tranh có rất nhiều tấm gương anh dũng, không quản ngại hy sinh máu thịt của mình để bảo vệ nền độc lập của dân tộc, bảo vệ sự toàn vẹn của lãnh thổ chúng ta. Trong thời kỳ hòa bình, sống đẹp vẫn là một điều mà tất cả chúng ta cần phải hướng tới. Ngày nay, chúng ta không cần phải hy sinh bản thân mình, nhưng chúng ta cần phải nỗ lực học tập, đúc kết kinh nghiệm để xây dựng quê hương, đất nước của chúng ta ngày một giàu đẹp hơn. Chúng ta cần mở rộng trái tim ra để sẻ chia, giúp đỡ những số phận hoàn cảnh gặp khó khăn hơn mình trong cuộc sống. Khi chúng ta là được những điều thật sự có ích, có ý nghĩa với người khác, với cuộc đời này tự bản thân chúng ta sẽ cảm nhận được cuộc sống này ấm áp tình người biết bao. “Sống là cho đâu chỉ nhận riêng mình Ôi sống đẹp là sống sao hỡi bạn” Chúng ta ai trong cuộc sống của có số phận, trách nhiệm của mình, khi chúng ta cố gắng nỗ lực hoàn thành sứ mệnh mà cuộc đời này đã trao gửi giao phó cho chúng ta đó chính là sống đẹp. Con người sống là phải biết hy sinh, yêu thương, chia sẻ, đoàn kết với những số phận khó khăn hơn mình, đó chính là sống đẹp. Một con người sống trong xã hội cần phải sống đúng giá trị đạo đức, chuẩn mực xã hội. Con người biết hiếu kính với cha mẹ, tôn trọng thầy cô giáo, thương yêu bạn bè, đồng loại, không vi phạm pháp luật, không để những thói hư tật xấu cám dỗ mình. Đó chính là người sống đẹp. Sống đẹp có thể là một danh từ rất vĩ mô, rất xa xôi nhưng thực chất nó biểu hiện ra bên ngoài bằng những hành động vô cùng nhỏ bé thiết thực của bạn. Như hành động tình nguyện xanh, cứu giúp ủng hộ đồng bào miền Trung mỗi khi lũ lụt, hay hiến máu nhân đạo…. Giống như con chim kia dù chỉ là một chú chim nhỏ nhoi nhưng nó cũng luôn mang lời ca tiếng hót của mình dâng tặng cuộc sống này. Khiến cho con người hăng say lao động, yêu đời hơn. Đó chính là sứ mệnh sống đẹp của nó. Làm con người chúa tể của muôn loài trách nhiệm của chúng ta càng nặng nề hơn. Chúng ta cần phải tạo ra một môi trường văn minh, xanh sạch đẹp, giúp đỡ yêu thương những số phận khó khăn hơn mình, che chở bảo vệ thiên nhiên, cây cỏ. Tạo một không gian sống bao la, xanh tốt cho muôn loài chim thú cùng chung sống, đó chính là một cuộc sống đẹp. Sống đẹp là sống với tinh thần yêu thương, bác ái, đoàn kết sẻ chia với những số phận khó khăn trong cuộc sống. Cố gắng thực hiện ước mơ của mình, xây dựng quê hương, đất nước giàu đẹp hơn.
Comment on the saying "Oh, how to live a beautiful life, my friend" by To Huu - Grade 10 Van Instruct Comment on the saying "Oh, how to live a beautiful life, my friend" by To Huu - Grade 10 Van Assignment Since ancient times, our grandparents have always advised their children and grandchildren to live in a manner that is respectful and true to their morality as human beings. Like "Hunger until you're clean and torn until it's fragrant" or "Respect your master and respect the way" respect your superiors and yield to your subordinates, be filial to your parents and grandparents, love your friends and the difficult people around you, "good leaves cover torn leaves" The dream of living a beautiful life is a useful life, a meaningful life that creates great achievements, a life that devotes strength and intelligence to the homeland. For the noble ideals of the fatherland. But during the war against foreign invaders, many generations of our ancestors followed the revolutionary ideal of "Determining death for the country and deciding to live". They did not hesitate to sacrifice themselves, sacrifice their blood and bones to maintain the independence of their nation. During the resistance period, there were many sons and daughters in their early twenties, but they were not afraid to sacrifice themselves to follow the noble ideals of their country. That is the ideal of protecting the homeland and the nation from the oppression and exploitation of the French colonialists and American imperialists. Following Uncle Ho's teachings, many children of the Vietnamese people did not hesitate to sacrifice hardships to go to war, holding guns, swords, and spears to fight the Americans away, and beat the Wei people to their knees. During the war, there were many heroic examples who did not hesitate to sacrifice their flesh and blood to protect the nation's independence and the integrity of our territory. In times of peace, living beautifully is still something we all need to aim for. Today, we do not need to sacrifice ourselves, but we need to make efforts to study and gain experience to build our homeland and our country to be richer and more beautiful. We need to open our hearts to share and help those whose lives are more difficult than ours. When we do truly useful and meaningful things for others and this life, we ourselves will feel how warm and human this life is. “Living is not about giving but receiving only yourself Oh, how beautiful is it to live, my friend? We all have our own destiny and responsibility in life, when we try our best to complete the mission that this life has entrusted to us, which is to live beautifully. To live, humans must know how to sacrifice, love, share, and unite with fates that are more difficult than their own. That is living beautifully. A person living in society needs to live according to moral values ​​and social standards. People know how to be filial to their parents, respect their teachers, love their friends and fellow human beings, do not violate the law, and do not let bad habits tempt them. That is the person who lives beautifully. Living beautifully may be a very macro, very distant noun, but it actually manifests on the outside through your extremely small and practical actions. Such as green volunteer actions, helping people in the Central region every time there is a flood, or donating blood... Just like that bird, even though it is just a small bird, it always brings its song and song to this life. Makes people work harder and love life more. That is its mission to live beautifully. As humans, the lords of all creatures, our responsibilities are even heavier. We need to create a civilized, green and clean environment, help and love those whose fate is more difficult than ours, and protect and protect nature and plants. Creating a vast, green living space for all kinds of birds and animals to live together is a beautiful life. Living beautifully is living with the spirit of love, charity, solidarity and sharing with difficult fates in life. Try to realize your dreams, build your homeland, a richer and more beautiful country.
Bình luận câu nói: Có nhân hậu mới biết đồng cảm và sẻ Hướng dẫn Bình luận câu nói: Có nhân hậu mới biết đồng cảm và sẻ Nhân hậu là một phẩm chất cao đẹp của con người luôn được cha ông ta đề cao và coi trọng. Nó giống như lòng vị tha, bao dung và nhân ái. Đó là đức tính đáng quý chúng ta cần phải đề cao. Chính vì thế mới nói có nhân hậu thì mới có sự đồng cảm và sẻ chia. Sự đồng cảm và sự sẻ chia diễn ra xung quanh chúng ta. Vậy thì những biểu hiện của sự đồng cảm và sẻ chia đó được diễn ra như thế nào ở trong cuộc sống? Thứ nhất đồng cảm và sẻ chia được thể hiện ở ngay chính trong gia đình của chúng ta. Những gánh nặng nhọc nhằn của bố mẹ khi lo lắng cho chúng ta nếu như chúng ta hiểu được thì sẽ yêu thương quý trọng những gì mà bố mẹ giành cho chúng ta, đó là sự đồng cảm của người con giành cho bố mẹ, với những việc mà bố mẹ làm cho mình. Sự đồng cảm ấy được thể hiện khi ánh mắt cay cay rơi bên khóe mi khi thấy giọt mồ hôi của bố mẹ và những vết nhăn in hằn trên trán, từ tận sau trong đáy lòng của bạn, bạn cảm thấy thương bố mẹ vô cùng và luôn cố gắng học tập thật tốt để không phụ lòng bố mẹ, rồi giúp cho mẹ những công việc nhà để bố mẹ đỡ mệt hơn khi đi làm về. Anh chị em ở trong gia đình cũng vậy, mặc dù có nhiều khi còn giành cả đồ chơi hay là phần ăn của nhau nhưng khi thấy anh chị em mình bị ốm, đau hay xảy ra việc gì thì lòng cũng đau theo, có thể là khóc theo, rồi muốn được tự mình chăm sóc người anh chị hay em đó. Đối với mối quan hệ xung quanh như bạn bè thì khi bạn bè gặp những hoạn nạn khó khăn thì chúng ta không hề bỏ mặc mà còn động viên an ủi và giúp đỡ bạn những lúc khó khăn đó. Đó chẳng phải là sự chia sẻ hay sao. Rồi cộng đồng có những quỹ từ thiện để giúp đỡ những người nghèo khó, rồi các chương trình từ thiện đến an ủi, ở bên những em nhỏ bị chất độc màu da cam. Đó cũng là một sự đồng cảm chia sẻ. Đối với những người không có lòng người, không nhân hậu thì sẽ không làm được điều này. Hiện nay, ở trong xã hội chúng ta vẫn đang còn có những người đâu đó còn phải ngủ ở gầm cầu, phải đi nhặt rác ở các bãi rác,ngủ ngoài đường. Có những đứa trẻ sinh ra bị bỏ rơi, rồi người khác nhặt được lại nhận nuôi em bé.Bên cạnh đó còn có những mảnh đời còn bất hạnh hơn là tuy còn nhỏ tuổi nhưng phải ra đường kiếm sống rồi còn bị đánh đập hành hạ một cách dã man. Như vậy chúng ta có thể thấy được câu nói này thật đúng, nhân hậu sẽ mang tới cho chúng ta biết bao nhiêu là niềm vui và hạnh phúc. Đó chính là một đức tính tốt đẹp mà mỗi chúng ta cần phải phát huy hết mình và hãy luôn có sự đồng cảm chia sẻ với người khác nhé!. Nguồn: Bài văn hay
Comment on the saying: Only with kindness can we sympathize and share Instruct Comment on the saying: Only with kindness can we sympathize and share Kindness is a noble human quality that has always been promoted and respected by our ancestors. It is like altruism, tolerance and kindness. That is a precious quality we need to promote. That's why it is said that if there is kindness, there will be sympathy and sharing. Empathy and sharing happen all around us. So how do these expressions of sympathy and sharing take place in life? First, sympathy and sharing are expressed right in our families. If we understand the heavy burdens of our parents when worrying about us, we will love and cherish what our parents give us, which is the sympathy a child has for his or her parents. the things my parents do for me. That sympathy is shown when tearful eyes fall from the corner of your eyelids when you see your parents' sweat drops and the wrinkles imprinted on your forehead. From the bottom of your heart, you feel extremely sorry for your parents. and always try to study well so as not to disappoint my parents, then help my mother with the housework so that my parents are less tired when they come home from work. It's the same with siblings in the family, although sometimes they even steal each other's toys or food, but when they see that their siblings are sick, in pain or something happens, their hearts also hurt. crying, then wanting to take care of that older sibling yourself. As for surrounding relationships like friends, when our friends encounter difficult times, we do not abandon them but also encourage, comfort and help them in those difficult times. Isn't that sharing? Then the community has charity funds to help the poor, then charity programs to comfort and be with children affected by Agent Orange. It is also a shared sympathy. For those who are not humane and merciful, they will not be able to do this. Currently, in our society there are still people who have to sleep under bridges, pick up trash in landfills, and sleep on the streets. There are children who are born abandoned, then someone else picks them up and adopts them. Besides, there are people whose lives are even more unfortunate: even though they are still young, they have to go out to make a living and are beaten and abused. brutally defeated. So we can see that this saying is true, kindness will bring us so much joy and happiness. That is a good virtue that each of us needs to fully develop and always have empathy to share with others!. Source: Good article
Bình luận câu nói: Tiền bạc là người đầy tớ trung thành và là người chủ xấu tính Hướng dẫn Bình luận câu nói: Tiền bạc là người đầy tớ trung thành và là người chủ xấu tính Thành công và tiền bạc là những gì mà con người chúng ta từ cổ chí kim đều muốn hướng đến ở trong cuộc sống. Sự ham muốn về tiền bạc của con người là vô cùng lớn lao. Chính vì thế cho nên nhiều khi nó dẫn tới những điều không hay khi chúng ta không biết cách để sử dụng đồng tiền đó. Ngẫm lâu vẫn thấy rằng ông cha ta nói đúng “Tiền bạc là người đầy tớ trung thành và là người chủ xấu tính” Tiền bạc chính là một phương thức định giá cho giá trị hàng hóa vè dịch vụ. Tiền còn là loại giá trị để cho chúng ta có thể trao đổi được hàng hóa với nhau. Chính vì vậy cho nên nó rất quan trọng ở trong cuộc sống của con người, nhưng mà lòng tham không đáy đã gây ra những tiêu cực vô cùng to lớn. Đôi khi nguy hại hơn đó là con người lại trở thành nô lệ của nó. Đồng tiền có hai mặt, vừa là người đầy tớ trung thành lại vừa là một người chủ xấu tính. Câu tục ngữ trên muốn nói rằng chúng ta nên sử dụng đồng tiền thế nào cho hợp lí, hơn nữa cũng chú ý không được để mình phải làm nô lệ cho nó. Những thứ tài sản chân chính đó là những thứ do chính chúng ta lao động mà kiếm được, đó là những tiền bạc trong sạch từ bàn tay chúng ta làm ra. Đó là người dân dầm sương dãi nắng làm ra lương thực thực phẩm như lúc,gạo để bán cho chúng ta, đó là nghề nhà giáo đứng trên bục giảng để dạy dỗ cho chúng ta nên người và cuối tháng nhận lương,đó đều là những nghề chân chính. Có như vậy mới thấy đồng tiền mà chính sức lao động của mình làm ra và do mình sử dụng vào những mục đích tốt thì nó sẽ trung thành với chúng ta. Như vậy, một lần nữa chúng ta có thể thấy được rằng câu tục ngữ đó thực sự là rất đúng đắn, hơn nữa đối với thời đại ngày nay còn đúng đắn hơn. Chính vì thế cho nên qua câu nói này chúng ta hãy biết sử dụng đông tiền đúng với mục đích đúng đắn, làm được bao nhiêu thì chúng ta tiêu bấy nhiêu,không nên theo đuổi vì những đồng tiền bất lương mà hãy là ra bằng thực lực và bàn tay của mình.
Comment on the saying: Money is a loyal servant and a mean master Instruct Comment on the saying: Money is a loyal servant and a mean master Success and money are what we humans from ancient times have wanted to aim for in life. Human desire for money is extremely great. That's why it often leads to bad things when we don't know how to use that money. Thinking about it for a long time, I still see that our ancestors were right: "Money is a loyal servant and a mean master." Money is a method of valuing the value of goods and services. Money is also a type of value that allows us to exchange goods with each other. That is why it is so important in human life, but bottomless greed has caused enormous negativity. Sometimes more harmful is that people become its slaves. The coin has two sides, both a loyal servant and a mean master. The above proverb wants to say that we should use money appropriately, and also pay attention not to let ourselves become slaves to it. Those true assets are the things we earn from our own labor, those are the clean money we make with our own hands. It's the people soaking in the dew and the sun, making food and rice to sell to us, it's the profession of teachers standing on the podium to teach us how to be good people and receiving a salary at the end of the month, that's all. genuine professions. Only then can we see that the money we make with our own labor and if we use it for good purposes will be loyal to us. So, once again we can see that that proverb is really very true, and even more true in today's times. That's why through this saying, we should know how to use money for the right purpose. The more we make, the more we spend. We should not pursue dishonest money but make it. his strength and his hands.
Bình luận câu thơ: Đau đớn thay phận đàn bà Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung trong truyện Kiều của Nguyễn Du Hướng dẫn Bình luận câu thơ: Đau đớn thay phận đàn bà Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung trong truyện Kiều của Nguyễn Du Có thể nói rằng người phụ nữ khi sinh ra được xem như một bông hoa thơm ngát tỏa hương cho đời. Thế nhưng trong truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du lại kể về số phận cuộc đời của nàng Kiều, câu nói có một ý nghĩa sâu sắc,nếu như nghiệm ra chúng ta sẽ thấy được cái hay trong câu từ đó “Đau đớn thay phận đàn bà Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung” Câu nói trên nói về cuộc đời đầy gian khổ của nàng Kiều sau đó nói lên những triết lí sâu sắc.Với hai câu thơ trên tác giả muốn nói tới thân phận người phụ nữ, tác giả đã rát khéo léo khi dùng biện pháp đảo ngữ để đẩy hai câu thơ lên như là “đau đớn” cho thấy được tâm trạng xót xa tủi nhục vô cùng cho số phận của người phụ nữ liễu yếu đào tơ. Tác giả có ý muốn nói rằng số phận người đàn bà được sinh ra vốn đã khổ, thời xưa người phụ nữ càng xinh đẹp và tài hoa thì càng bạc mệnh. Liệu rằng ý kiến đó có đúng hay không? Hay như trong tác phẩm vợ chồng A phủ có nhân vật Mỵ, một người con gái trẻ trung xinh đẹp, có tài thổi sáo hay, tưởng rằng cuộc đời sẽ như mơ nhưng cô lại bị bắt về làm vợ, làm dâu trong nhà thống lí pá tra để gạt nợ cho gia đình. Suốt ngày chỉ biết chui trong xó cửa, rồi chỉ biết làm những việc lặp đi lặp lại nhàm chán, và bị xem như món đồ vậy vậy. Tất cả đều điển hình cho số phận tài hoa nhưng lại bạc mệnh. Câu thơ thể hiện sự đau đớn của Nguyễn Du khi nói lên thân phận đau khổ của người đàn bà, nhưng ở đây Nguyễn Du muốn nói chung về thân phận của những người đàn bà phong kiến xưa chứ không phải là riêng gì Thúy Kiều. Ở đây đại thì hào muốn muốn thể hiện sự đồng cảm của những số phận bạc mệnh và bất hạnh chứ không phải là ai cũng như vậy. Chính thời phong kiến trọng nam khinh nữ cho nên tài năng của người phụ nữ luôn bị coi khinh và không được trọng vọng. Như vậy qua câu nói của Nguyễn Du cho ta thấy được số phận của người phụ nữ thời phong kiến xưa. Còn ở thời đại ngày nay thì tài năng ngày càng được trọng dụng và phát triển. Dù sao chúng ta cũng đã thấy được sự đồng cảm, xót thương của nhà thơ đến số phận những người phụ nữ.
Comment on the verse: Painful is the fate of women. The words that fate is bad are also common words in the story Kieu by Nguyen Du Instruct Comment on the verse: Painful is the fate of women. The words that fate is bad are also common words in the story Kieu by Nguyen Du It can be said that when a woman is born, she is considered a fragrant flower that radiates fragrance to life. However, in the story Kieu by the great poet Nguyen Du, it tells about the fate of Kieu's life. The saying has a profound meaning. If we understand it, we will see the beauty in that sentence. "Woman pain rather division Word that silver is also a common destiny" The above sentence talks about Kieu's arduous life and then speaks of profound philosophies. With the above two verses, the author wants to talk about the fate of women, the author was very skillful in using a reversal method. The language used to promote the two verses as "pain" shows the feeling of extreme sadness and humiliation for the fate of the weak willow woman. The author wants to say that a woman's fate is inherently miserable; in ancient times, the more beautiful and talented a woman was, the worse her fate was. Is that opinion correct or not? Or like in the work A Phu and his wife, there is the character My, a beautiful young girl, talented at playing the flute. She thought her life would be like a dream, but she was forced to become a wife and daughter-in-law in the governor's house. Reasoning to clear the family's debt. All day long, I only know how to hide in the corner, then only know how to do boring, repetitive things, and I'm treated like an object. All are typical of talented but unlucky fates. The poem shows Nguyen Du's pain when talking about the miserable fate of women, but here Nguyen Du wants to talk about the fate of ancient feudal women in general, not just Thuy Kieu. Here, the hero wants to show sympathy for those with unfortunate and unfortunate fates, not everyone is like that. During the feudal era, men were respected over women, so women's talents were always despised and not respected. Thus, through Nguyen Du's words, we can see the fate of women in ancient feudal times. In today's era, talent is increasingly being used and developed. Anyway, we have seen the poet's sympathy and pity for the fate of women.
Đề bài: Ông cha ta đã dạy rằng:”Cá không ăn muối cá ươn Con cưỡng cha mẹ trăm đường con hư”. Em hãy bình luận giải thích câu tục ngữ trên. Bài làm Dân tộc Việt Nam có truyền thống tôn trọng đạo lí từ ngàn xưa. Trong các quan hệ tình cảm thì quan hệ giữa cha mẹ và con cái là thiêng liêng nhất. Trách nhiệm lớn lao của cha mẹ là nuôi dạy các con nên người. Ngược lại, bổn phận của con cái là phải lễ phép và vâng lời cha mẹ. Vâng lời là biểu hiện của lòng hiếu thảo, của đạo làm con. Nếu trái lời cha mẹ, phụ lòng cha mẹ, con cái khó trở nên người tốt. Để khẳng định vai trò răn dạy, chỉ bảo của cha mẹ đối với con cái, người xưa đã có câu: Cá không ăn muối cá ươn, Con cưỡng cha mẹ trăm đường con hư Bài học lớn về đạo làm người được rút ra từ một thực tế hết sức giản đơn: Mua cá ở chợ về, muốn giữ được tươi lâu, ta phải ướp muối. Cá thấm muối, thịt săn chắc, khi chế biến thành món ăn, hương vị sẽ đậm đà. Ngược lại nếu để lâu không ướp muối, cá sẽ ươn, ăn mất ngon. Con cái không nghe lời dạy bảo của cha mẹ khác nào như cá không ăn muối, sẽ hư hỏng, không thể trở thành người tốt được. Người xưa có câu: Nước mắt chảy xuôi; lại có câu: Có nuôi con mới biết lòng cha mẹ. Mong muốn duy nhất của cha mẹ là con cái nên người, tức là trở thành người tốt, có ích cho xã hội, làm rạng rỡ gia đình, Tổ quốc. Cho nên, những bậc cha mẹ chân chính đều thiết tha dạy con những điều đúng đắn, tâm huyết, có khi như là cắt ruột truyền cho con. Đó là nhiệm vụ, là lo toan, mong ước sâu xa, tha thiết nhất của cha mẹ. Phận làm con nên biết rằng: trong đường đời, người thầy đầu tiên của con cái chính là cha mẹ. Cha mẹ dìu dắt con những bước chập chững đầu tiên. Cha mẹ dạy con những bài học đầu tiên. Cha mẹ chuẩn bị hành trang cho mỗi đứa con khi bước vào đời. Vì vậy, nghe lời, vâng lời cha mẹ trước tiên là biết vâng theo, tập theo cái đúng. Sau đó là tự mình nhận thấy đúng mà tự giác tiếp thu. Bấy giờ mới rõ những điều cha mẹ khuyên răn, dạy dỗ là điều hay, lẽ phải. Biết nghe, biết vâng lời cha mẹ là tỏ ra biết kính, biết thương, hiếu thảo với cha mẹ. Cha mẹ gánh vác trách nhiệm chính trong gia đình nên có quyền quyết định mọi việc, song cha mẹ cũng nên biết lắng nghe tâm tư tình cảm của các con, hiểu rõ tính nết của con, để từ đó đưa ra những biện pháp giáo dục thích hợp, có hiệu quả hơn. Có như vậy, quan hệ giữa cha mẹ và con cái mới thực sự gắn bó và gia đình sẽ sống trong không khí đầm ấm, thuận hòa, tôn trọng lẫn nhau. Đó là yếu tố để tạo nên hạnh phúc gia đình. Thực tế xung quanh chúng ta cho thấy rõ nhiều người con tài đức Vẹn toàn. Những Lê Bá Khánh Trình, Đặng Thái Sơn, hai anh em Từ Hoàng Thông, Từ Hoàng Thái, Trần Bình Gấm… và bao nhiêu bạn khác là con ngoan, trò giỏi, là niềm tự hào của gia đình, nhà trường và xã hội. Bài học đạo đức mà câu tục ngữ trên nêu ra từ xưa vẫn là một kinh nghiệm quý, nhắc nhở mỗi người phải giữ đạo làm con. Nó có liên quan đến chữ hiếu, và chữ hiếu ngày nay dù có mang nét mới, tiến bộ của thời đại nhưng vẫn là đức lớn trong đạo làm người của dân tộc.
Topic: Our ancestors taught: "Don't eat salt, rotten fish. If you force your parents, you'll be bad." Please comment and explain the above proverb. Assignment The Vietnamese people have a tradition of respecting morality since ancient times. Among emotional relationships, the relationship between parents and children is the most sacred. The great responsibility of parents is to raise their children to be good people. On the contrary, it is the duty of children to be polite and obedient to their parents. Obedience is an expression of filial piety and filial piety. If children disobey their parents' orders or disobey them, it will be difficult for children to become good people. To affirm the role of parents in teaching and advising their children, the ancients had a saying: Fish do not eat salt spoilage, I force my parents in a hundred ways and I'm a bad child The great lesson about human morality is drawn from a very simple fact: Buying fish from the market, if you want to keep it fresh for a long time, you must salt it. The fish absorbs salt, the meat is firm, and when processed into a dish, the flavor will be rich. On the contrary, if left unsalted for a long time, the fish will spoil and lose its taste. Children who do not listen to their parents' teachings are like fish that do not eat salt. They will be spoiled and unable to become good people. There is an ancient saying: Tears flow freely; There is a saying: Only by raising children do you know the hearts of your parents. The only wish of parents is for their children to become good people, that is, to become good people, useful to society, and to brighten the family and the Fatherland. Therefore, true parents are eager to teach their children the right things, with enthusiasm, sometimes even cutting their intestines to pass it on to their children. That is the duty, concern, and deepest and most earnest wish of parents. Children should know that: in life, the first teachers of children are their parents. Parents guide their children through their first steps. Parents teach their children the first lessons. Parents prepare for each child when entering life. Therefore, listening and obeying your parents first means knowing how to obey and practice what is right. After that, you will realize that it is correct and voluntarily accept it. Only then will it be clear that what parents advise and teach is good and right. Knowing how to listen and obey your parents means showing respect, love, and filial piety to your parents. Parents shoulder the main responsibility in the family, so they have the right to decide everything, but they should also know how to listen to their children's feelings and emotions, understand their children's personalities, and then come up with educational measures. appropriate and more effective education. Only then will the relationship between parents and children be truly close and the family will live in a warm, harmonious, and mutually respectful atmosphere. That is the factor to create family happiness. The reality around us clearly shows that there are many talented and virtuous people. Le Ba Khanh Trinh, Dang Thai Son, brothers Tu Hoang Thong, Tu Hoang Thai, Tran Binh Gam... and many other friends are good children, good students, the pride of their family, school and society. . The moral lesson that the above proverb raises from ancient times is still a valuable experience, reminding each person to maintain morality as a child. It is related to filial piety, and today's filial piety, although it has new and progressive features of the times, is still a great virtue in the nation's morality.
Đề bài: Em hãy viết bài văn bình luận câu tục ngữ Nhiễu điều phủ lấy giá gương người trong một nước phải thương nhau cùng. Bài làm Đoàn kết là cội nguồn của sức mạnh và chiến thắng. Bởi vậy, từ ngàn xưa, tổ tiên ta đã chú trọng đến việc giáo dục tinh thần đoàn kết qua những huyền thoại đẹp như Sự tích trăm trứng, Quả bầu mẹ… Thiêng liêng thay là ý nghĩa của hai tiếng đồng bào. Nó khẳng định tất cả các dân tộc sinh sống trên non sông đất nước này đều do cùng một mẹ sinh ra. Bài học về đoàn kết còn được gửi gắm trong những câu ca dao làm rung động lòng người: Nhiễu điều phủ lấy giá gương Người trong một nước phải thương nhau cùng. Câu ca dao trên là một chân lí lớn lao về truyền thống đoàn kết quý báu của dân tộc. Sự gắn bó của tình giai cấp, nghĩa đồng bào được đem so sánh với miếng nhiễu điều (một loại lụa quý màu đỏ, dệt từ tơ tằm) phủ trên chiếc giá gương (chiếc khung để gắn gương soi). Miếng nhiễu ấy che phủ cho tấm gương khỏi bụi, mãi mãi sáng trong. Tấm gương kia cũng làm tôn thêm vẻ đẹp, vẻ quý của miếng nhiễu điều. Hai vật ấy luôn luôn khăng khít bên nhau, bổ sung giá trị cho nhau. Ý nghĩa câu ca dao không dừng ở đó. Sâu xa hơn, nó chứa đựng một lời khuyên nghĩa tình thắm thiết: Người trong một nước phải thương nhau cùng. Sống trên đất nước này, dù người trên rừng, kẻ dưới biển, dù người Kinh hay người Thượng, chúng ta phải luôn nhớ rằng mình là con của một mẹ sinh ra, đều là con cháu dòng giống Lạc Hồng. Đó chính là sợi đây vô hình mà hết sức thiêng liêng nối kết các thành viên trong cộng đồng để tạo nên xã hội. Bài học đoàn kết đã được chứng minh qua thực tế mấy ngàn năm lịch sử của nước ta. Trải qua bao cuộc chiến đấu chống ngoại xâm, sức mạnh của truyền thống đoàn kết đã tạo nên những chiến công oanh liệt như Bạch Đằng, Chi Lăng, Đống Đa, Điện Biên Phủ, chiến dịch Hồ Chí Minh,… Dân tộc Việt Nam nhờ đoàn kết mà tồn tại và không ngừng phát triển. Đoàn kết trong thời chiến để giữ nước, đoàn kết trong thời bình để xây dựng đất nước ngày càng giàu mạnh. Nhận thức ấy phải được thấm sâu vào mỗi con người. Chúng ta là con một cha, nhà một nóc, Thịt với xương, tim óc dính liền (thơ Tố Hữu). Thương yêu, cưu mang giúp đỡ nhau trong lúc yên vui cũng như trong cơn hoạn nạn, ấy là đạo lí làm người – là truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam. Đên cạnh cách sống đẹp ấy thì cách sống ích kỉ, chỉ biết quyền lợi cá nhân là đáng phê phán. Thờ ơ trước nỗi đau của người khác, tệ hại hơn là vui sướng trên nỗi khổ cực, mất mát của đồng bào, đó là biểu hiện sự suy thoái về đạo đức và nhân cách. Xã hội mới không chấp nhận những kẻ như vậy vào cộng đồng dân tộc. Trong thời đại hôm nay, câu ca dao trên vẫn giữ nguyên ý nghĩa nhân sinh của nó. Kế thừa và phát huy truyền thống đại đoàn kết của dân tộc, chúng ta hãy kề vai sát cánh bên nhau để xây dựng đất nước Việt Nam giàu mạnh. Trên đường đi tới tương lai tươi sáng, lời Bác dạy luôn luôn là nguồn sức manh cho cả dân tộc: Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết Thành công, thành công, đại thành công.
Topic: Write an essay commenting on the proverb Noise covers the mirror, and people in a country must love each other. Assignment Unity is the source of strength and victory. Therefore, since ancient times, our ancestors have focused on educating the spirit of solidarity through beautiful legends such as The Accumulation of a Hundred Eggs, The Mother Gourd... Sacred is the meaning of the two words compatriot. It affirms that all ethnic groups living in this country are born from the same mother. The lesson of solidarity is also conveyed in folk songs that touch people's hearts: Government interference that takes the mirror People in a country to trade together. The above folk song is a great truth about the precious solidarity tradition of the nation. The attachment of class and compatriotism is compared to the piece of diam dieu (a precious red silk, woven from silk) covering the mirror stand (the frame to mount the mirror). That piece of noise covers the mirror from dust, forever shining. The mirror also enhances the beauty and preciousness of the cashew nut. These two things are always close together, complementing each other's values. The meaning of the folk song does not stop there. More deeply, it contains a heartfelt advice: People in a country must love each other. Living in this country, whether we are in the forest, in the sea, whether we are Kinh or Montagnard, we must always remember that we are children of the same mother, we are all descendants of the Lac Hong lineage. That is the invisible but extremely sacred thread that connects members of the community to create society. The lesson of solidarity has been proven through thousands of years of our country's history. Through many battles against foreign invaders, the strength of the tradition of solidarity has created glorious victories such as Bach Dang, Chi Lang, Dong Da, Dien Bien Phu, Ho Chi Minh campaign,... Vietnamese people Thanks to solidarity, we exist and continuously develop. Unite in wartime to protect the country, unite in peacetime to build an increasingly rich and strong country. That awareness must be deeply penetrated into every person. We are children of one father, one house, one roof, Flesh and bone, heart and brain connected (poem To Huu). Loving, supporting and helping each other in times of happiness as well as in times of trouble is the morality of being human - a good tradition of the Vietnamese people. Besides that beautiful way of life, the selfish way of living, knowing only personal interests, is worthy of criticism. Being indifferent to the pain of others, worse than being happy about the suffering and loss of fellow citizens, is a sign of moral and personality degradation. The new society does not accept such people into the national community. In today's era, the above folk song still retains its human meaning. Inheriting and promoting the tradition of great national unity, let us stand side by side to build a strong and prosperous Vietnam. On the way to a bright future, Uncle Ho's teachings are always a source of strength for the entire nation: Solidarity, solidarity, great solidarity. Success, success, great success.
Đề bài: Bình luận câu tục ngữ Pháp "Tiền bạc là người đầy tớ trung thành và là người chủ xấu" Bài làm Tiền bạc là một vật dụng được lưu thông trong xã hội, có tác dụng thúc đẩy và phát triển ngành mậu dịch. Nó là một thứ “tài sản đặc biệt” gắn bó thiết thản đối với mỗi người, mỗi cộng đồng, mỗi quốc gia. Đã có nhiều câu tục ngữ, câu thơ, bài ca dao… nói về tiền bạc, về đồng tiền. Người Pháp có câu tục ngữ nói về tiền bạc từng được nhiều người nhắc đến: “Tiền bạc là người đầy tớ trung thành và là người chủ xấu”. Tiền bạc là người đầy tớ trung thành và là người chủ xấu 1. Câu tục ngữ đã nêu bật được “hai mặt” của đồng tiền, tùy theo cách sử dụng và người sừ dụng, mà có khi "tiền bạc là người đầy tớ trung thành", có khi nó biến thành “người chủ xấu”. Trên thương trường, trong cuộc sống hằng ngày, ta càng thấy rõ tính chất “hai mặt” của tiền bạc. “Tiền bạc là người đầy tớ trung thành” khi người sử dạng nó vào mục đích tốt đẹp, lương thiện; làm chủ được nó. Trái lại, khi tiền bạc đã được sử dụng sai, mục đích, dùng tiền bạc đề gây ra bao điều xấu xa, bất lương, tội ác… thì nó đã trở thành “người chủ xấu”. Lúc ấy, người sử dụng đồng tiền đã trở thành tên nô lệ cua tiền bạc, kẻ thù ác vô cùng xấu xa. Vì thế, câu tục ngữ khuyên mọi người phải biết sống lương thiện, biết làm chú đồng tiền, đừng vì hám bạc, hám tiền, hám lợi mà gây ra bao điều xấu xa, tội lỗi. 2. Tại sao “tiền bạc là người đầy tớ trung thành?”. Bằng lao động mà kiếm được tiền bạc, đó là tiền bạc trong sạch, là thứ tài sản chân chính. Người nông dân bán nông phẩm sau những ngày tháng dầm mưa dãi nắng: cán bộ, công nhân, thầy giáo, thầy thuốc được phát lương và nhận lương; nhà kinh doanh có tài làm ăn (theo khuôn khổ pháp luật) mà trở thành tỷ phú… có thể nói, đó là thứ tiền bạc, thứ tài sản “trong sạch”, chính đáng. Đồng tiền làm ra ấy lại dùng để mua bán, chi tiêu, dùng vào những nhu cầu thiết yếu của đời sống hằng ngày, biết chi tiêu hợp lí, tiết kiệm, biết dùng đế san sẻ, cưu mang bà con nghèo khổ. đóng góp vào quỹ tình thương, quỹ công ích… thì lúc đó “tiền bạc là người đầy tớ trung hành". Người chủ của những tiền bạc ấy là ông chủ chân chính; nhân ái tỏa sáng tâm hồn họ. Qua các cuộc vận động hiện nay như cứu trợ nạn nhân bị chất độc da cam, cứu giúp đồng bào vùng bị bão lụt, giúp bà con ở các vùng sâu, vùng xa, ta thấy bao gương tốt, người tốt, việc tốt xuất hiện. Các em nhỏ học lớp Một, lớp Hai… bớt tiền quà ủng hộ 1.000 đồng, cụ già về hưu dành một số tiền nhỏ, cán bộ công nhân viên ủng hộ một ngày lương ai cũng muốn được san sẻ cùng đồng loại, được chia ngọt sẽ bùi, được “lá lành đùm lá rácli''. Ở những trường hợp này, tiền bạc đã làm nổi bật tâm đức, làm sáng tỏ tình người, thể hiện đạo lí “thương người như thể thương thân”. 3. Tiền bạc có một sức mạnh ghê gớm. “Có tiền mua tiên cũng được”, “Đồng tiền là Tiên, là Phật, là sức bật lò xo…” – đó là những cầu thường được nhiều người nhắc lại. Tại sao, có khi, có nơi, có người tiền bạc lại trở thành “người chủ xấu”. Con người ta rất dề bị đồng tiền lung lạc. Khi người ta trở thành nô lệ của tiền bạc, bị đồng tiền sai khiến, dùng đồng tiền vào những chuyện bất lương, thì lúc đó tiều bạc đã trở thành “người chủ xấu” rất đáng sợ. Con người lúc ấy sẽ bị đồng tiền sai khiến, hành hạ. Trong xã hội, ta thấy nhan nhản đó đây bao kẻ làm đầy tớ cho “ông chủ xấu” đồng tiền. Có kẻ ăn tiêu xả láng “quen thổi bốc rời” như chàng Thúc Sinh trong Truyện Kiều. Có hàng trăm nam nữ thanh niên ăn chơi sa đọa, dùng thuốc lắc, nhảy múa trong vũ trường bị công an “tóm” đưa về đồn. Có nhiều vị “quan to’’ dấn thân vào con đường “làm ăn" bất chính, chỉ một chữ kí, một cái “gật đầu” mà thu về hàng tỉ bạc, hàng triệu đô… rồi rơi vào vòng lao lí, tù tội! Cái giá “mua danh ba vạn, bán danh ba đồng” từng được báo chí “bôi danh”. Khi tham nhũng đã trở thành quốc nạn, thì tiền bạc quả là đã trở thành “ông chủ xấu’ của không ít vị quan tham bụng phệ! Ta thấy và khinh bỉ bao kẻ, mồm thì tụng câu “cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư" một cách lem lẻm, nhưng trong bóng tối, trong hậu trường lại đếm đô la một cách thoăn thoắt, tài tình. Tiền bạc — “ông chủ xấu” đã biến họ thành kẻ “mọt dân”, kẻ đạo đức giả. Có kẻ vì quá nghèo khổ mà trở thành nô lệ đồng tiền, thật đáng thương. Có kẻ vì quá tham lam mà cướp của, giết, người! Vì tiền bạc mà vợ chồng phải li dị. Vì tiền bạc mà có đứa con giết bố mẹ, đứa cháu giết ông bà, đứa anh giết em, đứa em giết chị, gây ra bao vụ án mạng rùng rợn. Những kẻ lừa thầy phản bạn, các vụ việc như chạy chức, chạy quyền, chạy khen thưởng, chạy điểm, mua bằng cấp, bán học hàm, học vị (giáo sư rởm, tiến sĩ rởm) đều do “ông chủ xấu" là tiền bạc gây ra! “Máu tham hễ thấy hơi đồng thì mô”; "Tiền tài hai chữ son khuyên ngược! Nhân nghĩa đôi đường nước chảy xuôi”; “còn bạc, còn tiền, còn đệ tử/ Hết xôi, hết rượu, hết ông tôi": “có tiền việc ấy mà xong nhỉ. Đời trước làm quan cũng thế a?”; “‘Nén bạc đâm toạc tờ giấy”… đó là những câu thơ, câu tục ngữ mà nhiều người đã biết nói về “mặt trái” của đồng tiền, châm biếm tiền bạc là “ông chủ xấu Sống ờ đời, ai cũng muốn được giàu sang phú quý, ai cũng hiểu “vạn khổ bất như bần”. Giữa thời kinh tế thị trường, kinh doanh làm giàu đã và đang được luật pháp và xã hội khuyến khích, nhiều nông dân triệu phú, nhiều nhà kinh doanh trẻ có nhiều triệu đô xuất hiện trên mọi miền đất nước. Hãy học giỏi, bước vào đời, đem tài năng thi thố với thiên hạ và làm giàu để góp phần làm cho đất nước hùng cường thịnh vượng. Câu tục ngữ của người Pháp được bàn tới ở đây là bài học sâu sắc, nó nhắc nhở mỗi chúng ta biết sống đẹp, biết lao động làm giàu, được sống sung sướng hạnh phúc. Giàu tiền bạc mà lương thiện, nhân ái. Giàu tiền bạc mà không bao giờ tham lam để“hoàng kim hắc nhân tâm".
Topic: Comment on the French proverb "Money is a loyal servant and a bad master" Assignment Money is an item that circulates in society, promoting and developing trade. It is a "special asset" that is closely linked to each person, each community, and each country. There are many proverbs, poems, folk songs... talking about money and coins. The French have a proverb about money that has been mentioned by many people: "Money is a loyal servant and a bad master." Money is a faithful servant and a bad master 1. The proverb highlights the "two sides" of money, depending on how it is used and who uses it, sometimes "money is a loyal servant", sometimes it turns into a "bad master". ”. In the marketplace, in everyday life, we see more clearly the "two-sided" nature of money. “Money is a faithful servant” when people use it for good and honest purposes; master it. On the contrary, when money has been used for the wrong purpose, using money to cause many bad things, dishonesty, crimes... then it has become a "bad owner". At that time, the person using money became a slave of money, an extremely evil enemy. Therefore, the proverb advises everyone to know how to live honestly, know how to be a money charm, and not cause so many evil and sinful things because of greed for money, greed for money, and profit. 2. Why is “money a faithful servant?”. Earning money through labor is pure money, genuine property. Farmers sell agricultural products after days of sun and rain: officials, workers, teachers, and doctors are paid and receive salaries; A businessman who has the talent to do business (according to the legal framework) becomes a billionaire... it can be said that it is "clean" and legitimate money and property. The money you make is used to buy and sell, spend, use for the essential needs of daily life, know how to spend reasonably, save, know how to use to share, and help poor people. Contributing to charity funds, public benefit funds... then "money is a loyal servant". The owner of that money is the true boss; kindness shines through their souls. Through current campaigns such as helping victims of Agent Orange, helping people in flood-affected areas, helping people in remote areas, we see many good examples, good people, and good deeds appearing. presently. Children in first and second grades... donate 1,000 VND in gift money, retired elderly people spend a small amount of money, officials and employees donate a day's salary, everyone wants to share with their fellow human beings, to share. Sweet will be sweet, "good leaves cover bad leaves". In these cases, money has highlighted virtue, clarified human love, and demonstrated the morality of "loving others as if loving yourself". 3. Money has tremendous power. "If you have money, you can buy a fairy", "Money is a fairy, a Buddha, a spring force..." - these are prayers often repeated by many people. Why, sometimes, in some places, in some people, money becomes a "bad owner". People are very easily swayed by money. When people become slaves of money, are dictated by money, and use money for dishonest things, then money becomes a very scary "bad master". People at that time will be dictated and tortured by money. In society, we see many people here and there who work as servants for the "bad master" of money. There are people who spend lavishly, "accustomed to blowing it all up" like Thuc Sinh in The Tale of Kieu. There were hundreds of young men and women who indulged in debauchery, used ecstasy, and danced in dance halls and were "caught" by the police and taken to the police station. There are many "high officials" who engage in illegal "business", with just one signature, one "nod" and earn billions of silver, millions of dollars... then fall into labor and prison. The price of "buying fame is thirty thousand, selling fame is three dong" was once "smeared" by the press. When corruption has become a national problem, money has indeed become the "bad master" of many people Greedy officials with big bellies! I see and despise so many people, chanting the words "diligence, frugality, honesty, integrity, diligence, impartiality" silently, but in the dark, behind the scenes, they count dollars one by one. quickly and skillfully. Money — the “bad boss” has turned them into “people nerds” and hypocrites. Some people become slaves to money because they are so poor, it's pitiful. Some people are so greedy that they rob and kill people! Because of money, husband and wife have to divorce. Because of money, some children kill their parents, their grandchildren kill their grandparents, their brothers kill their younger siblings, their younger siblings kill their sisters, causing many gruesome murders. Those who deceive teachers betraying friends, incidents such as running for positions, running for power, running for rewards, running for points, buying degrees, selling academic degrees, fake degrees (fake professors, fake doctors) are all caused by the "bad boss" which is money. go out! "When blood is greedy, if it sees a bit of copper, it will cry"; "Money and wealth are two words that advise the opposite! Humanity and kindness run down both paths"; "There's still silver, there's still money, there's still disciples/ Out of sticky rice, out of wine, out of my grandfather": "If you have money, the job will be done, right?" Is it the same as being an official in your previous life?"; “‘A piece of silver punctures a piece of paper’… those are verses and proverbs that many people know about the “flip side” of money, satirizing money as “a bad boss”. Living in this world, everyone wants to be rich and wealthy, everyone understands that "all suffering is not like being poor". In the midst of a market economy, getting rich in business has been encouraged by law and society, and many millionaire farmers and young businessmen with millions of dollars have appeared in all parts of the country. Study well, enter life, show off your talents to the world and get rich to contribute to making the country strong and prosperous. The French proverb discussed here is a profound lesson, it reminds each of us to live beautifully, to work hard to get rich, and to live happily. Rich in money but honest and compassionate. Rich in money but never greedy to "black gold and black people's hearts".
Đề bài: Em hãy viết bài văn bình luận câu tục ngữ Tốt gỗ hơn tốt nước sơn. Bài làm: Từ thực tế cuộc sống vất vả, gian lao và đầy thử thách, nhân dân ta đã rút ra cách đánh giá, nhìn nhận sự vật và con người. Người xưa thường Ăn lấy chắc, mặc lấy bền và coi trọng nội dung bên trong hơn là hình thức bên ngoài: Tốt gỗ hơn tốt nước sơn. Quan điểm ấy đúng hay không đúng? Trong hoàn cảnh ngày nay nó có còn giữ nguyên giá trị hay không? Chúng ta hãy thử cùng nhau bình luận. Tất cả các sự vật đều có hai mặt: nội dung và hình thức. Mặt nội dung còn gọi là chất lượng của sản phẩm thường được đánh giá cao. Thực tế cho thấy các đồ vật làm bằng gỗ tốt, gỗ quý (giường, tủ, bàn ghế,.. ) có thời gian sử dụng rất lâu dài và càng về sau càng đẹp. Người ta chỉ cần bào nhẵn, đánh bóng chúng bằng một lớp véc-ni là đủ. Trong khi đó, những đồ dùng bằng gỗ xấu, gỗ tạp lại hay được sơn phết hào nhoáng bên ngoài. Dù có đẹp đến đâu chăng nữa thì chúng cũng rất mau hỏng. Vì thế cho nên mọi người chuộng tốt, chuộng bền mà coi nhẹ hình thức của đồ vật. Nghĩa đen của câu tục ngữ trên là vậy. Nhưng cũng như bao câu tục ngữ khác, câu Tốt gỗ hơn tốt nước sơn còn hàm chứa một ý nghĩa sâu sắc hơn. Đó là lời khuyên thiết thực, đúng đắn về cách nhìn nhận, đánh giá con người. Ta thấy rõ tính nhất quán trong việc khẳng định sự hơn hẳn của nội dung bên trong so với hình thức bên ngoài. Tại sao người xưa cho rằng nội dung bên trong (phẩm chất tốt) hơn hẳn hình thức bên ngoài? Điều mà ai cũng phải thừa nhận là người có đạo đức tốt, trình độ hiểu biết sâu rộng, năng lực làm việc cao sẽ làm được nhiều việc hữu ích cho bản thân, gia đình và xã hội. Ngược lại, không có được những phẩm chất tốt đẹp ấy thì khó có thể thành công trên đường đời, cho dù con người ấy hình thức bên ngoài có hào nhoáng, đẹp đẽ đến đâu chăng nữa. Người xưa đã dùng cách gọi hàm ý châm biếm những kẻ chỉ có hình thức bên ngoài, hay dùng hình thức bên ngoài để lừa bịp người khác, để che giấu những xấu xa, khiếm khuyết bên trong… là loại Tốt mã giẻ cùi, nói thẳng ra là vô dụng, chẳng có giá trị gì. Trên cơ sở quan điểm của người xưa, ngày nay chúng ta nên đánh giá còn người như thế nào cho đúng? Chúng ta cần biết, giữa nội dung và hình thức có mối tương quàn với nhau. Nội dung quyết định hình thức, hình thức làm tâng thêm giá trị của nội dung. Vì vậy, khi nhận xét đánh giá về một người nào đó, chúng ta hãy bình tĩnh, sáng suốt tìm hiểu, phân tích để có được những kết luận đúng đắn và chính xác nhất. Chú trọng nội dung nhưng chúng ta cũng không nên xem nhẹ hình thức, bởi hình thức phần nào phản ánh nội dung. Xưa nay, các bậc vĩ nhân, các nhà bác học… thường rất giản dị. Giản dị nhưng nghiêm túc là tôn trọng mình, tôn trọng người khác. Trái lại, những kẻ thích phô trương hình thức thì bên trong lại hời hợt và trống rỗng. Nếu kết hợp được một cách hài hòa giữa nội dung và hình thức, tất nhiên giá tri con người sẽ tăng lên rất nhiều. Tuy câu tục ngữ Tốt gỗ hơn tốt nước sơn xuất hiện đã khá lâu nhưng cho đến nay nó vẫn giữ nguyên giá trị. Câu tục ngữ là một lời khuyên sáng suốt, thiết thực trong cách đánh giá sự vật và con người trong mọi hoàn cảnh, đồng thời đó cũng là lời cảnh tỉnh đối với những ai chỉ chạy theo hình thức hào nhoáng bên ngoài mà quên đi phẩm chất tốt đẹp – yếu tố cơ bản tạo nên giá trị đích thực của một con người. Loading…
Topic: Write an essay commenting on the proverb Better wood is better than good paint. Assignment: From the reality of a hard, arduous and challenging life, our people have drawn a way to evaluate and view things and people. Ancient people often ate for strength, wore clothes for durability, and valued internal content more than external form: Good wood is better than good paint. Is that view correct or incorrect? In today's situation, does it still retain its value? Let's try to comment together. All things have two sides: content and form. The content aspect, also known as the quality of the product, is often highly appreciated. Reality shows that objects made of good, precious wood (beds, cabinets, tables and chairs, etc.) have a very long shelf life and become more beautiful as time passes. People just need to smooth them and polish them with a layer of varnish. Meanwhile, utensils made of ugly or mixed wood are often painted flashy on the outside. No matter how beautiful they are, they spoil very quickly. That's why people love goodness and durability but disregard the form of things. That is the literal meaning of the above proverb. But like many other proverbs, the phrase "Good wood is better than good paint" also contains a deeper meaning. That is practical, correct advice on how to view and evaluate people. We clearly see the consistency in affirming the superiority of internal content over external form. Why did the ancients believe that internal content (good qualities) is superior to external form? What everyone must admit is that people with good ethics, extensive knowledge, and high working capacity will be able to do many useful things for themselves, their families, and society. On the contrary, without those good qualities, it is difficult to succeed in life, no matter how flashy and beautiful that person appears on the outside. The ancients used a term with sarcastic implications for people who only have an external appearance, or use an external appearance to deceive others, to hide the evils and flaws inside... the good and jay type. To put it bluntly, it's useless and worthless. Based on the views of the ancients, how should we properly evaluate people today? We need to know that there is a correlation between content and form. Content determines form, form enhances the value of content. Therefore, when evaluating someone, let's calmly and wisely research and analyze to get the most correct and accurate conclusions. Pay attention to the content, but we should not underestimate the form, because the form partly reflects the content. In the past, great men, scientists... were often very simple. Being simple but serious means respecting yourself and others. On the contrary, those who like to show off their appearance are superficial and empty inside. If content and form can be harmoniously combined, of course human value will increase greatly. Although the proverb "Good wood is better than good paint" has been around for a long time, it still retains its value to this day. The proverb is a wise, practical piece of advice in how to evaluate things and people in every situation, and it is also a warning to those who only run after the flashy appearance and forget about it. Good qualities - the basic elements that create the true value of a person. Loading…
Bình luận câu tục ngữ Ăn đi trước lội nước theo sau văn 10 Hướng dẫn Bình luận câu tục ngữ Ăn đi trước lội nước theo sau văn 10 Ca dao, tục ngữ được hình thành trong dân gian qua nhiều thế hệ nhằm truyền dạy cho nhau hoặc cho đời sau những đạo lí, những kinh nghiệm sống để thích nghi với thiên nhiên, hòa hợp với xã hội, để đối nhân xử thế. “Ăn cỗ đi trước – lội nước theo sau” cũng nhằm mục đích ấy. Tuy vậy, ta hãy xét xem ý nghĩa và giá trị tinh thần câu tục ngữ này như thế nào đối với cá nhân và cộng đồng xã hội chúng ta. Ăn cỗ đi trước – là khi có lễ hội, đình đám có tổ chức ăn uống thì phải đón trước để bàn cỗ còn sạch sẽ, thức ăn dồi dào! Nếu đi sau, đi trễ, bàn cỗ không còn tươm tất, đôi khi còn bị thiếu phần. “Lội nước theo sau” là đường đi dưới nước ta không thấy được nơi nào hố trũng, mô ươn, nơi nào đá ghềnh cọc nhọn. Người đi trước gặp nhiều rủi ro, nguy hiểm. Người theo sau cứ nhìn người đi trước mà đi, tất phải an toàn hoặc không quá nhiều rủi ro. Nhưng câu tục ngữ còn có nghĩa xa hơn là khi có những điều lợi lộc, những dịp may mắn cần phải nhanh hơn người để nắm bắt thời cơ cho mình. Khi có những việc khó khăn nặng nhọc hiểm nguy cho đồng bào, cho xã hội thì cứ chờ hoặc đùn đẩy cho người khác đi trước xông pha, gánh chịu, mình cứ tà tà đi sau để tránh tổn hại cho bản thân. Nói tóm lại đây là câu nói chỉ sự khôn, dại, cái mánh khóe ở đời. Câu tục ngữ này có tính phản giáo dục, chỉ gieo từ tưởng xấu, biến con người trở nên những kẻ hèn nhát, lọc lừa, cơ hội, những “con sâu dân, mọt nước”. Không nghĩ chi đến việc nước, việc đời, chẳng ích gì cho sự phát triển của nước nhà và tiến bộ của xã hội vì lúc nào cũng mang nặng tư tưởng ngồi chờ. Như thế thì đất nước sẽ nghèo nàn, lạc hậu, xã hội sẽ không giàu mạnh, tư tưởng ấy thật trái với đạo lí và truyền thống của ông cha ta đã có từ ngàn xưa. Một cây làm chẳng nên non Ba cây chụm lại nên hòn núi cao. Dù muốn, dù không câu tục ngữ này vẫn hiện diện và tồn tại trong dân gian nhưng với tuổi trẻ đầy nhiệt huyết và lí tưởng trong sáng, cao đẹp, học sinh chúng em phải sống hùng sống mạnh, xung phong đi đầu với mọi gian lao vì hạnh phúc của mọi người theo khẩu hiệu: “Đâu cần thanh niên có, đâu khó có thanh niên” để sống làm sao cho có nghĩa, làm sao cho “thân thế không là cỏ cây” và coi câu tục ngữ trên chỉ là một lời nói có ý mỉa mai chê trách cái hèn mọn, xấu xa “há miệng chờ sung” của một số người.
Comment on the proverb Eat first, wade in the water, and follow paragraph 10 Instruct Comment on the proverb Eat first, wade in the water, and follow paragraph 10 Folk songs and proverbs have been formed among the people over many generations to teach each other or the next generation morals and life experiences to adapt to nature, harmonize with society, and to treat people well. . "Eat the meal first - wade in the water later" also serves the same purpose. However, let's consider the meaning and spiritual value of this proverb for individuals and our social community. Eat the feast first - when there is a festival or event with a party, you must wait in advance so that the table is clean and there is plenty of food! If you go later or late, the table will no longer be neat, and sometimes there will be missing parts. "Wedging behind" is a path under water where we cannot see any hollow holes, rotten tissue, or sharp rocks or sharp stakes. Those who go first face many risks and dangers. The person following just looks at the person ahead and walks, it must be safe or not too risky. But the proverb has a further meaning: when there are benefits and lucky opportunities, you need to be faster than others to seize the opportunity for yourself. When there are difficult, difficult and dangerous tasks for our fellow countrymen and society, we should wait or push others to go ahead and take the brunt of the burden. We should just follow behind to avoid harm to ourselves. In short, this is a saying that refers to wisdom, foolishness, and tricks in life. This proverb is anti-educational, only sowing bad thoughts, turning people into cowards, deceitful, opportunistic people, "people's worms, country's worms". Not thinking about the affairs of the country or the world is of no use to the development of the country and the progress of society because we always have the mindset of sitting and waiting. In this way, the country will be poor, backward, and the society will not be rich and strong. That ideology is contrary to the morality and traditions of our ancestors that have existed since ancient times. A tree should not make premature Three trees gathered together form a high mountain. Whether we like it or not, this proverb is still present and exists in the people, but with enthusiastic youth and pure, noble ideals, we students must live strong and courageous, volunteering to take the lead with everyone. working hard for everyone's happiness according to the slogan: "There is no need for young people, it is not difficult to have young people" to live meaningfully, how to "not be like grass and trees" and consider the above proverb is just a sarcastic statement that criticizes the cowardice and evilness of some people.
Đề bài: Bình luận câu tục ngữ "Có chí thì nên" Bài làm Từ xưa đến nay, ý chí và nghị lực luôn là một phẩm chất cao quý cần có của mỗi người trong cuộc sống. Nói về ý chí nghị lực nhân dân ta có câu tục ngữ: “Có chí thì nên”. Câu tục ngữ đã đề cao ý chí, nghị lực trong cuộc sống và khuyên nhủ chúng ta sống cần phải có ý chí và nghị lực. Vậy chúng ta hãy cùng tìm hiểu về câu tục ngữ này. Đầu tiên chúng ta cần hiểu chí ở đây nghĩa là gì? Chí chính là nghị lực, ý chí của mỗi con người, nó giúp cho con người có thể vượt qua những khó khăn thử thách để tiến tới đích, tiến tới thành công. Từ thời xưa, ý chí nghị lực đã được tìm thấy trong mỗi người Việt. Trong bao cuộc chiến tranh chống xâm lược thực dân, tinh thần, ý chí, nghị lực của nhân dân ta được phát huy cao độ. Với những cuộc xâm lược của những đế quốc hùng mạnh như Pháp, Mĩ, chúng ta đứng trước một tình thế vô cùng nguy cấp. Song với ý chí nghị lực vượt khó nhân dân ta đã cùng đồng lòng đứng lên chống giặc ngoại xâm. Dù phải chịu rất nhiều gian khổ thậm chí là hy sinh nhưng nhân dân ta vẫn không hề lùi bước. Chúng ta đã chiến thắng và đánh đuổi được thực dân Pháp, đế quốc Mĩ ra khỏi đất nước, mang lại hoà bình cho dân tộc ta. Chiến thắng đó chính là chiến thắng của ý chí, nghị lực. Không chỉ có vậy, ta còn thấy được ý chí nghị lực của người Việt qua bao nhiêu tấm gương sáng vẫn được lưu truyền tới ngày nay. Trong bao tấm gương đó có tấm gương của anh Nguyễn Ngọc Kí. Anh là một người bị liệt hai tay từ nhỏ, hai bàn tay của anh không thể viết được. Thấy các bạn cùng trang lứa được đi học còn anh thì ở nhà, anh rất buồn và thấy mình bất hạnh. Nhưng với ý chí nghị lực của mình, anh không cam chịu số phận, anh đã tập viết bằng chân rất khó khăn, anh viết chữ không thành chữ và rất xấu. Song anh không nản lòng, anh vẫn cố gắng, miệt mài ngồi tập viết. Sau một thời gian anh đã viết được và chữ của anh ngày càng tiến bộ hơn. Sau này người ta nói rằng chữ của anh chẳng khác gì với chữ của người viết bằng tay và thậm chí còn đẹp hơn nhiều người. Kết quả anh đã trở thành người thầy giáo giỏi. Anh Nguyễn Ngọc Kí chính là một tấm gương sáng ngàn đời cho chúng ta học tập và noi theo. Với ý chí nghị lực vươn lên trong cuộc sống, anh đã hoà nhập được với mọi người và đã trở thành một con người có ích cho cộng đồng. Còn trong ngày nay, ý chí và nghị lực cũng rất cần thiết đối với mỗi người. Nó cũng được phát huy ở nhiều lĩnh vực của đời sống. Trong lao động sản xuất, có rất nhiều gia đình từ nghèo đói đã vươn lên làm giàu và có một cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Rồi ngay trong học tập, đã có biết bao tấm gương sáng vượt khó vươn lên học giỏi và trở thành một người tài có ích cho đất nước như chị Nguyễn Thị Thảo. Chị nhà rất nghèo nhưng không vì nghèo mà chị nản lòng, chị đã vươn lên, vượt qua hoàn cảnh bản thân và chị đã được học bổng, được đi du học ở nước ngoài. Hiện nay chị đang là một giảng viên giỏi một trường Đại học. Đó mới chỉ trong vài lĩnh vực, còn rất nhiều lĩnh vục khác trong cuộc sống mà không ít những tấm gương thể hiện nghị lực. Nhưng nói chung là tất cả những con người trong những lĩnh vực đó đều vươn lên bằng ý chí nghị lực của bản thân và có được hạnh phúc trong cuộc sống. Tuy nhiên trong thực tế không phải ai cũng nhận thức được vai trò của ý chí nghị lực với cuộc sống của mỗi người. Có những người chỉ biết đến mình mà không nghĩ đến người khác. Đặc biệt là trong thời đại ngày nay, những thanh niên hư hỏng thường gây ra rất nhiều tệ nạn xã hội. Họ không vững vàng và họ đã sa vào những tệ nạn xã hội như ma tuý, nghiện hút, đua xe… do những người xấu rủ rê. Nếu có ý chí nghị lực vững vàng thì có lẽ họ đã tránh những tệ nạn đó. Những cọn người có ý chí nghị lực thì họ nhận được hạnh phúc và luôn thành đạt. Còn những con người không có ý chí nghị lực thì cuộc đời họ như đã chết, chẳng còn ý nghĩa gì cả mà cuộc sống trở lên tầm thường tẻ ngắt và không có mục đích lý tưởng, ý chí vươn lên. Thậm chí họ sống chỉ là có hại cho gia đình, cho đất nước và xã hội ngày nay. Cũng bởi vậy mà mỗi chúng ta sống cần phải có ý chí nghị lực, có vậy thì cuộc sống mới trở nên có ý nghĩa, có sự cạnh tranh công bằng, đất nước ngày càng phát triển và xã hội sẽ ngày càng tốt đẹp hơn, không còn những tệ nạn xã hội. Những người có ý chí nghị lực vươn lên trong cuộc sống họ đều xuất phát từ những hoàn cảnh bất hạnh, đáng thương hơn những người khác. Cũng xuất phát từ đó mà họ đã có ý chí vươn lên và họ thành đạt. Còn những người không có ý chí nghị lực là những người xuất phát từ sự ngu muội, không vững vàng vào lòng tin của chính mình và những người ấy lại có một kết cục bi thảm và đau thương hơn những người khác. Họ bị xã hội phê phán, lên án và chán ghét. Từ nhận thức trên chúng ta hiểu rằng sống cần phải có ý chí nghị lực. Có như vậy thì cuộc sống mới có ý nghĩa và chúng ta sẽ trở thành những người thành đạt, là những người có ích, không hổ thẹn với bản thân với mọi người và với đất nước. Tóm lại câu tục ngữ đã đề cao tinh thần sống có ý chí nghị lực, ý chí nghị lực cũng cần được giữ gìn và phát huy. Ta nhận định rằng câu tục ngữ trên hoàn toàn đúng.
Topic: Comment on the proverb "Where there is a will there is a way" Assignment From ancient times until now, willpower and determination have always been a noble quality needed by every person in life. Talking about the will and energy of our people, there is a proverb: "If there is a will, there is a way". The proverb emphasizes will and determination in life and advises us to live with will and determination. So let's learn about this proverb. First we need to understand what lice means here? Will is the energy and will of each person, it helps people overcome difficulties and challenges to reach their destination and reach success. Since ancient times, willpower has been found in every Vietnamese person. During many wars against colonial aggression, the spirit, will, and energy of our people were highly promoted. With the invasions of powerful empires like France and America, we are facing an extremely dangerous situation. But with the will and strength to overcome difficulties, our people united in standing up against foreign invaders. Even though we had to endure many hardships and even sacrifices, our people still did not back down. We won and drove the French colonialists and American imperialists out of the country, bringing peace to our people. That victory is the victory of will and determination. Not only that, we can also see the will and determination of the Vietnamese people through many shining examples that are still passed down to this day. Among those examples is the example of Mr. Nguyen Ngoc Ki. He is a person who has had both arms paralyzed since childhood, and his hands cannot write. Seeing that his peers were going to school while he stayed at home, he was very sad and felt unhappy. But with his strong will, he did not accept his fate. He learned to write with his feet with great difficulty. His writing was broken and very ugly. But he was not discouraged, he still tried and diligently practiced writing. After a while, he was able to write and his handwriting improved more and more. People later said that his handwriting was no different from that of someone who wrote by hand and was even more beautiful than many people's. As a result, he became a good teacher. Mr. Nguyen Ngoc Ki is a shining example for us to learn and follow. With his will and determination to rise in life, he was able to integrate with everyone and became a useful person for the community. Nowadays, will and determination are also very necessary for each person. It is also promoted in many areas of life. In production labor, there are many families who have risen from poverty to become rich and have a prosperous and happy life. Then even in studying, there are so many bright examples of overcoming difficulties to study well and become a talented person useful to the country like Ms. Nguyen Thi Thao. My sister was very poor, but she was not discouraged because she was poor. She rose up and overcame her circumstances and received a scholarship and was able to study abroad. Currently, she is a good lecturer at a university. Those are just a few areas, there are many other areas in life with many examples of strong will. But in general, all people in those fields rise up with their own will and energy and achieve happiness in life. However, in reality, not everyone is aware of the role of willpower in each person's life. There are people who only care about themselves and don't think about others. Especially in this day and age, spoiled youth often cause many social evils. They are not stable and they have fallen into social evils such as drugs, addiction, racing... invited by bad people. If they had strong will and energy, they might have avoided those evils. People with strong will and determination will always be happy and successful. As for people without willpower, their lives are dead, they no longer have any meaning, but life becomes trivial and boring and has no ideal purpose or will to rise. Even if they live, it is only harmful to the family, the country and society today. That's why each of us needs to have willpower to live. Only then will life become meaningful, there will be fair competition, the country will increasingly develop and society will become better and better. , no more social evils. People who have the will and strength to rise up in life come from more unfortunate and pitiful circumstances than others. From there, they had the will to rise and they succeeded. Those who do not have willpower are those who come from ignorance and are not steadfast in their own beliefs, and those people have a more tragic and painful outcome than others. They are criticized, condemned and hated by society. From the above perception, we understand that living requires willpower. Only then will life have meaning and we will become successful, useful people, not ashamed of ourselves with others and with the country. In short, the proverb promotes the spirit of living with willpower, and willpower also needs to be preserved and promoted. We believe that the above proverb is completely correct.
Đề bài: Bình luận câu tục ngữ "Thương người như thể thương thân" Bài làm Tình cảm yêu thương giúp đỡ lẫn nhau là một đặc điểm nổi bật, là truyền thống trong quan niệm sống của ông cha ta. Tình cảm ấy ngày càng được phát huy và thấm sâu vào máu thịt của mỗi người dân. Cùng với với những câu tục ngữ, ca dao như: Nhiễu điều phủ lấy giá gương Người trong một nước phải thương nhau cùng Lá lành đùm lá rách… ông bà ta cũng có dạy thật cụ thể qua câu Thương người như thể thương thân. Đây là một lời khuyên chí tình chí nghĩa nhằm nhắc nhở con cháu phải biết yêu thương giúp đỡ người khác như yêu thương chính bản thân mình. Câu tục ngữ một lời nói tự nhiên chân thành ngắn gọn, mà lại chứa chan bao điều giáo huấn, câu tục ngữ được tách thành hai vế, một bên là người đồng loại; một bên là bản thân bởi cách so sánh như thể. Như vậy, lời dạy trên muốn nhấn mạnh: Nếu ta thương thân ta như thế nào thì ta phải yêu thương mọi người như thế; bởi lẽ bản thân là quan trọng, là cái quí giá nhất, cái mà luôn luôn được mọi người lo lắng, chăm sóc và vun vén. Nếu như người khác không may gặp khó khăn, hoạn nạn thì ta nên giúp đỡ họ như thương yêu chính bản thân mình. Thật vậy, là người sống trong xã hội không ai sống lẻ loi, đơn độc mà tập hợp thành đoàn thể, cộng đồng. Trong gia đình ta có mối quan hệ anh em, những người cùng huyết thống, cùng có những kỉ niệm vui buồn bên nhau. Họ chẳng khác nào như chân với tay trong cùng một cơ thể. Do đó, khi họ gặp hoạn nạn khó khăn ta làm sao có thể quay lưng làm ngơ cho được, bởi máu chảy ruột mềm. Anh em như thể tay chân Rách lành đùm bọc, dở hay đỡ đần. Rộng hơn là bạn bè, bà con hàng xóm, những người đã cùng ta tối lửa tắt đèn có nhau. Tuy không cùng máu mủ nhưng họ lại là người có tình có nghĩa sâu nặng với ta. Những lúc trái gió trở trời, những khi cùng đường bí lối, họ đến với ta bằng những tấm lòng chân thành để chia bùi xẻ ngọt. Tình nghĩa ấy thật sâu đậm nào khác gì anh em một nhà. Vì vậy khi họ không may rơi vào hoàn cảnh khó khăn lẽ nào ta lại ngoảnh mặt. Lúc này thái độ nhường cơm xẻ áo, chị ngã em nâng là một việc làm mà ta phải thực hiện tốt. Ngay đến cộng đồng xã hội mà ta đang sống, những người dù ở miền ngược hay miền xuôi, dù nơi rừng núi hay đồng bằng cũng đều là anh em, bởi lẽ họ với ta cùng một dân tộc có chung một mẹ Âu Cơ… Chính mối quan hệ gắn bó này tạo nên tình cảm thương thân tương ái giữa con người với con người trong xã hội. Tình cảm ấy đã bao đời nay trở thành truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta. Trải qua những năm tháng kháng chiến gan khổ, gay go cả nước đều chung lòng đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau để đi đến thắng lợi vẻ vang. Và cũng đã biết bao lần toàn dân ta đã hưởng ứng tích cực lời kêu gọi Miếng khi đói bằng gói khi no Mang vật dụng chia sẻ nỗi đau với các nạn nhân của thiên tai lũ lụt. Những việc làm ấy đã thể hiện rất rõ tấm lòng “Thương người như thể thương thân” mà ông cha ta đã truyền dạy. Tình cảm cao đẹp ấy là một đạo lí, là một nét đẹp của con người, là nền tảng để xây dựng một xã hội văn minh, hạnh phúc. Thế nhưng, trong xã hội hiện nay vẫn còn không ít người chỉ quan tâm đến bản thân không nghĩ đến người khác. Họ thờ ơ bàng quan trước nỗi đau của đồng bào, đồng loại. Hạng người này thật đáng phê phán. Ta cũng nên hiểu rằng yêu thương người khác như yêu thương chính bản thân mình là một việc làm tốt đáng để cho mọi người thực hiện noi theo. Ngày nay, câu tục ngữ không còn mang ý nghĩa hẹp của cá nhân mà nó mang nội dung rộng lớn hơn, nó trở thành tình cảm chung, nếp sống chung của toàn xã hội. Và tình cảm nhân đạo ấy được phát triển lan rộng qua mối quan hệ với cả cộng đồng nhân loại. Câu tục ngữ Thương người như thể thương thân là một bài học sâu sắc về đạo lý làm người. Yêu thương người khác như yêu thương chính bản thân mình. Nó mãi mãi nhắc nhở ta về lòng nhân ái, về tình người mỗi người chúng ta cần phải thực hiện tốt. Phát huy truyền thống tốt đẹp ấy của cha ông là ta vừa thể hiện nhân cách làm người vừa góp phần xây dưng một đất nước văn minh tiến bộ.
Topic: Comment on the proverb "Love others as if you loved yourself" Assignment The feeling of love and helping each other is a prominent feature and a tradition in the life concept of our ancestors. That sentiment is increasingly promoted and penetrates deeply into the flesh and blood of every person. Along with proverbs and folk songs such as: Government interference that takes the mirror People in a country to trade together Good leaves protect torn leaves... our grandparents also taught specifically through the saying: Love others as you love yourself. This is a sincere piece of advice to remind children and grandchildren to love and help others as they love themselves. The proverb is a short and sincere natural saying, but filled with many teachings. The proverb is separated into two parts, one side is the same person; one side is the self by comparing as if. Thus, the above teaching wants to emphasize: If we love ourselves like that, we must love everyone like that; Because the self is important, the most precious thing, the thing that everyone always worries about, takes care of and nurtures. If other people are unfortunate enough to encounter difficulties or tribulations, we should help them as if loving ourselves. Indeed, as people living in society, no one lives alone or alone but gathers into groups and communities. In our family, there is a relationship between brothers, people of the same bloodline, and have happy and sad memories together. They are like legs and arms in the same body. Therefore, when they encounter difficulties, how can we turn a blind eye, because blood flows through the intestines? Brothers like hands and feet The wound heals and is covered, whether it's bad or not. More broadly, there are friends, neighbors, people who have turned out the lights with each other. Even though they are not related by blood, they are people who have a deep love for us. When times are difficult, when things are difficult, they come to us with sincere hearts to share happiness and joy. That love is so deep, it's like being in the same family. So when they unfortunately fall into difficult situations, why should we turn away? At this time, the attitude of giving food and cutting clothes, if you fall, I will lift you up is a job that we must do well. Even in the social community in which we live, people, whether in the uplands or lowlands, whether in the mountains or plains, are all brothers, because they and we are the same people sharing the same Au Co mother... It is this close relationship that creates love and affection between people in society. That sentiment has become a good tradition of our nation for many generations. Through years of hardship and hardship, the whole country united to help each other to achieve glorious victory. And countless times our entire people have responded positively to the call A piece when hungry is equal to a packet when full Bring items to share the pain with victims of natural disasters and floods. These actions clearly demonstrate the heart of "Loving others as if you loved yourself" that our ancestors taught. That noble sentiment is a morality, a human beauty, and the foundation for building a civilized and happy society. However, in today's society there are still many people who only care about themselves and do not think about others. They are indifferent and indifferent to the pain of their fellow citizens and fellow human beings. This type of people is truly worthy of criticism. We should also understand that loving others as we love ourselves is a good deed worth following. Nowadays, proverbs no longer have a narrow personal meaning but have a broader content, it has become a common sentiment and a common way of life of the entire society. And that humanitarian feeling is widely developed through relationships with the entire human community. The proverb Love others as you love yourself is a profound lesson about human ethics. Love others as you love yourself. It forever reminds us of the kindness and humanity that each of us needs to practice well. Promoting that good tradition of our ancestors means we can both demonstrate human dignity and contribute to building a progressive, civilized country.
