vi
stringlengths 846
10.5k
| en
stringlengths 799
10.5k
|
---|---|
Phân tích và đánh giá hình tượng văn sĩ Hoàng trong tác phẩm Đôi mắt của Nam Cao
Gợi ý
Nghĩ lại những thành tựu văn học ở nước ta từ sau Cách mạng tháng Tám, đến những ngày đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, không ai không nhớ đến truyện ngắn Đôi mắt của Nam Cao. Những sáng tác hồi ấy, vừa phục vụ kịp thời, vừa đứng lại được với thời gian như Đôi mắt phải nói rằng chưa có bao nhiêu.
Truyện Đôi mắt đã tạo ra được một nhân vật khó quên: văn sĩ Hoàng. Mỗi lần đọc lại tác phẩm, gặp lại nhân vật này, tôi cứ phải bật cười một mình và thầm thốt lên: chà, cái anh chàng này, y như một người có thật mà mình đã gặp ở đâu rồi vậy!
Những nhân vật có phẩm chất nghệ thuật như vậy, thường giống nhau ở đặc điểm này: có những chi tiết có vẻ ngẫu nhiên thậm chí vô nghĩa nữa. Vậy mà không thể hỉnh dung ra nhân vật ấy đúng như bản chất của nó. nếu gạt bỏ đi những chi tiết ấy. Nghĩa là rất ngẫu nhiên mà lại rất tất yếu. Có vẻ vô nghĩa đấy, nhưng không có không được.
Trong Đôi mắt, Độ lần nào đến nhà Hoàng cũng bắt gặp một con chó bécgiê. ở Hà Nội cũng thế, ở nơi tản cư cũng vậy. Điều ấy có gì là đặc biệt đâu! Ấy thế nhưng chúng ta không thể hình dung ra cái anh văn sĩ kiếm chợ đen này đúng như kiểu người và cung cách sống của anh ta nếu không có hình ảnh cái con chó giống Đức to lớn ấy. Cũng như anh ta nhất thiết phải có thân hinh to béo, nặng nể, bước đi thong thả, khệnh khạng, bơi hai cánh tay ngắn ngủn kềnh kệch ra hai bên; nhất thiết phải mặc bộ quấn áo ngủ màu xanh nhạt, phủ bên ngoài bộ ria cắt xén ngay ngắn trên mép; nhất thiết phải ngà người ra phía sau và kêu lên những tiếng lâm ly trong cổ họng khi nhận ra người bạn cũ; nhất thiết phải thích Tam quốc chí và khoái nhất nhân vật Tào Tháo; nhất thiết phải cùng cục trong cổ như con gà trống;.v.v…Xem thêm: Viết đoạn văn phân tích thành công về một nét nghệ thuật của bài thơ “Bánh trôi nước” của Hồ Xuân Hương, trong đó có sử dụng hai thành ngữ Điểu thú vị ở đây là chi tiết kia không chỉ làm cho nhân vật trở thành cụ thể, sinh động, hay nói như các nhà lý luận vãn học, không chỉ đóng vai cá thể hoá, cá tính hoá nhân vật. Chúng còn thể hiện một cách sâu sắc bản chất xã hội của tính cách, nghĩa là đem đến cho nó giá trị điển hình.
Phải nói rằng, bản thân việc nuôi chó bécgiê, cũng như cái thú nằm trong màn đọc Tam quốc chí, cái thú ăn mía ướp hoa bưởi v.v… bản thân nó chả có "vấn đề" gì hết. Trong những điều kiện sinh hoạt nào đó, đấy còn có thể xem là những cách giải trí lành mạnh và rất văn hoá nữa. Nhưng đặt vào hoàn cảnh cụ thể của nhân vật Hoàng trong truyện Đôi mắt, thì những chi tiết kia quả đã bộc lộ cả một thái độ sống, hơn nữa, một bản chất chính trị của một loại trí thức trưởng giả rất khó hoà nhập với cuộc kháng chiến. Vì thế, không khí của cuộc kháng chiến dù có sôi nổi đến thế nào, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân dù có đổi thay dữ dội đến đâu, vẫn không mảy may tác động đến nề nếp sinh hoạt của vợ chồng anh ta. Nghĩa là vẫn cứ phải nuôi con chó bécgiẻ như thế, vẫn cứ phải xây một dinh cơ riêng biệt rộng rãi như thế, vẫn cứ nhơn nhơn sống một kiểu sổng an nhàn như thế. Ban ngày, nếu không viì quá buồn mà phải tìm đến mấy ông bạn tuần phủ. đốc học về hưu nào đó để đánh tổ tôm. thì chỉ muốn đóng chặt cổng lại để khỏi bị quấy nhiễu bởi mấy ông Ủy ban hay tự vệ trong làng đến tuyên truyền kháng chiến. Còn buổi tối thỉ một nếp sống "thiêng liêng" không gì phá vỡ được là… chui vào chăn ấm, buông màn tuyn trắng toát, vừa hút thuốc lá thơm, vừa đọc Tam quốc chí trước khi đánh một giấc ngon lành đến sáng, anh ta đã sống giữa cuộc kháng chiến mà hoàn toàn cách biệt với cuộc kháng chiến cho nên Độ bước vào nhà anh ta, dù ở nơi tản cư, mà như bước vào một thế giới xa lạ hẳn với bên ngoài, và bao nhiêu hy vọng vận động anh ta đi làm báo kháng chiến với mình bổng chốc tan thành mây khói.Xem thêm: Từ câu chuyện về Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn (Trích Đại Việt sử kí toàn thư) và Thái sư Trần Thủ Độ (trích Đại Việt sử kí toàn thư), anh chị có suy nghĩ gì về nhân cách và vai trò của người lãnh đạo trong cuộc sống hiện nay
Người ta nói rằng Đôi mắt là chuyện có thật. Khi cuộc kháng chiến chống Pháp mới bùng nổ, Nam Cao công tác trong một tờ báo địa phương, quê ông. Hồi ấy, ông có đi lại thăm viếng một nhà văn nào đó ở Hà Nội tản cư ra. Ai đã từng biết lối viết văn của Nam Cao hẳn thấy điều ấy chẳng có gì lạ. Xưa nay, viết về tầng lớp tri thức, vãn nghệ sĩ, hay viết về nông dân, địa chủ, ông vẫn thường dựa vào người thực, việc thực (Ngòi bút chân thực đến nghiêm khắc ấy không muốn tưởng tượng của mình tung hoành quá tự do chăng?). Nhưng sự thực ấy đã được nhìn từ chỗ đứng nào, từ ánh Seing của những tư tưởng gì? Muốn biết điều này, cần nhớ rằng, Đôi mắt được viết vào mùa xuân năm 1948 tại Việt Bắc, vài tháng sau Nam Cao được kết nạp vào Đảng. Đó cũng là thời điểm quân dân ta vừa liên tiếp ghi được những chiến công vang dội: Chợ Đồn, Chợ Rã, Bông Lau, Sông Lô, v.v… bẻ gãy cuộc tấn công đại quy mô của giặc Pháp lên Việt Bắc thu đông năm 1947. Đôi mắt được viết xen kẽ với một tác phẩm khác cũng rất đặc sắc của Nam Cao: Nhất kí ở rừng. Đọc tác phẩm này, thấy tâm trạng nhà văn lúc bấy giờ đang náo nức một niềm tin tưởng và tự hào ở cuộc kháng chiến mà ông đã thực sự góp phần vào, đồng thời dạt dào những tình cảm đấy cảm phục trước vẻ đẹp tâm hồn cao cả của đồng bào Việt Bắc mà ông lần đầú được tiếp xúc. Ông ghi vào nhật kí ngày 3 – 11 – 1947: "Gần gũi những người Dao đói rách và dốt nát, thấy họ rất biết yêu cách mạng, làm cách mạng chân thành, sốt sáng và tận tuy, chúng tôi thấy tin tưởng vô cùng. So sánh họ với mấy thăng "bổ vẩu" mà Khan gọi là tri thức nửa mùa, Khan rất bất bình đối với hạng này. Chúng nó chẳng yêu một cải gì. Chúng nó chỉ tài chửi đổng" ).Xem thêm: Cảm nghĩ về thiên nhiên và đời sống của con người trong thời khắc chuyển mùa sang thu Hoàng là một trong nhưng thằng "bổ vẩu” có "tài chửi đổng" ấy chăng? Anh ta chẳng làm gì hết, trong khi mọi người nỗ lực tham gia kháng chiến ích kỉ. đai hạng nhưng động mở miệng là chửi thiên hạ ngu dốt, bần tiện – Mà sao những người như thế lại chúa là hay nhân danh đạo đức, nhân nghĩa? Này đây, hãy nghe người vợ Hoàng phụ họa với những nhận xét của chồng về sự mà chị ta goi là "thiếu tình nghĩa của ngươi dân quê": "họ làm chính chúng tôi cũng đâm lo. Có thể nói rằng trong một trăm người thì chín mươi chín người cho rằng Tây không đời nào dám đánh minh. Mãi đến lúc có lệnh tản cư tôi vẫn cho là mình tản cư để doạ nó thôi. Thế rồi, đùng một cái, dánh nhau. Chúng tôi chạy được người chứ của thi chạy làm sao dược. May mà còn vớt vắt được ít tiền. Một ít hàng để ở cái trại của chúng tôi ở ngoại thành. Kheo làm thi ăn được độ một năm. Đến lúc hết tất nhiên là phải khổ rồi. Chỉ sợ đến lức ấy họ lại mỉa lại. Thành thử bây giờ lý ra thì có muốn ăn một con gà chưa đến nỗi không mua nổi mà ăn, nhưng ăn lại sợ người ta biết, sau này người ta nói cho thì nhục. Họ tàn nhẫn lắm cơ bác ạ”
Tôi chắc, khi ôn lại trong tâm trí mình câu nói ấy, Nam Cao đến lộn ruột lên được. Nhưng giọng kể chuyện cứ thản nhiên như không. Ấy, bản lĩnh của ngòi bút Nam Cao là thế: ỏng nén chặt tình cảm của mình lại để cho người đọc tự tìm ra ý nghĩa mà càng thêm phẫn nộ – phẫn nộ mà cứ phải bật cười – trước một thái độ hết sức ích kỷ mà cứ nhơn nhơn và ngọt xớt như không.
Hoàng quà là một nhân vật xuất sắc nhất trong truyện Đôi mắt của Nam Cao.
Vanmau.edu.vn
|
Phân tích và đánh giá hình tượng văn sĩ Hoàng trong tác phẩm Đôi mắt của Nam Cao
Gợi ý
Nghĩ lại những thành tựu văn học ở nước ta từ sau Cách mạng tháng Tám, đến những ngày đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, không ai không nhớ đến truyện ngắn Đôi mắt của Nam Cao. Những sáng tác hồi ấy, vừa phục vụ kịp thời, vừa đứng lại được với thời gian như Đôi mắt phải nói rằng chưa có bao nhiêu.
Truyện Đôi mắt đã tạo ra được một nhân vật khó quên: văn sĩ Hoàng. Mỗi lần đọc lại tác phẩm, gặp lại nhân vật này, tôi cứ phải bật cười một mình và thầm thốt lên: chà, cái anh chàng này, y như một người có thật mà mình đã gặp ở đâu rồi vậy!
Những nhân vật có phẩm chất nghệ thuật như vậy, thường giống nhau ở đặc điểm này: có những chi tiết có vẻ ngẫu nhiên thậm chí vô nghĩa nữa. Vậy mà không thể hỉnh dung ra nhân vật ấy đúng như bản chất của nó. nếu gạt bỏ đi những chi tiết ấy. Nghĩa là rất ngẫu nhiên mà lại rất tất yếu. Có vẻ vô nghĩa đấy, nhưng không có không được.
Trong Đôi mắt, Độ lần nào đến nhà Hoàng cũng bắt gặp một con chó bécgiê. ở Hà Nội cũng thế, ở nơi tản cư cũng vậy. Điều ấy có gì là đặc biệt đâu! Ấy thế nhưng chúng ta không thể hình dung ra cái anh văn sĩ kiếm chợ đen này đúng như kiểu người và cung cách sống của anh ta nếu không có hình ảnh cái con chó giống Đức to lớn ấy. Cũng như anh ta nhất thiết phải có thân hinh to béo, nặng nể, bước đi thong thả, khệnh khạng, bơi hai cánh tay ngắn ngủn kềnh kệch ra hai bên; nhất thiết phải mặc bộ quấn áo ngủ màu xanh nhạt, phủ bên ngoài bộ ria cắt xén ngay ngắn trên mép; nhất thiết phải ngà người ra phía sau và kêu lên những tiếng lâm ly trong cổ họng khi nhận ra người bạn cũ; nhất thiết phải thích Tam quốc chí và khoái nhất nhân vật Tào Tháo; nhất thiết phải cùng cục trong cổ như con gà trống;.v.v…Xem thêm: Viết đoạn văn phân tích thành công về một nét nghệ thuật của bài thơ “Bánh trôi nước” của Hồ Xuân Hương, trong đó có sử dụng hai thành ngữ Điểu thú vị ở đây là chi tiết kia không chỉ làm cho nhân vật trở thành cụ thể, sinh động, hay nói như các nhà lý luận vãn học, không chỉ đóng vai cá thể hoá, cá tính hoá nhân vật. Chúng còn thể hiện một cách sâu sắc bản chất xã hội của tính cách, nghĩa là đem đến cho nó giá trị điển hình.
Phải nói rằng, bản thân việc nuôi chó bécgiê, cũng như cái thú nằm trong màn đọc Tam quốc chí, cái thú ăn mía ướp hoa bưởi v.v… bản thân nó chả có "vấn đề" gì hết. Trong những điều kiện sinh hoạt nào đó, đấy còn có thể xem là những cách giải trí lành mạnh và rất văn hoá nữa. Nhưng đặt vào hoàn cảnh cụ thể của nhân vật Hoàng trong truyện Đôi mắt, thì những chi tiết kia quả đã bộc lộ cả một thái độ sống, hơn nữa, một bản chất chính trị của một loại trí thức trưởng giả rất khó hoà nhập với cuộc kháng chiến. Vì thế, không khí của cuộc kháng chiến dù có sôi nổi đến thế nào, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân dù có đổi thay dữ dội đến đâu, vẫn không mảy may tác động đến nề nếp sinh hoạt của vợ chồng anh ta. Nghĩa là vẫn cứ phải nuôi con chó bécgiẻ như thế, vẫn cứ phải xây một dinh cơ riêng biệt rộng rãi như thế, vẫn cứ nhơn nhơn sống một kiểu sổng an nhàn như thế. Ban ngày, nếu không viì quá buồn mà phải tìm đến mấy ông bạn tuần phủ. đốc học về hưu nào đó để đánh tổ tôm. thì chỉ muốn đóng chặt cổng lại để khỏi bị quấy nhiễu bởi mấy ông Ủy ban hay tự vệ trong làng đến tuyên truyền kháng chiến. Còn buổi tối thỉ một nếp sống "thiêng liêng" không gì phá vỡ được là… chui vào chăn ấm, buông màn tuyn trắng toát, vừa hút thuốc lá thơm, vừa đọc Tam quốc chí trước khi đánh một giấc ngon lành đến sáng, anh ta đã sống giữa cuộc kháng chiến mà hoàn toàn cách biệt với cuộc kháng chiến cho nên Độ bước vào nhà anh ta, dù ở nơi tản cư, mà như bước vào một thế giới xa lạ hẳn với bên ngoài, và bao nhiêu hy vọng vận động anh ta đi làm báo kháng chiến với mình bổng chốc tan thành mây khói.Xem thêm: Từ câu chuyện về Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn (Trích Đại Việt sử kí toàn thư) và Thái sư Trần Thủ Độ (trích Đại Việt sử kí toàn thư), anh chị có suy nghĩ gì về nhân cách và vai trò của người lãnh đạo trong cuộc sống hiện nay
Người ta nói rằng Đôi mắt là chuyện có thật. Khi cuộc kháng chiến chống Pháp mới bùng nổ, Nam Cao công tác trong một tờ báo địa phương, quê ông. Hồi ấy, ông có đi lại thăm viếng một nhà văn nào đó ở Hà Nội tản cư ra. Ai đã từng biết lối viết văn của Nam Cao hẳn thấy điều ấy chẳng có gì lạ. Xưa nay, viết về tầng lớp tri thức, vãn nghệ sĩ, hay viết về nông dân, địa chủ, ông vẫn thường dựa vào người thực, việc thực (Ngòi bút chân thực đến nghiêm khắc ấy không muốn tưởng tượng của mình tung hoành quá tự do chăng?). Nhưng sự thực ấy đã được nhìn từ chỗ đứng nào, từ ánh Seing của những tư tưởng gì? Muốn biết điều này, cần nhớ rằng, Đôi mắt được viết vào mùa xuân năm 1948 tại Việt Bắc, vài tháng sau Nam Cao được kết nạp vào Đảng. Đó cũng là thời điểm quân dân ta vừa liên tiếp ghi được những chiến công vang dội: Chợ Đồn, Chợ Rã, Bông Lau, Sông Lô, v.v… bẻ gãy cuộc tấn công đại quy mô của giặc Pháp lên Việt Bắc thu đông năm 1947. Đôi mắt được viết xen kẽ với một tác phẩm khác cũng rất đặc sắc của Nam Cao: Nhất kí ở rừng. Đọc tác phẩm này, thấy tâm trạng nhà văn lúc bấy giờ đang náo nức một niềm tin tưởng và tự hào ở cuộc kháng chiến mà ông đã thực sự góp phần vào, đồng thời dạt dào những tình cảm đấy cảm phục trước vẻ đẹp tâm hồn cao cả của đồng bào Việt Bắc mà ông lần đầú được tiếp xúc. Ông ghi vào nhật kí ngày 3 – 11 – 1947: "Gần gũi những người Dao đói rách và dốt nát, thấy họ rất biết yêu cách mạng, làm cách mạng chân thành, sốt sáng và tận tuy, chúng tôi thấy tin tưởng vô cùng. So sánh họ với mấy thăng "bổ vẩu" mà Khan gọi là tri thức nửa mùa, Khan rất bất bình đối với hạng này. Chúng nó chẳng yêu một cải gì. Chúng nó chỉ tài chửi đổng" ).Xem thêm: Cảm nghĩ về thiên nhiên và đời sống của con người trong thời khắc chuyển mùa sang thu Hoàng là một trong nhưng thằng "bổ vẩu” có "tài chửi đổng" ấy chăng? Anh ta chẳng làm gì hết, trong khi mọi người nỗ lực tham gia kháng chiến ích kỉ. đai hạng nhưng động mở miệng là chửi thiên hạ ngu dốt, bần tiện – Mà sao những người như thế lại chúa là hay nhân danh đạo đức, nhân nghĩa? Này đây, hãy nghe người vợ Hoàng phụ họa với những nhận xét của chồng về sự mà chị ta goi là "thiếu tình nghĩa của ngươi dân quê": "họ làm chính chúng tôi cũng đâm lo. Có thể nói rằng trong một trăm người thì chín mươi chín người cho rằng Tây không đời nào dám đánh minh. Mãi đến lúc có lệnh tản cư tôi vẫn cho là mình tản cư để doạ nó thôi. Thế rồi, đùng một cái, dánh nhau. Chúng tôi chạy được người chứ của thi chạy làm sao dược. May mà còn vớt vắt được ít tiền. Một ít hàng để ở cái trại của chúng tôi ở ngoại thành. Kheo làm thi ăn được độ một năm. Đến lúc hết tất nhiên là phải khổ rồi. Chỉ sợ đến lức ấy họ lại mỉa lại. Thành thử bây giờ lý ra thì có muốn ăn một con gà chưa đến nỗi không mua nổi mà ăn, nhưng ăn lại sợ người ta biết, sau này người ta nói cho thì nhục. Họ tàn nhẫn lắm cơ bác ạ”
Tôi chắc, khi ôn lại trong tâm trí mình câu nói ấy, Nam Cao đến lộn ruột lên được. Nhưng giọng kể chuyện cứ thản nhiên như không. Ấy, bản lĩnh của ngòi bút Nam Cao là thế: ỏng nén chặt tình cảm của mình lại để cho người đọc tự tìm ra ý nghĩa mà càng thêm phẫn nộ – phẫn nộ mà cứ phải bật cười – trước một thái độ hết sức ích kỷ mà cứ nhơn nhơn và ngọt xớt như không.
Hoàng quà là một nhân vật xuất sắc nhất trong truyện Đôi mắt của Nam Cao.
Vanmau.edu.vn
|
Phân tích văn bản Hai chữ nước nhà của Trần Tuấn Khải
Gợi ý
Trần Tuấn Khải thường mượn những chuyện lịch sử để giãi bày tấm lòng yêu nước, nỗi đau mất nước, qua đó mà thức tỉnh tinh thần của đồng bào. Ở những năm đầu thế kỉ XX, ông là một trong những gương mặt thơ tiêu biểu với giọng điệu bi tráng, thống thiết. Hai chữ nước nhà là tác phẩm tiêu biểu của ông. Dưới hình thức song thất lục bát, bài thơ Hai chữ nước nhà để lại một ấn tượng mạnh mẽ, sâu sắc trong lòng người đọc. "Tâm trạng xã hội khoảng 1926 uất ức, bí tráng, điều lục bát du dương êm hòa không đủ, mà đòi hỏi một điệu thơ song thất lục bát để toát, để thoát, để xé nỗi niềm u uất đè nặng tâm hồn" (Xuân Diệu).
Cuộc chia tay cảm động giữa hai cha con Phi Khanh và Nguyễn Trãi trong bối cảnh nước mất nhà tan trong bài thơ là những khoảnh khắc đặc biệt, có sức lay động lớn đã được Trần Tuấn Khải sử dụng để kí thác tâm trạng, cảm xúc hiện tại, thực của mình. Lời trăng trối của người cha đối với con khi vĩnh biệt trĩu nặng ân tình, nhuốm đậm những đau thương. Tiếng lòng sầu thảm, ai oán kia khi thì trùng điệp dồn ném, khi thì da diết xót xa. Tác giả quả là đã không uổng công chút nào khi lựa chọn âm điệu phong phú của thể thơ song thất lục bát để dồn tả những tiếng lòng ấy.
Có thể hình dung bố cục của văn bản trích Hai chữ nước nhà thành ba phần. Phần 1 (8 câu thơ đầu): diễn tả tâm trạng của người cha trong cảnh, ngộ éo le, đau lòng; phần 2 (20 câu tiếp): phác họa tình cảnh đau thương tang tóc của đất nước; phần 3 (8 câu thơ còn lại): xót phận mình bất lực, người cha trao gửi cho con tâm nguyện cứu nước. Đi vào tìm hiểu từng phần ta sẽ cảm nhận được mạch xúc cảm thống thiết, chân thành của bài thơ.Xem thêm: Có ba điều trong cuộc đời mỗi người nếu đi qua sẽ không lấy lại được: "thời gian, lời nói và cơ hội”. Nêu suy nghĩ của anh (chị) về ý kiến đó Ở 8 câu thơ đầu, tác giả gợi ra bối cảnh không gian biên ải ảm đạm, heo hút và tâm trạng của nhân vật trự tình. Bốn câu đầu là không gian chia li:
Chốn ải Bắc mây sầu ảm đạm,
Cõi giời nam gió thảm đìu hiu.
Bốn bề hổ thét chim kêu,
Đoái nom phong cảnh như khêu bất bình.
Trong cuộc ra đi không có ngày trở lại thì biên ải này chính là điểm mà Nguyễn Phi Khanh vĩnh biệt tổ quốc, quê hương, vĩnh biệt người con thân yêu của mình. Tâm trạng của kẻ sắp ra đi vĩnh viễn phủ lên khung cảnh vốn đã heo hút, ảm đạm một màu tang tóc, thê lương. Tâm sầu, cảnh sầu cứ khơi gợi lẫn nhau thành một mối sầu thảm tái tê, u hoài dằng dặc. Đoạn thơ này tạo ra không khí chung cho toàn bài, không khí thời cuộc năm xưa (thời Phi Khanh – Nguyễn Trãi) và cũng là không khí của xã hội Việt Nam những năm 20 thế kỉ XX. Bốn câu tiếp đầm đìa máu lệ:
Hạt máu nóng thấm quanh hồn nước,
Chút thân tài lần bước dặm khơi,
Trông con tầm tã châu rơi,
Con ơi, con nhớ lấy lời cha khuyên.
Giờ phút này đây, cha sẽ ra đi mà chẳng bao giờ về nữa. Đất nước lầm than, cha con li biệt, tình đất nước lớn lao hòa trong tình phụ tử sâu nặng.
Nguyễn Phi Khanh bị giải sang Tàu. Để làm tròn đạo hiếu với cha già, Nguyễn Trãi muốn đi theo để phụng dưỡng. Nhưng Phi Khanh gạt tình riêng, dằn lòng khuyên con trở lại để trả thù nhà, đền nợ nước. Người sắp ra đi vĩnh viễn thường nói những lời gan ruột, những lời mà người còn sống phải khắc cốt ghi xương. Xem thêm: Em hãy phân tích bài thơ Độc Tiểu Thanh kí của Nguyễn Du Tâm lòng đối với đất nước của người cha thật cảm động. Ở những câu thơ tiếp theo trong phần 2 tác giả đã hóa thân vào người trong cuộc li tan để phác ra tình cảnh đau thương của đất nước lầm than nô lệ. Trong đó tác giả sử dụng cả tự sự và miêu tả xen lẫn những lời cảm thán để làm nổi bật nỗi đau mất nước nhà tan, tất cả đang chìm ngập trong thảm họa "xương rừng máu sông"; uất hận sầu đau đang ngùn ngụt ngút trời:
Thảm vong quốc kể sao xiết kể,
Trông cơ đồ nhường xé tâm can,
Ngậm ngùi đất khóc giời than
Thương tâm nòi giống lầm than nỗi này!
Nỗi đau ở đây là một nỗi đau lớn, vượt lên nỗi đau riêng để thành nỗi đau cao cả, thiêng liêng của cả đất nước, giống nòi. Sự lớn lao ấy được diễn tả bằng hàng loạt các hình ảnh mang tầm vóc vĩ mô: vong quốc, cơ đồ, đất khóc, giời than, nòi giống. Dòng xúc cảm mãnh liệt thống thiết biểu hiện qua những từ ngữ diễn tả tình cảm ở cung bậc mạnh, bi thiết: kể sao kể xiết, xé tâm can, ngậm ngùi, khóc than, thương tâm. Mỗi dòng thơ là một tiếng kêu than đứt ruột, đầy những hờn căm, bi phẫn. Chẳng đủ nước mắt để khóc than cho những đớn đau đang tràn ngập giang sơn, đắng cay đành nuốt sâu trong dạ, người cha nhắn nhủ tâm huyết lại cho con:Xem thêm: Văn nghị luận: Bàn về tinh thần tự lực, tự cườngCha xót phận tuổi già sức yếu,
Lỡ sa cơ đành chịu bó tay,
Thân lươn bao quản vững lầy,
Giang sơn gánh vác sau này cậy con
Con nên nhớ tổ tông khi trước,
Đã từng phen vì nước gian lao.
Bắc Nam bờ cõi phân mao,
Ngọn cờ độc lập máu đào còn đây…
Nói phận mình bất lực để ủy thác tất cả cho con, cha "tuổi già sức yếu", lại gặp cơn nguy nan, đành uất hận, tủi hờn mà bó tay. Khơi gợi lại truyền thống kiên cường bất khuất của tổ tiên, người cha muốn thắp lên trong người con tin yêu của mình ngọn lửa căm thù xâm lăng, ngọn lửa ý chí quyết tâm khôi phục cơ đồ nước nhà và là cả niềm hi vọng lớn vào con trước khi đi mãi. Lời trao gửi nặng tựa Thái sơn. Nước mất thì nhà cũng tan, thù nhà chỉ có thể trả được khi thù nước đã rửa sạch. Nguyễn Phi Khanh muốn con mình biến nỗi đau mất cha thành nỗi hận mất nước.
Mượn xưa để nói nay, mượn người để nói ta vốn là thủ pháp có từ lâu đời trong truyền thống văn học. Trần Tuấn Khải đã rất thành công khi lựa chọn chuyên chia li giữa hai cha con Nguyễn Phi Khanh và Nguyễn Trãi để gửi gắm tâm sự, nỗi đau mất nước nhằm khơi gợi tinh thần yêu nước thương nòi khi non sông đang bị giày xéo bởi gót giày thực dân. Bằng tình cảm sâu đậm, mãnh liệt, với một giọng điệu thống thiết, thán ca, tác giả của Hai chữ nước nhà đã thực hiện bổn phận, sứ mệnh cao cả của người nghệ sĩ yêu nước. Thơ ông thôi thúc lòng người, khích lệ mọi người tranh đấu cho giang sơn độc lập, tự do.
Vanmau.edu.vn
|
Analysis of the text "Two words for the country" by Tran Tuan Khai
Suggest
Tran Tuan Khai often borrows historical stories to express his patriotism and the pain of losing his country, thereby awakening the spirit of his people. In the early years of the twentieth century, he was one of the typical poetic figures with a tragic and mournful tone. The two words "home country" are his typical works. In the form of two words seven six eight, the poem "Two words for the country" leaves a strong and deep impression in the reader's heart. "The social mood around 1926 was depressed, mysterious, and a peaceful and melodious six-eight song was not enough. It required a rhythmic poem to express, to escape, to tear away the melancholy that weighed down the soul." (Xuan Dieu).
The touching farewell between father and son Phi Khanh and Nguyen Trai in the context of the loss of their country and their home in the poem are special, highly moving moments that were used by Tran Tuan Khai to capture his mood and feelings. your present, real emotions. The father's last words to his son when saying goodbye were heavy with love and tinged with pain. The sound of sadness and resentment is sometimes overwhelming, sometimes it's painful. The author really did not waste any effort in choosing the rich tones of the two-seven-six-eights poem to express those feelings.
It is possible to imagine the layout of the text quoting the two words "country" into three parts. Part 1 (first 8 verses): describes the father's mood in a sad, heartbreaking situation; Part 2 (next 20 sentences): outlines the painful and tragic situation of the country; part 3 (8 remaining verses): saddened by his helplessness, the father gives his son the wish to save the country. Going into each part, we will feel the heartfelt and sincere emotions of the poem. See more: There are three things in each person's life that cannot be regained if they pass by: "time, words and words." opportunity". State your thoughts on that opinion. In the first 8 verses, the author suggests the gloomy, desolate border space and the mood of the protagonist. The first four verses are separation space:
The Northern Pass is gloomy and cloudy,
The windy southern world is miserable and desolate.
All around tigers scream and birds chirp,
Looking at the landscape seems to provoke resentment.
In his departure without return, this border was the point where Nguyen Phi Khanh said goodbye to his country, his homeland, and his beloved son. The mood of the person who is about to leave forever covers the already desolate and gloomy scene with a mournful, mournful color. Sad hearts and sad scenes keep evoking each other into a numbing sadness and endless sadness. This poem creates a general atmosphere for the whole poem, the atmosphere of the past (the Phi Khanh - Nguyen Trai period) and also the atmosphere of Vietnamese society in the 20s of the twentieth century. The next four sentences were filled with tears:
Hot blood beads seep around the water soul,
A little bit of my body and talent step by step,
You look like a falling pearl,
My child, remember my father's advice.
At this moment, my father will leave and never return. The country is miserable, father and son are separated, great love for the country is mixed with deep fatherly love.
Nguyen Phi Khanh was taken to China. To fulfill his filial piety towards his old father, Nguyen Trai wanted to follow him to take care of him. But Phi Khanh put aside his own feelings, restrained himself, and advised his son to return to take revenge on his family and pay off his country's debt. People who are about to leave forever often say gut-wrenching words, words that the living must engrave in their bones. See more: Let's analyze the poem Doc Tieu Thanh Ky by Nguyen Du. The father's heart for his country is very touching. In the next verses in part 2, the author incarnated into a person during the breakup to outline the painful situation of the slave-suffering country. In it, the author uses both narrative and description mixed with exclamations to highlight the pain of losing the country and the country, all of which are immersed in the disaster of "bones of the forest and blood of the river"; Anger and sadness are overwhelming:
The national tragedy is unspeakable,
Looking at the fortune is heartbreaking,
Sobbing and crying
I feel sorry for this miserable race!
The pain here is a great pain, surpassing personal pain to become a noble, sacred pain of the entire country and race. That greatness is expressed by a series of images of macro scale: national demise, fortune, weeping land, world of lamentation, race. The stream of intense and painful emotions is expressed through words that express emotions at a strong, tragic level: unspeakable, heart-wrenching, regretful, crying, pitiful. Each line of poetry is a gut-wrenching cry, full of anger and indignation. Not having enough tears to mourn the pain that is flooding the country, the bitterness has to be swallowed deep in his heart, the father conveys his heartfelt message to his son: See more: Essay: Discussing the spirit of self-reliance and independence Strong Father feels sorry for his old age and weakness,
If you fall into trouble, you will have to give up.
The eel's body is firmly covered with mud,
Giang Son will bear the burden and will rely on you later
You should remember your ancestors from the past,
There have been many hardships because of the country.
The North and South are divided,
The bloody flag of independence is still here...
Saying that he was powerless to entrust everything to his son, his father was "old and weak" and faced with danger, so he had to be angry and sad and give up. Evoking the indomitable tradition of his ancestors, the father wanted to light up in his beloved son the fire of hatred for invasion, the fire of determination to restore the country's fortunes, and also hope. grow up before you go forever. The words given are as heavy as Thai Son. When water is lost, the house is also destroyed. Hatred to the house can only be repaid when revenge for water has been washed away. Nguyen Phi Khanh wants his son to turn the pain of losing his father into hatred of losing his country.
Borrowing from the past to say now, borrowing from others to say we are a long-standing technique in literary tradition. Tran Tuan Khai was very successful when he chose to focus on the separation between father and son Nguyen Phi Khanh and Nguyen Trai to convey his feelings and the pain of losing his country to evoke the spirit of patriotism when the country was being trampled by colonial shoe heels. With deep and intense feelings, with a tone of sorrow and lament, the author of Two words for the country has fulfilled the noble duty and mission of a patriotic artist. His poetry inspires people's hearts and encourages people to fight for an independent and free country.
Vanmau.edu.vn
|
Phân tích văn bản “Côn Sơn ca” (Nguyễn Trãi)
Gợi ý
Nơi sâu thẳm tâm hồn nhà quân sự thiên tài Nguyễn Trãi vẫn luôn bát ngát một tâm hồn khao khát giao cảm, gắn bó với thiên nhiên dung dị. Trong những năm tháng cáo quan về ở ẩn tại núi Côn Sơn, Nguyễn Trãi đã để lại cho đời một áng thơ trác tuyệt về phong cảnh chôn thần tiên này.
"Côn Sơn suối chảy rì rầm
Ta nghe như tiếng đàn cầm hên tai
Ta nghe như tiếng đàn cầm bên tai
Ta ngồi trên đá như ngồi chiếu êm
Trong ghềnh thông mọc như nêm
Tìm nơi bóng mát ta lên ta nằm
Trong rừng có trúc bóng râm
Dưới màu xanh mát ta ngâm thơ nhàn”.
“Côn Sơn ca” ra đời khi tác giả đã cáo quan quy ẩn đế lánh khỏi bụi trần. Thiên nhiên trong “Côn Sơn ca” trong trẻo, thanh khiết hòa hợp với tâm hồn cao khiết đang thất vọng, chán nản chôn quan trường xô bồ, nhón nháo như ức Trai. Đến với Côn Sơn, điều đầu tiên ta cảm nhận được là những âm. thanh trong khiết:
"Côn Sơn suối chảy rì rầm
Ta nghe như tiếng đàn cầm bèn tai”.
Quả là chưa nhìn thấy núi mà đã nghe tiếng núi! Cách Côn Sơn vài ba dặm đã có thể nghe được âm thanh của chốn này. Đó là tiếng suối chảy ngày đêm miệt mài. Tiếng nước được so sánh với “tiếng đàn cầm”. Đàn cầm chính là đàn nguyệt cầm thường được sử dụng trong những buổi đàn hát trong cung. So sánh như vậy giúp làm nổi bật cái hay, cái đẹp của tiếng suối chảy trong núi. Nhưng chẳng những được nghe tiếng đàn nước, đến với Côn Sơn ta còn được thưởng thức bao điều lí thú:Xem thêm: Bình giảng bài thơ Thăng Long thành hoài cổ của Bà Huyện Thanh QuanCôn Sơn có đá rêu phơi
Ta ngồi trên đá như ngồi chiếu êm
Trong ghềnh thông mọc như nêm
Tìm nơi bóng mát ta lên ta nằm
Trong rừng có trúc bóng râm
Dưới màu xanh mát ta ngâm thơ nhàn.
Sau những mệt nhọc, vất vả của con đường lên núi, ta có thể tựa mình lên những thảm rêu phơi xanh mát, êm ái. Đá núi thường gợi đến sự hiểm trở, gập ghềnh nhưng đã Côn Sơn lại thân thiện biết bao: “ngồi trên đá như ngồi chiếu êm”. Tất cả là nhờ những thảm rêu phơi tuyệt vời kia vậy. Bên dưới là rêu phơi êm mịn, bên trên là những bóng thông, bóng trúc mát lành thì còn gì thú vị hơn nữa!
Thiên nhiên trong “Côn Sơn ca” hiện lên thân thiện và gần gũi biêt bao. Trong tiềm thức mỗi người, nhắc đến núi non là nhắc đến vực sâu đèo thẳm, đến gập ghềnh trắc trở, nhưng núi Côn Sơn đã xóa đi những ấn tượng không hay ấy mà khắc vào lòng ta một hình ảnh đẹp đẽ, thanh bình về miền sơn cước. Không chỉ vậy, trong tám dòng thơ ngắn ngủi, Nguyễn Trãi nhắc đến những thú vui rất thanh cao tao nhã của mình. Trước hết là tiếng đàn cầm. Phải là người có tâm hồn tinh tế, nhạy cảm mới. am hiểu và biết yêu tiếng đàn. Phải là người rũ sạch được bụi trần, từ bỏ mọi ham muốn vật chất tầm thường mới có thể an nhàn tựa mình vào thiên nhiên hoang sợ. Và phải là người có tâm hồn thanh cao mới nói đến chuyện thưởng thức thơ phú (bởi “thi dĩ ngôn chí” – thơ nói đến cái chí của con người, vậy người không có chí, có hồn thì khó thưởng thức được thơ). Rất hòa hợp với vẻ đẹp trong trẻo trong tâm hồn nhà thơ; núi Côn Sơn cũng là nơi cư ngụ của những điều cao khiết. Không chỉ là tiếng nước trong trẻo không vương bám bụi trần. Không chỉ là những mảng rêu phơi tự nhiên êm ái? Đó còn là những rừng thông, rừng trúc xanh rờn. Trong quan niệm của người xưa, thông tượng trưng cho bậc quân tử không sợ khó khăn, gian khổ. Nhà thơ Nguyễn Công Trứ từng viết:Xem thêm: Viết đoạn văn nêu cảm nghĩ của em về nhận định sau đây của nhà văn Thạch Lam trong văn bản “Cốm”: “Cốm là thức quà riêng biệt của đất nước, ... đồng quê nội cỏ An Nam”“Kiếp sau xin chớ làm người
Làm cây thông đứng giữa trời mà reo
Giữa trời lưng núi cheo leo
Ai mà chịu rét thì trèo với thông”.
Còn cây trúc là hiện thân của bậc quân tử ở đời. Nơi Côn Sơn hoang vu này, giữa con người và thiên nhiên lại có sự giao hòa, đồng điệu đến tuyệt vời.
“Côn Sơn ca” là khúc ca ca ngợi thiên nhiên tươi đẹp. Đọc bài thơ, người đọc chẳng những hiểu thêm về tâm hồn đẹp đẽ, thanh cao của nhà thơ mà còn thêm yêu, thêm quý thiên nhiên trù phú của non nước Việt Nam mình.
Vanmau.edu.vn
|
Analysis of the text "Con Son ca" (Nguyen Trai)
Suggest
Deep in the soul of the genius military man Nguyen Trai, there is always a soul that yearns for communion and attachment to the simple nature. During the years when he retired to Con Son mountain, Nguyen Trai left behind a magnificent poem about this magical landscape.
"Con Son stream murmurs
I hear the sound of a harp in my ears
I hear the sound of a harp in my ears
I sit on the rock like sitting on a soft mat
In the rapids, pine trees grow like wedges
Find a shady place to go up and lie down
In the forest there is bamboo shade
Under the cool green, I recite leisurely poetry."
"Con Son Ca" was born when the author had retired to hide from the dust of the world. The nature in "Con Son Ca" is clear and pure, in harmony with the noble soul that is disappointed and depressed, buried in the hustle and bustle of mandarins like a million Trai. Coming to Con Son, the first thing we feel is the sounds. purity:
"Con Son stream murmurs
I heard it like the sound of a harp in my ears."
It's true that we haven't seen the mountain yet but we've heard the sound of the mountain! A few miles from Con Son, you can hear the sounds of this place. That is the sound of a stream flowing day and night. The sound of water is compared to the "sound of a harp". The main harp is the moon harp, often used in singing sessions in the palace. Such comparisons help highlight the beauty of the sound of a stream flowing in the mountains. But not only can we hear the sound of water instruments, coming to Con Son we can also enjoy many interesting things: See more: Commentary on the poem Thang Long - a nostalgic city by Ba Thanh Quan District Con Son has moss-dried rocks
I sit on the rock like sitting on a soft mat
In the rapids, pine trees grow like wedges
Find a shady place to go up and lie down
In the forest there is bamboo shade
Under the cool green we recite leisurely poetry.
After the fatigue and hardship of the road up the mountain, we can lean on the cool, soft green mats of drying moss. Mountain rocks often suggest danger and bumpiness, but Con Son is so friendly: "sitting on rocks is like sitting on a soft mat." It's all thanks to those wonderful carpets of drying moss. Below is soft, dried moss, above are cool pine and bamboo balls, what could be more interesting?
Nature in "Con Son Ca" appears very friendly and close. In every person's subconscious, mentioning mountains means talking about deep abysses, deep passes, and bumps and hardships, but Con Son mountain has erased those bad impressions and engraved in our hearts a beautiful and peaceful image. to the mountainous region. Not only that, in eight short lines of poetry, Nguyen Trai mentions his very noble and elegant pleasures. First of all is the sound of the harp. Must be a person with a delicate and sensitive soul. understand and love the sound of the instrument. Must be someone who can shake off the dust of the world and give up all trivial material desires to be able to rest comfortably in the wilderness of nature. And it takes a person with a noble soul to talk about enjoying poetry (because "poetry speaks will" - poetry refers to human will, so people without will or soul will find it difficult to enjoy poetry). . Very in harmony with the pure beauty of the poet's soul; Con Son Mountain is also the residence of noble things. Not only is the sound of clear water free of dust. Not just soft patches of naturally dried moss? There are also green pine and bamboo forests. In the beliefs of the ancients, pine symbolizes a gentleman who is not afraid of difficulties and hardships. Poet Nguyen Cong Tru once wrote: See more: Write a paragraph stating your feelings about the following statement by writer Thach Lam in the text "Com": "Com is a unique gift of the country,... "In the next life, please don't be human
Be a pine tree standing in the sky and ringing
In the middle of the sky, the back of the mountain is craggy
Whoever can stand the cold can climb with the pine trees."
The bamboo tree is the embodiment of a gentleman in life. In this desolate Con Son place, there is a wonderful harmony and harmony between humans and nature.
“Con Son ca” is a song praising beautiful nature. Reading the poem, the reader not only understands more about the poet's beautiful and noble soul but also loves and appreciates the rich nature of Vietnam.
Vanmau.edu.vn
|
Phân tích vẻ đẹp bi tráng của người lính trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
Hướng dẫn
Quang Dũng là nhà thơ trưởng thành trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Với hồn thơ hào hoa và lãng mạn, nhà thơ đã khắc họa nên hình ảnh người chiến sĩ Tây Tiến, trong bài thơ cùng tên, không chỉ mang đậm chất hào hoa, lãng mạn mà hơn hết đó là vẻ đẹp bi tráng của những tượng đài bất tử.
Bi tráng chính là nỗi buồn, là hiện thực khốc liệt của chiến tranh, là những hy sinh, mất mát, đau thương. Nhưng bi chứ không lụy, nỗi buồn ấy không làm lụi tàn ý chí và niềm tin mà ngược lại, nỗi buồn ấy đã hóa thành sức mạnh, thành ý chiến đấu kiên cường. Đây cũng chính là giọng điệu chủ đạo mà Quan Dũng sử dụng trong bài thơ Tây Tiến.
Nhớ về Tây Tiến là nhớ về rừng, về núi. Quang Dũng đã vẽ nên bức tranh thiên nhiên núi rừng Tây Bắc vừa thơ mộng trữ tình, lại vừa hoang sơ hùng vĩ. Đó là những địa danh xa lạ, những cung đường “khúc khuỷu”, quanh co, những vực cao sâu “nghìn thước”, tất cả như muốn thách thức, cản trở bước chân chinh phục của những chàng trai Hà thành:
“Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Nghìn thước lên cao, nghìn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”
Không chỉ vậy, núi rừng Tây Bắc ngày ấy là nơi ngự trị của biết bao hiểm nguy rình rập người lính:
“Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”
Đối diện với những khó khăn, vất vả, người lính chỉ biết trân mình chịu đựng để bước tiếp cuộc hành trình. Cách ngắt nhịp dồn dập, những từ láy toàn phần, những âm điệu trúc trắc như càng khắc sâu hơn những chặng đường nguy hiểm. Trên cái nền thiên nhiên ấy, hình tượng con người hiện ra với dáng vẻ hiên ngang cùng với ý chí kiên cường mà không trở ngại nào có thể làm cho tàn lụi. Thế nhưng, hình ảnh đầu tiên về người chiến sĩ trong bài thơ này cũng chính là hình ảnh xót xa, đầy cảm động:Xem thêm: Bình giảng đoạn thơ: "Ta về mình có nhớ ta... Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung" trong bài Việt Bắc của Tố Hữu
“Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời”
Có lẽ những khó khăn và vất vả trên chặng đường đã vắt kiệt sức lực của chàng trai trẻ. Tác giả rất tinh tế khi sử dụng từ láy “dãi dầu” để nói về những khó khăn, chịu đừng mà người lính Tây Tiến phải trải qua, để đến lúc mỏi mệt, họ mỏi gối, chùn chân. “không bước nữa”, khép lại hành trình thực hiện nghĩa vụ lớn lao của cuộc đời. Nói về sự hy sinh, nhưng tác giả không hề dùng bất cứ từ ngữ nào để nói về mất mát, chia lìa, chỉ với cụm từ “bỏ quên đời” để gợi nhớ với một niềm tự hào to lớn. Người lính hy sinh nhưng đầu vẫn đội mũ, vẫn giữ chặt cây súng trong tay. Họ ra đi, nhưng vẫn không quên nhiệm vụ, không quên lý tưởng của mình.
Nhưng sự hy sinh của người chiến sĩ ấy chỉ là một trong những sự hy sinh của những đồng chí, đồng đội nơi chiến tuyến. Đi dọc suốt bài thơ, sự hy sinh và chia lìa dù không trực tiếp nhưng cũng thể hiện ở khắp mọi nơi, đặc biệt là ở khổ thơ thứ ba, với câu thơ:
“Rải rác biên cương mồ viễn xứ”
“Rải rác” là từ láy, để nói lên mức độ bao phủ của một thứ gì đó mà trong câu thơ này đã định danh đó là “mồ viễn xứ”. Trong câu thơ này, “rải rác” không hề chỉ sự thưa thớt, xa vắng mà nó lại gợi lên mật độ nhiều và không thể nào định lượng được những nắm mồ gửi lại giữa chặng đường của kẻ lữ hành dang dở. Những từ ngữ Hán – Việt như “biên cương”, “viễn xứ” làm câu thơ thở nên trang trọng và linh thiêng như chính tâm hồn và ý chí của những chàng trai trẻ bởi tất cả họ cùng cất lên một ý chí chiến đấu kiên cường:Xem thêm: Hiểu biết của anh (chị) về Chế Lan Viên và hoàn cảnh sáng tác bài thơ “Tiếng hát con tàu"
“Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”
Họ “chẳng tiếc đời xanh” vì một lẽ hiển nhiên mà bất cứ người trai nào trong thời kỳ này đều phải thực hiện: “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Họ đi theo tiếng gọi của Tổ quốc, của non sông, đi theo lời kêu gọi toàn dân kháng chiến của Bác Hồ và đi theo tiếng gọi của chính trái tim mình:
“Ôi Tổ quốc ta yêu như máu thịt
Như mẹ, như cha, như vợ như chồng
Ôi Tổ quốc nếu cần ta sẽ chết
Cho mỗi ngôi nhà, ngọn núi, con sông”
Họ sẵn sàng bỏ lại ước mơ, bỏ lại mái trường, bỏ lại những tình cảm thân thương, lên đường bảo vệ quê hương được trọn vẹn:
“Mẹ thà coi như chiếc lá bay
Chị thà coi như là hạt bụi
Em thà coi như hương rượu say”
Vì vậy, họ chẳng tiếc đời xanh, chẳng tiếc tuổi trẻ bởi họ đã sống đúng với lý tưởng và hoài bão ước mơ. Đây chính là một biểu hiện hùng hồn cho tinh thần bi tráng của bài thơ. Con người ta vượt lên tất cả những tình cảm tủn mủn, nhỏ nhặt đế sống vì cái lớn lao, sống vì lý tưởng cao đẹp.
Bài thơ đã nhiều lần nói về cái chết, nhưng cái chết nào cũng đẹp, cái chết nào cũng hiên ngang, cái chết nào cũng tạc nên “dáng đứng Việt Nam” bất diệt, dẫu tiễn đưa họ không phải là cờ hoa, biểu ngữ, cũng không phải là những tiếng đại bác đưa tiễn vong linh hay những bài điếu văn ca ngợi chiến công lừng lẫy, họ ra đi rất âm thầm trong vòng tay đồng đội, với chiếc áo nâu sòng của người bạn gửi vội thay cho manh chiếu không thể tìm được giữa rừng, cùng với đó là sự xót xa của thiên nhiên tiễn biệt người bạn đồng hành suốt chặng đường ngược dòng sông Mã:Xem thêm: Bình giảng đoạn thơ sau đây trong bài Đất nước của Nguyễn Đình Thi, từ: "Mùa thu nay khác rồi ... Những buổi ngày xưa vọng nói về"
“Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
Ở đây, chất bi tráng được thể hiện rõ ràng nhất, với sự trang trọng bao hàm nỗi xót xa. Cả thiên nhiên, núi rừng cùng cất lên khúc hát tiễn đưa, như giai điệu trầm hùng của khúc ca “Hồn tử sĩ”. Vẻ đẹp bi tráng hiển hiện trong từng câu thơ, trong từng hình ảnh nhưng chỉ khi dừng lại ở bức chân dung người lính, tinh thần ấy, vẻ đẹp ấy mới được bộc lộ một cách rõ ràng và cụ thể.
Bằng tài năng nghệ thuật của mình, Quang Dũng đã phác họa Tây Tiến với những đường nét, hình khối, màu sắc trong tâm tưởng, đó là những ký ức không bao giờ phai nhạt, đôi khi, những ký ức ấy lại còn được đệm thanh âm, giai điệu để trở nên xót xa như chính tâm hồn của tác giả khi nhớ lại thời kỳ chiến đấu kiêu hùng trên mặt trận phía Tây. Có thể nói, Quang Dũng đã tạc nên một tượng đài bất tử về hình ảnh người lính trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, đó là tượng đài tập thể gân guốc, oai phong, nghiêm trang và đẹp một cái kiêu hùng.
Chiến tranh là có mất mát, hy sinh. Đã có biết bao tác phẩm nói lên điều đó. Nhưng nét riêng của Quang Dũng chính là thể hiện sự hy sinh ấy một cách hào hùng. Cả bài thơ nói về cái chết, nói về sự hy sinh, nhưng không hề xuất hiện hai từ ngữ ấy trực tiếp. Đó chính là cái hay, là cái mạnh mẽ và kiên cường. Để rồi một tượng đài liệt sĩ được dựng lên trên thực tại khắc nghiệt bằng cái mạnh mẽ và kiên cường ấy, tạo nên vẻ đẹp bi tráng bất tử trong văn học Việt Nam.
|
Phân tích vẻ đẹp bi tráng của người lính trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
Hướng dẫn
Quang Dũng là nhà thơ trưởng thành trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Với hồn thơ hào hoa và lãng mạn, nhà thơ đã khắc họa nên hình ảnh người chiến sĩ Tây Tiến, trong bài thơ cùng tên, không chỉ mang đậm chất hào hoa, lãng mạn mà hơn hết đó là vẻ đẹp bi tráng của những tượng đài bất tử.
Bi tráng chính là nỗi buồn, là hiện thực khốc liệt của chiến tranh, là những hy sinh, mất mát, đau thương. Nhưng bi chứ không lụy, nỗi buồn ấy không làm lụi tàn ý chí và niềm tin mà ngược lại, nỗi buồn ấy đã hóa thành sức mạnh, thành ý chiến đấu kiên cường. Đây cũng chính là giọng điệu chủ đạo mà Quan Dũng sử dụng trong bài thơ Tây Tiến.
Nhớ về Tây Tiến là nhớ về rừng, về núi. Quang Dũng đã vẽ nên bức tranh thiên nhiên núi rừng Tây Bắc vừa thơ mộng trữ tình, lại vừa hoang sơ hùng vĩ. Đó là những địa danh xa lạ, những cung đường “khúc khuỷu”, quanh co, những vực cao sâu “nghìn thước”, tất cả như muốn thách thức, cản trở bước chân chinh phục của những chàng trai Hà thành:
“Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Nghìn thước lên cao, nghìn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”
Không chỉ vậy, núi rừng Tây Bắc ngày ấy là nơi ngự trị của biết bao hiểm nguy rình rập người lính:
“Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”
Đối diện với những khó khăn, vất vả, người lính chỉ biết trân mình chịu đựng để bước tiếp cuộc hành trình. Cách ngắt nhịp dồn dập, những từ láy toàn phần, những âm điệu trúc trắc như càng khắc sâu hơn những chặng đường nguy hiểm. Trên cái nền thiên nhiên ấy, hình tượng con người hiện ra với dáng vẻ hiên ngang cùng với ý chí kiên cường mà không trở ngại nào có thể làm cho tàn lụi. Thế nhưng, hình ảnh đầu tiên về người chiến sĩ trong bài thơ này cũng chính là hình ảnh xót xa, đầy cảm động:Xem thêm: Bình giảng đoạn thơ: "Ta về mình có nhớ ta... Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung" trong bài Việt Bắc của Tố Hữu
“Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời”
Có lẽ những khó khăn và vất vả trên chặng đường đã vắt kiệt sức lực của chàng trai trẻ. Tác giả rất tinh tế khi sử dụng từ láy “dãi dầu” để nói về những khó khăn, chịu đừng mà người lính Tây Tiến phải trải qua, để đến lúc mỏi mệt, họ mỏi gối, chùn chân. “không bước nữa”, khép lại hành trình thực hiện nghĩa vụ lớn lao của cuộc đời. Nói về sự hy sinh, nhưng tác giả không hề dùng bất cứ từ ngữ nào để nói về mất mát, chia lìa, chỉ với cụm từ “bỏ quên đời” để gợi nhớ với một niềm tự hào to lớn. Người lính hy sinh nhưng đầu vẫn đội mũ, vẫn giữ chặt cây súng trong tay. Họ ra đi, nhưng vẫn không quên nhiệm vụ, không quên lý tưởng của mình.
Nhưng sự hy sinh của người chiến sĩ ấy chỉ là một trong những sự hy sinh của những đồng chí, đồng đội nơi chiến tuyến. Đi dọc suốt bài thơ, sự hy sinh và chia lìa dù không trực tiếp nhưng cũng thể hiện ở khắp mọi nơi, đặc biệt là ở khổ thơ thứ ba, với câu thơ:
“Rải rác biên cương mồ viễn xứ”
“Rải rác” là từ láy, để nói lên mức độ bao phủ của một thứ gì đó mà trong câu thơ này đã định danh đó là “mồ viễn xứ”. Trong câu thơ này, “rải rác” không hề chỉ sự thưa thớt, xa vắng mà nó lại gợi lên mật độ nhiều và không thể nào định lượng được những nắm mồ gửi lại giữa chặng đường của kẻ lữ hành dang dở. Những từ ngữ Hán – Việt như “biên cương”, “viễn xứ” làm câu thơ thở nên trang trọng và linh thiêng như chính tâm hồn và ý chí của những chàng trai trẻ bởi tất cả họ cùng cất lên một ý chí chiến đấu kiên cường:Xem thêm: Hiểu biết của anh (chị) về Chế Lan Viên và hoàn cảnh sáng tác bài thơ “Tiếng hát con tàu"
“Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”
Họ “chẳng tiếc đời xanh” vì một lẽ hiển nhiên mà bất cứ người trai nào trong thời kỳ này đều phải thực hiện: “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Họ đi theo tiếng gọi của Tổ quốc, của non sông, đi theo lời kêu gọi toàn dân kháng chiến của Bác Hồ và đi theo tiếng gọi của chính trái tim mình:
“Ôi Tổ quốc ta yêu như máu thịt
Như mẹ, như cha, như vợ như chồng
Ôi Tổ quốc nếu cần ta sẽ chết
Cho mỗi ngôi nhà, ngọn núi, con sông”
Họ sẵn sàng bỏ lại ước mơ, bỏ lại mái trường, bỏ lại những tình cảm thân thương, lên đường bảo vệ quê hương được trọn vẹn:
“Mẹ thà coi như chiếc lá bay
Chị thà coi như là hạt bụi
Em thà coi như hương rượu say”
Vì vậy, họ chẳng tiếc đời xanh, chẳng tiếc tuổi trẻ bởi họ đã sống đúng với lý tưởng và hoài bão ước mơ. Đây chính là một biểu hiện hùng hồn cho tinh thần bi tráng của bài thơ. Con người ta vượt lên tất cả những tình cảm tủn mủn, nhỏ nhặt đế sống vì cái lớn lao, sống vì lý tưởng cao đẹp.
Bài thơ đã nhiều lần nói về cái chết, nhưng cái chết nào cũng đẹp, cái chết nào cũng hiên ngang, cái chết nào cũng tạc nên “dáng đứng Việt Nam” bất diệt, dẫu tiễn đưa họ không phải là cờ hoa, biểu ngữ, cũng không phải là những tiếng đại bác đưa tiễn vong linh hay những bài điếu văn ca ngợi chiến công lừng lẫy, họ ra đi rất âm thầm trong vòng tay đồng đội, với chiếc áo nâu sòng của người bạn gửi vội thay cho manh chiếu không thể tìm được giữa rừng, cùng với đó là sự xót xa của thiên nhiên tiễn biệt người bạn đồng hành suốt chặng đường ngược dòng sông Mã:Xem thêm: Bình giảng đoạn thơ sau đây trong bài Đất nước của Nguyễn Đình Thi, từ: "Mùa thu nay khác rồi ... Những buổi ngày xưa vọng nói về"
“Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
Ở đây, chất bi tráng được thể hiện rõ ràng nhất, với sự trang trọng bao hàm nỗi xót xa. Cả thiên nhiên, núi rừng cùng cất lên khúc hát tiễn đưa, như giai điệu trầm hùng của khúc ca “Hồn tử sĩ”. Vẻ đẹp bi tráng hiển hiện trong từng câu thơ, trong từng hình ảnh nhưng chỉ khi dừng lại ở bức chân dung người lính, tinh thần ấy, vẻ đẹp ấy mới được bộc lộ một cách rõ ràng và cụ thể.
Bằng tài năng nghệ thuật của mình, Quang Dũng đã phác họa Tây Tiến với những đường nét, hình khối, màu sắc trong tâm tưởng, đó là những ký ức không bao giờ phai nhạt, đôi khi, những ký ức ấy lại còn được đệm thanh âm, giai điệu để trở nên xót xa như chính tâm hồn của tác giả khi nhớ lại thời kỳ chiến đấu kiêu hùng trên mặt trận phía Tây. Có thể nói, Quang Dũng đã tạc nên một tượng đài bất tử về hình ảnh người lính trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, đó là tượng đài tập thể gân guốc, oai phong, nghiêm trang và đẹp một cái kiêu hùng.
Chiến tranh là có mất mát, hy sinh. Đã có biết bao tác phẩm nói lên điều đó. Nhưng nét riêng của Quang Dũng chính là thể hiện sự hy sinh ấy một cách hào hùng. Cả bài thơ nói về cái chết, nói về sự hy sinh, nhưng không hề xuất hiện hai từ ngữ ấy trực tiếp. Đó chính là cái hay, là cái mạnh mẽ và kiên cường. Để rồi một tượng đài liệt sĩ được dựng lên trên thực tại khắc nghiệt bằng cái mạnh mẽ và kiên cường ấy, tạo nên vẻ đẹp bi tráng bất tử trong văn học Việt Nam.
|
Đề bài: Phân tích vẻ đẹp của chị em Thúy Kiều
Nguyễn Du là đại thi hào của dân tộc ta. Tên tuổi của ông gắn liền với tác phẩm “Truyện Kiều” – kiệt tác số một của văn học trung đại Việt Nam. Có lẽ đoạn thơ “Chị em Thuý Kiều” trích trong tác phẩm là những vần thơ tuyệt bút. Chỉ bằng 24 câu thơ lục bát, Nguyễn Du đã miêu tả cả tài, sắc và đức hạnh của hai chị em Thuý Vân, Thuý Kiều với tất cả lòng quý mến, trân trọng của nhà thơ.
Đoạn trích “Chị em Thuý Kiều” nằm trong phần: “Gặp gỡ và đính ước”, sau phần giới thiệu gia cảnh gia đình Thuý Kiều. Với nhiệt tình trân trọng ngợi ca, Nguyễn Du đã sử dụng bút pháp nghệ thuật ước lệ cổ điển, lấy những hình ảnh thiên nhiên để gợi, tả, khắc hoạ vẻ đẹp chị em Thuý Kiều thành những tuyệt sắc giai nhân.
Trước hết, Nguyễn Du cho ta thấy vẻ đẹp bao quát của hai chị em Thuý Kiều trong bốn câu đầu:
Đầu lòng hai ả tố nga,
Thuý Kiều là chị, em là Thuý Vân.
Mai cốt cách, tuyết tinh thần,
Mỗi người mỗi vẻ mười phân vẹn mười.
Nhà thơ dùng từ Hán Việt “tố nga” chỉ những người con gái đẹp tinh tế để gọi chung hai chị em Thuý Vân, Thuý Kiều. Hai chị em được ví von có cốt cách thanh cao như hoa mai, có tâm hồn trong sáng như tuyết trắng. Mỗi người có vẻ đẹp riêng và đều đẹp một cách toàn diện. Từ cái nhìn bao quát ấy, nhà thơ đi miêu tả từng người. Bằng nghệ thuật ước lệ tượng trưng, liệt kê, nhân hoá, tác giả miêu tả vẻ đẹp của Thuý Vân là vẻ đẹp trang trọng, quý phái, phúc hậu:
Vân xem trang trọng khác vời,
Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang
Hoa cười, ngọc thốt đoan trang,
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da
Vẻ đẹp của Thuý Vân có sự hoà hợp với tự nhiên, như ngầm dự báo trước tương lai êm ấm, bình lặng trong cuộc đời nàng.
Xem thêm: Cảm nhận về thân phận người lao động nghèo trong xã hội xưa qua bài ca dao: Thương thay thân phận con tằmTác giả dùng thủ pháp đòn bẩy, tả khách hình chủ, tả Thuý Vân trước rồi mới tả Thuý Kiều. Vân đã đẹp, Kiều càng muôn phần đẹp hơn. Thuý Kiều lại có nhan sắc “ sắc sảo mặn mà”. Kiều “sắc sảo” về trí tuệ, “mặn mà” về tâm hồn. Đặc biệt, vẻ đẹp ấy thể hiện qua đôi mắt “làn thu thuỷ nét xuân sơn”. Đôi mắt chính là cửa sổ tâm hồn, đôi mắt Kiều trong sáng, long lanh như làn nước mùa thu, đôi lông mày thanh tú như nét núi mùa xuân. Nếu vẻ đẹp của Thuý Vân được thiên nhiên tạo hoá sẵn sàng nhường nhịn thì với Thuý Kiều, vẻ đẹp ấy lấn át cả thiên nhiên, khiến cho thiên nhiên ấy phải đố kị, ghen ghét:
“ Kiều càng sắc sảo mặn mà,
So bề tài sắc lại là phần hơn,
Làn thu thuỷ, nét xuân sơn,
Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh”
Nếu như nhan sắc của Thuý Kiều khiến cho nghiêng thành đổ nước, không ai sánh bằng thì tài năng của nàng may ra mới có người thứ hai.
“Sắc đành đòi một, tài đành hoạ hai,
Thông minh vốn sẵn tính trời,
Pha nghề thi hoạ, đủ mùi ca ngâm”
Thuý Kiều thông minh do thiên bẩm nên tất cả những môn nghệ thuật: thi hoạ, ca ngâm, nàng đều rất điêu luyện, đặc biệt là tài gảy đàn: “Cung thương làu bậc ngũ âm”. Nàng không chỉ giỏi về âm luật mà còn biết sáng tác. Khúc nhạc “Bạc mệnh” mà nàng sáng tác làm cho người nghe phải rơi lệ.
Như vậy, vẻ đẹp của Thuý Kiều là sự kết hợp giữa sắc-tài-tình. Chính vẻ đẹp ấy cũng ngầm dự báo một số phận không êm đềm, bình lặng như Thuý Vân, mà đầy trắc trở, éo le.
Những câu thơ cuối khái quát về cuộc sống đức hạnh của chị em Thuý Kiều:
“Êm đềm trướng rủ màn che,
Tường đông ong bướm đi về mặc ai”
Hai chị em sống trong môi trường gia giáo, nề nếp, tránh xa những chuyện thị phi ong bướm ngoài đời.
Đoạn thơ “Chị em Thuý Kiều” đã tái dựng tài tình chân dung hai trang tuyệt sắc giai nhân Thuý Vân, Thuý Kiều bằng nhiều biện pháp ẩn dụ, tượng trưng, hình ảnh ước lệ, từ ngữ trong sáng, giàu sức gợi. Qua chân dung hai chị em Thuý Vân, Thuý Kiều, nhà thơ Nguyễn Du đã bộc lộ thái độ trân trọng, ngợi ca vẻ đẹp người phụ nữ. Đó chính là một trong những biểu hiện rõ nét của tư tưởng nhân đạo Nguyễn Du trong “Truyện Kiều”.
Nguồn Edufly
Xem thêm: Một liện tượng khá phổ biến hiện nay: vứt rác ra đường hoặc nơi công cộng. Em hãy đặt một nhan đề gọi ra hiện tượng ấy và viết bài văn nêu suy nghĩ của mình
|
Topic: Analysis of the beauty of Thuy Kieu sisters
Nguyen Du is a great poet of our nation. His name is associated with the work "The Tale of Kieu" - the number one masterpiece of Vietnamese medieval literature. Perhaps the poem "Thuy Kieu Sisters" quoted in the work is a masterpiece. In just 24 six-eight verses, Nguyen Du described the talent, beauty and virtue of the two sisters Thuy Van and Thuy Kieu with all the poet's love and respect.
The excerpt "Thuy Kieu Sisters" is in the section: "Meeting and engagement", after the introduction of Thuy Kieu's family. With enthusiastic praise, Nguyen Du used classical conventional artistic style, taking natural images to evoke, describe, and portray the beauty of Thuy Kieu's sisters into stunning beauties.
First of all, Nguyen Du shows us the overall beauty of the two sisters Thuy Kieu in the first four sentences:
At first, the two girls denounced each other,
Thuy Kieu is the older sister, the younger is Thuy Van.
Mai bone way, spirit snow,
Each person looks completely different.
The poet uses the Sino-Vietnamese word "to nga" to refer to beautiful and delicate girls to refer to the two sisters Thuy Van and Thuy Kieu. The two sisters are said to have noble personalities like apricot blossoms and pure souls like white snow. Each person has their own beauty and is beautiful in a comprehensive way. From that comprehensive view, the poet describes each person. Using the art of symbolic convention, listing, and personification, the author describes Thuy Van's beauty as solemn, noble, and kind:
Van looks so solemn,
Mold plump moon bouncing his strokes
Flowers smile, jade is dignified,
Cloudy lose hair color snow ceded skin color
Thuy Van's beauty is in harmony with nature, as if implicitly predicting a warm, peaceful future in her life.
See more: Feeling about the fate of poor workers in ancient society through the folk song: Pity the fate of the silkworm. The author uses leverage, describing the guest as the master, describing Thuy Van first and then describing Thuy Kieu. Van is beautiful, Kieu is even more beautiful. Thuy Kieu has a "sharp and salty" beauty. Kieu is "sharp" in intelligence, "salty" in soul. In particular, that beauty is expressed through the eyes of "autumn water and spring". The eyes are the windows to the soul, Kieu's eyes are clear and sparkling like autumn water, her eyebrows are as delicate as spring mountains. If the beauty of Thuy Van is readily tolerated by nature, then with Thuy Kieu, that beauty overwhelms nature, causing that nature to be envious and jealous:
“Kieu is more sharp and salty,
Compared surface is the more talented back,
The waters of autumn, the features of spring,
United jealous loser poor petal blue willow hon"
If Thuy Kieu's beauty makes people fall apart, no one can match her, then her talent is fortunately second to none.
"For looks you have to ask for one, but for talent you have to ask for two,
Intelligence is inherently innate,
Mixed with the art of painting, full of the scent of singing."
Thuy Kieu is naturally intelligent, so in all the arts: poetry, singing, she is very skilled, especially in playing the lute: "Cung thuong lou five-syllable level". She is not only good at music but also knows how to compose. The song "Silver Destiny" that she composed made listeners shed tears.
Thus, Thuy Kieu's beauty is a combination of beauty, talent and love. That beauty also implicitly predicts a fate that is not peaceful and calm like Thuy Van, but full of difficulties and hardships.
The last verses summarize the virtuous life of Thuy Kieu sisters:
“Softly, draped with curtains,
The wall is crowded with butterflies and bees, no one cares."
The two sisters live in a well-educated, orderly environment, away from gossip and gossip in real life.
The poem "Thuy Kieu Sisters" skillfully recreates the two-page portraits of the beautiful ladies Thuy Van and Thuy Kieu using many metaphors, symbols, conventional images, and clear, evocative words. Through the portraits of two sisters Thuy Van and Thuy Kieu, poet Nguyen Du expressed his attitude of respect and praise for the beauty of women. That is one of the clear manifestations of Nguyen Du's humanitarian ideology in "The Story of Kieu".
Source Edufly
See more: A fairly common phenomenon today: throwing trash on the street or in public places. Come up with a title that evokes that phenomenon and write an essay stating your thoughts
|
Đề bài: Vẻ đẹp của con người Việt Nam qua ca dao, dân ca
Ca dao không những là tiếng nói chứa đựng tâm tư, tình cảm của người lao động mà còn là những kho tàng kinh nghiệm sống quý giá của muôn đời. Mở từng trang ca dao, chúng ta thấy hiện lên cuộc sống của người xưa trong sương mờ quá khứ. Trong đó, lời ăn tiếng nói của con người trong giao tiếp luôn được người xưa coi trọng và hiển nhiên đó là một trong những chuẩn mực đạo đức của con người.
Một trong những “tiêu chuẩn” hàng đầu của vẻ đẹp con người là "ăn nói” phải mặn mà, phải có nét duyên: "Một thương tóc bỏ đuôi gà. Hai thương ăn nói mặn mà, có duyên”. Quan niệm xưa cho rằng “tóc bỏ đuôi gà, má lúm đồng tiền” là vẻ đẹp hình thể, vẻ đẹp bề ngoài; còn “ăn nói mặn mà có duyên” là vẻ đẹp của tâm hồn bên trong, luôn bền vững với năm tháng, với thời gian… Song song đó, hình ảnh “người khôn” được nhắc đi nhắc lại với tần suất cao trong ca dao cũng là một điều cần lưu ý. “Người khôn” ở đây không phải là hạng người “khôn lỏi, khôn vặt” ; sống ích kỷ, nhỏ nhen mà là những con người sống có nhân nghĩa, biết đối nhân xử thế đúng mực, đúng chuẩn ở đời.
Người xưa từng nói “lạt mềm buộc chặt” – lời nói ngọt ngào, dịu dàng bao giờ cũng mang ấn tượng tốt, mang lại cảm tình, niềm vui giao tiếp cho người được tiếp xúc: "Chim khôn kêu tiếng rảnh rang Người khôn nói tiếng dịu dàng, dễ nghe". Ca dao còn nhắc nhở, khuyên nhau khi nói phải lựa lời, chọn lời, cân nhắc ý tứ. Lời nói luôn có sẵn, đối với từng trường hợp cụ thể mà chúng ta dành những “lời hay ý đẹp” cho nhau.
Xem thêm: Nêu những suy nghĩ của em về vấn đề tự họcCó niềm vui nào hơn khi trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta luôn được nghe những lời nói đẹp, những lời nói hay, sâu sắc, để cho con người sống thương nhau hơn, gần gũi nhau hơn:"Lời nói chẳng mất tiền mua. Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau". Có môi trường sống tốt ắt có nhiều lời nói hay, nói đẹp – bởi môi trường sống ảnh hưởng rất lớn đến việc hình thành nhân cách con người: "Đất tốt trồng cây rườm rà. Những người thanh lịch nói ra dịu dàng”, "Người thanh tiếng nói cũng thanh. Chuông kêu chuông đánh bên thành cũng kêu" Mỗi cử chỉ, mỗi hành vi, mỗi việc làm, lời nói đều bộc lộ phần nào phẩm chất, đạo đức, nhân cách của con người. Một khi lời nói đã thốt ra thì không bao giờ lấy lại được nữa! Câu “nhất ngôn hạ xuất, tứ mã nan truy” đủ để biết sự cẩn trọng đến nhường nào trong lời ăn tiếng nói! Vì vậy, phải giữ đúng lời hứa, không vì lý do gì mà thay đổi. Bởi giữ lời hứa là giữ uy tín, danh dự, thể diện của bản thân: "Nói lời phải giữ lấy lời. Đừng như con bướm đậu rồi lại bay "Có khi người xưa khuyên răn nên “nói ít làm nhiều”, đừng “nói nhiều làm ít” kẻo mang tiếng cười, tiếng chê bai: "Nói chín thì phải làm mười. Nói mười làm chín kẻ cười người chê”.
Mặt khác, cũng cần tránh lối nói lấp lửng, nửa úp nửa mở; khiến cho người nghe áy náy, phân vân, không rõ thực hư thế nào, gầy phiền muộn cho nhau:"Người khôn ăn nói nửa chừngĐể cho người dại nửa mừng nửa lo ”Bên cạnh đó, người xưa dạy những điều thật thấm thía: đó là khi nói, cần biết dừng lại khi cần; đừng nói dông dài “con cà, con kê” ắt sẽ làm cho người nghe nhàm chán, mất hứng thú:"Rượu lạt uống lắm cũng say. Người khôn nói lắm dẫu hay cũng nhàm ”Trong gia đình, trong làng xóm, trong quan hệ cộng đồng – sự ôn hòa, nhường nhịn là cái gốc của cuộc sống yên vui. Xưa có đôi câu đối rằng: "Nhất cần thiên hạ vô nan sự. Bách nhẫn đường trung hữu thái hòa" (Chăm làm, thiên hạ không việc khó. Tốt nhịn, gia đình lắm vẻ vui). Bài học mà ca dao dạy chúng ta thật nhẹ nhàng mà vô cùng sâu sắc: "Kim vàng ai nỡ uốn câu. Người khôn ai nỡ nói nhau nặng lời”. Đúng vậy, nói nhau làm chi nặng lời bởi trong tình huống nào cũng rất cần chữ “nhẫn” như người xưa khuyên nhủ “một câu nhịn, chín câu lành”.
Trong cuộc sống, biết bao điều phức tạp nảy sinh và lời ăn tiếng nói có tầm quan trọng hàng đầu. Tìm hiểu ca dao, chúng ta càng cảm phục cha ông, càng thấm thía những lời dạy được truyền từ đời này qua đời khác mà luôn luôn giữ nguyên giá trị của nó trong sự nghiệp xây dựng con người mới hiện nay.
Nguồn Edufly
Xem thêm: Phân tích bài thơ Câu Cá Mùa Thu của Nguyễn Khuyến hay nhất
|
Topic: The beauty of Vietnamese people through folk songs and folk songs
Folk songs are not only the voices that contain the thoughts and feelings of workers, but also are treasures of valuable life experiences for eternity. Opening each page of folk songs, we see the lives of ancient people appear in the mist of the past. In particular, human speech in communication has always been respected by the ancients and is obviously one of the moral standards of humans.
One of the top "standards" of human beauty is that "speaking" must be salty and charming: "One loves her hair without a ponytail. The two love to talk warmly and have good relationships." The old concept is that "hair with a ponytail and dimples" is physical beauty and external beauty; "Speaking salty and charming" is the beauty of the inner soul, always lasting over the years, over time... At the same time, the image of "wise people" is repeated with high frequency in the song. Knives are also something to keep in mind. "Smart people" here are not the type of people who are "clever and cunning"; live selfishly and petty lives but are humane people who know how to treat people properly and according to standards in life.
The ancients once said "soft and tight ties" - sweet, gentle words always make a good impression, bringing sympathy and joy of communication to the person they come in contact with: "A wise bird calls freely, a wise person Speak in a gentle, easy-to-listen language. Folk songs also remind and advise each other when speaking to choose words, choose words, and consider meaning. Words are always available, for each specific case we give "nice words" to each other.
See more: State your thoughts on self-study. Is there any greater joy than when in everyday life, we always hear beautiful words, good, profound words that help people live and love each other? closer, closer to each other: "Words do not cost money to buy. Choose words to say to please each other." Having a good living environment means there will be many good and beautiful words - because the living environment greatly affects the formation of human personality: "Good land grows cumbersome trees. Elegant people speak gently." "People who are quiet also speak loudly. "Every gesture, every action, every deed, every word reveals some of a person's qualities, morality, and personality. Once the words are uttered, they will never Now I can get it back again! The phrase "One word comes out, four steps are difficult to follow" is enough to know how careful you are in your words! Therefore, you must keep your promise and not change it for any reason . Because keeping a promise means keeping your reputation, honor, and face: "If you say something, you must keep it. Don't be like a butterfly that lands and then flies away." Sometimes the ancients advised to "say less and do more", don't "say more and do less" to avoid laughter and criticism: "If you say nine things, you must do ten. Saying ten makes nine people laugh and others criticize."
On the other hand, it is also necessary to avoid ambiguous, half-hidden, half-open speech; makes the listener feel guilty, confused, not sure what the truth is, and makes each other feel sad: "A wise person speaks half-heartedly, leaving foolish people half-happy and half-worried." Besides, the ancients taught truly profound things. : That is when speaking, you need to know how to stop when you need to; talking too much about "chicken, chicken" will definitely make the listener bored and lose interest: "If you drink too little wine, you will get drunk. A wise person talks a lot, even if it's good, it's boring. "In the family, in the village, in community relations - moderation and tolerance are the roots of a peaceful life. In the past, there were a couple of sentences that said: "If you work hard, the world will have no trouble. If you work hard, the world will have no difficulty. If you endure well, your family will be very happy). The lesson that folk songs teach us is very gentle but extremely profound: "With gold, no one would dare to bend a sentence. No wise person would dare to say harsh words to each other." That's right, there's no point in saying harsh words to each other because in any situation, it's okay. We really need the word "patience" as the ancients advised, "one word of patience, nine good words".
In life, many complications arise and words are of utmost importance. Learning folk songs, the more we admire our ancestors, the more deeply we understand the teachings passed down from generation to generation, which always retain their value in the cause of building new people today.
Source Edufly
See more: Analysis of the best poem Autumn Fishing by Nguyen Khuyen
|
Phân tích vẻ đẹp của khổ thơ sau: “Thuở nhỏ tôi lên chơi đền Cây Thị chân đất đi đêm xem lễ đền Sòng… cái năm đói, củ dong riềng luộc sượng Cứ nghe thơm mùi huệ trồng, hương trầm”
Gợi ý
Tuổi thơ với những kí niệm ngọt ngào luôn là nơi ngưỡng vọng cùa những con người không quên quá khứ. Với Nguyễn Duy, tuổi thơ không chỉ là nơi tìm lại được kỉ niệm ấu thơ mà còn là nơi nhà thơ được lắng hồn chiêm nghiệm về nỗi nhọc nhằn, chịu đựng của người bà kính yêu. Đò Lèn là bài thơ cảm động bởi những kí ức không thế’ mờ phai về tuổi thơ có bà che chở:
“Thuở nhỏ tôi lên chơi dền Cây Thị
chân đất đi đêm xem lễ đền Sòng…
… cái năm đói. củ dong riềng luộc sượng
cứ nghe thơm mùi huệ trắng hương trầm”.
Bài thơ có sáu khổ, đoạn được trích trên đây là ba khổ thơ giữa, nắm giữ mạch nguồn tình cảm chính trong toàn bài. Đoạn thơ bắt đầu bằng dòng hồi ức về những lần đi chơi của nhân vật trữ tình. “Thuở nhỏ” là trạng ngữ chi thời gian, hé mở cho chúng ta hình ảnh một cậu thiếu niên. Chú bé này không ra sông tắm, không đi bắt chuồn chuồn, không tha thẩn trưa hè trốn bà đi đánh trận giả mà thích thú đến chơi các đền, chùa, mải mê xem lễ Thánh. Hẳn là cậu ta đã rất hay theo bà đi đến những nơi này. Hình ảnh “chân đất đi đêm xem lễ đền Sòng” vừa gợi cái say mẻ, thích thú của con trẻ, vừa gợi cái láu lỉnh, nghịch ngợm đáng yêu. Hằn sâu trong tâm trí nhân vật tôi không phải là hình ảnh ông Bụt đang trầm ngâm nghĩ ngợi như trong thơ Trần Đăng Khoa mà là hương thơm thanh khiết của huệ trắng và khói trầm cùng điệu hát cô đồng. Có lẽ đôi mắt cậu bé còn đang mải miết theo nhìn một chùm nhãn hay một con chim sẻ nào đó nên chỉ có khứu giác và thính giác chịu nhận biết không gian. Kì diệu thay, bao nhiêu năm trôi qua, những gì còn lưu đọng lại trong trí nhớ nhân vật trữ tình lại chính là “mùi huệ trắng quyện khói trầm” và “điệu hát văn” thuở nào. Tất cả không rõ ràng, cụ thể mà chỉ là những mường tượng mơ hồ bởi nhớ về hương thơm nhưng đó chỉ là mùi hương “thơm lắm”, không quên được điệu hát nhưng cũng chi nhớ “điệu hát văn lảo đảo bóng cô đồng”. Bao nhiêu cái phai nhoà chỉ để cho nỗi nhớ hướng trọn về không gian thanh tịnh đó. Phải là người có tâm hồn nhạy cảm mới có thể nắm bắt và lưu giữ những điều linh diệu như thế.Xem thêm: Viết một đoạn văn 3-4 câu nói về mùa hè ở biển Nỗi nhớ “những chuyến hành hương lên đất Phật” thuở bé thơ không che khuât được kí ức về bà ngoại. Tất cá những gì ngày thơ trẻ vô tình giờ sông dậy thật rõ ràng:
Tôi. đâu biết bà tôi cơ cực thế
bà mò cua xúc tép ở đồng Quan
bà đi gánh chè xanh Ba Trại
Quán Cháo, Đồng Giao thập thững những đêm hàn
Cụm từ “tôi đâu biết” chứng tỏ sự thực là cho đến giờ, khi đã trưởng thành, nhân vật trữ tình mới ý thức được về những “cơ cực” bà ngoại phải chịu đựng trong suốt những năm tháng xưa. Lời thơ hàm chứa sự tự trách về thái độ vô tâm của mình. Trong nhận thức của nhân vật tôi lúc này, những lam lũ bà phải một mình chịu đựng nhiều vô kể. Phép liệt kê được nhà thơ sử dụng đế’ khắc hoạ những cơ nhọc của bà. Hàng loạt cụm động từ chỉ hành động được đưa ra: “mò cua”, “xúc tép”, gánh chè xanh”. Tuổi già phải được nghỉ ngơi, thư thái bên các con cháu, nhưng người bà của nhân vật tôi vẫn một mình tảo tần hôm sớm. Câu thơ Nguyễn Duy làm ta nhớ tới hình ảnh bà cụ già lầm lụi “quẩy gánh hàng rong” trong bài thơ Bên kia sông Đuống của Hoàng Cầm. Đã có cả một thế hệ những bà cụ già phải vất vả như thế trong những nâm tháng đau thương của dân tộc. Và không thương sao được, không nghẹn ngào sao được trước những con người như thế. Những nhọc nhằn của người bà còn được Nguyền Duy khắc sâu ‘trong bằng những tên đất nơi đôi chân trần chai sạn của bà đã đi qua. Đồng Quan, Ba Trại, Quán Cháo, Đồng Giao bốn địa danh cụ thể mở ra những hướng không gian bất tận. Nỗi khó nhọc theo đó được căng trải, mênh mông thêm. Từ láy “thập thững” cùng kết hợp từ độc đáo “những đêm hàn” gợi tả dáng đi dò dẫm mà tất tà của bà cụ trong đêm giá rét. Tưởng chừng như bao cơ nhọc cùa cuộc đời đều hiện hết trong dáng đi ấy. Lại một lần nữa ta bắt gặp trong thơ ca hình ảnh thân cò lặn lội, nhưng không phải lặn lội vì con mà lận lội vì cháu vì thế hệ thứ ba.Xem thêm: Viết khoảng 5 câu nói về một bạn hàng xóm của em
Nỗi xúc động nghẹn ngào khi nhận ra những toan lo âm thầm của bà ngoại đã khiến nhân vật trữ tình không thể thốt lên một lời cảm thán trực tiếp nào. Bất ngờ trước sự hi sinh quá đỗi to lớn của bà, nhân vật tôi không thể định hình được cám xúc, tâm trạng của mình lúc này:
Tôi trong suốt giữa hai bờ hư thực
giữa bà tôi và tiên, Phật, thánh, thần
cái năm đói, củ dong riềng luộc sượng
cứ nghe thơm mùi huệ trắng, hương trầm
Khó có thể diễn giải cho chính xác trạng thái “trong suôt” trong tâm hồn tác giả lạ như thế nào. Nếu cho khổ thơ này là sự kết đọng, hợp lưu cảm thức của hai khổ thơ trên thì trong suốt là trạng thái phân vân khó tả khi nhân vật tôi đang cố gắng phân giới hai bờ hư thực. Trước những hi sinh thầm lặng của bà ngoại, người cháu ngỡ như bà ngoại mình cùng là một vị tiên. Cảm thức tiên Phật từ những ngày thơ ấu cùng những khám phá bất ngờ về công ơn của bà là nguyên do đẩy nhân vật trữ tình vào trạng thái “trong suốt” kì lạ. Thực hay là mơ đây? Lời thơ không hề mông lung, khó hiểu nhưng những hoài nghi của nhân vật trữ tình đã dẫn ta vào một thế giới hư huyền. Kí ức lại dội về “cái năm đỏi” khốn khổ, nhưng át đi bao“cơ cực” đó là hửơng thơm hoa huệ và hương trầm. Lần thứ hai hương thơm đó trở lại trong lời thơ. Không phải là nỗi ấm ảnh khó chịu mà là sự quấn quýt của mùi hương kí ức. Phép ấn dụ chuyển đổi cảm giác thể hiện sự tình tế trong cảm nhận của nhân vật trữ tình. Hương thơm được “nghe” như thể nó là thanh âm từ xa xôi vọng về vậy. Nếu chỉ nói hương thơm đó “thoang thoảng” thì đó là thứ hương thơm của hiện tại, rồi nó.sẽ mất đi. Chữ “nghe” cho thấy hương thơm đó gắn bó với những kỉ niệm ngọt ngào thuở ấu thơ.Xem thêm: Người xưa nói: "Đừng thấy việc thiện nhỏ mà không làm, đừng thấy việc ác nhỏ mà làm." Anh (chị) suy nghĩ như thế nào về lời khuyên trên Nét nghệ thuật chủ đạo của đoạn thơ này là phép đối. Phép đối được sử dụng rất linh hoạt. Cổ khi là phép đối tương phản: giữa vị giác và khứu giác, giữa thực tế cuộc sống nghèo nàn và hương vị tinh thần phong phú. Có khi là phép đôi tương hỗ: “giữa bà tôi và tiên Phật, thánh, thần”. Tất cả chung một mục đích tô đậm cái cao cá, thanh khiết của con người.
Nếu coi ba khổ thơ là ba sự kiện thì sợi dây xuyên suốt chúng là tình yêu, là sự kính mến và biết ơn chân thành mà nhân vật trữ tình dành cho bà ngoại. Nhớ gì, nghĩ gì đi nữa, tất cả đều hướng về người bà kính yêu. Kỉ niệm về bà cũng chính là những kỉ niệm về một cõi thần tiên thuở thơ ngây. Vậy nên cảm thức về tiên Phật luôn gắn kết với tình yêu con trẻ.
Đò Lèn là bài thơ cảm động về tình yêu cháu dành cho bà. Tình cảm đó đạt đến độ sâu sắc bới nó là tình cảm đã được ý thức bởi một người trưởng thành. Đoạn thơ trên đây đã kết đọng những yêu thương chân thành nhất của người cháu khi đã lớn khôn, trở về thì bà ngoại đã mãi mãi xa khuất.
Vanmau.edu.vn
|
Phân tích vẻ đẹp của khổ thơ sau: “Thuở nhỏ tôi lên chơi đền Cây Thị chân đất đi đêm xem lễ đền Sòng… cái năm đói, củ dong riềng luộc sượng Cứ nghe thơm mùi huệ trồng, hương trầm”
Gợi ý
Tuổi thơ với những kí niệm ngọt ngào luôn là nơi ngưỡng vọng cùa những con người không quên quá khứ. Với Nguyễn Duy, tuổi thơ không chỉ là nơi tìm lại được kỉ niệm ấu thơ mà còn là nơi nhà thơ được lắng hồn chiêm nghiệm về nỗi nhọc nhằn, chịu đựng của người bà kính yêu. Đò Lèn là bài thơ cảm động bởi những kí ức không thế’ mờ phai về tuổi thơ có bà che chở:
“Thuở nhỏ tôi lên chơi dền Cây Thị
chân đất đi đêm xem lễ đền Sòng…
… cái năm đói. củ dong riềng luộc sượng
cứ nghe thơm mùi huệ trắng hương trầm”.
Bài thơ có sáu khổ, đoạn được trích trên đây là ba khổ thơ giữa, nắm giữ mạch nguồn tình cảm chính trong toàn bài. Đoạn thơ bắt đầu bằng dòng hồi ức về những lần đi chơi của nhân vật trữ tình. “Thuở nhỏ” là trạng ngữ chi thời gian, hé mở cho chúng ta hình ảnh một cậu thiếu niên. Chú bé này không ra sông tắm, không đi bắt chuồn chuồn, không tha thẩn trưa hè trốn bà đi đánh trận giả mà thích thú đến chơi các đền, chùa, mải mê xem lễ Thánh. Hẳn là cậu ta đã rất hay theo bà đi đến những nơi này. Hình ảnh “chân đất đi đêm xem lễ đền Sòng” vừa gợi cái say mẻ, thích thú của con trẻ, vừa gợi cái láu lỉnh, nghịch ngợm đáng yêu. Hằn sâu trong tâm trí nhân vật tôi không phải là hình ảnh ông Bụt đang trầm ngâm nghĩ ngợi như trong thơ Trần Đăng Khoa mà là hương thơm thanh khiết của huệ trắng và khói trầm cùng điệu hát cô đồng. Có lẽ đôi mắt cậu bé còn đang mải miết theo nhìn một chùm nhãn hay một con chim sẻ nào đó nên chỉ có khứu giác và thính giác chịu nhận biết không gian. Kì diệu thay, bao nhiêu năm trôi qua, những gì còn lưu đọng lại trong trí nhớ nhân vật trữ tình lại chính là “mùi huệ trắng quyện khói trầm” và “điệu hát văn” thuở nào. Tất cả không rõ ràng, cụ thể mà chỉ là những mường tượng mơ hồ bởi nhớ về hương thơm nhưng đó chỉ là mùi hương “thơm lắm”, không quên được điệu hát nhưng cũng chi nhớ “điệu hát văn lảo đảo bóng cô đồng”. Bao nhiêu cái phai nhoà chỉ để cho nỗi nhớ hướng trọn về không gian thanh tịnh đó. Phải là người có tâm hồn nhạy cảm mới có thể nắm bắt và lưu giữ những điều linh diệu như thế.Xem thêm: Viết một đoạn văn 3-4 câu nói về mùa hè ở biển Nỗi nhớ “những chuyến hành hương lên đất Phật” thuở bé thơ không che khuât được kí ức về bà ngoại. Tất cá những gì ngày thơ trẻ vô tình giờ sông dậy thật rõ ràng:
Tôi. đâu biết bà tôi cơ cực thế
bà mò cua xúc tép ở đồng Quan
bà đi gánh chè xanh Ba Trại
Quán Cháo, Đồng Giao thập thững những đêm hàn
Cụm từ “tôi đâu biết” chứng tỏ sự thực là cho đến giờ, khi đã trưởng thành, nhân vật trữ tình mới ý thức được về những “cơ cực” bà ngoại phải chịu đựng trong suốt những năm tháng xưa. Lời thơ hàm chứa sự tự trách về thái độ vô tâm của mình. Trong nhận thức của nhân vật tôi lúc này, những lam lũ bà phải một mình chịu đựng nhiều vô kể. Phép liệt kê được nhà thơ sử dụng đế’ khắc hoạ những cơ nhọc của bà. Hàng loạt cụm động từ chỉ hành động được đưa ra: “mò cua”, “xúc tép”, gánh chè xanh”. Tuổi già phải được nghỉ ngơi, thư thái bên các con cháu, nhưng người bà của nhân vật tôi vẫn một mình tảo tần hôm sớm. Câu thơ Nguyễn Duy làm ta nhớ tới hình ảnh bà cụ già lầm lụi “quẩy gánh hàng rong” trong bài thơ Bên kia sông Đuống của Hoàng Cầm. Đã có cả một thế hệ những bà cụ già phải vất vả như thế trong những nâm tháng đau thương của dân tộc. Và không thương sao được, không nghẹn ngào sao được trước những con người như thế. Những nhọc nhằn của người bà còn được Nguyền Duy khắc sâu ‘trong bằng những tên đất nơi đôi chân trần chai sạn của bà đã đi qua. Đồng Quan, Ba Trại, Quán Cháo, Đồng Giao bốn địa danh cụ thể mở ra những hướng không gian bất tận. Nỗi khó nhọc theo đó được căng trải, mênh mông thêm. Từ láy “thập thững” cùng kết hợp từ độc đáo “những đêm hàn” gợi tả dáng đi dò dẫm mà tất tà của bà cụ trong đêm giá rét. Tưởng chừng như bao cơ nhọc cùa cuộc đời đều hiện hết trong dáng đi ấy. Lại một lần nữa ta bắt gặp trong thơ ca hình ảnh thân cò lặn lội, nhưng không phải lặn lội vì con mà lận lội vì cháu vì thế hệ thứ ba.Xem thêm: Viết khoảng 5 câu nói về một bạn hàng xóm của em
Nỗi xúc động nghẹn ngào khi nhận ra những toan lo âm thầm của bà ngoại đã khiến nhân vật trữ tình không thể thốt lên một lời cảm thán trực tiếp nào. Bất ngờ trước sự hi sinh quá đỗi to lớn của bà, nhân vật tôi không thể định hình được cám xúc, tâm trạng của mình lúc này:
Tôi trong suốt giữa hai bờ hư thực
giữa bà tôi và tiên, Phật, thánh, thần
cái năm đói, củ dong riềng luộc sượng
cứ nghe thơm mùi huệ trắng, hương trầm
Khó có thể diễn giải cho chính xác trạng thái “trong suôt” trong tâm hồn tác giả lạ như thế nào. Nếu cho khổ thơ này là sự kết đọng, hợp lưu cảm thức của hai khổ thơ trên thì trong suốt là trạng thái phân vân khó tả khi nhân vật tôi đang cố gắng phân giới hai bờ hư thực. Trước những hi sinh thầm lặng của bà ngoại, người cháu ngỡ như bà ngoại mình cùng là một vị tiên. Cảm thức tiên Phật từ những ngày thơ ấu cùng những khám phá bất ngờ về công ơn của bà là nguyên do đẩy nhân vật trữ tình vào trạng thái “trong suốt” kì lạ. Thực hay là mơ đây? Lời thơ không hề mông lung, khó hiểu nhưng những hoài nghi của nhân vật trữ tình đã dẫn ta vào một thế giới hư huyền. Kí ức lại dội về “cái năm đỏi” khốn khổ, nhưng át đi bao“cơ cực” đó là hửơng thơm hoa huệ và hương trầm. Lần thứ hai hương thơm đó trở lại trong lời thơ. Không phải là nỗi ấm ảnh khó chịu mà là sự quấn quýt của mùi hương kí ức. Phép ấn dụ chuyển đổi cảm giác thể hiện sự tình tế trong cảm nhận của nhân vật trữ tình. Hương thơm được “nghe” như thể nó là thanh âm từ xa xôi vọng về vậy. Nếu chỉ nói hương thơm đó “thoang thoảng” thì đó là thứ hương thơm của hiện tại, rồi nó.sẽ mất đi. Chữ “nghe” cho thấy hương thơm đó gắn bó với những kỉ niệm ngọt ngào thuở ấu thơ.Xem thêm: Người xưa nói: "Đừng thấy việc thiện nhỏ mà không làm, đừng thấy việc ác nhỏ mà làm." Anh (chị) suy nghĩ như thế nào về lời khuyên trên Nét nghệ thuật chủ đạo của đoạn thơ này là phép đối. Phép đối được sử dụng rất linh hoạt. Cổ khi là phép đối tương phản: giữa vị giác và khứu giác, giữa thực tế cuộc sống nghèo nàn và hương vị tinh thần phong phú. Có khi là phép đôi tương hỗ: “giữa bà tôi và tiên Phật, thánh, thần”. Tất cả chung một mục đích tô đậm cái cao cá, thanh khiết của con người.
Nếu coi ba khổ thơ là ba sự kiện thì sợi dây xuyên suốt chúng là tình yêu, là sự kính mến và biết ơn chân thành mà nhân vật trữ tình dành cho bà ngoại. Nhớ gì, nghĩ gì đi nữa, tất cả đều hướng về người bà kính yêu. Kỉ niệm về bà cũng chính là những kỉ niệm về một cõi thần tiên thuở thơ ngây. Vậy nên cảm thức về tiên Phật luôn gắn kết với tình yêu con trẻ.
Đò Lèn là bài thơ cảm động về tình yêu cháu dành cho bà. Tình cảm đó đạt đến độ sâu sắc bới nó là tình cảm đã được ý thức bởi một người trưởng thành. Đoạn thơ trên đây đã kết đọng những yêu thương chân thành nhất của người cháu khi đã lớn khôn, trở về thì bà ngoại đã mãi mãi xa khuất.
Vanmau.edu.vn
|
Phân tích vẻ đẹp của ngôn ngữ nghệ thuật trong Tự tình (bài II)
Gợi ý
Thơ thất ngôn bát cú Đường luật lâu nay vẫn được điểm trang bằng những từ Hán Việt đài các, trau chuốt đường bệ. Ta có thể thấy tính mẫu mực ấy trong những vần thơ của Bà Huyện Thanh Quan: “Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo/ Nền cũ lâu đài bóng tịch dương”. Đến Hồ Xuân Hương, việc sử dụng ngôn từ cho thể thơ này đã khác hẳn. Bà đã lấy vẻ đẹp bình dị của những lời ăn tiếng nói hàng ngày trong dân gian để tạo nên nét đẹp riêng cho những vần thơ Đường luật quen thuộc. Có thể đơn cử bài Tự tình II.
Có thể nói, đến thế kỉ XVII, việc Việt hoá ngôn ngữ thơ ca dân tộc đã được đẩy nhanh đẩy mạnh. Nhưng hiếm ai đem những từ bình dị, gần gũi thậm chí “tầm thường” như thế này vào thơ: “cái” (hồng nhan), “toạc” (đâm toạc), “tí con con”,… Bình thường, từ chỉ xuất “cái” được đi kèm với những vật dụng tầm thường: cái dao, cái kéo,… thậm chí hàm ý coi thường: cái mặt, cái con bé này,… Từ “toạc” cũng vậy, “toạc” có nghĩa là rách to theo chiều dài. Với ý nghĩa ấy, thi nhân trung đại không biết dùng để gợi điều gì!? Từ “tí” lại được dùng nhiều trong khẩu ngữ “tí tẹo”, “tí hin”,…Từ trước đến nay, với quan niệm thơ là những lời đẹp, hiếm ai trọng dụng những lời lẽ như vậy. Nhưng việc sử dụng những từ ấy không hề làm bài thơ Đường luật bớt hay, ngược lại ý thơ thêm bội phần tinh tế. Gọi “cái hồng nhan” để nhấn mạnh cái sự “trơ” ra bẽ bàng, cô đơn, tủi hờn. Gọi “cái hồng nhan” để đối với “nước non”, có vậy hai vế đối mới cân nhau ngang ngửa. Cũng như vậy, ngoài từ “toạc” khó từ nào có thể thay thế được vào vị trí của từ này trong câu thơ: “Xiên ngang mặt đất rêu từng đám/ Đâm toạc chân mây đá mấy hòn”. Câu thơ diễn tả tâm trạng bất mãn, muốn phá phách, muốn “nổi loạn”. Ngoài từ “toạc” còn từ nào hay hơn? Với từ “tí” cũng đã có lần Nguyễn Khuyến dùng trong Thu điếu: “Sóng biếc theo làn hơi gợn tí”, nhưng ở đây, nữ sĩ sử dụng từ đặc biệt này rất tài tình: đặt trong mối quan hệ với những từ gần nghĩa theo ý tăng cấp: “Mảnh tình – san sẻ – tí con con”. “Mảnh” đã là chút thừa chút thẹo ít ỏi; nó lại bị “san sẻ” chia năm chia bảy nên còn lại tí chút và là chút “tí con con” mỏng manh khó thoả lòng người. Chút tình thừa, tình sẻ ấy ai chẳng não lòng buồn tủi? Điểm suốt bài thơ, những ngôn từ giản dị ấy không phải là hiếm: “trơ”, “ngán”, “đi", "lại”,… Ngôn ngữ nghệ thuật trong Tự tình nói riêng và thơ Hồ Xuân Hương nói chung mang vẻ đẹp của sự bình dị mà vô cùng tinh tế. Điều đó góp phần Việt hoá thể thơ Đường luật vốn cầu kì, nghiêm ngặt về hình thức, kén chọn về nội dung. Với những ý nghĩa ấy, ngôn từ giản dị, gần gũi trong thơ Hồ Xuân Hương còn mang vẻ đẹp của tình yêu ngôn ngữ dân tộc, của lòng yêu nước thiết tha sâu nặng.Xem thêm: Trình bày những nét chính về phong trào thơ MớiVanmau.edu.vn
|
Analyzing the beauty of artistic language in Self-love (part II)
Suggest
Tang Luat's seven-word, eight-syllable poetry has long been adorned with elegant Sino-Vietnamese words, elaborate and majestic. We can see that exemplary nature in the poems of Ba Huyen Thanh Quan: "The old way of horse-drawn carriages, the soul of autumn grass / The old castle's foundation has the shadow of the sun". Coming to Ho Xuan Huong, the use of language for this form of poetry was completely different. She took the simple beauty of everyday folk speech to create a unique beauty for familiar Tang Luat poems. One can take the poem "Self Love" II.
It can be said that by the 17th century, the Vietnameseization of the national poetic language was accelerated. But rarely does anyone bring simple, close, even "ordinary" words like this into poetry: "the" (red face), "tear" (pierce), "tiny child",... Normally, the word only the expression "that" is accompanied by ordinary objects: a knife, scissors,... even implying contempt for: this face, this girl,... The word "tear" is the same, "tear" means is torn along the length. With that meaning, medieval poets did not know what to use to suggest!? The word "tiny" is used a lot in the colloquial expressions "tiny", "tiny", etc. Until now, with the notion that poetry is beautiful words, rarely anyone uses such words. But the use of those words does not make the Duong luat poem less good, on the contrary, the poetic meaning becomes more subtle. Calling "red beauty" to emphasize the "inertness" of humiliation, loneliness, and sadness. Call "the red beauty" to compare with "young water", so that the two opposites are evenly balanced. Likewise, besides the word "rip", it is difficult to replace any word in the position of this word in the poem: "Crossing the ground with moss in clusters / Pierced the base of the clouds and kicked a few rocks." The poem describes the mood of dissatisfaction, wanting to destroy, wanting to "revolt". Besides the word "torn", what better word is there? Nguyen Khuyen also once used the word "tiny" in Thu eulogy: "Blue waves follow the ripples of a little breath", but here, the female artist uses this special word very cleverly: placing it in relationship with other words. Closer in meaning in the sense of leveling up: "A piece of love - sharing - a little bit". "Piece" is already a little bit of excess, a little bit of scarring; It was "shared" and divided into five and seven, so what was left was a little "tiny little thing" that was fragile and difficult to satisfy. With a little extra love, who wouldn't feel sad? Throughout the poem, those simple words are not uncommon: "inert", "bored", "going", "back",... The artistic language in Self-love in particular and Ho Xuan Huong's poetry in general brings The beauty of simplicity yet extreme sophistication. That contributed to Vietnameseizing Tang Luat poetry, which was fussy, strict in form, and picky in content. With these meanings, the simple, close language in Ho Xuan Huong's poetry also carries the beauty of love for the national language, of deep and passionate patriotism. See more: Presenting the main features of the movement New poetryVanmau.edu.vn
|
Phân tích vẻ đẹp của nhân vật Huấn Cao trong Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân
Bài làm
Nguyễn Tuân- một nhà văn nổi tiếng của làng văn học Việt Nam. Ông có những sáng tác xoay quanh những nhân vật lí tưởng về tài năng xuất chúng, về cái đẹp tinh thần như “chiếc ấm đất”, “chén trà sương”… và một lần nữa, chúng ta lại bắt gặp chân dung tài hoa trong thiên hạ, đó là Huấn Cao trong tác phẩm “Chữ người tử tù”.
Nhà văn Nguyễn Tuân đã lấy nguyên mẫu hình tượng Cao Bá Quát làm nguồn cảm hứng sáng tạo nhân vật Huấn Cao. Họ Cao là một lãnh tụ nông dân chống triều Nguyễn năm 1854. Huấn Cao được lấy từ hình tượng này với tài năng, nhân cách sáng ngời và rất đỗi tài hoa.
@ Vẻ đẹp của Huấn Cao trước hết là vẻ đẹp của con người nghệ sĩ tài hoa
Huấn Cao là một con người đại diện cho cái đẹp, từ cái tài viết chữ của một nho sĩ đến cốt cách ngạo nghễ phi thường của một bậc trượng phu , tấm lòng trong sáng của một người biết quý trọng cái tài, cái đẹp. Huấn Cao trước hết là một người có tài viết thư pháp. Chữ viết không chỉ là kí hiệu ngôn ngữ mà còn thể hiện tính cách con người. Cái tài viết chữ của ông được thể hiện qua đoạn đối thoại giữa viên quản ngục và thầy thơ lại. Tài năng của Huấn Cao còn được miêu tả qua lời người dẫn truyện và trong suy nghĩ nhân vật. Chữ của Huấn Cao “đẹp lắm, vuông lắm”, nét chữ còn thể hiện khí phách hiên ngang, tung hoành bốn bể. Chữ Huấn Cao đẹp và quý đến nỗi viên quản ngục ao ước suốt đời. Viên quản ngục đến “mất ăn mất ngủ”; không nề hà tính mạng của mình để có được chữ của Huấn Cao, “một vật báu ở trên đời”. Chữ là vật báu trên đời thì chắc chắn chủ nhân của nó phải là một người tài năng xuất chúng, phi thường có một không hai, là kết tinh mọi tinh hoa, khí thiêng của trời đất hun đúc lại mà thành. Chữ của Huấn Cao đẹp đến như vậy thì nhân cách của Huấn Cao cũng chẳng kém gì. Ông là con người tài tâm vẹn toàn.Xem thêm: Đến với tuỳ bút Người lái đò Sông Đà của Nguyễn Tuân, độc giả luôn thấy xuất hiện bên cạnh hình tượng sông Đà, người lái đò là hình tượng “tôi” – tác giả. Anh (chị) có cảm nhận gì về hình tượng đặc biệt này?
@Sự thống nhất của cái tài, cái tâm và khí phách anh hùng ở hình tượng Huấn Cao:
Huấn Cao có cốt cách ngạo nghễ, phi thường của một bậc trượng phu. Ông theo học đạo nho thì đáng lẽ phải thể hiện lòng trung quân một cách mù quáng. Nhưng ông đã không trung quân mà còn chống lại triều đình để giờ đây khép vào tội “đại nghịch”, chịu án tử hình. Bởi vì Huấn Cao có tấm lòng nhân ái bao la; ông thương cho nhân dân vô tội nghèo khổ, làm than bị áp bức bóc lột bởi giai cấp thống trị tàn bạo thối nát. Huấn Cao rất căm ghét bọn thống trị và thấu hiểu nỗi thống khổ của người dân “thấp cổ bé họng”. Nếu như Huấn Cao phục tùng bọn phong kiến kia thì ông sẽ được hưởng vinh hoa phú quý. Nhưng không, ông Huấn đã lựa chọn con đường khác: con đường đấu tranh giành quyền sống cho người dân vô tội. Cuộc đấu tranh không thành công ông bị bọn chúng bắt. Giờ đây phải sống trong cảnh ngục tối chờ ngày xử chém. Trước khi bị bắt vào ngục, viên quản ngục đã nghe tiếng đồn Huấn Cao rất giỏi võ, ông có tài “bẻ khóa, vượt ngục” chứng tỏ Huấn Cao là một người văn võ toàn tài, quả là một con người hiến có trên đời.
Tác giả miêu tả sâu sắc trạng thái tâm lý của Huấn Cao trong những ngày chờ thi hành án. Trong lúc này đây, khi mà người anh hùng “sa cơ lỡ vận” nhưng Huấn Cao vẫn giữ được khí phách hiên ngang, kiên cường. Tuy bị giam cầm về thể xác nhưng ông Huấn vẫn hoàn toàn tự do bằng hành động “dỡ cái gông nặng tám tạ xuống nền đá tảng đánh thuỳnh một cái” và “lãnh đạm” không thèm chấp sự đe dọa của tên lính áp giải. Dưới mắt ông, bọn kia chỉ là “một lũ tiểu nhân thị oai”. Cho nên, mặc dù chịu sự giam giữ của bọn chúng nhưng ông vẫn tỏ ra “khinh bạc”. Ông đứng đầu gông, ông vẫn mang hình dáng của một vị chủ soái, một vị lãnh đạo. Người anh hùng ấy dù cho thất thế nhưng vẫn giữ được thế lực, uy quyền của mình. Thật đáng khâm phục! Mặc dù ở trong tù, ông vẫn thản nhiên “ăn thịt, uống rượu như một việc vẫn làm trong hứng bình sinh”. Huấn Cao hoàn toàn tự do về tinh thần. Khi viên cai ngục hỏi Huấn Cao cần gì thì ông trả lời:Xem thêm: Kể lại câu chuyện Cây bút thần theo lời kể của em
“Ngươi hỏi ta cần gì à? Ta chỉ muốn một điều là ngươi đừng bước chân vào đây ”.
Cách trả lời ngang tàng, ngạo mạn đầy trịch thượng như vậy là bởi vì Huấn Cao vốn hiên ngang, kiên cường; “đến cái chết chém cũng còn chẳng sợ …”. Ông không thèm đếm xỉa đến sự trả thù của kẻ đã bị mình xúc phạm. Huấn Cao rất có ý thức được vị trí của mình trong xã hội, ông biết đặt vị trí của mình lên trên những loại dơ bẩn “cặn bã” của xã hội. “Bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất”. Huấn Cao là người có “thiên lương” trong sáng, cao đẹp . Theo ông, chỉ có “thiên lương”, bản chất tốt đẹp của con người mới là đáng quý. Thế nhưng khi biết được nỗi lòng của viên quản ngục, Huấn những vui vẻ nhận lời cho chữ mà còn thốt rằng: “Ta cảm tấm lòng biệt nhỡn liên tài của các ngươi. Ta biết đâu một người như thầy quản đây mà lại có sở thích cao quý đến như vậy. Thiếu chút nữa, ta đã phụ một tấm lòng trong thiên hạ”. Huấn Cao cho chữ là một việc rất hiếm bởi vì “tính ông vốn khoảnh. Ta không vì vàng bạc hay uy quyền mà ép cho chữ bao giờ”.
Hành động cho chữ viên quản ngục chứng tỏ Huấn Cao là một con người biết quý trọng cái tài, cái đẹp, biết nâng niu những kẻ tầm thường lên ngang hàng với mình.
Cảnh “cho chữ” diễn ra thật lạ, quả là cảnh tượng “xưa nay chưa từng có”. Kẻ tử tù “cổ đeo gông, chân vướng xiềng” đang “đậm tô từng nét chữ trên vuông lụa bạch trắng tinh” với tư thế ung dung tự tại, Huấn Cao đang dồn hết tinh hoa vào từng nét chữ. Đó là những nét chữ cuối cùng của con người tài hoa ấy. Những nét chữ chứa chan tấm lòng của Huấn Cao và thấm đẫm nước mắt thương cảm của người đọc. Con người tài hoa vô tội kia chỉ mới cho chữ ba lần trong đời đã vội vã ra đi, để lại biết bao tiếc nuối cho người đọc. Qua đó, Nguyễn Tuân cũng gián tiếp lên án xã hội đương thời đã vùi dập tài hoa con người. Và người tù kia bỗng trở nên có quyền uy trước những người đang chịu tránh nhiệm giam giữ mình. Ông Huấn đã khuyên viên quản ngục như một người cha khuyên bảo con: “Tôi bảo thực thầy quản nên về quê ở đã rồi hãy nghĩ đến chuyện chơi chữ. Ở đây khó giữ được thiên lương cho lành vững rồi cũng có ngày nhem nhuốc mất cái đời lương thiện đi”.Xem thêm: Nghị luận xã hội về danh và thực
Theo Huấn Cao, cái đẹp không thể nào ở chung với cái xấu được. Con người chỉ thưởng thức cái đẹp khi có bản chất trong sáng, nhân cách cao thượng mà thôi. Những nét chữ cuối cùng đã cho rồi, những lời nói cuối cùng đã nói rồi. Huấn Cao, người anh hùng tài hoa kia dù đã ra đi mãi mãi nhưng để lại ấn tượng sâu sắ cho những ai đã thấy, đã nghe, đã từng được thưởng thức nét chữ của ông. Sống trên cõi đời này, Huấn Cao đã đứng lên đấu tranh vì lẽ phải; đã xóa tan bóng tối hắc ám của cuộc đời này. Chính vì vậy, hình tượng Huấn Cao đã trở nên bất tử. Huấn Cao sẽ không chết mà bước sang một cõi khác để xua tan bóng tối nơi đó, đem lại hạnh phúc cho mọi người ở mọi nơi.
Ở Huấn Cao ánh lên vẻ đẹp của cái “tài” và cái “tâm”. Trong cái “tài” có cái “tâm” và cái “tâm” ở đây chính là nhân cách cao thượng sáng ngời của một con người tài hoa. Cái đẹp luôn song song “tâm” và “tài” thì cái đẹp đó mới trở nên có ý nghĩa thực sự. Xây dựng hình tượng Huấn Cao, nhà văn Nguyễn Tuân đã thành công trong việc xây dựng nên chân dung nghệ thuật điển hình lí tưởng trong văn học thẩm mĩ. Dù cho Huấn Cao đã đi đến cõi nào chăng nữa thì ông vẫn sẽ mãi trong lòng người đọc thế hệ hôm nay và mai sau.
|
Phân tích vẻ đẹp của nhân vật Huấn Cao trong Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân
Bài làm
Nguyễn Tuân- một nhà văn nổi tiếng của làng văn học Việt Nam. Ông có những sáng tác xoay quanh những nhân vật lí tưởng về tài năng xuất chúng, về cái đẹp tinh thần như “chiếc ấm đất”, “chén trà sương”… và một lần nữa, chúng ta lại bắt gặp chân dung tài hoa trong thiên hạ, đó là Huấn Cao trong tác phẩm “Chữ người tử tù”.
Nhà văn Nguyễn Tuân đã lấy nguyên mẫu hình tượng Cao Bá Quát làm nguồn cảm hứng sáng tạo nhân vật Huấn Cao. Họ Cao là một lãnh tụ nông dân chống triều Nguyễn năm 1854. Huấn Cao được lấy từ hình tượng này với tài năng, nhân cách sáng ngời và rất đỗi tài hoa.
@ Vẻ đẹp của Huấn Cao trước hết là vẻ đẹp của con người nghệ sĩ tài hoa
Huấn Cao là một con người đại diện cho cái đẹp, từ cái tài viết chữ của một nho sĩ đến cốt cách ngạo nghễ phi thường của một bậc trượng phu , tấm lòng trong sáng của một người biết quý trọng cái tài, cái đẹp. Huấn Cao trước hết là một người có tài viết thư pháp. Chữ viết không chỉ là kí hiệu ngôn ngữ mà còn thể hiện tính cách con người. Cái tài viết chữ của ông được thể hiện qua đoạn đối thoại giữa viên quản ngục và thầy thơ lại. Tài năng của Huấn Cao còn được miêu tả qua lời người dẫn truyện và trong suy nghĩ nhân vật. Chữ của Huấn Cao “đẹp lắm, vuông lắm”, nét chữ còn thể hiện khí phách hiên ngang, tung hoành bốn bể. Chữ Huấn Cao đẹp và quý đến nỗi viên quản ngục ao ước suốt đời. Viên quản ngục đến “mất ăn mất ngủ”; không nề hà tính mạng của mình để có được chữ của Huấn Cao, “một vật báu ở trên đời”. Chữ là vật báu trên đời thì chắc chắn chủ nhân của nó phải là một người tài năng xuất chúng, phi thường có một không hai, là kết tinh mọi tinh hoa, khí thiêng của trời đất hun đúc lại mà thành. Chữ của Huấn Cao đẹp đến như vậy thì nhân cách của Huấn Cao cũng chẳng kém gì. Ông là con người tài tâm vẹn toàn.Xem thêm: Đến với tuỳ bút Người lái đò Sông Đà của Nguyễn Tuân, độc giả luôn thấy xuất hiện bên cạnh hình tượng sông Đà, người lái đò là hình tượng “tôi” – tác giả. Anh (chị) có cảm nhận gì về hình tượng đặc biệt này?
@Sự thống nhất của cái tài, cái tâm và khí phách anh hùng ở hình tượng Huấn Cao:
Huấn Cao có cốt cách ngạo nghễ, phi thường của một bậc trượng phu. Ông theo học đạo nho thì đáng lẽ phải thể hiện lòng trung quân một cách mù quáng. Nhưng ông đã không trung quân mà còn chống lại triều đình để giờ đây khép vào tội “đại nghịch”, chịu án tử hình. Bởi vì Huấn Cao có tấm lòng nhân ái bao la; ông thương cho nhân dân vô tội nghèo khổ, làm than bị áp bức bóc lột bởi giai cấp thống trị tàn bạo thối nát. Huấn Cao rất căm ghét bọn thống trị và thấu hiểu nỗi thống khổ của người dân “thấp cổ bé họng”. Nếu như Huấn Cao phục tùng bọn phong kiến kia thì ông sẽ được hưởng vinh hoa phú quý. Nhưng không, ông Huấn đã lựa chọn con đường khác: con đường đấu tranh giành quyền sống cho người dân vô tội. Cuộc đấu tranh không thành công ông bị bọn chúng bắt. Giờ đây phải sống trong cảnh ngục tối chờ ngày xử chém. Trước khi bị bắt vào ngục, viên quản ngục đã nghe tiếng đồn Huấn Cao rất giỏi võ, ông có tài “bẻ khóa, vượt ngục” chứng tỏ Huấn Cao là một người văn võ toàn tài, quả là một con người hiến có trên đời.
Tác giả miêu tả sâu sắc trạng thái tâm lý của Huấn Cao trong những ngày chờ thi hành án. Trong lúc này đây, khi mà người anh hùng “sa cơ lỡ vận” nhưng Huấn Cao vẫn giữ được khí phách hiên ngang, kiên cường. Tuy bị giam cầm về thể xác nhưng ông Huấn vẫn hoàn toàn tự do bằng hành động “dỡ cái gông nặng tám tạ xuống nền đá tảng đánh thuỳnh một cái” và “lãnh đạm” không thèm chấp sự đe dọa của tên lính áp giải. Dưới mắt ông, bọn kia chỉ là “một lũ tiểu nhân thị oai”. Cho nên, mặc dù chịu sự giam giữ của bọn chúng nhưng ông vẫn tỏ ra “khinh bạc”. Ông đứng đầu gông, ông vẫn mang hình dáng của một vị chủ soái, một vị lãnh đạo. Người anh hùng ấy dù cho thất thế nhưng vẫn giữ được thế lực, uy quyền của mình. Thật đáng khâm phục! Mặc dù ở trong tù, ông vẫn thản nhiên “ăn thịt, uống rượu như một việc vẫn làm trong hứng bình sinh”. Huấn Cao hoàn toàn tự do về tinh thần. Khi viên cai ngục hỏi Huấn Cao cần gì thì ông trả lời:Xem thêm: Kể lại câu chuyện Cây bút thần theo lời kể của em
“Ngươi hỏi ta cần gì à? Ta chỉ muốn một điều là ngươi đừng bước chân vào đây ”.
Cách trả lời ngang tàng, ngạo mạn đầy trịch thượng như vậy là bởi vì Huấn Cao vốn hiên ngang, kiên cường; “đến cái chết chém cũng còn chẳng sợ …”. Ông không thèm đếm xỉa đến sự trả thù của kẻ đã bị mình xúc phạm. Huấn Cao rất có ý thức được vị trí của mình trong xã hội, ông biết đặt vị trí của mình lên trên những loại dơ bẩn “cặn bã” của xã hội. “Bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất”. Huấn Cao là người có “thiên lương” trong sáng, cao đẹp . Theo ông, chỉ có “thiên lương”, bản chất tốt đẹp của con người mới là đáng quý. Thế nhưng khi biết được nỗi lòng của viên quản ngục, Huấn những vui vẻ nhận lời cho chữ mà còn thốt rằng: “Ta cảm tấm lòng biệt nhỡn liên tài của các ngươi. Ta biết đâu một người như thầy quản đây mà lại có sở thích cao quý đến như vậy. Thiếu chút nữa, ta đã phụ một tấm lòng trong thiên hạ”. Huấn Cao cho chữ là một việc rất hiếm bởi vì “tính ông vốn khoảnh. Ta không vì vàng bạc hay uy quyền mà ép cho chữ bao giờ”.
Hành động cho chữ viên quản ngục chứng tỏ Huấn Cao là một con người biết quý trọng cái tài, cái đẹp, biết nâng niu những kẻ tầm thường lên ngang hàng với mình.
Cảnh “cho chữ” diễn ra thật lạ, quả là cảnh tượng “xưa nay chưa từng có”. Kẻ tử tù “cổ đeo gông, chân vướng xiềng” đang “đậm tô từng nét chữ trên vuông lụa bạch trắng tinh” với tư thế ung dung tự tại, Huấn Cao đang dồn hết tinh hoa vào từng nét chữ. Đó là những nét chữ cuối cùng của con người tài hoa ấy. Những nét chữ chứa chan tấm lòng của Huấn Cao và thấm đẫm nước mắt thương cảm của người đọc. Con người tài hoa vô tội kia chỉ mới cho chữ ba lần trong đời đã vội vã ra đi, để lại biết bao tiếc nuối cho người đọc. Qua đó, Nguyễn Tuân cũng gián tiếp lên án xã hội đương thời đã vùi dập tài hoa con người. Và người tù kia bỗng trở nên có quyền uy trước những người đang chịu tránh nhiệm giam giữ mình. Ông Huấn đã khuyên viên quản ngục như một người cha khuyên bảo con: “Tôi bảo thực thầy quản nên về quê ở đã rồi hãy nghĩ đến chuyện chơi chữ. Ở đây khó giữ được thiên lương cho lành vững rồi cũng có ngày nhem nhuốc mất cái đời lương thiện đi”.Xem thêm: Nghị luận xã hội về danh và thực
Theo Huấn Cao, cái đẹp không thể nào ở chung với cái xấu được. Con người chỉ thưởng thức cái đẹp khi có bản chất trong sáng, nhân cách cao thượng mà thôi. Những nét chữ cuối cùng đã cho rồi, những lời nói cuối cùng đã nói rồi. Huấn Cao, người anh hùng tài hoa kia dù đã ra đi mãi mãi nhưng để lại ấn tượng sâu sắ cho những ai đã thấy, đã nghe, đã từng được thưởng thức nét chữ của ông. Sống trên cõi đời này, Huấn Cao đã đứng lên đấu tranh vì lẽ phải; đã xóa tan bóng tối hắc ám của cuộc đời này. Chính vì vậy, hình tượng Huấn Cao đã trở nên bất tử. Huấn Cao sẽ không chết mà bước sang một cõi khác để xua tan bóng tối nơi đó, đem lại hạnh phúc cho mọi người ở mọi nơi.
Ở Huấn Cao ánh lên vẻ đẹp của cái “tài” và cái “tâm”. Trong cái “tài” có cái “tâm” và cái “tâm” ở đây chính là nhân cách cao thượng sáng ngời của một con người tài hoa. Cái đẹp luôn song song “tâm” và “tài” thì cái đẹp đó mới trở nên có ý nghĩa thực sự. Xây dựng hình tượng Huấn Cao, nhà văn Nguyễn Tuân đã thành công trong việc xây dựng nên chân dung nghệ thuật điển hình lí tưởng trong văn học thẩm mĩ. Dù cho Huấn Cao đã đi đến cõi nào chăng nữa thì ông vẫn sẽ mãi trong lòng người đọc thế hệ hôm nay và mai sau.
|
Phân tích vẻ đẹp của nhân vật Huấn Cao trong truyện ngắn Chữ người tử tù,
Hướng dẫn
1. Vẻ đẹp của nhân vật Huấn Cao
a) Vẻ đẹp của nhân vật Huấn Cao qua suy nghĩ, lời nói và hành động của quản ngục với thơ lại:
"… Trong đó, tôi nhận thấy tên người đứng đầu bọn phản nghịch là Huấn Cao. Tôi nghe ngờ ngợ. Huấn Cao? Hay là cái người vùng tỉnh Sơn ta vẫn khen cái tài chữ viết rất nhanh và rất đẹp đó không?". Và "Tôi nghe quen quen và thấy nhiều người nhắc đến cái danh ấy luôn, thì tôi cũng hỏi thếthôi"…
Những lời lẽ, cử chỉ của những kẻ vẫn mang tiếng là xấu, ác xem ra cũng biết đánh giá con người. Cái tài viết chữ đẹp, cái tài bẻ khoá vượt ngục của Huân Cao đã đồn đại qua nhiều người. Ngay đến cả những người tường chừng không bao giờ nghĩ đến nhân phẩm cũng nhận ra. Tính cách Huấn Cao hiện lên đậm nét chính là nhờ được trong cặp mắt và những suy nghĩ, cách đánh giá của viên quản ngục và thơ lại. Đó là tài viết chữ đẹp và "Uy vũ bất năng khuất" (Bạo lực không thể khuất phục).
b) Những ngày Huấn Cao sống trong đề lao đã được miêu tả bằng những chi tiết sau:
Huấn Cao "Vẫn thản nhiên nhận rượu thịt" trước khi dùng cơm tù. Huấn Cao là con người "phú quý bất năng dâm". Tiền bạc vật chất không thể mua chuộc.
Chi tiết thứ hai là nói với quản ngục "Ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn có một điều là nhà ngươi đừng đặt chân vào đây".
Chi tiết thứ ba là những suy nghĩ của Huấn Cao về "sự tươm tất của quản ngục". Huân Cao đâu chỉ tài hoa, dũng liệt mà biết cân nhắc lẽ phải, trái, tốt, xấu ở đời, đó là thiên tâm của ông. Một phẩm chất trụ cột để làm nên cái thiên lương cao cả. Ông biết xem xét đánh giá con người.
c) Động cơ cho chữ của Huấn Cao được ông nói rõ với thơ lại: "Chữ thì quý thực. Ta nhất sinh không vì vàng ngọc hay quyền thế mà ép mình viết câu đôi bao giờ. Đời ta cũng mới viết có hai bộ từ bình và một bức trung đường cho ba người bạn thân của ta thôi". Vậy mà lần cuối cho chữ. Phải chăng đó là tấm lòng yêu mến cái thiện, biết trân trọng ý tốt ở viên quản ngục. Ông Huấn cho chữ vì biết quản ngục có tâm hồn say mê và quý trọng cái đẹp.
Xem thêm: Vẻ đẹp độc đáo của hình tượng người lính trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng.Bút pháp lãng mạn giúp Nguyễn Tuân tạo ra nhiều chi tiết đối lập:
– Chitiết thứ nhất:
Ánh sáng của bó đuốc tẩm dầu với không gian chật hẹp và tăm tối của buồng giam.
Mùi thơm của chậu mực và tấm lụa bạch còn tươi nguyên lần hồ đối lập với mùi hôi của không khí ẩm ướt, tường đầy mạng nhện, đất bừa bãi phân gián.
– Chi tiết thứ hai:
Đối lập giữa con người: đó là sự ung dung bình tĩnh điểm tô từng nét chữ của Huấn Cao với sự "khúm núm" của viên quản ngục và "run run" của thầy thơ lại.
– Chi tiết thứ ba:
Huấn Cao vẫn "cổ đeo gông, chân vướng xiềng". Quản ngục đang chịu ơn Huấn Cao.
Cái đẹp có thể xuất hiện ở bất kỳ lúc nào, nơi nào trong cuộc đời, ngay cả trong ngục thất, trong cả những hoàn cảnh bị đoạ đầy tăm tối.
– Chi tiết thứ tư:
"Huấn Cao thở dài buồn bã đỡ viên quàn ngục đứng thẳng người dậy và đĩnh đạc bảo: "Ở đây lẫn lộn. Ta khuyên thầy Quản nên thay chốn ở đi. Chỗ này không phải là nơi để treo một bức lụa trang với những nét chữ vuông tươi tắn nó nói lên cái hoài bão tung hoành của một đời con người… Tôi bảo thực đấy, thầy Quản nên tìm về nhà quê mà ở, rồi hãy nghĩ đến chuyện chơi chữ. Ở đây khó giữ thiên lương cho lành vững và rồi cũng đến nhem nhuốc mất cái đời lương thiện đi".
2. Quan điểm của nhà văn về cái đẹp
– Nhà văn muốn tôn vinh cái đẹp: Ánh sáng chiến thắng bóng tối, cái đẹp chiến thắng sự xấu xa, nhơ bẩn. Thiện lương chiến thắng tội ác.
– Hình tượng Huấn Cao thể hiện quan điểm tiến bộ của Nguyễn Tuân về cái đẹp. Đó là tài và tâm, cái đẹp và cái thiện không thể tách rời.
Nguồn: thêm: Tác hại của ma túy (hoặc của rượu, thuốc lá...) đối với đời sống của con ngưởi
|
Analyzing the beauty of the character Huan Cao in the short story The Word of a Death Row Prisoner,
Instruct
1. The beauty of Huan Cao's character
a) The beauty of the character Huan Cao through the thoughts, words and actions of the prison guard and poetry:
"... In there, I noticed that the name of the leader of the rebels was Huan Cao. I heard some doubts. Huan Cao? Or is it the person from the Son province who always compliments him on his very quick and beautiful handwriting?" . And "I heard it was familiar and saw many people mentioning that name, so I asked the same thing"...
The words and gestures of those who still have a bad and evil reputation seem to know how to evaluate people. Huan Cao's talent for writing beautiful handwriting and his talent for breaking locks and escaping from prison have been rumored by many people. Even people who apparently never think about dignity recognize it. Huan Cao's personality appears clearly thanks to the eyes, thoughts, and assessments of the prison warden and poet. That is the talent of beautiful handwriting and "Invincible Power" (Unconquerable Violence).
b) Huan Cao's days in prison are described in the following details:
Huan Cao "Still calmly accepted the wine and meat" before eating prison food. Huan Cao is a "rich and incapable of lust" man. Material money cannot buy bribes.
The second detail is to tell the prison guard, "What do you want me to ask? I only want one thing, which is for you not to set foot here."
The third detail is Huan Cao's thoughts on "the decency of prison guards". Huan Cao is not only talented and brave but knows how to consider right, wrong, good and bad in life, that is his natural heart. A pillar quality to create a noble conscience. He knows how to evaluate people.
c) The motive for Huan Cao's words was clearly stated by him to his poem: "Words are precious. I have never been forced to write double sentences for the sake of gold or power. In my life, I have only written two volumes." Just a vase and a painting for my three close friends." Yet the last time for words. Is that the heart that loves goodness and knows how to appreciate the good intentions of the prison guard? Mr. Huan gave the letter because he knew the prison guard had a passionate soul and appreciated beauty.
See more: The unique beauty of the soldier image in the poem Tay Tien by Quang Dung. Romantic penmanship helps Nguyen Tuan create many contrasting details:
– First details:
The light of the oil-soaked torch contrasts with the cramped and dark space of the prison cell.
The scent of the ink pot and the white silk, still fresh from the starch, contrasts with the foul smell of the damp air, walls full of spider webs, and soil littered with cockroach feces.
– Second detail:
Contrast between people: it is the calm leisure that adorns every stroke of Huan Cao's handwriting with the "obsequiousness" of the prison guard and the "trembling" of the poet.
– Third detail:
Huan Cao still has "a shackle around his neck and shackles on his feet". The prison warden is beholden to Huan Cao.
Beauty can appear at any time, anywhere in life, even in prison, even in dark situations.
– Fourth detail:
"Huan Cao sighed sadly, helped the jailer stand up straight and said calmly: "It's confusing here. I advise Mr. Quan to change his place of residence. This place is not the place to hang a silk painting with bright square letters, it speaks of the ambition of a person's life... I tell you the truth, Mr. Quan should find a place to live in the countryside, then move on. Think of the pun. Here, it is difficult to maintain a good and stable morality, and eventually the honest life will be tarnished."
2. The writer's perspective on beauty
– The writer wants to honor beauty: Light wins over darkness, beauty wins over ugliness and filth. Goodness conquers evil.
– The image of Huan Cao represents Nguyen Tuan's progressive views on beauty. Talent and mind, beauty and goodness are inseparable.
Source: more: Harmful effects of drugs (or alcohol, cigarettes...) on people's lives
|
Phân tích vẻ đẹp của nhân vật trữ tình trong bài thơ Xuất dương lưu biệt của Phan Bội Châu
Gợi ý
Trong lí luận văn học, người ta thường quan niệm, nhân vật trữ tình là hình tượng văn học trực tiếp thổ lộ những cảm xúc, tình cảm, tâm trạng trong tác phẩm. Nhân vật trữ tình không có diện mạo, ngôn ngữ, hành động,…cụ thể, chi tiết như nhân vật tự sự. Trong một bài thơ trữ tình, nhân vật trữ tình có thể là chính tác giả, cũng có thể là nhà thơ hóa thân vào nhân vật khác tạo thành nhàn vãt trữ tình nhập với. Ở bài Xuất dương lưu biệt, nhân vật trữ tình chính là nhà thơ – nhà chiến sĩ cách mạng Phan Bội Châu. Bởi vậy. nói đến vẻ đẹp của nhân vật trữ tình ở bài thơ này cũng tức là nói đến vẻ đẹp tâm hồn của tác giả
Sinh thời, Phan Bội Châu rất tâm đắc câu thơ của Viên Mai (Trung Quốc):
Mỗi phạn bát vong duy trúc bạch,
Lập thân tối hạ thị văn chương.
Có thể tạm dịch là:
Mỗi bữa không quên ghi sử sách,
Lập thân hèn nhất ấy văn chương.
Như thế cũng có nghĩa là Phan Bội Châu không muốn lấy văn chương làm lẽ sống. Nhưng do yêu cầu của cách mạng, trong hơn nửa thế kỷ cấm bút, ông đã sử dụng cà chữ Hán lẫn chữ Nôm. sáng tác một khối lượng tác phẩm đồ sộ, gồm hàng trăm bài thơ, bài văn và hàng chục cuốn sách, bằng nhiêu thể loại khác nhau. Trong đó, bài thơ Xuất dương lưu biệt là một trong những tác phấm tiêu biểu. Vẻ đẹp của bài thơ này trước hết là vẻ đẹp tâm hồn của nhân vật trữ tình – tác giả.
Thơ Phan Bội Châu phản ánh cuộc đời cách mạng của nhà chí sĩ lúc lạc quan đắc ý, lúc thất bại đau buồn. Bởi vậy, khi phân tích thơ văn của ông không thể không tìm hiểu kỹ hoàn cảnh ra đời của mỗi tác phẩm. Nói ở phạm vi hẹp hơn, ta chỉ có thể hiểu được vẻ đẹp của nhân vật trữ tình trong bài Xuất dương lưu biệt nếu hiếu được kĩ lưỡng hoàn cành ra đời của bài thơ này.
Vào cuối thế kỷ XIX, sau cái chết oanh liệt của Cao Thắng và của Phan Đình Phùng, phong trào Cần Vương đã thất bại. Dẫu trên rừng Yên Thế (thuộc địa phận tình Bắc Giang) vần còn đì đoàng tiếng sung của nghĩa quân Hoàng Hoa Thám, nhưng thực chất, giặc đã làm chủ tình thế. Dần dần, chúng đặt ách đô hộ lên cả ba kì Đất nước ta lúc này thật là tăm tối. Câu chuyện "Bình Tây phục quốc” tưởng chỉ là một mớ ký ức tê tái” (Đặng Thai Mai) của người Việt Nam. Nhưng rồi, nhờ truyền thống quật cường của dân tộc, nhờ ánh hưởng của "tân thư” từ nước ngoài…, đến những năm đầu thế kỷ XX, cả một lớp nhà tho đây nhiệt huvết đã thức tỉnh với những phong trào: Duy tân. Đông du, Đông kinh nghĩa thục, chống thuế ở Trung kì. Họ tập hợp nhau lai bắt liên lạc với những lực lượng chống Pháp ở trong nước. Nhiều cậu học sinh cắt nghiến búi tóc trên đầu. quyết tâm đoạn tuyệt với lối học cử tử để đi tìm lí tưởng mới. Ho thoát li gia đinh và xuất dương, đi Tàu, đi Nhật…, đi Xiêm – "tất cá chí hướng của thế hệ trí thức yêu nước đã nhằm vào một mục tiêu vĩ đại: "Khôi phục nước nhà (Đặng Thái Mai). Trong bối cảnh ấy, năm 1905, Phan Bội Châu cùng với Tiểu La Nguyễn Thành lập tổ chức Duy Tân hội. Sau đó, theo chủ trương của hội. Phan Bội Châu chia tay bè bạn sang Trung Qưốc vã Nhật Bản. tranh thủ sự giúp đỡ của những nước nàỳ đối với phong trào cách mạng Việt Nam.Xem thêm: Em có cho rằng: "Sách là ngọn đèn sáng bất diệt của trí tuệ con người" Trước khi lên đường, vào lúc chia tay, Phan Bội Châu đã sáng tác bài Xuất dương lưu biệt (có nghĩa là: Đề lại lúc từ biệt ra nước ngoài), bằng chữ Hán theo thể thất ngôn bát cú Đuờng luật. Bài thơ này đã nhanh chóng được phổ biến rộng rãi và được dịch ra tiếng Việt. Bản dịch cùa Tôn Quang Phiệt in ở sách giáo khoa là bản dịch khá thành công, tuy có một vài chỗ chưa lột tà hết. tình thần nguyên tác.
Bài Xuất dương lưu biệt thể hiện rõ tư thế hào hùng, sự quyết tám cao độ và những ý tường mới mẻ của nhân vật trữ tình – nhà cách mạng Phan Bội Châu buổi đầu ra nước ngoài tìm đường cứu nước.
Mở đầu bài thơ, nhân vật trữ tình trực tiếp thể hiện một lí tưởng sống, một khát vọng lớn lao. Là đấng nam nhi sinh ra ở đời thì phải làm được những việc lớn lao phi thường (Điều lạ), phải chủ động xoay chuyển đất trời, không thể để cho trời đất tự chuyển vần (“Há để trời đất tự chuyển vần lấy sao”). Ý tưởng táo bạo này có lần đã được họ Phan nhắc đến với thái độ đầy lạc quan trong bài Chơi xuân:
Giang sơn còn tô vẽ mặt nam nhi,
Sinh thời thế phải xoay nên thời thế.
Đúng là làm trai, khát vọng làm được những việc to lớn vốn được Phan Bội Châu tâm niệm từ rất sớm. Sau này, ông đã kể lại trong một tác phẩm tự thuật: "Từ lúc bé đọc sách hiểu được ít nhiều nghĩa lí vẫn không thiết gì sống theo thói thường như người xung quanh" (Phan Bội Châu niên biểu). Nhưng cũng phải đến những năm đầu của thế kỷ XX, khi họ Phan có điều kiện xuất dương cứu nước, khát vong làm trai trong con người này mới được thể hiện đầy đủ. Thực ra, từ xa xưa, chi làm trai đã thường được nói đến trong văn học. Phạm Ngũ Lão – một viên tướng lừng danh thời Trần đã từng đánh đông dẹp bắc, vẫn thấy chưa trả xong "món nợ" của kẻ làm trai và cảm thấy thẹn thùng khi nghe chiến tích của Không Minh Gia Cát Lượng:Xem thêm: Viết bài nghị luận bày tỏ ý kiến của minh về phương pháp “Học đi đôi với hành" Công danh nam từ còn vương nợ
Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hàu.
(Thuật hoài)
Trong buổi "giã nhà" cùng ba quân ra chiến trường, hình tượng người chinh phu trong Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn dường như đẹp hơn, hùng dũng hơn:
Chi làm trai dặm nghìn da ngựa
Gieo Thái Sơn nhẹ tựa hồng mao.
Và Nguyễn Công Trứ cũng đã không chỉ một lần tâm niệm:
Đã mang tiếng ở trong trời đất
Phải có danh gì vói núi sông.
(Đi thi tự vịnh)
"Chí làm trai" là tư tưởng rất đáng trân trọng, là sức mạnh tình thần giúp cho nhiều người lập nên những công tích vang dội, có ích cho đất nước, cho xã hội. Đối với Phan Bội Châu, thực hiện chí nam nhi chính là chủ động tiến hành sự nghiệp cứu nước. Trong hoàn cánh ra đời của bài thơ như đã trình bày ở trên, việc khẳng định chí nam nhi càng có ý nghĩa cao cả.
Đến hai câu thực, ý tưởng của nhân vật trữ tình được triển khai rõ hơn: "Giữa khoảng trăm năm này cần phải có ta chứ, chẳng nhẽ ngàn năm sau lại không có ai (để lại tên tuổi) ư?". Người xưa quan niệm một kiếp người là 100 tuổi. Do đó, "giữa khoảng trăm năm" có nghĩa là cuộc sống một cá nhân trong thực tại. Còn ngàn năm sau là nói đến lịch sử, nổi đến tương lai. Câu đầu của phần thực, người dịch chuyển chữ ta thành chữ tớ. Tớ nói được cái hãm hở, lạc quan, trẻ trung, nhưng lại làm mất đi sự trịnh trọng đường hoàng không thật phù hợp với nội dung của đoạn thơ: long trọng tuyên bố về một lẽ sống, một tư thế vào đời của đáng tu mi nam tử. Hơn nữa, câu thơ dịch thanh thoát đọc êm tai, nhưng lại làm mất đi âm điệu chắc nịch, nói như "đinh đóng cột" của tác giả. Hai câu thơ trên thoạt xem dường như có chút ngông nghênh tự phụ, thực ra là sự bộc lộ ý thức sâu sắc về cái "tôi" cả nhân tích cực (« ai », "tôi”) này chẳng những khẳng định trách nhiệm đối với hiện lại, tức là đối với vận mệnh Hôm nay của đất nước, ma còn khẳng định nghĩa vụ đối với lịch sử muốn đời. Thật lã tư thế cua con người có chi khi lớn, muốn vươn tới đỉnh cao cùa lịch sử. Phóng tâm mắt tới nghìn đời sau tư thế ấy càng được khẳng định hiên ngang hơn nữa ở hai câu luận:Xem thêm: Phân tích bài ca dao “Bao giờ cho đến tháng ba, ếch cắn cố rắn tha ra ngoài đồng…” Non sông đã chết, sống chỉ nhục
Hỉền thánh đã vắng thì đọc sách cũng ngu thôi.
Ở con người này. sổ phận gắn làm một với số phận đất nước, sống chết cùng non sông, vinh nhục cùng Tổ quốc. Ở con người này dường như không có chút băn khoăn về quan hệ cá nhân, quan hệ đời tư. Mót tư thế sử thi hùng vĩ biết bao!
Ở dây, nhân vật trữ tình tuy nói về mình nhưng cũng là nói cho cả một. thế hệ, cả một dân tộc đang chuyển mình theo một lý tưởng cứu nước mới, phù hợp với thời đai mới. Hiền thánh đã chết, kinh sử mất thiêng, nhà thơ dứt khoát hướng thẳng về tương lai. đầy lạc quan tin tường. Bài nơ kết bằng hai câu tuvệt đẹp, đầy cảm hứng lãng mạn.
Muốn vượt biển Dông theo cánh gió,
Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi.
Dùng là con đại bàng cất cánh bay ra biển khơi, bay vào thời đại. Hình ảnh thơ nếu hiểu đúng như nguyên tắc còn lãng mạn và hào hung hơn nữa:
Thiên trùng bạch lãng nhất tẻ phi
(Ngàn đợt sóng bạc cùng bay lên)
Xuất dương lưu biệt là bài thơ tiêu biểu cho tư tưởng và phong cách Phan Bội Châu ở giai đoạn đầu của cuộc đời cách mạng, khi ông xuất dương ra đi cứu nước theo đường lối cách mạng mới mà ông xiết bao tin tưởng. Bài thơ mang khẩu khí của bậc trượng phu đội trời đạp đất. Cải hay của bài thơ xuất phát từ vẻ đẹp của nhân vật trữ tình với khát vọng làm nên sự nghiệp lớn lao, với khí thế hăm hở và "một dự cảm mới mẻ" (Nguyễn Huệ Chí) Bởi vậy, bài thơ có giá trị khích lệ, động viên, tuyên truyền cách mạng mạnh mẽ, nhất là đối với thế hệ thanh niên yêu nước hồi đầu thế kỷ này
Vanmau.edu.vn
|
Phân tích vẻ đẹp của nhân vật trữ tình trong bài thơ Xuất dương lưu biệt của Phan Bội Châu
Gợi ý
Trong lí luận văn học, người ta thường quan niệm, nhân vật trữ tình là hình tượng văn học trực tiếp thổ lộ những cảm xúc, tình cảm, tâm trạng trong tác phẩm. Nhân vật trữ tình không có diện mạo, ngôn ngữ, hành động,…cụ thể, chi tiết như nhân vật tự sự. Trong một bài thơ trữ tình, nhân vật trữ tình có thể là chính tác giả, cũng có thể là nhà thơ hóa thân vào nhân vật khác tạo thành nhàn vãt trữ tình nhập với. Ở bài Xuất dương lưu biệt, nhân vật trữ tình chính là nhà thơ – nhà chiến sĩ cách mạng Phan Bội Châu. Bởi vậy. nói đến vẻ đẹp của nhân vật trữ tình ở bài thơ này cũng tức là nói đến vẻ đẹp tâm hồn của tác giả
Sinh thời, Phan Bội Châu rất tâm đắc câu thơ của Viên Mai (Trung Quốc):
Mỗi phạn bát vong duy trúc bạch,
Lập thân tối hạ thị văn chương.
Có thể tạm dịch là:
Mỗi bữa không quên ghi sử sách,
Lập thân hèn nhất ấy văn chương.
Như thế cũng có nghĩa là Phan Bội Châu không muốn lấy văn chương làm lẽ sống. Nhưng do yêu cầu của cách mạng, trong hơn nửa thế kỷ cấm bút, ông đã sử dụng cà chữ Hán lẫn chữ Nôm. sáng tác một khối lượng tác phẩm đồ sộ, gồm hàng trăm bài thơ, bài văn và hàng chục cuốn sách, bằng nhiêu thể loại khác nhau. Trong đó, bài thơ Xuất dương lưu biệt là một trong những tác phấm tiêu biểu. Vẻ đẹp của bài thơ này trước hết là vẻ đẹp tâm hồn của nhân vật trữ tình – tác giả.
Thơ Phan Bội Châu phản ánh cuộc đời cách mạng của nhà chí sĩ lúc lạc quan đắc ý, lúc thất bại đau buồn. Bởi vậy, khi phân tích thơ văn của ông không thể không tìm hiểu kỹ hoàn cảnh ra đời của mỗi tác phẩm. Nói ở phạm vi hẹp hơn, ta chỉ có thể hiểu được vẻ đẹp của nhân vật trữ tình trong bài Xuất dương lưu biệt nếu hiếu được kĩ lưỡng hoàn cành ra đời của bài thơ này.
Vào cuối thế kỷ XIX, sau cái chết oanh liệt của Cao Thắng và của Phan Đình Phùng, phong trào Cần Vương đã thất bại. Dẫu trên rừng Yên Thế (thuộc địa phận tình Bắc Giang) vần còn đì đoàng tiếng sung của nghĩa quân Hoàng Hoa Thám, nhưng thực chất, giặc đã làm chủ tình thế. Dần dần, chúng đặt ách đô hộ lên cả ba kì Đất nước ta lúc này thật là tăm tối. Câu chuyện "Bình Tây phục quốc” tưởng chỉ là một mớ ký ức tê tái” (Đặng Thai Mai) của người Việt Nam. Nhưng rồi, nhờ truyền thống quật cường của dân tộc, nhờ ánh hưởng của "tân thư” từ nước ngoài…, đến những năm đầu thế kỷ XX, cả một lớp nhà tho đây nhiệt huvết đã thức tỉnh với những phong trào: Duy tân. Đông du, Đông kinh nghĩa thục, chống thuế ở Trung kì. Họ tập hợp nhau lai bắt liên lạc với những lực lượng chống Pháp ở trong nước. Nhiều cậu học sinh cắt nghiến búi tóc trên đầu. quyết tâm đoạn tuyệt với lối học cử tử để đi tìm lí tưởng mới. Ho thoát li gia đinh và xuất dương, đi Tàu, đi Nhật…, đi Xiêm – "tất cá chí hướng của thế hệ trí thức yêu nước đã nhằm vào một mục tiêu vĩ đại: "Khôi phục nước nhà (Đặng Thái Mai). Trong bối cảnh ấy, năm 1905, Phan Bội Châu cùng với Tiểu La Nguyễn Thành lập tổ chức Duy Tân hội. Sau đó, theo chủ trương của hội. Phan Bội Châu chia tay bè bạn sang Trung Qưốc vã Nhật Bản. tranh thủ sự giúp đỡ của những nước nàỳ đối với phong trào cách mạng Việt Nam.Xem thêm: Em có cho rằng: "Sách là ngọn đèn sáng bất diệt của trí tuệ con người" Trước khi lên đường, vào lúc chia tay, Phan Bội Châu đã sáng tác bài Xuất dương lưu biệt (có nghĩa là: Đề lại lúc từ biệt ra nước ngoài), bằng chữ Hán theo thể thất ngôn bát cú Đuờng luật. Bài thơ này đã nhanh chóng được phổ biến rộng rãi và được dịch ra tiếng Việt. Bản dịch cùa Tôn Quang Phiệt in ở sách giáo khoa là bản dịch khá thành công, tuy có một vài chỗ chưa lột tà hết. tình thần nguyên tác.
Bài Xuất dương lưu biệt thể hiện rõ tư thế hào hùng, sự quyết tám cao độ và những ý tường mới mẻ của nhân vật trữ tình – nhà cách mạng Phan Bội Châu buổi đầu ra nước ngoài tìm đường cứu nước.
Mở đầu bài thơ, nhân vật trữ tình trực tiếp thể hiện một lí tưởng sống, một khát vọng lớn lao. Là đấng nam nhi sinh ra ở đời thì phải làm được những việc lớn lao phi thường (Điều lạ), phải chủ động xoay chuyển đất trời, không thể để cho trời đất tự chuyển vần (“Há để trời đất tự chuyển vần lấy sao”). Ý tưởng táo bạo này có lần đã được họ Phan nhắc đến với thái độ đầy lạc quan trong bài Chơi xuân:
Giang sơn còn tô vẽ mặt nam nhi,
Sinh thời thế phải xoay nên thời thế.
Đúng là làm trai, khát vọng làm được những việc to lớn vốn được Phan Bội Châu tâm niệm từ rất sớm. Sau này, ông đã kể lại trong một tác phẩm tự thuật: "Từ lúc bé đọc sách hiểu được ít nhiều nghĩa lí vẫn không thiết gì sống theo thói thường như người xung quanh" (Phan Bội Châu niên biểu). Nhưng cũng phải đến những năm đầu của thế kỷ XX, khi họ Phan có điều kiện xuất dương cứu nước, khát vong làm trai trong con người này mới được thể hiện đầy đủ. Thực ra, từ xa xưa, chi làm trai đã thường được nói đến trong văn học. Phạm Ngũ Lão – một viên tướng lừng danh thời Trần đã từng đánh đông dẹp bắc, vẫn thấy chưa trả xong "món nợ" của kẻ làm trai và cảm thấy thẹn thùng khi nghe chiến tích của Không Minh Gia Cát Lượng:Xem thêm: Viết bài nghị luận bày tỏ ý kiến của minh về phương pháp “Học đi đôi với hành" Công danh nam từ còn vương nợ
Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hàu.
(Thuật hoài)
Trong buổi "giã nhà" cùng ba quân ra chiến trường, hình tượng người chinh phu trong Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn dường như đẹp hơn, hùng dũng hơn:
Chi làm trai dặm nghìn da ngựa
Gieo Thái Sơn nhẹ tựa hồng mao.
Và Nguyễn Công Trứ cũng đã không chỉ một lần tâm niệm:
Đã mang tiếng ở trong trời đất
Phải có danh gì vói núi sông.
(Đi thi tự vịnh)
"Chí làm trai" là tư tưởng rất đáng trân trọng, là sức mạnh tình thần giúp cho nhiều người lập nên những công tích vang dội, có ích cho đất nước, cho xã hội. Đối với Phan Bội Châu, thực hiện chí nam nhi chính là chủ động tiến hành sự nghiệp cứu nước. Trong hoàn cánh ra đời của bài thơ như đã trình bày ở trên, việc khẳng định chí nam nhi càng có ý nghĩa cao cả.
Đến hai câu thực, ý tưởng của nhân vật trữ tình được triển khai rõ hơn: "Giữa khoảng trăm năm này cần phải có ta chứ, chẳng nhẽ ngàn năm sau lại không có ai (để lại tên tuổi) ư?". Người xưa quan niệm một kiếp người là 100 tuổi. Do đó, "giữa khoảng trăm năm" có nghĩa là cuộc sống một cá nhân trong thực tại. Còn ngàn năm sau là nói đến lịch sử, nổi đến tương lai. Câu đầu của phần thực, người dịch chuyển chữ ta thành chữ tớ. Tớ nói được cái hãm hở, lạc quan, trẻ trung, nhưng lại làm mất đi sự trịnh trọng đường hoàng không thật phù hợp với nội dung của đoạn thơ: long trọng tuyên bố về một lẽ sống, một tư thế vào đời của đáng tu mi nam tử. Hơn nữa, câu thơ dịch thanh thoát đọc êm tai, nhưng lại làm mất đi âm điệu chắc nịch, nói như "đinh đóng cột" của tác giả. Hai câu thơ trên thoạt xem dường như có chút ngông nghênh tự phụ, thực ra là sự bộc lộ ý thức sâu sắc về cái "tôi" cả nhân tích cực (« ai », "tôi”) này chẳng những khẳng định trách nhiệm đối với hiện lại, tức là đối với vận mệnh Hôm nay của đất nước, ma còn khẳng định nghĩa vụ đối với lịch sử muốn đời. Thật lã tư thế cua con người có chi khi lớn, muốn vươn tới đỉnh cao cùa lịch sử. Phóng tâm mắt tới nghìn đời sau tư thế ấy càng được khẳng định hiên ngang hơn nữa ở hai câu luận:Xem thêm: Phân tích bài ca dao “Bao giờ cho đến tháng ba, ếch cắn cố rắn tha ra ngoài đồng…” Non sông đã chết, sống chỉ nhục
Hỉền thánh đã vắng thì đọc sách cũng ngu thôi.
Ở con người này. sổ phận gắn làm một với số phận đất nước, sống chết cùng non sông, vinh nhục cùng Tổ quốc. Ở con người này dường như không có chút băn khoăn về quan hệ cá nhân, quan hệ đời tư. Mót tư thế sử thi hùng vĩ biết bao!
Ở dây, nhân vật trữ tình tuy nói về mình nhưng cũng là nói cho cả một. thế hệ, cả một dân tộc đang chuyển mình theo một lý tưởng cứu nước mới, phù hợp với thời đai mới. Hiền thánh đã chết, kinh sử mất thiêng, nhà thơ dứt khoát hướng thẳng về tương lai. đầy lạc quan tin tường. Bài nơ kết bằng hai câu tuvệt đẹp, đầy cảm hứng lãng mạn.
Muốn vượt biển Dông theo cánh gió,
Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi.
Dùng là con đại bàng cất cánh bay ra biển khơi, bay vào thời đại. Hình ảnh thơ nếu hiểu đúng như nguyên tắc còn lãng mạn và hào hung hơn nữa:
Thiên trùng bạch lãng nhất tẻ phi
(Ngàn đợt sóng bạc cùng bay lên)
Xuất dương lưu biệt là bài thơ tiêu biểu cho tư tưởng và phong cách Phan Bội Châu ở giai đoạn đầu của cuộc đời cách mạng, khi ông xuất dương ra đi cứu nước theo đường lối cách mạng mới mà ông xiết bao tin tưởng. Bài thơ mang khẩu khí của bậc trượng phu đội trời đạp đất. Cải hay của bài thơ xuất phát từ vẻ đẹp của nhân vật trữ tình với khát vọng làm nên sự nghiệp lớn lao, với khí thế hăm hở và "một dự cảm mới mẻ" (Nguyễn Huệ Chí) Bởi vậy, bài thơ có giá trị khích lệ, động viên, tuyên truyền cách mạng mạnh mẽ, nhất là đối với thế hệ thanh niên yêu nước hồi đầu thế kỷ này
Vanmau.edu.vn
|
Phân tích Vẻ đẹp của sông Hương qua bài Ai đã đặt tên cho dòng sông – Văn lớp 12
Bài làm
“Ai đã đặt tên cho dòng sông” là bút ký của Hoàng Phủ Ngọc Tường, bài bút ký là những trang viết nhẹ nhàng miêu tả về vẻ đẹp của dòng sông Hương. Tác phẩm là sự hòa quyện giữa tình yêu thiên nhiên, tình yêu đất nước và tinh thần dân tộc. Tất cả những phẩm chất ấy được ông thể hiện rất rõ nét qua tác phẩm “Ai đã đặt tên cho dòng sông”.
Dưới ngòi bút của Hoàng Phủ Ngọc Tường, dòng sông Hương hiện lên mang một màu sắc và âm hưởng rất riêng của Huế qua sự kết hợp với nhiều góc nhìn khác nhau của tác giả từ địa lý, văn hóa, lịch sử…. Dòng sông Hương được tác giả ưu ái gọi nó bằng cái tên “dòng sông duy nhất chảy qua thành phố Huế”.
Vẻ đẹp của dòng sông Hương được tác giả miêu tả từ thượng nguồn. Vẻ đẹp đó được tác giả so sánh như cô gái Di gan phòng khoáng, mê dại, đầy sức hút. Trước khi về tới thành phố Huế, nó đã là một bản trường ca của rừng già, rầm rộ giữa những bóng cây của đại ngàn, lúc mãnh liệt vượt qua nhiều ghềnh thác, khi cuộn xoáy như cơn lốc vào những đáy vực sâu. Dòng sông mang trong mình một sức sống riêng, dường như cũng có hơi thở và sự sống, nó có thể cảm nhận được sự thay đổi của đất trời, chuyển mình theo sự biến đổi của thiên nhiên. Và khi về tới Huế, dòng sông Hương lại khoác lên mình một vẻ đẹp dịu dàng, khiến người đọc bất ngời về sự thay đổi của nó, nhẹ nhàng, uyển chuyển “trở nên dịu dàng, say đắm giữa những dặm dài chói lọi của hoa đỗ quyên rừng”. Tác giả đã ưu ái gọi nó là “người tình dịu dàng và chung thủy của cố đô”. Có lẽ, nhà văn đã có một sự khảo sát địa lý sâu rộng và sự miêu tả đầy tinh tế để có thể tái hiện thủy trình của dòng sông Hương từ trung du trở xuống tới thượng nguồn, nó liên tục chuyển dòng “theo những đường cong thật mềm, như một cuộc tìm kiếm có ý thức để đi tới nơi gặp thành phố tương lai của nó”. Nhà văn đã đặt dòng sông Hương giữa cảnh quan núi đồi, lăng tẩm, …. khi ở giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại nó như “một cô gái đẹp ngủ mơ màng “, tựa như trong những câu chuyện cổ tích. Và dòng sông bỗng chuyển mình liên tuc, “ôm lấy chân đồi Thiên Mụ”, “trôi giữa hai dãy đồi sừng sững như thành quách”…. Sông Hương đến với Huế như một sự sắp đặt tài tình của tạo hóa, là một mối duyên ngầm bắt nguồn từ xa xưa. Vẻ đẹp của dòng sông được tạo nên từ vẻ đẹp của một nền văn hóa vang bóng một thời, nhiều thăng trầm nhưng cũng dịu dàng và quyến rũ. Huế làm cho dòng sông Hương như mang một màu sắc khác, khi về với Huế, được nghe tiếng chuông chùa Thiên Mụ, nghe âm thanh bát ngát tiếng gà, … sông Hương uốn mình nhẹ nhàng qua thành phố, như một người tình lâu năm đang e ấp trong nắng mới. Có thể nói, tác giả đã miêu tả dòng sông Hương với từng đường nét mềm mại, đầy mê hoặc khiến người đọc ngỡ ngàng, say đắm của nó. Tác giả đã dành cho nó một tình cảm đặc biệt, một tình yêu tha thiết. Có như vậy, ông mới liên tưởng như sông Hương uốn một cánh cung rất nhẹ sang cồn Hến như một tiếng “vâng” của tình yêu. Đó là tình yêu với thành phố, xứ sở này, như một sự đồng tình cho sự gắn bó, khăng khít hòa hợp giữa dòng sông Hương thơ mộng và thành phố Huế. Có thể nói, dòng sông đã mang lại cho thành phố một nét đẹp rất riêng, nó vừa có nét đằm thắm, dịu dàng e ấp như của một cô gái mới biết yêu lần đầu, lại có chút phóng khoáng còn sót lại của rừng già. Nhà văn đã khéo léo so sánh sông Hương với những dòng sông nổi tiếng khác trên thế giới, sông Xen của Pari, sông Nê – va của Nga…. để cho người đọc có thể cảm nhận được nét đặc biệt và tôn vinh vẻ đẹp độc đáo của dòng sông Hương “lập lèo trong đêm sương, những ánh lửa thuyền chài của một linh hồn mô tê xưa cũ mà không còn một thành phố hiện đại nào có được”. Qua đó, ta cảm nhân được nhà văn không chỉ có một tâm hồn nhạy cảm, một cảm nhận tinh tế mà còn có một vốn kiến thức và sự trải nghiệm, hiểu biết rộng lớn với nhiều nền văn hóa khác nhau. Nhà văn còn miêu tả dòng sông qua chiều dài của lịch sử, là một minh chứng cho cho quá khứ vàng son của dân tộc chảy qua biết bao biến cố. Nó đã từng mang cái tên sông Linh Giang, dòng sông Viễn Châu đã chứng kiến cuộc đấu tranh oanh liệt của Đại Việt, đã từng soi bóng cho kinh đô Phú Xuân của anh hùng Nguyễn Huệ, rồi chứng kiến bao cuộc đấu tranh của nhân dân trong hai cuộc đấu tranh chống Pháp, chống Mĩ. Có thể nói, sông Hương không chỉ soi bóng cho con người, cho thành phố mà dường như nó còn soi bóng cho cả chiều dài lịch sử, như một chứng nhân cho sự tồn tại của bao nhiêu con người, bao nhiêu thế hệ và những thăng trầm đổi thay của thành phố này.
Tác giả cảm nhận vẻ đẹp của dòng sông Hương qua nhiều góc độ, cảm nhận khác nhau. Qua đó ta có thể cảm nhận được Hoàng Phủ Ngọc Tường có một sự cảm nhận tinh tế. Bài ký với lối viết giản dị, nhẹ nhàng nhưng đầy lôi cuốn đã tái hiện lại vẻ đẹp của dòng sông Hương với tất cả vẻ đẹp mà nó đem lại
Nguồn: Văn mẫu hayXem thêm: Ghi lại cuộc trò chuyện của em trong những tình huống gọi điện sau
|
Analyze the beauty of the Perfume River through the article Who named the river - Grade 12 Literature
Assignment
"Who named the river" is the memoir of Hoang Phu Ngoc Tuong, the memoir is a gentle description of the beauty of the Perfume River. The work is a blend of love for nature, love for country and national spirit. All of these qualities are clearly demonstrated by him in the work "Who Named the River".
Under the pen of Hoang Phu Ngoc Tuong, the Perfume River appears with a very unique color and sound of Hue through the combination of many different perspectives of the author from geography, culture, history... The author favorably calls the Perfume River by the name "the only river flowing through Hue city".
The beauty of the Perfume River is described by the author from the upstream. That beauty is compared by the author to that of a wild, crazy, and attractive gypsy girl. Before reaching Hue city, it was already an epic song of the jungle, roaring among the shadows of thousands of trees, sometimes fiercely overcoming many rapids and waterfalls, sometimes swirling like a tornado into the depths of the abyss. The river has its own vitality, it seems to have breath and life, it can feel the changes of heaven and earth, transforming according to the changes of nature. And when returning to Hue, the Perfume River puts on a gentle beauty, surprising the reader with its change, gentleness and flexibility, "becoming gentle and passionate amidst the long miles of brilliance." of wild azalea flowers". The author lovingly called it "the gentle and faithful lover of the ancient capital". Perhaps, the writer had an extensive geographical survey and a delicate description to be able to recreate the flow of the Huong River from the midlands to the upstream, it continuously changes its course "according to the the curve is so soft, like a conscious search to reach the place where it meets its future city.” The writer placed the Perfume River amidst the landscape of mountains, mausoleums, etc. When in the middle of Chau Hoa fields full of wildflowers, it is like "a beautiful girl sleeping dreamily", just like in fairy tales. And the river suddenly changed continuously, "hugging the foot of Thien Mu hill", "drifting between two ranges of hills as towering as a citadel".... The Perfume River comes to Hue as an ingenious arrangement of the Creator, a hidden relationship originating from ancient times. The beauty of the river is created from the beauty of a once glorious culture, with many ups and downs but also gentle and charming. Hue makes the Perfume River seem like it has a different color. When returning to Hue, you can hear the bells of Thien Mu Pagoda, hear the endless sounds of chickens,... the Perfume River curves gently through the city, like a long-time lover. The year is hugging in the new sunshine. It can be said that the author has described the Perfume River with its soft, enchanting lines that make readers surprised and captivated. The author has given it a special affection, a passionate love. Only then can he think of the Perfume River bending a very slight arc to Hen Islet as a "yes" of love. It is love for this city and this country, as a nod to the close connection and harmony between the poetic Perfume River and Hue city. It can be said that the river has brought to the city a very unique beauty, it has both the loving, gentle and shy features of a girl who has just fallen in love for the first time, and also has a bit of freedom left over from the forest. old. The writer cleverly compared the Perfume River with other famous rivers in the world, the Xen River of Paris, the Ne-va River of Russia.... so that readers can feel the special features and honor the unique beauty of the Perfume River "swaying in the misty night, the fishing boat fires of an old Mo Te soul that no longer has a modern city." "What great thing can it be?" Through that, we feel that the writer not only has a sensitive soul and a delicate feeling but also has a vast knowledge and experience and understanding of many different cultures. The writer also describes the river through its history, a testament to the nation's golden past flowing through many events. It was once called Linh Giang River, Vien Chau River witnessed the heroic struggle of Dai Viet, once reflected the Phu Xuan capital of hero Nguyen Hue, and witnessed many struggles of people. people in two struggles against the French and the Americans. It can be said that the Perfume River not only reflects the people and the city, but it also seems to reflect the entire length of history, as a witness to the existence of many people, many generations and generations. the ups and downs of this city.
The author feels the beauty of the Perfume River through many different angles and feelings. Through that we can feel that Hoang Phu Ngoc Tuong has a delicate perception. The essay, with its simple, gentle yet captivating writing style, recreates the beauty of the Perfume River with all the beauty it brings.
Source: Good writing sample See more: Record your conversation in the following phone call situations
|
Đề bài: Phân tích Vẻ đẹp của sông Hương qua bài Ai đã đặt tên cho dòng sông
Hoàng Phủ Ngọc Tường là một nhà văn có phong cách độc đáo và sở trường về thể bút kí, tuỳ bút. Lời văn của Hoàng Phủ Ngọc Tường được cấu tạo bởi hệ thống ngôn từ nghệ thuật sang trọng, ám ảnh, đậm chất trữ tình của cái tôi uyên bác, tài hoa. Ông là một trí thức yêu nước, đã từng gắn bó đời mình với cuộc kháng chiến chống Mỹ gian khổ, anh hùng của dân tộc. Để rồi, sau năm 1975, khi đất nước thống nhất, ông đã chắp bút viết tập kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông?”. Trong tác phẩm, nhà văn gắn bó lòng yêu nước, tinh thần dân tộc với tình yêu sâu sắc dành cho thiên nhiên đất nước và với truyền thống văn hoá lịch sử lâu đời của dân tộc mà ông đã bỏ công say mê tìm tòi, tích luỹ cả một đời người. Tất cả những phẩm chất ấy đã được thể hiện rất rõ qua việc ông tái hiện lại vẻ đẹp của dòng sông Hương như một nhân vật trữ tình, với những nét tính cách phức tạp, biến đổi một cách kì diệu trong không gian thời gian. Tất cả được phô diễn qua những lời văn giàu chất trí tuệ, kết hợp giữa tự sự và trữ tình tài hoa, mê đắm.
Phân tích Vẻ đẹp của sông Hương qua bài Ai đã đặt tên cho dòng sông
Sông Hương hiện ra qua sự kết hợp nhiều góc nhìn khác nhau của Hoàng Phủ Ngọc Tường, từ địa lý, lịch sử, văn hoá, nghệ thuật… “hình như chỉ sông Hương là thuộc về một thành phố duy nhất. Trước khi về đến vùng châu thổ êm đềm, nó đã là một bản trường ca của rừng già, rầm rộ giữa những bóng cây đại ngàn mãnh liệt qua những ghềnh thác”. Nhưng rồi cũng có những lúc sông Hương “trở nên dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng”. Viết tuỳ bút, theo Nguyễn Tuân là “lối chơi độc tấu”, “mạch văn tràn chảy tuỳ theo cảm hứng”. Đặc trưng này xác đáng với những lời văn của Hoàng Phủ Ngọc Tường miêu tả về sông Hương. Nhà văn đã đưa người đọc đến những liên tưởng bất ngờ, khi ông so sánh “Sông Hương đã sống một nửa cuộc đời mình như một cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại”. Ông cho rằng sông Hương là đứa con của rừng già với một tâm hồn tự do và trong sáng, để rồi rừng già đã chế ngự sức mạnh bản năng ở người con gái của mình để khi ra khỏi rừng, “sông Hương nhanh chóng mang một sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ, trở thành người mẹ phù sa của một vùng văn hoá xứ sở”.
Với đôi mắt khảo sát nghiêm túc của nhà địa lí có một tầm văn hoá sâu rộng, kết hợp vốn ngôn từ nghệ thuật phong phú mượt mà giàu chất thi họa, Hoàng Phủ Ngọc Tường tái hiện thủy trình của sông Hương từ vùng trung du trở xuống, nó liên tục chuyển dòng, “theo những đường cong thật mềm, như một cuộc tìm kiếm có ý thức để đi tới nơi gặp thành phố tương lai của nó”. Nhà văn đã đặt sông Hương vào giữa cảnh quan núi đồi, lăng tẩm, bãi biển vùng ngoại ô tây-nam thành phố Huế, gương mặt Hương Giang trong xanh phẳng lặng tạo nên những mảng phản quang nhiều màu sắc trên nền trời tây nam thành phố, “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím”. Hoàng Phủ Ngọc Tường đã nhìn dòng sông Hương như một chủ thể có ý thức góp phần tôn vinh thêm vẻ đẹp của xứ Huế. Và trước khi về với Huế, sông Hương trôi lặng thầm giữa một vùng không gian “Bốn bề núi phủ mây phong. Mảnh trăng thiên cổ bóng tùng vạn niên”. Giữa đám quần sơn lô xô, ở phía tây thành Huế, nơi dành cho giấc ngủ ngàn năm của các bậc vua chúa thời Nguyễn, sông Hương hiện ra với vẻ đẹp trầm mặc như triết lí, như cổ thi kéo dài mãi “giữa những xóm làng trung du bát ngát tiếng gà”. Đến khi sông Hương đổ vào thành phố tương lai của nó, “nó đã kéo một nét thẳng thực yên tâm theo hướng tây nam-đông bắc…, nó đã thấy chiếc cầu trắng của thành phố in ngần trên nền trời, nhỏ nhắn như vành trăng non”. Nhà văn đã dành cho sông Hương một tình cảm trìu mến, thân thương. Có như vậy, ông mới liên tưởng trạng thái sông Hương uốn một cánh cung rất nhẹ sang cồn Hến như một tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu. Đôi mắt sâu sắc của nhà văn đã nhìn ra mối quan hệ biện chứng giữa dòng sông Hương mềm mại với con người xứ Huế. Sông Hương dịu dàng, duyên dáng như đã góp phần hình thành nên tính cách nết na, ý nhị của người con gái cố đô.
Xem thêm: Vẻ đẹp của hai nhân vật Việt và Chiến trong truyện ngắn Những đứa con trong gia đình của Nguyễn Thi.Với một trình độ văn hoá uyên bác, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã so sánh vẻ đẹp của sông Hương với nhiều dòng sông nổi tiếng thế giới như sông Xen của Pari, sông Đa-nuýp của Bu-đa-pét, sông Nê-va của Nga,… Từ đó mà ông đã tôn vinh vẻ đẹp độc đáo của dòng sông Hương vào buổi đêm về, “vẫn lập lòe trong đêm sương, những ánh lửa thuyền chài của một linh hồn mô tê xưa cũ mà không một thành phố hiện đại nào còn nhìn thấy được”. Nhà văn quý điệu chảy lững lờ của sông Hương qua thành Huế. Ông cho rằng “Đây là điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế, có thể cảm nhận được bằng thị giác qua trăm nghìn ánh hoa đăng bồng bềnh vào những đêm hội rằm tháng bảy… chao nhẹ trên mặt nước như những vấn vương của một nỗi lòng.”
Có thể nói rằng Hoàng Phủ Ngọc Tường là một nhà văn hoá Huế, ông không chỉ nhìn sông Hương trôi ở trong thì hiện tại, ngày ngày mang phù sa và nguồn nước ngọt trao tặng vô tư cho những cánh đồng Châu Hoà, cho cuộc sống người dân xứ Huế; mà ông còn nhìn sông Hương như là khởi nguồn cho những giá trị tinh thần lịch sử. Sông Hương trong quá khứ qua các triều đại phong kiến vàng son, nó đã từng mang cái tên Linh giang, dòng sông viễn châu đã chiến đấu oanh liệt bảo vệ biên giới phía nam Tổ quốc nước Đại Việt. Nó đã từng vẻ vang soi bóng kinh thành Phú Xuân của anh hùng Nguyễn Huệ, rồi nó đi suốt qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ góp phần làm nên những chiến công lẫy lừng vang dội cả thế giới như lời đại tướng Võ Nguyên Giáp đã phát biểu: “Lịch sử Đảng đã ghi bằng nét son tên của thành phố Huế, thành phố tuy nhỏ nhưng đã cống hiến rất xứng đáng cho Tổ quốc”.
Từ hiện thực kiêu hùng của Huế, mà Hoàng Phủ Ngọc Tường cho rằng: “Sông Hương là dòng sông của thời gian ngân vang, của sử thi viết dưới màu cỏ lá xanh biếc”. Mặt khác, sông Hương cũng là cội nguồn của thi ca nghệ thuật. Có biết bao văn nhân, thi sĩ đã từng rung động với dòng sông Hương như Nguyễn Du, Cao Bá Quát, Tản Đà, Tố Hữu. Nhà văn đã tin rằng “có một dòng sông thi ca về sông Hương và tôi hy vọng đã nhận xét một cách công bằng về nó khi nói rằng dòng sông ấy không bao giờ lặp lại mình trong cảm hứng của các nghệ sĩ”. Cao Bá Quát đã từng nhìn sông Hương mà thốt lên rằng: “Trường giang như kiếm lập thanh thiên”. Tản Đà thấy “dòng sông trắng, lá cây xanh”. Hàn Mặc Tử thì lại so sánh tôn vinh sông Hương như sông ngân hà: “Thuyền ai đậu bến sông trăng đó/Có chở trăng về kịp tối nay”. Thu Bồn nhìn dòng nước lững lờ của sông Hương mà bâng khuâng “con sông dùng dằng con sông không chảy/Sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu”. Và với Nguyễn Trọng Tạo, Hương Giang lãng đãng một bầu khí quyển huyền thoại thi ca giúp nhà thơ thăng hoa những vần mê đắm:
“Con sông đám cưới Huyền Trân
Bỏ quên dải lụa phù vân trên nguồn
Hèn chi thơm thảo nỗi buồn
Niềm riêng nhuộm tím hoàng hôn đến giờ
Con sông nửa thực nửa mơ
Nửa mong Lí Bạch, nửa chờ Khuất Nguyên”
Đất nước Việt Nam có rất nhiều dòng sông chảy qua mọi miền xứ sở, và nó đã kịp chảy vào trong những vần thơ, trang văn tuyệt vời. Bạn đọc từng xót xa với Hoàng Cầm khi nghe tin sông Đuống bị quân thù chiếm đóng. Nhà thơ đã thốt lên: “Sông Đuống trôi đi/Một dòng lấp lánh/Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kì”. Công chúng yêu văn cũng đã chiêm ngưỡng vẻ đẹp hung bạo và trữ tình của “Đà Giang độc bắc lưu” qua những “trang hoa” xuất sắc của nhà tuỳ bút hàng đầu Nguyễn Tuân. Giờ chúng ta lại tìm đến với sông Hương-dòng sông chỉ tự thu mình khiêm tốn trong lãnh địa Thừa Thiên Huế, nhưng qua những trang kí tài hoa của Hoàng Phủ Ngọc Tường sông Hương hiện ra với những vẻ đẹp dịu dàng, tinh tế, góp phần làm cho Huế trở nên một bức tranh sơn thuỷ hữu tình. Hơn thế, sông Hương còn là dòng sông lịch sử, văn hoá, thơ ca, nghệ thuật. Nó đã là một phần trong đời sống tâm linh của người Huế trầm mặc, sâu sắc. Câu hỏi “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” của Hoàng Phủ Ngọc Tường đã gợi lên trong miền tình cảm của bạn đọc nhiều băn khoăn về một dòng sông ngỡ là quá quen, hoá ra lại có nhiều bí ẩn cần được khám phá thêm. Có như vậy, chúng ta mới hiểu sâu sắc hơn về quê hương đất nước, tự hào hơn về giang sơn cẩm tú Việt Nam.
Nguồn Vanmau
Xem thêm: Nghị luận văn học về hành động trả thù của Tấm– Văn 12
|
Đề bài: Phân tích Vẻ đẹp của sông Hương qua bài Ai đã đặt tên cho dòng sông
Hoàng Phủ Ngọc Tường là một nhà văn có phong cách độc đáo và sở trường về thể bút kí, tuỳ bút. Lời văn của Hoàng Phủ Ngọc Tường được cấu tạo bởi hệ thống ngôn từ nghệ thuật sang trọng, ám ảnh, đậm chất trữ tình của cái tôi uyên bác, tài hoa. Ông là một trí thức yêu nước, đã từng gắn bó đời mình với cuộc kháng chiến chống Mỹ gian khổ, anh hùng của dân tộc. Để rồi, sau năm 1975, khi đất nước thống nhất, ông đã chắp bút viết tập kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông?”. Trong tác phẩm, nhà văn gắn bó lòng yêu nước, tinh thần dân tộc với tình yêu sâu sắc dành cho thiên nhiên đất nước và với truyền thống văn hoá lịch sử lâu đời của dân tộc mà ông đã bỏ công say mê tìm tòi, tích luỹ cả một đời người. Tất cả những phẩm chất ấy đã được thể hiện rất rõ qua việc ông tái hiện lại vẻ đẹp của dòng sông Hương như một nhân vật trữ tình, với những nét tính cách phức tạp, biến đổi một cách kì diệu trong không gian thời gian. Tất cả được phô diễn qua những lời văn giàu chất trí tuệ, kết hợp giữa tự sự và trữ tình tài hoa, mê đắm.
Phân tích Vẻ đẹp của sông Hương qua bài Ai đã đặt tên cho dòng sông
Sông Hương hiện ra qua sự kết hợp nhiều góc nhìn khác nhau của Hoàng Phủ Ngọc Tường, từ địa lý, lịch sử, văn hoá, nghệ thuật… “hình như chỉ sông Hương là thuộc về một thành phố duy nhất. Trước khi về đến vùng châu thổ êm đềm, nó đã là một bản trường ca của rừng già, rầm rộ giữa những bóng cây đại ngàn mãnh liệt qua những ghềnh thác”. Nhưng rồi cũng có những lúc sông Hương “trở nên dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng”. Viết tuỳ bút, theo Nguyễn Tuân là “lối chơi độc tấu”, “mạch văn tràn chảy tuỳ theo cảm hứng”. Đặc trưng này xác đáng với những lời văn của Hoàng Phủ Ngọc Tường miêu tả về sông Hương. Nhà văn đã đưa người đọc đến những liên tưởng bất ngờ, khi ông so sánh “Sông Hương đã sống một nửa cuộc đời mình như một cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại”. Ông cho rằng sông Hương là đứa con của rừng già với một tâm hồn tự do và trong sáng, để rồi rừng già đã chế ngự sức mạnh bản năng ở người con gái của mình để khi ra khỏi rừng, “sông Hương nhanh chóng mang một sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ, trở thành người mẹ phù sa của một vùng văn hoá xứ sở”.
Với đôi mắt khảo sát nghiêm túc của nhà địa lí có một tầm văn hoá sâu rộng, kết hợp vốn ngôn từ nghệ thuật phong phú mượt mà giàu chất thi họa, Hoàng Phủ Ngọc Tường tái hiện thủy trình của sông Hương từ vùng trung du trở xuống, nó liên tục chuyển dòng, “theo những đường cong thật mềm, như một cuộc tìm kiếm có ý thức để đi tới nơi gặp thành phố tương lai của nó”. Nhà văn đã đặt sông Hương vào giữa cảnh quan núi đồi, lăng tẩm, bãi biển vùng ngoại ô tây-nam thành phố Huế, gương mặt Hương Giang trong xanh phẳng lặng tạo nên những mảng phản quang nhiều màu sắc trên nền trời tây nam thành phố, “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím”. Hoàng Phủ Ngọc Tường đã nhìn dòng sông Hương như một chủ thể có ý thức góp phần tôn vinh thêm vẻ đẹp của xứ Huế. Và trước khi về với Huế, sông Hương trôi lặng thầm giữa một vùng không gian “Bốn bề núi phủ mây phong. Mảnh trăng thiên cổ bóng tùng vạn niên”. Giữa đám quần sơn lô xô, ở phía tây thành Huế, nơi dành cho giấc ngủ ngàn năm của các bậc vua chúa thời Nguyễn, sông Hương hiện ra với vẻ đẹp trầm mặc như triết lí, như cổ thi kéo dài mãi “giữa những xóm làng trung du bát ngát tiếng gà”. Đến khi sông Hương đổ vào thành phố tương lai của nó, “nó đã kéo một nét thẳng thực yên tâm theo hướng tây nam-đông bắc…, nó đã thấy chiếc cầu trắng của thành phố in ngần trên nền trời, nhỏ nhắn như vành trăng non”. Nhà văn đã dành cho sông Hương một tình cảm trìu mến, thân thương. Có như vậy, ông mới liên tưởng trạng thái sông Hương uốn một cánh cung rất nhẹ sang cồn Hến như một tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu. Đôi mắt sâu sắc của nhà văn đã nhìn ra mối quan hệ biện chứng giữa dòng sông Hương mềm mại với con người xứ Huế. Sông Hương dịu dàng, duyên dáng như đã góp phần hình thành nên tính cách nết na, ý nhị của người con gái cố đô.
Xem thêm: Vẻ đẹp của hai nhân vật Việt và Chiến trong truyện ngắn Những đứa con trong gia đình của Nguyễn Thi.Với một trình độ văn hoá uyên bác, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã so sánh vẻ đẹp của sông Hương với nhiều dòng sông nổi tiếng thế giới như sông Xen của Pari, sông Đa-nuýp của Bu-đa-pét, sông Nê-va của Nga,… Từ đó mà ông đã tôn vinh vẻ đẹp độc đáo của dòng sông Hương vào buổi đêm về, “vẫn lập lòe trong đêm sương, những ánh lửa thuyền chài của một linh hồn mô tê xưa cũ mà không một thành phố hiện đại nào còn nhìn thấy được”. Nhà văn quý điệu chảy lững lờ của sông Hương qua thành Huế. Ông cho rằng “Đây là điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế, có thể cảm nhận được bằng thị giác qua trăm nghìn ánh hoa đăng bồng bềnh vào những đêm hội rằm tháng bảy… chao nhẹ trên mặt nước như những vấn vương của một nỗi lòng.”
Có thể nói rằng Hoàng Phủ Ngọc Tường là một nhà văn hoá Huế, ông không chỉ nhìn sông Hương trôi ở trong thì hiện tại, ngày ngày mang phù sa và nguồn nước ngọt trao tặng vô tư cho những cánh đồng Châu Hoà, cho cuộc sống người dân xứ Huế; mà ông còn nhìn sông Hương như là khởi nguồn cho những giá trị tinh thần lịch sử. Sông Hương trong quá khứ qua các triều đại phong kiến vàng son, nó đã từng mang cái tên Linh giang, dòng sông viễn châu đã chiến đấu oanh liệt bảo vệ biên giới phía nam Tổ quốc nước Đại Việt. Nó đã từng vẻ vang soi bóng kinh thành Phú Xuân của anh hùng Nguyễn Huệ, rồi nó đi suốt qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ góp phần làm nên những chiến công lẫy lừng vang dội cả thế giới như lời đại tướng Võ Nguyên Giáp đã phát biểu: “Lịch sử Đảng đã ghi bằng nét son tên của thành phố Huế, thành phố tuy nhỏ nhưng đã cống hiến rất xứng đáng cho Tổ quốc”.
Từ hiện thực kiêu hùng của Huế, mà Hoàng Phủ Ngọc Tường cho rằng: “Sông Hương là dòng sông của thời gian ngân vang, của sử thi viết dưới màu cỏ lá xanh biếc”. Mặt khác, sông Hương cũng là cội nguồn của thi ca nghệ thuật. Có biết bao văn nhân, thi sĩ đã từng rung động với dòng sông Hương như Nguyễn Du, Cao Bá Quát, Tản Đà, Tố Hữu. Nhà văn đã tin rằng “có một dòng sông thi ca về sông Hương và tôi hy vọng đã nhận xét một cách công bằng về nó khi nói rằng dòng sông ấy không bao giờ lặp lại mình trong cảm hứng của các nghệ sĩ”. Cao Bá Quát đã từng nhìn sông Hương mà thốt lên rằng: “Trường giang như kiếm lập thanh thiên”. Tản Đà thấy “dòng sông trắng, lá cây xanh”. Hàn Mặc Tử thì lại so sánh tôn vinh sông Hương như sông ngân hà: “Thuyền ai đậu bến sông trăng đó/Có chở trăng về kịp tối nay”. Thu Bồn nhìn dòng nước lững lờ của sông Hương mà bâng khuâng “con sông dùng dằng con sông không chảy/Sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu”. Và với Nguyễn Trọng Tạo, Hương Giang lãng đãng một bầu khí quyển huyền thoại thi ca giúp nhà thơ thăng hoa những vần mê đắm:
“Con sông đám cưới Huyền Trân
Bỏ quên dải lụa phù vân trên nguồn
Hèn chi thơm thảo nỗi buồn
Niềm riêng nhuộm tím hoàng hôn đến giờ
Con sông nửa thực nửa mơ
Nửa mong Lí Bạch, nửa chờ Khuất Nguyên”
Đất nước Việt Nam có rất nhiều dòng sông chảy qua mọi miền xứ sở, và nó đã kịp chảy vào trong những vần thơ, trang văn tuyệt vời. Bạn đọc từng xót xa với Hoàng Cầm khi nghe tin sông Đuống bị quân thù chiếm đóng. Nhà thơ đã thốt lên: “Sông Đuống trôi đi/Một dòng lấp lánh/Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kì”. Công chúng yêu văn cũng đã chiêm ngưỡng vẻ đẹp hung bạo và trữ tình của “Đà Giang độc bắc lưu” qua những “trang hoa” xuất sắc của nhà tuỳ bút hàng đầu Nguyễn Tuân. Giờ chúng ta lại tìm đến với sông Hương-dòng sông chỉ tự thu mình khiêm tốn trong lãnh địa Thừa Thiên Huế, nhưng qua những trang kí tài hoa của Hoàng Phủ Ngọc Tường sông Hương hiện ra với những vẻ đẹp dịu dàng, tinh tế, góp phần làm cho Huế trở nên một bức tranh sơn thuỷ hữu tình. Hơn thế, sông Hương còn là dòng sông lịch sử, văn hoá, thơ ca, nghệ thuật. Nó đã là một phần trong đời sống tâm linh của người Huế trầm mặc, sâu sắc. Câu hỏi “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” của Hoàng Phủ Ngọc Tường đã gợi lên trong miền tình cảm của bạn đọc nhiều băn khoăn về một dòng sông ngỡ là quá quen, hoá ra lại có nhiều bí ẩn cần được khám phá thêm. Có như vậy, chúng ta mới hiểu sâu sắc hơn về quê hương đất nước, tự hào hơn về giang sơn cẩm tú Việt Nam.
Nguồn Vanmau
Xem thêm: Nghị luận văn học về hành động trả thù của Tấm– Văn 12
|
Phân tích vẻ đẹp của đoạn trích Rừng Xà Nu của Nguyễn Trung Thành
Hướng dẫn
Phân tích vẻ đẹp của đoạn trích sau:
Làng ở trong tầm đại bác của đồn giặc. Chúng nó bắn, đã thành lệ, mỗi ngày hai lần, hoặc buổi sáng sớm và xế chiều, hoặc đứng bóng và sẩm tối, hoặc nửa đêm và trở gà gáy. Hầu hết đạn đại bác đều rơi vào ngọn đồi xà nu cạnh con nước lớn. Cả rừng xà nu hàng vạn cây không cócây nào không bị thương. Có những cây bị chặt đứt ngang nửa thân mình, đổ ào ào như một trận bão. Ở chỗ vết thương, nhựa ứa ra, tràn trề, thơm ngào ngạt, long lanh nắng hè gay gắt, rồi dần dần bầm lại, đen và đặc quyện thành từng cục máu lớn.
Trong rừng ít có loại cây sinh sôi nảy nở khoẻnhư vậy. Cạnh một cây xà nu mới ngã gục, đã có bốn năm cây con mọc lên, ngọn xanh rờn, hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời. Cũng có ít loại cây ham ánh sáng mặt trời đến thế. Nó phóng lên rất nhanh để tiếp lấy ánh nắng, thứ ánh nắng trong rừng rọi từ trên cao xuống từng luồng lớn thắng tắp, lóng lánh vô số hạt bụi vàng từ nhựa cây bay ra, thơm mỡ màng. Có những cây con vừa lớn ngang tầm ngực người lại bị đại bác chặt đứt làm đôi. Ở những cây đó, nhựa còn trong, chất dầu còn loãng, vết thương không lành được, cứ loét mai ra, năm mười hôm thì cây chết. Nhưng cũng có những cây vượt lên được cao hơn đầu người, cành lá sum sê như những con chim đã đủ lông mao, lông vũ. Đạn đại bác không giết nổi chúng, những vết thương của chúng chóng lành như trên một thân thể cường tráng. Chúng vượt lên rấtnhanh, thay thế những cây đã ngã… Cứ thế hai ba năm nay rừng xà nu ưỡn tấm ngực lớn của mình ra, che chở cho làng…
Đứng trên đồi xà nu ấy trông ra xa, đến hết tầm mắt cũng không thấy gì khác ngoài những đồi xà nu nối tiếp tới chân trời.
Gợi ý làm bài
a) Chỉ ra vị trí và vai trò của đoạn trích đối với truyện ngấn Rừng xà nu
– Đây là đoạn mở đầu thiên truyện về một làng Xô Man nhỏ bé nhưng kiên cường, bất khuất.
Xem thêm: Tình yêu thương giữa con người với con người thể hiện qua tác phẩm “Vợ nhặt” của Kim Lân– Đoạn trích là một bức tranh, trong đó tác giả tái hiện hình ảnh rừng xà nu hiên ngang, đầy sức sống trước sự huỷ diệt của kẻ thù. Nó là hình ảnh thu nhỏ của làng Xô Man, như là biểu tượng của người dân Tây Nguyên anh dũng, khát khao độc lập, tự do.
b) Để làm nổi bật điều đó, tác giả đã sử dụng bút pháp miêu tả giàu chất sử thi và cũpg rất lãng mạn, bay bổng
– Đối lập giữa sự tàn khốc của chiến tranh với sức sống của cây xà nu (chỉ ra các chi tiết nói về sự tàn khốc của chiến tranh và sức sống của cây xà nu).
– Tạo dựng được một bức tranh hoành tráng và đầy lãng mạn về cây xà nu, rừng xà nu (không gian ngút ngàn và hình tượng cây xà nu khoẻ khoắn, mạnh mẽ, ham ánh sáng, khí trời, tràn đầy sinh lực, căng đầy nhựa sống,…).
– Ngôn ngữ miêu tả trong đoạn trích khi mạnh mẽ, hùng tráng khi tha thiết, tự hào; vừa lãng mạn bay bổng vừa trữ tình sâu lắng… Mạnh mẽ, hùng tráng khi miêu tả, nhấn mạnh sự khốc liệt của chiến tranh; tha thiết, tự hào khi miêu tả sức sống kì diệu của cây xà nu.
– Điểm nhìn mang tính sử thi và cảm hứng lãng mạn: đó là một cái nhìn thể hiện sự khâm phục, trân trọng và ngưỡng vọng đối với cái cao cả; đó là cảm hứng ngợi ca, tôn vinh cái hùng, cái đẹp của thiên nhiên và con người.
c) Bình luận
Đoạn trích mở đầu truyện ngắn Rừng xà nu mang đầy ý nghĩa biểu trưng, là âm hưởng chủ đạo tạo phông nền cho diễn biến của toàn bộ thiên truyện. Hình tượng câyxà nu và rừng xà nu tiêu biểu cho sức sống của người dân Tây Nguyên. Mỗi cây xà nu là một con người, các thế hệ xà nu là các thế hệ người dân làng Xô Man, cả rừng xà nu là hình ảnh làng Xô Man kiên cường, bất khuất.
Trên đây chỉ là những ý chính, các bạn có thể triển khai bằng nhiều cách khác nhau và cũng có thể bổ sung, khám phá, phát hiện thêm nhiều ý khác, miễn là phải trình bày, phân tích và lập lụận sao cho hợp lí và có sức thuyết phục. Các ý trên phải được diễn đạt bằng một văn phong trong sáng, lưu loát, không mắc lỗi chính tả, ngữ pháp và các lỗi về kiến thức văn học cũng như kiến thức đời sống. Chúc các bạn học giỏi!
Nguồn: thêm: Kể về bố em và nghề nghiệp của bố
|
Analyze the beauty of the excerpt Xa Nu Forest by Nguyen Trung Thanh
Instruct
Analyze the beauty of the following excerpt:
The village was within cannon range of the enemy post. They shoot, as a rule, twice a day, either early in the morning and late afternoon, or at dusk and dusk, or at midnight and when the rooster crows. Most of the cannonballs fell on the sandbar hill next to the big water. In the whole forest of tens of thousands of trees, there was not a single tree that was not injured. Some trees were cut down halfway across their bodies, falling like a storm. At the wound, sap oozes out, overflowing, fragrant, glistening in the harsh summer sun, then gradually bruising, black and thick, forming large clots of blood.
In the forest, there are few trees that grow and flourish like that. Next to a newly fallen snakehead tree, four or five saplings have grown up, their green tops, sharp arrows shooting straight into the sky. There are also few plants that crave sunlight that much. It jumped up very quickly to catch the sunlight, the sunlight in the forest shining down from above in large streams, sparkling with countless golden dust particles flying out from the sap of the tree, fragrant and greasy. There were saplings that had just grown to human chest height but were cut in half by cannons. In those trees, the sap is still clear, the oil is still thin, the wound cannot heal, ulcers keep appearing, and within five or ten days the tree dies. But there are also trees that are taller than a person's head, with lush branches and leaves like birds with full cilia and feathers. Cannonballs could not kill them, their wounds healed as quickly as on a strong body. They went up very quickly, replacing fallen trees... Just like that for the past two or three years, the snake forest has stretched out its large chest, protecting the village...
Standing on that hill of snakes and looking into the distance, as far as the eye could see, there was nothing else but the hills of snakes continuing to the horizon.
Suggestions for homework
a) Point out the position and role of the excerpt in the story Ngan Xa Nu
– This is the beginning of a story about a small but resilient and indomitable Xo Man village.
See more: The love between people is shown through Kim Lan's work "Picked Wife" - The excerpt is a painting, in which the author recreates the image of a proud, full of vitality forest. destruction of the enemy. It is a miniature image of Xo Man village, as a symbol of the heroic people of the Central Highlands, yearning for independence and freedom.
b) To highlight that, the author used a descriptive style rich in epic and also very romantic and uplifting.
– Contrast the brutality of war with the vitality of the soapberry plant (point out details about the cruelty of war and the vitality of the snakehead plant).
– Create a majestic and romantic picture of the soapberry tree and the snakewood forest (immense space and the image of the snakehead tree being healthy, strong, hungry for light, air, full of energy, full of life,...).
– The descriptive language in the excerpt is sometimes strong and majestic, sometimes earnest and proud; Both romantic and deeply lyrical... Strong and majestic in description, emphasizing the severity of war; earnestly and proudly when describing the magical vitality of the snake plant.
– Epic point of view and romantic inspiration: it is a view that shows admiration, respect and admiration for the sublime; It is the inspiration to praise and honor the heroism and beauty of nature and humans.
c) Comment
The opening excerpt of the short story The Soap Forest is full of symbolic meaning, and is the main sound that creates the backdrop for the development of the entire story. The image of soapberry trees and snakewood forests represents the vitality of the people of the Central Highlands. Each snakehead tree is a person, generations of snakeheads are generations of people in Xo Man village, the entire snakehead forest is the image of resilient and indomitable Xo Man village.
The above are just the main ideas, you can develop them in many different ways and can also add, explore, and discover many other ideas, as long as you present, analyze, and reason appropriately. reasonable and convincing. The above ideas must be expressed in a clear, fluent style, without errors in spelling, grammar and errors in literary knowledge as well as life knowledge. Wishing you good studies!
Source: more: Tell about your father and his profession
|
Phân tích vẻ đẹp hào hùng, hào hoa, bi tráng trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
Gợi ý
YÊU CẦU
Phân tích bài thơ làm nổi rõ vẻ đẹp hào hùng, hào hoa, bi tráng của cảnh thiên nhiên Tây Bắc, chiến trường Tây Tiến và người lính Tây Tiến (qua cảm hứng lãng mạn và bút pháp lãng mạn – tài hoa của Quang Dũng).
BÀI LÀM
Ra đời trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp gian khổ, Tây Tiến là một hồi tưởng rất đẹp, những kỉ niệm đầy sống động về người chiến sĩ trong đoàn quân Tây Tiến. Hồi tưởng của một anh lính tài hoa có tinh thần xả thân vì nghĩa lớn – Quang Dũng. Cho nên, khác với vẻ đẹp của các bài thơ cùng thời, vẻ đẹp của Tây Tiến là vẻ đẹp hài hòa, hào hoa, bi tráng. Bài thơ mở đầu với một tiếng gọi dồn chứa tâm trạng, thoạt đầu đọc lên có vẻ lạ lùng:
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi.
Hai câu thơ xác định rõ hai khoảng không gian khác nhau. Không gian thực tại và không gian hồi tưởng. Tuy nhiên, chỉ có độc giả mới nhận ra rành rõ điều đó, còn đối với nhà thơ, khi ông nói "xa rồi" là khi những hình ảnh của một quá khứ chưa xa đang ập tới; nhấc bổng ông khỏi mảnh đất thực tại, để hồn thơ lơ lửng, "chơi vơi trong cõi nhớ" cũng "xa rồi" chứ đâu chỉ "Sông Mã".
Vậy là, chẳng cần đến sự dẫn dắt dềnh dàng nhằm chuyển vùng không gian cho người đọc, một thời Tây Tiến đã hiện lên tức khắc trước mắt ta. Trong kí ức nhà thơ, các ấn tượng hãy còn nóng hổi, tươi nguyên và cái nặng nhọc, vất vả ngày nào dường như còn chưa tan hẳn, ta thấy các địa danh được hiện lên, tất cả hãy còn đây rành rành trong tâm trí:
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi.
Sự hiện tại hóa quá khứ dưới tác động của một kí ức sâu mạnh đã vẽ nên một bức tranh roi rót ấn tượng về thiên nhiên khắc nghiệt nhưng cũng tràn đầy thơ mộng. Thiên nhiên ấy thường vẫn thử thách các chiến sĩ, đôi khi muốn vùi lấp những sinh mạng bé nhỏ trong những khoảnh khắc của thung lũng sương mù. Nhưng cũng chính khung cảnh này, khiến tâm hồn của các chàng trai gốc Hà Nội được một phen bay bổng. Nếu "sương lấp" lạnh lùng, nặng nề đe dọa bao nhiêu thì "hoa về" lại nhẹ nhõm, tươi tắn, ấm áp bấy nhiêu. "Hoa về trong đêm hơi" – Câu thơ nhiều thanh bằng diễn tả một trạng thái lâng lâng. Dĩ nhiên là cái lâng lâng vừa đến sau một chặng đường mỏi mệt. Khung cảnh rừng núi mà đoàn quân Tây Tiến đã bước chân qua, vừa thơ mộng lại vừa hùng vĩ. Một bức tranh làm xao động lòng ta như một bức tranh thủy mặc hiện đại: "Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi". Lại có những nét vẽ thật táo bạo, câu thơ như bẻ gãy làm đôi: "Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống". Có lúc, hình ảnh núi rừng rộn lên bởi tiếng hô gầm thét, lại có lúc hình ảnh nên thơ duyên dáng về một cô gái cùng con thuyền độc mộc trên dòng sông chảy xiết. Cảm hứng lãng mạn của Quang Dũng không làm hạn hẹp đề tài, trái lại, qua cảm hứng này, tâm hồn ông rộng mở với toàn cảnh của núi rừng Tây Bắc, khiến tâm hồn ta đẹp một cách phóng khoáng. Xem thêm: Phân tích diễn biến tâm trạng nhân vật ông Hai trong truyện ngắn Làng của Kim Lân Kết thúc đoạn thơ, đợt sóng cồn của kí ức bị đánh thức đột ngột hình như tan dần. Đợt sóng mới chưa được hình thành nên lúc này kí ức được kéo dãn ra, nhẹ nhàng lan tỏa để các hình ảnh tươi tắn hơn. Độc giả lại được dịp "nghỉ ngơi" để có thể nghiêng ngả theo điệu múa trong đêm liên hoan văn nghệ với "Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa" và được thả hồn "đong đưa" theo cánh hoa tươi trên dòng nước lũ.
Thiên nhiên trong Tây Tiến bao giờ cũng là một nhân vật quan trọng, tràn đầy sinh lực và thấm đượm tình người. Hồn thơ tinh tế của tác giả "bắt" rất nhạy một làn sương chiều mỏng, một dáng hoa lau núi phất phơ đơn sơ bất chợt. Rồi nhà thơ thổi hồn mình vào đó và để lại mãi trong ta một niềm bâng khuâng, thương mến. Và một áng thơ đẹp xuất hiện như mây chiều biên ải:
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ.
Tây Tiến hiện lên khung cảnh thiên nhiên hoang sơ, kì vĩ với đủ cả núi cao, vực thẳm, dốc đứng, thác gầm cùng cồn mây heo hút, dòng lũ hoa trôi với khói lên, sương lấp, mưa xa khơi… Trên cái nền thiên nhiên kì vĩ, dữ dội ấy, nổi bật lên hình ảnh đoàn quân Tây Tiến "nhỏ bé" như bị ngập hút đi. Nhưng chính sự đối chọi, tương phản đó càng tăng thêm khí phách anh hùng của đoàn quân Cách mạng, mà kẻ thù, cũng như gian khổ không thể khuất phục nổi. Hình ảnh những người lính qua nét vẽ của Quang Dũng thật khác thường. Khác thường ở sự gian khổ cùng cực: ăn đói, mặc rét, bệnh tật, sốt rét đến xanh da, trụi tóc. Khác thường ở chỗ tác giả cố ý không miêu tả một gương mặt chiến sĩ riêng biệt với tên tuổi cụ thể nào, ông đã dồn các phẩm chất tốt đẹp của những tráng sĩ Tây Tiến thành gương mặt chung của cả một đoàn quân: Xem thêm: Nghệ thuật khắc họa tính cách nhân vật Huấn Cao trong tác phẩm Chữ người tử tù của tác giả Nguyễn Tuân
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.
Ta có thể hiểu, đây là hình ảnh khá chân thật về diện mạo bên ngoài người lính mũ cài lá ngụy trang, thân thể xanh xao vì sốt rét. Nhưng cảm hứng ở đây lại tràn đầy một nỗi niềm thân quen. Từ thân quen mà thấy cái anh hùng của họ. Câu thơ tạo nên hình ảnh đối lập, bề ngoài thì xanh như lá, thiếu sức sống, nhưng bên trong người chiến sĩ thể hiện một phong độ anh hùng, oai như hùm nơi "rừng thiêng nước độc". Câu thơ "Quân xanh màu lá dữ oai hùm" đã gợi được dũng khí của người chiến binh thuở ấy. Nó mang cái dáng dấp kiêu hùng của người coi thường gian khổ, hi sinh để giữ cái thế hiên ngang của đoàn quân Tây Tiến. Hiên ngang và thật lãng mạn. Với bút pháp lãng mạn và cảm hứng say nồng, Quang Dũng đã dựng nên cái tương phản trong hình ảnh để rồi hòa hợp với tâm hồn làm cho ta thấu hiểu và cảm thông, tìm thấy ở đây một hình ảnh đẹp.
Người Hà Nội trở thành người chiến binh thì cái oai phong cũng rất Hà Nội. Quang Dũng đã viết đúng hình ảnh người lính Tây Tiến từ Hà Nội chiến tranh mà ra đi:
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.
Thực ra hai câu thơ ấy chỉ là nỗi lòng của nhà thơ muốn bộc lộ thật đậm, thật rõ chất lính của người thanh niên Hà Nội tài hoa lãng mạn. Lại có người nói: thời chiến chinh ác liệt nói về giấc mơ "dáng kiều thơm" là xa rời tinh thần chiến đấu. Thực ra cuộc đời con người vô cùng phong phú, tâm trạng của chàng trai Hà Nội lại càng có những nét hào hoa và tình cảm riêng. Cho nên nói người lính Tây Tiến "Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm", chỉ tô đậm cái đẹp của những con người ấy mà thôi. Hơn nữa, vẻ đẹp chân thực không bao giờ làm cho con người giảm sút lòng chiến đấu. Phẩm chất người lính qua hồi tưởng của Quang Dũng đã hiện lên vừa hào hùng, hào hoa và cũng vừa bi tráng. Nhà thơ đã nhìn thẳng vào những tổn thất hi sinh để viết những câu thơ: Xem thêm: Tiểu thuyết Tắt đèn của Ngô Tất Tố và truyện ngắn Chí Phèo của Nam Cao đều viết về người nông dân nghèo trong xã hội cũ. Anh (chị) hãy phân tích truyện Chí Phèo trong sự đối sánh với Tắt đèn để thấy được sự độc đáo, mới mẻ về hiện thực của ngòi bút ông Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Câu thơ có cái gì xót xa gợi niềm cảm thương trong lòng người đọc. Miền đất biên ải xa xôi đã yên nghỉ bao cuộc đời người lính. Nơi đó có chút gì hoang vắng ghê rợn trước những nấm mồ viễn xứ. Nhưng rồi sau đó cảm hứng thơ lại bừng lên những suy nghĩ thật hào hùng "Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh", thể hiện một sự quên mình của lớp trẻ thanh niên đầy nghĩa khí. Phương châm sống của họ cao đẹp mà giản dị. Thời ấy không ít thơ viết về người chiến sĩ, nhưng chỉ có Tây Tiến của Quang Dũng mạnh dạn nói đến cái chết. Cái chết tạo nên vinh quang của tuổi xanh thầm lặng mà cao cả hiến mình cho dân tộc.
Nét đặc sắc của Quang Dũng trong Tây Tiến còn thể hiện ở một ngòi bút sắc sảo tinh tế. Viết về chiến tranh, nhưng cả bài thơ không có một chữ nào về trận đánh, về tiếng súng, về máu đổ hay về kẻ thù. Người đọc vẫn hình dung rất rõ gương mặt và không khí của chiến tranh. Điều lạ lùng là bài thơ có ba lần nói đến cái chết của người chiến sĩ trong các trường hợp khác nhau, nhưng không một lần nhà thơ nhắc tới từ "chết" hoặc "hi sinh". Nhà thơ đã thay thế từ "chết" bằng các cụm từ giản dị "về đất", "bỏ quên đời", "hồn về"… Đến đoạn thơ cuối lí tưởng cách mạng và tuổi trẻ đã truyền cho các chàng trai Tây Tiến chất anh hùng ngang tàng và cả chất men say lãng mạn đáng yêu. Ngay cả khi họ chết cũng phảng phất vẻ nghệ sĩ – tài tử, cái đẹp bi tráng chứ không bi lụy.
Để tiễn người lính Tây Tiến hi sinh, Quang Dũng không cần đến một lời ngợi ca sáo mòn nào, cũng không cần đến một giọt nước mắt… ông chỉ để cho trời đất chứng giám, thu nhận thể xác và linh hồn người lính vào lòng: "Sông Mã gầm lên khúc độc hành" tiếc thương đưa người lính Tây Tiến vào cõi bất tử. Bởi vì, kể từ đây hồn các anh đã hòa quyện vào cỏ cây, sông núi để trở thành "hồn thiêng đất nước".
Nhà phê bình Phong Lan nhận định: "Tây Tiến một tượng đài bất tử về người lính vô danh". Bất tử bởi chính vẻ đẹp hào hùng, hào hoa, bi tráng này. Và do vậy, người lính Tây Tiến qua bài thơ cùng tên của Quang Dũng sẽ sống mãi trong cõi vĩnh hằng và trong thế giới nhân sinh.
Vanmau.edu.vn
|
Phân tích vẻ đẹp hào hùng, hào hoa, bi tráng trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
Gợi ý
YÊU CẦU
Phân tích bài thơ làm nổi rõ vẻ đẹp hào hùng, hào hoa, bi tráng của cảnh thiên nhiên Tây Bắc, chiến trường Tây Tiến và người lính Tây Tiến (qua cảm hứng lãng mạn và bút pháp lãng mạn – tài hoa của Quang Dũng).
BÀI LÀM
Ra đời trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp gian khổ, Tây Tiến là một hồi tưởng rất đẹp, những kỉ niệm đầy sống động về người chiến sĩ trong đoàn quân Tây Tiến. Hồi tưởng của một anh lính tài hoa có tinh thần xả thân vì nghĩa lớn – Quang Dũng. Cho nên, khác với vẻ đẹp của các bài thơ cùng thời, vẻ đẹp của Tây Tiến là vẻ đẹp hài hòa, hào hoa, bi tráng. Bài thơ mở đầu với một tiếng gọi dồn chứa tâm trạng, thoạt đầu đọc lên có vẻ lạ lùng:
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi.
Hai câu thơ xác định rõ hai khoảng không gian khác nhau. Không gian thực tại và không gian hồi tưởng. Tuy nhiên, chỉ có độc giả mới nhận ra rành rõ điều đó, còn đối với nhà thơ, khi ông nói "xa rồi" là khi những hình ảnh của một quá khứ chưa xa đang ập tới; nhấc bổng ông khỏi mảnh đất thực tại, để hồn thơ lơ lửng, "chơi vơi trong cõi nhớ" cũng "xa rồi" chứ đâu chỉ "Sông Mã".
Vậy là, chẳng cần đến sự dẫn dắt dềnh dàng nhằm chuyển vùng không gian cho người đọc, một thời Tây Tiến đã hiện lên tức khắc trước mắt ta. Trong kí ức nhà thơ, các ấn tượng hãy còn nóng hổi, tươi nguyên và cái nặng nhọc, vất vả ngày nào dường như còn chưa tan hẳn, ta thấy các địa danh được hiện lên, tất cả hãy còn đây rành rành trong tâm trí:
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi.
Sự hiện tại hóa quá khứ dưới tác động của một kí ức sâu mạnh đã vẽ nên một bức tranh roi rót ấn tượng về thiên nhiên khắc nghiệt nhưng cũng tràn đầy thơ mộng. Thiên nhiên ấy thường vẫn thử thách các chiến sĩ, đôi khi muốn vùi lấp những sinh mạng bé nhỏ trong những khoảnh khắc của thung lũng sương mù. Nhưng cũng chính khung cảnh này, khiến tâm hồn của các chàng trai gốc Hà Nội được một phen bay bổng. Nếu "sương lấp" lạnh lùng, nặng nề đe dọa bao nhiêu thì "hoa về" lại nhẹ nhõm, tươi tắn, ấm áp bấy nhiêu. "Hoa về trong đêm hơi" – Câu thơ nhiều thanh bằng diễn tả một trạng thái lâng lâng. Dĩ nhiên là cái lâng lâng vừa đến sau một chặng đường mỏi mệt. Khung cảnh rừng núi mà đoàn quân Tây Tiến đã bước chân qua, vừa thơ mộng lại vừa hùng vĩ. Một bức tranh làm xao động lòng ta như một bức tranh thủy mặc hiện đại: "Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi". Lại có những nét vẽ thật táo bạo, câu thơ như bẻ gãy làm đôi: "Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống". Có lúc, hình ảnh núi rừng rộn lên bởi tiếng hô gầm thét, lại có lúc hình ảnh nên thơ duyên dáng về một cô gái cùng con thuyền độc mộc trên dòng sông chảy xiết. Cảm hứng lãng mạn của Quang Dũng không làm hạn hẹp đề tài, trái lại, qua cảm hứng này, tâm hồn ông rộng mở với toàn cảnh của núi rừng Tây Bắc, khiến tâm hồn ta đẹp một cách phóng khoáng. Xem thêm: Phân tích diễn biến tâm trạng nhân vật ông Hai trong truyện ngắn Làng của Kim Lân Kết thúc đoạn thơ, đợt sóng cồn của kí ức bị đánh thức đột ngột hình như tan dần. Đợt sóng mới chưa được hình thành nên lúc này kí ức được kéo dãn ra, nhẹ nhàng lan tỏa để các hình ảnh tươi tắn hơn. Độc giả lại được dịp "nghỉ ngơi" để có thể nghiêng ngả theo điệu múa trong đêm liên hoan văn nghệ với "Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa" và được thả hồn "đong đưa" theo cánh hoa tươi trên dòng nước lũ.
Thiên nhiên trong Tây Tiến bao giờ cũng là một nhân vật quan trọng, tràn đầy sinh lực và thấm đượm tình người. Hồn thơ tinh tế của tác giả "bắt" rất nhạy một làn sương chiều mỏng, một dáng hoa lau núi phất phơ đơn sơ bất chợt. Rồi nhà thơ thổi hồn mình vào đó và để lại mãi trong ta một niềm bâng khuâng, thương mến. Và một áng thơ đẹp xuất hiện như mây chiều biên ải:
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ.
Tây Tiến hiện lên khung cảnh thiên nhiên hoang sơ, kì vĩ với đủ cả núi cao, vực thẳm, dốc đứng, thác gầm cùng cồn mây heo hút, dòng lũ hoa trôi với khói lên, sương lấp, mưa xa khơi… Trên cái nền thiên nhiên kì vĩ, dữ dội ấy, nổi bật lên hình ảnh đoàn quân Tây Tiến "nhỏ bé" như bị ngập hút đi. Nhưng chính sự đối chọi, tương phản đó càng tăng thêm khí phách anh hùng của đoàn quân Cách mạng, mà kẻ thù, cũng như gian khổ không thể khuất phục nổi. Hình ảnh những người lính qua nét vẽ của Quang Dũng thật khác thường. Khác thường ở sự gian khổ cùng cực: ăn đói, mặc rét, bệnh tật, sốt rét đến xanh da, trụi tóc. Khác thường ở chỗ tác giả cố ý không miêu tả một gương mặt chiến sĩ riêng biệt với tên tuổi cụ thể nào, ông đã dồn các phẩm chất tốt đẹp của những tráng sĩ Tây Tiến thành gương mặt chung của cả một đoàn quân: Xem thêm: Nghệ thuật khắc họa tính cách nhân vật Huấn Cao trong tác phẩm Chữ người tử tù của tác giả Nguyễn Tuân
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.
Ta có thể hiểu, đây là hình ảnh khá chân thật về diện mạo bên ngoài người lính mũ cài lá ngụy trang, thân thể xanh xao vì sốt rét. Nhưng cảm hứng ở đây lại tràn đầy một nỗi niềm thân quen. Từ thân quen mà thấy cái anh hùng của họ. Câu thơ tạo nên hình ảnh đối lập, bề ngoài thì xanh như lá, thiếu sức sống, nhưng bên trong người chiến sĩ thể hiện một phong độ anh hùng, oai như hùm nơi "rừng thiêng nước độc". Câu thơ "Quân xanh màu lá dữ oai hùm" đã gợi được dũng khí của người chiến binh thuở ấy. Nó mang cái dáng dấp kiêu hùng của người coi thường gian khổ, hi sinh để giữ cái thế hiên ngang của đoàn quân Tây Tiến. Hiên ngang và thật lãng mạn. Với bút pháp lãng mạn và cảm hứng say nồng, Quang Dũng đã dựng nên cái tương phản trong hình ảnh để rồi hòa hợp với tâm hồn làm cho ta thấu hiểu và cảm thông, tìm thấy ở đây một hình ảnh đẹp.
Người Hà Nội trở thành người chiến binh thì cái oai phong cũng rất Hà Nội. Quang Dũng đã viết đúng hình ảnh người lính Tây Tiến từ Hà Nội chiến tranh mà ra đi:
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.
Thực ra hai câu thơ ấy chỉ là nỗi lòng của nhà thơ muốn bộc lộ thật đậm, thật rõ chất lính của người thanh niên Hà Nội tài hoa lãng mạn. Lại có người nói: thời chiến chinh ác liệt nói về giấc mơ "dáng kiều thơm" là xa rời tinh thần chiến đấu. Thực ra cuộc đời con người vô cùng phong phú, tâm trạng của chàng trai Hà Nội lại càng có những nét hào hoa và tình cảm riêng. Cho nên nói người lính Tây Tiến "Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm", chỉ tô đậm cái đẹp của những con người ấy mà thôi. Hơn nữa, vẻ đẹp chân thực không bao giờ làm cho con người giảm sút lòng chiến đấu. Phẩm chất người lính qua hồi tưởng của Quang Dũng đã hiện lên vừa hào hùng, hào hoa và cũng vừa bi tráng. Nhà thơ đã nhìn thẳng vào những tổn thất hi sinh để viết những câu thơ: Xem thêm: Tiểu thuyết Tắt đèn của Ngô Tất Tố và truyện ngắn Chí Phèo của Nam Cao đều viết về người nông dân nghèo trong xã hội cũ. Anh (chị) hãy phân tích truyện Chí Phèo trong sự đối sánh với Tắt đèn để thấy được sự độc đáo, mới mẻ về hiện thực của ngòi bút ông Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Câu thơ có cái gì xót xa gợi niềm cảm thương trong lòng người đọc. Miền đất biên ải xa xôi đã yên nghỉ bao cuộc đời người lính. Nơi đó có chút gì hoang vắng ghê rợn trước những nấm mồ viễn xứ. Nhưng rồi sau đó cảm hứng thơ lại bừng lên những suy nghĩ thật hào hùng "Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh", thể hiện một sự quên mình của lớp trẻ thanh niên đầy nghĩa khí. Phương châm sống của họ cao đẹp mà giản dị. Thời ấy không ít thơ viết về người chiến sĩ, nhưng chỉ có Tây Tiến của Quang Dũng mạnh dạn nói đến cái chết. Cái chết tạo nên vinh quang của tuổi xanh thầm lặng mà cao cả hiến mình cho dân tộc.
Nét đặc sắc của Quang Dũng trong Tây Tiến còn thể hiện ở một ngòi bút sắc sảo tinh tế. Viết về chiến tranh, nhưng cả bài thơ không có một chữ nào về trận đánh, về tiếng súng, về máu đổ hay về kẻ thù. Người đọc vẫn hình dung rất rõ gương mặt và không khí của chiến tranh. Điều lạ lùng là bài thơ có ba lần nói đến cái chết của người chiến sĩ trong các trường hợp khác nhau, nhưng không một lần nhà thơ nhắc tới từ "chết" hoặc "hi sinh". Nhà thơ đã thay thế từ "chết" bằng các cụm từ giản dị "về đất", "bỏ quên đời", "hồn về"… Đến đoạn thơ cuối lí tưởng cách mạng và tuổi trẻ đã truyền cho các chàng trai Tây Tiến chất anh hùng ngang tàng và cả chất men say lãng mạn đáng yêu. Ngay cả khi họ chết cũng phảng phất vẻ nghệ sĩ – tài tử, cái đẹp bi tráng chứ không bi lụy.
Để tiễn người lính Tây Tiến hi sinh, Quang Dũng không cần đến một lời ngợi ca sáo mòn nào, cũng không cần đến một giọt nước mắt… ông chỉ để cho trời đất chứng giám, thu nhận thể xác và linh hồn người lính vào lòng: "Sông Mã gầm lên khúc độc hành" tiếc thương đưa người lính Tây Tiến vào cõi bất tử. Bởi vì, kể từ đây hồn các anh đã hòa quyện vào cỏ cây, sông núi để trở thành "hồn thiêng đất nước".
Nhà phê bình Phong Lan nhận định: "Tây Tiến một tượng đài bất tử về người lính vô danh". Bất tử bởi chính vẻ đẹp hào hùng, hào hoa, bi tráng này. Và do vậy, người lính Tây Tiến qua bài thơ cùng tên của Quang Dũng sẽ sống mãi trong cõi vĩnh hằng và trong thế giới nhân sinh.
Vanmau.edu.vn
|
Phân tích vẻ đẹp và bi kịch của người phụ nữ Việt Nam dưới chế độ phong kiến được thể hiện qua văn bản Chuyện người con gái Nam xương của Nguyễn Dữ
Gợi ý
’’Truyền kì mạn lục” của Nguyễn Dữ nhìn thoáng qua ngỡ là những câu chuyện ma quái, hoang đứờng nhưng ngẫm kĩ đó lại là bức tranh đời sống của xã hội thực tại. Chỉ qua truyện ngắn ’’Chuyện người con gái Nam Xương”, đặc biệt là qua số phận của nhân vật chính trong tác phẩm – nàng Vũ Nương – ta đã phần nào hiểu thêm về số phận những người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Họ đẹp đẽ, tiết hạnh nhưng phải chịu một số phận khổ đau bất hạnh khiến người đọc vừa yêu mến, trân trọng lại vừa đồng cảm, xót thương.
Nàng Vũ Nương trong tác phẩm có một nét đẹp vẹn toàn, hài hoà giữa vẻ đẹp ngoại hình và vẻ đẹp tâm hồn “vừa đẹp người vừa đẹp nết”. Và đó cũng chính là vẻ đẹp tiêu biểu cho những người phụ nữ Việt Nam. Điều đó khiến người đọc luôn dành cho Vũ Nương một niềm yêu mến, trân trọng lớn lao.
Là người vợ, người mẹ hay người con dâu Vũ Nương luôn làm tròn bổn phận của mình. Trong mối quan hệ vợ hằng ngày, biết chồng “có tính đa nghi, đối với vợ phòng ngừa quá sức.” Vũ Nương đã “giữ gìn khuôn phép, không từng lần nào vợ chồng phải đến thất hoà.”. Hai vợ chồng chia li Vũ Nương một lòng nghĩ đến sự an nguy của chồng “Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong đeo được ấn phong hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi. […] Nhìn trăng soi thành cũ, lại sửa soạn áo rét, gửi người ải xa, trông liễu rủ bãi hoang, lại thổn thức tâm tình, thương người đất thú! Dù có thư tín nghìn hàng, cũng sợ không có cánh hồng bay bổng”. Xa chồng, Vũ Nương thủy chung, tấm lòng luôn tha thiết hướng về chồng: “Ngày qua tháng lại, thoắt đã nửa năm, mỗi khi thấy bướm lượn đầy vườn, mây che kín núi, thì nỗi buồn góc bể chân trời không thể nào ngăn được.” Ngay cả khi bị chồng nghị oan, Vũ Nương vẫn nói năng đúng mực, tha thiết bày tỏ nỗi niềm và ước mong về cuộc sống gia đình hạnh phúc.Xem thêm: Phân tích nhân vật Vũ Nương trong Chuyện người con gái Nam Xương (Có dàn ý chi tiết) Trong mối quan hệ với mẹ chồng, nàng hết lòng chăm sóc mẹ chồng lúc ốm đau: “Nàng hết sức thuốc thang lễ bái thần phật và lấy lời ngọt ngào khôn khéo khuyên lơn.”, thương yêu, lo lắng chu toàn: khi mẹ chồng mất “Nàng hết lời thương xót, phàm việc ma chay tế lễ, lo liệu như đối với cha mẹ đẻ mình.”. Đặc biệt, tấm lòng nàng dành cho mẹ chồng khiến bà cảm động: khi mất, những lời cuối cùng của cuộc đời bà dành để chúc phúc cho con dâu.
Bị chồng hiếu lầm, bị hàm oan tức tưởi, Vũ Nương đã chọn cái chết đế chứng minh phẩm tiết. Hành động này cho thấy lòng tự trọng, ý thức giữ gìn danh dự, tiết hạnh ở người phụ nữ này.
Nhưng càng yêu quý, trân trọng những người phụ nữ như vậy bao nhiêu ta càng xót thương cho sô phận của họ bấy nhiêu. Thật là những tấm lụa đào phất phơ giữa chợ, những trái bần trôi bị gió dập sống dồi, những hạt mưa sa tan tác…
Xinh đẹp, tiết hạnh như vậy nhưng nàng có một cuộc hôn nhân không được lựa chọn: Trương Sinh là một kẻ vô học nhưng giàu có “xin với mẹ đem trăm lạng vàng” lấy nàng về làm vợ. Người phụ nữ vẹn toàn này không có quyền lựa chọn cho mình một người chồng tương xứng. Cuộc hôn nhân của nàng chẳng khác nào một cuộc trao đổi bán mua.Xem thêm: Bàn về vai trò của một số bộ môn nghệ thuật như kịch, âm nhạc, hội hoạ, vũ đạo… trong nhà trường phổ thông Về nhà Trương Sinh, êm thấm được một thời gian rồi chiến tranh phong kiến cũng cướp đi cái hạnh phúc gia đình nàng đã cố công gìn giữ. Không chỉ vậy, những khuôn phép cũ xưa lỗi thời được chiến tranh tiếp tay một lần nữa hại đời Vũ Nương. Và lần này đã giập vùi đời nàng vĩnh viễn. Quen theo nếp nghĩ, nếp sống trưởng giả, Trương Sinh nghi ngờ cho tấm lòng sắt son của vợ, không cho nàng thanh minh lấy nửa lời. Sự lựa chọn của Vũ Nương: trầm mình tự vẫn đã phản ánh một thực tế: xã hội phong kiến xưa không có chỗ cho những con người đẹp đẽ như nàng, nàng không thể thuộc chốn ấy. Nhưng như thế cũng có nghĩa nàng phải từ giã hạnh phúc trần gian, từ bỏ gia đình, con cái…
Người đọc nhẹ lòng khi Vũ Nương được minh oan chiêu tuyết nhưng vẫn nhói lòng bởi cậi chết đã khiến nàng một đi không trở lại, để dở dang cả quãng đời đương độ viên mãn tròn đầy nhất.
Yêu mến và xót thương, hai dòng cảm xúc không khi nào nguôi khỏi tấm lòng người đọc đối với thân phận người phụ nữ xưa qua hình ảnh nàng Vũ Nương. Càng yêu thương những viên ngọc bị giập vùi ấy ta càng căm phẫn trước những thế lực phong kiến đen tốì, hủ lậu chà đạp lên quyền hưởng hạnh phúc, quyền được sống của con người. Nguyễn Dữ và bao nhà thơ, nhà văn khác hẳn đã nhân đạo biết bao khi viết về những con người như thế, khơi dậy trong lòng người những cảm xúc thẩm mĩ nhân đạo hướng đến cái thiện cái mĩ của cuộc đời này… Và vì thế, ta càng trân trọng hơn hình ánh người phụ nữ trong xã hội xưa mà nàng Vũ Nương, nàng Kiều,… là những hiện thân sông động.Xem thêm: Phân tích truyện ngắn Lão Hạc của Nam CaoVanmau.edu.vn
|
Analysis of the beauty and tragedy of Vietnamese women under feudalism expressed through the text The Story of a Nam Xuong Girl by Nguyen Du
Suggest
Nguyen Du's "The Tale of the Legend" at first glance seems like a spooky, mythical story, but when you think carefully, it is a picture of the life of real society. Only through the short story ''The Story of a Nam Xuong Girl'', especially through the fate of the main character in the work - Vu Nuong - we have partly understood the fate of women in feudal society. . They are beautiful and virtuous but suffer an unfortunate fate that makes the reader love, respect, sympathize and pity them.
Vu Nuong in the work has a perfect beauty, harmony between physical beauty and spiritual beauty, "both beautiful in person and beautiful in character". And that is also the typical beauty of Vietnamese women. That makes readers always have great love and respect for Vu Nuong.
As a wife, mother or daughter-in-law, Vu Nuong always fulfills her duties. In the daily relationship between wives, knowing that the husband is "suspicious, he is too careful with his wife." Vu Nuong has "maintained propriety, not once did husband and wife have to fall out.". The couple separated, Vu Nuong thought with all her heart about her husband's safety. "You are going on this trip, I don't dare to hope to wear the seal of the marquis, wear a brocade shirt and return to my hometown. I only ask that the day I return, I can bring two words of peace." Quiet, that's enough. […] Looking at the moon illuminating the old city, preparing cold clothes, sending people far away, looking at the weeping willows on the deserted beach, sobbing with emotions, loving the people of the land and animals! Even if there are thousands of letters, I'm afraid there won't be any flying rose petals." Far from her husband, Vu Nuong is faithful, her heart is always devoted to her husband: "Day by day, month after month, half a year has passed, every time I see butterflies flying around the garden, clouds covering the mountains, the sadness at the corner of the horizon cannot be seen. Who can stop it? Even when she was wrongly accused by her husband, Vu Nuong still spoke properly, earnestly expressing her feelings and wishes for a happy family life. See more: Analysis of Vu Nuong's character in The Story of a Nam Xuong Girl ( There is a detailed outline) In her relationship with her mother-in-law, she wholeheartedly took care of her mother-in-law when she was sick: "She did her best to take medicine, worship the gods and Buddha, and use sweet and wise words to advise.", loving, Worrying about everything: when her mother-in-law passed away, "She had all the compassion, all the funerals and rituals, and took care of it like she would her own parents." In particular, her heart for her mother-in-law touched her: when she passed away, her last words of life were to bless her daughter-in-law.
Mistakenly filial by her husband and furious, Vu Nuong chose death to prove her dignity. This action shows this woman's self-esteem, sense of honor and chastity.
But the more we love and appreciate such women, the more we pity their fate. These are peach silk sheets fluttering in the middle of the market, floating cork fruits being crushed by the wind, scattered raindrops...
As beautiful and virtuous as she was, she had an unchosen marriage: Truong Sinh was an uneducated but rich man who "asked his mother to bring him a hundred taels of gold" to marry her. This perfect woman has no right to choose a suitable husband for herself. Her marriage is no different than a sale and purchase transaction. See more: Discussing the role of some art subjects such as drama, music, painting, dance... in high school Back to Truong Sinh's house , things went smoothly for a while and then the feudal war also took away the family happiness she had tried so hard to preserve. Not only that, the old and outdated rules, aided by the war, once again ruined Vu Nuong's life. And this time ruined her life forever. Accustomed to a bourgeois way of thinking and lifestyle, Truong Sinh doubted his wife's strong heart and did not let her explain even a single word. Vu Nuong's choice: committing suicide reflects a reality: ancient feudal society had no place for beautiful people like her, she could not belong there. But that also means she has to say goodbye to earthly happiness, give up her family, her children...
Readers were relieved when Vu Nuong was exonerated of Chieu Tuyet but still heartbroken because his death caused her to never return, leaving her life unfinished.
Love and pity, two lines of emotion that never leave the reader's heart towards the fate of ancient women through the image of Vu Nuong. The more we love those buried gems, the more we resent the dark, corrupt feudal forces that trample on people's right to happiness and right to life. How humane Nguyen Du and many other poets and writers must have been when writing about such people, arousing in people's hearts humane aesthetic emotions towards the goodness and beauty of this life... And because Thus, we appreciate even more the image of women in ancient society, of which Vu Nuong, Kieu,... are living embodiments. See more: Analysis of the short story Lao Hac by Nam CaoVanmau.edu.vn
|
Phân tích vẻ đẹp độc đáo của hình tượng người lính được Quang Dũng khắc họa trong bài thơ Tây Tiến.
Hướng dẫn
Đến với bài thơ Tây Tiến, chúng ta sẽ được chiêm ngưỡng những người lính yêu đời, hồn nhiên, không ngại khó khăn gian khổ và súng đạn của kẻ thù. Đó là những người lính đã làm nên lịch sử, đã tạo ra thắng lợi cho dân tộc Việt Nam. Những người lính đó đáng được trân trọng, tự hào.
Toàn bộ bào thơ đã xây dựng lên hình ảnh một người lính can trường, mạnh mẽ và lãng mạn, tình tứ. Sự can trường được biểu lộ một phần qua tinh thần lãng mạn, và ngược lại tinh thần “lãng mạn có một số mặt đã nằm ngay trong phẩm chất can trường, ngang tàng ấy. Sự dung hợp đẹp đẽ giữa hai nét đối cực này chưa hẳn là một hiện tượng phổ quát. Trong các bài thơ đã nêu trên của Chính Hữu, Hồng Nguyên, Tố Hữu, hình ảnh người lính thường hiện lên với vẻ đẹp chân chất, bình dị và cái quyết liệt, hăng hái của họ cũng có những nét khác. Điều này cũng dễ hiểu vì người lính được “mô tả” trong đó là người lính nông dân xuất thân từ nơi “nước mặn đồng chua”, nơi những làng quê nghèo “đất cày lên sỏi đá”. Trong khi đó, các “nhân vật” của Quang Dũng lại có gốc gác thị thành và nhiều người trong số họ là học sinh, trí thức. Hiển nhiên các chàng trai Hà Nội thanh lịch, hào hoa này có cách cảm thụ và trải nghiệm riêng đối với cuộc đời kháng chiến. Đây là cơ sở đầu tiên khiến hình ảnh họ trong thơ Quang Dũng có một vẻ đẹp riêng độc đáo.
Những người lính này đã có tinh thần quả cảm sẵn sàng vượt mọi gian lao của họ. Để thể hiện điều đó, băng sức mạnh của hồi tưởng, bằng bút pháp miêu tả gân guốc và phóng túng, Quang Dũng đã tái hiện rất sinh động trong Tây Tiến một cách đầy thử thách. Trên con đường hành quân về phía tây, các chiến sĩ Tây Tiến đã phải chấp nhận sự thách thức của những đèo cao vực sâu cực kì hiểm trở. Dốc rồi lại dốc, gập ghềnh, khúc khuỷu, chừng như dẫn người ta đi lên đỉnh trời. Có những lúc đoàn quân đi trong sương núi mịt mùng bủa vây tứ phía. Người càng mỏi mệt, núi rừng càng diễu võ giương oai, càng mượn lời thác gào lên những tiếng man dại giữa đại ngàn. Đó là chưa kể sự rình rập của thú dữ “đêm đêm”. Đi vào nơi lam sơn chướng khí, những người lính chưa quen phong thổ phải đối diện hàng ngày với vẻ mặt ghê SỢ của sốt rét, dịch bệnh. Tóc không mọc nổi, da tái xanh, “đánh trận tử vong ít, sốt rét tử vong nhiều” (Trần Lê Văn). Nhấn mạnh sự khắc nghiệt của hoàn cảnh chính là một cách Quang Dũng gián tiếp làm nổi bật sự quyết chí của các chiến sĩ. Các câu thơ như:
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời.
Qua việc mô dốc, tác giả đã mô phỏng lại hơi thở nặng nhọc của những người lính. Tất nhiên, trong bài thơ cũng có những câu trực tiếp tả người. Đây là một cách chết, một cách chết thường gặp:
Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ, bỏ quên đời!
Câu thơ chỉ bộc lộ cảm xúc về sự mất mát, nhưng ngẫm nghĩ kĩ, ta hiểu ra trong ấy chứa đựng nét miêu tả về tư thế hi sinh. Gian lao không làm các chiến sĩ sờn lòng. Nếu chết, họ chỉ chịu chết trong thế đi lên, giữa lúc đang làm nhiệm vụ. Người lính đi vào cái chết như đi vào một giấc ngủ “bỏ quên đời” rất thanh thản. Họ quả là những người “Nhẹ xem tính mệnh như màu cỏ cây”, đã thực hiện chí làm trai của mình một cách hết sức trọn vẹn và lãng mạn nữa.
Xem thêm: Suy nghĩ về ý kiến của Nguyễn Đình Thi “Văn nghệ phụng sự kháng chiến …”
Tây Tiến nhiều lần nói đến cái chết mà khí lực của bài thơ rất mạnh mẽ. Phải chăng điều này có nguyên nhân ở tinh thần “dám chết” của các chiến sĩ? Hành quân vào miền đất dữ, họ quá biết nhiều hiểm nguy đang chờ đón. Với ai đó, những nấm “mồ viễn xứ” nằm “rải rác biên cương” có thể đưa lại một ám ảnh ghê sợ, nhưng với lính Tây Tiến thì không. Thuở ra đi họ có “hẹn ước”. “Đường lèn thăm thẳm một chia phôi” (cũng có nghĩa là “Chí lớn chưa về bàn tay không” – Thâm Tâm), bởi thế, họ sẵn sàng chấp nhận hi sinh không một lời mặc cả.
“Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh” là một tâm niệm – cái tâm niệm thường làm chủ được mình, tự ý thức được sâu sắc hành động mình làm. Can đảm mà chẳng hề mù quáng – đó là một phẩm chất rất đẹp của người chiến sĩ Tây Tiến nói riêng và của người chiến sĩ cách mạng nói chung.
Tất cả những phẩm chất cao đẹp tồn tại trong con người chiết sĩ ấy, sự can trường nét lãng mạn, tình tứ hiện lên thật đẹp. Sự can trường đã nhuốm vẻ lãng mạn một phần do nó được cảm nhận bằng hồn thơ rất mực tài hoa, khoáng đạt trẻ trung. Rất nhiều chi tiết miêu tả dặc sắc trong bài thơ cùng một lúc làm phát lộ hai phẩm chất đã nói trên của các chiến sĩ. Phải rất giàu dũng khí cũng như rất giàu “hồn thơ” người lính Tây Tiến mới rung động được đến mức cực điểm với vẻ đẹp nguyên sơ hùng vĩ của núi rừng như thế này:
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người.
Có những lúc người lính Tây Tiến thả hồn bay lên với cảnh trí tuyệt vời thơ mộng của thiên nhiên. Ta hiểu lúc đó họ đã chế ngự được hoàn cảnh khắc nghiệt để thưởng thức những vẻ đẹp hiếm thấy trong dời:
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa.
Có thể nói mỗi chiến sĩ Tây Tiến có tồn tại một con người nghệ sĩ. Chẳng hề ngẫu nhiên khi ta thấy xuất hiện nhiều lần trong tác phẩm các chi tiết nói về “hoa”, về “nhạc”, về “thơ” – những “vật liệu” hết sức cần thiết cho việc tô đậm phẩm chất lãng mạn trong tâm hồn người chiến sĩ. Các anh đã chiến thắng hoàn cảnh đến hai lần khi trong những ngày gian khó vẫn thích thú tổ chức nhiều đêm lửa trại tưng bừng, náo nhiệt. Trong những đêm đó, nét đa tình, hào hoa của các chàng trai Hà Nội càng dược bộc lộ rõ hơn bao giờ hết. Họ đã reo lên sung sướng ngỡ ngàng trước sự xuất hiện của một dáng hồng sơn cước và nghiêng ngả vui vẻ hết mình, trong tiếng khèn, tiếng nhạc dặt dìu:
Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ.
Những khắc nghiệt của thời tiết, sự tàn phá của bom đạn đã làm cho người lính Tây Tiến có một vẻ ngoài thật kì dị. Đôi lần họ mượn ngay sự kì dị đó tạo cho mình một dáng dấp oai dữ rất riêng. Nhưng điều đáng nói ở đây là chất mộng mơ, đa cảm chưa một lần biến dạng. Nó vẫn tồn tại như để nuôi giữ chất người đẹp đẽ ở các anh. “Dáng kiểu” thơm tho nơi đô thành trong giấc mộng của người chiến sĩ không nói về một trạng thái tinh thần “ốm yếu” mà ngược lại cho ta hiểu thêm về bản lĩnh sống của các anh – những người không chịu đánh mất mình dù gặp phải hoàn cảnh khốc liệt thế nào.
Hình tượng người lính Tây Tiến trong thơ Quang Dũng hiện lên thật đẹp, thật lãng mạn nhưng không kém phần oai hùng. Những người chiến sĩ ấy đã làm nên biểu tượng của dân tộc Việt, một dân tộc kiên cường bất khuất, không sợ khó khăn gian khổ, coi cái chết nhẹ tựa lồng hồng. Tinh thần ấy đã góp phần đánh đuổi kẻ thù lớn mạnh và dành lấy thắng lợi vẻ vang trên khắp năm châu.
Nguồn: thêm: Hãy tưởng tượng mình là Xi - mông, kể lại chuyện Bố của Xi - mông
|
Phân tích vẻ đẹp độc đáo của hình tượng người lính được Quang Dũng khắc họa trong bài thơ Tây Tiến.
Hướng dẫn
Đến với bài thơ Tây Tiến, chúng ta sẽ được chiêm ngưỡng những người lính yêu đời, hồn nhiên, không ngại khó khăn gian khổ và súng đạn của kẻ thù. Đó là những người lính đã làm nên lịch sử, đã tạo ra thắng lợi cho dân tộc Việt Nam. Những người lính đó đáng được trân trọng, tự hào.
Toàn bộ bào thơ đã xây dựng lên hình ảnh một người lính can trường, mạnh mẽ và lãng mạn, tình tứ. Sự can trường được biểu lộ một phần qua tinh thần lãng mạn, và ngược lại tinh thần “lãng mạn có một số mặt đã nằm ngay trong phẩm chất can trường, ngang tàng ấy. Sự dung hợp đẹp đẽ giữa hai nét đối cực này chưa hẳn là một hiện tượng phổ quát. Trong các bài thơ đã nêu trên của Chính Hữu, Hồng Nguyên, Tố Hữu, hình ảnh người lính thường hiện lên với vẻ đẹp chân chất, bình dị và cái quyết liệt, hăng hái của họ cũng có những nét khác. Điều này cũng dễ hiểu vì người lính được “mô tả” trong đó là người lính nông dân xuất thân từ nơi “nước mặn đồng chua”, nơi những làng quê nghèo “đất cày lên sỏi đá”. Trong khi đó, các “nhân vật” của Quang Dũng lại có gốc gác thị thành và nhiều người trong số họ là học sinh, trí thức. Hiển nhiên các chàng trai Hà Nội thanh lịch, hào hoa này có cách cảm thụ và trải nghiệm riêng đối với cuộc đời kháng chiến. Đây là cơ sở đầu tiên khiến hình ảnh họ trong thơ Quang Dũng có một vẻ đẹp riêng độc đáo.
Những người lính này đã có tinh thần quả cảm sẵn sàng vượt mọi gian lao của họ. Để thể hiện điều đó, băng sức mạnh của hồi tưởng, bằng bút pháp miêu tả gân guốc và phóng túng, Quang Dũng đã tái hiện rất sinh động trong Tây Tiến một cách đầy thử thách. Trên con đường hành quân về phía tây, các chiến sĩ Tây Tiến đã phải chấp nhận sự thách thức của những đèo cao vực sâu cực kì hiểm trở. Dốc rồi lại dốc, gập ghềnh, khúc khuỷu, chừng như dẫn người ta đi lên đỉnh trời. Có những lúc đoàn quân đi trong sương núi mịt mùng bủa vây tứ phía. Người càng mỏi mệt, núi rừng càng diễu võ giương oai, càng mượn lời thác gào lên những tiếng man dại giữa đại ngàn. Đó là chưa kể sự rình rập của thú dữ “đêm đêm”. Đi vào nơi lam sơn chướng khí, những người lính chưa quen phong thổ phải đối diện hàng ngày với vẻ mặt ghê SỢ của sốt rét, dịch bệnh. Tóc không mọc nổi, da tái xanh, “đánh trận tử vong ít, sốt rét tử vong nhiều” (Trần Lê Văn). Nhấn mạnh sự khắc nghiệt của hoàn cảnh chính là một cách Quang Dũng gián tiếp làm nổi bật sự quyết chí của các chiến sĩ. Các câu thơ như:
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời.
Qua việc mô dốc, tác giả đã mô phỏng lại hơi thở nặng nhọc của những người lính. Tất nhiên, trong bài thơ cũng có những câu trực tiếp tả người. Đây là một cách chết, một cách chết thường gặp:
Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ, bỏ quên đời!
Câu thơ chỉ bộc lộ cảm xúc về sự mất mát, nhưng ngẫm nghĩ kĩ, ta hiểu ra trong ấy chứa đựng nét miêu tả về tư thế hi sinh. Gian lao không làm các chiến sĩ sờn lòng. Nếu chết, họ chỉ chịu chết trong thế đi lên, giữa lúc đang làm nhiệm vụ. Người lính đi vào cái chết như đi vào một giấc ngủ “bỏ quên đời” rất thanh thản. Họ quả là những người “Nhẹ xem tính mệnh như màu cỏ cây”, đã thực hiện chí làm trai của mình một cách hết sức trọn vẹn và lãng mạn nữa.
Xem thêm: Suy nghĩ về ý kiến của Nguyễn Đình Thi “Văn nghệ phụng sự kháng chiến …”
Tây Tiến nhiều lần nói đến cái chết mà khí lực của bài thơ rất mạnh mẽ. Phải chăng điều này có nguyên nhân ở tinh thần “dám chết” của các chiến sĩ? Hành quân vào miền đất dữ, họ quá biết nhiều hiểm nguy đang chờ đón. Với ai đó, những nấm “mồ viễn xứ” nằm “rải rác biên cương” có thể đưa lại một ám ảnh ghê sợ, nhưng với lính Tây Tiến thì không. Thuở ra đi họ có “hẹn ước”. “Đường lèn thăm thẳm một chia phôi” (cũng có nghĩa là “Chí lớn chưa về bàn tay không” – Thâm Tâm), bởi thế, họ sẵn sàng chấp nhận hi sinh không một lời mặc cả.
“Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh” là một tâm niệm – cái tâm niệm thường làm chủ được mình, tự ý thức được sâu sắc hành động mình làm. Can đảm mà chẳng hề mù quáng – đó là một phẩm chất rất đẹp của người chiến sĩ Tây Tiến nói riêng và của người chiến sĩ cách mạng nói chung.