Đề bài: Bình luận câu tục ngữ "Uống nước nhớ nguồn" Bài làm Ân tình ân nghĩa, thuỷ chung một lòng là nét đẹp mang tính truyền thống của đạo lí dân tộc, thể hiện lối ứng xử mang vẻ đẹp nhân văn của con người Việt Nam qua hàng nghìn năm lịch sử. Bài học đạo lí Uống nước nhớ nguồn đã thành tục ngữ, hoá thân trong lời hát câu ca, đã thấm sâu vào tâm hồn hàng triệu triệu con người Việt Nam xưa nay. Câu tục ngữ Uống nước nhớ nguồn có hình tượng đẹp, hàm chứa một tư tưởng, tình cảm đẹp, một lối ứng xử đẹp. Chỉ có 4 chữ ngắn gọn mà ý nghĩa sâu xa. Uống nước là điều kiện, nhớ nguồn là hệ quả. Nguồn là nơi phát nguyên những nguồn nước. Nước đầu nguồn thì trong mát ngọt lành. Nguồn nước có bao giờ vơi cạn? Nhờ nguồn mà sông suối, ao hồ, biển cả có nước quanh năm, sự sống được nở hoa kết trái. Uống nước là được hưởng thụ; nhờ có nguồn mà ta được uống nước. Chữ nhớ trong câu tục ngữ thể hiện tấm lòng nhớ ơn, biết ơn. Câu Uống nước nhớ nguồn nêu lên mối quan hệ lịch sử, xã hội. Đó là hưởng thụ và nghĩa vụ. Câu tục ngữ nhắc nhở mỗi chúng ta bài học đạo đức: Phải nhớ ơn, biết ơn những người đã đem lại ấm no, hạnh phúc và yên vui cho mình. Câu tục ngữ đã nói lên mối quan hệ tốt đẹp giữa con người với con người, giữa bốn nghìn lớp người trong xã hội ta. Nó nêu lên một quan niệm nhân sinh đầy tình người, đúc kết một nét đẹp về đạo lí, nhắc nhở mỗi người sống có tình có nghĩa, trọn vẹn thuỷ chung. Lòng nhớ ơn, biết ơn là một tình cảm rất đẹp. Câu tục ngữ giáo dục chúng ta lòng biết ơn tổ tiên, ông bà, cha mẹ. Nó nhắc nhở chúng ta biết ơn nhân dân vĩ đại đã đem mồ hôi xương máu xây dựng và bảo vệ đất nước. Bát cơm ta ăn, mái nhà ta ở, trang sách, ngọn đèn, ngôi trường soi sáng tâm hồn ta… đã thấm sâu công ơn hàng triệu người dân cày, người thợ, thầy giáo, cô giáo… Lá quốc kì đỏ thắm, đất nước độc lập thanh bình… là do xương máu của biết bao anh hùng liệt sĩ. Giang sơn gấm vóc hôm nay là do nguồn thiêng ông cha, như một nhà thơ đã ca ngợi: Gánh vác phần người đi trước để lại Dặn dò con cháu chuyện mai sau Hằng năm ăn đâu làm đâu Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ… (Đất nước – Nguyễn Khoa Điềm.) Lòng biết ơn không chỉ được khắc sâu trong tâm hồn mà còn phải được thể hiện bằng hành động cụ thể. Con cháu hiếu thảo với ông bà cha mẹ. Tục cúng lễ giỗ tết với nén hương thơm toả khói trên bàn thờ gia tiên. Con cái chăm học chăm làm, sống tốt đẹp làm vẻ vang cho dòng họ, biết săn sóc ông bà cha mẹ khi già yếu. Ngày 27/7 và ngôi nhà tình nghĩa là sự thế hiện lòng biết ơn của toàn dân đối với thương binh liệt sĩ. Học sinh biết tôn sư trọng đạo… Đó là hành động biết “Uống nước nhớ nguồn”. Để giáo dục lòng biết ơn, nhân dân ta đã sáng tạo nên những câu tục ngữ, bài ca dao đậm đà, ý đẹp lời hay đã thấm sâu vào máu thịt và hồn người: Ăn quả nhớ kẻ trồng cây. Ai ơi bưng bát cơm đầy Nhớ công hôm sớm cấy cày cho chăng?. Con người có tổ có tông Như cây có cội, như sông có nguồn. Ở đời, người nhân hậu làm ơn không bao giờ nghĩ tới chuyện trả ơn. Họ coi việc cứu giúp mọi người là nghĩa vụ của lương tâm. Lòng biết ơn luôn nhắc nhở chúng ta vừa nhớ tới cội nguồn, nhớ tới thế hệ đi trước, đồng thời phải nghĩ tới những lớp người mai sau. Biết nhớ nguồn còn phải biết khơi nguồn là vậy. Câu tục ngữ: Uống nước nhớ nguồn là bài học lớn dạy ta biết làm người. Nó gợi nhớ trong lòng ta món nợ đời sâu nặng: Cơm cha, áo mẹ, chữ thầy Nghĩ sao cho bõ những ngày ước ao
Topic: Comment on the proverb "When you drink water, remember its source" Assignment Kindness, kindness, and loyalty are traditional beauty of national morality, expressing the humane beauty of behavior of Vietnamese people through thousands of years of history. The moral lesson: When drinking water, remember the source has become a proverb, embodied in songs and songs, and has penetrated deeply into the souls of millions of Vietnamese people from the past. The proverb: When you drink water, remember its source has a beautiful image, containing a beautiful thought, emotion, and a beautiful way of behaving. Only 4 short words with profound meaning. Drinking water is the condition, remembering the source is the consequence. Source is the place where water sources originate. The water at the source is clear, cool and sweet. Will the water source ever run out? Thanks to the source, rivers, streams, lakes, and seas have water all year round, and life can bloom and bear fruit. Drinking water is enjoyment; Thanks to the source, we can drink water. The word remember in the proverb shows gratitude and gratitude. The sentence "When you drink water, remember the source" points out historical and social relationships. It is enjoyment and duty. The proverb reminds each of us a moral lesson: We must remember and be grateful to those who have brought us prosperity, happiness and peace. The proverb speaks of the good relationship between people and between four thousand classes of people in our society. It raises a concept of human life full of humanity, summarizes a moral beauty, and reminds each person to live meaningfully and completely faithfully. Gratitude and gratitude are a very beautiful feeling. Proverbs teach us to be grateful to our ancestors, grandparents, and parents. It reminds us to be grateful to the great people who have devoted their blood and sweat to building and protecting the country. The bowl of rice we eat, the roof we live in, the pages of books, the lamp, the school that illuminates our souls... are deeply imbued with the gratitude of millions of farmers, workers, teachers, teachers... The national flag is red, peaceful independent country... is due to the blood and bones of so many heroic martyrs. Today's brocade fabric is due to the sacred source of our ancestors, as a poet praised: Carry on the burden left behind by those who have gone before Teach your children and grandchildren about the future Every year, there's no place to eat or work I also know how to bow my head to remember the death anniversary of my Patriarch... (Country – Nguyen Khoa Diem.) Gratitude must not only be engraved in the soul but must also be expressed through specific actions. Children and grandchildren are filial to their parents and grandparents. The custom of offering offerings at death anniversary ceremonies with fragrant incense sticks emitting smoke on the ancestral altar. Children study hard, work hard, live well to bring glory to the family, and know how to take care of their parents and grandparents when they are old and weak. July 27 and the House of Gratitude are an expression of the gratitude of the entire people to the wounded and martyrs. Students learn to respect their teachers and respect their religion... That is the act of knowing "Drinking water, remember the source". To educate gratitude, our people have created proverbs and folk songs with rich, beautiful meanings and good words that have penetrated deeply into people's blood, flesh and souls: Remember guys fruit trees. Someone please bring a bowl full of rice Do you remember the early morning work of plowing? People have ancestors and ancestors Like a tree has roots, like a river has a source. In life, kind-hearted people never think about repaying the favor. They consider helping people a duty of conscience. Gratitude always reminds us to remember our roots, remember the previous generation, and at the same time think about the future generations. Knowing how to remember the source also requires knowing how to evoke the source. Proverb: When drinking water, remember its source is a great lesson that teaches us how to be human. It reminds us of our deep debt to life: Father's food, mother's clothes, teacher's words Think about how to make the days of your dreams worth it
Đề bài: Em hãy viết bài văn bình luận câu tục ngữ: Học ăn, học nói, học gói, học mở. Bài làm Từ ngày xưa, có thể nói ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp có ý nghĩa đặc biệt quan trọng giữa người với người. Trong ngôn ngữ thì tiếng nói có vai trò hết sức to lớn để mọi người giao tiếp với nhau. Có nhiều câu ca dao, tục ngữ khẳng định tầm quan trọng của lời nói như: Lời nói gói vàng; Nói ngọt lọt đến xương; Lời nói chẳng mất tiền mua, Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau; Chim khôn kêu tiếng rảnh rang, Người khôn nói tiếng dịu dàng dễ nghe … Bằng kinh nghiệm đúc kết được trong quá trình ứng xử, giao tiếp, để nhấn mạnh sự cần thiết của việc học nói ông cha ta đã khuyên nhủ con cháu: Học ăn, học nói, học gói, học mở. Trong cuộc sống hằng ngày, có rất nhiều điều con người phải học. Ăn là việc tưởng chừng dễ nhất, nhưng thực ra không dễ chút nào. Cách ăn uống phần nào thể hiện tính cách con người, cho nên muốn tỏ ra là người có văn hóa, chúng ta phải học ăn. Những bậc cha mẹ lúc kén con dâu thường xem xét rất kĩ về công, dung, ngôn, hạnh, mà cụ thể là đường ăn nết ở, lời nói, dáng đi sao cho đoan trang, khéo léo, dịu dàng, vừa mắt, vừa ý mọi người. Muốn trở thành người tốt, chúng ta phải học nhiều điều. Học nói có ý nghĩa rất lớn để con người tự hoàn thiện mình. Trong thực tế, vốn ngôn ngữ và cách sử dụng ngôn ngữ của từng người có khác nhau. Nó thể hiện trình độ tư duy và năng lực làm việc của mỗi người. Khi nói, ta phải chọn từ cho thích hợp. Khi giao tiếp, ta không chỉ dùng từ, dùng câu mà còn dùng đến đoạn, có khi dùng cả văn bản để trao đổi ý tưởng tới mọi người. Để giúp mọi người học nói được tốt, câu tục ngữ đã dùng hình ảnh học gói, học mở vừa cụ thể, vừa dễ hiểu. Muốn gói một món đồ, ta cần biết gói gì trước, gói gì sau, cũng như khi mở một món đồ, ta lại phải biết mở cái gì trước, mở cái gì sau. Vậy khi nói, ta cũng phải nghĩ xem nên nói điều gì trước, nói điều gì sau, luôn cân nhắc thận trọng không nên bộp chộp, vội vàng. Như trên đã nói, ca dao từ xưa đã khéo léo dạy mọi người cách nói: Lời nói chẳng mất tiền mua, Lựa lời mà mà nói cho vừa lòng nhau. Lựa lời là lựa chọn từ ngữ thích hợp với đối tượng giao tiếp. Việc lựa lời thể hiện khả năng sử dụng ngôn ngữ của mỗi cá nhân. Tiếng Việt giàu đẹp và phong phú về mặt ngữ nghĩa. Hiện tượng đồng âm khác nghĩa khá phổ biến hoặc cùng một sự vật hay một hiện tượng lại có nhiều cách gọi khác nhau. Vì thế khi giao tiếp với đối tượng nào, ta phải có cách nói phù hợp với đối tượng ấy. Khi nói với người bề trên phải rất cẩn trọng trong việc lựa lời để thể hiện thái độ lễ phép và kính trọng. Với người dưới, ta phải nói sao cho đứng đắn, dễ nghe, dễ hiểu. Với bạn bè, ta có thể dùng những từ thân mật. Lời nói làm vừa lòng nhau là lời nói tạo ra được sự cảm thông và hiểu biết, một điều kiện không thể thiếu trong giao tiếp. Mỗi người có một vốn ngôn ngữ và cách diễn đạt khác nhau cho nên mới có người khéo nói, người vụng nói, người nói ngọt, người nói xẵng. Tuy nhiên, muốn có khả năng lựa lời thì chứng ta phải học nói. Trước hết là học ở những người thân trong gia đình, rồi học ở thầy cô giáo, bạn bè ở trường, ở lớp, học ở ngoài xã hội. Học cái hay cái đẹp trong cách dùng từ ngữ chính xác; trong cách đặt câu đúng ngữ pháp. Học lối diễn đạt giản dị, tự nhiên mà vẫn thể hiện được đầy đủ thông tin cần truyền đạt tới người nghe. Từ nói đúng, chúng ta cố gắng rèn luyện để có thể nói hay, tức là cách nói diễn cảm có sức thuyết phục đối với người nghe. Để diễn tả hiệu quả của cách nói này, tục ngữ có câu: Nói ngọt lọt đến xương. Ý nghĩa của từ ngọt ở đây chỉ sự nhẹ nhàng, khéo léo trong diễn đạt chứ không phải là sự cố tình làm ra vẻ ngọt ngào với mục đích xấu để huyễn hoặc lừa dối người nghe. Một lời nói êm tai nhưng giả dối không thể coi là một hành vi giao tiếp đúng đắn. Ngày nay, trong nền kinh tế thị trường, lời nói càng quan trọng. Hàng hóa tốt, cửa hàng đẹp, những người bán không lịch sự, niềm nở, đon đả thì cũng không thu hút được người mua. Cộng đồng mới, xã hội mới càng đòi hỏi mỗi chúng ta biết cách nói năng lịch thiệp, tế nhị. Muốn đạt được thành công trong cuộc sống, chúng ta phải không ngừng học hỏi để nâng cao vốn sống, vốn hiểu biết. Có như thế mới đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của thời đại tiên tiến, biết bao nhiêu điều phải học mà trong đó, học nói là điều quan trọng và cần thiết vì nó tạo thuận lợi cho chúng ta khi bước vào đời.
Topic: Write an essay commenting on the proverb: Learn to eat, learn to speak, learn to package, learn to open. Assignment Since ancient times, it can be said that language is a particularly important means of communication between people. In language, voice plays a huge role in helping people communicate with each other. There are many folk songs and proverbs that affirm the importance of words such as: Words are wrapped in gold; Sweet talk reaches the bones; Words do not cost money to buy. Choose your words to please each other; Wise birds chirp freely, Wise people speak softly and easily heard... Using experience gained in the process of behavior and communication, to emphasize the necessity of learning to speak, our ancestors advised their children: Learning to eat, learn to speak, learning packages, school open. In everyday life, there are many things people have to learn. Eating is seemingly the easiest thing, but in fact it is not easy at all. The way we eat partly reflects a person's personality, so if we want to appear cultured, we must learn to eat. When choosing a daughter-in-law, parents often carefully consider their merits, content, language, and behavior, specifically their behavior, speech, and gait so that they are presentable, skillful, gentle, pleasing to the eye, pleases everyone. To become a good person, we must learn many things. Learning to speak has great significance for people to improve themselves. In reality, each person's language skills and language usage are different. It shows the level of thinking and working capacity of each person. When speaking, we must choose appropriate words. When communicating, we not only use words and sentences but also paragraphs and sometimes even text to exchange ideas with people. To help people learn to speak well, the proverb uses the images of packaged learning and open learning that are both specific and easy to understand. To wrap an item, we need to know what to pack first and what to pack next, just like when we open an item, we have to know what to open first and what to open next. So when speaking, we also have to think about what to say first and what to say later, always consider carefully and not rush or rush. As mentioned above, ancient folk songs have skillfully taught people how to say: Words cost nothing to buy, Choose your words to please each other. Choosing words is choosing words that are appropriate for the subject of communication. The choice of words demonstrates each individual's ability to use language. Vietnamese is rich in beauty and semantics. The phenomenon of homonyms with different meanings is quite common or the same thing or phenomenon has many different names. Therefore, when communicating with any object, we must have a way of speaking appropriate to that object. When speaking to superiors, you must be very careful in choosing your words to show politeness and respect. With subordinates, we must speak in a way that is correct, easy to listen to, and easy to understand. With friends, we can use intimate words. Words that please each other are words that create sympathy and understanding, an indispensable condition in communication. Each person has a different language and expression, so there are people who are good at speaking, people who are clumsy, people who speak sweetly, and people who speak harshly. However, if we want to be able to choose our words, we must learn to speak. First of all, learn from family members, then learn from teachers, friends at school, in class, and learn in society. Learn the beauty in using words correctly; in grammatically correct sentences. Learn simple, natural expressions that still fully express the information that needs to be conveyed to the listener. From speaking correctly, we try to practice to be able to speak well, that is, to speak expressively and convincingly to the listener. To describe the effectiveness of this way of speaking, there is a proverb: Sweet speech reaches the bone. The meaning of the word sweet here refers to gentleness and skill in expression, not the deliberate act of appearing sweet with bad intentions to deceive or deceive the listener. A pleasant but false word cannot be considered a correct communication act. Today, in a market economy, words are even more important. Good goods, beautiful stores, and sellers who are not polite, welcoming, and courteous will not attract buyers. The new community and new society require each of us to know how to speak politely and tactfully. To achieve success in life, we must constantly learn to improve our living capital and knowledge. Only then can we meet the increasing demands of the advanced era. There are so many things to learn, among which learning to speak is important and necessary because it creates advantages for us when entering life.
Bình luận câu tục ngữ: Một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ Hướng dẫn Bình luận câu tục ngữ: Một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ Tinh thần yêu thương của một tổ chức cộng đồng hay là cả một xã hội là truyền thống đẹp và quý báu của nhân dân ta từ ngàn đời xưa cho tới nay. Bàn về vấn đề này thì có rất nhiều câu ca dao khuyên con người chúng ta phải biết yêu thương giúp đỡ lẫn nhau để cùng vượt qua được mọi khó khăn gian khổ của cuộc sống. Vấn đề này luôn được thầy cô và cha mẹ nhắc nhở từ khi chúng ta còn bé nhỏ qua câu tục ngữ “Một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ”. Trước hết khi chúng ta muốn tìm hiểu sâu xa về câu tục ngữ này thì chúng ta chúng ta cần phải hiểu được bản chất thực sự câu nói này và nó có ý nghĩa như thế nào. Ngựa là một loài động vật sức khỏe và ăn cũng rất nhiều, thức ăn của chúng chủ yếu là ăn cỏ. Còn tài là máng lợn hoặc là cái chuồng của con ngựa. Và ở đây tàu được hiểu là chuồng ngựa. Khi một con ngựa ở trong đoàn bị ốm không ăn được cỏ, bỏ ăn thì cả đàn đó cũng không muốn ăn gì chỉ mong bạn mau khỏe lại để có thể chơi đùa với nhau. Và dân gian chúng ta đã mượn hình ảnh chú ngựa để nói về lên sự chia sẻ cảm thông sâu sắc, có tinh thần tương thân tương ái quan tâm của một tập thể tới một cá nhân ở trong xã hội. Qua đây thì chúng ta có thể mở rộng sự đoàn kết đó ra cả một cộng đông, ý thức đoàn kết lại với nhau chư không phải là dừng lại một tập thể. Suy rộng ra đó là ai cũng cần được có một cuộc sống hạnh phúc ấm no vì thế cho nên hãy cùng nhau xây đắp cuộc sống đó. Ngoài ra thì câu ca dao này còn lê án những người sống vô tâm vô cảm không có sự hòa hiếu yêu thương đồng loại, san sẻ tình cảm đó. Nếu như trong một đất nước mà không có sự đoàn kết yêu thương lẫn nhau thì rồi sẽ ra sao? Chúng ta thấy được một tinh thần đoàn kết ở trong các cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm, giành được chiến thắng để rồi có được sự độc lập,hạnh phúc như ngày hôm nay. Trong tình hình đất nước như hiện nay thì chúng ta càng cần lắm những cánh tay, những sự đoàn kết cùng nhau hướng tới biển đảo bảo vệ tổ quốc, giữ gìn đất nước chúng ta. Tình cảm cộng đồng sẽ giúp chúng ta vượt qua được những khó khăn ở trong cuộc sống này, để có thể hướng tới cái ấm no hạnh phúc hơn. Bên cạnh đó thì chúng ta cũng cần phải phê phán những thói dửng dưng trước những nỗi đau của người khác. Chúng ta còn thấy thất vọng hơn khi sự yêu thương đoàn kết đó xuống dốc, đó là khi một người bị tai nạn ở giữa đường, không một ai mảy may đưa đi cấp cứu hay một cú điện thoại gọi cho xe cứu thương mà họ đứng tụm lại để chỉ trò và nhìn nhau. Đó là một bộ phận làm mất tinh thần đoàn kết giúp đỡ người khác. Chúng ta hãy biến lời nói thành hành động, đó là giúp đỡ, yêu thương đoàn kết lẫn nhau trong cuộc sống này. Cho dù là việc nhỏ nhất thì cũng có thể góp được thành việc to lớn hơn. Những việc làm của các bạn có thể lan rộng ra toàn đất nước và cả thế giới. Câu tục ngữ “một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ” luôn luôn là một lời dạy triết lí mãi muôn đời sau. Chính vì thế chúng ta hãy luôn biết để quan tâm, để yêu thương đùm bọc đối với những người xung quanh và cao hơn đó là ý thức đoàn kết cả một cộng đồng dân tộc.
Comment on the proverb: A horse that is in pain leaves no grass Instruct Comment on the proverb: A horse that is in pain leaves no grass The spirit of love of a community organization or an entire society is a beautiful and precious tradition of our people from thousands of years ago to the present. Discussing this issue, there are many folk songs that advise us humans to love and help each other to overcome all the difficulties and hardships of life. This problem has always been reminded by teachers and parents since we were young through the proverb "A horse that hurts makes the whole boat go haywire". First of all, when we want to learn more about this proverb, we need to understand the true nature of this proverb and what it means. Horses are healthy animals and eat a lot, their food is mainly grass. And talent is a pig trough or a horse's stable. And here the ship is understood as a stable. When a horse in the group is sick and can't eat grass or stops eating, the whole herd doesn't want to eat anything and just wants you to get well quickly so you can play together. And our folk have borrowed the image of a horse to talk about the sharing of deep sympathy, the spirit of mutual affection and concern of a group for an individual in society. Through this, we can expand that solidarity to the whole community, the sense of solidarity with each other is not stopping a group. By extension, everyone needs to have a happy and prosperous life, so let's build that life together. In addition, this folk song also condemns people who live heartlessly and without emotion, without the love and kindness of their fellow human beings and sharing those feelings. If there is no solidarity and love for each other in a country, what will happen? We see a spirit of solidarity in the resistance wars against foreign invaders, winning victory and then gaining independence and happiness like today. In the current situation of the country, we need even more arms and solidarity to work together towards the sea and islands to protect the homeland and preserve our country. Community affection will help us overcome difficulties in this life, so we can move towards greater prosperity and happiness. Besides, we also need to criticize the habit of being indifferent to the pain of others. We feel even more disappointed when that love and solidarity goes downhill, that is when a person has an accident in the middle of the road, and no one takes them to the emergency room or calls an ambulance. standing together to point out and look at each other. It is a part that destroys the spirit of solidarity in helping others. Let's turn words into action, which is to help, love and unite each other in this life. Even the smallest thing can contribute to a bigger thing. Your actions can spread throughout the country and the world. The proverb "a horse that is in pain can leave the ship alone" has always been a philosophical teaching for generations to come. That's why we should always know how to care, love and care for those around us and, above all, have a sense of solidarity as an entire national community.
Bình luận câu tục ngữ: Ăn cỗ đi trước, lội nước theo sau Bài làm Nhân dân ta từ xa xưa đã có truyền thống lao động hăng say, cần cù chăm chỉ nhưng bên cạnh những con người bỏ sức lao động ra để có được thành quả thì có những người muốn hưởng những điều tốt đẹp nhất mà không muốn đổ giọt mồ hôi nào, những người muốn đứng lên bằng sức lực của người khác. Cũng từ đó mà ông cha ta đã có câu “Ăn cỗ đi trước, lội nước theo sau” để lên án những con người có bản chất như thế. Để hiểu được nội dung mà những ý nghĩa mà ông cha ta gửi gắm vào câu tục ngữ mỗi người cần có cái nhìn nhiều chiều về vấn đề, đầu tiên xét về nghĩa đen, câu tục ngữ cho ta thấy được những sự việc vô cùng quen thuộc trong đời sống xã hội của con người, những việc mà ai cũng đã từng trải qua, từng nghĩ tới, đơn giản mà nói khi được mời đi ăn cỗ những người chủ động thời gian tới sớm sẽ được ngồi chỗ tốt đẹp nhất, được ăn những phần ngon nhất, thức ăn đầy đủ, ngon lành, không phải tranh giành hay lo đói bụng nhưng những người đến sau chắc chắn sẽ bị thiệt thòi hơn rất nhiều, nếu xét trên khía cạnh của vấn đề này thì những người như thế được coi là rất sáng suốt. Còn về vấn đề lội nước, chắc chắn ai cũng hiểu rõ ràng trong vấn đề này, những người đi trước qua một dòng sông, dòng suối sẽ không biết phía trước mình có những gì, không biết dưới chân mình ra sao, chỉ có thể dùng phán đoán và sự may mắn để tiến về phía trước, sẽ không thể lường trước được sự nông sâu hay nguy hiểm gì đang tồn tại ở phía trước, nhưng đối với những người đi theo sau sẽ không phải lo vấn đề đấy, tất cả những mối nguy hiểm đều đã có người trải nghiệm trước đó, những chỗ an toàn, những chỗ không an toàn đều đã biết từ đó sẽ có thể tránh những chỗ nguy hiểm mà người đi trước gặp phải, sẽ có quãng đường thuận lợi vô cùng. Nhưng hàm ý của câu tục ngữ mà ông cha ta gửi gắm không chỉ dừng ở đó, nó còn bao hàm một ý nghĩa sâu xa hơn thế rất nhiều, lên án phần nào bộ phận trong xã hội mà ở thời kì nào cũng có, câu tục ngữ muốn nhắc tới những kẻ có lối sống tham lam thực dụng, ích kỉ, những kẻ nắm bắt lấy thời cơ để hớt tay trên của mọi người, vơ vét của cải tiền tài vật chất về cho riêng mình để hưởng lợi, khi gặp khó khăn sẽ tìm cách đùn đẩy hết tất cả trách nhiệm cho người khác gánh hộ bản thân mình. Đây là một lối sống đáng lên án vô cùng trong xã hội của chúng ta, cách sống đi ngược lại với đạo lí của dân tộc, đi ngược lại với thuần phong mĩ tục của con người Việt Nam, nhưng những con người như thế vẫn còn tồn tại, không những thế họ còn phát triển và giàu có hơn bất kì người nông dân chăm chỉ nào. Họ dùng sự ranh mãnh tinh quái của mình để chiếm đoạt mồ hơi nước mắt của những con người chân chất thật thà. Mỗi chúng ta cần bỏ sức lao động ra để phấn đầu với những kết quả ở phía trước, tự đứng trên đôi chân của mình và dùng đôi chân đó bước qua khó khăn, bước qua thử thách để cuối cùng những thành công đạt được sẽ đáng chân trọng hơn rất nhiều. Sống cuộc sống không phải lo lắng, tự hiểu năng lực bản thân để hài lòng với những thành tích đạt được. Câu tục ngữ trở nên có ý nghĩa vô cùng trong thời buổi hiện nay, khi mà có những con người lạm dụng quyền lợi để trục lợi cho bản thân, để phục vụ cuộc sống của riêng mình, chỉ biết nhìn lên mà không bao giờ cúi đầu nhìn xuống.
Comment on the proverb: Eat the food first, wade in the water next Assignment Since ancient times, our people have had a tradition of working enthusiastically and diligently, but besides the people who put in their hard work to get results, there are people who want to enjoy the best things without sacrificing anything. no sweat, those who want to stand up with the strength of others. Since then, our ancestors have had the saying "Eat the meal first, wade in the water next" to condemn people with such a nature. To understand the content of the meanings that our ancestors put into proverbs, each person needs to have a multi-dimensional view of the problem. First, in terms of the literal meaning, proverbs show us extremely important things. familiar in human social life, things that everyone has experienced and thought about. Simply put, when invited to dinner, those who take the initiative to come early will be given the best seats. , can eat the best parts, full and delicious food, without having to fight or worry about being hungry, but those who come later will certainly be much more disadvantaged, if considered from this aspect of the problem, those who come later will definitely be at a disadvantage. Such a person is considered very wise. As for the issue of wading, surely everyone understands clearly in this matter, those who go ahead across a river or stream will not know what is in front of them, do not know what is under their feet, only You can use judgment and luck to move forward, it will be impossible to predict what depth or danger exists ahead, but for those who follow behind, there will be no need to worry about that problem. All the dangers have been experienced before, the safe places and unsafe places are known, so you can avoid the dangerous places that previous people encountered, and you will have a smooth journey. extremely beneficial. But the meaning of the proverb that our ancestors conveyed does not stop there, it also includes a much deeper meaning than that, condemning certain parts of society that in every period, The proverb refers to those who have a greedy, pragmatic, selfish lifestyle, those who seize the opportunity to take advantage of everyone, to scoop up material wealth for themselves to benefit. When faced with difficulties, we will find a way to push all responsibilities to others to bear for us. This is an extremely condemnable way of life in our society, a way of life that goes against the morality of the nation, against the fine customs and traditions of the Vietnamese people, but such people still survived, not only that, they also developed and were richer than any hardworking farmer. They use their cunning and mischievousness to usurp the sweat and tears of honest and sincere people. Each of us needs to put in the effort to strive for the results ahead, stand on our own two feet and use those feet to overcome difficulties and challenges so that in the end the successes achieved will be achieved. much more respectful. Live life without worry, understand your own abilities to be satisfied with your achievements. The proverb becomes extremely meaningful in today's times, when there are people who abuse their rights to profit for themselves, to serve their own lives, only knowing how to look up but never looking up. bow your head and look down.
Bình luận câu tục ngữ: Đất tốt trồng cây rườm rà. Những người thanh lịch nói ra dịu dàng, vàĐất xấu trồng cây khẳng khiu. Những người thô tục nói điều phàm phu Hướng dẫn Bình luận câu tục ngữ: Đất tốt trồng cây rườm rà. Những người thanh lịch nói ra dịu dàng, vàĐất xấu trồng cây khẳng khiu. Những người thô tục nói điều phàm phu Bài làm Giao tiếp là một chuẩn mực rất quan trọng để đánh giá con người. Ứng xử, giao tiếp thế nào để người đối diện có thiện cảm với chúng ta là một việc rất khó và không phải ai cũng làm được. Để khuyên răn mọi người giao tiếp, ứng xử cho tốt, tục ngữ dân tộc ta có câu: Đất tốt trồng cây rườm rà Những người thanh lịch nói ra dịu dàng Đất xấu trông cây khẳng khiu Những người thô tục nói điều phàm phu. Những câu tục ngữ này nhằm dạy bảo chúng ta ăn nói, cứ xử sao cho phù hợp, để trở thành những người thanh lịch chứ không phải những người buông ra những lời nói thô tục. Ở câu tục ngữ đầu tiên, có thế thấy rõ ý được nói đến ở đây là đất có màu mỡ, tươi tốt thì cây sẽ phát triển tươi tốt. Cũng như vậy ở trong giao tiếp ứng xử, những người văn minh, thanh lịch, có nhân cách tốt thì sẽ nói ra những điều nói lịch sự, có văn hóa, làm hài lòng người nghe. Ở câu tiếp theo lại nói đến nơi đất đai xấu, khô cằn, đương nhiên cây sẽ không phát triển tươi tốt mà khẳng khiu, xơ xác. Tương tự những con người thô tục, nhân cách khong tốt thì luôn nói ra những điều xằng bậy, cục cằn, khó nghe. Hai câu tục ngữ bằng phép so sánh cụ thể giữa cây và người, đồng thời thể hiện sự đối lập giữa người thanh lịch và người không có văn hóa. Đây cũng là một lời khuyên dành cho chúng ta, rằng phải rèn luyện ăn nói sao cho phù hợp với hoàn cảnh, thể hiện sự văn minh lịch sự ở bất cứ đâu. Trong cuộc sống sẽ luôn tồn tại nhiều loại người, có người tốt kẻ xấu, nên cũng sẽ có người thanh lịch và kẻ phàm phu. Những người thanh lịch, có đạo đức, nhân cách tốt đương nhiên sẽ biết cách cư xử phù hợp trong mọi hoàn cảnh, điều này sẽ giúp ích cho họ rất nhiều trong công việc cũng như cuộc sống. Ngược lại, những người thô tục, đạo đức kém, thiếu nhân cách sẽ thường buông ra những lời nói thiếu suy nghĩ, gây tổn thương hoặc xúc phạm đến người khác. Những người như vậy đương nhiên sẽ bị xã hội khinh ghét, và chắc chắn sẽ gặp thất bại trên đường đời. Có thể nói, ngôn ngữ, khả năng ứng xử, giao tiếp chính là cách biểu lộ tình cảm, suy nghĩ, tư tưởng giữa con người với nhau. Nhờ có giao tiếp, con người mới có thể trao đổi thông tin, giúp đỡ nhau học tập, làm việc cũng như trở nên thân mật, gần gũi nhau hơn. Cách giao tiếp, ứng xử của một người phản ánh một phần nào đó rất rõ nét tính cách của người đó. Chính vì thế, vô hình chung người đối diện sẽ đánh giá con người bạn qua cách giao tiếp, ứng xử, để từ đó đối xử với bạn theo ấn tượng bạn để lại với họ. Tuy nhiên, không phải ai sinh ra cũng đã biết nói lời hay ý đẹp, nói những lời làm vừa lòng người khác. Chúng ta phải có nhân cách đạo đức tốt, có nền tảng tri thức, văn hóa vững chắc mới có thể đưa ra những câu nói có văn hóa, phù hợp với từng điều kiện, hoàn cảnh sống. Vậy nhưng ăn nói dễ nghe không có nghĩa là nói những lời xu nịnh, hoa mỹ rẻ tiền để làm vừa lòng người khác. Bởi chúng ta đều biết rằng, con người cần phải đối xử thật lòng với nhau. Nếu chỉ biết xu nịnh người khác để đạt được mục đích, chắc chắn một ngày người xung quanh sẽ đánh giá bạn là người không chung thực và không coi trọng bạn nữa.
Comment on the proverb: Good land makes planting trees cumbersome. Elegant people speak gently, and bad soil grows spindly trees. Vulgar people say vulgar things Instruct Comment on the proverb: Good land makes planting trees cumbersome. Elegant people speak gently, and bad soil grows spindly trees. Vulgar people say vulgar things Assignment Communication is a very important standard to evaluate people. How to behave and communicate so that the other person has sympathy for us is a very difficult task and not everyone can do it. To advise people to communicate and behave well, our national proverb has the following saying: Good land is cumbersome to plant trees Elegant people speak gently Bad soil makes trees look spindly Vulgar people say vulgar things. These proverbs are intended to teach us to speak and behave appropriately, to become elegant people, not people who utter vulgar words. In the first proverb, it can be clearly seen that the idea mentioned here is that if the soil is fertile and lush, the plants will grow well. Likewise in communication, people who are civilized, elegant, and have good personalities will say things that are polite, cultured, and pleasing to the listener. In the next sentence, it talks about bad, arid land, of course the trees will not grow lushly but will be spindly and ragged. Similarly, vulgar people with bad personalities always say rude, rude, and hard-to-hear things. The two proverbs use a specific comparison between trees and people, and express the contrast between elegant people and uncultured people. This is also advice for us, that we must practice speaking to suit the situation, showing civility and politeness wherever we are. In life there will always exist many types of people, there are good people and bad people, so there will also be elegant people and ordinary people. People who are elegant, ethical, and have good personalities will naturally know how to behave appropriately in all situations, which will help them a lot in work and life. On the contrary, people who are vulgar, have poor morals, and lack personality will often say thoughtless words that hurt or offend others. Such people will naturally be despised by society, and will certainly encounter failure in life. It can be said that language, the ability to behave and communicate is the way to express feelings, thoughts and ideas between people. Thanks to communication, people can exchange information, help each other study and work, as well as become more intimate and closer to each other. A person's way of communication and behavior reflects a very clear part of that person's personality. Therefore, invisibly, the other person will evaluate you through your communication and behavior, and then treat you according to the impression you leave on them. However, not everyone is born knowing how to say nice words, say words that please others. We must have good moral character and a solid intellectual and cultural foundation to be able to make cultural sayings suitable for each condition and life situation. However, speaking nicely does not mean saying flattery and cheap words to please others. Because we all know that people need to treat each other honestly. If you only know how to flatter others to achieve your goals, surely one day the people around you will judge you as dishonest and not value you anymore.
Đề bài: Bình luận câu tục ngữ: "Anh em khinh trước, làng nước khinh sau" Bài làm Trong dân gian vẫn lưu truyền nhiều câu tục ngữ nói về khen/chê, khinh/trọng. Mỗi câu tục ngữ là một bài học sâu sắc có tác dụng giáo dục đối với bất cứ ai, nhất là lớp người trẻ tuổi trong xã hội. Anh em khinh trước, làng nước khinh sau Câu tục ngữ sau đây, nhiều người vẫn nhớ, vẫn nhắc: Anh em khinh trước, làng nước khinh sau. Khinh là sự đánh giá và chê bai, coi thường. Chữ khinh thường gắn liền với các từ ngữ: khinh thường, khinh bỉ, coi khinh… Một kẻ nào đó, nhân cách lèm nhèm, có việc làm xấu xa, thối nát… sẽ bị mọi người coi khinh và xa lánh. Trong gia đình, con cháu bất hiếu, vợ chồng bất hòa, anh em lục đục, sẽ bị mọi người trong nhà, trong gia tộc “khinh trước”. Một kẻ mà đã bị “anh em khinh trước” là kẻ vô cùng suy đốn; từ cử chỉ thái độ đến hành động, việc làm đều xấu xa, đồi bại, phương hại đến đạo lí, nếp nhà, hành động, việc làm đều xấu xa, đồi bại, phương hại đến đạo lí, nếp nhà, đến gia phong. Những kẻ cờ bạc rượu chè, nhác làm siêng ăn, tham lam, tục tằn… sẽ bị “anh em khinh trước”. Và khi đã bị “anh em khinh trước” thì con người ấy không còn chỗ đứng trong xóm dưới làng trên, trong làng ngoài xã nữa. Khi đã bị “làng nước khinh sau" thì con người ấy còn dám vác mặt đi đâu nữa. Chỉ còn cúi gầm mặt mà đi. Mọi quan hệ chòm xóm, láng giềng chẳng còn gì nữa. Mọi người đều “sợ” và xa lánh. Kẻ bị làng nước coi khinh sẽ sống trong cô độc, tủi nhục, làm hại đến danh dự chồng con, vợ con; làm nhục ông bà, cha mẹ, anh em. “Anh em khinh trước, làng nước khinh sau”, câu tục ngữ nghĩ có tám chữ, điệp lại hai lần chữ “khinh” đã nói lên một cách cô đúc sức mạnh của gia phong, của lệ làng. Câu tục ngữ nêu bật sức mạnh tính giáo dục đạo đức của gia đình và làng xã; chỉ cần nghe ông bà, cha mẹ nhắc lại một lần là con cháu nhớ mãi. Nhờ đó mà nếp nhà được giữ gìn, gia phong được đề cao, thuần phong mĩ tục được phát triển. Kho tàng ca dao, tục ngữ Việt Nam có nhiều câu nêu bật sự khinh/trọng, khen/chê của cộng đồng đối với một con người nào, nhất là đối với những kẻ sa sút, sa đọa, tha hóa. “Bia miệng” thế gian thật đáng sợ: Hôm kia kẻ đón người đưa. Bây chừ đi sớm về trưa một mình. Ngày xưa võng lọng nghênh ngang, Bây giờ cúi mặt mo nang che đầu. Xây dựng nền đạo đức mới, xây dựng gia đình văn hóa, thiết nghĩ câu tục ngữ “Anh em khinh trước, làng nước khinh sau” có tác dụng gấp nhiều lần những bài luận thuyết dài dòng. Share Facebook Twitter Pinterest Bình luận câu tục ngữ: Anh em khinh trước làng nước khinh sau Hướng dẫn Bình luận câu tục ngữ: Anh em khinh trước làng nước khinh sau Trong kho tàng các câu ca dạo tục ngữ của chúng ta có muôn vàn những đề tài viết về kinh nghiệm đã được ông cha ta đúc rút và nó được truyền từ đời này sang đời khác. Có những câu tục ngữ nói về những hiện tượng tự nhiên như là “chuồn chuồn bay thấp thì mua, bay cao thì nắng và bay vừa thì rầm”. Cũng có những câu tục ngữ lại nói về những đức tính của con người. Câu tục ngữ “Anh em khinh trước làng nước khinh sau” Trước hết chúng ta đi giải thích về câu nói này, khinh có nghĩ là nhìn người khác với một thái độ chê bai, khinh thường những việc làm không tốt của con người. Một người xấu xa không tốt thì sẽ bị chính anh em ở trong gia đình đó gét rồi sau đó là đến anh em làng nước khinh sau. Tại sao lại vậy? chúng ta có thể hiểu là khi một người trong gia đình làm việc gì xấu xa thì sẽ bị chính anh em họ hàng khinh thường rồi tới dân làng biết thì sẽ khinh sau. Câu nói này luôn mang tới cho ta một tâm niệm đó là cho dù anh em dẫu có thân nhưng nếu làm những việc xấu xa thì sẽ khiến cho anh chị em ở trong gia đình chê bai thẳng thắn để cho người làm những việc xấu đó biết sửa chửa. Còn nếu như đã không sửa chữa được nữa thì dân chúng làng nước sẽ cười nhạo bang và khinh khét vô cùng. Hãy thử ngẫm mà xem, nếu như chúng ta làm việc gì đó sai trái như là ăn cắp chẳng hạn, khi gia đình biết sẽ chê bai, rồi phân tích ra những cái sai. Còn nếu như chúng ta không sửa lỗi lầm thì làng nước sẽ nhạo báng và còn bảo bố mẹ không biết dạy con mình. Trong gia đình, nếu như con cháu bất hiếu hay vợ chồng không hòa thuận thì sẽ bị anh em trong nhà hay là gia tộc khinh. Khi một người bị anh em khinh thì đó chắc hẳn là một người xấu xa, đồi bại và phương hại đến đạo lí, đến nếp nhà và gia phong. Đối với những kẻ cờ bạc rượu chè, siêng ăn nhác làm và ăn nói tục tằn thì sẽ bị anh em khinh thường rồi sau đó thì tới làng xóm xung quanh. Đối với những con người như thế thì tất nhiên là không còn có chỗ đứng ở trong làng nước nữa. Họ sẽ không dám đi đâu, không ai dám nói chuyện hay là gần gũi với người đó. Bởi vì anh em ở trong nhà còn khinh thì huống gì là nói tới dân làng. Việc người đó làm cho mọi người khinh bỉ sẽ khiến cho cuộc đời của họ chỉ lủi thủi một mình. Phải gặm nhấm với sự cô độc mà không một ai chia sẻ những niềm vui và nỗi buồn trong cuộc sống. Không những vậy, nó còn ảnh hưởng cả tới cuộc sống sau này và tiếng tăm rất lớn, sự khinh miệt đó được định hình từ trước và thành vết dớt khó xóa đi được trừ khi người đó có sự thay đổi thực sự lớn, còn không thì vẫn phải chịu sự khinh miệt mãi như vậy. Nguồn: Bài văn hay
Topic: Comment on the proverb: "Brothers despise first, the country despises later" Assignment In folk culture, there are still many proverbs about praise/criticism, contempt/respect. Each proverb is a profound lesson that has educational effects for anyone, especially young people in society. Brothers despise first, country despises later The following proverb, many people still remember and remind: Brothers despise first, country despises later. Contempt is judgment, criticism, and contempt. The word contempt is associated with the words: contempt, contempt, disdain... Someone with a bad personality and bad, corrupt deeds... will be despised and shunned by everyone. In the family, children and grandchildren who are not filial, spouses who are discordant, and brothers who quarrel will be "despised first" by everyone in the family and the family. A person who has been "despised by his brothers" is extremely depraved; From gestures, attitudes to actions, deeds are all bad, corrupt, harmful to morality, family style, actions, deeds are all evil, corrupt, harmful to morality, family style, and family. wind. Those who gamble and drink, are lazy, work hard to eat, are greedy, and are profligate... will be "despised first" by their brothers. And when he has been "scorned first" by his brothers, that person no longer has a place in the village below, in the village above, in the village or in the commune anymore. Once "scorned" by the village, that person dares to go anywhere else. He can only walk with his head down. All relationships between neighbors and neighbors are no longer there. Everyone is "afraid" and distant. People who are despised by the country will live in loneliness and humiliation, harming the honor of their husband, wife, and children; "Brothers despise first, the village despises later", the proverb has eight words, repeating the word "disdain" twice, succinctly expressing the power of family style and village rules. The proverb highlights the power of moral education of family and village; Just hearing grandparents and parents repeat it once will make children remember it forever. Thanks to that, house manners are preserved, family style is promoted, and fine customs and traditions are developed. The treasury of Vietnamese folk songs and proverbs has many verses that highlight the community's contempt/respect, praise/criticism for a person, especially for those who have fallen, fallen, and corrupted. The world's "mouth beer" is scary: The other day, someone picked me up and someone delivered me. Now I leave early and return at noon alone. In the past, parasols swaggered, Now bow your face and cover your head. Building a new morality, building a cultured family, I think the proverb "Brothers despise first, the village despises later" is many times more effective than lengthy essays. Share Facebook Twitter Pinterest Comment on the proverb: Brothers despise first, country despises later Instruct Comment on the proverb: Brothers despise first, country despises later In our treasure trove of proverbs and songs, there are countless topics written about experiences that were learned by our ancestors and passed down from generation to generation. There are proverbs that talk about natural phenomena such as "dragonflies fly low, they buy, when they fly high, they get sunshine, and when they fly just right, they roar". There are also proverbs that talk about human qualities. The proverb "Brothers despise first, nations despise later" First of all, let's explain this saying, contempt means looking at others with a disparaging attitude, looking down on people's bad deeds. An evil person who is not good will be hated by the brothers in that family and then despised by the brothers in the village. Why? We can understand that when a family member does something bad, they will be despised by their relatives and then the villagers will despise them later. This saying always gives us the thought that even though we are close, if we do bad things, it will make our brothers and sisters in the family openly criticize the person who did those bad things. know how to fix it. If it cannot be repaired, the villagers will laugh at the state and be extremely contemptuous. Think about it, if we do something wrong, such as stealing, when our family knows, they will criticize us and then analyze what's wrong. If we don't correct our mistakes, the country will mock us and say that parents don't know how to teach their children. In a family, if children and grandchildren are not filial or if husband and wife do not get along, they will be despised by their brothers or the family. When a person is despised by his brothers, he is certainly an evil person, corrupt and harmful to morality, family life and family style. For those who gamble and drink, work hard and talk dirty things, they will be despised by their brothers and then by the surrounding villages. For people like that, of course, they no longer have a place in the country. They will not dare to go anywhere, no one will dare to talk or be close to that person. Because the brothers in the house are still contemptuous, let alone talking about the villagers. The fact that that person makes everyone despise them will make their life just a lonely one. Having to endure loneliness without anyone to share the joys and sorrows of life. Not only that, it also affects the person's future life and reputation greatly. That contempt is pre-determined and becomes a stain that is difficult to erase unless that person makes really big changes. Otherwise, you will still have to endure the same contempt. Source: Good article
Bình luận câu: Cờ bạc là bác thằng bần,Cửa nhà bán hết tra chân vào cùm Hướng dẫn Bình luận câu: Cờ bạc là bác thằng bần,Cửa nhà bán hết tra chân vào cùm Ông cha ta đã đúc kết được biết bao nhiêu là kinh nghiệm qua những câu ca dao ục ngữ, ngoài những câu nói về kinh nghiệm như “Chuồn bay thấp thì cao, bay cao thi nắng, bay vừa thì râm” hay “dáng mỡ gà thì nắng dáng mỡ chó thì mưa”…thì còn có cả những câu nói về thói hư tật xấu ở trên đời, nổi bật và tiêu biểu trong những câu nói ấy là: “Cờ bạc là bác thằng bần Cửa nhà bán hết tra chân đi cùm” Trước hết thì chúng ta hay cùng đi giải thích câu nói ở trên. Cờ bạc là một thói hư tật xấu của con người gây ra những tác hại gê gớm cho bản thân và gia đình xã hội về mọi mặt. Đây chính là một tệ nạn đang gây bức xúc trong đời sống của con người. Nói cờ bạc như bác thắng bần ở đây có nghĩa là cờ bạc có hại rất lớn tới bản thân mỗi người chúng ta, dính đến cờ bạc thì chúng ta nghèo khổ bần cùng suốt đời. Những người như thế thì cửa nhà mang ra bán hết và có khi là phải đi tù. Tóm lại câu nói kia muốn nói lên tác hại của cờ bạc. Cờ bạc diễn ra vào những ngày lễ hội bởi đó là những khoảng thời gian rảnh rỗi đối với con người. Nếu như cờ bạc chỉ mang tính chất giải trí thì nó không mang hại cho con người nhưng mà khi người ta bỏ tiền ra chơi thì nó không còn là thú vui giải trí nữa mà nó làm hại đến tinh thần và vật chất của con người. Các trò chơi như game hay pia,cá cược thì chỉ cần chơi hoặc là đoán thắng thì sẽ được nhận tiền thưởng dễ dàng mà thôi nhưng mà nó lại rất khó chơi bởi nó phụ thuộc vào sự may rủi của chúng ta. Hay là trò tú lơ khơ rồi tổ tôm được chơi bằng rất nhiều hình thức nhưng tất cả đều vô bổ, người thắng thì được hết còn người thua thì mất trắng tay. Có những người có thể nghĩ đơn giản rằng mình sẽ giàu nhanh bằng cách chơi cờ bạc, làm giàu bằng cờ bạc. Nếu như thắng thì họ muốn được chơi tiếp để kiếm tiền còn khi thua thì tìm mọi cách để gỡ bằng được. Nhưng đối với cuộc đời của mỗi con người thì biết thế nào cho vừa,biết thế nào là đáp ứng được với cái lòng tham đó. Chính vì vậy mà lúc thắng rồi lúc thua như một vòng luẩn quẩn,khi đánh hết tiền rồi không có gì thì họ đem tất cả đồ đạc trong nhà đi thế chấp, bán lấy tiền chơi tiếp.Khi không có thì làm liều trộm cắp của xóm làng và từ đó dấn thân vào con đường tội phạm. Thế rồi chẳng mấy chốc mà đi tù vì những hành vi ấy. Như vậy chúng ta có thể thấy được tác hại khủng khiếp của việc chơi cờ bạc là như thế nào. Nguồn: Bài văn hay
Comment on the sentence: Gambling is a poor man. When you sell your house, you put your feet in shackles Instruct Comment on the sentence: Gambling is a poor man. When you sell your house, you put your feet in shackles Our ancestors have summarized a lot of experience through folk songs and proverbs, in addition to sayings about experience such as "If a fly flies low, it will be high, if it flies high, it will be sunny, if it flies medium, it will be shady" or "If it flies low, it will be shady." "If the chicken is sunny, if the dog is fat, then it's raining"... there are also sayings about bad habits in the world, prominent and typical of those sayings are: "Gambling is poverty ladder The house is sold out and my feet are shackled." First of all, let's explain the above statement. Gambling is a bad human habit that causes terrible harm to oneself and one's family and society in all aspects. This is an evil that is causing frustration in people's lives. Talking about gambling like you win poverty here means that gambling is very harmful to each of us. If we are involved in gambling, we will be poor and miserable for the rest of our lives. People like that are sold out and sometimes have to go to jail. In short, that statement wants to talk about the harmful effects of gambling. Gambling takes place on festivals because it is free time for people. If gambling is only for entertainment purposes, it is not harmful to people, but when people spend money to play, it is no longer entertainment but it harms people's spirit and material. . Games like game or pia, betting, just need to play or guess to win and you will receive the reward easily, but it is very difficult to play because it depends on our luck. Or the game Tu Lo Kho and To Tom are played in many ways but all are useless, the winner gets everything and the loser loses everything. There are people who may simply think that they will get rich quickly by gambling, getting rich by gambling. If they win, they want to continue playing to make money, and when they lose, they find every way to win back. But for each person's life, they know how to fit it, how to satisfy that greed. That's why sometimes they win and then lose like a vicious cycle. When they have all their money and then have nothing, they mortgage all the furniture in the house and sell it to make money to continue playing. When they don't have it, they risk stealing. of the village and from then on embarked on the path of crime. Then he soon went to jail for those actions. So we can see how terrible the harmful effects of gambling are. Source: Good article
Bình luận câu: Một ngày lạ thói sai nha,Làm cho khốc hại chẳng qua vì tiền trong chương trình văn học lớp 10. Hướng dẫn Bình luận câu: Một ngày lạ thói sai nha,Làm cho khốc hại chẳng qua vì tiền trong chương trình văn học lớp 10. Nguyễn Du là một đại thi hào của dân tộc, ông đã mang đến cho chúng ta một kiệt tác văn học đó chính là truyện Kiều. Tác phẩm kể về cuộc đời của một con người tài sắc vẹn toàn nhưng lại bạc mệnh, qua đó Nguyễn Du muốn lấy sự đồng cảm của người đọc đối với thân phận người phụ nữ thời phong kiến xưa. Đọc truyện Kiều làm cho chúng ta ấn tượng nhất đó chính là đoạn trích Kiều ở lầu ngưng bích hay là đoạn tả Thúy kiều. Những đoạn trích này rất nổi bật được mọi người chú ý tới nhưng nếu như không để ý tới thì chắc hẳn nhiều người vẫn không biết được rằng đoạn kể về sóng gió của gia đình Kiều là mấu chốt làm nên câu chuyện và cũng là những câu thơ giàu ý nghĩa, ý nghĩa ấy không chỉ là đúng với gia đình nhà Kiều mà còn đúng trong chế độ xã hội, đúng với chế độ quy luật xưa: “Một ngày lạ thói sai nha Làm cho khốc hại chẳng qua vì tình” Hai câu thơ này được trích ra từ đoạn gia đình của Kiều rơi vào cảnh hoạn nạn do thằng bán tơ vu oan. Trước tình cảnh ấy thì bọn sai nha đã đùng đùng tới nhà và đánh đập cha con nhà Thúy Kiều thậm tế. Gia đình Kiều bất ngờ kết thúc những ngày tháng vui vẻ hạnh phúc và đầm ấm bên nhau. Chính vì vậy mà đại thi hào Nguyễn Du đã dành cho những kẻ hống hách,không coi ai ra gì bằng hai câu thơ như trên. Ở trong cuộc sống ngày nay thì cũng có người tốt người xấu, có những ông quan liêm chính thì lại có những ông quan tham ô của dân. Hay còn gọi là bọn cướp ngày. Tội ác đó được thể hiện rất rõ và rõ nhất đó là trong thời phong kiến ngày xưa. Đặc biệt qua đoạn trích đó thì chúng ta thấy được chúng vô cùng tàn nhẫn với người vô tội. Có lẽ cũng không còn từ nào để lột tả được sự độc ác của chúng trong hai từ khốc “hại”. Chúng vô duyên vô cớ tin lời một thằng bán tơ để rồi đánh đập cha con nhà họ Vương một cách dã man, trắng trợn. Với cách làm như vậy không những là đẩy người vô tội vào chốn ngục lao mà còn là nguyên nhân đẩy Thúy Kiều vào bước ngoặt éo le của cuộc đời. Cuộc đời thanh lâu hai lượt thanh y hai lần của Kiều cứ thế mà tiếp diễn, Kiều không những không được giữ trọn lời thề ở bên người yêu mà nàng còn phải trải qua những đắng cay tủi nhục ê chề vì phải chung chăn gối với biết bao người đàn ông trong xã hội. Như vậy qua đó chúng ta thấy được đại thi hào Nguyễn Du đã rất khéo léo để cho chúng ta tấy được quy luật về tội ác của bọn tham quan ở mọi thời đại. Những việc làm của chúng mang đến cho muôn dân mọi hình ảnh đau thương, li biệt và tàn khốc, chính vì vậy mà mỗi chúng ta hãy biết đứng lên để đấu tranh chống lại bọn tham ô chỉ biết làm hại dân lành.
Comment on the sentence: One strange day, it's wrong, Doing harm is just for money in the 10th grade literature program. Instruct Comment on the sentence: One strange day, it's wrong, Doing harm is just for money in the 10th grade literature program. Nguyen Du is a great national poet, he brought us a literary masterpiece, the story Kieu. The work tells about the life of a talented but ill-fated person, through which Nguyen Du wants to gain the reader's sympathy for the fate of women in ancient feudal times. Reading Kieu's story that makes the most impression on us is the excerpt from Kieu at Lau Nguong Bich or the passage describing Thuy Kieu. These excerpts are very prominent and attract everyone's attention, but if you don't pay attention, many people probably still don't know that the passage about the turmoil of Kieu's family is the key to the story and is also the key to the story. The poem is rich in meaning, that meaning is not only true for Kieu's family but also true in the social regime, true to the ancient rule regime: “It's a strange day Doing harm is just because of love." These two verses are excerpted from the part where Kieu's family fell into trouble due to the false accusations of the silk seller. Faced with that situation, the servants suddenly came to the house and severely beat Thuy Kieu's father and son. Kieu's family suddenly ended their happy and warm days together. That's why the great poet Nguyen Du gave the above two verses to those who are overbearing and disrespectful of anyone. In today's life, there are good and bad people, there are honest officials and there are officials who embezzle from the people. Also known as day robbers. That crime was shown very clearly and most clearly in ancient feudal times. Especially through that excerpt, we see that they are extremely cruel to innocent people. Perhaps there are no words left to describe their cruelty in the two cruel words "harmful". They believed the words of a silk seller for no reason and then brutally and blatantly beat the Vuong family's father and son. By doing so, not only does it push innocent people into prison, but it also causes Thuy Kieu to enter a difficult turning point in life. Kieu's life as a young man who changed her clothes twice continued like that. Not only was Kieu not able to keep her vow to be with her lover, but she also had to go through bitterness, humiliation, and humiliation because she had to share the same bed with her lover. so many men in society. So through this we can see that the great poet Nguyen Du has very skillfully helped us to understand the rules of crime committed by corrupt people in all times. Their actions bring to all people images of pain, separation and cruelty, that is why each of us should know how to stand up to fight against the corrupt people who only know how to harm good people.
Bình luận giải thích câu nói: Đoàn kết là sức mạnh vô địch Hướng dẫn Bình luận giải thích câu nói: Đoàn kết là sức mạnh vô địch Tại Đại hội Mặt trận Tổ quốc Việt Nam lần thứ nhất tổ chức ở Hà Nội tháng 4 năm 1955, Bác Hồ có nói: Đoàn kết là sức mạnh vô địch. Câu nói tuy ngắn gọn nhưng dễ hiểu chính xác và đầy đủ thì không đơn giản chút nào. Theo em, đoàn kết là tập hợp các phần tử lẻ tẻ hoặc các bộ phận thành một khối thống nhất. Song thống nhất không có nghĩa là không đấu tranh với những biểu hiện sai trái của mỗi thành viên. Ví như ở lớp, ở trường chúng em đoàn kết chính là yêu thương, giúp đỡ lẫn nhau, cùng hướng mục tiêu phấn đấu tốt; đồng thời biết góp ý, phê phán những khuyết điểm của bạn để bạn tiến bộ. Đoàn kết được thể hiện bằng động cơ, mục đích đúng đắn vì lợi ích tập thể, phù hợp với sự phát triển chung của xã hội. Nếu tạp hợp lại chỉ vì lợi ích nhỏ hẹp của tập thể mà đi ngược lại sự phát triển chung của xá hội thì đó là tư tưởng cục bộ, là chủ nghĩa cá nhân. Nhưng tại sao đoàn kết là một sức mạnh vô địch? Có lẽ vì đoàn kết sẽ tạo đều kiện cho mỗi cá nhân phát huy khả năng tiềm tàng của mình, tạo nên một sức mạnh tổng hợp, vĩ đại, không ai địch nổi. Trước hết, đoàn kết làm tăng số lượng của cải, vật chất của con người. Có đoàn kết con người mới có sức lao động, có đủ khả năng để xây dựng những công trình lớn. Nhà máy thủy điện Hòa Bình là một minh chứng rõ nhất. Với sự giúp đỡ của các chuyên gia Liên Xô (cũ) những công nhân Việt Nam và cả những công nhân Liên Xô cùng chung sức, đồng lòng xây dựng nên nhà máy, mang ánh sáng kì diệu của điện đến nhiều nơi trên đất nước chúng ta. Cũng như vậy, sự đoàn kết các dân tộc trên đất nước Việt Nam đã khiến chúng ta thời nào cũng đương đầu và chiến thắng những lực lượng xâm lược to lớn hơn, được trang bị vũ khí và phương tiện hiện đại hơn. Đoàn kết còn làm tăng sức mạnh trí tuệ. Chính sự đoàn kết trong nghiên cứu khoa học là nguồn gốc của biết bao thành tựu kĩ thuật. Nhóm kiến trúc sư trẻ do kiến trúc sư Hoàng Thúc Hào làm trưởng nhóm đã được giải thưởng thế giới năm 1994 về quy hoạch đổi mới làng gốm Bát Tràng. Trong một lần phỏng vấn, nhóm trưởng Hoàng Thúc Hào có nói: “Một trong những nguyên nhân thành công cơ bản là sự thương yêu đoàn kết của toàn nhóm”. Quả thật không sai. Muốn đoàn kết được các dân tộc trong một nước thì các dân tộc, không phân biệt là dân tộc lớn hay dân tộc nhỏ, đều phải tôn trọng, thương yêu giúp đỡ lẫn nhau. Nhà nước cân phải ưu tiên tiền của, cơ sở vật chất kĩ thuật cho các dân tộc vùng xa vùng sâu để họ phát triển kinh tế, văn hóa, tiến kịp các dân tộc vùng xuôi. Các dân tộc vùng xuôi cũng dần góp phần xây dựng miền núi, các dân tộc sống trên cùng một nước phải hòa nhập với nhau để xây dựng đất nước vững mạnh. Nhưng một đất nước dù lớn mạnh đến đâu, sống trên cùng hành tinh này cũng không thể tách rời nhân loại mà có thể phát triển phồn vinh mãi được. Các nước cứ tranh chấp nhau liên miên thì trái đất này cũng chẳng có hòa bình hạnh phúc. Cho nên các nước phải đoàn kết với nhau. Tuy Bác Hồ nói câu nói này vào năm 1955 nhưng tới nay, nó vẫn còn giá trị hiện thực sâu sắc. Muốn xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội chúng ta phải luôn nhớ thực hiện những lời Bác Hồ dạy. Ôi ước gì, tất cả các nước trên toàn thế giới biết đoàn kết lại với nhau như năm ngón tay trên một bàn tay thì trái đất này sẽ tươi đẹp biết bao, yên vui, hạnh phúc biết bao!
Commentary explaining the saying: Unity is invincible strength Instruct Commentary explaining the saying: Unity is invincible strength At the first Congress of the Vietnam Fatherland Front held in Hanoi in April 1955, Uncle Ho said: Unity is invincible strength. Although the sentence is short but easy to understand accurately and completely, it is not simple at all. In my opinion, solidarity is the gathering of sporadic elements or parts into a unified whole. But unity does not mean not fighting against the wrongdoings of each member. For example, in class and at school, we are united by loving and helping each other, striving towards the same goal; At the same time, know how to give feedback and criticize your shortcomings so that you can improve. Solidarity is expressed by the right motivation and purpose for the collective benefit, in accordance with the common development of society. If people gather together just for the narrow interests of the group and go against the general development of society, then that is a local ideology and individualism. But why is solidarity an invincible strength? Perhaps because solidarity will create conditions for each individual to develop their potential, creating a great, synergistic power that no one can defeat. First of all, solidarity increases the amount of human wealth and material wealth. Only by uniting people will we have the labor force and the ability to build great projects. Hoa Binh hydroelectric plant is the clearest example. With the help of (former) Soviet experts, Vietnamese workers and even Soviet workers joined forces to build the factory, bringing the magical light of electricity to many parts of the country. we. Likewise, the solidarity of the peoples of Vietnam has enabled us to confront and defeat larger invading forces, equipped with more modern weapons and means, at all times. Unity also increases intellectual power. It is solidarity in scientific research that is the source of countless technical achievements. A group of young architects led by architect Hoang Thuc Hao won the 1994 world award for planning the renovation of Bat Trang pottery village. In an interview, group leader Hoang Thuc Hao said: "One of the basic reasons for success is the love and solidarity of the entire group." It's really not wrong. To unite ethnic groups in one country, all ethnic groups, regardless of whether they are large or small, must respect, love and help each other. The State must prioritize money and technical facilities for ethnic groups in remote areas so that they can develop economically and culturally and catch up with ethnic groups in lowland areas. Ethnic groups in the lowlands also gradually contribute to building the mountainous areas. Ethnic groups living in the same country must integrate with each other to build a strong country. But no matter how strong a country is, living on the same planet cannot be separated from humanity and can develop and prosper forever. If countries constantly fight with each other, this earth will not have peace and happiness. So countries must unite together. Although Uncle Ho said this statement in 1955, it still has profound practical value today. To successfully build socialism, we must always remember to practice Uncle Ho's teachings. Oh how I wish, all countries around the world would unite together like five fingers on one hand, then how beautiful, how peaceful, how happy this earth would be!
Đề bài: Tục ngữ Việt Nam có câu: Đi một ngày đàng học một sàng khôn. Em hãy bình luận giải thích câu tục ngữ trên. Bài làm I. DÀN Ý 1. Mở bài: – Tri thức rất cần thiết đối với con người. – Muốn có tri thức thì phải học hỏi. Học trong sách vở, học từ thực tế cuộc sống xung quanh. – Từ xưa ông cha ta từ xưa thấy rõ tầm quan trọng của tri thức nên đã khuyên con cháu: Đi một ngày đàng, học một sàng khôn. 2. Thân bài: a. Giải thích ý nghĩa của câu tục ngữ; * Nghĩa tường minh: – Đi một ngày đàng: một ngày đi trên đường. – Học một sàng khôn: thấy được nhiều điều mới lạ, học được nhiều điều hay, mở mang thêm trí óc. * Nghĩa hàm ẩn: Tầm quan trọng của việc nâng cao, mở rộng kiến thức để làm giàu thêm vốn sống. b. Bình luận: – Ý nghĩa của câu tục ngữ trên là hoàn toàn đúng bởi vì có chịu khó đi đó đi đây thì tầm nhìn mới được mỡ rộng, hiểu biết mới được nâng cao, con người sẽ khôn ra. – Trôn khắp các nẻo đường đất nước, chỗ náo cũng có những cái hay, cái đẹp. Đi nhiều, biết nhiều giúp con người trưởng thành, dày dạn và từng trải. – Hiểu biết (khôn) càng nhiều, con người càng có cách xử thế đúng đắn hơn; làm việc có hiệu quả cao hơn; quan hệ với gia đình và xã hội tốt hơn. 3. Kết bài: – Học hỏi là chuyện thường xuyên, liên tục trong suốt đời người để không ngừng nâng cao hiểu biết. – Xác định mục đích của việc học là học cái mới, cái tốt, có ích cho bản thân, gia đình, xã hội. – Phải, có phương pháp học tập chủ động, sáng tạo và có chọn lọc để đạt được hiệu quả cao. Học đi đôi với hành. – Câu tục ngữ trên là bài học kinh nghiệm quý báu cho tất cả mọi người, nhất là tuổi trẻ.
Topic: Vietnamese proverb has a saying: One day's journey to learn one's wisdom. Please comment and explain the above proverb. Assignment I. OUTLINE 1. Introduction: – Knowledge is very necessary for humans. – If you want knowledge, you must learn. Learn from books, learn from real life around you. - Since ancient times, our ancestors clearly saw the importance of knowledge, so they advised their children: Travel a day, learn a sieve of wisdom. 2. Body of the article: a. Explain the meaning of the proverb; * Explicit meaning: – Go one day on the road: one day on the road. – Learn a lot of wisdom: see many new things, learn many good things, expand your mind. * Implicit meaning: The importance of improving and expanding knowledge to enrich living capital. b. Comment: – The meaning of the above proverb is completely true because if you work hard to travel here and there, your vision will be broadened, your understanding will be enhanced, and people will become wiser. – In all corners of the country, there are good and beautiful places. Traveling a lot and knowing a lot helps people become mature, seasoned and experienced. – The more knowledge (smart) people have, the more correct their behavior will be; work more effectively; better relationships with family and society. 3. Conclusion: – Learning is a regular and continuous thing throughout one's life to constantly improve knowledge. – Determine the purpose of learning is to learn new, good things that are useful for yourself, your family, and society. – Yes, have active, creative and selective learning methods to achieve high efficiency. Learning with practice. – The above proverb is a valuable lesson for everyone, especially the youth.
Bình luận giải thích lời dạy của Bác Học tập tốt, lao động tốt Hướng dẫn Bình luận giải thích lời dạy của Bác Học tập tốt, lao động tốt Bác Hồ là lãnh tụ vĩ đại của Cách mạng Việt Nam và là người ông hiền lành rất mực yêu thương tuổi nhỏ Việt Nam. Sinh thời, Bác rất quan tâm giáo dục thiếu niên, nhi đồng để Tổ quốc Việt Nam có những công dân tốt. Bác lúc nào cũng lo chăm bón, vun trồng lớp “măng non” phát triển tốt tươi. Mỗi thiếu nhi Việt Nam đều ghi nhớ năm điều Bác dạy. Một trong năm điều quí báu đó là “Học tập tốt, lao động tốt”. Tìm hiểu sâu ý nghĩa câu nói để phấn đấu vươn lên là nhiệm vụ của học sinh. Câu nói ngắn, vẻn vẹn có sáu chữ nhưng hiểu cho đầy đủ ý cũng không đơn giản. Thế nào là học tập tốt? Theo em nghĩ, học tập tốt trước hết phải được thể hiện ở sự xác định cho mình một động cơ, mục đích học tập đúng đắn. Học tập là để mở mang trí tuệ, nắm được những tri thức văn hóa, khoa học của nhân loại, để từ đó biết vận dụng vào cải tạo, xây dựng cuộc sống cho bản thân mình và cho xã hội. Bác Hồ cũng đã dạy chúng em: học để làm người dân tốt, người chiến sĩ tốt, người cán bộ tốt, hay nói cách khác là làm người lao động có văn hóa, góp phần xây dựng đất nước. Nói đến thái độ học tập đúng đắn là nói đến sự cần cù chăm chỉ vượt mọi khó khăn khách quan của đời sống hàng ngày, và không lùi bước trước những vấn đề hóc búa của khoa học. Đường đến trường có thể xa, một cuốn sách cần đọc có thể dày, một bài toán cần giải có thể rắc rối… Chính lúc đó đòi hỏi ta phải có đức tính: kiên trì và nhẫn nại. Phải chủ động vươn lên nắm lấy tri thức để học tập tốt… Nói đến phương pháp học tập khoa học là nói đến hàng loạt biện pháp nhằm học tập đạt hiệu quả cao. Từ cách nghe giảng, cách ghi bài ở lớp, đến cách giải bài tập, cách ứng dụng thực hành ở nhà, từ học trong sách vở đến học ngoài cuộc sống, từ học thầy đến học bạn v.v… tất cả đều có tác dụng nâng cao chất lượng học tập cho cá nhân mình nếu biết làm đúng hướng, đúng cách và có nề nếp. Trao đổi với các bạn học giỏi, tuy mỗi người có mỗi cách, nhưng tất cả đều toát lên phẩm chất của những người học tốt là: động cơ, thái độ học tập đúng đắn và phương pháp học tập khoa học, sinh hoạt học tập nề nếp. Lao động có kỉ luật tức là phải bảo đảm giờ giấc, nội qui lao động, chống tùy tiện, được chăng hay chớ; kỉ luật tốt nhất là kỉ luật tự giác, nhận thức được ý nghĩa của công việc mình làm, để làm với ý thức là người chủ của công việc. Mặt khác, nói đến lao động tốt là phải nói đến yêu cầu về kĩ thuật. Kĩ thuật, theo em nghĩ, là điều kiện cơ bản để bảo đảm chất lượng sản phẩm, dẫu là sản xuất ra máy móc như các công nhân, hay làm một luống rau ở vườn trường như chúng em cũng vậy. Ngoài ra, em còn nghĩ rằng xã hội ngày càng phát triển, dân số ngày càng tăng, yếu tố tăng năng suất trong lao động là cực kì quan trọng, không những bảo đảm chất lượng mà còn làm ra nhiều sản phẩm. Vì vậy lao động tốt là lao động với tinh thần tự giác, lao động có kỉ luật, cải tiến và sáng tạo để làm ra ngày càng nhiều sản phẩm có chất lượng phục vụ cho cuộc sống.
Commentary explaining Uncle Ho's teachings: Study well, work well Instruct Commentary explaining Uncle Ho's teachings: Study well, work well Uncle Ho was the great leader of the Vietnamese Revolution and a gentle grandfather who loved Vietnamese children very much. During his lifetime, Uncle Ho paid great attention to educating teenagers and children so that the Vietnamese Fatherland would have good citizens. He always took care of fertilizing and cultivating the layer of "young bamboo shoots" to grow well. Every Vietnamese child remembers the five things Uncle Ho taught. One of those five precious things is "Study well, work well". Deeply understanding the meaning of the saying to strive for excellence is the student's task. The sentence is short, with only six words, but understanding the full meaning is not simple. What is good learning? In my opinion, good learning must first be reflected in determining for yourself a correct motivation and learning purpose. Studying is to expand the mind, grasp the cultural and scientific knowledge of humanity, so that you can apply it to improve and build a life for yourself and for society. Uncle Ho also taught us: learn to be good people, good soldiers, good officials, or in other words, to be cultured workers, contributing to building the country. Talking about the right learning attitude is talking about diligence and diligence in overcoming all objective difficulties of daily life, and not backing down from difficult scientific problems. The way to school may be long, the book that needs to be read may be thick, the math problem that needs to be solved may be complicated... That's when we need to have virtues: perseverance and patience. Must proactively strive to grasp knowledge to study well... Talking about scientific learning methods means talking about a series of measures to achieve highly effective learning. From how to listen to lectures, how to take notes in class, to how to solve exercises, how to apply practice at home, from learning in books to learning in real life, from learning from teachers to learning from friends, etc., everything has an effect. Improve the quality of your personal learning if you know how to do it in the right direction, in the right way and in a disciplined manner. Talking with good students, although each person has their own way, they all exude the qualities of good students: motivation, correct learning attitude, scientific learning methods, and study activities. practice discipline. Disciplined labor means ensuring hours and labor regulations, avoiding arbitrariness, whether it's good or not; The best discipline is self-discipline, being aware of the meaning of the work you do, to do it with the sense of being the owner of the work. On the other hand, when talking about good labor, we have to talk about technical requirements. Technology, in my opinion, is the basic condition to ensure product quality, whether it is producing machines like workers, or building a vegetable garden in the school garden like us. In addition, I also think that as society develops and the population increases, the factor of increasing productivity in labor is extremely important, not only ensuring quality but also making more products. Therefore, good labor is labor with a spirit of self-awareness, discipline, innovation and creativity to make more and more quality products to serve life.
Bình luận giải thích lời dạy: Đoàn kết đoàn kết đại đoàn kết Thành công thành công đại thành công Hướng dẫn Bình luận giải thích lời dạy: Đoàn kết đoàn kết đại đoàn kết Thành công thành công đại thành công Khi Cách mạng Tháng Tám mới thành công, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa mới ra đời, đất nước còn nghèo, vũ khí còn thô sơ mà đã phải đương đầu với thực dân Pháp đang mạnh lại được đế quốc Anh, Mĩ giúp đỡ. Làm sao kháng chiên thành công được? Một trong những chủ trương sáng suốt của Bác Hồ là đoàn kết. Người nói: Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết Thành công, thành công, đại thành công. Trong thực tế cuộc sống, đoàn kết là sự tập hợp nhau lại, cùng nhau chung sức người, sức của để cùng cố gắng vươn lên đạt được mục đích mà tất cả cùng mong đợi. Chung sức người nghĩa là chung về sức lực, ý chí, trí tuệ; còn chung sức của tức là chung về của cải vật chất. Có thể kể ra ví dụ về chung sức của sau: Trong kháng chiến chống Pháp, Bác Hồ đã phát động phong trào quyên của nhiều người, thì sẽ có sự liên kết của nhiều sức lực và do đó giải quyết được việc lớn. Tương tự như vậy, khi có sự liên kết của nhiều người thì sẽ có sự liên kết nhiều của cải; từ đó giúp cho một tổ chức có điều kiện, của cải, sức lực nhiều thêm và lúc đó sẽ giải quyết được nhiều việc có kết quả. Ngược lại, khi không có sự đoàn kết của nhiều người mà là tách biệt được việc lớn và khó. Đoàn kết dẫn đến thành công thì ắt rằng “Đại đoàn kết” sẽ dẫn đến “đại thành công”. “Đại” là nói đến sự tăng lên về số lượng và cũng là tăng lên về sức mạnh. Tức là không chỉ đoàn kết trong một nhóm người mà cả dân tộc, cả nhân loại trên thế giới. “Đại” còn có nghĩa là tăng về mặt chất lượng, về trí tuệ, về tinh thần. Điều này thể hiện ở chỗ khối đại đoàn kết dân tộc và đoàn kết thế giới càng rộng lớn thì tinh thần quyết chiến, quyết thắng càng được nhân lên gấp bội. Lịch sử dân tộc ta đã chứng minh rõ điều đó. Ra đời trong thời kì kháng chiến chống Pháp, lời kêu gọi: Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết Thành công, thành công, đại thành công của Hồ Chủ tịch đã có ý nghĩa lớn đối với nhân dân, được nhân dân ủng hộ. Sau lời kêu gọi đó là sự đóng góp của các tầng lớp nhân dân về mọi mặt. Tùy khả năng của mình, mọi người già, trẻ, gái, trai ai, cũng tham gia cứu nước trong điều kiện của mình. Anh bộ đội, chị dân công, anh công nhân, bác nông dân, trẻ em, người già và những người có của ở cả trong nước và ngoài nước đã đóng góp sức người và sức của vào cuộc kháng chiến. … Câu nói của Bác Hồ trên đây, không chỉ đúng với sự nghiệp cách mạng nhân dân ta trước đây, mà trong sự nghiệp xây dựng đất nước ngày nay vẫn đúng; không chỉ đúng với sự nghiệp chung của toàn dân, mà trong sự nghiệp của mỗi người nếu biết đoàn kết, tranh thủ được sự giúp đỡ của mọi người xung quanh cũng sẽ dẫn đến những thành công mĩ mãn.
Commentary explaining the teachings: Solidarity, great solidarity, Great success, great success Instruct Commentary explaining the teachings: Solidarity, great solidarity, Great success, great success When the August Revolution was successful, the Democratic Republic of Vietnam was just born. The country was still poor, with rudimentary weapons, but had to confront the strong French colonialists with the help of the British and American empires. . How to resist frying successfully? One of Uncle Ho's wise policies is solidarity. Person said: Solidarity, solidarity, great solidarity Success, success, great success. In real life, solidarity is the gathering together, joining together human and material resources to strive to achieve the goal that everyone expects. Sharing human strength means sharing strength, will, and intelligence; Sharing resources means sharing material wealth. The following example of joint efforts can be given: During the resistance war against the French, Uncle Ho launched a fundraising movement of many people, so there would be a connection of many forces and thus great problems could be solved. Likewise, when there is an association of many people, there will be an association of many wealth; From there, it helps an organization have more conditions, wealth, and energy, and will then be able to solve many problems with results. On the contrary, when there is no solidarity of many people, it is possible to separate big and difficult tasks. Unity leads to success, then "Great solidarity" will lead to "great success". “Great” refers to an increase in quantity and also an increase in strength. That means not only solidarity within a group of people but also the whole nation, all humanity in the world. “Great” also means to increase in quality, intelligence, and spirit. This is shown in the fact that the larger the bloc of national unity and world solidarity, the more the spirit of determination to fight and victory is multiplied. Our nation's history has clearly proven that. Born during the resistance war against the French, the call: Solidarity, solidarity, great solidarity success, success, great success of President Ho Chi Minh has great significance to the people and is supported by the people. After that call came the contributions of people from all walks of life in all aspects. Depending on their abilities, everyone, young, old, female, male, can also participate in saving the country in their own conditions. Soldiers, civil servants, workers, farmers, children, the elderly and wealthy people both at home and abroad contributed their human and material resources to the resistance war. ... Uncle Ho's statement above is not only true in our people's revolutionary cause in the past, but also in the cause of building the country today; Not only is it true for the common cause of the entire people, but in each person's career, if they know how to unite and enlist the help of everyone around them, it will also lead to great success.