Tất cả những phẩm chất cao đẹp tồn tại trong con người chiết sĩ ấy, sự can trường nét lãng mạn, tình tứ hiện lên thật đẹp. Sự can trường đã nhuốm vẻ lãng mạn một phần do nó được cảm nhận bằng hồn thơ rất mực tài hoa, khoáng đạt trẻ trung. Rất nhiều chi tiết miêu tả dặc sắc trong bài thơ cùng một lúc làm phát lộ hai phẩm chất đã nói trên của các chiến sĩ. Phải rất giàu dũng khí cũng như rất giàu “hồn thơ” người lính Tây Tiến mới rung động được đến mức cực điểm với vẻ đẹp nguyên sơ hùng vĩ của núi rừng như thế này:
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người.
Có những lúc người lính Tây Tiến thả hồn bay lên với cảnh trí tuyệt vời thơ mộng của thiên nhiên. Ta hiểu lúc đó họ đã chế ngự được hoàn cảnh khắc nghiệt để thưởng thức những vẻ đẹp hiếm thấy trong dời:
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa.
Có thể nói mỗi chiến sĩ Tây Tiến có tồn tại một con người nghệ sĩ. Chẳng hề ngẫu nhiên khi ta thấy xuất hiện nhiều lần trong tác phẩm các chi tiết nói về “hoa”, về “nhạc”, về “thơ” – những “vật liệu” hết sức cần thiết cho việc tô đậm phẩm chất lãng mạn trong tâm hồn người chiến sĩ. Các anh đã chiến thắng hoàn cảnh đến hai lần khi trong những ngày gian khó vẫn thích thú tổ chức nhiều đêm lửa trại tưng bừng, náo nhiệt. Trong những đêm đó, nét đa tình, hào hoa của các chàng trai Hà Nội càng dược bộc lộ rõ hơn bao giờ hết. Họ đã reo lên sung sướng ngỡ ngàng trước sự xuất hiện của một dáng hồng sơn cước và nghiêng ngả vui vẻ hết mình, trong tiếng khèn, tiếng nhạc dặt dìu:
Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ.
Những khắc nghiệt của thời tiết, sự tàn phá của bom đạn đã làm cho người lính Tây Tiến có một vẻ ngoài thật kì dị. Đôi lần họ mượn ngay sự kì dị đó tạo cho mình một dáng dấp oai dữ rất riêng. Nhưng điều đáng nói ở đây là chất mộng mơ, đa cảm chưa một lần biến dạng. Nó vẫn tồn tại như để nuôi giữ chất người đẹp đẽ ở các anh. “Dáng kiểu” thơm tho nơi đô thành trong giấc mộng của người chiến sĩ không nói về một trạng thái tinh thần “ốm yếu” mà ngược lại cho ta hiểu thêm về bản lĩnh sống của các anh – những người không chịu đánh mất mình dù gặp phải hoàn cảnh khốc liệt thế nào.
Hình tượng người lính Tây Tiến trong thơ Quang Dũng hiện lên thật đẹp, thật lãng mạn nhưng không kém phần oai hùng. Những người chiến sĩ ấy đã làm nên biểu tượng của dân tộc Việt, một dân tộc kiên cường bất khuất, không sợ khó khăn gian khổ, coi cái chết nhẹ tựa lồng hồng. Tinh thần ấy đã góp phần đánh đuổi kẻ thù lớn mạnh và dành lấy thắng lợi vẻ vang trên khắp năm châu.
Nguồn: thêm: Hãy tưởng tượng mình là Xi - mông, kể lại chuyện Bố của Xi - mông
|
Phân tích về bài thơ Phong Kiều dạ bạc
Hướng dẫn
… chập chùng, đau đớn nằm nghe tiếng mưa rơi rỉ rả nơi hành cung vắng lặng, thì nhà thơ Trương Kế, một đại quan tiến sĩ Ngự Sử Đài, chẳng theo kịp đoàn hộ giá vương tôn lánh nạn, đành lưu lạc xuống tận miền Giang Nam trên chiếc thuyền phiêu bạt. Đêm kia, ghé bến Phong Kiều, động mối u hoài chất chứa, gợi cảm cùng ngoại cảnh thê lương, bức xúc viết nên bài thơ tuyệt diệu, vượt cả không gian, thời gian lưu truyền hậu thế:
Nguyệt lạc, ô dề, sương mãn thiên,
Giang phong, ngư hỏa, đối sầu miên.
Cô Tô thành ngoại Hàn Sơn tự,
Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền.
tạm dịch;
Quạ kêu trăng lặn khắp trời sương,
Lửa chài cây ảnh giấc sầu vương.
Thành Tô ngoài mé Hàn Sơn tự,
Thuyền khách đêm tàn vẳng tiếng chuông.
Nội dung bài thơ chứa đựng muôn vàn uẩn sự, phản ánh mô tả những trạng huống tang thương: Trâng lặn gợi lên hình ảnh một xã hội xuống dốc, tiếng quạ kêu thống thiết như tiếng con người rên xiết lầm than trong thời tao loạn, màn sương che phủ trời đất tối tăm, trăng chiếu nhạt mờ ít ỏi dùng ngọn lửa chài leo lét tựa bóng ma trơi vất vưởng lang thang. Những cây bàng ven sông cũng đang rì rào một điệp khúc ai oán, thành Cô Tô say giấc triền miên.
Bỗng nhiên, âm hưởng nhặt khoan đưa tới, tiếng chuông chùa Hàn Sơn thanh thoát như từng giọt nước cam lồ thấm đậm, xoa dịu nỗi trầm tư muộn phiền của kẻ thất thời bôn tẩu, đang nằm co ro khắc khoải giữa khoang thuyền lạnh giá đìu hiu…
Chùa Hàn Sơn tiên khởi là một ngôi chùa hẻo lánh, bên cầu Tây Phong ngoài thành Ngô Huyện thuộc tỉnh Giang Tô. Xung quanh bát ngát rừng mai, phía sau dòng sông xanh ngắt lững lờ uốn khúc, giữa hai dãy núi sừng sững vươn mình trong làn mây trắng xóa. Theo Truyện Đăng Lục và Đường Cao Tăng truyện, thì hai vị Sa môn: Hàn Sơn và Thập Đắc từng cư ngụ nơi đây, nên chùa mang tên là Hàn Sơn tự. Hàn Sơn tăng ở lãnh vực thi văn khá nổi tiếng qua biệt hiệu Hàn Sơn Tử, mang dấu ấn lịch sử văn hóa buổi sơ Đường, biểu hiện thi phạm bắt đầu với quy luật phân minh nghiêm túc. Trong Thiên Văn Nghệ Chí – Cựu Đường Thi đã nói đến Hàn Sơn Tử tập, gồm hơn 300 bài thơ độc đáo phỏng theo kinh Phật, lời ít ý nhiều.
Nguồn: thêm: Phát biểu cảm nghĩ về bài thơ Cảnh khuya
|
Analysis of the poem Phong Kieu da silver
Instruct
... slowly, painfully lying down listening to the sound of rain falling in the quiet palace hall, then poet Truong Ke, a great officer and doctor of Ngu Su Dai, could not keep up with the group of royal guards to escape, and had to wander down to the bottom of the river. Jiangnan region on an adventurous boat. That night, arriving at Phong Kieu wharf, the gloomy, sensual cave combined with the dreary, urgent exterior created a wonderful poem, transcending space and time, to be passed down to posterity:
The moon, the clouds, the dew of the sky,
Jiang wind, fish fire, opposite melancholy.
Co To city outside Han Son pagoda,
Yes, sell the elegant guest boat together.
temporary translation;
Crows cry out to the setting moon across the misty sky,
The fire of the tree reflects the king's melancholy dream.
Thanh To is outside Han Son pagoda,
Passenger boats at night can hear the sound of bells.
The content of the poem contains countless sad stories, reflecting and describing tragic situations: Dusk evokes the image of a society in decline, the sound of crows crying in pain is like the sound of people groaning and suffering in times of chaos. , the mist covered the dark sky and earth, the moon shone faintly, using a flickering fishing fire like a wandering ghost. The almond trees along the river are also whispering a plaintive chorus, Co To city is in a constant sleep.
Suddenly, a gentle sound came, the bell of Han Son Pagoda was as elegant as drops of nectar soaked in, soothing the sadness and contemplation of the lost and wandering person, lying huddled anxiously in the middle of a cold ship. miserable price…
Han Son Pagoda was originally a remote temple, next to Tay Phong bridge outside Wu County city in Jiangsu province. Surrounding the vast apricot forest, behind the blue river meandering lazily, between two towering mountain ranges rising in white clouds. According to the Tale of Dang Luc and the Tale of Cao Tang, two monks: Han Son and Thap Dac once lived here, so the pagoda was named Han Son Tu. Monk Han Son in the field of poetry is quite famous through the nickname Han Son Tu, bearing the mark of the cultural history of the early Tang, showing that poetry begins with the rules of serious clarification. In Thien Van Nghe Chi - Former Duong Thi, Han Son Tu collection is mentioned, which includes more than 300 unique poems adapted from Buddhist scriptures, with few words and many ideas.
Source: more: Expressing thoughts about the poem Late Night Scene
|
Phân tích ý nghĩa biểu tượng trong tiểu thuyết Ông già và biển cả (đoạn trích được học) của Ơ – nít Hê – minh – uê
Gợi ý
Ơ-nít Hê-minh-uê là nhà văn Mĩ nổi tiếng của thế kỉ XX. ông có nhiều đóng góp quan trọng trong việc cách tân nghệ thuật tiểu thuyết phương Tây. Những tác phẩm của ông chinh phục bạn đọc nhiều nước trên thế giới bằng một lốì viết truyện hiện đại có khả năng miêu tả dòng tâm tư nhân vật, đi sâu thể hiện những bí ẩn nội tâm của con người, ông già. và biển cả thường được đánh giá là kiệt tác của Hê-minh-uê và nó cũng được xếp vào hàng các tác phẩm lớn, xuất sắc, tiêu biểu của văn học thế giới.
Mượn hình tượng tảng băng trôi với một phần nổi và bảy phầm chìm, Hê- minh-uê đã nêu ra yêu cầu: nhà văn phải tạo ra được những văn bản nhiều khoảng trống, tạo ra tính đa nghĩa, đa âm cho câu chuyện. Tác giả chủ trương tự giấu mình, không can thiệp trực tiếp vào câu chuyện, nhà văn không được trực tiếp nói ra ý tưởng của mình mà phải xây dựng những hình tượng có nhiều sức gợi, nhiều ý nghĩa để người đọc tự hiểu, tự rút ra những ẩn ý của các hình tượng trong tác phẩm. Người kể có thiên hướng để cho nhân vật hành động nên nhiều đoạn chỉ có đối thoại hoặc độc thoại nội tâm lấn át. Thái độ của nhà văn được bộc lộ trong tác phẩm bằng những giọng nói trái ngược, khó xác định, vừa tả thực lại vừa tượng trưng.Xem thêm: Cảm nghĩ của em khi đọc Truyện lạ nhà thuyền chài trích trong Thánh Tông di thảo.
Trong đoạn trích Ông già và biển cả, Hê-minh-uê chỉ miêu tả một nhân vật là ông lão đánh cá, một hành động là đi câu cá. Hành động này được lặp đi lặp lại khiến cho tác phẩm mang tính biểu tượng, tác phẩm là một ẩn dụ sâu sắc. Nhân vật ông lão Xan-ti-a-gô được thể hiện như một biểu tượng về con người lao động, một người tiêu biểu cho người anh hùng dũng cảm đấu tranh, luôn luôn theo đuổi khát vọng nhưng cũng rất tỉnh táo ý thức được giới hạn của mình. Khi xây dựng nhân vật này, nhà văn sử dụng một kĩ thuật mới mẻ, rất tiêu biểu cho tiểu thuyết thế kỉ XX, đó là độc thoại nội tâm. Độc thoại nội tâm có lúc trong chính bản thân ông lão, có khi lại như lời nói với con cá kiếm,… Chẳng những từng đoạn đời đã qua của ông lão được tái hiện lại trong dòng tâm tư mà ngay cả việc đánh cá, cuộc sống của con người nói chung cũng được thể hiện trong độc thoại của ông lão,… Qua đây, ta nhận thấy rõ phẩn nổi và phần chìm của đoạn trích. Phần nổi của đoạn trích là miêu tả cuộc săn bắt cá của ông lão Xan-ti-a-gô. Còn phần chìm, phần biểu tượng, ẩn dụ thì ông lão là hình ảnh của người lao động có khát vọng cao đẹp, biển cả là khung cảnh kì vĩ tương ứng với môi trường hoạt động sáng tạo của con người. Con cá kiếm không chỉ là con mồi của ông lão mà nó còn biểu tượng cho ước mơ, lí tưởng của con người muốn hướng đến. Cuộc đi câu là hành trình theo đuổi một khát vọng to lớn vượt ra ngoài giới hạn của con người.Xem thêm: Vỉ sao phải bảo vệ môi trường?Vanmau.edu.vn
|
Analyzing symbolic meaning in the novel The Old Man and the Sea (study excerpt) by U-nit He-min-uê
Suggest
Eunice Heminh-ue is a famous American writer of the 20th century. He made many important contributions to innovating the art of Western novels. His works conquer readers in many countries around the world with a modern style of story writing capable of describing the character's thoughts and deeply expressing the inner mysteries of people and old men. and the sea is often considered Hemingway's masterpiece and it is also ranked among the great, excellent, and typical works of world literature.
Borrowing the image of an iceberg with one floating part and seven submerged parts, Hemingway raised the requirement: writers must create texts with many blank spaces, creating polysemy and polyphony for the story. . The author advocates hiding himself, not directly intervening in the story, the writer is not allowed to directly state his ideas but must build evocative and meaningful images for the reader to understand. Draw out the hidden meanings of the images in the work. The narrator tends to let the characters act, so many passages are dominated by dialogue or internal monologue. The writer's attitude is revealed in the work by contrasting voices, difficult to define, both realistic and symbolic. See more: My feelings when reading The Strange Tale of the Fishing Boat House quoted in Thanh Tong's manuscript .
In the excerpt The Old Man and the Sea, Hemingway describes only one character, an old fisherman, whose action is going fishing. This repeated action makes the work symbolic, the work is a profound metaphor. The character of old man Santiago is shown as a symbol of a working man, a person who represents a brave hero of struggle, always pursuing his aspirations but also very alert. have your limits. When building this character, the writer used a new technique, very typical of twentieth-century novels, which is interior monologue. The inner monologue is sometimes within the old man himself, sometimes like talking to a swordfish... Not only are the old man's past life scenes recreated in his thoughts, but even the fishing, Human life in general is also shown in the old man's monologue... Through this, we can clearly see the rising and falling parts of the excerpt. The highlight of the excerpt is the description of old man Xantiago's fish hunt. As for the hidden part, the symbol, the metaphor, the old man is the image of a worker with noble aspirations, and the sea is a magnificent scene corresponding to the environment of human creative activity. The swordfish is not only the old man's prey, but it also symbolizes the dreams and ideals people want to achieve. A fishing trip is a journey to pursue a great desire that goes beyond human limits. See more: Why must we protect the environment? Vanmau.edu.vn
|
Phân tích ý nghĩa của bản “Tuyên ngôn độc lập” (Hồ Chí Minh)
Gợi ý
Ngày 2/9/1945, dưới lồng lộng cao xanh của một Ba Đình vàng rực nắng. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cất giọng trầm ấm đọc lên bản Tuyên ngôn Độc lập “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã trở thành nước tự do và độc lập”. Câu văn ấy trong bản Tuyên ngôn đã dõng dạc báo hiệu sự ra đời của một nước Việt Nam đồng thời khẳng định niềm kiêu hãnh, tự hào của người Việt Nam.
Ngay từ đầu bản Tuyên ngôn, chủ tịch Hồ Chí Minh đã cho thấy rõ, “nước Việt Nam có quyền hưởng tự do, độc lập" trước hết bởi quyền ấy hoàn toàn phù hợp với “những lẽ phải không ai chối cãi được" của xã hội loài người.
Đó là những lẽ phải đã được kết đọng ở những lời văn tuyệt hay trong các bản Tuyên ngôn độc lập của Hoa Kì năm 1776 và Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của nước Pháp năm 1791. Việc chủ tịch Hồ Chí Minh quyết định chọn hai bản Tuyên ngôn của nước Pháp và nước Mĩ để mở đầu cho bản Tuyên ngôn độc lập của Việt Nam chắc chắn phải là xuâ’t phát từ nhiều lẽ. Nhưng lẽ đầu tiên trong các lẽ nhất định là những “câu văn bất hủ”, là chân lí vĩnh cửu về quyền sống của con người.Xem thêm: Bài đọc tham khảo Cần kiệm xây dựng nước nhà Rất khó để có thể nói theo ai đó, rằng việc nêu cao những lời bất hủ trên có nghĩa tác giả Tuyên ngôn độc lập đã muốn đặt cuộc Cách mạng tháng Tám của nước ta ngang hàng với cuộc chiến tranh giải phóng của Hoa Kì hay cụộc Cách mạng tư sản Pháp. Nhưng những câu dẫn được dùng để mở đầu cho văn kiện lịch sử vĩ đại này rõ ràng đã chứng tỏ rằng Việt Nam – đất nước nằm khiêm nhường ở một góc xa xôi phía đông nam của lục địa Á Châu – đã không hề lạc hậu với ánh sáng của thế giới văn minh. Và quyền độc lập, tự do của một đất nước như thế hiển nhiên đã có cội nguồn sâu xa. Trong những chân lí sáng ngời của cả loài người. Do đó, nó phải được cả loài người công nhận và bảo vệ.
Tuy nhiên, những câu được chủ tịch Hồ Chí Minh viện dẫn mới chỉ là nêu lên quyền sống, quyền tự do, bình đẳng, hạnh phúc giữa những con người. Những quyền ấy còn chưa được đề cập đến trên một đơn vị, một cấp độ lớn hơn: dân tộc. Phải chờ tới câu văn quan trọng bậc nhất của Tuyên ngôn độc lập cho dù chỉ được gọi một cách khiêm tốn là “suy rộng" thì cái quyền độc lập, tự do, hạnh phúc và bình đẳng giữa những dân tộc mới được Chủ tịch Hồ Chí Minh chính thức tuyên ngôn: “Tất cả các dân tộc trên thế giới sinh ra đều có quyền bỉnh đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”.Xem thêm: Soạn bài: Tập đọc Mùa thảo quả Như thế, nền tảng tư tưởng của “Tuyên ngôn độc lập" đã được xây đắp từ một câu văn của chính Bác Hồ. Câu văn ấy trong hình thức gọi là “suy rộng ra" cũng đã trở thành một lẽ phải không thể nào chối cãi được. Chứa đựng trong đó chính là tư tưởng, là tâm huyết đã khiến cho Chủ tich Hồ Chí Minh thành hiện thân, thành ngọn cờ dẫn đường cho phong trào giải phóng dân tộc, phong trào mà không lâu sau sẽ trở thành một trong ba dòng thác cách mạng trên toàn thế giới. “Những lẽ phải không ai chối cãi được" trên đây sẽ cung cấp những cơ sở chắc chắn để tác giả “Tuyên ngôn độc lập” rút ra kết luận: việc thực dân Pháp lợi dụng lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái, đến cướp đất nước ta, áp bức đồng bào ta tất yếu phải coi là “trái hẳn với nhân đạo và chính nghĩa”. Chính vì thế mà trong Tuyên ngôn độc lập, chúng trở thành bị cáo. Chân lí về quyền sống, quyền độc lập dân tộc, có thể nói đã trao cho Chủ tịch Hồ Chí Minh và thông qua Người, cho nhân dân Việt Nam ta tư cách và vị thế của quan tòa để trước thế giới và lịch sử, cất cao lời buộc tội chủ nghĩa thực dân. Dưới ánh sáng công lí, tội ác của thực dân tới lúc này đã quá hiển nhiên. Vì thế mà Hồ Chí Minh đã không cần luận tội mà kết tội, không cần nghị án mà tuyên án.Xem thêm: Suy nghĩ của em về thú lâm tuyền trong bài thơ Tức cảnh Pác Bó Không dừng lại như vậy, Hồ Chí Minh còn đưa ra những lập luận đanh thép, không ai bác bỏ được: “Một dân tộc dã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phe Đồng Minh chống Phát xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập”.
Quả vậy, “Tuyên ngôn Độc lập” đã không chỉ là bản “đại cáo” về sự đánh tan bọn “nghịch lỗ”, một đời quân xâm lược bạo tàn. Thành quả của chúng ta dành được qua Cách mạng tháng Tám cao hơn thế bội phần. Chúng ta đã đánh đuổi để quôc, đánh đổ phong kiến, kết thúc ngàn năm nô lệ, đến với độc lập, tự do.
Vanmau.edu.vn
|
Analyze the meaning of the "Declaration of Independence" (Ho Chi Minh)
Suggest
September 2, 1945, under the tall green canopy of a sunny golden Ba Dinh. President Ho Chi Minh raised his voice and read the Declaration of Independence, "Vietnam has the right to enjoy freedom and independence, and in fact has become a free and independent country." That sentence in the Declaration clearly signaled the birth of Vietnam and affirmed the pride of the Vietnamese people.
Right from the beginning of the Declaration, President Ho Chi Minh clearly showed that "Vietnam has the right to enjoy freedom and independence" first of all because that right is completely consistent with "reasons that no one can deny". of human society.
Those are the principles that have been condensed in the beautiful words of the United States Declaration of Independence in 1776 and the French Declaration of the Rights of Man and Citizen in 1791. President Ho Chi Minh's decision to choose The two Declarations of France and the United States that opened the Declaration of Independence of Vietnam must have come from many reasons. But the first of the certain reasons are "immortal sentences", the eternal truth about the human right to life. See more: Reference readings Be frugal to build the country It is difficult to say the same Some people believe that raising these immortal words means that the author of the Declaration of Independence wanted to put our country's August Revolution on a par with the American war of liberation or the French bourgeois revolution. But the quotes used to open this great historical document clearly demonstrate that Vietnam - a country located humbly in a remote southeastern corner of the Asian continent - is not backward at all. with the light of the civilized world. And the independence and freedom of such a country obviously have deep roots. In the shining truths of all mankind. Therefore, it must be recognized and protected by all mankind.
However, the sentences cited by President Ho Chi Minh only state the right to life, freedom, equality, and happiness among people. Those rights have not yet been mentioned on a larger unit and level: the nation. It was not until the most important sentence of the Declaration of Independence, even modestly called "generalized", that the right to independence, freedom, happiness and equality among peoples was recognized by the President. Ho Chi Minh officially declared: "All peoples in the world are born with equal rights, all peoples have the right to life, the right to happiness and the right to freedom." See more: Prepare lessons: Practice reading Cardamom season Thus, the ideological foundation of the "Declaration of Independence" was built from a sentence by Uncle Ho himself. That sentence, in the form called "broadly extrapolated", has also become an undeniable truth. Contained in it is the thought and enthusiasm that made President Ho Chi Minh the embodiment , became the guiding flag for the national liberation movement, a movement that would soon become one of three revolutionary streams around the world that the above "irrefutable truths" will provide solid grounds for the author of the "Declaration of Independence" to draw the conclusion: the French colonialists took advantage of the flag of freedom, equality, and fraternity to rob our country and oppress our people. considered "completely contrary to humanity and justice". That's why in the Declaration of Independence, they became defendants. The truth about the right to life and the right to national independence can be said to have been given to President Ho Chi Minh and through him, to the Vietnamese people the status and position of judges before the world and history. raised accusations of colonialism. Under the light of justice, the colonialists' crimes were now too obvious. That's why Ho Chi Minh was convicted without impeachment, without deliberation but pronounced sentence. See more: My thoughts on wild animals in the poem Pac Bo Scene Don't stop like that, Ho Chi Minh also made strong arguments that no one could refute: "A nation that has courageously resisted French slavery for more than 80 years, a nation that has courageously sided with the Allies against the Fascists for several years now. , that nation must be free! People must be independent".
Indeed, the "Declaration of Independence" was not just a "great announcement" about the defeat of the "disobedients", a generation of brutal invaders. Our achievements through the August Revolution are much higher than that. We have expelled the invaders, overthrown feudalism, ended thousands of years of slavery, and came to independence and freedom.
Vanmau.edu.vn
|
Phân tích ý nghĩa của cuộc đối thoại giữa Hồn và Xác trong đoạn trích kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt của Lưu Quang Vũ.
Hướng dẫn
– Cuộc đối thoại ẩn chứa những hàm ý sâu xa của tác giả: Linh hồn và thể xác là hai phương diện tồn tại trong mỗi con người. Có thể nào sống mà không cần đến dáng hình, thân thể? Nhưng lẽ nào đời sống của con người lại chỉ gói gọn trong những nhu cầu thuần tuý, bản năng? Đừng bỏ bêthân xác để chỉ biết đến một thứ linh hồn chung chung, trừu tượng không thuộc về một ai trên cõi đời này. Cũng đừng chỉ chạy theo những khát thèm của thân xác mà trở về với hồng hoang nguyên thuỷ.
– Cuộc đối thoại giữa Hồn và Xác chính là cuộc đấu tranh giữa đạo đức và tội lỗi, giữa khát vọng và dục vọng, giữa phần "người" và phần "con" trong mỗi con người.
Về mặt nghệ thuật, cuộc đối thoại này vừa đẩy mâu thuẫn kịch lên cao vừa là đoạn văn sinh động, đầy ý nghĩa triết lí.
Nguồn:
Xem thêm: Phê phán thái độ thờ ơ, ghẻ lạnh đối với con người cũng quan trọng và cần thiết như ngợi ca lòng vị tha, tình đoàn kết. Anh (chị) suy nghĩ như thế nào về ý kiến trên
|
Analyze the meaning of the dialogue between Soul and Body in the excerpt from the play Truong Ba's Soul, Butcher's Skin by Luu Quang Vu.
Instruct
– The dialogue contains profound implications of the author: Soul and body are two aspects of existence in every human being. Is it possible to live without a figure or a body? But is human life limited to pure, instinctive needs? Don't neglect your body to only know a general, abstract soul that doesn't belong to anyone in this world. Don't just follow your body's desires and return to the original wilderness.
– The dialogue between Soul and Body is the struggle between morality and sin, between desire and desire, between the "human" part and the "child" part in each person.
In terms of art, this dialogue both heightens the drama's conflict and is a lively passage full of philosophical meaning.
Source:
See more: Criticizing indifferent and estranged attitudes towards people is as important and necessary as praising altruism and solidarity. What do you think about the above opinion?
|
Phân tích ý nghĩa của câu chuyện Hoa hồng tặng mẹ: “Anh dừng lại tiệm bán hoa… trao tận tay bà bó hoa” (Theo Quà tặng cuộc sống, NXB Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh, 2003)
Gợi ý
Có nhà thơ từng than thở: Nhạy cảm quá đôi khi thành nghiệt ngã, nhưng sự vô tâm vô tình mới là điều nghiệt ngã thực sự Trong cuộc sống phức tạp này, mải hướng đến những điều to tát mà con người thường vô tình trước những điều tưởng như vô cùng giản đơn của sự sống. Chính những điều tưởng như giản đơn ấy lại là một phần quan trọng làm nên ý nghĩa của cuộc sống này. Sự vô tâm có thể biến một người tốt thành một kẻ xấu, sự vô tình của người này dễ tạo nên nỗi đau, sự thất vọng cho người khác, nhất là giữa những người thân. Câu chuyện Hoa hồng tặng mẹ là một câu chuyện hay, cảm động về tình mẫu tử. Nhưng ý nghĩa của câu chuyện không dừng lại ở việc ngợi ca lòng hiếu thảo của cô bé nghèo với người mẹ vừa quá cố của mình. Câu chuyện là một bài học có ý nghĩa nhân sinh mà mỗi người đọc có thể phát hiện ở đó những giá trị khác nhau.
Câu chuyện đơn giản, ngắn gọn. Hai người con hiếu thảo đi mua hoa tặng mẹ trong hai cảnh ngộ khác nhau. Một người trưởng thành, tốt bụng, có tiền lại rất hào phóng, một cô bé nghèo, yêu mẹ nhưng không đủ tiền mua hoa tặng mẹ. Cả hai đều là người con hiếu thảo, anh có đủ điều kiện để thực hiện lòng hiếu thảo của mình: mẹ anh còn sống, anh có tiền, có xe và là người lớn; mẹ cô bé không còn, cô lại không có tiền, chẳng có xe. Nhưng sự việc lại diễn ra trái ngược và bất ngờ. Cô bé đã cho người lớn một bài học về lòng hiếu thảo và sự chu đáo đối với người thân. Trong xã hội ngày nay, khi mà hàng ngày, hang giờ, chúng ta phải đau xót chứng kiến những câu chuyện đau lòng về sự bất hiếu của con cháu với cha mẹ ông bà. Nhịp sống hiện đại lấy đi của con người những phút giây yên tĩnh, khiến con người trở nên vô tâm, vô tình. Có không ít những người con vô trách nhiệm với cha mẹ, cả cuộc đời không một lần tặng quà cho cha mẹ, thậm chí đối xử bội bạc và tàn nhẫn với cha mẹ. Và câu chuyện này chắc chắn sẽ có một ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với việc thức tỉnh lương tâm của những người làm con và những người đã trót vô tình với người thân, với đồng loại. Cô bé đã khóc vì không đủ tiền mua hoa tặng mẹ, cho dù mẹ em đã mất. Việc cô bé tặng hoa cho mẹ đã tác động đến người lớn. Anh đã bừng tỉnh và nhận ra một điều rằng, mẹ anh cần được gặp anh chứ không phải cần bó hoa anh gửi về. Anh không phải là người con vô tình. Anh rất hiếu thảo. Nhưng hành động của cô bé đã khiến anh ngộ ra một điều là: anh hạnh phúc vì anh vẫn còn mẹ, anh vẫn được trao tận tay mẹ anh những bó hoa đẹp nhất. Những giây phút còn có cha mẹ trên đời là những giây phút vô cùng quý giá. Hành động hiếu thảo của cô bé nghèo bất hạnh đã làm thay đổi cả nhận thức và hành động của một người trưởng thành. Chắc chắn anh đã nhận ra rằng cô bé nghèo kia còn đến tận nghĩa trang, vượt qua danh giới sinh tử để thể hiện lòng hiếu thảo của mình thì cớ gì anh, một người trưởng thành, có đủ mọi điều kiện lại không thể hiện được lòng hiếu thảo như cô bé ấy. Anh cũng đã nhận ra rằng sẽ tới ngày anh không còn mẹ trên đời. Và lúc ấy, anh có muốn đến đâu cùng không thể trao tận tay mẹ những bông hồng đẹp nhất.Xem thêm: Phân tích nhân vật Tnú trong Rừng xà nu (Có dàn ý chi tiết)
Sự vô tâm của người lớn nhiều khi lại được thức tỉnh bởi sự hồn nhiên, trong sáng của trẻ con. Ý nghĩa của việc tặng quà không nằm ở giá trị của món quà mà ở tình cảm của người tặng. Câu chuyện đã cho chúng ta một bài học quý giá về cách ứng xử ở đời. Nhiều người vì đơn giản hoá sự việc một cách bừa bãi khiến chúng ta trở thành những kẻ vô tình, vô nghĩa. Hành động ra cửa hàng gửi hoa tặng mẹ của anh thanh niên đã là hành động đáng trân trọng, nhưng trước hành động của cô bé ấy anh lại trở thành kẻ vô tâm. Vậy mà trong thế giới chúng ta đang sống liệu có nhiều không những người có tấm lòng hiếu thảo như người thanh niên trong câu chuyện, chứ chưa nói đến những người con như cô bé nghèo kia. Hay chúng ta vẫn thấy nhiều những cảnh ngộ của Lão Go-rio (Banzac), của gia đình cụ cố Hồng (Vũ Trọng Phụng), của những người Báo hiếu trả nghĩa mẹ, Báo hiếu trả nghĩa cha như những nhân vật trong truyện của Nguyễn Công Hoan… Có thể nói đây là những bài học đạo đức có ý nghĩa muôn thuở đối với xã hội loài người. Sống trên đời phải biết quan tâm đến người khác, mà trước hết là cha mẹ, anh chị em, bạn bè mình. Hiếu thảo với cha mẹ là trách nhiệm cao cả nhất của mọi con người, như cha ông ta từng khuyên răn:Xem thêm: Nghị luận xã hội về hiện tượng nữ sinh ăn mặc sexy – Văn lớp 12 Công cha như núi Thái sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Một lòng thờ mẹ kính cha
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con.
Đối với cha mẹ, lòng hiếu thảo của con cái là thứ quà tặng vô giá nhất. Đã có những câu chuyện đau lòng, những bi kịch của những bậc cha mẹ khi về già bị con cháu đối xử tàn nhẫn, vô tâm. Câu ca cay đắng thốt lên từ những người già bất hạnh:
Cha mẹ nuôi con bằng trời bằng bể
Con nuôi cha mẹ kể tháng kể ngày
Không gì cao quý và đáng trân trọng hơn tình mẫu tử. Vì vậy mỗi người phải biết trân trọng, phải biết quý giá những phút giây còn có cha mẹ trên đời. Thông thường con người chỉ biết nuối tiếc cái gì đó khi nó đã qua đi, khi nó đã vượt khỏi tầm tay của mình. Bài học rút ra từ câu chuyện này có một ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với tất cả chúng ta. Một câu chuyện thật đời thường và rất quen thuộc với cuộc sống của chúng ta. Bao nhiêu người con mải mê với chuyện làm ăn, mải mê với những thú vui cá nhân mà quên đi hình bóng những cha mẹ mỏi mòn ngóng trông con. Khi đạo đức xã hội đang có nhiều biểu hiện tiêu cực như hiện nay, câu chuyện này đã thức tỉnh mỗi chúng ta, buộc chúng ta phải nhìn lại trách nhiệm làm con của mình. Với những người còn đang ở tuổi cắp sách đến trường, món quà tặng cha mẹ quý giá nhất là những điểm 10, là những lời khen của thầy cô, là ý thức học tập chăm chỉ, tự giác…Xem thêm: Phân tích hai phát hiện của người nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu Nhìn mọi người để rồi nhìn lại mình để sống tốt hơn cũng là một thông điệp mà người kể câu chuyện này muốn chia sẻ cùng tất cả mọi người.
Vanmau.edu.vn
|
Analyzing the meaning of the story Roses for mother: "He stopped at the flower shop... gave her a bouquet of flowers" (According to Gift of Life, Tre Publishing House, Ho Chi Minh City, 2003)
Suggest
A poet once lamented: Being too sensitive sometimes becomes cruel, but indifference and indifference are the truly cruel things. In this complicated life, focusing on great things that people are often indifferent to. the seemingly simple things of life. It is these seemingly simple things that are an important part of what makes life meaningful. Indifference can turn a good person into a bad person. This person's indifference can easily create pain and disappointment for others, especially among relatives. The story of Roses for Mother is a beautiful, touching story about motherly love. But the meaning of the story does not stop at praising the poor girl's filial piety to her recently deceased mother. The story is a meaningful life lesson that each reader can discover different values in.
The story is simple and short. Two filial children went to buy flowers for their mother in two different circumstances. A mature, kind person who has money and is very generous, a poor girl who loves her mother but cannot afford to buy flowers for her. Both are filial sons, he has all the conditions to exercise his filial piety: his mother is alive, he has money, a car and is an adult; Her mother is gone, she has no money or a car. But things turned out to be the opposite and unexpected. The girl gave adults a lesson about filial piety and thoughtfulness towards relatives. In today's society, every day, every hour, we have to painfully witness heartbreaking stories about children's disloyalty to their parents and grandparents. Modern life takes away people's quiet moments, making them careless and heartless. There are many children who are irresponsible to their parents, never once giving a gift to their parents in their whole life, and even treat them ungratefully and cruelly. And this story will certainly have an extremely important meaning for awakening the conscience of those who are children and those who have been unfaithful to their relatives and fellow human beings. The little girl cried because she didn't have enough money to buy flowers for her mother, even though her mother had passed away. The little girl giving flowers to her mother had an impact on the adults. He woke up and realized one thing: his mother needed to see him, not the bouquet of flowers he sent home. He is not an accidental son. He is very filial. But her actions made him realize one thing: he is happy because he still has his mother, he can still give his mother the most beautiful bouquets of flowers. The moments when we still have our parents in this world are extremely precious moments. The filial act of the poor unfortunate girl changed both the perception and actions of an adult. Surely he realized that that poor girl even went to the cemetery, crossing the boundary of life and death to show her filial piety, so why couldn't he, an adult, with all the conditions, show her filial piety? to be filial like that little girl. He also realized that the day would come when he would no longer have a mother in his life. And at that time, no matter how much he wanted to go, he couldn't hand over to his mother the most beautiful roses. See more: Analysis of the character Tnú in The Snake Forest (With detailed outline)
The carelessness of adults is often awakened by the innocence and purity of children. The meaning of giving a gift does not lie in the value of the gift but in the feelings of the giver. The story gives us a valuable lesson about how to behave in life. Many people indiscriminately simplify things, causing us to become heartless and meaningless people. The young man's act of going to the store to send flowers to his mother was an honorable action, but in front of that girl's actions, he became heartless. Yet in the world we live in, are there many people with a filial heart like the young man in the story, let alone children like that poor girl? Or we still see many plights of Old Go-rio (Banzac), of the family of great-grandfather Hong (Vu Trong Phung), of people who pay filial piety to their mothers and pay filial piety to their fathers like the characters in the story. by Nguyen Cong Hoan... It can be said that these are moral lessons that have eternal significance for human society. To live in this world, you must know how to care for others, first of all your parents, siblings, and friends. Filial piety to parents is the highest responsibility of every human being, as our ancestors once advised: See more: Social commentary on the phenomenon of female students dressing sexy - Grade 12 Literature A father's credit is like the Thai Son mountain
Motherhood is like water flowing from a source
One Heart Worship Mother Glass Father
Fulfilling filial piety is the way of children.
For parents, their children's filial piety is the most priceless gift. There have been heartbreaking stories and tragedies of parents who in their old age were treated cruelly and heartlessly by their children and grandchildren. A bitter song uttered by unfortunate elderly people:
Parents raise their children like heaven and earth
Children adopted by parents tell the month and the day
There is nothing more noble and honorable than motherly love. Therefore, each person must know how to appreciate and value the moments when they still have their parents in the world. Usually people only regret something when it has passed, when it has gone out of their hands. The lesson learned from this story has an extremely important meaning for all of us. A real story and very familiar to our lives. How many children are engrossed in business, engrossed in personal pleasures and forget the image of parents who are tired of looking after their children. When social morality is showing many negative manifestations today, this story has awakened each of us, forcing us to look again at our responsibilities as children. For those who are still at school age, the most valuable gifts for their parents are 10th grade points, compliments from teachers, the sense of studying hard, being self-disciplined... See more: Analysis of two Photographer Phung's discovery in the short story The Boat in the Distance by Nguyen Minh Chau Looking at everyone and then looking back at yourself to live better is also a message that the narrator of this story wants to share with everyone. People.
Vanmau.edu.vn
|
Phân tích ý nghĩa của đoạn kết trong Chuyện chức phán sử đền Tản Viên (từ vương nghĩ Tử Văn đến nhà quan Phán sử) và lời bình cuối truyện (Từ Than ôi!… đến hết)
Gợi ý
Trong diễn biến cốt truyện của mỗi câu chuyện, kết thúc là phần có vị trí khá quan trọng, mang nhiều ý nghĩa, thể hiện quan điểm, tư tưởng của nhà văn. Với đoạn kết Chuyện chức phán sự đền Tản Viên và lời bình cuối truyện chúng ta sẽ hiểu rõ hơn điều đó.
Trong Chuyện chức phán sự đền Tản Viên nổi bật nhân vật Ngô Tử Văn – một con người khảng khái, cương trực, kiên quyết đấu tranh chống lại cái ác trừ hại cho dân. Một mình chàng dám đương đầu với hồn ma tên tướng giặc, và dù phải xuống tận Minh ti, chàng vẫn không hề sợ hãi, rút lui. Diêm Vương công minh đã suy xét kĩ lưỡng mọi việc, xử đúng người đúng tội, giải oan cho Tử Văn. Truyện kết thúc bằng nhiều chi tiết li kì, hấp dẫn, giàu ý nghĩa. Sau khi trừng phạt hồn ma tướng giặc họ Thôi, Diêm Vương đã ban thưởng Tử Văn khá hậu hĩnh: Vương nghĩ Tử Văn có công trừ hại, truyền cho vị thần đền kia, từ nay phần xôi lợn của dân cúng tế, nên chia cho Tử Văn một nửa và sai lính đưa Tử Văn về. Chi tiết này khắc hoạ thêm một lần nữa sự công minh của Diêm Vương. Việc ban thưởng cho Tử Văn chứng tỏ Diêm Vương đứng về lẽ phải, có thiện chí đối với hành động dũng cảm của kẻ sĩ. Cho Tử Văn được trở lại làm người, có lẽ Diêm Vương không chỉ muốn trả dại sự công bằng cho chàng mà còn muốn duy trì sự tồn tại của khí phách hiên ngang, dũng cảm, của tinh thần khảng khái trên cõi trần. Tử Văn sẽ là sứ giả mang lại sự yên bình cho nhân dân chốn dương gian.Xem thêm: Cảm nhận về bài thơ Tỏ lòng (Thuật hoài) của Phạm Ngũ Lão
Việc Tử Văn được sống lại là phán quyết của Diêm Vương nhưng việc chàng được giới thiệu, đề cử vào chức phán sự đền Tản Viên là do Thổ công hết lòng xin cho: Nay thấy ở đền Tản Viên khuyết một chân phán sự, lão đã vì nhà thầy mà hết sức tiến cử, được đức Thánh Tản ngài đã bằng lòng, vậy xin lấy việc đó để đền ơn nghĩa. Hành động của Thổ công là hành động trả nghĩa Tử Văn. Nhờ chàng mà vị thần này được trở lại cai quản ngôi đền vốn bị hồn ma tướng giặc họ Thôi cướp mất. Nhận chức quan phán sự, Tử Văn sẽ phải chết, nhưng Thổ công khuyên rằng: Người ta sống ở đời, xưa nay ai chẳng phải chết, miễn là chết đi còn được tiếng về sau. Tất nhiên, một người như Tử Văn có lẽ không vì danh tiếng mà hám chức danh đó. Lí do chính yếu khiến chàng ưng thuận lời đề nghị của Thổ công là với chức phán sự, chàng sẽ có cơ hội mang lại công lí, chính nghĩa cho cuộc đờị. Hơn nữa, để Tử Văn nhận chức phán sự cũng là cách Nguyễn Dữ bất tử hoá hình tượng con người cương trực, khảng khái. Chẳng thế mà sau khi Tử Văn chết rồi, có người còn nhìn thấy chàng ngồi trên xe, cưỡi gió mà biển mất. Những người như Tử Văn không thể chết mà phải sống mãi mãi để cuộc đời này được yên ổn, để mọi điều tai chướng bị tiễu trừ. Chi tiết kì ảo được Nguyễn Dữ xây dựng vừa thể hiện thái độ- ngợi ca, vừa thể hiện ước mơ công lí của nhà văn.Xem thêm: Cảm hứng nhân đạo trong truyện Kiều của Nguyễn Du Kết thúc Chuyện chức phán sự đền Tản Viên thể hiện một cách sâu sắc triết lí dân gian ở hiền gặp lành, ở ác gặp ác, gieo gió gặt bão. Kẻ gian trá, xấu xa như hồn ma tướng giặc họ Thôi đã phải chịu tội còn người cương trực, khảng khái như Ngô Tử Văn xứng đáng được muôn đời ngợi ca. Lòng cảm phục và thái độ ngợi ca của Nguyễn Dữ đã được thể hiện một cách trực tiếp trong lời bình ngay sau kết thúc truyện. Theo ông, con người sống trên đời không sợ “cứng quá thì gãy” mà chỉ sợ không thể cứng được. Ngô Tử Văn một kẻ sĩ nước Vỉệt là người đã luôn giữ cho mình sự cứng cỏi để vượt qua mọi thế lực phi nghĩa. Cũng từ nhân vật này, người đọc có thể thấy Nguyễn Dữ rất đề cao sự cứng cỏi trong nhân cách kẻ sĩ. Thực ra đã là trí thức thì cần rất nhiều phẩm chất tốt đẹp. Quan niệm của Nguyễn Dữ về nhân cách kẻ sĩ không phải không đúng nhưng có lẽ chưa đầy đủ, trọn vẹn. Nếu kẻ sĩ lức nào cũng cứng quá thì chắc chắn cũng sẽ cổ lúc phải gãy.
Có khi sức hấp dẫn của những câu chuyện lại ở kết thúc giàu ý nghĩa. Viết Chuyện chức phán sự đền Tản Viên, Nguyễn Dữ không chỉ làm người đọc hài lòng bởi một kết thúc có hậu mà còn khiến chúng ta phải có những giây phút lắng lại để chiêm nghiệm về ý nghĩa của kết thúc đó.Xem thêm: Phân tích phần thứ ba bài Bình Ngô đại cáo của Nguyễn TrãiVanmau.edu.vn
|
Analyze the meaning of the ending in The Story of the Judge of Tan Vien Temple (from King Tu Van to the House of the Judge) and comments at the end of the story (From Alas!... to the end)
Suggest
In the plot development of each story, the ending is a quite important part, carrying a lot of meaning, expressing the writer's views and thoughts. With the ending of The Story of the Judge of Tan Vien Temple and the comments at the end of the story, we will understand that better.
In The Story of the Judge of Tan Vien Temple, the character Ngo Tu Van stands out - a brave, upright man, determined to fight against evil and harm the people. He alone dared to face the enemy general's ghost, and even though he had to go all the way to Minh Ti, he was still not afraid and retreated. The fair King of Hell carefully considered everything, judged the right person, and exonerated Tu Van. The story ends with many thrilling, attractive, and meaningful details. After punishing the ghost of the enemy general Thoi, the King of Hell rewarded Tu Van quite generously: The king thought Tu Van had the merit of eliminating harm, and passed it on to the temple deity. From now on, the people's portion of the pig's sticky rice offerings should be divided. gave Tu Van half and sent soldiers to take Tu Van home. This detail once again portrays the justice of the King of Hell. Rewarding Tu Van proves that the King of Hell is on the right side and has good will towards the brave actions of the scholar. For Tu Van to return to being a human, perhaps the King of Hell not only wanted to give him justice but also wanted to maintain the existence of his bravery, bravery, and generous spirit on earth. Tu Van will be a messenger to bring peace to the people of this world. See more: Feelings about the poem To Express Your Heart (Thuat Hoai) by Pham Ngu Lao
The fact that Tu Van was resurrected was the King of Hell's decision, but the fact that he was introduced and nominated to the position of judge of Tan Vien temple was due to Earth Cong wholeheartedly asking for it: Now seeing that at Tan Vien temple there is one judge missing, the old man Since I highly recommended it for your family, His Holiness Thanh Tan has agreed, so please take this as a way to repay my gratitude. Earth Cong's action is an act of repaying Tu Van's kindness. Thanks to him, this god was able to return to rule the temple, which was robbed by the ghost of enemy general Thoi. Accepting the position of judge, Tu Van will have to die, but Tho Cong advises: People live in this world, no one has to die in the past, as long as they die, they will be famous later. Of course, a person like Tu Van probably doesn't crave that title for fame. The main reason why he agreed to Earth Cong's proposal was that with the position of judge, he would have the opportunity to bring justice and righteousness to life. Furthermore, letting Tu Van accept the position of judge is also Nguyen Du's way of immortalizing the image of an upright and generous person. That's why, after Tu Van died, some people still saw him sitting in a car, riding the wind and disappearing from the sea. People like Tu Van cannot die but must live forever so that this life can be peaceful, so that all evil things can be eliminated. The magical details built by Nguyen Du both express the writer's attitude and praise, and also express the writer's dream of justice. See more: Humanitarian inspiration in Nguyen Du's story Kieu Ending The story of the Tan Temple judgeship Vien deeply demonstrates the folk philosophy that where goodness meets goodness, where evil meets evil, sowing the wind reaps the storm. A deceitful and evil person like the ghost of an enemy general named Thoi must be punished, while an upright and brave person like Ngo Tu Van deserves eternal praise. Nguyen Du's admiration and praising attitude were expressed directly in the comments right after the end of the story. According to him, people living in this world are not afraid of "being too hard and breaking" but are only afraid of not being able to be strong. Ngo Tu Van, a Vietnamese scholar, always maintained his stubbornness to overcome all unjust forces. Also from this character, readers can see that Nguyen Du highly values the toughness in the scholar's personality. Actually, to be an intellectual, you need many good qualities. Nguyen Du's concept of a scholar's personality is not incorrect, but perhaps incomplete. If any brave person is too stiff, his neck will definitely break.
Sometimes the appeal of stories lies in their meaningful endings. Writing The Story of the Judge of Tan Vien Temple, Nguyen Du not only satisfied readers with a happy ending but also made us have moments of silence to contemplate the meaning of that ending. See more: Analysis of the third part of the article Binh Ngo Dai Cao by Nguyen TraiVanmau.edu.vn
|
Phân tích ý nghĩa hình tượng người cách mạng Hạ Du trong tác phẩm Thuốc của Lỗ Tấn
Gợi ý
Mặc dù chỉ được miêu tả gián tiếp qua suy tư của nhân vật khác, nhưng hình ảnh Hạ Du có một vị trí đặc biệt, là hình tượng trung tâm của tác phẩm. Đó là hình tượng người cách mạng giác ngộ sớm; có lí tưởng cách mạng rõ ràng: lật đổ ngai vàng, đánh đuổi ngoại tộc, giành độc lập. Hạ Du là một người dũng cảm hiên ngang, dám tuyên truyền lí tưởng cách mạng với cả người cai ngục trong những ngày chờ lên đoạn đầu đài. Trong một thiên hồi kí ở tập Nhặt cánh hoa tàn, Lỗ Tấn nói: viết Hạ Du là để kỉ niệm Thu Cận, một nữ chiến sĩ cách mạng của Quang phục hội (tiền thân của Quốc dân đảng do Tôn Trung Sơn đứng đầu, sau này lãnh đạo cách mạng Tân Hợi), từng du học Nhật, khai sáng tờ Trung Quốc nữ báo tuyên truyền giải phóng phụ nữ và lên đoạn đầu đài lúc 36 tuổi.
Trong truyện, nhà văn tỏ ý trân trọng, kính phục nhận cách của người cách mạng Hạ Du nhưng cũng ngầm phê phán Hạ Du xa rời quần chúng, xa rời đến mức mẹ Hạ Du cũng không hiểu, chú Hạ Du thì coi cháu mình là làm giặc và đi tố giác; người dân lấy máu Hạ Du để chữa bệnh… Nhưng, chính vòng hoa tưởng niệm Hạ Du ở phần kết thúc truyện đã hé mở tư tưởng chủ đề của tác phẩm, thể hiện niềm tin của tác giả, một ngày kia, sẽ chấm dứt bi kịch của người cách mạng tiên phong và quần chúng sẽ được tỉnh ngộ. Xem thêm: Hãy làm rõ vẻ đẹp lãng mạn và tính chất bi tráng của hình ảnh người lính trong bài thơ Tây TiếnVanmau.edu.vn
|
Analyze the meaning of the image of the revolutionary Ha Du in Lu Xun's work Medicine
Suggest
Although only indirectly described through the thoughts of other characters, the image of Ha Du has a special position, being the central image of the work. That is the image of an early enlightened revolutionary; has clear revolutionary ideals: overthrow the throne, expel foreign nations, and gain independence. Ha Du was a brave and courageous person who dared to propagate revolutionary ideals to even the prison guards during the days waiting for him to be executed. In a memoir in the collection Picking Up Dead Petals, Lu Xun said: writing Ha Du was to commemorate Thu Can, a female revolutionary soldier of Quang Phuc Hoi (the predecessor of the Nationalist Party led by Sun Yat-sen, later led the Xinhai revolution), studied abroad in Japan, founded the China Women's Newspaper to propagate women's liberation, and went to the scaffold at the age of 36.
In the story, the writer expressed respect and admiration for the way of revolutionary Ha Du, but also implicitly criticized Ha Du for being distant from the masses, so distant that even Ha Du's mother did not understand, and Uncle Ha Du considered his nephew. is to attack and denounce; People took Ha Du's blood to cure his illness... But, it was the wreath commemorating Ha Du at the end of the story that revealed the thematic ideology of the work, expressing the author's belief that one day, it would end. The tragedy of the revolutionary pioneer and the masses will be awakened. See more: Let's clarify the romantic beauty and tragic nature of the soldier image in the poem Tay TienVanmau.edu.vn
|
Phân tích ý nghĩa nhan đề tác phẩm Thuốc của Lỗ Tấn
Gợi ý
Chữ Thuốc ở đây không phải là thuốc tây, hay nam, bắc của Y học mà là chữ thuốc hiểu theo nghĩa bóng, để chữa căn bệnh tinh thần cho người dân Trung Quốc đương thời. Lúc bấy giờ, khoảng cuối thế kỉ XIX – đầu thế kỉ XX, Trung Quốc bị các đế quốc Nga, Pháp, Đức, Nhật xâu xé, xã hội Trung Hoa biến thành nửa phong kiến, nửa thuộc địa, nhưng nhân dân lại an phận cam chịu nhục nhã. Lỗ Tấn đã viết Người Trung Quốc ngủ mê trong một cái nhà hộp bằng sắt, không có cửa sổ. Đó là căn bệnh đớn hèn, tự thỏa mãn, cản trở nghiêm trọng con đường giải phóng dân tộc. Tôn Trung Sơn cũng coi Trung Quốc lúc bấy giờ là một con bệnh trầm trọng. Do đó, rất cần một phương thuốc chữa trị. và, vì thế, nhà văn đặt tên cho tác phẩm của mình là Thuốc.
Tên truyện ít nhất có ba ý nghĩa:
Thứ nhất là thuốc chữa bệnh lao của những người dân u mê, lạc hậu (lấy máu người để chữa bệnh lao), hậu quả là con bệnh chết oan uổng, cần phải chữa căn bệnh u mê, lạc hậu này.
Thứ hai là thuốc chữa căn bệnh gia trưởng phong kiến của người dân Trung Quốc, trên bài tạp văn Ngày nay chúng ta làm cha như thế nào? Lỗ Tấn- đã yêu cầu các thế hệ trước phải biết tôn trọng các thế hệ sau, giải phóng tư tưởng cho thế hệ sau. Trong tác phẩm Thuốc, nhà văn đã đặt dấu hỏi về phương thuốc mà bố mẹ thằng Thuyên trị bệnh cho nó, mà ông Ba vì cuồng tín đã bán đứng thằng cháu làm cách mạng, mà lão cả Khang giết hại Hạ Du, đó không phải là thuốc chữa bệnh mà là thuốc độc. Vậy thì cái gọi là thuốc phải là sự giác ngộ ra rằng đó là thuốc độc và phải đi tìm một thứ thuốc khác.Xem thêm: Hãy viết một bức thư hoặc một bài văn nghị luận kêu gọi các quốc gia có vũ khí hạt nhân cam kết không chạy đua vũ trang... Thứ ba là thuốc chữa căn bệnh hờ hững, mê muội của quần chúng và bệnh xa rời quần chúng của những người cách mạng. Trong truyện Thuốc, những người cách mạng như Hạ Du là nhưng người xả thân vì nghĩa lớn, dũng cảm không sợ chết nhưng họ sống cô đơn, không ai hiểu họ và không ai ủng hộ họ.
Vanmau.edu.vn
|
Analyze the meaning of the title of Lu Xun's work Medicine
Suggest
The word Medicine here is not a Western medicine, or a Southern or Northern medicine, but a figurative word for medicine, to cure the mental illness of contemporary Chinese people. At that time, around the late 19th century - early 20th century, China was torn apart by the Russian, French, German, and Japanese empires, Chinese society turned into semi-feudal, semi-colonial, but the people were peaceful. humiliating fate. Lu Xun wrote The Chinese sleep in an iron box house with no windows. It is a cowardly, self-satisfied disease that seriously hinders the path to national liberation. Sun Yat-sen also considered China at that time a serious disease. Therefore, a cure is urgently needed. and, therefore, the writer named his work Medicine.
The title of the story has at least three meanings:
The first is the drug used to treat tuberculosis by ignorant and backward people (taking human blood to treat tuberculosis). As a result, sick children die unjustly, and it is necessary to cure this ignorant and backward disease.
Second is the cure for the feudal patriarchy disease of the Chinese people, in the article How do we be fathers today? Lu Xun asked previous generations to respect future generations and liberate ideas for future generations. In the work Medicine, the writer questioned the medicine that Thuyen's parents used to treat his illness, that Mr. Ba sold out his nephew to the revolution because of fanaticism, and that Elder Khang killed Ha Du, is that not true? It's not a cure, it's a poison. So the so-called medicine must be the realization that it is poison and must find another medicine. See more: Write a letter or an essay calling on countries with nuclear weapons Commitment not to an arms race... Third is the medicine to cure the disease of indifference and ignorance of the masses and the disease of alienation from the masses of revolutionaries. In the story Medicine, revolutionaries like Ha Du are people who sacrifice their lives for a great cause, brave and not afraid of death, but they live alone, no one understands them and no one supports them.
Vanmau.edu.vn
|
Phân tích ý nghĩa ẩn dụ của hình tượng tiếng đàn ghi ta trong bài thơ Đàn ghi ta của Lor – ca của Thanh Thảo
Gợi ý
Thanh Thảo là một cây bút luôn nỗ lực để cách tân thơ, kiếm tìm những cách biểu đạt mới. Một mặt, ông tìm kiếm chất người ở những nhân cách thanh cao, bất khuất, những tâm hồn phóng khoáng, yêu tự do. Mặt khác, ông không ngừng tìm tòi thể nghiệm để làm mới hình thức biểu đạt của thơ, ảnh hưởng từ những trường phái thơ tượng trưng, siêu thực trong văn học phương Tây. Tiêu biểu cho khuynh hướng sáng tác đó là bài thơ Đàn ghi ta của Lor-ca, được rút từ tập Khối vuông ru-bích (1985). Bài thơ lấy cảm hứng trực tiếp từ những phút đầy bi phẫn nhất trong cuộc đời Gar-xi-a Lor-ca: Lor-ca là một thiên tài – nhà thơ, nhạc sĩ, nhà viết kịch, nhà hoạt động sân khấu người Tây Ban Nha – đại diện cho tinh thần tự do và khát vọng cách tân nghệ thuật của thế kỉ XX. Ông bị phát xít Phrăng-cô giết trong thời gian đầu của cuộc nội chiến ở Tây Ban Nha. Cái chết của Lor-ca không chỉ gây chấn động lớn ở Tây Ban Nha mà còn với toàn thế giới, không chỉ lúc bấy giờ mà còn âm vang tới nhiều năm sau. Thanh Thảo muốn phục sinh thời khắc bi tráng đó, tỏ thái độ ngưỡng mộ đau xót và xây dựng biểu tượng nghệ thuật Lor- ca qua hình ảnh quen thuộc mà độc đáo – đàn ghi ta. Âm thanh của tiếng đàn trong bài thơ chính là một sáng tạo độc đáo của Thanh Thảo, có ý nghĩa ẩn dụ sâu sắc cho hình tượng Lor-ca, cho tình yêu nghệ thuật và khát vọng cách tân nghệ thuật của người nghệ sĩ tài danh Tây Ban Nha.
Mở đầu bài thơ là âm thanh tiếng đàn được diễn tả bằng ngôn từ lạ: những tiếng đàn bọt nước. Câu thơ này đã chuyển cảm giác từ thính giác sang thị giác rất ấn tượng,.gợi sức hấp dẫn kì lạ của tiếng đàn Lor-ca. Đây là thứ âm thanh có hình, có khối, dường như tròn trịa, trẻ trung, nhảy nhót; mong manh những không dễ bị tiêu diệt (lúc tan, lúc hiện nhưng tan rồi lại hiện). Đó là cảm nhận rất riêng của Thanh Thảo về tiếng đàn của Lor-ca. Chính Thanh Thảo từng nói: ai nghĩ, bọt nước sẽ biến mất không để lại dấu vết là nhầm. Bọt nước lúc hiện lúc tan, nhưng tan rồi lại hiện. Nó mỏng manh nhưng không bị tiêu diệt.
Những tiếng đàn bọt nước cùng áo choàng đỏ gắt, miền đơn độc, vầng trăng chếnh choáng, yên ngựa mỏi mòn đã gợi lên cuộc hành trình đơn độc của người nghệ sĩ Lor-ca đang đấu tranh cho cái mới. Đây là những hình ảnh biểu tượng, không có hình ảnh con người nhưng bóng dáng con người hiện ra rất rõ nét qua hình ảnh, âm thanh, màu sắc, trạng thái,… Tất cả chúng đã tạo thành một trường nghĩa chỉ sự mệt mỏi, bất lực, bồn chồn không yên của con người khi đối diện thực sự với cái bản chất phong phú vô tận của cuộc sống. Tất cả kết hợp với nghệ thuật láy âm li-la li-la li-la (hợp âm của tiếng đàn ghi ta) đã gợi lên hình ảnh bông hoa buồn của phút chia li, gợi chuyến đi thăm thẳm và đơn độc của người nghệ sĩ với những thế lực tàn bạo, hà khắc.Xem thêm: Nghị luận xã hội về câu nói “Tránh voi chả xấu mặt nào” và “Im lặng là vàng” Giây phút bi phẫn nhất trong cuộc đời Lor-ca được tái hiện thật ngắn gọn và đặc sắc: tiếng hát nghêu ngao – tiếng hát vô tư, vô hại lại đưa hậu quả tàn khốc: áo choàng bê bết đỏ. Sự bất công này, tội ác này nằm ngoài cái đẹp, không bao giờ thuộc về cái đẹp nên làm sao Lor-ca hiểu được? Phản ứng của chàng {kinh hoàng và đi như người mộng du) là nỗi xót xa ngàn đời trước tình thế không thể tự vệ của những người nghệ sĩ như chàng khi bị điệu về bãi bắn. Nhịp điệu điệu đứt gãy của những câu thơ này làm bùng nổ cảm xúc ở người đọc, nó nén một tiếng kêu bi phẫn không sao cất thành lời chính vì cái vẻ mộng du kia.
Trước sự kiện thảm khốc ấy, Thanh Thảo đã diễn tả theo lối tượng trưng, liên tục chuyển đổi cảm giác, qua hệ thống những âm thanh vỡ ra thành màu sắc (nâu, xanh), thành hình khối (tròn), thành sinh mệnh {ròng ròng / máu chảy)’, tiếng ghi ta nâu bầu trời cô gái ấy tiếng ghi ta lá xanh biết mấy tiếng ghi ta tròn bọt nước vỡ tan tiếng ghi ta ròng ròng máu chảy
Tiếng ghi ta nâu trầm tĩnh suy tư. Màu nâu là màu của đất, của quê hương, màu của vỏ đàn ghi ta,… gợi nỗi niềm hướng về quê hương và gợi nhắc nghệ thuật Lor-ca gắn bó với cuộc đời, với thiên nhiên. Tiếng ghi ta lá xanh thiết tha, hi vọng. Ở đây, âm thanh đã được cảm nhận qua sắc màu, màu của sự sống tươi đẹp, gợi niềm yêu tha thiết cuộc sống của Lor-ca. Hai tiếng biết mấy thốt lên như sự tiếc nuối ngậm ngùi cho một vẻ đẹp đang bị tàn phá. Còn tiếng ghi ta tròn bọt nước vỡ tan bàng hoàng, tức tưởi: nó mỏng manh, trong suốt và dễ tan biến, âm thanh đã được diễn tả thành hình khối. Và tiếng ghi ta ròng ròng / máu chảy đau đớn, nghẹn ngào đã diễn tả nỗi đau đớn của Lor-ca khi phải chịu cái chết oan khuất, đau thương như nàng Kiều của Nguyễn Du xưa bị ép đàn cho Hồ Tôn Hiến:Xem thêm: “Giá trị của con người... tìm chân lí”. (Lét-xinh). Từ câu nói trên, anh (chị) suy nghĩ gì về những thành công và thất bại trong hành trình kiếm tìm những giá trị cao đẹp của đời sống con người
Một cung gió thảm mưa sầu
Bốn dây nhỏ máu năm đầu ngón tay
Tất cả những hình ảnh hoán dụ này đã gợi ra cảnh Lor-ca bị hành hình, đột ngột, bất ngờ, khiến Lor-ca kinh hoàng, người Tây Ban Nha kinh hoàng và cả thế giới kinh hoàng. Điều đó thể hiện số phận bi thảm, bi kịch của người nghệ sĩ cách tân trong thời đại rối ren, bạo tàn. Và mỗi khi hồi tưởng lại cảnh tượng thảm khốc ấy, Thanh Thảo lại như nghe và cảm nhận thấy âm thanh của tiếng đàn ghi ta. Chính vì vậy, tiếng ghi ta được điệp lại và mở đầu những dòng thơ như đã diễn tả được cảm xúc mãnh liệt và đa chiều về cái chết của thiên tài người Tây Ban Nha.
Lor-ca đau đớn hơn khi người ta không hiểu được thông điệp tư tưởng của ông: khi tôi chết hãy chôn tôi với cây đàn. Vì người ta không chôn cất tiếng đàn nên tiếng đàn tràn lan như cỏ mọc hoang. Vậy thì Lor-ca phải vĩnh viễn giã từ, phải giải thoát cho người ta khỏi cái bóng của mình, để họ mạnh mẽ trên con đường của nghệ thuật và tự do:
Không ai chôn cất tiếng đàn
tiếng đàn như cỏ mọc hoang
Ở đây, Lor-ca không hiện diện mà chỉ có sự hiện diện của tiếng đàn. Nó trở thành biểu tượng của tâm hồn Lor-ca, trái tim Lor-ca. Không ai chôn cất tiếng đàn và dù muốn chôn cũng không được, bởi đây là tiếng đàn – một giá trị văn hóa tinh thần chứ không phải là một cây đàn vật thể. Tiếng đàn ấy sẽ trường cửu cùng tự nhiên và hơn thế, bản thân nó là tự nhiên, nó vẫn không ngừng vươn lên, lan tỏa ngay khi người nghệ sĩ sáng tạo ra nó đã chết. Cây đàn cũng như cuộc đời Lor-ca, chỉ có giá trị khi gắn với Lor-ca, còn khi Lor-ca không còn nữa thì sự sống của cây đàn, của sự sáng tạo nghệ thuật cũng chấm dứt. Nếu ai đó muốn sử dụng lại cây đàn thì cũng chỉ tạo ra một sự lặp lại, đơn điệu và nhàm chán, không mấy giá trị mà thôi. Chôn cất tiếng đàn không có nghĩa là phủ nhận hoàn toàn quá khứ mà chỉ ra quá khứ là cái truyền thống mà tương lai phải nối tiếp và nhân lên. Còn câu thơ thứ hai mở ra nhiều lối diễn dịch: nỗi xót thương trước cái chết của một thiên tài; là nỗi tiếc nuối hành trình cách tân dang dở không chỉ với bản thân Lor-ca mà còn với nền văn * chương Tây Ban Nha. Bởi lẽ, nhà cách tân Lor-ca đã chết, nghệ thuật thiếu vắng kẻ dẫn đường. Nghệ thuật thành thứ cỏ mọc hoang. Đưa cỏ vào ý thơ này, Thanh Thảo muốn bất tử hóa tiếng đàn Lor-ca, nghệ thuật Lor-ca, nhân phẩm của Lor-ca. Đấy là cái đẹp không thể hủy diệt, nó sẽ sống, sẽ còn được truyền tụng mãi, giản dị và kiên cường như cỏ mọc hoang.Xem thêm: Hình ảnh người bà và kí ức tuổi thơ của nhân vật trữ tình trong bài thơ Đò lèn của Nguyễn Duy Điều thú vị và bất ngờ nhất là Thanh Thảo đã cấy, đã khảm vào mạch thơ chuỗi âm thanh li-la li-la li-la. Nó như một cú vê ghi ta của nhạc công khi đệm cho người hát ca khúc. Chuỗi âm thanh mở đầu – như phần dạo đầu – đánh dấu khoảng ngắt cho người hát bắt đầu trình diễn ca khúc. Rồi chuỗi âm thanh đó lại khép lại bài ca. Nó tựa như tiếng đàn cuối cùng tạo dư âm sau khi lời hát đã ngừng. Nó có ý nghĩa như khúc ca của Thanh Thảo tiễn Lor-ca vào cõi bất tử. Hơn nữa, li-la còn là một tên gọi khác của loài hoa Tử đinh hương – loài hoa có màu tím được người phương Tây ưa chuộng. Chuỗi âm thanh liên tiếp gợi hình ảnh những bông hoa Tử đinh hương nở liên tiếp. Đó là hoa của Thanh Thảo, hoa của người đời thầm kính viếng hương hồn Lor-ca, hay đó là những đóa hoa thể hiện sự sống đang nảy nở từ cái chết đau thương của Lor-ca, hay là những đóa hoa thể hiện sự sống bất diệt của nghệ thuật Lor-ca?
Tiếng đàn ghi ta là sự hòa kết của rất nhiều trạng thái cảm xúc. Trước hết, đó là cảm xúc của Lor-ca. Cuộc đời Lor-ca như tiếng ghi ta, nhũng âm thanh, những cung bậc của nó khi réo rắt về niềm yêu đời tha thiết, khi hùng tráng mạnh mẽ về những ngày tháng chiến đấu sôi nổi, khi trầm lắng, đau buồn về khoảnh khắc phải chia lìa sự sống. Ngoài ra, những âm thanh ấy cũng là âm thanh biểu hiện dòng cảm xúc mãnh liệt của tác giả. Tác giả đã sống cùng với những khoảnh khắc cận kề cái chết của Lor-ca, niềm tiếc thương đau đớn, chua xót; sự ngưỡng mộ, tôn vinh,… được đan kết hài hòa vào những cung bậc âm thanh của tiếng đàn ghi ta. Có thế nói, tiếng ghi ta là ẩn dụ, hay nói đúng hơn là bài ca về cuộc đời, số phận và cái chết của Lor-ca. Cuộc đời của con người ấy như tiếng đàn ghi ta với âm thanh trong trẻo làm lay động lòng người.
Vanmau.edu.vn
|
Phân tích ý nghĩa ẩn dụ của hình tượng tiếng đàn ghi ta trong bài thơ Đàn ghi ta của Lor – ca của Thanh Thảo
Gợi ý
Thanh Thảo là một cây bút luôn nỗ lực để cách tân thơ, kiếm tìm những cách biểu đạt mới. Một mặt, ông tìm kiếm chất người ở những nhân cách thanh cao, bất khuất, những tâm hồn phóng khoáng, yêu tự do. Mặt khác, ông không ngừng tìm tòi thể nghiệm để làm mới hình thức biểu đạt của thơ, ảnh hưởng từ những trường phái thơ tượng trưng, siêu thực trong văn học phương Tây. Tiêu biểu cho khuynh hướng sáng tác đó là bài thơ Đàn ghi ta của Lor-ca, được rút từ tập Khối vuông ru-bích (1985). Bài thơ lấy cảm hứng trực tiếp từ những phút đầy bi phẫn nhất trong cuộc đời Gar-xi-a Lor-ca: Lor-ca là một thiên tài – nhà thơ, nhạc sĩ, nhà viết kịch, nhà hoạt động sân khấu người Tây Ban Nha – đại diện cho tinh thần tự do và khát vọng cách tân nghệ thuật của thế kỉ XX. Ông bị phát xít Phrăng-cô giết trong thời gian đầu của cuộc nội chiến ở Tây Ban Nha. Cái chết của Lor-ca không chỉ gây chấn động lớn ở Tây Ban Nha mà còn với toàn thế giới, không chỉ lúc bấy giờ mà còn âm vang tới nhiều năm sau. Thanh Thảo muốn phục sinh thời khắc bi tráng đó, tỏ thái độ ngưỡng mộ đau xót và xây dựng biểu tượng nghệ thuật Lor- ca qua hình ảnh quen thuộc mà độc đáo – đàn ghi ta. Âm thanh của tiếng đàn trong bài thơ chính là một sáng tạo độc đáo của Thanh Thảo, có ý nghĩa ẩn dụ sâu sắc cho hình tượng Lor-ca, cho tình yêu nghệ thuật và khát vọng cách tân nghệ thuật của người nghệ sĩ tài danh Tây Ban Nha.
Mở đầu bài thơ là âm thanh tiếng đàn được diễn tả bằng ngôn từ lạ: những tiếng đàn bọt nước. Câu thơ này đã chuyển cảm giác từ thính giác sang thị giác rất ấn tượng,.gợi sức hấp dẫn kì lạ của tiếng đàn Lor-ca. Đây là thứ âm thanh có hình, có khối, dường như tròn trịa, trẻ trung, nhảy nhót; mong manh những không dễ bị tiêu diệt (lúc tan, lúc hiện nhưng tan rồi lại hiện). Đó là cảm nhận rất riêng của Thanh Thảo về tiếng đàn của Lor-ca. Chính Thanh Thảo từng nói: ai nghĩ, bọt nước sẽ biến mất không để lại dấu vết là nhầm. Bọt nước lúc hiện lúc tan, nhưng tan rồi lại hiện. Nó mỏng manh nhưng không bị tiêu diệt.
Những tiếng đàn bọt nước cùng áo choàng đỏ gắt, miền đơn độc, vầng trăng chếnh choáng, yên ngựa mỏi mòn đã gợi lên cuộc hành trình đơn độc của người nghệ sĩ Lor-ca đang đấu tranh cho cái mới. Đây là những hình ảnh biểu tượng, không có hình ảnh con người nhưng bóng dáng con người hiện ra rất rõ nét qua hình ảnh, âm thanh, màu sắc, trạng thái,… Tất cả chúng đã tạo thành một trường nghĩa chỉ sự mệt mỏi, bất lực, bồn chồn không yên của con người khi đối diện thực sự với cái bản chất phong phú vô tận của cuộc sống. Tất cả kết hợp với nghệ thuật láy âm li-la li-la li-la (hợp âm của tiếng đàn ghi ta) đã gợi lên hình ảnh bông hoa buồn của phút chia li, gợi chuyến đi thăm thẳm và đơn độc của người nghệ sĩ với những thế lực tàn bạo, hà khắc.Xem thêm: Nghị luận xã hội về câu nói “Tránh voi chả xấu mặt nào” và “Im lặng là vàng” Giây phút bi phẫn nhất trong cuộc đời Lor-ca được tái hiện thật ngắn gọn và đặc sắc: tiếng hát nghêu ngao – tiếng hát vô tư, vô hại lại đưa hậu quả tàn khốc: áo choàng bê bết đỏ. Sự bất công này, tội ác này nằm ngoài cái đẹp, không bao giờ thuộc về cái đẹp nên làm sao Lor-ca hiểu được? Phản ứng của chàng {kinh hoàng và đi như người mộng du) là nỗi xót xa ngàn đời trước tình thế không thể tự vệ của những người nghệ sĩ như chàng khi bị điệu về bãi bắn. Nhịp điệu điệu đứt gãy của những câu thơ này làm bùng nổ cảm xúc ở người đọc, nó nén một tiếng kêu bi phẫn không sao cất thành lời chính vì cái vẻ mộng du kia.
Trước sự kiện thảm khốc ấy, Thanh Thảo đã diễn tả theo lối tượng trưng, liên tục chuyển đổi cảm giác, qua hệ thống những âm thanh vỡ ra thành màu sắc (nâu, xanh), thành hình khối (tròn), thành sinh mệnh {ròng ròng / máu chảy)’, tiếng ghi ta nâu bầu trời cô gái ấy tiếng ghi ta lá xanh biết mấy tiếng ghi ta tròn bọt nước vỡ tan tiếng ghi ta ròng ròng máu chảy
Tiếng ghi ta nâu trầm tĩnh suy tư. Màu nâu là màu của đất, của quê hương, màu của vỏ đàn ghi ta,… gợi nỗi niềm hướng về quê hương và gợi nhắc nghệ thuật Lor-ca gắn bó với cuộc đời, với thiên nhiên. Tiếng ghi ta lá xanh thiết tha, hi vọng. Ở đây, âm thanh đã được cảm nhận qua sắc màu, màu của sự sống tươi đẹp, gợi niềm yêu tha thiết cuộc sống của Lor-ca. Hai tiếng biết mấy thốt lên như sự tiếc nuối ngậm ngùi cho một vẻ đẹp đang bị tàn phá. Còn tiếng ghi ta tròn bọt nước vỡ tan bàng hoàng, tức tưởi: nó mỏng manh, trong suốt và dễ tan biến, âm thanh đã được diễn tả thành hình khối. Và tiếng ghi ta ròng ròng / máu chảy đau đớn, nghẹn ngào đã diễn tả nỗi đau đớn của Lor-ca khi phải chịu cái chết oan khuất, đau thương như nàng Kiều của Nguyễn Du xưa bị ép đàn cho Hồ Tôn Hiến:Xem thêm: “Giá trị của con người... tìm chân lí”. (Lét-xinh). Từ câu nói trên, anh (chị) suy nghĩ gì về những thành công và thất bại trong hành trình kiếm tìm những giá trị cao đẹp của đời sống con người
Một cung gió thảm mưa sầu
Bốn dây nhỏ máu năm đầu ngón tay
Tất cả những hình ảnh hoán dụ này đã gợi ra cảnh Lor-ca bị hành hình, đột ngột, bất ngờ, khiến Lor-ca kinh hoàng, người Tây Ban Nha kinh hoàng và cả thế giới kinh hoàng. Điều đó thể hiện số phận bi thảm, bi kịch của người nghệ sĩ cách tân trong thời đại rối ren, bạo tàn. Và mỗi khi hồi tưởng lại cảnh tượng thảm khốc ấy, Thanh Thảo lại như nghe và cảm nhận thấy âm thanh của tiếng đàn ghi ta. Chính vì vậy, tiếng ghi ta được điệp lại và mở đầu những dòng thơ như đã diễn tả được cảm xúc mãnh liệt và đa chiều về cái chết của thiên tài người Tây Ban Nha.
Lor-ca đau đớn hơn khi người ta không hiểu được thông điệp tư tưởng của ông: khi tôi chết hãy chôn tôi với cây đàn. Vì người ta không chôn cất tiếng đàn nên tiếng đàn tràn lan như cỏ mọc hoang. Vậy thì Lor-ca phải vĩnh viễn giã từ, phải giải thoát cho người ta khỏi cái bóng của mình, để họ mạnh mẽ trên con đường của nghệ thuật và tự do:
Không ai chôn cất tiếng đàn
tiếng đàn như cỏ mọc hoang
Ở đây, Lor-ca không hiện diện mà chỉ có sự hiện diện của tiếng đàn. Nó trở thành biểu tượng của tâm hồn Lor-ca, trái tim Lor-ca. Không ai chôn cất tiếng đàn và dù muốn chôn cũng không được, bởi đây là tiếng đàn – một giá trị văn hóa tinh thần chứ không phải là một cây đàn vật thể. Tiếng đàn ấy sẽ trường cửu cùng tự nhiên và hơn thế, bản thân nó là tự nhiên, nó vẫn không ngừng vươn lên, lan tỏa ngay khi người nghệ sĩ sáng tạo ra nó đã chết. Cây đàn cũng như cuộc đời Lor-ca, chỉ có giá trị khi gắn với Lor-ca, còn khi Lor-ca không còn nữa thì sự sống của cây đàn, của sự sáng tạo nghệ thuật cũng chấm dứt. Nếu ai đó muốn sử dụng lại cây đàn thì cũng chỉ tạo ra một sự lặp lại, đơn điệu và nhàm chán, không mấy giá trị mà thôi. Chôn cất tiếng đàn không có nghĩa là phủ nhận hoàn toàn quá khứ mà chỉ ra quá khứ là cái truyền thống mà tương lai phải nối tiếp và nhân lên. Còn câu thơ thứ hai mở ra nhiều lối diễn dịch: nỗi xót thương trước cái chết của một thiên tài; là nỗi tiếc nuối hành trình cách tân dang dở không chỉ với bản thân Lor-ca mà còn với nền văn * chương Tây Ban Nha. Bởi lẽ, nhà cách tân Lor-ca đã chết, nghệ thuật thiếu vắng kẻ dẫn đường. Nghệ thuật thành thứ cỏ mọc hoang. Đưa cỏ vào ý thơ này, Thanh Thảo muốn bất tử hóa tiếng đàn Lor-ca, nghệ thuật Lor-ca, nhân phẩm của Lor-ca. Đấy là cái đẹp không thể hủy diệt, nó sẽ sống, sẽ còn được truyền tụng mãi, giản dị và kiên cường như cỏ mọc hoang.Xem thêm: Hình ảnh người bà và kí ức tuổi thơ của nhân vật trữ tình trong bài thơ Đò lèn của Nguyễn Duy Điều thú vị và bất ngờ nhất là Thanh Thảo đã cấy, đã khảm vào mạch thơ chuỗi âm thanh li-la li-la li-la. Nó như một cú vê ghi ta của nhạc công khi đệm cho người hát ca khúc. Chuỗi âm thanh mở đầu – như phần dạo đầu – đánh dấu khoảng ngắt cho người hát bắt đầu trình diễn ca khúc. Rồi chuỗi âm thanh đó lại khép lại bài ca. Nó tựa như tiếng đàn cuối cùng tạo dư âm sau khi lời hát đã ngừng. Nó có ý nghĩa như khúc ca của Thanh Thảo tiễn Lor-ca vào cõi bất tử. Hơn nữa, li-la còn là một tên gọi khác của loài hoa Tử đinh hương – loài hoa có màu tím được người phương Tây ưa chuộng. Chuỗi âm thanh liên tiếp gợi hình ảnh những bông hoa Tử đinh hương nở liên tiếp. Đó là hoa của Thanh Thảo, hoa của người đời thầm kính viếng hương hồn Lor-ca, hay đó là những đóa hoa thể hiện sự sống đang nảy nở từ cái chết đau thương của Lor-ca, hay là những đóa hoa thể hiện sự sống bất diệt của nghệ thuật Lor-ca?
Tiếng đàn ghi ta là sự hòa kết của rất nhiều trạng thái cảm xúc. Trước hết, đó là cảm xúc của Lor-ca. Cuộc đời Lor-ca như tiếng ghi ta, nhũng âm thanh, những cung bậc của nó khi réo rắt về niềm yêu đời tha thiết, khi hùng tráng mạnh mẽ về những ngày tháng chiến đấu sôi nổi, khi trầm lắng, đau buồn về khoảnh khắc phải chia lìa sự sống. Ngoài ra, những âm thanh ấy cũng là âm thanh biểu hiện dòng cảm xúc mãnh liệt của tác giả. Tác giả đã sống cùng với những khoảnh khắc cận kề cái chết của Lor-ca, niềm tiếc thương đau đớn, chua xót; sự ngưỡng mộ, tôn vinh,… được đan kết hài hòa vào những cung bậc âm thanh của tiếng đàn ghi ta. Có thế nói, tiếng ghi ta là ẩn dụ, hay nói đúng hơn là bài ca về cuộc đời, số phận và cái chết của Lor-ca. Cuộc đời của con người ấy như tiếng đàn ghi ta với âm thanh trong trẻo làm lay động lòng người.
Vanmau.edu.vn
|
Phân tích Đi Thi Tự Vịnh của Nguyễn Công Trứ.
Hướng dẫn
Nguyễn Công Trứ người làng Uy Viễn, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Ông sinh ra vào thời điểm đất nước có nhiều biến động, thăng trầm. Ông là người có tài có đức, là vị quan hết lòng vì dân vì nước. Ông để lại cho đời rất nhiều bài thơ Nôm và hát nói cũng như phú. Thơ ông có nhiều chủ đề khác nhau, đặc biệt là nói về chí nam nhi, nợ công danh. Bài thơ Đi thi tự vịnh dưới đây là một:
"Đi không há lẽ trở về không
Cái nợ cầm thư quyết trả xong
Rắp mượn điền viên vui tuế nguyệt
Dở đem thân thế hẹn tang bồng
Đã mang tiếng ở trong trời đất
Phải có danh gì với núi sông
Trong cuộc trần ai, ai dễ biết
Rồi ra mới biết mặt anh hùng.
Chúng ta phân tích bài thơ trên."
Nguyễn Công Trứ đã dùng thể thơ thất ngôn bát cú đường luật để thể hiện nỗi niềm tâm trạng của mình, theo nhà thơ chí làm trai là phải đỗ đạt để trả cái nợ sách đèn, đem kiến thức học được mà làm những việc to giúp ích cho đời, để lại tiếng tốt với núi sông. Nhan đề bài thơ Đi thi tự vịnh, tác giả nêu lên ý chí của mình khi lều chõng lên đường đi ứng thí. Bài thơ mở đầu:
"Đi không há lẽ trở về không
Cái nợ cầm thư quyết trả xong"
Chí làm trai đã được nhiều nhà thơ nhắc đến, mỗi người có cách nói riêng, nhưng đều có muốn nhắc nhở phận nam nhi rằng đã làm trai là phải làm được việc lớn, có ích với đời với dân với nước, là phải ngang dọc trời đất
"Chí làm trai nam bắc đông tây
Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn bể."
Trong cuộc đời của mình Nguyễn Công Trứ đã làm được nhiều điều có ích với dân với nước. Ông đã từng làm quan, đi đánh giặc, làm doanh điền sứ mở rộng đất đai trồng trọt. Ông là người nói được và làm được, những gì ông để lại vời đời đều được người đời trân trọng, gìn giữ. Những gì ông khẳng định là những gì ông làm được và điều này những một lời răn dạy cho thế hệ đi sau:Xem thêm: Soạn bài tả lớp học trong một giờ kiểm tra chất lượng văn hóa
"Đã mang tiếng ở trong trời đất
Phải có danh gì với núi sông."
Nam nhi là người phải ngang dọc trời đất có một tầm hoạt động rộng rãi ở trong trời đất cho nên phải có tiếng tốt đối với núi sông. Danh mà tác giả đề cập ở đây là công danh, là tiếng thơm, tiếng tốt, tên tuổi của một con người gắn liền với thời đại. Có lần ông nói: Không công danh thà nát với cỏ cây. Trong một bài thơ nói về quan niệm sống của người con trai, tác giả từng khẳng định: Con người sinh ra sau cùng ai cũng phải chết nhưng phải được lưu tiếng thơm trong sử sách. Ngày nay trong thành phố ta cũng như nhiều nơi trong nước đều có tên đường Nguyễn Công Trứ. Ở hai huyện Kim Sơn và Tiền Hải còn có đền thờ của ông hương khói nghi ngút quanh năm. Đó chính là cái danh của Nguyễn Công Trứ. Trong hai câu thực và hai câu luận đều có phép đối nhau gọi là bình đối hay đối ngẫu từng cặp. Tất nhiên không quá gò bó đẽo gọt như Bà Huyện Thanh Quan.
Các sử dụng từ ngữ trong câu giữa từ đi không, về không nối liền nhau bằng từ há lẽ tác giả đã lập luận theo cách phản đề. Đi không nghĩa là lúc lên đường chưa có bằng cấp trong tay, lúc trở về thì không thể trở về không mà phải là đỗ đạt. Lúc ra đi chưa làm được gì, lúc trở về phải làm được điều gì lớn lao, có ích. Từ há lẽ trong câu thơ là để tác giả nhắc nhở mình, tự hỏi mình phải làm gì để có kết quả. Đó là sự tự cao tự đại, có thể gọi là chất ngông trong con người của nhà thơ. Thật khác với Tú Xương. Trong lúc Tú Xương lên đường ứng thí thì cười cợt đùa nhã, không tin tưởng vào thực lực của mình:Xem thêm: Nhân dân ta có câu tục ngữ: Gần mực thì đen, gần đèn thì rạng. Nhưng có bạn lại bảo: Gần mực thì chưa chắc đã đen, gần đèn chưa chắc đã rạng. Em hãy viết bài văn chứng minh để thuyết phục bạn ấy theo ý kiến của em
"Tấp tểnh người đi tớ cũng đi
Cũng lều cũng chõng cũng vô thi."
Đối với Nguyễn Công Trứ ta thấy hiện lên một đấng nam nhi với ý chí quyết tâm, hăm hở quyết liệt hơn, khẳng định điều bắt buộc phải làm, không làm được thì không trở về: phải trả xong cái nợ đèn sách nghĩa là phải thi đậu. Cụm từ phải trả xong thật dứt khoát, có tính kiên quyết không do dự. Tác giả luôn luôn quan niệm rằng người con trai có nợ với đời: nợ đèn sách, bút nghiên. Trong một bài thơ khác ông cũng đề cập đến cái nợ khác là nợ tang bồng.
"Nợ tang bồng vay trả, trả vay."
Trong thời phong kiến, những kẻ sĩ có ý chí luôn luôn nung nấu một bầu nhiệt huyết, phải thi đậu sao bao nhiêu năm đèn sách miệt mài – Nguyễn Công Trứ lúc còn hàn vi lại càng nung nấu ý chí ấy nhiều hơn nữa. Khi sáng tác lên bài thơ này ông đang còn ở độ tuổi sung sức, đường gân thớ thịt đang căng tràn nhựa sống. Dù có một chút tiêu cực nho nhỏ muốn làm ẩn sĩ vui thú điền viên, nhưng vốn bản tính bồng bột sôi nổi, ông viết:
"Rắp mượn điền viên vui tuế nguyệt
Dở đem thân thế hẹn tang bồng"
Trong hai câu thực của bài thơ, tác giả đã sử dụng nhiều từ Hán Việt điền viên, tuế nguyệt, thân thế tang bồng làm cho câu thơ có vẻ trang trọng hơn. Tác giả muốn vui thú với cảnh cỏ cây mây nước cho phôi pha ngày tháng. Ý niệm này không đúng với con người tích cực của Nguyễn Công Trứ thời trai trẻ chưa lập được công danh. Huống chi tác giả chỉ rắp mượn mà thôi. Vốn là con người hăm hở nên muốn làm một cái gì đó to lớn vĩ đại. Bàng bạc trong bài thơ có tính ngang tàng rất phù hợp với bản chất của Nguyễn Công Trứ đặc biệt là ở hai câu thơ cuối cùng. Trong lúc làm quan cũng như trong các sáng tác của Nguyễn Công Trứ ông luôn thể hiện một niềm lạc quan yêu đời, dấn thân vào mọi hoạt động, cái tôi trong con người ông luôn được thể hiện bởi sự tự hào đĩnh đạc.Xem thêm: Bình luận về ý nghĩa của hình ảnh ngọc trai - giếng nước trong Truyện An Dương Vương và Mị Châu - Trọng Thủy
Bài thơ có một giọng điệu mạnh mẽ, rắn rỏi, ngôn ngữ thơ chắc nịch, khẳng định, ý thơ lưu loát trôi chảy một mạch liên tục liền nhau từ đầu đến cuối đã nêu lên một ý chí vững chắc đầy niềm tin tưởng của một con người: phải thi đỗ để lập công danh với đời. Bài thơ đã gợi cho thanh thiếu niên học sinh chúng ta một suy nghĩ: học tốt thi đậu đem kiến thức xây dựng nước nhà. Và không thể bắt chước cái tôi Nguyễn Công Trứ phô trương thách thức mà phải khiêm tốn hơn.
Qua bài thơ ta thấy Nguyễn Công Trứ là người có tài có đức, ông không chỉ có đóng góp trong việc xây dựng và bảo vệ đất nước mà ông còn để lại những ánh thơ văn có giá trị vô giá. Bài thơ Đi thi tự vịnh như một lời nhắc nhở, một động lực cho đấng nam nhi không chỉ trong xã hội phong kiến mà cả xã hội hiện nay cố gắng phấn đấu, có ích cho xã hội.
Nguồn:
|
Analysis of Going to Thi Tu Vinh by Nguyen Cong Tru.
Instruct
Nguyen Cong Tru is from Uy Vien village, Nghi Xuan district, Ha Tinh province. He was born at a time when the country had many ups and downs. He is a talented and virtuous man, an official wholeheartedly serving the people and the country. He left behind many Nom poems, songs, and poems. His poems have many different themes, especially about manhood and debt to reputation. The poem Going to the Poetry Poem below is one:
"If you don't go, there's no way you can return
The mortgage debt has been decided to be paid
Borrowing the garden to enjoy a happy new year
Don't bring your life into mourning
Already famous in heaven and earth
What must have a list with the mountains and rivers
In life, everyone is easy to know
Then I got to know the hero's face.
Let's analyze the above poem."
Nguyen Cong Tru used the poetic form of seven words and eight lines to express his feelings and emotions. According to the poet, the only thing to be a man is to pass the exam to pay off the book debt, to use the knowledge you have learned to do great things. Help the world, leave a good reputation with the mountains and rivers. In the title of the poem "Going for a Self-Examination", the author states his will when he sets out on his journey to take the test. Opening poem:
"If you don't go, there's no way you can return
The mortgage debt is resolved to be paid."
The will to be a man has been mentioned by many poets, each with their own way of saying it, but they all want to remind men that to be a man is to do great things, to be useful to life, to the people and to the country, and to be equal. along heaven and earth
"The will to be a boy, south, north, east, and west
Let me free myself to struggle in the four pools."
During his life, Nguyen Cong Tru did many useful things for the people and the country. He once served as a mandarin, fought the enemy, and worked as a field envoy to expand cultivated land. He was a man who could say and do things, and everything he left behind was respected and preserved by people. What he affirmed is what he was able to do and this is a teaching for the next generation: See more: Prepare a class description in one hour to test cultural quality
"It's famous in heaven and earth
What must have a list with the mountains and rivers."
A man is someone who must cross heaven and earth and have a wide range of activities in heaven and earth, so he must have a good reputation with the mountains and rivers. The name that the author mentions here is a good name, a good reputation, a good reputation, the name of a person associated with the era. He once said: Without fame, it is better to be ruined with grass and trees. In a poem about a man's concept of life, the author once affirmed: Everyone who is born must eventually die, but must have a good reputation in history books. Today, in our city as well as many places in the country, there is a street named Nguyen Cong Tru. In two districts, Kim Son and Tien Hai, there is also a temple of him with incense and smoke all year round. That is the name of Nguyen Cong Tru. In two real sentences and two essay sentences, there is an opposition called parallelism or pairwise duality. Of course, it's not too restrictive like Ba Huyen Thanh Quan.
The uses of words in the sentence between the words go to nothing and return to nothing are connected by the word perhaps the author has argued in an antithetical way. Going empty means that when you leave, you don't have a degree in hand. When you return, you cannot return to nothing but must pass. When I left I couldn't do anything, when I returned I had to do something great and useful. The word perhaps in the poem is for the author to remind himself and ask himself what he must do to get results. That is arrogance and arrogance, which can be called the poet's arrogance. So different from Tu Xuong. While Tu Xuong was on his way to apply for the exam, he laughed and joked, not believing in his strength: See more: Our people have a proverb: Near ink, it's dark, near the light, it's bright. But some people say: Being close to ink is not necessarily dark, being close to a light is not necessarily bright. Please write a proof essay to convince her of your opinion
"Hurry up and go, I'll go too
Even tents and cots are also useless."
With Nguyen Cong Tru, we see a man with a determined will, eager to be more fierce, affirming what must be done, if he cannot do it, he will not return: he must pay off his debt, which means must pass the exam. The phrase "must be paid" is very decisive, resolute and without hesitation. The author always believes that a man has a debt to life: he owes books, pens and research. In another poem, he also mentioned another debt, the debt of mourning.
"Repay debt, repay debt."
In feudal times, scholars had a strong will that always burned with enthusiasm. They had to study diligently for so many years to pass the exam - Nguyen Cong Tru, when he was still indifferent, fueled that will even more. When he composed this poem, he was still in his prime, his muscles and tendons were full of vitality. Although he had a little negativity and wanted to make a hermit happy in the countryside, he had an impetuous nature and wrote:
"Let's borrow the garden for a happy new year
Don't bring your life into mourning."
In the two actual sentences of the poem, the author used many Sino-Vietnamese words dien dien, tue moon, mourning body, making the poem seem more formal. The author wants to enjoy the scenery of grass, trees, clouds, and water that blends with the days. This concept is not true for Nguyen Cong Tru's positive personality when he was young and had not yet established a career. What's more, the author was just trying to borrow it. Being an enthusiastic person, I wanted to do something big and great. The impudence in the poem is very consistent with Nguyen Cong Tru's nature, especially in the last two verses. While serving as a mandarin as well as in Nguyen Cong Tru's works, he always expressed an optimism and love for life, engaging in all activities. His ego was always expressed by pride and poise. See more: Comment on the meaning of the image of pearl - well in the Tale of An Duong Vuong and My Chau - Trong Thuy
The poem has a strong and solid tone, the poetic language is firm and affirming, and the poetic ideas flow smoothly in a continuous flow from beginning to end, expressing a firm will and full of confidence of the poet. a person: must pass the exam to make a name for himself in life. The poem evokes a thought for our young students: study well and pass the exam to use your knowledge to build the country. And we cannot imitate Nguyen Cong Tru's ostentatious and challenging ego but must be more humble.
Through the poem, we see that Nguyen Cong Tru is a talented and virtuous person. He not only contributed to building and protecting the country, but he also left behind poetic and literary works of invaluable value. The poem "Going for Self-Psalm" serves as a reminder and motivation for men not only in feudal society but also in today's society to strive to be useful to society.
Source:
|
Phân tích điểm chung và nét riêng của những câu hát than thân sau đây: Thân em như tấm lụa đào,… Người khôn rửa mặt, người phàm rửa chân
Gợi ý
Đề bài:
Phân tích điểm chung và nét riêng của những câu hát than thân sau đây:
1. Thân em như tấm lụa đào,
Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai.
2. Thân em như củ ấu gai,
Ruột trong thì trắng vỏ ngoài thì đen.
Ai ơi, nếm thử mà xem!
Nếm ra, mới biết rằng em ngọt bùi.
3. Thân em như giếng giữa dàng,
Người khôn rửa mặt, người phàm rửa chân.
Bài làm:
Ca dao, dân ca được ví như viên ngọc sáng trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam. Ca dao chất chứa cái hồn quê chân chất của người nông dân chân lấm tay bùn, cả đời gắn bó với đồng ruộng. Nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Phan cho rằng: “Ca dao là tiếng ta muôn điệu của tâm hồn quần chúng”. Quả thật, đọc ca dao, ta dễ dàng bắt gặp nhiều cung bậc trạng thái tình cảm khác nhau của con người. Đó là tình yêu gia đình, tình yêu quê hương sâu nặng, là tình yêu trai gái mặn nồng; có tiếng cười trào phúng và có cả tiếng thở dài của người phụ nữ qua những bài ca dao than thân. Tiêu biểu cho mảng ca dao chủ đề than thân phải kể đến những bài ca dao bắt đầu bằng hai chữ “Thân em”. Đây tuy là mô tip quen thuộc nhưng được nhân dân lao động vận dụng đầy sáng tạo, có thể kể đến một số bài như:
– Thân em như tấm lụa đào,
Phất pha giữa chợ biết vào tay ai.
– Thân em như của ấu gai,
Ruột trong thì trắng vỏ ngoài thì đen.
Ai ai, nếm thử mà xem!
Nếm ra mới biết rằng em ngọt bùi.
– Thân em như giếng giữa đàng,
Người khôn rửa mặt, người phàm rủa chân.
Một trong những đặc điểm nghệ thuật của ca dao là sự lặp lại của các mô tip cấu trúc. Ba bài ca dao kể trên đều bắt đầu bằng hai từ “Thân em” chỉ thân phận người phụ nữ. Đó là lời than thân của người phụ nữ trong xã hội xưa. Ý thơ gợi lên cả một kiếp sống đầy đắng cay. Cuộc đời của người phụ nữ thật bấp bênh vô định bởi chính họ cũng không thể tự quyết định được tương lai, số phận của mình. Cả ba bài ca dao đều được viết theo thể thơ lục bát, ngắn gọn nhưng thể hiện rõ tâm trạng của nhân vật trữ tình. Sau “Thân em” là từ như dùng để so sánh. Đối tượng đem ra so sánh đều là những vật gần gũi, quen thuộc và có những nét tương đồng độc đáo với thân phận của người phụ nữ trong xã hội xưa như “tấm lụa đào”, “củ ấu gai”, “giếng giữa đàng”. Cách đem các sự vật ấy ra so sánh khiến cho đối tượng được so sánh (người phụ nữ) hiện lên một cách sinh động, đồng thời cũng làm nổi bật được thân phận của họ. Tự viết về thân phận minh cũng là cách người phụ nữ bộc lộ sự tự ý thức về giá trị của bản thân cũng như những nỗi buồn tủi bất còng mà những quan niệm, định kiến vô lí của xã hội phong kiến gây ra cho họ. Quả thật, ta thấy trong tiếng thở dài than thân kia còn chen lẫn niềm tự hào, sự kiêu hãnh kín đáo về sắc đẹp cũng như phẩm hạnh của người con gái.Xem thêm: Viết đoạn văn phân tích vẻ đẹp của người con gái Thuý Vân trong đoạn trích Chị em Thuý Kiều (Truyện Kiều) của Nguyễn Du Tuy vậy, mỗi bài ca dao lại có những đặc sắc riêng về nội dung và nghệ thuật:
Thân em như tấm lụa đào,
Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai.
Nhân vật trữ tình trong bài ca dao này tự ý thức được vẻ đẹp và giá trị của mình. Chẳng phải ngẫu nhiên mà người phụ nữ chọn “tấm lụa đào” để tự ví với mình. Chính cái tính cách dịu hiền của họ đã gắn liền với hình ảnh dải lụa đào, vừa nhẹ nhàng đằm thắm, vừa kín đáo duyên dáng, lại tươi tắn tràn đầy sức sống. Vật có giá trị như vậy đáng lẽ ra phải được người ta nâng niu trân trọng, cất giữ hay trưng diện ở những nơi sang trọng nhất. Nhung đáng tiếc thay, lại là thứ để người ta ngã giá trao đổi “giữa chợ”. Thân phận người phụ nữ cũng vậy, cũng mỏng manh, cũng chìm nỗi, cũng phụ thuộc, cũng lạc lõng, đơn côi giữa dòng đời. Nhũng giá trị đẹp đẽ giờ đây rơi vào quên lãng. Cả những cô gái còn xuân xanh phơi phới cũng không ngoại lệ. Tuổi xuân của họ bị ám ảnh bởi chính nỗi lo lắng, băn khoăn về tương lai vô định phía trước. Bài ca dao kết thúc bằng câu hỏi đầy chua xót: “biết vào tay ai?”. Chính xã hội phong kiến bất công, vô nhân đạo với quan niệm trọng nam khinh nữ đã đẩy người phụ nữ vào tình cảnh ấy. Họ không bao giờ có thể biết chắc rồi đây cuộc đời minh sẽ ra sao, bến bờ nào đang đợi mình phía trước.
Nếu cô gái ở bài ca dao đầu tiên có phần tự hào về nhan sắc thì cô gái xuất hiện trong bài ca dao thứ hai lại có những suy nghĩ, ý thức về những hạn chế của bản thân:Xem thêm: Phân tích Truyện An Dương Vương và Mị Châu - Trọng ThủyThân em như củ ấu gai,
Ruột trong thỉ trắng vỏ ngoài thì đen.
Ai ơi, nếm thử mà xem!
Nếm ra, mới biết rằng em ngọt bùi.
Cô gái trong bài ca dao này mang nét bình dị, gần gũi. Với người con gái, nhan sắc là điều quý giá và đáng để họ tự hào. Ấy vậy mà ở đây ta ngạc nhiên thấy cô gái khiêm nhường tự nhận mình là “củ ấu gai”. “Củ ấu gai” bên ngoài tuy xấu xí, thô kệch nhưng ruột rất trắng, ăn rất thơm và bùi. Người phụ nữ này biết rằng mình bề ngoài không được đẹp, không được hấp dẫn nhưng cô cũng tự hào mà khẳng định giá trị đích thực bên trong con người mình. Một hình ảnh hết sức mộc mạc và quen thuộc nhưng được các tác giả dân gian sử dụng khéo léo nên đã miêu tả thành công người phụ nữ vừa chân thực lại vừa đẹp đẽ, đúng với quan niệm của người xưa: “Tốt gỗ hơn tốt nước sơn”. Đáng tiếc thay, trong cuộc sông, dù cô có “ruột trong thì trắng” nhưng có mấy ai hiểu được hay chịu khó tìm hiểu cái đẹp nội tâm đáng trân trọng ẩn sau lớp vỏ ngoại hình thô nhám? Câu ca dao vì thế còn mang khát khao được người đời hiểu, trân trọng phẩm chất trong trắng, cao đẹp của người phụ nữ.
So với hai bài trước, bài ca dao thứ ba thể hiện sắc thái than thân rõ nét nhất. Bài ca dao thứ nhất mới dừng ở sự lo lắng, bài thứ hai diễn tả ước mơ, mong muốn. Nhân vật trữ tình trong cả hai bài ca dao đều đang hướng đến tương lai, đến những điều có lẽ chưa xảy ra trong hiện tại. Tuy nhiên, ở bài ca dao thứ 3, nhân vật trữ tình đã nói lên sự phũ phàng, đau khổ mà mình phải chịu đựng:
Thân em như giếng giữa đàng
Người khôn rửa mặt, người phàm rửa chân
“Người khôn” ở đây không chỉ là những người hiểu nhiều hay biết rộng, tính toán tài. Cái “khôn” ở đây là chỉ tấm lòng nhân ái, biết trân trọng phẩm giá con người. Hiểu theo nghĩa này, “người khôn” là những người có thể nhận ra, quan tâm và trân trọng những giá trị tốt đẹp của tâm hồn. Đó là con người có trí tuệ, hiểu rõ đạo nhân nghĩa trên đời. Trái ngược với “người khôn” là “người phàm” – hạng người phàm phu tục tử, thấp kém, thô lỗ. “Rửa mặt” là sự coi trọng. “Rửa chân” ám chỉ sự khinh miệt. Tuy vậy, dù là “người khôn” hay “kẻ phàm” thì họ đều nắm trong tay quyền sinh sát, quyền định đoạt số phận của người phụ nữ. Trong xã hội phong kiến xưa không có khái niệm bình đẳng giới. Người đàn bà suốt đời nhất nhất chỉ biết ép mình theo khuôn khổ “tam tòng tứ đức”, lặng lẽ ngậm bồ hòn làm ngọt, lấy hạnh phúc của người khác làm niềm vui, lẽ sống, lấy sự hi sinh cho chồng con làm hạnh phúc của chính mình. “Giếng nước giữa đàng” là hình ảnh gợi lên sự lẻ loi, đơn chiếc. Ví thân phận người phụ nữ với “giếng nước giữa đàng”, tác giả dân gian còn ngầm ngợi ca người phụ nữ như một dòng nước mát lành, đem lại niềm vui, niềm hạnh phúc cho người khác cho dù họ là “người khôn” hay “người phàm”. Nhưng đáng thương thay, số phận của họ lại thật bé nhỏ; cái tài, cái đẹp của họ hoàn toàn không được coi trọng. Không tự quyết định được số phận của bản thân, người phụ nữ chỉ còn biết mong chờ vào sự may rủi. Nếu may mắn gặp được người đàn ông tử tế thì có được một cuộc sống bình yên còn nếu lỡ gặp phải kẻ bạc, “người phàm” thì xác định chịu sự giày vò eả về thể chất lẫn tinh thần trong sốt quãng đời còn lại.Xem thêm: Cảm nhận về vai trò của thiên nhiên đối với đời sống con người Mô tip ‘Thân em” là một trong những cấu trúc điển hình quen thuộc của ca dao than thân. Tuy có đôi nét khác nhau ở nội dung thể hiện ở tùng bài nhưng nhìn chung, ba bài ca dao trên đều thể hiện nỗi buồn của người phụ nữ trong xã hội xưa và phản ánh ước mơ, khát vọng của họ về một tương lai tốt đẹp hơn. Bằng những câu ca dao với mô tip ‘Thân em”, người phụ nữ đã thốt lên những tiếng than thân, trách phận rất đáng được cảm thông, chia sẻ. Bên cạnh đó, qua những bài ca dao trên, họ còn thể hiện sự tự ý thức về giá trị của bản thân và bước đầu có thái độ đấu tranh, phản kháng.
Cả ba bài ca dao đều thuộc chùm ca dao than thân nhưng mỗi bài lại có cách thể hiện riêng độc đáo, tạo nên sự đồng cảm vô cùng sâu rộng. Nó giúp ta nhìn về quá khứ để so sánh với hiện tại, để trân trọng những điều tốt đẹp, phê phán những bất công và biết quý trọng cuộc sống mà chúng ta đang có hôm nay.
Vanmau.edu.vn
|
Phân tích điểm chung và nét riêng của những câu hát than thân sau đây: Thân em như tấm lụa đào,… Người khôn rửa mặt, người phàm rửa chân
Gợi ý
Đề bài:
Phân tích điểm chung và nét riêng của những câu hát than thân sau đây:
1. Thân em như tấm lụa đào,
Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai.
2. Thân em như củ ấu gai,
Ruột trong thì trắng vỏ ngoài thì đen.
Ai ơi, nếm thử mà xem!
Nếm ra, mới biết rằng em ngọt bùi.
3. Thân em như giếng giữa dàng,
Người khôn rửa mặt, người phàm rửa chân.
Bài làm:
Ca dao, dân ca được ví như viên ngọc sáng trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam. Ca dao chất chứa cái hồn quê chân chất của người nông dân chân lấm tay bùn, cả đời gắn bó với đồng ruộng. Nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Phan cho rằng: “Ca dao là tiếng ta muôn điệu của tâm hồn quần chúng”. Quả thật, đọc ca dao, ta dễ dàng bắt gặp nhiều cung bậc trạng thái tình cảm khác nhau của con người. Đó là tình yêu gia đình, tình yêu quê hương sâu nặng, là tình yêu trai gái mặn nồng; có tiếng cười trào phúng và có cả tiếng thở dài của người phụ nữ qua những bài ca dao than thân. Tiêu biểu cho mảng ca dao chủ đề than thân phải kể đến những bài ca dao bắt đầu bằng hai chữ “Thân em”. Đây tuy là mô tip quen thuộc nhưng được nhân dân lao động vận dụng đầy sáng tạo, có thể kể đến một số bài như:
– Thân em như tấm lụa đào,
Phất pha giữa chợ biết vào tay ai.
– Thân em như của ấu gai,
Ruột trong thì trắng vỏ ngoài thì đen.
Ai ai, nếm thử mà xem!
Nếm ra mới biết rằng em ngọt bùi.
– Thân em như giếng giữa đàng,
Người khôn rửa mặt, người phàm rủa chân.
Một trong những đặc điểm nghệ thuật của ca dao là sự lặp lại của các mô tip cấu trúc. Ba bài ca dao kể trên đều bắt đầu bằng hai từ “Thân em” chỉ thân phận người phụ nữ. Đó là lời than thân của người phụ nữ trong xã hội xưa. Ý thơ gợi lên cả một kiếp sống đầy đắng cay. Cuộc đời của người phụ nữ thật bấp bênh vô định bởi chính họ cũng không thể tự quyết định được tương lai, số phận của mình. Cả ba bài ca dao đều được viết theo thể thơ lục bát, ngắn gọn nhưng thể hiện rõ tâm trạng của nhân vật trữ tình. Sau “Thân em” là từ như dùng để so sánh. Đối tượng đem ra so sánh đều là những vật gần gũi, quen thuộc và có những nét tương đồng độc đáo với thân phận của người phụ nữ trong xã hội xưa như “tấm lụa đào”, “củ ấu gai”, “giếng giữa đàng”. Cách đem các sự vật ấy ra so sánh khiến cho đối tượng được so sánh (người phụ nữ) hiện lên một cách sinh động, đồng thời cũng làm nổi bật được thân phận của họ. Tự viết về thân phận minh cũng là cách người phụ nữ bộc lộ sự tự ý thức về giá trị của bản thân cũng như những nỗi buồn tủi bất còng mà những quan niệm, định kiến vô lí của xã hội phong kiến gây ra cho họ. Quả thật, ta thấy trong tiếng thở dài than thân kia còn chen lẫn niềm tự hào, sự kiêu hãnh kín đáo về sắc đẹp cũng như phẩm hạnh của người con gái.Xem thêm: Viết đoạn văn phân tích vẻ đẹp của người con gái Thuý Vân trong đoạn trích Chị em Thuý Kiều (Truyện Kiều) của Nguyễn Du Tuy vậy, mỗi bài ca dao lại có những đặc sắc riêng về nội dung và nghệ thuật:
Thân em như tấm lụa đào,
Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai.
Nhân vật trữ tình trong bài ca dao này tự ý thức được vẻ đẹp và giá trị của mình. Chẳng phải ngẫu nhiên mà người phụ nữ chọn “tấm lụa đào” để tự ví với mình. Chính cái tính cách dịu hiền của họ đã gắn liền với hình ảnh dải lụa đào, vừa nhẹ nhàng đằm thắm, vừa kín đáo duyên dáng, lại tươi tắn tràn đầy sức sống. Vật có giá trị như vậy đáng lẽ ra phải được người ta nâng niu trân trọng, cất giữ hay trưng diện ở những nơi sang trọng nhất. Nhung đáng tiếc thay, lại là thứ để người ta ngã giá trao đổi “giữa chợ”. Thân phận người phụ nữ cũng vậy, cũng mỏng manh, cũng chìm nỗi, cũng phụ thuộc, cũng lạc lõng, đơn côi giữa dòng đời. Nhũng giá trị đẹp đẽ giờ đây rơi vào quên lãng. Cả những cô gái còn xuân xanh phơi phới cũng không ngoại lệ. Tuổi xuân của họ bị ám ảnh bởi chính nỗi lo lắng, băn khoăn về tương lai vô định phía trước. Bài ca dao kết thúc bằng câu hỏi đầy chua xót: “biết vào tay ai?”. Chính xã hội phong kiến bất công, vô nhân đạo với quan niệm trọng nam khinh nữ đã đẩy người phụ nữ vào tình cảnh ấy. Họ không bao giờ có thể biết chắc rồi đây cuộc đời minh sẽ ra sao, bến bờ nào đang đợi mình phía trước.
Nếu cô gái ở bài ca dao đầu tiên có phần tự hào về nhan sắc thì cô gái xuất hiện trong bài ca dao thứ hai lại có những suy nghĩ, ý thức về những hạn chế của bản thân:Xem thêm: Phân tích Truyện An Dương Vương và Mị Châu - Trọng ThủyThân em như củ ấu gai,
Ruột trong thỉ trắng vỏ ngoài thì đen.
Ai ơi, nếm thử mà xem!
Nếm ra, mới biết rằng em ngọt bùi.
Cô gái trong bài ca dao này mang nét bình dị, gần gũi. Với người con gái, nhan sắc là điều quý giá và đáng để họ tự hào. Ấy vậy mà ở đây ta ngạc nhiên thấy cô gái khiêm nhường tự nhận mình là “củ ấu gai”. “Củ ấu gai” bên ngoài tuy xấu xí, thô kệch nhưng ruột rất trắng, ăn rất thơm và bùi. Người phụ nữ này biết rằng mình bề ngoài không được đẹp, không được hấp dẫn nhưng cô cũng tự hào mà khẳng định giá trị đích thực bên trong con người mình. Một hình ảnh hết sức mộc mạc và quen thuộc nhưng được các tác giả dân gian sử dụng khéo léo nên đã miêu tả thành công người phụ nữ vừa chân thực lại vừa đẹp đẽ, đúng với quan niệm của người xưa: “Tốt gỗ hơn tốt nước sơn”. Đáng tiếc thay, trong cuộc sông, dù cô có “ruột trong thì trắng” nhưng có mấy ai hiểu được hay chịu khó tìm hiểu cái đẹp nội tâm đáng trân trọng ẩn sau lớp vỏ ngoại hình thô nhám? Câu ca dao vì thế còn mang khát khao được người đời hiểu, trân trọng phẩm chất trong trắng, cao đẹp của người phụ nữ.
So với hai bài trước, bài ca dao thứ ba thể hiện sắc thái than thân rõ nét nhất. Bài ca dao thứ nhất mới dừng ở sự lo lắng, bài thứ hai diễn tả ước mơ, mong muốn. Nhân vật trữ tình trong cả hai bài ca dao đều đang hướng đến tương lai, đến những điều có lẽ chưa xảy ra trong hiện tại. Tuy nhiên, ở bài ca dao thứ 3, nhân vật trữ tình đã nói lên sự phũ phàng, đau khổ mà mình phải chịu đựng:
Thân em như giếng giữa đàng
Người khôn rửa mặt, người phàm rửa chân
“Người khôn” ở đây không chỉ là những người hiểu nhiều hay biết rộng, tính toán tài. Cái “khôn” ở đây là chỉ tấm lòng nhân ái, biết trân trọng phẩm giá con người. Hiểu theo nghĩa này, “người khôn” là những người có thể nhận ra, quan tâm và trân trọng những giá trị tốt đẹp của tâm hồn. Đó là con người có trí tuệ, hiểu rõ đạo nhân nghĩa trên đời. Trái ngược với “người khôn” là “người phàm” – hạng người phàm phu tục tử, thấp kém, thô lỗ. “Rửa mặt” là sự coi trọng. “Rửa chân” ám chỉ sự khinh miệt. Tuy vậy, dù là “người khôn” hay “kẻ phàm” thì họ đều nắm trong tay quyền sinh sát, quyền định đoạt số phận của người phụ nữ. Trong xã hội phong kiến xưa không có khái niệm bình đẳng giới. Người đàn bà suốt đời nhất nhất chỉ biết ép mình theo khuôn khổ “tam tòng tứ đức”, lặng lẽ ngậm bồ hòn làm ngọt, lấy hạnh phúc của người khác làm niềm vui, lẽ sống, lấy sự hi sinh cho chồng con làm hạnh phúc của chính mình. “Giếng nước giữa đàng” là hình ảnh gợi lên sự lẻ loi, đơn chiếc. Ví thân phận người phụ nữ với “giếng nước giữa đàng”, tác giả dân gian còn ngầm ngợi ca người phụ nữ như một dòng nước mát lành, đem lại niềm vui, niềm hạnh phúc cho người khác cho dù họ là “người khôn” hay “người phàm”. Nhưng đáng thương thay, số phận của họ lại thật bé nhỏ; cái tài, cái đẹp của họ hoàn toàn không được coi trọng. Không tự quyết định được số phận của bản thân, người phụ nữ chỉ còn biết mong chờ vào sự may rủi. Nếu may mắn gặp được người đàn ông tử tế thì có được một cuộc sống bình yên còn nếu lỡ gặp phải kẻ bạc, “người phàm” thì xác định chịu sự giày vò eả về thể chất lẫn tinh thần trong sốt quãng đời còn lại.Xem thêm: Cảm nhận về vai trò của thiên nhiên đối với đời sống con người Mô tip ‘Thân em” là một trong những cấu trúc điển hình quen thuộc của ca dao than thân. Tuy có đôi nét khác nhau ở nội dung thể hiện ở tùng bài nhưng nhìn chung, ba bài ca dao trên đều thể hiện nỗi buồn của người phụ nữ trong xã hội xưa và phản ánh ước mơ, khát vọng của họ về một tương lai tốt đẹp hơn. Bằng những câu ca dao với mô tip ‘Thân em”, người phụ nữ đã thốt lên những tiếng than thân, trách phận rất đáng được cảm thông, chia sẻ. Bên cạnh đó, qua những bài ca dao trên, họ còn thể hiện sự tự ý thức về giá trị của bản thân và bước đầu có thái độ đấu tranh, phản kháng.
Cả ba bài ca dao đều thuộc chùm ca dao than thân nhưng mỗi bài lại có cách thể hiện riêng độc đáo, tạo nên sự đồng cảm vô cùng sâu rộng. Nó giúp ta nhìn về quá khứ để so sánh với hiện tại, để trân trọng những điều tốt đẹp, phê phán những bất công và biết quý trọng cuộc sống mà chúng ta đang có hôm nay.
Vanmau.edu.vn
|
Phân tích đoạn Chí khí anh hùng (Trích Truyện Kiều – Nguyễn Du)
Gợi ý
1. Trong cả thế giới nhân vật đông đảo gồm đủ hạng người của Truyện Kiều, Từ Hải nổi bật lên vì Từ là nhân vật anh hùng duy nhất, người anh hùng mang nhiều nét phi thường. Nhà phê bình văn học Hoài Thanh nói Từ Hải là: giác mộng anh hùng của Nguyễn Du.
Suốt quãng đời lưu lạc mười lăm năm chìm đắm trong đau khổ, tủi nhục triền miên của Thúy Kiều, thì những ngày tháng gặp gỡ Từ Hải là quãng thời gian tươi sáng, rạng rỡ. Đó là sự gặp gỡ của “trai anh hùng, gái thuyền quyên”; của hai người “tâm phúc tương tri”. Từ Hải chẳng những là người đã đưa Kiều ra khỏi cuộc sống ô nhục ở chốn lầu xanh lần thứ hai, mà hơn thế nữa, chỉ có Từ mới giúp được nàng thực hiện ước mơ công lí, báo oán trả ân. Đoạn thơ Chí khí anh hùng chỉ tả cảnh Từ Hải từ biệt Thúy Kiều để ra đi, nhưng đã khắc họa nổi bật được vẻ đẹp và tầm vóc lớn lao của người anh hùng. Đoạn thơ hoàn toàn là sự sáng tạo của Nguyễn Du, bởi Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân chỉ kể một cách đơn giản là sau một thời gian chung sống, Từ Hải từ biệt Thúy Kiều ra đi, mà không hề miêu tả cuộc từ biệt ấy.
2. Từ Hải là một anh hùng nên cái cách ra đi của nhân vật này cũng khác thường:
Nửa năm hương lửa đương nồng,
Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương.
Trông vời trời bể mênh mang,
Thanh gươm yên ngựa, lên đường thẳng rong.
Sau khi đưa Kiều ra khỏi lầu xanh, Từ Hải và Thúy Kiều sông những ngày thật hạnh phúc. Nhưng Từ đâu phải là con người dễ bằng lòng với hạnh phúc nhỏ hẹp dưới “một mái nhà yên rủ bóng xuống tâm hồn”, cũng tức là cuộc sổng quẩn quanh trong một không gian nhỏ hẹp, bằng phẳng. Từ là con người của trời đất, của chí khí làm nên nghiệp lớn. Bởi vậy mà mặc dù “hương lửa đương nồng”, nhưng tiếng gọi của bôn phương đã thức dậy mạnh mẽ và đột ngột trong lòng Từ. Hai chữ “thoắt đã” thể hiện sự đột ngột và dứt khoát của tâm trạng nhân vật. Nhưng ngẫm kĩ thì sự đột ngột ấy chỉ là ở bên ngoài, mà thực ra cái chí bôn phương vẫy vùng vôn vẫn nằm sâu trong tâm khảm của bậc trượng phu, chẳng qua nó chỉ tạm lắng lại khi hương lửa của ái tình đang nồng nàn mà thôi. Giờ đây khi chí khí anh hùng đã được thức dậy trong lòng bậc trượng phu thì không có gì có thể ngăn cản níu giữ người anh hùng được nữa. Thế nên, con mắt và tầm nhìn của Từ lập tức phóng xa về một không gian cao rộng như vô tận: “Trông vời trời bể mênh mang” và đi liền ngay với cái nhìn ấy là hành động cũng rất dứt khoát, mạnh mẽ, mau lẹ: “Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong”. Hai câu thơ vẽ ra một bức tranh đẹp về tư thế và tầm vóc của người anh hùng Từ Hải: trên một nền cảnh không gian xa rộng có cả trời và bể, nổi bật hình ảnh người anh hùng với một thanh gươm, trên mình ngựa thẳng hướng về phía trước trong tư thế “lên đường thẳng rong”.Xem thêm: Em hãy phân tích bài thơ Độc Tiểu Thanh kí của Nguyễn Du3. Chí khí anh hùng của Từ Hải còn bộc lộ đầy đủ hơn trong lời đôì đáp với Thúy Kiều trong phút chia li. Trước việc Từ Hải đột ngột lên đường, Kiều biết rằng không thể nào ngăn cản cái chí vẫy vùng của người anh hùng, nên chỉ thỉnh cầu được theo cùng:
Nàng rằng: “Phận gái chữ tòng,
Chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi”.
Trong lời thỉnh cầu ấy, không chỉ có ý thức về đạo “tam tòng” của người phụ nữ thời phong kiến, mà có lẽ hơn thế nữa, còn là mong muôn được cùng chia sẻ mọi điều với Từ Hải, khi chàng chỉ có một mình một ngựa ra đi, dấn thân vào một cuộc phiêu lưu chắc chắn là đầy hiểm nguy. Từ Hải đã đáp lại lời thỉnh cầu của Thúy Kiều như thế nào?
Trước hết, Từ coi việc Kiều xin đi theo là một ý nghĩa chưa thoát khỏi thói “nữ nhi thường tình”. Vả lại, cảnh ngộ của Từ Hải trước mắt, trên con đường dựng nghiệp, là tình cảnh một kẻ “bốn bể không nhà”; bởi thế Kiều có theo đi thì cũng là “theo càng thêm bận biết là về đâu?”. Trong những câu thơ này, còn thấy thoáng hiện lên cái cô đơn của người anh hùng giữa trời đất, thiên hạ. Ngay cả hai câu thơ trước đó: “Trông vời trời bể mênh mang/ Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong”, bên cạnh vẻ đẹp oai hùng cũng còn thấp thoáng sự cô đơn, lẻ loi của người anh hùng. Nhưng không chỉ ngăn việc Thúy Kiều xin theo cùng, Từ Hải còn ước hẹn với nàng về một tương lai rạng rỡ, khi người anh hùng lập nên sự nghiệp lớn:Xem thêm: Phân tích bài thơ Cảm hoài của Đặng Dung
Bao giờ mười vạn tinh bình,
Tiếng chiêng dậy đất, bóng tinh rợp đường.
Làm cho rõ mặt phi thường,
Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia.
Một viễn cảnh thật rạng rỡ, oai hùng, với khí thế rầm rộ của “mười vạn tinh binh”, với “tiếng chiêng dậy đất, bóng tinh rợp đường” được Từ vẽ ra với tất cả niềm tin chắc chắn. Bởi thế những câu thơ nói về một tương lai mà lại như cảnh tượng ấy đang hiện ra sống động trước mắt với đầy đủ cả âm thanh, màu sắc, sự chuyển động. Đốì sánh với hình ảnh ra đi lúc này của Từ — một mình một ngựa, lẻ loi đơn độc trước trời đất và trong thiên hạ rộng lớn — thì mới càng thấy rõ chí khí lớn và niềm tin mạnh mẽ của bậc anh hùng. Chẳng những Từ tin chắc vào cái ngày sẽ “làm cho rõ mặt phi thường” trước thiên hạ, mà còn khẳng định chắc chắn với Kiều về thời gian của cái ngày ấy: “Chầy chăng chỉ một năm sau”. Lời lẽ của Từ Hải thật đúng khẩu khí của bậc trượng phu: dứt khoát, mạnh mẽ và đầy niềm tin vào tài trí của mình. Lời lẽ của Từ Hải chắc chắn đã thuyết phục được Thúy Kiều, đem lại niềm tin tưởng cho nàng trong những tháng ngày phải xa cách đợi chờ.
Sau khi đã tỏ rõ chí khí của mình và thuyết phục được Thúy Kiều, Từ Hải ra đi cũng thật mạnh mẽ và dứt khoát:
Quyết lời dứt áo ra đi,
Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi.
Câu thơ trên với ba thanh sắc gần nhau ở câu đầu tạo một nhịp nhanh, mạnh, diễn tả hành động ra đi của Từ Hải thật mạnh mẽ và dứt khoát. Câu thơ dưới với nhiều thanh bằng trải đều cùng với những hình ảnh cánh chim bằng, gió mây, dặm khơi đã vẽ ra một bức tranh rộng lớn, hào hùng. Bút pháp ước lệ tượng trưng của văn chương cổ ở đây có khả năng biểu đạt những hình tượng lớn lao phi thường. Câu thơ cho người đọc hình dung, tưởng tượng hình ảnh cánh chim bằng bay cao vút lên bầu trời cưỡi gió mây, vượt ngàn dặm khơi. Trong văn chương cổ, hình ảnh chim bằng tượng trưng cho khí phách và khát vọng của người anh hùng muốn lập nên sự nghiệp lớn. Trong bài thơ Cliim trong lồng, tương truyền của Nguyễn Hữu cầu – một lãnh tụ phong trào nông dân khởi nghĩa ở thế kỉ XVIII, cũng có hình ảnh cánh chim với khát vọng: “Bay thẳng cánh muôn trùng tiêu hán/ Phá vòng vây bạn với kim ó”. Còn Tản Đà thì mượn cánh chim bằng để nói về khát vọng tự do: “Gió hỡi gió phong trần ta đã chán/ Cánh chim bằng chín vạn những chờ mong” (Hỏi gió).
4. Trong Kim Vân Kiều truyện, Từ Hải chỉ là một kẻ làm giặc, một tướng lục lâm tầm thường. Nhưng đi vào Truyện Kiều của Nguyễn Du, Từ Hải đã thành biểu tượng của người anh hùng có khí phách và chí lớn. Từ Hải và Thúy Kiều, hai kẻ ở những tầng lớp bị xã hội phong kiến khinh rẻ nhất, lại được ngòi bút của nhà đại thi hào vẽ nên với những vẻ đẹp cao cả của tâm hồn và khí phách, bằng những lời thơ đầy thiện cảm và ngợi ca không giấu giếm. Trong văn học trung đại, có không ít những hình tượng anh hùng. Thường thì đó là những anh hùng theo lí tưởng của người quân tử trong quan niệm của Nho gia, nghĩa là những tấm gương trung thần nghĩa sĩ. Nhưng Từ Hải – biểu tượng về người anh hùng của Nguyễn Du lại là một kẻ chông lại triều đình, muôn lập một cõi riêng, để thỏa cái chí “chọc trời khuấy nước” của mình. Trong nhân vật này, thấp thoáng hình ảnh của những lãnh tụ các cuộc nổi dậy của nông dân trong thời kì suy vong của xã hội phong kiến.Xem thêm: Viết bài văn nêu cảm nghĩ của em nhân sự kiện Thăng Long - Hà Nội sắp tròn 1000 năm tuổiĐoạn thơ thể hiện tài năng tuyệt vời của Nguyễn Du trong nghệ thuật miêu tả nhân vật, ở đây là những người anh hùng. Chỉ với mấy nét miêu tả hành động và một đoạn đối thoại mà hình ảnh Từ Hải đã được khắc họa nổi bật với vẻ đẹp phi thường của chí lớn và khí phách anh hùng. Bút pháp ước lệ, tượng trưng, phóng đại sử dụng những diễn đạt văn chương cổ đều rất thích hợp với cách xây dựng hình tượng mang tính lí tưởng hóa về anh hùng, nhằm khắc họa sự lớn lao và phi thường ở họ.
Vanmau.edu.vn
|
Phân tích đoạn Chí khí anh hùng (Trích Truyện Kiều – Nguyễn Du)
Gợi ý
1. Trong cả thế giới nhân vật đông đảo gồm đủ hạng người của Truyện Kiều, Từ Hải nổi bật lên vì Từ là nhân vật anh hùng duy nhất, người anh hùng mang nhiều nét phi thường. Nhà phê bình văn học Hoài Thanh nói Từ Hải là: giác mộng anh hùng của Nguyễn Du.
Suốt quãng đời lưu lạc mười lăm năm chìm đắm trong đau khổ, tủi nhục triền miên của Thúy Kiều, thì những ngày tháng gặp gỡ Từ Hải là quãng thời gian tươi sáng, rạng rỡ. Đó là sự gặp gỡ của “trai anh hùng, gái thuyền quyên”; của hai người “tâm phúc tương tri”. Từ Hải chẳng những là người đã đưa Kiều ra khỏi cuộc sống ô nhục ở chốn lầu xanh lần thứ hai, mà hơn thế nữa, chỉ có Từ mới giúp được nàng thực hiện ước mơ công lí, báo oán trả ân. Đoạn thơ Chí khí anh hùng chỉ tả cảnh Từ Hải từ biệt Thúy Kiều để ra đi, nhưng đã khắc họa nổi bật được vẻ đẹp và tầm vóc lớn lao của người anh hùng. Đoạn thơ hoàn toàn là sự sáng tạo của Nguyễn Du, bởi Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân chỉ kể một cách đơn giản là sau một thời gian chung sống, Từ Hải từ biệt Thúy Kiều ra đi, mà không hề miêu tả cuộc từ biệt ấy.
2. Từ Hải là một anh hùng nên cái cách ra đi của nhân vật này cũng khác thường:
Nửa năm hương lửa đương nồng,
Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương.
Trông vời trời bể mênh mang,
Thanh gươm yên ngựa, lên đường thẳng rong.
Sau khi đưa Kiều ra khỏi lầu xanh, Từ Hải và Thúy Kiều sông những ngày thật hạnh phúc. Nhưng Từ đâu phải là con người dễ bằng lòng với hạnh phúc nhỏ hẹp dưới “một mái nhà yên rủ bóng xuống tâm hồn”, cũng tức là cuộc sổng quẩn quanh trong một không gian nhỏ hẹp, bằng phẳng. Từ là con người của trời đất, của chí khí làm nên nghiệp lớn. Bởi vậy mà mặc dù “hương lửa đương nồng”, nhưng tiếng gọi của bôn phương đã thức dậy mạnh mẽ và đột ngột trong lòng Từ. Hai chữ “thoắt đã” thể hiện sự đột ngột và dứt khoát của tâm trạng nhân vật. Nhưng ngẫm kĩ thì sự đột ngột ấy chỉ là ở bên ngoài, mà thực ra cái chí bôn phương vẫy vùng vôn vẫn nằm sâu trong tâm khảm của bậc trượng phu, chẳng qua nó chỉ tạm lắng lại khi hương lửa của ái tình đang nồng nàn mà thôi. Giờ đây khi chí khí anh hùng đã được thức dậy trong lòng bậc trượng phu thì không có gì có thể ngăn cản níu giữ người anh hùng được nữa. Thế nên, con mắt và tầm nhìn của Từ lập tức phóng xa về một không gian cao rộng như vô tận: “Trông vời trời bể mênh mang” và đi liền ngay với cái nhìn ấy là hành động cũng rất dứt khoát, mạnh mẽ, mau lẹ: “Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong”. Hai câu thơ vẽ ra một bức tranh đẹp về tư thế và tầm vóc của người anh hùng Từ Hải: trên một nền cảnh không gian xa rộng có cả trời và bể, nổi bật hình ảnh người anh hùng với một thanh gươm, trên mình ngựa thẳng hướng về phía trước trong tư thế “lên đường thẳng rong”.Xem thêm: Em hãy phân tích bài thơ Độc Tiểu Thanh kí của Nguyễn Du3. Chí khí anh hùng của Từ Hải còn bộc lộ đầy đủ hơn trong lời đôì đáp với Thúy Kiều trong phút chia li. Trước việc Từ Hải đột ngột lên đường, Kiều biết rằng không thể nào ngăn cản cái chí vẫy vùng của người anh hùng, nên chỉ thỉnh cầu được theo cùng:
Nàng rằng: “Phận gái chữ tòng,
Chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi”.
Trong lời thỉnh cầu ấy, không chỉ có ý thức về đạo “tam tòng” của người phụ nữ thời phong kiến, mà có lẽ hơn thế nữa, còn là mong muôn được cùng chia sẻ mọi điều với Từ Hải, khi chàng chỉ có một mình một ngựa ra đi, dấn thân vào một cuộc phiêu lưu chắc chắn là đầy hiểm nguy. Từ Hải đã đáp lại lời thỉnh cầu của Thúy Kiều như thế nào?
Trước hết, Từ coi việc Kiều xin đi theo là một ý nghĩa chưa thoát khỏi thói “nữ nhi thường tình”. Vả lại, cảnh ngộ của Từ Hải trước mắt, trên con đường dựng nghiệp, là tình cảnh một kẻ “bốn bể không nhà”; bởi thế Kiều có theo đi thì cũng là “theo càng thêm bận biết là về đâu?”. Trong những câu thơ này, còn thấy thoáng hiện lên cái cô đơn của người anh hùng giữa trời đất, thiên hạ. Ngay cả hai câu thơ trước đó: “Trông vời trời bể mênh mang/ Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong”, bên cạnh vẻ đẹp oai hùng cũng còn thấp thoáng sự cô đơn, lẻ loi của người anh hùng. Nhưng không chỉ ngăn việc Thúy Kiều xin theo cùng, Từ Hải còn ước hẹn với nàng về một tương lai rạng rỡ, khi người anh hùng lập nên sự nghiệp lớn:Xem thêm: Phân tích bài thơ Cảm hoài của Đặng Dung
Bao giờ mười vạn tinh bình,
Tiếng chiêng dậy đất, bóng tinh rợp đường.
Làm cho rõ mặt phi thường,
Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia.
Một viễn cảnh thật rạng rỡ, oai hùng, với khí thế rầm rộ của “mười vạn tinh binh”, với “tiếng chiêng dậy đất, bóng tinh rợp đường” được Từ vẽ ra với tất cả niềm tin chắc chắn. Bởi thế những câu thơ nói về một tương lai mà lại như cảnh tượng ấy đang hiện ra sống động trước mắt với đầy đủ cả âm thanh, màu sắc, sự chuyển động. Đốì sánh với hình ảnh ra đi lúc này của Từ — một mình một ngựa, lẻ loi đơn độc trước trời đất và trong thiên hạ rộng lớn — thì mới càng thấy rõ chí khí lớn và niềm tin mạnh mẽ của bậc anh hùng. Chẳng những Từ tin chắc vào cái ngày sẽ “làm cho rõ mặt phi thường” trước thiên hạ, mà còn khẳng định chắc chắn với Kiều về thời gian của cái ngày ấy: “Chầy chăng chỉ một năm sau”. Lời lẽ của Từ Hải thật đúng khẩu khí của bậc trượng phu: dứt khoát, mạnh mẽ và đầy niềm tin vào tài trí của mình. Lời lẽ của Từ Hải chắc chắn đã thuyết phục được Thúy Kiều, đem lại niềm tin tưởng cho nàng trong những tháng ngày phải xa cách đợi chờ.
Sau khi đã tỏ rõ chí khí của mình và thuyết phục được Thúy Kiều, Từ Hải ra đi cũng thật mạnh mẽ và dứt khoát:
Quyết lời dứt áo ra đi,
Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi.
Câu thơ trên với ba thanh sắc gần nhau ở câu đầu tạo một nhịp nhanh, mạnh, diễn tả hành động ra đi của Từ Hải thật mạnh mẽ và dứt khoát. Câu thơ dưới với nhiều thanh bằng trải đều cùng với những hình ảnh cánh chim bằng, gió mây, dặm khơi đã vẽ ra một bức tranh rộng lớn, hào hùng. Bút pháp ước lệ tượng trưng của văn chương cổ ở đây có khả năng biểu đạt những hình tượng lớn lao phi thường. Câu thơ cho người đọc hình dung, tưởng tượng hình ảnh cánh chim bằng bay cao vút lên bầu trời cưỡi gió mây, vượt ngàn dặm khơi. Trong văn chương cổ, hình ảnh chim bằng tượng trưng cho khí phách và khát vọng của người anh hùng muốn lập nên sự nghiệp lớn. Trong bài thơ Cliim trong lồng, tương truyền của Nguyễn Hữu cầu – một lãnh tụ phong trào nông dân khởi nghĩa ở thế kỉ XVIII, cũng có hình ảnh cánh chim với khát vọng: “Bay thẳng cánh muôn trùng tiêu hán/ Phá vòng vây bạn với kim ó”. Còn Tản Đà thì mượn cánh chim bằng để nói về khát vọng tự do: “Gió hỡi gió phong trần ta đã chán/ Cánh chim bằng chín vạn những chờ mong” (Hỏi gió).
4. Trong Kim Vân Kiều truyện, Từ Hải chỉ là một kẻ làm giặc, một tướng lục lâm tầm thường. Nhưng đi vào Truyện Kiều của Nguyễn Du, Từ Hải đã thành biểu tượng của người anh hùng có khí phách và chí lớn. Từ Hải và Thúy Kiều, hai kẻ ở những tầng lớp bị xã hội phong kiến khinh rẻ nhất, lại được ngòi bút của nhà đại thi hào vẽ nên với những vẻ đẹp cao cả của tâm hồn và khí phách, bằng những lời thơ đầy thiện cảm và ngợi ca không giấu giếm. Trong văn học trung đại, có không ít những hình tượng anh hùng. Thường thì đó là những anh hùng theo lí tưởng của người quân tử trong quan niệm của Nho gia, nghĩa là những tấm gương trung thần nghĩa sĩ. Nhưng Từ Hải – biểu tượng về người anh hùng của Nguyễn Du lại là một kẻ chông lại triều đình, muôn lập một cõi riêng, để thỏa cái chí “chọc trời khuấy nước” của mình. Trong nhân vật này, thấp thoáng hình ảnh của những lãnh tụ các cuộc nổi dậy của nông dân trong thời kì suy vong của xã hội phong kiến.Xem thêm: Viết bài văn nêu cảm nghĩ của em nhân sự kiện Thăng Long - Hà Nội sắp tròn 1000 năm tuổiĐoạn thơ thể hiện tài năng tuyệt vời của Nguyễn Du trong nghệ thuật miêu tả nhân vật, ở đây là những người anh hùng. Chỉ với mấy nét miêu tả hành động và một đoạn đối thoại mà hình ảnh Từ Hải đã được khắc họa nổi bật với vẻ đẹp phi thường của chí lớn và khí phách anh hùng. Bút pháp ước lệ, tượng trưng, phóng đại sử dụng những diễn đạt văn chương cổ đều rất thích hợp với cách xây dựng hình tượng mang tính lí tưởng hóa về anh hùng, nhằm khắc họa sự lớn lao và phi thường ở họ.
Vanmau.edu.vn
|
Phân tích đoạn thơ Chàng thì đi cõi xa mưa gió… ai sầu hơn ai
Hướng dẫn
‘Chinh phụ ngâm khúc’là khúc ngâm tả nỗi buồn cô đơn, thương nhớ, chờ mong của người vợ trẻ có chồng đi chinh chiến miền xa. Tác giả khúc ngâm là Đặng Trần Côn, một danh sĩ tài ba, sống vào nửa đầu thế kỉ 18, khi đất nước ta đang đắm chìm trong cảnh loạn lạc, nội chiến lầm than và đau thương. Nguyên tác bằng chữ Hán, gồm có 470 câu thơ dài, ngắn xen nhau theo thể tự do. Bản dịch thơ dài 408 câu thơ song thất lục bát, tương truyền là của nữ sĩ Đoàn Thị Điểm, người cùng thời với tác giả. Tiếng Việt và thể thơ song thất dưới ngòi bút sáng tạo của
dịch giả đã nâng ‘Chinh phụ ngâm khúc’ lên một tầm vóc mới, trở thành kiệt tác trong nền thi ca cổ điển Việt Nam. Nghệ thuật diễn tả tâm trạng, hình tượng thơ mĩ lệ, nhạc điệu du dương, thiết tha, ngôn ngữ thơ tinh luyện, biểu cảm… là vẻ đẹp của áng thơ này. Nỗi buồn cô đơn, niềm khao khát hạnh phúc của nàng chinh phụ giữa thời chiến tranh loạn lạc mang ý nghĩa thể hiện khát vọng hòa bình của nhân dân, lên án chiến tranh phi nghĩa. Tinh thần nhân đạo là giá trị to lớn và sáu sắc của ‘Chinh phụ ngâm khúc’.
Đoạn thơ 12 câu dưới đây trích từ câu 53 đến câu 64 của khúc ngang đã thể hiện một cách cảm động tâm trạng cô đơn và nỗi sầu chia li của nàng chinh phụ trong những ngày đầu, sau khi tiễn chồng ra trận:
‘Chàng thì đi cõi xa mưa gió,
Lòng chàng ỷ thiếp ai sầu hơn ai?’
1. Hai vế đối xứng song hành: ‘Chàng thì đi’ / ‘thiếp thì về’ làm hiện lên một cảnh ngộ chia li của lứa đôi đầy bi kịch giữa thời loạn lạc. Người vợ trẻ thương chồng phải dấn thân vào ‘cõi xa mưa gió’, phải nếm trải bao nguy hiểm, gian lao nơi chiến địa xa xôi. Rồi nàng lại tự thương mình phải sống lẻ loi, cô đơn, một mình một bóng suốt năm canh nơi ‘buồng cũ chiếu chăn’. Hai hình ảnh tượng trưng: ‘cõi xa mưa gió’ và ‘buồng cũ chiếu chăn’ hô ứng nhau, đã thể hiện một cách sâu sắc nỗi đau khổ của ‘đôi lứa thiếu niên’ khi đất nước ‘nổi cơn gió bụi’:
‘Chàng thì đi cõi xa mưa gió,
Thiếp thì về buồng cũ chiếu chăn’
Ba chữ ‘đoái trông theo’ gợi tả một cái nhìn đăm đắm về phía chân trời xa. Hình bóng người chồng thân yêu đâu còn nhìn thấy nữa, đã ‘cách ngăn’ bởi màu ‘biếc’ của mây, cứ ‘tuôn’ mãi ra, bởi ‘ngàn núi xanh’ cứ trải dài trải rộng và che khuất ở phía chân trời. Chinh phụ một mình một bóng lẻ loi giữa trống vắng bao la. Nỗi buồn cô đơn như thấm vào mây, núi:
‘Đoái trông theo đã cách ngăn,
Tuôn màu mây biếc, trải ngàn núi xanh’
‘Mây biếc’càng làm cho bầu trời cao hơn, mênh mông hơn. ‘Ngàn núi xanh’ càng làm cho chân trời thêm xa xăm, cách trở. Câu thơ ‘Tuôn màu mây biếc, trải ngàn núi xanh’ là một câu thơ có hình tượng mĩ lệ và rất hay. Tác giả đã lấy ngoại cảnh để thể hiện tâm trạng thương nhớ và cô đơn của chinh phụ một cách đặc sắc.
2. Nỗi buồn cô đơn của nàng chinh phụ được khắc sâu, được tô đậm qua cách nói ước lệ tượng trưng ở đoạn song thất tiếp theo:
‘Chốn Hàm Dương chàng còn ngoảnh lại,
Bến Tiêu Tương thiếp hãy trông sang.
Khói Tiêu Tương cách Hàm Dương,
Cây Hàm Dương cách Tiêu Tương mấy trùng’
Hàm Dương và Tiêu Tương, hai địa danh trên đất nước Trung Hoa bao la, cách xa nhau hàng nghìn dặm, được nhắc đi nhắc lại đến ba lần đầy ám ảnh. Trên cõi sa trường tầm tã gió mưa sương tuyết, giữa rừng gươm giáo ‘chàng còn ngoảnh lại’… Ó chốn ‘buồng cũ chiếu chăn’, sớm sớm chiều chiều ‘thiếp hãy trông sang’. Nhưng chỉ thấy ‘bến’, thấy ‘cây’, thấy’khói’ mịt mù trong tâm tưởng. 90
Không gian địa lí bao la đã trở thành không gian nghệ thuật trống vắng. Chữ ‘cách’ được điệp lại hai lần, kết hợp với ‘mấy trùng’ càng làm nổi bật bi kịch chia li của lứa đôi. Và đó cũng là tâm trạng nghệ thuật: nỗi buồn cô đơn, thương nhớ của nàng chinh phụ không thể nào kể xiết.
Xem thêm: Viết đoạn văn phân tích nghệ thuật tương phản trong tác phẩm “Sống chết mặc bay” của Phạm Duy TốnCách nói ước lệ tượng trưng là một thủ pháp nghệ thuật của thi pháp cổ mang giá trị thẩm mĩ đặc sắc: tạo nên tính hàm súc và liên tưởng phong phú, đầy ý vị. ‘Chinh phụ ngâm khúc’ có nhiều đoạn thơ mang tính ước lệ rất hay. Lúc thì gợi lên nỗi gian truân của khách chinh phu trên chiến địa:
‘Nay Hấn xuống Bạch Thành đóng lại,
Mai Hồ vào Thanh Hải dòm qua,
Hình khe, thế núi gần xa,
Đứt thôi lại nối, thấp đà lại cao…’
Lúc thì tái hiện một cách rùng rợn chốn sa trường:
‘Non Kỳ quạnh quẽ trăng treo,
Bến Phỉ gió thổi đìu hiu mấy gò.
Hồn tử sĩ gió ù ù thổi,
Mặt chinh phu trăng dõi dõi soi…’
3.Bốn câu thơ cuối đoạn đã cực tả nỗi buồn của nàng chinh phụ trong sự trông ngóng nhớ thương:
‘Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy,
Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu.
Ngàn dâu xanh ngắt một màu,
Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai?’
Càng ngóng trông càng vô vọng cô đơn; ở hai phía chân trời, chàng và thiếp đang buồn đau: ‘Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy’. Ngày và đêm, thực và mộng ‘chẳng thấy’ hình bóng thân thương của chàng, mà thiếp chỉ ‘thấy’ màu ‘xanh xanh’ của ngàn dâu, càng về sau càng nhạt nhòa trên cái nền bao la ‘ngàn dâu xanh ngắt một màu’. Màu ‘xanh xanh’, màu ‘xanh ngắt’ ấy của ngàn dâu cũng là màu xanh của tâm tưởng, màu xanh của li biệt. Thiếp đang sống trong nỗi buồn nhớ thiết tha. Chẳng có ngọn gió tây, chẳng có cánh chim nhạn để thiếp gửi tình thương nhớ tới chàng đang chinh chiến trên ải xa? Câu hỏi tu từ như một tiếng thở dài ngao ngán: ‘Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai?’.
Các từ ngữ: ‘cùng trông lại’, ‘cùng chẳng thấy’, ‘thấy’, ‘ngàn dâu… ngàn dâu’, ‘ai… ai’ – lúc thì tương phản, lúc thì hô ứng đăng đối, tăng cấp, lúc thì điệp và láy – đã tạo nên nhạc điệu du dương, tha thiết, diễn tả một cách xúc động một tâm trạng đầy bi kịch thời loạn lạc. Biện pháp nghệ thuật liên hoàn và cách diễn tả trùng điệp là một nét rất tài hoa của nữ sĩ được thể hiện qua 4 câu song thất này. Chữ ‘thấy’ cuối câu bảy trên được nhắc lại đầu câu bảy dưới; chữ ‘ngàn dâu’ cuối câu bảy dưới lại được điệp lại đầu câu sáu, đã làm cho thơ liền mạch, làm nổi bật nỗi sầu, nỗi buồn li biệt diễn ra triền miên khôn nguôi trong tâm hồn chinh phụ.
Trong ‘Chinh phụ ngâm khúc’, biện pháp nghệ thuật liên hoàn – trùng điệp đã để lại dấu ấn tuyệt đẹp qua nhiều đoạn thơ tuyệt tác:
‘Hướng dương lòng thiếp như hoa,
Lòng chàng lẩn thẩn e tà bóng dương.
Bóng dương để hoa vàng chẳng đoái,
Hoa để vàng bởi tại bóng dương.
Hoa vàng hoa rụng quanh tường,
Trải xem hoa rụng đêm sương mấy lần’…
Thơ là cái đẹp muôn đời của sự sống. ‘Chinh phụ ngâm khúc’ là cái đẹp chứa chan tinh thần nhân đạo phản ánh một thời kì loạn lạc đau thương, để lại bao xúc động trong lòng người hơn 250 năm nay. Đoạn thơ 12 câu trên đây là một nét đẹp của khúc ngâm tuyệt tác này. Ngôn từ tinh luyện, biểu cảm, hình tượng mĩ lệ, nhạc điệu du dương, câu thơ song thất của khúc ngâm đã trở thành cổ điển. Cách nói ước lệ tượng trưng, cấu trúc song hành đối xứng, biện pháp liên hoàn tượng trưng đã được nữ sĩ sử dụng rất tài tình.
Chiến tranh loạn lạc đã để lại bao nỗi đau trong lòng người. Nỗi buồn ly biệt, tình thương nhớ, cảnh ngộ cô đơn của người vợ trẻ sau khi tiễn chồng ra trận như thấm sâu vào cảnh vật từ mây trời, núi non đến cây cỏ, từ chốn phòng khuê đến ải xa nơi chiến địa. Đoạn thơ thấm đượm tính nhân văn, thể hiện niềm khao khát của người chinh phụ muốn được sống trong tình yêu hạnh phúc, trong hòa bình yên vui.
Nguồn: thêm: Phân tích nhân vật bà cụ Tứ trong Vợ nhặt (Có dàn ý chi tiết)
|
Phân tích đoạn thơ Chàng thì đi cõi xa mưa gió… ai sầu hơn ai
Hướng dẫn
‘Chinh phụ ngâm khúc’là khúc ngâm tả nỗi buồn cô đơn, thương nhớ, chờ mong của người vợ trẻ có chồng đi chinh chiến miền xa. Tác giả khúc ngâm là Đặng Trần Côn, một danh sĩ tài ba, sống vào nửa đầu thế kỉ 18, khi đất nước ta đang đắm chìm trong cảnh loạn lạc, nội chiến lầm than và đau thương. Nguyên tác bằng chữ Hán, gồm có 470 câu thơ dài, ngắn xen nhau theo thể tự do. Bản dịch thơ dài 408 câu thơ song thất lục bát, tương truyền là của nữ sĩ Đoàn Thị Điểm, người cùng thời với tác giả. Tiếng Việt và thể thơ song thất dưới ngòi bút sáng tạo của
dịch giả đã nâng ‘Chinh phụ ngâm khúc’ lên một tầm vóc mới, trở thành kiệt tác trong nền thi ca cổ điển Việt Nam. Nghệ thuật diễn tả tâm trạng, hình tượng thơ mĩ lệ, nhạc điệu du dương, thiết tha, ngôn ngữ thơ tinh luyện, biểu cảm… là vẻ đẹp của áng thơ này. Nỗi buồn cô đơn, niềm khao khát hạnh phúc của nàng chinh phụ giữa thời chiến tranh loạn lạc mang ý nghĩa thể hiện khát vọng hòa bình của nhân dân, lên án chiến tranh phi nghĩa. Tinh thần nhân đạo là giá trị to lớn và sáu sắc của ‘Chinh phụ ngâm khúc’.
Đoạn thơ 12 câu dưới đây trích từ câu 53 đến câu 64 của khúc ngang đã thể hiện một cách cảm động tâm trạng cô đơn và nỗi sầu chia li của nàng chinh phụ trong những ngày đầu, sau khi tiễn chồng ra trận:
‘Chàng thì đi cõi xa mưa gió,
Lòng chàng ỷ thiếp ai sầu hơn ai?’
1. Hai vế đối xứng song hành: ‘Chàng thì đi’ / ‘thiếp thì về’ làm hiện lên một cảnh ngộ chia li của lứa đôi đầy bi kịch giữa thời loạn lạc. Người vợ trẻ thương chồng phải dấn thân vào ‘cõi xa mưa gió’, phải nếm trải bao nguy hiểm, gian lao nơi chiến địa xa xôi. Rồi nàng lại tự thương mình phải sống lẻ loi, cô đơn, một mình một bóng suốt năm canh nơi ‘buồng cũ chiếu chăn’. Hai hình ảnh tượng trưng: ‘cõi xa mưa gió’ và ‘buồng cũ chiếu chăn’ hô ứng nhau, đã thể hiện một cách sâu sắc nỗi đau khổ của ‘đôi lứa thiếu niên’ khi đất nước ‘nổi cơn gió bụi’:
‘Chàng thì đi cõi xa mưa gió,
Thiếp thì về buồng cũ chiếu chăn’
Ba chữ ‘đoái trông theo’ gợi tả một cái nhìn đăm đắm về phía chân trời xa. Hình bóng người chồng thân yêu đâu còn nhìn thấy nữa, đã ‘cách ngăn’ bởi màu ‘biếc’ của mây, cứ ‘tuôn’ mãi ra, bởi ‘ngàn núi xanh’ cứ trải dài trải rộng và che khuất ở phía chân trời. Chinh phụ một mình một bóng lẻ loi giữa trống vắng bao la. Nỗi buồn cô đơn như thấm vào mây, núi:
‘Đoái trông theo đã cách ngăn,
Tuôn màu mây biếc, trải ngàn núi xanh’
‘Mây biếc’càng làm cho bầu trời cao hơn, mênh mông hơn. ‘Ngàn núi xanh’ càng làm cho chân trời thêm xa xăm, cách trở. Câu thơ ‘Tuôn màu mây biếc, trải ngàn núi xanh’ là một câu thơ có hình tượng mĩ lệ và rất hay. Tác giả đã lấy ngoại cảnh để thể hiện tâm trạng thương nhớ và cô đơn của chinh phụ một cách đặc sắc.
2. Nỗi buồn cô đơn của nàng chinh phụ được khắc sâu, được tô đậm qua cách nói ước lệ tượng trưng ở đoạn song thất tiếp theo:
‘Chốn Hàm Dương chàng còn ngoảnh lại,
Bến Tiêu Tương thiếp hãy trông sang.
Khói Tiêu Tương cách Hàm Dương,
Cây Hàm Dương cách Tiêu Tương mấy trùng’
Hàm Dương và Tiêu Tương, hai địa danh trên đất nước Trung Hoa bao la, cách xa nhau hàng nghìn dặm, được nhắc đi nhắc lại đến ba lần đầy ám ảnh. Trên cõi sa trường tầm tã gió mưa sương tuyết, giữa rừng gươm giáo ‘chàng còn ngoảnh lại’… Ó chốn ‘buồng cũ chiếu chăn’, sớm sớm chiều chiều ‘thiếp hãy trông sang’. Nhưng chỉ thấy ‘bến’, thấy ‘cây’, thấy’khói’ mịt mù trong tâm tưởng. 90
Không gian địa lí bao la đã trở thành không gian nghệ thuật trống vắng. Chữ ‘cách’ được điệp lại hai lần, kết hợp với ‘mấy trùng’ càng làm nổi bật bi kịch chia li của lứa đôi. Và đó cũng là tâm trạng nghệ thuật: nỗi buồn cô đơn, thương nhớ của nàng chinh phụ không thể nào kể xiết.
Xem thêm: Viết đoạn văn phân tích nghệ thuật tương phản trong tác phẩm “Sống chết mặc bay” của Phạm Duy TốnCách nói ước lệ tượng trưng là một thủ pháp nghệ thuật của thi pháp cổ mang giá trị thẩm mĩ đặc sắc: tạo nên tính hàm súc và liên tưởng phong phú, đầy ý vị. ‘Chinh phụ ngâm khúc’ có nhiều đoạn thơ mang tính ước lệ rất hay. Lúc thì gợi lên nỗi gian truân của khách chinh phu trên chiến địa:
‘Nay Hấn xuống Bạch Thành đóng lại,
Mai Hồ vào Thanh Hải dòm qua,
Hình khe, thế núi gần xa,
Đứt thôi lại nối, thấp đà lại cao…’
Lúc thì tái hiện một cách rùng rợn chốn sa trường:
‘Non Kỳ quạnh quẽ trăng treo,
Bến Phỉ gió thổi đìu hiu mấy gò.
Hồn tử sĩ gió ù ù thổi,
Mặt chinh phu trăng dõi dõi soi…’
3.Bốn câu thơ cuối đoạn đã cực tả nỗi buồn của nàng chinh phụ trong sự trông ngóng nhớ thương:
‘Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy,
Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu.
Ngàn dâu xanh ngắt một màu,
Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai?’
Càng ngóng trông càng vô vọng cô đơn; ở hai phía chân trời, chàng và thiếp đang buồn đau: ‘Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy’. Ngày và đêm, thực và mộng ‘chẳng thấy’ hình bóng thân thương của chàng, mà thiếp chỉ ‘thấy’ màu ‘xanh xanh’ của ngàn dâu, càng về sau càng nhạt nhòa trên cái nền bao la ‘ngàn dâu xanh ngắt một màu’. Màu ‘xanh xanh’, màu ‘xanh ngắt’ ấy của ngàn dâu cũng là màu xanh của tâm tưởng, màu xanh của li biệt. Thiếp đang sống trong nỗi buồn nhớ thiết tha. Chẳng có ngọn gió tây, chẳng có cánh chim nhạn để thiếp gửi tình thương nhớ tới chàng đang chinh chiến trên ải xa? Câu hỏi tu từ như một tiếng thở dài ngao ngán: ‘Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai?’.
Các từ ngữ: ‘cùng trông lại’, ‘cùng chẳng thấy’, ‘thấy’, ‘ngàn dâu… ngàn dâu’, ‘ai… ai’ – lúc thì tương phản, lúc thì hô ứng đăng đối, tăng cấp, lúc thì điệp và láy – đã tạo nên nhạc điệu du dương, tha thiết, diễn tả một cách xúc động một tâm trạng đầy bi kịch thời loạn lạc. Biện pháp nghệ thuật liên hoàn và cách diễn tả trùng điệp là một nét rất tài hoa của nữ sĩ được thể hiện qua 4 câu song thất này. Chữ ‘thấy’ cuối câu bảy trên được nhắc lại đầu câu bảy dưới; chữ ‘ngàn dâu’ cuối câu bảy dưới lại được điệp lại đầu câu sáu, đã làm cho thơ liền mạch, làm nổi bật nỗi sầu, nỗi buồn li biệt diễn ra triền miên khôn nguôi trong tâm hồn chinh phụ.
Trong ‘Chinh phụ ngâm khúc’, biện pháp nghệ thuật liên hoàn – trùng điệp đã để lại dấu ấn tuyệt đẹp qua nhiều đoạn thơ tuyệt tác:
‘Hướng dương lòng thiếp như hoa,
Lòng chàng lẩn thẩn e tà bóng dương.
Bóng dương để hoa vàng chẳng đoái,
Hoa để vàng bởi tại bóng dương.
Hoa vàng hoa rụng quanh tường,
Trải xem hoa rụng đêm sương mấy lần’…
Thơ là cái đẹp muôn đời của sự sống. ‘Chinh phụ ngâm khúc’ là cái đẹp chứa chan tinh thần nhân đạo phản ánh một thời kì loạn lạc đau thương, để lại bao xúc động trong lòng người hơn 250 năm nay. Đoạn thơ 12 câu trên đây là một nét đẹp của khúc ngâm tuyệt tác này. Ngôn từ tinh luyện, biểu cảm, hình tượng mĩ lệ, nhạc điệu du dương, câu thơ song thất của khúc ngâm đã trở thành cổ điển. Cách nói ước lệ tượng trưng, cấu trúc song hành đối xứng, biện pháp liên hoàn tượng trưng đã được nữ sĩ sử dụng rất tài tình.
Chiến tranh loạn lạc đã để lại bao nỗi đau trong lòng người. Nỗi buồn ly biệt, tình thương nhớ, cảnh ngộ cô đơn của người vợ trẻ sau khi tiễn chồng ra trận như thấm sâu vào cảnh vật từ mây trời, núi non đến cây cỏ, từ chốn phòng khuê đến ải xa nơi chiến địa. Đoạn thơ thấm đượm tính nhân văn, thể hiện niềm khao khát của người chinh phụ muốn được sống trong tình yêu hạnh phúc, trong hòa bình yên vui.
Nguồn: thêm: Phân tích nhân vật bà cụ Tứ trong Vợ nhặt (Có dàn ý chi tiết)
|
Phân tích đoạn thơ Hai Bà Trưng trích Đại Nam quốc sử diễn ca
Hướng dẫn
"Đại Nam quốc sử diễn ca" của Lê Ngô Cát và Phạm Đình Toái – hai vị cử nhân Hán học thời nhà Nguyễn. Tác phẩm này rất độc đáo: đó là cuốn lịch sử bằng thơ, gồm 2054 câu thơ lục bát, kể về lịch sử nước ta từ thời truyền thuyết xa xưa đến thời Gia Long nhà Nguyễn.
Giá trị lớn nhất của tác phẩm là nói về linh khí Đại Nam, kể lại những chiến công oai hùng chống ngoại xâm của tổ tiên, khơi dậy ý chí tự lập tự cường của dân tộc ta với cảm hứng sử thi hào hùng. Những đoạn thơ nói về: Thần PhùĐổng, Sơn Tinh, Thuỷ Tinh, TrọngThủy,My Châu, Hai Bà Trưng, Phá giặc Môngcổ, Cuộc khởi nghĩacủa Lê Lợi,… lúc nào đọc cũng thấy hay, càng đọc càng thú vị.
Đoạn thơ "Hai Bà Trưng'' dài 22 câu thơ khác nào như một tượng đồng kì vĩ về hai vị nữ anh hùng dân tộc được dựng nên với tất cả niềm tôn kính, tự hào.
Hai Bà Trưng quê ởChâu Phong, vì nợ nước thù nhà, mà phất cờ khởi nghĩa. Thái thú Tô Định cực kì tham tàn bạo ngược, vơ vét vàng lụa, ngọc trai, thú rừng quý hiếm, tàn sát nhân dân ta vôcùng dã man. Bà Trưng đã đứng lên khởi nghĩa, đã khắc sâu vào trái tim lời nguyền sắt đá:
"Giận người tham bạo, thù chồng chẳng quên ".
Thi Sách là chống Trưng Trắc đã bị Tô Định giết hại. Bà Trưng ra trận với tư thế gánh vác trọng trách lịch sử nặng nề”
"Phứt cờ nương tử thay quyền tướng quân”
Đoạn thơ 4 câu tiếp theo làm sống dậy cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng những năm 39, 40. Hàng vạn nghĩa quân với binh hùng tướng mạnh, kéo đến vây hãm thành Long Biên, tiến công Luy Lâu. Hàng nghìn giặc Hán bị giết chết, Tô Định bạt vía kinh hồn chạy trốn về Tàu. Khí thếquật khởi của dân ta trong thời đô hộ của nhà Hán đã được thể hiện bằng những hình tượng hào hùng, giọng thơ mạnh mẽ mang âm điệu anh hùng ca. Sức mạnh "ầm ám " rung chuyển đất trời ấy được nói thật hay, bừng bừng khí thế:
“Ngàntây nổi ángphong trần,
Ầm ầm binh mã xuốnggầnLongBiên.
Xem thêm: Phân tích vẻ đẹp của khổ thơ sau: "Thuở nhỏ tôi lên chơi đền Cây Thị chân đất đi đêm xem lễ đền Sòng... cái năm đói, củ dong riềng luộc sượng Cứ nghe thơm mùi huệ trồng, hương trầm"Hồngquần nhẹ bước chinh yên,
Đuổi ngay Tô Định, dẹp tan Biên thành”
Các từ ngữ, hình ảnh: “nổi áng phongtrần ", "ầm ầm binh mã”, “nhẹ bước chinh yên ”, “đuổi ngay ”, “dẹp tan ” được dùng rất sắc, rất sáng tạo.
Cuộc khởi nghĩa thắng lợi: 65 thành trì được giải phóng, đất nước được độc lập. Hai Bà lên làm vua đóng đô tại Mê Linh từ năm 40 – 43. Những sự kiện lịch sử ấy đã được hai nhà thơ tái hiện rất cụ thể, rõ ràng với tất cả niềm tự hào dân tộc:
"Đô kì đóngcõi Mê Linh,
Lĩnh Nam riêngmột triều đình nước ta.
Ba thu gánh vác sơn hà,
Một là báo phục, hai là bá vương".
Công lao của Hai Bà Trưng rất to lớn. Cuộc khởi nghĩa như một ngọn lửa rừng rực giữa đêm trường nô lệ 1000 năm Bắc thuộc; nó thể hiện sức mạnh quật khởi của dân tộc ta, chí khí anh hùng của người phụ nữ Việt Nam ta.
Đoạn thơ 8 câu còn lại nói về Mã Viện mang quân sang xâm lược nước ta. Cuộc khởi nghĩa bị thất bại, Hai Bà Trưng phải nhảy xuống dòng Hát Giang tự tận. Mã Viện dựng cột đồng ởải Nam Quan.
Đoạn thơ này có những câu thơ như:
“Nữ nhi chốngvới anh hùngđược nao? ”
hay:
“Phục Ba mới dựng cột đồng,
Ai quan truyền dấu biên côngcõi ngoài”
Thi sĩ Xuân Diệu cho là "không hay mờ lại còn sai”. Mã Viện là một tướng cướp, không thểgọi là “anh hùng”. Việc hắn dựng cột đổng là một trò hể bành trướng đáng phí nhổ. Thi hào Nguyễn Du đã có vần thơ châm biếm Mã Viện tên tướng cướp:
“Những tưởng cột đồng lòe xái Việt
Chẳng dè xe ngọc lụy đàn con… "
Hình ảnh Hai Bà Trưng mãi mãi mà là biểu tượng cho khí phách anh hùng của người phụ nữ Việt Nam,chí khí quật cường và khát vọng tự do độc lập của đất nước ta, nhân dân ta.
Đoạn thơ “Hai BàTrưng" là bài ca hào hùng nói về tầm vóc nữ nhi đất Việt.
Nguồn: thêm: Thuyết minh về danh lam thắng cảnh ở Hà Nội
|
Analysis of Hai Ba Trung's poem excerpt from Dai Nam Quoc Su Dien ca
Instruct
"Dai Nam Quoc Su Dien Ca" by Le Ngo Cat and Pham Dinh Toai - two bachelors of Chinese studies during the Nguyen Dynasty. This work is very unique: it is a historical book in verse, consisting of 2,054 six-eight verses, telling the history of our country from the time of ancient legends to the reign of Gia Long of the Nguyen Dynasty.
The greatest value of the work is that it talks about the spirit of Dai Nam, recounts the heroic victories against foreign invaders of our ancestors, arouses the will of our nation to be independent and strong with heroic epic inspiration. Poems about: Than Phu Dong, Son Tinh, Thuy Tinh, Trong Thuy, My Chau, Hai Ba Trung, Destroying the Mongol enemy, Le Loi's uprising,... are always good to read, the more you read, the more interesting they become.
The 22-line poem "Hai Ba Trung" is like a magnificent bronze statue of two national heroines built with all respect and pride.
The Trung sisters were from Chau Phong. Because they owed money to their country, they raised the flag of insurrection. Governor To Dinh was extremely greedy and brutal, plunder gold, silk, pearls, rare wild animals, and brutally massacred our people. Mrs. Trung stood up for an uprising and engraved an iron curse deep into her heart:
"I'm angry at people who are greedy and hate my husband, but I won't forget it."
Thi Sach was against Trung Trac who was killed by To Dinh. Ms. Trung went into battle with the posture of shouldering a heavy historical responsibility."
"Raise the flag of the princess to replace the power of the general"
The next 4-line poem revives the uprising of Hai Ba Trung in the years 39 and 40. Tens of thousands of insurgents with powerful soldiers and generals came to besiege Long Bien citadel and attack Luy Lau. Thousands of Han invaders were killed, To Dinh was terrified and fled back to China. The rising spirit of our people during the Han Dynasty's domination was expressed through heroic images and strong poetic voices with epic tones. That "daunting" power that shakes heaven and earth is said so well and full of spirit:
“Thousands of west are exposed to the wind and ceiling,
The sound of soldiers and horses descending near Long Bien.
See more: Analyze the beauty of the following stanza: "When I was a child, I went to Cay Thi temple barefoot and went at night to watch Song temple ceremonies... in the hungry year, boiled arrowroot roots could only smell the scent of planted lilies and incense. "Hongquan walks lightly in peace,
Immediately expel To Dinh and destroy the Border Citadel."
The words and images: "rising from the wind and ceiling", "roaring with soldiers and horses", "lightly conquering the peace", "chasing immediately", "clearing away" are used very sharply and creatively.
The uprising was successful: 65 strongholds were liberated, the country was independent. The two ladies became kings and established their capital in Me Linh from 40 - 43. Those historical events were recreated very specifically and clearly by the two poets with all national pride:
"The capital of Me Linh,
Linh Nam is a royal court in our country.
Ba Thu carries the mountains and rivers,
One is revenge, the other is domination."
The merits of Hai Ba Trung are very great. The uprising was like a blazing fire in the middle of the night of 1,000 years of slavery under the North; It shows the resurgent strength of our nation, the heroic spirit of our Vietnamese women.
The remaining 8 lines of the poem talk about Ma Vien bringing troops to invade our country. The uprising failed, the Trung Sisters had to jump into the Hat Giang River to commit suicide. Ma Vien built a bronze pillar at Nam Quan pass.
This poem contains lines such as:
“How can a girl fight against a hero? ”
or:
“Fu Ba just built the bronze pillar,
Who is the official who spreads the signs of the outside world?
Poet Xuan Dieu said it was "not good and wrong". Ma Vien was a bandit and could not be called a "hero". The fact that he built a bronze pillar was an expansionist game worth uprooting. Poet Nguyen Du wrote. There is a poem satirizing Ma Vien, the robber general:
“I thought the copper columns looked Vietnamese
Don't be afraid to take care of the jade cart and the children..."
The image of the Trung Sisters will forever be a symbol of the heroic spirit of Vietnamese women, the tenacious spirit and desire for freedom and independence of our country and our people.
The poem "Hai Ba Trung" is a heroic song about the stature of Vietnamese women.
Source: more: Explanation about scenic spots in Hanoi
|
Phân tích đoạn thơ sau nói về nỗi cô đơn buồn khổ của người chinh phụ.
Hướng dẫn
Phân tích đoạn thơ sau nói về nỗi cô đơn buồn khổ của người chinh phụ.
"Há như ai hồn say bónglẫn,
Bỗng thơ thơ, thổn thẩn như không
Trâm cài, xiêm giắt thẹn thùng,
Lệch làn tóc rối, lỏngvòng lưng eo.
Dạo hiên vắng, thầm gieo từngbước,
Ngồi rèm thưa, rủ thác đòi phen.
Ngoài rèm, thước chẳng mách tin,
Trong rèm, dường đã có đèn biết chăng.
Đèn có biết dường bằng chẳng biết,
Lòng thiếp riêng bi thiết mủ thôi.
Buồn rầu nói chẳng nên lời,
Hoa đèn kia với bóng người khá thương.
Gà eo óc gáy sương năm trống,
Hoè phất phơ rủ bóng bốn bên.
Khắc giờ đằng đẵngnhư niên,
Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa.
Hương gượng đốt, hồn đà mê mải,
Gương gượngsoi, lệ lại chứa chan.
Sắt cầm gượng gảy ngón đàn,
Dây uyên kinh đứt, phím loan ngại chùng.
(Trích "Chinh phụ ngâm")
Bài làm
"Chinh phụ ngâm ” có nhiều đoạn thơ diễn tả nỗi cô đơn, sầu muộn, buồn khổ của người chinh phụ. Đây là một đoạn thơ thể hiện tâm trạng ấy của người phụ nữ đáng thương thời chiến tranh, loạn lạc:
"Há như ai hồn say bóng lẫn,
…,phím loan ngại chùng''.
Người chồng ra trận mãi chưa về, đã 3, 4 năm “cách diễn ” trên chốn sa trường, chàng phải "gối đất nằm sương". Một cánh thư, một tin nhạn mỏi mòn chờ mong. Người vợ trẻ trải qua những năm dài cô đơn, sầu muộn. Có lúc như người mất hồn bơ vơ "thơ thơ thẩn thẩn ”, “thẩn thẩn như không.”Con người trở nên trễ tràng. Trước đây thì son phấn điểm trang, bây giờ thì trở nên lôi thôi, tiều tụy:
“Trâm cài, xiêm giắt thẹn thùng,
Lệchlàn tóc rối, lỏng vòng lưng eo
Trâm, xiêm, làn tóc, lưng eo… vốn là vẻ đẹp của người phụ nữ, của người con gái, nhưng giờ đây thì trở nên “thẹn thùng”. Làn tóc thì "rối" và “lệch ”, lưng eo thì “lỏngvòng’’. Quá chán ngán, người chinh phụ cảm thấy cuộc đời mình, cuộc sống của mình không còn ý vị, ý nghĩa nữa.
Ngôi nhà, phòng khuê giờ đây trở nên tối tăm, chật chội. Có "dạo hiên vắng” thì chỉ nghe “thầm” từng bước chân mình. Có “ngồi rèm thưa”lúc buông xuống, lúc cuốn lên, cũng chỉlặng lẽ một thân một mình, cô đơn lẻ bóng. Chỉ còn một mình một bóng giữa đêm khuya. Đã lâu rồi "thước chẳng mách tin”, không một lá thư, không một người thân qua lại:
Xem thêm: Phân tích nhân vật A Phủ trong “Vợ chồng A Phủ” của nhà văn Tô Hoài- Văn 12‘‘Ngoài rèm, thước chẳng mách tin,
Trong rèm, dường đã có đèn biết chăng.”
Chim thước và bóng đèn được nhân hoá đã làm nổi bật cảnh vắng vẻ của ngôi nhà, nỗi cô đơn lẻ loi của người chinh phụ. Nàng ngồi lặng lẽ một mình trong phòng khuê, và chỉ còn biết hỏi bóng đèn, tâm sự cùng bóng đèn, thì nỗi buồn cô đơn không thể nào kể xiết. Thương hoa đèn rồi tự thương lòng mình “bithiết”:
“Đèn có biết dường bằng chẳng biết,
Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi.
Buồn rầu nói chẳng nên lời,
Hoa đèn kia với bóng người khá thương ”.
Chẳng có ai, chẳng biết cùng ai để giãi bày tâm sự. Chinh phụ thao thức suốt đêm. Lắng nghe tiếng gà “eo óc ” gáy trong sương cùng tiếng trống canh năm. Bốn bên chỉ nhìn thấy bóng hòe “phất phơ”. Từng khắc, từng giờ dài thêm ra “đằng đẵng như niên”.Mối sầu thì dài thêm “dằng dặc tựa miền biển xa”.
"Gà eo óc gáy sương năm trống,
Hoè phất phơ rủ bóng bốn bên.
Khắc giờ đằng đẵng như niên,
Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa”.
Các từ láy (eo óc, phất phơ, đằngđẵng, dằngdặc) có giá trị gợi tả cảnh vật, thời gian, làm tăng sự biểu cảm nỗi cô đơn và tâm trạng thao thức của người chinh phụ. Hai so sánh về thời gian “đằng đẵng như niên ”, "dằng dặc tựu miền biển xa" đã cực tả nỗi buồn lê thê suốt đêm ngày, đúng là "ba thu dọn lại một ngày dài ghê!" (Truyện Kiều).
Sầu tủi, buồn chán rồi e ngại và lo sợ, "gượng” đốt hương, "gượng” soi gương, rồi "gượng” gảy đàn. Buồn chán ngán và mỏi mệt. Nước mắt “chứa chan” thấm đầy gối, tràn đầy mi. Các từ ngữ: "kinh ”, “ngại", cùng điệp ngữ “gượng " đã cực tả nỗi buồn chán ngán, đau khổ, lo sợ của nàng chinh phụ. Tâm hồn thì “mê mải” chân tay thì rụng rời:
‘‘Hương gượng đốt, hồn đà mê mải,
Gương gượng soi, lệ lại chứa chan.
Sắt cầm gượng gảy ngón dàn,
Dây uyên kinh dứt, phím loan ngại ngùng”
Nhạc điệu vần thơ song thất lục bát réo rắt, triền miên như nỗi buồn cô đơn da diết, dằng dặc, đằng đẵng trong lòng người chinh phụ. Các từ láy, các so sánh được sử dụng tài tình để khắc hoạ nội tâm nàng chinh phụ. Lời thơ đẹp, ngôn ngữ trau chuốt. Ngoại cảnh như thấm nỗi buồn cô đơn, đau khổ của lòng người.
Chiến tranh phong kiến đã “dãi thây trăm họ nên công một người”. Trên chiến địa thì "hồn tử sĩ gió ù ù thổi”… Ởmọi chốn làng quê, những người mẹ già, người vợ trẻ đã lo lắng, chờ mong. Đoạn thơ giàu giá trị nhân đạo đã nói lên cái giá nặng nề mà người chinh phụ phải trả. Vì thế đoạn thơ mang ý nghĩa tố cáo cuộc chiến tranh phi nghĩa vô nghĩa đã gây ra bao đau khổ cho nhân dân.
Nguồn: thêm: Sống chậm, suy nghĩ khác và yêu thương nhiều hơn
|
Analyze the following poem about the loneliness and sadness of the conqueror.
Instruct
Analyze the following poem about the loneliness and sadness of the conqueror.
"Is it like someone whose soul is drunk and confused?
Suddenly poetic, sobbing like nothing
Brooches, tied shyly,
Messy hair, loose waist.
Walking on the deserted porch, silently sowing step by step,
Sitting with thin curtains, inviting people to chat.
Outside the curtain, the ruler does not reveal any news,
There seems to be a light in the curtain.
The light that knows is as good as not knowing,
My heart is filled with sadness.
Sad and speechless,
That lantern flower and the human shadow are quite pitiful.
The rooster with the waist and brain crows in the year of the rooster,
The flowers are fluttering on all four sides.
The hours are as long as years,
Grief is as deep as a distant sea.
The incense burns, the soul is absorbed,
The mirror is shining, tears are overflowing.
Iron struggled to strum the piano,
The nerve cord is broken, the key is loose.
(Excerpt from "Conquering Father's Soak")
Assignment
"Conqueror's Wife" has many verses expressing the loneliness, melancholy, and sadness of the conqueror's wife. Here is a poem expressing that mood of the poor woman during the war and chaos:
"Is it like someone whose soul is drunk and confused?
...,the key is loose''.
The husband has not returned from the war, after 3 or 4 years of "acting" on the battlefield, he has to "lie down on the ground". A letter, a piece of news that swallows are tired of waiting for. The young wife experienced long years of loneliness and sadness. There are times when people feel lost and helpless, "wandering about poetry", "idly wandering around like nothing." People become lethargic. Previously they used to wear make-up and make-up, now they become disheveled and haggard:
"Brooches, tied shyly,
Messy hair, loose waist
Hair, hair, waist... were originally the beauty of a woman, a girl, but now they have become "shy". Her hair is "messy" and "askew", her waist is "loose". Too fed up, the conqueror felt that her life, her life, no longer had any meaning or meaning.
The house and bedroom are now dark and cramped. There are "walking on a deserted porch" where you can only "whisper" your steps. There are "sitting with thin curtains" that sometimes come down, sometimes roll up, just quietly being alone, lonely and shadowy. Only a single shadow remains. In the middle of the night, it's been a long time since I've heard any news, no letters, no relatives passing by:
See more: Analysis of the character A Phu in "A Phu and his wife" by writer To Hoai-Van 12''Outside the curtain, the ruler does not tell the news,
There seems to be a light in the curtain."
The anthropomorphic bird and light bulb highlight the desolation of the house and the loneliness of the conqueror's wife. She sat quietly alone in her room, and could only ask the light bulb, confide in the light bulb, the sadness and loneliness were indescribable. Loving the flowers and lanterns then feeling sorry for yourself "bithiet":
“The light that knows is as good as not knowing,
My heart is just sad.
Sad and speechless,
That lantern flower and the human shadow are quite pitiful.
There was no one, no one to confide in. The concubine stayed awake all night. Listen to the sound of the rooster crowing in the mist along with the sound of the fifth watch drum. On all four sides, only "fluttering" shadows can be seen. Each moment, each hour becomes longer "as long as a year". Grief becomes longer "as long as a distant sea".
"The rooster's waist and brains crow in the year of the rooster,
The flowers are fluttering on all four sides.
Hours are as long as years,
Grief is as deep as a distant sea."
The words (waist brain, fluttering, long, endless) have the value of describing the scene and time, increasing the expression of the loneliness and restless mood of the conqueror. The two comparisons of time "as long as years" and "all the way to the far sea" have extremely described the sadness that drags on day and night, it is true that "Dad, it's a long day to clean up!" (Kieu story).
Feeling sad, bored, then afraid and afraid, "forced" to burn incense, "forced" to look in the mirror, then "forced" to play the guitar. Sad, bored and tired. Tears "filled" the pillow, overflowing. The words: "afraid", "afraid", and the refrain "forced" describe the sadness, pain, and fear of the conqueror. The soul is "engrossed" and the limbs fall apart:
“The incense burns, the soul is absorbed,
The mirror is forced to look at it, tears are overflowing.
The iron forcefully strummed with his fingers,
The nerves are gone, the keys are shy."
The rhythm of the poem is two-seven-six-eights, melodious and constant, like the deep, constant, long-lasting sadness and loneliness in the heart of the conqueror's wife. Fraudulent words and comparisons are cleverly used to portray the inner feelings of the conqueror. Beautiful poems, elaborate language. The external environment seems to absorb the sadness, loneliness, and suffering of people's hearts.
The feudal war "stripped the corpses of hundreds of clans into the hands of one person". On the battlefield, "the souls of martyrs are howling in the wind"... In every village, old mothers and young wives were worried and waiting. The poem, rich in humanitarian values, speaks of the heavy price that people face. Therefore, the poem has the meaning of denouncing the senseless war that has caused so much suffering to the people.
Source: more: Live slowly, think differently and love more
|
Phân tích đoạn thơ sau trong bài Bên kia sông Đuống của Hoàng Cầm: Em ơi buồn làm chi… Sao xót xa như rụng bàn tay
Gợi ý
Đề bài:
Phân tích đoạn thơ sau trong bài Bên kia sông Đuống của Hoàng Cầm:
Em ơi buồn làm chi
Anh đưa em về sông Đuống
Ngày xưa cát trắng phẳng lì
Sông Đuống trôi đi
Một dòng lấp lánh
Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kì
Xanh xanh bãi mía nương dâu
Ngô khoai biêng biếc
Đứng bên này sông sao nhớ tiếc
Sao xót xa như rụng bàn tay.
(Văn học 12, tập một, Nxb. Giáo dục, 2000, tr.81)
Dàn bài chi tiết
I. Giới thiệu tác phẩm, tác giả, hoàn cảnh sáng tác
Sinh ra và lớn lên giữa vùng Bắc Ninh đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc, nhà thơ Hoàng Cầm gắn bó và yêu thương vùng đất ấy vô cùng. Thế nên khi hay tin giặc Pháp chiếm phía nam Bắc Ninh, Hoàng Cầm không khỏi xúc động, đau đớn. Chính trong nguồn cảm hứng ấy, chỉ trong một đêm, bài thơ Bên kia sông Đuống ra đời, chứa đựng bao nhiêu tình cảm của nhà thơ. Mở đầu bài thơ, Hoàng Cầm viết:
Em ơi buồn làm chi
…
Sao xót xa như rụng bàn tay.
Những câu thơ đã mở ra một vùng không gian đẫm đầy nỗi thương tha thiết, đủ sức lôi cuốn, thúc giục người đọc.
II. Phân tích
1. Tựa đề Bên kia sông Đuống chỉ bốn từ nhưng có sức gợi khá lớn. Trước hết, nó gợi lên hoàn cảnh sáng tác bài thơ, bên này là đất tự dọ, bên kia là nơi giặc đang chiếm đóng phía nam của tỉnh Bắc Ninh. Bên kia sông Đuống còn gợi lên khoảng không gian xa cách, bên này là nơi tác giả đang chiến đấu, bên kia là quê hương đang bị giày xéo. Giữa hai khoảng không gian ấy, bài thơ ra đời như một sự kết nối giữa tác giả và quê hương. Không chỉ vượt qua không gian, bài thơ còn như muốn vượt qua thời gian để tác giả trở về những ngày xưa thân ái. Bốn từ Bên kia sông Đuống vì thế luôn được đặt ở hàng đầu mỗi đoạn thơ như là điểm khơi nguồn cho dòng thơ miên man chảy.Xem thêm: Soạn bài Đất nước mùa thu
2. 3 câu đầu:
Theo lời kể của tác giả, 3 câu đầu của bài thơ Bên kia sông Đuống được ra đời một cách kỳ lạ trong đêm nhà thơ nghe kể về tình hình quê hương:
Tâm trí tôi dần tĩnh lại trong cái im ắng đến nghe rõ cả tiếng một con muỗi vo ve đâu đó. Đột nhiên, như từ xóm nào xa, vang vọng ngay bên tai tôi một giọng như hát, như than thở, như ru em, một giọng phụ nữ trong trẻo nghe mồn một, nhưng lại nghe tự lúc tôi còn thơ dại.
(Sông Đuống bắt nguồn từ đâu? trong Hoàng Cầm – thơ văn và cuộc đợi, Nxb. Văn hóa thông tin, 1997)
Bài thơ được bắt đầu như thế với ba dòng như rót từ cõi xa xăm nào xuống. Quả thực, đó là những câu thơ rất lạ, vừa thoảng chút ai oán, vừa thoảng chút yên ủi, vỗ về:
Em ơi buồn làm chi
Anh đưa em về sông Đuống
Ngày xưa cát trắng phẳng lì
– Hình ảnh đầu tiên xuất hiện với gọi tha thiết là nhân vật trữ tình em. Em là ai? Có lẽ chỉ nên xem là một nhân vật phiếm chỉ mà nhà thơ cần đến để giải bày tâm sự, tìm sự đồng cảm, hoặc cũng có thể nhân vật phân thân của chính tác giả.
– Hình ảnh cát trắng phẳng lì chợt hiện ra làm nhẹ lòng người, gợi nỗi tiếc nhớ cái ngày xưa êm ả, thanh bình, khơi đúng nguồn mạch trữ tình để người viết nhập vào quá khứ.
3. 3 câu tiếp:
– Hình ảnh đầu tiên hiện ra trong nỗi nhớ nhà thơ vẫn là con sông Đuống:
Sông Đuống trôi đi
Một dòng lấp lánh
Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kì
Sông Đuống dưới ngòi bút của nhà thơ hiện lên rất mực trữ tình. Mỗi câu thơ như muốn ghi lại sắc thái của nó trôi đi, lấp lánh, nghiêng nghiêng. Những từ này trong trạng thái hoạt động, đặc biệt nét nghiêng nghiêng khiến dòng sông như một sinh thể có hồn, thân thiết, đáng yêu. Dòng sông như một sinh linh của Kinh Bắc để chia sẻ mọi vui buồn của người đời. Sông Đuống còn là một chứng nhân lịch sử, sẽ hiện diện trong suốt bài thơ, chứng kiến mọi đổi thay của quê hương, từ những ngày đen tối đến những ngày nhân dân vùng đứng lên:Xem thêm: Phân tích bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh ngữ văn 12– Đêm buông xuống dòng sông Đuống
– Đêm đi sâu qua lòng sông Đuống
và:
Sông Đuống cuồn cuộn trôi
Để nócuốn phăng ra bể
Bao nhiêu đồn giặc tơi bời
Bao nhiêu nước mắt
Bao nhiêu mồ hôi
Bao nhiêu bóng tối
Bao nhiêu nỗi đời…
– Còn với nhà thơ, chủ thể trữ tình trong tác phẩm, sông Đuống là dòng ký ức. Tuy có lúc phải xa con sông quê, nhưng dòng ký ức ấy vẫn chảy mãi trong tâm hồn. Nhà thơ Phạm Tiến Duật lý giải:
Tại sao cái dòng sông ấy không nằm bằng, nằm phẳng mà lại cứ nghiêng nghiêng một thế trôi xuôi? Nó nghiêng nghiêng trong không gian mà cũng nghiêng nghiêng trong thời gian. Bởi cái thế nằm mà cả cuộc trường kì phải nhớ tới, là cái thế nằm mà ánh nước luôn hắt sáng. Sông Đuống canh cánh trôi giữa lòng cuộc kháng chiến. Nó cũng nằm nghiêng nghiêng trong lòng tác giả, trong lòng bạn đọc…
(Hoàng Cầm và giai điệu thơ Kinh Bắc, Nxb. Trẻ, 2004, tr.103)
4. Kết thúc đoạn thơ thứ nhất là hình ảnh quê hương bên dòng sông Đuống trong hồi ức và trong hiện tại.
– Trong quá khứ, là những hình ảnh đẹp gợi lên từ một làng quê trù phú, giàu sức sống:
Xanh xanh bãi mía nương dâu
Ngô khoai biêng biếc
Hai dòng thơ nhưng cấu trúc đảo ngược nhau. Sự đảo ngược ấy có thể là ngẫu nhiên theo dòng cảm xúc của tác giả song lại tạo ra hiệu quả nghệ thuật bất ngờ: hình ảnh đầu tiên mà người ta bắt gặp là cái màu xanh xanh đến ngút ngàn của bãi mía nương dâu, rồi sự đọng lại của vẻ biêng biếc ngô khoai. Một đằng tác động vào thị giác, một đằng vào cảm giác.Xem thêm: Phân tích tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân” trong đoạn trích đất nước (trường ca Mặt đường khát vọng) của Nguyễn Khoa Điềm– Còn hiện tại lại là nỗi xót xa:
Đứng bên này sông sao nhớ tiếc
Sao xót xa như rụng bàn tay
Hai dòng thơ, hai câu hỏi nhưng là một tâm trạng. Nỗi lòng ấy đang điệp trùng bao nỗi, từ nhớ tiếc lẫn xót xa. Nhà thơ không nói nhớ tiếc hay xót xa điều gì, có bãi mía, nương dâu, có ngô khoai biêng biếc, nhưng có tất cả những gì của quê hương, là quê hương.
Điệp từ sao (sao nhớ tiếc, sao xót xa) như những câu hỏi làm nhức nhối lòng người. Nghệ thuật so sánh có sức gợi cảm, một là lấy nỗi đau tinh thần so sánh với nỗi đau thể xác khiến người đọc cảm nhận được nỗi đau cụ thể. Hai là, coi quê hương như một phần cơ thể. Quê hương bị giặc giày xéo đau đớn như một phần cơ thể bị mất.
5. Đoạn thơ gồm 10 dòng, được viết như lời kể lể và than van. Kể về quê hương giàu đẹp, miên man như không bao giờ hết. Than van về sự mất mát. Lời than ngắn, nhưng nỗi đau dài. Kết đoạn, hơi thơ rơi vào trạng thái hụt hẫng, nỗi hụt hẫng vì đau đớn khôn cùng. Vì thế, mỗi dòng thơ dài, ngắn theo chiều cảm xúc của người viết. Cũng theo chiều cảm xúc ấy, thơ đi vào lòng người đọc như chuyện của bây giờ.
III. Kết luận
– Đoạn thơ là cái nhìn bao quát toàn, cảnh Bên kia sông Đuống từ bên này.
– Bằng nghệ thuật điêu luyện, bút pháp gợi tả tài tình đoạn thơ đã đưa người đọc đến với tâm hồn nhà thơ, nỗi đau mất nước như mất đi máu thịt của chính mình.
– Bài thơ khiến người đọc xúc động vì hình ảnh quê hương với dòng sông, bãi mía, bờ dâu là hình ảnh quen thuộc của làng quê Việt Nam xưa. Cho nên những chi tiết ấy khiến người đọc nhớ tới quê hương mình.
Vanmau.edu.vn
|
Phân tích đoạn thơ sau trong bài Bên kia sông Đuống của Hoàng Cầm: Em ơi buồn làm chi… Sao xót xa như rụng bàn tay
Gợi ý
Đề bài:
Phân tích đoạn thơ sau trong bài Bên kia sông Đuống của Hoàng Cầm:
Em ơi buồn làm chi
Anh đưa em về sông Đuống
Ngày xưa cát trắng phẳng lì
Sông Đuống trôi đi
Một dòng lấp lánh
Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kì
Xanh xanh bãi mía nương dâu
Ngô khoai biêng biếc
Đứng bên này sông sao nhớ tiếc
Sao xót xa như rụng bàn tay.
(Văn học 12, tập một, Nxb. Giáo dục, 2000, tr.81)
Dàn bài chi tiết
I. Giới thiệu tác phẩm, tác giả, hoàn cảnh sáng tác
Sinh ra và lớn lên giữa vùng Bắc Ninh đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc, nhà thơ Hoàng Cầm gắn bó và yêu thương vùng đất ấy vô cùng. Thế nên khi hay tin giặc Pháp chiếm phía nam Bắc Ninh, Hoàng Cầm không khỏi xúc động, đau đớn. Chính trong nguồn cảm hứng ấy, chỉ trong một đêm, bài thơ Bên kia sông Đuống ra đời, chứa đựng bao nhiêu tình cảm của nhà thơ. Mở đầu bài thơ, Hoàng Cầm viết:
Em ơi buồn làm chi
…
Sao xót xa như rụng bàn tay.
Những câu thơ đã mở ra một vùng không gian đẫm đầy nỗi thương tha thiết, đủ sức lôi cuốn, thúc giục người đọc.
II. Phân tích
1. Tựa đề Bên kia sông Đuống chỉ bốn từ nhưng có sức gợi khá lớn. Trước hết, nó gợi lên hoàn cảnh sáng tác bài thơ, bên này là đất tự dọ, bên kia là nơi giặc đang chiếm đóng phía nam của tỉnh Bắc Ninh. Bên kia sông Đuống còn gợi lên khoảng không gian xa cách, bên này là nơi tác giả đang chiến đấu, bên kia là quê hương đang bị giày xéo. Giữa hai khoảng không gian ấy, bài thơ ra đời như một sự kết nối giữa tác giả và quê hương. Không chỉ vượt qua không gian, bài thơ còn như muốn vượt qua thời gian để tác giả trở về những ngày xưa thân ái. Bốn từ Bên kia sông Đuống vì thế luôn được đặt ở hàng đầu mỗi đoạn thơ như là điểm khơi nguồn cho dòng thơ miên man chảy.Xem thêm: Soạn bài Đất nước mùa thu
2. 3 câu đầu:
Theo lời kể của tác giả, 3 câu đầu của bài thơ Bên kia sông Đuống được ra đời một cách kỳ lạ trong đêm nhà thơ nghe kể về tình hình quê hương:
Tâm trí tôi dần tĩnh lại trong cái im ắng đến nghe rõ cả tiếng một con muỗi vo ve đâu đó. Đột nhiên, như từ xóm nào xa, vang vọng ngay bên tai tôi một giọng như hát, như than thở, như ru em, một giọng phụ nữ trong trẻo nghe mồn một, nhưng lại nghe tự lúc tôi còn thơ dại.
(Sông Đuống bắt nguồn từ đâu? trong Hoàng Cầm – thơ văn và cuộc đợi, Nxb. Văn hóa thông tin, 1997)
Bài thơ được bắt đầu như thế với ba dòng như rót từ cõi xa xăm nào xuống. Quả thực, đó là những câu thơ rất lạ, vừa thoảng chút ai oán, vừa thoảng chút yên ủi, vỗ về:
Em ơi buồn làm chi
Anh đưa em về sông Đuống
Ngày xưa cát trắng phẳng lì
– Hình ảnh đầu tiên xuất hiện với gọi tha thiết là nhân vật trữ tình em. Em là ai? Có lẽ chỉ nên xem là một nhân vật phiếm chỉ mà nhà thơ cần đến để giải bày tâm sự, tìm sự đồng cảm, hoặc cũng có thể nhân vật phân thân của chính tác giả.
– Hình ảnh cát trắng phẳng lì chợt hiện ra làm nhẹ lòng người, gợi nỗi tiếc nhớ cái ngày xưa êm ả, thanh bình, khơi đúng nguồn mạch trữ tình để người viết nhập vào quá khứ.
3. 3 câu tiếp:
– Hình ảnh đầu tiên hiện ra trong nỗi nhớ nhà thơ vẫn là con sông Đuống:
Sông Đuống trôi đi
Một dòng lấp lánh
Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kì
Sông Đuống dưới ngòi bút của nhà thơ hiện lên rất mực trữ tình. Mỗi câu thơ như muốn ghi lại sắc thái của nó trôi đi, lấp lánh, nghiêng nghiêng. Những từ này trong trạng thái hoạt động, đặc biệt nét nghiêng nghiêng khiến dòng sông như một sinh thể có hồn, thân thiết, đáng yêu. Dòng sông như một sinh linh của Kinh Bắc để chia sẻ mọi vui buồn của người đời. Sông Đuống còn là một chứng nhân lịch sử, sẽ hiện diện trong suốt bài thơ, chứng kiến mọi đổi thay của quê hương, từ những ngày đen tối đến những ngày nhân dân vùng đứng lên:Xem thêm: Phân tích bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh ngữ văn 12– Đêm buông xuống dòng sông Đuống
– Đêm đi sâu qua lòng sông Đuống
và:
Sông Đuống cuồn cuộn trôi
Để nócuốn phăng ra bể
Bao nhiêu đồn giặc tơi bời
Bao nhiêu nước mắt
Bao nhiêu mồ hôi
Bao nhiêu bóng tối
Bao nhiêu nỗi đời…
– Còn với nhà thơ, chủ thể trữ tình trong tác phẩm, sông Đuống là dòng ký ức. Tuy có lúc phải xa con sông quê, nhưng dòng ký ức ấy vẫn chảy mãi trong tâm hồn. Nhà thơ Phạm Tiến Duật lý giải:
Tại sao cái dòng sông ấy không nằm bằng, nằm phẳng mà lại cứ nghiêng nghiêng một thế trôi xuôi? Nó nghiêng nghiêng trong không gian mà cũng nghiêng nghiêng trong thời gian. Bởi cái thế nằm mà cả cuộc trường kì phải nhớ tới, là cái thế nằm mà ánh nước luôn hắt sáng. Sông Đuống canh cánh trôi giữa lòng cuộc kháng chiến. Nó cũng nằm nghiêng nghiêng trong lòng tác giả, trong lòng bạn đọc…
(Hoàng Cầm và giai điệu thơ Kinh Bắc, Nxb. Trẻ, 2004, tr.103)
4. Kết thúc đoạn thơ thứ nhất là hình ảnh quê hương bên dòng sông Đuống trong hồi ức và trong hiện tại.
– Trong quá khứ, là những hình ảnh đẹp gợi lên từ một làng quê trù phú, giàu sức sống:
Xanh xanh bãi mía nương dâu
Ngô khoai biêng biếc
Hai dòng thơ nhưng cấu trúc đảo ngược nhau. Sự đảo ngược ấy có thể là ngẫu nhiên theo dòng cảm xúc của tác giả song lại tạo ra hiệu quả nghệ thuật bất ngờ: hình ảnh đầu tiên mà người ta bắt gặp là cái màu xanh xanh đến ngút ngàn của bãi mía nương dâu, rồi sự đọng lại của vẻ biêng biếc ngô khoai. Một đằng tác động vào thị giác, một đằng vào cảm giác.Xem thêm: Phân tích tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân” trong đoạn trích đất nước (trường ca Mặt đường khát vọng) của Nguyễn Khoa Điềm– Còn hiện tại lại là nỗi xót xa:
Đứng bên này sông sao nhớ tiếc
Sao xót xa như rụng bàn tay
Hai dòng thơ, hai câu hỏi nhưng là một tâm trạng. Nỗi lòng ấy đang điệp trùng bao nỗi, từ nhớ tiếc lẫn xót xa. Nhà thơ không nói nhớ tiếc hay xót xa điều gì, có bãi mía, nương dâu, có ngô khoai biêng biếc, nhưng có tất cả những gì của quê hương, là quê hương.
Điệp từ sao (sao nhớ tiếc, sao xót xa) như những câu hỏi làm nhức nhối lòng người. Nghệ thuật so sánh có sức gợi cảm, một là lấy nỗi đau tinh thần so sánh với nỗi đau thể xác khiến người đọc cảm nhận được nỗi đau cụ thể. Hai là, coi quê hương như một phần cơ thể. Quê hương bị giặc giày xéo đau đớn như một phần cơ thể bị mất.
5. Đoạn thơ gồm 10 dòng, được viết như lời kể lể và than van. Kể về quê hương giàu đẹp, miên man như không bao giờ hết. Than van về sự mất mát. Lời than ngắn, nhưng nỗi đau dài. Kết đoạn, hơi thơ rơi vào trạng thái hụt hẫng, nỗi hụt hẫng vì đau đớn khôn cùng. Vì thế, mỗi dòng thơ dài, ngắn theo chiều cảm xúc của người viết. Cũng theo chiều cảm xúc ấy, thơ đi vào lòng người đọc như chuyện của bây giờ.
III. Kết luận
– Đoạn thơ là cái nhìn bao quát toàn, cảnh Bên kia sông Đuống từ bên này.
– Bằng nghệ thuật điêu luyện, bút pháp gợi tả tài tình đoạn thơ đã đưa người đọc đến với tâm hồn nhà thơ, nỗi đau mất nước như mất đi máu thịt của chính mình.
– Bài thơ khiến người đọc xúc động vì hình ảnh quê hương với dòng sông, bãi mía, bờ dâu là hình ảnh quen thuộc của làng quê Việt Nam xưa. Cho nên những chi tiết ấy khiến người đọc nhớ tới quê hương mình.
Vanmau.edu.vn
|
Phân tích đoạn thơ sau trong bài Bên kia sông Đuống: Bên kia sông Đuống… Bây giờ tan tác về đâu
Gợi ý
Đề bài:
Phân tích đoạn thơ sau trong bài Bên kia sông Đuống:
Bên kia sông Đuống
Quê hương ta lúa nếp thơm nồng
Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong
Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp
Quê hương ta từ ngày khủng khiếp
Giặc kéo lên ngùn ngụt lửa hung tàn
Ruộng ta khô
Nhà ta cháy
Chó ngộ một đàn
Lưỡi dài lê sắc máu
Kiệt cùng ngõ thẳm bờ hoang
Mẹ con đàn lợn âm dương
Chia lìa đôi ngả
Đám cưới chuột đang tưng bừng rộn rã
Bây giờ tan tác về đâu.
(Văn học 12, tập một, Nxb. Giáo dục, 2000, tr. 80-81)
Gợi ý làm bài
Đề yêu cầu phân tích một đoạn thơ trong bài Bên kia sông Đuống. Đây là đoạn thơ nói về nỗi mất mát của quê hương, tập trung ở những giá trị về văn hóa cổ truyền của dân tộc cần đảm bảo những ý chính sau:
1. Bên kia sông Đuống gắn liền với vẻ đẹp Kinh Bắc
Hồn thơ Hoàng Cầm gắn liền với quê hương Kinh Bắc, nơi ông sinh ra và lớn lên. Đây là vùng đất cổ của người Việt, có truyền thống văn hóa lâu đời, với biết bao di tích lịch sử, đền đài, chùa chiền được dựng trên các ngọn đồi, sườn núi, bên bờ sông Đuống. Gắn với di tích lịch sử là những lễ hội dân gian như: Hội Gióng, hội Lim, hội Chùa Dâu… và những làn điệu dân ca như: quan họ, hát ví, hát trống quân… Đặc biệt, những người con gái Kinh Bắc không chỉ hát hay mà còn đẹp nổi tiếng. Đây là quê hương của nhân vật lịch sử: Ngọc Hân, Ỷ Lan và nhiều cung nữ yêu kiều. Riêng tranh dân gian làng Hồ là kết tinh nghệ thuật hội họa dân gian cổ truyền như tranh gà lợn, tranh đánh ghen, hứng dừa…
Hoàng Cầm rất tự hào và gắn bó với quê hương mình. Ông từng tâm sự: Đất Kinh Bắc thu hút hết tâm hồn tôi và cả đời tôi, thơ tôi. Hiếm có nhà thơ nào gắn bó trọn vẹn với quê hương mình đến vậy. Cho nên khi nghe quê hương bị giặc giày xéo tâm trạng nhà thơ đau đớn và bài thơ đã ra đời chỉ trong một đêm.Xem thêm: Nỗi nhớ quê hương da diết qua bài thơ Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh của Lý Bạch2. Vẻ đẹp quê hương trong hồi ức của tác giả
Sau đoạn thơ mở đầu nói chung về quê hương bên bờ sông Đuống, nỗi nhớ thương của tác giả đã khơi dậy một vùng văn học đặc sắc, với bao kỉ niệm xưa:
Bên kia sông Đuống
Quê hương ta lúa nếp thơm nồng
Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong
Màu dân tộc sáng hừng trên giấy điệp
Với một hồn thơ giàu yêu thương, lãng mạn như Hoàng Cầm, quê hương hiện lên không chỉ là sự giàu có. Lúa nếp thơm nồng vừa gợi lên sự trù phú, lẫn hấp dẫn, tươi đẹp. Hương thơm lúa nếp gắn liền với những ngày thanh bình ấm no. Chính mùi thơm nồng nàn ấy đã hóa thành một phần tâm hồn của người xa quê. Rồi cả màu tươi sáng của những bức tranh Đông Hồ nữa. Tất cả biến thành một sinh thể trong hồn người, chứ không còn là những thứ riêng lẻ. Bởi vậy, dù xa quê, nhưng cái phần sinh thể ấy vẫn sống trong hoài niệm.
Tranh làng Hồ xưa thường được nghệ nhân dân gian sử dụng gam màu sáng như màu cánh sen, màu thiên lý, màu đỏ son… Hoàng Cầm dùng từ tươi trong, sáng bừng vì lẽ đó. Đồng thời, màu sắc ấy còn gắn liền với tinh thần lạc quan yêu đời của người dân xưa. Tranh thường vẽ cảnh sinh hoạt trong đời sống của dân quê như gà vịt, đàn lợn, âm dương, kẻ chơi đánh đu, bịt mắt bắt dê… Các bức tranh này phản ánh cuộc sống hồn nhiên, bằng nét vẽ hóm hỉnh và cho thấy ước mơ giản dị của người dân quê là được sống ấm no, thanh bình. Do đó, nhà thơ nhớ về sắc màu của tranh Đông Hồ cũng là nhớ về đời sống của quê hương xưa, gắn với những tháng năm thanh bình, yên ả.
Từ màu tranh Đông Hồ, màu sắc cụ thể, có thật, tác giả liên tưởng và khái quát thành màu dân tộc. Sự dẫn dắt ấy tự nhiên và hợp lý, bởi tranh Đông Hồ làm bằng chất liệu được chế biến từ thảo mộc của quê hương và ngay cả khi người dân chọn lựa chất liệu, màu sắc ấy không là phải ngẫu nhiên. Đó là sự chọn lựa mang quan niệm, nếp nghĩ, tâm hồn của nhân dân từ bao đời nay: Màu sắc ấy trở thành màu dân tộc, gắn bó với đời sống tình cảm của con người Việt Nam. Câu thơ còn thể hiện niềm tự hào của tác giả về một sản vật mang bản sắc dân tộc của quê hương.Xem thêm: Cách làm bài văn phân tích tác phẩm thơ trữ tình3. Sự hủy diệt của chiến tranh đối với quê hương
– Những câu thơ còn lại diễn tả cảnh hoang tàn của quê hương từ ngày giặc Pháp đến:
Quê hương ta từ ngày khủng khiếp
Giặc kéo lên ngùn ngụt lửa hung tàn
Ruộng ta khô
Nhà ta cháy
Chó ngộ một đàn
Lưỡi dài lê sắc máu
Kiệt cùng ngõ thẳm bờ hoang
Những câu thơ diễn tả cảnh “khủng khiếp” của chiến tranh với hàng loạt hình dung từ: ngùn ngụt, khô, cháy… Hình ảnh đập vào mắt con người đầu tiên về chiến tranh là “lửa cháy”, bởi chiến tranh luôn đồng nghĩa với sự hủy diệt. Những bài thơ cùng thời hoặc sau Bên kia sông Đuống, khi miêu tả về thảm họa chiến tranh luôn ám ảnh với cái màu đỏ thảm khốc đó:
Bỗng cuối mùa chiêm quân giặc tới
Ngõ chùa cháy đỏ những thân cau…
(Vũ Cao – NúiĐôi)
Lâu quá không về thăm xóm đạo
Từ ngày binh lửa cháy quê hương
Khói bom che lấp chân trời cũ
Che cả người thương nóc giáo đường.
(Kiên Giang – Hoa trắng thôi cài trên áo tím)
Hình ảnh Chó ngộ một đàn / Lưỡi dài lê sắc máu vẽ nên một cảnh khủng khiếp nữa: một đàn chó dại (có thể vì ăn phải thây người) đang rong ruổi. Đoạn thơ miêu tả cảnh tượng quê hương khi giặc đến không có một bóng người. Người dân quê, hoặc đã bỏ đi, hoặc đã chết. Khắp chốn chỉ còn lại lũ giặc và những con chó điên! Cả một vùng quê hương trù phú giờ thành vùng đất chết: Kiệt cùng ngõ thẳm bờ hoang!
– Sự tàn phá quê hương của quân giặc không chỉ có thế. Hoàng Cầm đột ngột kể:Xem thêm: Cảm nhận của anh (chị) về ý nghĩa nhan đề truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa và ý nghĩa của chi tiết bức ảnh trong tác phẩmMẹ con đàn lợn âm dương
Chia lìa đôi ngả
Đám cưới chuột đang tưng bừng rộn rã
Bây giờ tan tác về đâu
Bên cạnh sự chia lìa của con người là sự tan tác của mẹ con đàn lợn âm dương, sự tan vỡ của đám cưới chuột đang tưng bừng rộn rã. Đó là cảnh trong tranh hay cảnh thực ngoài đời? Câu thơ với những hình ảnh cụ thể, sinh động nhưng lại mang ý nghĩa tượng trung về sự hủy diệt của chiến tranh đối với những giá trị văn hóa. Mà những giá trị ấy, từ lâu đã là một phần của tâm hồn quê hương, dân tộc. Quân giặc không những đốt phá xóm làng, nhà cửa, giết hại người dân lành mà tội ác hơn khi chúng tàn phá, xúc phạm đến những giá trị đã trở thành thiêng liêng của con người.
4. Đoạn thơ ngắn nhưng chứa đựng nhiều cung bậc tình cảm của tác giả: có yêu thương, tự hào và cũng có đau đớn, xót xa, nuối tiếc, căm giận. Nhịp điệu của thơ theo dòng cảm xúc của tác giả. Khi khoan thai, tự hào: Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong / Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp. Khi dồn dập, gãy khúc, mỗi câu như một sự kiện: Ruộng ta khô / Nhà ta cháy / Chó ngộ một đàn… Và cuối cùng là ngẩn ngơ, hụt hẫng: Bây giờ tan tác về đâu!
Đoạn thơ thể hiện tình cảm yêu thương, quý trọng của Hoàng Cầm đối với vùng đất quê hương mình. Trong hoàn cảnh chiến tranh, càng yêu thương, tự hào về quê hương bao nhiêu, tác giả càng đau xót, căm thù quân giặc bấy nhiêu. Dù chỉ là tình cảm của nhà thơ đối với quê hương mình nhưng điều đáng nói là tình cảm, qua thơ, đã truyền sang người đọc một sự cộng hưởng to lớn.
Vanmau.edu.vn
|
Phân tích đoạn thơ sau trong bài Bên kia sông Đuống: Bên kia sông Đuống… Bây giờ tan tác về đâu
Gợi ý
Đề bài:
Phân tích đoạn thơ sau trong bài Bên kia sông Đuống:
Bên kia sông Đuống
Quê hương ta lúa nếp thơm nồng
Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong
Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp
Quê hương ta từ ngày khủng khiếp
Giặc kéo lên ngùn ngụt lửa hung tàn
Ruộng ta khô
Nhà ta cháy
Chó ngộ một đàn
Lưỡi dài lê sắc máu
Kiệt cùng ngõ thẳm bờ hoang
Mẹ con đàn lợn âm dương
Chia lìa đôi ngả
Đám cưới chuột đang tưng bừng rộn rã
Bây giờ tan tác về đâu.
(Văn học 12, tập một, Nxb. Giáo dục, 2000, tr. 80-81)
Gợi ý làm bài
Đề yêu cầu phân tích một đoạn thơ trong bài Bên kia sông Đuống. Đây là đoạn thơ nói về nỗi mất mát của quê hương, tập trung ở những giá trị về văn hóa cổ truyền của dân tộc cần đảm bảo những ý chính sau:
1. Bên kia sông Đuống gắn liền với vẻ đẹp Kinh Bắc
Hồn thơ Hoàng Cầm gắn liền với quê hương Kinh Bắc, nơi ông sinh ra và lớn lên. Đây là vùng đất cổ của người Việt, có truyền thống văn hóa lâu đời, với biết bao di tích lịch sử, đền đài, chùa chiền được dựng trên các ngọn đồi, sườn núi, bên bờ sông Đuống. Gắn với di tích lịch sử là những lễ hội dân gian như: Hội Gióng, hội Lim, hội Chùa Dâu… và những làn điệu dân ca như: quan họ, hát ví, hát trống quân… Đặc biệt, những người con gái Kinh Bắc không chỉ hát hay mà còn đẹp nổi tiếng. Đây là quê hương của nhân vật lịch sử: Ngọc Hân, Ỷ Lan và nhiều cung nữ yêu kiều. Riêng tranh dân gian làng Hồ là kết tinh nghệ thuật hội họa dân gian cổ truyền như tranh gà lợn, tranh đánh ghen, hứng dừa…
Hoàng Cầm rất tự hào và gắn bó với quê hương mình. Ông từng tâm sự: Đất Kinh Bắc thu hút hết tâm hồn tôi và cả đời tôi, thơ tôi. Hiếm có nhà thơ nào gắn bó trọn vẹn với quê hương mình đến vậy. Cho nên khi nghe quê hương bị giặc giày xéo tâm trạng nhà thơ đau đớn và bài thơ đã ra đời chỉ trong một đêm.Xem thêm: Nỗi nhớ quê hương da diết qua bài thơ Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh của Lý Bạch2. Vẻ đẹp quê hương trong hồi ức của tác giả
Sau đoạn thơ mở đầu nói chung về quê hương bên bờ sông Đuống, nỗi nhớ thương của tác giả đã khơi dậy một vùng văn học đặc sắc, với bao kỉ niệm xưa:
Bên kia sông Đuống
Quê hương ta lúa nếp thơm nồng
Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong
Màu dân tộc sáng hừng trên giấy điệp
Với một hồn thơ giàu yêu thương, lãng mạn như Hoàng Cầm, quê hương hiện lên không chỉ là sự giàu có. Lúa nếp thơm nồng vừa gợi lên sự trù phú, lẫn hấp dẫn, tươi đẹp. Hương thơm lúa nếp gắn liền với những ngày thanh bình ấm no. Chính mùi thơm nồng nàn ấy đã hóa thành một phần tâm hồn của người xa quê. Rồi cả màu tươi sáng của những bức tranh Đông Hồ nữa. Tất cả biến thành một sinh thể trong hồn người, chứ không còn là những thứ riêng lẻ. Bởi vậy, dù xa quê, nhưng cái phần sinh thể ấy vẫn sống trong hoài niệm.
Tranh làng Hồ xưa thường được nghệ nhân dân gian sử dụng gam màu sáng như màu cánh sen, màu thiên lý, màu đỏ son… Hoàng Cầm dùng từ tươi trong, sáng bừng vì lẽ đó. Đồng thời, màu sắc ấy còn gắn liền với tinh thần lạc quan yêu đời của người dân xưa. Tranh thường vẽ cảnh sinh hoạt trong đời sống của dân quê như gà vịt, đàn lợn, âm dương, kẻ chơi đánh đu, bịt mắt bắt dê… Các bức tranh này phản ánh cuộc sống hồn nhiên, bằng nét vẽ hóm hỉnh và cho thấy ước mơ giản dị của người dân quê là được sống ấm no, thanh bình. Do đó, nhà thơ nhớ về sắc màu của tranh Đông Hồ cũng là nhớ về đời sống của quê hương xưa, gắn với những tháng năm thanh bình, yên ả.
Từ màu tranh Đông Hồ, màu sắc cụ thể, có thật, tác giả liên tưởng và khái quát thành màu dân tộc. Sự dẫn dắt ấy tự nhiên và hợp lý, bởi tranh Đông Hồ làm bằng chất liệu được chế biến từ thảo mộc của quê hương và ngay cả khi người dân chọn lựa chất liệu, màu sắc ấy không là phải ngẫu nhiên. Đó là sự chọn lựa mang quan niệm, nếp nghĩ, tâm hồn của nhân dân từ bao đời nay: Màu sắc ấy trở thành màu dân tộc, gắn bó với đời sống tình cảm của con người Việt Nam. Câu thơ còn thể hiện niềm tự hào của tác giả về một sản vật mang bản sắc dân tộc của quê hương.Xem thêm: Cách làm bài văn phân tích tác phẩm thơ trữ tình3. Sự hủy diệt của chiến tranh đối với quê hương
– Những câu thơ còn lại diễn tả cảnh hoang tàn của quê hương từ ngày giặc Pháp đến:
Quê hương ta từ ngày khủng khiếp
Giặc kéo lên ngùn ngụt lửa hung tàn
Ruộng ta khô
Nhà ta cháy
Chó ngộ một đàn
Lưỡi dài lê sắc máu
Kiệt cùng ngõ thẳm bờ hoang
Những câu thơ diễn tả cảnh “khủng khiếp” của chiến tranh với hàng loạt hình dung từ: ngùn ngụt, khô, cháy… Hình ảnh đập vào mắt con người đầu tiên về chiến tranh là “lửa cháy”, bởi chiến tranh luôn đồng nghĩa với sự hủy diệt. Những bài thơ cùng thời hoặc sau Bên kia sông Đuống, khi miêu tả về thảm họa chiến tranh luôn ám ảnh với cái màu đỏ thảm khốc đó:
Bỗng cuối mùa chiêm quân giặc tới
Ngõ chùa cháy đỏ những thân cau…
(Vũ Cao – NúiĐôi)
Lâu quá không về thăm xóm đạo
Từ ngày binh lửa cháy quê hương
Khói bom che lấp chân trời cũ
Che cả người thương nóc giáo đường.
(Kiên Giang – Hoa trắng thôi cài trên áo tím)
Hình ảnh Chó ngộ một đàn / Lưỡi dài lê sắc máu vẽ nên một cảnh khủng khiếp nữa: một đàn chó dại (có thể vì ăn phải thây người) đang rong ruổi. Đoạn thơ miêu tả cảnh tượng quê hương khi giặc đến không có một bóng người. Người dân quê, hoặc đã bỏ đi, hoặc đã chết. Khắp chốn chỉ còn lại lũ giặc và những con chó điên! Cả một vùng quê hương trù phú giờ thành vùng đất chết: Kiệt cùng ngõ thẳm bờ hoang!
– Sự tàn phá quê hương của quân giặc không chỉ có thế. Hoàng Cầm đột ngột kể:Xem thêm: Cảm nhận của anh (chị) về ý nghĩa nhan đề truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa và ý nghĩa của chi tiết bức ảnh trong tác phẩmMẹ con đàn lợn âm dương
Chia lìa đôi ngả
Đám cưới chuột đang tưng bừng rộn rã
Bây giờ tan tác về đâu
Bên cạnh sự chia lìa của con người là sự tan tác của mẹ con đàn lợn âm dương, sự tan vỡ của đám cưới chuột đang tưng bừng rộn rã. Đó là cảnh trong tranh hay cảnh thực ngoài đời? Câu thơ với những hình ảnh cụ thể, sinh động nhưng lại mang ý nghĩa tượng trung về sự hủy diệt của chiến tranh đối với những giá trị văn hóa. Mà những giá trị ấy, từ lâu đã là một phần của tâm hồn quê hương, dân tộc. Quân giặc không những đốt phá xóm làng, nhà cửa, giết hại người dân lành mà tội ác hơn khi chúng tàn phá, xúc phạm đến những giá trị đã trở thành thiêng liêng của con người.
4. Đoạn thơ ngắn nhưng chứa đựng nhiều cung bậc tình cảm của tác giả: có yêu thương, tự hào và cũng có đau đớn, xót xa, nuối tiếc, căm giận. Nhịp điệu của thơ theo dòng cảm xúc của tác giả. Khi khoan thai, tự hào: Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong / Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp. Khi dồn dập, gãy khúc, mỗi câu như một sự kiện: Ruộng ta khô / Nhà ta cháy / Chó ngộ một đàn… Và cuối cùng là ngẩn ngơ, hụt hẫng: Bây giờ tan tác về đâu!
Đoạn thơ thể hiện tình cảm yêu thương, quý trọng của Hoàng Cầm đối với vùng đất quê hương mình. Trong hoàn cảnh chiến tranh, càng yêu thương, tự hào về quê hương bao nhiêu, tác giả càng đau xót, căm thù quân giặc bấy nhiêu. Dù chỉ là tình cảm của nhà thơ đối với quê hương mình nhưng điều đáng nói là tình cảm, qua thơ, đã truyền sang người đọc một sự cộng hưởng to lớn.
Vanmau.edu.vn
|
Phân tích đoạn thơ sau trong bài Bên kia sông Đuống: Bên kia sông Đuống… Đường trơn mưa lạnh mái đầu bạc phơ
Gợi ý
Đề bài:
Phân tích đoạn thơ sau trong bài Bên kia sông Đuống:
Bên kia sông Đuống
Mẹ già nua còm cõi gánh hàng rong
Dăm miếng cau khô
Mấy lọ phẩm hồng
Vài thếp giấy đầm hoen sương sớm
Chợt lũ quỷ mắt xanh trừng trợn
Khua giày đinh đạp gãy quán gầy teo
Xì xồ cướp bóc
Tan phiên chợ nghèo
Lá đa lác đác trước lều
Vài ba vết máu loang chiều mùa đông
Chưa bán được một đồng
Mẹ già lại quẩy gánh hàng rong
Bước cao thấp bên bờ tre hun hút
Có con cò trắng bay vùn vụt
Lướt ngang dòng sông Đuống về đâu
Mẹ ta lòng đói dạ sầu
Đường trơn mưa lạnh mái đầu bạc phơ
(Văn học 12, tập một, Nxb. Giáo dục, 2000, tr.81)
Phân tích đề
Đề yêu cầu phân tích một đoạn trong bài thơ Bên kia sông Đuống. Để có thể làm bài tốt, người viết cần nắm vững kỹ năng phân tích tác phẩm trữ tình (thơ); hiểu rõ hoàn cảnh sáng tác và nội dung của cả tác phẩm.
Khi phân tích cần lưu ý: đoạn thơ có một hình tượng trung tâm là người mẹ già. Người mẹ ấy trong nỗi nhớ của tác giả khi chưa có chiến tranh và trong hình dung của nhà thơ khi chiến tranh xảy ra. Các hình ảnh, chi tiết khác đều góp phần để nổi rõ hình tượng người mẹ.
Âm hưởng chung của cả đoạn thơ là nỗi xót xa, đau đớn của nhà thơ khi nghĩ về người mẹ. Do đó, tiết tấu của thơ cũng là nhịp điệu tình cảm ấy. Bởi vậy, khi phân tích, bên cạnh những từ, ngữ, ý, cần chú trọng đến nhịp điệu của cả đoạn thơ.
Dàn bài chi tiết
I. Mở bài
Trong dòng cảm xúc của Hoàng Cầm về Bên kia sông Đuống, người mẹ là vùng nhớ thương, đau đáu nhất:
Bên kia sông Đuống
Đường trơn mưa lạnh mái đầu bạc phơ
Theo lời kể của chính tác giả, thì sau khi nghe kể về tình hình quê hương ở vùng bị địch chiếm đóng, đêm ấy, ông trằn trọc, vật vã mãi: Trong người tôi lúc bấy giờ thật y hệt một cuốn phim của một người đạo diễn rối loạn tâm thần, các hình bóng quấn lộn vào nhau, các âm thanh màu sắc chen chèn lấn rối bốn bề, và trên bức vách, các hình thù ngả nghiêng theo ánh đèn dầu sở lắt lay. Một lúc lâu thi những hình ảnh rõ nét hiện lên bức vách, cứ như quay tròn nhường chỗ cho nhau. Quanh khuôn mặt dầu dãi của mẹ tôi, các bộ mặt khác như đậu chênh vểnh vào đấy… (Hoàng Cầm, thơ văn và cuộc đời, Nxb. Vãn hóa Thông tin, 1997, tr.218).Xem thêm: Nói lời đáp của em trong 3 trường hợp sau Sau này, nhìn lại đời thơ và đời mình, nhà thơ Hoàng Cầm còn viết: Nói đến quê hương, phải bắt đầu bằng người Mẹ. Mẹ là incarnation (Incarnation (tiếng Pháp): Sự hóa thân, sự hiện thân, tượng trưng (BQH)), là hiện thân trọn vẹn nhất, sinh động nhất của quê hương (Sđd, tr.186). Vì thế, mỗi dòng, mỗi chữ thơ của Hoàng Cầm khi viết về người mẹ như chạm khắc vào thời gian để đến nay vẫn còn biết bao xúc động đối với người đọc.
II. Phân tích
1. 5 câu đầu:
– Từ nơi xa xôi, người con hướng về quê hương bên kia sông Đuống, nơi có người mẹ nghèo khổ:
Bên kia sông Đuống
Mẹ già nua còm cõi gánh hàng rong
Dăm miếng cau khô
Mấy lọ phẩm hồng
Vài thếp giấy đầm hoen sương sớm
Đó là hình ảnh,về người mẹ tảo tần, vất vả, đúng là người mẹ quê Việt Nam ngày xưa. Chỉ có 4 câu thơ nhưng hình ảnh mẹ lại rất gợi nhờ hàng loạt hình dung từ: già nua, còm cõi, hàng rong, cau khô, hoen sương sớm. Không nói rõ nhưng người đọc vẫn biết sự lam lũ của mẹ. Đặc biệt, câu thơ Vài thiếp giấy đầm hoen sương sớm thể hiện sự đồng cảm sâu sắc của người con đối với nỗi cực nhọc của mẹ. Bao nhiêu sương sớm làm hoen những thiếp giấy là bấy nhiêu sương gió thấm đẫm vào người mẹ, Những từ chỉ số lượng: đám, mấy, vài càng cho thấy gánh hàng ít ỏi và sự vất vả kiếm sống của bà mẹ quê.
2. 6 câu tiếp:
– Cái vốn liếng ít ỏi ấy dù đủ để đau lòng người rồi, nhưng dẫu sao đó cũng là những ngày thanh bình. Đỉnh điểm của hoàn cảnh là khi lũ giặc tàn bạo xuất hiện:
Chợt lũ quỷ mắt xanh trừng trợn
Khua giày đinh đạp gãy quán gầy teo
Xì xồ cướp bóc
Tan phiên chợ nghèo
Từ chợt diễn tả là sự đột ngột, bất ngờ. Quân giặc đến thật bất ngờ, nhanh chóng gây nỗi hốt hoảng cho người dân nghèo. Câu thơ đồng thời diễn tả sự thảng thốt của chính tác giả.
– Kẻ thù không được tả nhiều, chỉ với 3 chi tiết, nhưng đã lột tả được bản chất tàn ác của chúng: mắt xanh trừng trợn, giày đinh đạp gãy quán, xì xồ cướp bóc. Nhà thơ gọi giặc Pháp theo cách dân gian, của người dân quê: lũ quỷ. Chúng không phải là con người nữa. Giặc đến đồng nghĩa với sự chết chóc, ảm đạm:Xem thêm: Hãy viết một đoạn văn ngắn kể về quê hương hoặc nơi em đang ởLá đa lác đác trước lều
Vài ba vết máu loang chiều mùa đông
;
Câu thơ chuyển sang thể lục bát như để diễn tả nỗi đau xót xa đến nghẹn ngào, không cùng của tác giả. Đôi mắt nhà thơ như nương theo ánh nắng chiều trong nỗi nhớ về quê hương xa xăm. Cảnh ở đây vẫn là bức tranh làng quê quen thuộc với cây đa, quán nước, những vắng lặng, buồn thảm. Trước mắt là cảnh tượng tan hoang khi giặc đến. Sự vắng lặng đến kinh hoàng bởi người ta cảm nhận được từng chiếc lá đa đang bay lác đác dưới ánh nắng chiều. Trên cái nền ấy là những vết máu loang trông ghê sợ. Còn đâu con sông Đuông lấp lánh trôi đi còn đâu bờ cát trắng phẳng lì, cùng những hội hè đình đám tưng bừng rộn rã?
– Nếu như ở các câu thơ trên, nhà thơ đã sử dụng nhiều hình dung từ và những từ chỉ số lượng để diễn tả nỗi nghèo khó của bà mẹ quê, thì ở đây cũng với những loại từ ấy nhưng hàm ý khác hẳn, nhất là khi chúng được đặt trong thế đối lập. Chẳng hạn: Khua giày đinh đạp gãy quán gầy teo là sự đối lập một đằng là sức mạnh cường bạo với sự yếu đuối, không có gì chống đỡ. Hoặc Xì xồ cướp hóc diễn tả hành động ngang ngược, trái với lẽ thường. Thông thường, vài ba không phải là nhiều nhưng vài ha vết máu hiện lên trên cảnh hoang tàn của phiên chợ nghèo đang vắng lặng thì có sức ám ảnh tâm trí con người rất lớn.
3. 7 câu cuối:
– Trên cái nền của cảnh chợ chiều tưởng như hoang vắng, không còn ai là hình ảnh người mẹ yếu ớt và cô đơn:
Chưa bán được một đồng
Mẹ già lại quẩy gánh hàng rong
Bước cao thấp bên bờ tre hun hút
Có con cò trắng bay vùn vụt
Lướt ngang dòng sông Đuống về đâu
Mẹ ta lòng đói dạ sầu
Đường trơn mưa lạnh mái đầu bạc phơ
Đây là những câu thơ giàu chất tạo hình của cả đoạn, gây ấn tượng cho người đọc.
– Đầu tiên là hình ảnh bà mẹ già nua quẩy gánh trở về khi chưa bán được một đồng. Xung quanh mẹ không có ai mà con đường như mỗi lúc một dài thêm: Bước cao thấp bên bờ tre hun hút.
– Bỗng nhiên xuất hiện hình ảnh con cò:Xem thêm: Bạn Nguyễn Hoàng Nam viết một đoạn văn ngắn nói về ngôi trường của mìnhCó con cò trắng bay vùn vụt
Lướt ngang dòng sông Đuống về đâu
Nhưng đây lại là hình ảnh con cò lạ lùng nhất xưa nay. Đó không là con cò trắng quen thuộc biểu tượng về người phụ nữ Việt Nam tảo tần, khuya sớm:
– Con cò đi đón cơn mưa,
Tối tăm mù mịt ai đưa cò về?
– Con cò lặn lội bờ sông
Gánh gạo nuôi chồng tiếng khóc nỉ non
Đó càng không phải con cò thanh thoát, nhẹ nhàng, thong thả trong cảnh yên bình:
Con cò bay lả bay la
Bay từ cửa phủ, bay ra cánh đồng
Lần đầu tiên con cò đi vào văn chương với dáng vẻ hoảng hốt, sợ hãi:
Có con cò trắng bay vùn vụt
Lướt ngang dòng sông Đuống về đâu
Đến con cò bé nhỏ kia cũng là nạn nhân của quân giặc. Những bãi mía nương dâu có ngô khoai biêng biếc giờ không còn là đất sông của nó nữa.
– Hình ảnh con cò bay vùn vụt càng khắc sâu nỗi cô đơn, lẻ loi của người mẹ quê:
Mẹ ta lòng đói rách dạ sầu
Đường trơn mưa lạnh mái đầu bạc phơ
Nỗi khổ vật chât (lòng đói) đi liền với là nỗi khổ tinh thần (dạ sầu). Nhịp thơ lục bát 2/2 gợi gánh nặng chất chồng lên vai mẹ. Buổi chiều ảm đạm đọng mãi hình ảnh mái đầu bạc phơ của người mẹ già. Câu thơ chỉ tả mà cảm xúc lại nghẹn ngào, đau đớn.
III. Kết bài
18 câu thơ với hình ảnh trung tâm là người mẹ, được đặt trong bối cảnh bên kia sông Đuống, lại trải dài trong một ngày không yên tĩnh. Đó là thời gian của chiến tranh. Vì thế, một ngày nhưng cũng là một đời, đời người trong chiến tranh. Lẽ thường, khi chiến tranh xảy ra, em thơ và người mẹ là những người đáng thương nhất. Hình ảnh người mẹ vừa thể hiện một mặt đáng nói nhất của chiến tranh, vừa chất chứa biết bao tình cảm của người viết.
Hình ảnh bà mẹ trong đoạn thơ trên có thể là người mẹ ruột của tác giả, nhưng cũng là hình ảnh của biết bao bà mẹ trong chiến tranh. Khái quát hơn, đấy còn là hình ảnh đất nước Việt Nam trong thời kỳ cháy bỏng đau thương và căm hờn. Bởi vậy, đến những dòng thơ ấy gây xúc động sâu sắc cho người đọc.
Vanmau.edu.vn
|
Phân tích đoạn thơ sau trong bài Bên kia sông Đuống: Bên kia sông Đuống… Đường trơn mưa lạnh mái đầu bạc phơ
Gợi ý
Đề bài:
Phân tích đoạn thơ sau trong bài Bên kia sông Đuống:
Bên kia sông Đuống
Mẹ già nua còm cõi gánh hàng rong
Dăm miếng cau khô
Mấy lọ phẩm hồng
Vài thếp giấy đầm hoen sương sớm
Chợt lũ quỷ mắt xanh trừng trợn
Khua giày đinh đạp gãy quán gầy teo
Xì xồ cướp bóc
Tan phiên chợ nghèo
Lá đa lác đác trước lều
Vài ba vết máu loang chiều mùa đông
Chưa bán được một đồng
Mẹ già lại quẩy gánh hàng rong
Bước cao thấp bên bờ tre hun hút
Có con cò trắng bay vùn vụt
Lướt ngang dòng sông Đuống về đâu
Mẹ ta lòng đói dạ sầu
Đường trơn mưa lạnh mái đầu bạc phơ
(Văn học 12, tập một, Nxb. Giáo dục, 2000, tr.81)
Phân tích đề
Đề yêu cầu phân tích một đoạn trong bài thơ Bên kia sông Đuống. Để có thể làm bài tốt, người viết cần nắm vững kỹ năng phân tích tác phẩm trữ tình (thơ); hiểu rõ hoàn cảnh sáng tác và nội dung của cả tác phẩm.
Khi phân tích cần lưu ý: đoạn thơ có một hình tượng trung tâm là người mẹ già. Người mẹ ấy trong nỗi nhớ của tác giả khi chưa có chiến tranh và trong hình dung của nhà thơ khi chiến tranh xảy ra. Các hình ảnh, chi tiết khác đều góp phần để nổi rõ hình tượng người mẹ.
Âm hưởng chung của cả đoạn thơ là nỗi xót xa, đau đớn của nhà thơ khi nghĩ về người mẹ. Do đó, tiết tấu của thơ cũng là nhịp điệu tình cảm ấy. Bởi vậy, khi phân tích, bên cạnh những từ, ngữ, ý, cần chú trọng đến nhịp điệu của cả đoạn thơ.
Dàn bài chi tiết
I. Mở bài
Trong dòng cảm xúc của Hoàng Cầm về Bên kia sông Đuống, người mẹ là vùng nhớ thương, đau đáu nhất:
Bên kia sông Đuống
Đường trơn mưa lạnh mái đầu bạc phơ
Theo lời kể của chính tác giả, thì sau khi nghe kể về tình hình quê hương ở vùng bị địch chiếm đóng, đêm ấy, ông trằn trọc, vật vã mãi: Trong người tôi lúc bấy giờ thật y hệt một cuốn phim của một người đạo diễn rối loạn tâm thần, các hình bóng quấn lộn vào nhau, các âm thanh màu sắc chen chèn lấn rối bốn bề, và trên bức vách, các hình thù ngả nghiêng theo ánh đèn dầu sở lắt lay. Một lúc lâu thi những hình ảnh rõ nét hiện lên bức vách, cứ như quay tròn nhường chỗ cho nhau. Quanh khuôn mặt dầu dãi của mẹ tôi, các bộ mặt khác như đậu chênh vểnh vào đấy… (Hoàng Cầm, thơ văn và cuộc đời, Nxb. Vãn hóa Thông tin, 1997, tr.218).Xem thêm: Nói lời đáp của em trong 3 trường hợp sau Sau này, nhìn lại đời thơ và đời mình, nhà thơ Hoàng Cầm còn viết: Nói đến quê hương, phải bắt đầu bằng người Mẹ. Mẹ là incarnation (Incarnation (tiếng Pháp): Sự hóa thân, sự hiện thân, tượng trưng (BQH)), là hiện thân trọn vẹn nhất, sinh động nhất của quê hương (Sđd, tr.186). Vì thế, mỗi dòng, mỗi chữ thơ của Hoàng Cầm khi viết về người mẹ như chạm khắc vào thời gian để đến nay vẫn còn biết bao xúc động đối với người đọc.
II. Phân tích
1. 5 câu đầu:
– Từ nơi xa xôi, người con hướng về quê hương bên kia sông Đuống, nơi có người mẹ nghèo khổ:
Bên kia sông Đuống
Mẹ già nua còm cõi gánh hàng rong
Dăm miếng cau khô
Mấy lọ phẩm hồng
Vài thếp giấy đầm hoen sương sớm
Đó là hình ảnh,về người mẹ tảo tần, vất vả, đúng là người mẹ quê Việt Nam ngày xưa. Chỉ có 4 câu thơ nhưng hình ảnh mẹ lại rất gợi nhờ hàng loạt hình dung từ: già nua, còm cõi, hàng rong, cau khô, hoen sương sớm. Không nói rõ nhưng người đọc vẫn biết sự lam lũ của mẹ. Đặc biệt, câu thơ Vài thiếp giấy đầm hoen sương sớm thể hiện sự đồng cảm sâu sắc của người con đối với nỗi cực nhọc của mẹ. Bao nhiêu sương sớm làm hoen những thiếp giấy là bấy nhiêu sương gió thấm đẫm vào người mẹ, Những từ chỉ số lượng: đám, mấy, vài càng cho thấy gánh hàng ít ỏi và sự vất vả kiếm sống của bà mẹ quê.
2. 6 câu tiếp:
– Cái vốn liếng ít ỏi ấy dù đủ để đau lòng người rồi, nhưng dẫu sao đó cũng là những ngày thanh bình. Đỉnh điểm của hoàn cảnh là khi lũ giặc tàn bạo xuất hiện:
Chợt lũ quỷ mắt xanh trừng trợn
Khua giày đinh đạp gãy quán gầy teo
Xì xồ cướp bóc
Tan phiên chợ nghèo
Từ chợt diễn tả là sự đột ngột, bất ngờ. Quân giặc đến thật bất ngờ, nhanh chóng gây nỗi hốt hoảng cho người dân nghèo. Câu thơ đồng thời diễn tả sự thảng thốt của chính tác giả.
– Kẻ thù không được tả nhiều, chỉ với 3 chi tiết, nhưng đã lột tả được bản chất tàn ác của chúng: mắt xanh trừng trợn, giày đinh đạp gãy quán, xì xồ cướp bóc. Nhà thơ gọi giặc Pháp theo cách dân gian, của người dân quê: lũ quỷ. Chúng không phải là con người nữa. Giặc đến đồng nghĩa với sự chết chóc, ảm đạm:Xem thêm: Hãy viết một đoạn văn ngắn kể về quê hương hoặc nơi em đang ởLá đa lác đác trước lều
Vài ba vết máu loang chiều mùa đông
;
Câu thơ chuyển sang thể lục bát như để diễn tả nỗi đau xót xa đến nghẹn ngào, không cùng của tác giả. Đôi mắt nhà thơ như nương theo ánh nắng chiều trong nỗi nhớ về quê hương xa xăm. Cảnh ở đây vẫn là bức tranh làng quê quen thuộc với cây đa, quán nước, những vắng lặng, buồn thảm. Trước mắt là cảnh tượng tan hoang khi giặc đến. Sự vắng lặng đến kinh hoàng bởi người ta cảm nhận được từng chiếc lá đa đang bay lác đác dưới ánh nắng chiều. Trên cái nền ấy là những vết máu loang trông ghê sợ. Còn đâu con sông Đuông lấp lánh trôi đi còn đâu bờ cát trắng phẳng lì, cùng những hội hè đình đám tưng bừng rộn rã?
– Nếu như ở các câu thơ trên, nhà thơ đã sử dụng nhiều hình dung từ và những từ chỉ số lượng để diễn tả nỗi nghèo khó của bà mẹ quê, thì ở đây cũng với những loại từ ấy nhưng hàm ý khác hẳn, nhất là khi chúng được đặt trong thế đối lập. Chẳng hạn: Khua giày đinh đạp gãy quán gầy teo là sự đối lập một đằng là sức mạnh cường bạo với sự yếu đuối, không có gì chống đỡ. Hoặc Xì xồ cướp hóc diễn tả hành động ngang ngược, trái với lẽ thường. Thông thường, vài ba không phải là nhiều nhưng vài ha vết máu hiện lên trên cảnh hoang tàn của phiên chợ nghèo đang vắng lặng thì có sức ám ảnh tâm trí con người rất lớn.
3. 7 câu cuối:
– Trên cái nền của cảnh chợ chiều tưởng như hoang vắng, không còn ai là hình ảnh người mẹ yếu ớt và cô đơn:
Chưa bán được một đồng
Mẹ già lại quẩy gánh hàng rong
Bước cao thấp bên bờ tre hun hút
Có con cò trắng bay vùn vụt
Lướt ngang dòng sông Đuống về đâu
Mẹ ta lòng đói dạ sầu
Đường trơn mưa lạnh mái đầu bạc phơ
Đây là những câu thơ giàu chất tạo hình của cả đoạn, gây ấn tượng cho người đọc.
– Đầu tiên là hình ảnh bà mẹ già nua quẩy gánh trở về khi chưa bán được một đồng. Xung quanh mẹ không có ai mà con đường như mỗi lúc một dài thêm: Bước cao thấp bên bờ tre hun hút.
– Bỗng nhiên xuất hiện hình ảnh con cò:Xem thêm: Bạn Nguyễn Hoàng Nam viết một đoạn văn ngắn nói về ngôi trường của mìnhCó con cò trắng bay vùn vụt
Lướt ngang dòng sông Đuống về đâu
Nhưng đây lại là hình ảnh con cò lạ lùng nhất xưa nay. Đó không là con cò trắng quen thuộc biểu tượng về người phụ nữ Việt Nam tảo tần, khuya sớm:
– Con cò đi đón cơn mưa,
Tối tăm mù mịt ai đưa cò về?
– Con cò lặn lội bờ sông
Gánh gạo nuôi chồng tiếng khóc nỉ non
Đó càng không phải con cò thanh thoát, nhẹ nhàng, thong thả trong cảnh yên bình:
Con cò bay lả bay la
Bay từ cửa phủ, bay ra cánh đồng
Lần đầu tiên con cò đi vào văn chương với dáng vẻ hoảng hốt, sợ hãi:
Có con cò trắng bay vùn vụt
Lướt ngang dòng sông Đuống về đâu
Đến con cò bé nhỏ kia cũng là nạn nhân của quân giặc. Những bãi mía nương dâu có ngô khoai biêng biếc giờ không còn là đất sông của nó nữa.
– Hình ảnh con cò bay vùn vụt càng khắc sâu nỗi cô đơn, lẻ loi của người mẹ quê:
Mẹ ta lòng đói rách dạ sầu
Đường trơn mưa lạnh mái đầu bạc phơ
Nỗi khổ vật chât (lòng đói) đi liền với là nỗi khổ tinh thần (dạ sầu). Nhịp thơ lục bát 2/2 gợi gánh nặng chất chồng lên vai mẹ. Buổi chiều ảm đạm đọng mãi hình ảnh mái đầu bạc phơ của người mẹ già. Câu thơ chỉ tả mà cảm xúc lại nghẹn ngào, đau đớn.
III. Kết bài
18 câu thơ với hình ảnh trung tâm là người mẹ, được đặt trong bối cảnh bên kia sông Đuống, lại trải dài trong một ngày không yên tĩnh. Đó là thời gian của chiến tranh. Vì thế, một ngày nhưng cũng là một đời, đời người trong chiến tranh. Lẽ thường, khi chiến tranh xảy ra, em thơ và người mẹ là những người đáng thương nhất. Hình ảnh người mẹ vừa thể hiện một mặt đáng nói nhất của chiến tranh, vừa chất chứa biết bao tình cảm của người viết.
Hình ảnh bà mẹ trong đoạn thơ trên có thể là người mẹ ruột của tác giả, nhưng cũng là hình ảnh của biết bao bà mẹ trong chiến tranh. Khái quát hơn, đấy còn là hình ảnh đất nước Việt Nam trong thời kỳ cháy bỏng đau thương và căm hờn. Bởi vậy, đến những dòng thơ ấy gây xúc động sâu sắc cho người đọc.
Vanmau.edu.vn
|
Phân tích đoạn thơ sau trong đoạn trích Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm
“Em ơi em
Hãy nhìn thật xa
Vào bốn nghìn năm đất nước
Năm tháng nào cũng người người, lớp lớp
Con gái, con trai bằng tuổi chúng ta
Cần cù làm lụng
Khi có giặc người con trai ra trận
Người con gái trở về nuôi cái cùng con
Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh
Nhiều người đã trở thành anh hùng
Nhiều anh hùng cả anh và em đều nhớ
Nhưng em biết không
Có biết bao người con gái, con trai
Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất nước”
Nguyễn Khoa Điềm là nhà thơ trưởng thành trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Những sáng tác của ông mang đậm cảm xúc nồng nàn và suy tư sâu lắng với nỗi trăn trở và những tâm tư của người cộng sản trẻ tuổi muốn đóng góp vào cuộc chiến đấu của nhân dân. Đoạn trích “Đất Nước” (trích trong trường ca Mặt đường khát vọng) chính là một trong những tác phẩm tiêu biểu cho phong cách sáng tác ấy. Điều nổi bật của đoạn trích này chính là tư tưởng “Đất Nước của nhân dân” được thể hiện qua đoạn thơ sau:
“Em ơi em
….
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước”
Mở đầu bài thơ là tiếng gọi tha thiết “Em ơi em!”. Tiếng gọi như tiếng hát thân tình, như lời trò chuyện mộc mạc chân chất dành cho “em”. “Em” có thể là người con gái nào đó trong tưởng tượng của tác giả, cũng có thể là thế hệ tiếp theo, kế tục sự nghiệp cách mạng của nhân dân. Mong em:
“Hãy nhìn rất xa vào bốn ngàn năm đất nước”.