Bình luận lời dạy của Bác Hồ: Non sông Việt Nam có thở nên vẻ vang hay không … Hướng dẫn Bình luận lời dạy của Bác Hồ: Non sông Việt Nam có thở nên vẻ vang hay không … Dù Bác Hồ đá đi xa, nhưng trong trí nhớ mỗi người học sinh Việt Nam chúng ta vẫn luôn khắc sâu những lời dặn dò bao yêu thương trìu mến của Người trong ngày khai trường đầu tiên: “Non sông Việt Nam có trở nên vẻ vang hay không, dân tộc Việt Nam có được sánh vai cùng các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các cháu”. Lời dạy bảo sâu sắc thúc đẩy chúng ta hành động, nhưng trước hết, để làm tốt, học sinh chúng ta phải hiểu đúng và rõ lời dạy đó. Hiểu được thế nào là một đất nước vẻ vang thật khó, và để đưa đất nước lên vị trí vẻ vang trên thế giới càng chẳng dễ chút nào. Một đất nước được coi là vẻ vang với bạn bè năm châu là đất nước đạt được một số thành tựu cao, nổi tiếng với thế giới trong một vài lĩnh vực nào đó, có thể là kinh tế, văn hóa, hay chính trị… Việt Nam đã là một nước vẻ vang trên một mặt nào đó, nhưng Bác chưa hề muốn dừng lại ở đây. Bác còn kêu gọi chúng ta nâng cao hơn vị trí của Việt Nam trên thế giới, làm sao để Việt Nam phát triển thành một cường quốc. Như vậy, ý nghĩa của “cường quốc” mang tính chất toàn diện hơn ý nghĩa của từ “vẻ vang” rất nhiều. Một cường quốc phải là một đất nước phát triển khá toàn diện và phát huy được một số thế mạnh của đất nước đó về kinh tế, chính trị, văn hóa hay quân sự… Thế mạnh, đó phải được nâng cao hơn để có thể sánh vai với toàn thế giới. Như vậy, Bác không muốn chúng ta dừng lại, tự hào mãi với chiến thắng của mình, mà Bác còn hy vọng xây dựng, phát triển đất nước ta mạnh hơn, khá hơn về mọi mặt. Đó mới thực sự là mục đích phấn đấu của chúng ta. Chính vì không thỏa mãn quá đáng với thắng lợi của dân tộc nên ngay sau khi đất nước độc lập, Bác lại lập tức kêu gọi chúng ta bước vào một cuộc chiến đấu mới. Lời kêu gọi của Bác đem đến cho chúng ta nghị lực phấn đấu, không mệt mỏi, không chùn bước để phát huy tiềm năng đã có sẵn như tài nguyên thiên nhiên, vị trí hoàn toàn độc lập trên thế giới. Ngoài ra, nếu không chú tâm xây dựng đất nước từ ngay lúc này, thì biết đâu ngày mai, chúng ta sẽ lại phải gò lưng dưới ách nô lệ của một đế quốc mới. Để địch nổi chúng, tồn tại ngang hàng với chúng thì không còn cách nào khác là phải đưa đất nước đi lên. Suy nghĩ của Bác thật đúng đắn và sáng suốt biết bao! Và lại càng đáng quý hơn khi Bác đặt vấn đề lớn lao đó với học sinh, những người chủ mai sau của đất nước. Hơn nữa, theo Bác, việc học tập của học sinh hôm nay còn đóng góp một phần lớn cho Tổ quốc mai sau. Suy nghĩ đó của Bác thể hiện sự quan tâm sâu sắc tới thế hệ trẻ; sự đánh giá cao vị trí lớp măng non trong tương lai của đất nước. Qua đó, Bác khẳng định nhiệm vụ học tập của thế hệ trẻ hôm nay và mai sau là vô cùng quan trọng, vì nó sẽ đóng góp nhiều công việc xây dựng đất nước. Tác dụng của việc học tập đối với xây dựng đất nước chúng ta có thể thấy rất rõ qua những môn học ở nhà trường. Ví dụ, một cường quốc phát triển chính là ở các thành tựu khoa học kĩ thuật, mà để phát huy được những thành tựu ấy thì phải có kiến thức chuyên sâu về toán học, vật lí, và hóa học. Vậy nên nếu không học tốt từ bây giờ thì mai sau liệu chúng ta có thể làm được gì có ích không? Ngoài ra, việc giao lưu văn hóa, khoa học kĩ thuật kinh tế, buôn bán trao đổi với các nước trên thế giới là vô cùng cần thiết trong công cuộc phát triển đất nước, vì chúng ta phải học tập những kinh nghiệm tốt của họ, phải làm ăn với họ. Nhưng muốn thế chúng ta phải thạo ngoại ngữ, do đó phải học tập, nghiên cứu từ bây giờ. Còn biết bao các lĩnh vực khác, mà lĩnh vực nào cũng phái có kiến thức mới làm tốt được. Bởi thế, học tập là vô cùng quan trọng và cần thiết nếu muốn phát triển đất nước thành một cường quốc trên thế giới.
Commenting on Uncle Ho's teachings: Is Vietnam's rivers breathing glorious or not... Instruct Commenting on Uncle Ho's teachings: Is Vietnam's rivers breathing glorious or not... Even though Uncle Ho left us far away, in the memory of each Vietnamese student we always engrave his loving and affectionate instructions on the first day of school: "Do Vietnam's rivers become beautiful?" whether it resonates or not, whether the Vietnamese people can stand shoulder to shoulder with the great powers of the five continents or not, depends largely on your studies." Profound teachings motivate us to act, but first, to do well, we students must understand those teachings correctly and clearly. Understanding what a glorious country is is difficult, and bringing the country to a glorious position in the world is not easy at all. A country that is considered glorious with friends from all over the world is a country that has achieved some high achievements and is famous to the world in certain fields, be it economics, culture, or politics... Vietnam is already a glorious country in some ways, but Uncle Ho never wanted to stop here. He also called on us to improve Vietnam's position in the world, how to develop Vietnam into a great power. Thus, the meaning of "powerful power" is much more comprehensive than the meaning of the word "glorious". A great power must be a country that is quite comprehensively developed and can promote some of that country's strengths in economics, politics, culture or military... Strengths must be enhanced to be able to compete with the whole world. Thus, Uncle Ho does not want us to stop and be forever proud of our victory, but he also hopes to build and develop our country stronger and better in all aspects. That is truly the goal we strive for. Because of undue dissatisfaction with the nation's victory, right after the country's independence, Uncle Ho immediately called for us to enter a new fight. Uncle Ho's call gives us the strength to strive, not to get tired, not to falter, to develop our existing potential such as natural resources and a completely independent position in the world. In addition, if we do not focus on building the country from now on, then maybe tomorrow, we will have to humiliate ourselves again under the yoke of slavery of a new empire. To defeat them and exist on par with them, there is no other way than to move the country forward. How correct and wise Uncle Ho's thinking is! And it's even more precious when Uncle Ho poses that great problem to students, the future owners of the country. Furthermore, according to Uncle Ho, the learning of today's students also contributes a large part to the Fatherland in the future. Uncle Ho's thinking shows his deep concern for the young generation; appreciation of the young bamboo layer's position in the country's future. Thereby, Uncle Ho affirmed that the learning task of the young generation today and tomorrow is extremely important, because it will contribute a lot to building the country. The effects of learning on building our country can be seen clearly through subjects at school. For example, a developed power relies on scientific and technical achievements, and to promote those achievements, one must have in-depth knowledge of mathematics, physics, and chemistry. So if we don't study well now, will we be able to do anything useful in the future? In addition, the exchange of culture, science and technology, economics, and trade with countries around the world is extremely necessary in the country's development, because we must learn from the good experiences of them, must do business with them. But to do that, we must be fluent in foreign languages, so we must study and research from now on. There are so many other fields, and in every field you need to have knowledge to do well. Therefore, learning is extremely important and necessary if we want to develop the country into a world power.
Đề bài: Bình luận lời dạy của Bác Hồ: Đoàn kết đoàn kết đại đoàn kết Thành công thành công đại thành công Bài làm Đoàn kết là một truyền thống tốt đẹp lâu đời của dân tộc Việt Nam. Đoàn kết giúp nhân dân ta có đủ sức mạnh để làm nên việc lớn, để tổn tại và vượt qua những trở lực của thiên nhiên, của quân thù… Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: Đoàn kết là một sức mạnh vô địch. Vậy thế nào là đoàn kết? Đoàn kết là mọi người gắn bó, đồng tâm nhất trí với nhau thành một khối vững chắc, cùng hành động để đạt được một lí tưởng, một mục đích nhất định. Thực tế lịch sử giữ nước và dựng nước mấy ngàn năm đã cho thấy chia rẽ thì yếu, đoàn kết sẽ tạo nên sức mạnh và dẫn đến thành công. Đất nước Việt Nam có được như ngày hôm nay là nhờ tinh thần đoàn kết, thương yêu đùm bọc lẫn nhau của nhân dân ta từ Nam chí Bắc. Nhìn những con đê sừng sững chạy dài hai bên bờ sông Hồng, sông Đuống, sông Thái Bình… từ bao đời nay ngăn lũ lụt cho cả vùng đồng bằng Bắc bộ, góp phần đem lại lúa gạo nuôi sống con người, chúng ta càng thấy rõ sức mạnh của tinh thần đoàn kết. Công trình thủy điện sông Đà, đường dây cao thế xuyên Việt đưa điện đến khắp mọi nơi không thể nào hoàn thành được nếu thiếu bàn tay, khối óc của hàng ngàn kĩ sư, công nhân Việt Nam và chuyên gia nước bạn. Những giàn khoan trên biển Đông khai thác dầu mỏ làm giàu cho đất nước, nhiều công trình, nhà máy, đường sá, cầu cống được xây dựng, tất cả đều là kết quả của sức mạnh đoàn kết trong lao động tạo ra. Vào thế kỉ XIII, quân Nguyên – Mông nổi tiếng hùng mạnh, vó ngựa của chúng đã chinh phục nhiều quốc gia phương Bắc, nhưng xuống phương Nam cũng phải chùn lại ở đất nước ta. Ba lần xâm lược là ba lần chúng đại bại trước sức mạnh đoàn kết như triều dâng bão nổi của quân dân nhà Trần. Triệu người như một, đồng tâm giết giặc. Từ các vị bô lão trong hội nghị Diên Hồng đến cậu thiếu niên Trần Quốc Toản, từ Hưng Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn cho đến người thanh niên đan sọt làng Phù ủng… Cả dân tộc Đại Việt hô vang Sát Thát Hào khí nhà Trần ngút trời đã làm nên chiến thắng lừng lẫy trên sông Bạch Đằng lưu danh muôn thuở. Ở thế kỉ XX, dân tộc Việt Nam tuy bé nhỏ nhưng đã đánh bại hai đế quốc to là thực dân Pháp và đế quốc Mĩ. Nếu chỉ tính sức mạnh của một quốc gia bằng sự giàu có, bằng trình độ kĩ thuật hiện đại, bằng vũ khí tối tân, bằng số lượng binh lính… thì chúng ta quả là đã tiến hành những cuộc chiến tranh không cân sức… Nhưng dân tộc ta đã đoàn kết thành một khối bền vững, quyết tâm chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Hơn nữa, nhân dân ta đã biết tăng cường sức mạnh đoàn kết với các dân tộc yêu chuộng công lí và hòa bình trên khắp năm châu, kể cả nhân dân Pháp, Mĩ… Vì thế, chúng ta đủ sức mạnh để làm nên chiến thắng vĩ đại, giành lại chủ quyền độc lập, tự do, thống nhất đất nước. Là thành viên trong gia đình, trong lớp học, chúng ta phải làm gì để thực hiện lời dạy của Bác Hồ? Trước hết, chúng ta phải quý trọng, thường yêu ông bà, bố mẹ, anh chị em trong gia đình; phải biết tự giác làm tròn bổn phận, cùng chia sẻ vui buồn với người thân. Nếu cha mẹ, con cái không đoàn kết, hòa thuận thì không thể có được một gia đình hạnh phúc. Mỗi gia đình là một tế bào của xã hội. Gia đình có no ấm thì đất nước mới bình yên, giàu mạnh. Trong học tập, trước một bài Toán khó, nếu chúng ta cùng bạn bè trao đổi, tập trung suy nghĩ, chắc chắn sẽ có nhiều cách giải hay. Bạn học yếu được bạn khá kèm cặp, giúp đỡ sẽ mau tiến bộ, kết quả học tập của lớp sẽ được nâng cao. Chúng ta nên xây dựng tỉnh thần tương thân tương ái trong tổ, trong lớp, trong trường. Tình đoàn kết sẽ tăng thêm sức mạnh cho chúng ta trong quá trình học tập và rèn luyện nhân cách. Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết Thành công, thành công, đại thành công.
Topic: Commentary on Uncle Ho's teachings: Solidarity, great solidarity, Great success, great success Assignment Solidarity is a long-standing fine tradition of the Vietnamese people. Solidarity helps our people have enough strength to accomplish great things, to survive and overcome obstacles from nature and enemies... President Ho Chi Minh affirmed: Solidarity is an invincible strength. . So what is solidarity? Solidarity is when people stick together and agree with each other into a solid block, working together to achieve a certain ideal and goal. In fact, the history of defending and building the country for thousands of years has shown that division leads to weakness, but unity creates strength and leads to success. The country of Vietnam is what it is today thanks to the spirit of solidarity, love and mutual support of our people from South to North. Looking at the towering dikes running on both sides of the Red River, Duong River, Thai Binh River... for generations, preventing floods in the entire Northern Delta, contributing to bringing rice to feed people, we are even more clearly see the power of solidarity. The Da River hydroelectric project and the high voltage line across Vietnam bringing electricity everywhere could not have been completed without the hands and minds of thousands of Vietnamese engineers, workers and experts from other countries. Drilling rigs in the East Sea exploit oil to enrich the country, many projects, factories, roads, bridges are built, all are the result of the power of solidarity created in labor. In the 13th century, the Yuan - Mongol army was famous for its strength, their horses conquered many Northern countries, but when they went to the South, they also had to falter in our country. Three times they invaded, they were defeated three times by the united strength of the Tran dynasty's army and people. Millions of people as one, united in killing the enemy. From the elders at the Dien Hong conference to the young boy Tran Quoc Toan, from the Hung Dao king Tran Quoc Tuan to the young man weaving baskets in Phu Boot village... The entire Dai Viet nation chanted Sat That The pride of the Tran dynasty. Heaven made a famous victory on the Bach Dang River that will forever be famous. In the 20th century, although the Vietnamese people were small, they defeated two great empires, the French colonialists and the American imperialists. If we only measure the strength of a country by its wealth, by modern technology, by advanced weapons, by the number of soldiers... then we have indeed waged unequal wars... But our nation has united into a sustainable bloc, determined to fight to defend the Fatherland. Furthermore, our people have learned to strengthen their solidarity with justice and peace-loving peoples across five continents, including the people of France and America... Therefore, we are strong enough to make war. great victory, regaining sovereignty, independence, freedom, and unification of the country. As family members and in the classroom, what must we do to implement Uncle Ho's teachings? First of all, we must respect and often love our grandparents, parents, and siblings in the family; You must know how to voluntarily fulfill your duties and share joys and sorrows with your loved ones. If parents and children are not united and in harmony, it is impossible to have a happy family. Each family is a cell of society. If the family is prosperous, the country will be peaceful and prosperous. In studying, when faced with a difficult Math problem, if we discuss with friends and concentrate on thinking, there will certainly be many good solutions. If weak students are tutored and helped by good friends, they will improve quickly and the learning results of the class will improve. We should build a spirit of solidarity in the team, in the classroom, and in the school. Solidarity will strengthen us in the process of studying and cultivating our character. Solidarity, solidarity, great solidarity Success, success, great success.
Bình luận Lời tiễn dặn (trích Xống chụ xon xao) Hướng dẫn Đề:Bình luận Lời tiễn dặn (trích Xống chụ xon xao) Truyện bắt đầu từ khi chàng trai và cô gái còn nằm trong bụng mẹ. Họ cùng ra đời, cùng chơi chung từ thuở bé thơ. Đến khi lớn lên, 2 người càng trở nên thân thiết hơn. Nhưng cha mẹ cô gái chê anh nghèo không đủ tiền thách cưới, họ đã gả bán con gái mình cho một anh chàng giàu có hơn khi đang còn ở trên nương. Mối tình của chàng trai và cô gái vô cùng thắm thiết nhưng họ không đến được với nhau. Điều này nằm ngoài ý muốn của 2 người. Lễ giáo phong kiến đã làm cho tình yêu của họ tan vỡ.Nàng phải về làm dâu nhà người khi chưa được gặp mặt người yêu để nói lời từ biệt. Cô vừa đi mà vừa day dứt bồn chồn “Quảy gánh qua đồng rộng Người đẹp anh yêu cất bước theo chồng Vừa đi vừa ngoảnh lại Vừa đi vừa ngoái trông Chân bước xa lòng càng đau nhớ Em tới rừng ớt ngắt lá ớt ngồi chờ Tới rừng cà ngắt lá cà ngồi đợi Tới rừng lá ngón ngóng trông Anh tới nơi em bẻ lá xanh em ngồi Được nhủ đôi câu anh mới đành lòng quay lại Được dặn đôi lời anh yêu em mới chịu quay đi” Về nhà chồng mà tâm trạng bế tắc khổ đau, vừa ngoảnh lại vừa ngoái trông, tới rừng ớt ngắt lá ớt ngồi chờ, tới rừng cà ngắt lá cà ngồi đợi, tới rừng lá ngón ngóng trông. Qua hình ảnh lá ớt, lá cà, lá ngón toàn là những lá độc, không mang lại may mắn, ta có thể thấy niềm hi vọng được gặp lại người yêu, chỉ mong sao đây là cơn ác mộng. Chàng trai cũng không ngờ duyên tình lại tan vỡ, anh sẽ không gặp được người yêu của mình. Chàng chạy đuổi theo cô gái, gặp được cô gái, được nhủ đôi câu, được dặn đôi lời anh mới đành lòng quay đi. Quấn quanh vai ủ lấy hương người Cho mai sau lửa xác đượm hơi Một lát bên em thay lời tiễn dặn! Con nhỏ hãy đưa anh ẵm Bé xinh hãy đưa anh bồng Cho anh bế con dòng, đừng ngượng Nựng con rồng, con phượng, đừng buồn” Chàng muốn giữ lại hương thơm của cô gái bên mình, để đến lúc chết xác được nhờ hương nàng mà cháy đượm. Chàng yêu cô gái một cách chân thành, dù anh không được ở bên người mình yêu nhưng cũng mong làm cho cô hạnh phúc: nếu em có con hãy đưa anh ẵm, anh bồng, anh nựng, đừng ngượng, đừng buồn bởi con em cũng được anh thương.Chàng tiễn đưa cô gái về nhà chồng nhưng chàng không tiễn đưa mối tình của mình. Do đó tuy không lấy được nhau nhưng tình yêu không chết đi, anh vẫn không thôi ước vọng, tin vào ngày sum họp trong tương lai “Đôi ta yêu nhau, đợi đến tháng 5 lau nở Đợi mùa nước đỏ cá về Đợi chim tăng ló hót gọi hè Không lấy nhau mùa hạ, ta sẽ lấy nhau mùa đông Không lấy được nhau thời trẻ, ta sẽ lấy nhau lúc goá bụa về già” Cô gái về nhà chồng nhưng không tìm thấy hạnh phúc mà còn bị gia đình đấnh đập. Chứng kiến những lời hắt hủi, những trận đòn đau mà người yêu phải chịu, chàng trai đau đớn. Anh chẳng biết làm gì hơn để người yêu mình bớt khổ Dậy rũ áo kẻo bọ Dậy phủi áo kẻo lấm Đầu bù anh chải cho Tóc rối đưa anh búi hộ Anh chặt tre về đốt gióng đầu Chặt tre dày anh hun gióng giữa Lam ống thuốc này em uống khỏi đau” Tập tục phong kiến đã cướp đi hạnh phuc lứa đôi. Giờ đây tơ rối ta cùng phải gỡ, tơ vò ta phải vuốt lại. Anh muốn cô gái trở về cùng mình, mặc người ta nói gì, ta hãy sống với nhau, miễn đôi ta hạnh phúc. Nhưng là phụ nữ, vốn nhẫn nhịn, cam chịu, cô đâu dám bỏ nhà chồng mà trốn đi với người mình yêu.Ước vọng không thành, chỉ có cái chết mới đưa họ lại với nhau. “Chết 3 năm hình còn treo đó Chết thành sông vục nước uống mát lòng Chết thành đất mọc dây trầu xanh thắm Chết thành bèo ta trôi nổi ao chung Chết thành muôi ta múc xuống cùng bát Chết thành hồn chung một mái song song Hỡi gốc dưa yêu mọc ngoài cồn cát Nước ngập gốc đáng lụi đừng lụi Nước ngập rễ đáng bềnh đừng bềnh Đôi ta yêu nhau tình Lú-Ủa mặn nồng Lời đã trao thương không lạc mất Như bán trâu ngoài chợ Như thu lúa muôn bông Lòng ta yêu nhau trăm lớp nghìn trùng Bền chắc như vàng, như đá Yêu nhau, yêu trọn đời gỗ cứng Yêu nhau, yêu trọn kiếp đến già Ta yêu nhau tàn đời gió, không rung không chuyển Người xiểm xui, không ngoảnh không nghe” Tình Yêu có từ bao giờ??????????Không ai biết Chỉ biết rằng…. Những câu chuyện về tình yêu… …Vân được lưu truyền từ đời này qua đời khác…Như một minh chứng …Về sự trường tồn của nó…: Một truyền thuyết…hay chỉ là một jấc mơ? Con trai thần mặt trời phải giết nữ thần tuyết……Để đen đến mùa xuân cho xứ ice ocean lạnh lẽo….Nhưng chàng lại yêu chính người con gái ấy… và rồi ta nhận ra mặt trời có thể lặn,băng giá có thể tan, nhưng tình yêu thì không bao giờ chết
Comment on Farewell Advice (excerpt from Xong Chu Xon Xao) Instruct Topic:Commentary Sayings of Farewell (excerpt from Xong Chu Xon Xao) The story begins when the boy and girl were still in their mother's womb. They were born together and played together since childhood. As they grew older, the two became even closer. But the girl's parents criticized him for being poor and did not have enough money to ask for a wedding, so they sold their daughter to a richer guy while they were still in the fields. The love between the boy and the girl was extremely passionate, but they could not get together. This is beyond the wishes of the two people. Feudal rituals broke their love. She had to return to be his bride without being able to meet her lover to say goodbye. As she walked, she felt restless “Throwing the burden across the wide fields The beauty he loved followed her husband While walking and looking back As I walked, I looked back The more I step away, the more my heart aches I went to the chili forest to pick chili leaves and wait Go to the eggplant forest, cut the leaves and sit and wait Go to the forest of leaves and wait I came to the place where you broke the green leaves and sat After saying a few words, he was willing to return Only after being told a few words "I love you" did you turn away. Returning to my husband's house, I felt stuck and miserable, looking back and forth, going to the chili forest to pick chili leaves to sit and wait, to the eggplant forest to pick eggplant leaves to sit and wait, to the forest to wait and wait. Through the image of chili leaves, eggplant leaves, and finger leaves, all of which are poisonous and do not bring luck, we can see the hope of seeing our lover again, hoping that this is a nightmare. The boy also did not expect that his love would be broken and he would not be able to meet his lover. He ran after the girl, met the girl, was told a few words, and was told a few words before he could bear to turn away. Wrap around your shoulders and embrace your scent For tomorrow, the fire will be full of steam Just a moment with you to say goodbye! Please give me the baby to hold Pretty baby, please let me hold you Let me hold the baby, don't be shy Pet the dragon and phoenix, don't be sad." He wanted to keep the girl's scent with him, so that when he died, his body would burn with her scent. He loves the girl sincerely, even though he can't be with the person he loves, he still wants to make her happy: if you have a child, let me hold it, I'll hold it, I'll cherish it, don't be embarrassed, don't be sad because of your child. He also loved him. He sent the girl off to her husband's house, but he did not see off his love. Therefore, even though they could not get married, their love did not die. He still did not stop wishing and believing in a future reunion. “We love each other and wait until May to bloom Waiting for the red water fish season to return Waiting for the monk bird to appear and call for summer If we don't get married in the summer, we will get married in the winter If we can't get married when we're young, we'll get married when we're widowed when we're old." The girl returned to her husband's house but did not find happiness and was beaten by her family. Witnessing the rejection and painful beatings that his lover had to endure, the young man was in pain. He didn't know what else to do to make his lover less miserable Get up and shake your clothes to avoid bugs Get up and brush your shirt so it doesn't get dirty I'll comb your hair for you Her hair was tangled and she let him tie it in a bun He cut bamboo to burn the ends Chop thick bamboo and make a rod in the middle Take this medicine and take it to relieve the pain." Feudal customs have robbed couples of happiness. Now we have to untangle the tangled threads, we have to straighten the tangled threads. I want the girl to come back to me, no matter what people say, let's live together, as long as we're happy. But as a woman, who is patient and resigned, she does not dare to leave her husband's house and run away with the person she loves. Her wish is not fulfilled, only death can bring them together. “After 3 years of death, the picture still hangs there Death becomes a river of refreshing drinking water Dying, the land grows green betel vines When we die, we become duckweed and float in the common pond When we die, we scoop it down into the same bowl Dead souls share a parallel roof Dear melon tree growing on the sand dunes If the water floods the roots, it should perish, don't perish The water covers the roots and should not float We love each other with a passionate Lu-Ua love The words given are not lost Like selling buffalo at the market Like harvesting rice with many flowers Our hearts love each other hundreds of thousands of times Durable like gold, like stone Love each other, love hardwood forever Love each other, love each other forever until old age We love each other forever and ever, not shaken or moved Unlucky people don't turn around and don't listen." Since when did Love exist??????????No one knows Just know that…. Stories about love… …Van is passed down from generation to generation…As a proof…of its longevity…: A legend...or just a dream? The son of the sun god had to kill the snow goddess... To bring spring to the cold ice ocean... But he loved that girl... and then we realise The sun may set, the ice may melt, but love never dies
Bình luận nghệ thuật châm biếm đả kích trong truyện Vi hành của Nguyễn Ái Quốc Hướng dẫn Bình luận nghệ thuật châm biếm đả kích trong truyện Vi hành của Nguyễn Ái Quốc Hồ chí Minh không chỉ là một vị lãnh tụ của đất nước mà còn là một nhà thơ xuất sắc và đầy lòng nhân ái. Chúng ta luôn khâm phục người vì đã để lại cho nhân loại một khối lượng thơ văn khá là đồ sộ, có tầm ảnh hưởng lớn. Và vi hành là một trong những truyện ngắn xuất sắc nhất của Nguyễn Ái Quốc viết vào năm 1923,nằm trong loạt các tác phẩm nói lên sự đả kích,châm biếm ở chuyến sang pháp của vua Khải Định. Chuyện kể về một đôi trái gái người Pháp đã tìm thấy được nhân vật tôi chính là người kể chuyện đó là một người An Nam nên họ lại tưởng đó là vua Khải Định và họ xem hắn giống như một trò để mua vui giải trí rẻ tiền. Xuyên suốt cả một hành trình câu chuyện đó chính là sự đả kích châm biếm sâu sắc của tác giả. Nghệ thuật châm biếm được thể hiện ngay từ đầu tác phẩm khi mà tác giả cố tạo tình huống để cố gây sự nhầm lẫn. Đó là một đôi nam nữ người Pháo ở trên tàu điện ở Pari, họ tưởng Bác là nhân vật tôi ở trong câu chuyện vua Khải Định bởi họ cứ tưởng những người da vàng ở trên đất nước pháp lại là tên vua đó. Điều nực cười hơn nữa đó chính là họ mời vua khải định sang nhưng họ lại không biết được vua Khải Định là ai. Nhưng sự nhầm lẫn đó lại càng thú vị hơn khi được nghe câu chuyện của đôi trai gái đó nói đến hình tượng của một ông vua trong con mắt của người khác là như thế nào. Sự nhầm lẫn này chính là biện pháp nghệ thuật cơ bản nhất của cả câu chuyện. Tình huống câu chuyện quả thực là độc đáo, nó khiến cho cả câu chuyện hài hước và giàu kịch tính, tạo lên được sự châm biếm đả kích sâu sắc. Không nhất thiết là nhân vật trong câu chuyện được xuất hiện, chỉ cần ghi lại cuộc trò chuyện của đôi trai gái người Pháp nhưng mà chân dung của tên vua đó lại hiện lên thực sự rất rõ nét. Đó là một ông vua bù nhìn, không khác gì một con rối rẻ tiền. Bên cạnh đó thì tác giả cũng châm biếm được một cách nhẹ nhàng nhất, hóm hỉnh nhất về tính hiếu kì của người dân Pari, nhìn thì có vẻ cười cợt nhưng phía sau đó là đòn đã kích mãnh liệt sâu cay, khinh bỉ đối với kẻ thù của đất nước “Đúng lúc đó thì có một anh vua đến với chúng ta”hoặc là “Thế em còn nhớ buổi dạ hội thuộc địa ở nhà hát ca vũ đấy chứ? Phải trả gần rưỡi phrặng để xem vợ lẽ nàng hầu vua Cao Miên…” “ hôm nay chứng mình có mất tí tiền nào đâu mà được xem vua đang ngay cạnh. Nghe nói ông bầu nhà hát múa rối dang định ki giao kèo thuê đấy…. ”. Những câu nói này thể hiện sự lố bịch và sự ngu dốt của tên vua Khải Định. Những câu này không chỉ nói lên sự ngu dốt đó mà còn có tác dụng khái quát sâu sắc trong nghệ thuật châm biếm của Nguyễn Ái Quốc. Dưới hình thức viết thư thì một lần nữa tính cách của tên vua lại được hiện lên đó là một tên ăn chơi trác tán và nhà văn đã mỉa mai châm biếm bản chất tính cách này của vị hoàng đế bằng những dấu chấm hỏi lớn như là “ngoài vi hành phải chăng vì đã chán cuộc đời ông vua to muốn nếm thử cuộc đời công tử bé, ngài để hết hành lý ở hiệu cầm đồ không mang theo tùy tùng để xuất hiện những nơi không lấy gì làm cao thượng. Ngài vi hành phải chăng ngài muốn được xem người dân Pháp có uống nhiều rượu cồn và thuốc phiện như người dân An Nam dưới quyền cai trị của ngài” Nguồn: Bài văn hay
Commentary on the satirical art of criticism in the story Vi Hanh by Nguyen Ai Quoc Instruct Commentary on the satirical art of criticism in the story Vi Hanh by Nguyen Ai Quoc Ho Chi Minh was not only a leader of the country but also an excellent and compassionate poet. We always admire him for leaving humanity a rather large and influential volume of poetry. And behavior is one of the best short stories written by Nguyen Ai Quoc in 1923, in a series of works expressing criticism and satire on King Khai Dinh's trip to France. The story is about a French couple who found out that the character I am the narrator of the story was an Annamese, so they thought he was King Khai Dinh and they saw him as a cheap entertainer. money. Throughout the entire journey of the story is the author's profound satirical attack. The art of satire is shown right from the beginning of the work when the author tries to create a situation to try to cause confusion. It was a couple of Phao ethnic people on the train in Paris. They thought Uncle Ho was the character in the story of King Khai Dinh because they thought the yellow-skinned people in France were that king. What's even more ridiculous is that they invited King Khai Dinh to come but they didn't know who King Khai Dinh was. But that confusion becomes even more interesting when hearing the story of that couple talking about what the image of a king in the eyes of others is like. This confusion is the most basic artistic device of the whole story. The story situation is truly unique, it makes the whole story humorous and dramatic, creating a deep satirical attack. It is not necessary that the characters in the story appear, just record the conversation of the French couple, but the portrait of that king appears really clearly. It was a puppet king, no different from a cheap puppet. Besides that, the author also satirized in the gentlest and wittiest way the curiosity of the people of Paris. At first glance, it seemed to be a joke, but behind it was a strong, bitter and contemptuous blow to the people of Paris. to the country's enemies: "At that moment, a king came to us" or "Do you still remember the colonial ball at the theater and dance?" I had to pay nearly half a franc to see the king's concubine serving the King of Cambodia..." "Today, I can see that I didn't have to pay any money to see the king right next to me. I heard that the puppet theater manager is planning to sign a lease... ”. These sayings show the ridiculousness and ignorance of King Khai Dinh. These sentences not only express that ignorance but also have a profound generalizing effect in Nguyen Ai Quoc's satirical art. In the form of a letter, the king's personality is once again revealed as a debauchery and the writer ironically satirizes this nature of the emperor's personality with big question marks like "In addition to the reasonable behavior, because he was bored with the life of a big king and wanted to taste the life of a little boy, he left all his luggage at the pawnshop without bringing his entourage to appear in places that were not noble. Do you want to see if the French people drink as much alcohol and opium as the people of Annam under your rule? Source: Good article
Đề bài: Viết bài bình luận ngắn về tai nạn giao thông ở nước ta hiện nay. Bài làm Trong lĩnh vực tai nạn giao thông, thần chết là một kẻ mù lòa, không hề phân biệt người tốt và kẻ xấu khi đưa ngang lưỡi hái vào mạng sống của ai đó. Nhất là khi thần chết đồng hành cùng những “sát thủ” trên đường phố. Bình luận ngắn về tai nạn giao thông ở nước ta hiện nay Thần chết trao lưỡi hái cho những trai tráng đi xe máy hung hăng đánh võng lạng lách, vượt ẩu trên đường phố. Những kẻ hoặc không biết luật hoặc không thèm ngoài việc “khủng bố” người đi đường bằng những cú vượt phải, tạt qua sát sạt trên đầu xe người đi đường khác, gây ớn lạnh sống lưng và lấy nỗi khung khiếp của kẻ khác làm khoái cảm… Rõ ràng, ngoài những hạn chê khách quan thì ý thức còn hết sức non kém của một số người dân Việt Nam khi tham gia giao thông đang là nguyên nhân quan trọng cướp đi sinh mạng của nhiều người. Tiếc thay, đó hầu hết lại là những trai tráng. Theo thống kê của UNICEF, năm 2004, hầu hết các ca tử vong ở tuổi 15-19 đều là người đi xe máy! Đó là sự tổn thương quá lớn cho lực lượng lao động của đất nước. Lực lượng ấy lẽ ra phải bắt đầu gánh lấy trách nhiệm công dân và gia đinh, làm ra của cải và đem lại sự phồn vinh cho gia đình và xã hội. Nếu chúng ta muốn có hạnh phúc và gặt hái được nhiều qua hội nhập, nếu chúng ta tự hào rằng Việt Nam mến khách, thì mỗi người hãy tự điều chỉnh mình, trước hết là tự cứu mình và cứu người, đem sự an toàn ra đãi mình và đãi khách bằng sự cẩn trọng khi tham gia giao thông. Chúng ta cần một chương trình truyền thông hiệu quả hơn để “những lưỡi hái từ thần” không còn nghênh ngang trên đường phố!
Topic: Write a short commentary on traffic accidents in our country today. Assignment In the field of traffic accidents, the angel of death is a blind man who does not distinguish between good and bad people when he puts his scythe into someone's life. Especially when the god of death accompanies the "assassins" on the streets. Short comment on traffic accidents in our country today The god of death gives a scythe to young men riding motorbikes, aggressively swinging and passing recklessly on the streets. Those who either don't know the law or don't care to "terrorize" pedestrians by overtaking right, swerving closely on top of other pedestrians' vehicles, causing chills down the spine and taking advantage of others' terror. pleasure… Obviously, in addition to objective limitations, the extremely poor awareness of some Vietnamese people when participating in traffic is an important cause of many people's lives. Unfortunately, those are mostly young men. According to UNICEF statistics, in 2004, most deaths at the age of 15-19 were motorcyclists! That is too great a loss for the country's workforce. That force should have begun to take on civic and family responsibilities, create wealth and bring prosperity to families and society. If we want to be happy and gain a lot through integration, if we are proud that Vietnam is hospitable, then each person should adjust themselves, first of all to save themselves and others, to bring safety. Treat yourself and guests by being careful when participating in traffic. We need a more effective communication program so that "scythes from the gods" no longer roam the streets!
Bình luận nhận định: Sự tha hóa của Chí Phèo là hiện tượng mang tính chất quy luật Hướng dẫn Bình luận nhận định: Sự tha hóa của Chí Phèo là hiện tượng mang tính chất quy luật Bài làm Nam Cao là một nhà văn bậc thầy chuyên viết truyện ngắn và các tác phẩm văn xuôi. Người ta nhớ đến tác phẩm của ông là nhờ giá trị nhân đạo sâu sắc cùng cách xây dựng diễn biến tâm lí nhân vật độc đáo, sáng tạo. Tiêu biểu nhất trong các nhân vật ông từng gây dựng đó chính là Chí Phèo – một kẻ có tâm lí phức tạp. Chí Phèo chính là hiện thân của nông nghèo thời xưa, cuộc sống nghèo đói, khó khăn bị áp bức bóc lột đến cùng cực khiến con người ta bị tha hóa, biến chất. Có một nhận định cho rằng: “ sự tha hóa của nhân vật Chí Phèo là hiện tượng mang tính chất quy luật”, qua truyện ngắn cùng tên của nhà văn Nam Cao, ta đã thấy được sự đúng đắn và logic của nhận định trên. Sự tha hóa của một con người có thể được hiểu là sự biến đổi về tâm lí, tính cách, nhân phẩm từ tốt sang xấu. Nguyên nhân gây nên sự tha hóa đó có thể là do điều kiện ngoại cảnh, gia đình, xã hội… hoặc do bản chất bên trong mỗi con người thay đổi. Chí Phèo chính là một minh chứng rõ ràng của sự tha hóa do ngoại cảnh, cuộc sống nghèo đói, xã hội bất công đã đẩy hắn vào con đường sa đọa, sai trái. Quá trình tha hóa, biến chất của Chí Phèo diễn ra theo quy luật: từ một người nông dân lương thiện, hắn trở thành một tên lưu manh, rồi sau cùng là một quy dữ đội lốt người. Xã hội phong kiến đầy những định kiến, những con người độc ác trong xã hội đã đẩy Chí Phào vào bước đường cùng. Trở về sau những năm tháng tù giam, Chí Phèo trở lại xã hội nhưng lại không được mọi người công nhận. Mang một hình hài gớm ghiếp “ cái đầu trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen mà rất câng câng”, đi đến đâu cũng bị mọi người xua đuổi, xa lánh. Chìm trong cơn say triền miên, đi đâu hắn cũng chửi bới, ăn vạ, dọa nạt kẻ khác, đích thị là một kẻ lưu manh bị mọi người ghen ghét. Thế rồi trong cơn say, hắn tìm đến nhà Bá Kiến để ăn vạ, quấy rối. Để rồi từ đây, cuộc sống của hắn trở thành cuộc sống của một con quỷ dữ đội lốt người. Đến nhà Bá Kiến, bị lí Cường mắng cho mấy câu, hắn liền nằm ngay ra đất ăn vạ, đập cái chai vào cổng, lấy mảnh vỡ tự rạch mặt mình rồi nằm đó rên ư ử. Chi đến khi cụ ông về, bằng những lời nịnh nọt ngon ngọt mà Chí Phèo đã trở thành tay sai dưới chướng của Bá Kiến. Hắn đích thị trở thành một tên đâm thuê chém mướn, ai sai gì thì làm nấy, phá hoại không biết bao nhiêu của cải, vật chất của làng Vũ Đại. Cứ như thế, Chí Phèo trượt dài trên sự tha hóa, bản thân thì bị hủy hoại, nhân cách thì ngày càng độc ác, tàn nhẫn, sống một cuộc sống bị mọi người xa lánh, ghét bỏ. Chính xã hội bất công cùng sự hiểm độc của bọn địa chủ, cường hào đã đẩy Chí Phèo vào những bước đường cùng. Qua đây, ta có thể thấy được cuộc sống khổ cực, bị áp bức bóc lột của nông dân nghèo thời xưa, đồng thời Nam Cao cũng muốn tố cáo sự áp bức, bất công của giai cấp tư quyền thời phong kiến. Những tưởng cuộc đời của Chí Phèo sẽ trượt dài, chỉ toàn là những tăm tối, khổ đau thì bằng lòng nhân đạo sâu sắc, tác giả đã cho Chí Phèo cơ hội giác ngộ và làm lại con người. Cuộc gặp gỡ của Chí với Thị Nở, một người đàn bà xấu xí và ế chồng, đã thức tỉnh phần “người” trong con quỷ đó. Chí Phèo sau đêm say rượu, ăn nằm với Thị Nở đã nảy sinh tình cảm, những ước mơ đẹp đẽ cứ hiện lên trong đầu hắn. Hắn muốn trở lại làm người, muốn được lương thiện, muốn có một cuộc sống êm đềm, gia đình nho nhỏ cùng những đứa con sinh đẹp. Lần đầu tiên trong đời có người cho không hắn cái gì, đối xử với hắn tốt như vậy, chính điều này đã khiến hắn bừng tỉnh, không muốn trượt dài trên con đường tha hóa nữa. Nhưng số phận lại một lần nữa trêu đùa với hắn, sự dở hơi của Thị Nở cùng định kiến của xã hội xưa đã khiến hai người họ chẳng thể đến được với nhau. Chí Phèo bị Thị Nở từ chối trở nên đau khổ, uất hận tột cùng. Hắn nhận ra một điều là mình không thể trở lại làm người được nữa, cái xã hội này không công nhận hắn, không ai cho hắn được lương thiện. Rồi như để kết thúc tất cả, hắn đã chọn phương án tiêu cực và bi kịch nhất đó chính là giết chết Bá Kiến và tự sát. Đây cũng giống như một sự giải thoát cho một kiếp người đau khổ, dấu chấm hết của một con người tha hóa, biến chất.
Commentary comments: Chi Pheo's corruption is a regular phenomenon Instruct Commentary comments: Chi Pheo's corruption is a regular phenomenon Assignment Nam Cao is a master writer specializing in writing short stories and prose works. People remember his work thanks to its profound humanitarian values ​​and the unique and creative way of building the psychological development of characters. The most typical of the characters he has created is Chi Pheo - a person with a complex psychology. Chi Pheo is the embodiment of ancient poverty, a life of poverty, hardship, oppression and exploitation to the extreme, causing people to be corrupted and degenerated. There is an opinion that: "The alienation of the character Chi Pheo is a regular phenomenon", through the short story of the same name by writer Nam Cao, we have seen the correctness and logic of the above statement. . The corruption of a person can be understood as a change in psychology, personality, and dignity from good to bad. The cause of that alienation can be due to external conditions, family, society... or due to the internal nature of each person changing. Chi Pheo is a clear example of the corruption caused by external circumstances, poverty, and social injustice that pushed him down the wrong path. The process of Chi Pheo's corruption and metamorphosis takes place according to the rules: from an honest farmer, he becomes a scoundrel, and finally a devil in disguise. Feudal society is full of prejudices, and cruel people in society have pushed Chi Phao to a dead end. Returning after years of imprisonment, Chi Pheo returned to society but was not recognized by everyone. Having a hideous appearance "a bald head, white shaved teeth, a black but very plump face", wherever he goes, he is chased away and shunned by everyone. Drowning in constant drunkenness, wherever he went he cursed, berated, and threatened others. He was truly a scoundrel who was hated by everyone. Then, in a drunken stupor, he went to Ba Kien's house to harass and harass her. From here on, his life became the life of a demon in human form. When he arrived at Ba Kien's house, Li Cuong scolded him a few times. He immediately lay down on the ground, broke the bottle against the gate, used the shards to cut his own face, and then lay there moaning. Until the old man returned, with sweet flattery words, Chi Pheo became Ba Kien's underdog henchman. He truly became a hired killer, doing whatever he did wrong, destroying countless properties and materials of Vu Dai village. Just like that, Chi Pheo slid down the path of corruption, himself was destroyed, his personality became increasingly cruel and cruel, living a life that was shunned and hated by everyone. It was the unjust society and the malice of the landlords and tyrants that pushed Chi Pheo into the dead end. Through here, we can see the miserable, oppressed and exploited lives of poor farmers in ancient times. At the same time, Nam Cao also wants to denounce the oppression and injustice of the feudal capitalist class. Thinking that Chi Pheo's life would slide down, filled with only darkness and suffering, with deep humanity, the author gave Chi Pheo the opportunity to become enlightened and become a human again. Chi's meeting with Thi No, an ugly and unmarried woman, awakened the "human" part of that demon. Chi Pheo, after a drunken night of sleeping with Thi No, developed feelings and beautiful dreams kept appearing in his mind. He wants to become human again, wants to be honest, wants to have a peaceful life, a small family and beautiful children. For the first time in his life, someone gave him something for free and treated him so well. This made him wake up and not want to slide down the path of corruption anymore. But fate once again teased him, Thi No's stupidity and the prejudices of ancient society made it impossible for the two of them to be together. Chi Pheo was rejected by Thi No and became extremely miserable and resentful. He realized one thing that he could no longer become a human again, this society did not recognize him, no one would let him be honest. Then, as if to end it all, he chose the most negative and tragic option, which was to kill Ba Kien and commit suicide. This is like a liberation for a painful human life, the end of an alienated and degenerated human being.
Bình luận phân tích Ý nghĩa câu tục ngữ Kiến tha lâu cũng đầy tổ Hướng dẫn Bình luận phân tích Ý nghĩa câu tục ngữ Kiến tha lâu cũng đầy tổ Ngoài kho tàng câu da cao, thành ngữ, ngạn ngữ nổi tiếng thì chúng ta còn có một kho tàng về tục ngữ rất phong phú. Có thể nói rằng cha ông ta không chỉ sử dụng những câu ca dao để truyền tải những tư tưởng đạo lí mà họ còn khéo léo dùng những câu tục ngữ súc tích ngắn gọn để truyền tải một ý nghĩa nào đó và những câu tục ngữ đó vẫn còn có ý nghĩa mãi cho tới ngày nay. Một trong những câu tục ngữ chúng ta muốn nói đến ở đây đó chính là câu “kiến tha lâu cũng đầy tổ”. Theo như nghĩa đen thì chúng ta thấy được kiến là một con vật nhỏ bé và yếu ớt biết nhường nào,nó chỉ mong manh gió thổi cũng có thể làm bay được. Là một sinh vật sống ở dưới đất hoặc ở trên các cành cây. Hoạt động của nó là tha thức ăn về tổ,tuy chúng nhỏ bé là vậy nhưng mà chúng rất chăm chỉ cần mẫn trong công việc của mình. Chính sự kiên trì đó đã giúp cho nó tha được thức ăn nhanh đầy tổ của mình. Vậy chúng ta phải hiểu được ông cha ta muốn nói gì ở loài sinh vật này hay chỉ đơn thuần là một câu nói theo nghĩa đen. Trước hết sự chăm chỉ cần mẫn ấy rất cần trong công việc học tập. Những tri thức lớn lao về vũ trụ chúng ta phải mất cả một đời để nghiên cứu chứ không thể là ngày một ngày hai hay là tiếp thu một cách sơ sài nhanh chóng được. Thế cho nên chúng ta rất cần sự kiên trì và nhẫn nại đến cùng, có khó khăn đến đâu thì cũng không được làm cho bản thân nản chỉ. Ông cha ta đã từng có câu:cần cù bù thông minh hay có công mài sắt có ngày nên kim. Thật đúng như vậy, câu nói ấy nhằm dạy cho chúng ta một đức tính kiên trì trong học tập. Còn trong bất kì một công việc gì thì chúng ta cũng phải chăm chỉ. Cuộc sống xoay quanh chúng ta vốn còn có những khó khăn trước mắt nhưng không được gục ngã mà chúng ta phải kiên trì để vượt qua. Cuộc sống từ khi sinh ra chúng ta đều có đau khổ và hạnh phúc không ai giống ai, đó là do tạo hóa sinh ra.giống như việc chẳng có thành công nào mà rải toàn hoa hồng cả, chúng ta phải đi qua những chông gai khó khăn rồi mới mong có được thành công cho bản thân.Chính vì vậy mà chúng ta cần phải kiên trì vì nếu không có sự kiên trì, không có niềm tin thì chúng ta không thể nào vượt qua được những chông gai ấy. Nguồn: Bài văn hay
Analytical commentary The meaning of the proverb Even long ants have full nests Instruct Analytical commentary The meaning of the proverb Even long ants have full nests In addition to the treasure trove of famous sayings, idioms, and proverbs, we also have a very rich treasure trove of proverbs. It can be said that our ancestors not only used folk songs to convey moral thoughts, but they also skillfully used short, concise proverbs to convey a certain meaning. That still has meaning to this day. One of the proverbs we want to talk about here is the saying "if ants stay long enough, their nest will be full". Literally, we see how small and weak an ant is, it can only be blown away by the wind. An organism that lives on the ground or on tree branches. Its activity is to bring food back to the nest. Even though they are small, they are very diligent in their work. It is that perseverance that helps it to quickly fill its nest with food. So we must understand what our ancestors meant by this creature or is it simply a literal statement. First of all, hard work is very necessary in studying. Great knowledge about the universe takes a lifetime to research and cannot be acquired in a day or two or quickly absorbed. That's why we really need perseverance and patience to the end. No matter how difficult it is, we must not discourage ourselves. Our ancestors once had a saying: if you work hard, you'll make money. That's right, that saying aims to teach us the virtue of perseverance in learning. In any job, we must work hard. Life revolves around us and there are still difficulties ahead, but we must not give up, we must persevere to overcome them. From the moment we are born, we all have suffering and happiness like no other, it is created by nature. Just like there is no success that is full of roses, we have to go through difficulties. Only after difficulties can we hope to achieve success for ourselves. That's why we need to persevere because without perseverance and faith, we cannot overcome those difficulties. Source: Good article
Bình luận quan niệm của Nguyễn Trãi về nhân nghĩa trong câu thơ sau – Đề và văn mẫu 8 Hướng dẫn “Việc nhăn nghĩa cốt ở yên dân Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”. (Bình Ngô đại cáo) Bài làm Nguyễn Trãi là nhà quân sự tài ba, nhà tư tưởng lớn của dân tộc Việt Nam. Cuộc đời ông hiến trọn cho dân, cho nước, cho cuộc khởi nghĩa anh dũng trường kì chống quân Minh xâm lược. Sau khi đuổi giặc ra khỏi bờ cõi, Nguyễn Trãi thay mặt Lê Lợi viết “Bình Ngô đại cáo” để tuyên bố rộng rãi với toàn dân sự kiện lịch sử trọng đại này. Chiến thắng vang dội được ông tổng kết bằng hai câu thơ nhẹ nhàng mà tràn đầy tình người: “Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”. Cùng với hai câu thơ ấy, tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi đã rực sáng và sống mãi với thời gian. Hai câu thơ có ý nghĩa vô cùng sâu sắc. Nhân là thương người, trọng người, nghĩa là theo lẽ phải. Thương muôn người, trọng muôn người, đó là lòng thương dân. Lòng yêu nước gắn chặt với lòng thương dân và cùng xuất phát từ nhân nghĩa. Vậy nhân nghĩa chính là lẽ phải. Yêu nước, thương dân phải làm cho dân no đủ, hạnh phúc. Muốn vậy, người lãnh đạo đất nước phải có lòng thương xót dân chúng (điếu) bị áp bức tàn hại mà đem binh đánh kẻ có tội với dân (phạt). Việc cầm gươm, khiến quân chỉ nhằm mục đích diệt bọn tàn ác, đem lại thái bình cho nhà nhà, người người. Đạo quân ấy là đạo quân của chính nghĩa, tư tưởng ấy là tư tưởng của đạo lí. Quả thật, hai câu thơ của Nguyễn Trãi đã thể hiện một tư tưởng tiến bộ, tích cực, phù hợp với đạo lí của dân tộc. Xưa kia, nước ta ảnh hưởng nền Nho giáo của Trung Quốc, mỗi người đọc sách Thánh hiền đều biết đến “ngũ thường” (năm điều rèn luyện): nhân, lễ, nghĩa, trí, tín. Trong đó nhân nghĩa được đặt lên hàng đầu, khẳng dịnh tầm quan trọng lớn lao của nó. Ta thấy rõ tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi đề cao tuyệt đối lòng yêu nước thương dân, đặt lợi ích của nhân dân lên hàng đầu. Như vậy, Nguyễn Trãi đã cụ thể hóa một nguyên tắc lãnh đạo đất nước “lấy dân làm gốc”. Nhờ thế, ông đã tập hợp được sức mạnh của toàn dân, sức mạnh của đoàn kết, sức mạnh của “nghĩa lớn”, “chí nhân”. Trong “Bình Ngô đại cáo” ông viết: “Đem đại nghĩa để thắng hung tàn Lấy chí nhân để thay cường bạo”. “Nghĩa lớn” thắng “hung tàn”, “chí nhân” thay “cường bạo”. Lời khẳng định mạnh mẽ ấy chứng tỏ Nguyễn Trãi đã áp dụng có hiệu quả lời dạy của cổ nhân. Tư tưởng nhân nghĩa của ông vừa ôn hòa, vừa mạnh mẽ, thuyết phục. Dùng nó làm mũi nhọn tiến công, Nguyễn Trãi đã thực hiện được hoài bão cuộc đời mình: làm gì cho dân bớt khổ. Mười năm kháng chiến gian khổ “nằm gai nếm mật”, dưới sự lãnh đạo của ông và Lê Lợi, nghĩa quân Lam Sơn đã đánh tan quân thù, đem đến hạnh phúc, yên ổn cho nhân dân, thái bình cho đất nước. Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi đem đến sự sống là như thế! Đây là một tư tưởng có giá trị muôn đời. Chẳng những thế, Nguyễn Trãi còn thể hiện chí hòa bình, thông cảm với nỗi khổ của nhân dân hai nước. Bằng tấm lòng đã rung cảm, ông hiểu rằng những người lính trong hàng ngũ đội quân xâm lược cũng chỉ là những người dân lương thiện, bình thường, hơn nữa là nạn nhân chiến tranh dưới bàn tay quyền lực của bọn thống trị. Ông thông cảm với nỗi khổ đau của người mẹ mất con, người vợ mất chồng. Bởi vậy, ông đem nhân nghĩa để “hòa hiếu thật lòng”, không hiếu sát mà mục đích là “trừ bạo yên dân”. Khi kẻ thù buông giáo đầu hàng, ông lại đem nhân nghĩa “mở đường hiếu sinh”, tha cho tướng giặc bị cầm tù, làm cho chúng vừa nể phục vừa khiếp sợ: “Thần vũ chẳng giết hại, thể lòng trời ta mở đường hiếu sinh”, Mã Kì, Phương Chính cấp cho năm trăm chiếc thuyền, ra đến biển mà vẫn hồn bay phách lạc. Vương Thông, Mã Anh phát cho vài nghìn cỗ ngựa, về đến nước mà vẫn tim đập, chân run! “Chẳng những mưu kế kì diệu Cũng là chưa thấy xưa nay”. Với tư tưởng nhân nghĩa đúng đắn như thế, ông đã cùng Lê Lợi lãnh đạo cuộc kháng chiến vượt qua trăm ngàn gian khổ đến thắng lợi vẹn toàn. Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi rất tiến bộ, nó thể hiện được cái nhìn sâu rộng, tấm lòng nhân ái của người anh hùng như Lê Thánh Tông đánh giá: “Ức Trai tâm thượng quang khuê báo”. Tuy nhiên, lịch sử không chỉ có chiến thắng của Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung mà còn có những thất bại đau thương đưa đất nước vào vòng nô lệ. Vì không biết dựa vào dân, lấy dân làm gốc nên nhà Hồ, nhà Nguyễn đã sụp đổ thảm hại. Từ bài học xương máu đó ta mới thấy hết giá trị của tư tưởng nhân nghĩa. Phát huy truyền thống nhân nghĩa của dân tộc, Đảng ta và Bác Hồ kính yêu đã lãnh đạo nhân dân ta đánh tan giặc Pháp, giặc Mĩ, làm nên chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ và chiến thắng mùa xuân 1975. Nguyễn Trãi thật là vị anh hùng dân tộc văn võ song toàn. Cùng với “Cáo bình Ngô” và tư tưởng nhân nghĩa cao đẹp, ông sống mãi trong trí nhớ và tình cảm nhân dân Việt Nam như Nguyễn Mộng Tuân đã ca ngợi” “Kinh bang hoa quốc cổ vô tiền” (Dựng nước và làm đẹp cho nước xưa nay không ai hơn ông). Ngày nay, trong công cuộc xây dựng, đổi mới, giữ gìn đất nước, tư tưởng lấy dân làm gốc lại có tác dụng mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Tags:Văn 8
Comment on Nguyen Trai's concept of humanity in the following verse - Topic and sample essay 8 Instruct “The main thing to do is to keep the people at peace The military accepts punishment first and worries about eliminating violence." (Binh Ngo great announcement) Assignment Nguyen Trai is a talented military leader and great thinker of the Vietnamese people. His life was dedicated to the people, to the country, and to the long heroic uprising against the invading Ming army. After expelling the enemy from the land, Nguyen Trai, on behalf of Le Loi, wrote "Binh Ngo Dai Cau" to widely announce to the entire people this important historical event. He summarized his resounding victory in two gentle verses full of human love: “The act of kindness consists in keeping the people at peace The military accepts punishment first and worries about eliminating violence." Along with those two verses, Nguyen Trai's philanthropic thought shone brightly and lived forever. These two verses have extremely profound meaning. Humanity means loving people, respecting people, which means following reason. Loving all people, respecting all people, that is compassion for the people. Patriotism is closely linked to love for people and comes from humanity. So humanity is righteousness. Loving the country and loving the people must make the people well-off and happy. To do so, the leader of the country must have compassion for the oppressed and brutalized people (die) and use soldiers to fight those who have sinned against the people (punishment). Holding the sword and commanding troops is only for the purpose of destroying the cruel people and bringing peace to the home and people. That army is the army of justice, that ideology is the ideology of morality. Indeed, Nguyen Trai's two verses express a progressive, positive ideology, in accordance with the nation's morality. In the past, our country was influenced by China's Confucianism. Every person who read the book of Sages knew about the "five constants" (five trainings): benevolence, propriety, righteousness, wisdom, and faith. In which humanity is placed first, affirming its great importance. We clearly see that Nguyen Trai's ideology of humanity absolutely emphasizes patriotism and love for the people, putting the people's interests first. Thus, Nguyen Trai has concretized a principle of leading the country "taking the people as the foundation". Thanks to that, he gathered the strength of the entire people, the strength of solidarity, the strength of "great cause" and "compassion". In "Binh Ngo Dai Cao" he wrote: “Use great justice to overcome cruelty Use kindness to replace violence." “Great meaning” wins over “cruelty”, “merciful” replaces “violent”. That strong assertion proves that Nguyen Trai has effectively applied the teachings of the ancients. His benevolent ideology is both peaceful, strong and convincing. Using it as a spearhead to attack, Nguyen Trai has fulfilled his life's ambition: to do something to reduce suffering for the people. Ten years of arduous resistance, under the leadership of him and Le Loi, the Lam Son insurgent army defeated the enemy, bringing happiness and peace to the people and peace to the country. That's how Nguyen Trai's benevolent thought brings life! This is a thought that has eternal value. Not only that, Nguyen Trai also showed his will for peace and sympathy for the suffering of the people of the two countries. With a touched heart, he understood that the soldiers in the ranks of the invading army were just honest, ordinary people, and moreover, victims of war under the powerful hands of the rulers. He sympathized with the suffering of a mother who lost her child and a wife who lost her husband. Therefore, he used benevolence to "genuinely be filial and filial", not to be filial but to "eliminate tyranny and calm the people". When the enemy surrendered, he used kindness to "pave the way of love and life", forgiving the imprisoned enemy generals, making them both respect and fear: "God of martial arts does not kill, as if the heart of heaven is open." the road of love of life", Ma Ky and Phuong Chinh provided five hundred boats. They reached the sea and were still lost in spirit. Vuong Thong and Ma Anh sent out several thousand horses. They returned home with their hearts beating and their legs shaking! “It's not just a magical plan It's also something I've never seen before." With such righteous thoughts of humanity, he and Le Loi led the resistance war through hundreds of thousands of hardships to complete victory. Nguyen Trai's ideology of benevolence is very progressive, it shows the profound insight and compassion of the hero as Le Thanh Tong assessed: "Uc Trai's heart is bright and beautiful". However, history not only has the victories of Hung Dao, Le Loi, Quang Trung but also painful defeats that brought the country into slavery. Because they did not know how to rely on the people and take the people as their foundation, the Ho and Nguyen dynasties collapsed miserably. From that bloody lesson, we can see the value of the idea of ​​humanity. Promoting the nation's tradition of benevolence, our Party and beloved Uncle Ho led our people to defeat the French and American enemies, achieving the historic victory of Dien Bien Phu and the victory of spring 1975. Nguyen Trai is truly a national hero of both literature and martial arts. Along with "The Fox to Binh Ngo" and the noble ideology of humanity, he lives forever in the memory and affection of the Vietnamese people as Nguyen Mong Tuan praised ""The capital's ancient capital" (Building the country and making no one is more beautiful to the country than him. Today, in the work of building, innovating, and preserving the country, the idea of ​​taking the people as the root has a stronger effect than ever. Tags: Literature 8
Bình luận tinh thần tương thân tương ái Hướng dẫn Bình luận tinh thần tương thân tương ái Bài làm Đất nước ta xưa nay luôn có truyền thống tương thân tương ái, lá lành đùm là rách. Điều này đã đi vào tiềm thức của mỗi người dân Việt Nam từ bao đời nay. Tương thân tương ái là một phẩm chất, một việc làm vô cùng tốt đẹp và có ý nghĩa mà chúng ta cần phải gìn giữ, phát huy dù ở bất cứ đâu và trong hoàn cảnh nào. Tương thân tương ái có nghĩa là mọi người cùng yêu thương, đùm bọc, sống hòa thuận, tình cảm với nhau bằng tình thương giữa con người với con người. Dù trong bất cứ hoàn cảnh nào, chúng ta cũng cố gắng giúp đỡ nhau, lá rách ít đùm lá rách nhiều mà không cần mong đợi sự đền đáp. Sự tương thân tương ái trong cuộc sống hàng ngày được biểu hiện rất rõ. Ví như trong học tập, ở môi trường có bạn bè, thầy cô. Những học sinh giúp đỡ nhau trong học tập bằng cách cùng nhau cố gắng học hành, cùng nhau đi lên. Các em cố gắng học tập, nếu thấy bạn học yếu hơn mình hoặc chưa hiểu chỗ nào thì có thể chỉ ra cho bạn, để bạn hiểu hơn về bản chất của bài học. Nhưng tuyệt đối không được cho bạn chép bài, bởi như vậy là hại bạn chứ không phải giúp bạn. Các em phải cố gắng cùng nhau đi lên trong học tập, như vậy là thể hiện tinh thần tương thân tương ái. Bên cạnh đó, khi các thầy cô chăm lo, quan tâm đến các em học sinh của mình, đó cũng là thể hiện tinh thần tương thân tương ái. Thầy cô quan tâm đến hoàn cảnh, tâm tư nguyện vọng cũng như việc học hành của các em, sẽ giúp cho các em học sinh cảm thấy ấm áp tình người, từ đó cố gắng học tập tốt hơn để thầy cô và bạn bè được vui lòng. Còn bên ngoài xã hội, tinh thần tương thần tương ái là rất cần thiết. Bởi mỗi người một hoàn cảnh không ai giống ai. Có những con người sinh ra đã sống trong sự giàu sang, nhưng người khác thì lại bất hạnh, không đủ cơm ăn áo mặc mỗi ngày. Sự chênh lệch giàu nghèo trên xã hội hiện nay là một vấn đề rất lớn. Vậy nên cơ quan chức năng cũng đang rất cố gắng hỗ trợ những con người, cũng như gia đình có hoàn cảnh khó khăn để họ có cuộc sống đỡ khốn khổ hơn. Nhưng cũng cần phải cảm ơn những cá nhân có điều kiện kinh tế, họ là những mạnh thường quân có tâm, có đức, có tinh thần tương thân tương ái giúp đỡ người khác. Họ không chỉ bỏ thời gian, tiền bạc, công sức của chính bản thân mình để giúp đỡ những hoàn cảnh khó khăn, mà còn huy động những người cùng có điều kiện như mình để chia sẻ phần nào sự khổ đau của những người dân nghèo, khó khăn. Những con người như vậy thật đáng quý, bởi những gì họ có không phải tự nhiên mà đạt được, cũng phải trải qua sự cố gắng, nỗ lực của bản thân, nhưng họ sẵn sàng chia sẻ những gì họ có đến những người khác, điều này thật đáng quý biết bao. Tương thân tương ái là một tinh thần hết sức cao quý, tốt đẹp và có ý nghĩa. Nếu như chúng ta ai cũng có tinh thần tương thân tương ái, giúp đỡ những hoàn cảnh khó khăn xung quanh mình thì khi đó, xã hội sẽ trở nên ấm áp, tốt đẹp biết bao nhiêu. Vì vậy mỗi người hẫy cố gắng phát huy tinh thần tương thân tương ái, truyền thông của dân tộc, góp phần vì một đất nước tươi đẹp hơn.
Comment on the spirit of mutual love and affection Instruct Comment on the spirit of mutual love and affection Assignment Our country has always had a tradition of mutual love and affection. This has entered the subconscious of every Vietnamese person for many generations. Mutual love is an extremely good and meaningful quality and deed that we need to preserve and promote wherever we are and under what circumstances. Mutual love means that everyone loves, cares, lives in harmony, and has affection for each other with love between people. No matter the circumstances, we try to help each other. The few torn leaves cover the many torn leaves without expecting anything in return. Mutual affection in everyday life is clearly expressed. For example, in studying, in an environment with friends and teachers. Students help each other in their studies by trying to study together and progress together. Students try to study. If they see that their classmates are weaker than them or don't understand something, they can point it out to them so they can better understand the nature of the lesson. But you absolutely must not let your friends copy your notes, because that will harm you, not help you. They must try to improve together in their studies, thus showing the spirit of mutual love and affection. Besides, when teachers take care of and care about their students, it also shows the spirit of solidarity. Teachers care about students' circumstances, thoughts and aspirations as well as their studies, which will help students feel warm and humane, thereby trying to study better so that teachers and friends can be happy. please. Outside of society, the spirit of mutual love is very necessary. Because each person's situation is different. There are people born into wealth, but others are unhappy, not having enough food and clothing every day. The gap between rich and poor in society today is a huge problem. Therefore, the authorities are also trying very hard to support people and families in difficult circumstances so that they can have a less miserable life. But we also need to thank individuals with economic conditions, they are generous sponsors with heart, virtue, and a spirit of solidarity and mutual love to help others. They not only spend their own time, money, and effort to help difficult situations, but also mobilize people with the same conditions as themselves to partly share the suffering of the people. poor, difficult. Such people are precious, because what they have is not achieved naturally, they also have to go through their own efforts and efforts, but they are willing to share what they have with others. , how precious this is. Mutual love is a very noble, beautiful and meaningful spirit. If we all have the spirit of solidarity and help the difficult situations around us, then society will become warmer and better. Therefore, each person should try to promote the spirit of solidarity and communication of the nation, contributing to a more beautiful country.
Bình luận truyện ngắn Lặng lẽ Sa Pa của Nguyễn Thành Long. Hướng dẫn Gấp lại truyện ngắn Lặng lẽ Sa Pa lòng ta cứ xao xuyến, vấn vương trước vẻ đẹp của những con người, trước những tình cảm chân tình, nồng hậu trong một cuộc sống đầy tình yêu. Viết về một mảnh hiện thực trên miền đất Sa Pa trong giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội và chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mĩ, thiên truyện như muốn nói với ta rằng: Bên trong cái vẻ đẹp lặng lẽ, cuộc sống ở đây chứa bao vẻ đẹp đáng yêu nhưng cũng có không ít những hi sinh thầm lặng. Dù được miêu tả nhiều hay ít, trực tiếp hay gián tiếp, nhân vật nào trongLặng lẽ Sa Pa cũng hiện lên với nét cao quý đáng khâm phục. Đó là anh thanh niên làm công tác khí tượng kiêm vật lí địa cầu sông một mình trên đỉnh Yên Sơn cao hai nghìn sáu trăm mét. Đã mấy năm nay, công việc hằng ngày của anh là đo gió, đo nhiệt độ, đo mưa, đo nắng rồi ghi chép, rồi gọi vào máy bộ đàm báo về trung tâm. Nhiều mùa, nhiều đêm anh phải đối chọi với gió tuyết và lặng im. Vậy mà anh ta rất yêu công việc của mình: Công việc của cháu gian khổ thế đấy, chứ cất nó đi, cháu buồn đến chết mất (lời anh thanh niên nói với ông họa sĩ già). Đó là ông kĩ sư ở vườn rau dưới Sa Pa đang thầm lặng kiên nhẫn nhân giống su hào, là người cán bộ khoa học ngày đêm chăm chú miệt mài lập bản đồ sét cho đất nước. Đó là một họa sĩ già xin anh em ở cơ quan hoãn bữa tiệc ông nghỉ hưu để đi thực tế lần cuối ở Tây Bắc. Ông gặp người, gặp cảnh ông hỏi chuyện và mải miết vẽ mà trong đầu hiện lên bao ý nghĩ, cảm xúc về những con người và công việc cụ thể, về đất nước và tâm hồn. Đó là cô kĩ sư nông nghiệp mới ra trường, lần dầu rời Hà Nội, hăm hở lên Tây bắc cheo leo núi, ngút ngàn sương mây nhận công tác, là bác lái xe dễ thông cảm, vui tính, tất cả hình ảnh những con người trong truyện làm cho ta tin yêu cuộc sống, tin yêu chế độ mới biết bao. Những con người có lẽ sống cao đẹp, tâm hồn trong sáng như thế khi gặp nhau sẽ tự nhiên nảy nở tình cảm nồng hậu, chân tình. Lặng lẽ Sa Pa còn đẹp ở mối quan hệ thân ái, tin cậy giữa con người với con người. Dù gặp gỡ tình cờ trên một chuyên xe nhưng giữa người họa sĩ già và cô kĩ sư trẻ có mối quan hệ vừa trân trọng nhau vừa cởi mở, thân thiết như tình cảm bốcon. Anh thanh niên làm khí tượng hồ hởi đón hai người lên thăm nhà mình theo lời giới thiệu của bác lái xe. Việc làm đầu tiên của anh là hái một bó hoa rực rỡ tặng người bạn gái chưa hề quen biết. Anh con trai rất tự nhiên như với một người bạn đã quen thân, trao bó hoa đã cắt cho người con gái, và cũng rất tự nhiên, cô đỡ lấy. Sau đó, anh cũng không quên tặng củ tam thất cho vợ bạn lái xe vừa bị ốm dậy, làn trứng, bó hoa tiễn người họa sĩ già, cô kĩ sư trẻ tiếp tục cuộc hành trình. Cuộc gặp gỡ bất ngờ, ngắn ngủi nhưng vô cùng thú vị khiến người họa sĩ già thêm suy ngẫm về vẻ đẹp của cuộc đời mà mình không bao giờ thể hiện hết được, khiến cô kĩ sư trẻ lòng bao cảm mến, bâng khuâng. Từ một cốt truyện khá nhẹ nhàng, những chi tiết chân thực, tinh tế, bằng ngôn ngữ đối thoại sinh động, Nguyễn Thành Long đã kể lại một cuộc gặp gỡ tình cờ mà thú vị nơi Sa Pa lặng lẽ. Với truyện ngắn này, phải chăng nhà văn muốn khẳng định rằng cuộc sống của chúng ta được làm nên từ bao phấn đấu, hi sinh lớn lao và thầm lặng. Những con người cần mẫn, nhiệt thành rồi sớm muộn gì họ cũng gặp nhau và quý mến nhau. Một cuộc sống như thế, mối quan hệ như thế thật đáng trân trọng, thật đáng tin yêu. Nguồn:
Commentary on the short story Quiet Sa Pa by Nguyen Thanh Long. Instruct Closing the short story Quietly Sa Pa, our hearts keep fluttering and lingering before the beauty of the people, the sincere and warm feelings in a life full of love. Written about a piece of reality in the land of Sa Pa during the period of building socialism and fighting against the destructive war of American imperialism, the story seems to want to tell us: Inside the quiet beauty, life There is so much lovely beauty here, but there are also many silent sacrifices. Whether described more or less, directly or indirectly, every character in Quiet Sa Pa appears with admirable nobility. That is a young man who works alone in meteorology and river geophysics on the two thousand six hundred meter high Yen Son peak. For several years now, his daily job has been to measure wind, temperature, rain, sunshine, take notes, and then call the walkie-talkie to report to the center. Many seasons and many nights he had to fight the wind and snow and be silent. Yet he loves his job very much: My job is so arduous, if I take it away, I will be sad to death (the young man said to the old artist). That is the engineer in the vegetable garden in Sa Pa who is quietly patiently propagating kohlrabi, and the scientific officer who diligently and diligently prepares lightning maps for the country day and night. It was an old artist who asked his colleagues at the office to postpone his retirement party to go on a field trip one last time in the Northwest. He met people, encountered scenes, asked questions and was busy drawing, with many thoughts and feelings appearing in his head about specific people and jobs, about the country and the soul. She was an agricultural engineer who had just graduated from school, the first time she left Hanoi, eager to go to the Northwest to climb mountains, surrounded by fog and clouds to take up a job, and the driver who was sympathetic and funny, all the images of those people. The people in the story make us believe in life and love the new regime. When people meet each other with noble lives and pure souls, they will naturally develop warm and sincere feelings. Quietly, Sa Pa is still beautiful because of the cordial and trusting relationships between people. Although they met by chance on a bus, the old artist and the young engineer had a relationship that was both respectful and open, as close as a father-son relationship. The young meteorologist excitedly welcomed the two people to visit his house following the driver's recommendation. His first job was to pick a bouquet of bright flowers to give to his girlfriend he didn't even know. The boy very naturally, like a close friend, gave the cut flower bouquet to the girl, and just as naturally, she took it. After that, he did not forget to give Panax notoginseng tubers to his driver's wife who had just recovered from illness, eggs, and a bouquet of flowers to send off the old artist and the young engineer to continue their journey. The unexpected, short but extremely interesting meeting made the old artist reflect more on the beauty of life that he could never fully express, making the young engineer feel affectionate and wistful. From a fairly light plot, with realistic and delicate details, in lively dialogue language, Nguyen Thanh Long recounted a chance but interesting encounter in a quiet Sa Pa. With this short story, does the writer want to affirm that our lives are made up of great and silent struggles and sacrifices. Diligent and enthusiastic people will sooner or later meet and love each other. A life like that, a relationship like that is so precious, so trustworthy and loving. Source:
Bình luận truyện ngắn Những trò lố hay là Va-ren và Phan Bội Châu Hướng dẫn Bình luận truyện ngắn Những trò lố hay là Va-ren và Phan Bội Châu “Những trò lố hay là Va-ren và Phan Bội Châu” là một truyện ngắn có tính chất châm biếm sâu cay. Nội dung tư tưởng của câu chuyên được người đọc hình dung trọn vẹn khi chúng ta chứng kiến toàn bộ cuộc chạm trán giữa Va-ren và Phan Bội Châu. Trong cuộc chạm trán ấy, Nguyễn Ái Quốc đã để cho Phan Bội Châu hoàn toàn im lặng. Thế nhưng sự im lặng ấy chẳng những đã thể hiện được bản lĩnh và nhân cách của nhà cách mạng mà còn làm cho Va-ren sửng sốt cả người. Đọc xong câu chuyện quả thực mới đầu chúng ta cũng cảm thấy ngạc nhiên bởi không hiểu vì sao Nguyễn Ái Quốc lại không để Phan Bội Châu vạch tội hay thét mắng vào mặt kẻ thù mà chỉ im lặng với nụ cười ruồi thoáng qua kín đáo và vô hình trên khuôn mặt. Thế nhưng đọc lại câu chuyện nhiều lần chúng ta mối thấy cách ứng xử kia là hoàn toàn có lý. Phan Bội Châu im lặng thế nhưng sự im lăng ấy lại là câu trả lời kiên quyết nhất. Câu trả lời ấy chứa đựng tất cả sự coi thường và khinh bỉ của Phan Bội Châu với một tên phản đẳng. Với những người như kiểu Va-ren “con người đã phản bội giai cấp vô sản Pháp, tên chính khách đã bị đồng loại đuổi ra khỏi tập đoàn, kẻ đã ruồng bỏ quá khứ ruồng bỏ lòng tin, ruồng bỏ giai cấp mình” thì chẳng có điều gì cần nói. Cái nhân cách ấy hiện diện trước mặt nhà cách mạng mới xấu xa bỉ ổi làm sao. Bởi trước mặt hắn rõ ràng là một sự khác biệt vô cùng lớn, một con người đã “hy sinh cả gia đình và của cải để xa lánh khỏi thấy mặt bọn cướp nước mình” một nhân cách sáng ngời và cao khiết biết bao. Như vậy, ở một khía cạnh, sự im lặng của Phan Bội Châu thực sự là một câu trả lời thích đáng khiến Va-ren vừa phải xấu hổ lại vừa phải cảm thấy bực mình, ở trong hoàn cảnh ấy, càng tự đối thoại, càng để lộ ra cái thủ đoạn xảo quyệt, xấu xa. Và như vậy, hóa ra Va-ren lại đang tự phơi bày tất cả cái bản chất của mình. Sự im lặng và cái nụ cười thoáng qua kín đáo, vô hình của Phan Bội Châu còn thể hiện cái tầm hiểu biết và cái bản lĩnh cứng cỏi của nhà cách mạng. Bởi cuộc đời sóng gió phong ba đã giúp Phan Bội Châu hiểu rằng những lời hứa ngon ngọt của kẻ quyền cao chức trọng đang hiện diện trước mặt ông kia chỉ là những lời hứa phỉnh. Bọn cầm quyền và bọn xâm lược không bao giờ chịu từ bỏ những mục đích xấu xa, tàn ác. Và vì thế cuộc chiến đấu của chúng ta không bao giờ được phép ảo tưởng ngây thơ. Truyện ngắn của Nguyễn Ái Quốc thường rất giàu trí tuệ. Vì thế mà ý nghĩa của nó cũng thường rất thâm thuý, sâu xa. ở truyện ngắn này, với một tình huống độc đáo và sắc sảo, với một giọng văn đả kích châm biếm đầy khinh bỉ và với một lối viết ngắn gọn, tài hoa, Nguyễn Ái Quốc đã biến những trang văn của mình thành một lời gươm sắc sảo chống thực dân. Đồng thời những trang văn ấy cũng ngợi ca phẩm chất, nhân cách và bản lĩnh cao đẹp của Phan Bội Châu – nhà cách mạng ưu tú của dân tộc những năm đầu thế kỷ.