Trong bốn ngàn năm lịch sử này, Việt Nam đã có gì? Đó chính là sức mạnh, là ý chí, là nỗ lực giữ gìn và bảo vệ độc lập quê hương. Việt Nam là đất nước trưởng thành trong chiến tranh và lớn lên từ những cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại. Đó là trận Bạch Đằng oanh liệt, là trận chiến lẫy lừng trên dòng sông Như Nguyệt, là trận Rạch Rầm Xoài Mút dậy sóng phương Nam… tất cả đều đã in tạt và ghi dấu những con người bất tử. Những danh tướng như Trần Quốc Tuấn, Lý Thường Kiệt, Quang Trung vẫn còn được vinh danh trong sử sách để giờ đây, thế hệ trẻ có thể tự hào:Xem thêm: Tả con sông quê em
“Năm tháng nào cũng người người lớp lớp
Con gái con trai bằng tuổi chúng ta
Cần cù làm lụng
Khi có giặc người con trai ra trận
Người con gái ở nhà nuôi cái cùng còn”
Từ láy hoàn toàn “người người lớp lớp” như gợi lại lịch sử dựng nước ngàn đời của dân tộc, hết lớp người này đến lớp người khác, đều là những người trẻ tuổi, đều là những người mang trong mình bầu máu nóng sục sôi. Trong thời bình họ “cần cù làm lụng”, “xay, giã, giần, sàng”, để “giữ và truyền hạt lúa ta trồng”. Trong thời chiến, họ xếp lại bút nghiên, từ bỏ gia đình lên đường theo tiếng gọi quê hương, để những người vợ ngày ngày trông đợi, ẵm con đợi chồng thành những hòn Vọng Phụ trông về phía biển. Từ láy “người người lớp lớp” còn gợi lại phép đối rất chỉnh, rất tự hào trong phần đầu của Bình Ngô đại cáo:
“Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương
Tuy mạnh yếu từ lúc khác nhau
Song hào kiệt đời nào cũng có”
Rõ ràng là vây! Trong thời kỳ đất nước trân mình oằn vai gánh hai cuộc chiến tranh ác liệt, đã có biết bao con người ngã xuống. Đó là chàng thanh niên Lý Tự Trọng với câu nói bất hủ: Con đường của thanh niên chỉ là con đường cách mạng, là cậu bé Kim Đồng dũng cảm vượt suối, băng rừng làm giao liên trên tiền tuyến, là La Văn Cầu, Phan Đình Giót, Bế Văn Đàn với những tấm gương hy sinh quên mình vĩ đại và còn có những người phụ nữ kiên trung, không chỉ về nhà “nuôi cái cùng con” để chồng an tâm đánh giặc, họ dấn thân vào trận địa, dấn thân vào chiến trường để “giết bọn ác ôn” tìm lẽ công bằng cho người nghèo khổ. Chị Võ Thị Sáu mới mười sáu tuổi đã dũng cảm hy sinh, chị Út Tịch ở Trà Vinh với câu nói bất hủ: “Còn cái lai quần cũng đánh” mà Nguyễn Thi đã xây dựng nên tượng đài bất tử mang tên “Người mẹ cầm súng”… Tất cả họ đã làm nên lịch sử, tất cả họ đã viết nên những trang sử vàng của dân tộc bằng chính máu xương mình.Xem thêm: Cảm nhận của anh (chị) về bài thơ “Hầu trời”
Thế nhưng, trong “bốn ngàn lớp người giống ta lứa tuổi” ấy, vẫn có những anh hùng vô danh để sau này khi tạc vào bia mộ, người ở lại ngậm ngùi khắc ghi dòng chữ “Tổ quốc khắc tên anh” đầy xót xa, cảm động. Những con người ấy lặng thầm hy sinh vì Tổ quốc, có những người được gọi tên chung như Đoàn quân Tây Tiến, Tiểu đoàn 307, chí ít cũng được xướng danh để ngợi ca và tri ân, tưởng nhớ, nhưng cũng có những người ngã xuống lặng lẽ và âm thầm như những vần thơ:
“Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm”
Cấu trúc sóng đôi giữa “sống” và “chết”, giữa “giản dị” và “bình tâm” gợi nên sự thanh thản, nhẹ nhàng của người nằm xuống, thế nhưng, người ra đi càng “bình tâm” thì người ở lại càng cảm thấy xót xa và thương cảm. Những chiến sĩ ấy đã ngã xuống âm thầm và lặng lẽ, thậm chí có những người đã ngã xuống với độc mỗi chiếc áo nâu sòng của đồng đội khoác vội trước khi gửi anh về với đất. Và chắc chắn một điều rằng, họ hy sinh không phải để người sau tưởng nhớ, hy sinh không phải vì muốn được ngợi ca. Họ hy sinh với vì tiếng gọi của non sông Tổ quốc:
“Ôi Tổ quốc ta yêu như máu thịt
Như mẹ, như cha, như vợ, như chồng
Ôi Tổ quốc nếu cần ta sẽ chết
Cho mỗi ngôi nhà, ngọn núi, con sông”
Và họ ra đi cũng giản đơn như chính lý do mà họ chọn lựa đó chính là “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” dẫu rằng:Xem thêm: Qua hai nhân vật Mị và A Phủ (“Vợ chồng A Phủ" - Tô Hoài), hãy phát biểu ý kiến của anh (chị) về giá trị hiện thực về nhân đạo của tác phẩm
“Không ai nhớ mặt đặt tên.
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước”.
Câu thơ tuy dung dị nhưng lại chất chứa niềm tự hào và biết ơn sâu sắc trước những mất mất và hy sinh lớn lao ấy. Không lên gân, không cờ hoa, biểu ngữ, nhưng chính ý thơ “làm ra Đất Nước” đã bất tử hóa những con người lặng thầm hiến dâng tuổi trẻ, máu xương và sinh mạng của mình để non sông được vẹn tròn, tươi đẹp.
Đoạn thơ gồm 17 câu thơ hòa quyện giữa thanh, vần, nhịp điệu và giọng kể tâm tình để thể hiện một tư tưởng duy nhất đó là tư tưởng “Đất Nước của nhân dân”. Với tư tưởng ấy, Nguyễn Khoa Điềm muốn đánh thức lòng yêu nước thẳm sâu trong mỗi con người miền Nam trẻ tuổi thuở ấy, mong muốn thế hệ trẻ miền Nam hãy phát huy tinh thần dân tộc, cất cao ngọn cờ của lý tưởng, ngọn cờ của độc lập, tự do.
[Văn 12] Phân tích đoạn thơ sau trong đoạn trích Đất Nước của Nguyễn Khoa ĐiềmĐánh giá bài viết
bình luận
|
Phân tích đoạn thơ sau trong đoạn trích Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm
“Em ơi em
Hãy nhìn thật xa
Vào bốn nghìn năm đất nước
Năm tháng nào cũng người người, lớp lớp
Con gái, con trai bằng tuổi chúng ta
Cần cù làm lụng
Khi có giặc người con trai ra trận
Người con gái trở về nuôi cái cùng con
Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh
Nhiều người đã trở thành anh hùng
Nhiều anh hùng cả anh và em đều nhớ
Nhưng em biết không
Có biết bao người con gái, con trai
Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất nước”
Nguyễn Khoa Điềm là nhà thơ trưởng thành trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Những sáng tác của ông mang đậm cảm xúc nồng nàn và suy tư sâu lắng với nỗi trăn trở và những tâm tư của người cộng sản trẻ tuổi muốn đóng góp vào cuộc chiến đấu của nhân dân. Đoạn trích “Đất Nước” (trích trong trường ca Mặt đường khát vọng) chính là một trong những tác phẩm tiêu biểu cho phong cách sáng tác ấy. Điều nổi bật của đoạn trích này chính là tư tưởng “Đất Nước của nhân dân” được thể hiện qua đoạn thơ sau:
“Em ơi em
….
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước”
Mở đầu bài thơ là tiếng gọi tha thiết “Em ơi em!”. Tiếng gọi như tiếng hát thân tình, như lời trò chuyện mộc mạc chân chất dành cho “em”. “Em” có thể là người con gái nào đó trong tưởng tượng của tác giả, cũng có thể là thế hệ tiếp theo, kế tục sự nghiệp cách mạng của nhân dân. Mong em:
“Hãy nhìn rất xa vào bốn ngàn năm đất nước”.
Trong bốn ngàn năm lịch sử này, Việt Nam đã có gì? Đó chính là sức mạnh, là ý chí, là nỗ lực giữ gìn và bảo vệ độc lập quê hương. Việt Nam là đất nước trưởng thành trong chiến tranh và lớn lên từ những cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại. Đó là trận Bạch Đằng oanh liệt, là trận chiến lẫy lừng trên dòng sông Như Nguyệt, là trận Rạch Rầm Xoài Mút dậy sóng phương Nam… tất cả đều đã in tạt và ghi dấu những con người bất tử. Những danh tướng như Trần Quốc Tuấn, Lý Thường Kiệt, Quang Trung vẫn còn được vinh danh trong sử sách để giờ đây, thế hệ trẻ có thể tự hào:Xem thêm: Tả con sông quê em
“Năm tháng nào cũng người người lớp lớp
Con gái con trai bằng tuổi chúng ta
Cần cù làm lụng
Khi có giặc người con trai ra trận
Người con gái ở nhà nuôi cái cùng còn”
Từ láy hoàn toàn “người người lớp lớp” như gợi lại lịch sử dựng nước ngàn đời của dân tộc, hết lớp người này đến lớp người khác, đều là những người trẻ tuổi, đều là những người mang trong mình bầu máu nóng sục sôi. Trong thời bình họ “cần cù làm lụng”, “xay, giã, giần, sàng”, để “giữ và truyền hạt lúa ta trồng”. Trong thời chiến, họ xếp lại bút nghiên, từ bỏ gia đình lên đường theo tiếng gọi quê hương, để những người vợ ngày ngày trông đợi, ẵm con đợi chồng thành những hòn Vọng Phụ trông về phía biển. Từ láy “người người lớp lớp” còn gợi lại phép đối rất chỉnh, rất tự hào trong phần đầu của Bình Ngô đại cáo:
“Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương
Tuy mạnh yếu từ lúc khác nhau
Song hào kiệt đời nào cũng có”
Rõ ràng là vây! Trong thời kỳ đất nước trân mình oằn vai gánh hai cuộc chiến tranh ác liệt, đã có biết bao con người ngã xuống. Đó là chàng thanh niên Lý Tự Trọng với câu nói bất hủ: Con đường của thanh niên chỉ là con đường cách mạng, là cậu bé Kim Đồng dũng cảm vượt suối, băng rừng làm giao liên trên tiền tuyến, là La Văn Cầu, Phan Đình Giót, Bế Văn Đàn với những tấm gương hy sinh quên mình vĩ đại và còn có những người phụ nữ kiên trung, không chỉ về nhà “nuôi cái cùng con” để chồng an tâm đánh giặc, họ dấn thân vào trận địa, dấn thân vào chiến trường để “giết bọn ác ôn” tìm lẽ công bằng cho người nghèo khổ. Chị Võ Thị Sáu mới mười sáu tuổi đã dũng cảm hy sinh, chị Út Tịch ở Trà Vinh với câu nói bất hủ: “Còn cái lai quần cũng đánh” mà Nguyễn Thi đã xây dựng nên tượng đài bất tử mang tên “Người mẹ cầm súng”… Tất cả họ đã làm nên lịch sử, tất cả họ đã viết nên những trang sử vàng của dân tộc bằng chính máu xương mình.Xem thêm: Cảm nhận của anh (chị) về bài thơ “Hầu trời”
Thế nhưng, trong “bốn ngàn lớp người giống ta lứa tuổi” ấy, vẫn có những anh hùng vô danh để sau này khi tạc vào bia mộ, người ở lại ngậm ngùi khắc ghi dòng chữ “Tổ quốc khắc tên anh” đầy xót xa, cảm động. Những con người ấy lặng thầm hy sinh vì Tổ quốc, có những người được gọi tên chung như Đoàn quân Tây Tiến, Tiểu đoàn 307, chí ít cũng được xướng danh để ngợi ca và tri ân, tưởng nhớ, nhưng cũng có những người ngã xuống lặng lẽ và âm thầm như những vần thơ:
“Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm”
Cấu trúc sóng đôi giữa “sống” và “chết”, giữa “giản dị” và “bình tâm” gợi nên sự thanh thản, nhẹ nhàng của người nằm xuống, thế nhưng, người ra đi càng “bình tâm” thì người ở lại càng cảm thấy xót xa và thương cảm. Những chiến sĩ ấy đã ngã xuống âm thầm và lặng lẽ, thậm chí có những người đã ngã xuống với độc mỗi chiếc áo nâu sòng của đồng đội khoác vội trước khi gửi anh về với đất. Và chắc chắn một điều rằng, họ hy sinh không phải để người sau tưởng nhớ, hy sinh không phải vì muốn được ngợi ca. Họ hy sinh với vì tiếng gọi của non sông Tổ quốc:
“Ôi Tổ quốc ta yêu như máu thịt
Như mẹ, như cha, như vợ, như chồng
Ôi Tổ quốc nếu cần ta sẽ chết
Cho mỗi ngôi nhà, ngọn núi, con sông”
Và họ ra đi cũng giản đơn như chính lý do mà họ chọn lựa đó chính là “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” dẫu rằng:Xem thêm: Qua hai nhân vật Mị và A Phủ (“Vợ chồng A Phủ" - Tô Hoài), hãy phát biểu ý kiến của anh (chị) về giá trị hiện thực về nhân đạo của tác phẩm
“Không ai nhớ mặt đặt tên.
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước”.
Câu thơ tuy dung dị nhưng lại chất chứa niềm tự hào và biết ơn sâu sắc trước những mất mất và hy sinh lớn lao ấy. Không lên gân, không cờ hoa, biểu ngữ, nhưng chính ý thơ “làm ra Đất Nước” đã bất tử hóa những con người lặng thầm hiến dâng tuổi trẻ, máu xương và sinh mạng của mình để non sông được vẹn tròn, tươi đẹp.
Đoạn thơ gồm 17 câu thơ hòa quyện giữa thanh, vần, nhịp điệu và giọng kể tâm tình để thể hiện một tư tưởng duy nhất đó là tư tưởng “Đất Nước của nhân dân”. Với tư tưởng ấy, Nguyễn Khoa Điềm muốn đánh thức lòng yêu nước thẳm sâu trong mỗi con người miền Nam trẻ tuổi thuở ấy, mong muốn thế hệ trẻ miền Nam hãy phát huy tinh thần dân tộc, cất cao ngọn cờ của lý tưởng, ngọn cờ của độc lập, tự do.
[Văn 12] Phân tích đoạn thơ sau trong đoạn trích Đất Nước của Nguyễn Khoa ĐiềmĐánh giá bài viết
bình luận
|
Đề bài: Phân tích đoạn thơ thứ hai trong bài Tây Tiến
Cả đoạn thơ là bức tranh thiên nhiên diễm lệ có sức hòa hợp diệu kỳ giữa thiên nhiên và con người. Cảnh trí miền Tây ở khổ thơ dường như được tạo hình theo thi pháp truyền thống: “Thi trung hữu hoạ, thi trung hữu nhạc”. Một miền Tây thơ mộng thi vị giàu sức cuốn hút. Đoạn thơ thứ 2 này được xem là đoạn thơ tiêu biểu cho bút pháp nghệ thuật của Quang Dũng. Câu mở đầu đoạn tạo cảm giác đột ngột bừng sáng:
"Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa"
“Bừng lên” vừa đột ngột, bất ngờ vừa thú vị. Cả cảnh vật và lòng người đều bừng sáng lên. Chất hào hoa trong bút pháp thể hiện của Quang Dũng đã bộc lộ ngay từ câu thơ đầu. Hai cụm từ “bừng lên” “hội đuốc hoa” thể hiện sự tinh tế trong việc sử dụng từ ngữ của Quang Dũng. Hai cụm từ này vừa có tính tả thực vừa đậm chất lãng mạn. “Bừng lên” vừa có nghĩa bừng sáng lung linh vừa như bừng tỉnh.
“Hội đuốc hoa” đây là cảnh thực. Đêm liên hoan văn nghệ diễn ra d¬ưới những cánh rừng, người đến dự đều cầm trên tay ngọn đuốc, gió thổi làm những ngọn đuốc lung linh phát ra những tia lửa. Cảnh tượng này trong đêm quả thật nhìn như hoa đuốc. Cảm nhận của Quang Dũng vừa tinh tế vừa lãng mạn, câu thơ gợi sức liên tưởng, tưởng tượng cho người đọc. Trên cái nền không gian ấy “em” xuất hiện.”Em” xuất hiện lập tức trở thành trung điểm của mọi điểm nhìn.
"Kìa em xiêm áo tự bao giờ"
“Kìa em” lời chào đón đầy ngạc nhiên sung sướng đến ngỡ ngàng. Lời chào đón mang tính phát hiện. Em lạ mà quen, quen mà lạ. Quang Dũng phát hiện ra vẻ đẹp rực rỡ của cô gái bằng cả niềm yêu, niềm say đến cảm phục. Yêu say từ vóc dáng đến trang phục. Chính trang phục truyền thống đậm đà bản sắc văn hóa của các thiếu nữ Tây Bắc càng tôn vinh lên vẻ đẹp của họ Quang Dũng không khỏi không thán phục đến ngạc nhiên trước vẻ đẹp ấy. Em trở thành hạt nhân của bức tranh với vẻ đẹp xứ lạ phương xa. Câu thơ thứ ba xuất hiện lập tức khổ thơ như tràn đầy âm nhạc.
"Khèn lên man điệu nàng e ấp"
Những âm thanh phát ra từ nhạc cụ của đồng bào Tây Bắc đối với người lính Tây Tiến vừa lạ vừa có vẻ hoang dại mang tính sơ khai mà đậm bản sắc văn hóa dân tộc. Chính cái lạ ấy làm đắm say tâm hồn những chàng trai Tây Tiến gốc Hà Nội hào hoa. Từ “man điệu” mà Quang Dũng sử dụng ở đây cũng rất tài hoa. Người đọc như được chứng kiến những vũ khúc hoang sơ của văn hóa Âu Lạc. Vũ khúc ấy hòa với vũ điệu Em duyên dáng, e ấp, tình tứ. Ta chú ý tác giả sử dụng từ ban đầu là “em” tiếp đến là “nàng” rồi sau lại là “em”. Từ cách sử dụng ấy ta cảm nhận được em như một nàng tiên kiều diễm và ta như lạc vào cõi thần tiên với không khí mê say đến ngây ngất. Chính trong không khí của âm nhạc, vũ điệu ấy đã chắp cánh cho tâm hồn những người lính Tây Tiến thực sự ngất ngây trước người và cảnh.
Xem thêm: Cội rễ của học hành thì cay đắng, nhưng quả của nó thì ngọt ngàoSẽ rất thiếu sót nếu như chúng ta dừng lại ở đây. Bởi lẽ bốn câu sau của đoạn thơ mới thực sự thi vị. Cả bốn câu là cảnh sắc Tây Bắc gợi cảm giác mênh mang, huyền ảo:
"Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa"
Một không gian bảng lảng khói sương như trong cõi mộng cứ thế hiện ra. Cái thực của khí trời Tây Bắc, cái mộng của không khí bảng lảng sương khói hiện lên như một miền cổ tích. Ta nhớ rằng Quang Dũng là một họa sĩ bởi vậy đoạn thơ đậm màu sắc hội họa. Nét bút phác thảo của Quang Dũng thật là tài hoa. Chỉ một vài nét chấm phá vậy mà cái hồn của cảnh vật và con người hiện lên thật sinh động đầy sức cuốn hút.
Không gian dòng sông buổi chiều giăng mắc một màu sương, sông nước bến bờ hoang dại như một bờ tiền sử. “Hồn lau” những cây lau không còn vô tri vô giác mà có linh hồn. Phải là một hồn thơ nhạy cảm, tinh tế, tài hoa và lãng mạn mới cảm nhận được hồn lau đang dăng mắc dọc nẻo bến bờ. Không gian nên thơ ấy làm nền cho người thơ xuất hiện:
"Có nhớ dáng người trên độc mộc "
Câu thơ không tả mà gợi, gợi cái dáng mềm mại uyển chuyển của cô gái trên chiếc thuyền độc mộc. Cảnh rất thơ và người cũng rất tình. Bởi vậy tác giả như ngây ngất đắm say trước cảnh và người. ở đây cảnh như làm duyên với người.
"Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa"
Duyên dáng đến độ và tình tứ cũng hết lời: Bông hoa rừng cũng đong đưa làm duyên với người. Cảnh và người hòa quyện đồng điệu, tình tứ đến mê say trong cái nhìn lãng mạn của Quang Dũng. Ta có cảm nhận đây là thế giới của cõi mộng, cõi mơ, cõi thơ và cõi nhạc. Thơ và nhạc là hai yếu tố tạo nên bức tranh Tây Bắc nên thơ, mĩ lệ. Ai nói rằng Tây Bắc là xứ rừng thiêng nước độc xin hãy một lần để cho tâm hồn mình lắng lại để chất thơ Tây Bắc ngấm vào hồn.
Đoạn thơ bộc lộ chất tài hoa, chất lãng mạn của Quang Dũng đến tuyệt vời. Cảm ơn nhà thơ đã cho ta một chuyến hành trình về với Tây Bắc thơ mộng để khám phá Tây Bắc và yêu Tây Bắc.
Nguồn Edufly
Xem thêm: Quan niệm về hạnh phúc của tuổi trẻ trong thời đại ngày nay
|
Topic: Analyze the second poem in the poem Tay Tien
The entire poem is a picture of beautiful nature with magical harmony between nature and humans. The Western scenery in the poem seems to be shaped according to traditional poetics: "Poetry is composed of painting, poetry is composed of music." A poetic and poetic Western region rich in charm. This second poem is considered a typical poem for Quang Dung's artistic style. The opening sentence of the paragraph creates a feeling of sudden illumination:
"The barracks lit up with a flower torch festival"
“Flash up” is both sudden, surprising and interesting. Both the scenery and people's hearts brightened up. The magnanimity of Quang Dung's expressive writing style was revealed right from the first verse. The two phrases "flashing up" "flower torch festival" show the sophistication in Quang Dung's use of words. These two phrases are both realistic and romantic. “Awakening” means both shimmering and awakening.
“Flower torch festival” is a real scene. The night of the arts festival took place under the forests, everyone attending held torches in their hands, the wind blew causing the torches to shimmer and emit sparks. This scene at night really looks like torch flowers. Quang Dung's feelings are both delicate and romantic, the verse evokes associations and imagination for the reader. On that spatial background, "you" appeared. "You" appeared and immediately became the center point of all points of view.
"Look, when did I wear my clothes?"
“There you are” the greeting was full of surprising joy and surprise. A revealing welcome. You're strange but familiar, familiar but strange. Quang Dung discovered the girl's brilliant beauty with both love and admiration. Fall in love with everything from body to outfit. It is the traditional costumes imbued with cultural identity of Northwestern girls that further glorify their beauty. Quang Dung cannot help but be amazed and surprised by that beauty. You become the nucleus of the picture with the beauty of a foreign land in the distance. The third verse appears immediately and the stanza seems to be filled with music.
"Singing out her timid melody"
The sounds emanating from the musical instruments of the Northwestern people to the Tay Tien soldiers are both strange and wild, primitive and rich in national cultural identity. It is that strangeness that captivates the souls of the proud Tay Tien boys from Hanoi. The word "manly tone" that Quang Dung uses here is also very talented. Readers feel like they can witness the wild dances of Au Lac culture. That dance blends with the graceful, shy, and affectionate dance of You. We notice that the author uses the first word "you" followed by "she" and then "you". From that way of using it, we feel that she is like a beautiful fairy and we feel like we are lost in a fairyland with an ecstatic atmosphere. It was in the atmosphere of music and dance that gave wings to the souls of the Tay Tien soldiers to be truly ecstatic before the people and sceneries.
See more: The roots of learning are bitter, but its fruits are sweet. It would be a mistake if we stopped here. Because the last four lines of the poem are truly poetic. All four sentences are Northwest landscapes that evoke a vast and magical feeling:
"You go to Chau Moc in the foggy afternoon
I can see the soul wiping away the shore
Do you remember the figure on the dugout?
Floating in a flood of swaying flowers"
A space shrouded in smoke and mist, like in a dream, appeared. The reality of the Northwest air, the dream of the smoky atmosphere appear like a fairy tale land. We remember that Quang Dung is a painter, so the poem is full of painterly colors. Quang Dung's sketches are truly talented. With just a few touches, the soul of the landscape and people appears vividly and captivatingly.
The space of the river in the afternoon is covered with a misty color, the river's banks are as wild as a prehistoric shore. “Reed soul” reeds are no longer inanimate but have souls. It must be a sensitive, delicate, talented and romantic poetic soul to feel the soul of the reeds lingering along the shore. That poetic space is the background for the poet to appear:
"Do you remember the figure on the dugout?"
The poem is non-descript but evokes the soft and flexible figure of the girl on the dugout boat. The scene is very poetic and the people are also very loving. Therefore, the author seems ecstatic and passionate about the scene and people. Here, the scene is like making love with people.
"Drifting in a flood of swaying flowers"
So charming and affectionate that it's beyond words: Wild flowers also swing to charm people. Scenes and people blend in harmony, passionately in love in Quang Dung's romantic gaze. We feel that this is the world of dreams, dreams, poetry and music. Poetry and music are two elements that create a poetic and beautiful Northwest picture. Whoever says that the Northwest is a land of sacred forests and poisonous water, please let your soul calm down once so that Northwest poetry can penetrate into your soul.
The poem reveals Quang Dung's talent and romance wonderfully. Thank you poet for giving us a journey back to the poetic Northwest to explore the Northwest and love the Northwest.
Source Edufly
See more: The concept of youth happiness in today's era
|
Phân tích đoạn thơ trích trong Cung oán ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều.
Hướng dẫn
Phân tích tâm trạng người cung nữ được nói đến trong trích đoạn thơ “Cung oán ngâm khúc ” của Nguyễn Gia Thiều.
“Ngày sáu khắc, tin mongnhạn vắng,
Đêm năm canh, tiếnglắng chuông rền.
Lạnh lùng thay giấc cô miên,
Mùi hươngtịch mịch, bóngđèn thâm u.
Tranh biếngngắm trong đồ tố nữ,
Mặt buồn trôngtrên cửa nghiêm lâu.
Một mình đứngtủi, ngồi sầu,
Đã than với nguyệt, lại rầu với hoa.
Buồn mọi nỗi, lòng đà khắc khoải,
Ngán trăm chiều, bước lại ngẩn ngơ.
Hoa này bướm nỡ thờ ơ,
Để gầybông thắm, để xơ nhụy vàng.
Đêm năm canh lần nươngvách quế,
Cái buồn này ai để giết nhau.
Giết nhau chẳngcái lưu cầu,
Giết nhau bằngcái usầu độc chưa!
Tay nguyệt lão chẳng xe thì chớ,
Xe thế này có dở dang không?
Đang tay muốn rứt tơ hồng,
Bực mình muốn đạp tiêu phòngmà ra!
Nguyễn Gia Thiều
Bài làm
Đoạn thơ 20 câu này là một trong những đoạn thơ hay nhất, cảm động nhất trích trong "Cung oán ngâm khúc" của Nguyễn Gia Thiều. Những vần thơ song thất lục bát du dương, réo rắt, thiết tha đã thể hiện một cách sâu sắc nỗi sầu oán của người cung nữ.
Những ngày xưa êm đẹp được chúa quý vua yêu nay còn đâu nữa. Cái kỉ niệm của thời hoa phong nhụy “bóngdương lồng bóng trà mi trập trùng" đã bị phủ mờ, lấp dày bởi bụi thời gian năm tháng. Giờ đây, nàng chỉsống một mình cô đơn trong cung lạnh:
“Ngày sáu khắc, tin mong nhạn vắng,
Đêm năm canh, tiếng lắng chuông rền.
Lạnh lùng thay giấc cô miên,
Mùi hươngtịch mịch, bóng đèn thâm u ”
Ngày, đêm dài lê thê trôi qua. Càng mong tin “cửu trùng", càng đợi chờ xe ngự thì càng tuyệt vọng: cảnh "nhạn vắng" suốt ngày dài, tiếng “chuông rền” trong đêm thâu. Giấc ngủ, giấc chiêm bao cô đơn sầu tủi. Nàng cất lên lời than: “Lạnh lùng thay giấc cô miên”. Mùi hương không còn quyến rũ nữa, mà trở nên “tịch mịch ” ẩm mốc, bóng đèn giữa năm canh trở nên “âm u” tối tăm, mờ ảo.
Nàng sống trong tâm trạng đau khổ, sầu muộn. Ý nghĩa cuộc sống vô vị biết bao. Nàng “biếng ngắm ”, nàng “buồn trông ” cảnh vật. Chỉ còn “một mình ” sống lẻ loi, bơ vơ sau vách quế, lúc “đứng tủi, ngồi sầu ”, lúc than khóc với trăng, lúc rầu rĩ với hoa. Tranh tố nữ, cửa nghiêm lâu, nguyệt hoa là cái đẹp từng đắm đuối nàng, nay trở nên nhạt nhẽo, hờ hững, vô nghĩa:
“Tranh biếngngắm trong đồ tố nữ,
Mặt buồn trông trên cửa nghiêm lâu.
Một mình đứngtủi, ngồi sầu,
Đã than với nguyệt, lại rầu với hoa”.
Nàng “khắc khoái”, “ngẩn ngơ” trong chờ mong và tuyệt vọng. Nỗi “buồn ”, nỗi "ngán ” ngổn ngang “mọi nỗi ” và “trăm chiều ”, như kéo dài lê thê:
"Buồn mọi nỗi, lòng đà khắc khoải,
Ngán trăm chiều, bước lại ngẩn ngơ”.
Nàng thương cho mình. Nhan sắc phai tàn. Tuổi xuân phai nhạt. Nàng cảm thấy bất hạnh và vô duyên:
“Hoa này bướm nỡ thờ ơ,
Xem thêm: Nghị luận xã hội - Một giờ không điện - một giờ tự tâmĐể gầy bông thắm, để xơ nhuỵ vàng”
Đây là câu thơ hay nhất, đẹp nhất trong "Cung oán ngâm khúc ” được nhiều người yêu thích truyền tụng. Lời thơ bóng bảy, trau chuốt. Các ẩn dụ tượng trưng giàu sức gợi tả: hoa, bướm, bông thắm, nhụy vàng. Đặc biệt từ "gầy” và “xơ” được coi là thi nhãn. Tất cả đã diễn tả một cách thấm thìa, rung động về nỗi buồn, nỗi đau của một giai nhân thất tình và cô đơn.
Vách quế trong thâm cung nơi hoàng thành nói lên sự xa hoa, đầm ấm, hạnh phúc. Giờ đây trở nên lạnh lẽo, mà người cung nữ cảm thấy như một bức tường dày đen tối chốn ngục tù; suốt năm canh, nàng chỉcòn biết một mình “lần nương vách quế”… Lời thơ cất lên nghẹn ngào sầu oán. Nàng cảm thấy đau khổ đang bị giết dần giết mòn tuổi xuân. Điệp ngữ “giết nhau” và từ cảm "độc chưa” đã thể hiện một cách sâu sắc nỗi sầu oán của cung nữ. Trong lời than, tiếng oán còn có tiếng thở dài não nuột:
"Đêm năm canh lần nươngvách quế,
Cái buồn này ơi để giết nhau.
Giết nhau chẳng cái lưu cầu,
Giết nhau bằngcái u sầu độc chưa!”
Nàng trách nguyệt lão xe duyên. Nàng đau khổ cho tình duyên dở dang. Nàng oán hận, muốn đập phá, “muốn rứt rơ hồng ”, "muốn đạp tiêu phòng mà ra ”, để tự giải phóng. Như con chim xanh muốn thoát cảnh lồng son gác tía để trở về với bầu trời tự do, ở đây nàng cung nữ cũng vậy. Nàng khao khát hạnh phúc và tự do. Nàng oán trách. Nàng phủ định:
“Tay nguyệt lão chẳng xe thì chớ,
Xe thế này có dở dang không?
Đang tay muốn rứt tơ hồng,
Bực mình muốn đạp tiêu phòng mà ra! ”
Ngày xưa, các gái đẹp, các giai nhân trong dân gian, hằng năm vẫn được tuyển chọn làm cung nữ. Trong số họ, đã có mấy người may mắn được trở thành thái phi, hoàng hậu như Dương Vân Nga, Ỷ Lan, Đặng Thị Huệ,…
Chiếc bánh hạnh phúc có phải bao giờ cũng ngọt ngào! Đâu chỉ có cung A Phòng bên Tàu, mà vua chúa nào cũng có hàng ngàn, hàng vạn cung tần mĩ nữ. Phần lớn họ phải sống cuộc đời cô đơn sầu muộn, nhan sắc và tuổi xuân phai tàn trong cung lạnh,
Đọc đoạn thơ trên đây, ta đồng cảm và thương xót cho sự đau khổ, nỗi sầu oán của người cung nữ. Đoạn thơ chứa chan tinh thần nhân đạo. Hồng nhan bạc mệnh là thế!
Đoạn thơ thể hiện bút pháp nghệ thuật đặc sắc của Nguyễn Gia Thiều. Thơ song thất lục bát dưới ngòi bút ông đã đạt tới đỉnh cao của thểloại ngâm khúc trữ tình. Giọng thơ du dương, trầm bổng cuốn hút, hấp dẫn. Ngôn ngữ tinh luyện, giàu hình ảnh biểu cảm. Ngoài các thị liệu, điển tích, nhà thơ sử dụng phép đối rất tài hoa ở cặp câu song thất:
''Ngày sáu khắc / tin mongnhạn vắng,
Đêm năm canh /tiếng lắngchuông rền
hay:
"Tranh biếngngắm / trong đồ tố nữ,
Mặt buồn trông / trên cửa nghiêm lâu
Các câu lục bát trong từng khổ thơ, đoạn thơ diễn tả tài tình nỗi đau, nỗi buồn, nỗi sầu oán của cung nữ. Câu 8 được tạo thành 2 vế tiểu đối đầy chất thơ:
"Một mìnhđứngtủi, ngồi sâu,
Đã than với nguyệt / lại rầu với hoa
"Hoa này bướmnỡ thờ ơ,
Để gầy bôngthắm / đểxơnhuỵ vàng”.
Người xưa đã từng ca ngợi "Cungoán ngâmkhúc'' "đẹp như ngọclụa”. Đoạn thơ đã chứng tỏ chất tài hoa và tình người của Nguyễn Gia Thiều.
Nguồn: thêm: Thuyết minh về tác hại của thuốc lá với cuộc sống con người
|
Analysis of the poem excerpted from Cung Hat Nhat Khuc by Nguyen Gia Thieu.
Instruct
Analyze the state of mind of the palace maid mentioned in the excerpt from the poem "Cung gremlin" by Nguyen Gia Thieu.
“Six minutes into the day, the news is gone,
Five watch nights, the bell rings.
Cold as a dream,
The scent is lonely, the light bulb is dark.
Lazy paintings gazing at women's clothes,
The sad face looked solemnly at the door for a long time.
Standing alone, sad, sitting sad,
Complained to the moon, sad to the flowers.
All sad, heartbroken,
Bored in the afternoon, I walked back in a daze.
This flower is indifferent to butterflies,
Let the flowers become dark, let the pistil fibers turn yellow.
Every night, five times a night, we burn cinnamon trees.
Who can kill each other with this sadness?
Killing each other has no way of saving,
Kill each other with poison!
The old man's hands and moon are not good for driving,
Is a car like this unfinished?
I'm trying to pull the red thread,
I'm so angry I want to kick the room out!
Nguyen Gia Thieu
Assignment
This 20-line poem is one of the best and most touching poems from Nguyen Gia Thieu's "The Palace of Resentment" by Nguyen Gia Thieu. The melodious, melodious, passionate verses of two-seven-six-eights deeply express the palace maid's sadness and resentment.
The good old days of being loved by lords and kings are no longer there. The memories of the time when the maple flower had its pistil "the poplar shadow, the tea tree shadow rolling together" has been obscured, covered thickly with the dust of time and years. Now, she only lives alone and lonely in a cold palace:
“Six minutes into the day, I hope the swallow is absent,
At five watch night, the bell rang.
Cold as a dream,
The scent is lonely, the light bulb is dark"
Long days and nights passed. The more I hope for news of the "nine insects", the more I wait for the carriage, the more desperate I am: the scene of "emptiness" all day long, the sound of "ringing bells" in the night. Sleep, a lonely and sad dream. She spoke up. laments: "Cold like a lonely sleep." The scent is no longer seductive, but becomes "solitary" and musty, the light bulb in the middle of the night becomes "dark" and dim.
She lives in a state of pain and sadness. The meaning of life is so tasteless. She is "lazy to look", she is "sad to look" at the scenery. Only "alone" lives alone, lonely behind the cinnamon wall, sometimes "standing in sadness, sitting sad", sometimes mourning with the moon, sometimes sad with flowers. The woman painting, the Nham Lau door, and the moon flower are the beauty that once captivated her, but now it has become bland, indifferent, meaningless:
“Lazy paintings gazing at women's clothes,
The sad face looked solemnly on the door for a long time.
Standing alone, sad, sitting sad,
Complained to the moon, but saddened to the flowers.
She was "excited" and "bewildered" in anticipation and despair. The "sadness" and "boredom" are filled with "everything" and "hundreds of troubles", as if dragging on and on:
"Sad in every way, heart restless,
Tired of hundreds of afternoons, walking around in a daze."
She feels sorry for herself. Beauty fades. Youth fades away. She feels unhappy and ungainly:
“This flower is indifferent to butterflies,
See more: Social discussion - One hour without electricity - one hour of self-esteem To thin the flowers, to let the pistils turn yellow"
This is the best and most beautiful verse in "The Palace of Resentment" which is loved and recited by many people. The lyrics are polished and elaborate. The symbolic metaphors are rich in description: flowers, butterflies, flowers, pistils. Especially the words "thin" and "thin" are considered poetic. All of them described in a profound and moving way the sadness and pain of a lovelorn and lonely woman.
Cinnamon walls in the inner palace of the royal citadel speak of luxury, warmth, and happiness. Now it became cold, and the palace maid felt like a thick, dark wall in a prison; During the five watchful hours, she only knew how to "lean on the cinnamon wall" alone... The poem's words were choked with sadness and resentment. She feels pain is slowly killing her youth. The alliteration "kill each other" and the word "poison yet" deeply express the palace lady's sadness and resentment. In the lament and resentment there is also a deep sigh:
"Every night, five times a night, we lean on the cinnamon wall,
This sadness is enough to kill each other.
Killing each other has no way to save,
Kill each other with poisonous melancholy!”
She blames the old man's fate. She suffered for her unfinished love. She resented, wanted to destroy, "wanted to tear apart the red", "wanted to kick the sky out", to liberate herself. Like a blue bird wanting to escape the cage of red and purple to return to the sky of freedom, to live in peace. This is the same as the palace lady. She yearns for happiness and freedom.
"The old man's hands and moon can't drive,
Is a car like this unfinished?
I'm trying to pull the red thread,
I'm so angry that I want to kick out of the room! ”
In the past, beautiful girls and folk beauties were chosen every year to be maids. Among them, there were a few people who were lucky enough to become concubines and queens such as Duong Van Nga, Y Lan, Dang Thi Hue,...
Is the cake of happiness always sweet? There is not only A Phong palace in China, but every king has thousands, tens of thousands of beautiful concubines. Most of them have to live a lonely and sad life, their beauty and youth fading in the cold.
Reading the above poem, we sympathize and pity the suffering and sadness of the palace maid. The poem is filled with a humanitarian spirit. Red beauty is like that!
The poem demonstrates Nguyen Gia Thieu's unique artistic style. Under his pen, the poems "song-seven-six-eight" have reached the pinnacle of the lyrical recitative genre. The poetic voice is melodious, melodious, and captivating. Refined language, rich in expressive images. In addition to historical data and legends, the poet uses parallelism very skillfully in the pair of parallel sentences:
''The six-minute day / the news of the night's absence,
Five watches at night / the sound of bells ringing
or:
"Lazy paintings / in women's clothes,
The sad face looked / on the door for a long time
The six-eight verses in each stanza and verse skillfully describe the pain, sadness, and resentment of the palace maid. Sentence 8 is made up of two poetic parallels:
"Standing alone, sad, sitting deep,
Complained to the moon / lamented to the flowers
"This flower cannot be indifferent,
Let the flowers turn dark / let the flowers turn yellow.
Ancient people once praised "Cungoán soaking song" as "beautiful as jade and silk". The poem proves Nguyen Gia Thieu's talent and humanity.
Source: more: Explanation about the harmful effects of tobacco on human life
|
Phân tích đoạn thơ từ “Mùa thu nay khác rồi… ” đến “Những buổi ngày xưa vọng nói về ” (Đất nước của Nguyễn Đình Thi).
Hướng dẫn
a) Đoạn thơ từ “Mùa thu nay khác rồi” đến “Những buổi ngày xưa vọng nói về ” thể hiện những thay đổi biến chuyển:
– Nhân vật “tôi” thay đổi từ trạng thái buồn, bâng khuâng, lưu luyến đến vui sướng, tự hào.
– Cái nhìn thay đổi từ đường phố, thềm nhà sang núi đồi, rừng tre, trời xanh, cánh đồng, dòng sông.
– Cảm xúc của tác giả hân hoan, hả hê trước cảnh đất nước rộng lớn:
Trời thu thay áo mới
Trong biếc nói cười thiết tha
– Tác giả chuyển sang cảm xúc tự hào về chủ quyền đất nước và truyền thống bất khuất của cha ông.
Trời xanh đây là của chúng ta
Núi rùng đây là của chúng ta…
Những buổi ngày xưa vọng nói về
b) Cảm hứng vui sướng và tự hào sở dĩ có được là do tình hình thực tế năm 1948.
– Sau chiến tháng Việt Bắc thu – đông năm 1947, cả một vùng đất rộng lớn thuộc sáu tỉnh biên giới phía Bắc được giải phóng. Điều này đem lại cảm hứng tin tưởng, tự hào của các nhà thơ đi theo kháng chiến (đoạn thơ này được hình thành từ năm 1948 trong bài Sáng mát trong như sáng năm xưa).
– Khi thể hiện cảm hứng tự hào, tác giả đã có nhũng khám phá sâu sắc về truyền thống. Đất nước với Nguyễn Đình Thi nổi bật lên ở truyền thống bất khuất:
Nước chúng ta
Nước những người chưa bao giờ khuất
Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất
Những buổi ngày xưa vọng nói về
Đó là hai đặc tính quý báu của dân tộc ta: anh hùng bất khuất và giản dị chất phác.
Nguồn: thêm: Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở Khi ta đi, đất đã hoá tâm hồn! Anh (chị) hãy trình bày những suy nghĩ về tình cảm của mỗi con người đối với quê hương, xứ sở.
|
Analyze the poem from "This autumn is different..." to "The days of old that I long for" (Nguyen Dinh Thi's country).
Instruct
a) The verses from "This autumn is different" to "The days of old that we long for" show changes:
– The character “I” changes from a sad, wistful, nostalgic state to a happy, proud state.
– The view changes from the street, house steps to mountains, bamboo forests, blue sky, fields, rivers.
– The author's feelings of joy and gloating before the vast landscape of the country:
Autumn weather brings new clothes
Inside, he talked and laughed passionately
– The author turns to feelings of pride in the country's sovereignty and the indomitable traditions of his ancestors.
This blue sky is ours
This mountain is ours...
The expectations about the old days
b) The inspiration of joy and pride was due to the actual situation in 1948.
– After the Viet Bac war in the fall and winter of 1947, a large area of land in the six northern border provinces was liberated. This inspired confidence and pride in the poets who followed the resistance (this poem was formed in 1948 in the song The morning is as cool and clear as the morning of the past).
– When expressing the inspiration of pride, the author has made profound discoveries about tradition. The country with Nguyen Dinh Thi stands out in its indomitable tradition:
Our country
The country of those who have never died
At night, the earth murmurs in the sound of the earth
The expectations about the old days
Those are two precious characteristics of our nation: indomitable heroism and simplicity.
Source: more: When we live, it's just the land. When we leave, the land has turned into our soul! Please present your thoughts about each person's feelings towards their homeland.
|
Phân tích đoạn thơ “Lẽ ghét thương” trích “Truyện Lục Vân Tiên” của Nguyễn Đình Chiểu
Gợi ý
"Lẽ ghét thương " trích trong "Truyện Lục Vân Tiên ” của Nguyễn Đình Chiểu – nhà thơ lỗi lạc của đất Đồng Nai – Gia Định trong thế kỉ XIX. Trích đoạn thơ này dài 32 câu thơ từ câu 473 đến câu 504 của ‘Truyện Lục Vân Tiên”.
Qua lời nhân vật ông Quán nói về lẽ ghét và tình thương, Nguyễn Đình Chiểu bày tỏ một tấm lòng, một lí tưởng sống cao đẹp: lo đời, thương dân, kính phục những kẻ sĩ đức trọng tài cao, ghê tởm và khinh bỉ những tên bạo chúa, hại dân, hại nước.
Đoạn thơ có bố cục rất chặt chẽ: 16 câu đầu nói về lẽ ghét, 14 câu tiếp theo thể hiện tình thương, 2 câu cuối bày tỏ một tấm lòng "Nửa phần lại ghét, nửa phần lại thương".
Đọc truyện thơ của cụ Đồ Chiểu, ta biết Vân Tiên và Tử Trực trên đường đi thi, khi gần tới nơi kinh kì thì gặp hai bạn sĩ tử:
Một người ở quận Phan Dương,
Tên Hâm họ Trịnh tầm thường nghề văn.
Một người ở phủ Dương Xuân,
Họ Bùi tên Kiệm tác chừng đôi mươi.
Bốn sĩ tử rủ nhau vào quán uống rượu làm thơ, so tài “thấp cao”. Tử Trực hỏi ông Quán về kinh sử, Vân Tiên hỏi ông Quán về “thương ghét, ghét thương lẽ nào?”
Ông Quán không phải là một kẻ tầm thường. Đúng là một kẻ sĩ thoát vòng danh lợi, lánh đục tìm trong; một tấm lòng đầy ắp nỗi lo đời và tâm sự.
1. Ông Quán ghét ai, ghét những điều gì, và tại sao mà ông ghét. Hai câu đầu khái quát lẽ ghét của ông:
Quán rằng: "Ghét việc tầm phào,
Ghét cay, ghét đắng, ghét vào tận tâm ".
"Việc tầm phào" là những việc vu vơ, hão huyền, trái đạo lí, thất nhân tâm do bọn cường quyền, bạo chúa gây ra, làm hại dân, hại nước. Ghét một cách ghê gớm, ghét một cách khinh bỉ "ghét cay, ghét đắng". Ghét một cách sâu sắc, mãnh liệt, "ghét vào tận tâm", ghét đến bầm gan tím ruột, ghét không bao giờ nguôi. Cái ghét của ông Quán gắn liền với căm thù, phẫn uất. Cách nói của ông Quán là cách nói có hình ảnh cụ thể, cách nói bộc trực của người dân quê, của người nông dân Nam Kì. Chữ "ghét " được điệp lại bốn lần và sử dụng nghệ thuật tăng cấp, kết hợp với cách ngắt nhịp: 2/ 4/ 2/ 2/ 4 đã làm cho giọng thơ, giọng nói vang lên mạnh mẽ, chì chiết, đầy phẫn uất, căm thù và khinh bỉ. Xem thêm: Sai lầm lớn nhất mà bạn mắc phải trong cuộc sống là luôn sợ sai lầm (Elbert Hubhard). Anh chị có suy nghĩ gì về ý kiến trên Tám câu tiếp theo, ông Quán vạch mặt, chỉ tên những kẻ mà ông ghét, ông khinh. Đó là vua Kiệt nhà Hạ, vua Trụ nhà Thương, hai tên bạo chúa, hoang dâm vô độ nhất trong lịch sử các vua chúa Trung Quốc: say mê tửu sắc suốt ngày đêm năm tháng,, "rượu chứa thành ao, thịt treo thành rừng". Kiệt, Trụ không chỉ là "vua quỷ", “vua lợn*’ rất "mê dâm " mà còn bóc lột nhân dân đến tận xương tuỷ, làm cho trăm họ phải lầm than, điêu linh: "Để dân đến nổi sa hầm sẩy’ hang".
Ông Quán ghét "U, Lệ đa đoan ". u, Lệ là u Vương và Lệ Vương đời nhà Chu, hai kẻ đã làm bao chuyện "đa đoan" rắc rối, "Khiến dân luống chịu lầm than muôn phần". Để mua một tiếng cười của mĩ nhân Bao Tự, U Vương đã sai bọn cung nữ xé hàng trăm, hàng nghìn tấm lụa mỗi ngày, hoặc vô cớ sai đốt lửa trên hoa đài Li Sơn để đánh lừa chư hầu kéo quân đến! Cái chết buồn thảm, nhục nhã của u Vương, Lệ Vương là sự trừng phạt của lịch sử: "Ly Sơn cười một phút – Bao Tự kia lầm hết chư hầu -… Vị Thủy tắm đòi phen – Dương Phi nọ độc hoà thiên hạ" (Cung trung bảo huấn).
Ngũ bá cuối đời nhà Chu thời Xuân Thu, năm vua chư hầu là Tề Hoàn Công, Tấn Văn Công, Tống Tương Công, Tần Mục Công, Sở Trang Vương đã mưu bá đồ vương, gây ra cảnh chiến tranh triền miên, hỗn loạn, "Chuộng bề dối trá làm dân nhọc nhằn ”. "Dân nhọc nhằn " vì trai tráng bị bắt đi làm bia đỡ cung tên, giáo mác, thóc lúa bị vơ vét sạch, làng xóm bị đốt phá tan hoang! Đâu đâu cũng chỉ thấy một màu khăn tang trắng xoá!
Ông Quán ghét đời ngũ bá, ghét cả đời thúc quý:
Ghét đời Ngũ bá phân vân,
Chuộng bề đen trá làm dân nhọc nhằn.
Ghét đời thúc quỷ phân bang,
Sớm đầu tối đánh lằng nhằng rối dân.
Thúc quý là đời suy loạn, sắp bị diệt vong. Phân băng nghĩa là chia lìa, đổ nát. Cảnh chiến tranh, loạn lạc diễn ra hết năm này qua năm khác, máu chảy thành suối, thây chất thành non. Bọn xưng hùng, xưng bá đã gây ra cảnh “phân băng” đầy máu và nước mắt, gây ra bao thảm hoạ "Sớm đầu tối đánh lằng nhằng rối dân ".
Đoạn thơ mười sáu câu đã có tám chữ "ghét" bộc lộ giọng điệu, ngữ điệu của ông Quán cất lên mạnh mẽ, thiết tha. ông Quán đã đứng về phía nhân dân, vì sự sống còn và hạnh phúc của nhân dân mà ông lên án; ông căm ghét những tên bạoXem thêm: Viết đoạn văn nêu cảm nghĩ của em về nhân vật Trương Sinh trong tác phẩm Chuyện người con gái Nam xương của Nguyễn Dữ chúa, đứa thì “mẽ dâm" đứa thì đa đoan Trái tim ông Quán lúc nào cũng hướng về dân, san sẻ với người dân lầm than, đau khổ:
Để dân đến nỗi xa hầm sảy hang
Khiến dân luống chịu lầm than muôn phần.
Chuộng bề dối trá làm dân nhọc nhằn.
Sớm đầu tối đánh lằng nhằng rối dân.
Qua đó ta thấy rõ, thơ Nguyễn Đình Chiểu nói về lẽ ghét mang tính nhân dân sâu sắc. Lời thơ của ông đã gắn với hơi thở, nhịp sống và ước nguyện của những người dân lành nơi xóm gần làng xa.
2. Mười bốn câu thơ tiếp theo, ông Quán nổi lên tình thương hao la của mình. Tấm lòng và trái tim nhân ái mênh mông của ông Quán hướng về những con người đức trọng tài cao mà không gặp thời.
Điệp ngữ "thương" được láy lại tám lần, làm cho giọng thơ vang lên thiết tha, nồng hậu. Tất cả chín người điển hình cho những thiên tài trải qua nhiêu bi kịch mà ông Quán nhắc đến với bao tình thương: Khổng Tử, Nhan Tử, Gia Cát Lượng, Đổng Tử, Nguyên Lượng, Hàn Dũ, Chu Đôn Di, Trình Hạo, Trình Di (Liêm, Lạc). Mỗi người một vẻ, một cảnh ngộ mà tên tuổi sáng ngời kinh sử.
Là Khổng Tử “đức thánh nhân ", ông tổ của Nho giáo, người nước Lỗ đã trải qua nhiều gian truân trong những năm dài hành đạo: "Khi nơi Tổng Vệ, lúc Trần, lúc Khuông". Tài năng của "đức thánh nhân" đâu được bọn vua chúa thời Xuân Thu trọng dụng! Thoái quan vi sư là cách ứng xử của Khổng Tử để giúp ích cho đời.
Nhan Tử tức là Nhan Uyên, người học trò giỏi nhất trong ba nghìn môn sinh của Khổng Tử, nhưng sự nghiệp "dở dang " vì mệnh yếu: "Ba mươi mốt tuổi tách đàng công danh ":
Thương là thương đức thánh nhân.
Khi nơi Tổng, Lệ lúc Trần, lúc Khuông.
Thương thầy Nhan Tử dở dang,
Ba mươi mốt tuổi tách đàng công danh.
Gia Cát Khổng Minh, nhà quân sự thiên tài thời Tam Quốc, ôm ấp chí nguyện khôi phục nhà Hán, thống nhất đất nước nhưng không thành, qua đời lúc 54 tuổi:
Thương ông Gia cát tài lanh,
Gặp cơn Hán mạt đã đành phôi pha.
Đổng Tử tên là Đổng Trọng Thư, bậc đại nho đời Hán, học rộng tài cao, từng ra làm quan nhưng không được trọng dụng, không thể thi thố tài năng, đành phải lui về mở trường dạy học:
Thương thầy Đổng Tử cao xa,
Chí thời có chí, ngôi mà không ngôi.
Còn có bao nhân tài lỗi lạc khác, đức độ cao khiết mà ông Quán rất thương. Đó là Nguyên Lượng Đào Uyên Minh không chịu uốn lưng vì năm đấu gạo mà trả áo mũ từ quan, lui về vườn cũ cày ruộng, hái cúc, uống rượu, ngâm thơ, đã để lại bài “Quy khứ lai từ” nổi tiếng: Xem thêm: Tràng Giang mang nỗi buồn mênh mang, sâu lắng trong giọng thơ vừa cổ điển vừa lãng mạn rất tiêu biểu cho hồn thơ Huy Cận trước Cách mạng tháng Tám. Hãy phân tích và chứng minh Thương người Nguyên Lượng ngùi ngùi,
Lỡ bề giúp nước lại lui về cày.
Đó là Hàn Dũ, đỗ tiến sĩ, có tài văn chương lỗi lạc, vì cương trực mà thất thế trên đường công danh:
Sớm dưng lời biểu, tối đày đi xa.
Đó là Chu Đồn Di, Trình Hạo, Trình Di (thầy Liêm, Lạc), những nhà triết học xuất chúng đời Đường, tuy có ra làm quan một thời gian ngắn, nhưng không được tin dùng, bèn lui về dạy học:
Thương thầy Liêm, Lục đã ra,
Bị lời xua đuổi về nhà giáo dân.
Nguyễn Đình Chiểu đã tạo nên phong cách ngôn ngữ trang trọng khi thể hiện tình thương của ông Quán. Chữ “thương" được gắn kết với các đại từ nhân xưng như: “đức", “thầy", “ông", “người",…biểu lộ tình cảm kính phục, cảm mến và trọng vọng của ông Quán đối với những nhân vật đức trọng tài cao được nhắc đến: “thương đức thánh nhân", “thương thầy Nhan Tử", “thương ông Gia Cát", “thương thầy Đổng Tử", “thương người Nguyên Lượng", “thương ông Hàn Dũ, “thương thầy Liêm, Lạc". Qua đó, ta càng thấm thía lời nhắc nhở của cổ nhân: “Nhân cách là bài học làm người cho kẻ sĩ xưa nay".
Hai câu cuối đoạn thơ khép lại lời ông Quán. Lẽ ghét thương được ông nói đến đều hướng tới những nhân vật lịch sử, những con người trong kinh sử. Tình thương, lẽ ghét là lí tưởng của ông, là tình cảm tự nhiên của con người, rất nồng nhiệt và trung hậu:
Xem qua kinh sử mấy lần,
Nửa phần lại ghét, nửa phần lợi thương.
Đoạn thơ “Lẽ ghét thương’ là lời ông Quán nói với bốn sĩ tử đang uống rượu làm thơ. Với đối tượng ấy thì những điều mà ông Quán nhắc lại trong kinh sử có ý nghĩa sâu sắc và thấm thía, đâu phải chỉ là chuyện “sách vở". Đó là bài học về nhân cách, về đạo lí làm người, về cách xuất xử của kẻ sĩ chân chính, là thái độ đứng về phía nhân dân để bày tỏ thái độ, bày tỏ tình thương, lẽ ghét.
Tiếng nói của ông Quán chính là tiếng nói của nhân dân, mang ý nguyện của nhân dân. Ông Quán cũng như ông Ngư, ông Tiều, Lão bà, Tiểu đồng… là những nhân vật có nhân cách, phẩm chất cao đẹp trong “Truyện Lục Vân Tiên" làm cho chúng ta nhớ mãi.
Vanmau.edu.vn
|
Phân tích đoạn thơ “Lẽ ghét thương” trích “Truyện Lục Vân Tiên” của Nguyễn Đình Chiểu
Gợi ý
"Lẽ ghét thương " trích trong "Truyện Lục Vân Tiên ” của Nguyễn Đình Chiểu – nhà thơ lỗi lạc của đất Đồng Nai – Gia Định trong thế kỉ XIX. Trích đoạn thơ này dài 32 câu thơ từ câu 473 đến câu 504 của ‘Truyện Lục Vân Tiên”.
Qua lời nhân vật ông Quán nói về lẽ ghét và tình thương, Nguyễn Đình Chiểu bày tỏ một tấm lòng, một lí tưởng sống cao đẹp: lo đời, thương dân, kính phục những kẻ sĩ đức trọng tài cao, ghê tởm và khinh bỉ những tên bạo chúa, hại dân, hại nước.
Đoạn thơ có bố cục rất chặt chẽ: 16 câu đầu nói về lẽ ghét, 14 câu tiếp theo thể hiện tình thương, 2 câu cuối bày tỏ một tấm lòng "Nửa phần lại ghét, nửa phần lại thương".
Đọc truyện thơ của cụ Đồ Chiểu, ta biết Vân Tiên và Tử Trực trên đường đi thi, khi gần tới nơi kinh kì thì gặp hai bạn sĩ tử:
Một người ở quận Phan Dương,
Tên Hâm họ Trịnh tầm thường nghề văn.
Một người ở phủ Dương Xuân,
Họ Bùi tên Kiệm tác chừng đôi mươi.
Bốn sĩ tử rủ nhau vào quán uống rượu làm thơ, so tài “thấp cao”. Tử Trực hỏi ông Quán về kinh sử, Vân Tiên hỏi ông Quán về “thương ghét, ghét thương lẽ nào?”
Ông Quán không phải là một kẻ tầm thường. Đúng là một kẻ sĩ thoát vòng danh lợi, lánh đục tìm trong; một tấm lòng đầy ắp nỗi lo đời và tâm sự.
1. Ông Quán ghét ai, ghét những điều gì, và tại sao mà ông ghét. Hai câu đầu khái quát lẽ ghét của ông:
Quán rằng: "Ghét việc tầm phào,
Ghét cay, ghét đắng, ghét vào tận tâm ".
"Việc tầm phào" là những việc vu vơ, hão huyền, trái đạo lí, thất nhân tâm do bọn cường quyền, bạo chúa gây ra, làm hại dân, hại nước. Ghét một cách ghê gớm, ghét một cách khinh bỉ "ghét cay, ghét đắng". Ghét một cách sâu sắc, mãnh liệt, "ghét vào tận tâm", ghét đến bầm gan tím ruột, ghét không bao giờ nguôi. Cái ghét của ông Quán gắn liền với căm thù, phẫn uất. Cách nói của ông Quán là cách nói có hình ảnh cụ thể, cách nói bộc trực của người dân quê, của người nông dân Nam Kì. Chữ "ghét " được điệp lại bốn lần và sử dụng nghệ thuật tăng cấp, kết hợp với cách ngắt nhịp: 2/ 4/ 2/ 2/ 4 đã làm cho giọng thơ, giọng nói vang lên mạnh mẽ, chì chiết, đầy phẫn uất, căm thù và khinh bỉ. Xem thêm: Sai lầm lớn nhất mà bạn mắc phải trong cuộc sống là luôn sợ sai lầm (Elbert Hubhard). Anh chị có suy nghĩ gì về ý kiến trên Tám câu tiếp theo, ông Quán vạch mặt, chỉ tên những kẻ mà ông ghét, ông khinh. Đó là vua Kiệt nhà Hạ, vua Trụ nhà Thương, hai tên bạo chúa, hoang dâm vô độ nhất trong lịch sử các vua chúa Trung Quốc: say mê tửu sắc suốt ngày đêm năm tháng,, "rượu chứa thành ao, thịt treo thành rừng". Kiệt, Trụ không chỉ là "vua quỷ", “vua lợn*’ rất "mê dâm " mà còn bóc lột nhân dân đến tận xương tuỷ, làm cho trăm họ phải lầm than, điêu linh: "Để dân đến nổi sa hầm sẩy’ hang".
Ông Quán ghét "U, Lệ đa đoan ". u, Lệ là u Vương và Lệ Vương đời nhà Chu, hai kẻ đã làm bao chuyện "đa đoan" rắc rối, "Khiến dân luống chịu lầm than muôn phần". Để mua một tiếng cười của mĩ nhân Bao Tự, U Vương đã sai bọn cung nữ xé hàng trăm, hàng nghìn tấm lụa mỗi ngày, hoặc vô cớ sai đốt lửa trên hoa đài Li Sơn để đánh lừa chư hầu kéo quân đến! Cái chết buồn thảm, nhục nhã của u Vương, Lệ Vương là sự trừng phạt của lịch sử: "Ly Sơn cười một phút – Bao Tự kia lầm hết chư hầu -… Vị Thủy tắm đòi phen – Dương Phi nọ độc hoà thiên hạ" (Cung trung bảo huấn).
Ngũ bá cuối đời nhà Chu thời Xuân Thu, năm vua chư hầu là Tề Hoàn Công, Tấn Văn Công, Tống Tương Công, Tần Mục Công, Sở Trang Vương đã mưu bá đồ vương, gây ra cảnh chiến tranh triền miên, hỗn loạn, "Chuộng bề dối trá làm dân nhọc nhằn ”. "Dân nhọc nhằn " vì trai tráng bị bắt đi làm bia đỡ cung tên, giáo mác, thóc lúa bị vơ vét sạch, làng xóm bị đốt phá tan hoang! Đâu đâu cũng chỉ thấy một màu khăn tang trắng xoá!
Ông Quán ghét đời ngũ bá, ghét cả đời thúc quý:
Ghét đời Ngũ bá phân vân,
Chuộng bề đen trá làm dân nhọc nhằn.
Ghét đời thúc quỷ phân bang,
Sớm đầu tối đánh lằng nhằng rối dân.
Thúc quý là đời suy loạn, sắp bị diệt vong. Phân băng nghĩa là chia lìa, đổ nát. Cảnh chiến tranh, loạn lạc diễn ra hết năm này qua năm khác, máu chảy thành suối, thây chất thành non. Bọn xưng hùng, xưng bá đã gây ra cảnh “phân băng” đầy máu và nước mắt, gây ra bao thảm hoạ "Sớm đầu tối đánh lằng nhằng rối dân ".
Đoạn thơ mười sáu câu đã có tám chữ "ghét" bộc lộ giọng điệu, ngữ điệu của ông Quán cất lên mạnh mẽ, thiết tha. ông Quán đã đứng về phía nhân dân, vì sự sống còn và hạnh phúc của nhân dân mà ông lên án; ông căm ghét những tên bạoXem thêm: Viết đoạn văn nêu cảm nghĩ của em về nhân vật Trương Sinh trong tác phẩm Chuyện người con gái Nam xương của Nguyễn Dữ chúa, đứa thì “mẽ dâm" đứa thì đa đoan Trái tim ông Quán lúc nào cũng hướng về dân, san sẻ với người dân lầm than, đau khổ:
Để dân đến nỗi xa hầm sảy hang
Khiến dân luống chịu lầm than muôn phần.
Chuộng bề dối trá làm dân nhọc nhằn.
Sớm đầu tối đánh lằng nhằng rối dân.
Qua đó ta thấy rõ, thơ Nguyễn Đình Chiểu nói về lẽ ghét mang tính nhân dân sâu sắc. Lời thơ của ông đã gắn với hơi thở, nhịp sống và ước nguyện của những người dân lành nơi xóm gần làng xa.
2. Mười bốn câu thơ tiếp theo, ông Quán nổi lên tình thương hao la của mình. Tấm lòng và trái tim nhân ái mênh mông của ông Quán hướng về những con người đức trọng tài cao mà không gặp thời.
Điệp ngữ "thương" được láy lại tám lần, làm cho giọng thơ vang lên thiết tha, nồng hậu. Tất cả chín người điển hình cho những thiên tài trải qua nhiêu bi kịch mà ông Quán nhắc đến với bao tình thương: Khổng Tử, Nhan Tử, Gia Cát Lượng, Đổng Tử, Nguyên Lượng, Hàn Dũ, Chu Đôn Di, Trình Hạo, Trình Di (Liêm, Lạc). Mỗi người một vẻ, một cảnh ngộ mà tên tuổi sáng ngời kinh sử.
Là Khổng Tử “đức thánh nhân ", ông tổ của Nho giáo, người nước Lỗ đã trải qua nhiều gian truân trong những năm dài hành đạo: "Khi nơi Tổng Vệ, lúc Trần, lúc Khuông". Tài năng của "đức thánh nhân" đâu được bọn vua chúa thời Xuân Thu trọng dụng! Thoái quan vi sư là cách ứng xử của Khổng Tử để giúp ích cho đời.
Nhan Tử tức là Nhan Uyên, người học trò giỏi nhất trong ba nghìn môn sinh của Khổng Tử, nhưng sự nghiệp "dở dang " vì mệnh yếu: "Ba mươi mốt tuổi tách đàng công danh ":
Thương là thương đức thánh nhân.
Khi nơi Tổng, Lệ lúc Trần, lúc Khuông.
Thương thầy Nhan Tử dở dang,
Ba mươi mốt tuổi tách đàng công danh.
Gia Cát Khổng Minh, nhà quân sự thiên tài thời Tam Quốc, ôm ấp chí nguyện khôi phục nhà Hán, thống nhất đất nước nhưng không thành, qua đời lúc 54 tuổi:
Thương ông Gia cát tài lanh,
Gặp cơn Hán mạt đã đành phôi pha.
Đổng Tử tên là Đổng Trọng Thư, bậc đại nho đời Hán, học rộng tài cao, từng ra làm quan nhưng không được trọng dụng, không thể thi thố tài năng, đành phải lui về mở trường dạy học:
Thương thầy Đổng Tử cao xa,
Chí thời có chí, ngôi mà không ngôi.
Còn có bao nhân tài lỗi lạc khác, đức độ cao khiết mà ông Quán rất thương. Đó là Nguyên Lượng Đào Uyên Minh không chịu uốn lưng vì năm đấu gạo mà trả áo mũ từ quan, lui về vườn cũ cày ruộng, hái cúc, uống rượu, ngâm thơ, đã để lại bài “Quy khứ lai từ” nổi tiếng: Xem thêm: Tràng Giang mang nỗi buồn mênh mang, sâu lắng trong giọng thơ vừa cổ điển vừa lãng mạn rất tiêu biểu cho hồn thơ Huy Cận trước Cách mạng tháng Tám. Hãy phân tích và chứng minh Thương người Nguyên Lượng ngùi ngùi,
Lỡ bề giúp nước lại lui về cày.
Đó là Hàn Dũ, đỗ tiến sĩ, có tài văn chương lỗi lạc, vì cương trực mà thất thế trên đường công danh:
Sớm dưng lời biểu, tối đày đi xa.
Đó là Chu Đồn Di, Trình Hạo, Trình Di (thầy Liêm, Lạc), những nhà triết học xuất chúng đời Đường, tuy có ra làm quan một thời gian ngắn, nhưng không được tin dùng, bèn lui về dạy học:
Thương thầy Liêm, Lục đã ra,
Bị lời xua đuổi về nhà giáo dân.
Nguyễn Đình Chiểu đã tạo nên phong cách ngôn ngữ trang trọng khi thể hiện tình thương của ông Quán. Chữ “thương" được gắn kết với các đại từ nhân xưng như: “đức", “thầy", “ông", “người",…biểu lộ tình cảm kính phục, cảm mến và trọng vọng của ông Quán đối với những nhân vật đức trọng tài cao được nhắc đến: “thương đức thánh nhân", “thương thầy Nhan Tử", “thương ông Gia Cát", “thương thầy Đổng Tử", “thương người Nguyên Lượng", “thương ông Hàn Dũ, “thương thầy Liêm, Lạc". Qua đó, ta càng thấm thía lời nhắc nhở của cổ nhân: “Nhân cách là bài học làm người cho kẻ sĩ xưa nay".
Hai câu cuối đoạn thơ khép lại lời ông Quán. Lẽ ghét thương được ông nói đến đều hướng tới những nhân vật lịch sử, những con người trong kinh sử. Tình thương, lẽ ghét là lí tưởng của ông, là tình cảm tự nhiên của con người, rất nồng nhiệt và trung hậu:
Xem qua kinh sử mấy lần,
Nửa phần lại ghét, nửa phần lợi thương.
Đoạn thơ “Lẽ ghét thương’ là lời ông Quán nói với bốn sĩ tử đang uống rượu làm thơ. Với đối tượng ấy thì những điều mà ông Quán nhắc lại trong kinh sử có ý nghĩa sâu sắc và thấm thía, đâu phải chỉ là chuyện “sách vở". Đó là bài học về nhân cách, về đạo lí làm người, về cách xuất xử của kẻ sĩ chân chính, là thái độ đứng về phía nhân dân để bày tỏ thái độ, bày tỏ tình thương, lẽ ghét.
Tiếng nói của ông Quán chính là tiếng nói của nhân dân, mang ý nguyện của nhân dân. Ông Quán cũng như ông Ngư, ông Tiều, Lão bà, Tiểu đồng… là những nhân vật có nhân cách, phẩm chất cao đẹp trong “Truyện Lục Vân Tiên" làm cho chúng ta nhớ mãi.
Vanmau.edu.vn
|
Phân tích đoạn thơ “Trao duyên” để làm rõ nỗi đoạn trường về tình duyên lỡ bỏ
Gợi ý
Đoạn trích “Trao duyên” có thể có hai cách sắp xếp: theo bố cục bên ngoài hoặc kết cấu bên trong. Nếu bố cục bên ngoài theo tuyến tính thời gian có thể dựa vào trình tự: Kiều nhờ Vân thay mình trả nghĩa, cuộc bàn giao kỉ vật và lời dặn dò, tâm trạng của Kiều sau lúc trao duyên. Còn nếu dựa vào kết cấu bên trong lại hoàn toàn khác: “cái tôi” đạo lí theo quan niệm truyền thống khi Thúy Kiều nhờ em trả nghĩa (12 câu đầu) và sau đó là “cái tôi” cá nhân đòi hạnh phúc cho riêng mình từ lúc trao kỉ. vật và tất cả đoạn sau (22 câu tiếp nối). Ớ đây, chúng ta hãy tìm hiểu đoạn trích theo cách thứ hai, nói về “cái tôi” đạo lí: “Cậy em, em có chịu lời…”.
Một cặp câu lục bát tưởng êm xuôi mà giằng xé. Nó phản ánh một tâm trạng ngổn ngang, vì ngổn ngang mà cách nói khác thường. “Cậy em” là nói về sự gửi gắm của người nói, còn “chịu lời” lại nói đến người nghe. Rồi sau đó, trình tự đã đảo ngược: “Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa”. Tâm trạng Kiều rối bời vì cảnh ngộ cùng đường (thời cơ duy nhất trước lúc phải đi xa), cũng còn vì nói ra cái điều khó nói (Hở môi ra cũng thẹn thùng – Để lòng thì phụ tấm lòng với ai). Hai câu thơ gần với khẩu ngữ không còn chú ý đến sự cân nhắc, đắn đo, đường ranh giới giữa văn chương với cuộc sông mờ nhòe, chỉ còn đây một tấm lòng run rẩy. Thế mà hàm súc, thiết tha! Để “thưa” gửi cái điều vô cùng hệ trọng, cần đến ba động tác (cậy em, chịu lời, ngồi lên cho chị lạy), có gì đó như quá lời, nhưng hình như với Thúy Kiều, nó vẫn còn như chưa đủ. “Cậy em” là nhờ vả, một sự nhờ vả được đóng đinh với lòng tin gửi gắm trong quan hệ chị em ruột thịt (chị ngã em nâng) thâm tình, cốt nhục. Nhưng đó là ý chị, còn phải tùy em: “em có chịu lời”. “Chịu” ở đây là chấp nhận thiệt thòi. Vì tơ duyên mà Vân thay Kiều tiếp nối là một “mốì tơ thừa” do chị sắp đặt, gán ghép. Điều ân nghĩa của Vân không phải sau này (ví như kiếp sau) Kiều sẽ không quên mà ngay lúc này đây: Kiều vái em một lạy. Riêng một điều đó thôi cũng đủ chứng tỏ lời nhờ cậy còn lớn hơn người nhờ cậy rất nhiều. Nó cao hơn sinh mạng của kẻ phát ngôn. Kiều là thế. Trong trường hợp phải cân nhắc giữa mình và người, nàng hoàn toàn là một nhân cách vị tha thứ chưa bao giờ vị kỉ. Kể cả trong lĩnh vực tình yêu, một tình yêu mà chỉ cần nhắc tới nó thôi là vị say đắm, ngọt ngon đã thảo thơm trên đầu lưỡi:Xem thêm: Anh (chị) nghĩ gì khi nhìn những cánh rừng tiếp tục bị tàn phá?Kể từ khi gặp chàng Kim,
Khi ngày quạt ước khi đêm chén thề.
Thật ra thì trao nhau kỉ vật chỉ có một lần, thề ước cũng chỉ có một đêm, nhưng hai từ “khi” đặt vào đây: tất cả đã được nâng cấp. Những lần gặp gỡ không nhiều với chàng Kim của nàng bỗng biến thành ngày hội, ngày hội của tình yêu mà đời người con gái chí có một lần. Phải hi sinh cái điều quý giá ấy, phải nhường nó lại cho em, đau đớn nhường nào, nhưng Kiều phải làm bằng được. Bởi cái tình tuy lớn, cái nghĩa còn lớn hơn. Hi sinh mà hiểu được cái giá của sự hi sinh, tính nhân bản trong con người đạo lí của nàng Kiều không còn đơn giản nữa.
Song, Vân không nói. Chắc Vân đã vì chị mà nhận lời. Mọi sự sẽ êm xuôi không còn gì đáng kể, chỉ cần vài thủ tục như bàn giao kỉ vật, dặn dò vài câu lấy lệ là xong (vì cái mà Kiều cần đã có, mong muôn đã toại nguyện). Nhưng không. Một cơn gió trái chiều bỗng nhiên xuất hiện. Nó xuất hiện một cách bất ngờ, khi cái tôi của riêng nàng, cái tôi cá nhân khao khát tình yêu, đòi được tình yêu lên tiếng. Bắt đầu từ nghi thức bàn giao:
Chiếc vành với bức tờ mây,
Duyên này thì giữ vật này của chung.
Hai chữ “của chung” thật là đau đớn! Hơn ai hết, Kiều biết bàn giao như thế là không minh bạch, nhưng tình yêu làm sao có thể sòng phẳng, rạch ròi. Tình yêu là của trái tim làm sao có thể chia đôi, đó là chưa nói khi mất nó rồi, con người ta lấy gì để sống? Cách nói không dứt khoát của Kiều phản ánh một sự giằng co giữa mất và còn, cái hữu hình thì muốn trao tay còn cái vô hình thì muốn giữ lại. Chỉ cần thay từ “của chung” ấy bằng từ “của em” thì câu thơ có thể sẽ còn nhưng con người đã mất. Nguyễn Du không làm thế, bởi nếu làm thế thì không phải với nàng Kiều, không phải với con người cá nhân mà thời đại bão táp của ông đòi giải phóng.Xem thêm: Tình thương là hạnh phúc con người Ngòi bút đau đớn của Nguyễn Du cứ phổ vào ngôn ngữ Thúy Kiều với nỗi đau giằng xé mãi không thôi: “Dù em nên vợ nên chồng”. Tại sao không phải: “Rồi em nên vợ nên chồng’”? Một câu giả định và một câu khẳng định có khoảng cách rất xa như một tiếng thở dài bất lực vừa buông xuôi vừa mơ hồ, tiếc nuôi. Đó là sự thổn thức tiếp theo, một sự níu kéo dù rất vô tình, ấy là con người “thứ hai” của Thúy Kiều lên tiếng. Không chỉ có thể, cái ý “của chung” một lần nữa cất lên: “Mất người còn chút của tin / Phún đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa”. Cứ thế, Kiều ôm mãi cái thứ gọi là “của chung” đó vào lòng, không lúc nào buông rơi, đoạn thơ cứ thảng thốt dần, xa vắng dần. Kiều đã nghĩ lúc minh sống mà như chết, trở thành một ọan hồn chỉ có thể hiện về trong gió trong cây sưỏi nhờ hơi ấm của lò hương và nghe lại tiếng đàn của đêm thề nguyền xưa. Trong tấm lòng đau đáu của Nguyễn Du, Thúy Kiều, Đạm Tiên, Tiểu Thanh… như những người đồng cảnh ngộ “Son phấn có thần chôn vẫn hận/ Văn chương không mệnh đốt còn vương” (Đọc Tiểu Thanh kí). Cái đau cho nhân vật mà nhà thơ sáng tạo ra hay cái đau của chính bản thân mình trong đó.
Bởi vậy, lời giã từ Kim Trọng, giã từ tình yêu với Kim Trọng khi “của chung” đã thành “của riêng”, cái mà nàng níu giữ đã không còn. Nó thôhg thiết, đớn đau như máu chảy ra đầu ngọn bút: trâm đã gãy, gương đã tan. Cảm giác mất mát thực sự cồn lên, cuồn cuộn dâng trào, đồng thời với “trăm ngàn” tan nát:Xem thêm: Viết bài văn nghị luận bàn về thái độ khiêm tốn, không giấu dốt mà anh (chị) rút ra được sau khi học truyện “Tam đại con gà”Trăm nghìn gửi lạy tình quân,
Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi!
Đến đây, con người cá nhân và con người đạo lí sau một trường đoạn tách ra đã nhập lại. Thay thế cho niềm thương xót bản thân, Kiều xót thương cho chàng Kim vì mình mà dang dở. Nàng cảm thấy có lỗi với một kẻ chung tình:
Phận sao phận bạc như vôi!
Đã đành nước chảy hoa trôi lã làng.
Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang!
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!
Hai khái niệm “bạc” và “phụ” ở đây không cùng nằm trong một trường nghĩa. “Bạc” trong văn cảnh không phải là bội bạc, mà chỉ là phận mỏng (hồng nhan bạc mệnh). Hai chữ “đã đành” giông như một lời thanh minh, tuy ngậm ngùi nhưng giông như một sự giải thoát. Nhưng vì sao Thúy Kiều vẫn canh cánh một mặc cảm như một kẻ phụ tình? Thì ra, dù trao duyên, dù dặn em thay lời, nhưng vẫn còn là chưa đủ. Tình, nghĩa là chuyện ơn sâu, đền đáp đến mấy cũng chỉ là trong muôn một mà thôi. Day dứt đó của nhân vật vừa là tiếng nói của đạo lí, vừa thâm đẫm chất nhân văn nâng con người ta lên đến tầm cao cả.
Vanmau.edu.vn
|
Phân tích đoạn thơ “Trao duyên” để làm rõ nỗi đoạn trường về tình duyên lỡ bỏ
Gợi ý
Đoạn trích “Trao duyên” có thể có hai cách sắp xếp: theo bố cục bên ngoài hoặc kết cấu bên trong. Nếu bố cục bên ngoài theo tuyến tính thời gian có thể dựa vào trình tự: Kiều nhờ Vân thay mình trả nghĩa, cuộc bàn giao kỉ vật và lời dặn dò, tâm trạng của Kiều sau lúc trao duyên. Còn nếu dựa vào kết cấu bên trong lại hoàn toàn khác: “cái tôi” đạo lí theo quan niệm truyền thống khi Thúy Kiều nhờ em trả nghĩa (12 câu đầu) và sau đó là “cái tôi” cá nhân đòi hạnh phúc cho riêng mình từ lúc trao kỉ. vật và tất cả đoạn sau (22 câu tiếp nối). Ớ đây, chúng ta hãy tìm hiểu đoạn trích theo cách thứ hai, nói về “cái tôi” đạo lí: “Cậy em, em có chịu lời…”.
Một cặp câu lục bát tưởng êm xuôi mà giằng xé. Nó phản ánh một tâm trạng ngổn ngang, vì ngổn ngang mà cách nói khác thường. “Cậy em” là nói về sự gửi gắm của người nói, còn “chịu lời” lại nói đến người nghe. Rồi sau đó, trình tự đã đảo ngược: “Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa”. Tâm trạng Kiều rối bời vì cảnh ngộ cùng đường (thời cơ duy nhất trước lúc phải đi xa), cũng còn vì nói ra cái điều khó nói (Hở môi ra cũng thẹn thùng – Để lòng thì phụ tấm lòng với ai). Hai câu thơ gần với khẩu ngữ không còn chú ý đến sự cân nhắc, đắn đo, đường ranh giới giữa văn chương với cuộc sông mờ nhòe, chỉ còn đây một tấm lòng run rẩy. Thế mà hàm súc, thiết tha! Để “thưa” gửi cái điều vô cùng hệ trọng, cần đến ba động tác (cậy em, chịu lời, ngồi lên cho chị lạy), có gì đó như quá lời, nhưng hình như với Thúy Kiều, nó vẫn còn như chưa đủ. “Cậy em” là nhờ vả, một sự nhờ vả được đóng đinh với lòng tin gửi gắm trong quan hệ chị em ruột thịt (chị ngã em nâng) thâm tình, cốt nhục. Nhưng đó là ý chị, còn phải tùy em: “em có chịu lời”. “Chịu” ở đây là chấp nhận thiệt thòi. Vì tơ duyên mà Vân thay Kiều tiếp nối là một “mốì tơ thừa” do chị sắp đặt, gán ghép. Điều ân nghĩa của Vân không phải sau này (ví như kiếp sau) Kiều sẽ không quên mà ngay lúc này đây: Kiều vái em một lạy. Riêng một điều đó thôi cũng đủ chứng tỏ lời nhờ cậy còn lớn hơn người nhờ cậy rất nhiều. Nó cao hơn sinh mạng của kẻ phát ngôn. Kiều là thế. Trong trường hợp phải cân nhắc giữa mình và người, nàng hoàn toàn là một nhân cách vị tha thứ chưa bao giờ vị kỉ. Kể cả trong lĩnh vực tình yêu, một tình yêu mà chỉ cần nhắc tới nó thôi là vị say đắm, ngọt ngon đã thảo thơm trên đầu lưỡi:Xem thêm: Anh (chị) nghĩ gì khi nhìn những cánh rừng tiếp tục bị tàn phá?Kể từ khi gặp chàng Kim,
Khi ngày quạt ước khi đêm chén thề.
Thật ra thì trao nhau kỉ vật chỉ có một lần, thề ước cũng chỉ có một đêm, nhưng hai từ “khi” đặt vào đây: tất cả đã được nâng cấp. Những lần gặp gỡ không nhiều với chàng Kim của nàng bỗng biến thành ngày hội, ngày hội của tình yêu mà đời người con gái chí có một lần. Phải hi sinh cái điều quý giá ấy, phải nhường nó lại cho em, đau đớn nhường nào, nhưng Kiều phải làm bằng được. Bởi cái tình tuy lớn, cái nghĩa còn lớn hơn. Hi sinh mà hiểu được cái giá của sự hi sinh, tính nhân bản trong con người đạo lí của nàng Kiều không còn đơn giản nữa.
Song, Vân không nói. Chắc Vân đã vì chị mà nhận lời. Mọi sự sẽ êm xuôi không còn gì đáng kể, chỉ cần vài thủ tục như bàn giao kỉ vật, dặn dò vài câu lấy lệ là xong (vì cái mà Kiều cần đã có, mong muôn đã toại nguyện). Nhưng không. Một cơn gió trái chiều bỗng nhiên xuất hiện. Nó xuất hiện một cách bất ngờ, khi cái tôi của riêng nàng, cái tôi cá nhân khao khát tình yêu, đòi được tình yêu lên tiếng. Bắt đầu từ nghi thức bàn giao:
Chiếc vành với bức tờ mây,
Duyên này thì giữ vật này của chung.
Hai chữ “của chung” thật là đau đớn! Hơn ai hết, Kiều biết bàn giao như thế là không minh bạch, nhưng tình yêu làm sao có thể sòng phẳng, rạch ròi. Tình yêu là của trái tim làm sao có thể chia đôi, đó là chưa nói khi mất nó rồi, con người ta lấy gì để sống? Cách nói không dứt khoát của Kiều phản ánh một sự giằng co giữa mất và còn, cái hữu hình thì muốn trao tay còn cái vô hình thì muốn giữ lại. Chỉ cần thay từ “của chung” ấy bằng từ “của em” thì câu thơ có thể sẽ còn nhưng con người đã mất. Nguyễn Du không làm thế, bởi nếu làm thế thì không phải với nàng Kiều, không phải với con người cá nhân mà thời đại bão táp của ông đòi giải phóng.Xem thêm: Tình thương là hạnh phúc con người Ngòi bút đau đớn của Nguyễn Du cứ phổ vào ngôn ngữ Thúy Kiều với nỗi đau giằng xé mãi không thôi: “Dù em nên vợ nên chồng”. Tại sao không phải: “Rồi em nên vợ nên chồng’”? Một câu giả định và một câu khẳng định có khoảng cách rất xa như một tiếng thở dài bất lực vừa buông xuôi vừa mơ hồ, tiếc nuôi. Đó là sự thổn thức tiếp theo, một sự níu kéo dù rất vô tình, ấy là con người “thứ hai” của Thúy Kiều lên tiếng. Không chỉ có thể, cái ý “của chung” một lần nữa cất lên: “Mất người còn chút của tin / Phún đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa”. Cứ thế, Kiều ôm mãi cái thứ gọi là “của chung” đó vào lòng, không lúc nào buông rơi, đoạn thơ cứ thảng thốt dần, xa vắng dần. Kiều đã nghĩ lúc minh sống mà như chết, trở thành một ọan hồn chỉ có thể hiện về trong gió trong cây sưỏi nhờ hơi ấm của lò hương và nghe lại tiếng đàn của đêm thề nguyền xưa. Trong tấm lòng đau đáu của Nguyễn Du, Thúy Kiều, Đạm Tiên, Tiểu Thanh… như những người đồng cảnh ngộ “Son phấn có thần chôn vẫn hận/ Văn chương không mệnh đốt còn vương” (Đọc Tiểu Thanh kí). Cái đau cho nhân vật mà nhà thơ sáng tạo ra hay cái đau của chính bản thân mình trong đó.
Bởi vậy, lời giã từ Kim Trọng, giã từ tình yêu với Kim Trọng khi “của chung” đã thành “của riêng”, cái mà nàng níu giữ đã không còn. Nó thôhg thiết, đớn đau như máu chảy ra đầu ngọn bút: trâm đã gãy, gương đã tan. Cảm giác mất mát thực sự cồn lên, cuồn cuộn dâng trào, đồng thời với “trăm ngàn” tan nát:Xem thêm: Viết bài văn nghị luận bàn về thái độ khiêm tốn, không giấu dốt mà anh (chị) rút ra được sau khi học truyện “Tam đại con gà”Trăm nghìn gửi lạy tình quân,
Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi!
Đến đây, con người cá nhân và con người đạo lí sau một trường đoạn tách ra đã nhập lại. Thay thế cho niềm thương xót bản thân, Kiều xót thương cho chàng Kim vì mình mà dang dở. Nàng cảm thấy có lỗi với một kẻ chung tình:
Phận sao phận bạc như vôi!
Đã đành nước chảy hoa trôi lã làng.
Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang!
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!
Hai khái niệm “bạc” và “phụ” ở đây không cùng nằm trong một trường nghĩa. “Bạc” trong văn cảnh không phải là bội bạc, mà chỉ là phận mỏng (hồng nhan bạc mệnh). Hai chữ “đã đành” giông như một lời thanh minh, tuy ngậm ngùi nhưng giông như một sự giải thoát. Nhưng vì sao Thúy Kiều vẫn canh cánh một mặc cảm như một kẻ phụ tình? Thì ra, dù trao duyên, dù dặn em thay lời, nhưng vẫn còn là chưa đủ. Tình, nghĩa là chuyện ơn sâu, đền đáp đến mấy cũng chỉ là trong muôn một mà thôi. Day dứt đó của nhân vật vừa là tiếng nói của đạo lí, vừa thâm đẫm chất nhân văn nâng con người ta lên đến tầm cao cả.
Vanmau.edu.vn
|
Phân tích đoạn thơ: Ta về mình có nhớ ta…..Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung, trong bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu.
Hướng dẫn
Tố Hữu luôn viết về lí tưởng, về lẽ sống, lòng trung thành với cách mạng, là một trong những nhà thơ lớn, tiêu biểu nhất của nền thơ ca Việt Nam hiện đại. Ông là người có tấm lòng yêu dân, yêu nước sâu sắc, vì vậy các sáng tác của ông rất gần gũi với nhân dân. Bài thơ Việt Bắc là một bức tranh trữ tình mà hoàng tráng, bao quát cả một không gian toàn bộ Việt Bắc là một bài thơ dài, không phải đoạn nào viết cũng đều tay. Nhưng có những đoạn quả thật là đặc sắc mà ở đó người đọc thấy được vẻ đẹp của ngòi bút Tố Hữu.
Đoạn thơ tả cảnh thiên nhiên hay nhất trong toàn thể bài thơ. Tác giả chỉ dùng 10 câu, tập trung nói đến một chủ đề, nhưng nó đã đạt đến sự toàn bích. Đoạn thơ này có thể chia làm hai phần: phần đầu gồm hai câu đầu và phần còn lại. Phần đầu nó như lời mở đầu đưa đẩy trong cuộc hát giao duyên. Trong đó người con trai (người về xuôi) vừa ướm hỏi lòng người ở lại, vừa khẳng định tình cảm trong lòng mình. Phần sau gồm 8 câu chia thành 4 cặp lục bát.
Trong mỗi câu thơ tác giả đã có sự kết hợp giữa hoa và người. Nó là một bức tranh tứ bình diễn tả họa và người ở Việt Bắc trong bốn mùa bằng những nét đặc trưng nhất của miền này. Có thể nói, cảnh sắc thiên nhiên Việt Bắc tuy được mô tả rải rác trong cả bài thơ nhưng dường như nó được kết tinh vào đoạn này một cách hàm súc, cô đúc nhất.
Mỗi một câu thơ như một lời đối đáp thân tình của cặp đôi trai gái, lời thơ ngọt ngào tha thiết, đi vào lòng người:
"Ta về mình có nhơ ta"
Lời đối đáp nghe thật thắm thiết, quyến luyến của đôi trai gái, nhưng với cách xưng hô ta – mình, mình – ta, khiến cho tình cảm của hai người lại trở nên bình dị, vô tư. Cũng nhờ cách xưng hô này, đôi trai gái lại có điều kiện thoải mái để bày tỏ tình cảm của mình. Ta vẫn chẳng biết mình có nhớ ta không, nhưng ngay cả khi mình không nhớ ta thì ta vẫn cứ nhớ mình. Mà nỗi nhớ mới duyên dáng và tế nhị làm sao:Xem thêm: Trình bày hoàn cảnh và tâm trạng của An - đrây Xô - cô - lốp sau khi chiến tranh thế giới kết thúc và trước khi gặp bé Va - ni - a trong đoạn trích Số phận con người của Sô - lô - khôp
"Ta về ta nhớ những hoa cùng người"
Người ra về lưu luyến với Việt Bắc không chỉ có cảnh đẹp mà còn cả con người tình nghĩa nơi đây. Trong nỗi nhớ của người đi, hai hình ảnh này là đồng hiện, soi chiếu vào nhau. Hoa là thứ đẹp nhất của thiên nhiên, còn người ta lại là "hoa của đất". Vì vậy, hễ nhớ đến người thi hiện bóng hoa, hễ nhớ về hoa thì hiện hình người. Hoa và người không thể tách rời. Mà nói với một người con gái, lại nói "hoa cùng người" thì đó chẳng phải là một lời đánh giá kín đáo hay sao?
Hình ảnh đẹp và được tác giả nhắc đến là hình ảnh hết sức bình dị, diễn ra ở mọi nơi trên đất trời Việt Bắc:
"Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng"
Một màu xanh man mác, dấu hiệu của cuộc sống tươi đẹp, tràn trề nhựa sống đang bao trùm không gian, đất trời vùng Việt Bắc. Đó là một màu xanh mênh mông, trầm tĩnh của rừng già. Nó gợi ra hình ảnh một xứ sở êm đềm, lặng lẽ, yên tĩnh. Nhưng trên cái nền xanh ấy, chúng ta nhìn thấy hình ảnh hoa chuối rừng bập bùng cháy như những bó đuốc. Ai đã biết hoa chuối nở, sẽ thấy rằng tuy tác giả viết hai chữ "đỏ tươi" nhưng cũng đủ gợi cho chúng ta biết hoa chuối đã làm sáng lên một góc rừng. Thế là hoa chuối làm cho cảnh rừng trở nên sống động hơn. Đồng thời hình ảnh hoa chuối lại được tô điểm thêm những tia nắng ở câu thứ hai càng làm cho không khí vốn trầm mặc ở nơi này lại trở nên tươi sáng và linh động. Trên nền cảnh ấy, hình ảnh con người xuất hiện:
''Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng"
Đó là hình ảnh những con người lao động của núi rừng Việt Bắc. Họ đang bước lên đèo với một tinh thần lao động miệt mài, không quản khó nhọc. Thiên nhiên cũng như hòa cùng vào niềm vui với những người lao động. Người đứng trên đỉnh đèo cao, ánh nắng chiếu vào lưỡi dao trên thắt lưng, lóe sáng. Nó gợi được một tư thế vững chãi, tự tin của người làm chủ núi rừng. Tố Hữu thường mô tả con người trong những tư thế ấy. Trong bài Lên Tây Bắc tác giả có viết:Xem thêm: Hãy viết đoạn văn trình bày cách hiểu của anh (chị) về quan niệm của ta-go "Yêu là tên gọi khác của sự hiểu nhau". (Ta-go)
"Rất đẹp hình anh lúc nắng chiều
Bóng dài trên đỉnh dốc cheo leo
Núi không đề nổi vai vươn tới
Lá ngụy trang reo với gió đèo".
Trong đoạn thơ trên nhà thơ không vẽ kĩ mà chỉ chấm phá vài nét song cũng đủ cho ta hình dung khá rõ nét về hình tượng. Vậy là, tương ứng với một cảnh hoa là một dáng điệu người, mỗi dáng điệu toát lên một phẩm chất của người Việt Bắc.
Mùa xuân ở Việt Bắc thì đẹp lắm, làm say đắm lòng người. Nhưng đi vào thơ ca Tố Hữu thì vẽ đẹp ấy thật đời thường, nhưng không phải ai cũng có thể nhận ra vẻ đẹp ấy.
"Ngày xuân hoa nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang"
Một màu trắng tinh khiết của hoa mơ đã bao trùm khắp núi rừng Việt Bắc. Hai chữ "trắng rừng" khiển cảnh rừng bừng sáng. Phải nói rằng đây là một hình ảnh có sức ám ảnh lớn đối với hồn thơ Tố Hữu. Việt Bắc trong nỗi nhớ của Tố Hữu dường như không thể thiếu được sắc hoa này. Về sau, trong bài Theo chân Bác, Tố Hữu viết:
"Ôi sáng xuân nay, xuân 41
Trắng rừng biên giới nở hoa mơ
Bác về. Im lặng. Con chim hót
Thánh thót bờ lau vui ngẩn ngơ"
Giữa một không gian bao la tươi đẹp ấy là hình ảnh những người lao động cần cù, đáng quý. Hai chữ "chuốt từng" gợi ra được dáng điệu cần mẫn, cẩn trọng và tài hoa. Không gì người đan nón kia gửi vào từng sợi giang nỗi niềm gì, ước mơ gì?
"Ve kêu rừng phách đỏ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình"
Bức tranh thiên nhiên tác giả nói đến không chỉ thấy màu sắc, đường nét và ánh sáng, mà chúng ta còn nghe thấy được âm thanh của rừng, đó là tiếng nhạc ve. Nhạc ve làm cho không khí trở nên xao động. Phải nói rằng trong các bức tranh ở đây thì Việt Bắc mùa hè là đặc sắc hơn cả. Trong câu thơ, chúng ta thấy dường như có một có một phản ứng dây chuyền chạy từ đầu đến cuối câu thơ. Ve kêu gọi hè đến, hè đến làm cho những rừng phách ngả sang màu vàng. Ai đã lên Việt Bắc, dễ thấy hình ảnh kì lạ của những cánh rừng phách vẫn là màu xanh, nụ hoa vẫn náu kín trong những kẽ lá. Nhưng khi những tiếng ve đầu tiên của mùa hè cất lên thì chúng đồng loạt trổ hoa vàng. Chỉ có một vài ba ngày mà những rừng phách đã lênh láng sắc vàng. Chữ "đổ" là một chữ tinh tế. Nó nhấn mạnh khía cạnh mau lẹ trong việc biến đổi màu sắc, đồng thời diễn tả những trận mưa hoa vàng rừng phách mỗi khi có một luồng gió ào qua. Rõ ràng, gam màu đến đây đã thay đổi hẳn, sắc trắng đã nhường chổ hẳn cho sắc vàng. Dường như âm thanh đã làm biến đổi thay màu sắc. Trên nền cảnh ấy xuất hiện một hình ảnh lao động đầy kiên nhẫn của một cô gái Việt Bắc: "Nhớ cô em gái hãi măng một mình". Hình ảnh này làm toát lên dáng điệu chịu thương, chịu khó, hay lam hay làm, giàu đức hi sinh. Bao bọc lên hình ảnh này dường như chúng ta thấy sự cảm thương kín đáo của người viết.Xem thêm: Phân tích bài thơ Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm
Ngày ở Việt Bắc đã đẹp, đêm trăng mới tĩnh mịch, thơ mộng làm sao. Bức tranh vẽ ra những ánh trăng rọi qua vòm lá tạo thành một khung cảnh huyền ảo:
"Rừng thu trăng rọi hòa bình".
Tác giả đã tái hiện lên cảnh đêm trăng trên nứi rừng Việt Bắc, của những đêm hòa bình, không có bóng giặc, tạo cho dân làng cuộc sống yên bình. Đây đúng là khung cảnh hữu tình dành cho những cuộc hát dao duyên. Cho nên nó cũng là cảnh cuối cùng:
"Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung"
Chữ "ai" là cách nói bóng gió, ám chỉ người đang hát cùng với mình, làm cho lời lẽ trở nên tình tứ hơn. Và qua tiếng hát chúng ta thấy được phẩm chất ân tình, chung thủy của người Việt Bắc.
Với những từ ngữ hết sức bình dị, lời thơ du dương Tố Hữu đã tái hiện lại những gì là đặc trưng nhất của quê hương cách mạng. Đó là tình yêu của tác giả với căn cứ quan trọng của cuộc cách mạng. Chính nơi thơ mộng này đã nuôi dưỡng và rèn luyện những người con của cách mạng, làm cho họ thấm nhuần lí tưởng cách mạng và thêm yêu đất nước quê hương, làm động lực để tiếp tục đứng lên chống lại bom đạn của kẻ thù.
Nguồn:
|
Phân tích đoạn thơ: Ta về mình có nhớ ta…..Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung, trong bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu.
Hướng dẫn
Tố Hữu luôn viết về lí tưởng, về lẽ sống, lòng trung thành với cách mạng, là một trong những nhà thơ lớn, tiêu biểu nhất của nền thơ ca Việt Nam hiện đại. Ông là người có tấm lòng yêu dân, yêu nước sâu sắc, vì vậy các sáng tác của ông rất gần gũi với nhân dân. Bài thơ Việt Bắc là một bức tranh trữ tình mà hoàng tráng, bao quát cả một không gian toàn bộ Việt Bắc là một bài thơ dài, không phải đoạn nào viết cũng đều tay. Nhưng có những đoạn quả thật là đặc sắc mà ở đó người đọc thấy được vẻ đẹp của ngòi bút Tố Hữu.
Đoạn thơ tả cảnh thiên nhiên hay nhất trong toàn thể bài thơ. Tác giả chỉ dùng 10 câu, tập trung nói đến một chủ đề, nhưng nó đã đạt đến sự toàn bích. Đoạn thơ này có thể chia làm hai phần: phần đầu gồm hai câu đầu và phần còn lại. Phần đầu nó như lời mở đầu đưa đẩy trong cuộc hát giao duyên. Trong đó người con trai (người về xuôi) vừa ướm hỏi lòng người ở lại, vừa khẳng định tình cảm trong lòng mình. Phần sau gồm 8 câu chia thành 4 cặp lục bát.
Trong mỗi câu thơ tác giả đã có sự kết hợp giữa hoa và người. Nó là một bức tranh tứ bình diễn tả họa và người ở Việt Bắc trong bốn mùa bằng những nét đặc trưng nhất của miền này. Có thể nói, cảnh sắc thiên nhiên Việt Bắc tuy được mô tả rải rác trong cả bài thơ nhưng dường như nó được kết tinh vào đoạn này một cách hàm súc, cô đúc nhất.
Mỗi một câu thơ như một lời đối đáp thân tình của cặp đôi trai gái, lời thơ ngọt ngào tha thiết, đi vào lòng người:
"Ta về mình có nhơ ta"
Lời đối đáp nghe thật thắm thiết, quyến luyến của đôi trai gái, nhưng với cách xưng hô ta – mình, mình – ta, khiến cho tình cảm của hai người lại trở nên bình dị, vô tư. Cũng nhờ cách xưng hô này, đôi trai gái lại có điều kiện thoải mái để bày tỏ tình cảm của mình. Ta vẫn chẳng biết mình có nhớ ta không, nhưng ngay cả khi mình không nhớ ta thì ta vẫn cứ nhớ mình. Mà nỗi nhớ mới duyên dáng và tế nhị làm sao:Xem thêm: Trình bày hoàn cảnh và tâm trạng của An - đrây Xô - cô - lốp sau khi chiến tranh thế giới kết thúc và trước khi gặp bé Va - ni - a trong đoạn trích Số phận con người của Sô - lô - khôp
"Ta về ta nhớ những hoa cùng người"
Người ra về lưu luyến với Việt Bắc không chỉ có cảnh đẹp mà còn cả con người tình nghĩa nơi đây. Trong nỗi nhớ của người đi, hai hình ảnh này là đồng hiện, soi chiếu vào nhau. Hoa là thứ đẹp nhất của thiên nhiên, còn người ta lại là "hoa của đất". Vì vậy, hễ nhớ đến người thi hiện bóng hoa, hễ nhớ về hoa thì hiện hình người. Hoa và người không thể tách rời. Mà nói với một người con gái, lại nói "hoa cùng người" thì đó chẳng phải là một lời đánh giá kín đáo hay sao?
Hình ảnh đẹp và được tác giả nhắc đến là hình ảnh hết sức bình dị, diễn ra ở mọi nơi trên đất trời Việt Bắc:
"Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng"
Một màu xanh man mác, dấu hiệu của cuộc sống tươi đẹp, tràn trề nhựa sống đang bao trùm không gian, đất trời vùng Việt Bắc. Đó là một màu xanh mênh mông, trầm tĩnh của rừng già. Nó gợi ra hình ảnh một xứ sở êm đềm, lặng lẽ, yên tĩnh. Nhưng trên cái nền xanh ấy, chúng ta nhìn thấy hình ảnh hoa chuối rừng bập bùng cháy như những bó đuốc. Ai đã biết hoa chuối nở, sẽ thấy rằng tuy tác giả viết hai chữ "đỏ tươi" nhưng cũng đủ gợi cho chúng ta biết hoa chuối đã làm sáng lên một góc rừng. Thế là hoa chuối làm cho cảnh rừng trở nên sống động hơn. Đồng thời hình ảnh hoa chuối lại được tô điểm thêm những tia nắng ở câu thứ hai càng làm cho không khí vốn trầm mặc ở nơi này lại trở nên tươi sáng và linh động. Trên nền cảnh ấy, hình ảnh con người xuất hiện:
''Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng"
Đó là hình ảnh những con người lao động của núi rừng Việt Bắc. Họ đang bước lên đèo với một tinh thần lao động miệt mài, không quản khó nhọc. Thiên nhiên cũng như hòa cùng vào niềm vui với những người lao động. Người đứng trên đỉnh đèo cao, ánh nắng chiếu vào lưỡi dao trên thắt lưng, lóe sáng. Nó gợi được một tư thế vững chãi, tự tin của người làm chủ núi rừng. Tố Hữu thường mô tả con người trong những tư thế ấy. Trong bài Lên Tây Bắc tác giả có viết:Xem thêm: Hãy viết đoạn văn trình bày cách hiểu của anh (chị) về quan niệm của ta-go "Yêu là tên gọi khác của sự hiểu nhau". (Ta-go)
"Rất đẹp hình anh lúc nắng chiều
Bóng dài trên đỉnh dốc cheo leo
Núi không đề nổi vai vươn tới
Lá ngụy trang reo với gió đèo".
Trong đoạn thơ trên nhà thơ không vẽ kĩ mà chỉ chấm phá vài nét song cũng đủ cho ta hình dung khá rõ nét về hình tượng. Vậy là, tương ứng với một cảnh hoa là một dáng điệu người, mỗi dáng điệu toát lên một phẩm chất của người Việt Bắc.
Mùa xuân ở Việt Bắc thì đẹp lắm, làm say đắm lòng người. Nhưng đi vào thơ ca Tố Hữu thì vẽ đẹp ấy thật đời thường, nhưng không phải ai cũng có thể nhận ra vẻ đẹp ấy.
"Ngày xuân hoa nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang"
Một màu trắng tinh khiết của hoa mơ đã bao trùm khắp núi rừng Việt Bắc. Hai chữ "trắng rừng" khiển cảnh rừng bừng sáng. Phải nói rằng đây là một hình ảnh có sức ám ảnh lớn đối với hồn thơ Tố Hữu. Việt Bắc trong nỗi nhớ của Tố Hữu dường như không thể thiếu được sắc hoa này. Về sau, trong bài Theo chân Bác, Tố Hữu viết:
"Ôi sáng xuân nay, xuân 41
Trắng rừng biên giới nở hoa mơ
Bác về. Im lặng. Con chim hót
Thánh thót bờ lau vui ngẩn ngơ"
Giữa một không gian bao la tươi đẹp ấy là hình ảnh những người lao động cần cù, đáng quý. Hai chữ "chuốt từng" gợi ra được dáng điệu cần mẫn, cẩn trọng và tài hoa. Không gì người đan nón kia gửi vào từng sợi giang nỗi niềm gì, ước mơ gì?
"Ve kêu rừng phách đỏ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình"
Bức tranh thiên nhiên tác giả nói đến không chỉ thấy màu sắc, đường nét và ánh sáng, mà chúng ta còn nghe thấy được âm thanh của rừng, đó là tiếng nhạc ve. Nhạc ve làm cho không khí trở nên xao động. Phải nói rằng trong các bức tranh ở đây thì Việt Bắc mùa hè là đặc sắc hơn cả. Trong câu thơ, chúng ta thấy dường như có một có một phản ứng dây chuyền chạy từ đầu đến cuối câu thơ. Ve kêu gọi hè đến, hè đến làm cho những rừng phách ngả sang màu vàng. Ai đã lên Việt Bắc, dễ thấy hình ảnh kì lạ của những cánh rừng phách vẫn là màu xanh, nụ hoa vẫn náu kín trong những kẽ lá. Nhưng khi những tiếng ve đầu tiên của mùa hè cất lên thì chúng đồng loạt trổ hoa vàng. Chỉ có một vài ba ngày mà những rừng phách đã lênh láng sắc vàng. Chữ "đổ" là một chữ tinh tế. Nó nhấn mạnh khía cạnh mau lẹ trong việc biến đổi màu sắc, đồng thời diễn tả những trận mưa hoa vàng rừng phách mỗi khi có một luồng gió ào qua. Rõ ràng, gam màu đến đây đã thay đổi hẳn, sắc trắng đã nhường chổ hẳn cho sắc vàng. Dường như âm thanh đã làm biến đổi thay màu sắc. Trên nền cảnh ấy xuất hiện một hình ảnh lao động đầy kiên nhẫn của một cô gái Việt Bắc: "Nhớ cô em gái hãi măng một mình". Hình ảnh này làm toát lên dáng điệu chịu thương, chịu khó, hay lam hay làm, giàu đức hi sinh. Bao bọc lên hình ảnh này dường như chúng ta thấy sự cảm thương kín đáo của người viết.Xem thêm: Phân tích bài thơ Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm
Ngày ở Việt Bắc đã đẹp, đêm trăng mới tĩnh mịch, thơ mộng làm sao. Bức tranh vẽ ra những ánh trăng rọi qua vòm lá tạo thành một khung cảnh huyền ảo:
"Rừng thu trăng rọi hòa bình".
Tác giả đã tái hiện lên cảnh đêm trăng trên nứi rừng Việt Bắc, của những đêm hòa bình, không có bóng giặc, tạo cho dân làng cuộc sống yên bình. Đây đúng là khung cảnh hữu tình dành cho những cuộc hát dao duyên. Cho nên nó cũng là cảnh cuối cùng:
"Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung"
Chữ "ai" là cách nói bóng gió, ám chỉ người đang hát cùng với mình, làm cho lời lẽ trở nên tình tứ hơn. Và qua tiếng hát chúng ta thấy được phẩm chất ân tình, chung thủy của người Việt Bắc.
Với những từ ngữ hết sức bình dị, lời thơ du dương Tố Hữu đã tái hiện lại những gì là đặc trưng nhất của quê hương cách mạng. Đó là tình yêu của tác giả với căn cứ quan trọng của cuộc cách mạng. Chính nơi thơ mộng này đã nuôi dưỡng và rèn luyện những người con của cách mạng, làm cho họ thấm nhuần lí tưởng cách mạng và thêm yêu đất nước quê hương, làm động lực để tiếp tục đứng lên chống lại bom đạn của kẻ thù.
Nguồn:
|
Đề bài: Phân tích đoạn văn Chuyện cũ trong phủ Chúa Trịnh trích Vũ trung tuỳ bút của Phạm Đình Hổ.
Phạm Đình Hổ (1768 – 1839), tên thường gọi là Chiêu Hổ, sinh trưởng trong một gia đình dòng dõi khoa bảng ở làng Đan Loan, huyện Đường An, tinh Hải Dương. Cha đậu cử nhân và ra làm quan dưới triều Lê. Từ thuở nhỏ, Chiêu Hổ đã ôm ấp mộng văn chương. Sau này, ông vào học trường Quốc Tử Giám và thi đậu sinh đồ, nhưng vì thời thế không yên nên đành lánh về quê dạy học. Năm 1821, vua Minh Mạng nhà Nguyền tuần du ra Bắc. Phạm Đình Hổ dâng một số trước tác lên nhà vua và được bổ nhiệm một chức quan ở Viện hàn lâm. Được một thời gian, ông xin nghỉ việc. Đến năm 1826, Minh Mạng lại triệu Phạm Đình Hổ vào kinh đô Huế nhậm chức Tế tửu Quốc Tử Giám, rồi Thị giảng học sĩ.
Phạm Đình Hổ bắt đầu sáng tác từ thời Tây Sơn, nhưng chủ yếu là vào những năm đầu của triều Nguyễn. Ông để lại nhiều tác phẩm, trong đó giá trị nhất là hai thiên kí sự Vũ trung tuỳ bút và Tang thương ngẫu lục.
Vũ trung tuỳ bút gồm 88 mẩu chuyện nhỏ, viết theo thể tuỳ bút, cung cấp cho người đọc những kiến thức về văn hoá truyền thông, về phong tục tập quán và đặc điểm địa lí cùng những danh lam thắng cảnh của quê bương, đất nước.
Chuyện cũ trong phủ Chúa Trịnh ghi chép lại những cảnh sinh hoạt diễn ra hằng ngày ở phủ Chúa thời Trịnh Sâm. Qua đó, tác giả ngầm lên án thói ăn chơi xa xỉ, vô đạo đức của Trịnh Sâm và bọn quan lại hầu cận dưới quyền.
Lúc mới lên ngôi Chúa, Trịnh Sâm là con người cứng rắn, thông minh, quyết đoán, sáng suốt, trí tuệ hơn người. Nhưng sau khi đã dẹp yên được các phe phái chống đối, lập lại kỉ cương cho triều đình thì dần dần sinh bụng kiêu căng, xa xỉ, phi tần thị nữ kén vào rất nhiều, mặc ý vui chơi thoả thích. Chúa Trịnh say mê Đặng Thị Huệ, đắm chìm trong cuộc sống xa hoa, ăn chơi hưởng lạc, phế con trưởng lập con thứ, gây nên rất nhiều điều bạo ngược, dẫn đến cảnh nồi da xáo thịt. Các vương tử tranh giành quyền lực, chém giết lẫn nhau. Trịnh Sâm mất năm 1782, ở ngôi Chúa được 16 năm.
Thói ăn chơi ngông nghênh, xa xi của Trịnh Sâm và lũ quan lại hầu cận được tác giả miếu tả qua những chi tiết tiêu biếu như Trịnh Sâm cho xây dựng nhiều cung điện, đền đài ở các nơi để thoả mãn ý thích đi chơi, ngắm cảnh đẹp của mình. Việc xây dựng đình đài cứ làm liên tục trong nhiều năm, hao tốn không biết bao nhiêu là tiền của. Không mấy quan tâm đến lợi ích to lớn của quốc gia, dân tộc, ngược lại, Chúa Trịnh dành rất nhiều thời gian để hưởng lạc:
Mỗi tháng ba bổn lần, Vương ra cung Thụy Liên trên bờ Tây Hồ, binh lính dàn hầu vòng quanh bốn mặt hồ, các nội thần thì đều bịt khăn, mặc áo đàn bà, bày bách hoá chung quanh bờ hồ để bán.
Thuyền ngự đi đến đâu thì các quan hô tụng đại thần tuỳ ý ghé vào bờ mua bán các thứ như ở cửa hàng trong chợ. Cũng có lúc cho bọn nhạc công ngồi trên gác chuông chùa Trấn Quốc, hay dưới bóng cây bến đá nào đó, hoà vài khúc nhạc.
Trong đoạn văn này, Các giả đã phơi bày bản chất tham lam của Chúa Trịnh và bè lũ tay sai. Cậy quyền cậy thế, chúng trắng trợn ép buộc dân lành phải cung nộp cho phủ Chúa những thứ quý giá mà Chúa thích:
Buổi ẩy, bao nhiễu những loài trân cầm dị thú, cổ mộc quái thạch, chậu hoa cây cảnh ở chốn dân gian, Chúa đều sức thu lấy, không thiếu một thứ gì. Có khi lấy cả cây đa to, cành lá rườm rà, từ bên bắc chở qua sông đem về. Nó giống như một cây cổ thụ mọc trên đầu non hốc đá, rễ dài đến vài trượng phải một cơ binh mới khiêng nổi…
Tác giả vạch rõ lòng tham vô đáy của Chúa Trịnh bằng nghệ thuật kể chuyện và miêu tả. Các dẫn chứng đưa ra đều khách quan, không xen lời bình. Một vài sự kiện được miêu tả tỉ mỉ, gây ấn tượng rất sâu đậm đôi với người đọc.
Xem thêm: Hãy bình luận ý kiến sau đây của Tuân Tử (313 - 235 trước Công nguyên): “Người chê ta mà chê phải là thầy của ta; người khen ta mà khen phải là bạn ta; những kẻ vuốt ve y nịnh bợ ta chính là kẻ thù của ta vậy"Thái độ bất bình của tác giả thể hiện khá kín đáo trong những câu văn đầy ẩn ý:
Mỗi khi đêm thanh cảnh vắng, tiếng chim kêu vượn hót ran khắp bốn bề hoặc nửa đêm ồn ào như trận mưa sa gió táp, vờ tổ tan đàn, kẻ thức giả biết đó là triệu bất tường.
Cảnh được miêu tả là cảnh thực của những khu vườn lộng lẫy, đầy trân cầm, dị thú, cổ mộc, quái thạch, được bày vẽ, tô điểm cho giông thiên nhiên nơi bến bể, đầu non, nhưng âm thanh lại gợi cảm giác ghê rợn trước một cái gì đó tan tác, đau thương, chứ không phải trước cảnh đẹp yên bình, thơ mộng. Đó là triệu bất tường, tức là điềm gở, báo trước sự suy vong tất yếu của một triều đại chỉ lo ăn chơi hưởng lạc trên mồ hồi, nước mắt và cả xương máu của dân lành. Quả thực điều đó đà xảy ra sau khi Trịnh Sâm mất không lâu.
Thời Trịnh Sâm, bọn hoạn quan hầu cận trong phủ Chúa được sủng ái bởi chúng rất đắc lực trong việc giúp Chúa bày ra các trò ăn chơi hưởng lạc. Vì vậy nên chúng thường ỷ thế Chúa mà hoành hành, tác oai tác quái, “nhờ gió bẻ măng”, nhũng nhiễu, vơ vét của dân lành bằng nhiều thủ đoạn hèn hạ, độc ác. Thủ đoạn mà chúng thường sử dụng là hành động vừa ăn cướp, vừa la làng. Người dân bị hại tới hai lần, bằng không thì cũng phải tự tay huỷ bỏ tài sản của mình để tránh tai vạ. Đó là điều hêt sức vô lí, bất công. Bọn hoạn quan vừa vơ vét đế ních đầy túi tham, vừa được tiếng mẫn cán trong việc cung phụng Chúa:
Bọn hoạn quan cung giám lại thường nhờ gió bẻ măng, ra ngoài dọa dẫm Họ dò xem nhà nào có chậu hoa cây cảnh, chim tốt khướu hay, thì biên ngay hai chữ “phụng thủ” vào. Đêm đến, các cậu trèo qua tường thành lẻn ra, sai tay chân đem lính đến lấy phăng đi, rồi buộc cho tội đem giấu vật cung phụng để doạ lấy tiền. Hòn đá hoặc cây cối gì to lớn quá thì thậm chí phải phá nhà huỷ tường để khiêng ra. Các nhà giàu bị họ vu cho là giấu vật cung phụng, thường phải bỏ của ra kêu van chí chết, có khi phải đập bỏ núi non bộ, hoặc phá bỏ cây cảnh để tránh khỏi tai vạ.
Kết thúc đoạn văn miêu tả thủ đoạn nham hiểm, độc ác của bọn hoạn quan này, tác giả kể lại một sự việc đã từng xảy ra ngay tại gia đình mình: Đù tiếc đứt ruột nhưng chủ nhà phải sai đầy tớ chặt đi một cây lê và hai cây lựu quý trong vườn đề tránh tai hoạ:
Nhà ta ở phường Hà Khẩu, huyện Thọ Xương, trước nhà tiền đường có trồng một cây lê, cao vài mươi trượng lúc nở hoa, trắng xoá thơm lừng, trước nhà trung đường cũng trồng hai cây lựu trắng, lựu đỏ, lúc ra quá trông rất đẹp, bà cung nhân ta sai chặt đi cũng vì cớ ấy.
Kiểu dẫn dắt câu chuyện như thế đã làm gia tăng đáng kể sức thuyếi phục cho những chi tiết chân thực mà tác giả đã ghi chép ở trên, đồng thời cũng làm cho cách viết thêm phong phú và sinh động. Cảm xúc của tác giả cũng được gửi gắm một cách kín đáo qua đó.
Qua đoạn văn này, tác giả tố cáo bọn quan lại trong phủ Chúa Trịnh vừa tham vừa ác, làm trái với đạo trời và lòng người. Tất yếu, nhân dân sẽ vùng lên lật đổ chúng.
Câu chuyện được tác giả ghi chép rất tự nhiên. Những chi tiết, hiện tượng chân thực được miêu tả tỉ mỉ mà không nhàm chán, xen kẽ những lời binh ngắn gọn, sắc sảo càng làm tăng thêm sức hấp dẫn của tác phẩm.
Bằng thể loại tuỳ bút ghi chép tuỳ hứng những sự kiện mắt thấy tai nghe, Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh của Phạm Đình Hổ đã giúp chúng ta hiểu thêm về đời sông xa hoa vô độ của bọn vua chúa, quan lại phong kiến thời vua Lê chúa Trịnh suy tàn. Đồng thời bước đầu nhận biết được đặc tính cơ bản của thể loại văn tuỳ bút đời xưa và đánh giá được giá trị nghệ thuật của những dòng ghi chép đầy tính hiện thực của Phạm Đình Hổ.
Xem thêm: Soạn bài Tranh làng Hồ
|
Đề bài: Phân tích đoạn văn Chuyện cũ trong phủ Chúa Trịnh trích Vũ trung tuỳ bút của Phạm Đình Hổ.
Phạm Đình Hổ (1768 – 1839), tên thường gọi là Chiêu Hổ, sinh trưởng trong một gia đình dòng dõi khoa bảng ở làng Đan Loan, huyện Đường An, tinh Hải Dương. Cha đậu cử nhân và ra làm quan dưới triều Lê. Từ thuở nhỏ, Chiêu Hổ đã ôm ấp mộng văn chương. Sau này, ông vào học trường Quốc Tử Giám và thi đậu sinh đồ, nhưng vì thời thế không yên nên đành lánh về quê dạy học. Năm 1821, vua Minh Mạng nhà Nguyền tuần du ra Bắc. Phạm Đình Hổ dâng một số trước tác lên nhà vua và được bổ nhiệm một chức quan ở Viện hàn lâm. Được một thời gian, ông xin nghỉ việc. Đến năm 1826, Minh Mạng lại triệu Phạm Đình Hổ vào kinh đô Huế nhậm chức Tế tửu Quốc Tử Giám, rồi Thị giảng học sĩ.
Phạm Đình Hổ bắt đầu sáng tác từ thời Tây Sơn, nhưng chủ yếu là vào những năm đầu của triều Nguyễn. Ông để lại nhiều tác phẩm, trong đó giá trị nhất là hai thiên kí sự Vũ trung tuỳ bút và Tang thương ngẫu lục.
Vũ trung tuỳ bút gồm 88 mẩu chuyện nhỏ, viết theo thể tuỳ bút, cung cấp cho người đọc những kiến thức về văn hoá truyền thông, về phong tục tập quán và đặc điểm địa lí cùng những danh lam thắng cảnh của quê bương, đất nước.
Chuyện cũ trong phủ Chúa Trịnh ghi chép lại những cảnh sinh hoạt diễn ra hằng ngày ở phủ Chúa thời Trịnh Sâm. Qua đó, tác giả ngầm lên án thói ăn chơi xa xỉ, vô đạo đức của Trịnh Sâm và bọn quan lại hầu cận dưới quyền.
Lúc mới lên ngôi Chúa, Trịnh Sâm là con người cứng rắn, thông minh, quyết đoán, sáng suốt, trí tuệ hơn người. Nhưng sau khi đã dẹp yên được các phe phái chống đối, lập lại kỉ cương cho triều đình thì dần dần sinh bụng kiêu căng, xa xỉ, phi tần thị nữ kén vào rất nhiều, mặc ý vui chơi thoả thích. Chúa Trịnh say mê Đặng Thị Huệ, đắm chìm trong cuộc sống xa hoa, ăn chơi hưởng lạc, phế con trưởng lập con thứ, gây nên rất nhiều điều bạo ngược, dẫn đến cảnh nồi da xáo thịt. Các vương tử tranh giành quyền lực, chém giết lẫn nhau. Trịnh Sâm mất năm 1782, ở ngôi Chúa được 16 năm.