Commentary on the short story Good tropes are Varen and Phan Boi Chau Instruct Commentary on the short story Good tropes are Varen and Phan Boi Chau “Good jokes are Varen and Phan Boi Chau” is a short story with a biting satirical nature. The ideological content of the story is fully visualized by the reader when we witness the entire encounter between Varen and Phan Boi Chau. During that encounter, Nguyen Ai Quoc left Phan Boi Chau completely silent. However, that silence not only demonstrated the revolutionary's bravery and personality but also made Varen stunned. After reading the story, we were indeed surprised at first because we didn't understand why Nguyen Ai Quoc did not let Phan Boi Chau expose his crimes or scream at his enemies, but just remained silent with a fleeting, discreet smile. and invisible on the face. However, rereading the story many times we see that that behavior is completely reasonable. Phan Boi Chau was silent, but that silence was the most resolute answer. That answer contained all of Phan Boi Chau's disdain and disdain for a traitor. For people like Varen, "the man who betrayed the French proletariat, the politician who was kicked out of the group by his peers, the man who abandoned his past, abandoned his beliefs, abandoned his class." then there is nothing that needs to be said. How evil and despicable is that personality present in front of the revolutionary. Because in front of him was clearly a huge difference, a person who "sacrificed his family and wealth to stay away from the faces of his country's robbers" what a bright and noble personality. Thus, in one aspect, Phan Boi Chau's silence was actually a suitable answer, making Varen both embarrassed and annoyed, in that situation, even more self-dialogue. , revealing even more cunning and evil tricks. And so, it turns out Varen is revealing all of his true nature. Phan Boi Chau's silence and discreet, invisible smile also showed the revolutionary's understanding and toughness. Because his turbulent life helped Phan Boi Chau understand that the sweet promises of the high-ranking man present in front of him were just fake promises. The rulers and invaders never give up their evil and cruel goals. And so our struggle must never allow naive illusion. Nguyen Ai Quoc's short stories are often very intellectual. That's why its meaning is often very profound and profound. In this short story, with a unique and sharp situation, with a tone of sarcastic and contemptuous criticism and with a concise, talented writing style, Nguyen Ai Quoc has turned his pages into a poem. sharp sword against colonialists. At the same time, those pages also praised the noble qualities, personality and bravery of Phan Boi Chau - the nation's outstanding revolutionary in the early years of the century.
Bình luận tục ngữ ”Tốt gỗ hơn tốt nước sơn” – Đề và văn mẫu 8 Hướng dẫn Gợi ý viết bài A.MỞ BÀI – Đánh giá một con người, một đồ vật nên theo nguyên tắc nào để đạt được sự chính xác? – Trong vấn đề này, nhân dân ta đã được kinh nghiệm qua câu tục ngữ: “Tốt gỗ hơn tốt nước sơn”. B.THÂN BÀI 1. Giải thích ý nghĩa câu tục ngữ a. Nghĩa đen -Gỗ là chất liệu tạo nên đồ vật. -Nước sơn là chất liệu quét lên đồ vật để làm cho đồ vật thêm đẹp, thêm bền. -Đánh giá một đồ vật bằng gỗ cần chú ý đến chất gỗ và đồ vật đó. Chất gỗ là quan trọng nhất, quyết định giá trị của đồ vật đó hơn là nước sơn bên ngoài. b.Nghĩa bóng -Gỗ là nội dung thực chất bên trong. -Nước sơn là hình thức bên ngoài. -Nội dung quan trọng hơn hình thức, quyết định hình thức. 2. Bình luận a. Câu tục ngữ hoàn toàn đúng: – Gỗ là chất liệu làm nên đồ vật. Gỗ tốt thì đồ vật sẽ bền, dùng được lâu dài. Gỗ xấu thì đồ vật chóng hư hỏng, thời gian sử dụng ngắn ngủi. -Nước sơn chỉ là lớp phủ bên ngoài, trang trí, làm đẹp cho đồ vật. Dù nước sơn có đẹp bao nhiêu, nhưng chất gỗ của đồ vật chóng mục, chóng hỏng thì nước sơn cũng không cứu nổi sự hỏng nát của đồ vật. – Nội dung: phẩm chất đạo đức con người, năng lực hoàn thành nhiệm vụ mà xã hội giao cho. -Hình thức: là vẻ đẹp của con người biểu hiện qua cử chỉ, ngôn ngữ, đầu tóc, cách ăn mặc … -Người ăn mặc chưng diện, đầu tóc chải chuốt, nhưng có thể là người tư cách đạo đức xấu xa, trình độ văn hóa thấp kém. Vì vậy, khi đánh giá một con người không nên chỉ căn cứ vào hình thức bên ngoài. c. Làm thế nào để đánh giá chính xác một con người? -Tiêu chuẩn chủ yếu để đánh giá là nội dung, nghĩa là phẩm chất đạo đức và năng lực của người đó. -Phải đánh giá qua hành động, qua công việc của người đó. d. Tuy nhiên, trong việc đánh giá con người, đánh giá sự vật cũng không được coi nhẹ hình thức: -Hình thức biểu hiện nội dung: “Cái răng, cái tóc là góc con người”. -Hình thức góp phần nâng cao giá trị của nội dung. Trong trường hợp này, hình thức và nội dung là thống nhất. Một đồ vật có chất liệu tốt, lại có nước sơn đẹp, màu sắc hài hòa thì đồ vật đó càng quý, giá trị càng lớn. Một con người có phẩm chất đạo đức, có năng lực chuyên môn, có trình độ văn hóa cao, lại xinh đẹp, cân đối, ăn mặc chỉnh tề, hợp thời trang, cử chỉ lịch thiệp, thì con người đó càng được mọi người quý mến. -Giữa nội dung và hình thức có mối quan hệ khăng khít. -Nội dung quyết định hình thức. Hình thức biểu hiện nội dung và góp phần nâng cao giá trị của nội dung. -Khi xem xét, đánh giá một con người, không nên dừng lại ở hình thức bên ngoài, mà phải lấy phẩm chất đạo đức, năng lực của con người đó làm căn cứ. -Câu tục ngữ “Tốt gỗ hơn tốt nước sơn” đến nay vẫn để lại bài học quý giá cho chúng ta trong việc nhìn nhận, đánh giá sự vật và con người. Tags:Văn 8
Comment on the proverb "Good wood is better than good paint" - Topics and sample essays 8 Instruct Suggestions for writing articles A. OPEN LESSON – What principles should be followed in evaluating a person or an object to achieve accuracy? – In this matter, our people have experienced the proverb: "Better wood than good paint". B. BODY OF THE ARTICLE 1. Explain the meaning of the proverb a. Literal meaning -Wood is the material that makes things. -Paint is a material that is applied to an object to make it more beautiful and durable. -Evaluating a wooden object requires paying attention to the quality of the wood and the object. The quality of the wood is the most important, determining the value of the object more than the exterior paint. b. Figurative meaning -Wood is the intrinsic content inside. -Paint is the outside form. -Content is more important than form, determines the form. 2. Comments a. The proverb is absolutely true: – Wood is the material that makes things. If the wood is good, the object will be durable and can be used for a long time. If the wood is bad, the object will deteriorate quickly and have a short useful life. -Paint is just an outer coating that decorates and beautifies the object. No matter how beautiful the paint is, the wood of the object quickly rots and deteriorates, so the paint cannot save the object from being damaged. – Content: human moral qualities, ability to complete tasks assigned by society. -Form: is the beauty of a person expressed through gestures, language, hair, dress... -People who dress neatly and have well-groomed hair may have bad moral character and low cultural level. Therefore, when evaluating a person, you should not only base it on external appearance. c. How to accurately evaluate a person? -The main standard for evaluation is content, meaning the moral qualities and abilities of that person. -Must be evaluated based on the person's actions and work. d. However, in evaluating people and things, form must not be overlooked: -Form of content expression: "Teeth and hair are human aspects." -Form contributes to enhancing the value of content. In this case, form and content are unified. An object with good materials, beautiful paint, and harmonious colors is the more valuable and valuable that object is. A person with moral qualities, professional ability, high level of education, beautiful, well-balanced, neatly dressed, fashionable, and polite in behavior, the more that person is accepted by everyone. beloved person. -There is a close relationship between content and form. -Content determines form. Form expresses content and contributes to enhancing the value of content. -When considering and evaluating a person, one should not stop at external appearance, but must take that person's moral qualities and abilities as the basis. -The proverb "Better wood than good paint" still leaves a valuable lesson for us in viewing and evaluating things and people. Tags: Literature 8
Đề bài: Bình luận vấn đề ở đời và làm người của Hồ Chí Minh Bài làm Với triết lí nhân văn hành động, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: "Nghĩ cho cùng… mọi vấn đề là vấn đề ở đời và làm người. Ở đời và làm người phải thương nước, thương dân, thương nhân loại đau khổ bị áp bức". Trong Di chúc thiêng liêng, Người đã viết: đầu tiên là vấn đề con người. Rõ ràng, đối tượng trung tâm trong sự nghiệp xây dựng nền văn hóa mới là xây dựng con người mới. Con người nói ở đây là mỗi một con người Việt Nam, là con người trong gia đình, trong xã hội, là người công dân của nước nhà, người đảng viên, người cán bộ của Đảng và Nhà nước, nói rộng ra là con người trên cả hành tinh của chúng ta. Cho nên, chiến lược con người là chiến lược số một. Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết phải có con người xã hội chủ nghĩa. Trong sự nghiệp xây dựng con người, điều quan trọng bậc nhất là xây dựng lí tưởng, đạo đức. Lí tưởng nói ở đây là xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, dân chủ và giàu mạnh, tiến lên chủ nghĩa xã hội. Đạo đức nói ở đây là suốt đời phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, đặt công việc, đặt lợi ích của dân lên trên hết. Đạo đức nói ở đây là phải luôn gắn với tài năng, trí tuệ, coi trọng nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân lực, đào lạo nhân tài. Trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thanh niên ta, cán bộ ta càng phải dốc lòng học tập, nâng cao vượt bậc trình độ khoa học kĩ thuật và quản lý, rèn luyện tác phong công nghiệp, trong lúc đó vẫn phải coi trọng đạo đức, lí tưởng, học tập tư tưởng Hồ Chí Minh, hiểu biết lịch sử, địa lí nước nhà. Đạo đức nói ở đây là phải tôn trọng quyền làm chủ của người dân, là yêu hòa bình hữu nghị với các dân tộc. Đảng viên, cán bộ cần phải gương mẫu. Đạo đức là gốc của người cán bộ. Người từng viết bài Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân, coi chủ nghĩa cá nhân và những xu hướng cơ hội là những hành vi có hại đến sự nghiệp đoàn kết trong Đảng, trong xã hội, chẳng khác nào tiếp tay cho địch. Người đã coi trọng, biểu dương những "người tốt, việc tốt", tạo nên phong trào rộng lớn từ những em bé đến các bậc lão thành, từ những đảng viên cho đến những nhân sĩ yêu nước. Điều đáng tiếc, đáng lo là trong những năm gần đây, bên cạnh những người tốt, cán hộ tốt, ngày càng xuất hiện những con người, kể cả thanh niên, đảng viên, cán bộ đã bị tha hóa, nghiêm trọng nhất là không còn có lí tưởng, chỉ biết chạy theo lợi ích cá nhân, chạy theo đồng tiền bằng bất cứ giá nào. Những hiện tượng vi phạm pháp luật, xâm phạm quyền làm chủ của dân; tệ quan liêu, tham nhũng, những hành vi phi đạo đức mà Bác Hồ đã coi là "giặc nội xâm", có nơi đã trở nên trầm trọng. Có thể nói rằng, bên cạnh những tệ nạn xã hội, chúng ta đang đứng trước một tình hình tha hóa về tư tưởng, làm cho những con người bị tha hóa ấy trở thành mảnh đất thuận lợi cho mưu đồ "diễn biến hòa bình" của những thế lực thù địch. Chúng ta cần nhìn vào sự thật và có quyết tâm lớn chặn đứng nguy cơ nói trên. Trong lúc đó, càng phải nêu cao tấm gương của những điển hình tốt, nhừng tấm gương sáng về đạo đức cách mạng. Bởi vì, như Bác Hồ đã nói: một tấm gương tốt còn có tác dụng hơn một trăm bài diễn văn. Võ Nguyên Giáp (Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng văn hóa Việt Nam).
Topic: Comment on Ho Chi Minh's issues in life and being human Assignment With the humanistic philosophy of action, President Ho Chi Minh said: "In the end... all problems are problems in life and being human. In life and being human, you must love the country, love the people, love the suffering humanity." downtrodden". In his Divine Will, he wrote: first is the human problem. Obviously, the central object in the cause of building a new culture is to build new people. The person mentioned here is every Vietnamese person, a person in the family, in society, a citizen of the country, a party member, an officer of the Party and the State, and more broadly speaking, a child. people all over our planet. Therefore, people strategy is the number one strategy. To build socialism, first there must be socialist people. In the career of building people, the most important thing is building ideals and ethics. The ideal mentioned here is to build a peaceful, independent, unified, democratic and prosperous Vietnam, moving towards socialism. The morality mentioned here is to serve the people, serve the Fatherland, be diligent, thrifty, honest, righteous, public-minded and impartial, put work and the interests of the people first. The morality mentioned here is to always be associated with talent and intelligence, to attach importance to improving people's knowledge, fostering human resources, and cultivating talents. In the period of promoting industrialization and modernization, our youth and officials must be even more devoted to studying, greatly improving their scientific, technical and management levels, and practicing industrial behavior, while It is still necessary to respect morality, ideals, study Ho Chi Minh's ideology, and understand the country's history and geography. The morality mentioned here is to respect the people's right to mastery, to love peace and friendship with all nations. Party members and officials need to be exemplary. Ethics is the root of an officer. The person who wrote the article "Improving revolutionary ethics, wiping out individualism" considered individualism and opportunistic trends as harmful acts to the cause of solidarity in the Party and in society. aid the enemy. He valued and praised "good people, good deeds", creating a large movement from children to elders, from party members to patriots. The unfortunate and worrying thing is that in recent years, besides good people and good officials, more and more people, including young people, party members, and cadres, have been corrupted, the most serious of which is corruption. No longer have ideals, only know how to pursue personal interests, chase money at any cost. Phenomena that violate the law and infringe upon the people's right to mastery; Bureaucracy, corruption, and unethical practices that Uncle Ho considered "internal invaders" have become serious in some places. It can be said that, in addition to social evils, we are facing a situation of ideological corruption, making those corrupted people a favorable ground for the plot of "peaceful evolution". " of hostile forces. We need to look at the truth and have great determination to stop the above risk. Meanwhile, it is even more important to uphold good examples and shining examples of revolutionary ethics. Because, as Uncle Ho said: a good example is more effective than a hundred speeches. Vo Nguyen Giap (Ho Chi Minh's thoughts on building Vietnamese culture).
Đề bài: Bình luận về bức thông điệp mùa xuân của nhà thơ Xuân Diệu Bài làm Chưa bao giờ người ta thấy xuất hiện cùng ruột lần một hồn thơ rộng lớn như Thế Lữ, mơ màng như Lưu Trọng Lư, hùng tráng như Huy Thông, trong sáng như Nguyễn Nhược Pháp, ảo não như Huy Cận, quê mùa như Nguyễn Bính, kì dị như Chế Lan Viên… và thiết tha, rạo rực, băn khoăn như Xuân Diệu (Thi nhân Việt Nam). Trước đây, khi đọc những câu văn này tôi không hiểu tại sao Xuân Diệu lại được ưu ái như vậy. Giờ thì tôi đã rõ! Đơn giản chỉ vì ông là nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới. Xuân Diệu đã thể hiện đầy đủ nhất cho ý thức cá nhân của cái tôi thơ mới và cũng mang đậm bản sắc riêng. Trong số những bài thơ của ông, chúng ta không thể không nhắc đến Vội vàng. Bài thơ tiêu biểu cho sự bùng nổ mãnh liệt của cái tôi Xuân Diệu, in dấu khá đậm cho hồn thơ yêu đời, ham sống. Và quan trọng hơn thế nữa, qua Vội vàng chúng ta nhận ra một quan niệm sống rất mới mẻ – bức thông điệp mà nhà thơ muôn gửi đến cho người đọc. Vội vàng? Cái tên nghe đã rất Xuân Diệu! Đây là một triết lí sống và cũng là tâm thế sống của nhà thơ: Sống nhanh chóng, khẩn trương, mở rộng lòng mình để ôm ghì, thâu tóm tất cả. Đã hơn một lần ta bắt gặp Xuân Diệu hối hả, cuống quýt, giục giã: Mau với chứ, vội vàng lên với chứ Em, em ơi, tình non sắp già rồi. Vấn đề thời gian, mùa xuân, tình yêu tuổi trẻ luôn thường trực, trở đi trở lại trong nhiều trang thơ của Xuân Diệu. Ở Vội vàng ông đã nhận ra một thiên đường ngay trên mặt đất, nhà thơ yêu cuộc sông trần thế xung quanh và tìm thấy trong cuộc sống đó biết bao điều hấp dẫn, đáng sống và biết tận hưởng những gì mà cuộc sống ban tặng. Đây là một quan niệm sống rất người, mang ý nghĩa tích cực và có giá trị nhân văn sâu sắc. Nhà thơ muôn nhắn nhủ đến người đọc hãy sống hết mình khi đng còn trẻ tuổi, đừng để thời gian trôi đi phí hoài. Hãy sống gấp gáp để tận hưởng cuộc sống tươi đẹp. Hãy luôn giữ cho mình mùa xuân, tình yêu của tuổi trẻ. Thà một phút huy hoàng rồi chợt tắt Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm. Bức thông điệp mà Xuân Diệu gửi đến cho người đọc được triển khai qua từng phần của bài thơ, theo mạch cảm xúc trong tâm hồn thi sĩ. Ngay từ đầu chúng ta đã bắt gặp một thái độ sống rất ngôn, rất táo bạo. Tôi muốn tắt nắng đi Cho màu đừng nhạt mất Tôi muốn buộc gió lại Cho hương đừng bay đi. Ý tưởng tắt nắng, buộc gió quả thật táo bạo, độc đáo mà chỉ Xuân Diệu mới nghĩ ra, xuất phát từ lòng yêu cuộc sống, thèm sống Xuân Diệu muốn tắt, buộc nắng và gió cũng là để giữ lại cái đẹp, cái tươi thắm của sự vật, của màu, của hương. Xuân Diệu muốn thời gian là tĩnh tại mặc dù ông không nhìn đời với con mắt tỉnh. Cái vô lí đó chính là sự khát khao sống đến vô biên và tột cùng. Nhà thơ muốn níu giữ thời gian, cuộc sống ấy cho riêng mình. Mọi chuyện đều có nguyên do của nó! Xuân Diệu thiết tha với cuộc sống như thế bởi ông đã tìm ra một thiên đường trên mặt đất. Cuộc sống đẹp nhất là cuộc sông trần thế. Với Thế Lữ thi nhân ta còn nuôi giấc mộng lên tiên, một giấc mộng rất xưa. Xuân Diệu đốt cảnh Bồng Lai và xua ai nấy về hạ giới (Thi nhân Việt Nam). Cuộc sống xung quanh ta là đẹp nhất, vậy thì dại gì mà không tận hưởng. Nhà thơ nhìn mùa xuân với tất cả sự say mê, cuồng nhiệt vồ vập: Của ong bướm này đây tuần tháng mật Này đây hoa của đồng nội xanh rì Này đây lá của cành tơ phơ phất Của yến anh này đây khúc tình si. Này đây., này đây… này đây… Tất cả như đang phơi bày ra trước mắt nhà thơ. Bức tranh thiên nhiên đang độ viên mãn, tràn đầy, chứa chan xuân tình, vừa gần gũi thân quen lại vừa mượt mà đầy sức sống. Xuân Diệu như đang vồ vập, ngấu nghiên, thâu tóm tất cả. Nhà thơ như con ong hút mật lạc vào vườn hoa đầy hương sắc. Với ông cái gì cũng hấp dẫn mới lạ. Và bằng cặp mắt xanh non cùa cái tôi cá nhân Xuân Diệu còn phát hiện ra thế giới này đẹp nhất, mê hồn nhất vẫn là vì có con người. Con người giữa tuổi trẻ và tình yêu. Nhà thơ lấy con người làm thước đo của cái đẹp. Cuộc sống trần thế đẹp nhất vào lúc xuân thì. Và con người chỉ tận hưởng được lúc đang còn trẻ. Song tuổi trẻ thì tàn phai theo thời gian, vì thế mà ông phải sống vội vàng, gấp gáp. Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân Nhà thơ tận hường cuộc sống một cách gấp gáp, vồ vập bởi một phút giây qua đi vĩnh viễn không trở lại. Mất mát sẽ đến nếu ta không chớp thời cơ. Có lẽ vì thế mà Xuân Diệu không chờ mùa hạ đến mới nhớ xuân mà ôm riết mùa xuân lúc tràn đầy, viên mãn nhất. Ham sống, khát sống, Xuân Diệu càng bàn khoăn hơn trước cuộc đời, thời gian. Ông đã nhận ra quy luật tuyến tính của thời gian, chống lại quy luật tuần hoàn của các cụ ngày xưa. Mỗi phút giây qua đi sẽ không bao giờ trở lại, tuổi trẻ cũng chỉ đến một lần. Nhà thơ mở lòng ra để yêu đời, yêu cuộc sống nhưng không được đời bu đắp, vì thế mà ông băn khoăn buồn chán cho thân phận của mình. Cảnh vật thiên nhiên giờ đây cũng mang đầy tâm trạng buồn bã, bàn khoăn, lo sợ… Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn Cơn gió xinh thì thào trong lá biếc Phải chăng sợ độ tàn phai sắp sửa? Nhận thức ra quy luật cùa thời gian, khát khao sống đến mãnh liệt. Xuân Diệu đã ôm ghì lấy cuộc sông, tận hưởng cuộc sống để không phí hoài đi thời gian, tuổi trẻ. Tình yêu cuộc sống lại bùng lên cuồng nhiệt hối hả. Ta muốn ôm Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn Ta muốn riết mày đưa và gió lượn Ta muốn say cánh bướm với tình yêu Ta muôn thâu trong một cái hôn nhiều Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi. Lòng yêu đời tràn lên một cao trào tình cảm. Hình ảnh thơ tươi mới, đầy sức sống. Và có lẽ tình yêu cuộc sống của nhà thơ tăng dần theo từng từ muốn, ôm đến riết là đã ghì chặt hơn. Và đã say – sự ngây ngất đến bất tỉnh vẫn chưa thỏa lòng – còn muốn thâu nghĩa là muốn thu hết tất cả để có sự hòa nhập làm một. Và cuối cùng là một tiếng kêu cùa sự cuồng nhiệt chưa bao giờ có trong thơ. Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi. Hình ảnh, ngôn từ, nhịp điệu của đoạn thơ đã bộc lộ rõ ràng lòng yêu đời cuồng nhiệt khiến nhà thơ phải hối hả, vội vàng đến với cuộc sống. Bài thơ là một quan niệm sống khá mới mẻ và táo bạo mà trước chưa từng có. Lối sống ở đây là lối sống biết hưởng thụ một cách chinh đáng, biết khẩn trương sống cho ra sống. Tuy nhiên ở Vội vàng, tác gia chỉ đề cập đến sống thiên về hưởng thụ, chạy theo thời gian. Ông kêu gọi mọi người hãy biết yêu và tận hưởng những gì cuộc sống ban tặng, hãy tranh thủ thời gian, tuổi trẻ sống đầy đủ nhất. Ông đã quên đi nghĩa vụ kêu gọi mọi người phải cống hiến cho cuộc đời. Và trong cuộc đời nhà thơ, ông vội vàng cống hiến chứ không phải vội vàng hưởng thụ. Học thơ Xuân Diệu, đặc biệt là qua bài thơ Vội vàng, ta càng thêm yêu cuộc sống hôm nay và càng góp phần làm cho cuộc sống đó thêm tươi đẹp, không chỉ vì cuộc sống hôm nay đã đổi mới, đã đẹp hơn nhiều lần so với cuộc sống ngày xưa của Xuân Diệu mà chủ yếu là không còn những bi kịch để thành những băn khoăn trước cuộc đời. Bức thông điệp nhà thơ gửi đến người đọc vẫn còn nguyên giá trị, được bồi đắp thêm qua thời gian và trường tồn vĩnh cửu. Hãy sống hết mình, cống hiến tuổi trẻ cho Tố quốc, nhân dân, đừng phí hoài thời gian. Hãy mở rộng lòng mình để đón nhận tất cả những vang động của cuộc đời. Đó là những gì mà Xuân Diệu còn giữ lại, nhắn gửi đến với người đọc của mình bức thông điệp xuyên qua thời gian, không gian, ngự trị muôn đời trong tâm hồn con người Việt Nam.
Đề bài: Bình luận về bức thông điệp mùa xuân của nhà thơ Xuân Diệu Bài làm Chưa bao giờ người ta thấy xuất hiện cùng ruột lần một hồn thơ rộng lớn như Thế Lữ, mơ màng như Lưu Trọng Lư, hùng tráng như Huy Thông, trong sáng như Nguyễn Nhược Pháp, ảo não như Huy Cận, quê mùa như Nguyễn Bính, kì dị như Chế Lan Viên… và thiết tha, rạo rực, băn khoăn như Xuân Diệu (Thi nhân Việt Nam). Trước đây, khi đọc những câu văn này tôi không hiểu tại sao Xuân Diệu lại được ưu ái như vậy. Giờ thì tôi đã rõ! Đơn giản chỉ vì ông là nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới. Xuân Diệu đã thể hiện đầy đủ nhất cho ý thức cá nhân của cái tôi thơ mới và cũng mang đậm bản sắc riêng. Trong số những bài thơ của ông, chúng ta không thể không nhắc đến Vội vàng. Bài thơ tiêu biểu cho sự bùng nổ mãnh liệt của cái tôi Xuân Diệu, in dấu khá đậm cho hồn thơ yêu đời, ham sống. Và quan trọng hơn thế nữa, qua Vội vàng chúng ta nhận ra một quan niệm sống rất mới mẻ – bức thông điệp mà nhà thơ muôn gửi đến cho người đọc. Vội vàng? Cái tên nghe đã rất Xuân Diệu! Đây là một triết lí sống và cũng là tâm thế sống của nhà thơ: Sống nhanh chóng, khẩn trương, mở rộng lòng mình để ôm ghì, thâu tóm tất cả. Đã hơn một lần ta bắt gặp Xuân Diệu hối hả, cuống quýt, giục giã: Mau với chứ, vội vàng lên với chứ Em, em ơi, tình non sắp già rồi. Vấn đề thời gian, mùa xuân, tình yêu tuổi trẻ luôn thường trực, trở đi trở lại trong nhiều trang thơ của Xuân Diệu. Ở Vội vàng ông đã nhận ra một thiên đường ngay trên mặt đất, nhà thơ yêu cuộc sông trần thế xung quanh và tìm thấy trong cuộc sống đó biết bao điều hấp dẫn, đáng sống và biết tận hưởng những gì mà cuộc sống ban tặng. Đây là một quan niệm sống rất người, mang ý nghĩa tích cực và có giá trị nhân văn sâu sắc. Nhà thơ muôn nhắn nhủ đến người đọc hãy sống hết mình khi đng còn trẻ tuổi, đừng để thời gian trôi đi phí hoài. Hãy sống gấp gáp để tận hưởng cuộc sống tươi đẹp. Hãy luôn giữ cho mình mùa xuân, tình yêu của tuổi trẻ. Thà một phút huy hoàng rồi chợt tắt Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm. Bức thông điệp mà Xuân Diệu gửi đến cho người đọc được triển khai qua từng phần của bài thơ, theo mạch cảm xúc trong tâm hồn thi sĩ. Ngay từ đầu chúng ta đã bắt gặp một thái độ sống rất ngôn, rất táo bạo. Tôi muốn tắt nắng đi Cho màu đừng nhạt mất Tôi muốn buộc gió lại Cho hương đừng bay đi. Ý tưởng tắt nắng, buộc gió quả thật táo bạo, độc đáo mà chỉ Xuân Diệu mới nghĩ ra, xuất phát từ lòng yêu cuộc sống, thèm sống Xuân Diệu muốn tắt, buộc nắng và gió cũng là để giữ lại cái đẹp, cái tươi thắm của sự vật, của màu, của hương. Xuân Diệu muốn thời gian là tĩnh tại mặc dù ông không nhìn đời với con mắt tỉnh. Cái vô lí đó chính là sự khát khao sống đến vô biên và tột cùng. Nhà thơ muốn níu giữ thời gian, cuộc sống ấy cho riêng mình. Mọi chuyện đều có nguyên do của nó! Xuân Diệu thiết tha với cuộc sống như thế bởi ông đã tìm ra một thiên đường trên mặt đất. Cuộc sống đẹp nhất là cuộc sông trần thế. Với Thế Lữ thi nhân ta còn nuôi giấc mộng lên tiên, một giấc mộng rất xưa. Xuân Diệu đốt cảnh Bồng Lai và xua ai nấy về hạ giới (Thi nhân Việt Nam). Cuộc sống xung quanh ta là đẹp nhất, vậy thì dại gì mà không tận hưởng. Nhà thơ nhìn mùa xuân với tất cả sự say mê, cuồng nhiệt vồ vập: Của ong bướm này đây tuần tháng mật Này đây hoa của đồng nội xanh rì Này đây lá của cành tơ phơ phất Của yến anh này đây khúc tình si. Này đây., này đây… này đây… Tất cả như đang phơi bày ra trước mắt nhà thơ. Bức tranh thiên nhiên đang độ viên mãn, tràn đầy, chứa chan xuân tình, vừa gần gũi thân quen lại vừa mượt mà đầy sức sống. Xuân Diệu như đang vồ vập, ngấu nghiên, thâu tóm tất cả. Nhà thơ như con ong hút mật lạc vào vườn hoa đầy hương sắc. Với ông cái gì cũng hấp dẫn mới lạ. Và bằng cặp mắt xanh non cùa cái tôi cá nhân Xuân Diệu còn phát hiện ra thế giới này đẹp nhất, mê hồn nhất vẫn là vì có con người. Con người giữa tuổi trẻ và tình yêu. Nhà thơ lấy con người làm thước đo của cái đẹp. Cuộc sống trần thế đẹp nhất vào lúc xuân thì. Và con người chỉ tận hưởng được lúc đang còn trẻ. Song tuổi trẻ thì tàn phai theo thời gian, vì thế mà ông phải sống vội vàng, gấp gáp. Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân Nhà thơ tận hường cuộc sống một cách gấp gáp, vồ vập bởi một phút giây qua đi vĩnh viễn không trở lại. Mất mát sẽ đến nếu ta không chớp thời cơ. Có lẽ vì thế mà Xuân Diệu không chờ mùa hạ đến mới nhớ xuân mà ôm riết mùa xuân lúc tràn đầy, viên mãn nhất. Ham sống, khát sống, Xuân Diệu càng bàn khoăn hơn trước cuộc đời, thời gian. Ông đã nhận ra quy luật tuyến tính của thời gian, chống lại quy luật tuần hoàn của các cụ ngày xưa. Mỗi phút giây qua đi sẽ không bao giờ trở lại, tuổi trẻ cũng chỉ đến một lần. Nhà thơ mở lòng ra để yêu đời, yêu cuộc sống nhưng không được đời bu đắp, vì thế mà ông băn khoăn buồn chán cho thân phận của mình. Cảnh vật thiên nhiên giờ đây cũng mang đầy tâm trạng buồn bã, bàn khoăn, lo sợ… Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn Cơn gió xinh thì thào trong lá biếc Phải chăng sợ độ tàn phai sắp sửa? Nhận thức ra quy luật cùa thời gian, khát khao sống đến mãnh liệt. Xuân Diệu đã ôm ghì lấy cuộc sông, tận hưởng cuộc sống để không phí hoài đi thời gian, tuổi trẻ. Tình yêu cuộc sống lại bùng lên cuồng nhiệt hối hả. Ta muốn ôm Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn Ta muốn riết mày đưa và gió lượn Ta muốn say cánh bướm với tình yêu Ta muôn thâu trong một cái hôn nhiều Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi. Lòng yêu đời tràn lên một cao trào tình cảm. Hình ảnh thơ tươi mới, đầy sức sống. Và có lẽ tình yêu cuộc sống của nhà thơ tăng dần theo từng từ muốn, ôm đến riết là đã ghì chặt hơn. Và đã say – sự ngây ngất đến bất tỉnh vẫn chưa thỏa lòng – còn muốn thâu nghĩa là muốn thu hết tất cả để có sự hòa nhập làm một. Và cuối cùng là một tiếng kêu cùa sự cuồng nhiệt chưa bao giờ có trong thơ. Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi. Hình ảnh, ngôn từ, nhịp điệu của đoạn thơ đã bộc lộ rõ ràng lòng yêu đời cuồng nhiệt khiến nhà thơ phải hối hả, vội vàng đến với cuộc sống. Bài thơ là một quan niệm sống khá mới mẻ và táo bạo mà trước chưa từng có. Lối sống ở đây là lối sống biết hưởng thụ một cách chinh đáng, biết khẩn trương sống cho ra sống. Tuy nhiên ở Vội vàng, tác gia chỉ đề cập đến sống thiên về hưởng thụ, chạy theo thời gian. Ông kêu gọi mọi người hãy biết yêu và tận hưởng những gì cuộc sống ban tặng, hãy tranh thủ thời gian, tuổi trẻ sống đầy đủ nhất. Ông đã quên đi nghĩa vụ kêu gọi mọi người phải cống hiến cho cuộc đời. Và trong cuộc đời nhà thơ, ông vội vàng cống hiến chứ không phải vội vàng hưởng thụ. Học thơ Xuân Diệu, đặc biệt là qua bài thơ Vội vàng, ta càng thêm yêu cuộc sống hôm nay và càng góp phần làm cho cuộc sống đó thêm tươi đẹp, không chỉ vì cuộc sống hôm nay đã đổi mới, đã đẹp hơn nhiều lần so với cuộc sống ngày xưa của Xuân Diệu mà chủ yếu là không còn những bi kịch để thành những băn khoăn trước cuộc đời. Bức thông điệp nhà thơ gửi đến người đọc vẫn còn nguyên giá trị, được bồi đắp thêm qua thời gian và trường tồn vĩnh cửu. Hãy sống hết mình, cống hiến tuổi trẻ cho Tố quốc, nhân dân, đừng phí hoài thời gian. Hãy mở rộng lòng mình để đón nhận tất cả những vang động của cuộc đời. Đó là những gì mà Xuân Diệu còn giữ lại, nhắn gửi đến với người đọc của mình bức thông điệp xuyên qua thời gian, không gian, ngự trị muôn đời trong tâm hồn con người Việt Nam.
Bình luận về cách sống hòa nhã Hướng dẫn Bình luận về cách sống hòa nhã Lối sống là một trong những điều khiến nhiều người quan tâm và chia sẻ hiện nay. Bên cạnh là những người biết chia sẻ quan tâm tới người khác thì lối sống hòa nhã cũng được xem là một trong những điều khiến cho chúng ta cần phải học tập và rèn luyện. lối sống ấy không chỉ là duy trì mà còn được gieo mầm ở các thế hệ tiếp theo. Để một lối sống đẹp thì sẽ tạo ra nhiều người có lối sống đẹp lối sống văn minh. Hòa nhã từ xưa được hiểu là một tính cách của con người. lối sống hòa nhà cũng được xem là một phần của cuộc sống. khi con người sống ở thời đại văn minh, những nền văn hóa các nước được du nhập thì giữ gìn bản sắc là một thứ khiến cho chúng ta cần phải xem lại. hơn thế nữa, lối sống là một trong những điều mà chúng ta cần chú ý bởi nó ảnh hưởng tới mối quan hệ giữa người với người giưa cha mẹ với con cái, anh em bạn bè và cả những người xa lạ. Sống hòa nhã chính là lối sống chan hòa với mọi người. những người có lối sống hòa nhã thường là những người hòa đồng với mọi người. Họ luôn là những con người có thiện chí tốt đẹp và gần gũi với mọi người xung quanh. Hơn thế nữa họ có lối sống giản dị và chân hòa với mọi người. Họ luôn nở nụ cười với những người xung quanh và sẵn sàng chia sẻ những kinh nghiệm cũng như là đồng cảm với những người mà họ yêu quí. Sống hòa nhã còn là lối sống biết giúp đỡ người khác. Người xưa có câu một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ hay bầu ơi thương lấy bí cùng, tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn. Không thể phủ nhận được họ là những người khiến cho người khác vô cùng yêu mến và quí trọng. lòng tốt của họ không nhữn được thể hiện ở hành động mà còn là sức lan tỏa hành động muốn giúp đỡ mọi người với những người khác. Bên cạnh đó lời nói của những người có lối sống hòa nhã cũng cô cũng thân thiện. Họ làm cho người khác có cảm giác là đang sống trong một gia đình. Những người đó chính là những người anh em của họ vậy. cho nên những người có lối sống hòa nhã thường được nhiều người chú ý tới và muốn kết bạn giao hữu. Ngày nay không thiếu những người hám danh hám lợi những người máu lạnh lại có lối sống thiếu văn minh lịch sự. những con người đó chính là con sâu làm rầu nồi canh của một xã hội. CHúng ta cần phải biết để nhăc nhở khuyên răn hay cả là phát huy đối với những truyền thống và lối sống đẹp. Nguồn: Bài văn hay
Comment on how to live a peaceful life Instruct Comment on how to live a peaceful life Lifestyle is one of the things that many people care about and share today. Besides being people who know how to share and care for others, a gentle lifestyle is also considered one of the things we need to learn and practice. That lifestyle is not only maintained but also sown in the next generations. Having a beautiful lifestyle will create many people with beautiful lifestyles and civilized lifestyles. Gentleness has long been understood as a human trait. A harmonious lifestyle is also considered a part of life. When people live in a civilized age, cultures from other countries are imported, preserving identity is something we need to review. Furthermore, lifestyle is one of the things we need to pay attention to because it affects interpersonal relationships between parents and children, friends, brothers and even strangers. Living a gentle life is a way of living in harmony with everyone. People with a gentle lifestyle are often people who get along with everyone. They are always good-willed people and close to everyone around them. Moreover, they have a simple lifestyle and are friendly with everyone. They always smile at those around them and are willing to share experiences and sympathize with those they love. Living a gentle life is also a way of helping others. There is an old saying that if a horse is in pain, it will give up grass or gourds and take pumpkins. Even though they are of different breeds, they share the same trellis. It cannot be denied that they are people who make others extremely love and appreciate them. Their kindness is not only expressed in actions but also in the pervasiveness of their actions of wanting to help others. Besides, the words of people with a gentle lifestyle are also friendly. They make others feel like they are living in a family. Those people are their brothers. Therefore, people with a gentle lifestyle are often noticed by many people and want to make friends. Today there is no shortage of people who are greedy for fame and profit, cold-blooded people who have an uncivilized lifestyle. Those people are the worms that ruin the pot of a society. We need to know how to remind, advise or even promote beautiful traditions and lifestyles. Source: Good article
Đề bài: Một số thanh niên hiện nay vẫn cho rằng: "Chỉ có tiền tài và địa vị thì mới có hạnh phúc". Hãy dùng lập luận bác bỏ để phản bác tư tưởng đó. Bài làm Hạnh phúc là vấn đề luôn được mọi người quan tâm, đặc biệt là thanh niên khi họ bước vào ngưỡng cửa của cuộc sống. Trong nhiều quan niệm về hạnh phúc của họ, có một quan niệm rất cần được trao đổi, làm rõ: "Chỉ có tiền tài và địa vị thì mới có hạnh phúc”. Chỉ có tiền tài và địa vị thì mới có hạnh phúc? Câu nói nghe qua, có vẻ như đúng, đã khiến không ít thanh niên hiện nay dễ đồng tình chấp nhận. “Có tiền mua tiên cũng được”, đó không phải là hạnh phúc sao? Chưa hết, “mạnh vì gạo, bạo vì tiền”, tiền tài đem lại sức mạnh, quyền lực cho con người – cũng là một thứ “hạnh phúc” chứ sao? Còn địa vị thì khói phải nói, nó tạo ra nhiều thứ “hạnh phúc” cho con người: được “ân trên ngồi trốc”, xe đưa xe đón, lại có quyền thế, bổng lộc, nhiều người quỵ lụy… Những “hạnh phúc” đó là có thật và nhiều người mơ ước được như thế. Nhưng nghĩ lại mà xem, đó có phải là hạnh phúc chân chính, đích thực và bền vững cùa con người không? Không phải. Bởi vì, như Thác-cơ-rây, nhà văn Anh từng nói: “Tiền bạc không phải là vạn năng. Nó có thế mua được nhà cửa, nhưng không mua được gia đình. Nó có thể mua được cánh hầu, nhưng không mua được tình bạn…” Ở đây, gia đình và tình bạn mới là hạnh phúc chân chính thì tiền bạc không thể mua được. Cũng vậy, những thứ mà địa vị tạo ra trên đây đâu phải là hạnh phúc đích thực của con người. Thành ra, xét cho cùng, tiền tài và địa vị có thể xem như là một phương tiện, một điều kiện trong rất nhiều phương tiện, điều kiện để con người có hạnh phúc. (Ấy là chưa nói đến, có khi chính tiền tại và địa vị lại làm cho con người hư hỏng, tha hóa, bất hạnh như đã từng xảy ra trong cuộc sống). Bản thân tiền tài và địa vị không tạo ra hạnh phúc chân chính cho con người. Câu nói trên không chỉ sai lầm ở chỗ đã tuyệt đối hóa tiền tài và địa vị trong việc đem lại hạnh phúc cho con người (“Chỉ có…”) mà còn thể hiện một quan niệm cũ kĩ và lỗi thời về hạnh phúc: một thứ hạnh phúc tầm thường nhờ tiền tài và địa vị mà có được. Còn hạnh phúc chân chính, đích thực và bền vững của con người thì phái do các yếu tố khác tạo ra. Các Mác nói: "Hạnh phúc là đấu tranh”. Domat cho rằng: “Có ba điều để tạo nên hạnh phúc: thân thể khỏe mạnh, tinh thần minh mẫn và một trái tim trong sạch" Nhiều bạn trẻ ngày nay cho rằng: Hạnh phúc là được chia sẻ, thương yêu, được cống hiến và hưởng thụ một cách hợp lí. Ai biết tạo ra sự hài hòa giữa hạnh phúc cá nhân và hạnh phúc tập thể, người đó mới có hạnh phúc thật sự.
Topic: Some young people today still think: "Only money and status can bring happiness." Use rebuttal arguments to refute that idea. Assignment Happiness is an issue that is always of concern to everyone, especially young people when they enter the threshold of life. Among their many concepts about happiness, there is one concept that really needs to be discussed and clarified: "Only money and status can bring happiness." Only money and status can bring happiness? This saying seems to be true, and has made many young people today easily agree and accept it. "If you have money, you can buy fairy", isn't that happiness? And yet, "strong for rice, violent for money", money brings strength and power to people - is it also a kind of "happiness"? As for status, it must be said that it creates many types of "happiness" for people: being "seated on top", being picked up by a car, having power, benefits, many people being subservient... These "happiness" happiness" is real and many people dream of being like that. But think again, is that true, authentic and lasting happiness for humans? Not. Because, as Thac-cray, the English writer once said: "Money is not omnipotent. It can buy a house, but not a family. It can buy concubines, but it can't buy friendship..." Here, family and friendship are true happiness that money cannot buy. Likewise, the things that status creates above are not true human happiness. So, in the end, money and status can be seen as a means, a condition among many means, conditions for people to be happy. (Not to mention, sometimes it is money and status that make people corrupt, alienated, and unhappy as has happened in life). Money and status by themselves do not create true happiness for people. The above statement is not only wrong in that it absolutizes money and status in bringing happiness to people ("Only...") but also represents an old and outdated concept of happiness: a kind of ordinary happiness that comes from money and status. As for true, authentic and sustainable human happiness, it is created by other factors. Marx said: "Happiness is a struggle." Domat said: "There are three things to create happiness: a healthy body, a clear mind and a clean heart." Many young people today think: Happiness is being shared, loved, devoted and enjoyed in a reasonable way. Who knows how to create harmony between personal happiness and collective happiness, that person will have true happiness.
Đề bài: Bình luận về câu nói "Nếu không có mục đích, anh không làm được gì cả. Anh cũng không làm được cái gì vĩ đại nếu như mục đích tầm thường". Bài làm Mục đích là kim chỉ nam của con người cho nên con người không thể sống, làm việc mà không có mục đích nào cả. Trong xã hội, có người công thành danh toại, cũng có kẻ suốt đời lao đao, lận đận chẳng làm nên chuyện gì đáng kể. Có người sống không hề băn khoăn về mục đích sống, tựa như con tàu ra biển không xác định hướng đi, sống không ai biết, chết chẳng ai hay. Lại có người ý đồ thì rất lớn mà sự nghiệp rất nhỏ. Chuyện thành công hay thất bại do rất nhiều nguyên nhân tạo nên, trong đó chủ yếu là mục đích. Nhà văn Pháp nổi tiếng Điđơro đã nhận xét: “Nếu không có mục đích, anh không làm được gì cả, anh cũng không làm được cái gì vĩ đại nếu như mục đích tầm thường”. Câu nói của ông muốn đề cập đến tính mục đích của mọi công việc, mọi hoạt động của con người. Con người phải có mục đích sống. Mục đích sống tốt đẹp là nguồn động viên con người phấn đấu để đạt được kết quả tốt đẹp hơn, sống hữu ích hơn trong xã hội. Nếu không có mục đích, anh không làm được gì cả. Anh cũng không làm được cái gì vĩ đại nếu như mục đích tầm thường Nhận xét trên của Điđơro hoàn toàn chính xác. Trong đời sống hàng ngày, thường khi bắt tay vào làm một việc gì, người ta đều đặt ra mục đích của công việc đó. Vậy mục đích là gì? Mục đích là yêu cầu đặt ra trước khi thực hiện một công việc. Chúng ta có thể hiểu một cách đơn giản rằng mục đích chính là cái mà ta cần phải phấn đấu để đạt được trong quá trình thực hiện công việc, là kết quả cuối cùng phải đạt được mà con người xác định trước khi hành động. Nó sẽ hướng mọi suy nghĩ, hành động, tập trung ý chí, nghị lực của con người để đạt được yêu cầu đã đặt ra. Mục đích là kim chỉ nam của con người cho nên con người không thể sống, làm việc mà không có mục đích nào cả. Khác với mọi loài thú khác sống theo bản năng tự nhiên, con người có trí tuệ, soi sáng nên thường đặt ra yêu cầu cụ thể trước mỗi việc làm hay còn gọi là mục tiêu hành động và trí tuệ chi phối mọi suy nghĩ. Loài người thường dùng lí trí để phân biệt đúng sai, nên hay không nên khi hành động. Hành động thiếu mục đích thường không có hiệu quả. Trước khi làm một việc gì, con người thường đặt ra mục đích cần phải đạt đưực rồi tìm mọi cách để thực hiện mục đích ấy. Từ trước tới nay, đã có biết bao nhà bác học nghiên cứu, tìm tòi, sáng tạo trên mọi lĩnh vực để đem lại những kết quả tốt đẹp nhất, nhằm mục đích giúp ích cho đời sống con người. Mục đích sẽ mở ra phương hướng, dẫn dẵn mọi hoạt động của con người. Có mục đích, con người mới có động lực thúc đẩy trong công việc, có niềm vui và niềm tin vào việc mình làm. Ngược lại, nếu sống không có mục đích, con người sẽ trở nên thụ động, bạc nhược và vô dụng, cuộc đời mất hết ý nghĩa. Trăm ngàn công việc với trăm ngàn mục đích khác nhau; mục đích có lớn, nhỏ, xấu, tốt, tầm thường. Mỗi người đều có một mục đích sống riêng của mình. Tầm quan trọng của mục đích là điều ai cũng phải công nhận nhưng mục đích như thế nào là chuyện cần bàn. Điđơro rất có lí khi nói: Anh cũng sẽ không làm được cái gì vĩ đại nếu như mục đích tầm thường. Thế nào là mục đích tầm thường? Một kẻ chỉ nghĩ đến quyền lợi của cá nhân, làm gì cũng chỉ nhằm đạt kết quả cho cá nhân mình, cho gia đình mình mà không nghĩ đến quyền lợi của những người xung quanh thì mục đích ấy là mục đích tầm thường, ích kỉ. Cách sống của người đó không có ích cho toàn thể cộng đồng. Bên cạnh đó, không ít người sống có mục đích cao thượng tốt đẹp. Họ là những con người có ích cho xã hội, gia đình và suốt đời cống hiến cho dân, cho đất nước, không màng gì đến bản thân. Họ sẵn sàng hi sinh tất cả để đất nước ngày càng giàu đẹp, nhân dân ngày càng sung sướng. Động cơ nào thúc đẩy họ làm việc quên mình nếu không phải là mục đích đẹp đẽ và cao thượng? Như vậy, mục đích cao thượng chính là ngọn đuốc chỉ đường, là nguồn sức mạnh động viên con người tập trung ý chí, nghị lực và trí tuệ để thực hiện mọi công việc. Nhờ có mục đích lớn và tinh thần làm việc không mệt mỏi mà các nhà khoa học đã sáng tạo ra bao công trình vĩ đại cho nhân loại. Thực tế lịch sử cho thấy những tên tuổi lưu danh muôn đời đều là những người có mục đích sống lớn lao, cao cả. Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Nguyễn Trãi, Quang Trung, Hồ Chí Minh… cùng chung một khát vọng: bảo vệ Tổ quốc, đánh đuổi ngoại xâm, giành chủ quyền độc lập, tự do, thiêng liêng cho dân lộc. Công lao to lớn của các vị anh hùng đó đời đời được nhân dân ca tụng và ghi nhớ. Trong hoàn cảnh đổi mới hiện nay, các vị lãnh đạo Đảng và Nhà nước ta ngày đêm trăn trở, tìm hướng đi đúng đắn nhất để khôi phục và phát triển kinh tế, nâng cao mức sống cho nhân dân, xây dựng một đất nước Việt Nam giàu mạnh như Bác Hồ hằng mong muốn. Đó là mục đích tốt đẹp. Mục đích đó đã tạo ra sức bật mới cho toàn dân tộc. Nhân dân ta bước đầu đã gặt hái được những thành công đáng kể. Trong thời đại mới, sức mạnh của mỗi dân tộc không chỉ ở lòng dũng cảm và số lượng đông đảo quân đội như trước đây. Ngày nay, sức mạnh của mỗi dân tộc là sức mạnh của trí tuệ, của khoa học kĩ thuật và kinh tế phồn vinh. Các cường quốc trên thế giới đều là những nước kinh tế phát triển cao. Đối với nước ta, điều đó chỉ thực hiện được khi chủ nhân của đất nước là những người có trình độ văn hóa khoa học kĩ thuật cao, có khả năng hòa nhập với trình độ của thế giới. Muốn vậy, không có cách nào khác là chúng ta ra sức học tập thật tốt, học hỏi không ngừng. Mục đích học tập tốt sẽ có tác dụng rất lớn đến việc hình thành và phát triển nhân cách. Nó làm cho con người ngày càng trở nên hoàn thiện hơn, hữu ích hơn cho gia đình, xã hội. Là thành viên còn nhỏ tuổi trong gia đình và xã hội, được cha mẹ cho cắp sách đến trường, liệu có ai đặt câu hỏi: Học để làm gì hay không? Nếu chúng ta xác định không đúng thì dễ nản lòng khi gặp khó khăn trong học tập. Quá trình học tập từ lớp 1 đến lớp 12 phải là quá trình rèn luyện phấn đấu không mệt mỏi của người học sinh. Vậy học để làm gì? Học để nay mai bước vào đời có một vốn kiến thức tối thiểu để làm người. Học để hiểu được điều hay lẽ phải. Học để khi trưởng thành có thể làm việc tự nuôi mình, giúp gia đình và giúp đời. Nhưng mục đích tốt đẹp của mỗi người không phải tự nhiên mà có. Nó là kết quả của một quá trình rèn luyện và phấn đấu lâu dài của mỗi cá nhân. Ớ lứa tuổi học sinh chúng ta, mục đích cao đẹp không phải là cái gì xa xôi, khó đạt tới. Chúng ta cần có nhận thức đúng đắn: Học tập là để nâng cao trình độ hiểu biết, nắm vững khoa học kĩ thuật, sau này dùng những tri thức đã học được để phục vụ đồng bào, Tổ quốc. Việc học tập của chúng ta hôm nay sẽ quyết định tương lai đất nước ngày mai. Như vậy là chúng ta đã có được mục đích tốt đẹp. Câu nói của nhà văn Pháp Điđơro thật thấu tình đạt lí.
Đề bài: Bình luận về câu nói "Nếu không có mục đích, anh không làm được gì cả. Anh cũng không làm được cái gì vĩ đại nếu như mục đích tầm thường". Bài làm Mục đích là kim chỉ nam của con người cho nên con người không thể sống, làm việc mà không có mục đích nào cả. Trong xã hội, có người công thành danh toại, cũng có kẻ suốt đời lao đao, lận đận chẳng làm nên chuyện gì đáng kể. Có người sống không hề băn khoăn về mục đích sống, tựa như con tàu ra biển không xác định hướng đi, sống không ai biết, chết chẳng ai hay. Lại có người ý đồ thì rất lớn mà sự nghiệp rất nhỏ. Chuyện thành công hay thất bại do rất nhiều nguyên nhân tạo nên, trong đó chủ yếu là mục đích. Nhà văn Pháp nổi tiếng Điđơro đã nhận xét: “Nếu không có mục đích, anh không làm được gì cả, anh cũng không làm được cái gì vĩ đại nếu như mục đích tầm thường”. Câu nói của ông muốn đề cập đến tính mục đích của mọi công việc, mọi hoạt động của con người. Con người phải có mục đích sống. Mục đích sống tốt đẹp là nguồn động viên con người phấn đấu để đạt được kết quả tốt đẹp hơn, sống hữu ích hơn trong xã hội. Nếu không có mục đích, anh không làm được gì cả. Anh cũng không làm được cái gì vĩ đại nếu như mục đích tầm thường Nhận xét trên của Điđơro hoàn toàn chính xác. Trong đời sống hàng ngày, thường khi bắt tay vào làm một việc gì, người ta đều đặt ra mục đích của công việc đó. Vậy mục đích là gì? Mục đích là yêu cầu đặt ra trước khi thực hiện một công việc. Chúng ta có thể hiểu một cách đơn giản rằng mục đích chính là cái mà ta cần phải phấn đấu để đạt được trong quá trình thực hiện công việc, là kết quả cuối cùng phải đạt được mà con người xác định trước khi hành động. Nó sẽ hướng mọi suy nghĩ, hành động, tập trung ý chí, nghị lực của con người để đạt được yêu cầu đã đặt ra. Mục đích là kim chỉ nam của con người cho nên con người không thể sống, làm việc mà không có mục đích nào cả. Khác với mọi loài thú khác sống theo bản năng tự nhiên, con người có trí tuệ, soi sáng nên thường đặt ra yêu cầu cụ thể trước mỗi việc làm hay còn gọi là mục tiêu hành động và trí tuệ chi phối mọi suy nghĩ. Loài người thường dùng lí trí để phân biệt đúng sai, nên hay không nên khi hành động. Hành động thiếu mục đích thường không có hiệu quả. Trước khi làm một việc gì, con người thường đặt ra mục đích cần phải đạt đưực rồi tìm mọi cách để thực hiện mục đích ấy. Từ trước tới nay, đã có biết bao nhà bác học nghiên cứu, tìm tòi, sáng tạo trên mọi lĩnh vực để đem lại những kết quả tốt đẹp nhất, nhằm mục đích giúp ích cho đời sống con người. Mục đích sẽ mở ra phương hướng, dẫn dẵn mọi hoạt động của con người. Có mục đích, con người mới có động lực thúc đẩy trong công việc, có niềm vui và niềm tin vào việc mình làm. Ngược lại, nếu sống không có mục đích, con người sẽ trở nên thụ động, bạc nhược và vô dụng, cuộc đời mất hết ý nghĩa. Trăm ngàn công việc với trăm ngàn mục đích khác nhau; mục đích có lớn, nhỏ, xấu, tốt, tầm thường. Mỗi người đều có một mục đích sống riêng của mình. Tầm quan trọng của mục đích là điều ai cũng phải công nhận nhưng mục đích như thế nào là chuyện cần bàn. Điđơro rất có lí khi nói: Anh cũng sẽ không làm được cái gì vĩ đại nếu như mục đích tầm thường. Thế nào là mục đích tầm thường? Một kẻ chỉ nghĩ đến quyền lợi của cá nhân, làm gì cũng chỉ nhằm đạt kết quả cho cá nhân mình, cho gia đình mình mà không nghĩ đến quyền lợi của những người xung quanh thì mục đích ấy là mục đích tầm thường, ích kỉ. Cách sống của người đó không có ích cho toàn thể cộng đồng. Bên cạnh đó, không ít người sống có mục đích cao thượng tốt đẹp. Họ là những con người có ích cho xã hội, gia đình và suốt đời cống hiến cho dân, cho đất nước, không màng gì đến bản thân. Họ sẵn sàng hi sinh tất cả để đất nước ngày càng giàu đẹp, nhân dân ngày càng sung sướng. Động cơ nào thúc đẩy họ làm việc quên mình nếu không phải là mục đích đẹp đẽ và cao thượng? Như vậy, mục đích cao thượng chính là ngọn đuốc chỉ đường, là nguồn sức mạnh động viên con người tập trung ý chí, nghị lực và trí tuệ để thực hiện mọi công việc. Nhờ có mục đích lớn và tinh thần làm việc không mệt mỏi mà các nhà khoa học đã sáng tạo ra bao công trình vĩ đại cho nhân loại. Thực tế lịch sử cho thấy những tên tuổi lưu danh muôn đời đều là những người có mục đích sống lớn lao, cao cả. Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Nguyễn Trãi, Quang Trung, Hồ Chí Minh… cùng chung một khát vọng: bảo vệ Tổ quốc, đánh đuổi ngoại xâm, giành chủ quyền độc lập, tự do, thiêng liêng cho dân lộc. Công lao to lớn của các vị anh hùng đó đời đời được nhân dân ca tụng và ghi nhớ. Trong hoàn cảnh đổi mới hiện nay, các vị lãnh đạo Đảng và Nhà nước ta ngày đêm trăn trở, tìm hướng đi đúng đắn nhất để khôi phục và phát triển kinh tế, nâng cao mức sống cho nhân dân, xây dựng một đất nước Việt Nam giàu mạnh như Bác Hồ hằng mong muốn. Đó là mục đích tốt đẹp. Mục đích đó đã tạo ra sức bật mới cho toàn dân tộc. Nhân dân ta bước đầu đã gặt hái được những thành công đáng kể. Trong thời đại mới, sức mạnh của mỗi dân tộc không chỉ ở lòng dũng cảm và số lượng đông đảo quân đội như trước đây. Ngày nay, sức mạnh của mỗi dân tộc là sức mạnh của trí tuệ, của khoa học kĩ thuật và kinh tế phồn vinh. Các cường quốc trên thế giới đều là những nước kinh tế phát triển cao. Đối với nước ta, điều đó chỉ thực hiện được khi chủ nhân của đất nước là những người có trình độ văn hóa khoa học kĩ thuật cao, có khả năng hòa nhập với trình độ của thế giới. Muốn vậy, không có cách nào khác là chúng ta ra sức học tập thật tốt, học hỏi không ngừng. Mục đích học tập tốt sẽ có tác dụng rất lớn đến việc hình thành và phát triển nhân cách. Nó làm cho con người ngày càng trở nên hoàn thiện hơn, hữu ích hơn cho gia đình, xã hội. Là thành viên còn nhỏ tuổi trong gia đình và xã hội, được cha mẹ cho cắp sách đến trường, liệu có ai đặt câu hỏi: Học để làm gì hay không? Nếu chúng ta xác định không đúng thì dễ nản lòng khi gặp khó khăn trong học tập. Quá trình học tập từ lớp 1 đến lớp 12 phải là quá trình rèn luyện phấn đấu không mệt mỏi của người học sinh. Vậy học để làm gì? Học để nay mai bước vào đời có một vốn kiến thức tối thiểu để làm người. Học để hiểu được điều hay lẽ phải. Học để khi trưởng thành có thể làm việc tự nuôi mình, giúp gia đình và giúp đời. Nhưng mục đích tốt đẹp của mỗi người không phải tự nhiên mà có. Nó là kết quả của một quá trình rèn luyện và phấn đấu lâu dài của mỗi cá nhân. Ớ lứa tuổi học sinh chúng ta, mục đích cao đẹp không phải là cái gì xa xôi, khó đạt tới. Chúng ta cần có nhận thức đúng đắn: Học tập là để nâng cao trình độ hiểu biết, nắm vững khoa học kĩ thuật, sau này dùng những tri thức đã học được để phục vụ đồng bào, Tổ quốc. Việc học tập của chúng ta hôm nay sẽ quyết định tương lai đất nước ngày mai. Như vậy là chúng ta đã có được mục đích tốt đẹp. Câu nói của nhà văn Pháp Điđơro thật thấu tình đạt lí.
Đề bài: Nói về giá trị của sách, nhà văn M.Goocki có viết: “Sách mở rộng ra trước mắt tôi những chân trời mới”. Anh (chị) hãy giải thích và bình luận ý kiến trên. Bài làm Sách còn giúp người đọc phát hiện ra chính mình, hiểu rõ mình là ai giữa vũ trụ bao la này, hiểu mỗi người có mối quan hệ như thế nào với người khác, với tất cả mọi người trong cộng đồng dân tộc và cộng đồng nhân loại này. Sách giúp cho người đọc hiểu được đâu là hạnh phúc, đâu là nỗi khổ của mỗi người và phải làm gì để sống cho đúng và để đi tới một cuộc đời thật sự. Từ một cậu bé mồ côi, thất học, Alexei Peshkow đã vươn lên trở thành M.Goocki – nhà văn nổi tiếng thế giới, nhà văn bậc thầy của giai cấp vô sản, con người được nhân dân thế giới kính trọng vì một vốn hiểu biết văn hóa vừa rộng lớn vừa sâu sắc. Nhờ đâu? Nhờ một nghị lực sống phi thường đã tìm gặp được một thứ tài sản phi thường: sách. Nói đến M.Goocki, không thể không nói đến tự học, do đó không thể không nói đến sách. Chính ông đã nói đến tác động to lớn của sách đối với mình trong một lời phát biểu giản dị: “Sách mở ra trước mắt tôi những chân trời mới”. Câu nói ấy hàm chứa một ý nghĩa phong phú và một chân lí, một lời khuyên. Từ lâu con người đã biết đến sự kì diệu của sách. Sách, đó là cái thần kì trong những cái thần kì mà nhân loại đã sáng tạo nên. Thật không thể hình dung một nền văn minh mà không có sách. Từ hàng nghìn năm trước, khi chưa có chữ in, chưa có máy in, chưa có cả giấy bút nữa, thì nhân loại đã nghĩ đến sách rồi, đã có những hình thức đầu tiên của sách rồi. Sách là cái cần có để con người lưu giữ và truyền lại cho người khác, cho thế hệ khác, những hiểu biết của mình về thế giới xung quanh, những khám phá về vũ trụ và con người, cả những ý nghĩ, những quan niệm, những mong muốn về cuộc sống cần gửi đến cho mọi người và trao gửi đến đời sau. Sách mở rộng ra trước mắt tôi những chân trời mới Sách, đó là kho tàng chứa đựng những hiểu biết của con người đã được khám phá, chọn lọc, thử thách, tổng hợp. Sách là nơi kết tinh những tư tưởng tiên tiến nhất của các thời đại, những hoài bão mạnh mẽ nhất, những tình cảm tha thiết nhất của con người. Chỉ có những gì mà con người cảm thấy bức xúc cần nói lên, cần truyền lại, mới đi vào sách. Tác động của sách không hề bị giới hạn bởi thời gian và không gian. Con người ngày nay vẫn không hề giảm sút những thú tìm lại những trang sách đã có hàng mấy nghìn năm nay, từ những hình vẽ bí hiểm trên những miếng đất sét, những chữ cái từ lâu đã trở nên lạ lùng trên các tấm da cừu, những con chữ tượng hình trên các thẻ tre… cho đến hôm nay, những cuốn sách được in hàng loạt bằng những máy in điện tử hiện đại. Một người sống ở một làng hẻo lánh châu Á cũng có thể đọc được cuốn sách của một người viết từ một đất nước xa xôi từ châu Mỹ. Thật có thể nói không ngoa rằng: có sách, các thế kỉ và dân tộc xích lại gần nhau. Sách là thế, sách có sức mạnh như thế, cho nên M.Goocki đã rất có lí khi nói: "Sách mở rộng ra trước mắt tôi những chân trời mới". Sách đưa đến cho người đọc những hiểu biết mới về thế giới xung quanh, về vũ trụ bao la, về những đất nước và những dân tộc xa xôi. Những quyển sách khoa học có thể giúp người đọc khám phá ra vũ trụ vô tận với những qui luật của nó, hiểu được quả đất tròn mang trên mình nó hao nhiêu đất nước khác nhau với những hoàn cảnh thiên nhiên khác nhau. Những quyển sách xã hội học lại giúp ta hiểu biết về đời sống con người trên các phần đất khác nhau đó với những đặc điểm về kinh tế, lịch sử, văn hóa, những truyền thống, những khát vọng. Sách, đặc biệt là những cuốn sách về văn chương, giúp ta hiểu biết về đời sống bên trong của con người, qua các thời kì khác nhau, ở các dân tộc khác nhau, những niềm vui và nỗi buồn, hạnh phúc và đau khổ, những khát vọng và đấu tranh của họ. Sách còn giúp người đọc phát hiện ra chính mình, hiểu rõ mình là ai giữa vũ trụ bao la này, hiểu mỗi người có mối quan hệ như thế nào với người khác, với tất cả mọi người trong cộng đồng dân tộc và cộng đồng nhân loại này. Sách giúp cho người đọc hiểu được đâu là hạnh phúc, đâu là nỗi khổ của mỗi người và phải làm gì để sống cho đúng và để đi tới một cuộc đời thật sự. Sách mở rộng những chân trời ước mơ và khát vọng. Đã có những cuốn sách không chỉ "mở rộng những chân trời mới" cho một người, trăm người, triệu người, mà cho cả nhân loại. Những trang sách của Brunô, Galilê về quả đất và thái dương hệ đã mở ra cho loài người một thời kì mới trên con đường chinh phục tự nhiên. Những cuốn sách của Dacuyn về các giống loài không chỉ giúp người hiểu rõ về các giống loài sinh vật mà còn hiểu rõ hơn về chính con người. Sách của Sếcpia, của Điđơrô, Môngtexkiư rồi Mac, Enghen…thật sự đã giúp con người làm những cuộc cách mạng. Đọc Bandắc ta hiểu về thế giới tư bản với sức mạnh lạnh lùng của đồng tiền. Đọc thơ Tago, thơ Lí Bạch, Đỗ Phủ, ta hiểu đời sống và tâm hồn của các dân tộc. Đọc Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Cao Bá Quát… ta hiểu xưa kia cha ông ta từng mong mỏi và mơ ước những gì… Thật không sao kể hết “những chân trời" mà các tran g sách đã mở rộng ra trước mắt ta. Có thể nói một cách tóm tắt rằng: lợi ích của sách là vô tận. Ta đồng ý với lời nhận xét của G.Moocki cũng là tiếp nhận lời khuyên bảo tốt đẹp trong câu nói ấy: Hãy đọc sách, cố gắng đọc sách càng nhiều càng tốt. Tuy nhiên, chẳng lẽ đó là một lời khuyên vô điều kiện? Ngẫm cho kĩ, ta vẫn thấy có một khoảng trống cần cân nhắc trong lời khuyên ấy. Vì sao? Vì không phải mọi quyển sách đều "mở rộng chân trời mới”. Từ khi xuất hiện chủ nghĩa tư bản, mọi vật dụng của con người, trong đó có sách, đều trở thành hàng hóa. Sách không chỉ là cái do con người viết ra cho người đọc, mà còn là một món hàng cho những ông chủ nhà sách kiếm lời. Mục đích của những ông chủ ấy, nói chung, không phải là phục vụ nhân loại mà là để kiếm lợi nhuận, lợi nhuận tối đa. Vì thế, trên thị trường sách, không phải bao giờ cũng chỉ có những cuốn sách tốt, thực sự phục vụ mục đích cao cả của con người, mà còn rất nhiều những cuốn sách vì mục đích kiếm lời, đã gây tác hại không nhỏ cho con người (dẫn chứng hiện tượng xuất bản xô bồ). Thế nào là sách tốt? Đó là những cuốn sách phản ứng chính xác qui luật của tự nhiên và đời sống của xã hội. Chúng giúp con người hiểu rõ về số phận của mình để có ý thức đúng về nghĩa vụ của mình trong đời sống. Một cuốn sách tốt phải giúp cho các dân tộc hiểu biết nhau hơn để gần gũi nhau hơn. Nó phải ca ngợi sự công bằng và tình hữu nghị giữa các dân tộc. Nó phải khiến cho con người thêm tự hào về mình, thêm vững tin ở cuộc sống để chiến đấu cho cuộc sống mỗi ngày một hợp lí và hạnh phúc hơn. Nó phải khiến cho tâm hồn con người trở nên phong phú hơn, trong sáng hơn (dẫn chứng vài tác phẩm). Đọc những cuốn sách như thế, đúng là chân trời mở rộng không chỉ trước mắt ta mà còn cả trong tâm hồn ta. Ta không chỉ tăng thêm hiểu biết mà còn tăng thêm giá trị sức mạnh. Còn thế nào là sách xấu? Đó là những cuốn sách xuyên tạc đời sống, đưa đến cho người đọc những kiến thức dối trá về thế giới xung quanh. Chúng đề cao dân tộc này mà bôi nhọ dân tộc kia, chúng gây thù hằn và ngờ vực giữa các dân tộc, đề cao bạo lực và chiến tranh, kích động những thị hiếu bản năng thấp hèn của con người (dẫn chứng vài tác phẩm). Đọc những cuốn sách như thế, người đọc không những tăng thêm hiểu biết mà còn trở nên dốt nát, mê muội hơn. Đọc những cuốn sách như thế, tâm hồn người đọc không những không hề mở rộng chân trời mà còn thêm khô cằn vì những ước muốn tầm thường ích kỉ những linh cảm bạc nhược đê hèn. Sách có thể là một thứ thuốc bồi dưỡng cực kì công hiệu, cũng có thể là một thứ ma túy, một thứ thuốc độc cực kì tai hại. Bởi vậy, từ câu nói của nhà văn vô sản Nga, ta có thể tự xác định cho mình một thái độ đối với sách. Trước hết, phải biết quý trọng sách và coi việc đọc sách là một công việc rất cần thiết, vừa rất thú vị vừa rất bổ ích. Sống mà không đọc sách, không ham mê sách là một điều không thể chấp nhận. Nhưng phải biết chọn sách để đọc. Không bị mê hoặc bởi sự hấp dẫn của hình thức, không thể bị lôi cuốn bởi những thị hiếu tầm thường, phải tìm đến những cuốn sách thực sự tốt, có ích. Mặt khác, đọc sách không chỉ là sự hưởng thụ, mà còn là một cách hành động ở đời. Cho nên, đọc sách là để rút ra những bài học bổ ích cho cuộc sống tốt hơn, hành động có hiệu quả hơn. Đọc sách mà không tiêu hóa được, không vận dụng được vào hành động, thì dẫu đọc hàng nghìn cuốn sách cũng không hơn gì cái tủ mọt đựng sách. Hàng ngàn năm qua, con người đã sáng tạo ra sách và ham mê đọc sách. Nhưng nếu xưa kia niềm vui ấy chỉ là đặc quyền của một số người rất nhỏ thì ngày nay là niềm vui, là quyền lợi của cả con người bé nhỏ, bình thường. Sách vẫn tiếp tục phát huy tác dụng kì diệu của nó. Ta không thể hình dung một thế giới không có sách. Không có sách, nền văn minh nhân loại sẽ không còn.
Đề bài: Nói về giá trị của sách, nhà văn M.Goocki có viết: “Sách mở rộng ra trước mắt tôi những chân trời mới”. Anh (chị) hãy giải thích và bình luận ý kiến trên. Bài làm Sách còn giúp người đọc phát hiện ra chính mình, hiểu rõ mình là ai giữa vũ trụ bao la này, hiểu mỗi người có mối quan hệ như thế nào với người khác, với tất cả mọi người trong cộng đồng dân tộc và cộng đồng nhân loại này. Sách giúp cho người đọc hiểu được đâu là hạnh phúc, đâu là nỗi khổ của mỗi người và phải làm gì để sống cho đúng và để đi tới một cuộc đời thật sự. Từ một cậu bé mồ côi, thất học, Alexei Peshkow đã vươn lên trở thành M.Goocki – nhà văn nổi tiếng thế giới, nhà văn bậc thầy của giai cấp vô sản, con người được nhân dân thế giới kính trọng vì một vốn hiểu biết văn hóa vừa rộng lớn vừa sâu sắc. Nhờ đâu? Nhờ một nghị lực sống phi thường đã tìm gặp được một thứ tài sản phi thường: sách. Nói đến M.Goocki, không thể không nói đến tự học, do đó không thể không nói đến sách. Chính ông đã nói đến tác động to lớn của sách đối với mình trong một lời phát biểu giản dị: “Sách mở ra trước mắt tôi những chân trời mới”. Câu nói ấy hàm chứa một ý nghĩa phong phú và một chân lí, một lời khuyên. Từ lâu con người đã biết đến sự kì diệu của sách. Sách, đó là cái thần kì trong những cái thần kì mà nhân loại đã sáng tạo nên. Thật không thể hình dung một nền văn minh mà không có sách. Từ hàng nghìn năm trước, khi chưa có chữ in, chưa có máy in, chưa có cả giấy bút nữa, thì nhân loại đã nghĩ đến sách rồi, đã có những hình thức đầu tiên của sách rồi. Sách là cái cần có để con người lưu giữ và truyền lại cho người khác, cho thế hệ khác, những hiểu biết của mình về thế giới xung quanh, những khám phá về vũ trụ và con người, cả những ý nghĩ, những quan niệm, những mong muốn về cuộc sống cần gửi đến cho mọi người và trao gửi đến đời sau. Sách mở rộng ra trước mắt tôi những chân trời mới Sách, đó là kho tàng chứa đựng những hiểu biết của con người đã được khám phá, chọn lọc, thử thách, tổng hợp. Sách là nơi kết tinh những tư tưởng tiên tiến nhất của các thời đại, những hoài bão mạnh mẽ nhất, những tình cảm tha thiết nhất của con người. Chỉ có những gì mà con người cảm thấy bức xúc cần nói lên, cần truyền lại, mới đi vào sách. Tác động của sách không hề bị giới hạn bởi thời gian và không gian. Con người ngày nay vẫn không hề giảm sút những thú tìm lại những trang sách đã có hàng mấy nghìn năm nay, từ những hình vẽ bí hiểm trên những miếng đất sét, những chữ cái từ lâu đã trở nên lạ lùng trên các tấm da cừu, những con chữ tượng hình trên các thẻ tre… cho đến hôm nay, những cuốn sách được in hàng loạt bằng những máy in điện tử hiện đại. Một người sống ở một làng hẻo lánh châu Á cũng có thể đọc được cuốn sách của một người viết từ một đất nước xa xôi từ châu Mỹ. Thật có thể nói không ngoa rằng: có sách, các thế kỉ và dân tộc xích lại gần nhau. Sách là thế, sách có sức mạnh như thế, cho nên M.Goocki đã rất có lí khi nói: "Sách mở rộng ra trước mắt tôi những chân trời mới". Sách đưa đến cho người đọc những hiểu biết mới về thế giới xung quanh, về vũ trụ bao la, về những đất nước và những dân tộc xa xôi. Những quyển sách khoa học có thể giúp người đọc khám phá ra vũ trụ vô tận với những qui luật của nó, hiểu được quả đất tròn mang trên mình nó hao nhiêu đất nước khác nhau với những hoàn cảnh thiên nhiên khác nhau. Những quyển sách xã hội học lại giúp ta hiểu biết về đời sống con người trên các phần đất khác nhau đó với những đặc điểm về kinh tế, lịch sử, văn hóa, những truyền thống, những khát vọng. Sách, đặc biệt là những cuốn sách về văn chương, giúp ta hiểu biết về đời sống bên trong của con người, qua các thời kì khác nhau, ở các dân tộc khác nhau, những niềm vui và nỗi buồn, hạnh phúc và đau khổ, những khát vọng và đấu tranh của họ. Sách còn giúp người đọc phát hiện ra chính mình, hiểu rõ mình là ai giữa vũ trụ bao la này, hiểu mỗi người có mối quan hệ như thế nào với người khác, với tất cả mọi người trong cộng đồng dân tộc và cộng đồng nhân loại này. Sách giúp cho người đọc hiểu được đâu là hạnh phúc, đâu là nỗi khổ của mỗi người và phải làm gì để sống cho đúng và để đi tới một cuộc đời thật sự. Sách mở rộng những chân trời ước mơ và khát vọng. Đã có những cuốn sách không chỉ "mở rộng những chân trời mới" cho một người, trăm người, triệu người, mà cho cả nhân loại. Những trang sách của Brunô, Galilê về quả đất và thái dương hệ đã mở ra cho loài người một thời kì mới trên con đường chinh phục tự nhiên. Những cuốn sách của Dacuyn về các giống loài không chỉ giúp người hiểu rõ về các giống loài sinh vật mà còn hiểu rõ hơn về chính con người. Sách của Sếcpia, của Điđơrô, Môngtexkiư rồi Mac, Enghen…thật sự đã giúp con người làm những cuộc cách mạng. Đọc Bandắc ta hiểu về thế giới tư bản với sức mạnh lạnh lùng của đồng tiền. Đọc thơ Tago, thơ Lí Bạch, Đỗ Phủ, ta hiểu đời sống và tâm hồn của các dân tộc. Đọc Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Cao Bá Quát… ta hiểu xưa kia cha ông ta từng mong mỏi và mơ ước những gì… Thật không sao kể hết “những chân trời" mà các tran g sách đã mở rộng ra trước mắt ta. Có thể nói một cách tóm tắt rằng: lợi ích của sách là vô tận. Ta đồng ý với lời nhận xét của G.Moocki cũng là tiếp nhận lời khuyên bảo tốt đẹp trong câu nói ấy: Hãy đọc sách, cố gắng đọc sách càng nhiều càng tốt. Tuy nhiên, chẳng lẽ đó là một lời khuyên vô điều kiện? Ngẫm cho kĩ, ta vẫn thấy có một khoảng trống cần cân nhắc trong lời khuyên ấy. Vì sao? Vì không phải mọi quyển sách đều "mở rộng chân trời mới”. Từ khi xuất hiện chủ nghĩa tư bản, mọi vật dụng của con người, trong đó có sách, đều trở thành hàng hóa. Sách không chỉ là cái do con người viết ra cho người đọc, mà còn là một món hàng cho những ông chủ nhà sách kiếm lời. Mục đích của những ông chủ ấy, nói chung, không phải là phục vụ nhân loại mà là để kiếm lợi nhuận, lợi nhuận tối đa. Vì thế, trên thị trường sách, không phải bao giờ cũng chỉ có những cuốn sách tốt, thực sự phục vụ mục đích cao cả của con người, mà còn rất nhiều những cuốn sách vì mục đích kiếm lời, đã gây tác hại không nhỏ cho con người (dẫn chứng hiện tượng xuất bản xô bồ). Thế nào là sách tốt? Đó là những cuốn sách phản ứng chính xác qui luật của tự nhiên và đời sống của xã hội. Chúng giúp con người hiểu rõ về số phận của mình để có ý thức đúng về nghĩa vụ của mình trong đời sống. Một cuốn sách tốt phải giúp cho các dân tộc hiểu biết nhau hơn để gần gũi nhau hơn. Nó phải ca ngợi sự công bằng và tình hữu nghị giữa các dân tộc. Nó phải khiến cho con người thêm tự hào về mình, thêm vững tin ở cuộc sống để chiến đấu cho cuộc sống mỗi ngày một hợp lí và hạnh phúc hơn. Nó phải khiến cho tâm hồn con người trở nên phong phú hơn, trong sáng hơn (dẫn chứng vài tác phẩm). Đọc những cuốn sách như thế, đúng là chân trời mở rộng không chỉ trước mắt ta mà còn cả trong tâm hồn ta. Ta không chỉ tăng thêm hiểu biết mà còn tăng thêm giá trị sức mạnh. Còn thế nào là sách xấu? Đó là những cuốn sách xuyên tạc đời sống, đưa đến cho người đọc những kiến thức dối trá về thế giới xung quanh. Chúng đề cao dân tộc này mà bôi nhọ dân tộc kia, chúng gây thù hằn và ngờ vực giữa các dân tộc, đề cao bạo lực và chiến tranh, kích động những thị hiếu bản năng thấp hèn của con người (dẫn chứng vài tác phẩm). Đọc những cuốn sách như thế, người đọc không những tăng thêm hiểu biết mà còn trở nên dốt nát, mê muội hơn. Đọc những cuốn sách như thế, tâm hồn người đọc không những không hề mở rộng chân trời mà còn thêm khô cằn vì những ước muốn tầm thường ích kỉ những linh cảm bạc nhược đê hèn. Sách có thể là một thứ thuốc bồi dưỡng cực kì công hiệu, cũng có thể là một thứ ma túy, một thứ thuốc độc cực kì tai hại. Bởi vậy, từ câu nói của nhà văn vô sản Nga, ta có thể tự xác định cho mình một thái độ đối với sách. Trước hết, phải biết quý trọng sách và coi việc đọc sách là một công việc rất cần thiết, vừa rất thú vị vừa rất bổ ích. Sống mà không đọc sách, không ham mê sách là một điều không thể chấp nhận. Nhưng phải biết chọn sách để đọc. Không bị mê hoặc bởi sự hấp dẫn của hình thức, không thể bị lôi cuốn bởi những thị hiếu tầm thường, phải tìm đến những cuốn sách thực sự tốt, có ích. Mặt khác, đọc sách không chỉ là sự hưởng thụ, mà còn là một cách hành động ở đời. Cho nên, đọc sách là để rút ra những bài học bổ ích cho cuộc sống tốt hơn, hành động có hiệu quả hơn. Đọc sách mà không tiêu hóa được, không vận dụng được vào hành động, thì dẫu đọc hàng nghìn cuốn sách cũng không hơn gì cái tủ mọt đựng sách. Hàng ngàn năm qua, con người đã sáng tạo ra sách và ham mê đọc sách. Nhưng nếu xưa kia niềm vui ấy chỉ là đặc quyền của một số người rất nhỏ thì ngày nay là niềm vui, là quyền lợi của cả con người bé nhỏ, bình thường. Sách vẫn tiếp tục phát huy tác dụng kì diệu của nó. Ta không thể hình dung một thế giới không có sách. Không có sách, nền văn minh nhân loại sẽ không còn.
Đề bài: Bình luận về câu nói "Trên đường thành công không có dấu chân của người kẻ lưởi biếng" của Lỗ Tấn Bài làm Trong cuộc sống của chúng ta, mấy ai đạt được thành công mà không trải qua khó khăn gian khổ, cũng chẳng ai đạt được thành công mà không phải "đổ mồ hôi, sôi nước mắt". Sự cần cù chịu khó luôn là yếu tố chính dẫn đến thành công. Nhà văn lớn người Trung Quốc Lỗ Tấn từng nói: "Trên đường thành công không có dấu chân của những người lười biếng". Thành công là hành động đạt tới mục đích bản thân đặt ra và được cả xã hội công nhận. "Đường thành công" chỉ khoảng thời gian từ lúc bắt đầu thực hiện mục đích tới lúc đạt được mục đích. "Đường thành công" tuỳ ở mỗi thì có thể dài hay ngắn. Còn "bước chân của người lười biếng" chỉ sự có mặt của sự lười biếng trên "đường thành công" của mỗi người. Những con người lười biếng là những con người không chịu lao động cho bản thân, cho xã hội. Câu nói của Lỗ Tấn khẳng định rằng muốn có được thành công, mỗi người đều phải cần cù, chăm chỉ; những người lười biếng thì không bao giờ hái được thành công. Của cải vật chất trong xã hội đều do con người tạo ra. Để có được nó, con người phải lao động: người nông dân cuốc đất, trồng cây; người công nhân vận hành máy móc; nhà khoa học thực hiện các thí nghiệm,… Mỗi người đều phải chăm chỉ làm việc để gặt hái được thành công, ngoài sự chăm chỉ, họ còn phải vượt qua gian khó, có khi là cả sự thất bại. Sự cần cù ấy không phải tính bằng ngày, bằng giờ mà bằng năm tháng, có khi phải trả giá bằng cả cuộc đời mình. Nhưng họ đã đạt được những thành công trong cuộc sống của mình: người nông dân làm ra hạt gạo, cây rau để nuôi sống bản thân, gia đình và xã hội; người công nhân làm ra máy móc phục vụ nhu cầu thị trường; nhà khoa học có những phát minh làm thay đổi đời sống,.:. Trong số họ, còn có những người lưu danh trong sử sách. Đó là Mạc Đĩnh Chi xấu người mà tài giỏi. Nhờ chăm chỉ học tập, ông đã đỗ Trạng nguyên và đặc biệt, ông còn được vua nhà Nguyên phong làm "Lưỡng quốc Trạng nguyên" nhờ tài ứng đối khi đi sứ. Nói đến nghề thuốc phải kể đến Tuệ Tĩnh. Với ước muốn "Nam dược trị nam nhân”, ông đã chăm chỉ học tập nghề thuốc và còn đi tìm hiểu nhiều sách thuốc. Cuối cùng, ông đã trở thành thầy thuốc nổi tiếng và thực hiện được ước muốn của mình. Với tài năng của mình, ông còn nổi tiếng ở Trung Quốc khi chữa khỏi bệnh cho Vương phi của vua nhà Minh. Còn những người lười biếng chỉ muốn hưởng mà không phải làm thì chẳng mấy chốc sẽ trở nên đói nghèo. Những người như vậy thì tự lo cuộc sống của bản thân mình còn khó thì nói gì tới việc đạt tới thành công trong sự nghiệp. Một xã hội mà có nhiều những con người như vậy là một xã hội lạc hậu, chậm phát triển. Nếu mỗi người không phải là con người lười biếng mà là những con người chăm chỉ, cần cù thì việc mỗi người đi tới thành công của mình sẽ không phải là điều khó khăn. Một đất nước có những con người như vậy đồng nghĩa đó là một đất nước phát triển, hiện đại. Để nêu lên một bài học, một kinh nghiệm trong cuộc sống, ông cha ta thường hay mượn hình ảnh của sự vật với nghĩa bóng có liên quan tới con người để thể hiện ý của mình. Một trong những bài học ấy được đúc kết trong câu tục ngữ hàm súc như: "Có công mài sắt, có ngày nên kim" Câu tục ngữ trên nêu một công việc tưởng chừng như khó khăn không thể làm nổi. Thế mà vẫn có người không quản ngại gian lao, không sá công phu, vẫn gắng sức làm cho kỳ được. Nghĩa đen của câu tục ngữ chỉ việc mài sắt thành kim, nhưng nếu suy ra nghĩa bóng thì đó lại là một lời khuyên, một bài học mà ông cha ta đã đúc kết từ ngàn đời truyền lại cho con cháu. Đó là lời răn dạy: Có sự cần cù nhẫn nại và quyết tâm lớn thì việc gì cũng có thể thành công cho dù việc đó rất khó khăn tưởng như không thể hoàn thành được. Ngoài lời dạy từ ca dao tục ngữ, trong cuộc sống của chúng ta có biết bao tấm gương tiêu biểu. Tấm gương ấy không đâu xa lạ đó chính là Bác Hồ – người cha của dân tộc. Đất nước ta được hoà bình tự do như ngày nay chính là một phần nhờ vào lòng kiên trì, cẩn cù và chịu khó của Bác. Khi còn là chàng thanh niên trẻ tuổi, Bác đã từ biệt mọi người ra đi tìm đường cứu nước, ở nơi đất khách quê người, Bác đã làm mọi việc để kiếm sống; làm phụ bếp trên tàu, làm người cào tuyết giữa mùa đông gió lạnh ở châu Âu và phải đi ngủ với một viên gạch nung nóng… Bao nhiêu vất vả cực nhọc Bác chẳng sờn lòng, Bác kiên trì đi đến rất nhiều các nước, các dân tộc trên thế giới để tìm hiểu con đường giải phóng dân tộc của họ. Cuối cùng, sự kiên nhẫn, chịu khó của Bác đã được đền đáp xứng đáng. Người đã tìm thấy con đường đi cho dân tộc thoát khỏi cảnh nô lệ lầm than: con đường cách mạng vô sản. Một tấm gương nữa rất gần gũi với chúng ta đó là anh Nguyễn Ngọc Ký. Anh bị liệt cả hai tay nhưng mong ước đến trường luôn thôi thúc anh. Thế là anh bắt đầu tập viết bằng chân. Những nét chữ đầu tiên thật khó nhưng anh không nản lòng, vẫn cần cù chịu khó và anh đã thành công. Bây giờ anh trở thành một nhà giáo ưu tú, được các em học sinh yêu quý, kính trọng. Trong lao động, nhà bác học Lương Đình Của là một tấm gương hùng hồn để chứng minh "trên đường thành công không có bước chân của người lười biếng". Để lai tạo ra một giống lúa có năng suất cao, ông phải làm việc vô cùng vất vả, khó nhọc. Hàng ngày, từ tờ mờ đất, ông đã ra ruộng lội bì bõm, nghiên cứu, thử nghiệm đến tối mịt mới về. Qua vài vụ lúa, một giống lúa mới được tạo thành. Chính sự kiên nhẫn, bền bỉ của ông đã đem no ấm đến cho đời. Bản thân Lỗ Tấn, nhà văn lớn của Trung Quốc, cả cuộc đời mình, ông luôn say mê với lao động nghệ thuật. Bằng tài năng, trí tuệ và sự cần cù, chăm chỉ, Lỗ Tấn được mọi người biết đến như lá cờ đầu của văn học Cách mạng Trung Quốc. Thành công ấy không dựa trên sự lười biếng mà chỉ, cần cù là nền tảng của mọi thành đạt trong cuộc sống con người. Những tác phẩm văn học được ra đời là cả một quá trình lao động lao động nghệ thuật không biết mệt mỏi của người nghệ sĩ, họ âm thầm sáng tác, để lại cho đời những dấu ấn riêng không thể xoá mờ. Tất cả chúng ta, những người bình thường không phải là một vĩ nhân đều có thể thành công trên con đường sự nghiệp nếu như biết cần cù, siêng năng. Hiểu được ý nghĩa sâu xa lời dạy, mỗi chúng ta cần có ý thức rèn luyện ngay từ khi còn nhỏ ta phải tập tính kiên trì, nhẫn nại. Một bài toán khó, một bài văn quá nan giải, một bài tiếng Anh quá nhiều từ… ta cũng sẽ làm xong, làm đúng nếu ta không lười biếng mà chịu khó học tập. Đây là một đức tính cần cù của người học sinh. Những câu chuyện ngụ ngôn Há miệng chờ sung hay Ôm cây đợi thỏ chính là kết cục của những con người lười biếng, cuộc sống của họ chỉ như những mảnh đời vô nghĩa trôi qua trên dòng chảy cuộn xiết của cuộc đời, không để lại một dư âm hay một tiếng nói. Nghèo đói và trộm cắp hệ quả tất yếu của kẻ lười biếng, "sống nhàn rỗi quá còn mệt hơn là làm việc". Chính vì vậy ta hãy sống và làm việc hết mình để đạt được mục đích trong cuộc đời. Để đạt được những thành công đích thực, là học sinh, mỗi chúng ta luôn phải phấn đấu, không ngừng học hỏi để trở thành con ngoan, trò giỏi, có ích cho xã hội, cho đất nước. Câu nói "Trên đường thành công không có bước chân của người lười biếng" của nhà văn Lỗ Tấn là một bài học, kinh nghiệm sống cho chúng ta: Cần cù, chăm chỉ, không lười biếng thì sẽ đạt tới thành công. Đây là một đức tính không thể thiếu được ở mỗi người chúng ta từ lúc còn nhỏ đến lúc trưởng thành để vào đời.
Đề bài: Bình luận về câu nói "Trên đường thành công không có dấu chân của người kẻ lưởi biếng" của Lỗ Tấn Bài làm Trong cuộc sống của chúng ta, mấy ai đạt được thành công mà không trải qua khó khăn gian khổ, cũng chẳng ai đạt được thành công mà không phải "đổ mồ hôi, sôi nước mắt". Sự cần cù chịu khó luôn là yếu tố chính dẫn đến thành công. Nhà văn lớn người Trung Quốc Lỗ Tấn từng nói: "Trên đường thành công không có dấu chân của những người lười biếng". Thành công là hành động đạt tới mục đích bản thân đặt ra và được cả xã hội công nhận. "Đường thành công" chỉ khoảng thời gian từ lúc bắt đầu thực hiện mục đích tới lúc đạt được mục đích. "Đường thành công" tuỳ ở mỗi thì có thể dài hay ngắn. Còn "bước chân của người lười biếng" chỉ sự có mặt của sự lười biếng trên "đường thành công" của mỗi người. Những con người lười biếng là những con người không chịu lao động cho bản thân, cho xã hội. Câu nói của Lỗ Tấn khẳng định rằng muốn có được thành công, mỗi người đều phải cần cù, chăm chỉ; những người lười biếng thì không bao giờ hái được thành công. Của cải vật chất trong xã hội đều do con người tạo ra. Để có được nó, con người phải lao động: người nông dân cuốc đất, trồng cây; người công nhân vận hành máy móc; nhà khoa học thực hiện các thí nghiệm,… Mỗi người đều phải chăm chỉ làm việc để gặt hái được thành công, ngoài sự chăm chỉ, họ còn phải vượt qua gian khó, có khi là cả sự thất bại. Sự cần cù ấy không phải tính bằng ngày, bằng giờ mà bằng năm tháng, có khi phải trả giá bằng cả cuộc đời mình. Nhưng họ đã đạt được những thành công trong cuộc sống của mình: người nông dân làm ra hạt gạo, cây rau để nuôi sống bản thân, gia đình và xã hội; người công nhân làm ra máy móc phục vụ nhu cầu thị trường; nhà khoa học có những phát minh làm thay đổi đời sống,.:. Trong số họ, còn có những người lưu danh trong sử sách. Đó là Mạc Đĩnh Chi xấu người mà tài giỏi. Nhờ chăm chỉ học tập, ông đã đỗ Trạng nguyên và đặc biệt, ông còn được vua nhà Nguyên phong làm "Lưỡng quốc Trạng nguyên" nhờ tài ứng đối khi đi sứ. Nói đến nghề thuốc phải kể đến Tuệ Tĩnh. Với ước muốn "Nam dược trị nam nhân”, ông đã chăm chỉ học tập nghề thuốc và còn đi tìm hiểu nhiều sách thuốc. Cuối cùng, ông đã trở thành thầy thuốc nổi tiếng và thực hiện được ước muốn của mình. Với tài năng của mình, ông còn nổi tiếng ở Trung Quốc khi chữa khỏi bệnh cho Vương phi của vua nhà Minh. Còn những người lười biếng chỉ muốn hưởng mà không phải làm thì chẳng mấy chốc sẽ trở nên đói nghèo. Những người như vậy thì tự lo cuộc sống của bản thân mình còn khó thì nói gì tới việc đạt tới thành công trong sự nghiệp. Một xã hội mà có nhiều những con người như vậy là một xã hội lạc hậu, chậm phát triển. Nếu mỗi người không phải là con người lười biếng mà là những con người chăm chỉ, cần cù thì việc mỗi người đi tới thành công của mình sẽ không phải là điều khó khăn. Một đất nước có những con người như vậy đồng nghĩa đó là một đất nước phát triển, hiện đại. Để nêu lên một bài học, một kinh nghiệm trong cuộc sống, ông cha ta thường hay mượn hình ảnh của sự vật với nghĩa bóng có liên quan tới con người để thể hiện ý của mình. Một trong những bài học ấy được đúc kết trong câu tục ngữ hàm súc như: "Có công mài sắt, có ngày nên kim" Câu tục ngữ trên nêu một công việc tưởng chừng như khó khăn không thể làm nổi. Thế mà vẫn có người không quản ngại gian lao, không sá công phu, vẫn gắng sức làm cho kỳ được. Nghĩa đen của câu tục ngữ chỉ việc mài sắt thành kim, nhưng nếu suy ra nghĩa bóng thì đó lại là một lời khuyên, một bài học mà ông cha ta đã đúc kết từ ngàn đời truyền lại cho con cháu. Đó là lời răn dạy: Có sự cần cù nhẫn nại và quyết tâm lớn thì việc gì cũng có thể thành công cho dù việc đó rất khó khăn tưởng như không thể hoàn thành được. Ngoài lời dạy từ ca dao tục ngữ, trong cuộc sống của chúng ta có biết bao tấm gương tiêu biểu. Tấm gương ấy không đâu xa lạ đó chính là Bác Hồ – người cha của dân tộc. Đất nước ta được hoà bình tự do như ngày nay chính là một phần nhờ vào lòng kiên trì, cẩn cù và chịu khó của Bác. Khi còn là chàng thanh niên trẻ tuổi, Bác đã từ biệt mọi người ra đi tìm đường cứu nước, ở nơi đất khách quê người, Bác đã làm mọi việc để kiếm sống; làm phụ bếp trên tàu, làm người cào tuyết giữa mùa đông gió lạnh ở châu Âu và phải đi ngủ với một viên gạch nung nóng… Bao nhiêu vất vả cực nhọc Bác chẳng sờn lòng, Bác kiên trì đi đến rất nhiều các nước, các dân tộc trên thế giới để tìm hiểu con đường giải phóng dân tộc của họ. Cuối cùng, sự kiên nhẫn, chịu khó của Bác đã được đền đáp xứng đáng. Người đã tìm thấy con đường đi cho dân tộc thoát khỏi cảnh nô lệ lầm than: con đường cách mạng vô sản. Một tấm gương nữa rất gần gũi với chúng ta đó là anh Nguyễn Ngọc Ký. Anh bị liệt cả hai tay nhưng mong ước đến trường luôn thôi thúc anh. Thế là anh bắt đầu tập viết bằng chân. Những nét chữ đầu tiên thật khó nhưng anh không nản lòng, vẫn cần cù chịu khó và anh đã thành công. Bây giờ anh trở thành một nhà giáo ưu tú, được các em học sinh yêu quý, kính trọng. Trong lao động, nhà bác học Lương Đình Của là một tấm gương hùng hồn để chứng minh "trên đường thành công không có bước chân của người lười biếng". Để lai tạo ra một giống lúa có năng suất cao, ông phải làm việc vô cùng vất vả, khó nhọc. Hàng ngày, từ tờ mờ đất, ông đã ra ruộng lội bì bõm, nghiên cứu, thử nghiệm đến tối mịt mới về. Qua vài vụ lúa, một giống lúa mới được tạo thành. Chính sự kiên nhẫn, bền bỉ của ông đã đem no ấm đến cho đời. Bản thân Lỗ Tấn, nhà văn lớn của Trung Quốc, cả cuộc đời mình, ông luôn say mê với lao động nghệ thuật. Bằng tài năng, trí tuệ và sự cần cù, chăm chỉ, Lỗ Tấn được mọi người biết đến như lá cờ đầu của văn học Cách mạng Trung Quốc. Thành công ấy không dựa trên sự lười biếng mà chỉ, cần cù là nền tảng của mọi thành đạt trong cuộc sống con người. Những tác phẩm văn học được ra đời là cả một quá trình lao động lao động nghệ thuật không biết mệt mỏi của người nghệ sĩ, họ âm thầm sáng tác, để lại cho đời những dấu ấn riêng không thể xoá mờ. Tất cả chúng ta, những người bình thường không phải là một vĩ nhân đều có thể thành công trên con đường sự nghiệp nếu như biết cần cù, siêng năng. Hiểu được ý nghĩa sâu xa lời dạy, mỗi chúng ta cần có ý thức rèn luyện ngay từ khi còn nhỏ ta phải tập tính kiên trì, nhẫn nại. Một bài toán khó, một bài văn quá nan giải, một bài tiếng Anh quá nhiều từ… ta cũng sẽ làm xong, làm đúng nếu ta không lười biếng mà chịu khó học tập. Đây là một đức tính cần cù của người học sinh. Những câu chuyện ngụ ngôn Há miệng chờ sung hay Ôm cây đợi thỏ chính là kết cục của những con người lười biếng, cuộc sống của họ chỉ như những mảnh đời vô nghĩa trôi qua trên dòng chảy cuộn xiết của cuộc đời, không để lại một dư âm hay một tiếng nói. Nghèo đói và trộm cắp hệ quả tất yếu của kẻ lười biếng, "sống nhàn rỗi quá còn mệt hơn là làm việc". Chính vì vậy ta hãy sống và làm việc hết mình để đạt được mục đích trong cuộc đời. Để đạt được những thành công đích thực, là học sinh, mỗi chúng ta luôn phải phấn đấu, không ngừng học hỏi để trở thành con ngoan, trò giỏi, có ích cho xã hội, cho đất nước. Câu nói "Trên đường thành công không có bước chân của người lười biếng" của nhà văn Lỗ Tấn là một bài học, kinh nghiệm sống cho chúng ta: Cần cù, chăm chỉ, không lười biếng thì sẽ đạt tới thành công. Đây là một đức tính không thể thiếu được ở mỗi người chúng ta từ lúc còn nhỏ đến lúc trưởng thành để vào đời.
Đề bài: Đất nước càng có nhiều nhân tài, đất nước càng hưng thịnh (Mặc Tử). Anh (chị) hãy bình luận về ý kiến trên. Bài làm Lời nói trên của Mặc Tử là một chân lý hiển nhiên, không thể chối cãi được, bởi không có người tài thì làm sao ta có thể dựng nước và giữ nước được. Điều này đã được chứng minh một cách hùng hồn trong lịch sử bốn ngàn năm của dân tộc ta Sự tồn tại và phát triển của một đất nước từ xưa đến nay đều do những nhân tài mà có được. Một đất nước hưng thịnh là do những nhân tài tạo nên. Chính vì vậy mà Mặc Tử (một nhà triết học xưa của Trung Quốc) đã nói: “Đất nước càng có nhiều nhân tài, đất nước càng hưng thịnh”. Đất nước càng có nhiều nhân tài, đất nước càng hưng thịnh Lời nói trên của Mặc Tử là một chân lý hiển nhiên, không thể chối cãi được, bởi không có người tài thì làm sao ta có thể dựng nước và giữ nước được. Điều này đã được chứng minh một cách hùng hồn trong lịch sử bốn ngàn năm của dân tộc ta. Thời nhà Lí, đất nước đứng trước nạn bị giặc Tống xâm chiếm, người tài Lí Thường Kiệt đã xuất hiện đánh tan quân Tống, giữ vững quyền độc lập, tự chủ của dân tộc. Đến thời Trần, quân Nguyên Mông lại ào ạt kéo sang nước ta, muốn biến đất nước ta thành châu, thành quận, thành huyện của bọn chúng thì đất nước ta lúc bấy giờ lại xuất hiện Trần Hưng Đạo – một nhân tài quân sự – đã lãnh đạo quân và dân ta đánh tan quân Nguyên Mông, giữ yên bờ cõi. Đến thời nhà Hồ, nhân việc “chính sự phiền hà” quân Minh thừa cơ gây họa, chúng ồ ạt mang quân sang xâm lược nước ta, vơ vét tài nguyên của đất nước ta, áp ức, bóc lột đồng bào ta tận xương tủy: Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn Vùi con đỏ xuống hầm tai vạ Dối trời, lừa dân đủ muôn nghìn kế Gây binh kết oán trải hai mươi năm Bại nhân nghĩa nát cả đất trời Nặng thuế khóa sạch không đầm núi Người bị ép xuổng biển còng lưng mò ngọc Ngán thay cá mập, thuồng luồng Kè bị đem vào núi đãi cắt tìm vàng Khốn nỗi rừng sâu nước độc… (Bình Ngô đại cáo – Nguyễn Trãi) Giữa lúc dầu sôi lửa bỏng của đất nước lúc bấy giờ thì lại xuất hiện người anh hùng áo vải Lam Sơn Lê Lợi đã lãnh đạo quân và dân ta chống quân Minh và đã đưa cuộc kháng chiến ấy đến thắng lợi hoàn toàn. Đất nước sạch bóng quân thù, nền độc lập tự chủ của đất nước lại một lần nữa được khẳng định. Bọn phong kiến phương Bắc đã bao lần xâm chiếm đất nước ta và đã bị quân dân ta nhiều lần đánh cho tơi bời xiêm giáp, nhưng chúng vẫn không bỏ mộng bành trướng về phương Nam. Đến cuối triều đại nhà Lê, Lê Chiêu Thống vì chiếc ngai vàng mục nát đã hèn nhát cõng rắn cắn gà nhà để đất nước ta rơi vào tay quân Thanh xâm lược. Trước hoàn cảnh tăm tối của đất nước lúc bây giờ thì người anh hùng áo vải Tây Sơn Nauyễn Huệ lại xuất hiện. Với thiên tài quân sự kiệt xuất, điều binh khiển tướng như thần, Nguyễn Huệ đã có một cuộc tiến binh thần tốc ra Bắc để tiêu diệt hơn hai mươi vạn quân Thanh giành độc lập về cho đất nước. Rồi chiến tranh lại nổ ra, kẻ thù từ phương Tây đến, với vũ khí hiện đại, có tiềm năng kinh tế chúng muốn cướp đất nước ta, đặt ách cai trị lâu dài lên đất nước ta thì thiên tài Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh lại xuất hiện. Người đã lãnh đạo nhân dân ta vượt qua bao hy sinh gian khổ để đưa sự nghiệp cách mạng đến ngày toàn thắng, đất nước được thống nhất và đang vươn mình lên một cách mạnh mẽ với bè bạn khắp năm châu. Như vậy, không có người tài thì làm sao giữ được đất nước. Hơn nữa không có người tài thì làm sao làm cho đất nước hưng thịnh được. Người tài càng nhiều thì đất nước càng hưng thịnh. Trong một đất nước mà có nhiều thầy, cô giáo giỏi thì mới đào đưực những người học trò giỏi, nhiều kỹ sư giỏi, nhiều bác sĩ giỏi, nhiều nhà khoa học giỏi… Những con người tài giỏi này sẽ đem những kiến thức của mình để phục vụ đất nước thì đất nước sẽ ngày càng hưng thịnh. Những nước ngày nay trở thành cường quốc trên thế giới là những nước ấy có người lãnh đạo tài ba, có những nhà khoa học lớn, đem những kiến thức khoa học vào đời sống để phục vụ đời sống làm cho cuộc sống của con người nhẹ nhàng hơn, sung sướng hơn, của cải vật chất dồi dào hơn. Cuộc sống của người dân trong một đất nước có giàu sang sung sướng thì đất nước đó ngày càng mạnh và càng hưng thịnh hơn. Ngược lại, trong một đất nước mà những người lãnh đạo không có tài năng, không biết quý trọng chất xám, lãng phí chất xám thì đất nước ấy sẽ trì tuệ, chậm tiến và lạc hậu. Tóm lại, nhân tài là yếu tố chính để làm đất nước hưng thịnh. Câu nói của Mặc Tử mãi mãi là lời nhắc nhở cho những người lãnh đạo, quản lí và xây dựng đất nước. Muốn làm cho đất nước ngày càng hưng thịnh, những nhà lãnh đạo phải biết trân trọng, quan tâm đặc biệt đến đời sống tinh thần và vật chất của những con người có tài năng, đức độ; phải có chính sách đãi ngộ xứng đáng và tạo mọi điều kiện để nhân tài ấy phát triển, cống hiến chất xám của mình cho đất nước thì đất nước sẽ hưng thịnh. Nhân tài càng nhiều, đất nước càng hưng thịnh.
Topic: The more talented people a country has, the more prosperous the country will be (Mac Tu). Please comment on the above opinion. Assignment Mac Tu's above statement is an obvious, undeniable truth, because without talented people, how can we build and maintain the country. This has been eloquently proven in the four thousand year history of our nation The existence and development of a country from past to present have all been due to talented people. A prosperous country is created by talented people. That's why Mac Tu (an ancient Chinese philosopher) said: "The more talented a country has, the more prosperous the country is." The more talented people a country has, the more prosperous the country will be Mac Tu's above statement is an obvious, undeniable truth, because without talented people, how can we build and maintain the country. This has been eloquently proven in the four thousand year history of our nation. During the Ly Dynasty, the country faced the problem of being invaded by the Song invaders. The talented Ly Thuong Kiet appeared to defeat the Song army, maintaining the independence and autonomy of the nation. During the Tran dynasty, the Mongol Yuan army rushed into our country, wanting to turn our country into their continent, district, and district, then our country at that time appeared Tran Hung Dao - a military talent. – led our army and people to defeat the Mongol Yuan army and keep the land in peace. During the Ho Dynasty, taking advantage of "political troubles", the Ming army took advantage of the opportunity to cause disaster, they massively brought troops to invade our country, plunder our country's resources, oppress and exploit our people to the bone. marrow: Roasting the proles on a ferocious fire Bury the red one in the pit of disaster Lying to God and deceiving people is full of thousands of tricks Wrangling war and feuding for twenty years Humanity destroys the whole world Heavy taxes clean the mountains People were forced to go into the sea with their backs bent to search for pearls Bored instead of sharks The embankment was taken into the mountains to mine for gold Woe to the deep forest and poisonous water... (Binh Ngo great report – Nguyen Trai) Amidst the boiling fire of the country at that time, the hero Lam Son Le Loi appeared who led our army and people against the Ming army and brought that resistance to complete victory. The country was cleared of enemies, and the country's independence and autonomy were once again affirmed. The Northern feudalists have invaded our country many times and have been beaten to a pulp by our army and people many times, but they still do not give up their dream of expanding to the South. At the end of the Le Dynasty, Le Chieu Thong, because of his rotten throne, cowardly carried the snake and bit the chicken, causing our country to fall into the hands of the Qing invaders. Faced with the dark situation of the country right now, the hero of Tay Son Norway, Nguyen Hue, appeared again. With outstanding military genius, commanding troops like a god, Nguyen Hue had a speedy march to the North to destroy more than 200,000 Qing troops to gain independence for the country. Then the war broke out again, the enemy came from the West, with modern weapons and economic potential, they wanted to rob our country and put a long-term rule on our country, then the genius Nguyen Ai Quoc - Ho Chi Minh appeared again. He led our people through many sacrifices and hardships to bring the revolutionary cause to victory, the country was unified and is rising strongly with friends all over the five continents. Thus, without talented people, how can we maintain the country? Furthermore, without talented people, how can the country prosper? The more talented people, the more prosperous the country. In a country where there are many good teachers, only good students, many good engineers, many good doctors, many good scientists... These talented people will bring their knowledge to life. to serve the country, the country will become more and more prosperous. The countries that today become great powers in the world are those countries that have talented leaders and great scientists, bringing scientific knowledge to life to serve people's lives. lighter, happier, with more abundant material wealth. If the lives of people in a country are rich and happy, that country will become stronger and more prosperous. On the contrary, in a country where the leaders are not talented, do not know how to value brain matter, and waste brain matter, that country will be intellectually stagnant, slow to progress and backward. In short, talent is the main factor to make the country prosperous. Mac Tu's words will forever be a reminder for those who lead, manage and build the country. To make the country more prosperous, leaders must appreciate and pay special attention to the spiritual and material lives of talented and virtuous people; There must be a worthy remuneration policy and create all conditions for that talent to develop and contribute his intelligence to the country, then the country will prosper. The more talented people, the more prosperous the country.
Bình luận về câu nói: Có ba cách để làm giàu chính mình: mỉm cười,cho đi và tha thứ Hướng dẫn Bình luận về câu nói: Có ba cách để làm giàu chính mình: mỉm cười,cho đi và tha thứ 4 (80%) 9 đánh giá Bài làm Trong cuộc sống một người được coi là giàu có không chỉ có vật chất,nhiều của cải mới được coi là giàu có.Mà giàu có ở đây không chỉ nói đến về mặt vật chất mà nó còn cả về tinh thần. Một người được coi là giàu có nếu có đủ cả “mỉm cười,cho đi và tha thứ”. “Tự làm giàu chính mình” chính là tự bồi đắp nhân cách nuôi dưỡng tâm hồn bên trong.Và có ba cách giúp ta làm được việc đó Mỉm cười- biểu hiện của niềm vui sự lạc quan và yêu đời. “Cho đi” là sự quan tâm biết chia sẻ với mọi người. Và “tha thứ” là khi ta bao dung,độ lượng với lỗi l của người khác. Tâm hồn con người sẽ trở nên trong sáng giàu đẹp hơn nếu biết lạc quan và chia sẻ mở rộng tấm lòng với tất cả mọi người. Ta vẫn quen câu nói” một nụ cười bằng mười thang thuốc bổ” lạc quan yêu đời không chỉ giúp con người vượt lên khó khăn thử thách mà còn tạo niềm tin giúp ta hướng đến khát vọng tốt đẹp. Và khi ta biết quan tâm sẻ choa đến những người xung quanh là ta đã chiến thắng sự ích kỉ của bản thân để sống có trách nhiệm hơn yêu thương hơn,mang lại niềm vui cho người khác ta sẽ thấy thanh thản cho tâm hồn được sự tin yêu và tôn trọng của những người xung quanh.Và chắc chắn khi ta gặp khó khăn sẽ nhận được sự giúp đỡ của người khác,nếu muốn chút nỏ mọi thì hận đau khổ thù hãy chọn cách tha thứ bao dung cho lỗi lầm của người khác. Ngoài sự lạc quan cảm thông chia sẻ,độ lượng bồi đắp con người có thể nuôi dưỡng tâm hồn mình bằng những ứng xử tốt đẹp.Hãy xem lại cách Việt Nam ta tha thứ cho kẻ thù xâm lược nước ta như thế nào để thấy được truyền thống nhân đạo,nhân ái của ông cha ta đáng khâm phục đến nhường nào khiến chúng những nước đế quốc lớn phải khiếp sợ. Nếu một ngày làm việc mệt mỏi đầy căng thẳng khiến bạn lúc nào cũng cau có,khuôn mặt lúc nào cũng đầy ắp những khó chịu và căng thẳng thì đương nhiên ngày hôm đó khiến tâm trạng của bạn càng tồi tệ hơn.Nhưng ngược lại bạn chào đón một ngày mới với một nụ cười tươi tắn và một khuôn mặt vui vẻ thì ngày làm việc của bạn thật hiệu quả và thời gian trôi qua rất nhanh.Chính vì thế nụ cười không những làm cho ta thêm xinh đẹp và rạng rỡ nó còn có tác dụng xua tan mệt mỏi và những áp lực trong cuộc sống mà ta gặp. Một ngày nếu bạn không mỉm cười chính là bạn đang lãng phí thời gian và tuổi xuân của chính mình.Chúng ta sống là để trải nghiệm tích lũy kinh nghiệm cho bản thân chứ không phải là một cỗ máy chỉ biết nói cười và làm việc quần quật liên tục trong những tháng ngày buồn tẻ lúc nào cũng chỉ biết chúi đầu vào công việc vây quanh cuộc sống cơm áo gạo tiền. Còn đối với người khác nụ cười mang đến cho những người xung quanh những giây phút thư giãn có thể xua tan đi những mệt mỏi áp lực của cuộc sống và nụ cười chính là sự đáp trả của những tâm hồn đang cảm thấy bình yên và hạnh phúc. Giữa bộn bề cuộc sống sự cân bằng giữa cho đi và nhận lại được cho rằng là một quy luật tất yếu.Nhà thơ Tố Hữu từng có câu: “Nếu là con chim chiếc lá Thì chiếc lá phải xanh Sống là cho đâu chỉ nhận cho riêng mình” Thật vậy nếu một người biết sử dụng những nụ cười của mình để mang lại những niềm vui cho người khác thì ta cũng nhận được những niềm vui đó chính là sự thoải mái về tinh thần.Nếu chúng ta cho đi những sự tốt đẹp thì chúng ta cũng nhận lại được sự tốt đẹp đó.Ví dụ như ta làm một điều tốt thì ta sẽ nhận lại được những điều tốt đẹp nhất.Chẳng may khi ra đường gặp những người có hoàn cảnh khó khăn,bản thân họ không được may mắn như ta thì điều họ cần lúc này chính là sự quan tâm giúp đỡ của những người xung quanh có thể là một chiếc áo cũ để sưởi ấm vào tiết trời giá lạnh hay thậm chí chỉ là một vài nghìn lẻ nhưng cũng có thể giúp họ có được một bữa ăn,thì lúc đó thứ ta nhận được chính là nụ cười của họ điều đó làm ta cảm thấy vui vẻ mà trong lòng như chút được gánh nặng. luận về câu nói: Có ba cách để làm giàu chính mình: mỉm cười,cho đi và tha thứ Một khi những lòng tốt được cho đi thì những lòng tốt khác lại được chia sẻ.Chúng ta không nên sống vì bản thân mình quá vì đó chính là một cái tôi không nên có ở bản thân mỗi người. Không chỉ vậy làm giàu bản thân mình còn là sự tha thứ.Nghĩa cử cao đẹp nhất của con người có hai điều đó chính là cho đi yêu thương và sự tha thứ.Yêu thương là thứ mà con người ta vẫn thể hiện hàng ngày cũng là thứ mà con người luôn có những hành động và cử chỉ để người khác thấy họ được yêu thương và làm họ vượt qua gian nan thử thách.Còn sự tha thứ vượt qua cả tình yêu thương sự tha thứ giường như là điều cao cả nhất mà con người cảm thấy khó làm nhất.Tha thứ chính là lúc cái tâm hồn mình yên và cảm thấy bình yên nhất và sự ích kỉ của bản thân cũng được buông bỏ thay vào đó là sự đồng cảm sẻ chia. Trong cuộc sống với một xã hội phát triển như ngày nay thì sự phân chia giàu nghèo càng thấy rõ được sự giàu nghèo,sự phân chia ấy đã tạo nên rào cản giữa con người với con người.Vậy làm thế nào để mọi người có thể gần nhau hơn đó chính là cần ở mỗi người sự giúp đỡ sự cho đi. Mỗi chúng ta cần phải có ý thức giữ gìn và bồi đắp để đời sống tinh thần,tình cảm của bản thân không bị xói mòn và chai sạn bởi cuộc sống của hiện đại.Để làm được điều đó hãy bắt đầu từ những thái độ sống tích cực có ý nghĩa với bản thân gia đình và xã hội.
Comment on the saying: There are three ways to enrich yourself: smiling, giving and forgiving Instruct Comment on the saying: There are three ways to enrich yourself: smiling, giving and forgiving 4 (80%) 9 reviews Assignment In life, a person who is considered rich does not only have material things, but a lot of wealth is considered rich. Wealth here does not only refer to the material aspect but also to the spirit. A person is considered rich if he has "smiling, giving and forgiving". "Enriching yourself" means cultivating your own personality and nurturing your inner soul. And there are three ways to help us do that. Smiling - an expression of joy, optimism and love of life. “Giving” is caring and sharing with everyone. And "forgiveness" is when we are tolerant and tolerant of other people's mistakes. The human soul will become brighter, richer and more beautiful if it is optimistic and shares with everyone. We are still familiar with the saying "a smile is equal to ten doses of tonic". Being optimistic and loving life not only helps people overcome difficulties and challenges but also creates confidence to help us move towards good aspirations. And when we know how to care and share with those around us, we have overcome our own selfishness to live more responsibly, love more, and bring joy to others, we will find peace in our souls. the trust, love and respect of those around us. And certainly when we encounter difficulties, we will receive help from others. If you want a little bit of hatred and suffering, choose to forgive and be tolerant of mistakes. other people. In addition to optimism, sympathy, sharing, and generosity, people can nourish their souls with good behavior. Let's review how Vietnam forgave the enemy who invaded our country to see. I learned how admirable the humanitarian and compassionate traditions of our ancestors were that made the great imperialist countries afraid. If a tiring and stressful working day makes you always frown, your face always full of discomfort and tension, then of course that day makes your mood even worse. But vice versa. If you welcome a new day with a bright smile and a happy face, your working day will be very effective and time will pass very quickly. That's why a smile not only makes us more beautiful and radiant. It also has the effect of dispelling fatigue and the pressures in life that we encounter. If you don't smile one day, you are wasting your time and youth. We live to experience and accumulate experience for ourselves, not to be a machine that only knows how to laugh and work. Continuously working hard in the boring days, always just focusing on work surrounding a life of bread and butter. As for others, a smile brings those around you moments of relaxation that can dispel the fatigue and pressure of life, and a smile is the response of those souls who are feeling peaceful and calm. happy. Amidst the chaos of life, the balance between giving and receiving is considered an inevitable rule. Poet To Huu once said: "If you are a bird, a leaf Then the leaf must be green To live is not to give but to receive for yourself.” Indeed, if a person knows how to use his or her smiles to bring joy to others, we will also receive that joy, which is mental comfort. If we give good things, then We also receive good things in return. For example, if we do a good thing, we will receive the best things in return. Unfortunately, when we go out and meet people in difficult circumstances, they themselves cannot Luckily like us, what they need right now is the care and help of those around them, maybe an old shirt to warm them up in the cold weather or even just a few thousand, but it's also possible. Helping them get a meal, then what we receive is their smile, which makes us feel happy but like a little burden. Essay on the saying: There are three ways to enrich yourself: smiling, giving and forgiving Once kindness is given, other kindnesses are shared. We should not live for ourselves too much because that is an ego that each person should not have. Not only that, enriching yourself is also forgiveness. The most beautiful human gesture includes two things: giving love and forgiveness. Love is something that people still show every day. It is also something that people always have actions and gestures to show others that they are loved and help them overcome hardships and challenges. Forgiveness goes beyond love, forgiveness seems like a noble thing. The most important thing that people find the most difficult to do. Forgiveness is when your soul is at peace and feels most at peace and your selfishness is let go and replaced by sympathy and sharing. In life with a developed society like today, the division between rich and poor becomes clearer and clearer, that division has created a barrier between people. So how can people have To be closer to each other is to need help and giving from each person. Each of us needs to be conscious of preserving and fostering so that our spiritual and emotional life is not eroded and dulled by modern life. To do that, we need to start with attitudes. Live a positive and meaningful life for yourself, your family and society.
Đề bài: Anh chị hãy bình luận về câu tục ngữ “Có chí thì nên” trong đời sống hiện nay. Bài làm Trong cuộc sống của chúng ta, để có được miếng cơm manh áo ai cũng phải lao động hết mình mới có được. Hạnh phúc chỉ dành cho những người biết phấn đấu vươn lên, chứ không dành cho những kẻ lười biếng, chỉ than vãn mà mong cuộc sống tốt. Để có được như vậy họ đã phải trải qua bao nhiêu gian khổ và vất vả, nếu không có một ý chí kiên định thì khó có thể làm được, vì vậy từ người ta đã có câu tục ngữ: “ có chí thì nên”, để làm động lực cho những ai có ý chí nhất định sẽ có ngày thành công. Vậy “chí” là gì.? “Chí” được hiểu là ý chí, hoài bão, lí tưởng tốt đẹp, nghị lực, sự kiên trì của con người. “Nên” là thành quả, là cái đạt được khi họ cố gắng hết mình. Câu tục ngữ nhằm khẳng định vai trò, ý nghĩa to lớn của ý chí trong cuộc sống. Khi chúng ta làm bất cứ việc gì, nếu chúng ta có ý chí và kiên trì vượt qua mọi thách thức, khó khăn thì nhất định sẽ thành công như người xưa đã đúc kết “ có công mài sắt, có ngày nên kim”. Ý chí nghị lực là một đức tính không thể thiếu được trong cuộc sống khi ta làm bất cứ, việc gì, muốn thành công đều phải trở thành một quá trình, một thời gian đến luyện lâu dài. Có khi thành công đó được rút ra từ những thất bại thảm họa, không chỉ một lần mà rất nhiều lần. Càng gian nan chịu đựng bao nhiêu thì thành công đó lại càng vinh quang và đáng tự hào bấy nhiêu. Thành công sẽ không đến với những người chưa cố gắng đã bỏ cuộc. Hay như, Nguyễn Ngọc Kí bị liệt cả hai tay từ bé, gia đình lại khó khăn, nếu là người không có ý chí thì sẽ trách số phận và tự ti sống. Nhưng ông luôn cố gắng luyện chữ bằng chân, học như các bạn bình thường, có lúc bị chuột rút đau điếng nhưng không bao giờ bỏ cuộc. Ngoài việc cố gắng học tập, ông luôn giúp đỡ bố mẹ công việc nhà. Một người bình thường chưa chắc đã làm được như vậy, vì ông muốn thay đổi số phận mình, luôn miệt mài học tập và cuối cùng trở thành một thầy giáo tài giỏi, người người ngưỡng mộ. Tuy nhiên, cũng có rất nhiều người ý chí chưa tôi luyện tốt, mới thất bại một hai lần đã bỏ cuộc, đã sa ngã, và không muốn cố gắng nữa. Hay có những người ngay từ đầu họ đã không hề có bất kì một chí hướng gì cho bản thân, luôn phụ thuộc vào người khác. Họ không thể tự lập bản thân, không biết cố gắng hoàn thiện bản thân, những người như vậy đáng bị lên án. Người có chí sẽ luôn tự tin, làm chủ suy nghĩ và hành động, trưởng thành và nghiêm túc. Có chí thì ắt sẽ thành công, không có chí thì chỉ có thất bại. Chí là điều rất cần thiết trong cuộc sống của chúng ta, một học sinh cần tôi luyện ý chí để có thể đem lại những thành công cho bản thân. Chỉ cần trong giờ học lắng nghe cô giáo giảng bài, chép bài đầy đủ, học thuộc bài cũ, chuẩn bị bài mới. Khi gặp vấn đề khó khăn đừng bỏ cuộc mà hãy tìm các cách giải quyết tốt nhất. Nếu đã cố gắng hết mình, nhưng điểm vẫn thấp, vẫn không có điều gì như ý muốn thì đừng nản chí, xem lại mình làm sai chỗ nào, sửa chữa và cố gắng lần sau. Đâu phải cố gắng một lần là thành công, phải cố gắng thật nhiều mới được.
Topic: Please comment on the proverb "Where there is a will there is a way" in today's life. Assignment In our lives, to have food and clothing, everyone has to work hard to get it. Happiness is only for those who know how to strive, not for lazy people who only complain and hope for a good life. To achieve this, they had to go through many hardships and hardships. Without a steadfast will, it would be difficult to do so, so people have come up with the proverb: "If there is a will, there is a way." , to motivate those who have a certain will to succeed one day. So what is "lice"? “Will” is understood as human will, ambition, good ideals, energy, and perseverance. “Should” is the result, what is achieved when they try their best. The proverb aims to affirm the great role and significance of will in life. When we do anything, if we have the will and persevere to overcome all challenges and difficulties, we will definitely succeed as the ancients said, "If you work hard, you will make money." Willpower is an indispensable quality in life. Whatever we do, if we want to succeed, it must become a process, a long period of practice. Sometimes that success comes from catastrophic failures, not just once but many times. The more hardships one endures, the more glorious and proud one's success will be. Success will not come to those who give up without trying. Or, for example, Nguyen Ngoc Ki had both arms paralyzed since childhood, his family was in difficulty, and if he had no will, he would blame fate and live with low self-esteem. But he always tried to practice writing with his feet, studying like normal friends. Sometimes he had painful cramps but never gave up. In addition to trying to study, he always helps his parents with housework. A normal person may not be able to do that, because he wants to change his fate, always study diligently and eventually become a talented teacher who everyone admires. However, there are also many people whose will has not been well trained. They have just failed once or twice, given up, fallen, and don't want to try anymore. Or there are people who from the beginning do not have any ambition for themselves, always depending on others. They cannot be independent, do not know how to try to improve themselves, such people deserve condemnation. People with will will always be confident, in control of thoughts and actions, mature and serious. If you have will, you will succeed; without will, you will only fail. Willpower is very necessary in our lives, a student needs to practice willpower to be able to bring success to themselves. Just listen to the teacher during class, copy all the lessons, memorize old lessons, and prepare new lessons. When you encounter a difficult problem, don't give up but find the best solution. If you have tried your best, but your score is still low, and nothing is as you want, don't be discouraged, look back at what you did wrong, fix it and try next time. You don't have to try once to succeed, you have to try a lot to get it.
Đề bài: Bình luận về danh và thực Bài làm Danh và thực là hai khái niệm gắn liền với con người và xã hội. Đó cũng là hai phạm trù có mối quan hệ hữu cơ chặt chẽ với nhau. Bàn về danh và thực, có rất nhiều vấn đề khiến chúng ta phải suy ngẫm. Danh là tiếng tăm. Có người tiếng tăm lừng lẫy thiên hạ: nhưng phần lớn đều là tiểu tốt vô danh. Chữ danh thường đi kèm với các từ ngữ khác để có một nghĩa rộng hơn: danh giá, danh dự, tài danh, khoa danh, hữu danh, vô danh, thanh danh, công danh.. Danh dự, vinh danh và giá trị của một người rất khó phân giải. Danh tiếng càng lớn thì địa vị càng cao; rất nhiều người nổi tiếng rồi nhờ danh tiếng ấy mà kiếm được nhiều tiền. Các “sao” hiện nay trên vũ trường, kịch trường, các minh tinh màn bạc hiện nay cho ta rõ sự thật đó. Bình luận về danh và thực Danh luôn gắn với tài và đức. Có thực tài mới có thực danh. Có đức, có tài mới có danh. Chế độ khoa cử ngày xưa là để chọn nhân tài; những ông trạng, ông nghè là những người tài danh, có thực danh. Thời kháng chiến, trong nhân dân đã xuất hiện bao anh hùng. Đó là những tài danh đã đem xương máu lập nên bao chiến công, tô thắm lá cờ Tổ quốc thêm đỏ chói. Thành ngữ “hữu danh vô thực” là sự đánh giá về “cái tủi” và “cái thực" của một loại người nào đó trong xà hội. Những “giáo sư rởm”, “tiến sĩ rởm”, “chuyên gia rởm” nhan nhản trong xã hội ta hiện nay đã làm cho mọi người hiểu rõ, hiểu sâu hơn thành ngữ “lìữu danh vô thực”. Loại cán bộ tham nhũng hiện nay, dù "cái danh” có cao chót vót tầng mây, dù có đi xe hơi, ở nhà lầu, ăn sơn hào hải vị, thực chất chì là loại sâu mọt, bị nhân dân khinh bỉ, bị đồng loại oăm ghét. Danh không phải là một thứ, một giá trị bất biến. Có bậc tài danh nhưng sinh bất phùng thời nên đã mai danh ẩn tích. Có người đã thoái quan vi sư. Có người đã lấy “trăng thanh gió mát làm bầu bạn”. Nguyễn Trãi đã có lúc phải lui về Côn Sơn, lấy suối làm đàn cầm, lấv đá, rêu làm chiếu, lấy thông, trúc làm bóng mát để “ngâm thơ nhàn”. Văn vương phải đến bờ sông Vị Thủy để mời Lã Vọng về triều làm Thái sư; Lưu Bị phải “tam cổ thảo lư" để mời cho kì được Khổng Minh làm quân sư.. Đó là chuyện ngày xưa ớ bên Tàu. Còn ớ ta, sau ngàv Cách mạng tháng Tám thành công, Hồ Chí Minh đã ân cần, đã trân trọng mời nhiều vị nhân sĩ như cụ Huỳnh Thúc Kháng ra gánh vác việc nước. Cũng như hương sắc của hoa, danh có thể sớm nở chiều tàn. Trần Đăng Khoa nổi danh tài thơ từ lúc 7 – 8 tuổi. Sau Góc sân và khoảng trời, vườn thơ của đứa con họ Trần đã nhạt nhòa ánh trăng. Sau cái vụ “Giá Lương – Tiền” trong thập kí 80 thế kỉ XX ở nước ta, “cái danh" của một nhà thơ lớn đã bị sứt mẻ. Nhiều người vẫn nhắc lại câu ca dao châm biếm thời hãi hùng đó! Thời Đông Tấn bên tàu (thế kỉ IV), Đào Uyên Minh chỉ nổi danh là kẻ sĩ cao khiết: treo áo mũ từ quan về quê cày ruộng, ươm cúc, uống rượu, làm thơ. Khi ông mất, Nhan Điền là bạn tri kỉ của ông, một thi bá thuở ấy, trong văn tế truy điệu chỉ ngợi ca danh tiết cao quý của Đào Uyên Minh, không có câu nào nói về thơ của bạn. Nhưng từ mấy thế kỉ nay, người ta đã hết lời ngợi ca phong cách thơ giản dị, sâu sắc của thi sĩ họ Đào, xếp ông ngang hàng với Khuất Nguyên, Lí Bạch, Đỗ Phủ… những đại thi hào cùa Trung Quốc thời cổ đại. Như trăng, sao có khi tỏ khi mờ, cái danh của các nhân tài, hiển tài cũng vậy. Nhân tài. hiền tài là vấn quý của quốc gia, cần được vun trồng, ưu ái. Có vua sáng mới có tôi hiền, mới có thịnh trị. Hôn quân bạo chúa coi nhân tài như cỏ rác. Thủa “bình ngô”, Nguyễn Trãi mới có thế phát huy tài năng. “viết thư, thảo hịch tài giỏi hơn hết một thời”, nhưng năm 1442, Nguyễn Trãi đã chết thảm khốc trong vụ án Lệ Chi Viên! Thời Nam Tống, Tể tướng Tần Cối đã dùng 12 kim bài đô sát hại Nhạc Phi, một vị trung thần, một vị danh tướng. Ai đã từng nhìn tận mắt tượng Tần Cối mới hiểu thế nào là ô danh; mới thấy rõ kẻ phản bội để lại tiếng nhơ muôn đời. Trong kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ, các nhà trí thức lớn như Tôn Thất Tùng, Phạm Ngọc Thạch, Đặng Văn Ngữ, Tạ Quang Bửu, Trần Đại Nghĩ, Lương Đình Của., đã phát huy cao độ lòng yêu nước, đem tài năng hiến dâng đất nước và nhân dân. Họ đă gặp cụ Hồ. đã được cụ Hồ giao phó trọng trách và đãi ngộ, làm nên bao sự tích to lớn, đúng là “rồng gặp mây”. Nếu coi trí thức là “cục phân” thì sẽ xảy ra bao bi kịch, bao tổn thất to lớn cho xã hội. Đó là một sự thật đau đớn! Nhân tài phải được trọng dụng để phát huy. Cái thói đố kị tài năng thường dễ xảy ra, nhất là những nơi mất đoàn kết nội bộ, bị bọn cơ hội thao túng. Vì danh và mệnh trong con mắt người đời có giá trị ngang nhau, cho nên nhiều người vì hám danh mà không từ bất cứ một thủ đoạn nào: chạy chức, chạy quyền, chạy khen thưởng, mua bán bằng cấp, mua quan bán tước… Có người vì hư danh mà “làm láo báo cáo hay", vì hư danh mà đánh mất chính bản thân mình, như tục ngữ đã nói: “Mua danh ba vạn, bán danh ba đồng”. Có tài mới có danh. Có danh mới có quyền thế, bổng lộc. Có thực tài mới có thực danh. Kẻ sĩ chân chính xưa nay đều là người đức trọng tài cao, nêu gương sáng về tu nhân tích đức, sống cần, kiệm, liêm, chính, hết lòng vì nước vì dân. Tên tuổi họ, công đức họ để lại tiếng thơm muôn đời mai sau. Trái lại, có kẻ hữu danh vô thực. Cũng bằng cấp đấy, cũng chức trọng quyền cao đấy. nhưng lại là hạng người vô tích sự. Thời nào cũng vậy, sự coi trọng hư danh đã làm nảy sinh tính giả tạo. Không hề ra trận đánh giặc mà có thẻ thương binh. Chẳng có công trạng gì, thành tích gì mà có huân chương treo lủng lẳng đầy ngực. Thích khoe học vị, học hàm ầm ĩ. Vì danh luôn luôn đi liền với lợi; danh lợi là cái bả. Có kẻ chìm đắm trong vòng danh lợi mà thân bại danh liệt. Nhà thơ Tú Xương trong bài Chúc Tết đã châm biếm: Lẳng lặng mà nghe nó chúc sang, Đứa thì mua tước, đứa mua quan Phen này, ông quyết định đi buôn lọng. Vừa bán vừa la cũng đắt hàng! Thật buồn cười mà đau lòng. Có đứa con bất hiếu nhưng khi cha mẹ qua đời lại khóc lóc thảm thiết, tổ chức ma chay om sòm, kèn trống ầm ĩ. Lại có ả đàn bà dâm đãng nhưng trước mặt chồng lại tỏ ra chính chuyên. Cổ nhân có nói: “Danh chi vu thục”. Qua đó, muốn nhắc nhở mọi người phải coi trọng tài danh, thực danh, thanh danh, công danh… và đừng vì hám danh, háo danh mà làm méo mó nhân cách, mà đánh mất bản tính của mình. Ở đời, ai cũng muốn có nhiều tài năng để mưu sinh, để thi thố công danh với thiên hạ. Có tài năng bẩm sinh, nhưng tất cả đều phải học tập và rèn luyện, trải qua nhiều gian khổ, bền bỉ để “mài sắt nên kim”. Phải khiêm tốn học hỏi, chớ tự kiêu tự đại, mà bông hoa tài năng sớm lụi tàn! Tài năng chỉ có thể phát huy rực rỡ trên tâm đức. Tâm đức càng sáng, càng trong thì tài năng mới nở rộ. Đức trọng tài cao là cốt cách kẻ sĩ, bất cứ thời nào cũng thế. Nghĩ về danh và thực, lúc nào tôi cũng nghĩ và nhớ tới hai câu thơ của Ức Trai trong Quốc âm thi tập: Mấy kể công danh nhàn lẵng đẵng, Mồ hoang cỏ lục thấy ai đâu? (Tự thuật – bài số 10)
Đề bài: Bình luận về danh và thực Bài làm Danh và thực là hai khái niệm gắn liền với con người và xã hội. Đó cũng là hai phạm trù có mối quan hệ hữu cơ chặt chẽ với nhau. Bàn về danh và thực, có rất nhiều vấn đề khiến chúng ta phải suy ngẫm. Danh là tiếng tăm. Có người tiếng tăm lừng lẫy thiên hạ: nhưng phần lớn đều là tiểu tốt vô danh. Chữ danh thường đi kèm với các từ ngữ khác để có một nghĩa rộng hơn: danh giá, danh dự, tài danh, khoa danh, hữu danh, vô danh, thanh danh, công danh.. Danh dự, vinh danh và giá trị của một người rất khó phân giải. Danh tiếng càng lớn thì địa vị càng cao; rất nhiều người nổi tiếng rồi nhờ danh tiếng ấy mà kiếm được nhiều tiền. Các “sao” hiện nay trên vũ trường, kịch trường, các minh tinh màn bạc hiện nay cho ta rõ sự thật đó. Bình luận về danh và thực Danh luôn gắn với tài và đức. Có thực tài mới có thực danh. Có đức, có tài mới có danh. Chế độ khoa cử ngày xưa là để chọn nhân tài; những ông trạng, ông nghè là những người tài danh, có thực danh. Thời kháng chiến, trong nhân dân đã xuất hiện bao anh hùng. Đó là những tài danh đã đem xương máu lập nên bao chiến công, tô thắm lá cờ Tổ quốc thêm đỏ chói. Thành ngữ “hữu danh vô thực” là sự đánh giá về “cái tủi” và “cái thực" của một loại người nào đó trong xà hội. Những “giáo sư rởm”, “tiến sĩ rởm”, “chuyên gia rởm” nhan nhản trong xã hội ta hiện nay đã làm cho mọi người hiểu rõ, hiểu sâu hơn thành ngữ “lìữu danh vô thực”. Loại cán bộ tham nhũng hiện nay, dù "cái danh” có cao chót vót tầng mây, dù có đi xe hơi, ở nhà lầu, ăn sơn hào hải vị, thực chất chì là loại sâu mọt, bị nhân dân khinh bỉ, bị đồng loại oăm ghét. Danh không phải là một thứ, một giá trị bất biến. Có bậc tài danh nhưng sinh bất phùng thời nên đã mai danh ẩn tích. Có người đã thoái quan vi sư. Có người đã lấy “trăng thanh gió mát làm bầu bạn”. Nguyễn Trãi đã có lúc phải lui về Côn Sơn, lấy suối làm đàn cầm, lấv đá, rêu làm chiếu, lấy thông, trúc làm bóng mát để “ngâm thơ nhàn”. Văn vương phải đến bờ sông Vị Thủy để mời Lã Vọng về triều làm Thái sư; Lưu Bị phải “tam cổ thảo lư" để mời cho kì được Khổng Minh làm quân sư.. Đó là chuyện ngày xưa ớ bên Tàu. Còn ớ ta, sau ngàv Cách mạng tháng Tám thành công, Hồ Chí Minh đã ân cần, đã trân trọng mời nhiều vị nhân sĩ như cụ Huỳnh Thúc Kháng ra gánh vác việc nước. Cũng như hương sắc của hoa, danh có thể sớm nở chiều tàn. Trần Đăng Khoa nổi danh tài thơ từ lúc 7 – 8 tuổi. Sau Góc sân và khoảng trời, vườn thơ của đứa con họ Trần đã nhạt nhòa ánh trăng. Sau cái vụ “Giá Lương – Tiền” trong thập kí 80 thế kỉ XX ở nước ta, “cái danh" của một nhà thơ lớn đã bị sứt mẻ. Nhiều người vẫn nhắc lại câu ca dao châm biếm thời hãi hùng đó! Thời Đông Tấn bên tàu (thế kỉ IV), Đào Uyên Minh chỉ nổi danh là kẻ sĩ cao khiết: treo áo mũ từ quan về quê cày ruộng, ươm cúc, uống rượu, làm thơ. Khi ông mất, Nhan Điền là bạn tri kỉ của ông, một thi bá thuở ấy, trong văn tế truy điệu chỉ ngợi ca danh tiết cao quý của Đào Uyên Minh, không có câu nào nói về thơ của bạn. Nhưng từ mấy thế kỉ nay, người ta đã hết lời ngợi ca phong cách thơ giản dị, sâu sắc của thi sĩ họ Đào, xếp ông ngang hàng với Khuất Nguyên, Lí Bạch, Đỗ Phủ… những đại thi hào cùa Trung Quốc thời cổ đại. Như trăng, sao có khi tỏ khi mờ, cái danh của các nhân tài, hiển tài cũng vậy. Nhân tài. hiền tài là vấn quý của quốc gia, cần được vun trồng, ưu ái. Có vua sáng mới có tôi hiền, mới có thịnh trị. Hôn quân bạo chúa coi nhân tài như cỏ rác. Thủa “bình ngô”, Nguyễn Trãi mới có thế phát huy tài năng. “viết thư, thảo hịch tài giỏi hơn hết một thời”, nhưng năm 1442, Nguyễn Trãi đã chết thảm khốc trong vụ án Lệ Chi Viên! Thời Nam Tống, Tể tướng Tần Cối đã dùng 12 kim bài đô sát hại Nhạc Phi, một vị trung thần, một vị danh tướng. Ai đã từng nhìn tận mắt tượng Tần Cối mới hiểu thế nào là ô danh; mới thấy rõ kẻ phản bội để lại tiếng nhơ muôn đời. Trong kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ, các nhà trí thức lớn như Tôn Thất Tùng, Phạm Ngọc Thạch, Đặng Văn Ngữ, Tạ Quang Bửu, Trần Đại Nghĩ, Lương Đình Của., đã phát huy cao độ lòng yêu nước, đem tài năng hiến dâng đất nước và nhân dân. Họ đă gặp cụ Hồ. đã được cụ Hồ giao phó trọng trách và đãi ngộ, làm nên bao sự tích to lớn, đúng là “rồng gặp mây”. Nếu coi trí thức là “cục phân” thì sẽ xảy ra bao bi kịch, bao tổn thất to lớn cho xã hội. Đó là một sự thật đau đớn! Nhân tài phải được trọng dụng để phát huy. Cái thói đố kị tài năng thường dễ xảy ra, nhất là những nơi mất đoàn kết nội bộ, bị bọn cơ hội thao túng. Vì danh và mệnh trong con mắt người đời có giá trị ngang nhau, cho nên nhiều người vì hám danh mà không từ bất cứ một thủ đoạn nào: chạy chức, chạy quyền, chạy khen thưởng, mua bán bằng cấp, mua quan bán tước… Có người vì hư danh mà “làm láo báo cáo hay", vì hư danh mà đánh mất chính bản thân mình, như tục ngữ đã nói: “Mua danh ba vạn, bán danh ba đồng”. Có tài mới có danh. Có danh mới có quyền thế, bổng lộc. Có thực tài mới có thực danh. Kẻ sĩ chân chính xưa nay đều là người đức trọng tài cao, nêu gương sáng về tu nhân tích đức, sống cần, kiệm, liêm, chính, hết lòng vì nước vì dân. Tên tuổi họ, công đức họ để lại tiếng thơm muôn đời mai sau. Trái lại, có kẻ hữu danh vô thực. Cũng bằng cấp đấy, cũng chức trọng quyền cao đấy. nhưng lại là hạng người vô tích sự. Thời nào cũng vậy, sự coi trọng hư danh đã làm nảy sinh tính giả tạo. Không hề ra trận đánh giặc mà có thẻ thương binh. Chẳng có công trạng gì, thành tích gì mà có huân chương treo lủng lẳng đầy ngực. Thích khoe học vị, học hàm ầm ĩ. Vì danh luôn luôn đi liền với lợi; danh lợi là cái bả. Có kẻ chìm đắm trong vòng danh lợi mà thân bại danh liệt. Nhà thơ Tú Xương trong bài Chúc Tết đã châm biếm: Lẳng lặng mà nghe nó chúc sang, Đứa thì mua tước, đứa mua quan Phen này, ông quyết định đi buôn lọng. Vừa bán vừa la cũng đắt hàng! Thật buồn cười mà đau lòng. Có đứa con bất hiếu nhưng khi cha mẹ qua đời lại khóc lóc thảm thiết, tổ chức ma chay om sòm, kèn trống ầm ĩ. Lại có ả đàn bà dâm đãng nhưng trước mặt chồng lại tỏ ra chính chuyên. Cổ nhân có nói: “Danh chi vu thục”. Qua đó, muốn nhắc nhở mọi người phải coi trọng tài danh, thực danh, thanh danh, công danh… và đừng vì hám danh, háo danh mà làm méo mó nhân cách, mà đánh mất bản tính của mình. Ở đời, ai cũng muốn có nhiều tài năng để mưu sinh, để thi thố công danh với thiên hạ. Có tài năng bẩm sinh, nhưng tất cả đều phải học tập và rèn luyện, trải qua nhiều gian khổ, bền bỉ để “mài sắt nên kim”. Phải khiêm tốn học hỏi, chớ tự kiêu tự đại, mà bông hoa tài năng sớm lụi tàn! Tài năng chỉ có thể phát huy rực rỡ trên tâm đức. Tâm đức càng sáng, càng trong thì tài năng mới nở rộ. Đức trọng tài cao là cốt cách kẻ sĩ, bất cứ thời nào cũng thế. Nghĩ về danh và thực, lúc nào tôi cũng nghĩ và nhớ tới hai câu thơ của Ức Trai trong Quốc âm thi tập: Mấy kể công danh nhàn lẵng đẵng, Mồ hoang cỏ lục thấy ai đâu? (Tự thuật – bài số 10)
Đề bài: Bình luận về gương, noi gương và nêu gương Bài làm Gương là một vật dụng, một đồ dùng mà hầu như gia đình nào cũng có, người con gái nào cũng có. Soi gương để điểm trang, để tự ngắm nghía, tự kiểm tra mặt mũi của bản thân hàng ngày. Soi gương trước lúc đi học, đi làm là một thói quen đẹp. một nếp sống đẹp. Cô thôn nữ soi gương xuống mặt giếng khơi. Chàng trai thợ mộc Thanh Hoa, mài lưỡi rìu, lưỡi bào… để ngắm vuốt. Các tráng sĩ thời xưa vừa mài gươm dưới bóng trăng, vừa ngắm hàm râu én, mày ngài… Ngày nay, trong các siêu thị có bày bán đủ loại gương soi đủ dáng hình kích cỡ… thật đẹp, làm hài lòng các “nữ thượng đế”. Bình luận về gương, noi gương và nêu gương Nói đến gương, ta nghĩ ngay đến nghĩa bóng, đó là tấm gương tinh thần, tấm gương cuộc đời. Cha mẹ sông cần kiệm, hiền lành… làm gương cho con cái. Anh chị hiếu thảo, chăm học, chăm làm… làm gương cho các em. Thầy, cô giáo dạy giỏi, chăm sóc thương yêu học trò, nêu cao gương sáng trong nhà trường. Những tấm gương của các anh hùng liệt sĩ sáng mãi ngàn thu: “Trung với nước, hiếu với dân, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù tì nào cũng đánh thắng!”. Cán bộ phải “cần kiệm, liêm chính, chí công, vô tư", phải là “công bộc của dân”. Việc học tập tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh hiện nay là để cán bộ, đảng viên, thanh niên… trở thành những tấm gương sáng trong xă hội. Đã có gương sáng tất có gương mờ. Có không ít huynh trưởng hoen ố tâm hồn. Có không ít đảng viên, cán bộ tha hóa về đạo đức, tham ô, đục khoét… trương ra bộ mặt hoen ố, nhân cách méo mó. Đó là những gương xấu, để lại tiếng dơ, bị nhân dân khinh bỉ. Gương mắt là điều nên biết. Mắt là cửa sổ tâm hồn. Mắt là tấm gương để nhìn nhận, phân biệt trắng/đen; tròn/méo; tốt/xấu; nhân nghĩa/bất nhân bất nghĩa; trung thành/ phản trác; cần cù/lười nhác; thật thà/gian dối… Nhà thơ mù đất Đồng Nai – Nguyễn Đình Chiểu – trong thế kỉ XIX có nhiều câu thơ nói về mắt, về đạo (làm người), và gương mắt, ai được đọc qua một lần là nhớ mãi: Sự đời thà khuất đôi tròng thịt, Lòng dạo xin tròn một tấm gương. Sau trời thúc quý tan mây, Sông trong biển lặng mắt thầy sáng ra. Bao giờ nhật nguyệt vầy gương sáng, Bốn biển âu ca hiệp một nhà. (Ngư tiểu y thuật vấn đáp) Tố Hữu dùng hình ảnh “gương vỡ lại lành” và “Cây khô đâm cành nở hoa" để nói về sự hồi sinh, phục hưng: Đời ta gương vỡ lại lành, Cây khô cây lại đâm cành nở hoa. (30 năm đời ta có Đảng) Ai cũng có đôi mắt để nhìn, để quan sát, phải biết nhìn cho tinh tường mọi sự vật, đừng có “nhìn gà hóa cáo!”. Biết sống đẹp, nghĩa là biết noi gương và nêu gương (gương sáng).
Topic: Comment on example, imitation and setting an example Assignment A mirror is an item, an appliance that almost every family has, and every girl has. Look in the mirror to put on makeup, to admire yourself, and check your own face every day. Looking in the mirror before going to school or work is a beautiful habit. a beautiful lifestyle. The village girl looked in the mirror at the surface of the well. Young carpenter Thanh Hoa sharpens his ax and planer blades... to see his claws. Ancient warriors sharpened their swords in the shadow of the moon, while admiring the swallow's beard and eyebrows... Nowadays, in supermarkets, there are all kinds of mirrors for sale in all shapes and sizes... so beautiful, pleasing to the "girls". God". Comment on example, imitation and setting an example When we talk about mirrors, we immediately think of the figurative meaning: it is a spiritual mirror, a mirror of life. Parents are thrifty, gentle... set an example for their children. You are filial, study hard, work hard... set an example for the children. Teachers teach well, care for and love students, and set a good example in the school. The examples of heroic martyrs shine forever: "Loyal to the country, filial to the people, every task is completed, every difficulty is overcome, every enemy is defeated!". Cadres must be "thrifty, honest, public-minded, impartial", must be "public servants of the people". Learning Ho Chi Minh's moral example today is for cadres, party members, young people... to become become shining examples in society. Where there are bright mirrors, there are also dull mirrors. There are many brothers whose souls are tainted. There are many party members and cadres who are morally corrupt, corrupt, corrupt... displaying tarnished faces and distorted personalities. Those are bad examples, leaving a dirty reputation and being despised by the people. Eyes are something you should know. Eyes are the windows to the soul. Eyes are mirrors to see and distinguish between black and white; round/distorted; good bad; benevolent/unkind; loyal/treasonous; industrious/lazy; honest/deceitful… The blind poet of Dong Nai - Nguyen Dinh Chieu - in the 19th century had many verses about eyes, religion (being human), and eyes, anyone who reads it once will remember it forever: Life is better than being blinded by eyes of flesh, My heart asks for a perfect example. After the sky cleared, the clouds cleared, The river in the sea is quiet, the teacher's eyes are bright. When will the sun and moon be so bright? Four seas of seagulls unite as one family. (Fisherman's question and answer) To Huu uses the images of "a broken mirror heals" and "A dry tree sprouting branches and blooming" to talk about revival and renaissance: Our lives are broken and healed, The tree dries and blooms again. (30 years of our life with the Party) Everyone has eyes to see, to observe, you must know how to see everything clearly, don't "see chickens turn into foxes!". Knowing how to live beautifully means knowing how to follow and set an example (a good example).
Đề bài: Em hãy bình luận về lòng tự trọng Bài làm Lòng tự trọng là thước đo đạo đức, nhân cách của mỗi con người. Người có phẩm giá, biết tôn quý, yêu thương bản thân mình thì mới có lòng tự trọng. Vậy thế nào là tự trọng, là lòng tự trọng? – Biết coi trọng, biết giữ gìn phẩm cách, danh dự của mình là tự trọng. Bình luận về lòng tự trọng Người có lòng tự trọng là người tự biết xấu hổ, luôn luôn chăm lo giữ gìn nhân cách của mình trước đồng loại. Ăn mặc, đứng đắn, sạch sẽ khi đi ra khỏi nhà, khi đến trường, đến lớp… là tự trọng. Không ăn nói tục tằn, không nói điều phàm phu, biết “gọi dạ, bảo vâng”, ăn nói từ tốn, nhẹ nhàng… là tự trọng. Không chơi bời, lêu lổng, không ăn chơi đua đòi, không làm việc xấu, không quan hệ với người xấu, không giao du với kẻ bất lương… là tự trọng. Con cháu biết giữ gìn nếp nhà, biết giữ gìn danh dự, tiếng thơm, tiếng tốt cho tổ tiên, ông bà, cha mẹ… là tự trọng. Học trò biết vâng lời thầy, biết học giỏi, biết vun đắp cho tình thầy trò, bè bạn, góp phần xây dựng truyền thống tốt đẹp cho trường… là tự trọng. Câu tục ngữ “Mua danh ba vạn, bán danh ba đồng” luôn luôn nhắc nhở mỗi chúng ta biết giữ gìn phẩm giá, nhân cách, biết tôn quý lòng tự trọng. Có không ít kẻ sống “lèm nhèm”, nhưng khoe tài, khoe đức, khoe công…! Có không ít “hồi kí” cùa ông quan này, của giáo sư nọ, của nghệ sĩ – hề kia, ăn nói ồn ào, lúc phân trần, lúc khoe mẽ, lúc nói xấu đồng chí, lúc chê bai bạn bè, lúc ngấm nguýt đồng nghiệp… không chỉ tác giả đã đánh mất lòng tự trọng, tự bôi xấu mặt mày mà còn trương ra một tấm liếp xấu xí, hoen ố trước con đường đi lên phía trước của tuổi trẻ. Kẻ không biết tự trọng là kẻ thiếu văn hóa, là kẻ không biết xấu hổ, chỉ biết ăn tục, nói càn, làm bậy! Có nhà triết học đã ví lòng tự trọng như cái máy hãm (nhạy bén, chính xác) của cỗ xe. Khi cái máy hãm bị hoen gỉ, bị hỏng hóc thì cái cỗ xe ấy phải vất đi, con người ấy bị đồng loại coi thường, khinh rẻ. Có bao kẻ nghiện ngập cờ bạc, rượu chè, ma túy, mà trở thành sa đọa, tù tội. Có bao kẻ dối trá, lừa bịp, tham nhũng, đục khoét, nhâng nhâng nháo nháo ngoài đời… Chỉ nhìn những kẻ ấy, ta mới thấy việc trau dồi đạo đức, phẩm giá, việc giữ gìn lòng tự trọng cấp thiết như thế nào. Câu khẩu hiệu “nói không với tiêu cực”, được báo chí nói đến chính là lời nhắc nhở lòng tự trọng. Muốn sống đẹp phải có lòng tự trọng, biết ứng xử văn minh, lịch sự. Trẻ em, người lớn, người trẻ, người già, đàn ông, đàn bà, quan lại chức sắc, dân đen… ai cũng biết tự trọng, biết tu dưỡng phẩm giá cùa mình. Và phai nhớ câu “Anh em khinh trước, làng nước khinh sau” để mà tu nhân tích đức, để mà rèn luyện, tu dưỡng lòng tự trọng, để được làm Con Người.