Thói ăn chơi ngông nghênh, xa xi của Trịnh Sâm và lũ quan lại hầu cận được tác giả miếu tả qua những chi tiết tiêu biếu như Trịnh Sâm cho xây dựng nhiều cung điện, đền đài ở các nơi để thoả mãn ý thích đi chơi, ngắm cảnh đẹp của mình. Việc xây dựng đình đài cứ làm liên tục trong nhiều năm, hao tốn không biết bao nhiêu là tiền của. Không mấy quan tâm đến lợi ích to lớn của quốc gia, dân tộc, ngược lại, Chúa Trịnh dành rất nhiều thời gian để hưởng lạc:
Mỗi tháng ba bổn lần, Vương ra cung Thụy Liên trên bờ Tây Hồ, binh lính dàn hầu vòng quanh bốn mặt hồ, các nội thần thì đều bịt khăn, mặc áo đàn bà, bày bách hoá chung quanh bờ hồ để bán.
Thuyền ngự đi đến đâu thì các quan hô tụng đại thần tuỳ ý ghé vào bờ mua bán các thứ như ở cửa hàng trong chợ. Cũng có lúc cho bọn nhạc công ngồi trên gác chuông chùa Trấn Quốc, hay dưới bóng cây bến đá nào đó, hoà vài khúc nhạc.
Trong đoạn văn này, Các giả đã phơi bày bản chất tham lam của Chúa Trịnh và bè lũ tay sai. Cậy quyền cậy thế, chúng trắng trợn ép buộc dân lành phải cung nộp cho phủ Chúa những thứ quý giá mà Chúa thích:
Buổi ẩy, bao nhiễu những loài trân cầm dị thú, cổ mộc quái thạch, chậu hoa cây cảnh ở chốn dân gian, Chúa đều sức thu lấy, không thiếu một thứ gì. Có khi lấy cả cây đa to, cành lá rườm rà, từ bên bắc chở qua sông đem về. Nó giống như một cây cổ thụ mọc trên đầu non hốc đá, rễ dài đến vài trượng phải một cơ binh mới khiêng nổi…
Tác giả vạch rõ lòng tham vô đáy của Chúa Trịnh bằng nghệ thuật kể chuyện và miêu tả. Các dẫn chứng đưa ra đều khách quan, không xen lời bình. Một vài sự kiện được miêu tả tỉ mỉ, gây ấn tượng rất sâu đậm đôi với người đọc.
Xem thêm: Hãy bình luận ý kiến sau đây của Tuân Tử (313 - 235 trước Công nguyên): “Người chê ta mà chê phải là thầy của ta; người khen ta mà khen phải là bạn ta; những kẻ vuốt ve y nịnh bợ ta chính là kẻ thù của ta vậy"Thái độ bất bình của tác giả thể hiện khá kín đáo trong những câu văn đầy ẩn ý:
Mỗi khi đêm thanh cảnh vắng, tiếng chim kêu vượn hót ran khắp bốn bề hoặc nửa đêm ồn ào như trận mưa sa gió táp, vờ tổ tan đàn, kẻ thức giả biết đó là triệu bất tường.
Cảnh được miêu tả là cảnh thực của những khu vườn lộng lẫy, đầy trân cầm, dị thú, cổ mộc, quái thạch, được bày vẽ, tô điểm cho giông thiên nhiên nơi bến bể, đầu non, nhưng âm thanh lại gợi cảm giác ghê rợn trước một cái gì đó tan tác, đau thương, chứ không phải trước cảnh đẹp yên bình, thơ mộng. Đó là triệu bất tường, tức là điềm gở, báo trước sự suy vong tất yếu của một triều đại chỉ lo ăn chơi hưởng lạc trên mồ hồi, nước mắt và cả xương máu của dân lành. Quả thực điều đó đà xảy ra sau khi Trịnh Sâm mất không lâu.
Thời Trịnh Sâm, bọn hoạn quan hầu cận trong phủ Chúa được sủng ái bởi chúng rất đắc lực trong việc giúp Chúa bày ra các trò ăn chơi hưởng lạc. Vì vậy nên chúng thường ỷ thế Chúa mà hoành hành, tác oai tác quái, “nhờ gió bẻ măng”, nhũng nhiễu, vơ vét của dân lành bằng nhiều thủ đoạn hèn hạ, độc ác. Thủ đoạn mà chúng thường sử dụng là hành động vừa ăn cướp, vừa la làng. Người dân bị hại tới hai lần, bằng không thì cũng phải tự tay huỷ bỏ tài sản của mình để tránh tai vạ. Đó là điều hêt sức vô lí, bất công. Bọn hoạn quan vừa vơ vét đế ních đầy túi tham, vừa được tiếng mẫn cán trong việc cung phụng Chúa:
Bọn hoạn quan cung giám lại thường nhờ gió bẻ măng, ra ngoài dọa dẫm Họ dò xem nhà nào có chậu hoa cây cảnh, chim tốt khướu hay, thì biên ngay hai chữ “phụng thủ” vào. Đêm đến, các cậu trèo qua tường thành lẻn ra, sai tay chân đem lính đến lấy phăng đi, rồi buộc cho tội đem giấu vật cung phụng để doạ lấy tiền. Hòn đá hoặc cây cối gì to lớn quá thì thậm chí phải phá nhà huỷ tường để khiêng ra. Các nhà giàu bị họ vu cho là giấu vật cung phụng, thường phải bỏ của ra kêu van chí chết, có khi phải đập bỏ núi non bộ, hoặc phá bỏ cây cảnh để tránh khỏi tai vạ.
Kết thúc đoạn văn miêu tả thủ đoạn nham hiểm, độc ác của bọn hoạn quan này, tác giả kể lại một sự việc đã từng xảy ra ngay tại gia đình mình: Đù tiếc đứt ruột nhưng chủ nhà phải sai đầy tớ chặt đi một cây lê và hai cây lựu quý trong vườn đề tránh tai hoạ:
Nhà ta ở phường Hà Khẩu, huyện Thọ Xương, trước nhà tiền đường có trồng một cây lê, cao vài mươi trượng lúc nở hoa, trắng xoá thơm lừng, trước nhà trung đường cũng trồng hai cây lựu trắng, lựu đỏ, lúc ra quá trông rất đẹp, bà cung nhân ta sai chặt đi cũng vì cớ ấy.
Kiểu dẫn dắt câu chuyện như thế đã làm gia tăng đáng kể sức thuyếi phục cho những chi tiết chân thực mà tác giả đã ghi chép ở trên, đồng thời cũng làm cho cách viết thêm phong phú và sinh động. Cảm xúc của tác giả cũng được gửi gắm một cách kín đáo qua đó.
Qua đoạn văn này, tác giả tố cáo bọn quan lại trong phủ Chúa Trịnh vừa tham vừa ác, làm trái với đạo trời và lòng người. Tất yếu, nhân dân sẽ vùng lên lật đổ chúng.
Câu chuyện được tác giả ghi chép rất tự nhiên. Những chi tiết, hiện tượng chân thực được miêu tả tỉ mỉ mà không nhàm chán, xen kẽ những lời binh ngắn gọn, sắc sảo càng làm tăng thêm sức hấp dẫn của tác phẩm.
Bằng thể loại tuỳ bút ghi chép tuỳ hứng những sự kiện mắt thấy tai nghe, Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh của Phạm Đình Hổ đã giúp chúng ta hiểu thêm về đời sông xa hoa vô độ của bọn vua chúa, quan lại phong kiến thời vua Lê chúa Trịnh suy tàn. Đồng thời bước đầu nhận biết được đặc tính cơ bản của thể loại văn tuỳ bút đời xưa và đánh giá được giá trị nghệ thuật của những dòng ghi chép đầy tính hiện thực của Phạm Đình Hổ.
Xem thêm: Soạn bài Tranh làng Hồ
|
Phân tích đoạn trích Chí khí anh hùng (Trích Truyện Kiều của Nguyễn Du).
Hướng dẫn
Hội ngộ – rồi chia li đó là hai mặt của một quá trình. Nó là quy luật tự nhiên trong đời sống con người và cũng như là quy luật tình cảm riêng tư khó nói thành lời. Chẳng thế mà chia li đã trở thành thi tài, là nguồn cảm hứng vô tận cho các nhà thơ, nhà văn đi vào khai thác sao. Từ trong câu ca dao quen thuộc: vầng trăng ai xẻ làm đôi, Đường trần ai vẽ ngược xuôi hỡi chàng đến vầng trăng ai bẻ làm đôi; Nửa in gối chiếc, nửa soi dặm trường (Truyện Kiều – Nguyễn Du) và ngay cả Cuộc chia li màu đỏ (Nguyễn Mĩ). Ta vẫn bắt gặp những giọt nước mắt long lanh, nóng bỏng, sáng ngời của kẻ ở – người đi. Nhưng có một cuộc chia li làm bạn đọc ấn tượng bởi Chí khí anh hùng, tràn đầy niềm tin lạc quan, tươi sáng chứ khôngnhuộm màu quan san. Đó là cuộc chia li của Từ Hải với Thuý Kiều để lên đường đi khởi nghĩa.
Đoạn Chí khí anh hùng (trích Truyện Kiều) thuộc phần gia biến và lưulạc trên đoạn trường mười lăm năm. Rơi vào lầu xanh lần thứ hai, Thuý Kiều được gặp Từ Hải, người anh hùng rồi đây sẽ cứu vớt nàng ra khỏi cuộc đời thanh lâu đau khổ. Người mà đai diện cho lí tưởng, đạo lí công bằng mà Nguyễn Du gửi gắm khi xây dựng trong tác phẩm. Người mà Nguyễn Du bộc lộ tư tưởng, tình cảm, khối mâu thuẫn khó giải quyết bằng lời của tác giả.
Sau cuộc gặp gỡ đặc biệt, trong hoàn cảnh cũng rất đặc biệt, Thuý Kiều – Từ Hải đã tìm thấy sự hoà hợp về tâm hồn của nhau, ở họ vừa có sự thấy hiểu chân thành vừa có sự đồng cảm cho nhau. Hai khoảng trống về tâm hồn đã được lấp đầy, san sẻ cho nhau bằng tình yêu. Sự tương xứng ấy tạo nên một kết thúc có hậu của miền cổ tích khi:
Trai anh hùng gái thuyên quyên
Phi nguyền sánh phượng đẹp duyên cưỡi rồng.
Trước khi đi vào tìm hiểu đoạn trích, ta hãy hiểu xem con người này có gì đặc biệt mà Nguyễn Du giành nhiều ưu ái khi xây dựng Từ Hải là người anh hùng lí tưởng. Một ngựa, một gươm – Từ Hải đã vung lên lưỡi gươm công lí cứu vớt con người khốn khổ, và chắp cánh cho ước mơ hoài bão của họ bay cao, bay xa mãi.
Sự xuất hiện một nhân vật mới trên chặng đường số phận của Thuý Kiều lần này mang một ý nghĩa giá trị nghệ thuật đặc biệt.
Hình tượng Từ Hải không chỉ phản ánh một quan niệm mới mẻ, tự do vềquan hệ luyến ái nam nữ.
Một đời được mấy anh hùng
Bõ chi cá chậu chim lồng mà chơi!
Chính là lời nói giản dị, chân thành, trân trọng Thuý Kiều của Từ Hải đã là lời tỏ tình tế nhị kín đáo mà phá vỡ khoảng cảnh vốn rất dề xuất hiện giữa nhân vật anh hùng với con người bình thường như Kiều. Có thể nói rằng Nguyễn Du thật có biệt tài xây dựng, khắc họa tính cách từng nhàn vật một cách đậm nét rõ ràng. Đặc biệt là nhân vật Từ Hải. Hơn bất cứ những hình tượng nào khác trong tác phẩm, Từ Hải phản ánh khát vọng tự do một khuynh hướng tự do không chỉvượt khỏi lễ giáo, đạo đức chính thống mà còn là một người nổi loạn đối lập với trật tự chính trị phong kiến. Hình tượng Từ Hải – con người đã san phẳng bất bình, bênh vực người bị áp bức bằng nghĩa khí và tài năng cá nhân – tạo nên nội dung phong phú sâu sắc của Truyện Kiều.
Từ Hải dường như đã bẻ gãy xiềng xích mà xã hội phong kiến trói buộc con người, chàng phủ định chính quyền nhà vua, và đối với chàng tự do cao hơn hết thảy:
Chọc trời khuấy nước mặc dầu
Dọc ngang nào biết trên đầu có ai!
Với khí thế ngang tàng của sự tự do, không phải là cảnh:
Áo xiêm ràng buộc lấy nhau
Vào luồn ra cúi công hầu mà chi?
Mà lại cái tư thế hiên ngang giữa đất trời, thoả chí anh hùng:
Giang hồ quen thói vẫy vùng
Gươm đàn nửa gánh non sông một chèo.
Hình ảnh cây cung và thanh kiếm đã tạo nên một nét mới trong tínn cách của Từ Hải. Cũng như Kim Trọng, Từ Hải có một tâm hồn cao thượng và đượm chất thơ. Nhưng khác với các nhân vật trong tác phẩm, Từ Hải còn làm độc giả say mê bởi cái cốt cách của một kẻ ngang tàng, hào phóng.
Xem thêm: Viết một bài văn bày tỏ ý kiến về một vấn đề đang đặt ra trong đời sống văn hoá - tinh thần của con người Việt NamNguyễn Du xây dựng Từ Hải là nhân vật lí tưởng có cốt cách phi thường nhưng đứng trước Kiều “Tấm lòng nhi nữ cũng xiêu anh hùng". Tuy nhiên chàng luôn đứng trên lập trường và lợi ích của cộng đồng, tình cảm và lí tưởng của chàng luôn thống nhất chứ không đồng nhất. Vì vậy mà:
Nửa năm hương lửa đương nồng
Trượng phu thoát đã động lòng bốn phương
Trông vời trời bể mênh mang
Thanh gươm yến ngựa lên dường thẳng rong.
Sống trong hạnh phúc yêu thương, khi hơi ấm tình cảm vợ chồng ở độ mặn nồng, đằm thắm, Từ Hải vẫn không quên sự nghiệp lớn, chí làm trai mà theo như Nguyễn Công Trứ:
Chí làm trai nam bắc tây đông
Cho phí sức vẫy vùng trong bốn bể.
Điểm này ở Từ Hải đã cho thấy sự phù hợp trong tính cách của chàng đó là đội trời đạp đất ở đời. Tư thế ra đi của Từ Hải dứt khoát khồng có chút gì lưu luyến – bịn rịn như Thúc Sinh từ biệt Thuý Kiều, không có lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai. Mà ở đoạn trích Chí khí anh hùng (Truyện Kiều – Nguyễn Du), người Trượng phu mang trong mình tầm vóc lớn lao của thời đại giao cho, đối lập với một không gian bao la, trông vời trời bể mênh mông là tầm vóc của người anh hùng: Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong. Chỉ mới bốn câu thơ thôi Nguyễn Du đã khắc hoạ một nhân vật, người anh hùng bằng xương bằng thịt. Bởi miêu tả là người anh hùng cho nên ngôn ngữ của Nguyễn Du là sự kính phục, trân trọng. Cách miêu tả cũng khác, không gian, thời gian được mở rộng để phù hợp với khí phách của nhân vật chăng?
Người anh hùng ra đi không muốn vướng bận nữ nhi, không chút mềm yếu trước lời nói của thê tử:
Nàng rằng: phận gái chữ tòng
Chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi.
Thuý Kiều là người sâu sắc đến mấy cũng không thoát khỏi chuyện phu – thê quyến luyến. Nàng chỉ muốn theo Từ Hải đi để làm trọn bổn phận làm vợ của mình, mà không nghĩ đến việc lớn của chàng. Vì thế Từ Hải đã trách khéo nàng tâm phúc tương tri tức là hai người đã hiểu rõ lòng dạ của nhau một cách sâu sắc như thế, cần gì phải quan tâm đến chuyện nghĩa theo chồng như đạo Nho bắt làm. Sau đó chàng động viên Thuý Kiều ở nhà yên tâm đợi tin vui:
Bao giờ mười vạn tinh binh
Tiếng chuông dậy đất bóng tỉnh rợp đường.
Làm cho rõ mặt phi thường
Bây giờ ta sẽ rước nàng nghi gia.
Còn bây giờ giữa trời đất bao la bốn bể không nhà, nàng mà đi theo chi làm bận tâm thêm, huống chi chưa biết rõ là đi đâu. Vì vậy nàng hãy dằn lòng chờ đợi chỉ một hai năm vội gì. Thế rồi chàng:
Quyết lời dứt áo ra đi
Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi.
Hình ảnh con chim bằng được lấy điển tích từ truyện ngụ ngôn kể rằng chim bằng là một giống chim rất lớn, đập cách làm động nước trong ba ngàn dặm, thường tượng trưng cho những người anh hùng có bản lĩnh phi thường, khao khát làm nên sự nghiệp lớn. Nguyễn Du đã ví Từ Hải như là con chim bằng đã đến lúc tung cánh bay lên cùng gió mây.
Cuộc sống của một con người luôn khao khát không trung, tự dothỏa chí vẫy vùng, không bao giờ chịu sống trong cảnh tù túng, gò bó trong không gian nhỏ bé thường ngày của người bình thường. Khi miêu tả người anh hùng Từ Hải, Nguyễn Du đi vào miêu tả hành động và cử chỉ ngôn ngữ mang ý nghĩa mạnh mẽ, dứt khoát như: thoắt đã, thẳng giong, sao chưa thoát khỏi, dậy đất, phi thường, vội gì, quyết lời dứtáo ra đi,… Ngoài ra thêm các từ chữ Hán để bộc lộ tư tưởng tình cảm của tác giả, rồi dùng điển cố, điển tích…và cả xây dựng thời gian, không gian mở: nửa năm, bốn phương, trời bể mênh mang,…
Tóm lại, chỉ một đoạn thơ ngắn, hình tượng nhân vật Từ Hải dường như xuất hiện từ một giấc mơ, từ một giấc mơ hùng vĩ về chính phía mà hàng triệu người khốn khổ áp bức hằng ôm ấp. Vì vậy mà khi xây dựng, Nguyễn Du đã có những sáng tạo các phương thức nghệ thuật riêng, để biểu đạt khát vọng của mình và của thời đại Nguyễn Du sống – khát vọng về sự tự do, công bằng lẽ phải. Từ một cuộc chia li mà nói lên được toàn bộ chí khí anh hùng của Từ Hải.
Nguồn: thêm: Cảm nhận về hình ảnh Đăm Săn trong đoạn trích Chiến thắng Mơ Tao, Mơ Xây
|
Phân tích đoạn trích Chí khí anh hùng (Trích Truyện Kiều của Nguyễn Du).
Hướng dẫn
Hội ngộ – rồi chia li đó là hai mặt của một quá trình. Nó là quy luật tự nhiên trong đời sống con người và cũng như là quy luật tình cảm riêng tư khó nói thành lời. Chẳng thế mà chia li đã trở thành thi tài, là nguồn cảm hứng vô tận cho các nhà thơ, nhà văn đi vào khai thác sao. Từ trong câu ca dao quen thuộc: vầng trăng ai xẻ làm đôi, Đường trần ai vẽ ngược xuôi hỡi chàng đến vầng trăng ai bẻ làm đôi; Nửa in gối chiếc, nửa soi dặm trường (Truyện Kiều – Nguyễn Du) và ngay cả Cuộc chia li màu đỏ (Nguyễn Mĩ). Ta vẫn bắt gặp những giọt nước mắt long lanh, nóng bỏng, sáng ngời của kẻ ở – người đi. Nhưng có một cuộc chia li làm bạn đọc ấn tượng bởi Chí khí anh hùng, tràn đầy niềm tin lạc quan, tươi sáng chứ khôngnhuộm màu quan san. Đó là cuộc chia li của Từ Hải với Thuý Kiều để lên đường đi khởi nghĩa.
Đoạn Chí khí anh hùng (trích Truyện Kiều) thuộc phần gia biến và lưulạc trên đoạn trường mười lăm năm. Rơi vào lầu xanh lần thứ hai, Thuý Kiều được gặp Từ Hải, người anh hùng rồi đây sẽ cứu vớt nàng ra khỏi cuộc đời thanh lâu đau khổ. Người mà đai diện cho lí tưởng, đạo lí công bằng mà Nguyễn Du gửi gắm khi xây dựng trong tác phẩm. Người mà Nguyễn Du bộc lộ tư tưởng, tình cảm, khối mâu thuẫn khó giải quyết bằng lời của tác giả.
Sau cuộc gặp gỡ đặc biệt, trong hoàn cảnh cũng rất đặc biệt, Thuý Kiều – Từ Hải đã tìm thấy sự hoà hợp về tâm hồn của nhau, ở họ vừa có sự thấy hiểu chân thành vừa có sự đồng cảm cho nhau. Hai khoảng trống về tâm hồn đã được lấp đầy, san sẻ cho nhau bằng tình yêu. Sự tương xứng ấy tạo nên một kết thúc có hậu của miền cổ tích khi:
Trai anh hùng gái thuyên quyên
Phi nguyền sánh phượng đẹp duyên cưỡi rồng.
Trước khi đi vào tìm hiểu đoạn trích, ta hãy hiểu xem con người này có gì đặc biệt mà Nguyễn Du giành nhiều ưu ái khi xây dựng Từ Hải là người anh hùng lí tưởng. Một ngựa, một gươm – Từ Hải đã vung lên lưỡi gươm công lí cứu vớt con người khốn khổ, và chắp cánh cho ước mơ hoài bão của họ bay cao, bay xa mãi.
Sự xuất hiện một nhân vật mới trên chặng đường số phận của Thuý Kiều lần này mang một ý nghĩa giá trị nghệ thuật đặc biệt.
Hình tượng Từ Hải không chỉ phản ánh một quan niệm mới mẻ, tự do vềquan hệ luyến ái nam nữ.
Một đời được mấy anh hùng
Bõ chi cá chậu chim lồng mà chơi!
Chính là lời nói giản dị, chân thành, trân trọng Thuý Kiều của Từ Hải đã là lời tỏ tình tế nhị kín đáo mà phá vỡ khoảng cảnh vốn rất dề xuất hiện giữa nhân vật anh hùng với con người bình thường như Kiều. Có thể nói rằng Nguyễn Du thật có biệt tài xây dựng, khắc họa tính cách từng nhàn vật một cách đậm nét rõ ràng. Đặc biệt là nhân vật Từ Hải. Hơn bất cứ những hình tượng nào khác trong tác phẩm, Từ Hải phản ánh khát vọng tự do một khuynh hướng tự do không chỉvượt khỏi lễ giáo, đạo đức chính thống mà còn là một người nổi loạn đối lập với trật tự chính trị phong kiến. Hình tượng Từ Hải – con người đã san phẳng bất bình, bênh vực người bị áp bức bằng nghĩa khí và tài năng cá nhân – tạo nên nội dung phong phú sâu sắc của Truyện Kiều.
Từ Hải dường như đã bẻ gãy xiềng xích mà xã hội phong kiến trói buộc con người, chàng phủ định chính quyền nhà vua, và đối với chàng tự do cao hơn hết thảy:
Chọc trời khuấy nước mặc dầu
Dọc ngang nào biết trên đầu có ai!
Với khí thế ngang tàng của sự tự do, không phải là cảnh:
Áo xiêm ràng buộc lấy nhau
Vào luồn ra cúi công hầu mà chi?
Mà lại cái tư thế hiên ngang giữa đất trời, thoả chí anh hùng:
Giang hồ quen thói vẫy vùng
Gươm đàn nửa gánh non sông một chèo.
Hình ảnh cây cung và thanh kiếm đã tạo nên một nét mới trong tínn cách của Từ Hải. Cũng như Kim Trọng, Từ Hải có một tâm hồn cao thượng và đượm chất thơ. Nhưng khác với các nhân vật trong tác phẩm, Từ Hải còn làm độc giả say mê bởi cái cốt cách của một kẻ ngang tàng, hào phóng.
Xem thêm: Viết một bài văn bày tỏ ý kiến về một vấn đề đang đặt ra trong đời sống văn hoá - tinh thần của con người Việt NamNguyễn Du xây dựng Từ Hải là nhân vật lí tưởng có cốt cách phi thường nhưng đứng trước Kiều “Tấm lòng nhi nữ cũng xiêu anh hùng". Tuy nhiên chàng luôn đứng trên lập trường và lợi ích của cộng đồng, tình cảm và lí tưởng của chàng luôn thống nhất chứ không đồng nhất. Vì vậy mà:
Nửa năm hương lửa đương nồng
Trượng phu thoát đã động lòng bốn phương
Trông vời trời bể mênh mang
Thanh gươm yến ngựa lên dường thẳng rong.
Sống trong hạnh phúc yêu thương, khi hơi ấm tình cảm vợ chồng ở độ mặn nồng, đằm thắm, Từ Hải vẫn không quên sự nghiệp lớn, chí làm trai mà theo như Nguyễn Công Trứ:
Chí làm trai nam bắc tây đông
Cho phí sức vẫy vùng trong bốn bể.
Điểm này ở Từ Hải đã cho thấy sự phù hợp trong tính cách của chàng đó là đội trời đạp đất ở đời. Tư thế ra đi của Từ Hải dứt khoát khồng có chút gì lưu luyến – bịn rịn như Thúc Sinh từ biệt Thuý Kiều, không có lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai. Mà ở đoạn trích Chí khí anh hùng (Truyện Kiều – Nguyễn Du), người Trượng phu mang trong mình tầm vóc lớn lao của thời đại giao cho, đối lập với một không gian bao la, trông vời trời bể mênh mông là tầm vóc của người anh hùng: Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong. Chỉ mới bốn câu thơ thôi Nguyễn Du đã khắc hoạ một nhân vật, người anh hùng bằng xương bằng thịt. Bởi miêu tả là người anh hùng cho nên ngôn ngữ của Nguyễn Du là sự kính phục, trân trọng. Cách miêu tả cũng khác, không gian, thời gian được mở rộng để phù hợp với khí phách của nhân vật chăng?
Người anh hùng ra đi không muốn vướng bận nữ nhi, không chút mềm yếu trước lời nói của thê tử:
Nàng rằng: phận gái chữ tòng
Chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi.
Thuý Kiều là người sâu sắc đến mấy cũng không thoát khỏi chuyện phu – thê quyến luyến. Nàng chỉ muốn theo Từ Hải đi để làm trọn bổn phận làm vợ của mình, mà không nghĩ đến việc lớn của chàng. Vì thế Từ Hải đã trách khéo nàng tâm phúc tương tri tức là hai người đã hiểu rõ lòng dạ của nhau một cách sâu sắc như thế, cần gì phải quan tâm đến chuyện nghĩa theo chồng như đạo Nho bắt làm. Sau đó chàng động viên Thuý Kiều ở nhà yên tâm đợi tin vui:
Bao giờ mười vạn tinh binh
Tiếng chuông dậy đất bóng tỉnh rợp đường.
Làm cho rõ mặt phi thường
Bây giờ ta sẽ rước nàng nghi gia.
Còn bây giờ giữa trời đất bao la bốn bể không nhà, nàng mà đi theo chi làm bận tâm thêm, huống chi chưa biết rõ là đi đâu. Vì vậy nàng hãy dằn lòng chờ đợi chỉ một hai năm vội gì. Thế rồi chàng:
Quyết lời dứt áo ra đi
Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi.
Hình ảnh con chim bằng được lấy điển tích từ truyện ngụ ngôn kể rằng chim bằng là một giống chim rất lớn, đập cách làm động nước trong ba ngàn dặm, thường tượng trưng cho những người anh hùng có bản lĩnh phi thường, khao khát làm nên sự nghiệp lớn. Nguyễn Du đã ví Từ Hải như là con chim bằng đã đến lúc tung cánh bay lên cùng gió mây.
Cuộc sống của một con người luôn khao khát không trung, tự dothỏa chí vẫy vùng, không bao giờ chịu sống trong cảnh tù túng, gò bó trong không gian nhỏ bé thường ngày của người bình thường. Khi miêu tả người anh hùng Từ Hải, Nguyễn Du đi vào miêu tả hành động và cử chỉ ngôn ngữ mang ý nghĩa mạnh mẽ, dứt khoát như: thoắt đã, thẳng giong, sao chưa thoát khỏi, dậy đất, phi thường, vội gì, quyết lời dứtáo ra đi,… Ngoài ra thêm các từ chữ Hán để bộc lộ tư tưởng tình cảm của tác giả, rồi dùng điển cố, điển tích…và cả xây dựng thời gian, không gian mở: nửa năm, bốn phương, trời bể mênh mang,…
Tóm lại, chỉ một đoạn thơ ngắn, hình tượng nhân vật Từ Hải dường như xuất hiện từ một giấc mơ, từ một giấc mơ hùng vĩ về chính phía mà hàng triệu người khốn khổ áp bức hằng ôm ấp. Vì vậy mà khi xây dựng, Nguyễn Du đã có những sáng tạo các phương thức nghệ thuật riêng, để biểu đạt khát vọng của mình và của thời đại Nguyễn Du sống – khát vọng về sự tự do, công bằng lẽ phải. Từ một cuộc chia li mà nói lên được toàn bộ chí khí anh hùng của Từ Hải.
Nguồn: thêm: Cảm nhận về hình ảnh Đăm Săn trong đoạn trích Chiến thắng Mơ Tao, Mơ Xây
|
Phân tích đoạn trích Lẽ Ghét Thương của Nguyễn Đình Chiểu
Hướng dẫn
Đoạn trích lẽ ghét thương là một trong những đoạn trích nằm trong tác phẩm nổi tiếng của Nguyễn Đình Chiểu. Nhân vật được nói đến trong đoạn trích này là ông Quán – một con người yêu ghét phân minh, tình cảm rõ ràng, trong sáng và luôn nghĩ cho mọi người, cho dân, cho nước. Đây chính là nhân vật phát ngôn cho tư tưởng của tác giả.
Thông qua đoạn trích, tác giả đã hóa thân vào nhân vật để nói lên sự yêu ghét những lề thói trong cuộc sống đời thường. Trong mỗi câu thơ tác giả lại nói lên một vấn để cụ thể mà nhân vật Quán ghét:
Quán rằng:"Ghét việc tầm phào"
Ghét cay, ghét đắng vào tận tâm.
Tác giả đã liệt kê tất cả những điều mà nhân vật của ông ghét, Từ ghét những việc hão huyền, không ý nghĩa, đến ghét người, với những tên tuổi bằng chứng cụ thể.
Trong mỗi vấn đề cụ thể ấy tác giả đã sử dụng nghệ thuật điệp từ "ghét" tới ba lần trong một câu thơ cùng với nghệ thuật tăng cấp: từ cái ghét vị cay, vị đắng đến cái ghét sâu trong tâm khảm của lòng người. Nhà thơ đã diễn tả được cái màu sắc, mùi vị và độ sâu của cái ghét. Với cách diễn đạt này, Nguyễn Đình Chiểu cho chúng ta thấy cái ghét của ông Quán là cái ghét đã ăn sâu vào trong tâm hồn, cái ghét của lòng chính trực, chân thành.
Ghét đời Kiệt, Trụ mê dâm
Để dân đến nỗi sa hầm sẩy hang
Ghét đời U, Lệ đa đoan
Khiến dân luống chịu lầm than muôn phần
Nhà thơ đã mạnh bạo nhắc đến các vị vua trong lịch sử Trung Quốc như Kiệt, Trụ, U, Lệ, đó là những vị vua xấu xa, đồi bại, chỉ lo ăn chơi hưởng lạc, không lo cho dân cho nước. Trong những triều vua đó, dân phải "sa hầm sẩy hang", phải "chịu lầm than muôn phần"…
Một người mù, phải làm nhiều nghề để kiếm sống nhưng ông luôn thể hiện lòng yêu nước của mình, lòng lo cho dân cho nước là người có tâm huyết với nhân dân, có quan điểm vì dân mới có được những tâm sự chân thành đến vậy. Do đó có thể thấy nguồn gốc của "nỗi ghét" ấy chính là tình thương. Vì lo cho dân, yêu dân, suốt đời chiến đấu cho lẽ phải, Đồ Chiểu đã mược hình tượng ông Quán để nói lên sự phẫn uất của mình và đó cũng chính là nỗi phẫn uất chung của nhân dân.
Khi đã nói được hết cái ghét của mình, ông mới bày tỏ cái thương, vì thương dân nên mới ghét những kẻ gây đau khổ cho dân. Mở đầu, nhà thơ nói thương Khổng Tử vất vả, gian lao trong việc truyền bá Đạo Nho:
Thương là thương đức thánh nhân
Khi nơi Tống, Vệ lúc Trần, lúc Khuông
Xem thêm: Đáng tự hào cho những tấm lòng nhân đạo bao la giữa người với người
Ông thương cho số phận ngắn ngủi của Thầy Nhan Tử sớm phải lìa đời, bỏ dở con đường công danh. Điều này cho thấy ông Quán rất coi trọng, rất quý người hiền tài, nên ông tiếc cho người tài mà số phận bi đát, tiếc cho nhân loại mất đi một con người nhân đức hiếm có. Và ông thương cho Gia Cát Lượng có tài lớn, chí lớn chỉ tội không gặp thời nên chí nguyện không thành. Ông thương cho cả những người nghèo khổ, có hiếu, có tình nhưng vì danh tiết, không chịu khom lưng uốn gối nên đành cáo quan về ở ẩn như Nguyên Lượng…
Những người được ông nhắc đến cùng với từ thương là những người có chí khí, có hiểu nghĩa, có tâm với dân, với nước. "Thương" có nghĩa là đồng tình, là đồng cảm, là khẳng định, là ca ngợi. Quả đúng vậy, vì họ chính là những bậc vĩ nhân quân tử, những người tài cao đức trọng có chí lớn, có mong muốn làm cho nhân dân được no ấm, được sử sách nghi nhận. Dù cuối cùng ước muốn của họ không thành là do gặp bất hạnh, chết yểu hoặc không gặp thời vận.
Nếu ở đoạn trên tác giả dùng điệp từ ghét để nói về sự căm ghét những cái xấu xa hại dân hại nước, thì ở đoạn này, tác giả lại dùng điệp từ "thương" để thể hiện rõ tình cảm yêu thương, khâm phục của mình đối với những bậc thánh nhân xưa. Nếu như ở đoạn trên, nhà thơ cho ông Quán nói ghét những kẻ hại dân, hại nước để thể hiện lòng thương lo cho dân, thì ở đoạn này ông lại cho nhân vật trực tiếp bộc lộ lòng thương của mình trước những tài cao, chí lớn nhưng không gặp thời để thi thố tài năng, đành để mộng lớn tan theo mây khói. Ông Quán đã nhìn thấy sự bất hạnh đó và ông tỏ lòng thương, kính trọng một cách chân thành sâu sắc. Đây chính là tình thương của tác giả đối với những số phận gặp nhiều trắc trở trên đường đời.
Sau một hồi phân trần về cái ghét và cái thương của mình, tác giả đã có sự tổng kết lại, và khẳng định lại một điều, trong con người ông luôn tồn tại cả cái ghét và cái thương. Điều này khẳng định Nguyễn Đình Chiểu có một tấm lòng sâu sắc đối với dân với nước, mong muốn có những bậc thánh hiền đứng r ache chở bao bọc cho muôn dân.
Xem qua kinh sử mấy lần
Nửa phần lại ghét, nửa phần lại thương.
Qua nhân vật của mình, Nguyễn Đình Chiểu đã để lại cho đời một lời nhắn nhủ, một triết lí sống hết sức sâu sắc, con người sống ở đời phải biết thương (yêu) và ghét; phải biết thương cái chính, ghét cái tà: yêu cái đẹp, ghét cái xấu… Và "bởi chưng hay ghét chỉ là hay thương?". Đoạn trích còn đáng quý vì nó đã bộc lộ quan điểm yêu – ghét một cách rất chân thực, phân minh và đôn hậu. Đó không chỉ là quan điểm riêng của tác giả mà còn là cách nghĩ mang phong cách của người dân Nam Bộ.
Bằng ngòi bút sắc sảo và tinh tế, tác giả đã thể hiện tấm lòng yêu nước thương dân của mình, đó là tình yêu nhân dân, tình yêu chính nghĩa, ghét gian tà. Trong thòi điểm đất nước loạn lạc, nhân dân chìm trong cảnh cơ cực, phải là những người có tấm lòng cao cả mới thấu hiểu được nỗi khổ cực của người dân. Ý nghĩa của đoạn trích thể hiện nhân cách cao đẹp, đáng quý trọng của nhà thơ.
Xem thêm: Một nhà văn có nói: “Sách là người bạn tốt của con người”. Hãy giải thích nội dung của câu nói đó
Nguồn:
|
Analysis of the excerpt "The Love of Hatred" by Nguyen Dinh Chieu
Instruct
The excerpt from hate and love is one of the excerpts from Nguyen Dinh Chieu's famous work. The character mentioned in this excerpt is Mr. Quan - a man who loves to hate, has clear, pure feelings and always thinks for everyone, for the people, for the country. This is the character who speaks for the author's thoughts.
Through the excerpt, the author transformed into the character to express his love and hate for routines in everyday life. In each verse, the author addresses a specific problem that the character Quan hates:
Contemplation: "Hate trivial things"
Hate it, hate it to the core.
The author listed all the things his character hates, from hating vain and meaningless things to hating people, with specific names and evidence.
In each of these specific issues, the author used the alliteration art of "hate" up to three times in one verse along with the art of leveling up: from hate for the spicy, bitter taste to hate deep in the heart of the heart. People. The poet has described the color, taste and depth of hate. With this expression, Nguyen Dinh Chieu shows us that Mr. Quan's hate is a hate that is deeply ingrained in the soul, a hate of integrity and sincerity.
Hating Kiet's life, Tru loves sex
Let the people sink into a cave
Hating U's life, Le is so extreme
Making the people miserable and miserable
The poet boldly mentioned kings in Chinese history such as Kiet, Tru, U, Le, who were evil and corrupt kings who only cared about entertainment and pleasure, not caring for the people or the country. During those kings' dynasties, the people had to "fall into the pit", had to "suffer endless suffering"...
A blind man, having to do many jobs to make a living, but he always shows his patriotism, his concern for the people and the country. He is passionate about the people and has a view for the people, so he can have sincere confidences. so. Therefore, it can be seen that the origin of that "hate" is love. Because he cares for the people, loves the people, and fights for what is right all his life, Do Chieu used the image of Mr. Quan to express his resentment and that is also the common resentment of the people.
When he had expressed all his hatred, he expressed his love. Because he loved the people, he hated those who caused suffering to the people. At the beginning, the poet said that he loved Confucius for his hardships in spreading Confucianism:
To love is to love the saints
Sometimes in Song, sometimes in Ve, sometimes in Tran, sometimes in Khuong
See more: Proud of the immense humanity between people
He felt sorry for the short fate of Master Nhan Tu who had to leave this world early and abandon his career path. This shows that Mr. Quan highly values and appreciates talented people, so he feels sorry for talented people whose fate is tragic, and sorry for humanity that has lost a rare virtuous person. And he felt sorry for Zhuge Liang, who had great talent and great ambition, but only because he didn't have the right time so his wish didn't come true. He loved even those who were poor, had filial piety, and had love, but because of their reputation, they refused to bend the knee, so they had to leave the mandarins to live in hiding like Nguyen Luong...
The people he mentioned with the word compassion are people who have character, understand meaning, and have a heart for the people and the country. "Love" means sympathy, sympathy, affirmation, and praise. That's right, because they are great gentlemen, talented and virtuous people with great will, a desire to make the people prosperous, and are recognized in history books. Although in the end their wishes did not come true because of misfortune, premature death or bad luck.
If in the above paragraph the author used the preposition "hate" to talk about hatred for evil things that harm people and the country, then in this passage, the author uses the preposition "love" to clearly express feelings of love and admiration. towards the ancient saints. If in the above paragraph, the poet had Mr. Quan say he hates those who harm the people and the country to show his compassion for the people, then in this paragraph he lets the character directly express his compassion for talented people. , had great ambition but didn't have the time to show off his talent, so he had to let his big dream fade into thin air. Mr. Quan saw that misfortune and he expressed his compassion and respect in a deeply sincere way. This is the author's love for those who face many difficulties in life.
After a while explaining about his hate and love, the author summarized and reaffirmed one thing: in him there always exists both hate and love. This confirms that Nguyen Dinh Chieu has a deep heart for the people and the country, and wishes for saints and sages to stand and protect all people.
Read through history several times
Half hate it, half love it.
Through his character, Nguyen Dinh Chieu left a message to the world, a very profound philosophy of life: people in life must know how to love and hate; You must know how to love what is good, hate what is evil: love what is beautiful, hate what is ugly... And "why is it that people who hate are only people who love?". The excerpt is also precious because it reveals the view of love and hate in a very honest, clear and kind way. That is not only the author's own opinion but also the style of thinking of the Southern people.
With a sharp and delicate pen, the author expressed his patriotism and love for his people, which is love for the people, love for justice, hate for evil. At a time when the country is in chaos and the people are immersed in destitution, it takes people with noble hearts to understand the suffering of the people. The meaning of the excerpt shows the noble and honorable personality of the poet.
See more: A writer said: "Books are man's best friend." Please explain the content of that statement
Source:
|
Phân tích đoạn trích trong tác phẩm “Số phận con người” của A. Sô-lô-khốp
Sô Lô Khốp được biết đến là một nhà văn nổi tiếng của nước Nga, ông đạt được rất nhiều thành tựu văn học to lớn, trong đó ông đã đạt được giải thưởng Nô ben văn học năm 1965 và đạt được nhiều cảm xúc trong lòng người đọc. Số phận con người là một tác phẩm xuất sắc của ông.
Chiến tranh vốn được xem là một trong những đề tài sâu rộng và nó dần ăn đi tiềm thức và cuộc sống của con người, con người được xem như là nạn nhân của chiến tranh, họ dường như cũng đã phải chịu đựng những đau khổ, và bất hạnh do cuộc sống gây nên, chiến tranh đã cướp đi rất nhiều thứ của con người, con người đang dần phải sống những năm tháng tăm tối và bị chiến tranh vùi dập đến tận xương tủy. Và có thể thấy khi chiến tranh nhiều anh hùng đã xung phong ra mặt trận và Xô cô Lốp là một nhân vật như thế, chiến tranh nổ ra anh dường như cũng đã từ giã gia đình để xung phong ra mặt trận, bỏ lại ở nhà đó là vợ và con, buôn ba ngoài mặt trận nhiều năm, con trai lớn của anh cũng đang tham gia vào đội quân của Liên xô.
Và khi mà trước khi tham gia vào chiến tranh Xô Cô Lốp được xem như là một nhân vật giàu lòng yêu thương, có tấm lòng nhân ái, và sự quả quyết trong cuộc sống, nhưng rồi chính chiến tranh đã cướp đi rất nhiều thứ của anh, từ gia đình, quê hương, người thân… anh đã trở thành nạn nhân của chiến tranh, bị chiến tranh vùi dập anh lâm vào tình trạng đau khổ, số phận con người đang dần phải chịu đựng nhiều đau khổ, và điều đó đã mang một ý nghĩa to lớn. Và đó là ngay trong chính nhan đề, tác giả đã thể hiện được dòng tâm trạng, và một thái độ thật dứt khoát trước kẻ thù. Dường như ở đây số phận con người đã nêu ra một hiện thực đó là con người phải chịu nhiều đau khổ và là nạn nhân xấu số của chiến tranh.Xem thêm: Vẻ đẹp của hình tượng cây Xà Nu trong truyện ngắn "Rừng Xà Nu" của Nguyễn Trung Thành
Xô Cô Lốp được xem là trong những nhân vật đại diện cho con người Nga, với tính chất kiên cường, quả cảm mặc dù khó khăn như anh vẫn luôn thể hiện cho mình một thái độ dứt khoát và anh dũng trước cuộc sống. Ta như có thể thấy được những giá trị của tác phẩm để lại cho người đọc nhiều cảm xúc về chiến tranh, chính chiến tranh làm cho các nhân vật này phải chịu nhiều cực khổ, họ phải sống cuộc sống vất vả và gian nan nhất. Dường như trong chính hoàn cảnh đó con người đang phải chịu những đau đớn, không chỉ nỗi đau về tinh thần mà còn thể hiện nỗi đau về thể xác, con người phải chịu những hậu quả lớn do chiến tranh như đã gây nên, chiến tranh là thủ phạm gây nên bao nhiêu đau khổ cho con người.
Chiến tranh dường như cũng đã cướp đi người thân và gia đình của con người, luôn hết mình quả cảm chiến đấu vì dân tộc, họ luôn luôn phải vượt qua rất nhiều những gian nan để có thể quật cường đứng dậy và khi đứng trước những sóng gió mà cuộc sống này gây ra, con người cũng đang phải chịu những nỗi đau đớn, dằn vặt. Thật đúng từ những điều đó mà con người phải chịu đựng nhiều bất hạnh và số phận con người đang phải chịu những vô định, dạt dào từ cuộc sống này. Và cũng giống như cậu bé Va ni a, chính bởi chiến tranh cũng đã cướp đi chamẹ của bé, mặc dù mới ít tuổi nhưng nỗi đau đớn về tinh thần như cũng đã bủa vây lấy con người của chính nhân vật này.Xem thêm: Đặc sắc nghệ thuật trong Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân.
Tác phẩm cũng như đã để lại cho người đọc, nhiều cảm xúc, đó chính là những cảm xúc đau thương và sự cảm thông sâu sắc cho số phận của những con người trong tác phẩm, họ phải chịu nhiều đau đớn và sự tổn thương tinh thần sâu sắc, trong những cảm xúc đó con người đã và đang bị chiến tranh vùi dập và nó cướp đi nhiều thứ quan trọng trong cuộc sống của con người, họ như đã phải chịu nhiều tổn thương, không chỉ về thể xác mà còn chịu nhiều tổn thương tinh thần.
Và chiến tranh cũng đang ám ảnh lấy cuộc sống của con người, họ phải chịu đựng nhiều bất hạnh à cuộc sống này đã gây nên, họ cướp đi gia đình và cả nhữngngười thân, và qua đó họ còn bị ám ảnh trước những hiện thực của chiến tranh, chiến tranh đã gây cho họ biết bao nhiêu là những sự tổn thương. Và dường như không chỉ về thể xác mà tinh thần của họ, và họ như cũng bị ám ảnh và đau đớn, mặc dù hòa bình, nhưng có thể nói chính cuộc sống của họ vẫn bị ám ảnh những nỗi đau không thể nào mà có thể quên được. Và đó là những cảm xúc riêng trong tâm hồn của con người.
Có thể nói hiến tranh để lại cho con người nhiều nỗi nhớ, khi người thân của họ ra chiến trường, nhưng không biết bao giờ mới quay trở về, họ vẫn đang bị ám ảnh và mang lại cho người đọc nhiều cảm xúc, hình ảnh bé van i a vẫn từng ngày chờ đợi bố về đó cũng thể hiện tình yêu thương mà những người con dành cho người bố, hình ảnh chiếc áo bành tô đó là sự thể hiện những nỗi khắc khoải sâu sắc của con người mong ngóng từng ngày, từng ngày một rằng người thân của mình sẽ trở về, đó là những cảm xúc riêng và cũng chứa chan biết bao nhiêu ý nghĩa.Xem thêm: Em hãy nói lời cảm ơn với những sự việc sau đây
Trong tác phẩm tác giả đã thể hiện được những ý nghĩa tư tưởng một cách sâu sắc, đó là hoàn cảnh của cuộc sống, của chiến tranh đang dần bao vây và che lấp đi cuộc sống cũng như giá trị của con người, từng ngày con người vẫn đang phải chịu những tổn thương sâu sắc, đó cũng chính là hình ảnh của sự mất mát, đó là sự mất mát và không bao giờ có thể nguôi ngoai được, mỗi nhân vật trong tác phẩm đều thể hiện một tư tưởng khác nhau, nhưng họ đều phải chịu những nỗi đau chung đó là sự mất mát trong tâm hồn từ việc ra đi của người thân, họ bị thiếu hụt đi tình yêu thương.
Và có thể thấy rằng chính nhan đề trong tác phẩm cũng đã thể hiện mạnh mẽ được những điều đó, qua cách nhìn mới mẻ của tác giả, ông đã nêu lên hiện thực của chiến tranh, nó thật tàn khốc, và cướp đi cuộc sống như rất đỗi bình lặng của con người. Trong tác phẩm, ta như đã thấy được những giá trị của nó để lại cho người đọc nhiều cảm xúc, con người có thể hiểu biết và có cái nhìn nhận về chiến tranh, chiến tranh cướp đi cuộc sống của con người đến như nào
Nguồn: Văn mẫu hay
|
Analysis of excerpts from the work "Human Fate" by A. Solokhov
Solokhov is known as a famous Russian writer. He achieved many great literary achievements, among which he won the Nobel Prize for Literature in 1965 and achieved many emotions in his heart. reader. Human destiny is an excellent work of his.
War is considered one of the most profound topics and it gradually eats away at people's subconscious and lives. People are seen as victims of war, they also seem to have endured suffering. , and misfortune caused by life, war has taken away many things from people, people are gradually having to live dark years and be crushed to the core by war. And it can be seen that during the war, many heroes volunteered to go to the front and Xo Co Lop was such a character. When the war broke out, he also seemed to have said goodbye to his family to volunteer to go to the front, leaving him behind. That family is his wife and children, his father has been at the front for many years, his eldest son is also participating in the Soviet army.
And while before participating in the war, Soviet Co Lop was seen as a character rich in love, compassion, and determination in life, but then the war took away many things. from his family, homeland, relatives... he became a victim of war, crushed by war he fell into a state of suffering, human destiny is gradually suffering a lot, and that had great meaning. And right in the title itself, the author has expressed a state of mind, and a very decisive attitude towards the enemy. It seems that here the fate of humans has revealed a reality that humans have to suffer a lot and are unfortunate victims of war. See more: The beauty of the image of the Xa Nu tree in the short story "The Snake Forest Nu" by Nguyen Trung Thanh
Xo Ko Lop is considered one of the characters representing the Russian people, with his resilient and brave nature, despite difficulties, he always shows himself a decisive and heroic attitude towards life. We can see the values of the work that leave the reader with many emotions about war. It is war that causes these characters to endure many hardships, they have to live the hardest and most arduous lives. . It seems that in that very situation, people are suffering pain, not only mental pain but also physical pain. People have to suffer great consequences due to war as it has caused. War is the culprit that causes so much suffering for people.
The war also seems to have taken away people's loved ones and families. They always fought bravely for the nation. They always had to overcome many hardships to be able to stand up and stand up when faced with challenges. With the turbulence that this life causes, people are also suffering pain and torment. It is true that because of these things, people have to endure many misfortunes and their fate is suffering from uncertainty and uncertainty in this life. And just like the boy Va Nia, because the war also took away his parents, even though he was young, mental pain seemed to surround this character. See more : Artistic features in The Da River Ferryman by Nguyen Tuan.
The work also leaves the reader with many emotions, which are painful emotions and deep sympathy for the fate of the people in the work, who have to endure a lot of pain and suffering. deeply spiritual, in those emotions people have been overwhelmed by war and it has taken away many important things in people's lives, they seem to have suffered a lot, not only physically but also suffered a lot of mental damage.
And war is also haunting people's lives, they have to endure many misfortunes that this life has caused, they take away their families and loved ones, and through that they are also haunted by these phenomena. The reality of war is that war has caused them so much pain. And it seems that not only their body but also their spirit, and they also seem to be haunted and in pain. Although peaceful, it can be said that their very lives are still haunted by impossible pain. can forget. And those are the unique emotions in the human soul.
It can be said that the war left people with a lot of nostalgia. When their loved ones went to the battlefield, but did not know when they would return, they were still haunted and brought readers many emotions and images. The photo of little Van Ia still waiting every day for his father to come home also shows the love that children have for their father. The image of that overcoat is an expression of the deep anxiety of people who long for each day. day by day that your loved one will return, those are personal emotions and also filled with so much meaning. See more: Please say thank you for the following events
In the work, the author has expressed profound ideological meanings, which are the circumstances of life and war that are gradually besieging and obscuring human life and values, day by day. People are still suffering deep trauma, that is also the image of loss, that is a loss that can never be relieved, each character in the work represents an ideology. different, but they all suffer the same pain: the loss in the soul from the passing of a loved one, and the lack of love.
And it can be seen that the very title of the work also strongly expresses those things, through the author's new perspective, he has raised the reality of war, it is cruel, and takes away lives. living as a very peaceful human being. In the work, we can see its values that leave the reader with many emotions, people can understand and have a perspective on war, how war takes away people's lives.
Source: Good sample writing
|
Phân tích đoạn trích Tức Nước Vỡ Bờ của Ngô Tất Tố
Hướng dẫn
-Chị Dậu đã đáp trả như thế nào?
-“Nước ” ở trong đoạn trích nhằm ám chỉ điều gì? Ám chỉ ai?
-“Bờ” trong đoạn trích ám chỉ ai?
Đặt cho đoạn trích nhan đề Tức nước vỡ bờ thật thỏa đáng, vì những lý do trên.
-Khi phân tích nên chú ý đến việc chăm sóc chồng con, đến sắc mặt, cử chỉ, lời nói, hành động của chị Dậu biến đổi theo thời gian và sự đối xử của tên cai lệ và người nhà lý trưởng. Đó là diễn biến tâm lý chân thực và hợp lý của nhân vật.
I.Ngô Tất Tô", nhà báo nổi tiếng, là một học giả có những công trình khảo cứu về triết học phương Đông và về văn học cổ có giá trị. Ông còn là nhà văn có tài luôn gần gũi nông dân, người lao động với những bộ tiểu thuyết, trong đó có tác phẩm "'Tắt đèn”. Với cái nhìn tinh tế, tài chọn lựa những nhân vật điển hình, nhà văn đã tái hiện hình ảnh thảm sầu của nông dân Việt Nam, cũng là bản cáo trạng về tội ác của quan lại, cường hào dưới thời thực dân – phong kiến. Tiêu biểu cho cảnh thảm sầu đó là hình ảnh gia đình chị Dậu trong mùa SƯU thuế. Dù cực khổ, tủi nhục như thế nào chị cũng là người phụ nữ thực thà, lương thiện, giàu tình thương yêu và đức hy sinh của người vợ, người mẹ. Và khi bị chế độ áp bức đẩy vào chân tường, chị đã dám chông lại bằng chính sức mạnh của mình qua đoạn văn trích “Tức nước vỡ bờ”.
Phân tích đoạn văn trích: “Tức nước vỡ bờ" để thấy rõ thêm phẩm chất cao đẹp đó, đồng thời có những suy nghĩ đúng của mình về sự thay đổi của người phụ nữ Việt Nam từ Cách mạng tháng Tám đến nay.
II.Vì thiếu SƯU thuế mà anh Dậu bị bọn cường hào ác bá bắt giải ra đình hành hạ, đánh đập, bỏ nắng, phơi sương đến độ ngất xỉu. Vì bị sợ vạ lây nên bọn chúng sai người nhà lý trưởng cõng cái xác không hồn của anh về trả cho gia đình chị Dậu. Trong cảnh khốn cùng, chị đã tìm mọi cách để cứu chồng tỉnh lại. Chỉ một hành động ấy thôi cũng đủ chứng tỏ chị có lòng thương yêu đậm đà đối với anh Dậu rồi. Anh Dậu vừa tỉnh lại thì trong nhà không có lấy một hạt gạo để cầm hơi. Chị phải vất vả ngược xuôi đi vay mượn ở hàng xóm được lon gạo về nấu cháo cho chồng. Cháo vừa chín, chị ngả mâm bát múc ra la liệt và “lấy quạt, quạt cho cháo mau nguội''’ thì tiếng trống, tiếng tù và, tiếng chó sủa đã inh ỏi vang lên ở đầu làng. Hơn ai hết, chị đã một lần hiểu được sau âm thanh oan nghiệt kia chuyện gì sẽ xảy đến cho anh Dậu, cho gia đình chị. Bởi vậy chị càng băn khoăn, lo lắng. Qua lời đối thoại của chị với bà hàng xóm lúc bà hớt hải chạy qua khuyên chị nên mang anh Dậu đi trốn sưu, cũng đã làm rõ sự băn khoăn suy nghĩ đó. Chị trả lời: “thưa cụ cháu cũng nghĩ như cụ' “Nghĩ như cụ” là chị cũng định mang anh Dậu đi trốn sưu, nhưng vì anh “nhịn suông từ sáng hôm qua đến giờ", nên chị đã nấn ná để cho chồng húp ba miếng cháo lấy lại sức trước khi đi trốn. Cháo nguội, chị bưng một bát lớn rồi “rón rén” đặt cạnh chỗ anh Dậu nằm. Có cử chỉ nào đầy tình thương trong bước đi nhẹ nhàng của người phụ nữ chỉ vì muôn cho chồng mình được yên tĩnh trong những phút ốm đau. Chẳng những thế chị còn cố nài nỉ: “Thầy hãy cố dậy húp lấy vài húp cho đỡ xót ruột". Lời nói ấy chỉ có ở những người phụ nữ vừa giàu lòng thương yêu, vừa kính trọng chồng. Thêm vào đó “chị còn cố ý chờ xem chồng chị ăn có ngon miệng hay không?". Chỉ một cử chỉ đó cũng đủ cho người đọc thây chị là con người hy sinh, lấy hạnh phúc của chồng con làm hạnh phúc của chính bản thân mình.
Anh Dậu vừa bưng bát cháo đưa lên miệng húp thì tên cai lệ và người nhà lý trưởng sầm sập, hùng hổ tiến vào. Chúng hoạnh hoẹ, chửi bới, đe dọa, để cố đòi cho được tiền SƯU.
“Gỡ đầu roi xuống đất, cai lệ thét bằng giọng khàn khàn của người hút nhiều xái cũ:
-Thằng kia! Ông tưởng mày chết đêm qua, còn sống đấy à? Nộp tiền sưu! Mau!".
Trước cử chỉ, giọng nói sặc mùi quan liêu, hách dịch nhưng vô cùng bệ rạc đó của tên cai lệ, anh Dậu hoảng quá “vộỉ để bát cháo xuống phản và lăn đùng ra đó, không nói được câu gì”. Chỉ một mình chị Dậu tay nách con tìm cách đối phó. Những giây phút đầu tiên chị Dậu đã “run run” lo sỢ, nhưng rồi chị đã bình tĩnh trở lại và cố tìm lời khôn khéo để vừa khất cho được tiền SƯU thuế, vừa trả đũa lại kẻ thù. Chị đã tự hạ mình xuống hàng “con” “cháu” và tôn xưng kẻ thù là “ông”. Dù bị xâm phạm đến danh dự của cá nhân, của gia đình mình, bị đe dọa: “giời cả nhà mày đi” và bị chửi bới: “nói cho cha mày nghe đấy à”, thì chị vẫn cố nén sự tức giận của mình, vẫn cố chứng minh sự vô lý của việc chính quyền bắt nhà chị phải đóng SƯU, vẫn cô" van xin tha thiết:
Nhà cháu đã túng lại phải đóng cả suất sưu cửa chú nó nữa, nên mới lôi thôi như thế. Chứ cháu có dám bỏ bễ tiền SƯU của nhà nước đâu? Hai ông làm phúc nói với ông lí cho cháu khất…" và khi không thuyết phục được thì chị đã hé ra một chút liều để xin khất sưu:
Xem thêm: Trình bày phong cách nghệ thuật của nhà thơ Tố Hữu
Khốn nạn! Nhà cháu đã không có, dẫu ông chửi mắng cũng đến thế thôi. Xin ông trông lại!”
Không đáp lại lời cầu xin, tên cai lệ ra lệnh cho người nhà lý trưởng “trói cổ thằng chồng nó lại, điệu ra đình kia!". Người nhà lý trưởng “hình như không dám hành hạ một người" ốm nặng thì chính anh ta giật phắt sợi dây thừng đi đến chỗ anh Dậu. Lúc này chị Dậu mới “xám mặt", ấy là màu sắc biểu hiện của người đang trong tâm trạng vừa sợ, vừa lo. Chị vội vàng đặt con xuống đất, chạy lại vừa đỡ lây tay cai lệ vừa năn nỉ:
Cháu van ông, nhà cháu vừa mới tỉnh được một lúc, ông tha cho!
-Tha này! Tha này
Vừa nói hắn vừa bịch luôn vào ngực chị Dậu mấy bịch rồi lại sấn đến để trói anh Dậu".
Đúng là một cảnh tượng sống động đã xảy ra giữa một người đàn ông có chút quyền lực với người nữ nông dân có con mọn hiếm thấy. Hành động của hắn như lửa đổ thêm dầu. Chị Dậu đã liều mạng cự lại. Lời nói của chị ở vị trí của một kẻ ngang hàng với kẻ thù và như ra lệnh “chồng tôi đau ốm không được phép hành hạ”, và rồi chị nói như thách thức: “mày trói ngay chồng bà đi, bà cho mày xem". Xét về thái độ và ngôn ngữ, nếu cai lệ và người nhà lý trưởng ỷ thế cậy quyền, tỏ ra quan liêu, hách dịch thì chị Dậu là người biết thủ phận, nhịn nhục dù đang chịu sự bất công chèn ép. Điều ấy được biểu hiện ở những lời xưng hô ban đầu của chị. Thay đổi cách xưng hô ấy là diễn biến tâm trạng biểu hiện thành lời nói. Tự hạ mình thành hàng “con cháu”, “tôi”, và khi căm giận tới tột cùng thì chị đã xưng là “bà”, còn cai lệ từ vai “ông” biến thành “mày”. Không dừng lại ở lời nói, chị đã đáp trả bằng hành động khi cai lệ “bịch luôn vào ngực chị mấy bịch". Lấy bạo lực trừng trị bạo lực. Chị đã biến sự căm thù thành hành động tích cực nhất. Chị đã xông về phía tên cai lệ để: “túm lẩy cổ ấn giúi ra cửa". Người nhà lý trưởng thấy đàn anh của mình bị đánh ngã nên hắn lại xông vào. Với sức mạnh của nữ lực điền, chị nắm lấy tóc quẳng cho một cái, khiến “hắn ngã chòng quèo ra thềm". Chị vừa biểu lộ tinh thần đấu tranh, vừa chứng tỏ tiềm năng của những người nô lệ khi đã bị đẩy đến chân tường. Điều ấy càng được chứng tỏ ở câu trả lời của chị khi nghe anh Dậu nhắc đến chuyện “phải tù phải tội” khi đánh bọn người đi đòi SƯU thế:
Thà ngồi tù. Để chúng nó làm tình làm tội mãi thế, tôi không chịu được…”
Chị Dậu đúng là hình ảnh tiêu biểu của người phụ nữ Việt Nam sau lũy tre làng.
Khi bị quyền lực bất công dồn vào chân tường, họ biết vùng dậy. Dù là đấu tranh “tự phát” đánh bọn cai lệ người nhà lý trưởng để “thà chịu ngồi tù” nhưng hành động đấu tranh của chị đã giúp ta nhận rõ thêm phân nào chân lý: “Nơi nào có áp bức nơi đó có đấu tranh”, “Tức nước” (quyên lực bất công đàn áp) thì “v<? bờ” (nhân dân vùng lên chống lại); thây rõ sức mạnh tiềm tàng của phụ nữ Việt Nam.
I.Với nghệ thuật chọn lọc những chi tiết gây căng thẳng, miêu tả thật tự nhiên và đầy kịch tính, nhà văn Ngô Tất Tô" đã làm xúc động người đọc qua nhân vật chị Dậu trong tác phẩm: “Tắt đèn” ông xứng đáng là người có công lớn trong việc hình thành và phát triển nền tiểu thuyết Việt Nam thuộc dòng văn học Hiện thực phê phán, thật xứng với lời nhận xét của nhà phê bình Vũ Ngọc Phan rằng: “Cái' đoạn chị Dậu đánh nhau với tên cai lệ là một đoạn tuyệt khéo”, và của nhà văn Nguyễn Tuân: “Xui người nông dân nổi loạn".
Hiện nay phụ nữ đã biết đấu tranh giành quyền lợi thiết thực hàng ngày vừa chống những hiện tượng tiêu cực để xây dựng xã hội vừa dạy đỗ con cái, biết lo cho chồng con và còn là những giáo viên dạy giỏi, thợ dệt tiên tiến, bác sĩ tận tụy trong việc làm để xây dựng đất nước. Họ cũng đã đồng lồng chung sức họp lại để đương đầu với mọi khó khăn trước mắt. Để khỏi phụ lòng những bà mẹ, những người chị đáng kính, em càng nô lực trong học tập, tích cực rèn luyện để sau này có đầy đủ tài năng về phẩm chất chống lại bất cứ một ai muốn dùng quyền lực đê buộc con người hôm nay phải sống cảnh tủi nhục như chị Dậu đã phải sông.
Nguồn: thêm: Tự chọn và ghi lại chính xác một đoạn thơ lục bát (4 câu) trong mộtt bài thơ hoặc ca dao mà em biết. Viết đoạn văn nêu cảm nhận của em về đoạn thơ lục bát trên trong đó có sử dụng ít nhất hai cặp từ trái nghĩa (gạch chân dưới những cặp từ đó)
|
Phân tích đoạn trích Tức Nước Vỡ Bờ của Ngô Tất Tố
Hướng dẫn
-Chị Dậu đã đáp trả như thế nào?
-“Nước ” ở trong đoạn trích nhằm ám chỉ điều gì? Ám chỉ ai?
-“Bờ” trong đoạn trích ám chỉ ai?
Đặt cho đoạn trích nhan đề Tức nước vỡ bờ thật thỏa đáng, vì những lý do trên.
-Khi phân tích nên chú ý đến việc chăm sóc chồng con, đến sắc mặt, cử chỉ, lời nói, hành động của chị Dậu biến đổi theo thời gian và sự đối xử của tên cai lệ và người nhà lý trưởng. Đó là diễn biến tâm lý chân thực và hợp lý của nhân vật.
I.Ngô Tất Tô", nhà báo nổi tiếng, là một học giả có những công trình khảo cứu về triết học phương Đông và về văn học cổ có giá trị. Ông còn là nhà văn có tài luôn gần gũi nông dân, người lao động với những bộ tiểu thuyết, trong đó có tác phẩm "'Tắt đèn”. Với cái nhìn tinh tế, tài chọn lựa những nhân vật điển hình, nhà văn đã tái hiện hình ảnh thảm sầu của nông dân Việt Nam, cũng là bản cáo trạng về tội ác của quan lại, cường hào dưới thời thực dân – phong kiến. Tiêu biểu cho cảnh thảm sầu đó là hình ảnh gia đình chị Dậu trong mùa SƯU thuế. Dù cực khổ, tủi nhục như thế nào chị cũng là người phụ nữ thực thà, lương thiện, giàu tình thương yêu và đức hy sinh của người vợ, người mẹ. Và khi bị chế độ áp bức đẩy vào chân tường, chị đã dám chông lại bằng chính sức mạnh của mình qua đoạn văn trích “Tức nước vỡ bờ”.
Phân tích đoạn văn trích: “Tức nước vỡ bờ" để thấy rõ thêm phẩm chất cao đẹp đó, đồng thời có những suy nghĩ đúng của mình về sự thay đổi của người phụ nữ Việt Nam từ Cách mạng tháng Tám đến nay.
II.Vì thiếu SƯU thuế mà anh Dậu bị bọn cường hào ác bá bắt giải ra đình hành hạ, đánh đập, bỏ nắng, phơi sương đến độ ngất xỉu. Vì bị sợ vạ lây nên bọn chúng sai người nhà lý trưởng cõng cái xác không hồn của anh về trả cho gia đình chị Dậu. Trong cảnh khốn cùng, chị đã tìm mọi cách để cứu chồng tỉnh lại. Chỉ một hành động ấy thôi cũng đủ chứng tỏ chị có lòng thương yêu đậm đà đối với anh Dậu rồi. Anh Dậu vừa tỉnh lại thì trong nhà không có lấy một hạt gạo để cầm hơi. Chị phải vất vả ngược xuôi đi vay mượn ở hàng xóm được lon gạo về nấu cháo cho chồng. Cháo vừa chín, chị ngả mâm bát múc ra la liệt và “lấy quạt, quạt cho cháo mau nguội''’ thì tiếng trống, tiếng tù và, tiếng chó sủa đã inh ỏi vang lên ở đầu làng. Hơn ai hết, chị đã một lần hiểu được sau âm thanh oan nghiệt kia chuyện gì sẽ xảy đến cho anh Dậu, cho gia đình chị. Bởi vậy chị càng băn khoăn, lo lắng. Qua lời đối thoại của chị với bà hàng xóm lúc bà hớt hải chạy qua khuyên chị nên mang anh Dậu đi trốn sưu, cũng đã làm rõ sự băn khoăn suy nghĩ đó. Chị trả lời: “thưa cụ cháu cũng nghĩ như cụ' “Nghĩ như cụ” là chị cũng định mang anh Dậu đi trốn sưu, nhưng vì anh “nhịn suông từ sáng hôm qua đến giờ", nên chị đã nấn ná để cho chồng húp ba miếng cháo lấy lại sức trước khi đi trốn. Cháo nguội, chị bưng một bát lớn rồi “rón rén” đặt cạnh chỗ anh Dậu nằm. Có cử chỉ nào đầy tình thương trong bước đi nhẹ nhàng của người phụ nữ chỉ vì muôn cho chồng mình được yên tĩnh trong những phút ốm đau. Chẳng những thế chị còn cố nài nỉ: “Thầy hãy cố dậy húp lấy vài húp cho đỡ xót ruột". Lời nói ấy chỉ có ở những người phụ nữ vừa giàu lòng thương yêu, vừa kính trọng chồng. Thêm vào đó “chị còn cố ý chờ xem chồng chị ăn có ngon miệng hay không?". Chỉ một cử chỉ đó cũng đủ cho người đọc thây chị là con người hy sinh, lấy hạnh phúc của chồng con làm hạnh phúc của chính bản thân mình.
Anh Dậu vừa bưng bát cháo đưa lên miệng húp thì tên cai lệ và người nhà lý trưởng sầm sập, hùng hổ tiến vào. Chúng hoạnh hoẹ, chửi bới, đe dọa, để cố đòi cho được tiền SƯU.
“Gỡ đầu roi xuống đất, cai lệ thét bằng giọng khàn khàn của người hút nhiều xái cũ:
-Thằng kia! Ông tưởng mày chết đêm qua, còn sống đấy à? Nộp tiền sưu! Mau!".
Trước cử chỉ, giọng nói sặc mùi quan liêu, hách dịch nhưng vô cùng bệ rạc đó của tên cai lệ, anh Dậu hoảng quá “vộỉ để bát cháo xuống phản và lăn đùng ra đó, không nói được câu gì”. Chỉ một mình chị Dậu tay nách con tìm cách đối phó. Những giây phút đầu tiên chị Dậu đã “run run” lo sỢ, nhưng rồi chị đã bình tĩnh trở lại và cố tìm lời khôn khéo để vừa khất cho được tiền SƯU thuế, vừa trả đũa lại kẻ thù. Chị đã tự hạ mình xuống hàng “con” “cháu” và tôn xưng kẻ thù là “ông”. Dù bị xâm phạm đến danh dự của cá nhân, của gia đình mình, bị đe dọa: “giời cả nhà mày đi” và bị chửi bới: “nói cho cha mày nghe đấy à”, thì chị vẫn cố nén sự tức giận của mình, vẫn cố chứng minh sự vô lý của việc chính quyền bắt nhà chị phải đóng SƯU, vẫn cô" van xin tha thiết:
Nhà cháu đã túng lại phải đóng cả suất sưu cửa chú nó nữa, nên mới lôi thôi như thế. Chứ cháu có dám bỏ bễ tiền SƯU của nhà nước đâu? Hai ông làm phúc nói với ông lí cho cháu khất…" và khi không thuyết phục được thì chị đã hé ra một chút liều để xin khất sưu:
Xem thêm: Trình bày phong cách nghệ thuật của nhà thơ Tố Hữu
Khốn nạn! Nhà cháu đã không có, dẫu ông chửi mắng cũng đến thế thôi. Xin ông trông lại!”
Không đáp lại lời cầu xin, tên cai lệ ra lệnh cho người nhà lý trưởng “trói cổ thằng chồng nó lại, điệu ra đình kia!". Người nhà lý trưởng “hình như không dám hành hạ một người" ốm nặng thì chính anh ta giật phắt sợi dây thừng đi đến chỗ anh Dậu. Lúc này chị Dậu mới “xám mặt", ấy là màu sắc biểu hiện của người đang trong tâm trạng vừa sợ, vừa lo. Chị vội vàng đặt con xuống đất, chạy lại vừa đỡ lây tay cai lệ vừa năn nỉ:
Cháu van ông, nhà cháu vừa mới tỉnh được một lúc, ông tha cho!
-Tha này! Tha này
Vừa nói hắn vừa bịch luôn vào ngực chị Dậu mấy bịch rồi lại sấn đến để trói anh Dậu".
Đúng là một cảnh tượng sống động đã xảy ra giữa một người đàn ông có chút quyền lực với người nữ nông dân có con mọn hiếm thấy. Hành động của hắn như lửa đổ thêm dầu. Chị Dậu đã liều mạng cự lại. Lời nói của chị ở vị trí của một kẻ ngang hàng với kẻ thù và như ra lệnh “chồng tôi đau ốm không được phép hành hạ”, và rồi chị nói như thách thức: “mày trói ngay chồng bà đi, bà cho mày xem". Xét về thái độ và ngôn ngữ, nếu cai lệ và người nhà lý trưởng ỷ thế cậy quyền, tỏ ra quan liêu, hách dịch thì chị Dậu là người biết thủ phận, nhịn nhục dù đang chịu sự bất công chèn ép. Điều ấy được biểu hiện ở những lời xưng hô ban đầu của chị. Thay đổi cách xưng hô ấy là diễn biến tâm trạng biểu hiện thành lời nói. Tự hạ mình thành hàng “con cháu”, “tôi”, và khi căm giận tới tột cùng thì chị đã xưng là “bà”, còn cai lệ từ vai “ông” biến thành “mày”. Không dừng lại ở lời nói, chị đã đáp trả bằng hành động khi cai lệ “bịch luôn vào ngực chị mấy bịch". Lấy bạo lực trừng trị bạo lực. Chị đã biến sự căm thù thành hành động tích cực nhất. Chị đã xông về phía tên cai lệ để: “túm lẩy cổ ấn giúi ra cửa". Người nhà lý trưởng thấy đàn anh của mình bị đánh ngã nên hắn lại xông vào. Với sức mạnh của nữ lực điền, chị nắm lấy tóc quẳng cho một cái, khiến “hắn ngã chòng quèo ra thềm". Chị vừa biểu lộ tinh thần đấu tranh, vừa chứng tỏ tiềm năng của những người nô lệ khi đã bị đẩy đến chân tường. Điều ấy càng được chứng tỏ ở câu trả lời của chị khi nghe anh Dậu nhắc đến chuyện “phải tù phải tội” khi đánh bọn người đi đòi SƯU thế:
Thà ngồi tù. Để chúng nó làm tình làm tội mãi thế, tôi không chịu được…”
Chị Dậu đúng là hình ảnh tiêu biểu của người phụ nữ Việt Nam sau lũy tre làng.
Khi bị quyền lực bất công dồn vào chân tường, họ biết vùng dậy. Dù là đấu tranh “tự phát” đánh bọn cai lệ người nhà lý trưởng để “thà chịu ngồi tù” nhưng hành động đấu tranh của chị đã giúp ta nhận rõ thêm phân nào chân lý: “Nơi nào có áp bức nơi đó có đấu tranh”, “Tức nước” (quyên lực bất công đàn áp) thì “v<? bờ” (nhân dân vùng lên chống lại); thây rõ sức mạnh tiềm tàng của phụ nữ Việt Nam.
I.Với nghệ thuật chọn lọc những chi tiết gây căng thẳng, miêu tả thật tự nhiên và đầy kịch tính, nhà văn Ngô Tất Tô" đã làm xúc động người đọc qua nhân vật chị Dậu trong tác phẩm: “Tắt đèn” ông xứng đáng là người có công lớn trong việc hình thành và phát triển nền tiểu thuyết Việt Nam thuộc dòng văn học Hiện thực phê phán, thật xứng với lời nhận xét của nhà phê bình Vũ Ngọc Phan rằng: “Cái' đoạn chị Dậu đánh nhau với tên cai lệ là một đoạn tuyệt khéo”, và của nhà văn Nguyễn Tuân: “Xui người nông dân nổi loạn".
Hiện nay phụ nữ đã biết đấu tranh giành quyền lợi thiết thực hàng ngày vừa chống những hiện tượng tiêu cực để xây dựng xã hội vừa dạy đỗ con cái, biết lo cho chồng con và còn là những giáo viên dạy giỏi, thợ dệt tiên tiến, bác sĩ tận tụy trong việc làm để xây dựng đất nước. Họ cũng đã đồng lồng chung sức họp lại để đương đầu với mọi khó khăn trước mắt. Để khỏi phụ lòng những bà mẹ, những người chị đáng kính, em càng nô lực trong học tập, tích cực rèn luyện để sau này có đầy đủ tài năng về phẩm chất chống lại bất cứ một ai muốn dùng quyền lực đê buộc con người hôm nay phải sống cảnh tủi nhục như chị Dậu đã phải sông.
Nguồn: thêm: Tự chọn và ghi lại chính xác một đoạn thơ lục bát (4 câu) trong mộtt bài thơ hoặc ca dao mà em biết. Viết đoạn văn nêu cảm nhận của em về đoạn thơ lục bát trên trong đó có sử dụng ít nhất hai cặp từ trái nghĩa (gạch chân dưới những cặp từ đó)
|
Phân tích đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh của Lê Hữu Trác
Hướng dẫn
Lê Hữu Trác là một nhà y học tài năng đã để lại cho đời sau một sự nghiệp y học đồ sộ. Người ta còn biết đến ông với tư cách là một nhà văn nhà thơ xuất sắc, ông đã đóng góp vào kho tàng văn học dân tộc những tác phẩm văn chương rất quý giá, trong đó phải kể đến đoạn trích vào phủ chúa Trịnh trong tập kí Thượng kinh kí sự của ông.
Thượng kinh kí sự là tập kí viết bằng chữ hác của Hải Thượng Lãn Ông. Tác phẩm ghi chép lại những điều ông mắt thấy tai nghe trong một chuyến đi từ Hương Sơn (Hà Tĩnh), nơi ông sống ẩn dật, đến kinh đô Thăng Long, vào phủ Chúa theo "thánh chỉ" để chữa bệnh cho thế tử Trịnh Cán. Tác phẩm cho ta thấy quang cảnh ở kinh đô, quyền uy thế lực của nhà chúa và cuộc sống xa hoa trong phủ chúa Trịnh, đồng thời cũng cho thấy tâm hồn, nhân cách của một vị danh y tài cao, đức trọng. Đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh là môt trong những đoạn văn thể hiện tập trung tư tưởng này.
Đoạn trích đã miêu tả tỉ mỉ quá trình cũng như khung cảnh tác giả được triệu vào khám bệnh cho thế tử. Thời gian được ghi rõ là ngày "mồng một tháng hai", "sáng tinh mơ"; và nói rõ nguyên cớ sự việc "có Thánh chỉ triệu vào cung: – đó là đặc điểm của thể kí sự. Ở kinh đô được nhìn thấy cảnh giàu sang, xa hoa, Lê Hữu Trác đã tả lại cảnh ấy một cách chân thực bằng cái nhìn khách quan và tâm hồn giàu cảm xúc. Điều đáng lưu ý là cảnh vàng son nơi phủ chúa hiện lên như một thiên đường: "Tôi ngẩng đầu lên đâu đâu cũng là cây cối um tùm, chim kêu ríu rít, danh hoa đua thắm, gió đưa thoang thoảng mùi hương. Những dãy hành lang quanh co nối nhau liên tiếp. Người giữ của truyền báo rộn ràng"… Tâm hồn tác giả nhảy cảm, giàu tình yêu thiên nhiên, nhưng với cảnh giàu sang, xa hoa nơi phủ chúa, Hải Thượng Lãn Ông vẫn có môt giọng trào lộng. Tất cả tâm hồn, tình yêu thiên nhiên, cùng thái độ trào lộng ấy đều được thể hiện rõ nét trong việc miêu tả và tự thuật. Hải Thượng viết: "Tôi nghĩ: Mình vốn con quan, sinh trưởng ở chốn phồn hoa, chỗ nào trong cấm thành mình cũng từng biết. Chỉ có những việc trong phủ chúa…. mới hay cái cảnh giàu sang của vua chúa thực khác hẳn người thường".Xem thêm: Phân tích bài thơ bếp lửa của Bằng Việt
Đứng trước cảnh cung vua trang hoàng xa hoa lộng lẫy, tác giả đã phải thốt lên thành thơ, và miêu tả lại cảnh đẹp nơi chốn cung đình này:
"Lính nghìn cửa vác đồng nghiêm nhặt
Cả trời Nam sang nhất là đây!
Lầu từng gác vẽ tung mây,
Rèm châu, hiên ngọc, bóng mai ánh vào.
Quê mùa, cung ấm chưa quen,
Khác gì ngư phủ đào nguyên thuở nào!"
Mới đọc những lời thơ trên, người đọc dễ nhầm tưởng rằng tác giả đang cảm động trước vẻ đẹp của cảnh vật, nhưng thực chất, trong việc ca ngợi cảnh vật là sự mỉa mai châm biếm đối với vua quan nơi phủ chúa mà tác giả không thể bộc lộ thẳng thắn được.
Cảnh cung đình thật tráng lệ và đẹp mắt, hiện lên như ở cõi tiên với những "lầu son, gác tía", "hiên ngọc, rèm châu". Tác giả nói mình là "ngư phủ" lạc vào chốn "đào nguyên" theo tích trong Đào hoa nguyên kí của Đào Tiềm. Nói như vậy không rõ là để ngợi ca phủ Chúa hay là để mỉa mai? Rồi tác giả còn miêu tả cặn kẽ hơn các ngôi điếm và cảnh quan cũng theo cái giọng điệu nửa khen nửa chê ấy: "Điếm làm bên cái hồ, có những cái cây lạ lùng và những hòn đá kì lạ. Trong điếm, cột và bao lơn lượn vòng, kiểu cách thật là xinh đẹp. Bằng những ngôn ngữ miêu tả hết sức chính xác và chân thực, tác giả đã khéo léo ngầm ý phê phán. Ông lên ác cuộc sống xa hoa nơi phủ chúa một cách kín đáo.Xem thêm: Nếu anh (chị) không trúng tuyển vào trường đại học
Hải Thưởng Lãn Ông nhận thấy cuộc sống của muôn dân thì khổ cực, đói rách, nhưng trong phủ chúa thì sống xa hoa, sung túc. Đó là sản phẩm của sự bốc lột, trái ngược với đời sống của nhân dân. Ông diễn đạt điều này một cách khéo léo là "cảnh giàu sang của vua chúa thực khác hẳn người thường".
Hải Thượng Lãn Ông là một thầy thuốc tài giỏi của dân tộc, việc ông được tiến cử chữa bệnh cho thế tử là một cơ hội để tiếng tăm càng nổi hơn, và quan tước sẽ là điều chắc chắn. Song, với Hải Thưởng Lãn Ông tất cả những thứ danh lợi ấy chỉ là phù phiếm. Ông không muốn vướng vào vòng danh lợi, cũng như những bậc ẩn sĩ thời xưa mà Đào Tiềm là một tấm gương.
Ông không màng danh lợi, không ham muốn cuộc sống xa hoa nơi cung điện mà tìm các tránh được việc phải ở lại làm quan. Thực ra thì sự đấu tranh tư tưởng đã diễn ra trong tâm trạng của Hải Thưởng Lãn Ông. Nhưng đó không phải là sự đấu tranh của cái danh lợi với sự trong sạch của tâm hồn, mà là giữa đạo "trung" của kẻ bề tôi với lòng ham "về núi" của kẻ sĩ thời loạn. Và cuối cùng ta thấy lòng ham "về núi" của kẻ sĩ thanh cao đã thắng: ông đã thật sự thoát được khỏi vòng danh lợi, dũng cảm và thông minh để từ chối việc chữa bệnh cho Trịnh Cán, một thế tử trẻ con, ốm yếu, bệnh hoạn…Xem thêm: Cảm nhận về bài thơ Bài ca ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ
Khi vào đến phủ chúa, tài năng của ông đã làm cho thái y và quần thần kính nể. Song ông tự nhận thấy rằng, tài năng của ông không được sử dụng để phục vụ cho chốn vua chúa xa hoa, càng không phải để phục vụ việc mưu cầu lợi ích riêng cho mình, mà là để phục vụ cho nhân dân, những người lam lũ và nghèo khổ.
Với tấm lòng vì nước vì dân và tài năng phi thường, qua ngòi bút của mình, Lê Hữu Trác đã tái hiện lại cuộc sống xa hoa nơi phủ chúa và qua đó, ta thấy hiện lên tâm hồn và nhân cách của Hải Thưởng Lãn Ông: đó là một tâm hồn trong sạch, một nhân cách lớn của một nhà y thuật tài ba và giàu y đức.
Nguồn:
|
Analysis of the excerpt Entering Lord Trinh's Palace by Le Huu Trac
Instruct
Le Huu Trac is a talented medical doctor who left behind a huge medical career. People also know him as an excellent writer and poet. He contributed to the national literary treasure with very valuable literary works, including the excerpt from Lord Trinh's palace in His Thuong Kinh memoirs.
Thuong Kinh Ky is a memoir written in different script by Hai Thuong Lan Ong. The work records what he saw and heard during a trip from Huong Son (Ha Tinh), where he lived in seclusion, to the capital Thang Long, to the Lord's palace according to "holy orders" to treat the crown prince's illness. Trinh Can. The work shows us the scene in the capital, the power and influence of the lord's house and the luxurious life in Lord Trinh's palace, and also shows the soul and personality of a highly talented and virtuous famous physician. The excerpt Entering Lord Trinh's palace is one of the passages that focuses on this thought.
The excerpt meticulously describes the process as well as the scene in which the author was summoned to examine the crown prince. The time is clearly stated as "February 1st", "early morning"; and clearly stated the reason for the incident: "There was a Saint summoned to the palace: - that is a characteristic of the memoir. In the capital, seeing a scene of wealth and luxury, Le Huu Trac described that scene realistically. With an objective look and an emotional soul, it is worth noting that the golden scene of the lord's palace appears like a paradise: "Everywhere I raise my head, there are luxuriant trees, chirping birds, and famous people." The flowers are blooming, the wind carries a faint scent. The winding corridors connect consecutively. "The keeper of the bustling newspaper"... The author's soul is sensitive, rich in love for nature, but with the rich and luxurious scene of the lord's palace, Hai Thuong Lan Ong still has a satirical voice. All his soul, His love for nature and his sarcastic attitude are clearly expressed in his description and autobiography. Hai Thuong wrote: "I thought: I am a mandarin, born in a prosperous place, somewhere in the forbidden city I also knew. Only things in the lord's palace... I just realized that the wealth of kings is really different from ordinary people." See more: Analysis of the fire stove poem by Bang Viet
Standing before the scene of the king's palace being lavishly decorated, the author had to speak poetically and describe the beauty of this royal place:
"Thousand-door soldiers carry bronze strictly
The most luxurious sky in the South is here!
Every floor is painted with clouds,
Pearl curtains, jade porch, apricot shadows shine in.
Hometown, unfamiliar warmth,
It's no different than the fishermen of old!
Having just read the above verses, the reader easily mistakenly thinks that the author is moved by the beauty of the scenery, but in fact, in praising the scenery, there is a satirical irony towards the kings and mandarins in the lord's palace that the author wrote. The fake cannot be expressed frankly.
The royal palace scene is magnificent and beautiful, appearing as if in a fairyland with "red floors, purple lofts", "jade porches, and pearl curtains". The author says he is a "fisherman" lost in a place of "Peach Origin" according to the story in Dao Hoa Nguyen Ky by Dao Tiem. It's not clear if saying this is to praise God's palace or to be sarcastic? Then the author even more thoroughly described the prostitutes and the landscape in that half-praising, half-criticizing tone: "The prostitute is built next to the lake, there are strange trees and strange rocks. In the prostitute, there are pillars. and the circling balcony, the style is truly beautiful. With extremely accurate and realistic descriptive language, the author cleverly criticizes the luxurious life in the royal palace unique.See more: If you are not admitted to university
Hai Thuong Lan Ong realized that the lives of all people were miserable and hungry, but in the lord's palace they lived in luxury and prosperity. It is the product of exploitation, contrary to the people's lives. He aptly expressed this as "the wealth of kings is truly different from ordinary people".
Hai Thuong Lan Ong is a talented physician of the nation, the fact that he was recommended to treat the crown prince is an opportunity to make his reputation even more famous, and the mandarin will be certain. However, to Hai Thuong Lan Ong, all that fame and fortune are just vanity. He did not want to get entangled in the circle of fame and fortune, like the ancient hermits of whom Dao Tiem was an example.
He did not care about fame and fortune, did not desire a luxurious life in the palace, but found a way to avoid having to stay as an official. In fact, the ideological struggle took place in Hai Thuong Lan Ong's mind. But it is not a struggle between fame and fortune and purity of soul, but between the "loyalty" of the servant and the desire to "return to the mountains" of the scholar in times of chaos. And in the end we see that the noble scholar's desire to "return to the mountains" won: he truly escaped the cycle of fame and fortune, was brave and intelligent to refuse medical treatment for Trinh Can, a child prince. , sick, sick... See more: Comments on the poem "Sweet Song" by Nguyen Cong Tru
When he entered the lord's palace, his talent earned the respect of the physician and courtiers. But he realized that his talent was not used to serve the luxury of kings, not even to serve his own personal interests, but to serve the people, the people. poor and miserable people.
With a heart for the country and the people and extraordinary talent, through his pen, Le Huu Trac recreated the luxurious life of the lord's palace and through that, we see the soul and personality of Hai Thuong Lan. He: that is a pure soul, a great personality of a talented medical practitioner and rich in medical ethics.
Source:
|
Đề bài: Phân tích đoạn trích “Sau phút chia ly”
Bài làm
Tác phẩm “Sau phút chia ly” trích trong Chinh phụ ngâm khúc hiện nay đoạn trích này chưa rõ nguồn tác giả là ai.
Tuy nhiên đây là đoạn trích hay thể hiện nỗi lòng của người con gái trong thời phong kiến khi cho chồng đi chinh chiến phương xa.
Thông qua đoạn trích tác giả muốn tố cáo tội ác phi nghĩa, trong thời kỳ xưa khiến nhiều người dân lâm vào cảnh lầm than, cơ cực. Nhiều người phụ nữ phải xa chồng, nhiều người chồng phải chịu cảnh đầu rơi máu chảy nơi chiến trường.
Giây phút chia ly đầy đau đớn, nhiều xót xa, luyến tiếc của đôi vợ chồng trẻ. Tác giả đã diễn tả tinh tế tâm trạng kẻ ở người đi.
Chàng thì đi cõi xa mưa gió
Thiếp thì về buồng cũ chiếu chăn
Đoái trông theo đã cách ngăn
Tuôn màu mây biếc trải ngàn núi xanh
Trong bốn câu thơ này tác giả đã khắc họa sâu sắc tâm trạng của người vợ trẻ khi tiễn người chồng của mình ra trận. Một tình cảnh khắc nghiệp, thê lương tới tê tái lòng người.
Người vợ trẻ nhìn theo bóng dáng người chồng thân thương của mình trong không gian mịt mờ, mênh mông, chỉ thấy sự chia ly cách biệt dài đằng đẵng không thấy sự tương phùng hiện diện. Một tâm trạng buồn đau tới não lòng, sự vấn vương lưu luyến thể hiện trong từng câu từng chữ của đoạn trích.Xem thêm: Phát biểu cảm nghĩ về truyện sự tích Hồ Gươm
Tác giả đã vô cùng nhân văn khi đồng cảm với những người phụ nữ có chồng đi chinh chiến, sự cô đơn mòn mỏi của người chinh phụ khi tuổi xuân phơi phới phải vùi chôn một mình vò võ suốt năm canh.
Chốn Hàm Dương chàng còn ngoảnh lại
Bến Tiêu Tương thiếp hãy trông sang
Khói Tiêu Tương cách Hàm Dương
Cây Hàm Dương cách Tiêu Tương mấy trùng
Trong khổ thơ này nghệ thuật đối lập được tác giả sử dụng vô cùng tinh tế thể hiện sự tiêu điều, ảm đạm của cảnh biệt ly, kẻ đi người ở. Trong không gian bao la mênh mông, trong giây phút tiễn biệt đầy xúc động.
Hình ảnh sự chờ trông ngóng chờ của người con gái, hiện lên trong những câu thơ làm nhói lòng người ra đi, khiến cho người đọc cảm thấy nghẹn lòng cho tâm sự của người phụ nữ cho chồng đi viễn xứ.
Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy
Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu
Ngàn dâu xanh ngắt một màu
Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai?
Trong bốn câu thơ này tác giả đã biến đổi phong cách thơ linh hoạt, người con gái vò võ một mình trong căn phòng hoang lạnh thiếu hơi ấm, vòng tay che chở của người đàn ông. Sự cô đơn gối chiếc, người chồng nơi xa không biết khi nào trở lại.
Tuổi xuân của người con gái thì chỉ có giới hạn nhất định, nhưng chiến tranh đã không cho họ hạnh phúc trọn vẹn. Không cho họ sống những thời khắc tuổi xuân hạnh phúc, mà bắt người con gái phải sống trong hiu quạnh, hoang lạnh mỗi đêm.Xem thêm: Phát biểu suy nghĩ của em về rừng -văn lớp 7
” Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai? một câu hỏi tu từ làm người đọc cảm thấy rưng rưng xúc động. Người con gái đang tự hỏi chính mình. Người con gái đã tự hỏi nỗi cô đơn trong mình. Câu thơ nhằm nhấn mạnh sự cô đơn, sầu muộn của người con gái trong những đêm xuân vò võ chờ chồng trong mòn mỏi.
Đoạn trích này thể hiện nỗi niềm, tâm sự của người con gái khi tiễn chân chồng đi đánh trận. Những giờ phút tiễn biệt, bi thương nhiều nước mắt. Thể hiện sự nhân văn, nhân đạo của tác giả với số phận những người chinh phụ thời xưa.
Nguồn: Tài liệu văn mẫu
|
Topic: Analysis of the excerpt "After the moment of separation"
Assignment
The work "After the Minute of Separation" is excerpted from Chinh Phu Ngam Khuc. Currently, the author of this excerpt is unknown.
However, this is a good excerpt that shows the feelings of a girl in feudal times when she sent her husband to war in a distant land.
Through the excerpt, the author wants to denounce the senseless crimes that in ancient times caused many people to fall into misery and destitution. Many women had to be separated from their husbands, many husbands had to endure bleeding on the battlefield.
The moment of separation was full of pain, sadness, and regret for the young couple. The author has delicately described the mood of the traveler.
He went to a far away place in the rain and wind
I went back to my old room to get blankets
Looking forward to stopping
The color of blue clouds spreads across thousands of green mountains
In these four verses, the author deeply portrays the young wife's mood when sending her husband off to war. A harsh, miserable situation that numbs the human heart.
The young wife looked at the figure of her beloved husband in the vast, dim space, only seeing the long separation and not seeing the presence of compatibility. A sad and heartbreaking mood, lingering attachment is shown in every sentence and word of the excerpt. See more: Expressing feelings about the legend of Hoan Kiem Lake
The author was extremely humane when he sympathized with the women whose husbands went to war, the loneliness and weariness of the conquering women who had to bury themselves in martial arts alone for five hours when their youth was blooming.
At Ham Duong, he still looked back
Ben Tieu Tuong, please look forward
The smoke of Tieu Tuong is far from Ham Duong
Ham Duong tree is a few miles away from Tieu Tuong
In this stanza, the author uses the art of contrast extremely delicately to show the desolation and gloom of the scene of separation, of those who leave and those who stay. In the vastness of space, in an emotional moment of farewell.
The image of a girl's longing and anticipation appears in the heart-wrenching verses, making the reader feel choked up with the confession of the woman who sent her husband away to a foreign country.
Looking back but not seeing
Seeing thousands of strawberries green and green
Thousands of green strawberries are one color
Whose heart is sadder than the other?
In these four verses, the author has flexibly changed the poetic style, the girl fights alone in a cold room lacking warmth and the protective arms of a man. The loneliness is overwhelming, the husband is far away and doesn't know when he will return.
A girl's youth has a certain limit, but the war did not give them complete happiness. Not allowing them to live happy moments of youth, but forcing the girl to live in loneliness and coldness every night. See more: Express your thoughts about the forest - 7th grade literature
"Who's heart is sadder than the other? A rhetorical question that makes the reader feel moved. The girl is asking herself. The girl wondered about her loneliness. The poem aims to emphasize the loneliness and sadness of the girl in the spring nights of waiting tirelessly for her husband.
This excerpt shows the feelings and thoughts of a girl when she sees her husband off to war. The moments of farewell and sadness brought many tears. Shows the author's humanity and humanity towards the fate of ancient conquerors.
Source: Sample document
|
Phân tích đoạn Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ (Trích Chinh phụ ngâm)
Gợi ý
HƯỚNG DẪN
Tác phẩm chính là Chinh phụ ngâm (Bản in cũ hiện còn, 1902, VNv. 298) viết bằng chữ Hán, sáng tác chủ yếu theo lối tập cổ. Phần lớn các câu thơ trong đó được góp nhặt, lấy ý, hoặc phỏng theo các câu thơ cổ trong Nhạc phủ, Đường thi của Trung Quốc rồi xếp lại, bổ sung thêm để nói lên cảm hứng của mình trước cuộc chiến tranh phi nghĩa lúc bấy giờ. Đặng Trần Côn là một nhà thơ giàu xúc cảm nên mặc dù hình thức tính chất “tập cổ”, tác phẩm của ông vẫn gây xúc động mạnh mẽ do Hương công Đặng Trần Côn soạn. Vì đầu đời Cảnh Hưng có việc binh đao, cảnh biệt li của người đi chinh thú khiến ông cảm xúc mà làm”.
So bản dịch của Đoàn Thị Điểm với bản chữ nho thì thấy văn dịch rất sát nghĩa nguyên văn mà lời văn êm đềm, ảo não, rõ ra giọng một người đàn bà buồn bã, nhưng có vẻ thê lương hơn là vẻ đau đớn, không đến nỗi réo rắt, sầu khổ như giọng văn cung oán, thật là lời văn hợp cảnh vậy. Bản dịch viết theo thể “song thất”. Có nhiều đoạn đặt theo lối liên hoàn, những chữ cuối câu trên láy lại làm chữ đầu câu dưới, cứ thế đặt dài dưới mấy câu, thật hợp với tình buồn liên miên không dứt của người chinh phụ”.
PHÂN TÍCH
1. Đoạn trích có thể chia làm 3 đoạn nhỏ:
a) Từ câu 1 đến câu 16: nỗi cô đơn của người chinh phụ trong cảnh vắng vẻ lẻ loi thời gian dài dằng dẳng, muốn giải khuây nhưng không được.
b) Từ câu 17 đến câu 28: nỗi nhớ chồng nơi chiến trận xa xôi, cảnh vật thiên nhiên khiến lòng người chinh phụ càng thêm buồn.
c) Từ câu 29 đến câu 36: tâm trạng rạo rực, khao khát hạnh phúc lứa đôi của người chinh phụ khi trăng lên. Vào thời điểm ấy, người chinh phụ chứng kiến cảnh hoa nguyệt trùng trùng, còn riêng nàng thì lẻ loi, đơn chiếc.Xem thêm: Nguyễn Đình Thi đã cảm nhận và suy tư như thế nào về quê hương đất nước trong phần 2 bài thơ Đất nước?2. Sau khi tiễn chồng ra trận, người chinh phụ trở về nhà. Nàng dạo bước một mình quanh hiên vắng. Nàng một mình đối diện với ngọn đèn khuya. Nàng gượng thắp hương, lại gảy đàn cầm sắt mong tìm được niềm an ủi. Tuy nhiên tất cả những việc làm ấy không làm giảm được cảm giác lẻ loi, đơn chiếc của nàng. Hình ảnh đặc tả người chinh phụ một mình “thầm gieo từng bước” ngoài hiên vắng và ngồi một mình với ngọn đèn trong phòng vắng đã thể hiện nỗi cô đơn lẻ loi ở mức tột cùng. Nàng khát khao được đồng cảm, được chia sẻ. Nàng ngóng chờ chim thước báo tin vui, nhưng chim thước nào có tới. Nàng sầu tủi miên man, có lúc khóc nước mắt chứa chan. Nỗi buồn của nàng lên đến mức tột cùng: “Khắc giờ đằng đẵng như niên — Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa”.
Tổng hợp đoạn 1:
Từ câu 1 đến câu 8: nỗi cô đơn của người chinh phụ trong cảnh lẻ loi.
Từ câu 9 đến câu 12: đêm không ngủ nghe trống báo canh, nghe gà báo sáng, người chinh phụ thấy thời gian chờ đợi dài vô cùng.
Từ câu 13 đến câu 16: người chinh phụ cố tìm cách giải khuây bằng việc đốt hương, soi gương, gảy đàn, nhưng rốt cuộc vẫn không thoát nổi sầu tủi miên man.
3. Các chi tiết ngoại cảnh có tác dụng biểu hiện tâm trạng cô đơn, buồn tủi của người chinh phụ. Thật đúng là người đã buồn thì cảnh chẳng thể vui:
Cảnh buồn người thiết tha lòng,
Cành cây sương đượm tiếng trùng mưa phun.
ở đây hình ảnh “Cành cây sương đượm” và âm thanh “tiếng trùng mưa phun” như làm tăng thêm nỗi buồn thiết tha trong lòng nàng. Hình ảnh khóc liệt “Sương như búa, bổ mòn gốc liễu – Tuyết dường cưa, xẻ héo cành ngô” như sức tàn phá của thời gian đối với nhan sắc và tuổi xuân của nàng. Hạt sương nhỏ mong manh có thể bào mòn gốc liễu, hạt tuyết rơi nhẹ rắc có thể xẻ héo cành ngô, quả là sức tàn phá âm thầm mà mạnh mẽ của thiên nhiên, của thời gian. Người chinh phụ trong hoàn cảnh lẻ loi, cô đơn, đã hiểu được một cách thấm thía sức tàn phá đó.Xem thêm: Suy nghĩ về trách nhiệm của người con đối với gia đình
Chi tiết “giọt sương phủ, bụi chim gù sâu tường kêu vắng, chuông chùa nện khơi” vô tình làm nhói nỗi cô đơn, lẻ loi của nàng. Vạn vật rộn ràng như thế nhưng lòng nàng vẫn cứ trông trải, cô đơn.
Nỗi nhớ của nàng không thể so sánh với bất kì cảnh sắc tự nhiên nào, mà phải so sánh với đường lên trời “thăm thẳm”. Đó là một nổi nhớ “đau đáu” triền miên, dài dằng dặc: “Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu – Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong”. Sự so sánh liên tưởng từ nỗi nhớ vô hình đến con đường lên trời thăm thẳm hữu hình thật là đắc địa. Nỗi nhớ ấy đã được người dịch cụ thể hóa nên người đọc, người nghe có thể cảm nhận được.
4. Tâm trạng người chinh phụ trong đoạn cuối (từ câu 29 đến câu 36) có nét khác với tâm trạng người chinh phụ trong hai đoạn trên. Ở đây, thay cho tâm trạng cô đơn sầu tủi lại là một tâm trạng rạo rực khát khao trước cảnh hoa nguyệt, nguyệt hoa giãi bày trước rèm vào lúc trăng lên. Tạo vật còn có đời sống tình cảm quấn quýt, vậy mà con người lại chịu cảnh cô đơn lẻ loi? Khát khao hạnh phúc lứa đôi của người chinh phụ trở nên rạo rực. Nhưng rạo rực vậy thôi, rồi sầu tủi vẫn cứ là sầu tủi vì nàng đang cô đơn, lẻ loi.
5. Các biện pháp tu từ, nhạc điệu làm nên giá trị khúc ngâm qua đoạn trích:
a) Các biện pháp tu từ:
– Biện pháp so sánh, nhân hóa: “khắc giờ” dài dằng dẵng “như niên” (như cả một năm), “mốì sầu” dài dằng dặc như “miền biển xa”. Hoặc giọt sương mạnh như lưỡi búa, bổ mòn gốc liễu – Tuyết dường cưa, xẻ héo cành ngô”. Ớ đây ngoài biện pháp so sánh, tác giả còn biến sương, tuyết thành lực lượng siêu nhiên có sức phá hoại mạnh mẽ. Tác giả sử dụng động từ chỉ hành động mạnh: “bổ”, “xẻ”, góp phần làm tăng sắc thái khốc liệt của hoạt động “bổ mòn” và “xẻ héo”.Xem thêm: Phân tích nội dung và nghệ thuật các bài Ca dao yêu thương, tình nghĩa– Biện pháp điệp ngữ làm tăng sắc thái biểu cảm: “Nghìn vàng xin gửi đến non Yên – Non Yên dù chẳng tới miền”, “Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời – Trời thăm thẳm xa vời khôn thâu”, “Nguyệt hoa, hoa nguyệt trùng trùng – Trước hoa dưới nguyệt trong lòng xiết đâu”,…
b) Nhạc điệu của thể song thất lục bát với hai câu bảy (thất), một câu sáu (lục), một câu bát (tám) tạo nên các đợt sóng trào lên rút xuống, diễn tả tâm trạng cô đơn, sầu tủi của người hồi tưởng kí ức lại liên tưởng đến cảnh vật tự nhiên xung quanh vì “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ” (Truyện Kiều).
6. Tổng hợp chung về giá trị nội dung và nghệ thuật của đoạn trích.
a) Giá trị nội dung: Đoạn trích đã khắc họa một cách sâu sắc, cô đọng tâm trạng cô đơn, sầu tủi, niềm khao khát hạnh phúc lứa đôi của người chinh phụ có chồng đi chiến chinh. Tình cảnh cô đơn, lẻ loi ấy gián tiếp tố cáo cuộc chiến tranh phi nghĩa đương thời.
b) Giá trị nghệ thuật: Bằng nghệ thuật trữ tình của thể ngâm khúc song thất lục bát, với các biện pháp tu từ đầy biến hóa của tiếng Việt, bản dịch đã diễn tả được những biến thái phong phú, tinh vi tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ. Từ xưa đến nay bản dịch Chinh phụ ngâm hiện hành vẫn được coi là mẫu mực của ngôn ngữ nghệ thuật tiếng Việt. Đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ là một trong những minh chứng cho điều ấy.
Vanmau.edu.vn
|
Phân tích đoạn Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ (Trích Chinh phụ ngâm)
Gợi ý
HƯỚNG DẪN
Tác phẩm chính là Chinh phụ ngâm (Bản in cũ hiện còn, 1902, VNv. 298) viết bằng chữ Hán, sáng tác chủ yếu theo lối tập cổ. Phần lớn các câu thơ trong đó được góp nhặt, lấy ý, hoặc phỏng theo các câu thơ cổ trong Nhạc phủ, Đường thi của Trung Quốc rồi xếp lại, bổ sung thêm để nói lên cảm hứng của mình trước cuộc chiến tranh phi nghĩa lúc bấy giờ. Đặng Trần Côn là một nhà thơ giàu xúc cảm nên mặc dù hình thức tính chất “tập cổ”, tác phẩm của ông vẫn gây xúc động mạnh mẽ do Hương công Đặng Trần Côn soạn. Vì đầu đời Cảnh Hưng có việc binh đao, cảnh biệt li của người đi chinh thú khiến ông cảm xúc mà làm”.
So bản dịch của Đoàn Thị Điểm với bản chữ nho thì thấy văn dịch rất sát nghĩa nguyên văn mà lời văn êm đềm, ảo não, rõ ra giọng một người đàn bà buồn bã, nhưng có vẻ thê lương hơn là vẻ đau đớn, không đến nỗi réo rắt, sầu khổ như giọng văn cung oán, thật là lời văn hợp cảnh vậy. Bản dịch viết theo thể “song thất”. Có nhiều đoạn đặt theo lối liên hoàn, những chữ cuối câu trên láy lại làm chữ đầu câu dưới, cứ thế đặt dài dưới mấy câu, thật hợp với tình buồn liên miên không dứt của người chinh phụ”.
PHÂN TÍCH
1. Đoạn trích có thể chia làm 3 đoạn nhỏ:
a) Từ câu 1 đến câu 16: nỗi cô đơn của người chinh phụ trong cảnh vắng vẻ lẻ loi thời gian dài dằng dẳng, muốn giải khuây nhưng không được.
b) Từ câu 17 đến câu 28: nỗi nhớ chồng nơi chiến trận xa xôi, cảnh vật thiên nhiên khiến lòng người chinh phụ càng thêm buồn.
c) Từ câu 29 đến câu 36: tâm trạng rạo rực, khao khát hạnh phúc lứa đôi của người chinh phụ khi trăng lên. Vào thời điểm ấy, người chinh phụ chứng kiến cảnh hoa nguyệt trùng trùng, còn riêng nàng thì lẻ loi, đơn chiếc.Xem thêm: Nguyễn Đình Thi đã cảm nhận và suy tư như thế nào về quê hương đất nước trong phần 2 bài thơ Đất nước?2. Sau khi tiễn chồng ra trận, người chinh phụ trở về nhà. Nàng dạo bước một mình quanh hiên vắng. Nàng một mình đối diện với ngọn đèn khuya. Nàng gượng thắp hương, lại gảy đàn cầm sắt mong tìm được niềm an ủi. Tuy nhiên tất cả những việc làm ấy không làm giảm được cảm giác lẻ loi, đơn chiếc của nàng. Hình ảnh đặc tả người chinh phụ một mình “thầm gieo từng bước” ngoài hiên vắng và ngồi một mình với ngọn đèn trong phòng vắng đã thể hiện nỗi cô đơn lẻ loi ở mức tột cùng. Nàng khát khao được đồng cảm, được chia sẻ. Nàng ngóng chờ chim thước báo tin vui, nhưng chim thước nào có tới. Nàng sầu tủi miên man, có lúc khóc nước mắt chứa chan. Nỗi buồn của nàng lên đến mức tột cùng: “Khắc giờ đằng đẵng như niên — Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa”.
Tổng hợp đoạn 1:
Từ câu 1 đến câu 8: nỗi cô đơn của người chinh phụ trong cảnh lẻ loi.
Từ câu 9 đến câu 12: đêm không ngủ nghe trống báo canh, nghe gà báo sáng, người chinh phụ thấy thời gian chờ đợi dài vô cùng.
Từ câu 13 đến câu 16: người chinh phụ cố tìm cách giải khuây bằng việc đốt hương, soi gương, gảy đàn, nhưng rốt cuộc vẫn không thoát nổi sầu tủi miên man.
3. Các chi tiết ngoại cảnh có tác dụng biểu hiện tâm trạng cô đơn, buồn tủi của người chinh phụ. Thật đúng là người đã buồn thì cảnh chẳng thể vui:
Cảnh buồn người thiết tha lòng,
Cành cây sương đượm tiếng trùng mưa phun.
ở đây hình ảnh “Cành cây sương đượm” và âm thanh “tiếng trùng mưa phun” như làm tăng thêm nỗi buồn thiết tha trong lòng nàng. Hình ảnh khóc liệt “Sương như búa, bổ mòn gốc liễu – Tuyết dường cưa, xẻ héo cành ngô” như sức tàn phá của thời gian đối với nhan sắc và tuổi xuân của nàng. Hạt sương nhỏ mong manh có thể bào mòn gốc liễu, hạt tuyết rơi nhẹ rắc có thể xẻ héo cành ngô, quả là sức tàn phá âm thầm mà mạnh mẽ của thiên nhiên, của thời gian. Người chinh phụ trong hoàn cảnh lẻ loi, cô đơn, đã hiểu được một cách thấm thía sức tàn phá đó.Xem thêm: Suy nghĩ về trách nhiệm của người con đối với gia đình
Chi tiết “giọt sương phủ, bụi chim gù sâu tường kêu vắng, chuông chùa nện khơi” vô tình làm nhói nỗi cô đơn, lẻ loi của nàng. Vạn vật rộn ràng như thế nhưng lòng nàng vẫn cứ trông trải, cô đơn.
Nỗi nhớ của nàng không thể so sánh với bất kì cảnh sắc tự nhiên nào, mà phải so sánh với đường lên trời “thăm thẳm”. Đó là một nổi nhớ “đau đáu” triền miên, dài dằng dặc: “Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu – Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong”. Sự so sánh liên tưởng từ nỗi nhớ vô hình đến con đường lên trời thăm thẳm hữu hình thật là đắc địa. Nỗi nhớ ấy đã được người dịch cụ thể hóa nên người đọc, người nghe có thể cảm nhận được.
4. Tâm trạng người chinh phụ trong đoạn cuối (từ câu 29 đến câu 36) có nét khác với tâm trạng người chinh phụ trong hai đoạn trên. Ở đây, thay cho tâm trạng cô đơn sầu tủi lại là một tâm trạng rạo rực khát khao trước cảnh hoa nguyệt, nguyệt hoa giãi bày trước rèm vào lúc trăng lên. Tạo vật còn có đời sống tình cảm quấn quýt, vậy mà con người lại chịu cảnh cô đơn lẻ loi? Khát khao hạnh phúc lứa đôi của người chinh phụ trở nên rạo rực. Nhưng rạo rực vậy thôi, rồi sầu tủi vẫn cứ là sầu tủi vì nàng đang cô đơn, lẻ loi.
5. Các biện pháp tu từ, nhạc điệu làm nên giá trị khúc ngâm qua đoạn trích:
a) Các biện pháp tu từ:
– Biện pháp so sánh, nhân hóa: “khắc giờ” dài dằng dẵng “như niên” (như cả một năm), “mốì sầu” dài dằng dặc như “miền biển xa”. Hoặc giọt sương mạnh như lưỡi búa, bổ mòn gốc liễu – Tuyết dường cưa, xẻ héo cành ngô”. Ớ đây ngoài biện pháp so sánh, tác giả còn biến sương, tuyết thành lực lượng siêu nhiên có sức phá hoại mạnh mẽ. Tác giả sử dụng động từ chỉ hành động mạnh: “bổ”, “xẻ”, góp phần làm tăng sắc thái khốc liệt của hoạt động “bổ mòn” và “xẻ héo”.Xem thêm: Phân tích nội dung và nghệ thuật các bài Ca dao yêu thương, tình nghĩa– Biện pháp điệp ngữ làm tăng sắc thái biểu cảm: “Nghìn vàng xin gửi đến non Yên – Non Yên dù chẳng tới miền”, “Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời – Trời thăm thẳm xa vời khôn thâu”, “Nguyệt hoa, hoa nguyệt trùng trùng – Trước hoa dưới nguyệt trong lòng xiết đâu”,…
b) Nhạc điệu của thể song thất lục bát với hai câu bảy (thất), một câu sáu (lục), một câu bát (tám) tạo nên các đợt sóng trào lên rút xuống, diễn tả tâm trạng cô đơn, sầu tủi của người hồi tưởng kí ức lại liên tưởng đến cảnh vật tự nhiên xung quanh vì “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ” (Truyện Kiều).
6. Tổng hợp chung về giá trị nội dung và nghệ thuật của đoạn trích.
a) Giá trị nội dung: Đoạn trích đã khắc họa một cách sâu sắc, cô đọng tâm trạng cô đơn, sầu tủi, niềm khao khát hạnh phúc lứa đôi của người chinh phụ có chồng đi chiến chinh. Tình cảnh cô đơn, lẻ loi ấy gián tiếp tố cáo cuộc chiến tranh phi nghĩa đương thời.
b) Giá trị nghệ thuật: Bằng nghệ thuật trữ tình của thể ngâm khúc song thất lục bát, với các biện pháp tu từ đầy biến hóa của tiếng Việt, bản dịch đã diễn tả được những biến thái phong phú, tinh vi tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ. Từ xưa đến nay bản dịch Chinh phụ ngâm hiện hành vẫn được coi là mẫu mực của ngôn ngữ nghệ thuật tiếng Việt. Đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ là một trong những minh chứng cho điều ấy.
Vanmau.edu.vn
|
Phân tích đoạn văn tả cảnh Huấn Cao cho chữ viên quản ngục trong nhà lao.
Hướng dẫn
Nguyễn Tuân là một trong những nhà văn tiêu biểu của làng văn học Việt Nam, ông đã để lại cho kho tàng văn học những tác phẩm tinh tế, mang giá trị cả về nội dung và nghệ thuật. Tác phẩm chữ người tử tù là một trong những tuyệt bút mà ông để lại cho đời, cảnh tượng cho chữ của Huấn cao cho viên quản ngục là một cảnh tượng xưa nay chưa từng có và để lại sự trầm trồ thán phục của người đọc đối vời người tù có nghĩa khí.
Trong toàn bộ tác phẩm, tác giả đã tập trung miêu tả chí khí phi thường của người bị tù đày, tấm lòng của viên cai ngục và đến đoạn cho chữ là đoạn văn hay nhất, thể hiện được tâm ý của nhà văn trong toàn bộ tác phẩm và là đoạn mà tác giả đã dùng hết tâm huyết và tài năng của mình để tạo nên một tuyệt bút để đới cho con cháu.
Người có chữ đẹp, cho chữ người yêu chữ đẹp là việc hết sức bình thường, nhưng vấn đề đáng nói ở đây là khung cảnh diễn ra việc cho chữ, và có sự đối lập giữa người cho chữ và người nhận chữ. Việc Huấn Cao cho chữ trong đoạn văn này không phải là việc thanh toán những nợ nần với quản ngục, cũng không phải là hành động của người sắp tử hình đem những tài sản cuối cùng cho người ở lại. Cũng không phải là cơ hội cuối cùng để một Huấn Cao nổi tiếng tài hoa phô diễn tài năng. Đây trước hết là một việc làm đáp lại một tấm lòng trong thiên hạ, là tấm lòng của kẻ tri âm dành cho người tri kỉ. Người ta thấy cái Tâm đang điều khiển cái Tài, cái Tài đang phụng sự cái Tâm. Nói đủ hơn, cái Tài, cái Tâm và cái Dũng đã hòa vào nhau để tạo nên cái Đẹp. Đoạn văn, vì thế, có thể coi là cao trào của bài ca bi tráng về cái Đẹp – cái Đẹp của tài năng – khí phách và thiên lương. Đó là cái đẹp đáng trân trọng, cái đẹp hiếm có thể tìm thấy được trong hoàn cảnh khắc nghiệt lúc bấy giờ.Xem thêm: Nghị luận xã hội - Lòng khiêm tốn
Miêu tả lại cảnh cho chữ, tác giả đã dùng hết tâm huyết cũng như tài năng thực thụ của mình để có những câu chữ hết sức tinh tế sắc sảo. Cảnh cho chữ được viết theo lối tương phản nhuần nhuyễn mà gay gắt làm nổi bật sự đối lập giữa Bóng Tối và Ánh Sáng, cái Thiện và cái Ác, Cao Cả và Thấp Hèn… mỗi nét bút của nhà văn như một nhát khắc của nghệ sĩ tạo hình làm cho các hình tượng như được chạm nổi, nhưng khối hình như hằn lên trên bề mặt câu chữ. Hoàn toàn có thể hình dung cảnh này theo lối điển anh. Trên cái nền đen khịt của trại giam, bật bùng lên một ngọn đuốc. Bên dưới ngọn đuốc sáng rực là ba con người đang chụm đầu xung quang một vuông lụa trắng tinh. Một người tù "cổ đeo gông, chân vướng xiềng, đang dậm tô nét chữ". Vuông lụa trắng là điểm sáng nhất của vùng sáng ấy. Trên đó, từng nét chữ đang tượng hình, từng con chữ đang ra đời. Cái Đẹp được khai sinh. Không sành nghệ thuật thứ bảy, khó có thể dựng được một cảnh tưởng giàu chất điện ảnh như thế.
Với giọng văn hào hùng, mang đậm khí chất của tác giả cũng như của nhân vật trong truyện, cảnh cho chữ được cho là cảnh tượng xưa nay chưa từng có. Xưa nay việc cho chữ vốn chỉ diễn ra ở những nơi tao nhã, và những thư phòng, viện sách. Còn ở đây nó lại diễn ra giữa tù tăm tối và hôi hám, diễn ra giữa không gian chật hẹp và "tường đầy mạng nhện tổ rệp, đất bừa bãi phân chuột, phân gián". Hơn nữa, xưa nay người cho chữ là những bậc tạo nhân mặc khách ung dung nhấp rượu, thưởng trà, khoan thai cầm ngọn bút lông thảo những nét "như phượng múa rồng bay" trpng phảng phất hương trầm. Ở đây người cho chữ lại là một người tù "cổ đeo gông, chân vướng xiềng", viết chữ trong "một bầu không khí khói tỏa như đám cháy nhà" "khói bóc tỏa cay mắt" và phải "dụi mắt lia lịa". Thế nhưng giữa cái cảnh phản thẩm mĩ đó, mùi mực thơm vẫn bốc lên, con chữ vẫn hiện hình trên vuông lụa trắng tinh và người cho chữ cũng như người nhận chữ vẫn say mê hào hứng và thần kính thiên liêng. Đó mới là cái đẹp đáng trân trọng, cái đẹp thanh cao.Xem thêm: Phân tích hình tượng cây xà nu trong truyện ngắn Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành.
Cảnh xưa nay chưa từng có còn thể hiện khi người đọc nhận thấy sự thay đổi trong vị trí của ba nhân vật: Huấn Cao, quản ngục và thơ lại. Huấn Cao là một người tù phải vào kinh chịu án chém, nghĩa là ông đã bị tước mọi thứ quyền, kể cả quyền được sống, vậy ma từ ông lại toát ra một thứ uy lực khiến hai nhân vật kia phải nệ trọng, phải kính cẩn cúi đầu. Còn quản ngục và thơ lại là kẻ có đủ thứ quyền và đại diện cho uy quyền của tầng lớp thống trị, trong cảnh cho chữ này lại mất hết uy quyền. Ông Huấn sừng sững uy nghi, còn ngục quan và thơ lại thì "khúm núm" "run run"… Ngục quan và thơ lại có chức năng giáo dục tội phạm, thì ở đây lại đang được tọi phạm Huấn Cao giáo dục. Quản ngục và thơ lại thành kính lĩnh nhận từng lời của Huấn Cao như nhận những di huấn thiên liên về nhân cách, về lẽ sống của một bậc thầy hiền minh cao cả. Thế đó, mọi trật tự đã bị đảo lộn. Nhà tù, cường quyền đã sụp đổ. Cái Đẹp đã lên ngôi, Dưới uy lực của cái Đẹp không còn tù nhân, không còn cai ngục, tất cả đã trở thành tri kỉ, tri âm. Trong cảm hứng sáng tạo của nhà văn họ Nguyễn, cái Đẹp có sức mạnh cảm hóa vô biên. Cái Đẹp, vì thế trở thành bất tử.Xem thêm: Viết một bài văn nghị luận nêu suy nghĩ của em về lợi và hại về hiện tượng sử dụng blog trong giới trẻ hiện nay
Cảnh cho chữ của Huấn Cao cho viên quan ngục hiện lên thật đẹp, người chiến sĩ bị nguch tù ấy không vì gian khổ khó khăn mà làm mất ý chí, tâm hồn cao thượng thanh cao của mình. Bằng cái tái và cái tâm, Huấn Cao đã chinh phục được cái tối tăm xấu xa nơi ngục tù của chế độ phong kiến, mặc dù sắp chịu án tử, là kẻ chịu tội, nhưng Huấn Cao vẫn được tôn trọng, được kính phục. Viên quản ngục, viên thơ lại cũng phải cúi mình trước cái tài và cái tâm trong con người Huấn Cao, đó là thắng lợi cho ý chí mà ông chưa thực hiện xong và cũng là dụng ý mà tác giả muốn gửi gắm đến người đọc.
Nguồn:
|
Analyze the passage describing the scene where Huan Cao gives the word to the prison warden in the prison.
Instruct
Nguyen Tuan is one of the typical writers of Vietnamese literature. He left the literary treasure trove of exquisite works, valuable in both content and art. The work of a prisoner on death row is one of the masterpieces he left behind for life. The scene of Huan Cao's writing for the prison warden is an unprecedented scene and leaves the reader in awe and admiration. Be kind to prisoners.
In the entire work, the author has focused on describing the extraordinary character of the imprisoned person, the heart of the prison guard, and even the passage that is considered the best paragraph, expressing the writer's intention throughout the entire work. collection of works and is the section where the author used all his enthusiasm and talent to create a masterpiece to pass down to his descendants.