Topic: Please comment on self-esteem Assignment Self-esteem is a measure of each person's morality and personality. People who have dignity, know how to respect and love themselves, have self-esteem. So what is self-respect, self-esteem? – Knowing how to value and preserve your dignity and honor is self-respect. Comment on self-esteem A person with self-esteem is a person who is ashamed of himself and always takes care of preserving his personality before his fellow humans. Dressing properly and cleanly when leaving the house, going to school, going to class... is self-respect. Not speaking vulgarly, not saying ordinary things, knowing "call yes, say yes", speaking slowly, gently... is self-respect. Not playing around, being promiscuous, not being greedy, not doing bad things, not having relationships with bad people, not associating with dishonest people... is self-respect. Children and grandchildren know how to maintain the house, know how to preserve honor, good reputation, good reputation for ancestors, grandparents, parents... is self-respect. Students who know how to obey their teachers, who know how to study well, who know how to cultivate relationships between teachers and students and friends, and contribute to building good traditions for the school... are self-respect. The proverb "Buy fame for thirty thousand, sell fame for three dong" always reminds each of us to preserve dignity, personality, and to cherish self-esteem. There are many people who live "poorly", but show off their talents, show off their virtues, show off their merits...! There are many "memoirs" of this mandarin, that professor, that artist-clown, talking loudly, sometimes explaining, sometimes showing off, sometimes speaking ill of comrades, sometimes disparaging friends, sometimes filled with colleagues... not only has the author lost his self-esteem and disgraced himself, but he has also exposed an ugly, tarnished face to the path of youth moving forward. People who do not know self-respect are people who lack culture, people who do not know shame, who only know how to profane, talk nonsense, and do nonsense! There is a philosopher who compared self-esteem to the (responsive, accurate) braking machine of a vehicle. When the braking machine is rusty or broken, the carriage has to be thrown away, and that person is looked down upon and despised by his fellow human beings. There are many people who are addicted to gambling, alcohol, and drugs, becoming depraved and imprisoned. There are so many liars, cheaters, corrupt people, corrupt people, and hustlers in real life... Only looking at those people can we see how urgent it is to cultivate morality, dignity, and preserve self-esteem. any. The slogan "say no to negativity", mentioned in the press, is a reminder of self-esteem. If you want to live beautifully, you must have self-esteem and know how to behave civilly and politely. Children, adults, young people, old people, men, women, officials, dignitaries, common people... everyone knows how to respect themselves and cultivate their own dignity. And remember the saying "Brothers despise first, country despises later" to cultivate virtue, to train and cultivate self-esteem, to be a Human.
Bình luận về nghệ thuật miêu tả nhân vật trong Những đứa con trong gia đình của Nguyễn Thi Hướng dẫn Bình luận về nghệ thuật miêu tả nhân vật trong Những đứa con trong gia đình của Nguyễn Thi Như chúng ta đã biết thì nghệ thuật chính là những hình thức hóa của nội dung, có những khi nó còn trở thành hình thức cao nhất để đem lại hiệu quả để thể hiện nội dung.Và những đứa con trong gia đình là một tác phẩm như thế. Đặc biệt hơn nữa là trong truyện nổi bật về nghệ thuật miêu tả nhân vật vô cùng hấp dẫn vô cùng đặc sắc. Trước hết trong tác phẩm này chúng ta nên chú ý tới nhân vật Việt. Anh là một thanh niên 18 tuổi,tác giả không miêu tả anh ở trong tư thế như thế nào mà tác giả đã tập trung miêu tả những nét tính cách của nhân vật này. Việt mười tám tuổi nhưng vẫn còn ngây thơ và trẻ con lắm. Tưởng rằng tính cách đó làm cho anh không có gan đi đánh giặc nhưng ngược lại Việt không nghe lời chị mà còn đòi ghi tên đi đánh giặc.Tính cách ấy chính là tính cách tiêu biểu của anh mà tác giả đã kì công xây dựng lên để thấy được phẩm chất đẹp đẽ của những con người miền nam anh hùng. Không những thế Việt còn là một người hay tranh phần hơn với chị mình, từ những việc nhỏ nhất như bắt ếch cho đến việc lớn lao như bắn trúng một tên địch trên sông Định Thủy. Tuổi còn nhỏ những việt dám đá thẳng vào mông cái thằng giết cha của Việt. Qua những điều đó thể hiện Việt là người có một lòng căm thù giặc sâu sắc và ý chí không sợ gì khi mà bản thân còn ít tuổi. Không những vậy, khi vào chiến trường anh vẫn còn mang theo chiếc ná thun, vẫn đang còn sợ con ma cụt đầu chị hay dọa ngày xưa. Đó chính là nghệ thuật miêu tả nhân vật Việt của Nguyễn Thi. Như vậy, qua đó chúng ta có thể nói tác giả đã tập trung miêu tả nhân vật Việt vào tính cách nhân vật chứ không phải là ngoại hình. Không cần đến những ngoại hình mà chỉ cần đến những tính cách ấy ta thấy nhân vật Việt hiện lên thật rõ nét và sinh động biết bao, vừa có tính trẻ con lại vừa là một người em biết yêu thương chị mình, luôn sợ mất chị. KHông những thế,anh còn là người chiến sĩ cộng sản kiên cường bất khuất. Tính cách của Việt tiêu biểu cho tầng lớp thế hệ trẻ miền Nam đi chống Mỹ cứu nước. Đến với nhân vật chị Chiến thì tác giả có nhắc tới đôi nét về ngoại hình. Bề ngoài của Chiến rất giống mẹ của cô, bàn tay dịu dàng, đôi mắt tìm việc. ở nhân vật này chúng ta lại thấy chiến là một người trưởng thành hơn rất nhiều.Không những vậy tác giả còn miêu tả tính cách của Chiến, đó còn là một người chị rất thương em của mình, không muốn cho nó sống trong cảnh gian nan của chiến tranh, chiến còn là một người rất biết sắp xếp việc nhà. Qua đây hình ảnh hai chị em việt và Chiến được tác giả khắc họa qua tính cách một cách chân thực và rõ nét, mỗi người có một tính cách riêng. Ngoài hai nhân vật chính thì trong truyện chúng ta còn được biết đến với những nhân vật khác đó là ba má của Chiến Việt, ông bà, chú Năm. Ba của hai chị em đi làm du kích rồi không may bị chặt đầu chết thương tâm, nhưng cái chết ấy cũng thể hiện được sự gan dạ bất khuất của người làm cha làm mẹ ấy. Chết không phải là nhục mà chết vì nghĩa lớn thì đó cũng là vinh quang. Má của hai chị em thì lại là một người không những đảm đang “con mắt tìm việc, đôi chân dò đường” mà còn là người cung cấp những thông tin mật cho cách mạng của chúng ta. Bà như một người mẹ Việt nam anh hùng vậy. còn chú Năm là người trực tiếp ghi lại những sự kiện vào một cuốn sổ gia đình. Để ở đó những người sau sẽ biết ông bà cha mẹ phải chịu cảnh như thế nào chiến dấu như thế nào để con cháu học tập noi theo và trả thù cho những người thân của mình. Nguồn: Bài văn hay
Comment on the art of character depiction in The Children in the Family by Nguyen Thi Instruct Comment on the art of character depiction in The Children in the Family by Nguyen Thi As we know, art is the formalization of content, sometimes it even becomes the highest form to bring efficiency to express content. And the children in the family are an author. products like that. What's more special is that the story stands out in its art of depicting extremely attractive and unique characters. First of all in this work we should pay attention to the Vietnamese character. He is an 18 year old young man, the author does not describe what position he is in, but the author focuses on describing the personality traits of this character. Viet is eighteen years old but is still very naive and childish. Thinking that that personality made him not have the guts to go fight the enemy, but on the contrary, Viet did not listen to her and even asked to sign up to fight the enemy. That personality is his typical personality that the author has painstakingly built. up to see the beautiful qualities of the heroic southern people. Not only that, Viet is also someone who competes more with her sister, from the smallest things like catching frogs to the big things like shooting an enemy on the Dinh Thuy River. At such a young age, Viet dared to kick the guy who killed Viet's father in the ass. Through these things, Viet is shown to have a deep hatred for the enemy and the will to fear nothing even when he was young. Not only that, when he entered the battlefield, he still carried the slingshot, still afraid of the headless ghost she used to scare him in the past. That is Nguyen Thi's art of depicting Vietnamese characters. Thus, we can say that the author has focused on describing Vietnamese characters on their personalities, not their appearance. Without needing physical appearance, just needing those personalities, we see how clearly and vividly the Vietnamese character appears, both childish and a younger brother who knows how to love his older sister, but is always afraid of losing him. older sister. Not only that, he is also a resilient and indomitable communist soldier. Viet's personality represents the young generation in the South who fought against America to save the country. Coming to the character of Ms. Chien, the author mentioned a few features about her appearance. Chien's appearance is very similar to her mother's, gentle hands, searching eyes. In this character, we see that Chien is a much more mature person. Not only that, the author also describes Chien's personality, she is also an older sister who loves her younger brother very much and does not want her to live in this situation. hardships of war, Chien is also a person who knows how to organize housework. Through this, the author's images of two sisters, Viet and Chien, are portrayed through their personalities honestly and clearly, each with their own personality. In addition to the two main characters, in the story we also know other characters: Chien Viet's parents, grandparents, and Uncle Nam. The two sisters' father went to work as a guerrilla and was unfortunately beheaded and died tragically, but that death also demonstrated the indomitable courage of that parent. Death is not dishonorable, but dying for a great cause is also glory. The mother of the two sisters is a person who not only has "eyes for work, feet to find the way" but is also a provider of secret information for our revolution. She is like a heroic Vietnamese mother. Uncle Nam was the one who directly recorded the events in a family book. So that later people will know what kind of situation their parents and grandparents had to endure and how to fight so that their children and grandchildren can learn to follow and avenge their loved ones. Source: Good article
Đề bài: Bình luận về nỗi lo và sự rèn luyện, tu dưỡng Bài làm Không lo là không có địa vị mà chỉ lo là mình không có tài năng; không lo là không ai biết, ai hiểu mình mà chỉ lo tài đức mình không nổi trội, nên chẳng ai đoái hoài đến. Điều quan trọng của mọi người là phải không ngừng rèn đức luyện tài, nâng cao bản lĩnh sống. A dua, đua đòi, khinh bạc, khoe khoang sao được! Bình luận về nỗi lo và sự rèn luyện, tu dưỡng Tri thức, học vấn, trình độ, nhân cách bản lĩnh… đều do học tập, rèn luyện, tu dưỡng mà có. Mọi sự khen, chê đều căn cứ vào tốt/ xấu; thiện/ ác… Cho nên sự rèn luyện và tu dưỡng là bài học muôn thuở cho bất cứ ai. Con đối với cha mẹ phải hiếu thảo, vợ chồng phải thủy chung, bạn hữu phải sắt son tình nghĩa; đối với Tổ quốc và dân tộc phải trung, đối với mọi người phái nhân ái. Trung hiếu, nhân ái, thủy chung… tuy mỗi thời kì có màu sắc khác nhau, nhưng tất cả đều thể hiện tâm hồn Việt Nam, tính cách Việt Nam, đạo lí của dân tộc ta qua hàng ngàn năm giữ nước và dựng nước. Bất cứ con người Việt Nam nào dù trẻ hay già, dù địa vị nào, Việt kiều sinh sống ở nơi xa hay đồng bào trên mọi miền quê đất nước đều phải tu dưỡng, rèn luyện, phải sống đẹp theo chuẩn mực ấy. Đọc Binh Ngô đại cáo cùa Nguyễn Trãi, ta rơi lệ trước thảm họa của dân tộc dưới ách thống trị của quân “cuồng Minh”', ta “lo” nỗi lo, ta “giận” trước nỗi giận của Lê Lợi và các nghĩa sĩ Lam Sơn thuở “bình Ngô". Ngẫm thù lớn há đội trời chung, Căm giặc nước thề không cùng sống. Đau lòng nhức óc, chốc đà mười mấy năm trời, Nêm mật nằm gai, há phải một hai sớm tối. Từ xưa đến nay, bất cứ người nào cũng cần phải rèn luyện, tu dưỡng. “Bác học cũng phải học”, phải đọc sách thâu canh, phải làm thí nghiệm suốt đêm này qua đêm khác; nhà lai tạo giống cùng nông dân một nắng hai sương qua nhiều ngày tháng mới sáng tạo ra giống lúa mới giàu năng suất. Sĩ tử xưa nay đều phải “thập niên đăng hỏa”, phải “dùi mài kinh sử” mới nên ông Nghè, ông Cống, mới ghi tên vào bảng vàng, mới chiếm được một chỗ ngồi sang trọng trong các trường đại học. Mọi thành công ở đời đều có giá; cái giá của mồ hôi, nước mắt và máu; cái giá của sự rèn luyện, tu dưỡng lâu dài, gian khổ. Mài sắt mới nên kim. Ngọc càng mài càng sáng; vàng càng luyện càng trong. Đó là chân lí, là bài học về sự rèn luyện tu dưỡng. Thế hệ trẻ phải sống có chí hướng, có lí tưởng, phải tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, học vấn, tài năng để bước vào đời phục vụ Tổ quốc, và ngẩng cao đầu trước thiên hạ.
Topic: Comment on anxiety and training and cultivation Assignment Don't worry about not having status, just worry about not having talent; Don't worry that no one knows or understands you, just worry that your talent and virtue are not outstanding, so no one cares about you. The important thing for everyone is to constantly practice their virtues, practice their talents, and improve their courage to live. How can you be arrogant, demanding, disrespectful, and boastful? Comment on anxiety and training and cultivation Knowledge, education, qualifications, strong personality... all come from studying, training, and cultivating. All praise and criticism are based on good/bad; good and evil… Therefore, training and cultivation are eternal lessons for anyone. Children must be filial to their parents, husband and wife must be faithful, friends must be loyal; Be loyal to the Fatherland and people, be compassionate to everyone. Loyalty, kindness, loyalty... although each period has different colors, they all express the Vietnamese soul, Vietnamese character, and the morality of our nation through thousands of years of defending and building the country. . Any Vietnamese person, young or old, regardless of status, overseas Vietnamese living in far away places or compatriots in every countryside of the country, must cultivate, train, and live beautifully according to that standard. Reading Nguyen Trai's Binh Ngo, we shed tears at the disaster of the nation under the yoke of the "mad Ming" army, we were "worried" and worried, we were "angry" at the anger of Le Loi and his followers. Lam Son scholar during the "Wu Binh" period. Thinking about a great enemy, how could it be the end of the world? Hate the enemy and swear not to live together. Heart-breaking and painful, over and over again for more than ten years, If you season the honey with thorns, it must be one or two early in the evening. From ancient times until now, any person needs to practice and cultivate. "Scientists also have to study", they have to read books all the time, they have to do experiments night after night; Breeders and farmers have passed one day, two frosts It took many months to create a new high-yield rice variety. Scholars have always had to "take the fire for decades" and have to "grind their way through history", so Mr. Nghe and Mr. Cong had to write their names on the golden board and get a luxurious seat in universities. Every success in life has a price; the price of sweat, tears and blood; the price of long and arduous training and cultivation. Sharpening iron makes needle. The more jade is polished, the brighter it becomes; The more gold is refined, the purer it becomes. That is the truth, a lesson about training and cultivation. The young generation must live with ambition and ideals, must cultivate and practice morality, education, and talent to enter a life of serving the Fatherland, and hold their heads high before the world.
Đề bài: Bình luận về sống, sống có ích, và sống đẹp Bài làm Đến với núi cao, sông dài, biển rộng là để biết cái hùng vĩ của vũ trụ vô cùng. Đến với cỏ nội hoa ngàn, trăng thanh gió mát, là muốn cảm được cái kì diệu của hóa công, đo được cái trong của hồn mình, bày tỏ được cái chí của đời mình. Khắc đá đề thơ vào vách dộng, lưu bút đến ngàn năm sau, phải là bậc danh sĩ cao khiết ở đời. Tựa như trăng sao vằng vặc vậy. Còn như đúc chuông, tạc tượng, xây chùa dựng am, trồng tháp là sự bày tò cái lòng thành của bậc chân nhân, vĩ nhân. Lo cho dân cày thêm ruộng cấy trâu cày, kẻ bần hàn có cơm no áo ấm, được sống yên bình giữa bốn cõi, là cái tài, cái tâm của bậc đống lương, kinh bang tế thế xưa nay. Bình luận về sống, sống có ích, và sống đẹp Lòng vui khi nghe suối reo chim hót. Rơi lệ trước nỗi đau của kẻ nghèo hèn, thao thức vì tiếng khóc của cô nhi quả phụ, hân hoan khi nghe trẻ thơ ca hát vui cười. Đau cái đau của người, vui cái vui của thiên hạ. Ăn một miếng ngon, mặc cái áo đẹp, nơi ở là lâu đài, du ngoạn có xe tứ mã, thế là sang. Nếu thiếu đi một tâm hồn trong sáng, một đời sống tinh thần phong phú, thì chưa hẳn đã hạnh phúc? Đến với một chân trời xa lạ, một ngọn núi dòng sông, một đảo xa biển biếc, là được sống thêm một phần cuộc đời tốt đẹp. Gặp gỡ thêm một người bạn hiền tựa như sông suối thêm nguồn, như đứng trên núi cao ngắm trăng, không chỉ cảm được “thanh phong minh nguyệt” mà còn thấy được cái sáng của lòng mình, cái trong của hồn mình, cái thành thực của tình bằng hữu. Tình bốn phương cao nhã là vậy.
Topic: Comment on living, living usefully, and living beautifully Assignment Coming to high mountains, long rivers, and wide seas is to know the majesty of the infinite universe. Coming to the grass, the flowers, the moon, the cool breeze, is to feel the magic of transformation, to measure the innermost being of one's soul, to express the will of one's life. Carving poems in stone on cave walls, leaving notes for thousands of years to come, one must be a noble and noble scholar in life. Just like the bright moon and stars. Casting bells, carving statues, building pagodas, building huts, and planting stupas are expressions of the sincerity of true and great people. Caring for the people to plow more fields and grow buffaloes, for the poor to have enough food and warm clothes, and to live peacefully among the four realms, is the talent and heart of the rich and economic people of the past. Commentary on living, living usefully, and living beautifully My heart is happy when I hear the stream ringing and the birds singing. Tears at the pain of the poor, awake at the cries of orphans and widows, joy at hearing children sing and laugh. Pain is the pain of others, joy is the joy of the world. Eat a delicious bite, wear a nice shirt, live in a castle, travel with a four-horse carriage, that's luxury. If you lack a pure soul and a rich spiritual life, then you are not necessarily happy? Coming to a strange horizon, a mountain, a river, an island far away from the ocean, is to live another part of a good life. Meeting another kind friend is like a river with a source, like standing on a high mountain looking at the moon, not only feeling the "clear and bright moon" but also seeing the brightness of your heart, the clarity of your soul, the success of your soul. the truth of friendship. Such is the noble love of four directions.
Bình luận về sức khỏe Hướng dẫn Bình luận về sức khỏe Bài làm Mỗi chúng ta sinh ra, một trong những thứ quý giá nhất được tạo hóa ban tặng, đó chính là sức khỏe. Sức khỏe là một trạng thái tự nhiên của thể chất con người, những ai không ốm đau, bệnh tật nghĩa là có sức khỏe. Vậy chúng ta đã hiểu đúng, và trân trọng sức khỏe của bản thân chưa? “ Sức khỏe là vàng”, “ Có sức khỏe là có tất cả, không sức khỏe là không có gì”…Những câu nói về sức khỏe như vậy, chắc hẳn ai trong chúng ta cũng từng nghe qua. Chúng ta được sinh ra với một cơ thể lành lặn, đầy đủ, không có dị tật bẩm sinh, đã là một sự ban ơn của tạo hóa. Chúng ta phải biết ơn tạo hóa, biết ơn cha mẹ đã sinh ra chúng ta khỏe mạnh, sức khỏe tốt. Còn với những người sinh ra đã không may mắn mang dị tật, hoặc có bệnh bẩm sinh, chúng ta cần phải biết cảm thông với họ. Họ kém may mắn hơn chúng ta, sinh ra không có được một cơ thể khỏe mạnh, đau ốm, bệnh tât. Chúng ta có sức khỏe tốt, chúng ta làm được mọi việc. Làm việc gì cũng cần phải có sức khỏe, dù chăm chỉ đến đâu, nhưng không có sức khỏe cũng không có thành công. Chẳng hạn chúng ta đi làm, nhưng chúng ta thường xuyên đau ốm, thường xuyên xin nghỉ, không đáp ứng được công việc, dẫn đến bị sa thải, đó chính là hệ lụy của việc không có sức khỏe. Dù chúng ta có giàu có đến đâu, của cải sung túc không đếm xuể, nhưng không có sức khỏe để hưởng thụ, thì của cải cũng không có nghĩa lý gì. Đó là lý do vì sao, chúng ta không nên bán mạng cho công việc. Chúng ta cứ nghĩ chúng ta còn trẻ, làm việc quá sức vì đồng tiền, vì lợi ích cá nhân mà không màng đến sức khỏe. Đó là với những người làm việc lành mạnh, còn có những người chỉ biết chơi bời, những cuộc vui thâu đêm suốt sáng, tệ nạn, tàn phá sức khỏe nặng nề. Chúng ta đâu biết rằng, chính chúng ta đang tự giết chết bản thân mình một cách từ từ nhất. Đến khi không còn sức khỏe, đau yếu nằm một chỗ, chúng ta mới nghĩ đến hai từ “ giá như”. Giá như trước đây mình không tự hủy hoại bản thân, biết rèn luyện, giữ gìn sức khỏe hơn thì đâu đến nỗi. Còn chưa kể đến xã hội bây giờ, con người vì đồng tiền mà giết hại nhau. Thực phẩm bẩn, tẩm hóa chất độc hại, ăn vào gây bệnh ung thư, phá hủy nội tạng người… Họ chỉ nhìn thấy cái lợi trước mắt của bản thân mà không biết rằng, đang giết hại từ từ những con người vô tội. Quá đau xót khi Việt Nam đang là nước báo động đỏ về tỉ lệ mắc bệnh ung thư cao trên thế giới.
Comments on health Instruct Comments on health Assignment Each of us is born with one of the most precious things given to us by our Creator, which is health. Health is a natural state of human physical health. Those who are not sick or ill are healthy. So have we understood correctly, and appreciated our own health? "Health is wealth", "If you have health you have everything, if you don't have health you have nothing"... Surely all of us have heard such sayings about health. We are born with a healthy, complete body, without birth defects, which is a blessing from the creator. We must be grateful to the Creator and to our parents for giving birth to us in good health. As for those who were born unlucky enough to have deformities or congenital diseases, we need to sympathize with them. They are less fortunate than us, born without a healthy body, sick or sick. We have good health, we can do everything. Doing anything requires health, no matter how hard you work, but without health there is no success. For example, we go to work, but we often get sick, often take time off, and cannot meet the job requirements, leading to being fired, which is the consequence of not being healthy. No matter how rich we are, our wealth is countless, but without the health to enjoy it, wealth has no meaning. That's why we shouldn't sell our network for work. We think we are young, working too hard for money, for personal gain without caring about our health. That is for people who work healthily, but there are also people who only know how to play, have fun all night long, evils, and severely damage their health. Little do we know that we are killing ourselves slowly. When we no longer have health and are sick and lying in bed, we only think of the words "if only". If only I hadn't self-sabotaged myself in the past and had trained and maintained my health better, it wouldn't have been so bad. Not to mention today's society, people kill each other for money. Dirty food, laced with toxic chemicals, causes cancer when eaten, destroys human organs... They only see their own immediate benefits without knowing that they are slowly killing innocent people. It's so sad that Vietnam is on red alert for high cancer rates in the world.
Bình luận về sự hám danh hám lợi trong cuộc sống Hướng dẫn Bình luận về sự hám danh hám lợi trong cuộc sống Tất nhiên trong cuộc sống ai chả mong mình có một cuộc sống giàu sang một gia đình sung túc và được nhiều người biết tới và quí trọng. Dường như đó là một thứ mà nhiều người cất công theo đuổi và ở đó bên cạnh những người theo đuổi tiền tài bằng chính thực lực của mình còn có cả những người vì hám danh hám lợi mà đánh đổi nhiều thứ. Cuộc đời chẳng cho không ai một điều gì, gieo nhân nào thì gặt quả ấy quả là một triết lí chẳng bao giờ sai mà con người phương Đông luôn lấy đó làm ví dụ nhắc nhở con cháu của mình Những kẻ hám danh là những người chỉ chăm chăm làm mọi thứ hòng để có chức cao vọng trọng được mọi người biết tới. danh lợi lúc này không còn là thứ chỉ cố gắng nỗ lực hết mình để theo đuổi mà còn là chiếm đoạt. Vì quá hám danh mà đôi khi con người có thể đánh đổi giá trị của chính bản thân mình để có được. những con người như vậy sẽ chẳng bao giờ hiểu được giá trị của sự cạnh tranh là gì? Với những kẻ hám danh họ một phần muốn được quyền cao chức trọng một cách nhanh chóng liền liên tục mua chức bán bằng và những thứ họ có trong tay chỉ là mớ giấy lộn được mua với một cái giá cao ngất ngưỡng. hơn thế những người hám danh thường là những kẻ hỗn xược mang vẻ độc đoán, mình không có gì nhưng hay lấy danh nghĩa ra để hà hiếp người khác. Hơn nữa những người này không có thực lực cho nên nhanh chóng không làm được việc gì nhưng vẫn ăn lương vẫn ăn của mua chuộc đút lót từ người khác. Những kẻ hám danh hám lợi cần phải được loại trừ sớm trong xã hội này. Sống trong đời sống cần phải có lương tâm và y đức. giống như những người mà chúng ta đang đối mặt những người đang trò chuyện cùng ta là những người thân yêu trong gia đình của chính chúng ta vậy. cho nên những kẻ hám danh hám lợi nên sớm bị loại bỏ để xã hội được phát triển bền vững và giàu đẹp. Nguồn: Bài văn hay
Comment on the greed for fame and profit in life Instruct Comment on the greed for fame and profit in life Of course, in life, everyone wants to have a rich life, a prosperous family and to be known and appreciated by many people. It seems that it is something that many people strive to pursue, and besides those who pursue money with their own strength, there are also those who trade many things for the sake of fame and profit. Life does not give anything to anyone for free. Whatever you sow, you will reap. This is a never-failing philosophy that Eastern people always use as an example to remind their children and grandchildren. Fame-hungry people are people who only focus on doing everything to have a high position and be known by everyone. At this time, fame and fortune are no longer something that we just try our best to pursue, but also to appropriate. Because people are so greedy for fame, they can sometimes trade their own values ​​to get it. Such people will never understand the value of competition? For those who are greedy for fame, they partly want to quickly gain high power and position, so they constantly buy positions and sell degrees, and what they have in their hands is just a bunch of paper bought at a very high price. Moreover, people who are greedy for fame are often arrogant and domineering people. They have nothing but often use their name to oppress others. Moreover, these people have no real strength, so they quickly cannot do anything but still get paid and take bribes from others. Those who are greedy and greedy need to be eliminated early in this society. Living in life requires conscience and medical ethics. Just like the people we are facing, the people we are talking to, are loved ones in our own family. Therefore, those who are greedy for fame and profit should be eliminated as soon as possible so that society can develop sustainably and become rich and beautiful. Source: Good article
Đề bài: Bình luận về sự đồng cảm và sẻ chia trong xã hội ta ngày nay Bài làm “Thương người như thể thương thân” là đạo lí tốt đẹp của dân tộc ta. Tình thương là lẽ sống tốt đẹp của triệu triệu con người Việt Nam, truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác, ngày một phát triển mạnh mẽ và sâu sắc. Tình thương, lòng nhân ái là một biểu hiện rõ nét về đạo đức của mỗi người. Tình thương, lòng nhân ái được biêu hiện một cách cụ thể qua thái độ và hành động, đó là đồng cảm và sẻ chia. Bình luận về sự đồng cảm và sẻ chia trong xã hội ta ngày nay Có thương người mới biết đồng cảm và sẻ chia. Nhìn thấy người bất hạnh, tàn tật, ốm đau, đói khổ, hoạn nạn, ta động lòng thương, ta rơi nước mắt, đó là đồng cảm. “Một miếng khi đói bằng một gói khi no”, đó là san sẻ. Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, Bác Hồ kêu gọi toàn dân "diệt giặc đói, diệt giặc dốt, diệt giặc ngoại xâm”. Bác Hồ cũng như hàng triệu gia đình đã giảm bớt khẩu phần hàng ngày, dành gạo để cứu đói. Chiến thắng được giặc đói lúc bấy giờ là một thành tích to lớn của cách mạng, là do sức mạnh lòng nhân ái của nhân dân ta. Sau ba mươi năm chiến tranh, nước ta hiện có hàng chục vạn nạn nhân chất độc da cam. Hàng triệu đồng bào ở vùng sâu, vùng xa còn sống trong cảnh nghèo khó, thiếu thốn, khó khăn. Lũ lụt, bão tố xảy ra triền miên, gây ra cánh người chết, cảnh màn trời chiếu đất, cho nhiều gia đình. Nhiều học sinh đến trường bị nước lũ cuốn trôi; nhiều ngư dân ra khơi đánh cá bị sóng gió cuốn mất tích. Trước những cảnh đau lòng đó, ai mà chẳng động lòng thương, ai mà chẳng rơi nước mắt? Các phong trào quyên góp do Mặt trận Tô quốc phát động để cứu giúp, để ủng hộ các nạn nhân chất dộc da cam, các bệnh nhân nhiễm HIV – AIDS đã được đồng bào ta hưởng ứng nhiệt liệt. Nhiều Việt kiều đã gửi về hàng trăm triệu đồng đóng góp vào quỹ từ thiện được báo chí ngợi ca. Phong trào giúp học sinh nghèo, học sinh khó khăn được đông đảo thầy cô giáo và các bạn trẻ tham gia nhiệt liệt. Tất cả các phong trào đó đã nói lên một cách cảm động sức mạnh đoàn kết., truyền thống nhân ái vô cùng tốt đẹp của dân tộc Việt Nam chúng ta. Đồng cảm và sẻ chia đã trở thành bài ca, tiếng hát của cả cộng đồng dân tộc. Đồng cảm và sẻ chia đã trở thành tiếng gọi của lương tâm. Đồng cảm và sẻ chia đã trở thành sức mạnh đẩy lùi khó khăn, hoạn nạn. Nói đến đồng cảm và sẻ chia trong xã hội ta ngày nay, tôi không bao giờ quên câu ca mà bà nội tôi vẫn nhắc các con, các cháu: Nhiễu điều phủ lấy giá gương, Người trong một nước phải thương nhau cùng.
Topic: Comment on empathy and sharing in our society today Assignment "Love others as you love yourself" is a good morality of our people. Love is a good way of life for millions of Vietnamese people, passed down from generation to generation, growing stronger and deeper day by day. Love and kindness are a clear expression of each person's morality. Love and kindness are expressed specifically through attitudes and actions, which are empathy and sharing. Comment on empathy and sharing in our society today Only when you love others do you know how to sympathize and share. Seeing people who are unfortunate, disabled, sick, hungry, or in trouble, we feel compassion, we shed tears, that is empathy. “One piece when hungry is equal to one packet when full”, that is sharing. After the August Revolution in 1945, Uncle Ho called on all people to "kill the hungry, the ignorant, and the foreign invaders." Uncle Ho, like millions of families, reduced their daily rations, saving rice to relieve hunger. Defeating the famine at that time was a great achievement of the revolution, due to the strength of our people's compassion. After thirty years of war, our country now has tens of thousands of victims of Agent Orange. Millions of people in remote and remote areas still live in poverty, deprivation, and hardship. Floods and storms occur constantly, causing deaths and devastating scenes for many families. Many students going to school were swept away by floodwaters; Many fishermen who went out to fish were swept away by wind and waves and disappeared. Faced with those heartbreaking scenes, who wouldn't be moved by compassion, who wouldn't shed tears? The donation movements launched by the Front for National Support to help and support victims of Agent Orange and HIV-AIDS patients have been enthusiastically responded to by our compatriots. Many overseas Vietnamese have sent back hundreds of millions of dong to contribute to charity funds that have been praised by the press. The movement to help poor and disadvantaged students was enthusiastically participated by many teachers and young people. All of these movements have touchingly expressed the strength of solidarity and the extremely fine tradition of kindness of our Vietnamese people. Sympathy and sharing have become the song and singing of the entire ethnic community. Sympathy and sharing have become the call of conscience. Sympathy and sharing have become the power to repel difficulties and tribulations. When it comes to empathy and sharing in our society today, I will never forget the song that my grandmother still reminds her children and grandchildren: Government interference that takes the mirror, People in a country to trade together.
Đề bài: Bình luận về tinh thần dũng cảm của con người Bài làm Bác Hồ đã dạy thiếu nhi: “Khiêm tốn, thật thà, dũng cảm”. Đó là ba phẩm chất tốt đẹp cần có của mỗi người, nhất là đối với tuổi trẻ chúng ta. Trong bài văn này, tôi chỉ bàn về tinh thần dũng cảm, lòng dũng cảm. Vậy thế nào là dũng cảm? – Trước hết phải hiểu thế nào là dũng? – Dũng là sức mạnh và tinh thần trên hẳn mức bình thường, tạo khả năng đương đầu với sức chống dối, với nguy hiểm để làm nên những việc nên làm. Dũng thường đi đối với trí, để có trí dũng song toàn; cũng trường hợp hữu dũng vô mưu. Bình luận về tinh thần dũng cảm của con người Dũng cảm nghĩa là có dũng khí dám đương đầu với chống đối, với nguy hiểm để làm những việc nên làm. Trong ngôn ngữ dân tộc ta có những từ ngữ gần nghĩa với dũng cảm là: dũng khí, dũng mãnh, quả cảm, dũng sĩ, dùng tướng… Đó là những từ cùng trường từ nghĩa… Dũng cảm được thể hiện ở tinh thần và hành động. Không sợ khó, sợ khổ, sợ hi sinh, là tinh thần dũng cảm. Dám đối mặt với mọi thách thức, không lùi bước trước mọi khó khăn nguy hiểm là dũng cảm, cổ ngữ có câu ca ngợi những con người chân chính là: “phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất". Dám nhìn thẳng vào sự thật, dám nói lên sự thật với động cơ tốt đẹp là dũng cảm. Dám xông vào nơi nguy hiểm, xông vào rừng tên biển giáo của quân giặc để chiến đấu, coi cái chết nhẹ tựa lông hồng… là hành động dũng cảm. Chiến đấu hi sinh đến giọt máu cuối cùng, bắn đến viên đạn cuối cùng là hành động dũng cảm. Tình cảm yêu nước đã phát huy cao độ tinh thần dũng cảm của nhân dân ta tạo thành khí phách anh hùng, chủ nghĩa anh hùng. Tố Hữu đã có những vần thơ thật đẹp, thật hay ca ngợi truyền thông cao quý của dân tộc: Dân ta gan dạ anh hùng Trẻ làm đuốc sống, già xông lửa đồn Các chiến sĩ Điện Biên trải qua 55 ngày đêm trong mưa bom bão đạn của giặc Pháp, đã “khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt”, đã “lấy lưng chèn pháo”, đã “thân chôn làm giá súng, đầu bịt lỗ châu mai”,… đem máu xương và chí khí dũng cảm lập nên chiến công “chấn động địa cầu”. Bài ca Điện Biên là bài ca yêu nước, lòng dũng cảm, chí khí anh hùng cùa quân đội ta, nhân dân ta, của tuổi trẻ Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh. Các trang sử vàng, các chiến công chói lọi của dân tộc ta từ xưa tới nay như Bạch Đằng, Chi Lăng, Đống Đa, Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử… đều được làm nên bằng máu xương, bằng truyền thống yêu nước và tinh thần chiến đấu dũng cảm của bao thế hệ, của triệu triệu con người Việt. Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn biểu lộ một ý chí căm thù sôi sục lũ giặc Nguyên Mông, một tinh thần dũng cảm chiến đấu quvết xả thân trên chiến địa để bảo vệ sơn hà xã tắc. Hơn 700 năm đã trôi qua, tiếng hịch vẫn bừng bừng khí thế “Sát Thát"; “Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa, chỉ căm tức rằng chưa xả thịt lột da, nuốt gan, uống máu quân thù. Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa ta cũng vui lòng’’. Bình Ngô đại cáo cùa Nguyễn Trãi là bản anh hùng ca của dân tộc ta trong thế kỉ XV. Tinh thần chiến đấu dũng cảm của nghĩa quân Lam Sơn đã tạo nên khí phách anh hùng quyết thắng: Gươm mài đá, đá núi cũng mòn, Voi uống nước, nước sông phải cạn. Đánh một trận; sạch không kình, ngạc. Đánh hai trận; tan tác chim muông Văn thơ yêu nước và cách mạng nói nhiều đến lòng kiên trung, ý chí sắt đá, lòng dũng cảm của các nhà chí sĩ, chiến sĩ, quyết “xối máu nóng rửa vết nhơ nô lệ” (Phan Bội Châu). Họ hiên ngang trước xà lim, máy chém của quân thù. Trước mọi thứ thách nặng nề của chốn lao tù đế quốc, người chiến sĩ cách mạng vẫn bất khuất hiên ngang: Kiên trì và nhẫn nại, Không chịu lùi một phân, Vật chất tuy đau khổ, Không nao núng tinh thần. Tinh thần dũng cảm, lòng dũng cảm không chỉ được thể hiện trong chiến đấu, trước thử thách giữa cái sống và cái chết, giữa bại và thắng, giữa nhục và vinh, mà còn được biểu hiện trong sinh hoạt đời thường. Biết nhận ra thiếu sót, khuyết điểm, lỗi lầm của mình, để sửa chữa, để khắc phục tự vươn lên, hoàn thiện nhân cách của mình là dũng cảm. Dũng cảm nhìn thấy điếm yếu của mình là một việc làm không đơn giản vì sợ mất uy tín trước đồng loại, vì mang tâm lí “dại gì tự vạch áo cho người xem lưng!" Trong học tập, ta thường bắt gặp cậu học trò này giấu dốt, cô nữ sinh kia giấu dốt, nhưng chỉ vì thiếu tinh thần dũng cảm mà không có tinh thần nỗ lực vươn lên. Trái với tinh thần dũng cảm là gì? – là sợ sệt, là run rợ, khiếp sợ, khiếp đảm, là phách lạc hồn xiêu, là bạt vía kinh hồn… Trong xã hội,, những kẻ tham sống sợ chết là loại người hèn nhát, thường bị đối phương lợi dụng. Loại người ngày khi đứng trước mọi nguy hiểm chết chóc sẽ trở thành kẻ đầu hàng phản bội. Rèn luyện tinh thần dũng cảm không hề đơn giản. Dân ta có câu: “Có gan đi lính, giỏi tính đi buôn”, gan là gan góc dũng cảm. Phải xông pha, vật lộn với cuộc sống, có vào sinh ra tử chiến đấu, dám xả thân vì việc nghĩa, biết rèn luyện ý chí như tôi thép qua lửa đỏ, và phải trải qua nhiều thời gian năm tháng mới có thể hình thành phẩm chất đức tính cao quý đó. Những tấm gương ngời sáng như Lê Văn Tám, Kim Đồng, Vừ A Dính, Phạm Ngọc Đa… là những thiếu niên anh hùng dũng cảm. Những người bắt cướp hoặc băng qua dòng nước lũ để cứu tài sản và tính mạng của nhân dân là những tấm gương dũng cảm, giàu đức hi sinh được ca ngợi. Những tấm gương dũng cảm ấy mãi mãi sáng ngời trong cuộc đời và sử sách, để tuổi trẻ chúng ta noi gương học tập. Tinh thần dũng cảm khi được nâng cao sẽ trở thành bản lĩnh, khí phách: “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh" như của các chiến sĩ cảm tử quân Hà Nội trong những ngày đầu Toàn quốc kháng chiến (20-12-1946). Bàn về tinh thần dũng cảm, ta ghi nhớ sâu sắc vào lòng, ta mãi mãi ngưỡng mộ những chiến sĩ yêu nước của dân tộc ta đã nêu cao khí tiết lẫm liệt trước mọi kẻ thù tàn bạo: “Thà chết vinh còn hơn sống nhục”.
Topic: Comment on human courage Assignment Uncle Ho taught children: "Be humble, honest, courageous." Those are three good qualities every person needs, especially our youth. In this essay, I only discuss the spirit of bravery and courage. So what is courage? – First of all, we must understand what courage is? – Courage is strength and spirit above the normal level, creating the ability to cope with resistance and danger to do what should be done. Courage often goes against wisdom, to have perfect wisdom and courage; It is also a case of bravery and no cunning. Commentary on the courageous spirit of man Courage means having the courage to face opposition and danger to do what should be done. In our national language, there are words that are close in meaning to courage: courage, courage, bravery, bravery, use of generals... These are words with the same semantic field... Courage is shown in spirit and actions. Not afraid of difficulties, afraid of suffering, afraid of sacrifice, is a courageous spirit. Dare to face all challenges, not backing down in the face of all difficulties and dangers is courage. There is an ancient saying praising true people: "The rich cannot be lustful, the poor cannot move, the mighty cannot be corrupted." "Dare to look straight at the truth, dare to speak the truth with good motives is courage. Dare to rush into dangerous places, rush into the forest of arrows and spears of the enemy to fight, consider death as light as Pink feathers... is a brave act. Fighting to the last drop of blood, shooting to the last bullet is a brave act. Patriotic feelings have highly promoted the courageous spirit of our people, creating heroic spirit and heroism. To Huu wrote beautiful and beautiful poems praising the nation's noble media: Our people are courageous and heroic Young people make living torches, old people burn fire The soldiers of Dien Bien spent 55 days and nights in the rain of bombs and bullets from the French enemy, "carving into mountains, sleeping in tunnels, soaking in rain, squeezing rice", "using their backs to stuff artillery", "buried their bodies as gun racks, His head was covered with a pearl hole",... he used blood, bones and courage to create a "earth-shaking" feat. The song Dien Bien is a song of patriotism, courage, and heroic spirit of our army, our people, and of Vietnamese youth in the Ho Chi Minh era. The golden pages of history, the brilliant victories of our nation from past to present such as Bach Dang, Chi Lang, Dong Da, the historic Ho Chi Minh Campaign... were all made with blood and bones, with patriotic traditions and the brave fighting spirit of many generations, of millions of Vietnamese people. Tran Quoc Tuan's hero shows a seething hatred for the Mongol invaders, a brave spirit of fighting and sacrificing his life on the battlefield to protect the mountains and rivers. More than 700 years have passed, the thud still burns with the spirit of "Sat That"; "I often forget to eat at mealtimes, pat my pillow in the middle of the night, my intestines hurt like hell, tears flow, I'm just angry that I haven't eaten the meat yet." skin, swallow the liver, drink the enemy's blood, even if these hundred bodies are exposed to the grass, and these thousand corpses are wrapped in horse skin, I will still be happy. Nguyen Trai's Binh Ngo is an epic poem of our nation in the 15th century. The brave fighting spirit of the Lam Son insurgent army created a heroic spirit of determination to win: Swords are sharpened on stone, even mountain stones are worn away, Elephants drink water, the river water dries up. Belabour; Clean, unsurprising. Fight two battles; scattered birds and animals Patriotic and revolutionary poetry talks a lot about the steadfastness, iron will, and courage of scholars and soldiers, determined to "pour hot blood to wash away the stains of slavery" (Phan Boi Chau). They stood tall in front of the enemy's cells and guillotines. Faced with all the heavy challenges of imperial prison, the revolutionary soldier remained indomitable: Persistence and patience, Refusing to retreat an inch, Although material things are painful, Do not waver mentally. The spirit of bravery and courage is not only shown in combat, facing the challenge between life and death, between defeat and victory, between humiliation and honor, but is also expressed in everyday life. Knowing how to recognize one's shortcomings, shortcomings, and mistakes, to correct them, to overcome them, to rise up, to perfect one's personality is courage. Having the courage to see one's own weaknesses is not a simple task because of the fear of losing prestige in front of one's peers, because of the mentality of "why not expose yourself to show your back!" In studying, we often see students studying. This student hides her ignorance, that girl hides her ignorance, but only because she lacks the spirit of courage and does not have the spirit to strive to improve. What is the opposite of courage? – is fear, trembling, fear, dread, being lost in spirit, being terrified... In society, those who are greedy for life and afraid of death are cowards, often taken advantage of by their opponents. . The type of person who, when faced with every deadly danger, will become a traitor. Cultivating a courageous spirit is not simple. Our people have a saying: "If you have the courage to be a soldier, if you have the courage to go to business", courage is bravery. You have to fight hard, struggle with life, fight life and death, dare to sacrifice yourself for good deeds, know how to train your will like steel through red fire, and have to go through many years and years to be able to shape up. become that noble quality and virtue. Shining examples like Le Van Tam, Kim Dong, Vu A Dinh, Pham Ngoc Da... are brave and heroic teenagers. Those who captured robbers or crossed flood waters to save people's property and lives are examples of courage and sacrifice that are praised. Those brave examples will forever shine in life and history books, so that our youth can learn and follow their example. When enhanced, the spirit of courage will become bravery and mettle: "Determining to die for the Fatherland, determined to live" like that of the Hanoi kamikaze soldiers in the early days of the National Resistance War (December 20, 1946). ). Talking about the spirit of courage, I remember deeply in my heart, I will forever admire the patriotic soldiers of our nation who have raised their bravery in the face of all brutal enemies: "It is better to die with honor than to live." humiliated".
Bình luận về tinh thần tự lực tự cường Hướng dẫn Bình luận về tinh thần tự lực tự cường Trước những thách thức khó khăn khiến cho chúng ta bị đẩy vào đường cùng không thể thở không thể chống cự thì chúng ta sẽ như thế nào? Sẽ bật lại hay chịu số phận bị đẩy vào thế bị động như thế cho tới mức nghẹt thở không còn đường lui hay đôi khi là trông chờ vào sự thương tình giúp đỡ của người khác. Tóm lại trong mọi hoàn cảnh vượt lên số phận bằng chính đôi chân của mình là một điều vô cùng quan trọng và hơn thế đó là tinh thần tự lực tự cường mà mọi quốc gia mọi gia đình cần phải có. Từ thời xa xưa tới nay trải qua biết bao nhiêu biến cố lịch sử qua các cuộc đại dịch khủng khiếp hay cả là những cuộc chiến tàn khốc giữa con người với thiên nhiên hoang dã thì con người với tinh thần đoàn kết và một tinh thần lạc quan đã vượt qua tất cả để đổi lại một cuộc sống hòa bình và hạnh phúc. Chính tinh thần vượt lên tất cả khiến cho con người càng trở nên mạnh mẽ và khắc phục những khó khăn một cách dễ dàng hơn bao giờ hết. Ngay ở tại đất nước chúng ta một nước yếu thế, dân ít nghèo đói cơ cực thì khi đối đầu lại với một nước vô cùng lớn mạnh đi tới đâu thì thuộc địa tới đó- đế quốc Mỹ thực dân pháp và Anh, chúng đều thất bại dưới tay ta. Tuy không phủ nhận sự hỗ trợ của các nước khác, nhưng với một tinh thần tự lưc tự cường dân ta vẫn dành chiến thắng vang dội trên chiến trường. và chính lòng đoàn kết, sự vươn lên chiến đấu đã khiến cho nhân dân ta một lần nữa dành lại chiến thắng dành lại mảnh đất của ông cha. Ngay từ bây giờ một câu nói khiến cho chúng ta phải suy nghĩ đó là” hãy làm tất cả những việc bình thường bằng một nghị lực phi thường”. chính nghị lực đã quyết định tới 80% thành công của mỗi việc. tinh thần tự lực tự cường cứ như thế được gìn giữ và phát huy mang tới cho con người nhiều niềm vui và hiểu đươc giá trị của cuộc sống. Nguồn: Bài văn hay
Comment on the spirit of self-reliance Instruct Comment on the spirit of self-reliance Faced with difficult challenges that push us into a corner where we can't breathe or resist, what will we do? Will they bounce back or suffer the fate of being pushed into such a passive position until they are suffocated and have no way to retreat or sometimes rely on the compassion and help of others. In short, in every situation, overcoming fate on your own feet is extremely important, and more than that, it is the spirit of self-reliance that every country and every family needs to have. From ancient times until now, through countless historical events through terrible pandemics or even brutal wars between humans and wild nature, people with a spirit of solidarity and a spirit of Optimism overcomes everything to return to a peaceful and happy life. It is the spirit of overcoming everything that makes people stronger and overcome difficulties more easily than ever. Even in our country, a weak country with a few poor and destitute people, when confronted with an extremely powerful country, wherever it goes, its colonies will follow - the American empire, the French colonialists and the British, they all fail at my hands. Although we do not deny the support of other countries, with a spirit of self-reliance and self-strengthening our people still win a resounding victory on the battlefield. And it is the solidarity and the rise to fight that have caused our people to once again regain victory and reclaim the land of their ancestors. Right now, a saying that makes us think is "do all the ordinary things with extraordinary energy". It is determination that determines 80% of the success of each task. The spirit of self-reliance is preserved and promoted like that, bringing people much joy and understanding the value of life. Source: Good article
Đề bài: Bình luận về tiền tài và hạnh phúc Bài làm Thời đổi mới, nền kinh tế thị trường phát triển, các ngành nghề sản xuất và kinh doanh phát triển. Nền kinh tế thị trường nước ta tăng trưởng mạnh, năm sau hơn hẳn năm trước. Đất nước trên đà đổi mới, ngày một đổi thay toàn diện. Đời sống nhân dân ngày một khá hơn; tỉ lệ hộ nghèo, khó khăn ở vùng sâu. vùng xa được giảm đáng kể. Bình luận về tiền tài và hạnh phúc Trong phong trào thi đua sản xuất và kinh doanh hiện nay đã xuất hiện nhiều doanh nhân trẻ, nhiều tỉ phú năng động và sáng tạo. Biệt thự mọc lên làm thay đổi bộ mặt các đô thị: nhiều gia đình mua sắm ô tô riêng, đi du lịch, cho con cái du học ở Mĩ, Pháp, Anh… đi chữa bệnh ở nước ngoài… Trong bối cảnh ấy, bàn về vấn đề tiền tài và hạnh phúc thật có nhiều ý nghĩa. Tiền tài, tiền bạc, tiền của đều cùng chung một khái niệm. Ở đời, tiền tài có khi mang lại hạnh phúc, nhưng cũng có trường hợp chỉ mang lại sự đổ vỡ, bất hạnh. Tiền bạc là thước đo giá trị và phẩm hạnh. Ai tài giỏi sẽ làm được nhiều tiền. Trong khi lương công nhân chỉ được một hai triệu thì lương giám đốc có thể hàng chục triệu đồng. Đồng tiền do mồ hôi công sức, do chất xám mang lại thì thật quý giá và đáng tự hào. Sản xuất và kinh doanh làm giàu, ước mơ trở thành tỉ phú, được xã hội đồng tình, được khuyến khích và hoan nghênh. Ở nông thôn hiện nay đã xuất hiện nhiều hộ nuôi cá, nuôi tôm, chăn nuôi gia súc, trồng rau, trồng hoa, trồng lúa cao sản, phát triển ngành nghề thủ công… mà trở nên giàu có. Họ xây nhà, mua sắm, sống sung túc, sang trọng, tích cực tham gia phong trào cứu đói xóa nghèo, đóng góp các quỹ từ thiện. Họ được tôn vinh, được cộng đồng ca ngợi. Qua đó, ta thấy tiền tài đem lại hạnh phúc, tiền tài gắn liền với hạnh phúc. Nhưng tiền tài lại có những mặt trái của nó thật ghê gớm. Đồng bạc đâm toạc tờ giấy (Tục ngữ). Hoàng kim hắc nhân tâm (Cổ ngữ). Quan lại tham nhũng, cán bộ tham nhũng mà giàu có, mà xài sang, đối với loại người này, tiền tài đã làm cho họ bị sa đọa, bị nhân dân coi khinh, bị pháp luật trừng trị. Chuyện bán tước mua danh, chuyện chạy chức chạy quyền lâu nay đã cho thấy mặt trái của đồng tiền đã làm tha hóa đạo đức con người một cách cực độ. Báo chí gần đây (tháng 5-2008) đưa tin ông Bí thư Cà Mau, ông Chủ tịch Cao Bằng “dính” đến hàng trăm triệu, hàng tỉ đồng… Thử hỏi, những con người này có còn là công bộc của dân nữa hay không? Những vụ trọng án từng làm ồn ào dư luận một thời, dù có mờ đi theo thời gian, nhưng tất cả đều nói lên một sự thật: Tiền tài không song hành với hạnh phúc. Càng hám danh lợi, tham lam bạc tiền thì càng bất hạnh. Đó là bài học đáng đời cho bất cứ ai. Bàn về tiền tài và hạnh phúc chúng ta hãy cùng nhau nhắc lại, nhớ lại một đôi lời của các cụ ngày xưa, cũng là một cách ôn cố tri tân. Nguyễn Bỉnh Khiêm chê cười cái thói đời đen bạc: Còn bạc còn tiền còn đệ tử Hết xôi hết rượu hết ông tôi. Nguyễn Công Trứ chế giễu: Tiền tài hai chữ son khuyên ngược, Nhân nghĩa đôi đường nước chảy xuôi! Nguyễn Khuyến hóm hỉnh châm biếm: Có tiền việc ấy mà xong nhỉ? Đời trước làm quan cũng thế a? Tóm lại, sống ở đời ai cũng muốn được giàu sang, có nhiều tiền của. Xã hội hiện nay đang khuyến khích người người làm giàu, nhà nhà làm giàu; làm giàu chính đáng bằng tài năng, bằng sức lao động của bản thân mình. Biết làm ra tiền của, biết sử dụng tiền của, không thể vì tiền tài mà biến thành kẻ bất lương. Bàn về vấn đề tiền tài và hạnh phúc, ta càng cảm thấy bài học về cần, kiệm, liêm, chính của Bác Hồ dạy là vô cùng sâu sắc. Tuổi trẻ chúng ta hãy nỗ lực học giỏi, tu dưỡng đạo đức để mai sau bước vào đời đem tài năng phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, biết làm giàu trên cương vị một doanh nhân giỏi, một chuyên gia giỏi, một nhà quản lí tài năng, để trở nên giàu sang, sống hạnh phúc và góp phần đem lại hạnh phúc cho cộng đồng. Chúng ta hãy hướng về mục tiêu dân giàu nước mạnh thì càng thấy rõ ý nghĩa rộng lớn và sâu sắc của vấn đề tiền tài và hạnh phúc.
Topic: Comment on money and happiness Assignment During the reform period, the market economy developed and production and business sectors developed. Our country's market economy is growing strongly, each year is much better than the previous year. The country is on the path of innovation, changing more and more comprehensively. People's lives are getting better day by day; the rate of poor and disadvantaged households in remote areas. remote areas are significantly reduced. Comments on money and happiness In the current production and business emulation movement, many young entrepreneurs and many dynamic and creative billionaires have appeared. Villas are springing up, changing the face of urban areas: many families buy their own cars, travel, send their children to study abroad in the US, France, England... go for medical treatment abroad... In that context, talking about money and happiness makes a lot of sense. Wealth, money, money all share the same concept. In life, money sometimes brings happiness, but there are also cases where it only brings ruin and unhappiness. Money is a measure of value and virtue. Those who are talented will make a lot of money. While a worker's salary is only one or two million, a director's salary can be tens of millions of dong. The money earned by sweat, effort, and intelligence is truly precious and worth being proud of. Producing and doing business to get rich, dreaming of becoming a billionaire, being approved, encouraged and welcomed by society. In the countryside today, many households have appeared to raise fish, shrimp, raise cattle, grow vegetables, grow flowers, grow high-yield rice, develop handicraft industries... and become rich. They build houses, shop, live prosperously and luxuriously, actively participate in the hunger relief and poverty eradication movement, and contribute to charity funds. They are honored and praised by the community. Through this, we see that money brings happiness, money is associated with happiness. But money has terrible downsides. The silver coin tears apart the paper (Proverb). Golden heart, black heart (Ancient language). Corrupt officials and corrupt officials are rich and spend lavishly. For this type of people, money has made them corrupt, despised by the people, and punished by the law. Stories of selling titles to buy fame and running for power have long shown that the dark side of money has corrupted human morality to the extreme. The press recently (May 2008) reported that the Secretary of Ca Mau and the Chairman of Cao Bang were "involved" with hundreds of millions, billions of dong... Ask, are these people still servants of the people? or not? The serious cases that once caused a stir in public opinion, even though they have faded over time, all tell the truth: Money does not go hand in hand with happiness. The more greedy you are for fame and fortune, the more unlucky you are. That is a valuable lesson for anyone. Discussing money and happiness, let's recall together a few words of the ancients, which is also a way to refresh our knowledge. Nguyen Binh Khiem laughed at the bad habits of life: There's silver, there's money, there's disciples My grandfather ran out of sticky rice and wine. Nguyen Cong Tru scoffed: Money and wealth are two words that advise against, Humanity doubles as the water flows down the river! Nguyen Khuyen humorously quipped: If you have money, you'll get it done, right? Is it the same as being an official in your previous life? In short, everyone in life wants to be rich and have a lot of money. Society today is encouraging everyone to get rich, everyone to get rich; Get rich legitimately through your own talent and labor. Knowing how to make money, knowing how to use money, cannot become a dishonest person because of money. Discussing the issue of money and happiness, we feel even more deeply that the lessons of diligence, thrift, integrity, and integrity taught by Uncle Ho are extremely profound. Our youth should strive to study well and cultivate morality so that in the future, they will enter the world and bring their talents to serve the cause of industrialization and modernization of the country, knowing how to get rich as a good businessman and a professional. good family, a talented manager, to become rich, live happily and contribute to the happiness of the community. Let us aim for the goal of a rich people and a strong country, then we will see more clearly the broad and profound meaning of the issue of money and happiness.
Bình luận về Tránh voi chẳng xấu mặt nào và Im lặng là vàng. Hướng dẫn Bình luận về Tránh voi chẳng xấu mặt nào và Im lặng là vàng. Con người là tổng hòa của các mối quan hệ xã hội. Để thích ứng với cuộc sống, mỗi người thường lựa chọn cho mình những cách ứng xử phù hợp với từng hoàn cảnh, tình huống cụ thể. Hai câu: Tránh voi chẳng xấu mặt nào và Im lặng là vàng phần nào nói lên quan niệm sống của nhân dân ta Nghĩa hiển ngôn của câu tục ngữ nói đến cách đối xử của con người đối với loài voi.Một con vật to lớn nhất trong rừng. Không dũng mãnh như hổ báo, sư tử, không nhanh nhẹn, khôn ngoan như khỉ, cáo. Nó có hình dáng khổng lổ, thích ăn cây cỏ, sống theo bầy đàn. Bình thường, voi rất hiền lành, nhưng khi bị trêu chọc hoặc tấn công, voi trở nên hung dữ, phá phách. Đó là cách tự vệ của voi. Vì vậy, kinh nghiệm từ xưa truyền lại là mọi người không nên làm cho voi tức giận. Nếu gặp voi đang trong cơn tức giận thì hãy tìm cách tránh xa, để phòng nguy hiểm, tai họa có thể xảy ra. Tuy vậy, nghĩa hàm ngôn mới là nghĩa chính: Trong cuộc sống, chúng ta cần có cách ứng xử khéo léo để không gây ra hậu quả nghiêm trọng. Cần mềm mỏng, nhã nhặn, lễ phép khi ứng xử với cấp trên, người trên, nhất là khi họ đang nóng nảy, tức giận vì một lí do nào đó. Cần có thái độ ôn hòa trong khi đối thoại, tránh đối đầu căng thẳng, gay gắt. Cách ứng xử khôn ngoan như vậy sẽ làm cho sự giao tiếp sẽ trở nên nhẹ nhàng, công việc trôi chảy, giữ được mối quan hệ đoàn kết, hòa thuận lâu dài. Gần nghĩa với câu: Tránh voi chẳng xấu mặt nào còn có câu: Im lặng là vàng. Xét ở góc độ tích cực, im lặng ở đây chỉ thái độ bình tĩnh, ôn hòa của con người trong những tình huống, hoàn cảnh có vấn đề gay cấn, khó xử. Trước một sự việc nào đó, ta cần có thái độ điềm tĩnh, chớ vội vàng, nóng nảy. Chẳng hạn trước sai sót, khuyết điểm của bạn bè, nếu ta phê bình kiểu “đao to búa lớn”, thì sẽ làm cho bạn tự ái khó tiếp thu, thậm chí phản ứng lại. Trong gia đinh hay đối với lối xóm, khi một người nào đó đang bực tức, nóng giận thì ta không nên “đổ thêm dầu vào lửa”. Thái độ im lặng của ta sẽ làm cho người đối thoại bình tĩnh lại, bớt giận, dần dần nhận ra lầm lỗi của mình. Hoặc giả đối với một người do sơ suất, vô tình phạm khuyết điểm, nếu ta biết bỏ qua với lòng vị tha, chắc chắn người đó sẽ cảm phục mà tìm cách sửa chữa. Thực tế cuộc sống đã chứng minh có những kẻ sống theo kiểu im lặng tiêu cực, uốn mình gió chiều nào che chiều ấy, sợ sệt, né tránh, ngại va chạm, cầu an. Chẳng hạn vừa qua ở Hà Nội có cô gái giúp việc bị vợ chồng chủ quán đánh đập tàn bạo suốt 13 năm trời, vậy mà trong ngõ xóm không ai dám tố cáo, vạch mặt bọn người độc ác vì ngại dây dưa rắc rối. Rất may có bà cụ 72 tuổi đã dũng cảm tìm cách cứu cô gái. Bà cụ không thể im lặng mãi trước sự lộng hành của cái ác cho nên các ác đã bị phơi bày. Hai câu thành ngữ, châm ngôn nói trên mang ý nghĩa triết lí sâu sắc.Nhằm giáo dục con người bằng những hình ảnh cụ thể, giản dị và cách diễn đạt mộc mạc, nhẹ nhàng. Ý nghĩa sâu xa của nó nhắc nhở chúng ta cần có cách ứng xử linh hoạt, mềm mỏng, văn minh và không nên vô trách nhiệm, quay lưng trước cuộc sống. Tất cả chúng ta phải biết bênh vực lẽ phải, lên án cái xấu và mạnh dạn, chủ động đóng góp ý kiếm tìm giải pháp cho những vấn để phức tạp của gia đình, cơ quan và xã hội. Đó là nhân sinh quan đúng đắn, là đạo lí của mỗi con người chân chính.
Comment on Avoiding elephants is not embarrassing and Silence is golden. Instruct Comment on Avoiding elephants is not embarrassing and Silence is golden. Humans are the sum of social relationships. To adapt to life, each person often chooses the appropriate behavior for each specific situation and situation. The two sentences: Avoiding elephants is not embarrassing and Silence is golden partly express the life concept of our people The obvious meaning of the proverb refers to people's treatment of elephants. The largest animal in the forest. Not as brave as tigers, leopards or lions, not as agile or wise as monkeys or foxes. It has a giant shape, likes to eat plants, and lives in groups. Normally, elephants are very gentle, but when teased or attacked, elephants become aggressive and destructive. That is the elephant's way of defending itself. Therefore, the experience passed down from ancient times is that people should not make elephants angry. If you encounter an angry elephant, try to stay away to prevent danger or disaster from occurring. However, the implicit meaning is the main meaning: In life, we need to behave skillfully so as not to cause serious consequences. Need to be soft, courteous, and polite when dealing with superiors and superiors, especially when they are hot-tempered or angry for some reason. It is necessary to have a peaceful attitude during dialogue, avoid stressful and harsh confrontations. Such wise behavior will make communication easier, work goes smoothly, and maintain a long-term relationship of solidarity and harmony. Close in meaning to the saying: Avoiding elephants is not embarrassing, there is also the saying: Silence is golden. From a positive perspective, silence here refers to the calm and peaceful attitude of people in situations and circumstances with dramatic and difficult problems. Before any event, we need to have a calm attitude, not haste or impatience. For example, in front of your friends' mistakes and shortcomings, if you criticize them in a "big and harsh" way, it will make your self-esteem difficult to accept and even react. In the family or in the neighborhood, when someone is upset or angry, we should not "add fuel to the fire". Our silent attitude will make the interlocutor calm down, become less angry, and gradually realize their mistakes. Or if a person accidentally commits a mistake, if we know how to forgive it with altruism, that person will certainly be impressed and find a way to correct it. In reality, life has proven that there are people who live in a negative, silent way, bending their bodies to cover that direction, afraid, avoiding, afraid of collision, praying for peace. For example, recently in Hanoi, a maid was brutally beaten by the owner and his wife for 13 years, yet no one in the neighborhood dared to denounce or expose the cruel people because they were afraid of getting into trouble. Fortunately, a 72-year-old woman bravely tried to save the girl. The old woman could not stay silent forever in the face of evil, so the evil was exposed. The two idioms and maxims mentioned above have profound philosophical meanings. They aim to educate people with specific, simple images and rustic, gentle expressions. Its profound meaning reminds us that we need to have flexible, soft, and civilized behavior and should not be irresponsible or turn our backs on life. We all must know how to defend what is right, condemn the bad and boldly and proactively contribute ideas to find solutions to complex problems of families, agencies and society. That is the correct view of life, the morality of every true person.