It's very normal for people with beautiful words to give words to people who love beautiful words, but the issue worth mentioning here is the context in which the giving of words takes place, and the contrast between the person giving the words and the person receiving the words. Huan Cao's use of the words in this passage is not the payment of debts to the prison guard, nor is it the action of a person on death row giving the last assets to those left behind. This is not the last opportunity for a famous and talented Huan Cao to show off his talent. This is first of all an act of responding to a heart in the world, the heart of a confidant for a confidant. People see that the Mind is controlling the Talent, the Talent is serving the Mind. To say it more fully, Talent, Mind and Courage have merged together to create Beauty. The passage, therefore, can be considered the climax of the tragic song about Beauty - the Beauty of talent - courage and generosity. It is a beauty worth appreciating, a beauty that can rarely be found in harsh circumstances at that time. See more: Social commentary - Humility
Describing the scene with words, the author has used all his enthusiasm and true talent to create extremely delicate and sharp sentences. The scene for the words is written in a smooth yet harsh contrasting style, highlighting the opposition between Darkness and Light, Good and Evil, Noble and Lowly... each stroke of the writer's pen is like an engraving of The visual artist makes the images appear to be embossed, but the shapes appear to appear on the surface of the words. It is entirely possible to imagine this scene in a typical English style. On the dark background of the prison, a torch flared up. Beneath the glowing torch are three people huddled around a square of pure white silk. A prisoner "is wearing a shackle around his neck, his feet are shackled, and he is stamping his handwriting". The white silk square is the brightest point of that light area. On it, each stroke is taking shape, each letter is being born. Beauty is born. Without connoisseurs of the seventh art, it is difficult to create such a cinematic scene.
With a heroic voice, imbued with the author's temperament as well as that of the characters in the story, the text scene is said to be an unprecedented scene. In the past, giving letters only took place in elegant places, in libraries and bookstores. But here it takes place in a dark and smelly prison, in a cramped space with "walls full of spider webs and bed bug nests, the ground littered with rat feces and cockroach feces". Moreover, in the past, the people who gave letters were creators who let guests leisurely sip wine, enjoy tea, and leisurely hold the tip of a brush to draw strokes "like a phoenix dancing and flying with a dragon" with a hint of incense. Here, the writer was a prisoner whose "neck was in a shackle and his feet were shackled", writing in "a smoky atmosphere like a house fire" "the smoke was stinging his eyes" and he had to "rubbing his eyes repeatedly". . But in the midst of that anti-aesthetic scene, the scent of fragrant ink still rose, the words still appeared on the pure white silk square and the person giving the words as well as the recipient of the words were still passionately excited and reverent to the divine. That is the beauty worth appreciating, the noble beauty. See more: Analysis of the image of the snake plant in the short story The Snake Forest by Nguyen Trung Thanh.
An unprecedented scene is also shown when the reader notices the change in the positions of three characters: Huan Cao, the prison guard and the poet. Huan Cao is a prisoner who has to go to the capital to be beheaded, meaning he has been stripped of all rights, including the right to live, so his ghost exudes a kind of power that makes the other two characters respect him. bowed respectfully. The prison warden and the poet are people who have all kinds of power and represent the authority of the ruling class. In this situation, this word loses all authority. Mr. Huan stands majestically, while the prison mandarin and the poet are "obsequious" and "trembling"... The prison mandarin and the poet have the function of educating criminals, but here they are being educated by the criminal Huan Cao. The prison guard and the poet respectfully received every word of Huan Cao as if receiving profound teachings about the personality and life of a noble and wise master. That's it, all order was reversed. Prisons and power have collapsed. Beauty has ascended the throne. Under the power of Beauty there are no more prisoners, no more prison guards, everyone has become confidants and confidants. In the creative inspiration of writer Nguyen, Beauty has boundless emotional power. Beauty, therefore, becomes immortal. See more: Write an essay stating your thoughts on the advantages and disadvantages of the phenomenon of using blogs among young people today
The scene of Huan Cao's words to the prison officer appeared beautifully, the imprisoned soldier did not lose his noble will and soul because of hardships and difficulties. With his courage and heart, Huan Cao conquered the darkness and evil of the feudal prison. Even though he was about to be sentenced to death and was a criminal, Huan Cao was still respected and admired. . The prison warden and the poet also had to bow before the talent and heart in Huan Cao. That was a victory for his will that he had not yet fulfilled and was also the intention that the author wanted to convey to the reader. .
Source:
|
Phân tích đoạn văn tả cảnh Huấn Cao cho chữ viên quản ngục trong nhà lao.
Hướng dẫn
Nguyễn Tuân là một trong những nhà văn tiêu biểu của làng văn học Việt Nam, ông đã để lại cho kho tàng văn học những tác phẩm tinh tế, mang giá trị cả về nội dung và nghệ thuật. Tác phẩm chữ người tử tù là một trong những tuyệt bút mà ông để lại cho đời, cảnh tượng cho chữ của Huấn cao cho viên quản ngục là một cảnh tượng xưa nay chưa từng có và để lại sự trầm trồ thán phục của người đọc đối vời người tù có nghĩa khí.
Trong toàn bộ tác phẩm, tác giả đã tập trung miêu tả chí khí phi thường của người bị tù đày, tấm lòng của viên cai ngục và đến đoạn cho chữ là đoạn văn hay nhất, thể hiện được tâm ý của nhà văn trong toàn bộ tác phẩm và là đoạn mà tác giả đã dùng hết tâm huyết và tài năng của mình để tạo nên một tuyệt bút để đới cho con cháu.
Người có chữ đẹp, cho chữ người yêu chữ đẹp là việc hết sức bình thường, nhưng vấn đề đáng nói ở đây là khung cảnh diễn ra việc cho chữ, và có sự đối lập giữa người cho chữ và người nhận chữ. Việc Huấn Cao cho chữ trong đoạn văn này không phải là việc thanh toán những nợ nần với quản ngục, cũng không phải là hành động của người sắp tử hình đem những tài sản cuối cùng cho người ở lại. Cũng không phải là cơ hội cuối cùng để một Huấn Cao nổi tiếng tài hoa phô diễn tài năng. Đây trước hết là một việc làm đáp lại một tấm lòng trong thiên hạ, là tấm lòng của kẻ tri âm dành cho người tri kỉ. Người ta thấy cái Tâm đang điều khiển cái Tài, cái Tài đang phụng sự cái Tâm. Nói đủ hơn, cái Tài, cái Tâm và cái Dũng đã hòa vào nhau để tạo nên cái Đẹp. Đoạn văn, vì thế, có thể coi là cao trào của bài ca bi tráng về cái Đẹp – cái Đẹp của tài năng – khí phách và thiên lương. Đó là cái đẹp đáng trân trọng, cái đẹp hiếm có thể tìm thấy được trong hoàn cảnh khắc nghiệt lúc bấy giờ.Xem thêm: Nghị luận xã hội - Lòng khiêm tốn
Miêu tả lại cảnh cho chữ, tác giả đã dùng hết tâm huyết cũng như tài năng thực thụ của mình để có những câu chữ hết sức tinh tế sắc sảo. Cảnh cho chữ được viết theo lối tương phản nhuần nhuyễn mà gay gắt làm nổi bật sự đối lập giữa Bóng Tối và Ánh Sáng, cái Thiện và cái Ác, Cao Cả và Thấp Hèn… mỗi nét bút của nhà văn như một nhát khắc của nghệ sĩ tạo hình làm cho các hình tượng như được chạm nổi, nhưng khối hình như hằn lên trên bề mặt câu chữ. Hoàn toàn có thể hình dung cảnh này theo lối điển anh. Trên cái nền đen khịt của trại giam, bật bùng lên một ngọn đuốc. Bên dưới ngọn đuốc sáng rực là ba con người đang chụm đầu xung quang một vuông lụa trắng tinh. Một người tù "cổ đeo gông, chân vướng xiềng, đang dậm tô nét chữ". Vuông lụa trắng là điểm sáng nhất của vùng sáng ấy. Trên đó, từng nét chữ đang tượng hình, từng con chữ đang ra đời. Cái Đẹp được khai sinh. Không sành nghệ thuật thứ bảy, khó có thể dựng được một cảnh tưởng giàu chất điện ảnh như thế.
Với giọng văn hào hùng, mang đậm khí chất của tác giả cũng như của nhân vật trong truyện, cảnh cho chữ được cho là cảnh tượng xưa nay chưa từng có. Xưa nay việc cho chữ vốn chỉ diễn ra ở những nơi tao nhã, và những thư phòng, viện sách. Còn ở đây nó lại diễn ra giữa tù tăm tối và hôi hám, diễn ra giữa không gian chật hẹp và "tường đầy mạng nhện tổ rệp, đất bừa bãi phân chuột, phân gián". Hơn nữa, xưa nay người cho chữ là những bậc tạo nhân mặc khách ung dung nhấp rượu, thưởng trà, khoan thai cầm ngọn bút lông thảo những nét "như phượng múa rồng bay" trpng phảng phất hương trầm. Ở đây người cho chữ lại là một người tù "cổ đeo gông, chân vướng xiềng", viết chữ trong "một bầu không khí khói tỏa như đám cháy nhà" "khói bóc tỏa cay mắt" và phải "dụi mắt lia lịa". Thế nhưng giữa cái cảnh phản thẩm mĩ đó, mùi mực thơm vẫn bốc lên, con chữ vẫn hiện hình trên vuông lụa trắng tinh và người cho chữ cũng như người nhận chữ vẫn say mê hào hứng và thần kính thiên liêng. Đó mới là cái đẹp đáng trân trọng, cái đẹp thanh cao.Xem thêm: Phân tích hình tượng cây xà nu trong truyện ngắn Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành.
Cảnh xưa nay chưa từng có còn thể hiện khi người đọc nhận thấy sự thay đổi trong vị trí của ba nhân vật: Huấn Cao, quản ngục và thơ lại. Huấn Cao là một người tù phải vào kinh chịu án chém, nghĩa là ông đã bị tước mọi thứ quyền, kể cả quyền được sống, vậy ma từ ông lại toát ra một thứ uy lực khiến hai nhân vật kia phải nệ trọng, phải kính cẩn cúi đầu. Còn quản ngục và thơ lại là kẻ có đủ thứ quyền và đại diện cho uy quyền của tầng lớp thống trị, trong cảnh cho chữ này lại mất hết uy quyền. Ông Huấn sừng sững uy nghi, còn ngục quan và thơ lại thì "khúm núm" "run run"… Ngục quan và thơ lại có chức năng giáo dục tội phạm, thì ở đây lại đang được tọi phạm Huấn Cao giáo dục. Quản ngục và thơ lại thành kính lĩnh nhận từng lời của Huấn Cao như nhận những di huấn thiên liên về nhân cách, về lẽ sống của một bậc thầy hiền minh cao cả. Thế đó, mọi trật tự đã bị đảo lộn. Nhà tù, cường quyền đã sụp đổ. Cái Đẹp đã lên ngôi, Dưới uy lực của cái Đẹp không còn tù nhân, không còn cai ngục, tất cả đã trở thành tri kỉ, tri âm. Trong cảm hứng sáng tạo của nhà văn họ Nguyễn, cái Đẹp có sức mạnh cảm hóa vô biên. Cái Đẹp, vì thế trở thành bất tử.Xem thêm: Viết một bài văn nghị luận nêu suy nghĩ của em về lợi và hại về hiện tượng sử dụng blog trong giới trẻ hiện nay
Cảnh cho chữ của Huấn Cao cho viên quan ngục hiện lên thật đẹp, người chiến sĩ bị nguch tù ấy không vì gian khổ khó khăn mà làm mất ý chí, tâm hồn cao thượng thanh cao của mình. Bằng cái tái và cái tâm, Huấn Cao đã chinh phục được cái tối tăm xấu xa nơi ngục tù của chế độ phong kiến, mặc dù sắp chịu án tử, là kẻ chịu tội, nhưng Huấn Cao vẫn được tôn trọng, được kính phục. Viên quản ngục, viên thơ lại cũng phải cúi mình trước cái tài và cái tâm trong con người Huấn Cao, đó là thắng lợi cho ý chí mà ông chưa thực hiện xong và cũng là dụng ý mà tác giả muốn gửi gắm đến người đọc.
Nguồn:
|
Analyze the passage describing the scene where Huan Cao gives the word to the prison warden in the prison.
Instruct
Nguyen Tuan is one of the typical writers of Vietnamese literature. He left the literary treasure trove of exquisite works, valuable in both content and art. The work of a prisoner on death row is one of the masterpieces he left behind for life. The scene of Huan Cao's writing for the prison warden is an unprecedented scene and leaves the reader in awe and admiration. Be kind to prisoners.
In the entire work, the author has focused on describing the extraordinary character of the imprisoned person, the heart of the prison guard, and even the passage that is considered the best paragraph, expressing the writer's intention throughout the entire work. collection of works and is the section where the author used all his enthusiasm and talent to create a masterpiece to pass down to his descendants.
It's very normal for people with beautiful words to give words to people who love beautiful words, but the issue worth mentioning here is the context in which the giving of words takes place, and the contrast between the person giving the words and the person receiving the words. Huan Cao's use of the words in this passage is not the payment of debts to the prison guard, nor is it the action of a person on death row giving the last assets to those left behind. This is not the last opportunity for a famous and talented Huan Cao to show off his talent. This is first of all an act of responding to a heart in the world, the heart of a confidant for a confidant. People see that the Mind is controlling the Talent, the Talent is serving the Mind. To say it more fully, Talent, Mind and Courage have merged together to create Beauty. The passage, therefore, can be considered the climax of the tragic song about Beauty - the Beauty of talent - courage and generosity. It is a beauty worth appreciating, a beauty that can rarely be found in harsh circumstances at that time. See more: Social commentary - Humility
Describing the scene with words, the author has used all his enthusiasm and true talent to create extremely delicate and sharp sentences. The scene for the words is written in a smooth yet harsh contrasting style, highlighting the opposition between Darkness and Light, Good and Evil, Noble and Lowly... each stroke of the writer's pen is like an engraving of The visual artist makes the images appear to be embossed, but the shapes appear to appear on the surface of the words. It is entirely possible to imagine this scene in a typical English style. On the dark background of the prison, a torch flared up. Beneath the glowing torch are three people huddled around a square of pure white silk. A prisoner "is wearing a shackle around his neck, his feet are shackled, and he is stamping his handwriting". The white silk square is the brightest point of that light area. On it, each stroke is taking shape, each letter is being born. Beauty is born. Without connoisseurs of the seventh art, it is difficult to create such a cinematic scene.
With a heroic voice, imbued with the author's temperament as well as that of the characters in the story, the text scene is said to be an unprecedented scene. In the past, giving letters only took place in elegant places, in libraries and bookstores. But here it takes place in a dark and smelly prison, in a cramped space with "walls full of spider webs and bed bug nests, the ground littered with rat feces and cockroach feces". Moreover, in the past, the people who gave letters were creators who let guests leisurely sip wine, enjoy tea, and leisurely hold the tip of a brush to draw strokes "like a phoenix dancing and flying with a dragon" with a hint of incense. Here, the writer was a prisoner whose "neck was in a shackle and his feet were shackled", writing in "a smoky atmosphere like a house fire" "the smoke was stinging his eyes" and he had to "rubbing his eyes repeatedly". . But in the midst of that anti-aesthetic scene, the scent of fragrant ink still rose, the words still appeared on the pure white silk square and the person giving the words as well as the recipient of the words were still passionately excited and reverent to the divine. That is the beauty worth appreciating, the noble beauty. See more: Analysis of the image of the snake plant in the short story The Snake Forest by Nguyen Trung Thanh.
An unprecedented scene is also shown when the reader notices the change in the positions of three characters: Huan Cao, the prison guard and the poet. Huan Cao is a prisoner who has to go to the capital to be beheaded, meaning he has been stripped of all rights, including the right to live, so his ghost exudes a kind of power that makes the other two characters respect him. bowed respectfully. The prison warden and the poet are people who have all kinds of power and represent the authority of the ruling class. In this situation, this word loses all authority. Mr. Huan stands majestically, while the prison mandarin and the poet are "obsequious" and "trembling"... The prison mandarin and the poet have the function of educating criminals, but here they are being educated by the criminal Huan Cao. The prison guard and the poet respectfully received every word of Huan Cao as if receiving profound teachings about the personality and life of a noble and wise master. That's it, all order was reversed. Prisons and power have collapsed. Beauty has ascended the throne. Under the power of Beauty there are no more prisoners, no more prison guards, everyone has become confidants and confidants. In the creative inspiration of writer Nguyen, Beauty has boundless emotional power. Beauty, therefore, becomes immortal. See more: Write an essay stating your thoughts on the advantages and disadvantages of the phenomenon of using blogs among young people today
The scene of Huan Cao's words to the prison officer appeared beautifully, the imprisoned soldier did not lose his noble will and soul because of hardships and difficulties. With his courage and heart, Huan Cao conquered the darkness and evil of the feudal prison. Even though he was about to be sentenced to death and was a criminal, Huan Cao was still respected and admired. . The prison warden and the poet also had to bow before the talent and heart in Huan Cao. That was a victory for his will that he had not yet fulfilled and was also the intention that the author wanted to convey to the reader. .
Source:
|
Phân tích đạo lý uống nước nhớ nguồn qua bài thơ Ánh Trăng của Nguyễn Duy
Hướng dẫn
a.Đặt vấn đề:
-Trăng đã từ lâu đi vào trong lòng người qua rất nhiều tác phẩm văn học. Trăng không rực rỡ chói chang như mặt trời, nhưng trăng lại là nguồn cảm xúc để cho ta gợi lên những nỗi niềm sâu lắng.
-Nguyễn Duy, nhà thơ trưởng thành trong giai đoạn kháng chiến chống Mĩ cứu nước, đã góp vào kho tàng văn học Việt Nam bài thơ Ánh trăng thật đặc sắc. Ba khổ cuối của đoạn thơ gợi nhắc chúng ta về truyền thống uống nước nhớ nguồn, ân nghĩa thủy chung cùng quá khứ.
b.Triển khai:
-Ở những khổ thơ đầu, tác giả kể về thuở nhỏ, lúc chiến tranh, trăng và con người chung sống thân thương, tri kỉ. Khi cuộc sống hiện đại với ánh sáng chói loà của ánh điện cửa gương, với những vật dụng ngày càng hiện đại thì con người quên đi ánh sáng của vầng trăng. Tác giả đã tạo ra sự đối lập giữa vầng trăng nghĩa tình trong quá khứ với vầng trăng xa lạ như người dưng qua đường.
-Cũng như dòng sông có thác ghềnh, có quanh co uốn khúc. Cuộc sống hiện đại luôn có những biến động bất trắc. Và chính trong những bất trắc ấy, ánh sáng của quá khứ, của ân tình lại bừng tỏ, là lúc người ta nhận thấy giá trị cùa quá khứ gian lao mà nghĩa tình:
thình lình đèn điện tắt
phòng buynh đinh tối om
vội bật tung cửa sổ
đột ngột vầng trăng tròn.
-Nhà thơ chỉ sử dụng bốn câu, hai mươi từ, các từ thình lình, vội, đột ngột diễn tả tình thái đầy biểu cảm thể hiện sự bất ngờ, ngẫu nhiên của cuộc tri ngộ. Hoàn cảnh gặp gỡ đó khiến nhà thơ bàng hoàng. Không chỉ là sự thay thế đúng lúc ánh trăng cho ánh điện. Ở đây còn là sự thức tỉnh và gợi nhớ cho ý nghĩa của những ngày tháng đã qua, của những cái bình dị trong cuộc sổng. Hành động bật tung diên tả trạng thái cảm xúc thật mạnh mẽ, bất ngờ, có cái gì đó như là thảng thốt, lo âu trong hình ảnh vội bật tung cứa số.
-Vâng trăng tròn đâu phải khi đèn điện tắt mới có. Cũng như nhũng năm tháng của quá khứ, vẻ đẹp cùa đồng, sông, bể, rừng không hề mất đi. Chỉ có điều con người có nhận ra hay không mà thôi. Nhưng đột ngột vầng trăng tròn lạ là một biên cố. Chính biến cố này đã cánh tinh tâm hồn nhà thơ.
-Trong dòng diễn biến theo thời gian, sự việc bất thường trong khổ thơ thứ tư chính là bước ngoặt để từ đó tác giả bộc lộ cảm xúc, thể hiện chú đề tác phẩm. Chính vì sự xuất hiện đột ngộ trong đặc biệt trong bối cảnh đặc biệt ấy, vầng trăng xuât hiện bât ngờ mà tự nhiên đã gọi lại bao nghĩa tình. Một sự việc xay ra, kéo con người về quá khứ. Noi thành phố hiện đại lắm ánh điện, cửa gương, người ta chăng mấy lúc cần, ít khi chú ý đến ánh trăng. Sự xua hiện đột ngột của vầng trăng ờ tình huống đặc biệt mới tự nhiên gây ấn tượng mạnh. Chính sự xuất hiện đột ngột trong bối cảnh ấy, vầng trăng bất ngờ mà tự nhiên gợi lại bao kỉ niệm nghĩa tình:
ngứa mặt lên nhìn mặt có cái gì nmg rung như là đông Ici bê như Ici sông là rùng.
-Trở lại với tâm trạng người lính trong bài thơ này, như có một cái nhìn đầy áy náy, xót xa: ngừa mặt lèn nhìn mặt. Hai chừ mặt trong vần thơ mặt trăng và mặt người cùng đôi diện đàm tủm. Nhà thơ đối diện với vầng trăng cũng là đối diện cũng chính là đối diện với lương tâm cùa mình. Đây là sự đối diện với quá khứ và hiện tại, giữa sự thủy chung và bội bạc, giữa lòng vị tha và thói ích kỉ.
Xem thêm: Phân tích bài thơ Cảnh ngày hè của Nguyễn Trãi
-Trăng chẳng nói, chẳng trách, thế mà người lính như cảm thấy có cái gì đó rung rưng. Rung rung nghĩa là vì xúc động, nước mắt đang ứa ra và sắp khóc. Quá khứ ùa vè bao kỉ niệm đẹp của một đòi ngưòi ùa về, tâm hồn gắn bó chan hòa với thiên nhiên, với vầng trăng xưa, với done, với sông, với bể, với rừng.
-Cấu trúc câu thơ song hành, nghệ thuật so sánh với điệp tù' là cho ta thấy ngòi bút của tác giả thật tài hoa. Sự gặp gỡ bất ngờ giữa người và trăng là sự gặp gỡ những người bạn, những tâm hồn tri âm tri ki. Nhà thơ xúc động nghẹn ngào vì gặp lại cố nhân, gặp lại một gương mặt thân yêu và cũng chính là gương mặt cùa chính tâm hồn mình. Trong phút chốc, sự xuất hiện đột ngột cùa vầng trăng làm ùa dậy trong tâm trí của nhà thơ về hình ảnh thiên nhiên, đất nước bình dị, hiền hòa hiện hình trong nỗi nhớ, trong cảm xúc rưng rưng cùa một con người đang sống giữa phố phường hiện đại. Nguyễn Duy gặp lại ánh trăng như gặp lại một không gian tình nghĩa: đồng bể, sông, rừng. Ánh trăng soi rọi tâm hồn, khiến nhà thơ bừng tỉnh:
Trăng cứ tròn vành vạnh
kể chi người vô tình
ánh trăng im phăng phác
đủ cho ta giật mình.
-Trăng – hay quá khứ nghĩa tình vẫn tràn đầv, viên mãn, thuỷ chung. Trăng vẫn đẹp, quá khứ vẫn toả sáng đầy ắp yêu thương dẫu con người đã lãng quên. Trăng im phăng phắc, một cái lặng lẽ đến đáng sợ. Trăng không hề trách móc con người quá vô tâm như một sự khoan dung, độ lượng, vầng trăng dửng dưng không có một tiếng động nhưng lương tâm con người lại đang bộn bề trăm mối. Ánh trăng hay cũng chính là quan toà lương tâm đang đánh thức một hồn người. Chỉ im lặng thôi vầng trăng đã thức tỉnh, đánh thức con người sau một cơn mê dài đây u tôi. Ánh trăng là cội nguồn quê hương, là nghĩa tình bè bạn, là hiện thân của lòng bao dung trắc ẩn. Trăng vẫn đẹp, quá khứ vẫn còn và con người vẫn còn cơ hội sửa chữa sai lầm.
-Thành công của Nguyễn Duy chính là đã mượn cái giật mình của nhân vật trữ tình trong bài thơ để qua đó rung lên một hồi chuông cảnh tỉnh, nhắc nhở mọi người, nhất là thế hệ của ông, không được phép lãng quên quá khứ, cần sống có trách nhiệm với quá khứ, coi quá khứ là điểm tựa cho hiện tại, lay quá khứ đê soi vào hiện tại. Thủy chung với vầng trăng cũng chính là thủy chung với quá khứ của mồi con người. Đó là tiếng lòng của một người cũng là tiếng lòng của bao người, bởi dù cho lời thơ cuối cùng khép lại thì dư âm cùa nó vẫn còn ngân lên, tạo một sức am ảnh thật lớn đối với người đọc. Đoạn thơ hay ở chất thơ bộc bạch, chân thành, ở tính biểu cảm, ở tính hình tượng độc đáo và hàm súc của ngôn ngữ, hình ảnh đi vào lòng người, khắc sâu điều nhà thơ muốn tâm sự với chúng ta một cách nhẹ nhàng mà thấm thìa.
c.Đánh giá:
-Đoạn thơ với thể thơ năm chữ cùng với nhịp thơ trôi chảy, tự nhiên và nhịp nhàng theo lời kể đã thể hiện được tâm trạng suy tư của tác giả. Cùng với phép nhân hóa và so sánh, vầng trăng hiện lên như một con người có tri giác, một người bạn tri âm tri kỉ.
-Dù xã hội ngày càng văn minh, hiện đại nhưng ánh trăng trên trời cao và cả ánh trăng của Nguyễn Duy vẫn thật sự cần thiết với mỗi con người bởi nó là tấm gương sáng nhất giúp chúng ta soi vào để nhận ra những gì trong lành tinh khôi nhất của cuộc đời. Đoạn thơ không chỉ là lời tự nhắc nhờ bản thân của Nguyễn Duy mà còn là thông điệp của tác giả muốn gửi gắm đến mọi người về thái độ sống ân nghĩa thủy chung cùng quá khứ.
Nguồn: thêm: Phân tích nhân vật Uy-lít-xơ trong trích đoạn: Uy-lít-xơ đấu trí, đấu lực với Pô-li-phem
|
Phân tích đạo lý uống nước nhớ nguồn qua bài thơ Ánh Trăng của Nguyễn Duy
Hướng dẫn
a.Đặt vấn đề:
-Trăng đã từ lâu đi vào trong lòng người qua rất nhiều tác phẩm văn học. Trăng không rực rỡ chói chang như mặt trời, nhưng trăng lại là nguồn cảm xúc để cho ta gợi lên những nỗi niềm sâu lắng.
-Nguyễn Duy, nhà thơ trưởng thành trong giai đoạn kháng chiến chống Mĩ cứu nước, đã góp vào kho tàng văn học Việt Nam bài thơ Ánh trăng thật đặc sắc. Ba khổ cuối của đoạn thơ gợi nhắc chúng ta về truyền thống uống nước nhớ nguồn, ân nghĩa thủy chung cùng quá khứ.
b.Triển khai:
-Ở những khổ thơ đầu, tác giả kể về thuở nhỏ, lúc chiến tranh, trăng và con người chung sống thân thương, tri kỉ. Khi cuộc sống hiện đại với ánh sáng chói loà của ánh điện cửa gương, với những vật dụng ngày càng hiện đại thì con người quên đi ánh sáng của vầng trăng. Tác giả đã tạo ra sự đối lập giữa vầng trăng nghĩa tình trong quá khứ với vầng trăng xa lạ như người dưng qua đường.
-Cũng như dòng sông có thác ghềnh, có quanh co uốn khúc. Cuộc sống hiện đại luôn có những biến động bất trắc. Và chính trong những bất trắc ấy, ánh sáng của quá khứ, của ân tình lại bừng tỏ, là lúc người ta nhận thấy giá trị cùa quá khứ gian lao mà nghĩa tình:
thình lình đèn điện tắt
phòng buynh đinh tối om
vội bật tung cửa sổ
đột ngột vầng trăng tròn.
-Nhà thơ chỉ sử dụng bốn câu, hai mươi từ, các từ thình lình, vội, đột ngột diễn tả tình thái đầy biểu cảm thể hiện sự bất ngờ, ngẫu nhiên của cuộc tri ngộ. Hoàn cảnh gặp gỡ đó khiến nhà thơ bàng hoàng. Không chỉ là sự thay thế đúng lúc ánh trăng cho ánh điện. Ở đây còn là sự thức tỉnh và gợi nhớ cho ý nghĩa của những ngày tháng đã qua, của những cái bình dị trong cuộc sổng. Hành động bật tung diên tả trạng thái cảm xúc thật mạnh mẽ, bất ngờ, có cái gì đó như là thảng thốt, lo âu trong hình ảnh vội bật tung cứa số.
-Vâng trăng tròn đâu phải khi đèn điện tắt mới có. Cũng như nhũng năm tháng của quá khứ, vẻ đẹp cùa đồng, sông, bể, rừng không hề mất đi. Chỉ có điều con người có nhận ra hay không mà thôi. Nhưng đột ngột vầng trăng tròn lạ là một biên cố. Chính biến cố này đã cánh tinh tâm hồn nhà thơ.
-Trong dòng diễn biến theo thời gian, sự việc bất thường trong khổ thơ thứ tư chính là bước ngoặt để từ đó tác giả bộc lộ cảm xúc, thể hiện chú đề tác phẩm. Chính vì sự xuất hiện đột ngộ trong đặc biệt trong bối cảnh đặc biệt ấy, vầng trăng xuât hiện bât ngờ mà tự nhiên đã gọi lại bao nghĩa tình. Một sự việc xay ra, kéo con người về quá khứ. Noi thành phố hiện đại lắm ánh điện, cửa gương, người ta chăng mấy lúc cần, ít khi chú ý đến ánh trăng. Sự xua hiện đột ngột của vầng trăng ờ tình huống đặc biệt mới tự nhiên gây ấn tượng mạnh. Chính sự xuất hiện đột ngột trong bối cảnh ấy, vầng trăng bất ngờ mà tự nhiên gợi lại bao kỉ niệm nghĩa tình:
ngứa mặt lên nhìn mặt có cái gì nmg rung như là đông Ici bê như Ici sông là rùng.
-Trở lại với tâm trạng người lính trong bài thơ này, như có một cái nhìn đầy áy náy, xót xa: ngừa mặt lèn nhìn mặt. Hai chừ mặt trong vần thơ mặt trăng và mặt người cùng đôi diện đàm tủm. Nhà thơ đối diện với vầng trăng cũng là đối diện cũng chính là đối diện với lương tâm cùa mình. Đây là sự đối diện với quá khứ và hiện tại, giữa sự thủy chung và bội bạc, giữa lòng vị tha và thói ích kỉ.
Xem thêm: Phân tích bài thơ Cảnh ngày hè của Nguyễn Trãi
-Trăng chẳng nói, chẳng trách, thế mà người lính như cảm thấy có cái gì đó rung rưng. Rung rung nghĩa là vì xúc động, nước mắt đang ứa ra và sắp khóc. Quá khứ ùa vè bao kỉ niệm đẹp của một đòi ngưòi ùa về, tâm hồn gắn bó chan hòa với thiên nhiên, với vầng trăng xưa, với done, với sông, với bể, với rừng.
-Cấu trúc câu thơ song hành, nghệ thuật so sánh với điệp tù' là cho ta thấy ngòi bút của tác giả thật tài hoa. Sự gặp gỡ bất ngờ giữa người và trăng là sự gặp gỡ những người bạn, những tâm hồn tri âm tri ki. Nhà thơ xúc động nghẹn ngào vì gặp lại cố nhân, gặp lại một gương mặt thân yêu và cũng chính là gương mặt cùa chính tâm hồn mình. Trong phút chốc, sự xuất hiện đột ngột cùa vầng trăng làm ùa dậy trong tâm trí của nhà thơ về hình ảnh thiên nhiên, đất nước bình dị, hiền hòa hiện hình trong nỗi nhớ, trong cảm xúc rưng rưng cùa một con người đang sống giữa phố phường hiện đại. Nguyễn Duy gặp lại ánh trăng như gặp lại một không gian tình nghĩa: đồng bể, sông, rừng. Ánh trăng soi rọi tâm hồn, khiến nhà thơ bừng tỉnh:
Trăng cứ tròn vành vạnh
kể chi người vô tình
ánh trăng im phăng phác
đủ cho ta giật mình.
-Trăng – hay quá khứ nghĩa tình vẫn tràn đầv, viên mãn, thuỷ chung. Trăng vẫn đẹp, quá khứ vẫn toả sáng đầy ắp yêu thương dẫu con người đã lãng quên. Trăng im phăng phắc, một cái lặng lẽ đến đáng sợ. Trăng không hề trách móc con người quá vô tâm như một sự khoan dung, độ lượng, vầng trăng dửng dưng không có một tiếng động nhưng lương tâm con người lại đang bộn bề trăm mối. Ánh trăng hay cũng chính là quan toà lương tâm đang đánh thức một hồn người. Chỉ im lặng thôi vầng trăng đã thức tỉnh, đánh thức con người sau một cơn mê dài đây u tôi. Ánh trăng là cội nguồn quê hương, là nghĩa tình bè bạn, là hiện thân của lòng bao dung trắc ẩn. Trăng vẫn đẹp, quá khứ vẫn còn và con người vẫn còn cơ hội sửa chữa sai lầm.
-Thành công của Nguyễn Duy chính là đã mượn cái giật mình của nhân vật trữ tình trong bài thơ để qua đó rung lên một hồi chuông cảnh tỉnh, nhắc nhở mọi người, nhất là thế hệ của ông, không được phép lãng quên quá khứ, cần sống có trách nhiệm với quá khứ, coi quá khứ là điểm tựa cho hiện tại, lay quá khứ đê soi vào hiện tại. Thủy chung với vầng trăng cũng chính là thủy chung với quá khứ của mồi con người. Đó là tiếng lòng của một người cũng là tiếng lòng của bao người, bởi dù cho lời thơ cuối cùng khép lại thì dư âm cùa nó vẫn còn ngân lên, tạo một sức am ảnh thật lớn đối với người đọc. Đoạn thơ hay ở chất thơ bộc bạch, chân thành, ở tính biểu cảm, ở tính hình tượng độc đáo và hàm súc của ngôn ngữ, hình ảnh đi vào lòng người, khắc sâu điều nhà thơ muốn tâm sự với chúng ta một cách nhẹ nhàng mà thấm thìa.
c.Đánh giá:
-Đoạn thơ với thể thơ năm chữ cùng với nhịp thơ trôi chảy, tự nhiên và nhịp nhàng theo lời kể đã thể hiện được tâm trạng suy tư của tác giả. Cùng với phép nhân hóa và so sánh, vầng trăng hiện lên như một con người có tri giác, một người bạn tri âm tri kỉ.
-Dù xã hội ngày càng văn minh, hiện đại nhưng ánh trăng trên trời cao và cả ánh trăng của Nguyễn Duy vẫn thật sự cần thiết với mỗi con người bởi nó là tấm gương sáng nhất giúp chúng ta soi vào để nhận ra những gì trong lành tinh khôi nhất của cuộc đời. Đoạn thơ không chỉ là lời tự nhắc nhờ bản thân của Nguyễn Duy mà còn là thông điệp của tác giả muốn gửi gắm đến mọi người về thái độ sống ân nghĩa thủy chung cùng quá khứ.
Nguồn: thêm: Phân tích nhân vật Uy-lít-xơ trong trích đoạn: Uy-lít-xơ đấu trí, đấu lực với Pô-li-phem
|
Phân tích – Bình giảng đoạn thơ sau trong bài “Việt Bắc” (10-1945) của Tố Hữu: “Những đường Việt Bắc của ta… Đèn pha bật sáng như ngày mai lên.”
Gợi ý
Bài thơ Việt Bắc là một trong những đỉnh cao của thơ Tố Hữu và thơ ca kháng chiến chống Pháp. Thông qua cuộc đối đáp có tính chất tưởng tượng của kẻ ở người đi đầy lưu luyến vấn vương thương nhớ. Bài thơ không chỉ ngợi ca những tình cảm điển hình của con người kháng chiến mà còn làm tái hiện lại một cách chân thực và sinh động bức tranh “Việt Bắc ra trận” rất hùng vỹ qua những vần thơ đầy hào hùng:
Những đường Việt Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trung
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay
Nghìn đêm thăm thẳm sương dầy
Đèn pha bật sáng như ngày mai lên.
Ngay ở câu thơ đầu tiên mở đầu đoạn thơ tác giả đã nêu lên cái nhìn khái quát chung cuộc kháng chiến của ta là một cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc. Đây là một cuộc chiến tranh sáng ngời chính nghĩa hợp với ý trời lòng dân. Cho nên lực lượng của ta ngày càng trưởng thành lớn mạnh không ngừng. Từ một đội quân trên dưới 30 người xuất phát từ cây đa Tân Trào hôm nào, dưới sự chỉ huy của đồng chí Võ Nguyên Giáp, hôm nay chúng ta đã có một đội quân hùng mạnh liên tiếp gặt hái được những chiến công chói lọi: Thu Đông, Sông Lô, Biên Giới… Giờ đây, chúng ta đang chuẩn bị tổng phản công bằng một chiến dịch lịch sử. Chúng ta hoàn toàn làm chủ chiến trường Việt Bắc cả về thế lẫn lực. Cho nên đoàn quân ra trận hôm nay xuất phát từ mọi ngả đường Việt Bắc như những gọng kìm nhằm bao vậy quân giặc đang co cụm ở những cứ điểm cuối cùng:Xem thêm: Phân tích bài thơ Đàn ghi ta của Lor - ca của nhà thơ Thanh ThảoNhững đường Việt Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như là đất rung
"Những đường" chứ không phải "một đường" và Việt Bắc là "của ta". Câu thơ bình dị mà chất chưa biết bao niềm tự hào về quang cảnh ra trận và khí thế của ta trên chiến trường.
Câu thơ thứ hai mở ra một bối cảnh khác, đó là ngày kháng chiến chống Pháp, máy bay địch chủ yếu hoạt động ban ngày. Do đó ta phải hành quân đêm "xưa là rừng núi là đêm" (Tố Hữu). Trên các nẻo đường Việt Bắc đêm nối đêm cứ "rầm rập" tiến quân ra trận. Từ láy "rầm rập" là một từ tượng thanh rất gợi cảm. Nó diễn tả bước chân đi đầy khí thế hăng say và sức mạnh áp đảo của một tập thể người đông đúc có đội ngũ chỉnh tề. Với từ "rầm rập" đặc sắc ấy, cuộc ra trận của quân ta bỗng trở thành một cuộc duyệt binh, diễu binh hùng tráng:
Xuân hãy xem! cuộc diễn binh hùng vĩ
Ba mươi mốt triệu nhân dân
Tất cả hành quân
Tất cả thành chiến sĩ.
Vì thế mà bước chân của đoàn quân ấy đêm đêm như làm rung chuyển cả mặt đất. Hình ảnh thơ mang đậm mầu sắc thần thoại.
Từ cái nhìn chung ở câu một và hai đến đây, tác giả đi vào cái nhìn cụ thể. Nếu câu trên, tác giả tả khí thế ra trận của quân ta qua ấn tượng thính giác, thì các câu sau, tác giả tả bằng thị giác: "Quân đi điệp điệp trùng trùng". Từ láy từ "điệp điệp trùng trùng" thật giàu ý nghĩa diễn tả. Nó gợi lên trong ta những đoàn quân ra trận nối dài vô tận và rất hùng vĩ như những dãy núi kế tiếp nhau vậy. Sau này nhà thơ Phạm Tiến Duật cũng đã viết:
Từ nơi em gửi tới nơi anh
Những đoàn quân trùng trùng ra trận
Như tình yêu nối lời vô tận
Ở đây ta lại bắt gặp một hình ảnh thơ được viết với bút pháp cường điệu mang đậm màu sắc anh hùng ca. Vì vậy sức mạnh khí thế của đoàn quân ra trận đã được nâng ngang tầm với sức mạnh của thiên nhiên sông núi.Xem thêm: Phân tích nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân (Có dàn ý chi tiết)"Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan". Câu thơ vừa có ý nghĩa tả thực vừa có ý nghĩa khái quát tượng trưng sâu xa. Trước hết nó diễn tả đoàn quân đi trong đêm, đầu súng lấp lánh ánh sao trời. Nhưng đó cũng là lấp lánh ánh sao lý tưởng
Anh đi bộ đội sao trên mũ
Mãi mãi là sao sáng dẫn đường
(Vũ Cao)
Hình ảnh tươi sáng ấy kết hợp với hình ảnh chiếc mũ nan giản dị trang bị còn thiếu thốn của anh bộ đội, tạo cho anh một vẻ đẹp bình dị mà cao cả, bình thường mà vĩ đại. Nhà thơ Chính Hữu cũng đã có câu thơ rất hay "Đầu súng trăng treo".
Cuộc kháng chiến của ta là cuộc kháng chiến toàn dân toàn diện. Cho nên trong cuộc tổng phản công hôm nay có đủ mọi binh chủng, tầng lớp ra trận. Tiếp theo những binh đoàn bộ đội, là dân công tiếp tế lương thực, đạn dược. Cũng như những người chiến sĩ rầm rập lên đường, những nam nữ dân công cũng vào trận đầy khí thế và sức mạnh:
"Bước chân nát đá muôn tàn lửa bay" "nát đá" được viết theo phép đảo ngữ, từ dùng rất bạo khoẻ vừa gợi lên được những gánh hàng rất nặng vừa nói lên bước chân đầy sức mạnh tiến công của họ. Ngày nào dân ta mơ ước "trông trời, trông đất, trông mây… trông cho chân cứng đá mềm" thì giờ đây niềm mơ ước ấy đã trở thành hiện thực kỳ diệu ở chiến trường Điện Biên. "Muôn tàn lửa bay" – một hình ảnh rất đẹp. Đoàn dân công đi dưới ánh đuốc, có "muôn tàn lửa bay". Đó là lửa của đuốc đang bay, hay có cả ánh lửa từ trái tim của những anh, chị dân công hoả tuyến? Ở hai câu thơ này, tác giả sử dụng được nhiều hình ảnh giàu màu sắc tạo hình vừa chân thực, vừa bay bổng. Đoàn dân công đi vào chiến dịch mà như thể đi trong đêm hội hoa đăng. Thật đẹp đẽ biết bao mà cũng tự hào biết bao về khí thế và niềm vui ra trận của quân ta. Đúng "cách mạng là ngày hội của quần chúng" (Mác).Xem thêm: Thế giới Kinh Bắc trong bài thơ “Bên kia sông Đuống” của Hoàng Cầm
Hai câu thơ cuối cùng của đoạn thơ cho ta thấy khí thế khẩn trương của cuộc kháng chiến:
Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Đèn pha bật sáng như ngày mai lên
Tiếp theo đoàn dân công là những đoàn xe chở vũ khí đạn dược ra chiến trường. Xe nối đuôi nhau, đèn pha bật sáng trưng như ánh sáng ban ngày. Chỉ bằng một hình ảnh ấy, Tố Hữu đã diễn tả được cái đông đảo hùng mạnh của lực lượng cơ giới quân ta. Hại câu thơ có hai hình ảnh đối lập: "Nghìn đêm thăm thẳm sương dày" với "Đèn pha bật sáng như ngày mai lên" đã làm nổi rõ được sự trưởng thành vượt bậc của quân ta và niềm tin tất thắng của những người ra trận. Mới hôm nào, chúng ta phải mai phục, nương náu nơi rùng sâu, núi thẳm hàng ngàn đêm tăm tối gian khổ "thăm thẳm sương dày" để có giờ phút bừng sáng quật khởi đầy niềm tin chói lọi này.
Chỉ bằng tám câu thơ, Tố Hữu đã khắc họa được một bức tranh cả dân tộc ra trận bằng cuộc chiến tranh nhân dân thật hùng tráng. Bức tranh không chỉ làm sống dậy một thời kỳ hào hùng của dân tộc ở căn cứ địa Việt Bắc đang chuẩn bị cho một chiến công "lừng lẫy Điện Biên chấn động địa cầu" mà còn đem lại cho ta niềm tin yêu quê hương cách mạng anh hùng. Nó xứng đáng là một trong những đoạn thơ hay nhất của Việt Bắc.
Vanmau.edu.vn
|
Phân tích – Bình giảng đoạn thơ sau trong bài “Việt Bắc” (10-1945) của Tố Hữu: “Những đường Việt Bắc của ta… Đèn pha bật sáng như ngày mai lên.”
Gợi ý
Bài thơ Việt Bắc là một trong những đỉnh cao của thơ Tố Hữu và thơ ca kháng chiến chống Pháp. Thông qua cuộc đối đáp có tính chất tưởng tượng của kẻ ở người đi đầy lưu luyến vấn vương thương nhớ. Bài thơ không chỉ ngợi ca những tình cảm điển hình của con người kháng chiến mà còn làm tái hiện lại một cách chân thực và sinh động bức tranh “Việt Bắc ra trận” rất hùng vỹ qua những vần thơ đầy hào hùng:
Những đường Việt Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trung
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay
Nghìn đêm thăm thẳm sương dầy
Đèn pha bật sáng như ngày mai lên.
Ngay ở câu thơ đầu tiên mở đầu đoạn thơ tác giả đã nêu lên cái nhìn khái quát chung cuộc kháng chiến của ta là một cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc. Đây là một cuộc chiến tranh sáng ngời chính nghĩa hợp với ý trời lòng dân. Cho nên lực lượng của ta ngày càng trưởng thành lớn mạnh không ngừng. Từ một đội quân trên dưới 30 người xuất phát từ cây đa Tân Trào hôm nào, dưới sự chỉ huy của đồng chí Võ Nguyên Giáp, hôm nay chúng ta đã có một đội quân hùng mạnh liên tiếp gặt hái được những chiến công chói lọi: Thu Đông, Sông Lô, Biên Giới… Giờ đây, chúng ta đang chuẩn bị tổng phản công bằng một chiến dịch lịch sử. Chúng ta hoàn toàn làm chủ chiến trường Việt Bắc cả về thế lẫn lực. Cho nên đoàn quân ra trận hôm nay xuất phát từ mọi ngả đường Việt Bắc như những gọng kìm nhằm bao vậy quân giặc đang co cụm ở những cứ điểm cuối cùng:Xem thêm: Phân tích bài thơ Đàn ghi ta của Lor - ca của nhà thơ Thanh ThảoNhững đường Việt Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như là đất rung
"Những đường" chứ không phải "một đường" và Việt Bắc là "của ta". Câu thơ bình dị mà chất chưa biết bao niềm tự hào về quang cảnh ra trận và khí thế của ta trên chiến trường.
Câu thơ thứ hai mở ra một bối cảnh khác, đó là ngày kháng chiến chống Pháp, máy bay địch chủ yếu hoạt động ban ngày. Do đó ta phải hành quân đêm "xưa là rừng núi là đêm" (Tố Hữu). Trên các nẻo đường Việt Bắc đêm nối đêm cứ "rầm rập" tiến quân ra trận. Từ láy "rầm rập" là một từ tượng thanh rất gợi cảm. Nó diễn tả bước chân đi đầy khí thế hăng say và sức mạnh áp đảo của một tập thể người đông đúc có đội ngũ chỉnh tề. Với từ "rầm rập" đặc sắc ấy, cuộc ra trận của quân ta bỗng trở thành một cuộc duyệt binh, diễu binh hùng tráng:
Xuân hãy xem! cuộc diễn binh hùng vĩ
Ba mươi mốt triệu nhân dân
Tất cả hành quân
Tất cả thành chiến sĩ.
Vì thế mà bước chân của đoàn quân ấy đêm đêm như làm rung chuyển cả mặt đất. Hình ảnh thơ mang đậm mầu sắc thần thoại.
Từ cái nhìn chung ở câu một và hai đến đây, tác giả đi vào cái nhìn cụ thể. Nếu câu trên, tác giả tả khí thế ra trận của quân ta qua ấn tượng thính giác, thì các câu sau, tác giả tả bằng thị giác: "Quân đi điệp điệp trùng trùng". Từ láy từ "điệp điệp trùng trùng" thật giàu ý nghĩa diễn tả. Nó gợi lên trong ta những đoàn quân ra trận nối dài vô tận và rất hùng vĩ như những dãy núi kế tiếp nhau vậy. Sau này nhà thơ Phạm Tiến Duật cũng đã viết:
Từ nơi em gửi tới nơi anh
Những đoàn quân trùng trùng ra trận
Như tình yêu nối lời vô tận
Ở đây ta lại bắt gặp một hình ảnh thơ được viết với bút pháp cường điệu mang đậm màu sắc anh hùng ca. Vì vậy sức mạnh khí thế của đoàn quân ra trận đã được nâng ngang tầm với sức mạnh của thiên nhiên sông núi.Xem thêm: Phân tích nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân (Có dàn ý chi tiết)"Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan". Câu thơ vừa có ý nghĩa tả thực vừa có ý nghĩa khái quát tượng trưng sâu xa. Trước hết nó diễn tả đoàn quân đi trong đêm, đầu súng lấp lánh ánh sao trời. Nhưng đó cũng là lấp lánh ánh sao lý tưởng
Anh đi bộ đội sao trên mũ
Mãi mãi là sao sáng dẫn đường
(Vũ Cao)
Hình ảnh tươi sáng ấy kết hợp với hình ảnh chiếc mũ nan giản dị trang bị còn thiếu thốn của anh bộ đội, tạo cho anh một vẻ đẹp bình dị mà cao cả, bình thường mà vĩ đại. Nhà thơ Chính Hữu cũng đã có câu thơ rất hay "Đầu súng trăng treo".
Cuộc kháng chiến của ta là cuộc kháng chiến toàn dân toàn diện. Cho nên trong cuộc tổng phản công hôm nay có đủ mọi binh chủng, tầng lớp ra trận. Tiếp theo những binh đoàn bộ đội, là dân công tiếp tế lương thực, đạn dược. Cũng như những người chiến sĩ rầm rập lên đường, những nam nữ dân công cũng vào trận đầy khí thế và sức mạnh:
"Bước chân nát đá muôn tàn lửa bay" "nát đá" được viết theo phép đảo ngữ, từ dùng rất bạo khoẻ vừa gợi lên được những gánh hàng rất nặng vừa nói lên bước chân đầy sức mạnh tiến công của họ. Ngày nào dân ta mơ ước "trông trời, trông đất, trông mây… trông cho chân cứng đá mềm" thì giờ đây niềm mơ ước ấy đã trở thành hiện thực kỳ diệu ở chiến trường Điện Biên. "Muôn tàn lửa bay" – một hình ảnh rất đẹp. Đoàn dân công đi dưới ánh đuốc, có "muôn tàn lửa bay". Đó là lửa của đuốc đang bay, hay có cả ánh lửa từ trái tim của những anh, chị dân công hoả tuyến? Ở hai câu thơ này, tác giả sử dụng được nhiều hình ảnh giàu màu sắc tạo hình vừa chân thực, vừa bay bổng. Đoàn dân công đi vào chiến dịch mà như thể đi trong đêm hội hoa đăng. Thật đẹp đẽ biết bao mà cũng tự hào biết bao về khí thế và niềm vui ra trận của quân ta. Đúng "cách mạng là ngày hội của quần chúng" (Mác).Xem thêm: Thế giới Kinh Bắc trong bài thơ “Bên kia sông Đuống” của Hoàng Cầm
Hai câu thơ cuối cùng của đoạn thơ cho ta thấy khí thế khẩn trương của cuộc kháng chiến:
Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Đèn pha bật sáng như ngày mai lên
Tiếp theo đoàn dân công là những đoàn xe chở vũ khí đạn dược ra chiến trường. Xe nối đuôi nhau, đèn pha bật sáng trưng như ánh sáng ban ngày. Chỉ bằng một hình ảnh ấy, Tố Hữu đã diễn tả được cái đông đảo hùng mạnh của lực lượng cơ giới quân ta. Hại câu thơ có hai hình ảnh đối lập: "Nghìn đêm thăm thẳm sương dày" với "Đèn pha bật sáng như ngày mai lên" đã làm nổi rõ được sự trưởng thành vượt bậc của quân ta và niềm tin tất thắng của những người ra trận. Mới hôm nào, chúng ta phải mai phục, nương náu nơi rùng sâu, núi thẳm hàng ngàn đêm tăm tối gian khổ "thăm thẳm sương dày" để có giờ phút bừng sáng quật khởi đầy niềm tin chói lọi này.
Chỉ bằng tám câu thơ, Tố Hữu đã khắc họa được một bức tranh cả dân tộc ra trận bằng cuộc chiến tranh nhân dân thật hùng tráng. Bức tranh không chỉ làm sống dậy một thời kỳ hào hùng của dân tộc ở căn cứ địa Việt Bắc đang chuẩn bị cho một chiến công "lừng lẫy Điện Biên chấn động địa cầu" mà còn đem lại cho ta niềm tin yêu quê hương cách mạng anh hùng. Nó xứng đáng là một trong những đoạn thơ hay nhất của Việt Bắc.
Vanmau.edu.vn
|
Đề bài: Phân tích “Bài ca nhà tranh bị gió thu phá” của Đỗ Phủ
Bài làm
Nhà thơ Đỗ Phủ là một nhà thơ lớn của nền thi ca Trung Quốc thời kỳ cổ đại. Ông đã để lại nhiều tác phẩm hay có ý nghĩa nhân văn sâu sắc, chạm vào trái tim người đọc. Thơ của ông miêu tả thiên nhiên, cuộc sống con người vô cùng sinh động, tái hiện những mảnh đời người nông dân, những số phận cơ cực, có cuộc sống bình thường, giản dị nhưng có sức khơi gợi cảm xúc vô cùng mãnh liệt
Tác phẩm “Bài ca nhà tranh bị gió thu phá” là một tác phẩm hay được tác giả Đỗ Phủ sáng tác khi ông đã từng trải, đã nếm quá đủ mọi hỷ nộ ái ố của cuộc đời, bài ca này thể hiện sự thật tàn khốc của xã hội phong kiến và tình yêu thương của tác giả với con người đồng loại của mình.
Đỗ Phủ đã đi qua những năm tháng tuổi thơ và tuổi trưởng thành nhiều nghèo khó, đau khổ, bần hàn. Cuộc sống gia đình thiếu thốn đủ mọi thứ, cơm không đủ no áo không đủ ấm. Ông và những người thân sống trong một căn nhà tranh ở phía Tây Thành Đô.
Mùa hè khi mưa xuống thì nhà dột nát, ẩm ướt khắp nơi, tới mùa thu gió heo may thổi lùa vào khiến cho căn nhà tranh bị tốc mái, rét buốt. Có lẽ chính những cơ hàn, khốn khổ này đã thành nguồn cảm hứng giúp tác giả sáng tác ra những vần thơ vô cùng lay động lòng người.Xem thêm: Thuyết minh về sự gia tăng dân số
“Tháng tám, thu cao, gió thét gào
Cuộn mất ba lớp tranh nhà ta
Tranh bay sang sông rải khắp bờ
Mảnh cao treo tót ngọn rừng xa
Mảnh thấp quay lộn vào mương xa”
Chỉ vài câu thơ nhưng sự tàn khốc, ác liệt của thiên nhiên được tác giả miêu tả vô cùng chân thực “Gió thét gào” thể hiện sự phẫn nộ, của cơn cuồng phong vô cùng ghê gớm. Những cơn gió cuốn bay những lớp nhà tranh được lớp sơ sài, những mảnh lá tránh bay khắp nơi văng xuống bờ sông gần đó, mỗi nơi một ít, khiến cho ngôi nhà tranh trở nên hoang sơ, đã nghèo lại còn nghèo hơn. Những cơn gió, trận mưa cứ thế thi nhau trút xuống làm ướt sũng ngôi nhà, biến những người trong nhà phải co cụm lại với nhau để tìm nơi trú ẩn.
“Môi khô, miệng cháy gào chẳng được
Quay về chống gậy lòng ấm ức”
Trong hoàn cảnh thiên nhiên giận giữ, xã hội thì binh đao loạn lạc, con người dù có thét gào khô môi khản giọng cũng chẳng có ai cứu giúp được, bởi hoàn cảnh của những người dân khác trong xã hội lúc bấy giờ cũng đang khó khăn không kém gì gia đình tác giả.
“Ngoài biên máu chảy thành biển đỏ
Mở cõi nhà vua ý chưa bỏ”
Ở quê hương thì thiên nhiên gào thét, thiên tai đổ xuống đầu người dân lầm than đói khổ. Ở vùng biên cương thì chiến tranh liên miên, cảnh đầu rơi máu chảy, người chết chất cao như núi thể hiện sự loạn lạc trong thời binh đao. Qua hai câu thơ này tác giả Đỗ Phủ cũng muốn tố cáo xã hội, tố cáo tham vọng của nhà vua thời đó khi muốn mở rộng bờ cõi, gây ra những cuộc chiến tranh phi nghĩa nhằm phục vụ lòng tham thống trị của mình. Nhà vua đã không ngần ngại đưa binh lính đi chiến đấu, chiếm đất của những nước láng giềng, gây thiệt hại về người và của.Xem thêm: Nỗi nhớ quê nhà cùa người con gái lấy chồng xa
“Ước được nhà rộng muôn ngàn gian
Che khắp thiên hạ kẻ sĩ nghèo đều hân hoan
Gió mưa chẳng núng vững vàng như thạch bàn
Than ôi bao giờ nhà ấy sừng sững dựng trước mắt
Riêng lều ta nát chịu chết rét cũng được.
Trong khổ thơ này tác giả đã thể hiện giá trị nhân văn, nhân đạo vô cùng cao thượng, thể hiện nội tâm đầy yêu thương của nhà thơ Đỗ Phủ dành cho những người dân, những đồng bào của mình.
Tác giả mong muốn có một căn nhà rộng, nhưng không phải để ở một mình hưởng vinh hoa phú quý, mà để chia sẻ cùng với trăng ngàn kẻ sĩ, những con người khốn khổ khác.
Một căn nhà vững trãi cứng như đá thạch dù mưa gió, sấm chớp cũng không lung lay, không bị tốc mái sụp đổ. Nếu có một căn nhà như vậy ngay trước mắt để dành cho những người tác giả thương yêu, dành cho những người dân khốn khổ thì một mình tác giả chịu ở trong căn nhà tranh nghèo nàn, lụp sụp cũng cam lòng. Ước nguyện này thể hiện sự cao thượng, hy sinh vì người khác riêng mình có thể thiệt thòi cũng không sao, không có vấn đề gì.
Qua những câu thơ này ta thấy được tấm lòng nhân hậu, vị tha của tác giả dù chịu “chết rét” tác giả cũng cam tâm tình nguyện mang lại cuộc sống ấm áp, bình yên cho nhân dân, cho đồng bào xung quanh ông.Xem thêm: Giải thích và bình luận câu tục ngữ: ‘Thương người như thể thương thân” “Bài ca nhà tranh bị gió thu phá” tái hiện cuộc sống hiện thực của xã hội của đất nước Trung Hoa lúc bấy giờ, qua đây tác giả muốn tố cáo tội ác của những người cai trị thời đó, và thể hiện tấm lòng thương dân, yêu đồng bào của mình.
Nguồn: Tài liệu văn mẫu
|
Topic: Analysis of "Song of thatched houses destroyed by the wind" by Du Phu
Assignment
Poet Du Fu is a great poet of ancient Chinese poetry. He left behind many good works with profound humanistic meaning, touching the hearts of readers. His poems describe nature and human life very vividly, recreating the lives of farmers, miserable fates, leading ordinary, simple lives but with the power to evoke extremely strong emotions. paralysis
The work "Song of the Thatched House Destroyed by the Wind" is a good work composed by author Do Phu when he had experienced and tasted all the joys, anger, and sorrows of life, this song represents the truth. the cruelty of feudal society and the author's love for his fellow human beings.
Du Phu went through many years of poverty, suffering, and poverty during his childhood and adulthood. Family life lacks everything, food is not enough, clothes are not warm enough. He and his relatives lived in a thatched house in the west of Chengdu.
In the summer, when it rains, the house is dilapidated and damp everywhere. In the fall, the wind blows in, causing the thatched house to lose its roof and make it bitterly cold. Perhaps it is these hardships and miseries that have become a source of inspiration to help the author compose poems that are extremely touching to people's hearts. See more: Explanation on population growth
“August, autumn is high, the wind is howling
I lost three layers of my house's paintings
Paintings flew to the river and scattered all over the banks
A tall piece hanging from the top of the distant forest
The low piece turned upside down into the distant ditch."
Just a few verses, but the cruelty and fierceness of nature are described by the author very realistically. "The howling wind" shows the anger and fierceness of a hurricane. The winds blew away the thin layers of thatched cottages, pieces of leaves flew everywhere and landed on the nearby riverbank, a little in each place, making the thatched cottage become wild, poor and even poorer. The winds and rain continued to pour down, drenching the house, forcing the people inside to huddle together to find shelter.
“My lips are dry, my mouth is burning and I can't scream
Returning to the cane, my heart is filled with resentment."
In a situation where nature is angry and society is in chaos, even if people scream until their lips are dry and their voices are hoarse, no one can help them, because the situation of other people in society at that time is also changing. It's no less difficult than the author's family.
“Outside the border, blood flows into a red sea
Open the realm of the king's intention and have not abandoned it"
In the homeland, nature roared, natural disasters fell on the people suffering from hunger and suffering. In the border areas, there was constant war, scenes of bloodshed and dead people piled high like mountains, showing the chaos during the war and sword era. Through these two verses, author Do Phu also wanted to denounce society, denounce the ambition of the king at that time when he wanted to expand his territory, causing unjust wars to serve his greed for domination. The king did not hesitate to send soldiers to fight, occupy the land of neighboring countries, causing loss of life and property. See more: Missing the homeland of a daughter who married far away
“I wish to have a house with thousands of rooms
All over the world, poor scholars are happy
The wind and rain do not waver, it is as steady as a stone table
Alas, when will that house stand before our eyes?
As for my tent, it's fine to die in the cold.
In this stanza, the author expressed extremely noble humane and humanitarian values, expressing the inner love of poet Do Phu for the people and his compatriots.
The author wants to have a large house, not to live alone and enjoy wealth and prosperity, but to share with thousands of scholars and other miserable people.
A house is as solid as stone, even though it rains, winds, and thunders, it will not shake, nor will the roof be blown off and collapse. If there were such a house right in front of the eyes for those the author loves, for the miserable people, then the author alone would be willing to live in a poor, shabby thatched house. This wish shows nobility, sacrificing for others, even if you are disadvantaged, it's okay, no problem.
Through these verses, we can see the author's kind and altruistic heart, even though he is "dead in the cold", he is still committed to volunteering to bring a warm and peaceful life to the people and people around him. .See more: Explanation and commentary on the proverb: 'Love others as if you loved yourself' "The song of the thatched house destroyed by the wind" recreates the real life of society in China at that time, through Here the author wants to denounce the crimes of the rulers of that time, and show his compassion for the people and his fellow countrymen.
Source: Sample document
|
Phân tích, cảm nhận truyện Cô Bé Bán Diêm của An đéc xen
Hướng dẫn
Ánh lửa diêm, và biến mất khi ánh diêm tắt.
Mộng tưởng nào của em, bé hán diêm cũng gắn với thực tế. Lạnh thì mộng tưởng đến lò sưởi,…, sắp chết thì mộng tưởng gặp hà. Và “Họ đã về chầu thượng đế”. Thực tế là cô bé… đã chết!
– An-đéc-xen sinh năm ỉ805 tại Ồ-đen-xơ, mất năm 1875 tại Cô-pen-ha-gơ, Đan-Mạch.
I. Xưa nay vẫn có những cảnh đời tuổi thơ bất hạnh ở bất cứ nơi nào trên trái đất. Những cảnh đời mồ côi, hoặc mất cha hay mất mẹ không chỉ có trong truyện cổ mà còn được đưa vào những trang văn hiện đại. Ngay trong chương trình Ngữ văn lớp 8, chúng ta biết nỗi bất hạnh của cậu bé Hồng trong Những ngày thơ ấu(đoạn trích Trong lòng mẹ)thì nay chúng ta lại gặp một cảnh đời bất hạnh khác ở xứ sở Đan Mạch trong truyện Cô bé bán diêmcủa An-đéc-xen để cảm thông với những ước mơ đẹp, và ngậm ngùi trước cái chết vì giá rét trong đêm giao thừa của cô.
II. Truyện kể về đêm giao thừa, trời rét mướt, một cô bé bán diêm nhà nghèo, mồ côi mẹ, đầu trần, chân đi đất, bụng đói, đang dò dẫm trong bóng tối. Suốt cả ngày em không bán được bao diêm nào. Nhà văn đã miêu tả hình ảnh của era lúc đêm về càng lúc càng rét buốt, “em ngồi nép trong một góc tường… thu đôi chân vào người…".Miêu tả ngắn thôi, chỉ 12 từ, nhưng người đọc thấy rõ trong trí tưởng tượng của mình dáng cô bé ngồi co ro, cố thu mình lại càng gọn càng tốt để ngăn bớt cơn lạnh. Cô bé đang ở ngoài đường, sát tường hai ngôi nhà đóng kin cửa, giữa cái lạnh cắt da của đêm giao thừa. Mắt cô nhìn lên “Cửa sổ mọi nhà đều sáng rực ánh đèn",mũi cô ngửi “trong phố sực nức mùi ngỗng quay”.Hình ảnh ấm cúng ấy, mùi vị thơm tho ấy, gợi lại trong KÝ ức cô bé hoàn cảnh sống ngày trước của mình “Em tưởng nhớ lại năm xưa, khi bà nội hiền hậu của em còn sống, em cũng được đón giao thừa ở nhà. Nhưng Thần Chết đã đến cướp bà em đi mất, gia sản tiêu tán, và gia đình em phải lìa ngôi nhà xinh xắn".An-đéc-xen đặt nỗi nhớ của cô bé vào đúng lúc, đúng chỗ vừa giới thiệu được hai hoàn cảnh sống đối nghịch vừa giải thích nguyên nhân của sự đổi thay khiến em phải sống đời bất hạnh hiện tại: Thần Chết!Thần Chết đã cướp đi người bà hiền hậu. Thần Chết đã đuổi cha con cô ra khỏi ngôi nhà xinh xắn đến ở căn gác xép sát mái nhà không ngăn nổi gió sương. Và bất hạnh lớn nhất là Thần Chết đã biến đổi tính nết của người cha, thay vì thương yêu và chăm sóc con cái thì lại buộc con gái nhỏ dại đi bán diêm, “nếu không bán được ít bao diêm, hay không ai bố thí cho một đồng xu nào đêm về; nhất định là cha em sẽ đánh em".Sự việc diễn ra như thế nào thì kể lại như thế chứ không hề chen vào một lời oán trách hay kết tội người cha đúng với hoàn cảnh sống và tính cách phụ thuộc của tuổi thơ.
Một mình, bụng đói giữa đêm giao thừa gió rét, đôi bàn tay đã cứng đờ ra, muốn đốt một que diêm mà hơ ngốn tay em cũng chần chừ đôi lần ba lượt. Ánh sáng, hơi ấm từ que diêm đã giúp dòng suy nghĩ của em thoát khỏi hiện thực lạnh giá, bẽ bàng. “Em tưởng chừng như đang ngồi trước lò
sưởi bằng sắt có những hình nổi bằng dồng bóng nhoáng. Trong lò, lửa cháy nom đến vui mắt và tỏa ra hơi nóng dịu dàng”.Dòng mơ tưởng này đã chi phối hành vi của em. Em hành động theo “Em tưởng chừng như’ Bởi vậy, “em vừa duỗi chân ra sưởi thì lửa vụt tắt, lò sưởi biến mất. Em ngồi đó, tay cầm que diêm đã tàn hẳn".Dòng mơ tưởng về lò sưởi tỏa hơi nóng dịu dàng kia đã biến mất theo ngọn lửa cháy nhanh và chóng tàn của que diêm. Hiện thực giá rét kéo em về cùng nỗi lo “bị cha mắng”, Đêm tối với cái lạnh cắt da, que diêm với ánh sáng và hơi ấm. Hai hình ảnh tương phản ấy đã được nhà văn đặt cạnh nhau như muốn khơi thêm nguồn ao ước ở trong em. Nếu quẹt que diêm lần thứ nhất, ánh sáng của nó khiến em “tưởng chừng như…"thì khi quẹt que diêm thứ hai “em nhìn thấy vào tận trong nhà” và thấy một bàn ăn sang trọng đã được dọn sẩn, có cả một con ngỗng quay. “Nhưng điều kì diệu nhất là ngỗng ta nhảy ra khỏi đĩa và mang cả dao ăn, phuốc-sét cắm trên lưng, tiến về phía em bé Mộng tưởng lúc này đã có tính huyền ảo. Tội nghiệp cô bé bán diêm. Có lẽ lúc này cô đói lắm rồi. Mơ ước được no khiến hiện thực “sực nức mùi ngỗng quay” ởkhu phố biến thành con ngỗng như trong mộng tưởng của cô bé bán diêm. Nhưng khi “que diêm vụt tắt” thì “ngỗng ta” cũng biến mất khi đang tiến về phía cô bé bán diêm, hiện thực khắc nghiệt với “phố xá vắng teo, lạnh buốt'"và mấy người khách quần áo ấm áp nhưng lãnh đạm tình người xuất hiện trước mắt em.
Xem thêm: Bình luận cách nhìn của Nam Cao về người nông dân qua tác phẩm đôi mắtLần quẹt diêm thứ ba, em thấy hiện ra cây thông Nô-en rất lớn và lộng lẫy với hàng ngàn ngọn nến, rất nhiều bức tranh màu sắc rực rỡ. Khi em với đôi tay về phía cây thì ánh sáng que diêm… tắt. “Tất cả các ngọn nến bay lên, bay lên mãi rồi biến thành những ngôi sao trên trời".Mộng tưởng này gợi cho em nhớ lại lời của người bà hiền hậu thường nói với em lúc bà còn sống rằng: “Khi có một vì sao đổi ngôi là có một linh hồn bay lên trời với Thượng đế”. Nỗi nhớ này làm cồ bé bán diêm ao ước được thấy bà nội của cô. Cô quẹt một que diêm nữa vào tường, ánh sáng xanh tỏa ra chung quanh, và em thấy rõ bà đang mỉm cười với em. Em reo lên và xin bà cho em cùng theo bà. Điều lạ lùng và cảm động là nhà văn đã đặt cô bé vào vị trí của con người rất tình táo. Cô bé đã nói với bà: “Cháu biết rằng diêm tắt thì bà cũng biến đi mất như lò sưởi, ngỗng quay và cây Nô-en ban nãy, nhưng xin bà đừng bỏ cháu ở nơi này”. Cólẽ những lần quẹt diêm trước đã giúp cô bé nhận ra cảnh thật và cảnh ảo. Thêm vào đó thể xác của cô bé thì đói và lạnh, còn tâm hồn thì rất cô độc. về nhà ư? về căn gác xép sát mái, tường nứt không ngăn được luồng gió rét kia ư? về nơi thường nghe những lời mắng nhiếc và chửi rủa kia ư?
Sức cô bé đã cùng, lực cô bé đã kiệt. Thông thường, trong hoàn cảnh đó, chỉ có tình thương yêu cha mẹ, anh em… giúp cô bé thêm sức mạnh để quay về. Nhưng thực tế thì cô không có động lực ấy, ngược lại có thể là nỗi sợ hãi ngày càng lớn càng nặng nề hơn. Bởi vậy mà em sống với ảo ảnh và không muốn rời xa nó. Em đã quẹt tất cả những que diêm còn lại ở trong bao để thấy bà, gần bà, cho tới lúc “Bà cụ cầm lấy tay em, rồi hai bà cháu bay vụt lên cao, cao mãi, chẳng còn đói rét, đau buồn nào đe dọa dọ nữa. Họ đã về chầu Thượng đế".Đọc hai câu văn ấy ai cũng nhận ra cô bé bán diêm đã chết. Cô bé đã chọn cái chết cùng một ảo giác đẹp, dù ở phần thể xác em chết vì đói và lạnh. Và nhà văn đã tô điểm cho nét đẹp của em bằng hình ảnh đối nghịch giữa cảnh và người: “Trong buổi sáng lạnh lẽo ấy, ở một xó tường, người ta thấy một em gái có đôi má hồng và đôi môi đang mỉm cười”.Cô bé bán diêm đã chết theo cách của người đang thiếp ngủ trong giấc mơ đẹp. Nhìn hình ảnh những bao diêm, trong đó có một bao đã đốt hết nhẩn, người ta có thể đoán đúng hành vi của cô bé trước khi chết: “Chắc nó muốn sưởi choấm/”, nhưng hình ảnh “đôi má hồng và đôi môi đang mỉm cười” kia thì khó có thể đoán ra điều gì khiến khuôn mặt cô bé biểu hiện nên hình ảnh có vẻ vui sướng và thỏa nguyện ấy.
về cái chết của những người bất hạnh, nói chung nhiều nhà văn đã miêu tả, mà phần lớn là buồn thảm, hoặc vật vã dữ dội (như cái chết của lão Hạc). Duy cái chết của cô bé bán diêm thì người đọc có cảm giác buồn thương nhưng thanh thản, nhẹ nhàng và thấm sâu. Tạo được cảm giác khác lạ ấy có lẽ nhờ vào cách xây dựng tính cách nhân vật (cô bé bán diêm) của An-đéc-xen, một cô bé bán diêm bất hạnh nhưng không giận đời. Giữa hiện thực đen tối, cô bé sông với những mộng tưởng đẹp cho tới hơi thở cuối cùng. Cô bé bán diêmsống mãi với người đọc là ở tính cách ấy của em qua tài kể chuyện của nhà văn.
Nguồn: thêm: Phân tích bài thơ của chủ Hồ Chí MInh để thấy được vẻ đẹp tâm hồn của người
|
Phân tích, cảm nhận truyện Cô Bé Bán Diêm của An đéc xen
Hướng dẫn
Ánh lửa diêm, và biến mất khi ánh diêm tắt.
Mộng tưởng nào của em, bé hán diêm cũng gắn với thực tế. Lạnh thì mộng tưởng đến lò sưởi,…, sắp chết thì mộng tưởng gặp hà. Và “Họ đã về chầu thượng đế”. Thực tế là cô bé… đã chết!
– An-đéc-xen sinh năm ỉ805 tại Ồ-đen-xơ, mất năm 1875 tại Cô-pen-ha-gơ, Đan-Mạch.
I. Xưa nay vẫn có những cảnh đời tuổi thơ bất hạnh ở bất cứ nơi nào trên trái đất. Những cảnh đời mồ côi, hoặc mất cha hay mất mẹ không chỉ có trong truyện cổ mà còn được đưa vào những trang văn hiện đại. Ngay trong chương trình Ngữ văn lớp 8, chúng ta biết nỗi bất hạnh của cậu bé Hồng trong Những ngày thơ ấu(đoạn trích Trong lòng mẹ)thì nay chúng ta lại gặp một cảnh đời bất hạnh khác ở xứ sở Đan Mạch trong truyện Cô bé bán diêmcủa An-đéc-xen để cảm thông với những ước mơ đẹp, và ngậm ngùi trước cái chết vì giá rét trong đêm giao thừa của cô.
II. Truyện kể về đêm giao thừa, trời rét mướt, một cô bé bán diêm nhà nghèo, mồ côi mẹ, đầu trần, chân đi đất, bụng đói, đang dò dẫm trong bóng tối. Suốt cả ngày em không bán được bao diêm nào. Nhà văn đã miêu tả hình ảnh của era lúc đêm về càng lúc càng rét buốt, “em ngồi nép trong một góc tường… thu đôi chân vào người…".Miêu tả ngắn thôi, chỉ 12 từ, nhưng người đọc thấy rõ trong trí tưởng tượng của mình dáng cô bé ngồi co ro, cố thu mình lại càng gọn càng tốt để ngăn bớt cơn lạnh. Cô bé đang ở ngoài đường, sát tường hai ngôi nhà đóng kin cửa, giữa cái lạnh cắt da của đêm giao thừa. Mắt cô nhìn lên “Cửa sổ mọi nhà đều sáng rực ánh đèn",mũi cô ngửi “trong phố sực nức mùi ngỗng quay”.Hình ảnh ấm cúng ấy, mùi vị thơm tho ấy, gợi lại trong KÝ ức cô bé hoàn cảnh sống ngày trước của mình “Em tưởng nhớ lại năm xưa, khi bà nội hiền hậu của em còn sống, em cũng được đón giao thừa ở nhà. Nhưng Thần Chết đã đến cướp bà em đi mất, gia sản tiêu tán, và gia đình em phải lìa ngôi nhà xinh xắn".An-đéc-xen đặt nỗi nhớ của cô bé vào đúng lúc, đúng chỗ vừa giới thiệu được hai hoàn cảnh sống đối nghịch vừa giải thích nguyên nhân của sự đổi thay khiến em phải sống đời bất hạnh hiện tại: Thần Chết!Thần Chết đã cướp đi người bà hiền hậu. Thần Chết đã đuổi cha con cô ra khỏi ngôi nhà xinh xắn đến ở căn gác xép sát mái nhà không ngăn nổi gió sương. Và bất hạnh lớn nhất là Thần Chết đã biến đổi tính nết của người cha, thay vì thương yêu và chăm sóc con cái thì lại buộc con gái nhỏ dại đi bán diêm, “nếu không bán được ít bao diêm, hay không ai bố thí cho một đồng xu nào đêm về; nhất định là cha em sẽ đánh em".Sự việc diễn ra như thế nào thì kể lại như thế chứ không hề chen vào một lời oán trách hay kết tội người cha đúng với hoàn cảnh sống và tính cách phụ thuộc của tuổi thơ.
Một mình, bụng đói giữa đêm giao thừa gió rét, đôi bàn tay đã cứng đờ ra, muốn đốt một que diêm mà hơ ngốn tay em cũng chần chừ đôi lần ba lượt. Ánh sáng, hơi ấm từ que diêm đã giúp dòng suy nghĩ của em thoát khỏi hiện thực lạnh giá, bẽ bàng. “Em tưởng chừng như đang ngồi trước lò
sưởi bằng sắt có những hình nổi bằng dồng bóng nhoáng. Trong lò, lửa cháy nom đến vui mắt và tỏa ra hơi nóng dịu dàng”.Dòng mơ tưởng này đã chi phối hành vi của em. Em hành động theo “Em tưởng chừng như’ Bởi vậy, “em vừa duỗi chân ra sưởi thì lửa vụt tắt, lò sưởi biến mất. Em ngồi đó, tay cầm que diêm đã tàn hẳn".Dòng mơ tưởng về lò sưởi tỏa hơi nóng dịu dàng kia đã biến mất theo ngọn lửa cháy nhanh và chóng tàn của que diêm. Hiện thực giá rét kéo em về cùng nỗi lo “bị cha mắng”, Đêm tối với cái lạnh cắt da, que diêm với ánh sáng và hơi ấm. Hai hình ảnh tương phản ấy đã được nhà văn đặt cạnh nhau như muốn khơi thêm nguồn ao ước ở trong em. Nếu quẹt que diêm lần thứ nhất, ánh sáng của nó khiến em “tưởng chừng như…"thì khi quẹt que diêm thứ hai “em nhìn thấy vào tận trong nhà” và thấy một bàn ăn sang trọng đã được dọn sẩn, có cả một con ngỗng quay. “Nhưng điều kì diệu nhất là ngỗng ta nhảy ra khỏi đĩa và mang cả dao ăn, phuốc-sét cắm trên lưng, tiến về phía em bé Mộng tưởng lúc này đã có tính huyền ảo. Tội nghiệp cô bé bán diêm. Có lẽ lúc này cô đói lắm rồi. Mơ ước được no khiến hiện thực “sực nức mùi ngỗng quay” ởkhu phố biến thành con ngỗng như trong mộng tưởng của cô bé bán diêm. Nhưng khi “que diêm vụt tắt” thì “ngỗng ta” cũng biến mất khi đang tiến về phía cô bé bán diêm, hiện thực khắc nghiệt với “phố xá vắng teo, lạnh buốt'"và mấy người khách quần áo ấm áp nhưng lãnh đạm tình người xuất hiện trước mắt em.
Xem thêm: Bình luận cách nhìn của Nam Cao về người nông dân qua tác phẩm đôi mắtLần quẹt diêm thứ ba, em thấy hiện ra cây thông Nô-en rất lớn và lộng lẫy với hàng ngàn ngọn nến, rất nhiều bức tranh màu sắc rực rỡ. Khi em với đôi tay về phía cây thì ánh sáng que diêm… tắt. “Tất cả các ngọn nến bay lên, bay lên mãi rồi biến thành những ngôi sao trên trời".Mộng tưởng này gợi cho em nhớ lại lời của người bà hiền hậu thường nói với em lúc bà còn sống rằng: “Khi có một vì sao đổi ngôi là có một linh hồn bay lên trời với Thượng đế”. Nỗi nhớ này làm cồ bé bán diêm ao ước được thấy bà nội của cô. Cô quẹt một que diêm nữa vào tường, ánh sáng xanh tỏa ra chung quanh, và em thấy rõ bà đang mỉm cười với em. Em reo lên và xin bà cho em cùng theo bà. Điều lạ lùng và cảm động là nhà văn đã đặt cô bé vào vị trí của con người rất tình táo. Cô bé đã nói với bà: “Cháu biết rằng diêm tắt thì bà cũng biến đi mất như lò sưởi, ngỗng quay và cây Nô-en ban nãy, nhưng xin bà đừng bỏ cháu ở nơi này”. Cólẽ những lần quẹt diêm trước đã giúp cô bé nhận ra cảnh thật và cảnh ảo. Thêm vào đó thể xác của cô bé thì đói và lạnh, còn tâm hồn thì rất cô độc. về nhà ư? về căn gác xép sát mái, tường nứt không ngăn được luồng gió rét kia ư? về nơi thường nghe những lời mắng nhiếc và chửi rủa kia ư?
Sức cô bé đã cùng, lực cô bé đã kiệt. Thông thường, trong hoàn cảnh đó, chỉ có tình thương yêu cha mẹ, anh em… giúp cô bé thêm sức mạnh để quay về. Nhưng thực tế thì cô không có động lực ấy, ngược lại có thể là nỗi sợ hãi ngày càng lớn càng nặng nề hơn. Bởi vậy mà em sống với ảo ảnh và không muốn rời xa nó. Em đã quẹt tất cả những que diêm còn lại ở trong bao để thấy bà, gần bà, cho tới lúc “Bà cụ cầm lấy tay em, rồi hai bà cháu bay vụt lên cao, cao mãi, chẳng còn đói rét, đau buồn nào đe dọa dọ nữa. Họ đã về chầu Thượng đế".Đọc hai câu văn ấy ai cũng nhận ra cô bé bán diêm đã chết. Cô bé đã chọn cái chết cùng một ảo giác đẹp, dù ở phần thể xác em chết vì đói và lạnh. Và nhà văn đã tô điểm cho nét đẹp của em bằng hình ảnh đối nghịch giữa cảnh và người: “Trong buổi sáng lạnh lẽo ấy, ở một xó tường, người ta thấy một em gái có đôi má hồng và đôi môi đang mỉm cười”.Cô bé bán diêm đã chết theo cách của người đang thiếp ngủ trong giấc mơ đẹp. Nhìn hình ảnh những bao diêm, trong đó có một bao đã đốt hết nhẩn, người ta có thể đoán đúng hành vi của cô bé trước khi chết: “Chắc nó muốn sưởi choấm/”, nhưng hình ảnh “đôi má hồng và đôi môi đang mỉm cười” kia thì khó có thể đoán ra điều gì khiến khuôn mặt cô bé biểu hiện nên hình ảnh có vẻ vui sướng và thỏa nguyện ấy.
về cái chết của những người bất hạnh, nói chung nhiều nhà văn đã miêu tả, mà phần lớn là buồn thảm, hoặc vật vã dữ dội (như cái chết của lão Hạc). Duy cái chết của cô bé bán diêm thì người đọc có cảm giác buồn thương nhưng thanh thản, nhẹ nhàng và thấm sâu. Tạo được cảm giác khác lạ ấy có lẽ nhờ vào cách xây dựng tính cách nhân vật (cô bé bán diêm) của An-đéc-xen, một cô bé bán diêm bất hạnh nhưng không giận đời. Giữa hiện thực đen tối, cô bé sông với những mộng tưởng đẹp cho tới hơi thở cuối cùng. Cô bé bán diêmsống mãi với người đọc là ở tính cách ấy của em qua tài kể chuyện của nhà văn.
Nguồn: thêm: Phân tích bài thơ của chủ Hồ Chí MInh để thấy được vẻ đẹp tâm hồn của người
|
Phê phán thái độ thờ ơ, ghẻ lạnh đối với con người cũng quan trọng và cần thiết như ca ngợi lòng vị tha, tình đoàn kết. Anh (chị) suy nghĩ như thế nào về ý kiến trên
Gợi ý
Trong việc phê phán những thói hư tật xấu, những tư tưởng lạc hậu để xây dựng con người mới, nếp sống văn hóa mới, nhiều người thường nhắc đến câu nói sau đây:
"Phê phán thái độ thờ ơ, ghể lạnh đối với con người cũng quan trọng và cần thiết như ca ngợi lòng vị tha, tình đoàn kết”.
Trước hết, phải hiểu đúng nghĩa các từ ngữ: thờ ơ, ghẻ lạnh, lòng vị tha, tình đoàn kết.
Cuốn Từ điển Tiếng Việt in năm 2008, Hoàng Phê chủ biên đã giải nghĩa như sau:
Thờ ơ: tỏ ra lạnh nhạt, không hề quan tâm, để ý tới, không hề có chút tình cảm gì.
Ghẻ lạnh: tỏ ra lạnh nhạt đối với người lẽ ra là thân thiết, gần gũi.
Vị tha: có tinh thần chăm lo đến lợi ích của người khác mà hi sinh lợi ích của cá nhân mình.
Đoàn kết: kết thành một khối thống nhất, cùng hoạt động vì một mục đích chung.
Qua đó, ta hiểu thái độ thờ ơ, ghẻ lạnh là tính xấu; người sống thờ ơ, ghẻ lạnh là người không tốt, là kẻ vồ cảm, vô tình với đồng loại. Lòng vị tha, tình đoàn kết là tính tốt; người giàu lòng vị tha và có tình đoàn kết là người tốt.Xem thêm: Tả đồ vật em thích (cái thước kẻ của cô giáo) Câu nói trên đây chỉ ra mối quan hệ và tầm quan trọng giữa việc phê phán thái độ thờ ơ, ghẻ lạnh đối với con người và sự ca ngợi lòng vị tha, tình đoàn kết.
Con người có nhân hậu, sống trong tình người mới có lòng vị tha, tình đoàn kết, mới biết “thương người như thề thương thân”. Nhân dân ta giàu lòng vị tha và tình đoàn kết nên tâm hồn Việt Nam rất đẹp, sức mạnh Việt Nam vô địch, có thể chiến thắng thiên tai, địch họa, đánh đuổi thù trong, giặc ngoài. Chiến thắng thực dân Pháp, đế quốc Mĩ là nhờ tinh thần đại đoàn kết của toàn Đảng, toàn dân ta. Xóa đói giảm nghèo, giúp đỡ các nạn nhân chất độc da cam, cứu giúp đồng bào vùng bị lũ lụt bão tô’, quan tâm săn sóc các em nhỏ mồ côi, những học sinh nghèo… làm tốt được các việc đó là do sức mạnh của lòng vị tha, tình đoàn kết của đồng bào, chiến sĩ, của hơn hai triệu Việt kiều đang sinh sống, làm ăn ở nước ngoài. Chính vì có lòng vị tha, tình đoàn kết mà nhân dân ta hiểu một cách sâu sắc: chia rẽ là chết; thờ ơ, ghẻ lạnh với bà con, với đồng loại là vô tình, vô tâm, bạc bẽo, nhẫn tâm.
Trong công cuộc xây dựng con người mới, nếp sống mới, việc ca ngợi lòng vị tha, tình đoàn kết là quan trọng, nhưng quan trọng hơn là phê phán thái độ thờ ơ, lạnh nhạt đối với con người.Xem thêm: Phân tích hình tượng sông Đà trong Người lái đò sông Đà (Có dàn ý chi tiết) Sông giữa người thân, sống giữa tập thể, giữa cộng đồng mà thờ ơ, ghẻ lạnh đốì với mọi người thì kẻ ấy thật đáng chê. Chỉ biết bản thần mình, chẳng hề quan tâm. đến ai. Một tiếng kêu rên của người bất hạnh, giọt nước mắt của người khốn khổ cơ hàn, đối với họ cũng chẳng đáng quan tâm. Vì kẻ sông thờ ơ, ghẻ lạnh, trái tim đã bị đóng băng, tâm hồn đã bị khô héo, sống không chút tình người. Đáng thương hại thay, những kẻ thờ ơ, ghẻ lạnh là những Bê-li-côp, loại “Người trong bao” mà nhà văn Nga Sê-khôp đã nói đến. Các câu tục ngữ: “Cháy nhà hàng xóm bình chân như vại”, “Đèn nhà ai rạng nhà ấy” đã nói lên bản chất loại người có thái độ thờ ơ, ghẻ lạnh đốì với mọi người. Loại người này đã tự tách rời với mọi người xung quanh, sông cô đơn, khép kín, mũ ni che tai!
Phê phán thái độ thờ ơ, ghẻ lạnh đôì với con người là để xây dựng tính tập thể, tính cộng đồng, lòng vị tha, tính đoàn kết; là để làm cho con người gần gũi người hơn; là để xây dựng tình tương thân tương ái, là để xây dựng con người mới, xã hội mới, nếp văn hóa mới. Có gì hạnh phúc hơn khi được sống trong tình thương; tình thương của gia đình, của bạn bè, của đồng bào, đồng chí.Xem thêm: Tại một thành phố ở nước ngoài, người ta xây dựng một tấm bảng lớn trên đó ghi dòng chữ: “I love you”. Em nghĩ gì về điều này Tuổi trẻ bước vào đời sẽ tìm thấy sức mạnh và hạnh phúc trong tình nhân ái, lòng vị tha, tình đoàn kết của cộng đồng. Hơn bao giờ hết, ta cang thấm thìa ý kiến: “Phê phán thái độ thờ ơ, ghẻ lạnh đối với con người cũng quan trọng và cần thiết ca ngợi lòng vị tha, tình đoàn kết”.
Vanmau.edu.vn
|
Criticizing indifferent and estranged attitudes towards people is as important and necessary as praising altruism and solidarity. What do you think about the above opinion?
Suggest
In criticizing bad habits and outdated ideas to build new people and a new cultural lifestyle, many people often mention the following saying:
"Criticizing indifferent and cold attitudes towards people is as important and necessary as praising altruism and solidarity."
First of all, we must understand the correct meaning of the words: indifference, estrangement, altruism, solidarity.
The Vietnamese Dictionary printed in 2008, editor-in-chief Hoang Phe, explained as follows:
Indifference: being cold, not caring, not paying attention, not having any feelings at all.
Estrangement: being cold towards someone who is supposed to be close and close.
Altruistic: having the spirit of caring for the interests of others without sacrificing one's own interests.
Solidarity: forming a unified block, working together for a common purpose.
Through this, we understand that indifference and estrangement are bad qualities; People who live indifferently and estranged are not good people, are insensitive and indifferent to their fellow human beings. Altruism and solidarity are good qualities; People who are altruistic and have solidarity are good people. See also: Describe the object you like (the teacher's ruler). The above quote shows the relationship and importance between criticizing the attitude of worship. er, estrangement towards humans and the praise of altruism and solidarity.
Only when people are kind, living in human love can they have altruism, solidarity, and know how to "love others like you swear to love yourself". Our people are rich in altruism and solidarity, so Vietnam's soul is very beautiful, Vietnam's strength is invincible, it can overcome natural disasters, enemies, and repel internal and external enemies. Victory over the French colonialists and American imperialists was thanks to the spirit of great solidarity of our entire Party and people. Eradicating hunger and reducing poverty, helping victims of Agent Orange, helping people in areas affected by floods and storms, taking care of orphans, poor students... doing these things well is because the power of altruism and solidarity of compatriots, soldiers, and more than two million overseas Vietnamese living and doing business abroad. It is because of altruism and solidarity that our people deeply understand: division is death; Being indifferent and estranged from relatives and fellow human beings is heartless, heartless, ungrateful, and callous.
In the work of building new people and new ways of life, praising altruism and solidarity is important, but more important is criticizing indifferent and cold attitudes towards people. See more: Analysis Analyzing the image of the Da River in The Da River Ferryman (With detailed outline) River among relatives, living among the group, among the community, but being indifferent and estranged from everyone, that person is worthy of criticism. Just know your own self, don't care at all. to whom. A groan of an unfortunate person, a tear of a miserable person, is of no concern to them. Because people are indifferent, estranged, their hearts are frozen, their souls are withered, living without any human love. Pathetically, those who are indifferent and estranged are the Belikovs, the type of "People in bags" that the Russian writer Chekhov talked about. The proverbs: "The neighbor's house is on fire as calmly as a bowl", "Whoever's house lights up, that house's light" speaks to the nature of people who have an indifferent, estranged attitude towards everyone. This type of person has isolated himself from everyone around him, is lonely, closed off, with a hat covering his ears!
Criticizing the attitude of indifference and estrangement towards people is to build collectivity, community, altruism, and solidarity; is to make people closer to others; is to build mutual love, is to build new people, new society, new culture. There is nothing happier than living in love; The love of family, friends, compatriots, comrades. See more: In a city abroad, people built a large sign with the words "I love you" written on it. What do you think about this? Young people entering life will find strength and happiness in kindness, altruism, and community solidarity. More than ever, we can still absorb the opinion: "Criticizing the attitude of indifference and estrangement towards people is also important and necessary to praise altruism and solidarity."
Vanmau.edu.vn
|
Phê phán thái độ thờ ơ, ghẻ lạnh đối với con người cũng quan trọng và cần thiết như ngợi ca lòng vị tha, tình đoàn kết. Anh (chị) suy nghĩ như thế nào về ý kiến trên
Gợi ý
Con người ta sống được là nhờ vào sự quan tâm, đùm bọc lẫn nhau của gia đình, làng xóm và cộng đồng. Thế nhưng ngày nay, đời sống ngày càng được nâng cao, con người ngày cáng có xu hướng vun vén cho cuộc sống gia đình mà quên đi cuộc sống cũa cộng đồng. Bên cạnh những người có lòng vị tha, tinh thần đoàn kết, hết mình đóng góp cho xã hội vẫn còn có những người vô tâm, thờ ơ, thậm chí là mang một cái nhìn ghẻ lạnh đối với người khác. Chính vì vậy, phê phán thái độ thờ ơ, ghẻ lạnh đối với con người cũng quan trọng và cần thiết như ca ngợi lòng vị tha, tình đoàn kết. Bởi vì hai hành động ấy đều hướng đến việc xây đắp, bồi dưỡng những tình cảm tốt đẹp giữa con người với con người.
Xã hội ngày càng phát triển, Cuộc sống xô bồ và tấp nập, đôi khi vòng xoay cơm áo gạo tiền đã làm con người ta xa nhau hơn. Tình cảm giữa người với người cũng vì thế mà trơ nên xa lạ và phản cảm hơn. Họ thờ ơ, ghẻ lạnh với nhau, không có sự quan tâm, không có tình cảm, hờ hững và lạnh nhạt với nhau. Vì thế, phê phán thái độ thờ ơ, ghẻ lạnh, lên án lối sống lạnh nhạt, nhắc nhở con người phái biết quan tâm, chia sẻ với nhau. Đó chính là hành động để thức tỉnh lối sống chưa tốt.
Thật đáng buồn trước thái độ thờ ơ của những người cảnh sát giao thông trước sự cố tràn dầu do một chiếc xe Container bị lật đổ tại quận Bình Thạnh, TPHCM. Hàng chục chiếc xa máy đã bị trượt ngã khi đi qua đoạn đường đó nhưng những người cảnh sát giao thông khu vực thì vẫn thờ ơ ngồi trên xe máy của mình nhìn người dân chạy vào vùng nhớt và bị ngã xe. Điều đó thật đáng phê phán!Xem thêm: Đọc truyện “Qua suối” và trả lời câu hỏi Việc thờ ơ trước sự việc em Nguyễn Thị Bình bị đánh đập, hành hạ suốt 10 năm trời của gia đinh, cơ quan, chính quyền các cấp cũng đáng phê phán, khi một em nhỏ mới chỉ 13 tuổi đầu đã bị trà đạp về nhân phẩm và hành hạ về thể xác.
Điều đáng mừng là chúng ta đã nhận thức được đúng đắn về việc phải phê phán thái độ thờ ơ, ghẻ lạnh của con người bằng việc tổ chức rất nhiều các hoạt động để tuyên truyền và vận động nhân dân. Tuy chỉ ở một lĩnh vực là tuyên truyền, đấu tranh ủng hộ nạn nhân chất độc màu da cam thế nhưng chiến dịch truyền thống "Tiếng nói cộng đồng: Trái tim và công lý" đã để lại một tiếng vang lớn khi nói lên tiếng nói chính nghĩa, phê phán thái đô thờ ơ, thiếu trách nhiệm của các công ty hoá ehất Mỹ sản xuất chất độc màu da cam sử dụng trong chiến tranh tại Việt Nam trong việc giải quyết hậu quả chất độc màu da cam.
Cha ông ta ngày xưa đã có câu ca dao, tục ngữ phê phán thái độ thờ ơ, quay lưng lại trước nỗi đau khổ của người khác: "Cháy nhà hàng xóm bình chân như vại". Vì vậy, mỗi một thành viên trong gia đình, mỗi một công dân trong một quốc gia phải ý thức được sự quan trọng và cần thiết của việc phê phán thái độ thờ ơ, ghẻ lạnh giữa con người với con người.
Thế nhưng cuộc sống là vậy, thật hạnh phúc biết bao khi bên cạnh những con người vô tâm, thờ ơ vẫn có rất nhiều người tốt. Họ không chỉ sống cho riêng mình, cho cá nhân mình mà sống vì xã hội, vì cộng đồng, Vì vậy, việc ca ngợi lòng vị tha, đoàn kết cũng là một nhiệm vụ quan trọng để khẳng định, ngợi ca một lốì sống đẹp, tuyên truyền, nhân rộng tình yêu thương giữa con người với con người.Xem thêm: Cảm nhận về bài thơ “Bác ơi!” của Tố Hữu
Nếu như bạn làm được một việc tốt nhưng không được ai biết đến, không được ai ủng hộ, chắc chấn bạn sẽ có một chút chạnh lòng. Nhưng chỉ cần có những người biết, động viên và khích lệ bạn cố gắng hơn, chắc chăn bạn sẽ có động lực để làm những việc tốt hơn nữa. Cũng giống như một đứa trẻ con, khi chúng chập chững bước được những bước đầu tiên, có mẹ động viên "Cố gắng lên con", đứa bé ấy sẽ đi được một đoạn xa hơn nữa.
Cuộc sống vị tha là một cuộc sống mà chúng ta sống vì lợi ích của người khác, không còn sống cho riêng mình nữa. Đó là một cuộc sống đẹp mà ai cũng ca ngợi. Bởi vì từ lâu, do bản năng chấp ngã mãnh liệt, chúng ta bị khuynh hướng vị kỷ tồn tại chi phôi mọi ý nghĩ, lời nói, việc làm. Từ đó, trong cuộc sống, chúng ta chỉ biết sống cho mình, làm bất cứ điều gì cũng vì lợi ích của mình trước. Khi còn bé, chúng ta tranh giành miếng ăn, miếng uống, tình thương đối với anh em. Lớn lên, có thể dùng mọi thủ đoạn để tranh giành tiền tài, quyền lực cho mình. sống vị tha rồi có khi mới biết thế nào là Hạnh phúc.
Chính vì sự quan trọng của việc ca ngợi tấm lòng vị tha, đoàn kết nên đã có rất nhiều chương trình được tổ chức nhằm vinh danh những người tốt, có đóng góp to lớn cho xã hội, đất nước như chương trình "Vinh quang Việt Nam", "Vì người nghèo", bên cạnh việc tổ chức quyên góp, ủng hộ những người có hoàn cảnh khó khăn còn là cơ hội để ngợi ca tình đoàn kết, ca ngợi truyền thống "lá lành đùm lá rách" của dân tộc.Xem thêm: Phân tích hình tượng Sóng trong bài thơ Sóng (Có dàn ý chi tiết) Thế nhưng, con người dù có ca ngợi lòng vị tha và cái tốt đến mức nào thì thế giới vẫn không dứt hết được những điều bất công, xấu xa. Tuy nhiên, nếu như con người không ca ngợi những điều tốt đẹp thì thế giới này sẽ sớm bị diệt vong còn nếu con người ca ngợi lòng vị tha, tình đoàn kết và những điều hay thì cuộc sống sẽ trở nên cực kì tốt đẹp, mốì quan hệ giữa người với người sẽ thay đổi, người với người gần nhau hơn.
Nếu như phê phán thái độ thờ ơ, ghẻ lạnh là hành động hướng tới việc thức tỉnh những người có lốì sống chưa tốt thì ca ngợi lòng vị tha, tình đoàn kết laị là hành động hướng đến nêu gương những người có lối sống đẹp. Hai hành động đều rất quan trọng vì đều hướng đến việc xây đắp, bồi dưỡng những tình cảm tốt đẹp giữa con người vái con người.
Chính vì thế mà mỗi chúng ta cần lên án lối sống thờ ơ, ghẻ lạnh nếu bạn không muốn làm một người vô cảm. Đừng quay lưng đi trước những cảnh ngộ khó khăn bới vì đó là đồng bào ta. Họ cần lắm sự thông cảm. tình yêu thương của đồng loai. Cuộc sống sẽ ngày một tốt đẹp hơn khi chúng ta biết sống vì nhau, cho nhau chứ không sống ích kỷ, hẹp hòi. Đừng cười trước nỗi đau khổ của người khác, hãy cúi xuống và thấu hiểu, ta sẽ nhận ra được trái tim biết yêu thương vẫn còn ẩn chứa đâu đó sâu xa bên trong tâm hồn mình. Mỗi người hãy nhân rộng trái tim ấy cho tất cả mọi người, sống nhân ái và bao dung với gia đình, bạn bè, người thân, đồng bào và đồng loại. Tất cả hãy vì mục đích xây dựng mối quan hệ tốt đẹp giữa người với người.
Vanmau.edu.vn
|
Phê phán thái độ thờ ơ, ghẻ lạnh đối với con người cũng quan trọng và cần thiết như ngợi ca lòng vị tha, tình đoàn kết. Anh (chị) suy nghĩ như thế nào về ý kiến trên
Gợi ý
Con người ta sống được là nhờ vào sự quan tâm, đùm bọc lẫn nhau của gia đình, làng xóm và cộng đồng. Thế nhưng ngày nay, đời sống ngày càng được nâng cao, con người ngày cáng có xu hướng vun vén cho cuộc sống gia đình mà quên đi cuộc sống cũa cộng đồng. Bên cạnh những người có lòng vị tha, tinh thần đoàn kết, hết mình đóng góp cho xã hội vẫn còn có những người vô tâm, thờ ơ, thậm chí là mang một cái nhìn ghẻ lạnh đối với người khác. Chính vì vậy, phê phán thái độ thờ ơ, ghẻ lạnh đối với con người cũng quan trọng và cần thiết như ca ngợi lòng vị tha, tình đoàn kết. Bởi vì hai hành động ấy đều hướng đến việc xây đắp, bồi dưỡng những tình cảm tốt đẹp giữa con người với con người.
Xã hội ngày càng phát triển, Cuộc sống xô bồ và tấp nập, đôi khi vòng xoay cơm áo gạo tiền đã làm con người ta xa nhau hơn. Tình cảm giữa người với người cũng vì thế mà trơ nên xa lạ và phản cảm hơn. Họ thờ ơ, ghẻ lạnh với nhau, không có sự quan tâm, không có tình cảm, hờ hững và lạnh nhạt với nhau. Vì thế, phê phán thái độ thờ ơ, ghẻ lạnh, lên án lối sống lạnh nhạt, nhắc nhở con người phái biết quan tâm, chia sẻ với nhau. Đó chính là hành động để thức tỉnh lối sống chưa tốt.
Thật đáng buồn trước thái độ thờ ơ của những người cảnh sát giao thông trước sự cố tràn dầu do một chiếc xe Container bị lật đổ tại quận Bình Thạnh, TPHCM. Hàng chục chiếc xa máy đã bị trượt ngã khi đi qua đoạn đường đó nhưng những người cảnh sát giao thông khu vực thì vẫn thờ ơ ngồi trên xe máy của mình nhìn người dân chạy vào vùng nhớt và bị ngã xe. Điều đó thật đáng phê phán!Xem thêm: Đọc truyện “Qua suối” và trả lời câu hỏi Việc thờ ơ trước sự việc em Nguyễn Thị Bình bị đánh đập, hành hạ suốt 10 năm trời của gia đinh, cơ quan, chính quyền các cấp cũng đáng phê phán, khi một em nhỏ mới chỉ 13 tuổi đầu đã bị trà đạp về nhân phẩm và hành hạ về thể xác.
Điều đáng mừng là chúng ta đã nhận thức được đúng đắn về việc phải phê phán thái độ thờ ơ, ghẻ lạnh của con người bằng việc tổ chức rất nhiều các hoạt động để tuyên truyền và vận động nhân dân. Tuy chỉ ở một lĩnh vực là tuyên truyền, đấu tranh ủng hộ nạn nhân chất độc màu da cam thế nhưng chiến dịch truyền thống "Tiếng nói cộng đồng: Trái tim và công lý" đã để lại một tiếng vang lớn khi nói lên tiếng nói chính nghĩa, phê phán thái đô thờ ơ, thiếu trách nhiệm của các công ty hoá ehất Mỹ sản xuất chất độc màu da cam sử dụng trong chiến tranh tại Việt Nam trong việc giải quyết hậu quả chất độc màu da cam.
Cha ông ta ngày xưa đã có câu ca dao, tục ngữ phê phán thái độ thờ ơ, quay lưng lại trước nỗi đau khổ của người khác: "Cháy nhà hàng xóm bình chân như vại". Vì vậy, mỗi một thành viên trong gia đình, mỗi một công dân trong một quốc gia phải ý thức được sự quan trọng và cần thiết của việc phê phán thái độ thờ ơ, ghẻ lạnh giữa con người với con người.
Thế nhưng cuộc sống là vậy, thật hạnh phúc biết bao khi bên cạnh những con người vô tâm, thờ ơ vẫn có rất nhiều người tốt. Họ không chỉ sống cho riêng mình, cho cá nhân mình mà sống vì xã hội, vì cộng đồng, Vì vậy, việc ca ngợi lòng vị tha, đoàn kết cũng là một nhiệm vụ quan trọng để khẳng định, ngợi ca một lốì sống đẹp, tuyên truyền, nhân rộng tình yêu thương giữa con người với con người.Xem thêm: Cảm nhận về bài thơ “Bác ơi!” của Tố Hữu
Nếu như bạn làm được một việc tốt nhưng không được ai biết đến, không được ai ủng hộ, chắc chấn bạn sẽ có một chút chạnh lòng. Nhưng chỉ cần có những người biết, động viên và khích lệ bạn cố gắng hơn, chắc chăn bạn sẽ có động lực để làm những việc tốt hơn nữa. Cũng giống như một đứa trẻ con, khi chúng chập chững bước được những bước đầu tiên, có mẹ động viên "Cố gắng lên con", đứa bé ấy sẽ đi được một đoạn xa hơn nữa.
Cuộc sống vị tha là một cuộc sống mà chúng ta sống vì lợi ích của người khác, không còn sống cho riêng mình nữa. Đó là một cuộc sống đẹp mà ai cũng ca ngợi. Bởi vì từ lâu, do bản năng chấp ngã mãnh liệt, chúng ta bị khuynh hướng vị kỷ tồn tại chi phôi mọi ý nghĩ, lời nói, việc làm. Từ đó, trong cuộc sống, chúng ta chỉ biết sống cho mình, làm bất cứ điều gì cũng vì lợi ích của mình trước. Khi còn bé, chúng ta tranh giành miếng ăn, miếng uống, tình thương đối với anh em. Lớn lên, có thể dùng mọi thủ đoạn để tranh giành tiền tài, quyền lực cho mình. sống vị tha rồi có khi mới biết thế nào là Hạnh phúc.
Chính vì sự quan trọng của việc ca ngợi tấm lòng vị tha, đoàn kết nên đã có rất nhiều chương trình được tổ chức nhằm vinh danh những người tốt, có đóng góp to lớn cho xã hội, đất nước như chương trình "Vinh quang Việt Nam", "Vì người nghèo", bên cạnh việc tổ chức quyên góp, ủng hộ những người có hoàn cảnh khó khăn còn là cơ hội để ngợi ca tình đoàn kết, ca ngợi truyền thống "lá lành đùm lá rách" của dân tộc.Xem thêm: Phân tích hình tượng Sóng trong bài thơ Sóng (Có dàn ý chi tiết) Thế nhưng, con người dù có ca ngợi lòng vị tha và cái tốt đến mức nào thì thế giới vẫn không dứt hết được những điều bất công, xấu xa. Tuy nhiên, nếu như con người không ca ngợi những điều tốt đẹp thì thế giới này sẽ sớm bị diệt vong còn nếu con người ca ngợi lòng vị tha, tình đoàn kết và những điều hay thì cuộc sống sẽ trở nên cực kì tốt đẹp, mốì quan hệ giữa người với người sẽ thay đổi, người với người gần nhau hơn.
Nếu như phê phán thái độ thờ ơ, ghẻ lạnh là hành động hướng tới việc thức tỉnh những người có lốì sống chưa tốt thì ca ngợi lòng vị tha, tình đoàn kết laị là hành động hướng đến nêu gương những người có lối sống đẹp. Hai hành động đều rất quan trọng vì đều hướng đến việc xây đắp, bồi dưỡng những tình cảm tốt đẹp giữa con người vái con người.
Chính vì thế mà mỗi chúng ta cần lên án lối sống thờ ơ, ghẻ lạnh nếu bạn không muốn làm một người vô cảm. Đừng quay lưng đi trước những cảnh ngộ khó khăn bới vì đó là đồng bào ta. Họ cần lắm sự thông cảm. tình yêu thương của đồng loai. Cuộc sống sẽ ngày một tốt đẹp hơn khi chúng ta biết sống vì nhau, cho nhau chứ không sống ích kỷ, hẹp hòi. Đừng cười trước nỗi đau khổ của người khác, hãy cúi xuống và thấu hiểu, ta sẽ nhận ra được trái tim biết yêu thương vẫn còn ẩn chứa đâu đó sâu xa bên trong tâm hồn mình. Mỗi người hãy nhân rộng trái tim ấy cho tất cả mọi người, sống nhân ái và bao dung với gia đình, bạn bè, người thân, đồng bào và đồng loại. Tất cả hãy vì mục đích xây dựng mối quan hệ tốt đẹp giữa người với người.
Vanmau.edu.vn
|
Phê phán thái độ thờ ơ, lanh nhạt với con người cũng quan trọng và cần thiết như ca ngợi lòng vị tha, tình đoàn kết. Anh (chị) suy nghĩ như thế nào về ý kiến trên
Gợi ý
Từ muốn đời nay, cha ông ta đã từng khuyên răn con cháu:
Nhiễu điều phủ lấy giá gương
Người trong một nước thì thương nhau cùng
Và:
Thương người như thể thương thân.
Tất cả những lời khuyên ấy đều hướng đến một mục đích là giáo dục lòng vị tha, tình đoàn kết và tinh thần trách nhiệm đối với với cộng đồng. Song cuộc đời bao giờ cũng có hai mặt, mặt trái và mặt phải luôn cùng song song tồn tại. Bên cạnh những con người luôn biết yêu thương người khác, luôn biết sống vì mọi người vẫn còn không ít những kẻ sống vị kỷ, chỉ biết mình mà không biết đến lợi ích của cộng đồng. Chính vì lẽ đó mà phê phán thái độ thờ ơ, lạnh nhạt với con người cũng quan trọng và cần thiết như ca ngợi lòng vị tha, tình đoàn kết.
Sách Luận ngữ có câu: Kỷ sờ bất dục vật thi ư nhàn (Điều gì mình không muốn đùng làm cho người khác). Câu nói này đã đề cập đến một phương diện vô cùng quan trọng trong cách đối nhân xử thế. Đó là một quan niệm tích cực trong việc giải quyết mối quan hệ tôi và chúng ta. Xã hội chỉ thực sự tiến bộ khi mọi người biết điều hoà một cách hơp lí mối quan hệ cộng đồng này.
Lòng vị tha, tinh thần đoàn kết được thể hiện qua việc mỗi người biết sống vì mọi người. Vị tim là vì người khác, là biết chia sẻ, cảm thông và thương yêu con người bằng một tình cảm chân thành. Lòng vị tha giúp con người vượt lên trên mọi thù hận, mọi ganh ghét cá nhân để cùng sống vì lợi ích chung. Vượt lên trên những tính toán vị kỷ, con người sẽ sống cao thượng hơn, sẽ thanh thản hơn. Khi ai đó mắc lỗi với mình, người có lòng vị tha là người biết giúp người có lỗi nhận ra lỗi lầm của mình, để rồi vượt lên chính mình mà trở thành người tốt. Con người vị tha là con người có khả năng vượt lên trên mọi điều tính toán nhỏ nhoi, để sống nhân hậu hơn. Từ lòng vị tha, biết sống vì mọi người của mỗi người sẽ tạo nên một cộng đồng đoàn kết, yêu thương và giúp đờ lẫn nhauXem thêm: Hãy chứng tỏ rằng Bác Hồ sống vô cùng giản dị, thanh bạch Một cấy làm chẳng lên non
Ba cây chụm lại nên hòn núi cao.
Lịch sử đấu tranh chống giặc ngoại xâm, chống chọi với thiên tai, địch họa của nhân dân ta là những minh chứng hùng hồn và thuyết phục nhất cho chân lí này. Một dân tộc Việt Nam nhỏ bé đã chiến thắng bao lượt kẻ thù mạnh hơn gấp bội, đó là nhờ tinh thần đoàn kết của mọi lớp người trong xã hội. Xưa nhà Trần chiến thắng quân Nguyên cũng một phần nhờ lòng vị tha và tinh thần đoàn kết ấy. Hai vị tướng giỏi là Trần Quang Khải và Trần Quốc Tuấn, đã đặt lợi ích dân tộc lên trên lợi ích cá nhân, quên thù riêng mà một lòng đánh giặc. Người Việt Nam vốn rất trân trọng và luôn nêu cao lòng vị tha của mình. Hai bản Tuyên ngôn Độc lập bất hủ của dân tộc Việt Nam Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi và Tuyên ngôn Độc lập của Hồ Chí Minh) đã nêu cao tinh thần ấy. Đối với kẻ thù vẫn mở đường hiếu sinh.
Trong xã hội hiện đại với nhịp sống xoay vần đến chóng mặt này, nhiều khi, sự ích kỷ cá nhân đã lấn át lòng vị tha. Con người nhiều khi chỉ quan tâm đến lợi ích của riêng mình. Đề cao cái tôi mà quên đi cái chúng ta nên con người đã trở thành vị kỷ. Và từ đó mà họ trở thành vô tâm, vô cảm trước nỗi đau của đồng loại. Họ không còn biết xót xa trước số phận chìm nổi lênh đênh của nàng Kiều, họ vô tình đến nhẫn tâm đối với những người khốn khổ xung quanh mình. Chúng ta đã gặp không ít trên đường phố ngày nay những cảnh mua bán chụp giật, những thái độ độc ác đối với trẻ em lang thang và những người kém may mắn. Trước nỗi đau của người xung quanh, người ta vẫn thản nhiên như không. Tâm hồn con người ngày càng chai sạn và trong họ không còn lòng trắc ẩn. Đã vắng dần những niềm cảm thông, những sự san sẻ. Thái độ thờ ơ lạnh nhạt đối với cuộc sống xung quanh, chỉ quan tâm đến lợi ích của mình, vô trách nhiệm với cộng đồng sẽ dẫn con người đến sự vô tâm và tàn nhẫn. Vì mình, con người có thể giẫm đạp lên kẻ khác và đạo đức xã hội sẽ dần bị băng hoại. Vì vậy, thiết nghĩ cần phải biết phê phán thái độ thờ ơ, lạnh nhạt đối với người xung quanh một cách mạnh mẽ không kém gì việc chúng ta đã rất nhiệt tình ca ngợi lòng vị tha, tình đoàn kết. Trong truyện ngắn Đôi mắt nhà văn Nam Cao đã thể hiện rất sinh động mối quan hệ này. Ngợi ca những phẩm chất tốt đẹp của nhà văn Độ, đồng thời với việc phê phán sự vô tình, nhẫn tâm và vô trách nhiệm của vợ chồng nhà văn Hoàng. Vì thiếu lòng vị tha và sự cảm thông mà vợ chồng Hoàng không thấy được những ưu điểm đáng quý của người nông dân. Thái độ thờ ơ, lạnh nhạt và lòng vị tha, tình đoàn kết là hai mặt trái ngược nhau của vấn đề đạo đức xã hội và đều cần quan tâm. Phê phán thái độ thờ ơ, lạnh nhạt và ngợi ca lòng vị tha tinh thần đoàn kết đều cần thiết và quan trọng như nhau. Ngợi ca những điều tốt đẹp của cuộc sống để giúp con người hướng thiện nhưng cần phải thấy rõ và vạch trần những mặt tiêu cực của xã hội để con người soi mình vào đó mà thấy mình và sửa mình. Trong nghệ thuật nói chung và văn học nói riêng cần tránh thái độ ngợi ca một chiều. Nhất là trong thời đại này, khi mà nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường đang làm xã hội thay đổi rất mạnh mẽ. Sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế xã hội nhiều khi kéo theo những mặt tiêu cực về đạo đức. Quan hệ trả tiền ngay lạnh lùng của xã hội công nghiệp làm con người khô cằn hơn, đời sống tinh thần nghèo nàn hơn. Và hơn ai hết, thế hệ trẻ là những người nhạy cảm nhất, họ dễ dàng nhập cuộc song cũng dễ dàng trở thành những cỗ máy. Bên cạnh những thanh niên hăm hở nhiệt tình tham gia các hoạt động xã hội như hoạt động từ thiện, chiến dịch Mùa hè xanh còn không ít những thanh niên chỉ lo hưởng thụ, thờ ơ, lạnh nhạt với cả gia đình và người thân. Hàng ngày, hàng giờ các phương tiện thông tin đại chúng vẫn không ngừng nêu cao tinh thần mình vì mọi người của nhiều người và cũng không thiếu vắng những câu chuyện, những bài học đắt giá về những kẻ chỉ lo hưởng thụ, chỉ quan tâm duy nhất đến cái tôi của mình. Xã hội đã và đang không ngừng lên án những kẻ ích kỷ, vô trách nhiệm với cộng đồng và ngợi ca những con người có tấm lòng cao thượng, biết sống vì cộng đồng, điều hoà tốt nhất mối quan hệ giữa tôi và chúng ta.Xem thêm: Kể về bác gái của em và nghề nghiệp của bác Chúng ta đã rất quen thuộc với lời bài ca của thanh niên ngày nay đừng hỏi Tổ quốc đã làm gì cho ta mà phải hỏi ta đã làm gì cho Tổ quốc hôm nay. Mình vì mọi người, mọi người vì mình là chân lí đúng đắn của muôn đời. Mong muốn của cụ Nguyễn Du xưa: Bất tri tam bách dư niên hậu – Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như thiết nghĩ cũng là mong muốn của muôn đời về một xã hội mà ở đó con người và con người biết cảm thông và thương yêu nhau bằng những tình cảm nhân bản nhất.
Vanmau.edu.vn
|
Phê phán thái độ thờ ơ, lanh nhạt với con người cũng quan trọng và cần thiết như ca ngợi lòng vị tha, tình đoàn kết. Anh (chị) suy nghĩ như thế nào về ý kiến trên
Gợi ý
Từ muốn đời nay, cha ông ta đã từng khuyên răn con cháu:
Nhiễu điều phủ lấy giá gương
Người trong một nước thì thương nhau cùng
Và:
Thương người như thể thương thân.
Tất cả những lời khuyên ấy đều hướng đến một mục đích là giáo dục lòng vị tha, tình đoàn kết và tinh thần trách nhiệm đối với với cộng đồng. Song cuộc đời bao giờ cũng có hai mặt, mặt trái và mặt phải luôn cùng song song tồn tại. Bên cạnh những con người luôn biết yêu thương người khác, luôn biết sống vì mọi người vẫn còn không ít những kẻ sống vị kỷ, chỉ biết mình mà không biết đến lợi ích của cộng đồng. Chính vì lẽ đó mà phê phán thái độ thờ ơ, lạnh nhạt với con người cũng quan trọng và cần thiết như ca ngợi lòng vị tha, tình đoàn kết.
Sách Luận ngữ có câu: Kỷ sờ bất dục vật thi ư nhàn (Điều gì mình không muốn đùng làm cho người khác). Câu nói này đã đề cập đến một phương diện vô cùng quan trọng trong cách đối nhân xử thế. Đó là một quan niệm tích cực trong việc giải quyết mối quan hệ tôi và chúng ta. Xã hội chỉ thực sự tiến bộ khi mọi người biết điều hoà một cách hơp lí mối quan hệ cộng đồng này.
Lòng vị tha, tinh thần đoàn kết được thể hiện qua việc mỗi người biết sống vì mọi người. Vị tim là vì người khác, là biết chia sẻ, cảm thông và thương yêu con người bằng một tình cảm chân thành. Lòng vị tha giúp con người vượt lên trên mọi thù hận, mọi ganh ghét cá nhân để cùng sống vì lợi ích chung. Vượt lên trên những tính toán vị kỷ, con người sẽ sống cao thượng hơn, sẽ thanh thản hơn. Khi ai đó mắc lỗi với mình, người có lòng vị tha là người biết giúp người có lỗi nhận ra lỗi lầm của mình, để rồi vượt lên chính mình mà trở thành người tốt. Con người vị tha là con người có khả năng vượt lên trên mọi điều tính toán nhỏ nhoi, để sống nhân hậu hơn. Từ lòng vị tha, biết sống vì mọi người của mỗi người sẽ tạo nên một cộng đồng đoàn kết, yêu thương và giúp đờ lẫn nhauXem thêm: Hãy chứng tỏ rằng Bác Hồ sống vô cùng giản dị, thanh bạch Một cấy làm chẳng lên non
Ba cây chụm lại nên hòn núi cao.
Lịch sử đấu tranh chống giặc ngoại xâm, chống chọi với thiên tai, địch họa của nhân dân ta là những minh chứng hùng hồn và thuyết phục nhất cho chân lí này. Một dân tộc Việt Nam nhỏ bé đã chiến thắng bao lượt kẻ thù mạnh hơn gấp bội, đó là nhờ tinh thần đoàn kết của mọi lớp người trong xã hội. Xưa nhà Trần chiến thắng quân Nguyên cũng một phần nhờ lòng vị tha và tinh thần đoàn kết ấy. Hai vị tướng giỏi là Trần Quang Khải và Trần Quốc Tuấn, đã đặt lợi ích dân tộc lên trên lợi ích cá nhân, quên thù riêng mà một lòng đánh giặc. Người Việt Nam vốn rất trân trọng và luôn nêu cao lòng vị tha của mình. Hai bản Tuyên ngôn Độc lập bất hủ của dân tộc Việt Nam Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi và Tuyên ngôn Độc lập của Hồ Chí Minh) đã nêu cao tinh thần ấy. Đối với kẻ thù vẫn mở đường hiếu sinh.