Bình luận về tình nhân ái Hướng dẫn Bình luận về tình nhân ái Bài làm Tại sao người ta lại gọi chung là xã hội? Bởi vì ở nơi đó là những người tốt, những người xấu, những người thiện, những người ác, những người giàu sang hay những kẻ nghèo hèn, những người trẻ, người già tất cả đã tạo nên xã hội. Mỗi con người, mỗi cá nhân khác nhau, đều mang một số phận, một hoàn cảnh khác nhau, nét đẹp hình thể của họ khác nhau, nét đẹp tâm hồn của họ cũng khác nhau. Nhưng ai cũng vậy dù thế là đi nữa họ cũng vấn là con người và họ cũng đều có lòng nhân ái, tình nhân ái. Vậy như thế nào là lòng nhân ái? Chúng ta có thể hiểu lòng nhân ái, là lòng yêu thuobgw quý mến giữa con người với con người, giữa con người với thiên nhiên với cuộc sống. Họ biết cảm thông, yêu thương, chia sẻ, giúp đỡ người khác, nhất là những người gặp cảnh ngộ éo le, bất hạnh. Tình nhân ái, lòng thương người được thấm sâu trong tâm hồn, tựa như hương thơm của hoa, vị ngọt của quả. Tình nhân ái được thể hiện ở ngôn ngữ, cử chỉ, hành động của mỗi người, rất đa dạng và phong phú. Lòng nhân ái có vái trò đặc biệt quan trọng trong đời sống của chúng ta đó cũng là một tiêu chí quan trọng để đánh giá con người. Tình nhân ái mang đến hạnh phúc cho con người ta, nó có giá trị vô giá về mặt tinh thần. Người cho đi tình nhân ái cảm thấy kiêu hãnh vì mình đã cho đi, người nhận được sự trợ giúp ấy cảm thấy hạnh phúc và như có thêm sức mạnh để vượt qua khó khăn, thử thách. Lòng nhân ái giúp con người ta sống tốt hơn, ý nghĩa hơn. Lòng nhân ái là cơ sở không thể thiếu để xây dựng một xã hội văn minh, nhân đạo; là sợi dây bền chắc, thiêng liêng kết nối con người… Con người ta khi nhìn thấy người khác bất hạnh hơn mình mà có sự đồng cảm, xúc động, thương tâm, rơi lệ. Bằng những câu nói, những lời an ủi, bằng một ử chỉ nhỏ, bằng một cái ôm nhẹ nhàng, bằng sự san sẻ cưu mang. Đó là lòng nhân ái, tình yêu thương đồng loại. Đúng như câu nói của Bác Hồ “một miếng khi nói bằng một gói khi no”. Chúng ta sẵn sàng giúp đỡ cưu mang người khác khi người ta gặp khó khăn. Như vụ việc chết đuối thương tâm gần đây thấy ông ngoại bị sa vào vũng sâu ba đứa chau bơi lại để cứu ông và cùng bị chết đuối. Đó là lòng nhân ái, là sự hi sinh thấy chết không thể không cứu. Hay như trong vụ mưa bão ở trong miền Trung vừa qua rất nhiều nơi bị sạt lở lũ quét những người dân ở mọi miền tổ quốc đã đi xin quyên góp, xin ủng hộ rồi cầm đến tận nơi, đó là tinh thần tương thân, tương ai. Cùng giúp đỡ nhau của loài người, đó là những cử chỉ hành động vô cùng cao quý thể hiện tình nhân ái. Nếu đi đến đâu chúng ta cũng nhận được sự giúp đỡ, cũng bắt gặp những tấm lòng hảo tâm như vậy thì có lẽ xã hội của chúng ta quá văn minh, quá phát triển và có tình yêu thương vô hạn. Tuy nhiên một thực tế mà chúng ta nhìn và nhận thấy đó là không thiếu những người sống quá tham lam, độc ác, vô tình. Người ta đi qua đường thấy một vụ tai nạn giao thông nhưng không đứng lại giúp đỡ bởi họ còn vội đi làm, bởi họ ích kỷ không muốn giúp đỡ. Những người này khó tìm thấy được niềm vui và hạnh phúc trong cuộc sống. “Lòng nhân ái mang một sức mạnh lớn lao làm cho cuộc sống nhân loại trở lên tốt lành”. Ngạn ngữ Nga đã từng nói như vậy bởi “Nơi lạnh giá nhất không phải là Bắc Cực mà là nơi không có tình yêu”. Nếu không có tình yêu thương, cuộc sống sẽ trở thành địa ngục, Trái Đất sẽ trở thành nấm mồ lạnh giá và dẫu khi ấy trái tim ta chưa ngừng đập sống cũng chỉ là vô nghĩa. Lòng nhân ái là một phẩm chất tốt đẹp, cao quý, nhất thiết phải được bồi đắp, gìn giữ. Nguồn: Bài văn hay
Comment on compassion Instruct Comment on compassion Assignment Why do people call it society? Because in that place are good people, bad people, good people, evil people, rich people or poor people, young people, old people all create society. Each person, each different individual, has a different destiny, a different situation, their physical beauty is different, their soul beauty is also different. But no matter what, everyone is still human and they all have kindness and compassion. So what is kindness? We can understand compassion, the love and affection between people and people, between people and nature and life. They know how to sympathize, love, share, and help others, especially those facing difficult and unfortunate circumstances. Kindness and compassion for others are absorbed deep into the soul, like the fragrance of a flower or the sweetness of a fruit. Compassion is expressed in each person's language, gestures, and actions, which are very diverse and rich. Compassion plays a particularly important role in our lives and is also an important criterion for evaluating people. Compassion brings happiness to people, it has priceless spiritual value. The person who gives love feels proud because he has given it, the person who receives that help feels happy and has more strength to overcome difficulties and challenges. Compassion helps people live better and more meaningful lives. Compassion is an indispensable basis for building a civilized and humane society; is a strong, sacred thread that connects people... When people see others who are more unfortunate than themselves, they feel sympathy, emotion, pity, and tears. With words of comfort, with a small gesture, with a gentle hug, with sharing and care. That is kindness and love for fellow human beings. Just like Uncle Ho's saying, "a mouthful when talking is equal to a package when full". We are ready to help and support others when they are in difficulty. Like the recent tragic drowning incident in which my grandfather fell into a deep pool and his three children swam to save him and drowned together. That is compassion, a sacrifice that cannot help but save. Or like in the recent storm in the Central region, many places were hit by landslides and flash floods, people in all parts of the country went to ask for donations, asked for support and then took it to the place, that is the spirit of solidarity. future. Human beings helping each other together are extremely noble gestures that show compassion. If wherever we go we receive help and encounter such generous hearts, then perhaps our society is too civilized, too developed and has infinite love. However, the reality that we see and realize is that there is no shortage of people who are too greedy, cruel, and heartless. People passing by see a traffic accident but do not stop to help because they are in a hurry to go to work, because they selfishly do not want to help. These people find it difficult to find joy and happiness in life. "Compassion has great power to make human life better." A Russian proverb once said so because "The coldest place is not the North Pole but the place without love". Without love, life will become hell, the Earth will become a cold grave and even if our hearts have not stopped beating, living is meaningless. Compassion is a good and noble quality that must be cultivated and preserved. Source: Good article
Bình luận về tình yêu qua bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh Hướng dẫn Bình luận về tình yêu qua bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh Xuân quỳnh là một nhà thơ nổi tiếng với rất nhiều bài thơ nhưng nổi bật nhất là bài “sóng”. Sóng là bài thơ nói về tình yêu và sóng. Đó là nhân vật em và sóng biển, hai cái này bổ trợ cho nhau tạo nên một bài thơ về tình yêu đặc sắc. Viết về đề tài tình yêu và sóng biển nếu như Xuân Diệu đã từng viết: “Anh xin làm sóng biếc Hôn mãi cát vàng em Hôn thật khẽ thật êm Hôn êm đềm mãi mãi Đã hôn rồi hôn lại Cho đến mãi muôn đời Đến tan cả đất trời Anh mới thôi dào dạt” Hữu Thỉnh góp câu: “Anh không phải là chiều mà nhuộm anh đến tím Sóng chẳng đi đến đâu nếu không đưa em đến Dù sóng đã làm anh nghiêng ngả vì em”. Với giọng thơ trong sáng đã được chắt lọc qua nhiều nỗi đau để rồi lại mang đến cho bài thơ với giọng điệu ngọt ngào êm dịu, một thứ tình cảm dạt dào vô bờ bến. Bài thơ này được viết khi Xuân Quỳnh đã đi thực tế ở vùng biển Diêm Điền. Trước cảnh sóng đang vỗ ào từng đợt vào bờ thì cảm xúc của Xuân Quỳnh bỗng nhiên dâng trào và rồi đã sáng tác bài thơ này. Bài thơ được in ở trong bài hoa dọc chiến hào. Bài thơ được hiện lên với hai hình ảnh lớn đó chính là hình ảnh sóng và nhân vật em, hai hình ảnh này được đan xen bổ trợ lẫn nhau làm nên một bài thơ hay và đặc sắc. Trước hết là chúng ta tới với hai khổ thơ đầu với hình ảnh sóng đối ngược nhau cùng với những cảm xúc rất phức tạp trong trái tim của nhân vật. Khổ thơ thứ nhất thể hiện những đối cực của sóng với những tính từ diễn tả thực sự chính xác với những trạng thái riêng biệt hay chính đó là tâm trạng của người con gái: “Dữ dội và dịu êm Ồn ào và lặng lẽ Sông không hiểu nổi mình Sóng tìm ra tận bể” Ở đây thì sóng xuất hiện với hai trạng thái đối lập nhau, lúc thì biển động phong ba dữ dội nhưng khi thì dịu êm hiền hòa và lặng lẽ. Với bốn tính từ được mở đầu ở bài thơ đã mang lại cho chúng ta một quy luật và tính chất sóng tự nhiên. Sóng biển vẫn ngày đêm vỗ về ở trên biển, có những lúc nó ồn ào là thế nhưng cũng có những lúc tha thiết giống như lòng mẹ. Đó chính là tình yêu dạt dào của một người con gái thủy chung son sắt khao khát có được một tình yêu thực sự. Nó không chỉ là mang lại ét sống tự nhiên mà qua đó còn muốn nói tới tính khí của những người con gái khi yêu. Đó là một người con gái khi dịu dàng đằm thắm nhưng có khi lại vô cùng bướng bỉnh. Những giận hờn vô cơ thất thường ấy dường như chẳng đáng trách chút nào bởi vì đó chỉ là thể hiện tình yêu chân thành của cô gái giành cho người mình yêu thương. Chính vì thế mà đã từng có một nhà thơ từng viết: Sao anh còn đứng lại Em bảo anh đứng lại Sao anh vội đi ngay Sao mà anh ngốc thế Chẳng nhìn vào mắt em” Người con gái khi yêu vốn dĩ đã có những mâu thuẫn đối lập trong sự thống nhất, đó chính là biểu hiện của một tình yêu chân thành. Hai câu thơ sau đã mang đầy những tâm trạng ở trong tâm hồn và tấm lòng của người con gái. Nhà thơ Xuân quỳnh đã khéo léo để viết “bể” mà không phải là “biển” thì cũng có nguyên do của nó bởi vì bể còn ngân vang hơn còn biển chỉ là phụ âm kép. Ở đây người con gái cũng đã nhận thức được sự tầm thường và chật hẹp để có thể vượt qua mọi rào cản đi tìm hạnh phúc cho riêng mình. Đó chính là sự chủ động đáng khen bởi trái tim ấy luôn luôn muốn hướng tới những gì lớn lao và tìm được cho mình những tâm hồn đồng điệu. Đó là quan điểm mới mẽ của Xuân Quỳnh về tình yêu của người phụ nữ. Sang tới khổ thứ hai thì nhà thơ đã thể hiện được hành trình tìm ra biển của sóng hay chính là hành trình tìm đến một trái tim đồng điệu của người con gái đang yêu kia. “Ôi con sóng ngày xưa Và ngày sau cũng thế Nỗi khát vọng tình yêu Bồi hồi trong ngực trẻ” Với khổ ba và khổ 4 thì đó là cội nguồn của sóng biển và tình yêu: “Trước muôn trùng sóng biển Em nghĩ về anh em Sóng bắt đầu từ gió Gió bắt đầu từ đâu Em cũng không biết nữa Khi nào ta yêu nhau” Một câu hỏi tu từ để hỏi về sự khởi nguồn của những con sóng kia, trước muôn trùng đợt sóng xô vào bờ ấy thì nhà thơ lại chạnh lòng khi nghĩ tới tình yêu của mình. Với những câu hỏi tu tù vang lên thật sự cho chúng ta đặt ra câu hỏi sóng được bắt đầu từ đâu, là bắt đầu từ những cơn gió. Nó cũng giống như tình yêu của nhà thơ nhưng cô lại không biết được rằng khi nào thì ra yêu nhau. Nhưng đáp lại đó chính là câu em cũng không biết nữa. Phải chăng là nguồn cội của con sóng cũng giống như tình yêu không biết được nó bắt đầu từ khi nào và bao giờ. ở khổ thơ thứ hai này chúng ta như thấy được sự thương nhớ của người con gái giành cho tình yêu của mình: “Con sóng dưới lòng sâu Con sóng trên mặt nước Ôi con sóng nhớ bờ Ngày đêm không ngủ được Lòng em nhớ đến anh Cả trong mơ còn thức Dẫu xuôi về phương bắc Dẫu ngược về phương nam Nơi nào em cũng nghĩ Hướng về anh – một phương Ở ngoài kia đại dương Trăm nghìn con sóng đó Con nào chẳng tới bờ Dù muôn vời cách trở” Dù đã thú nhận về sự thất bại của mình về việc truy tìm tới cội nguồn của tình yêu nhưng Xuân Quỳnh vẫn có thể phát hiện ra được những con người đang yêu đó sẽ như thế nào, và ra sao. Đó chính là sự nhớ nhung da diết khó tả và khôn nguôi. Sóng ở mặt nước hay ở vực sâu thì đêu nhớ đến bờ cũng như người con trai là bến bờ của cô gái kia. Hai khổ thơ cuối cùng đã thể hiện sự khát vọng về tình yêu của Xuân Quỳnh: “Cuộc đời tuy dài thế Năm tháng vẫn đi qua Như biển kia dẫu rộng Mây vẫn bay về xa Làm sao được tan ra Thành trăm con sóng nhỏ Giữa biển lớn tình yêu Để ngàn năm còn vỗ” Khổ thơ này cho chúng ta thấy được về quy luật nghiệt ngã của thời gian, của cuộc đời, dẫu cho nó dài thì cũng chỉ đến trăm năm, dài như thế nhưng mà khu tuổi xuân đi qua thì nó chẳng thể nào mà tươi đẹp được nữa. Vậy mà năm tháng đó vẫn đi qua một cách vô tình đến như vậy. Qua đây thì chúng ta có thể thấy được tạo hóa thực nghịch cảnh với khát vọng về tình yêu của con người. Cô đã ước được làm con sống để được mãi vỗ về trên những biển cả mênh mông. Như vậy thì Xuân Quỳnh đã mang tới cho chúng ta một bài thơ hay và ý nghĩa. Qua bài thơ này ta không những là yêu thêm những con sóng biển mà còn thấu hiểu được nỗi lòng của người con gái khi đang yêu. Có lẽ Xuân Quỳnh đã mạnh dạn để thể hiện lên những quan điểm mới mẻ của mình ở trong tình yêu. Tình yêu chính là đề tài muôn thủa, nó không chỉ có giá trị ở trong thi ca mà còn ở nhiều lĩnh vực khác. Nhà thơ Xuân Quỳnh đã góp vào thơ ca một tác phẩm hết sức giá trị và giàu tính tượng hình tới như vậy. Nguồn: Bài văn hay
Comment on love through the poem Waves by Xuan Quynh Instruct Comment on love through the poem Waves by Xuan Quynh Xuan Quynh is a famous poet with many poems, but the most outstanding is the poem "Wave". Waves is a poem about love and waves. Those are the characters of you and the ocean waves, these two complement each other to create a unique love poem. Write about the topic of love and ocean waves if Xuan Dieu once wrote: “I would like to make blue waves Kiss my golden sand forever Kiss softly and gently Sweet kiss forever Kissed and kissed again For all eternity Even heaven and earth will melt away I just stopped being so generous.” Huu Thinh contributed: “You are not the afternoon that dyes you purple Waves don't go anywhere if they don't take you there Even though the waves made me fall for you." With a pure poetic voice that has been filtered through many pains to bring the poem a sweet and gentle tone, a kind of boundless love. This poem was written when Xuan Quynh went on a field trip to Diem Dien sea. Facing the scene of waves crashing onto the shore, Xuan Quynh's emotions suddenly surged and she composed this poem. The poem is printed in flowers along the trenches. The poem appears with two large images, the image of waves and the character of a child. These two images are interwoven and complement each other to create a beautiful and unique poem. First of all, we come to the first two stanzas with the image of opposing waves along with very complex emotions in the character's heart. The first stanza shows the polar opposites of the waves with adjectives that accurately describe the separate states or the girl's mood: “Fierce and gentle Noisy and quiet The river doesn't understand me The waves find the ocean" Here, the waves appear in two opposing states, sometimes the sea is rough and stormy, but sometimes it is gentle, gentle and quiet. With the four adjectives that open the poem, it gives us a natural wave rule and nature. The waves are still lapping day and night on the sea, sometimes they are noisy but there are also times as passionate as a mother's womb. That is the abundant love of a faithful girl who longs for true love. It not only brings about natural life, but also refers to the temperament of girls when in love. She is a girl who is sometimes gentle and loving but sometimes extremely stubborn. Those erratic and involuntary angers don't seem to be blameworthy at all because they are just showing the girl's sincere love for the person she loves. That's why a poet once wrote: Why are you still standing? I told you to stop Why you have to leave Why are you so stupid? Don't look into my eyes" When a girl falls in love, she inherently has contradictions and opposites in unity, which is the expression of sincere love. The following two verses are full of feelings in the girl's soul and heart. Poet Xuan Quynh cleverly wrote "beh" but not "sea", there is a reason for it because tank is more resonant and sea is just a double consonant. Here the girl is also aware of mediocrity and narrowness so she can overcome all barriers to find her own happiness. That is a commendable initiative because that heart always wants to aim for great things and find like-minded souls. That is Xuan Quynh's new perspective on women's love. In the second stanza, the poet has expressed the journey to find the sea of ​​waves or the journey to find a compatible heart of the girl in love. “Oh the waves of the past And the next day too The desire for love Recovery in the child's chest" With stanzas three and four, it is the source of ocean waves and love: “In front of countless ocean waves I think about you guys Waves start from the wind Where does the wind start I do not know either When will we love each other? A rhetorical question asking about the origin of those waves, before countless waves rushing to the shore, the poet felt sad when thinking about his love. With the resounding questions of meditation, we really ask where do waves start, starting from the winds. It is similar to the poet's love, but she does not know when she will fall in love. But the answer is that I don't know anymore. Is it true that the origin of the wave is like love, not knowing where and when it started? In this second stanza, we can see the girl's longing for her love: “The wave in the depths Waves on the water Oh, the waves miss the shore Can't sleep day and night My heart misses you Even in dreams and still awake Even if it goes north Even though it's back to the south Everywhere I think Towards you – one direction Out there in the ocean Hundreds of thousands of waves None of them reached the shore Despite all the obstacles" Even though she confessed her failure to find the source of love, Xuan Quynh was still able to discover what those people in love would be like, and what they would be like. That is a longing that is indescribable and inconsolable. Waves, whether on the surface of the water or in the depths, always remember the shore, just as the boy is the shore of the girl. The last two stanzas express Xuan Quynh's desire for love: “Life is so long Years still pass Like the ocean, even though it is wide Clouds still fly far away How to dissolve? Into hundreds of small waves In the middle of a great sea of ​​love Let it still flap for a thousand years" This poem shows us the cruel rule of time and life, even if it is long, it is only a hundred years. Even though it is long, it cannot be beautiful when youth passes by. more. Yet those years still passed by so unintentionally. Through this, we can see the true creation of adversity and human desire for love. She wished to be a living child to be comforted forever on the vast seas. Thus, Xuan Quynh has brought us a beautiful and meaningful poem. Through this poem, we not only love the ocean waves more but also understand the feelings of a girl in love. Perhaps Xuan Quynh was bold enough to express her new perspectives on love. Love is an eternal topic, it is not only valuable in poetry but also in many other fields. Poet Xuan Quynh has contributed to poetry such an extremely valuable and figurative work. Source: Good article
Đề bài: Bình luận về Việc thi cử được Phạm Đình Hổ nói đến trong Vũ trung tuỳ bút Bài làm Phạm Đình Hổ (1768 – 1839) là một danh sĩ lỗi lạc Bắc Hà, học vấn uyên bác, tuy chỉ có bằng tú tài nhưng đã được vua Minh Mệnh triều Nguyễn cử giữ chức Tế tửu Quốc tử giám. Ông để lại nhiều công trình khảo cứu về ngôn ngữ, văn hóa, lịch sử, địa lí, v.v… Tác phẩm văn chương nổi tiếng nhất là cuốn "Vũ trung tuỳ bút" gồm 88 mẩu chuyện nhỏ về gia đình, bản thân, bạn bè, và một số hiện tượng, con người trong xã hội nước ta từ cuối thời Lê – Trịnh đến đời Tây Sơn và những năm đầu đời Nguyễn. Tác giả có một lôi viết ngắn gọn đầy ấn tượng về sự việc và con người, nêu lên những nhận xét sâu sắc, tinh tế với bao cảm xúc, thể hiện một ngòi bút tài hoa, một tấm lòng mang nặng tình người và tình đời. "Vũ trung tuỳ bút" là một tác phẩm có giá trị văn học đặc sắc. "Việc thi cử" là một trong 88 mẩu chuyện nhỏ rút trong "Vũ trung tuỳ bút". Qua trang tuỳ bút này, tác giả nêu lên một số thể thức về việc thi cử đời Lê để kén chọn nhân tài, phê phán và châm biếm những tệ trạng bi hài về khoa cử trong chế độ phong kiến thời suy thoái. Trước hết, tác giả cho biết, đời Lê, năm Thuận Thiên lấy thể văn sách luận để thi học trò, nên đã "kén chọn được nhiều người hiền tài lắm". Ông ca ngợi những bài văn đình đối của Võ Duệ, Lương Thế Vinh là "lối văn sâu rộng, không phải những kẻ sĩ nông nổi đời sau có thể bắt chước được". Nhưng từ đời Trung hưng (thời Lê – Trịnh) trở về sau (1533 – 1788) phép thi "càng thiên lệch mãi đi". Các quan ra đề thi hương thi hội, trong những đầu bài văn sách "chỉ ra những câu hiểm hóc để làm cho khó". Quan soạn đề thi bài văn chế sách đinh đối do quan đồng tiến sĩ phụng soạn. Vì quan soạn đề thi chỉ đỗ"cuối hàm tam giáp", vì "không muốn cho ai hơn mình" nên cách ra đề "rất hiểm hóc". Nhiều kì thi không lấy được đủ tam khôi; có khi chỉ lấy được đến nhị giáp, hoặc tam giáp mà thôi. Thi cử (nhất là thi hội) là để kén chọn hiền tài cho quốc gia, thế mà quan ra đề thi có nhân cách kém cỏi, tâm lí hẹp hòi như thế thì làm sao phát huy được đạo học! Trước hiện tượng ấy, tác giả "Vũ trung tuỳ bút" đau buồn phê phán và châm biếm: "Ôi cái tệ khoa cử đến thế là cùng”. Văn vận với thế đạo càng ngày càng kém. Thực đáng than thay. Tiếp theo, tác giả còn cho biết thời Lê Trung hưng ngoài các kì thi Hương, thi Hội còn đặt ra khoa Đông các. Thí sinh là quan tam phẩm trở xuống, từng đỗ Đình nguyên, Hội nguyên, Hương, nguyên hoặc đã đỗ đầu khoa có ngự đề tuyển cử. Khoa Đông các là "một khoa đặc cách", thể hiện "ân điển cho người thi đỗ có phần rộng rãi hơn chế khoa tiến sĩ". Phạm Đình Hổ dùng những lời tốt đẹp nhất ca ngợi Phạm Khiêm Ích đỗ khoa Đông các về vinh quy vì thương hại người hàng tổng bần cùng nên đã miễn cho không bắt chịu phí tổn làm nhà tư thất bằng gỗ lim, ba gian, lợp ngói cho mình nữa. Vì thế, lúc ông mất được dân làng cúng tế mãi. Tác giả nói lên thật thấm thía sự chiêm nghiệm về lẽ đời và tình người: "Xem thế, mới biết cái ơn di ái ở người ta thì người ta vẫn nhớ mãi không quên". Chúng ta đã từng được học bài "Hiền tài là nguyên khí của quốc gia", được biết vua Lê Thánh Tông biệt đãi các tiến sĩ như thế nào. Ở đây, tác giả "Vũ trung tuỳ bút" cũng cho biết: "Triều Lê đãi học trò rất hậu, nào là trâm, hốt, hoa bào, du nhai, tứ yến, lại phong cho cha mẹ, ấm cho con cháu, vinh quy áo gấm về làng, rất vinh dự". Ông phê phán các việc "đổ vào đầu dân" như làm nhà tư thất, bắt dân hàng tổng đến phục dịch lễ vinh quy của quan tân khoa,… thì "dân hàng tổng chịu làm sao được!". Ông nêu lên bao hiện tượng bi hài về các ông nghè bà nghè. Có kẻ phải "xoay xở đi vay mượn" để mở yến tiệc khao mừng. Có kẻ "chỉ dòm lấy con gái nhà giàu mà bỏ vợ tao khang". Có kẻ "luồn lỏi đi vay lãi mà kí liều văn khế". Ông nặng lời chỉ trích các sự việc xấu xa ấy và cho rằng đã "tích tệ từ lâu", ông nhắc lại câu nói từ miệng thế để mỉa mai: "Ông nghè đeo nợ, bà nghè mua chồng”. Ông chỉ ra nguyên nhân tất yếu về tệ nạn quan lại tham nhũng, về sự thối nát của chế độ phong kiến thời Lê mạt: "Thói quen ấy tích tệ từ lâu, nên đã có cái tiếng ông nghè đeo nợ, bà nghè mua chồng; như thế mà mong người ra làm quan giữ liêm khiết, không trái phép làm càn, thì sao được". Tục ngữ có câu: "Trăm năm bia đá thì mòn – Nghìn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ. Tác giả nêu lên một số sự việc điển hình, một số nhân vật điển hình để lại tiếng dơ trong bia miệng thiên hạ. Chuyện Phạm Tiến đỗ khoa Đinh Sửu (1757) bị "triều nghị bắt lỗi ông nghè, đình việc cất nhắc" vì lúc vinh quy "ả nhà giàu cứ tranh đi trước bà vợ cả" nên bị bà vợ cả kiện vào trong triều. Võ Tôn Diễm, Nguyễn Bá Tôn đỗ khoa Nhâm Thìn (1772) cũng chỉ vì chuyện lấy thêm vợ lẽ thuộc dòng dõi cao môn lệnh tộc mà xảy ra bao chuyện bi hài, thương tâm. Vợ cả, vợ lẽ của Võ Tôn Diễm "không chịu nhường nhau, mới phân rẽ ra ở làm hai nhà". Vợ cả Nguyễn Bá Tôn "tức giận quá thành chứng điên” vì không đánh đổ được người vợ lẽ! Nguyễn Quốc Ngạn đỗ đại khoa năm Ất Mùi (1775) được bà vợ ông huyện thừa Võ Độ người Yên Thái "lấy làm hâm mộ" đem ái nữ gả cho với điều kiện "cho vay mượn giúp đỡ, "bao nhiêu tiền phí tổn lúc vinh quy đều do bà tân phu nhân bỏ ra cả". Thói đời, lòng tham vô đáy nên được voi đòi tiên. Bà tân phu nhân mưu tính với mẹ đi vay giật được tám trăm quan tiền, "chạy chọt đút lót trong nội phủ. Quan chính phủ mới phụng chỉ bổ cho Nguyễn công chức Đốc đồng xứ Sơn Nam". Sau hơn hai trăm năm, chúng ta mới hiểu rõ chuyện mua quan bán tước, chuyện chạy chức chạy quyền vô cùng nhem nhuốc trong xã hội xưa nay! Thói đời đã tham thì tham, cuộc "buôn quan" của bà tân phu nhân bị một vố cực đau "mất cả chì lẫn chài". Câu chuyện được tác giả “Vũ trung tùy bút” kể lại thật có nhiều "dư vị" chua cay, đáng làm bài học cho những kẻ hám danh lợi trong cuộc đời: Ở phủ đường vừa mới xướng danh xong, thì Nguyễn công phải bệnh chết. Không được bao lâu bà huyện thừa cũng mất, gia kế một ngày một kém. Sau khi nhà Lê mất rồi, bà nghè vẫn còn mắc nợ mãi". Cái bi kịch của hai mẹ con bà tân phu nhân được Phạm Đình Hổ nhắc đến không phải là chuyện hi hữu xưa nay. Người đã được đọc Phạm Đình Hổ nên ngẫm lại cho kĩ; người chưa được đọc nên mách nhau tìm đọc để biết về sự chạy chức chạy quyền một tệ nạn vô cùng thối nát trong xã hội mà đến nay vẫn còn nọc độc! Đọc "Việc thi cử", ta biết được một vài nét về tổ chức các khoa thi, đề thi trong thi Hương, thi Hội dưới thời Lê. Ta thấy được những điều hay cũng như làm được bao tệ lậu về khoa cử. Cách viết của Phạm Đình Hổ vừa cụ thể, vừa khái quát. Qua những sự việc điển hình, con người điển hình thời Lê mạt, ông chỉ chấm phá một vài dòng hoặc khen, hoặc chê thật sâu sắc, thật đích đáng, làm cho người đọc nhớ mãi. Việc thi cử vẫn còn nhiều ý nghĩa thời sự đối với chúng ta khi cả xã hội đang phải tuyên chiến với những tiêu cực trong ngành giáo dục của nước nhà.
Đề bài: Bình luận về Việc thi cử được Phạm Đình Hổ nói đến trong Vũ trung tuỳ bút Bài làm Phạm Đình Hổ (1768 – 1839) là một danh sĩ lỗi lạc Bắc Hà, học vấn uyên bác, tuy chỉ có bằng tú tài nhưng đã được vua Minh Mệnh triều Nguyễn cử giữ chức Tế tửu Quốc tử giám. Ông để lại nhiều công trình khảo cứu về ngôn ngữ, văn hóa, lịch sử, địa lí, v.v… Tác phẩm văn chương nổi tiếng nhất là cuốn "Vũ trung tuỳ bút" gồm 88 mẩu chuyện nhỏ về gia đình, bản thân, bạn bè, và một số hiện tượng, con người trong xã hội nước ta từ cuối thời Lê – Trịnh đến đời Tây Sơn và những năm đầu đời Nguyễn. Tác giả có một lôi viết ngắn gọn đầy ấn tượng về sự việc và con người, nêu lên những nhận xét sâu sắc, tinh tế với bao cảm xúc, thể hiện một ngòi bút tài hoa, một tấm lòng mang nặng tình người và tình đời. "Vũ trung tuỳ bút" là một tác phẩm có giá trị văn học đặc sắc. "Việc thi cử" là một trong 88 mẩu chuyện nhỏ rút trong "Vũ trung tuỳ bút". Qua trang tuỳ bút này, tác giả nêu lên một số thể thức về việc thi cử đời Lê để kén chọn nhân tài, phê phán và châm biếm những tệ trạng bi hài về khoa cử trong chế độ phong kiến thời suy thoái. Trước hết, tác giả cho biết, đời Lê, năm Thuận Thiên lấy thể văn sách luận để thi học trò, nên đã "kén chọn được nhiều người hiền tài lắm". Ông ca ngợi những bài văn đình đối của Võ Duệ, Lương Thế Vinh là "lối văn sâu rộng, không phải những kẻ sĩ nông nổi đời sau có thể bắt chước được". Nhưng từ đời Trung hưng (thời Lê – Trịnh) trở về sau (1533 – 1788) phép thi "càng thiên lệch mãi đi". Các quan ra đề thi hương thi hội, trong những đầu bài văn sách "chỉ ra những câu hiểm hóc để làm cho khó". Quan soạn đề thi bài văn chế sách đinh đối do quan đồng tiến sĩ phụng soạn. Vì quan soạn đề thi chỉ đỗ"cuối hàm tam giáp", vì "không muốn cho ai hơn mình" nên cách ra đề "rất hiểm hóc". Nhiều kì thi không lấy được đủ tam khôi; có khi chỉ lấy được đến nhị giáp, hoặc tam giáp mà thôi. Thi cử (nhất là thi hội) là để kén chọn hiền tài cho quốc gia, thế mà quan ra đề thi có nhân cách kém cỏi, tâm lí hẹp hòi như thế thì làm sao phát huy được đạo học! Trước hiện tượng ấy, tác giả "Vũ trung tuỳ bút" đau buồn phê phán và châm biếm: "Ôi cái tệ khoa cử đến thế là cùng”. Văn vận với thế đạo càng ngày càng kém. Thực đáng than thay. Tiếp theo, tác giả còn cho biết thời Lê Trung hưng ngoài các kì thi Hương, thi Hội còn đặt ra khoa Đông các. Thí sinh là quan tam phẩm trở xuống, từng đỗ Đình nguyên, Hội nguyên, Hương, nguyên hoặc đã đỗ đầu khoa có ngự đề tuyển cử. Khoa Đông các là "một khoa đặc cách", thể hiện "ân điển cho người thi đỗ có phần rộng rãi hơn chế khoa tiến sĩ". Phạm Đình Hổ dùng những lời tốt đẹp nhất ca ngợi Phạm Khiêm Ích đỗ khoa Đông các về vinh quy vì thương hại người hàng tổng bần cùng nên đã miễn cho không bắt chịu phí tổn làm nhà tư thất bằng gỗ lim, ba gian, lợp ngói cho mình nữa. Vì thế, lúc ông mất được dân làng cúng tế mãi. Tác giả nói lên thật thấm thía sự chiêm nghiệm về lẽ đời và tình người: "Xem thế, mới biết cái ơn di ái ở người ta thì người ta vẫn nhớ mãi không quên". Chúng ta đã từng được học bài "Hiền tài là nguyên khí của quốc gia", được biết vua Lê Thánh Tông biệt đãi các tiến sĩ như thế nào. Ở đây, tác giả "Vũ trung tuỳ bút" cũng cho biết: "Triều Lê đãi học trò rất hậu, nào là trâm, hốt, hoa bào, du nhai, tứ yến, lại phong cho cha mẹ, ấm cho con cháu, vinh quy áo gấm về làng, rất vinh dự". Ông phê phán các việc "đổ vào đầu dân" như làm nhà tư thất, bắt dân hàng tổng đến phục dịch lễ vinh quy của quan tân khoa,… thì "dân hàng tổng chịu làm sao được!". Ông nêu lên bao hiện tượng bi hài về các ông nghè bà nghè. Có kẻ phải "xoay xở đi vay mượn" để mở yến tiệc khao mừng. Có kẻ "chỉ dòm lấy con gái nhà giàu mà bỏ vợ tao khang". Có kẻ "luồn lỏi đi vay lãi mà kí liều văn khế". Ông nặng lời chỉ trích các sự việc xấu xa ấy và cho rằng đã "tích tệ từ lâu", ông nhắc lại câu nói từ miệng thế để mỉa mai: "Ông nghè đeo nợ, bà nghè mua chồng”. Ông chỉ ra nguyên nhân tất yếu về tệ nạn quan lại tham nhũng, về sự thối nát của chế độ phong kiến thời Lê mạt: "Thói quen ấy tích tệ từ lâu, nên đã có cái tiếng ông nghè đeo nợ, bà nghè mua chồng; như thế mà mong người ra làm quan giữ liêm khiết, không trái phép làm càn, thì sao được". Tục ngữ có câu: "Trăm năm bia đá thì mòn – Nghìn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ. Tác giả nêu lên một số sự việc điển hình, một số nhân vật điển hình để lại tiếng dơ trong bia miệng thiên hạ. Chuyện Phạm Tiến đỗ khoa Đinh Sửu (1757) bị "triều nghị bắt lỗi ông nghè, đình việc cất nhắc" vì lúc vinh quy "ả nhà giàu cứ tranh đi trước bà vợ cả" nên bị bà vợ cả kiện vào trong triều. Võ Tôn Diễm, Nguyễn Bá Tôn đỗ khoa Nhâm Thìn (1772) cũng chỉ vì chuyện lấy thêm vợ lẽ thuộc dòng dõi cao môn lệnh tộc mà xảy ra bao chuyện bi hài, thương tâm. Vợ cả, vợ lẽ của Võ Tôn Diễm "không chịu nhường nhau, mới phân rẽ ra ở làm hai nhà". Vợ cả Nguyễn Bá Tôn "tức giận quá thành chứng điên” vì không đánh đổ được người vợ lẽ! Nguyễn Quốc Ngạn đỗ đại khoa năm Ất Mùi (1775) được bà vợ ông huyện thừa Võ Độ người Yên Thái "lấy làm hâm mộ" đem ái nữ gả cho với điều kiện "cho vay mượn giúp đỡ, "bao nhiêu tiền phí tổn lúc vinh quy đều do bà tân phu nhân bỏ ra cả". Thói đời, lòng tham vô đáy nên được voi đòi tiên. Bà tân phu nhân mưu tính với mẹ đi vay giật được tám trăm quan tiền, "chạy chọt đút lót trong nội phủ. Quan chính phủ mới phụng chỉ bổ cho Nguyễn công chức Đốc đồng xứ Sơn Nam". Sau hơn hai trăm năm, chúng ta mới hiểu rõ chuyện mua quan bán tước, chuyện chạy chức chạy quyền vô cùng nhem nhuốc trong xã hội xưa nay! Thói đời đã tham thì tham, cuộc "buôn quan" của bà tân phu nhân bị một vố cực đau "mất cả chì lẫn chài". Câu chuyện được tác giả “Vũ trung tùy bút” kể lại thật có nhiều "dư vị" chua cay, đáng làm bài học cho những kẻ hám danh lợi trong cuộc đời: Ở phủ đường vừa mới xướng danh xong, thì Nguyễn công phải bệnh chết. Không được bao lâu bà huyện thừa cũng mất, gia kế một ngày một kém. Sau khi nhà Lê mất rồi, bà nghè vẫn còn mắc nợ mãi". Cái bi kịch của hai mẹ con bà tân phu nhân được Phạm Đình Hổ nhắc đến không phải là chuyện hi hữu xưa nay. Người đã được đọc Phạm Đình Hổ nên ngẫm lại cho kĩ; người chưa được đọc nên mách nhau tìm đọc để biết về sự chạy chức chạy quyền một tệ nạn vô cùng thối nát trong xã hội mà đến nay vẫn còn nọc độc! Đọc "Việc thi cử", ta biết được một vài nét về tổ chức các khoa thi, đề thi trong thi Hương, thi Hội dưới thời Lê. Ta thấy được những điều hay cũng như làm được bao tệ lậu về khoa cử. Cách viết của Phạm Đình Hổ vừa cụ thể, vừa khái quát. Qua những sự việc điển hình, con người điển hình thời Lê mạt, ông chỉ chấm phá một vài dòng hoặc khen, hoặc chê thật sâu sắc, thật đích đáng, làm cho người đọc nhớ mãi. Việc thi cử vẫn còn nhiều ý nghĩa thời sự đối với chúng ta khi cả xã hội đang phải tuyên chiến với những tiêu cực trong ngành giáo dục của nước nhà.
Bình luận về Vàng thật hay vàng thau Hướng dẫn Bình luận về Vàng thật hay vàng thau Bài làm Dù là trong bất kỳ thời đại nào, xã hội nào từ xưa đến nay, thì khái niệm về vàng thật và vàng thau vẫn luôn lẫn lộn, không được phân biệt rõ ràng. Bởi có nhiều thứ trong cuộc sống đôi khi người ta không thể sống thật với nhau, vậy nên khái niệm vè vàng thật và vàng thau ra đời. Bạn hiểu thể nào về câu nói: Vàng thật hay vàng thau? Về nghĩa đen, vàng thật là loại vàng nguyên chất, được mài giũa, kết tinh từ những thành phần vàng nguyên chất tự nhiên mà thành. Còn vàng thau là loại vàng không nguyên chất, bị pha trộn với những tạp chất khác, vàng kém chất lượng, không có giá trị kinh tế cao như vàng thật. Từ đó có thể hiểu rằng, khi người ta ví vàng thật với vàng thau, nghĩa là người ta đang có ý nói đến những con người chân thật, có phẩm chất cũng như những đức tính tốt đẹp như vàng thật, vàng mười. Bên cạnh những con người giả dối, không có tài không có đức nhưng vẫn được đem ra so sánh với vàng thật, vì lợi ích cá nhân. Trong cuộc sống của chúng ta hiện nay, không khó để bắt gặp những tình huống so sánh những con người như vàng thật với vàng thau. Có những người thật sự tài giỏi, và có những đức tính tốt đẹp và được mọi người yêu quý, nể phục. Nhưng có những con người không có tài năng nhưng vẫn muốn vươn lên. Vì mục đích đó, đôi khi họ không từ mọi thủ đoạn, làm mọi cách để có thể trở thành người tốt đẹp, có giá trị trong mắt người khác. Những con người như vậy trước mắt có thể được mọi người coi trọng, bởi người ta không biết được bản chất thật sự của họ. Nhưng đến khi họ đã bị lộ tẩy bản chất thật sự, chắc chắn sẽ bị người đời xem thường, khinh ghét, bởi những gì họ đang có là do không từ thủ đoạn mà có được. Cuộc sống luôn biến đổi không ngừng. Chính vì vậy, chúng ta nếu muốn có cuộc sống tốt đẹp, được mọi người yêu quý thì phải biết tự cố gắng trau dồi bản thân. Khi chúng ta thật sự có khả năng làm việc, có được thành công, khi đó ta sẽ như những miếng vàng thật đẹp đẽ, được người đời yêu quý bởi năng lực thật sự. Nhưng nếu ta không cố gắng thay đổi bản thân, học hỏi thêm kiến thức mà chỉ tìm cách để lừa gạt người khác, chắc chắn ta sẽ không có được thành công, cũng như những điều ta mong muốn. Bởi cuộc sống công bằng lắm, không ai có thể lừa gạt, làm tổn thương đến người khác vì lợi ích bản thân mãi được. Vậy nên hãy sống làm sao để trở thành người có ích cho xã hội, đẹp đẽ như vàng mười chứ không phải tạp nham, xấu xí như vàng thau. Thật vậy, xã hội thay đổi nên đôi khi chúng ta không phân biệt được thật giả, không biết được những giá trị thật sự của cuộc sống. Chính vì thế bản thân mỗi chúng ta phải luôn không ngừng cố gắng thay đổi, trau dồi, rèn luyện bản thân mỗi ngày để có được những điều tốt đẹp hơn, để chúng ta sẽ đẹp đẽ và được trân trọng như vàng các bạn nhé.
Comment on Real gold or brass gold Instruct Comment on Real gold or brass gold Assignment Regardless of any era or society from past to present, the concepts of real gold and brass are always confused and not clearly distinguished. Because there are many things in life, sometimes people cannot live truthfully with each other, so the concept of real gold and brass was born. How do you understand the saying: Real gold or brass gold? Literally, real gold is pure gold, polished and crystallized from natural pure gold components. Brass gold is impure gold, mixed with other impurities, poor quality gold, and does not have as high economic value as real gold. From there, it can be understood that, when people compare real gold to brass gold, they are referring to honest people with good qualities and virtues like real gold and pure gold. Besides the fake people who have no talent or virtue, they are still compared to real gold for personal gain. In our lives today, it is not difficult to encounter situations where people are compared to real gold with brass. There are people who are truly talented, have good qualities and are loved and admired by everyone. But there are people who don't have talent but still want to improve. For that purpose, sometimes they stop at nothing and do everything they can to become a good, valuable person in the eyes of others. Such people in front of the eyes may be respected by everyone, because people do not know their true nature. But when their true nature is revealed, they will certainly be looked down upon and hated by people, because what they have is obtained through no tricks. Life is constantly changing. Therefore, if we want to have a good life and be loved by everyone, we must try to improve ourselves. When we are truly capable of working and being successful, then we will be like beautiful pieces of gold, loved by people because of our true ability. But if we do not try to change ourselves, learn more knowledge and only find ways to deceive others, we will certainly not have success, as well as what we desire. Because life is very fair, no one can deceive or hurt others for their own benefit forever. So let's live in a way to become a useful person for society, as beautiful as ten pieces of gold, not as trashy and ugly as gold and brass. Indeed, society changes so sometimes we cannot distinguish between truth and falsehood, and do not know the true values ​​of life. That's why each of us must constantly try to change, improve, and train ourselves every day to get better things, so that we will be beautiful and cherished like gold. .
Đề bài: Phân tích nhân vật vợ Tràng trong truyện Vợ nhặt của Kim Lân Tác phẩm Vợ nhặt xoay quanh câu chuyện của ba người trong một gia đình ngụ cư. Điều lạ là một người làm nên chính cái tên của truyện lại không có tên, không biết tuổi. Đó chính là vợ Tràng. Người phụ nữ ấy chỉ là một trong số hàng ngàn, hàng vạn thân phận phụ nữ cùng thời. Do đó, người ấy rất rễ bị lãng quên, ít ai chú ý tới nhưng với nhà văn đó là một số phận không thể bỏ qua, một số phận gây nhức nhối, trăn trở. Sự hấp dẫn của nhân vật nữ này phải chăng là từ một người trong cõi mù mịt, không đâu vào đâu trở thành một nàng dâu hiền thục của bà cụ Tứ? 1.Lai lịch, ngoại hình – Vợ Tràng là người đàn bà không rõ lai lịch, không có gia đình, không có nhà cửa. Cô ta thậm chí không có tên và khi xuất hiện lúc được gọi là thị, là cô ả, lúc là người đàn bà. Chỉ có bà cụ Tứ xem vợ Tràng là nàng dâu, con dâu, là con và được Tràng gọi là nhà tôi mà thôi. Trước khi về nhà bà cụ Tứ, cô ta cùng với mấy chị con gái ngồi vêu ra ở cửa nhà kho thóc Liên đoàn chờ nhặt hạt rơi, hạt vãi, hay ai có công việc gì gọi đến thì làm. Trong nạn đói hồi ấy, thân phận con người thật rẻ rúng. Đâu phải vợ Tràng mới là người không tên, không tuổi, còn biết bao chị gái như thế. – Vợ Tràng xuất hiện với một chân dung thảm thương. Lần đầu tiên Tràng trông thấy, thị mới chỉ gầy yếu xanh xao (ngồi vêu trước cửa kho thóc), nhưng gặp lần hai, anh ta không nhận ra. Vì đói rách mà chỉ hôm, áo quần rách thị tả tơi như tổ đỉa, gày sọp hẳn đi, trên cái mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt. Chả trách anh cu Tràng không nhận ra thị là phải. 2.Tính cách – Khi mới gặp Tràng: +Thị là người đanh đá, táo bạo tới mức trở nên trơ trẽn. Nghe anh chàng phu xe hò một câu cho đỡ nhọc (Muốn ăn cơm trắng mấy giò này / Lại đây mà đẩy xe bò với anh nì), thị đã cong cớn bám lấy rồi vùng đứng dậy, ton ton chạy lại đẩy xe cho Tràng. Gặp lần thứ hai, khi Tràng vừa trả hàng xong, thị đâu xầm xầm chạy đến. Thị đứng trước mặt mà sưng sỉa nói: Điêu! Người thế mà điêu! Khi thấy anh Tràng có vẻ dễ bắt choẹt, thị tiếp tục cong cớn. Thấy có miếng ăn, hai con mắt trũng hoáy của thị tức thì sáng lên rồi thị ngồi sà xuống, ăn thật. Thị cắm đầu ăn một chạp bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì. Ăn xong, thị cầm dọc đôi đũa quệt ngang miệng mà thở. +Phải chăng đấy là tính cách cốn có của người đàn bà này? Không, từ đầu đến lúc theo Tràng về nhà, người phụ nữ ấy hành động hoàn toàn theo bản năng của mình. Thị làm tất cả chỉ để được… ăn! – Khi đã chấp nhận làm vợ Tràng: +Trên con đuờng trở về nhà của Tràng, thị thay đổi hẳn. Trong khi Tràng mặt có một vẻ gì phớn phở khác thường, hay tủm tỉm cười một mình và hai mắt thì sáng lên lấp lánh, thì thị lại đi sau hắn chừng ba bốn chục thước, cắp cái thúng con, cái nón tàng nghiêng nghiêng che khuất đi nửa mặt. Thị có vẻ rón rén, e thẹn. Rõ ràng so với người đàn bà mới ban trưa, bây giờ thị đã là người khác. Ban trưa, lúc ở ngoài chợ, thị sấn sổ, cong cớn để được ăn, còn bây giờ, thị đang về nàh chồng (ai mà chẳng e thẹn!). Vả lại, thị bắt đầu ý thức về thân phận mình, là người vợ theo không. Té ra, thị chẳng có chút quyền uy nào, kể cả quyền lựa chọn và đành chấp nhận số phận khi đã đến bước đường cùng. +Song, dù cố đấm ăn xôi đi nữa, thị vẫn là người có ý thức về giá trị của bản thân. Trên đường về nhà chồng, khi anh Tràng lấy làm thích thú trước cảnh lũ trẻ con chọc ghẹo, thì thị có vẻ khó chịu lắm, đôi lông mày nhíu lại, đưa ta y lên xóc lại tà áo. Trẻ con nghịch ngợm chọc ghẹo còn được, đằng này đến người lớn cũng tò mò, thị càng ngượng ngiụ, chân nọ diíucả vào chân kia. Anh Tràng đến là vô tư, cứ lấy vợ vậy làm thích thú. Thị càu nhàu trong miệng và lầm lũi đi đến nỗi nhầm đường. Thị mong sớm đến nhà “chồng” để tránh sự dòm ngó của mọi người. Xem thêm: Phân tích nhân vật Ngô Tử Văn trong Chuyện chức phán sự đền Tản Viên (Có dàn ý chi tiết)+Về nhà của Tràng, thị càng khác hơn. Người đàn bà ấy có cái tò mò của nàng dâu mới. Thị đảo mắt nhìn chung quanh. Quả là nghèo quá. Thị nén tiếng thở dài. Anh Tràng muốn vợ mình được tự nhiện, cứ giục ngồi, nhưng thị chỉ dám ngồi mớm xuống mép giường. Khi bà cụ Tứ về, người đần bà ấy chủ động chào bà bằng u. Trước mặt người mẹ chồng, thị càng rụt rè, vẫn đứng nguyên chỗ cũ, khẽ nhúc nhích. Chính thái đọ ấy cùng hoàn cảnh của thị đã khiến bà cụ Tứ, trái với sự dò xét thông thường của những người mẹ chồng đối với nàng dâu, nhìn thị lòng đầy thương xót. Bà nhanh chóng chấp nhận thị là dâu dù chỉ mấy phút trước đó cả hai đều hoàn toàn xa lạ. +Sáng hôm sau, thị đã trở thành người vợ đảm đang. Cùng với bà cụ Tứ, thị thức dậy sớm, lo dọn dẹp nhà cửa, quét tước sân vườn sạch sẽ. Người vô tâm như anh Tràng vẫn nhận ra sự thay đổi kỳ lạ ở thị: Tràng nom thị hôm nay khác lắm, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu đúng mực không có vẻ gì chao chát chỏng lỏn như mấy lần gặp ngoài tỉnh. Không những thế, thị còn tỏ ra là người biết tu chí làm ăn. Khi thị hỏi bà cụ Tứ về tiếng trống ồn ã ngoài đình và biết đó là tiếng trống thúc thuế, thị đã khẽ thở dài. Rồi chính thị là người đầu tiên kể cho cả nhà nghe chuyện trên mạn Thái Nguyên, Bắc Giang người ta không chịu đóng thuế nữa mà đi phá kho thóc Nhật, chia cho người đói. Câu chuyện ấy khiến Tràng ân hận và tiếc rẻ khi nhớ lại mình đã từng có dịp làm như thế mà chẳng làm. Ai biết rồi đây, để chăm lo cho cuộc sống gia đình của mình, người phụ nữ này có khi cả gan hơn cả anh cu Tràng! Bữa cơm nghèo buổi sáng hôm ấy, thị cũng như bà cụ Tứ và anh Tràng đều thấy một nỗi tủi hờn len vào tâm trí mình khi phải cố nuốt những miếng cám đắng chát và nghẹn bứ trong cổ. Song, thị cũng như hai mẹ con Tràng, đều cố tránh nhìn mặt nhau, đều không muốn làm người khác phải buồn đau hơn. Phải ý nhị lắm, phải tinh tế đến nhường nào mới có thái độ ứng xử đầy chất nhân bản như thế! Hoá ra cái đanh đá, trở trẽn trước kia ở người đàn bà Tràng lấy làm vợ chẳng qua là do đói khát mà ra. Khi được sống trong tình thương, trong mái ấm gia đình, người đàn bà ấy đã sống với bản chất tốt đẹp của mình, của một người phụ nữ Việt Nam. 3.Số phận – Vợ Tràng tiêu biểu cho số phận những người phụ nữ trong nạn đói 1945: nghèo đói, bị rẻ rúng. – Khi người đàn bà ấy may mắn được sống trong tình người, trong mái ấm gia đình mặc dù cuộc sống còn nhiều đe doạ của sự đói khát, thì những phẩm chất tốt đẹp đã sống lại. 4.Nghệ thuật xây dựng nhân vật – Kim Lân đã khắc hoạ nhân vật người phụ nữ rất điêu luyện. Nhà văn không tập trung miêu tả tâm lý nhân vật để giữ vẻ xa lạ, phù hợp với hoàn cảnh của thị, một người vợ nhặt (khác với nhân vật Tràng được miêu tả tâm lý hết sức tỉ mỉ). – Tác giả lại chú trọng khắc hoạ hành động, cử chỉ, nét mặt của nhân vật để người đọc tự hiểu tâm trạng của người phụ nữ. Chẳng hạn, chi tiết thị lấy nón che mặt diễn tả tâm trạng xấu hổ vì biết mình là người phụ nữ theo không về nhà chồng; hoặc thị nén một tiếng thở dài khi đảo mắt nhìn chung quanh căn nhà của Tràng; hay chi tiết thị đón lấy bát cháo cám, đưa mắt nhìn, hai con mắt thị tối lại rồi điềm nhiên và vào miệng là thái độ chấp nhận số phận khi đến bước đường cùng… Nhiều chi tiết nho nhỏ, vụn vặt như thế nhưng đã nói được khá rõ về tâm tư, tình cảm của một con người. 5.Kết luận – Xây dựng nhân vật vợ Tràng, nhà văn đã gián tiếp tố cáo một xã hội đẫ đẩy con người đến sự rẻ rúng, tha hoá về nhân phẩm chẳng qua vì sự đói khát. Thế nhưng, trong cảnh ngộ của mình bi đát, con người vẫn luôn vươn tới sự sống, hướng tới tương lai và ở một hoàn cảnh nhân đạo hơn, phẩm giá con người đã sống dậy. – Ba nhân vật chính trong Vợ nhặt đã được nhà văn xây dựng theo cách thức khác nhau. Chính sự khác nhau đó đã góp phần tạo nên giá trị đọc đáo của tác phẩm. Ba nhân vật trở thành ba mảng đời của một xã hội tối tăm, đói khát và cũng từ đó ánh lên tia sáng của chủ nghĩa nhân đạo cao cả. Nguồn Edufly Xem thêm: Bình giảng bài thơ "Hương Sơn phong cảnh ca" của Chu Mạnh Trinh
Đề bài: Phân tích nhân vật vợ Tràng trong truyện Vợ nhặt của Kim Lân Tác phẩm Vợ nhặt xoay quanh câu chuyện của ba người trong một gia đình ngụ cư. Điều lạ là một người làm nên chính cái tên của truyện lại không có tên, không biết tuổi. Đó chính là vợ Tràng. Người phụ nữ ấy chỉ là một trong số hàng ngàn, hàng vạn thân phận phụ nữ cùng thời. Do đó, người ấy rất rễ bị lãng quên, ít ai chú ý tới nhưng với nhà văn đó là một số phận không thể bỏ qua, một số phận gây nhức nhối, trăn trở. Sự hấp dẫn của nhân vật nữ này phải chăng là từ một người trong cõi mù mịt, không đâu vào đâu trở thành một nàng dâu hiền thục của bà cụ Tứ? 1.Lai lịch, ngoại hình – Vợ Tràng là người đàn bà không rõ lai lịch, không có gia đình, không có nhà cửa. Cô ta thậm chí không có tên và khi xuất hiện lúc được gọi là thị, là cô ả, lúc là người đàn bà. Chỉ có bà cụ Tứ xem vợ Tràng là nàng dâu, con dâu, là con và được Tràng gọi là nhà tôi mà thôi. Trước khi về nhà bà cụ Tứ, cô ta cùng với mấy chị con gái ngồi vêu ra ở cửa nhà kho thóc Liên đoàn chờ nhặt hạt rơi, hạt vãi, hay ai có công việc gì gọi đến thì làm. Trong nạn đói hồi ấy, thân phận con người thật rẻ rúng. Đâu phải vợ Tràng mới là người không tên, không tuổi, còn biết bao chị gái như thế. – Vợ Tràng xuất hiện với một chân dung thảm thương. Lần đầu tiên Tràng trông thấy, thị mới chỉ gầy yếu xanh xao (ngồi vêu trước cửa kho thóc), nhưng gặp lần hai, anh ta không nhận ra. Vì đói rách mà chỉ hôm, áo quần rách thị tả tơi như tổ đỉa, gày sọp hẳn đi, trên cái mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt. Chả trách anh cu Tràng không nhận ra thị là phải. 2.Tính cách – Khi mới gặp Tràng: +Thị là người đanh đá, táo bạo tới mức trở nên trơ trẽn. Nghe anh chàng phu xe hò một câu cho đỡ nhọc (Muốn ăn cơm trắng mấy giò này / Lại đây mà đẩy xe bò với anh nì), thị đã cong cớn bám lấy rồi vùng đứng dậy, ton ton chạy lại đẩy xe cho Tràng. Gặp lần thứ hai, khi Tràng vừa trả hàng xong, thị đâu xầm xầm chạy đến. Thị đứng trước mặt mà sưng sỉa nói: Điêu! Người thế mà điêu! Khi thấy anh Tràng có vẻ dễ bắt choẹt, thị tiếp tục cong cớn. Thấy có miếng ăn, hai con mắt trũng hoáy của thị tức thì sáng lên rồi thị ngồi sà xuống, ăn thật. Thị cắm đầu ăn một chạp bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì. Ăn xong, thị cầm dọc đôi đũa quệt ngang miệng mà thở. +Phải chăng đấy là tính cách cốn có của người đàn bà này? Không, từ đầu đến lúc theo Tràng về nhà, người phụ nữ ấy hành động hoàn toàn theo bản năng của mình. Thị làm tất cả chỉ để được… ăn! – Khi đã chấp nhận làm vợ Tràng: +Trên con đuờng trở về nhà của Tràng, thị thay đổi hẳn. Trong khi Tràng mặt có một vẻ gì phớn phở khác thường, hay tủm tỉm cười một mình và hai mắt thì sáng lên lấp lánh, thì thị lại đi sau hắn chừng ba bốn chục thước, cắp cái thúng con, cái nón tàng nghiêng nghiêng che khuất đi nửa mặt. Thị có vẻ rón rén, e thẹn. Rõ ràng so với người đàn bà mới ban trưa, bây giờ thị đã là người khác. Ban trưa, lúc ở ngoài chợ, thị sấn sổ, cong cớn để được ăn, còn bây giờ, thị đang về nàh chồng (ai mà chẳng e thẹn!). Vả lại, thị bắt đầu ý thức về thân phận mình, là người vợ theo không. Té ra, thị chẳng có chút quyền uy nào, kể cả quyền lựa chọn và đành chấp nhận số phận khi đã đến bước đường cùng. +Song, dù cố đấm ăn xôi đi nữa, thị vẫn là người có ý thức về giá trị của bản thân. Trên đường về nhà chồng, khi anh Tràng lấy làm thích thú trước cảnh lũ trẻ con chọc ghẹo, thì thị có vẻ khó chịu lắm, đôi lông mày nhíu lại, đưa ta y lên xóc lại tà áo. Trẻ con nghịch ngợm chọc ghẹo còn được, đằng này đến người lớn cũng tò mò, thị càng ngượng ngiụ, chân nọ diíucả vào chân kia. Anh Tràng đến là vô tư, cứ lấy vợ vậy làm thích thú. Thị càu nhàu trong miệng và lầm lũi đi đến nỗi nhầm đường. Thị mong sớm đến nhà “chồng” để tránh sự dòm ngó của mọi người. Xem thêm: Phân tích nhân vật Ngô Tử Văn trong Chuyện chức phán sự đền Tản Viên (Có dàn ý chi tiết)+Về nhà của Tràng, thị càng khác hơn. Người đàn bà ấy có cái tò mò của nàng dâu mới. Thị đảo mắt nhìn chung quanh. Quả là nghèo quá. Thị nén tiếng thở dài. Anh Tràng muốn vợ mình được tự nhiện, cứ giục ngồi, nhưng thị chỉ dám ngồi mớm xuống mép giường. Khi bà cụ Tứ về, người đần bà ấy chủ động chào bà bằng u. Trước mặt người mẹ chồng, thị càng rụt rè, vẫn đứng nguyên chỗ cũ, khẽ nhúc nhích. Chính thái đọ ấy cùng hoàn cảnh của thị đã khiến bà cụ Tứ, trái với sự dò xét thông thường của những người mẹ chồng đối với nàng dâu, nhìn thị lòng đầy thương xót. Bà nhanh chóng chấp nhận thị là dâu dù chỉ mấy phút trước đó cả hai đều hoàn toàn xa lạ. +Sáng hôm sau, thị đã trở thành người vợ đảm đang. Cùng với bà cụ Tứ, thị thức dậy sớm, lo dọn dẹp nhà cửa, quét tước sân vườn sạch sẽ. Người vô tâm như anh Tràng vẫn nhận ra sự thay đổi kỳ lạ ở thị: Tràng nom thị hôm nay khác lắm, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu đúng mực không có vẻ gì chao chát chỏng lỏn như mấy lần gặp ngoài tỉnh. Không những thế, thị còn tỏ ra là người biết tu chí làm ăn. Khi thị hỏi bà cụ Tứ về tiếng trống ồn ã ngoài đình và biết đó là tiếng trống thúc thuế, thị đã khẽ thở dài. Rồi chính thị là người đầu tiên kể cho cả nhà nghe chuyện trên mạn Thái Nguyên, Bắc Giang người ta không chịu đóng thuế nữa mà đi phá kho thóc Nhật, chia cho người đói. Câu chuyện ấy khiến Tràng ân hận và tiếc rẻ khi nhớ lại mình đã từng có dịp làm như thế mà chẳng làm. Ai biết rồi đây, để chăm lo cho cuộc sống gia đình của mình, người phụ nữ này có khi cả gan hơn cả anh cu Tràng! Bữa cơm nghèo buổi sáng hôm ấy, thị cũng như bà cụ Tứ và anh Tràng đều thấy một nỗi tủi hờn len vào tâm trí mình khi phải cố nuốt những miếng cám đắng chát và nghẹn bứ trong cổ. Song, thị cũng như hai mẹ con Tràng, đều cố tránh nhìn mặt nhau, đều không muốn làm người khác phải buồn đau hơn. Phải ý nhị lắm, phải tinh tế đến nhường nào mới có thái độ ứng xử đầy chất nhân bản như thế! Hoá ra cái đanh đá, trở trẽn trước kia ở người đàn bà Tràng lấy làm vợ chẳng qua là do đói khát mà ra. Khi được sống trong tình thương, trong mái ấm gia đình, người đàn bà ấy đã sống với bản chất tốt đẹp của mình, của một người phụ nữ Việt Nam. 3.Số phận – Vợ Tràng tiêu biểu cho số phận những người phụ nữ trong nạn đói 1945: nghèo đói, bị rẻ rúng. – Khi người đàn bà ấy may mắn được sống trong tình người, trong mái ấm gia đình mặc dù cuộc sống còn nhiều đe doạ của sự đói khát, thì những phẩm chất tốt đẹp đã sống lại. 4.Nghệ thuật xây dựng nhân vật – Kim Lân đã khắc hoạ nhân vật người phụ nữ rất điêu luyện. Nhà văn không tập trung miêu tả tâm lý nhân vật để giữ vẻ xa lạ, phù hợp với hoàn cảnh của thị, một người vợ nhặt (khác với nhân vật Tràng được miêu tả tâm lý hết sức tỉ mỉ). – Tác giả lại chú trọng khắc hoạ hành động, cử chỉ, nét mặt của nhân vật để người đọc tự hiểu tâm trạng của người phụ nữ. Chẳng hạn, chi tiết thị lấy nón che mặt diễn tả tâm trạng xấu hổ vì biết mình là người phụ nữ theo không về nhà chồng; hoặc thị nén một tiếng thở dài khi đảo mắt nhìn chung quanh căn nhà của Tràng; hay chi tiết thị đón lấy bát cháo cám, đưa mắt nhìn, hai con mắt thị tối lại rồi điềm nhiên và vào miệng là thái độ chấp nhận số phận khi đến bước đường cùng… Nhiều chi tiết nho nhỏ, vụn vặt như thế nhưng đã nói được khá rõ về tâm tư, tình cảm của một con người. 5.Kết luận – Xây dựng nhân vật vợ Tràng, nhà văn đã gián tiếp tố cáo một xã hội đẫ đẩy con người đến sự rẻ rúng, tha hoá về nhân phẩm chẳng qua vì sự đói khát. Thế nhưng, trong cảnh ngộ của mình bi đát, con người vẫn luôn vươn tới sự sống, hướng tới tương lai và ở một hoàn cảnh nhân đạo hơn, phẩm giá con người đã sống dậy. – Ba nhân vật chính trong Vợ nhặt đã được nhà văn xây dựng theo cách thức khác nhau. Chính sự khác nhau đó đã góp phần tạo nên giá trị đọc đáo của tác phẩm. Ba nhân vật trở thành ba mảng đời của một xã hội tối tăm, đói khát và cũng từ đó ánh lên tia sáng của chủ nghĩa nhân đạo cao cả. Nguồn Edufly Xem thêm: Bình giảng bài thơ "Hương Sơn phong cảnh ca" của Chu Mạnh Trinh
Đề bài: Phân tích nhân vật Xuân Tóc Đỏ trong Hạnh phúc của một tang gia Mỗi dòng văn đều có cảm hứng riêng cho nó. Đối với văn học hiện thực, nhìn chung cảm hứng của nó là sự phủ nhận và phê phán thực tại xã hội thông qua những nhân vật điển hình và đặc sắc. Số đỏ của Vũ Trọng Phụng là tác phẩm tố cáo hiện thực xã hội độc đáo bằng tiếng cười ào ạt, bằng một hình tượng “kì dị” mà nổi bật và đại diện trong tác phẩm là nhân vật Xuân Tóc Đỏ. Thông qua Xuân Tóc Đỏ, Vũ Trọng Phụng cho thấy cái xã hội lúc bấy giờ là “tấn kịch thực sự của con người giữa những sự giả dối buồn cười”. Đó là một tên cơ hội, tiến được trong xã hội nhờ trò “gian trá bịp bợm”. Xuân Tóc Đỏ thực chất chỉ là một đứa lưu manh, vô học với lí lịch tối đen như mực: “Thằng Xuân lấy đầu hè, xó cửa làm nhà; lấy sấu các phố, cá hồ Hoàn Kiếm làm vui. Nó đã bán phá xa, bán nhật trình, bán cao đơn hoàn tán trên xe lửa, chạy rạp hát, và với ba nghề tiểu xảo khác nữa. Ánh nắng mặt trời làm cho tóc nó đỏ như tóc Tây. Cảnh ngộ đó tạo nên nó một đứa hoàn toàn vô giáo dục, nhưng tính nó quái lắm, thạo đời lắm”… Cuộc sống đầu đường xó chợ, những bài học ở vỉa hè, tạo ra một thằng Xuân bụi đời, lưu manh, tinh quái. Xuân lang thang tự kiếm sống với nhiều nghề nghiệp “rẻ tiền” nên về lâu càng trở nên ranh mãnh hơn. Nhưng cũng nhờ vào những hoàn cảnh đặc biệt đó, Xuân đã nhập vào thế giới thương lưu, những kẻ giàu có, từ ông bà Văn Minh, bà phó Đoan, cô Tuyết… nói chung cái xã hội thương lưu đó là môi trường rất tốt để nuôi dưỡng những loại người như Xuân Tóc Đỏ. Con đường tiến lên của Xuân hoàn toàn là do những cơ may. Có những điều mà đến chính Xuân cũng không ngờ được. Do bản tính nhanh nhẹn, láu cá, hắn tạo được chỗ đứng trong gia đình ông bà Văn Minh. Để từ một anh nhặt banh ở sân quần, một gã thổi loa kén quảng cáo thuốc lậu trở thành sinh viên trường thuốc, một quan đốc- tờ Xuân, một cây hi vọng của giứo quân vợt Bắc kì, một vĩ nhan cứu quốc, một bậc thượng lưu của xã hội… Tất cả tuy có được nhà văn phóng đại, nhưng cái điều cốt yếu vẫn là sự tố cáo chân thực hiện thực xã hội. Thực vậy Xuân chỉ là một tên vô lại bằng những ngôn từ thấp hèn cửa miệng: “Mẹ kiếp”, “Nước mẹ gì”… Do biết một tí về nghề thuốc, trong thời gian quảng cáo thuốc lậu, hắn được Văn Minh giới thiệu là “sinh viên trừng thuốc” và hắn chữa khỏi bệnh cho cụ cố Tổ: Bước đầu hắn đã gặp được vận đỏ: Chẳng những được tiếng mà còn được tình. Người đầu tiên mê phục Xuân là cô Tuyết (tình nguyện trực đêm với “quan đốc – tờ”) và một loạt người khác dần dần chú ý và cũng thấy mê nó. Sự tình cờ màu nhiệm càng làm thanh thế của Xuân to lên trong gia đình của Văn Minh, từ đó “sự ngu độn của nó được người ta cho là nhũn nhặn, là sự khiêm tốn, nên nó càng được yêu mến hơn”. Bà phó Đoan cũng đã có tình với nó và cho nó là người có học thức, ông phán mọc sừng cũng xem nó là ngư đứng đắn… Xem thêm: Hãy tả mẹ em khi đang nấu cơmCuộc đời Xuân Tóc Đỏ hết gặp vận may này đến vận may khác. Sự “huyên thuyên” của hắn khi chữa bệnh cho cụ cố làm mọi người kinh ngạc, nhưng hắn đã chinh phục được họ. Ở nhân vật này xuất hiện nhiều điều bất ngờ nhưng lại phù hợp với lô – gíc nội tại. Tính cách luôn có những mặt trước sau không hể thay đổi. Bản chất của một tên lưu manh, mở miệng ả là cứ “mẹ kiếp”, “nước mẹ gì”. Sự khôn ranh không phải do học hành mà do sự bắt chước, che đậy, đối phó với mọi tình huống. Nào hắn có biết làm thơ đâu mà cũng được tôn là “Xuân Tóc Đỏ thi sĩ”, thực chất hắn chỉ thuộc bài thơ “thuốc cảm, nhức đầu” của những tiệm thuốc giao cho hắn đi bán dạo! Trên sân khấu cuộc đời xô bồ hỗn độn hắn sắm rất nhiều vai hài kịch. “Nhưng đôi khi, giữa lúc đang múa may khóc cười trên sân khấu, hắn bỗng nhớ đến thân phận hèn mọn của mình và gần như sững đi trong chốc lát, trong cái giây phút quan trọng đó, hắn hiện nguyên hình là một thằng Xuân hạ lưu, vô học” (Phan Cự Đệ). Chẳng hạn lúc Xuân Tóc Đỏ “ưỡn ngực” nói to trước vợ chồng ông Phán và trước mặt cả nhà Văn Minh: “Thưa ngài, ngài là người chồng mọc sừng!”. Tình cảnh bi đát xảy ra: Ông Phán dây thép ôm lấy ngực ngã quỵ xuống đất, cụ Tổ cũng nấc một cái to, ngã xuống giường”… Trong lúc bối rối nguy ngập này, Xuân Tóc Đỏ thú tội và chỉ biết chạy thẳng một mạch như kẻ cắp: “Thưa cụ, quả con vô học, xưa nay nhặt banh quần hạ lưu, không biết thuốc ạ!”. Nhưng rõ là số hắn quá đỏ: hắn không bị xem thường mà còn được trọng vọng! Cái chết của cụ Tổ càng làm người ta nể phục hắn. Đám tang cụ cố trước đó không hề có mặt hắn, nhưng trên đường mai táng rộn rịp bỗng có sự xuất hiện lạ lùng của chiếc xe tang mà trên đó có Xuân và mấy vị sư chùa bà Đanh ngồi chễm chệ. Chính sự xuất hiện này đã làm cho đám tang ngày càng sang trọng, thượng lưu. Thân chủ của cụ Tổ càng thấy khâm phục Xuân bởi Xuân đã góp phần làm lừng danh “đám tang lớn nhất từ trước đến nay”. Nhưng đó là một sự thật mỉa mai, lố bịch, phũ phàng, tàn nhẫn:Bởi chính nó đã gây ra cái chết cho cụ Tổ.Tình cảm gì cái thằng Xuân, sự xuất hiện của nó một lần nữa tô đậm con người đểu cáng, vô lương tâm của Xuân, và của cả cái xã hội văn minh “chó đểu”. Đó là hiện thực, hiện thực toát lên bằng cái nhìn châm biếm và tiếng cười ồ ạt. Nó không phải là tiếng khóc, là nước mắt như “Đám tang lão Gôriô” ( Lão Gôriô – Ban Zắc). Xuân Tóc đỏ thấy rõ vị trí của mình trong xã hội, hắn ngày càng nhận rõ muốn tạo được thanh thế và uy tín thì phải xem thường mọi người! Hắn càng làm bộ, giả dối bao nhiêu thì lại được kính trọng bấy nhiêu… Dù làm ra vẻ kiểu cách nhưng bản chất của nhân vật này vẫn là lố bịch, kệch cỡm. Thái độ của hắn mỗi lần được tiếp xúc với mọi người chỉ là sự đòi hỏi kiểu cách: “Rất hân hạnh”…và hết sức lố bịch khi hắn đứng trước quần chúng: “Hỡi quần chúng, mi không hiểu gì, mi oán ta. Ta vẫn yêu quý mi, mặc lòng mi chẳng rõ lòng ta. Thôi giản tán đi!”. Thực chất của Xuân Tóc Đỏ là như vậy Tác giả xây dựng thành công nhân vật này bằng bút pháp châm biếm sâu sắc, bằng tiếng cười tung hê vào mặt xã hội “Âu hoá” kệch cỡm. Xuân Tóc Đỏ không chỉ là tính cách của một cá nhân mà là sự tổng hợp các loại người trong xã hội thối tha ấy. Những kẻ luôn vỗ ngực tự coi mình là văn minh là những cải cách thực chất bọn họ là những bầy hề sống thượng lưu, thác loạn. Chỉ trong xã hội thực dân thì những kẻ như Xuân Tóc Đỏ mới có “vai trò quan trọng” đứng trên thiên hạ làm xã hội điên đảo, mục nát. Xuân Tóc Đỏ là hình tượng độc đáo trong tiểu thuyết hoạt kê đọc nhất vô nhị của văn học hiện thực 1930 – 1945. Thông qua những chuỗi cười mà Vũ Trọng Phụng lên án gay gắt cái xã hội đồi bại đê tiện thời ông sống. Tiếng cười ấy đồng thời cũng là tiếng chửi thẳng vào bọn người học đòi làm quý tộc, làm tư sản nhưng ngu độn, chỉ biết sống vì đồng tiền mà quên đi nhân phẩm. Nguồn Edufly Xem thêm: Phân tích Bài ca ngắn đi trên bãi cát của Cao Bá Quát
Đề bài: Phân tích nhân vật Xuân Tóc Đỏ trong Hạnh phúc của một tang gia Mỗi dòng văn đều có cảm hứng riêng cho nó. Đối với văn học hiện thực, nhìn chung cảm hứng của nó là sự phủ nhận và phê phán thực tại xã hội thông qua những nhân vật điển hình và đặc sắc. Số đỏ của Vũ Trọng Phụng là tác phẩm tố cáo hiện thực xã hội độc đáo bằng tiếng cười ào ạt, bằng một hình tượng “kì dị” mà nổi bật và đại diện trong tác phẩm là nhân vật Xuân Tóc Đỏ. Thông qua Xuân Tóc Đỏ, Vũ Trọng Phụng cho thấy cái xã hội lúc bấy giờ là “tấn kịch thực sự của con người giữa những sự giả dối buồn cười”. Đó là một tên cơ hội, tiến được trong xã hội nhờ trò “gian trá bịp bợm”. Xuân Tóc Đỏ thực chất chỉ là một đứa lưu manh, vô học với lí lịch tối đen như mực: “Thằng Xuân lấy đầu hè, xó cửa làm nhà; lấy sấu các phố, cá hồ Hoàn Kiếm làm vui. Nó đã bán phá xa, bán nhật trình, bán cao đơn hoàn tán trên xe lửa, chạy rạp hát, và với ba nghề tiểu xảo khác nữa. Ánh nắng mặt trời làm cho tóc nó đỏ như tóc Tây. Cảnh ngộ đó tạo nên nó một đứa hoàn toàn vô giáo dục, nhưng tính nó quái lắm, thạo đời lắm”… Cuộc sống đầu đường xó chợ, những bài học ở vỉa hè, tạo ra một thằng Xuân bụi đời, lưu manh, tinh quái. Xuân lang thang tự kiếm sống với nhiều nghề nghiệp “rẻ tiền” nên về lâu càng trở nên ranh mãnh hơn. Nhưng cũng nhờ vào những hoàn cảnh đặc biệt đó, Xuân đã nhập vào thế giới thương lưu, những kẻ giàu có, từ ông bà Văn Minh, bà phó Đoan, cô Tuyết… nói chung cái xã hội thương lưu đó là môi trường rất tốt để nuôi dưỡng những loại người như Xuân Tóc Đỏ. Con đường tiến lên của Xuân hoàn toàn là do những cơ may. Có những điều mà đến chính Xuân cũng không ngờ được. Do bản tính nhanh nhẹn, láu cá, hắn tạo được chỗ đứng trong gia đình ông bà Văn Minh. Để từ một anh nhặt banh ở sân quần, một gã thổi loa kén quảng cáo thuốc lậu trở thành sinh viên trường thuốc, một quan đốc- tờ Xuân, một cây hi vọng của giứo quân vợt Bắc kì, một vĩ nhan cứu quốc, một bậc thượng lưu của xã hội… Tất cả tuy có được nhà văn phóng đại, nhưng cái điều cốt yếu vẫn là sự tố cáo chân thực hiện thực xã hội. Thực vậy Xuân chỉ là một tên vô lại bằng những ngôn từ thấp hèn cửa miệng: “Mẹ kiếp”, “Nước mẹ gì”… Do biết một tí về nghề thuốc, trong thời gian quảng cáo thuốc lậu, hắn được Văn Minh giới thiệu là “sinh viên trừng thuốc” và hắn chữa khỏi bệnh cho cụ cố Tổ: Bước đầu hắn đã gặp được vận đỏ: Chẳng những được tiếng mà còn được tình. Người đầu tiên mê phục Xuân là cô Tuyết (tình nguyện trực đêm với “quan đốc – tờ”) và một loạt người khác dần dần chú ý và cũng thấy mê nó. Sự tình cờ màu nhiệm càng làm thanh thế của Xuân to lên trong gia đình của Văn Minh, từ đó “sự ngu độn của nó được người ta cho là nhũn nhặn, là sự khiêm tốn, nên nó càng được yêu mến hơn”. Bà phó Đoan cũng đã có tình với nó và cho nó là người có học thức, ông phán mọc sừng cũng xem nó là ngư đứng đắn… Xem thêm: Hãy tả mẹ em khi đang nấu cơmCuộc đời Xuân Tóc Đỏ hết gặp vận may này đến vận may khác. Sự “huyên thuyên” của hắn khi chữa bệnh cho cụ cố làm mọi người kinh ngạc, nhưng hắn đã chinh phục được họ. Ở nhân vật này xuất hiện nhiều điều bất ngờ nhưng lại phù hợp với lô – gíc nội tại. Tính cách luôn có những mặt trước sau không hể thay đổi. Bản chất của một tên lưu manh, mở miệng ả là cứ “mẹ kiếp”, “nước mẹ gì”. Sự khôn ranh không phải do học hành mà do sự bắt chước, che đậy, đối phó với mọi tình huống. Nào hắn có biết làm thơ đâu mà cũng được tôn là “Xuân Tóc Đỏ thi sĩ”, thực chất hắn chỉ thuộc bài thơ “thuốc cảm, nhức đầu” của những tiệm thuốc giao cho hắn đi bán dạo! Trên sân khấu cuộc đời xô bồ hỗn độn hắn sắm rất nhiều vai hài kịch. “Nhưng đôi khi, giữa lúc đang múa may khóc cười trên sân khấu, hắn bỗng nhớ đến thân phận hèn mọn của mình và gần như sững đi trong chốc lát, trong cái giây phút quan trọng đó, hắn hiện nguyên hình là một thằng Xuân hạ lưu, vô học” (Phan Cự Đệ). Chẳng hạn lúc Xuân Tóc Đỏ “ưỡn ngực” nói to trước vợ chồng ông Phán và trước mặt cả nhà Văn Minh: “Thưa ngài, ngài là người chồng mọc sừng!”. Tình cảnh bi đát xảy ra: Ông Phán dây thép ôm lấy ngực ngã quỵ xuống đất, cụ Tổ cũng nấc một cái to, ngã xuống giường”… Trong lúc bối rối nguy ngập này, Xuân Tóc Đỏ thú tội và chỉ biết chạy thẳng một mạch như kẻ cắp: “Thưa cụ, quả con vô học, xưa nay nhặt banh quần hạ lưu, không biết thuốc ạ!”. Nhưng rõ là số hắn quá đỏ: hắn không bị xem thường mà còn được trọng vọng! Cái chết của cụ Tổ càng làm người ta nể phục hắn. Đám tang cụ cố trước đó không hề có mặt hắn, nhưng trên đường mai táng rộn rịp bỗng có sự xuất hiện lạ lùng của chiếc xe tang mà trên đó có Xuân và mấy vị sư chùa bà Đanh ngồi chễm chệ. Chính sự xuất hiện này đã làm cho đám tang ngày càng sang trọng, thượng lưu. Thân chủ của cụ Tổ càng thấy khâm phục Xuân bởi Xuân đã góp phần làm lừng danh “đám tang lớn nhất từ trước đến nay”. Nhưng đó là một sự thật mỉa mai, lố bịch, phũ phàng, tàn nhẫn:Bởi chính nó đã gây ra cái chết cho cụ Tổ.Tình cảm gì cái thằng Xuân, sự xuất hiện của nó một lần nữa tô đậm con người đểu cáng, vô lương tâm của Xuân, và của cả cái xã hội văn minh “chó đểu”. Đó là hiện thực, hiện thực toát lên bằng cái nhìn châm biếm và tiếng cười ồ ạt. Nó không phải là tiếng khóc, là nước mắt như “Đám tang lão Gôriô” ( Lão Gôriô – Ban Zắc). Xuân Tóc đỏ thấy rõ vị trí của mình trong xã hội, hắn ngày càng nhận rõ muốn tạo được thanh thế và uy tín thì phải xem thường mọi người! Hắn càng làm bộ, giả dối bao nhiêu thì lại được kính trọng bấy nhiêu… Dù làm ra vẻ kiểu cách nhưng bản chất của nhân vật này vẫn là lố bịch, kệch cỡm. Thái độ của hắn mỗi lần được tiếp xúc với mọi người chỉ là sự đòi hỏi kiểu cách: “Rất hân hạnh”…và hết sức lố bịch khi hắn đứng trước quần chúng: “Hỡi quần chúng, mi không hiểu gì, mi oán ta. Ta vẫn yêu quý mi, mặc lòng mi chẳng rõ lòng ta. Thôi giản tán đi!”. Thực chất của Xuân Tóc Đỏ là như vậy Tác giả xây dựng thành công nhân vật này bằng bút pháp châm biếm sâu sắc, bằng tiếng cười tung hê vào mặt xã hội “Âu hoá” kệch cỡm. Xuân Tóc Đỏ không chỉ là tính cách của một cá nhân mà là sự tổng hợp các loại người trong xã hội thối tha ấy. Những kẻ luôn vỗ ngực tự coi mình là văn minh là những cải cách thực chất bọn họ là những bầy hề sống thượng lưu, thác loạn. Chỉ trong xã hội thực dân thì những kẻ như Xuân Tóc Đỏ mới có “vai trò quan trọng” đứng trên thiên hạ làm xã hội điên đảo, mục nát. Xuân Tóc Đỏ là hình tượng độc đáo trong tiểu thuyết hoạt kê đọc nhất vô nhị của văn học hiện thực 1930 – 1945. Thông qua những chuỗi cười mà Vũ Trọng Phụng lên án gay gắt cái xã hội đồi bại đê tiện thời ông sống. Tiếng cười ấy đồng thời cũng là tiếng chửi thẳng vào bọn người học đòi làm quý tộc, làm tư sản nhưng ngu độn, chỉ biết sống vì đồng tiền mà quên đi nhân phẩm. Nguồn Edufly Xem thêm: Phân tích Bài ca ngắn đi trên bãi cát của Cao Bá Quát
Phân tích nhân vật Xô-cô-lốp trong tác phẩm “Số phận con người” của Sô-lô-khốp Gợi ý "Con đại bàng non bất thần vẫy lên đôi cánh mênh mông” của văn học Nga cho ra đời truyện ‘‘Số phận con người" trên báo “Sự thật” vào cuối năm 1956. Hình ảnh nhân vật chính của tác phẩm Xôcôlổp để lại trong lòng ta bao ám ảnh về số phận con người đầy bất hạnh thương đau. Qua số phận nhân vật này, ta cảm nhận sâu sắc nhiệt tình tố cáo thảm họa chiến tranh, mô tả chiến tranh trong bộ mặt thật của nó; biểu dương khí phách anh hùng của người lính Xô viết, khám phá chiều sâu tính cách Nga bình dị, nhân ái – được thể hiện bằng một bút phát nghệ thuật điêu luyện, độc đáo của nhà văn Sôlôkhốp. Sau 5 năm chiến tranh, hơn 20 triệu người Xô viết bị chết, hàng ngàn thành phố, hàng vạn làng mạc bị bom đặn phát xít biến thành tro tàn. Gia đình Xôcôlôp gánh chịu bao mất mát đau thương. Vợ và hai con gái bị giặc ném bom giết hại. Con trai – đại uý pháo binh Anatôli, niềm tự hào cuối cũng đã ngã xuống trong ngày chiến thắng bởi viên đạn băn lén của một tên thiện xạ phát xít! Thế là hết! Nỗi đau khủng khiếp làm cho Xôcôlôp “như người mất hồn”. Chiến tranh kết thúc, được giải ngũ nhưng anh không muôn về lại Vôrônegiơ quê hương vì đâu còn gia đình nữa. Bé Vania cũng là hiện thân cho thảm họa chiến tranh. Cha “chết ỏ mặt trận”. “Mẹ bị bom chết trên tàu hỏa khi mẹ con cháu đang đi tàu”. Bé cũng không biết, không nhớ từ đâu đến. Bà con thân thuộc “không có ai cả”. Và chỉ biết “bạ đâu ngù đó”, “ai cho gì thì ăn nấy!” áo quần em “rách bươm xơ mướp”, “đầu tóc rối bù”;, “mặt mũi thì bê bết nước dưa hấu, lem luốc bụi bặm, bẩn như ma lem”… Hình ảnh bé Vania cũng như cuộc đời Xôcôlôp được tác giả miêu tả một cách chân thật cảm động thể hiện nhiệt tình tố cáo thảm họa chiến tranh, mộ tả chiến tranh trong bộ mặt thật của nó. Cái giá của chiến thắng mà mọi dân tộc cũng như nhân dân Liên Xô trong thê’ chiến hai phải trả là cực kỳ khủng khiếp. Chỉ còn lại một phần ba số binh sĩ ra trận trở về, trong số đó, nhiều người trên mình mang đầy thương tật. Sức khỏe sa sút, cạn kiệt. Chiến tranh đã đi qua, nhưng một năm sau Xôcôlốp cảm thấy quả tim mình, “đã rệu rã lắm rồi”, nhiều khi “tự nhiên nó nhói lên, thắt lại, và giữa ban ngày mà tối tăm mặt mũi”. Nhưng cái đau khổ nhất do bão tố chiến tranh đem đến cho con người không chỉ là mất mát, tang thương, điêu tàn… mà còn là những vết thương lòng rỉ máu, những ám ảnh kinh hoàng còn mãi trong ký ức, cứ xiết chặt lấy tâm hồn người lính thời hậu chiến. Bé Vania vốn hoạt bát có lúc lại “lặng thinh, tư lự” có lúc lại “thở dài”. Cái áo bành tô đa của bố ngày nào cứ riết lấy tâm hồn của em như một ám ảnh không nguôi! Còn Xôcôlôp thì nỗi đau như vô tận “không ở lâu mãi một chỗ được”, nỗi buồn không bao giờ nguôi, “hai bố con cứ cuốc bộ khắp nước Nga”… Hầu như đêm nào anh cũng chiêm bao thấy những người thân bị giặc giết “gặp lại vợ con sau hàng rào dây thép gai”…, “ban ngày trấn tĩnh được, không hở ra một tiếng thở dài, một lời than vãn nhưng ban đêm thì gối ướt đầm nước mắt…”. Xôcôlôp và bé Vania trở thành “côi cút, hai hạt cát đã bị sức mạnh phũ phàng của bão tố chiến tranh thổi bạt tới những miền xa lạ…”Xem thêm: Bàn về truyện ngắn, có người cho rằng: "Yếu tố (...) chưa nói hết". (Từ điển thuật ngữ văn học, NXB Giáo dục, 1992, tr.253). Anh chị hiểu thế nào về ý kiến trên đây và hãy chứng minh ý kiến ấy qua sự phân tích một số truyện ngắn tiêu biểu Nhân vật Xôcôlốp là một con người Nga chân chính, tiêu biểu cho khí phách anh hùng của người lính Xô viết trong cuộc chiến tranh Vệ quốc vĩ đại. Vốn là một nông dân rồi làm thợ, một lái xe. Một gia đình ổn định, êm ấm: một vợ và ba con. Anh đã ra trận như hàng triệu công dân với ý thức “Tổ quốc hay là chết!” Hai lần bị thương vào chân và tay; vết thương lành, anh lại cầm súng đánh giặc rồi bị bắt làm tù binh. Lao động khổ sai trong mưa, nắng, tuyết; bị đánh bằng báng súng, bằng thanh sắt, bằng gộc. Áo quần tả tơi, bánh mì lẫn mạt cưa, lưng bát xúp lõng bông. Anh đã đứng vững trước mọi thử thách ác liệt. Kiên quyết trừ khử tên phản bội đốn mạt! Hiên ngang trước mũi súng tên hung thần Muynle, chỉ huy trại tập trung. Với đôi mắt bình thản, anh nhìn thẳng vào họng súng lục tên phát xít. Tự kìm chê’ sự đói khát khi đứng trước bàn tiệc của lũ giặc. Đàng hoàng uống rượu, không chỉ uống một cốc mà còn uống nữa để mừng cái chết của mình kinh ngạc khâm phục nói: “Mày là một thằng lính Nga chân chính. Tao cũng là lính và tao trọng những địch thủ có khí tiết. Tao sẽ không bắn mày nữa”. Tầm vóc của Xôcôlôp, của người lính Nga trong máu lửa được miêu tả một cách chân thực, hào hùng làm cho truyện “Số phận con người“ mang vẻ đẹp một “tiểu anh hùng ca”.Xem thêm: Nghị luận xã hội về đức tính khiêm tốn Qua nhân vật Xôlôlốp, tác giả đã khám phá chiều sâu tính cách Nga bình dị và nhân ái. Sau chiến tranh anh vẫn nhớ hoài cái giây phút từ biệt vợ con để ra trận, anh đẩy Irina ra khi chị cứ níu lấy anh, không thả… Bình dị trước biến cố trọng đại khi lịch sử đưa số phận anh lên “điểm tựa” thử thách! Lửa chiến tranh đã tắt hơn một năm rồi, mà lòng Xôcôlôp mãi không nguôi đau. Anh đã tìm đến rượu, “uống một ly rượu lử người”, anh đã “quá say mê cái món nguy hại ấy!” Đang sống âm thầm trong bị kịch, anh tưởng không có lối thoát. Nhưng rồi tình cám người cha, tình thương đồng loại đã thức dậy, làm cho vết thương lòng ri máu bấy nay, như được mọc lên một lớp da non. Gặp bé Vania “đầu tóc rối bù”, “rách bươm xơ mướp”, sống bơ vơ nơi hiệu giải khát, bạ đâu ngủ đó… ai cho gì thì ăn mấy”, nhất là khi nhìn thấy cặp mắt của em “như những ngôi sao sáng ngời sau trận mưa đêm”, Xôcôlốp thấy “thích nó” và “nhớ nó”, cố cho xe chạy nhanh để được về “gặp nó”. Anh đã quyết định: “Không thể để cho mình với nó chìm nghỉm riêng rẽ được! Mình sẽ nhận nó làm con!” Một quyết định đầy nhân ái. Anh đã cứu bé Vania, và anh đã tự cứu mình! Như có một phép thần biến cải: “Ngay lúc đó tâm hồn tôi bỗng nhẹ nhõm và bừng sáng lên!” Cầu nói khẽ của Xôcộlốp: “Là bố của con” khi nghe bé Vania nghẹn ngào hỏi: “Thế chú là ai?” tưởng là bình dị nhưng đầy nước mắt, chứa đựng cả một biển tình thương mênh mông! Trước những cái hôn vào má, vào môi, vào trán, trước những cử chỉ “yêu thương bố…” của bé Vania Xôcôlốp vô cùng xúc động: “Mắt tôi thì mờ đi, cả người cũng run lên, hai bàn tay lẩy bẩy…”. Xôcôlốp đã nhận bé Vania làm con. Anh đã tắm rửa, đưa bé đi cắt tóc, may áo quần mới, săn sóc em. Hai linh hồn đau khổ tựa vào nhau làm cho nỗi mất mát, đau thương sau chiến tranh được dịu lại. Giấc ngủ được yên lành hơn: “Lần đầu tiên, sau nhiều năm tôi được ngủ một giấc yên lành. Còn bé Vania thì rúc vào nách bố nuôi “như con chim sẻ dưới mái rạ, ngáy khe khẽ…” Hạnh phúc là san sẻ. Xôcôlốp lòng vui không lời nào tả xiết, đêm đêm thức dậy đánh diêm ngắm nhìn bé Vania ngủ ngon lành. Đời anh đã có một sự đổi thay kì diệu: “Trái tim đã suy kiệt, đã bị chai sạn vì đau khổ, nay trở nên êm dịu hơn. vết thương lòng đâu dễ nguôi? Vì thế mà Xôcôlốp phải cõng đứa con nuôi bé bỏng đi khắp nước Nga. Chỉ đến một lúc nào đó, bé Vania lớn lên vào học một trường ổn định thì Xôcôlốp “mới có thể ở yên một chỗ”. Anh đang chịu đựng và vượt qua số phận bằng tình thương của người bố đối với đứa con.Xem thêm: Phân tích chất thép biểu hiện trong bài thơ Giải đi sớm của Hồ Chí Minh Cuộc gặp bất chợt với “hai con người côi cút” và câu chuyện đau lòng của họ đã để lại trong lòng tác giả bao nỗi buồn thấm thìa, nhưng ông vẫn tin vào dũng khí và lòng nhân ái của người Nga, vẫn tin vào tương lai, cho dù bão tố chiến tranh có thổi bạt họ tới những miền xa lạ. “Cái gì đang chờ đón họ ở phía trước? Thiết nghĩ rằng con người Nga đó, con người có ý chí kiên cường, sẽ đứng vững được và sông bên cạnh bố, chú bé kia một khi lớn lên sẽ có thể đương đầu với mọi thử thách, sẽ vượt qua mọi chướng ngại trên đường, nếu như Tổ quốc kêu gọi”. Truyện “Số phận con người có kết cấu “truyện lồng trong truyện” đã tô đậm những đau khổ, những phẩm chất cao đẹp của nhân vật Xôcôlốp, khắc họa đậm nét tính cách và tâm hồn Nga, đem đến cho người đọc nhiều xúc động thấm thía về số phận con người trong chiến tranh và thời hậu chiến. Với những chi tiết, tình tiết rất sống, rất điển hình và chân thực, tác giả đã mô tả mặt thật của chiến tranh, ca ngợi người lao động bình thường trong cuộc đời, anh binh nhì trong máu lửa, người cha trong cuộc sống phức tạp, nhiều khó khăn thời kỳ sau chiên tranh. Qua nhân vật Xôcôlôp, người đọc cảm nhận được những ý tưởng sâu sắc mà Sôlôkhôp gửi gắm qua kiệt tác này: Với lòng dũng cảm mà con người vượt qua những thử thách chiến tranh; vởi lòng nhân ái có thể làm dịu bớt nỗi đau mà chiến tranh gieo rắc, để lại. Đoạn trữ tình ngoại đề làm cho cảm hứng nhân đạo thêm lung linh chói sáng. Nhân dân Việt Nam vừa trải qua 30 năm chiến tranh. Hình ảnh Xôcôlôp Tất gần gũi với mỗi chúng ta. Nhân vật này rết sống, rất đáng thương nhưng vô cùng cao đẹp xứng đáng được mọi người yêu mến, cảm phục. Vanmau.edu.vn
Phân tích nhân vật Xô-cô-lốp trong tác phẩm “Số phận con người” của Sô-lô-khốp Gợi ý "Con đại bàng non bất thần vẫy lên đôi cánh mênh mông” của văn học Nga cho ra đời truyện ‘‘Số phận con người" trên báo “Sự thật” vào cuối năm 1956. Hình ảnh nhân vật chính của tác phẩm Xôcôlổp để lại trong lòng ta bao ám ảnh về số phận con người đầy bất hạnh thương đau. Qua số phận nhân vật này, ta cảm nhận sâu sắc nhiệt tình tố cáo thảm họa chiến tranh, mô tả chiến tranh trong bộ mặt thật của nó; biểu dương khí phách anh hùng của người lính Xô viết, khám phá chiều sâu tính cách Nga bình dị, nhân ái – được thể hiện bằng một bút phát nghệ thuật điêu luyện, độc đáo của nhà văn Sôlôkhốp. Sau 5 năm chiến tranh, hơn 20 triệu người Xô viết bị chết, hàng ngàn thành phố, hàng vạn làng mạc bị bom đặn phát xít biến thành tro tàn. Gia đình Xôcôlôp gánh chịu bao mất mát đau thương. Vợ và hai con gái bị giặc ném bom giết hại. Con trai – đại uý pháo binh Anatôli, niềm tự hào cuối cũng đã ngã xuống trong ngày chiến thắng bởi viên đạn băn lén của một tên thiện xạ phát xít! Thế là hết! Nỗi đau khủng khiếp làm cho Xôcôlôp “như người mất hồn”. Chiến tranh kết thúc, được giải ngũ nhưng anh không muôn về lại Vôrônegiơ quê hương vì đâu còn gia đình nữa. Bé Vania cũng là hiện thân cho thảm họa chiến tranh. Cha “chết ỏ mặt trận”. “Mẹ bị bom chết trên tàu hỏa khi mẹ con cháu đang đi tàu”. Bé cũng không biết, không nhớ từ đâu đến. Bà con thân thuộc “không có ai cả”. Và chỉ biết “bạ đâu ngù đó”, “ai cho gì thì ăn nấy!” áo quần em “rách bươm xơ mướp”, “đầu tóc rối bù”;, “mặt mũi thì bê bết nước dưa hấu, lem luốc bụi bặm, bẩn như ma lem”… Hình ảnh bé Vania cũng như cuộc đời Xôcôlôp được tác giả miêu tả một cách chân thật cảm động thể hiện nhiệt tình tố cáo thảm họa chiến tranh, mộ tả chiến tranh trong bộ mặt thật của nó. Cái giá của chiến thắng mà mọi dân tộc cũng như nhân dân Liên Xô trong thê’ chiến hai phải trả là cực kỳ khủng khiếp. Chỉ còn lại một phần ba số binh sĩ ra trận trở về, trong số đó, nhiều người trên mình mang đầy thương tật. Sức khỏe sa sút, cạn kiệt. Chiến tranh đã đi qua, nhưng một năm sau Xôcôlốp cảm thấy quả tim mình, “đã rệu rã lắm rồi”, nhiều khi “tự nhiên nó nhói lên, thắt lại, và giữa ban ngày mà tối tăm mặt mũi”. Nhưng cái đau khổ nhất do bão tố chiến tranh đem đến cho con người không chỉ là mất mát, tang thương, điêu tàn… mà còn là những vết thương lòng rỉ máu, những ám ảnh kinh hoàng còn mãi trong ký ức, cứ xiết chặt lấy tâm hồn người lính thời hậu chiến. Bé Vania vốn hoạt bát có lúc lại “lặng thinh, tư lự” có lúc lại “thở dài”. Cái áo bành tô đa của bố ngày nào cứ riết lấy tâm hồn của em như một ám ảnh không nguôi! Còn Xôcôlôp thì nỗi đau như vô tận “không ở lâu mãi một chỗ được”, nỗi buồn không bao giờ nguôi, “hai bố con cứ cuốc bộ khắp nước Nga”… Hầu như đêm nào anh cũng chiêm bao thấy những người thân bị giặc giết “gặp lại vợ con sau hàng rào dây thép gai”…, “ban ngày trấn tĩnh được, không hở ra một tiếng thở dài, một lời than vãn nhưng ban đêm thì gối ướt đầm nước mắt…”. Xôcôlôp và bé Vania trở thành “côi cút, hai hạt cát đã bị sức mạnh phũ phàng của bão tố chiến tranh thổi bạt tới những miền xa lạ…”Xem thêm: Bàn về truyện ngắn, có người cho rằng: "Yếu tố (...) chưa nói hết". (Từ điển thuật ngữ văn học, NXB Giáo dục, 1992, tr.253). Anh chị hiểu thế nào về ý kiến trên đây và hãy chứng minh ý kiến ấy qua sự phân tích một số truyện ngắn tiêu biểu Nhân vật Xôcôlốp là một con người Nga chân chính, tiêu biểu cho khí phách anh hùng của người lính Xô viết trong cuộc chiến tranh Vệ quốc vĩ đại. Vốn là một nông dân rồi làm thợ, một lái xe. Một gia đình ổn định, êm ấm: một vợ và ba con. Anh đã ra trận như hàng triệu công dân với ý thức “Tổ quốc hay là chết!” Hai lần bị thương vào chân và tay; vết thương lành, anh lại cầm súng đánh giặc rồi bị bắt làm tù binh. Lao động khổ sai trong mưa, nắng, tuyết; bị đánh bằng báng súng, bằng thanh sắt, bằng gộc. Áo quần tả tơi, bánh mì lẫn mạt cưa, lưng bát xúp lõng bông. Anh đã đứng vững trước mọi thử thách ác liệt. Kiên quyết trừ khử tên phản bội đốn mạt! Hiên ngang trước mũi súng tên hung thần Muynle, chỉ huy trại tập trung. Với đôi mắt bình thản, anh nhìn thẳng vào họng súng lục tên phát xít. Tự kìm chê’ sự đói khát khi đứng trước bàn tiệc của lũ giặc. Đàng hoàng uống rượu, không chỉ uống một cốc mà còn uống nữa để mừng cái chết của mình kinh ngạc khâm phục nói: “Mày là một thằng lính Nga chân chính. Tao cũng là lính và tao trọng những địch thủ có khí tiết. Tao sẽ không bắn mày nữa”. Tầm vóc của Xôcôlôp, của người lính Nga trong máu lửa được miêu tả một cách chân thực, hào hùng làm cho truyện “Số phận con người“ mang vẻ đẹp một “tiểu anh hùng ca”.Xem thêm: Nghị luận xã hội về đức tính khiêm tốn Qua nhân vật Xôlôlốp, tác giả đã khám phá chiều sâu tính cách Nga bình dị và nhân ái. Sau chiến tranh anh vẫn nhớ hoài cái giây phút từ biệt vợ con để ra trận, anh đẩy Irina ra khi chị cứ níu lấy anh, không thả… Bình dị trước biến cố trọng đại khi lịch sử đưa số phận anh lên “điểm tựa” thử thách! Lửa chiến tranh đã tắt hơn một năm rồi, mà lòng Xôcôlôp mãi không nguôi đau. Anh đã tìm đến rượu, “uống một ly rượu lử người”, anh đã “quá say mê cái món nguy hại ấy!” Đang sống âm thầm trong bị kịch, anh tưởng không có lối thoát. Nhưng rồi tình cám người cha, tình thương đồng loại đã thức dậy, làm cho vết thương lòng ri máu bấy nay, như được mọc lên một lớp da non. Gặp bé Vania “đầu tóc rối bù”, “rách bươm xơ mướp”, sống bơ vơ nơi hiệu giải khát, bạ đâu ngủ đó… ai cho gì thì ăn mấy”, nhất là khi nhìn thấy cặp mắt của em “như những ngôi sao sáng ngời sau trận mưa đêm”, Xôcôlốp thấy “thích nó” và “nhớ nó”, cố cho xe chạy nhanh để được về “gặp nó”. Anh đã quyết định: “Không thể để cho mình với nó chìm nghỉm riêng rẽ được! Mình sẽ nhận nó làm con!” Một quyết định đầy nhân ái. Anh đã cứu bé Vania, và anh đã tự cứu mình! Như có một phép thần biến cải: “Ngay lúc đó tâm hồn tôi bỗng nhẹ nhõm và bừng sáng lên!” Cầu nói khẽ của Xôcộlốp: “Là bố của con” khi nghe bé Vania nghẹn ngào hỏi: “Thế chú là ai?” tưởng là bình dị nhưng đầy nước mắt, chứa đựng cả một biển tình thương mênh mông! Trước những cái hôn vào má, vào môi, vào trán, trước những cử chỉ “yêu thương bố…” của bé Vania Xôcôlốp vô cùng xúc động: “Mắt tôi thì mờ đi, cả người cũng run lên, hai bàn tay lẩy bẩy…”. Xôcôlốp đã nhận bé Vania làm con. Anh đã tắm rửa, đưa bé đi cắt tóc, may áo quần mới, săn sóc em. Hai linh hồn đau khổ tựa vào nhau làm cho nỗi mất mát, đau thương sau chiến tranh được dịu lại. Giấc ngủ được yên lành hơn: “Lần đầu tiên, sau nhiều năm tôi được ngủ một giấc yên lành. Còn bé Vania thì rúc vào nách bố nuôi “như con chim sẻ dưới mái rạ, ngáy khe khẽ…” Hạnh phúc là san sẻ. Xôcôlốp lòng vui không lời nào tả xiết, đêm đêm thức dậy đánh diêm ngắm nhìn bé Vania ngủ ngon lành. Đời anh đã có một sự đổi thay kì diệu: “Trái tim đã suy kiệt, đã bị chai sạn vì đau khổ, nay trở nên êm dịu hơn. vết thương lòng đâu dễ nguôi? Vì thế mà Xôcôlốp phải cõng đứa con nuôi bé bỏng đi khắp nước Nga. Chỉ đến một lúc nào đó, bé Vania lớn lên vào học một trường ổn định thì Xôcôlốp “mới có thể ở yên một chỗ”. Anh đang chịu đựng và vượt qua số phận bằng tình thương của người bố đối với đứa con.Xem thêm: Phân tích chất thép biểu hiện trong bài thơ Giải đi sớm của Hồ Chí Minh Cuộc gặp bất chợt với “hai con người côi cút” và câu chuyện đau lòng của họ đã để lại trong lòng tác giả bao nỗi buồn thấm thìa, nhưng ông vẫn tin vào dũng khí và lòng nhân ái của người Nga, vẫn tin vào tương lai, cho dù bão tố chiến tranh có thổi bạt họ tới những miền xa lạ. “Cái gì đang chờ đón họ ở phía trước? Thiết nghĩ rằng con người Nga đó, con người có ý chí kiên cường, sẽ đứng vững được và sông bên cạnh bố, chú bé kia một khi lớn lên sẽ có thể đương đầu với mọi thử thách, sẽ vượt qua mọi chướng ngại trên đường, nếu như Tổ quốc kêu gọi”. Truyện “Số phận con người có kết cấu “truyện lồng trong truyện” đã tô đậm những đau khổ, những phẩm chất cao đẹp của nhân vật Xôcôlốp, khắc họa đậm nét tính cách và tâm hồn Nga, đem đến cho người đọc nhiều xúc động thấm thía về số phận con người trong chiến tranh và thời hậu chiến. Với những chi tiết, tình tiết rất sống, rất điển hình và chân thực, tác giả đã mô tả mặt thật của chiến tranh, ca ngợi người lao động bình thường trong cuộc đời, anh binh nhì trong máu lửa, người cha trong cuộc sống phức tạp, nhiều khó khăn thời kỳ sau chiên tranh. Qua nhân vật Xôcôlôp, người đọc cảm nhận được những ý tưởng sâu sắc mà Sôlôkhôp gửi gắm qua kiệt tác này: Với lòng dũng cảm mà con người vượt qua những thử thách chiến tranh; vởi lòng nhân ái có thể làm dịu bớt nỗi đau mà chiến tranh gieo rắc, để lại. Đoạn trữ tình ngoại đề làm cho cảm hứng nhân đạo thêm lung linh chói sáng. Nhân dân Việt Nam vừa trải qua 30 năm chiến tranh. Hình ảnh Xôcôlôp Tất gần gũi với mỗi chúng ta. Nhân vật này rết sống, rất đáng thương nhưng vô cùng cao đẹp xứng đáng được mọi người yêu mến, cảm phục. Vanmau.edu.vn
Ông Hai là một người nông dân hiền lành, chất phác. Ông dành cho quê hương làng Dầu của mình một tình yêu đặc biệt. Khi đi vào phân tích nhân vật ông Hai, các em cần làm nổi bật lên được tình yêu của ông với quê hương. Để có một bài văn phân tích nhân vật ông Hai thật hay thì trước tiên các em cần biết cách lập dàn ý phân tích đề văn này. Dàn ý chính là sườn để các em bám theo và phân tích sẽ không sợ bị thiếu ý. I. Lập dàn ý phân tích nhân vật ông Hai 1. Mở bài – Giới thiệu về nhà văn Kim Lân và truyện ngắn Làng. – Giới thiệu về nhân vật ông Hai. 2. Thân bài phân tích nhân vật ông Hai Tình yêu làng của ông Hai – một bản chất có tính truyền thống – Đi đến đâu ông Hai cũng khoe về làng của mình với một niềm tự hào sâu sắc. – Trong đời sống tinh thần của người nông dân thời ấy, cái làng đóng một ý nghĩa vô cùng quan trọng. Những chuyển biến mới trong tình cảm của ông Hai – Ông tự hào vì làng ông là làng kháng chiến. – Ở nơi tản cư mới, ông thường xuyên lắng nghe tin tức của kháng chiến và háo hức trước tin thắng lợi. Tình yêu làng gắn bó sâu sắc với tình yêu nước – Ông đau đớn khi nghe tin làng Dầu theo giặc. – Tủi hổ khi nhìn các con, trách móc khi nghĩ về dân làng nhưng ông vẫn không tin đây là sự thật. – Nhiều ngày liền ông không dám ra ngoài. – Xung đột nội tâm ông Hai diễn ra gay gắt. – Những tình cảm của ông Hai dành cho cách mạng, cho cụ Hồ được bộc lộ đầy cảm động. Niềm vui sướng và tự hào khi tin đồn được cải chính – Nhân vật được đặt vào tình huống thử thách.Xem thêm: Phân tích nhân vật Tràng trong Vợ nhặt (Có dàn ý chi tiết) – Diễn biến nội tâm nhân vật được miêu tả cụ thể. 3. Kết luận – Nêu cảm nghĩ của em về nhân vật ông Hai. Bài viết liên quan: >> Phân tích nhân vật Phương Định trong Những ngôi sao xa xôi (Có dàn ý chi tiết) >> Phân tích bài thơ Chị em Thúy Kiều trích Truyện Kiều (Có dàn ý chi tiết) >> Phân tích bài thơ Tức cảnh Pác Bó của Hồ Chí Minh (Có dàn ý chi tiết) II. Bài làm phân tích nhân vật ông Hai Nhà văn Kim Lân sáng tác nhiều truyện ngắn về đề tài nông thôn trong đó Làng là một truyện ngắn vô cùng đặc sắc. Trong truyện ngắn này, nổi bật lên là hình ảnh người nông dân Việt Nam trong kháng chiến chống Pháp. Ông Hai, nhân vật chính của tác phẩm đã thể hiện được một tình yêu sâu sắc dành cho quê hương làng Dầu. Đó là một tình yêu thật đặc biệt mà có lẽ chính bản thân ông Hai cũng không thể nào lý giải được. Truyện được lấy bối cảnh là cuộc tản cư kháng chiến của nhân dân. Trong bối cảnh ấy, ông Hai đã phải cùng gia đình của mình đi tản cư đến một nơi khác. Việc xa quê hương càng khiến cho tình yêu của ông lớn lên và nó lấn át hết tất thảy mọi suy nghĩ và cảm xúc trong ông. Cũng như bao nhiêu người nông dân khác, ông Hai là một người chất phác và hiền hậu. Những ngày đầu đến nơi tản cư mới, ông sớm làm quen với những con người nơi đây. Ông cởi mở và dễ gần. Ông giãu bày những suy tư và cảm xúc của mình về làng Chợ Dầu cho những người hàng xóm mới được biết. Ngày nào ông cũng lắng nghe tin tức từ báo đài nói về cuộc kháng chiến sau đó ông bàn tán về những sự kiện nổi bật của kháng chiến. Ông Hai tuy ít học và cũng không biết chữ nhưng ông rất ghét những kẻ ra vẻ ta đây biết đọc và đặc biệt ông rất thích nói chữ. Có thể thấy, Kim Lân đã xây dựng hình ảnh nhân vật ông Hai vô cùng đáng yêu, đáng mến.Xem thêm: Cảm nhận về bài thơ Tây Tiến của nhà thơ Quang Dũng Phân tích nhân vật ông Hai Điều khiến người ta nhớ và quý nhất ở ông Hai có lẽ chính là tấm lòng yêu làng của ông. Biểu hiện của tấm lòng ấy cũng thật đặc biệt. Đối với người nông dân trước đây, làng có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng và đối với ông Hai cũng vậy. Từ đời này qua đời khác, làng quê gắn bó với người dân như máu thịt. Ông Hai đã từng không muốn rời làng Dầu đi tản cư vì không muốn xa quê hương của mình. Thời trước Cách mạng, vì nghèo đói, vì miếng cơm manh áo nên ông cũng đã phải xa quê hương mất một thời gian. Thế nên ông mới thấm thía những nỗi nhớ, nỗi khổ khi phải xa quê. Bây giờ lại phải xa quê thêm một lần nữa, ông không khỏi trong mình tâm trạng nhớ thương. Ông Hai là một người gần gũi và cởi mở. Ở nơi tản cứ mới ông đã kịp làm quen với những người hàng xóm. Nhưng rồi câu chuyện của ông cũng chỉ xoay quanh làng Dầu và kháng chiến. Hàng ngày ông lắng nghe tin tức trên báo đài, ông khoe những trận đánh ta đã dành thắng lợi và ông khoe về làng Dầu. Ông có thể ngồi cả ngày chỉ để kể về làng Dầu. Không cần biết người nghe có hứng thú hay không, chỉ cần biết ông cảm thấy thích là được rồi. Ông đã không dừng kể về làng Dầu cho tới nghi nghe tin làng Dầu theo giặc. Ông cúi gằm mặt, không dám nhìn ai. Ông tủi hổ thay cho những đứa con vì từ nay chúng ra ngoài đường sẽ bị người đời miệt thị. Suốt mấy ngày liền ông giam mình trong nhà không dám gặp mặt ai vì sợ mọi người dè bỉu. Ông đã nghĩ về những con người làng Dầu. Ông đã không tin được lý do họ có thể bán rẻ quê hương đất nước như vậy. Nhưng tin đã như vậy rồi nên ông buộc phải chấp nhận. Ông cảm thấy có lỗi với cách mạng, có lỗi với cụ Hồ. Cuộc đấu tranh nội tâm diễn ra trong lòng ông Hai, một bên là quê hương mình, một bên là đất nước. Và cuối cùng tình yêu đất nước trong ông đã giành chiến thắng. Ông Hai chấp nhận gạt làng Dầu sang một bên để tiếp tục đi theo cách mạng dù trong lòng vẫn rất đau.Xem thêm: Suy nghĩ về hiện tượng tiếp nhận văn hoá ngoại lai của giới trẻ hiện nay Sau khi nghe tin làng Dầu theo giặc chỉ là tin đồn, ông như trút bỏ được một gánh nặng vô cùng to lớn. Ông Hài đã chạy đi loan tin cải chính khắp nơi, gặp ai ông cũng khoe tỏ vẻ vô cùng mừng rỡ. Vậy là giờ đây ông vẫn được yêu làng, vẫn được tự hào về làng Chợ Dầu của mình. Có thể nói, nhà văn Nam Cao đã viết về tình yêu của ông Hai một cách rất chân thực. Tác giả đặt nhân vật vào trong tình huống éo le để nhân vật bộ lộ được hết tình yêu của mình, bộc lộ được tình yêu đất nước sâu đậm của mình. Tác phẩm đã góp phần ngợi ca con người nông dân Việt Nam trong cách mạng. Họ cần cù, chịu khó và giàu tình yêu thương. Nhân vật ông Hai quả thật nhiều đức tính tốt đẹp phải không các em. Thông qua bài phân tích nhân vật ông Hai trên, chúng ta đã hiểu rõ hơn về nhân vật này. Hãy học tập ông Hai ở tinh thần yêu quê hương, yêu dân tộc các em nhé. Thu Thủy
Mr. Hai is a gentle and simple farmer. He has a special love for his hometown Dau village. When analyzing Mr. Hai's character, you need to highlight his love for his homeland. To have a good essay analyzing Mr. Hai's character, you first need to know how to create an outline to analyze this topic. The outline is the framework for you to follow and analyze without fear of missing ideas. I. Create an outline to analyze Mr. Hai's character 1. Open the lesson – Introduction to writer Kim Lan and the short story Lang. – Introducing the character Mr. Hai. 2. The body of the article analyzes Mr. Hai's character Mr. Hai's love for the village - a traditional nature – Wherever he goes, Mr. Hai shows off his village with deep pride. – In the spiritual life of farmers at that time, the village played an extremely important meaning. New changes in Mr. Hai's feelings – He is proud that his village is a resistance village. – In the new evacuation place, he often listened to news of the resistance and was excited about the news of victory. Love for the village is deeply linked to love for the country – He was hurt when he heard the news that Dau village had joined the enemy. - Feeling ashamed when looking at his children, blaming when thinking about the villagers, but he still does not believe this is true. – For many days he did not dare to go out. – Mr. Hai's internal conflict was fierce. – Mr. Hai's feelings for the revolution and for Uncle Ho were expressed touchingly. Joy and pride when the rumors are corrected – The character is placed in a challenging situation. See more: Analysis of the character Trang in The Picked Wife (With detailed outline) – The character's inner developments are described specifically. 3. Conclusion – Tell me your feelings about the character Mr. Hai. Related articles: >> Analysis of Phuong Dinh's character in Distant Stars (With detailed outline) >> Analysis of the poem Thuy Kieu Sisters from The Tale of Kieu (With detailed outline) >> Analysis of the poem Pac Bo Scene by Ho Chi Minh (With detailed outline) II. The article analyzes the character of Mr. Hai Writer Kim Lan composed many short stories on rural topics, of which Village is an extremely unique short story. In this short story, the image of Vietnamese farmers in the resistance war against the French stands out. Mr. Hai, the main character of the work, shows a deep love for his hometown Dau village. It is a very special love that perhaps Mr. Hai himself cannot explain. The story is set during the evacuation of the people's resistance war. In that context, Mr. Hai had to evacuate with his family to another place. Being away from his homeland made his love grow even more and it overwhelmed all his thoughts and feelings. Like many other farmers, Mr. Hai is a simple and gentle person. In the first days of arriving in the new evacuation area, he soon became acquainted with the people here. He is open and approachable. He confided his thoughts and feelings about Cho Dau village to his new neighbors. Every day he listened to news from the media about the resistance war, then he discussed the outstanding events of the resistance war. Although Mr. Hai is uneducated and illiterate, he really hates people who pretend to know how to read and especially he loves to speak words. It can be seen that Kim Lan has built the image of the character Mr. Hai as extremely adorable and endearing. See more: Feelings about the poem Tay Tien by poet Quang Dung Analyze Mr. Hai's character What people remember and appreciate most about Mr. Hai is probably his love for the village. The expression of that heart is also very special. For the former farmer, the village had a particularly important meaning and so did for Mr. Hai. From generation to generation, the village is attached to the people like flesh and blood. Mr. Hai did not want to leave Dau village to evacuate because he did not want to leave his homeland. Before the Revolution, because of poverty and lack of food and clothing, he had to leave his homeland for a while. That's why he deeply understood the nostalgia and pain of being away from home. Now that he has to leave his hometown again, he can't help but feel nostalgic. Mr. Hai is a close and open person. At the new base, he had time to get to know his neighbors. But then his story only revolved around Dau village and the resistance war. Every day he listened to the news on the radio, he boasted about the battles we had won and he boasted about Dau village. He could sit all day just talking about Dau village. It doesn't matter whether the listener is interested or not, just knowing that he feels like it is enough. He did not stop talking about Dau village until he suspected that Dau village had joined the enemy. He lowered his head, not daring to look at anyone. He felt ashamed for his children because from now on they would be despised by people when they went out on the street. For several days he locked himself in his house, not daring to meet anyone for fear of being ridiculed. He thought about the people of Dau village. He couldn't believe why they could sell their homeland so cheaply. But the news was like that so he had to accept it. He felt sorry for the revolution, sorry for Uncle Ho. The internal struggle took place in Mr. Hai's heart, one side was his homeland, the other side was the country. And in the end, his love for his country won. Mr. Hai agreed to put Dau village aside to continue following the revolution even though his heart was still very painful. See more: Thoughts on the phenomenon of accepting foreign culture among today's youth After hearing that the news that Dau village had joined the enemy was just a rumor, he felt like a huge burden had been lifted from him. Mr. Hai ran to spread the news of rectification everywhere, showing off his joy to everyone he met. So now he still loves his village and is still proud of his Cho Dau village. It can be said that writer Nam Cao wrote about Mr. Hai's love in a very honest way. The author puts the character in a difficult situation so that the character can reveal all his love, revealing his deep love for his country. The work has contributed to praising Vietnamese farmers during the revolution. They are diligent, hard-working and full of love. The character of Mr. Hai really has many good qualities, doesn't he? Through the character analysis of Mr. Hai above, we have a better understanding of this character. Please learn from Mr. Hai in the spirit of loving your homeland and your people. Thu Thuy
Phân tích nhân vật Ông lão đánh cá trong tác phẩm Ông Lão Đánh Cá và Con Cá Vàng. Hướng dẫn Trong cuộc sống của chúng ta có rất nhiều người nghèo khổ, làm những công việc thấp hèn nhưng họ lại có phẩm chất cao đẹp đáng để chúng ta học tập. Ông lão đánh cá trong tác phẩm Ông lão đánh cá và con cá vàng là một người như vậy. Ông lão đánh cá tuy nghèo nhưng có tấm lòng rất lương thiện, cần cù chịu khó Ngày ngày không quản nắng mưa gió rét, ông vẫn cần mẫn kéo lưới để kiếm sống qua ngày. Đối với một người làm việc kéo lưới, việc bắt cá là mục tiêu của họ. Việc bắt được cá không phải là điều dễ dàng với ông lão già, nhưng khi kéo được con cá lên ông phát hiện đó là một con cá vàng, trước lời van xin của cá, ông đã thả cá vàng trở về với biển, mặc dù cả hai lần kéo lưới chỉ có bùn và rong biển. Hơn nữa, nhà ông rất nghèo, chỉ có "cái máng lợn sứt mẻ" và một "túp lều rách nát". Ông phải kéo lười để lo từng bữa ăn, nhưng ông vẫn vui vẻ thả con cá vàng về biển. Hành động thả cá về biển của ông lão thật đáng trân trọng, ông thả cá về biển không phải lời hứa đền ơn từ con cá, mà xuất phát từ tấm lòng lương thiện cao cả trong con người ông. Thật là một tấm lòng hào hiệp, cứu giúp người khác một cách vô tư,không tính toán thiệt hơn, không màng đến ơn đáp nghĩa.Xem thêm: Dựa vào Cây tre Việt Nam của Thép Mới em hãy viết 1 bài văn ngắn trình bày cảm nhận của em về Cây tre Việt Nam Nhưng ở đời thường lại có sự trái ngược lẫn nhau, ông lão thì có tấm lòng thanh cao như vậy, nhưng mụ vợ ông lại trái ngược hoàn toàn với ông. Khi biết được cá vàng có ý muốn giúp đỡ ông lão, mụ đã quát mắng ông, bắt ông đi tìm cá và phụ vụ theo ý đồ của mụ. Bị mụ vợ quát mắng, ông chỉ buồn tủi đi ra biển gọi cá vàng giúp đỡ theo yêu cầu của mụ vợ, còn bản thân ông, ông chỉ muốn kiếm sống bằng sức lao động của chính mình. Có thể nói, ông lão có phần nhu nhược khi sống với mụ vợ tham lam độc ác, là đàn ông nhưng ông phải cam chịu và nhẫn nhục trước thái độ vô liêm sĩ của mụ vợ. Ông cũng phẫn nộ, cũng không đồng tình trước lòng tham tột đỉnh của mụ vợ nhưng ông không giám chống lại và vẫn làm theo ý của mụ. Phải chăng do con người ông quá hiền nay, hay cái ác, cái tham lam luôn lấn át cía hiền lành lương thiện. Ngay khi cứu cá vàng, nếu ông có mong muốn gì, cá vàng sẽ giúp đỡ ông thực hiện ngay mong muốn đó. Nhưng do bản chất ông không tham lam, ông không hề quan tâm tới lời hứa của cá vàng cả. Năm lần ra biển đều nhờ cá vàng giúp theo yêu cầu của mụ vợ, mặc dù bà vợ đã ngược đãi ông, chửi mắng, đánh đuổi ông, xem ông như một nô lệ. Ông yêu cầu cá vàng giúp mình, ông chỉ biết chịu đựng, không phàn nàn, không phản ứng lại trước sự bội bạc của mụ vợ. Ông là hình ảnh của người lao động trong chế độ cũ – chế độ áp bức bóc lột. Trong xã hội đó cái ác luôn thường trực và luôn đè nén, chèn ép cái thiện.Xem thêm: Phân tích bài thơ Tỏ lòng (Thuật hoài) của Phạm Ngũ Lão Nhìn về góc độ cố tích, ông lão là hình tượng văn học tượng trưng cho cái thiện, giàu tính nhân văn. Nhìn về góc độ thời đại, nhà văn A.Puskin muốn cảnh báo nhân dân Nga dưới chế độ Nga Hoàng: nếu cứ nhẫn nhục chịu đựng thì suốt đời bị áp bức, khổ cực. Đây là một sự cảnh báo có ý nghĩa triết lí về xã hội. Nếu không hiểu hết ý nghĩa của truyện, người đọc có thể có một chút phê phán tính cách nhu nhược của ông lão, không biết đứng lên đấu tranh cho sự công bằng, chống lại cái ác. Nhưng đặt tình huống vào xã hội lúc bấy giờ, người ta mới có thể hiểu được những người nông dân chất phác mộc mạc bị đối xử như thế nào. Câu truyện có ý nghĩa nhân văn và nhân đạo cao cả. Nguồn:
Analyze the character of the Old Fisherman in the work The Old Fisherman and the Goldfish. Instruct In our lives, there are many poor people who work lowly jobs, but they have noble qualities worthy of our study. The old fisherman in the work The Old Fisherman and the Goldfish is such a person. Although the old fisherman was poor, he had a very honest heart and was industrious and hard-working. Regardless of the sun, rain, or cold, he still diligently pulled his nets to make a living. For a person who works pulling a net, catching fish is their goal. Catching fish was not easy for the old man, but when he pulled the fish up he discovered that it was a goldfish. Before the fish's plea, he released the goldfish back into the sea, despite even though both times the net was pulled in, there was only mud and seaweed. Furthermore, his family was very poor, with only "a chipped pig trough" and a "tattered hut". He had to be lazy to take care of each meal, but he still happily released the goldfish back to the sea. The old man's action of releasing the fish back to the sea was very honorable. He released the fish back to the sea not as a promise of gratitude from the fish, but from his noble and honest heart. What a generous heart, helping others selflessly, not calculating the cost or loss, not caring about gratitude. See more: Based on Thep Moi's Vietnamese Bamboo, write a short essay presenting Express your feelings about Vietnamese Bamboo But in everyday life, there are contradictions. The old man has such a noble heart, but his wife is the complete opposite of him. When she learned that the goldfish wanted to help the old man, she scolded him, forcing him to find the fish and serve her according to her wishes. Being scolded by his wife, he only sadly went to the sea to call goldfish for help at his wife's request. As for himself, he just wanted to make a living by his own labor. It can be said that the old man is somewhat weak when living with his greedy and cruel wife. Although he is a man, he has to endure and be patient with his wife's shameless attitude. He was also indignant and did not agree with his wife's extreme greed, but he did not dare to resist and still followed her wishes. Is it because he is such a gentle person, or is evil and greed always overwhelming his kindness and goodness? As soon as you save the goldfish, if you have any wish, the goldfish will immediately help you fulfill that wish. But because he was not greedy by nature, he did not care about the goldfish's promise at all. The five times he went to the sea, he asked goldfish to help him at his wife's request, even though his wife mistreated him, scolded him, chased him away, and considered him a slave. He asked the goldfish to help him, he just endured, did not complain, did not react to his wife's betrayal. He is the image of a worker in the old regime - an oppressive and exploitative regime. In that society, evil is always present and always oppresses and oppresses the good. See more: Analysis of the poem To Express Your Heart (Thuat Hoi) by Pham Ngu Lao From the perspective of fairy tales, the old man is a literary image symbolizing goodness and rich humanity. Looking at the perspective of the times, writer A.Puskin wanted to warn the Russian people under the Tsarist regime: if they patiently endure, they will be oppressed and miserable all their lives. This is a warning with philosophical significance about society. If one does not fully understand the meaning of the story, the reader may be a little critical of the old man's weak personality, not knowing how to stand up to fight for justice and against evil. But by placing the situation in society at that time, people can understand how simple farmers were treated. The story has noble humane and humanitarian meaning. Source:
Nhân vật ông Sáu là bố của bé Thu. Ông phải xa nhà đi làm nhiệm vụ ở chiến trường. Ngày trở về nhà, ông Sáu mong mỏi được ôm con trong lòng và nghe con gọi một tiếng ba mà không được. Phân tích nhân vật ông Sáu sẽ giúp các em hiểu hơn được hoàn cảnh cũng như cảm xúc của nhân vật này. Để các em có thể hình dung ra một bài phân tích nhân vật ông Sáu như thế nào thì hôm nay Kho tàng văn mẫu sẽ hướng dẫn các em lập dàn ý phân tích nhân vật cũng như gợi ý bài văn mẫu cho đề văn này. I. Lập dàn ý phân tích nhân vật ông Sáu 1. Mở bài – Giới thiệu về tác giả Nguyễn Quang Sáng và tác phẩm Chiếc lược ngà. – Giới thiệu về nhân vật ông Sáu. 2. Thân bài phân tích nhân vật ông Sáu Tâm trạng của ông Sáu – Khi ông Sáu đi bộ đội, con gái vẫn còn rất nhỏ. Lúc về thì con bé mới có tám tuổi. Những ngày đi bộ đội, ông Sáu chỉ mong mỏi được trở về gặp vợ con. – Khi bé Thu không nhận ra mình, ông Sáu vô cùng đau khổ và thất vọng. Đã có lúc ông Sáu trở nên cáu gắt. – Sau khi đánh con, ông Sáu vô cùng hối hận. – Mong mỏi lớn nhất của ông Sáu là được nghe con gọi một tiếng ba. – Trước lúc lên đường, được nghe con gọi một tiếng ba khiến ông Sáu cảm thấy vô cùng hạnh phúc. – Ông Sáu dành hết cả tình yêu cho người con thông qua chiếc lược ngà. Cảm nhận về nhân vật ông Sáu – Ông Sáu có tính cách giản dị và tình yêu của ông dành cho con khiến người ta cảm động. – Ông Sáu khiến người đọc thổn thức vì tình phụ tử sâu sắc. – Yêu gia đình nhưng ông Sáu không quên nhiệm vụ với Tổ quốc.Xem thêm: Cảm nhận của em về bài thơ “Hồi hương ngẫu thư" (Hạ Trí Chương) Nghệ thuật – Đặt nhân vật vào tình huống truyện bất ngờ, nhà văn đã giúp ông Sáu bộc lộ được nội tâm nhân vật. – Tác giả đã thể hiện nghệ thuật xây dựng nhân vật tài tình với miêu tả tâm lý sâu sắc. 3. Kết bài – Nêu cảm nhận của em về nhân vật ông Sáu. Bài viết liên quan: >> Phân tích nhân vật bé Thu trong Chiếc lược ngà (Có dàn ý chi tiết) >> Phân tích nhân vật anh thanh niên trong Lặng lẽ Sa Pa (Có dàn ý chi tiết) >> Phân tích nhân vật Vũ Nương trong Chuyện chức phán sự đền Tản Viên (Có dàn ý chi tiết) II. Bài làm phân tích nhân vật ông Sáu Nhà văn Nguyễn Quang Sáng là người con Nam Bộ nên trong các sáng tác của ông cũng có những nét mộc mạc, chất phác của con người Nam Bộ. Trong các sáng tác của ông, truyện ngắn Chiếc lược ngà là tác phẩm được nhiều người biết đến và đánh giá cao. Tác phẩm này được viết vào năm 1966, giữa những ngày kháng chiến chống Mĩ ác liệt. Cũng trong tác phẩm này, hình ảnh người cha hiện lên bình dị mà giàu tình cảm khiến người đọc vô cùng cảm động đó chính là ông Sáu. Ngày ông Sáu đi bộ đội, con gái ông vẫn chưa đầy 1 tuổi. Đến khi ông Sáu trở về thì cô bé đã được hơn 8 tuổi rồi. Thời chiến tranh, thông tin liên lạc còn bị hạn chế nên gần như trong suốt những năm ấy ông Sáu không hề nhìn thấy mặt con. Ông tò mò không biết con mình khi lớn lên đã thay đổi như thế nào. Giờ đây, con ông đã biết gọi ba, ông mong chờ được về nhà để ngắm nhìn con, để được nghe con gọi một tiếng ba. Chính vì vậy mà khi trở về nhà, ông Sáu không giấu nổi cảm xúc của mình nên đã nghẹ ngào gọi tên con gái lúc ông gặp lại bé Thu. Niềm vui đoàn viên hiện rõ trên khuôn mặt của ông Sáu nhưng buồn thay, niềm vui ấy không được bao lâu.Xem thêm: Bình luận 2 câu thơ trong bài Đề Đền Sầm Nghi Đống Phân tích nhân vật ông Sáu Khi ông Sáu bước tới đưa tay đón chờ con chạy lại ôm lấy mình thì bé Thu lại tròn mắt nhìn tỏ rõ sự ngơ ngác và lạ lùng. Giây phút ấy, ông Sáu tỏ rõ sự bối rối của mình và xúc động nghẹn ngào. Ông vội vã và nôn nóng muốn con muốn nhận mình, ông đã nói trong sự nghẹn ngào và lặp đi lặp lại “Ba đây con”. Chính cái sự vồ vập của ông Sáu càng khiến bé Thu trở nên hoảng sợ, cộng thêm vết sẹo trên mặt của ông Sáu làm cho bé Thu vội bỏ chạy. Ông Sáu có chút buồn nhưng ông hiểu được cho hành động của bé Thu lúc đó bởi vì sau nhiều năm, giờ đây bé Thu mới được gặp lại cha. Sẽ rất khó để Thu tiếp nhận ông Sáu ngay từ lần gặp lại đầu tiên. Ông Sáu đã đi từ ngạc nhiên đến đau đớn và rồi hụt hẫng trước hành động của con gái. Càng đau đớn hơn khi mà những người thân khuyên nhủ thế nào bé Thu cũng không chịu nhận ông Sáu. Cái háo hức của ông Sáu giờ đây đã bị dập tắt. Còn gì đau đớn hơn khi không được chính đứa con đẻ của mình thừa nhận? Chính vì bé Thu không nhận cha nên ông Sáu không dám đi đâu xa mà chỉ loanh quanh ở nhà để được gần con. Nghỉ phép chỉ được có 3 ngày mà từ lúc ông Sáu về, bé Thu vẫn luôn xa lánh ông. Thậm chí, bé Thu còn tỏ thái độ thiếu lễ phép với những hành động như gọi cộc lốc, trống không, hẩy miếng cá mà ông Sáu gắp cho nó ra khỏi bát. Ông Sáu đã có lúc nở nụ cười trước hành động trẻ con của bé Thu nhưng đó là nụ cười vô cùng chua sót. Nhưng cũng có lúc, ông Sáu tỏ ra bức tức và đã có lần ông đánh bé Thu. Thế nhưng đánh xong, ông lại thấy vô cùng hối hận. Ông cảm thấy có lỗi vì đã cư xử như vậy với con của mình. Sau đó, ông Sáu cũng chỉ biết lặng lẽ ngắm nhìn con, chờ đợi con.Xem thêm: Phân tích bài thơ Mùa Xuân Nho Nhỏ của Thanh Hải hay nhất Giây phút hạnh phúc mà ông Sáu mong đợi cuối cùng cũng đến. Đó là khi bé Thu nhận ra cha của mình rồi chạy lại ôm chầm lấy chân ông Sáu. Ông Sáu như vỡ òa, bao nhiêu nỗi buồn trong lòng suốt những ngày qua tan biến hết. Hiện lên trên tất cả vẫn là tình yêu của hai cha con. Ông chỉ có ông Sáu và bé Thu khóc, những người chứng kiến cảnh chia ly ấy cũng đều rơi lệ. Thương cho bé Thu, thương cho hai cha con chỉ vừa mới nhận nhau đã phải xa nhau. Khi vào lại chiến trường, ông Sáu đã làm tặng bé Thu một chiếc lược ngà. Chiếc lược chứa đựng tình yêu ông Sáu dành cho con gái bé bỏng. Nhà văn Nguyễn Quang Sáng đã có những miêu tả tâm lí nhân vật chân thực và sống động như vậy, góp phần đưa cảm xúc của người đọc lên cao hơn. Câu chuyện về ông Sáu hẳn đã khiến nhiều người phải xúc động. Người cha nào cũng vậy, dù ít nói, ít thể hiện thì từ trong sâu thẳm vẫn luôn dành tình yêu thương đặc biệt cho con của mình. Qua bài phân tích nhân vật ông Sáu trên đây hẳn các em đã thấy được tình phụ tử thiêng liêng và sâu đậm như thế nào. Hãy dựa vào dàn ý và bài mẫu này để viết bài văn mới cho riêng mình nhé. Thu Thủy
The character Mr. Sau is baby Thu's father. He had to leave home to do duty on the battlefield. The day he returned home, Mr. Sau longed to hold his child in his arms and hear him call Dad, but he couldn't. Analyzing the character of Mr. Sau will help you better understand the situation and emotions of this character. In order for you to be able to imagine what a character analysis essay is like for Mr. Sau, today the Model Literature Treasury will guide you to create an outline for character analysis as well as suggest sample essays for this topic. I. Create an outline to analyze Mr. Sau's character 1. Open the lesson – Introducing author Nguyen Quang Sang and his work The Ivory Comb. – Introducing the character Mr. Sau. 2. The body of the article analyzes the character of Mr. Sau Mr. Sau's mood – When Mr. Sau joined the army, his daughter was still very young. When she returned, she was only eight years old. During his army days, Mr. Sau only wanted to return to see his wife and children. – When little Thu didn't recognize him, Mr. Sau was extremely sad and disappointed. There was a time when Mr. Sau became irritable. – After beating his child, Mr. Sau felt extremely remorseful. – Mr. Sau's biggest wish is to hear his child call him dad. – Before leaving, hearing his son call Dad made Mr. Sau feel extremely happy. – Mr. Sau devoted all his love to his son through an ivory comb. Feelings about the character Mr. Sau – Mr. Sau has a simple personality and his love for his children touches people. – Mr. Sau makes readers sob because of his deep fatherly love. – Loves his family, but Mr. Sau does not forget his duty to the Fatherland. See more: My thoughts on the poem "Return to Homeland" (Ha Tri Chuong) Art – Placing the character in an unexpected story situation, the writer helped Mr. Sau reveal the character's inner feelings. – The author has shown the skillful art of building characters with profound psychological descriptions. 3. Conclusion – Describe your feelings about the character Mr. Sau. Related articles: >> Analysis of Thu's character in The Ivory Comb (With detailed outline) >> Analysis of the young man's character in Quiet Sa Pa (With detailed outline) >> Analysis of the character Vu Nuong in The Story of the Judge of Tan Vien Temple (With detailed outline) II. The article analyzes the character of Mr. Sau Writer Nguyen Quang Sang is a son of the South, so his works also have the rustic and naive features of the Southern people. Among his works, the short story The Ivory Comb is a widely known and highly appreciated work. This work was written in 1966, in the midst of the fierce resistance war against America. Also in this work, the image of a father who appears simple but rich in emotion, making the reader extremely touched, is Mr. Sau. When Mr. Sau joined the army, his daughter was still less than 1 year old. By the time Mr. Sau returned, the girl was over 8 years old. During the war, communication was still limited, so Mr. Sau almost never saw his son's face during those years. He was curious about how his son had changed as he grew up. Now that his son knows how to call dad, he looks forward to coming home to see his child, to hear him call dad. That's why when he returned home, Mr. Sau couldn't hide his feelings so he softly called his daughter's name when he saw little Thu again. The joy of reunion was evident on Mr. Sau's face, but sadly, that joy did not last long. See more: Comment on 2 verses in the article Sam Nghi Dong Temple Analyze Mr. Sau's character When Mr. Sau stepped forward and held out his hand, waiting for his child to run and hug him, little Thu opened her eyes wide, clearly showing bewilderment and strangeness. At that moment, Mr. Sau clearly expressed his confusion and choked up with emotion. He was in a hurry and impatiently wanting his son to accept him. He said in a choked voice and repeated over and over again, "I'm here, son." It was Mr. Sau's aggressiveness that made little Thu panic, combined with the scar on Mr. Sau's face, causing little Thu to quickly run away. Mr. Sau was a bit sad, but he understood little Thu's actions at that time because after many years, little Thu now met her father again. It will be very difficult for Thu to accept Mr. Sau right from the first meeting. Mr. Sau went from surprised to painful and then disappointed by his daughter's actions. It was even more painful when little Thu's relatives advised her, but she still refused to accept Mr. Sau. Mr. Sau's excitement has now been extinguished. What's more painful than not being recognized by your own biological child? Because little Thu did not recognize her father, Mr. Sau did not dare to go anywhere far but only stayed at home to be close to his child. The leave was only for 3 days, but since Mr. Sau's return, little Thu has always shunned him. Little Thu even showed a lack of politeness with actions such as calling out curtly and blankly, and pushing the piece of fish that Mr. Sau picked for her out of the bowl. Mr. Sau once smiled at Thu's childish actions, but it was an extremely bitter smile. But there were times when Mr. Sau became angry and once he beat little Thu. But after fighting, he felt extremely regretful. He felt guilty for behaving like that with his child. After that, Mr. Sau could only quietly watch and wait for him. See more: Analysis of the best poem Little Spring by Thanh Hai The happy moment that Mr. Sau was waiting for finally came. That's when little Thu recognized her father and ran to hug Mr. Sau's leg. Mr. Sau seemed to burst, all the sadness in his heart over the past few days disappeared. Above all is still the love between father and son. Only Mr. Sau and baby Thu cried, and everyone who witnessed the separation also shed tears. I feel sorry for baby Thu, I feel sorry for the father and son who just recognized each other and have to be separated. When he returned to the battlefield, Mr. Sau made Thu an ivory comb as a gift. The comb contains Mr. Sau's love for his little daughter. Writer Nguyen Quang Sang has such realistic and vivid psychological descriptions of characters, contributing to raising the reader's emotions higher. The story of Mr. Sau must have touched many people. Every father is the same, no matter how little he speaks or shows, deep down he always has special love for his children. Through the above analysis of Mr. Sau's character, you must have seen how sacred and profound fatherly love is. Use this outline and sample essay to write your own new essay. Thu Thuy
Phân tích nhân vật ông Tám trong truyện “Đất” của nhà văn Anh Đức Gợi ý Anh Đức là nhà văn Nam Bộ. Cuối năm 1954, ông tập kết ra Bắc; năm 1962, ông trở lại chiến trường miền Nam. Anh Đức viết truyện “Đất” vào tháng 3 – 1964 kể chuyện bà con nông dân Xẻo Đước chống phá quốc sách lập ấp chiến lược của Mỹ – ngụy, quyết tử giữ làng, giữ từng tấc đất của ông cha, thể hiện một tấm lòng kiên trung với Đảng và Cách mạng. Ông Tám là hình ảnh tuyệt đẹp tiêu biểu cho khí phách anh hùng của bà con nông dân và các chiến sĩ du kích Xẻo Đước trong những tháng ngày đen tối và bi hùng ấy. 1. Ông Tám là “một cuốn trong bộ sử biên niên của xứ U Minh Hạ”. Ông đã ngót bảy mươi, thân hình "gân guốc", là người duy nhất ở Xeo Đước “còn để đầu tóc”. Nghĩa là ông Tám vẫn còn giữ nếp sống dân dã cổ xưa. Ông là một trong những người đầu tiên đến Xẻo Đước khai hoang lập ấp, khi “heo rừng còn vô ỉa trong chòi, lúc cọp còn rình rập những người tới khẩn đất, và con chim đi theo cọp đêm đêm, cứ kêu nghe boong boong… krỏi…krỏi". Ông Tám là một lão nông cần cù, làm ăn giỏi. Cái mũi ông rất "tinh nhạy", đúng là “Trời ban cho", nên “chỉ cần ngửi nước rạch buổi sáng ông cũng biết ngay là có heo rừng hoặc chồn đến đây uống nước buổi đêm”. Ông là một tay bẫy heo rừng và chồn cáo "thật kì tài". Con người ông là biểu tượng của sức sống và bao phẩm chất tốt đep của người nông dân miệt vườn như dũng cảm, mạnh mẽ, dẻo dai, bộc trực, chất phác, và tình nghĩa thuỷ chung. Lúc nào ở con người ông cũng toát ra “mùi vị của rừng nê địa, của cây đước, dòng kinh biển, ngọn lửa không bao giờ tắt dưới đất xốp màu mỡ". Giữa thời kì đen tối, dưới ách kìm kẹp của giặc, ông Tám và gia đình cũng như hàng triệu dân ấp dân lân vùng đồng bằng sông Cửu Long "quyết không rời bỏ Đảng và Cách mạng". Bức chân dung ông Tám được Anh Đức khắc hoạ bằng một số nét cổ kính, gân guốc đậm chất thơ và chất tạo hình, tiêu biểu cho bao phẩm chất cao quý của người nông dân Nam Bộ xưa và nay. 2. Lúc nào, ông Tám và gia đình cũng gắn bó mật thiết với Cách mạng, cũng dành cho cán bộ bao tình cảm quý mến đặc biệt. Trong hoàn cảnh xẻo Đước bị Mỹ – nguỵ "đóng thêm bốt, đồng bào bị giặc vây ép gắt gao hơn", nhưng khi gặp chú Bảy cán bộ, ông Tám đã "ôm chầm lấy”.. Và trong bóng tối khi nghe nói đến chuyên mượn xuồng, ông đã sốt sắng bảo: "Được, được, cứ việc lấy đi!”. Giữa đêm trừ tịch đó, ỏng Tám đã không quên bỏ vào dưới sạp phía sau lái xuồng bốn đòn bánh tét lớn và hai gói trà “Thiết La Hán" – món quà tết đầy tình nghĩa của gia đình ông gửi tặng anh em đang hoạt động bí mật trong cứ. Tình quân dân, tình cảm cách mạng lúc nào cũng nồng cháy trong tâm hồn ông Tám, trong lòng bà con cô bác Xẻo Đước; ngọn lửa ấy đã toả sáng và bùng lên khắp các xóm làng, dòng kênh thời đồng khởi.Xem thêm: Trình bày quan điểm của em về quan niệm chọn nghề nghiệp trong tương lai: chọn nghề phù hợp với năng lực thực tế của mình; chọn nghề đang được ưa chuộng trong đời sống hay nhất quyết theo đuổi nghề mà mình vẫn thiết tha yêu thích3. Đọc truyện "Đất" của Anh Đức, chúng ta vô cùng ngưỡng mộ và kính phục khí phách hiên ngang, lẫm liệt của ông Tám. Giặc dồn dân lập ấp chiến lược, âm mưu "tát cạn nước bắt cá" vô cùng thâm độc. Trước hành dộng điên cuồng của lũ giặc, ông Tám dặn vợ con: "Nhà mình ở đầu xóm mà núng thế thì không làm gương được cho lối xóm". Năm lần bảy lượt, bị giặc o ép, ông Tám đều mưu trí, dũng cảm “kiếm cách lướt qua hết”. Khi bọn lính tráng kéo tới "hùng hổ dỡ nhà", ông Tám nói cho chúng biết “tôi không đi đâu!", rồi ông đem cây mác dài bén ngót ra “phóng cắm giữa nhà", nói một cách tỉnh khô: "Tôi nói thiệt chứ không phải giỡn đâu. Chú nào leo lên rút một cọng lá tôi chém cho coi!". Hành động kiên quyết ấy đã làm cho bọn giặc tuy súng đạn lăm lăm trong tay mà "không thằng nào dám leo lên dỡ nhà”. Hành động kiên quyết ấy của ông Tám đã làm gương cho mẹ con thím Sáu Ơn chống lại quyết liệt bọn lính, buộc chúng "buông mồi lửa, ngẩn ngơ" bó tay kéo về đồn. Để giữ đất, bà con Xẻo Đước cũng như hàng triệu người nông dân Nam Bộ đã dũng cảm, kiên cường chống lại súng đạn bọn cướp nước và bè lũ tay sai bán nước. Để giữ đất, ông Tám đã đem máu xương và tính mạng của mình để chống lại thằng quận trường Sông Đốc, thằng Đởm, "chánh cống ác ôn”. Cuộc đối đầu giữa thằng Đởm – thằng gian ác có tiếng với cha con ông Tám, với bà con cô bác Xẻo Đước là vô cùng ác liệt, khốc liệt, dữ dội. Mới bước vào sân nhà ông Tám, thằng Đởm nổ súng, "nó kề miệng thổi phù phù vô cây nòng côn 12” rồi thét: "Ai là chủ nhà đây?". Hắn xộc vô, ngó quanh quất, ngó ông Tám, đoạn vẫy súng. Hắn hách dịch hỏi ông Tám về lí do hắn tới nhà ông. Hắn hung hăng tự đắc, “ngó mấy tên lính, nháy mắt". Hắn ngồi lên ván, "trẻo ngoảy chân, đốt thuốc thơm hút". Hắn giục ông Tám "lo cụ bị đồ đạc đi". Hắn quyết dùng súng đạn uy hiếp ông Tám và người dân Xẻo Đước để lập ấp chiến lược.Xem thêm: Phân tích đoạn thơ Hai Bà Trưng trích Đại Nam quốc sử diễn ca Trái lại, ông Tám rất bình tĩnh, đĩnh đạc, ung dung. Ông mở tủ thờ lấy cái áo dài bằng xuyến đen ra mặc, vừa bận áo vừa vuốt từng nếp nhăn. Chiếc áo dài ấy, ông Tám chỉ mặc khi có giỗ kị. Ông "xồ đầu tóc, xoã ra”. Ông không thèm ngó ngàng đến thằng ác ôn. Ông trang trọng rút mấy nén nhang, sai con trai đốt đèn lên. Ông Tám thắp nhang, quỳ xuống trước bàn thờ, lầm rầm khấn. Tiếng khấn của ông Tám là lời nguyền thiêng liêng quyết nối chí tổ tiên ông cha, quyết "xin chết” để giữ đất, để "cha mẹ và cá vị liệt sĩ ngó thấy”. Đọc truyện "Đất”, ta vô cùng xúc động khi nghe ông Tám khấn nguyền. Ta tưởng như đó là tiếng của các nghĩa sĩ Cần Giuộc, của Trương Công Định… một trăm năm mươi năm về trước vọng về: “Thưa ông bà, cha mẹ, thưa các hương hồn liệt sĩ, nhà cửa đất đai đây là của ông bà, cha mẹ và cách mạng đã tạo lập cho con. Bữa nay người ta tới ép buộc con phải bỏ đi. Con không thể phụ bạc công ơn cha me, công ơn cách mạng. Vậy con xin chết cho cha mẹ và các vị liệt sĩ ngó thấy. Khấu đầu xin cha mẹ và các vị chứng miêng cho…”. Sau đó là những giây phút rùng rợn. Thằng Đờm ác ôn kêu lên: “Ông già câm miệng". Ông Tám khấn vái xong, bước tới góc nhà “chụp cây mác”, bước tới trước mặt thằng giặc khát máu hỏi hắn "muốn gì?". Súng thằng Đởm chĩa vô ngực ông Tám. ông Tám chĩa mũi mác nhọn hoắt về phía tên ác ôn. Anh Hai Cần "vở ngay cây búa bửa củi giấu sau cánh cửa”. Bọn lính "lên đạn rốp rốp”. Ông Tám “nhích mũi mác tới”. Thằng đồn trưởng "lùi lại", tay súng nó "run lẩy bẩy”. Phút giây quyết liệt, dữ dội. Cái gì sẽ xảy ra? Thằng Đởm nổ súng "đùng”. Ông Tám vẫn đi tới khi máu chảy xuống mặt. Ông vẫn đi tới, mũi mác chĩa lên, thằng đổn trưởng cứ lùi, buông rơi khẩu súng, rú lên bỏ chạy. Và cây búa trong tay anh Hai Cần – người con trai ông Tám "đã bay theo". Đây là cái chết thằng ác ôn, tên giặc đi cướp đất: "Lưỡi búa cắm ngập vô gáy thằng đồn trưởng". “Nó kêu trời ơi" rồi té sấp, hai tay vã xuống nền nhà”. Kẻ đã bán linh hồn cho quỷ dữ phải đền tội, đúng như hắn đã thề độc khi bước chân tới Xẻo Đước: “Tôi không lùa được dân Xẻo Đước thì tôi chết sao?” Xem thêm: Phân tích bài Tây Tiến của nhà thơ Quang Dũng Anh Đức đã tái hiện cuộc chiến đấu giữ đất vô cùng tráng liệt. Lời thề thiêng liêng và tư thế hiên ngang, lẫm liệt của ông Tám, mũi mác nhọn hoắt và lưỡi búa của hai cha con ông Tám đã chĩa thẳng vào mặt, đã bay theo và cắm phập vào gáy tên ác ôn. Máu ông Tám đã đổ xuống, để giữ đất, để nêu cao truyền thống anh hùng bất khuất của người nông dân Nam Bộ. Khuynh hướng sử thi, âm điệu anh hùng ca và cảm hứng lãng mạn dào dạt trên trang văn của Anh Đức. "Máu kêu trả máu, đầu van trả đầu", "Lớp cha trước, lớp con sau. Đã thành đồng chí chung câu quân hành”, đó là những vần thơ của Tố Hữu mà nhiều người trong chúng ta chợt nhớ khi đọc truyện "Đất" của Anh Đức, khi nghĩ về tư thế chiến đấu hiên ngang, lẫm liệt anh hùng của ông Tám, của anh Hai Cần. Ông Tám là một nhân vật tuyệt đẹp mang tính chất điển hình cho những phẩm chất cao quý của người nông dân Nam Bộ: lao động cần cù giỏi giang, tình nghĩa thủy chung, dũng cảm hi sinh chiến đấu, để giữ làng giữ đất. Lòng yêu nước, yêu Đảng, yêu Cách mạng của ông Tám son sắt và chói lọi. Anh Đức đã sáng tạo nên một tác phẩm đặc sắc: có sức khái quát cao, chủ đề sâu sắc, cốt truyện hấp dần, giọng kể đậm đà, xúc động, ngôn ngữ và nhân vật đậm chất Nam Bộ đầy ấn tượng. Tình huống của truyện rất hấp dần, nhất là trong cảnh ông Tám đối mặt với tên ác ôn, khi lưỡi búa trong tay anh Hai Cần bay cắm phập vào gáy tên giặc khát máu. Máu ông Tám đã đổ xuống, máu của hàng ngàn, hàng vạn người nông dân Nam Bộ đã đổ xuống, để đất nở hoa, xanh tươi cây trái bốn mùa. Chỉ có máu và mồ hôi mới làm cho đất màu mỡ, làm cho giang sơn gấm vóc tươi đẹp và bền vững đời đời. Truyện "Đất” của Anh Đức còn mang ý nghĩa là khúc tráng ca Tự do như anh Bảy, một cán bộ kháng chiến nằm vùng khi trở lại Xẻo Đước đã nói: “Tự do như có thể sờ nắm được… Tự do ở bước chân tôi đặt lên con đường đất. Và tự do được đánh dấu chỗ cổng nhà mà ngày trước bọn giặc vẫn thường rậm rịch kéo qua”.. Vanmau.edu.vn
Phân tích nhân vật ông Tám trong truyện “Đất” của nhà văn Anh Đức Gợi ý Anh Đức là nhà văn Nam Bộ. Cuối năm 1954, ông tập kết ra Bắc; năm 1962, ông trở lại chiến trường miền Nam. Anh Đức viết truyện “Đất” vào tháng 3 – 1964 kể chuyện bà con nông dân Xẻo Đước chống phá quốc sách lập ấp chiến lược của Mỹ – ngụy, quyết tử giữ làng, giữ từng tấc đất của ông cha, thể hiện một tấm lòng kiên trung với Đảng và Cách mạng. Ông Tám là hình ảnh tuyệt đẹp tiêu biểu cho khí phách anh hùng của bà con nông dân và các chiến sĩ du kích Xẻo Đước trong những tháng ngày đen tối và bi hùng ấy. 1. Ông Tám là “một cuốn trong bộ sử biên niên của xứ U Minh Hạ”. Ông đã ngót bảy mươi, thân hình "gân guốc", là người duy nhất ở Xeo Đước “còn để đầu tóc”. Nghĩa là ông Tám vẫn còn giữ nếp sống dân dã cổ xưa. Ông là một trong những người đầu tiên đến Xẻo Đước khai hoang lập ấp, khi “heo rừng còn vô ỉa trong chòi, lúc cọp còn rình rập những người tới khẩn đất, và con chim đi theo cọp đêm đêm, cứ kêu nghe boong boong… krỏi…krỏi". Ông Tám là một lão nông cần cù, làm ăn giỏi. Cái mũi ông rất "tinh nhạy", đúng là “Trời ban cho", nên “chỉ cần ngửi nước rạch buổi sáng ông cũng biết ngay là có heo rừng hoặc chồn đến đây uống nước buổi đêm”. Ông là một tay bẫy heo rừng và chồn cáo "thật kì tài". Con người ông là biểu tượng của sức sống và bao phẩm chất tốt đep của người nông dân miệt vườn như dũng cảm, mạnh mẽ, dẻo dai, bộc trực, chất phác, và tình nghĩa thuỷ chung. Lúc nào ở con người ông cũng toát ra “mùi vị của rừng nê địa, của cây đước, dòng kinh biển, ngọn lửa không bao giờ tắt dưới đất xốp màu mỡ". Giữa thời kì đen tối, dưới ách kìm kẹp của giặc, ông Tám và gia đình cũng như hàng triệu dân ấp dân lân vùng đồng bằng sông Cửu Long "quyết không rời bỏ Đảng và Cách mạng". Bức chân dung ông Tám được Anh Đức khắc hoạ bằng một số nét cổ kính, gân guốc đậm chất thơ và chất tạo hình, tiêu biểu cho bao phẩm chất cao quý của người nông dân Nam Bộ xưa và nay. 2. Lúc nào, ông Tám và gia đình cũng gắn bó mật thiết với Cách mạng, cũng dành cho cán bộ bao tình cảm quý mến đặc biệt. Trong hoàn cảnh xẻo Đước bị Mỹ – nguỵ "đóng thêm bốt, đồng bào bị giặc vây ép gắt gao hơn", nhưng khi gặp chú Bảy cán bộ, ông Tám đã "ôm chầm lấy”.. Và trong bóng tối khi nghe nói đến chuyên mượn xuồng, ông đã sốt sắng bảo: "Được, được, cứ việc lấy đi!”. Giữa đêm trừ tịch đó, ỏng Tám đã không quên bỏ vào dưới sạp phía sau lái xuồng bốn đòn bánh tét lớn và hai gói trà “Thiết La Hán" – món quà tết đầy tình nghĩa của gia đình ông gửi tặng anh em đang hoạt động bí mật trong cứ. Tình quân dân, tình cảm cách mạng lúc nào cũng nồng cháy trong tâm hồn ông Tám, trong lòng bà con cô bác Xẻo Đước; ngọn lửa ấy đã toả sáng và bùng lên khắp các xóm làng, dòng kênh thời đồng khởi.Xem thêm: Trình bày quan điểm của em về quan niệm chọn nghề nghiệp trong tương lai: chọn nghề phù hợp với năng lực thực tế của mình; chọn nghề đang được ưa chuộng trong đời sống hay nhất quyết theo đuổi nghề mà mình vẫn thiết tha yêu thích3. Đọc truyện "Đất" của Anh Đức, chúng ta vô cùng ngưỡng mộ và kính phục khí phách hiên ngang, lẫm liệt của ông Tám. Giặc dồn dân lập ấp chiến lược, âm mưu "tát cạn nước bắt cá" vô cùng thâm độc. Trước hành dộng điên cuồng của lũ giặc, ông Tám dặn vợ con: "Nhà mình ở đầu xóm mà núng thế thì không làm gương được cho lối xóm". Năm lần bảy lượt, bị giặc o ép, ông Tám đều mưu trí, dũng cảm “kiếm cách lướt qua hết”. Khi bọn lính tráng kéo tới "hùng hổ dỡ nhà", ông Tám nói cho chúng biết “tôi không đi đâu!", rồi ông đem cây mác dài bén ngót ra “phóng cắm giữa nhà", nói một cách tỉnh khô: "Tôi nói thiệt chứ không phải giỡn đâu. Chú nào leo lên rút một cọng lá tôi chém cho coi!". Hành động kiên quyết ấy đã làm cho bọn giặc tuy súng đạn lăm lăm trong tay mà "không thằng nào dám leo lên dỡ nhà”. Hành động kiên quyết ấy của ông Tám đã làm gương cho mẹ con thím Sáu Ơn chống lại quyết liệt bọn lính, buộc chúng "buông mồi lửa, ngẩn ngơ" bó tay kéo về đồn. Để giữ đất, bà con Xẻo Đước cũng như hàng triệu người nông dân Nam Bộ đã dũng cảm, kiên cường chống lại súng đạn bọn cướp nước và bè lũ tay sai bán nước. Để giữ đất, ông Tám đã đem máu xương và tính mạng của mình để chống lại thằng quận trường Sông Đốc, thằng Đởm, "chánh cống ác ôn”. Cuộc đối đầu giữa thằng Đởm – thằng gian ác có tiếng với cha con ông Tám, với bà con cô bác Xẻo Đước là vô cùng ác liệt, khốc liệt, dữ dội. Mới bước vào sân nhà ông Tám, thằng Đởm nổ súng, "nó kề miệng thổi phù phù vô cây nòng côn 12” rồi thét: "Ai là chủ nhà đây?". Hắn xộc vô, ngó quanh quất, ngó ông Tám, đoạn vẫy súng. Hắn hách dịch hỏi ông Tám về lí do hắn tới nhà ông. Hắn hung hăng tự đắc, “ngó mấy tên lính, nháy mắt". Hắn ngồi lên ván, "trẻo ngoảy chân, đốt thuốc thơm hút". Hắn giục ông Tám "lo cụ bị đồ đạc đi". Hắn quyết dùng súng đạn uy hiếp ông Tám và người dân Xẻo Đước để lập ấp chiến lược.Xem thêm: Phân tích đoạn thơ Hai Bà Trưng trích Đại Nam quốc sử diễn ca Trái lại, ông Tám rất bình tĩnh, đĩnh đạc, ung dung. Ông mở tủ thờ lấy cái áo dài bằng xuyến đen ra mặc, vừa bận áo vừa vuốt từng nếp nhăn. Chiếc áo dài ấy, ông Tám chỉ mặc khi có giỗ kị. Ông "xồ đầu tóc, xoã ra”. Ông không thèm ngó ngàng đến thằng ác ôn. Ông trang trọng rút mấy nén nhang, sai con trai đốt đèn lên. Ông Tám thắp nhang, quỳ xuống trước bàn thờ, lầm rầm khấn. Tiếng khấn của ông Tám là lời nguyền thiêng liêng quyết nối chí tổ tiên ông cha, quyết "xin chết” để giữ đất, để "cha mẹ và cá vị liệt sĩ ngó thấy”. Đọc truyện "Đất”, ta vô cùng xúc động khi nghe ông Tám khấn nguyền. Ta tưởng như đó là tiếng của các nghĩa sĩ Cần Giuộc, của Trương Công Định… một trăm năm mươi năm về trước vọng về: “Thưa ông bà, cha mẹ, thưa các hương hồn liệt sĩ, nhà cửa đất đai đây là của ông bà, cha mẹ và cách mạng đã tạo lập cho con. Bữa nay người ta tới ép buộc con phải bỏ đi. Con không thể phụ bạc công ơn cha me, công ơn cách mạng. Vậy con xin chết cho cha mẹ và các vị liệt sĩ ngó thấy. Khấu đầu xin cha mẹ và các vị chứng miêng cho…”. Sau đó là những giây phút rùng rợn. Thằng Đờm ác ôn kêu lên: “Ông già câm miệng". Ông Tám khấn vái xong, bước tới góc nhà “chụp cây mác”, bước tới trước mặt thằng giặc khát máu hỏi hắn "muốn gì?". Súng thằng Đởm chĩa vô ngực ông Tám. ông Tám chĩa mũi mác nhọn hoắt về phía tên ác ôn. Anh Hai Cần "vở ngay cây búa bửa củi giấu sau cánh cửa”. Bọn lính "lên đạn rốp rốp”. Ông Tám “nhích mũi mác tới”. Thằng đồn trưởng "lùi lại", tay súng nó "run lẩy bẩy”. Phút giây quyết liệt, dữ dội. Cái gì sẽ xảy ra? Thằng Đởm nổ súng "đùng”. Ông Tám vẫn đi tới khi máu chảy xuống mặt. Ông vẫn đi tới, mũi mác chĩa lên, thằng đổn trưởng cứ lùi, buông rơi khẩu súng, rú lên bỏ chạy. Và cây búa trong tay anh Hai Cần – người con trai ông Tám "đã bay theo". Đây là cái chết thằng ác ôn, tên giặc đi cướp đất: "Lưỡi búa cắm ngập vô gáy thằng đồn trưởng". “Nó kêu trời ơi" rồi té sấp, hai tay vã xuống nền nhà”. Kẻ đã bán linh hồn cho quỷ dữ phải đền tội, đúng như hắn đã thề độc khi bước chân tới Xẻo Đước: “Tôi không lùa được dân Xẻo Đước thì tôi chết sao?” Xem thêm: Phân tích bài Tây Tiến của nhà thơ Quang Dũng Anh Đức đã tái hiện cuộc chiến đấu giữ đất vô cùng tráng liệt. Lời thề thiêng liêng và tư thế hiên ngang, lẫm liệt của ông Tám, mũi mác nhọn hoắt và lưỡi búa của hai cha con ông Tám đã chĩa thẳng vào mặt, đã bay theo và cắm phập vào gáy tên ác ôn. Máu ông Tám đã đổ xuống, để giữ đất, để nêu cao truyền thống anh hùng bất khuất của người nông dân Nam Bộ. Khuynh hướng sử thi, âm điệu anh hùng ca và cảm hứng lãng mạn dào dạt trên trang văn của Anh Đức. "Máu kêu trả máu, đầu van trả đầu", "Lớp cha trước, lớp con sau. Đã thành đồng chí chung câu quân hành”, đó là những vần thơ của Tố Hữu mà nhiều người trong chúng ta chợt nhớ khi đọc truyện "Đất" của Anh Đức, khi nghĩ về tư thế chiến đấu hiên ngang, lẫm liệt anh hùng của ông Tám, của anh Hai Cần. Ông Tám là một nhân vật tuyệt đẹp mang tính chất điển hình cho những phẩm chất cao quý của người nông dân Nam Bộ: lao động cần cù giỏi giang, tình nghĩa thủy chung, dũng cảm hi sinh chiến đấu, để giữ làng giữ đất. Lòng yêu nước, yêu Đảng, yêu Cách mạng của ông Tám son sắt và chói lọi. Anh Đức đã sáng tạo nên một tác phẩm đặc sắc: có sức khái quát cao, chủ đề sâu sắc, cốt truyện hấp dần, giọng kể đậm đà, xúc động, ngôn ngữ và nhân vật đậm chất Nam Bộ đầy ấn tượng. Tình huống của truyện rất hấp dần, nhất là trong cảnh ông Tám đối mặt với tên ác ôn, khi lưỡi búa trong tay anh Hai Cần bay cắm phập vào gáy tên giặc khát máu. Máu ông Tám đã đổ xuống, máu của hàng ngàn, hàng vạn người nông dân Nam Bộ đã đổ xuống, để đất nở hoa, xanh tươi cây trái bốn mùa. Chỉ có máu và mồ hôi mới làm cho đất màu mỡ, làm cho giang sơn gấm vóc tươi đẹp và bền vững đời đời. Truyện "Đất” của Anh Đức còn mang ý nghĩa là khúc tráng ca Tự do như anh Bảy, một cán bộ kháng chiến nằm vùng khi trở lại Xẻo Đước đã nói: “Tự do như có thể sờ nắm được… Tự do ở bước chân tôi đặt lên con đường đất. Và tự do được đánh dấu chỗ cổng nhà mà ngày trước bọn giặc vẫn thường rậm rịch kéo qua”.. Vanmau.edu.vn