Trong xã hội hiện đại với nhịp sống xoay vần đến chóng mặt này, nhiều khi, sự ích kỷ cá nhân đã lấn át lòng vị tha. Con người nhiều khi chỉ quan tâm đến lợi ích của riêng mình. Đề cao cái tôi mà quên đi cái chúng ta nên con người đã trở thành vị kỷ. Và từ đó mà họ trở thành vô tâm, vô cảm trước nỗi đau của đồng loại. Họ không còn biết xót xa trước số phận chìm nổi lênh đênh của nàng Kiều, họ vô tình đến nhẫn tâm đối với những người khốn khổ xung quanh mình. Chúng ta đã gặp không ít trên đường phố ngày nay những cảnh mua bán chụp giật, những thái độ độc ác đối với trẻ em lang thang và những người kém may mắn. Trước nỗi đau của người xung quanh, người ta vẫn thản nhiên như không. Tâm hồn con người ngày càng chai sạn và trong họ không còn lòng trắc ẩn. Đã vắng dần những niềm cảm thông, những sự san sẻ. Thái độ thờ ơ lạnh nhạt đối với cuộc sống xung quanh, chỉ quan tâm đến lợi ích của mình, vô trách nhiệm với cộng đồng sẽ dẫn con người đến sự vô tâm và tàn nhẫn. Vì mình, con người có thể giẫm đạp lên kẻ khác và đạo đức xã hội sẽ dần bị băng hoại. Vì vậy, thiết nghĩ cần phải biết phê phán thái độ thờ ơ, lạnh nhạt đối với người xung quanh một cách mạnh mẽ không kém gì việc chúng ta đã rất nhiệt tình ca ngợi lòng vị tha, tình đoàn kết. Trong truyện ngắn Đôi mắt nhà văn Nam Cao đã thể hiện rất sinh động mối quan hệ này. Ngợi ca những phẩm chất tốt đẹp của nhà văn Độ, đồng thời với việc phê phán sự vô tình, nhẫn tâm và vô trách nhiệm của vợ chồng nhà văn Hoàng. Vì thiếu lòng vị tha và sự cảm thông mà vợ chồng Hoàng không thấy được những ưu điểm đáng quý của người nông dân. Thái độ thờ ơ, lạnh nhạt và lòng vị tha, tình đoàn kết là hai mặt trái ngược nhau của vấn đề đạo đức xã hội và đều cần quan tâm. Phê phán thái độ thờ ơ, lạnh nhạt và ngợi ca lòng vị tha tinh thần đoàn kết đều cần thiết và quan trọng như nhau. Ngợi ca những điều tốt đẹp của cuộc sống để giúp con người hướng thiện nhưng cần phải thấy rõ và vạch trần những mặt tiêu cực của xã hội để con người soi mình vào đó mà thấy mình và sửa mình. Trong nghệ thuật nói chung và văn học nói riêng cần tránh thái độ ngợi ca một chiều. Nhất là trong thời đại này, khi mà nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường đang làm xã hội thay đổi rất mạnh mẽ. Sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế xã hội nhiều khi kéo theo những mặt tiêu cực về đạo đức. Quan hệ trả tiền ngay lạnh lùng của xã hội công nghiệp làm con người khô cằn hơn, đời sống tinh thần nghèo nàn hơn. Và hơn ai hết, thế hệ trẻ là những người nhạy cảm nhất, họ dễ dàng nhập cuộc song cũng dễ dàng trở thành những cỗ máy. Bên cạnh những thanh niên hăm hở nhiệt tình tham gia các hoạt động xã hội như hoạt động từ thiện, chiến dịch Mùa hè xanh còn không ít những thanh niên chỉ lo hưởng thụ, thờ ơ, lạnh nhạt với cả gia đình và người thân. Hàng ngày, hàng giờ các phương tiện thông tin đại chúng vẫn không ngừng nêu cao tinh thần mình vì mọi người của nhiều người và cũng không thiếu vắng những câu chuyện, những bài học đắt giá về những kẻ chỉ lo hưởng thụ, chỉ quan tâm duy nhất đến cái tôi của mình. Xã hội đã và đang không ngừng lên án những kẻ ích kỷ, vô trách nhiệm với cộng đồng và ngợi ca những con người có tấm lòng cao thượng, biết sống vì cộng đồng, điều hoà tốt nhất mối quan hệ giữa tôi và chúng ta.Xem thêm: Kể về bác gái của em và nghề nghiệp của bác Chúng ta đã rất quen thuộc với lời bài ca của thanh niên ngày nay đừng hỏi Tổ quốc đã làm gì cho ta mà phải hỏi ta đã làm gì cho Tổ quốc hôm nay. Mình vì mọi người, mọi người vì mình là chân lí đúng đắn của muôn đời. Mong muốn của cụ Nguyễn Du xưa: Bất tri tam bách dư niên hậu – Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như thiết nghĩ cũng là mong muốn của muôn đời về một xã hội mà ở đó con người và con người biết cảm thông và thương yêu nhau bằng những tình cảm nhân bản nhất.
Vanmau.edu.vn
|
Phải chăng thiên tài là do thiên bẩm
Gợi ý
Trên thế giới không ai là không biết đến những cái tên như: Mô-da, Lê-ô-na đờ Vanh-xi, An-đéc-xen hay Niu-tơn,… bởi những tên tuổi dó gắn liền với những bản giao hưởng, tác phẩm nghệ thuật, công trình nghiên cứu, phát minh… tuyệt vời, vĩ đại, có một không hai trên thế giới. Để có ngày đứng trên bục vinh quang của nhân loại, dưới ánh sáng chói lọi của thành công những con người kì tài, hiếm hoi ấy đã phải làm những gì? Phải chăng tài năng của họ là do thiên phú?
Thiên tài là người có tài, thông minh, giàu hiểu biết, sắc sảo trong suy nghĩ, nhạy bén trong hành động. Thiên bẩm là những đặc tính được di truyền từ bố mẹ, người thân hay có từ khi trong bụng mẹ.
Đã không ít người cho rằng thiên tài là do bẩm sinh. Họ cho rằng cha mẹ thông minh, giỏi giang thì con sinh ra sẽ sở hữu năng khiếu về một lĩnh vực nào đó được thừa hưởng từ cha mẹ. Khoa học và thực tế đã chứng minh quan niệm đó không hề sai. Mô-da và Men-đen-xơ đều sinh ra trong một gia đình nhạc sĩ; gia đình Bach là một dàn nhạc sống; Hơ-lây và Đa-nin tổ tiên có khiếu khoa học… Nhưng đó không phải là quy tắc chung, không phải lúc nào “con vua” cũng lại “làm vua”. Con của thiên tài không hẳn đã là thiên tài, con của những người nông dân ít học chân lấm tay bùn cũng có thể trở thành những bậc kì nhân. Lê-ô-na đờ Vanh-xi, danh họa bậc thầy của nền mĩ thuật thế giới là con hoang của một nhà luật học với một cô gái quê. Sinh ra trong một gia đình nghèo ở thành phố Ô-đen-xơ, cuộc sống nghèo khổ không lúc nào có đủ bánh mì để ăn, đi học lại luôn bị bạn bè chê cười vì ngoại hình xấu xí… vượt qua tất cả với ước mơ trở thành nghệ sĩ, An-đéc-xen đã lang thang lên thênh phố Co-pen-ha-ghen đóng những vai kịch tầm thường, làm quét dọn… Cuối cùng õng đã trở thành người viết truyện cổ tích nổi tiếng cho thiếu nhi. Có được điều đó là do ông có nghị lực phi thường và niềm say mê sáng tạo nghệ thuật chứ không phải do bẩm sinh. Còn rất nhiều trường hợp khác nữa để chứng minh cho điều ấy.Xem thêm: Kể một kỉ niệm khó quên về tình bạn
Như vậy, thiên tài không chỉ do bẩm sinh mà còn do sự cố gắng, nỗ lực, tinh thần quyết tâm học hỏi, niềm mê say, nghị lực phi thường… của mỗi con người. Mỗi thành công dù lớn hay nhỏ đều được làm nên từ mồ hôi, công sức, từ sự vất vả rèn tập. Không phải ai cũng có thể trở thành thiên tài. Nhưng cần nhớ rằng ông cha ta đã từng nói “Cần cù bù thông minh”. Nếu chỉ dựa vào chỉ số IQ hay gen di truyền từ bố mẹ mà thiếu sự miệt mài rèn tập và niềm say mê thì ít ai có thể trở thành người tài. Bẩm sinh giôhg như một viên đá quý nhưng thô nhám, muôn trở thành viên ngọc hay viên pha lê trong suốt phải trải qua quá trình “gọt giũa”, “chế tạo tinh xảo” của những trải nghiệm và nỗ lực. Êdison cũng đã từng khẳng định: “Thiên tài chỉ có một phần trăm còn chín mươi chín phần trăm là mồ hôi nước mắt”.
Thi sĩ Su-len-đi đã nói rằng: “Nếu thiên tài là do bẩm sinh thì không có sự bất công nào của tạo hóa lớn hơn thế”. Và thượng đế vẫn luôn công bằng.
Vanmau.edu.vn
|
Is genius due to natural nature?
Suggest
In the world, there is no one who does not know names such as: Moda, Leona de Van-xi, Andersen or Newton,... because those names are associated with the manuscripts. Influences, works of art, research works, inventions... wonderful, great, unique in the world. To one day stand on the podium of humanity's glory, under the bright light of success, what did those rare, talented people have to do? Are their talents natural?
A genius is a person who is talented, intelligent, knowledgeable, sharp in thinking, and sharp in action. Natural gifts are characteristics that are inherited from parents or relatives or are present in the mother's womb.
Many people believe that genius is born. They believe that if parents are smart and talented, their children will be born with a talent in a certain field inherited from their parents. Science and reality have proven that concept is not wrong. Moda and Mendenz were both born into a family of musicians; the Bach family is a living orchestra; Ho-lay and Danin's ancestors had scientific aptitude... But that is not a general rule, the "king's son" does not always "be the king". Children of geniuses are not necessarily geniuses, children of uneducated farmers can also become amazing people. Leona de Vanxi, a famous master painter of the world's fine arts, was the illegitimate son of a lawyer and a country girl. Born into a poor family in Odenz city, living a poor life, never having enough bread to eat, going to school and always being laughed at by friends because of my ugly appearance... overcame everything with Dreaming of becoming an artist, Andersen wandered around the streets of Copenhagen, playing trivial theater roles, working as a cleaner... Finally, he became a famous fairy tale writer for Children. That's because he has extraordinary energy and passion for creating art, not because he was born. There are many other cases to prove that. See more: Tell an unforgettable memory of friendship
Thus, genius is not only due to birth but also due to the effort, determination to learn, passion, extraordinary energy... of each person. Every success, big or small, is made from sweat, effort, and hard work. Not everyone can become a genius. But we need to remember that our ancestors once said "Hard work compensates for intelligence". If we only rely on IQ or genetics from our parents without diligent practice and passion, few people can become talented people. Born like a precious stone but rough, to become a pearl or transparent crystal must go through the "sharpening" and "finely crafted" process of experience and effort. Edison also once asserted: "Genius is only one percent and ninety-nine percent is sweat and tears."
The poet Shulendi said: "If genius is born, then there is no greater injustice of creation." And God is always fair.
Vanmau.edu.vn
|
Phải chăng ‘Im lặng là vàng’?
Hướng dẫn
Có thể triển khai bài viết theo một số ý sau:
– Giải thích:
+ Im lặng: sự nín nhịn, chịu đựng trong những tình huống giao tiếp căng thẳng, không tham gia vào những cuộc cãi vã không cần thiết.
+ Câu nói dân gian đưa ra lời khuyên: Trong nhiều tình huống của cuộc sống, sự im lặng của mỗi người là điều cực kì quý giá.
– Bàn luận, đánh giá:
+ Câu tục ngữ trước hết là lời khuyên quý báu, nhắc nhở mỗi con người cần biết cách im lặng, tránh nhữngva chạm không cần thiết. Sự im lặng cũng mang nghĩa cần thận trọng và chín chắn, suy nghĩ nhiều hơn vì "người ta cần một năm để học nói nhưng cần mười năm để học cách im lặng".
+ Tuy nhiên, có phải trong tất cả các tình huống, sự im lặng đều là "vàng"? Có nên im lặng khi đối diện trước cái xấu, cái ác; có nên im lặng khi trong các cuộc tranh luận, mình có những suy nghĩ chín chắn, sâu sắc trước vấn đề đó; có nên im lặng khi chứng kiến những tình huống cẩn sự chia sẻ bằng những lời nói, hành động,… Với những tình huống này, sự im lặng có khi không phải là vàng mà lại là sự đánh mất mình, thoả hiệp với cái ác.
+ Như vậy, cần nhận ra được tình huống nào thì cần im lặng, và tình huống nào thì cần thể hiện bản lĩnh bằng lời nói, hành động.
– Liên hệ:
Lời nói và sự im lặng là những biểu hiện bình thường của mỗi con người, nhưng nếu biết thể hiện đúng lúc, đúng chỗ thì cả lời nói và sự im lặng đều có thể là "vàng". Đó là bài học thấm thìa cho mỗi người.
Nguồn: thêm: Phân tích giá trị nhân văn cao cả của truyện ngắn "Một con người ra đời" của Gorky
|
Is it true that 'Silence is golden'?
Instruct
The article can be developed according to the following ideas:
- Explain:
+ Silence: holding back, enduring in stressful communication situations, not participating in unnecessary arguments.
+ Folk saying gives advice: In many situations in life, each person's silence is extremely valuable.
– Discuss and evaluate:
+ The proverb is first of all valuable advice, reminding every person to know how to be silent and avoid unnecessary collisions. Silence also means the need to be cautious and mature, to think more because "people need one year to learn to speak but ten years to learn to be silent".
+ However, is silence in all situations "golden"? Should we stay silent when facing evil and evil? Should I stay silent when in debates I have mature, deep thoughts about that issue; Should we be silent when witnessing situations that require sharing through words, actions, etc. In these situations, silence is sometimes not golden but is a loss of self, a compromise with what is evil.
+ Thus, it is necessary to recognize which situations require silence, and which situations require showing bravery through words and actions.
- Contact:
Speech and silence are normal expressions of every human being, but if you know how to express them at the right time and in the right place, both speech and silence can be "golden". That is a lesson for everyone.
Source: more: Analysis of the noble humanistic value of Gorky's short story "A Man is Born".
|
Phải chăng “Bạn là người đến với ta khi mọi người đã bỏ ta đi”
Gợi ý
Tình bạn được ví như oxy và chocolate, mỗi người cần nó để sống và để yêu cuộc sống. Tình bạn quan trọng và cần thiết đối với con người như vậy nhưng chưa hẳn ai cũng hiểu được giá trị và biết trân trọng tình bạn. Một tình bạn thực sự sẽ được kiểm chứng qua thời gian, qua những khó khăn, gian khổ mà ta gặp trong cuộc sống. Bạn chính là người sẵn sàng “đến với ta khi mọi người đã bỏ ta đi”.
Những câu danh ngôn về tình bạn đã đưa ra rất nhiều lời khuyên để chúng tạ hiểu được giá trị của tình bạn và biết nâng niu, trân trọng nó. Bài viết không có ý định nói nhiều đến những lý thuyết chung mà mỗi chúng ta đều đọc được ớ đâu đó về tình bạn. Tôi xin được kể một câu chuyện giản dị vô cùng mà để lại biết bao suy ngẫm trong mỗi chúng ta khi nghĩ về tình bạn.
Chuyện kể rằng: “ở một ngôi trường nọ, có một lớp học toàn học sinh “cá biệt”, gọi là cá biệt cá thì không hẳn nhưng lớp đó có nhiều học sinh ngang bướng, quậy phá, lại có nhiều học sinh con của những gia đình mà các thầy cô cho là “thành phần bất hảo”… Không những là các thầy cô không muốn dạy lớp này vì cái tiếng xấu đó, mà thực tế cho thấy là họ cũng không chịu nổi việc các học sinh nói chuyện, đánh nhau trong giờ học…
Đến một ngày, một thầy giáo trẻ mới được phân công về trường, nhà trường phân công ngay cho thầy về dậy lớp đó.
Đã nghe tiếng xấu của lớp học này, ngay buổi đầu tiên vào lớp, thầy đã nói:
– Các bạn trẻ, tôi đến đây để quản lý lớp chúng ta. Nhưng tôi không thể tự làm điều đó được. Cho nên tôi cần sự giúp đỡ của các bạn.
Rồi thầy giải thích rằng, trong một lớp học bao giờ cũng cần quy tắc, và thầy bảo các học sinh hãy tự đặt ra quy tắc để tuân theo.Xem thêm: Bình giảng đoạn thơ sau trong bài thơ ''Bên kia sông Đuống" (Hoàng Cầm): Em ơi buồn làm chi... Sao xót xa như rụng bàn tay“Những người bạn trẻ” bắt đầu suy nghĩ rồi đưa ra một loạt quy tắc:
– Không được ãn cắp!
– Phải đến lớp đúng giờ…
Chẳng mấy chốc mà đã có đến mười quy tắc. Và bọn trẻ đều hứa sẽ tuân thú chặt chẽ, ai không làm sẽ bị phạt mười roi lên lưng mà chỉ được mặc áo sơ mi chứ không được mặc áo khoác.
Mọi việc ổn trong vòng 2 – 3 ngày. Đến ngày tiềp theo thì Tom, cậu bé cao lớn và nghịch, bướng nhất lớp tỏ ra rất cáu giận, kêu ầm lên rằng có ai ăn cắp cái bánh – một phần bữa trưa của cậu ta.
Sau một hồi điều tra, bàn luận, mọi người đã kết luận rằng bé Tim – cậu bé lặng lẽ nhất lớp – đã ăn trộm cái bánh ấy. Mọi người đều tẩy chay và xa lánh Tim.
Tim mặc một cái áo khoác rộng thùng thình, dài đến tận đầu gối. Cậu bé năn nỉ:
– Em đã ăn trộm. Em có lỗi. Em sẵn sàng chịu đánh. Nhưng xin thầy để em mặc áo.
Thầy giáo không đồng ý. Thầy nhắc Tim nhớ những nguyên tắc đã đặt ra và bảo Tim hãy chịu hình phạt “như một người đàn ông”.
Đứa bé chậm chạp cởi áo khoác. Khi đó, thầy giáo thấy rằng cậu bé không mặc áo sơ mi hay bất kì cái gì khác bên trong áo khoác.
Ngạc nhiên, thầy hỏi tại sao Tim không mặc áo sơ mi. Tim khóc:
– Em chỉ có một cái áo sơ mi thôi. Mẹ em giặt nó chưa khô nên em phải mượn áo khoác của anh trai em để mặc… Bố em mất rồi, mẹ không có tiền… em rất đói…em đã ăn trộm của bạn Tom… em xin lỗi… Dù rất xúc động nhưng hình phạt vẫn là hình phạt và thầy giáo trẻ biết rằng mình phải nghiêm khắc.
Nhưng trước khi cái roi đầu tiên chạm vào người Tim, thì Tom đứng bật dậy:
– Trong số các quy tắc, không có quy tắc nào nói rằng em không thể chịu hình phạt thay Tim, đúng không ạ?Xem thêm: "Đọc “Hai đứa trẻ”, thấy bận bịu vô hạn về một tấm lòng quê hương êm mát và sâu kín” (Nguyễn Tuân). Anh (chị) suy nghĩ gì về ý kiến trên? Chứng minh qua tác phẩm "Hai đứa trẻ” của Thạch LamTom cởi áo khoác đứng che cho Tim trước mặt cả lớp.
Một cách ngần ngại, thầy giáo vẫn phải giơ cao chiếc roi. Nhung bạn sẽ không thể tưởng tượng được, là khi cái roi đầu tiên chạm vào lưng Tom, cái roi bị gẫy làm đôi.
Bé Tim ôm chặt lấy Tom, thì thầm xin lỗi và nói rằng bé sẽ yêu mến Tom mãi mãi…”
Câu chuyện trên thật cảm động phải không các bạn? Tim đã tìm thấy tình bạn đích thực của mình. Trong khi cả lớp chê cười và xa lánh Tim thì Tom đã đứng ra chịu hình phạt cùng Tim. Và chắc chắn họ sẽ luôn yêu quý nhau bởi họ hiểu: “Bạn là người đến với ta khi mọi người đã bỏ ta đi”.
Để có được tình bạn đã là điều khó khăn, như câu chuyện của Tom và Tim chẳng hạn, nhưng để giữ gìn tình bạn lại là điều khó khăn hơn nữa. Tất cả chúng ta, khi đã và đang sở hữu một tình bạn đích thực, chúng ta hãy học cách giữ gìn và nâng niu tình bạn của mình.
Tình bạn sẽ bền vững hơn khi cùng chia sẻ những sở thích, bên nhau trong những vui buồn của cuộc sống.
Hãy cho người bạn của mình biết bạn ấy có bạn ấy có ý nghĩa với bạn như thế nào. Nếu bạn ăn nói không khéo hãy bày tỏ bằng cách tặng bạn ấy một món quà nhỏ, một thứ gì đó mà bạn ấy thích. Bên cạnh những món quà vật chất, hãy làm cho bạn ấy những gì bạn ấy đã làm cho bạn. Chúc mừng khi thấy bạn ấy có chuyện vui, hãy nói rằng bạn ấy rất xứng đáng với những chiến thăng của mình. Ai cũng muốn được khích lệ mà, phải không?
Một người bạn thực sự cần phải biết tôn trọng những mô’i quan hệ khác cũng như những lúc “mình ta với ta" của bạn. Thậm chí là bạn thân nhất, nhưng không có nghĩa là bạn phải ngồi cạnh bạn ấy suốt các buổi học hay cùng đi chơi tất cả những buổi chiều. Nếu bạn quá đòi hỏi sự quan tâm từ bạn bè, bạn ấy có thể sẽ bực bội vì giông như làm nghĩa vụ. Bên cạnh đó, nếu bạn cứ bám lấy bạn ấy quá chặt, bạn sẽ bỏ lỡ làm những cơ hội làm quen bạn mới.Xem thêm: Tưởng tượng một cuộc thi sắc đẹp của các loài hoa và trong vai một loài hoa, em hãy kể lại cuộc thi đó Không nhất thiết là bạn thân thì phải cùng mọi quan điểm. Những hiểu lầm và tranh cãi là hiển nhiên, hãy trút hết bực bội ra ngoài, đừng tích trữ trong lòng. Nếu việc bạn phản đối là chính đáng, hãy nhân mạnh một cách cụ thể, khéo léo theo lẽ phải. Bạn của bạn cũng có quyền nổi điên lên với bạn nếu bạn làm lộ bí mật của bạn ấy, bỏ bạn ấy khi bạn ấy cần hay làm vỡ món đồ mà bạn mượn bạn ấy. Hãy xin lỗi thay vì có hành động chống chế, và đừng để điều đó xảy ra lần nữa. Luôn nhớ rằng, các bạn là bạn, không phải là nhân bản, không thể lúc nào cũng nhìn nhận sự việc giông nhau. Hãy cảm thông, thẳng thắn, các bạn vẫn là bạn dù có điều gì xảy ra.
Cuộc sống có nhiều thay đổi. Người chuyển từ thành phố này đến thành phố khác, người đi học xa… Điều đó không có nghĩa là người đó đã ra khỏi cuộc đời bạn nếu bạn vẫn giữ liên lạc. Gọi điện, viết thư, email, nhớ ngày sinh nhật, chia sẻ tin tức, đi thăm… Khoảng cách sẽ không làm một tình bạn chân thành bị ngăn cách.
Bạn thấy không? Để có được một tình bạn đích thực và giữ gìn tình bạn ấy không phải là điều đơn giản. Nhưng, như thế không có nghĩa là khó khăn thì chúng ta sẽ nản lòng khi kết bạn. Chúng ta không thể sống thiếu tình bạn cũng như không thế sống mà không có oxy. Một người bạn chân thành là người bạn sẵn sàng đến với ta cho dù tất cả mọi người có bỏ ta đi. Chúc các bạn luôn có những tình bạn đẹp của riêng mình!
Vanmau.edu.vn
|
Phải chăng “Bạn là người đến với ta khi mọi người đã bỏ ta đi”
Gợi ý
Tình bạn được ví như oxy và chocolate, mỗi người cần nó để sống và để yêu cuộc sống. Tình bạn quan trọng và cần thiết đối với con người như vậy nhưng chưa hẳn ai cũng hiểu được giá trị và biết trân trọng tình bạn. Một tình bạn thực sự sẽ được kiểm chứng qua thời gian, qua những khó khăn, gian khổ mà ta gặp trong cuộc sống. Bạn chính là người sẵn sàng “đến với ta khi mọi người đã bỏ ta đi”.
Những câu danh ngôn về tình bạn đã đưa ra rất nhiều lời khuyên để chúng tạ hiểu được giá trị của tình bạn và biết nâng niu, trân trọng nó. Bài viết không có ý định nói nhiều đến những lý thuyết chung mà mỗi chúng ta đều đọc được ớ đâu đó về tình bạn. Tôi xin được kể một câu chuyện giản dị vô cùng mà để lại biết bao suy ngẫm trong mỗi chúng ta khi nghĩ về tình bạn.
Chuyện kể rằng: “ở một ngôi trường nọ, có một lớp học toàn học sinh “cá biệt”, gọi là cá biệt cá thì không hẳn nhưng lớp đó có nhiều học sinh ngang bướng, quậy phá, lại có nhiều học sinh con của những gia đình mà các thầy cô cho là “thành phần bất hảo”… Không những là các thầy cô không muốn dạy lớp này vì cái tiếng xấu đó, mà thực tế cho thấy là họ cũng không chịu nổi việc các học sinh nói chuyện, đánh nhau trong giờ học…
Đến một ngày, một thầy giáo trẻ mới được phân công về trường, nhà trường phân công ngay cho thầy về dậy lớp đó.
Đã nghe tiếng xấu của lớp học này, ngay buổi đầu tiên vào lớp, thầy đã nói:
– Các bạn trẻ, tôi đến đây để quản lý lớp chúng ta. Nhưng tôi không thể tự làm điều đó được. Cho nên tôi cần sự giúp đỡ của các bạn.
Rồi thầy giải thích rằng, trong một lớp học bao giờ cũng cần quy tắc, và thầy bảo các học sinh hãy tự đặt ra quy tắc để tuân theo.Xem thêm: Bình giảng đoạn thơ sau trong bài thơ ''Bên kia sông Đuống" (Hoàng Cầm): Em ơi buồn làm chi... Sao xót xa như rụng bàn tay“Những người bạn trẻ” bắt đầu suy nghĩ rồi đưa ra một loạt quy tắc:
– Không được ãn cắp!
– Phải đến lớp đúng giờ…
Chẳng mấy chốc mà đã có đến mười quy tắc. Và bọn trẻ đều hứa sẽ tuân thú chặt chẽ, ai không làm sẽ bị phạt mười roi lên lưng mà chỉ được mặc áo sơ mi chứ không được mặc áo khoác.
Mọi việc ổn trong vòng 2 – 3 ngày. Đến ngày tiềp theo thì Tom, cậu bé cao lớn và nghịch, bướng nhất lớp tỏ ra rất cáu giận, kêu ầm lên rằng có ai ăn cắp cái bánh – một phần bữa trưa của cậu ta.
Sau một hồi điều tra, bàn luận, mọi người đã kết luận rằng bé Tim – cậu bé lặng lẽ nhất lớp – đã ăn trộm cái bánh ấy. Mọi người đều tẩy chay và xa lánh Tim.
Tim mặc một cái áo khoác rộng thùng thình, dài đến tận đầu gối. Cậu bé năn nỉ:
– Em đã ăn trộm. Em có lỗi. Em sẵn sàng chịu đánh. Nhưng xin thầy để em mặc áo.
Thầy giáo không đồng ý. Thầy nhắc Tim nhớ những nguyên tắc đã đặt ra và bảo Tim hãy chịu hình phạt “như một người đàn ông”.
Đứa bé chậm chạp cởi áo khoác. Khi đó, thầy giáo thấy rằng cậu bé không mặc áo sơ mi hay bất kì cái gì khác bên trong áo khoác.
Ngạc nhiên, thầy hỏi tại sao Tim không mặc áo sơ mi. Tim khóc:
– Em chỉ có một cái áo sơ mi thôi. Mẹ em giặt nó chưa khô nên em phải mượn áo khoác của anh trai em để mặc… Bố em mất rồi, mẹ không có tiền… em rất đói…em đã ăn trộm của bạn Tom… em xin lỗi… Dù rất xúc động nhưng hình phạt vẫn là hình phạt và thầy giáo trẻ biết rằng mình phải nghiêm khắc.
Nhưng trước khi cái roi đầu tiên chạm vào người Tim, thì Tom đứng bật dậy:
– Trong số các quy tắc, không có quy tắc nào nói rằng em không thể chịu hình phạt thay Tim, đúng không ạ?Xem thêm: "Đọc “Hai đứa trẻ”, thấy bận bịu vô hạn về một tấm lòng quê hương êm mát và sâu kín” (Nguyễn Tuân). Anh (chị) suy nghĩ gì về ý kiến trên? Chứng minh qua tác phẩm "Hai đứa trẻ” của Thạch LamTom cởi áo khoác đứng che cho Tim trước mặt cả lớp.
Một cách ngần ngại, thầy giáo vẫn phải giơ cao chiếc roi. Nhung bạn sẽ không thể tưởng tượng được, là khi cái roi đầu tiên chạm vào lưng Tom, cái roi bị gẫy làm đôi.
Bé Tim ôm chặt lấy Tom, thì thầm xin lỗi và nói rằng bé sẽ yêu mến Tom mãi mãi…”
Câu chuyện trên thật cảm động phải không các bạn? Tim đã tìm thấy tình bạn đích thực của mình. Trong khi cả lớp chê cười và xa lánh Tim thì Tom đã đứng ra chịu hình phạt cùng Tim. Và chắc chắn họ sẽ luôn yêu quý nhau bởi họ hiểu: “Bạn là người đến với ta khi mọi người đã bỏ ta đi”.
Để có được tình bạn đã là điều khó khăn, như câu chuyện của Tom và Tim chẳng hạn, nhưng để giữ gìn tình bạn lại là điều khó khăn hơn nữa. Tất cả chúng ta, khi đã và đang sở hữu một tình bạn đích thực, chúng ta hãy học cách giữ gìn và nâng niu tình bạn của mình.
Tình bạn sẽ bền vững hơn khi cùng chia sẻ những sở thích, bên nhau trong những vui buồn của cuộc sống.
Hãy cho người bạn của mình biết bạn ấy có bạn ấy có ý nghĩa với bạn như thế nào. Nếu bạn ăn nói không khéo hãy bày tỏ bằng cách tặng bạn ấy một món quà nhỏ, một thứ gì đó mà bạn ấy thích. Bên cạnh những món quà vật chất, hãy làm cho bạn ấy những gì bạn ấy đã làm cho bạn. Chúc mừng khi thấy bạn ấy có chuyện vui, hãy nói rằng bạn ấy rất xứng đáng với những chiến thăng của mình. Ai cũng muốn được khích lệ mà, phải không?
Một người bạn thực sự cần phải biết tôn trọng những mô’i quan hệ khác cũng như những lúc “mình ta với ta" của bạn. Thậm chí là bạn thân nhất, nhưng không có nghĩa là bạn phải ngồi cạnh bạn ấy suốt các buổi học hay cùng đi chơi tất cả những buổi chiều. Nếu bạn quá đòi hỏi sự quan tâm từ bạn bè, bạn ấy có thể sẽ bực bội vì giông như làm nghĩa vụ. Bên cạnh đó, nếu bạn cứ bám lấy bạn ấy quá chặt, bạn sẽ bỏ lỡ làm những cơ hội làm quen bạn mới.Xem thêm: Tưởng tượng một cuộc thi sắc đẹp của các loài hoa và trong vai một loài hoa, em hãy kể lại cuộc thi đó Không nhất thiết là bạn thân thì phải cùng mọi quan điểm. Những hiểu lầm và tranh cãi là hiển nhiên, hãy trút hết bực bội ra ngoài, đừng tích trữ trong lòng. Nếu việc bạn phản đối là chính đáng, hãy nhân mạnh một cách cụ thể, khéo léo theo lẽ phải. Bạn của bạn cũng có quyền nổi điên lên với bạn nếu bạn làm lộ bí mật của bạn ấy, bỏ bạn ấy khi bạn ấy cần hay làm vỡ món đồ mà bạn mượn bạn ấy. Hãy xin lỗi thay vì có hành động chống chế, và đừng để điều đó xảy ra lần nữa. Luôn nhớ rằng, các bạn là bạn, không phải là nhân bản, không thể lúc nào cũng nhìn nhận sự việc giông nhau. Hãy cảm thông, thẳng thắn, các bạn vẫn là bạn dù có điều gì xảy ra.
Cuộc sống có nhiều thay đổi. Người chuyển từ thành phố này đến thành phố khác, người đi học xa… Điều đó không có nghĩa là người đó đã ra khỏi cuộc đời bạn nếu bạn vẫn giữ liên lạc. Gọi điện, viết thư, email, nhớ ngày sinh nhật, chia sẻ tin tức, đi thăm… Khoảng cách sẽ không làm một tình bạn chân thành bị ngăn cách.
Bạn thấy không? Để có được một tình bạn đích thực và giữ gìn tình bạn ấy không phải là điều đơn giản. Nhưng, như thế không có nghĩa là khó khăn thì chúng ta sẽ nản lòng khi kết bạn. Chúng ta không thể sống thiếu tình bạn cũng như không thế sống mà không có oxy. Một người bạn chân thành là người bạn sẵn sàng đến với ta cho dù tất cả mọi người có bỏ ta đi. Chúc các bạn luôn có những tình bạn đẹp của riêng mình!
Vanmau.edu.vn
|
Phải chăng “Một điều nhịn, chín điều lành”? Viết đoạn văn trình bày suy nghĩ của anh (chị)
Gợi ý
Nhân dân ta từ xưa đến nay luôn coi trọng hoà khí “Dĩ hoà vi quý”. Vì vậy, trước những sự xích mích, trước những điều bực bội, dân gian thường nhắc nhở nhau: “Một điều nhịn, chín điều lành”.
“Một” và “chín” chỉ là những con số ước lệ, chúng thể hiện quan niệm của dân gian về mối quan hệ giữa tính nhẫn nhịn, và sự bình yên: nếu biết nhẫn nhịn một chút thì sẽ có được hoà khí, sự yên bình lâu dài. ý cả câu khuyên con người nên bình tĩnh, biết nhẫn nhịn, tránh nóng nảy để giữ hoà khí “lành”. Ở đây, ta cần hiểu “nhịn” không có nghĩa là thua kém, mà là nhường nhịn, im lặng, lùi một bước; nhịn khi người khác không đủ bình tĩnh, tỉnh táo. Trong cuộc sống, chỉ có kẻ tầm thường, tiểu nhân mới không biết nhường nhịn, hay so đo, chấp vặt. Bạn đang đi ngoài đường, bất chợt có người sấn sổ lại mắng bạn tới tấp vì những lí do bạn không hiểu nổi. Kẻ tầm thường sẽ nóng nảy đối lại, đôi bên to tiếng không ai chịu ai có thể xảy ra xô xát. Người biết nhẫn nhịn sẽ bình tĩnh chờ người kia bình tĩnh lại hỏi đầu đuôi sự việc tìm ra những nhầm lẫn để giải quyết. Làm như vậy không những tránh được xô xát mà còn giành được sự tôn trọng vị nể của người khác. Nhưng “nhịn” cũng không có nghĩa là nhu nhược, hèn nhát, khi cần vẫn phải biết đấu tranh để thắng cái ác, cái phi lí. Trong cơ quan, công sở, là nhân viên biết rõ những hành vi phi pháp tham ô, nhận hối lộ của cấp trên, sẽ có người im lặng không dám tố cáo. Đó là biểu hiện của sự nhu nhược, hèn nhát. “Nhịn” như vậy chẳng những không lành cho bản thân về lâu dài mà còn để hoạ cho xã hội. Lại có khi, trong cuộc sống, bạn bị một người khác, một thế lực khác không chế về mặt nào đó chẳng hạn như tống tiền, bạo lực gia đình,… nếu bạn im lặng, không dám tố cáo, đấu tranh thì bạn sẽ phải gánh chịu những hậu quả thật tồi tệ. Tình cảnh đất nước ta trong một thời gian dài lịch sử cũng là một minh chứng sinh động cho điều này. Giặc phương Bắc xâm lược, đô hộ hơn một ngàn năm, thực dân Pháp, đế quốc Mĩ xâm chiếm áp bức, bóc lột,… nếu dân ta cứ nuốt nhục mà không đứng dậy khởi nghĩa, đánh đuổi lũ xâm lăng thì ngày nay hỏi nước ta sẽ đi đến đâu? Vậy là, “Một điều nhịn, chín điều lành” nhưng cần hiểu rõ bản chất đích thực của từ “nhịn” ở đây để tránh những điều đáng tiếc.Xem thêm: Trong phần 2 của bản Tuyên ngôn, tác giả đã lập luận như thế nào để khẳng định quyền độc lập tự do của nước Việt Nam ta?Vanmau.edu.vn
|
Is it true that “One abstinence, nine good deeds”? Write a paragraph presenting your thoughts
Suggest
Our people from ancient times to present have always valued harmony, "Peace is precious". Therefore, in the face of conflicts and frustrations, people often remind each other: "One thing to endure, nine good things."
“One” and “nine” are just approximate numbers, they express the folk concept of the relationship between patience and peace: if you know how to be a little patient, you will have peace. lasting peace. The whole sentence advises people to stay calm, be patient, and avoid being hot-tempered to maintain "good" peace. Here, we need to understand that "to endure" does not mean to be inferior, but to yield, to be silent, to take a step back; endure when others are not calm and alert enough. In life, only ordinary people and petty people do not know how to yield, or compare and accept petty things. You are walking on the street, suddenly someone stops and scolds you for reasons you don't understand. Ordinary people will be hot-tempered, and both sides will raise their voices and no one will agree, causing a fight to break out. People who know how to be patient will calmly wait for the other person to calm down and ask about the situation to find out the confusion to resolve it. Doing so not only avoids conflicts but also wins the respect of others. But "forbearance" does not mean being weak or cowardly. When necessary, we still have to know how to fight to overcome evil and irrationality. In an agency or office, as an employee who knows clearly about the illegal acts of embezzlement and bribery of their superiors, there will be people who remain silent and do not dare to denounce them. That is a sign of weakness and cowardice. "Fasting" like that is not only bad for yourself in the long run, but also harmful to society. Sometimes, in life, you are controlled in some way by another person, another force, such as blackmail, domestic violence, etc. If you stay silent, do not dare to denounce or fight, you will will suffer terrible consequences. The situation of our country over a long period of history is also a vivid testament to this. The Northern invaders invaded and dominated for more than a thousand years, the French colonialists, the American imperialists invaded, oppressed, exploited,... if our people had continued to swallow their humiliation without rising up and expelling the invaders, today would be the day. Where will our country go? So, "One thing to abstain from, nine good things to do" but it is necessary to clearly understand the true nature of the word "forbearance" here to avoid unfortunate things. See more: In part 2 of the Declaration, the author argued How to affirm the independence and freedom of our country Vietnam?Vanmau.edu.vn
|
Phố em còn nhiều người thiếu ý thức giũ gìn vệ sinh môi trường. Em đã làm gì để thay đổi điều đó
Gợi ý
Mưa xuống, đường phố nhà em lại ngập tràn một màu nước hến. Trôi trên “dòng sông” đó nào là túi bóng, nào là gốc rau, một thế giới rác. Chúng thi nhau bơi lượn như một cuộc thi đang tìm kẻ vô địch. Điều đó là do phố em còn có nhiều người xả rác bừa bãi mặc dù vẫn có các cô chú công nhân môi trường hàng ngày đi gom rác. Nhà trên đổ xuống nhà dưới, nhà dưới đổ xuống nhà dưới nữa. Cứ như vậy rác tha hồ mà đi du lịch. Bao cuộc cãi lộn cũng diễn ra tại đây. Em chỉ là một học sinh tiểu học, chẳng biết phải làm sao bây giờ nhưng cũng cố thử một lần xem sao. Ngày chủ nhật được nghỉ học, các gia đình cũng không phải đi làm, em liền mạnh dạn đến từng nhà nhắc mọi người bỏ rác đúng giờ và đúng nơi quy định.
Vanmau.edu.vn
Xem thêm: Kể lại câu chuyện Người bán quạt may mắn trả lời các câu hỏi sau: a. Bà lão bán quạt gặp ai và phàn nàn chuyện gì? b. Ông vương Hi Chi viết chữ vào những chiếc quạt để làm gì? c. Vì sao mọì người đua nhau đến mua quạt
|
There are many people in my street who lack awareness of environmental hygiene. What did I do to change that?
Suggest
When it rains, my street is filled with the color of mussel water. Floating on that "river" are plastic bags, vegetable stumps, a world of trash. They swam around like a competition to find a champion. That's because my street still has many people littering, even though there are still environmental workers who collect trash every day. The upper house fell onto the lower house, and the lower house collapsed onto the lower house. Just like that, you can travel freely. Many quarrels also took place here. I'm just an elementary school student, I don't know what to do now, but I'll give it a try. On Sunday, there was no school and families didn't have to go to work. I boldly went to each house to remind everyone to put their trash away on time and in the right place.
Vanmau.edu.vn
See more: Retell the story of the lucky fan seller answer the following questions: a. Who did the old lady selling fans meet and what did she complain about? b. Why did King Hi Chi write words on the fans? c. Why do people rush to buy fans?
|
Qua bài ca dao: Gió đưa cành trúc la đà. Hãy nêu nét đẹp của bức tranh kinh thành xưa
Gợi ý
Bài ca dao Gió đưa cành trúc la đà là một bức tranh tuyệt đẹp tả cành mùa thu vào buổi sáng sớm nơi kinh thành Thăng Long. Mỗi câu thơ là một cảnh đẹp được chấm phá qua ngòi bút đặc sắc của các tác giả dân gian nhằm ca ngợi cảnh đẹp quê hương:
Gió đưa cành trúc la đà,
Tiếng chuông Trấn Vũ canh gà Thọ Xương
Mịt mùng khói toả ngàn sương,
Nhịp cầu Yên Thái mặt gương Tây Hồ.
Ca dao dân ca xưa và kể cả không ít những nhà thơ đã tả nhiều về vẻ đẹp thanh bình kinh thành Thăng Long. Cảnh mùa thu thật đẹp. Gió nhẹ nhẹ đủ làm gợn sóng mặt Hồ Tây, bên bờ hồ liễu rủ biêng biếc. Câu thơ mở đầu cho thấy gió rất nhẹ, gió không thổi mà chỉ đưa nhẹ nhàng làm đung đưa những cành trúc rậm rạp la đà sát mặt đất. Cành trúc được làn gió thu trong trẻo, mát lành vuốt ve êm dịu, cùng với gió cành trúc khẽ lay động bay cùng chiều gió.
Gió đưa cành trúc la đà
Cảnh đẹp thật gợi cảm, gợi tình trong khí thu mát mẻ trong lành. Câu thơ có màu xanh của trúc, khe khẽ của gió và đương nhiên khí thu, tiết thu, bầu trời khoáng đạt, những cánh diều vi vu trên không, đằng sau những cành trúc la đà là tiếng oanh vàng thánh thót. Xem thêm: Trình bày một số đặc điểm cơ bản của văn bản văn học Mùa thu câu cá – bài thơ nổi tiếng tả cảnh sắc mùa thu nơi đồng bằng Bắc Bộ của Nguyễn Khuyến cũng có gió nhẹ làm mặt ao lăn tăn, chiếc lá thì khẽ đưa vèo. Còn Đỗ Phủ thì Hai cái oanh vàng kêu liễu biếc. Đó chính là những tín hiệu mùa thu.
Nếu như ta chỉ cảm nhận bằng thị giác là chính sau những cành trúc la đà mặt đất thì câu thơ thứ hai lại là động là âm thanh.
Tiếng chuông Trấn Vũ canh gà Thọ Xương
Đây là thủ pháp quen thuộc lấy xa tả gần, lấy động tả tĩnh. Xa xa văng vẳng tiếng chuông Trấn Vũ êm êm gây không khí rộn ràng náo động. Tiếng gà tàn canh Thọ Xương vọng tới. Tiếng chuông ngân vang hoà cùng tiếng gà gáy le te. Âm thanh như tan ra hoà cùng đất trời sương khói mùa thu. Trong làn sương khói, ánh sáng đêm thu bao phủ tràn khắp mọi nẻo, nhịp chuông vang vọng cùng gà gáy như làm cho mọi vật càng mơ màng thơ mộng hơn. Cuộc sống đang say tràn trong niềm vui háo hức:
Mịt mùng khói tỏa ngàn sương,
Khói toả mịt mù được đảo lại mịt mù khói toả. Thủ pháp nghệ thuật đảo ngữ làm tăng sự huyền ảo lung linh của cảnh vật, của cuộc sống. Mặt đất một màu trắng mờ, do màn sương bao phủ. Nhìn cận cảnh hay viễn cảnh đều có cảm giác như mặt đất đang chìm trong khói phủ. Cuộc sống yên bình tĩnh lặng, vũ trụ đang quay, thời gian trôi đi, trời trờ về sáng. Tiếng chày đều tay từ phường Yên Thái ngân vang dồn dập. Nhịp chày chính là nhịp đập của cuộc sống, sức sống mạnh mẽ của kinh đô này. Bình minh ửng hồng phía đằng Đông xua tan làn sương khói. Hồ Tây mênh mông phẳng lặng như chiếc gương khổng lồ sáng dần lên in hình phố cổ. Đây là hình ảnh trung tâm mặt gương Tây Hồ, một tứ thơ toả sáng làm cho cả bài bừng lên: Xem thêm: Bằng sự tưởng tượng, em hãy kể một câu chuyện với nội dung: “Mọi vật trong cuộc sống đều có ích nhất định” Nhịp chày Yên Thái mặt gương Tây Hồ.
Bài thơ tả cảnh đẹp kinh thành Thăng Long, nhưng thông qua miêu tả cảnh, ẩn chứa tình cảm tự hào về quê hương đất nước:
Rủ nhau chơi khắp Long Thành
Ba mươi sáu phố rành rành chẳng sai
Quê hương đang ngày ngày thay da đổi thịt, cảnh tình thấm vào nhau rung động mãi trong hồn ta. Tâm hồn tác giả thật say sưa mới có những vần thơ hay đến vậy.
Bài ca dao để lại trong ta ấn tượng tuyệt vời về Thăng Long. Nó giúp ta yêu hơn, tự hào hơn về kinh đô ngàn năm văn hiến. Bài ca dao mang vẻ đẹp cổ điển hoa lệ như một bài cổ thi trác tuyệt.
Vanmau.edu.vn
|
Through the folk song: The wind carries bamboo branches to la da. Please highlight the beauty of the painting of the ancient capital
Suggest
The folk song Wind carries bamboo branches is a beautiful picture depicting autumn branches in the early morning in the capital city of Thang Long. Each verse is a beautiful scene highlighted through the unique pens of folk authors to praise the beauty of their homeland:
The wind carries the bamboo branches to the wind,
The sound of the Tran Vu bell for Tho Xuong chicken soup
The mist of smoke radiates thousands of dew,
The Yen Thai bridge spans the mirror of Tay Ho.
Ancient folk songs and even many poets have described a lot about the peaceful beauty of Thang Long capital. The autumn scene is beautiful. The gentle breeze is enough to make ripples on the surface of West Lake, and on the banks of the lake are weeping willows. The opening verse shows that the wind is very light, the wind does not blow but only gently sways the dense bamboo branches close to the ground. The bamboo branches are gently caressed by the clear, cool autumn breeze, and the bamboo branches gently sway with the wind.
The wind moves bamboo branches to the wind
The beautiful scene is so sexy and erotic in the cool, fresh autumn air. The poem has the green color of bamboo, the gentle breeze of the wind and of course the autumn air, the autumn weather, the open sky, the kites fluttering in the air, behind the bamboo branches is the golden sound of thunder. See more: Presenting some basic characteristics of literary texts Autumn fishing - a famous poem describing the autumn scenery in the Northern Delta by Nguyen Khuyen also has a light wind that makes the pond surface ripple, the leaves Then gently swing it. As for Do Phu, two golden bombs make a clear sound. Those are the signs of autumn.
If we only perceive visually that the ground is behind the bamboo branches, then the second verse is a movement and a sound.
The sound of the Tran Vu bell for Tho Xuong chicken soup
This is the familiar technique of using distance to describe near, using movement to describe stillness. In the distance, the soft sound of the Tran Vu bell rang out, creating a bustling and bustling atmosphere. The sound of chickens leaving Tho Xuong soup echoed. The sound of bells mingling with the sound of roosters crowing. The sound seemed to melt and blend with the autumn fog and sky. In the mist, the autumn night light covers every corner, the ringing of bells and the crowing of roosters seem to make everything even more dreamy and poetic. Life is filled with joy and excitement:
The mist of smoke radiates thousands of dew,
The smoke that spreads out is then turned back to create a cloudy smoke. Anagram art techniques increase the shimmering mystery of the scene and of life. The ground is a translucent white color, covered by mist. Looking up close or in perspective, it feels like the ground is engulfed in smoke. Life is peaceful and quiet, the universe is spinning, time passes, it is dawn. The steady sound of pestles from Yen Thai ward echoed continuously. The rhythm of the baseball is the heartbeat of life, the strong vitality of this capital. The rosy dawn in the East dispels the fog. West Lake is vast and calm like a giant mirror that gradually lights up to reflect the old town. This is the image of the center of the Tay Ho mirror, a quartet of poems that shines, making the whole song shine: See more: Using your imagination, tell a story with the content: "Everything in life is useful." definitely” Yen Thai pestle with Tay Ho mirror face.
The poem describes the beautiful scenery of Thang Long citadel, but through the description of the scene, it contains feelings of pride for the homeland:
Invite each other to play around Long Thanh
Thirty-six streets are clear and unmistakable
The homeland is changing day by day, the love scene is intertwined and forever vibrates in our souls. The author's soul is truly passionate to have such beautiful poems.
The folk song leaves us with a wonderful impression of Thang Long. It helps us love and be more proud of the capital of thousands of years of civilization. The folk song has a magnificent classical beauty like a magnificent ancient poem.
Vanmau.edu.vn
|
Qua bài Đen hiện đại từ truyền thống của Trần Đình Hượu
Hướng dẫn
Trần Đình Hượu là nhà khoa học chuyên nghiên cứu các nghiên cứu các vấn đề lịch sử tư tưởng và văn hoá Việt Nam hiện đại, có những đóng góp lớn và có nhiều phát hiện mới về lĩnh vực này.
Tác phẩm Đến hiện đại từ truyền thống thể hiện cách nhìn về vốn văn hoá dân tộc sâu sắc và chân thực của tác giả.
a) Lí giải những đặc điểm nổi bật của sáng tạo văn hoá Việt Nam là tạo ra một cuộc sống thiết thực, bình ổn, lành mạnh với những vẻ đẹp dịu dàng, thanh lịch, những con người hiền lành, tình nghĩa, sống có văn hoá trên một cái nền nhân bản.
b) Dẫn chứng để minh họa
– Công trình kiến trúc chùa Một Cột, các lăng tẩm của vua chúa đời Nguyễn ở cố đô Huế…
– Lời ăn tiếng nói của nhân dân trong tục ngữ, thành ngữ và ca dao: Chim khôn kêu tiếng rảnh rang/Người khôn tiếng nói dịu dàng dễ nghe; Lời chào cao hơn mâm cỗ…
+ Có thể đối chiếu với thực tế đời sống của các dân tộc khác: sự kì vĩ của những Kim tự tháp (Ai Cập), của Vạn lí trường thành (Trung Quốc)…
c) Trách nhiệm của bản thân trong việc giữ gìn và phát huy những giá trị văn hóa của dân tộc.
Nguồn: thêm: Phân tích bài thơ Thu điếu của Nguyễn Khuyến (Có dàn ý chi tiết)
|
Through modern Black from tradition by Tran Dinh Huu
Instruct
Tran Dinh Huu is a scientist specializing in researching issues of modern Vietnamese ideological and cultural history, making great contributions and many new discoveries in this field.
The work Coming to Modernity from Tradition represents the author's profound and authentic vision of national cultural capital.
a) Explaining the outstanding features of Vietnamese cultural creativity is creating a practical, stable, and healthy life with gentle, elegant beauty, gentle, grateful, living people. have culture on a humane basis.
b) Evidence to illustrate
– The architecture of the One Pillar Pagoda, the mausoleums of the Nguyen Dynasty kings in the ancient capital of Hue...
– The people's speech in proverbs, idioms and folk songs: Wise birds call freely/ Wise people speak gently and easily; Saying hello is important…
+ Can be compared with the real life of other peoples: the magnificence of the Pyramids (Egypt), the Great Wall (China)...
c) Your own responsibility in preserving and promoting the nation's cultural values.
Source: more: Analysis of the poem Thu Tei by Nguyen Khuyen (With detailed outline)
|
Qua bốn truyện cười đã học, em thấy chúng buồn cười ở chỗ nào?
Gợi ý
Qua bốn truyện cười đã học, em thấy ở mỗi truyện có một khía cạnh buồn cười riêng, và tính chất mức độ gây cười của chúng cũng không giống nhau.
Ở truyện Mất rồi, điều khiến ta buồn cười là sự trật khớp theo kiểu "ông nói gà, bà nói vịt" của hai người đối thoại. Trong khi khách đến chơi hỏi về người cha, thì đứa con lập tức nghĩ đến tờ giấy cha đưa mà mình trót làm cháy mất. Và đáng lẽ đáp về cha, thì nó lại chỉ nói đến tờ giấy mà cha gửi lại. Còn người khách lại ngỡ đứa con nói về người bố. Vì thế khách mới "giật mình", và hỏi liên tiếp mấy câu nữa. Tình cờ. Mấy lời đáp cũng tương ứng này khiến cho "thông tin" bị lạc hẳn ở khâu tiếp nhận. Do đó gây cười.
Nhưng nếu ở mẩu truyện trên, cái cười chỉ là tiếng cười giòn giã thoải mái vui cửa vui nhà thì ở truyện Treo biển, tiếng cười đã hàm ý phê phán. Ai có ý kiến gì, nhà hàng cũng nghe cả, cứ cắt bỏ dần mấy chữ ghi ở biển, đến mức bỏ hẳn cả biển treo đi. Thật bị động đến buồn cười, chả có chủ kiến nào của mình cả. Bán hàng là phải chiều khách, như quảng cáo tiếp thị bây giờ, chứ làm sao lại để khách phải "suy diễn" đoán ra như vậy! Nhưng em thấy thật ra truyện này nặng về tính chất ngụ ngôn hơn là truyện cười. Cái cười ở đây có chàng chỉ là chút nhếch mép, nếu không muốn nói là cười nhạt.Xem thêm: Văn biểu cảm về sự vật, con người - Lời yêu thương gửi bố của con Đến truyện thứ ba, mới thật thú vị. Cách gây cười ở đây sắc sảo hơn hẳn. Có cái áo mới mà đứng hóng ở cửa, đợi người ta khen, đã buồn cười rồi. Vậy mà khi người ta hỏi một chuyện không liên quan gì đến quần áo cả, anh ta vẫn cố "giơ ngay vạt áo" và trả lời bằng một thông tin hoàn toàn thừa ("từ lúc tôi mặc cái áo mới này"), thì thật thói khoe khoang quá lộ liễu, lố bịch, làm ta không thể nhịn cười nổi. Anh chàng khoe lợn cũng vậy. Giả vờ hỏi, kì thực cốt để khoe, nên anh ta cố gài một đặc điểm rất vô ích đối với việc nhận dạng lợn: đó là "lợn cưới". Lẽ ra cần nói rõ về màu sắc, kích cỡ lớn. Ví dụ lợn đen hay lợn khoang, lợn to hay lợn nhỏ, v.v… thì lại nói là "lợn cưới"! Vô hình trung, anh ta như một kẻ hoặc đần độn, hoặc mắc chứng tâm thần chứ không phải người có một đầu óc bình thường, có một ngôn ngữ hợp lí. Cũng như mẩu truyện trên, truyện này rõ ràng có tính châm biếm, mà lại châm biếm bằng chính ngay ngôn ngữ đặc trưng, có phóng đại nghệ thuật thêm của nhân vật, nên cái cười ở đây mang ý vị phê phán còn cao hơn cả truyện trên, nhằm bêu xấu một tật xấu khá phổ biến ở con người là thói khoe khoang.Xem thêm: Soạn bài Thông tin về ngày trái đất năm 2000
Mẩu truyện Thà chết còn hơn là mẩu truyện mà cả nghệ thuật gây cười lẫn cấp độ phê phán vào loại cao nhất ở chùm truyện cười vừa đọc. Tính khoe khoang thật ra cũng không tác hại bao nhiêu, chứ thói hà tiện có thể dẫn đến những hậu quả đáng tiếc không lường được. Đặc biệt trong trường hợp này, quả thật máu hà tiện đã làm mụ mẫm cả lương tri. Khi thấy anh ta sắp chết đuối mà vẫn cứ ngoi đầu lên, không phải để cầu cứu, mà để phản đối mức tiền thưởng; thậm chí còn chút sức lực cuối cùng, anh ta vẫn cố bác bỏ việc thưởng ba quan, để "thà chết còn hơn" thì đúng là không thể nhịn được cười. Nhưng cười rồi mà sao ta không thấy vui trong dạ, ta thấy sao anh chàng này lại để đồng tiền làm hư hỏng, méo mó lương trị, làm tê liệt cả đến bản năng sống còn vốn rất mạnh mẽ. Ở ngay cả loài động vật hạ cấp như vậy. Máu keo kiệt đã hủy hoại cả lí trí thông thường mà ông cha ta từng đúc kết: "Người làm ra của, chứ của không làm ra người". Mẩu truyện sau khi khiến ta bật cười, còn làm ta giật mình kinh ngạc, vì sự thui chột của tính người có thể đến mức kì quái, đáng sợ như thế nào!
Đúng là tiếng cười cũng có nhiều cung bậc, sắc thái. Nếu cuộc đối thoại giữa đứa con với ông khách gây nên chuyện hiểu lầm, làm bật ra tiếng cười thoải mái, thì việc treo biển lại là lời phê phán – đặc biệt là truyện cuối cùng, có chi tiết gây cười rất sắc cạnh nên mức độ phê phán càng gay gắt. Trong truyện này người kể không trực tiếp ra lời mà để cho tình thế tự nói lên, nhưng chính vì vậy tiếng cười ở đây thật là sâu sắc, không chỉ làm vui, mà còn khiến ta phải giật mình ngẫm lại: phải chăng ta cũng từng có lúc tính quẩn kiểu "thà chết còn hơn", vì tiếc chút lợi lộc nhỏ để hỏng mất cái lớn gấp nhiều lần?Xem thêm: Em hãy tưởng tượng và tả lại chân dung của Lượm (nhân vật trong bài thơ cùng tên của nhà thơ Tố Hữu)Vanmau.edu.vn
|
Through the four jokes you have learned, where do you find them funny?
Suggest
Through the four funny stories I have learned, I see that each story has its own funny aspect, and their level of laughter is not the same.
In the story Lost, what makes us laugh is the dislocation like "he said chicken, she said duck" of the two interlocutors. While the guests came to ask about the father, the son immediately thought of the piece of paper his father had given him that he had burned. And instead of answering about his father, he only mentioned the paper his father sent back. The guest thought the child was talking about the father. That's why the customer was "startled" and asked a few more questions in succession. Accidental. These corresponding responses caused the "information" to be completely lost at the receiving stage. Hence the laughter.
But if in the story above, the laughter is just a crisp, comfortable, happy laugh at home, then in the story Hanging the Sign, the laughter has a critical meaning. Whoever has an opinion, the restaurant will listen to it, gradually cutting out the words written on the sign, to the point of completely removing the sign. It's so passive it's funny, I don't have any opinions of my own. When selling, you have to please customers, like today's marketing advertising, but how can you let customers "deduce" and guess like that! But I think this story is actually more of a fable than a joke. The smile here is just a slight smirk, if not a light smile. See more: Expressive writing about things and people - Loving words to my father Coming to the third story, it's really interesting. The way to laugh here is much sharper. Having a new shirt and standing at the door, waiting for people to compliment you, is already funny. Yet when people ask about something that has nothing to do with clothes, he still tries to "hold up the hem of his shirt" and answer with completely redundant information ("since I wore this new shirt"), The habit of boasting is so obvious and ridiculous that I can't help but laugh. The same goes for the guy showing off his pig. Pretending to ask, in reality it was just to show off, so he tried to install a feature that was very useless for pig identification: "wedding pig". Should have been clear about color and size. For example, black pigs or black pigs, big pigs or small pigs, etc. are said to be "wedding pigs"! Invisible, he seems like someone who is either stupid or mentally ill, not someone with a normal mind and reasonable language. Like the story above, this story is clearly satirical, but it is satirical with its own unique language, with additional artistic exaggeration of the character, so the laughter here has an even higher critical meaning. The whole story above is intended to stigmatize a fairly common bad habit in humans, the habit of boasting. See more: Prepare an article Information about Earth Day 2000
The story "It's Better to Die" is a story in which both the art of making fun and the level of criticism are among the highest in the series of jokes just read. Boasting actually doesn't do much harm, but being stingy can lead to unfortunate and unpredictable consequences. Especially in this case, it is true that the blood of miserliness has blinded even the conscience. When he saw that he was about to drown, he still raised his head, not to ask for help, but to protest the bonus; Even with his last strength, he still tried to refuse the reward of three francs, saying "it's better to die" and literally couldn't help but laugh. But after laughing, why don't I feel happy in my heart? I see why this guy let money corrupt and distort his conscience, paralyzing even his very strong survival instinct. Even in such low-class animals. Stingy blood has destroyed the common sense that our ancestors once concluded: "People make wealth, but wealth does not make people." After making us laugh, the story also makes us startled and surprised, because of how strange and scary the decline of human nature can be!
It's true that laughter has many levels and nuances. If the conversation between the child and the guest caused a misunderstanding and sparked laughter, then hanging the sign was a criticism - especially the last story, which has very sharp humorous details, so The level of criticism is more harsh. In this story, the narrator does not speak directly but lets the situation speak for itself, but that is why the laughter here is so profound, not only makes us happy, but also makes us startled and reflect: are we? There was also a time when I was so vicious as "it's better to die", because I regretted a small gain at the expense of ruining a much bigger one? See more: Imagine and describe the portrait of Luom (the character in the same poem). name of poet To Huu)Vanmau.edu.vn
|
Qua chùm ca dao “Những câu hát than thân”, nghĩ về thân phận những người nông dân trong xã hội cũ
Gợi ý
DÀN Ý
Mở bài:
+ Hoàn cảnh tiếp xúc với chùm ca dao “Những câu hát than thân”, đọc và nghe giảng trên lớp.
+ Cảm xúc chung của em vệ thân phận người nông dân trong xã hội cũ: xót xa, thương cảm..
Thân bài:
+ Cảm xúc, suy nghĩ của em trước những nỗi khổ của người nông dân trong xã hội cũ:
Cuộc đời lận đận, vất vả, đắng cay vì gặp quá nhiều khó khăn, trắc trở, ngang trái “lên thác xuống ghềnh”, “bể đầy”, “ao cạn” của người nông dân trong xã hội cũ → nỗi cảm thương sâu sắc.
Thân phận, cuộc đời cay đắng nhiều bề của họ: bị kẻ khác bòn rút sức lực; xuôi ngược vất vả làm lụng mà vẫn nghèo khó; cuộc đời phiêu bạt, lận đận, vô vọng; thân phận thấp cổ bé họng, chịu bất công oan trái… → đau đớn, xót xa cho thân phận khốn khổ của người nông dân
Số phận bị phụ thuộc, không quyết định được cuộc đời mình của những người phụ nữ, sống cuộc đời trôi nổi, vô định… → cảm thông, thương xót;
+ Cảm xúc, suy nghĩ về các hình ảnh ẩn dụ so sánh trong các bài ca dao: con cò, con tằm, con kiến tí ti, con hạc, con cuốc, trái bần… → sự vật tầm thường, nhỏ bé, tội nghiệp… giống như cuộc đời và số phận của những người nông dân trong xã hội cũ.Xem thêm: Cảm nghĩ về bài thơ Phò Giá Về Kinh (Tụng giá hoàng kinh sư) + Thái độ, tình cảm của em về xã hội phong kiến xưa: xã hội bất công, đáng lên án…
Kết bài:
Suy nghĩ, liên tưởng về hình ảnh người nông dân trong xã hội ngày nay và tình cảm, cảm xúc của em.
Vanmau.edu.vn
|
Through the folk songs "Songs of self-pity", think about the fate of farmers in the old society
Suggest
OUTLINE
Opening:
+ Circumstances of exposure to a series of folk songs "Songs of self-pity", reading and listening to lectures in class.
+ My general feelings defending my status as a farmer in the old society: sadness, sympathy...
Body of the article:
+ My feelings and thoughts regarding the suffering of farmers in the old society:
The difficult, difficult, bitter life of facing so many difficulties, obstacles, ups and downs, "full tanks", "dry ponds" of farmers in the old society → compassion deep.
Their fate and life are bitter in many ways: their strength is drained by others; going up and down and working hard but still poor; a life of wandering, hardship, and hopelessness; lowly status, suffering injustice... → pain, sorrow for the miserable fate of farmers
The fate of women who are dependent and unable to decide their own lives lives a floating, uncertain life... → sympathy, mercy;
+ Feelings and thoughts about comparative metaphors in folk songs: storks, silkworms, tiny ants, cranes, hoe, cork fruit... → trivial, small, sinful things career... is like the life and fate of farmers in the old society. See more: Feelings about the poem Pho Gia Ve Kinh (Chanting Gia Hoang Kinh Su) + My attitude and feelings about the feudal society Ancient opinion: society is unjust, worthy of condemnation...
End:
Think and think about the image of farmers in today's society and your feelings and emotions.
Vanmau.edu.vn
|
Qua hai nhân vật Mị và A Phủ, hãy nêu giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của tác phẩm Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài
Gợi ý
Gợi ý làm bài
Về nội dung, đề này không khác dạng đề tương tự: Nêu/phân tích giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của tác phẩm Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài. Điều khác duy nhất ở đây là các giá trị ấy được nhìn nhận, đánh giá thông qua hai nhân vật chính của tác phẩm. Vì vậy, sự phân tích các giá trị đó vừa có tính tập trung và sâu hơn bình thường, cần đảm bảo các ý sau:
1. Giá trị hiện thực
a) Phản ánh nỗi khổ của nhân dân miền núi và lên án chế độ phong kiến thực dân
– Mị
+ Mị là cô gái trẻ, đẹp đang ở lứa tuổi thanh xuân, yêu đời. Nhưng Mị đã trở thành một món hàng trừ nợ. Cha mẹ Mị không có tiền cưới phải đến, vay nhà thống lí, mỗi năm trả lãi một nương ngô. Đến khi mẹ mất, chạ già mà nợ vẫn còn, Mị bị cướp về làm dâu để trừ nợ. Điều này đã tố cáo hình thức bóc lột của bọn phong kiến là cho vay nặng lãi để cột chặt kiếp nô lệ của người dân miền núi. Mặt khác, tác phẩm còn cho thấy món nợ Mị phải trả như một cái án truyền kiếp mà cô phải gánh lấy từ trong trứng nước. Hơn nữa, cuộc đời nô lệ của Mị bị bọn thống trị ràng buộc, áp chế bởi sự mê tín, thần quyền (Mị nghĩ rằng bố con Pá Tra đã “trình ma” mình là người của nhà nó thì chỉ còn biết ở đây cho tới lúc chết rũ mà thôi).
+ Chưa hết, về nhà thống lí Pá Tra, Mị còn bị đày đọa về thể xác lẫn tinh thần. Danh nghĩa là con dâu nhưng thực chất chỉ là tôi tớ. Thân Mị, cũng như nhiều phụ nữ khác, không bằng thân trâu, ngựa: Con trâu, con ngựa làm có lúc, đêm nó còn được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này thì vùi vào việc làm cả đêm, cả ngày.
+ Điều mà nhà văn xót xa hơn cả là nỗi khổ tinh thần của Mị. Mị không biết đến hạnh phúc, không được hưởng một niềm vui, không hề nghĩ đến tương lai. Dần dần, Mị trở thành người buông xuôi theo số phận, vô thức về thời gian, không biết làm dâu năm nào, vô thức về không gian qua chi tiết căn buồng Mị nằm kín mít với cái cửa sổ một lỗ vuông bằng bàn tay lúc nào cũng chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay là nắng. Căn buồng ấy là biểu tượng hiện tại và tương lai của Mị. Nó không giam hãm thân xác Mị nhưng cách ly tâm hồn với cuộc đời, nó giam hãm tuổi thanh xuân và sức sống của cô.Xem thêm: Có ba điều làm hỏng một con người: rượu, tính kiêu ngạo và sự giận dữ.Anh (chị) suy nghĩ như thế nào về ý kiến đó– A Phủ
+ Cũng như Mị, cuộc đời A Phủ tiêu biểu cho nỗi khổ của người dân miền núi. Đánh lại A Sử, con thống lí, A Phủ bị trói, bị đánh, bị phạt vạ 100 đồng. Không có tiền, anh phải ở cho nhà thống lí trừ nợ. Từ đó, A Phủ mang cái nợ truyền kiếp: Mày không có trăm bạc thì tao cho mày vay để mày ở nợ. Bao giờ có tiền giả thì tao cho mày về, chưa có tiền giả thì tao bắt mày ở làm con trâu, con ngựa cho nhà tao. Đời mày, đời con, đời cháu mày tao cũng bắt thế, bao giờ hết nợ tao mới thôi.
+ Đi ở trừ nợ cho nhà thống lí Pá Tra, A Phủ phải làm quần quật ở bìa rừng. Đến khi làm mất một con bò, anh bị trói, bị đánh, bị bỏ đói, bỏ khát mấy ngày liền chờ chết. Hình phạt của bọn chúng đối với A Phủ chẳng khác gì những hình phạt thời trung cổ: A Phủ lẳng lặng ra vác cái cọc gỗ rồi lấy cuộn dây mây trên gác bếp xuống. Tự tay A Phủ đóng cọc gỗ xuống bên cột. Pá Tra vẫn đứng đấy, bấy giờ đẩy A Phủ vào chân cột, hai bàn tay bắt ôm quặt lên. Rồi dây mây quấn từ chân lên vai, chỉ còn côe và đầu hơi lúc lắc được. Đàn bà trong nhà, mỗi khi đi qua đều cúi mặt. Không một ai dám hỏi, cũng không ai dám nhìn ngang mắt.
+ Cũng như Mị, A Phủ không chỉ khổ về thể xác mà còn khổ về tinh thần. Nếu như Mị tê liệt sức phản kháng khi ở lâu trong cái khổ thì A Phủ cũng vậy. Từ một chàng trai bướng bỉnh không chịu khuất phục, anh đã trở thành một con người chịu đựng. Anh như con trâu đã đóng lên tròng, chủ bảo sao làm vậy.Xem thêm: Phân tích bài thơ Tự Tình 2 của Hồ Xuân Hương hay nhất
b) Vợ chồng A Phủ phản ánh những quy luật của xã hội
– Tô Hoài có cái nhìn biện chứng về quan hệ giữa hoàn cảnh và tính cách. Bị đày ải lâu ngày trong một thế giới không có nhân tính, không có tình người, cả Mị lẫn A Phủ đều trở thành những con người an phận, thiếu ý thức đấu tranh, thậm chí lạnh lùng, vô cảm.
– Nhưng tác phẩm cũng cho thấy khi bị ức hiếp, bị đẩy đến đường cùng, người lương thiện sẽ vùng dậy tự giải phóng mình. Tác phẩm còn cho thấy tình hữu ái giai cấp sẽ tạo sức mạnh để họ tự giải thoát. Khi chưa đến với nhau, Mị và A Phủ là hai thực thể cô đơn, cô độc. Hành động Mị và A Phủ trốn khỏi Hồng Ngài là biểu hiện đấu tranh tự phát.
– Điểm mới mẻ của Tô Hoài là nhà văn đã nắm bắt và miêu tả hiện thực trong xu thế của cách mạng. Mị và A Phủ đã tự giải thoát mình nhưng nếu chỉ dừng lại ở đây, Mị và A Phủ vẫn chưa được thực sự tự do, hạnh phúc. Đến phần hai của tác phẩm, Mị và A Phủ trốn khỏi Hồng Ngài đến Phiềng Sa, họ lại bị đàn áp bởi thế lực của thực dân. Chỉ khi gặp A Châu, một cán bộ Đảng, Mị và A Phủ giác ngộ cùng nhân dân Phiềng Sa lập đội du kích. Từ đó họ mới tìm thấy một hướng đi cho tương lai tốt đẹp. Như vậy, con đường đấu tranh từ tự phát đến tự giác chống thực dân phong kiến dưới sự dìu dắt của cán bộ Đảng là con đường tất yếu, lịch sử để nhân dân các dân tộc thiểu số miền núi thoát khỏi ách nô lệ vươn tới cuộc sống độc lập tự do.
2. Giá trị nhân đạo
a) Tô Hoài đã có cái nhìn nhân văn về thiên nhiên và con người Tây Bắc.
Rừng núi và người dân tộc thiểu số tự bao đời trong ấn tượng của mọi người là mảnh đất thiêng nước độc, cuộc sống tăm tối, ngu muội. Nhưng trong con mắt nhà văn đó là miền đất thơ mộng, hùng vĩ với mùa xuân đẹp, gợi cảm. Tiếng hát, tiếng sáo ngây ngất trong lòng người. Con người Tây Bắc đẹp về nhiều phương diện, từ ngoại hình đến tâm hồn và năng lực lao động.Xem thêm: Quan niệm về hạnh phúc của tuổi trẻ trong thời đại ngày nayb) Lòng thương cảm.
Bên cạnh việc ca ngợi, Tô Hoài đã biểu lộ tấm lòng thương cảm sâu sắc với người dân miền núi khi ông dựng lại nỗi đau khổ tủi nhục của Mị và A Phủ. Những đoạn độc thoại nội tâm của Mị khiến ta có cảm tưởng như tác giả đàng nhập vào tâm trạng nhân vật để nói lên nỗi lòng vừa đau đớn, vừa thiết tha của cô. Không có lòng yêu thương thì không có những trang văn làm xúc động lòng người đến vậy. Càng yêu thương, trân trọng con người bao nhiêu thì nhà văn càng lên án gay gắt những thế lực chà đạp quyền sồng con người bấy nhiêu. Do đó, Vợ chồng A Phủ là bài ca ca ngợi con người, nhưng đồng thời cũng là bản án đanh thép kết tội những ai lợi dụng thần quyền, cường quyền, lợi dụng hủ tục mê tín… để biến con người thành nô lệ.
c) Đề cao con người
Trong Vợ chồng A Phủ, Tô Hoài đã thể hiện cái nhìn trân trọng đối với con người. Nhà văn đã khắc họa sức sống bên trong của những con người thấp cổ bé họng và đặt trọn niềm tin yêu vào đó.
Đi sâu vào tận cùng ý thức của nhân vật, tác giả đã phát hiện niềm khát khao sống của họ. Tuy phải âm thầm chịu đựng cuộc sống đày đọa nhưng không phải vì thế mà Mị và A Phủ đánh mất sức sống. Nhà văn Tô Hoài đã khiến chúng ta thêm tin yêu vào bản chất tốt đẹp của con người.
d) Tìm đường đi cho nhân vật
Điểm mới mẻ và sâu sắc của tư tưởng nhân đạo ở Vợ chồng A Phủ là tác giả đã để nhân vật tìm ra con đường giải phóng thật sự, thể hiện ước vọng chân chính của mình trong quá trình đến với cách mạng. Mị dần dần không sợ con ma nhà A Sử, biết ngẩng đầu tham gia du kích. A Phủ trở thành đội trưởng đội du kích cùng nhân dân bảo vệ quê hương. Sự đổi đời của nhân vật Mị và A Phủ chính là giá trị nhân đạo cao nhất trong tác phẩm.
Vanmau.edu.vn
|
Qua hai nhân vật Mị và A Phủ, hãy nêu giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của tác phẩm Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài
Gợi ý
Gợi ý làm bài
Về nội dung, đề này không khác dạng đề tương tự: Nêu/phân tích giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của tác phẩm Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài. Điều khác duy nhất ở đây là các giá trị ấy được nhìn nhận, đánh giá thông qua hai nhân vật chính của tác phẩm. Vì vậy, sự phân tích các giá trị đó vừa có tính tập trung và sâu hơn bình thường, cần đảm bảo các ý sau:
1. Giá trị hiện thực
a) Phản ánh nỗi khổ của nhân dân miền núi và lên án chế độ phong kiến thực dân
– Mị
+ Mị là cô gái trẻ, đẹp đang ở lứa tuổi thanh xuân, yêu đời. Nhưng Mị đã trở thành một món hàng trừ nợ. Cha mẹ Mị không có tiền cưới phải đến, vay nhà thống lí, mỗi năm trả lãi một nương ngô. Đến khi mẹ mất, chạ già mà nợ vẫn còn, Mị bị cướp về làm dâu để trừ nợ. Điều này đã tố cáo hình thức bóc lột của bọn phong kiến là cho vay nặng lãi để cột chặt kiếp nô lệ của người dân miền núi. Mặt khác, tác phẩm còn cho thấy món nợ Mị phải trả như một cái án truyền kiếp mà cô phải gánh lấy từ trong trứng nước. Hơn nữa, cuộc đời nô lệ của Mị bị bọn thống trị ràng buộc, áp chế bởi sự mê tín, thần quyền (Mị nghĩ rằng bố con Pá Tra đã “trình ma” mình là người của nhà nó thì chỉ còn biết ở đây cho tới lúc chết rũ mà thôi).
+ Chưa hết, về nhà thống lí Pá Tra, Mị còn bị đày đọa về thể xác lẫn tinh thần. Danh nghĩa là con dâu nhưng thực chất chỉ là tôi tớ. Thân Mị, cũng như nhiều phụ nữ khác, không bằng thân trâu, ngựa: Con trâu, con ngựa làm có lúc, đêm nó còn được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này thì vùi vào việc làm cả đêm, cả ngày.
+ Điều mà nhà văn xót xa hơn cả là nỗi khổ tinh thần của Mị. Mị không biết đến hạnh phúc, không được hưởng một niềm vui, không hề nghĩ đến tương lai. Dần dần, Mị trở thành người buông xuôi theo số phận, vô thức về thời gian, không biết làm dâu năm nào, vô thức về không gian qua chi tiết căn buồng Mị nằm kín mít với cái cửa sổ một lỗ vuông bằng bàn tay lúc nào cũng chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay là nắng. Căn buồng ấy là biểu tượng hiện tại và tương lai của Mị. Nó không giam hãm thân xác Mị nhưng cách ly tâm hồn với cuộc đời, nó giam hãm tuổi thanh xuân và sức sống của cô.Xem thêm: Có ba điều làm hỏng một con người: rượu, tính kiêu ngạo và sự giận dữ.Anh (chị) suy nghĩ như thế nào về ý kiến đó– A Phủ
+ Cũng như Mị, cuộc đời A Phủ tiêu biểu cho nỗi khổ của người dân miền núi. Đánh lại A Sử, con thống lí, A Phủ bị trói, bị đánh, bị phạt vạ 100 đồng. Không có tiền, anh phải ở cho nhà thống lí trừ nợ. Từ đó, A Phủ mang cái nợ truyền kiếp: Mày không có trăm bạc thì tao cho mày vay để mày ở nợ. Bao giờ có tiền giả thì tao cho mày về, chưa có tiền giả thì tao bắt mày ở làm con trâu, con ngựa cho nhà tao. Đời mày, đời con, đời cháu mày tao cũng bắt thế, bao giờ hết nợ tao mới thôi.
+ Đi ở trừ nợ cho nhà thống lí Pá Tra, A Phủ phải làm quần quật ở bìa rừng. Đến khi làm mất một con bò, anh bị trói, bị đánh, bị bỏ đói, bỏ khát mấy ngày liền chờ chết. Hình phạt của bọn chúng đối với A Phủ chẳng khác gì những hình phạt thời trung cổ: A Phủ lẳng lặng ra vác cái cọc gỗ rồi lấy cuộn dây mây trên gác bếp xuống. Tự tay A Phủ đóng cọc gỗ xuống bên cột. Pá Tra vẫn đứng đấy, bấy giờ đẩy A Phủ vào chân cột, hai bàn tay bắt ôm quặt lên. Rồi dây mây quấn từ chân lên vai, chỉ còn côe và đầu hơi lúc lắc được. Đàn bà trong nhà, mỗi khi đi qua đều cúi mặt. Không một ai dám hỏi, cũng không ai dám nhìn ngang mắt.
+ Cũng như Mị, A Phủ không chỉ khổ về thể xác mà còn khổ về tinh thần. Nếu như Mị tê liệt sức phản kháng khi ở lâu trong cái khổ thì A Phủ cũng vậy. Từ một chàng trai bướng bỉnh không chịu khuất phục, anh đã trở thành một con người chịu đựng. Anh như con trâu đã đóng lên tròng, chủ bảo sao làm vậy.Xem thêm: Phân tích bài thơ Tự Tình 2 của Hồ Xuân Hương hay nhất
b) Vợ chồng A Phủ phản ánh những quy luật của xã hội
– Tô Hoài có cái nhìn biện chứng về quan hệ giữa hoàn cảnh và tính cách. Bị đày ải lâu ngày trong một thế giới không có nhân tính, không có tình người, cả Mị lẫn A Phủ đều trở thành những con người an phận, thiếu ý thức đấu tranh, thậm chí lạnh lùng, vô cảm.
– Nhưng tác phẩm cũng cho thấy khi bị ức hiếp, bị đẩy đến đường cùng, người lương thiện sẽ vùng dậy tự giải phóng mình. Tác phẩm còn cho thấy tình hữu ái giai cấp sẽ tạo sức mạnh để họ tự giải thoát. Khi chưa đến với nhau, Mị và A Phủ là hai thực thể cô đơn, cô độc. Hành động Mị và A Phủ trốn khỏi Hồng Ngài là biểu hiện đấu tranh tự phát.
– Điểm mới mẻ của Tô Hoài là nhà văn đã nắm bắt và miêu tả hiện thực trong xu thế của cách mạng. Mị và A Phủ đã tự giải thoát mình nhưng nếu chỉ dừng lại ở đây, Mị và A Phủ vẫn chưa được thực sự tự do, hạnh phúc. Đến phần hai của tác phẩm, Mị và A Phủ trốn khỏi Hồng Ngài đến Phiềng Sa, họ lại bị đàn áp bởi thế lực của thực dân. Chỉ khi gặp A Châu, một cán bộ Đảng, Mị và A Phủ giác ngộ cùng nhân dân Phiềng Sa lập đội du kích. Từ đó họ mới tìm thấy một hướng đi cho tương lai tốt đẹp. Như vậy, con đường đấu tranh từ tự phát đến tự giác chống thực dân phong kiến dưới sự dìu dắt của cán bộ Đảng là con đường tất yếu, lịch sử để nhân dân các dân tộc thiểu số miền núi thoát khỏi ách nô lệ vươn tới cuộc sống độc lập tự do.
2. Giá trị nhân đạo
a) Tô Hoài đã có cái nhìn nhân văn về thiên nhiên và con người Tây Bắc.
Rừng núi và người dân tộc thiểu số tự bao đời trong ấn tượng của mọi người là mảnh đất thiêng nước độc, cuộc sống tăm tối, ngu muội. Nhưng trong con mắt nhà văn đó là miền đất thơ mộng, hùng vĩ với mùa xuân đẹp, gợi cảm. Tiếng hát, tiếng sáo ngây ngất trong lòng người. Con người Tây Bắc đẹp về nhiều phương diện, từ ngoại hình đến tâm hồn và năng lực lao động.Xem thêm: Quan niệm về hạnh phúc của tuổi trẻ trong thời đại ngày nayb) Lòng thương cảm.
Bên cạnh việc ca ngợi, Tô Hoài đã biểu lộ tấm lòng thương cảm sâu sắc với người dân miền núi khi ông dựng lại nỗi đau khổ tủi nhục của Mị và A Phủ. Những đoạn độc thoại nội tâm của Mị khiến ta có cảm tưởng như tác giả đàng nhập vào tâm trạng nhân vật để nói lên nỗi lòng vừa đau đớn, vừa thiết tha của cô. Không có lòng yêu thương thì không có những trang văn làm xúc động lòng người đến vậy. Càng yêu thương, trân trọng con người bao nhiêu thì nhà văn càng lên án gay gắt những thế lực chà đạp quyền sồng con người bấy nhiêu. Do đó, Vợ chồng A Phủ là bài ca ca ngợi con người, nhưng đồng thời cũng là bản án đanh thép kết tội những ai lợi dụng thần quyền, cường quyền, lợi dụng hủ tục mê tín… để biến con người thành nô lệ.
c) Đề cao con người
Trong Vợ chồng A Phủ, Tô Hoài đã thể hiện cái nhìn trân trọng đối với con người. Nhà văn đã khắc họa sức sống bên trong của những con người thấp cổ bé họng và đặt trọn niềm tin yêu vào đó.
Đi sâu vào tận cùng ý thức của nhân vật, tác giả đã phát hiện niềm khát khao sống của họ. Tuy phải âm thầm chịu đựng cuộc sống đày đọa nhưng không phải vì thế mà Mị và A Phủ đánh mất sức sống. Nhà văn Tô Hoài đã khiến chúng ta thêm tin yêu vào bản chất tốt đẹp của con người.
d) Tìm đường đi cho nhân vật
Điểm mới mẻ và sâu sắc của tư tưởng nhân đạo ở Vợ chồng A Phủ là tác giả đã để nhân vật tìm ra con đường giải phóng thật sự, thể hiện ước vọng chân chính của mình trong quá trình đến với cách mạng. Mị dần dần không sợ con ma nhà A Sử, biết ngẩng đầu tham gia du kích. A Phủ trở thành đội trưởng đội du kích cùng nhân dân bảo vệ quê hương. Sự đổi đời của nhân vật Mị và A Phủ chính là giá trị nhân đạo cao nhất trong tác phẩm.
Vanmau.edu.vn
|
Qua hai văn bản Tức nước vỡ bờ của Ngô Tốt Tố và Lão Hạc của Nam Cao, em hãy viết đoạn văn nêu cảm nghĩ của mình về người nông dân Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám 1945
Gợi ý
Đoạn trích Tức nước vỡ bờ và truyện ngắn Lão Hạc được sáng tác theo phong cách hiện thực, phản ánh cuộc đời và tính cách của người nông dân trong xã hội cũ. Họ là người sống khổ cực vì bị áp bức bóc lột nặng nề, phải chịu sưu cao thuế nặng. Cuộc sống của họ lâm vào cảnh bần cùng, bế tắc. Tuy vậy, họ có những phẩm chất đáng quý là trong sạch, lương thiện, giàu tình thương yêu. Họ quyết liệt phản kháng hoặc thậm chí dám chọn cái chết để giữ gìn phẩm chất trong sạch của mình. Điều đó cho thấy: người nông dân trong xã hội cũ tiềm tàng một sức mạnh của tình cảm, một sức mạnh phản kháng chống lại áp bức, bất công.
Vanmau.edu.vn
Xem thêm: Hãy chứng minh nhận định "Cái đoạn chị Dậu đánh nhau với tên cai lệ là một đoạn tuyệt khéo" của Vũ Ngọc Phan là đúng
|
Through the two texts The Water Breaks the Banks by Ngo Tot To and Lao Hac by Nam Cao, write a paragraph expressing your feelings about Vietnamese farmers before the August Revolution of 1945.
Suggest
The excerpt The Water Breaks the Banks and the short story Lao Hac were composed in a realistic style, reflecting the life and personality of farmers in the old society. They are people who live a miserable life because they are heavily oppressed and exploited, and have to pay heavy taxes. Their lives fall into poverty and deadlock. However, they have precious qualities of purity, honesty, and love. They fiercely resisted or even dared to choose death to preserve their pure qualities. This shows that farmers in the old society have a potential strength of emotion, a strength to protest against oppression and injustice.
Vanmau.edu.vn
See more: Prove that Vu Ngoc Phan's statement "The part where Ms. Dau fights with the ruler is a brilliant part" is correct.
|
Qua hai văn bản Tức nước vỡ bờ và Lão Hạc, chứng minh rằng mặc dù gặp nhiều đau khổ bất hạnh, người nông dân trước cách mạng tháng Tám vẫn giữ trọn những phẩm chất tốt đẹp của mình
Gợi ý
Việt Nam, đất nước nông nghiệp, cái nôi của nền văn minh lúa nước. Trước cách mạng tháng Tám hơn 90% dân số sống bằng nghề nông. Và từ buổi đầu khi văn học ra đời và phát triển, đề tài người nông dân đã trở thành mảnh đất tốt để ươm lên những mầm cây văn học với những tác phẩm đặc sắc. "Tắt đèn" của Ngô Tất Tố" và "Lão Hạc" của Nam Cao là hai tác phẩm như vậy. Đọc những sáng tác này ta thấy vẻ đẹp toả sáng trong tâm hồn của tầng lớp lao động: "Mặc dù gặp nhiều đau khổ bất hạnh nhưng người nông dân trước cách mạng tháng Tám vẫn giữ trọn phẩm chất tốt đẹp của mình".
Trước hết đọc hai văn bản điều làm ta ấn tượng về người nông dân Việt Nam trước cách mạng tháng Tám chính là cuộc sống đau khổ, bất hạnh với cảnh lầm than khổ cực.
Chị Dậu trong "Tắt đèn" của Ngô Tất Tố là một hình tượng tiêu biểu. Chị Dậu đầu tắt mặt tối không dám chơi ngày nào mà vẫn "cơm không đủ no, áo không đủ mặc". Gia đình chị đã "lên đến bậc nhì, bậc nhất trong hạng cùng đinh". Chồng chị ốm đau, vụ thuế đến cùng biết bao tai hoạ… Nào là phải chạy đôn, chạy đáo để cho đủ số tiền nộp sưu cho chồng mà không có một hạt cơm nào vào bụng. Chị như phải mò kim dưới đáy bể, như lạc vào cái sa mạc cát nóng bỏng, gió thổi tạt vào người như lửa. Trong cảnh "nửa đêm thuế thúc trống dồn" không có tiền nộp sưu cho chồng, vay mượn thì đều là bạn nghèo ai cũng không có, kẻ nhà giàu địa chủ thì đòi trả lãi với giá cắt cổ, chị đành phải bán đứa con ngoan ngoãn bé bỏng mà chị đã mang nặng đẻ đau, mà đã đến lúc nó có thể giúp chị rất nhiều. Chúng ta có thể cảm nhận được nỗi đau như đứt từng khúc ruột của chị khi bán cái Tý. Cái cảnh chị nuốt nước mắt vào trong mà van lạy cái Tý, thằng Dần để chúng đồng ý cho chị dẫn cái Tý sang nhà Nghị Quế làm người đọc không cầm lòng được. Cuộc đời chị bất hạnh này lại nối tiếp khổ đau kia. Sau khi bán con và đàn chó mới đẻ, cóp nhặt đem tiềm nộp sưu cho chồng xong tưởng chừng nạn kiếp đã xong mà cố gắng sống những ngày bình yên bên người chồng ốm yếu, nhưng bọn lý trưởng, chánh tổng trong làng lợi dụng thuế má muốn đục nước béo cò bắt chị phải nộp thêm suất sưu cho em chồng đã chết từ năm ngoái. Người đã chết, đã đi vào cõi hư vô, còn đâu mà bắt người ta đóng thuế, thật quá bất công. Rồi chị còn phải chứng kiến cảnh chồng ốm đau bệnh tật, rũ rượi như một chiếc lá héo khô bị ném vào nhà, chị chăm sóc cho anh chưa kịp hoàn hồn thì bọn cai lệ và người nhà lý trưởng xông vào định bắt trói anh điệu ra đình vì thiếu sưu của em mình. Trong hoàn cảnh ấy không thể chịu đựng được nữa, tình yêu thương chồng và nỗi tức giận bị đè nén bấy lâu đã thôi thúc chị hành động. Chị đã xông vào bọn chúng đánh trả quyết liệt sau những lời van xin thiết tha không hiệu nghiệm để rồi kết quả là cả hai vợ chồng chị bị bắt giải ra đình để quan tư phủ xử tội vì đã chống lại "người nhà nước". Những khổ cực mà chị Dậu phải chịu cũng như những tâm lý uất ức trào dâng bột phát thể hiện thành hành động phản kháng của chị chính là hình ảnh chân thực về cuộc sống của người nông dân trước cách mạng tháng Tám.Xem thêm: Thuyết minh về tác hại của thuốc lá Nếu đọc "Tắt đèn" của Ngô Tất Tố, ta cảm thương cho thân phận của người phụ nữ nông dân dưới chế độ phong kiến thực dân bao nhiêu thì khi đọc "Lão Hạc" của Nam Cao ta lại càng thương cảm và xót xa cho số phận của người nông dân với cuộc sống mòn mỏi trong chờ đợi và hy vọng mong manh mà cuộc sống cô đơn gặm nhấm tâm hồn và thể xác già nua của lão Hạc. Lão phải sống cô đơn buồn tủi, trong những ngày xa con, lão chỉ có "cậu Vàng” làm bạn. "Vàng" là kỷ niệm thiêng liêng của đứa con để lại, càng thương nhớ con lão càng quý mến con Vàng. Lão âu yếm trò chuyện với nó như người ông hiền hậu ân cần với đứa cháu ngoan. Yêu thương cậu vàng như vậy nhưng bị dồn vào nước đường cùng, lão đành làm một việc nhẫn tâm là phải bán nó đi. Khi kể lại với ông giáo, lão đau đớn xót xa tột cùng: "Mặt lão đột nhiên co rúm lại. Những nếp nhãn xô lại ép cho nước mắt chảy ra. Cái đầu lão ngoẹo về một bên và cái miệng móm mém của lão mếu như con nít…". Lão khổ tâm dằn vặt vì chuyện bán chó. Và cái đói cứ đeo đẳng làm cho lão dù đã phải bòn củ chuối, rau má, sung luộc để kiếm bữa cho qua ngày mà vẫn không xong. Cuối cùng lão phải kết liễu cuộc đời bằng liều bả chó xin được của Binh Tư. Ôi cái chết thật đau đớn và dữ dội, lão "vật vã trên giường, đầu tóc rũ rượi, áo quần xộc xệch, lão tru tréo, bọt mép sùi ra…". Hình ảnh lão Hạc gợi trong ta ký ức buồn đau của thảm cảnh 2 triệu người chết đói năm 1945 trước khi cách mạng tháng Tám nổ ra.Xem thêm: Đam mê học hỏi là niềm đam mê không bao giờ phản bội con người. Anh (chị) suy nghĩ gì về ý kiến trên
Người nông dân trong xã hội cũ gặp nhiều đau khổ bất hạnh là thế nhưng vượt lên trên những đau khổ bất hạnh đó, họ vẫn luôn giữ trọn những phẩm chất cao đẹp của mình mà đọc tác phẩm dù hiện thực có buồn thương nhưng nhân cách và phẩm chất cao quý của họ vẫn ngời sáng trong đêm tối khiến ta thêm tin yêu con người, tin yêu cuộc sống.
Ngay trong hoàn cảnh bất hạnh khổ cực vì bị hà hiếp bóc lột chị Dậu vẫn thể hiện vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ yêu thương chồng con đảm đang tháo vát. Trong văn bản "Tức nước vỡ bờ" hình ảnh chị dùng những lời lẽ van xin thảm thiết và dám xông vào chống trả quyết liệt tên cai lệ và người là lý trưởng để cứu chồng là biểu hiện sâu sắc nhất tình cảm yêu thương hy sinh vì chồng con của chị Dậu. Cử chỉ bê bát cháo đến bên chồng với những lời nói tự nhiên như tấm lòng chân thành của chị đối với chồng "Thầy em cố dậy húp ít cháo cho đỡ mệt…" đã làm người đọc xúc động thực sự trước tấm lòng thơm thảo, vẻ đẹp nữ tính dịu dàng với tình cảm mộc mạc của người phụ nữ ấy. Ở chị là sự hội tụ những vẻ đẹp tự nhiên của người phụ nữ Việt Nam mà Ngô Tất Tố muốn ngợi ca.
Cũng xuất phát từ tình yêu chồng mà chị đã vùng lên quật ngã tên cai lệ và người nhà lý trưởng để bảo vệ chồng. Hành động của chị dù là bột phát nhưng, suy nghĩ đầy ý thức "Thà ngồi tù, để cho nó làm tình làm tội mãi thế tôi không chịu được". Ý thức đó phải chăng là ý thức phản kháng tiềm tàng trong người nông dân mà Ngô Tất Tố dường như đang "xui người nông dân nổi loạn" (theo nhận xét của Nguyễn Tuân) để nhằm phản ánh quy luật: có áp bức có đấu tranh, "Tức nước vỡ bờ".
Nếu như chị Dậu tiêu biểu cho người phụ nữ nông dân trọng những vẻ đẹp nhân ái vị tha và tiềm tàng sức sống, sự phản kháng mãnh liệt thì ở nhân vật lão Hạc ta lại cảm nhận được tâm hồn và tình yêu tha thiết, niềm tin cháy bỏng và một nhân cách cao thượng đáng nể trọng của người nông dân già nua nghèo hèn phải tìm đến cõi chết. Nếu nói lão Hạc chết vì đói nghèo quả là hoàn toàn chưa hiểu hết ý đồ của nhà văn. Nam Cao đã khơi vào "luồng chưa ai khơi" trong hiện thực lúc bấy giờ là tinh thần trách nhiệm, tình yêu thương nhân ái, đức hy sinh cao cả của người cha trong hoàn cảnh vật lộn với cái đói. Lão Hạc chết là để bảo toàn danh dự và nhân cách, để giữ trọn tình yêu cho con, để thanh thản ra đi sau những gửi gắm về mảnh vườn, tiền cưới vợ cho con, tiền lo ma chay để khi ra về nơi miền cực lạc xa xôi còn có hàng xóm lo cho. Chính sự chất phác lương thiện đã giúp lão có những hành động đầy tự trọng ấy, lão không muốn liên luỵ đến ai mà chỉ âm thầm chịu khổ một mình.Xem thêm: Chuyển nội dung bài thơ Đàn ghi ta của Lor-ca của Thanh Thảo thành văn xuôi Lão Hạc còn là người rất đôn hậu và cao cả, lão đã khóc hu hu, đã xót xa đến tột cùng khi phải bán con chó, lão ân hận, lão khóc như người có tội, lương tâm lão bị dày vò, cắn dứt chỉ vì không thuỷ chung với một con chó. Lòng nhân ái của lão khiến ta cảm động biết nhường nào.
Những đức tính khiến chúng ta phải cảm phục nhất ở lão Hạc đó là lòng yêu thương con bao la, đức hy sinh cao cả. Chính tình yêu con đã giúp lão ngăn con không bán vườn. Lúc khoẻ lão cố cày thuê cuốc mướn, đồng áng từ lúc bình minh đến khi hoàng hôn buông xuống, tất cả chỉ để dành dụm cho con ít tiền. Nhưng sau trận ốm, lão đã chẳng còn gì, thương con nên lão không muốn tiêu phạm vào một đồng tiền nào dành cho con. Lão nhịn ăn, nhịn mặc, một lòng vì con: để rồi lão đã chọn con đường quyên sinh để giữ trọn mảnh vườn cho con. Cái chết dữ dội và kinh hoàng lắm. Lão thương con ngay đến những giây phút cuối cùng của cuộc đời, nhưng lòng lão thanh thản đến êm dịu.
Cảm ơn Ngô Tất Tố, cảm ơn Nam Cao! Họ đã cho chúng ta hiểu rõ cái cuộc sống cùng quẫn, bi thảm của người nông dân, làm chúng ta càng cảm phục trước những phẩm chất cao quý, đẹp đẽ và trong sáng của họ. Giữa bùn đen nhưng tâm hồn họ vẫn toả hương thơm ngát như đoá hoa sen đồng nội. Nhìn vào cuộc sống của người nông dân ngày nay ta càng xót xa cho cha ông thuở trước và thêm tin yêu cuộc sống mới.
Vanmau.edu.vn
|
Qua hai văn bản Tức nước vỡ bờ và Lão Hạc, chứng minh rằng mặc dù gặp nhiều đau khổ bất hạnh, người nông dân trước cách mạng tháng Tám vẫn giữ trọn những phẩm chất tốt đẹp của mình
Gợi ý
Việt Nam, đất nước nông nghiệp, cái nôi của nền văn minh lúa nước. Trước cách mạng tháng Tám hơn 90% dân số sống bằng nghề nông. Và từ buổi đầu khi văn học ra đời và phát triển, đề tài người nông dân đã trở thành mảnh đất tốt để ươm lên những mầm cây văn học với những tác phẩm đặc sắc. "Tắt đèn" của Ngô Tất Tố" và "Lão Hạc" của Nam Cao là hai tác phẩm như vậy. Đọc những sáng tác này ta thấy vẻ đẹp toả sáng trong tâm hồn của tầng lớp lao động: "Mặc dù gặp nhiều đau khổ bất hạnh nhưng người nông dân trước cách mạng tháng Tám vẫn giữ trọn phẩm chất tốt đẹp của mình".
Trước hết đọc hai văn bản điều làm ta ấn tượng về người nông dân Việt Nam trước cách mạng tháng Tám chính là cuộc sống đau khổ, bất hạnh với cảnh lầm than khổ cực.
Chị Dậu trong "Tắt đèn" của Ngô Tất Tố là một hình tượng tiêu biểu. Chị Dậu đầu tắt mặt tối không dám chơi ngày nào mà vẫn "cơm không đủ no, áo không đủ mặc". Gia đình chị đã "lên đến bậc nhì, bậc nhất trong hạng cùng đinh". Chồng chị ốm đau, vụ thuế đến cùng biết bao tai hoạ… Nào là phải chạy đôn, chạy đáo để cho đủ số tiền nộp sưu cho chồng mà không có một hạt cơm nào vào bụng. Chị như phải mò kim dưới đáy bể, như lạc vào cái sa mạc cát nóng bỏng, gió thổi tạt vào người như lửa. Trong cảnh "nửa đêm thuế thúc trống dồn" không có tiền nộp sưu cho chồng, vay mượn thì đều là bạn nghèo ai cũng không có, kẻ nhà giàu địa chủ thì đòi trả lãi với giá cắt cổ, chị đành phải bán đứa con ngoan ngoãn bé bỏng mà chị đã mang nặng đẻ đau, mà đã đến lúc nó có thể giúp chị rất nhiều. Chúng ta có thể cảm nhận được nỗi đau như đứt từng khúc ruột của chị khi bán cái Tý. Cái cảnh chị nuốt nước mắt vào trong mà van lạy cái Tý, thằng Dần để chúng đồng ý cho chị dẫn cái Tý sang nhà Nghị Quế làm người đọc không cầm lòng được. Cuộc đời chị bất hạnh này lại nối tiếp khổ đau kia. Sau khi bán con và đàn chó mới đẻ, cóp nhặt đem tiềm nộp sưu cho chồng xong tưởng chừng nạn kiếp đã xong mà cố gắng sống những ngày bình yên bên người chồng ốm yếu, nhưng bọn lý trưởng, chánh tổng trong làng lợi dụng thuế má muốn đục nước béo cò bắt chị phải nộp thêm suất sưu cho em chồng đã chết từ năm ngoái. Người đã chết, đã đi vào cõi hư vô, còn đâu mà bắt người ta đóng thuế, thật quá bất công. Rồi chị còn phải chứng kiến cảnh chồng ốm đau bệnh tật, rũ rượi như một chiếc lá héo khô bị ném vào nhà, chị chăm sóc cho anh chưa kịp hoàn hồn thì bọn cai lệ và người nhà lý trưởng xông vào định bắt trói anh điệu ra đình vì thiếu sưu của em mình. Trong hoàn cảnh ấy không thể chịu đựng được nữa, tình yêu thương chồng và nỗi tức giận bị đè nén bấy lâu đã thôi thúc chị hành động. Chị đã xông vào bọn chúng đánh trả quyết liệt sau những lời van xin thiết tha không hiệu nghiệm để rồi kết quả là cả hai vợ chồng chị bị bắt giải ra đình để quan tư phủ xử tội vì đã chống lại "người nhà nước". Những khổ cực mà chị Dậu phải chịu cũng như những tâm lý uất ức trào dâng bột phát thể hiện thành hành động phản kháng của chị chính là hình ảnh chân thực về cuộc sống của người nông dân trước cách mạng tháng Tám.Xem thêm: Thuyết minh về tác hại của thuốc lá Nếu đọc "Tắt đèn" của Ngô Tất Tố, ta cảm thương cho thân phận của người phụ nữ nông dân dưới chế độ phong kiến thực dân bao nhiêu thì khi đọc "Lão Hạc" của Nam Cao ta lại càng thương cảm và xót xa cho số phận của người nông dân với cuộc sống mòn mỏi trong chờ đợi và hy vọng mong manh mà cuộc sống cô đơn gặm nhấm tâm hồn và thể xác già nua của lão Hạc. Lão phải sống cô đơn buồn tủi, trong những ngày xa con, lão chỉ có "cậu Vàng” làm bạn. "Vàng" là kỷ niệm thiêng liêng của đứa con để lại, càng thương nhớ con lão càng quý mến con Vàng. Lão âu yếm trò chuyện với nó như người ông hiền hậu ân cần với đứa cháu ngoan. Yêu thương cậu vàng như vậy nhưng bị dồn vào nước đường cùng, lão đành làm một việc nhẫn tâm là phải bán nó đi. Khi kể lại với ông giáo, lão đau đớn xót xa tột cùng: "Mặt lão đột nhiên co rúm lại. Những nếp nhãn xô lại ép cho nước mắt chảy ra. Cái đầu lão ngoẹo về một bên và cái miệng móm mém của lão mếu như con nít…". Lão khổ tâm dằn vặt vì chuyện bán chó. Và cái đói cứ đeo đẳng làm cho lão dù đã phải bòn củ chuối, rau má, sung luộc để kiếm bữa cho qua ngày mà vẫn không xong. Cuối cùng lão phải kết liễu cuộc đời bằng liều bả chó xin được của Binh Tư. Ôi cái chết thật đau đớn và dữ dội, lão "vật vã trên giường, đầu tóc rũ rượi, áo quần xộc xệch, lão tru tréo, bọt mép sùi ra…". Hình ảnh lão Hạc gợi trong ta ký ức buồn đau của thảm cảnh 2 triệu người chết đói năm 1945 trước khi cách mạng tháng Tám nổ ra.Xem thêm: Đam mê học hỏi là niềm đam mê không bao giờ phản bội con người. Anh (chị) suy nghĩ gì về ý kiến trên
Người nông dân trong xã hội cũ gặp nhiều đau khổ bất hạnh là thế nhưng vượt lên trên những đau khổ bất hạnh đó, họ vẫn luôn giữ trọn những phẩm chất cao đẹp của mình mà đọc tác phẩm dù hiện thực có buồn thương nhưng nhân cách và phẩm chất cao quý của họ vẫn ngời sáng trong đêm tối khiến ta thêm tin yêu con người, tin yêu cuộc sống.
Ngay trong hoàn cảnh bất hạnh khổ cực vì bị hà hiếp bóc lột chị Dậu vẫn thể hiện vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ yêu thương chồng con đảm đang tháo vát. Trong văn bản "Tức nước vỡ bờ" hình ảnh chị dùng những lời lẽ van xin thảm thiết và dám xông vào chống trả quyết liệt tên cai lệ và người là lý trưởng để cứu chồng là biểu hiện sâu sắc nhất tình cảm yêu thương hy sinh vì chồng con của chị Dậu. Cử chỉ bê bát cháo đến bên chồng với những lời nói tự nhiên như tấm lòng chân thành của chị đối với chồng "Thầy em cố dậy húp ít cháo cho đỡ mệt…" đã làm người đọc xúc động thực sự trước tấm lòng thơm thảo, vẻ đẹp nữ tính dịu dàng với tình cảm mộc mạc của người phụ nữ ấy. Ở chị là sự hội tụ những vẻ đẹp tự nhiên của người phụ nữ Việt Nam mà Ngô Tất Tố muốn ngợi ca.
Cũng xuất phát từ tình yêu chồng mà chị đã vùng lên quật ngã tên cai lệ và người nhà lý trưởng để bảo vệ chồng. Hành động của chị dù là bột phát nhưng, suy nghĩ đầy ý thức "Thà ngồi tù, để cho nó làm tình làm tội mãi thế tôi không chịu được". Ý thức đó phải chăng là ý thức phản kháng tiềm tàng trong người nông dân mà Ngô Tất Tố dường như đang "xui người nông dân nổi loạn" (theo nhận xét của Nguyễn Tuân) để nhằm phản ánh quy luật: có áp bức có đấu tranh, "Tức nước vỡ bờ".
Nếu như chị Dậu tiêu biểu cho người phụ nữ nông dân trọng những vẻ đẹp nhân ái vị tha và tiềm tàng sức sống, sự phản kháng mãnh liệt thì ở nhân vật lão Hạc ta lại cảm nhận được tâm hồn và tình yêu tha thiết, niềm tin cháy bỏng và một nhân cách cao thượng đáng nể trọng của người nông dân già nua nghèo hèn phải tìm đến cõi chết. Nếu nói lão Hạc chết vì đói nghèo quả là hoàn toàn chưa hiểu hết ý đồ của nhà văn. Nam Cao đã khơi vào "luồng chưa ai khơi" trong hiện thực lúc bấy giờ là tinh thần trách nhiệm, tình yêu thương nhân ái, đức hy sinh cao cả của người cha trong hoàn cảnh vật lộn với cái đói. Lão Hạc chết là để bảo toàn danh dự và nhân cách, để giữ trọn tình yêu cho con, để thanh thản ra đi sau những gửi gắm về mảnh vườn, tiền cưới vợ cho con, tiền lo ma chay để khi ra về nơi miền cực lạc xa xôi còn có hàng xóm lo cho. Chính sự chất phác lương thiện đã giúp lão có những hành động đầy tự trọng ấy, lão không muốn liên luỵ đến ai mà chỉ âm thầm chịu khổ một mình.Xem thêm: Chuyển nội dung bài thơ Đàn ghi ta của Lor-ca của Thanh Thảo thành văn xuôi Lão Hạc còn là người rất đôn hậu và cao cả, lão đã khóc hu hu, đã xót xa đến tột cùng khi phải bán con chó, lão ân hận, lão khóc như người có tội, lương tâm lão bị dày vò, cắn dứt chỉ vì không thuỷ chung với một con chó. Lòng nhân ái của lão khiến ta cảm động biết nhường nào.
Những đức tính khiến chúng ta phải cảm phục nhất ở lão Hạc đó là lòng yêu thương con bao la, đức hy sinh cao cả. Chính tình yêu con đã giúp lão ngăn con không bán vườn. Lúc khoẻ lão cố cày thuê cuốc mướn, đồng áng từ lúc bình minh đến khi hoàng hôn buông xuống, tất cả chỉ để dành dụm cho con ít tiền. Nhưng sau trận ốm, lão đã chẳng còn gì, thương con nên lão không muốn tiêu phạm vào một đồng tiền nào dành cho con. Lão nhịn ăn, nhịn mặc, một lòng vì con: để rồi lão đã chọn con đường quyên sinh để giữ trọn mảnh vườn cho con. Cái chết dữ dội và kinh hoàng lắm. Lão thương con ngay đến những giây phút cuối cùng của cuộc đời, nhưng lòng lão thanh thản đến êm dịu.
Cảm ơn Ngô Tất Tố, cảm ơn Nam Cao! Họ đã cho chúng ta hiểu rõ cái cuộc sống cùng quẫn, bi thảm của người nông dân, làm chúng ta càng cảm phục trước những phẩm chất cao quý, đẹp đẽ và trong sáng của họ. Giữa bùn đen nhưng tâm hồn họ vẫn toả hương thơm ngát như đoá hoa sen đồng nội. Nhìn vào cuộc sống của người nông dân ngày nay ta càng xót xa cho cha ông thuở trước và thêm tin yêu cuộc sống mới.
Vanmau.edu.vn
|
Qua hồi tưởng của chủ thể trữ tình, vẻ đẹp của cảnh và người hiện lên như thế nào trong bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu?
Hướng dẫn
a) Hồi tưởng về thiên nhiên Việt Bắc
Thiên nhiên Việt Bắc hiện lên mang yẻ đẹp vừa gần gũi, vừa nên thơ của quê hương cách mạng.
– vẻ đẹp đa dạng theo thời gian, không gian khác nhau: sương sớm nắng chiều, trăng khuya… Đặc biệt là "bộ tranh tứ bình" của Việt Bắc qua bốn mùa:
+ Mùa xuân: Ngày xuân mơ nở trắng rừng
+ Mùa hạ: Ve kêu rừng phách đổ vàng
+ Mùa thu: Rừng thu trăng rọi hoà bình
+ Mùa đông: Rừng xanh hoa chuối đó tươi
– Thiên nhiên trở nên đẹp hơn, hữu tình hơn khi có sự gắn bó với con người:
+ Cảnh làng bản ấm cúng:
Nhớ tùng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thưong đi về
+ Cảnh sinh hoạt kháng chiến ở chiến khu
Nhớ sao lớp học i tờ
… Gian nan đòi van ca vang núi đèo
+ Cảnh thơ mộng, ân tình:
Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lung nương
+ Cảnh sinh hoạt đặc trưng của Việt Bắc
Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều
Chày đêm nện cối đều đều suối xa
Những câu thơ được sắp xếp xen kẽ, cứ một câu tả cảnh lại có một câu tả người, thể hiện sự gắn bó giữa cảnh và người
b) Hồi tưởng về con người Việt Bắc
– Trong hồi tường, nhà thơ nhớ đến những con người Việt Bắc, trên cái phông chung của núi rừng. Tác giả nhớ người đi rừng: “Đèo cao nắng ánh dao cài thắt lưng”, “Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang”, “Nhớ cô em gái hái măng một mình”, và nhớ “tiếng hát ân tình thuỷ chung” của người Việt Bắc
– Nhớ đến cuộc sống thanh bình êm ả:
Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều
Chày đêm nện cối đều đều suối xa
– Cuộc sống vất vả, khó khăn trong kháng chiến nhưng chan chứa tình yêu thương.
Thương nhau, chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng.
Đó là cảnh sinh hoạt bình dị của người dân Việt Bắc. Nét đẹp nhất chính là nghĩa tình và lòng quyết tâm đùm bọc, che chở cho cách mạng, hi sinh tất cả vì kháng chiến, dù cuộc sống còn rất khó khăn.
Nguồn: thêm: Trình bày những nét chính về cuộc đời và sự nghiệp của tác gia Xuân Diệu
|
Through the lyrical subject's recollection, how does the beauty of scenes and people appear in To Huu's Viet Bac poem?
Instruct
a) Reminiscing about Viet Bac nature
Viet Bac nature appears with the beauty that is both intimate and poetic of the revolutionary homeland.
- Diverse beauty according to different times and spaces: morning dew, afternoon sun, late night moon... Especially Viet Bac's "four vase paintings" through the four seasons:
+ Spring: On spring day, apricots bloom in white forests
+ Summer: Cicadas call out to the forest and pour gold
+ Autumn: Autumn forest, moonlight shines peace
+ Winter: The forest is green with fresh banana flowers
– Nature becomes more beautiful and more charming when it is associated with humans:
+ Cozy village scene:
Remember to spare the smoke and mist
Early and late at the kitchen fire, people often come home
+ Scenes of resistance activities in war zones
Remember to copy the class i sheet
... Difficulties cry out over the mountains and passes
+ Poetic and affectionate scene:
Missing something like missing a lover
The moon rises to the top of the mountain, the afternoon sun shines brightly
+ Typical living scene of Viet Bac
Remember the sound of the forest gong in the afternoon
The mortar and pestle pounded steadily at night on a distant stream
The verses are arranged alternately, for every sentence describing a scene, there is a sentence describing a person, showing the connection between scene and person.
b) Reminiscing about the people of Viet Bac
– In the wall episode, the poet remembers the people of Viet Bac, against the common backdrop of the mountains and forests. The author remembers the person going through the forest: "The high, sunny mountain pass, the light of a knife at the waist", "Remembering the person who weaved hats and smoothed each string", "Remembered the younger sister picking bamboo shoots alone", and remembered "the singing of faithful love". of the Viet Bac people
– Remembering a peaceful and quiet life:
Remember the sound of the forest gong in the afternoon
The mortar and pestle pounded steadily at night on a distant stream
– Life was hard and difficult in the resistance war but filled with love.
Love each other, share the cassava roots back
Sharing half bowl of rice, covered with blankets sui.
That is the simple living scene of the Viet Bac people. The most beautiful feature is the love and determination to support and protect the revolution, sacrificing everything for the resistance, even though life is still very difficult.
Source: more: Presents the main features of the life and career of author Xuan Dieu
|
Qua những bài ca dao, những câu tục ngữ đã học và đọc thêm, em hãy chứng minh rằng tiếng Việt giàu đẹp
Gợi ý
Trong văn bản “Sự giàu đẹp của tiếng Việt”, Giáo sư Đặng Thai Mai từng khẳng định: tiếng Việt ta là thứ tiếng giàu và đẹp. Chỉ qua những bài ca dao, những câu tục ngữ giản dị ngắn gọn trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam ta đã thấy được điều đó.
Ca dao tục ngữ vặn dụng rất khéo léo hệ thông nguyên âm, phụ âm phong phú, giàu thanh điệu (lên tới sáu…thanh). Nguồn từ vựng được sử dụrig lại rất dồi dào.Những điều đó tạo nên sự ụyển chuyển, cân đôi, nhịp nhàng lăm nên chất họa, chất nhạc cho câu chữ:
“Trong đầm gỉ đẹp bằng sen
Lá xanh bông trắng lại chen nhị vàng
Nhị vàng bông trắng lá xanh
Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”.
Thể thơ lục bát với lối bắt ở vần lưng, vần chân “en”, “ang” – “anh” kết hợp hài hòa với các thanh điệu: thanh không “xanh”, “bông”,…; thanh huyền “đầm”, “gì”,…; thanh nặng “đẹp”, “lại”,…; thanh sắc “lá”, “trắng”; thanh hỏi “chẳng” đã tạo cho câu thơ sự cân đối, nhịp nhàng và chất nhạc rất đặc trưng. Chẳng những thế, đọc câu thơ:
“Lá xanh bông trắng lại chen nhị vàng
Nhị vàng bông trắng lá xanh”
Người đọc cồn như được lật giở từng lớp, từng lớp của loài hoa sen để soi ngắm, thưởng thức: lá, bông, nhị, nhị, bông, lá.Xem thêm: Bàn về vai trò, tác dụng của thơ ca đối với cuộc sống con người Sự nhịp nhàng, uyển chuyến giàn chất nhạc còn có thế nhắc đến những câu tục ngữ với phép tiểu đối tinh tế và lối bắt vần lưng:
“Gần mực thì đen, / gần đèn thỉ rạng”,
“Nhất canh trì, / nhị canh viên,/ tam canh điền”,
“Lá lành / đùm / lá rách”,
“Lời nói / gói vàng”,…
Hệ thống từ láy giàu tính tượng thanh, tượng hình, cũng được sử dụng rộng rãi trong ca dao, tục ngữ:
“Chim khôn kêu tiếng rảnh rang
Người khôn nói tiếng dịu dàng dễ nghe”,
“Vườn thỉ cuốc rãnh thong dong
Cách nhau hai thước đặt hông cho đầy…”,
…
Các hình ảnh thơ cũng được kết hợp rộng rãi tạo nên tính biểu cảm cao:
“Công cha như núi ngất trời
Nghĩa mẹ như nước ở ngoài bể Đông
Núi cao bể rộng mênh mông
Cù lao chín chữ ghi lòng con ơi!”,
"Thân em như hạt mưa sa
Hạt vào đài các, hạt ra ruộng cày”,…
Có thể nhận thấy rằng những bài ca dao thường có hình thức biểu đạt là thể thơ lục bát truyền thống rất giàu nhạc điệu kết hợp với các hình ảnh so sánh, hình ảnh ẩn dụ, hoán dụ rất đặc sắc: núi ngất trời, hạt mưa sa, dải lụa đào, thuyền – bến,… Tục ngữ lại rất ngắn gọn, nhịp nhàng… Nhờ vậy, vốn văn hóa dân gian ấy rất dễ đi vào lòng người, được lưu truyền quạ nhiều vùng miền, nhiều thế hệ có điều kiện được dân gian gọt giũa và trở nên tinh tế, sâu sắc, gợi cảm.Xem thêm: Phương pháp học môn Văn hiệu quả Ca dao tục ngữ là vốn quý của dân tộc, là tinh hoa văn hóa của dân tộc Việt Nam. Đồng thời, qua ca dao tục ngữ tiếng Việt đã thể hiện khá trọn vẹn sự giàu đẹp, phong phú và đa dạng của mình.
Vanmau.edu.vn
|
Through the folk songs and proverbs you have learned and read more, prove that Vietnamese is rich and beautiful
Suggest
In the text "The Rich and Beautiful Language of Vietnamese", Professor Dang Thai Mai once affirmed: Our Vietnamese language is a rich and beautiful language. Only through folk songs and short, simple proverbs in the treasury of Vietnamese folk literature can we see that.
Proverbs and folk songs skillfully utilize a rich system of vowels and consonants, rich in tones (up to six... tones). The source of vocabulary used is very rich. These things create flexibility, balance, and rhythm, creating a painterly and musical quality for the words:
“In a rusty lagoon as beautiful as a lotus
Green leaves, white flowers, and yellow stamens
Yellow stamens, white flowers, green leaves
Nearly mud that does not stink of mud".
The six-eight poetic form with the back rhyme, foot rhyme "en", "ang" - "anh" combines harmoniously with the tones: the air tone "green", "cotton",...; Thanh Huyen “dam”, “what”,…; heavy tone "beautiful", "again",...; the color tone “leaf”, “white”; The question tone "no" gives the poem a unique balance, rhythm and musical quality. Not only that, read the verse:
“Green leaves and white flowers are surrounded by yellow stamens
Yellow stamens, white flowers, green leaves”
The reader seems to be able to flip through each layer of the lotus flower to admire and enjoy: leaves, flowers, stamens, stamens, flowers, leaves. See more: Discussing the role and effects of poetry on human life The rhythm and grace of music can also refer to proverbs with subtle parallelism and rhyme schemes:
"Close to ink, it's black, / near the light, it's dawn",
"One canh maintain, / two canh garden, / three canh fields",
“Good leaves / broken leaves / torn leaves”,
“Words/package of gold”,…
The lexical system is rich in onomatopoeia and pictograms, and is also widely used in folk songs and proverbs:
“The wise bird calls freely
A wise person speaks in a gentle, easy-to-listen language.
“The garden is a leisurely hoe
Two meters apart, place hips to fill...",
…
Poetic images are also widely combined to create high expressiveness:
“Father's merit is like a mountain reaching the sky
Motherhood is like water outside the East Sea
The mountains are high and vast
The island has nine words in mind, my child!”,
"My body is like falling raindrops
Seeds go to the platform, seeds go to the plowed fields"...
It can be seen that folk songs often have the form of expression which is the traditional six-eight poem which is rich in music combined with very unique comparative images, metaphors, and metonymies: sky-high mountains, Falling raindrops, peach silk strips, boats - docks,... Proverbs are very brief and rhythmic... Thanks to that, that folk culture can easily enter people's hearts and be passed down through many regions and generations. have the opportunity to be refined by the people and become sophisticated, profound, and sexy. See more: Effective methods for learning Literature Folk songs and proverbs are a precious asset of the nation, the cultural quintessence of the Vietnamese people Male. At the same time, through folk songs and proverbs, Vietnamese has fully expressed its beauty, richness and diversity.
Vanmau.edu.vn
|
Qua những lời thơ Thuật hoài (tỏ lòng), anh (chị) thấy hình ảnh trưng nam nhi thời Trần mang vẻ đẹp như thế nào? Điều đó có ý nghĩa gì với thế hệ trẻ hôm nay và ngày mai
Gợi ý
Thời đại lịch sử nào Cũng có những con người làm nên hình ảnh cho nó. Và nhà văn luôn là người mang vào các tác phẩm văn chương con người thời đại mình. Đó là lí do đọc Thuật hoài hay bất cứ sáng tác văn học thời Trần nào, chúng ta cũng có thể cảm nhận rõ ràng hình ảnh trang nam nhi – hình ảnh tuyệt đẹp của thời đại này.
Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu,
Tam quân tì hổ khí thôn ngưu.
Nam nhi vị liễu công danh trái,
Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu.
Có thể nói triều Trần là một trong những triều đại anh hùng nhất trong lịch sử phong kiến Việt Nam. Lập nên những chiến công oanh liệt, dệt nên bản tráng ca cho non sông, đất nước, cho thời đại đó chính là quan quân tướng sĩ những đấng bậc anh hào. Không chỉ Thuật hoài mà từ Hịch tướng sĩ (Trần Quốc Tuấn), Tụng giá hoàn kinh sư (Trần Quang Khải), Bạch Đằng giang phú (Trương Hán Siêu) hay từ nhiều sáng tác văn học khác, chúng ta có thể cảm nhận rõ ràng vẻ đẹp của những trang nam nhi thời đại này.
Ấn tượng đầu tiên bài thơ gieo vào lòng người đọc là hình ảnh con người kì vĩ. Chỉ bằng một nét vẽ đơn giản, tư thế, hành động người anh hùng đã in dấu ấn đậm nét trong tâm trí người đọc. Hoành sóc là cầm ngang ngọn giáo. Nó khác với “cầm giáo”, “múa giáo”. Hoành sóc gợi tả sự oai phong, lẫm liệt của tư thế. Không cần nói đến khí phách nhưng lại lột tả một cách chân xác về khí phách hiên ngang tiềm chứa trong con người thời đại. Trong hoành sóc còn có sự chủ động chiến đấu và chiến thắng, còn có sự thách thức đầy ngạo nghễ. Hiện lên trước mắt chúng ta là hình ảnh đấng anh hào phi thường. Cái phi thường đó còn được nhân lên gấp bội khi tác giả đặt con người trong không gian và thời gian trường cửu. Sự rộng lớn, kì vĩ của không gian được thu hết vào hai chữ giang sơn. Không gian ấy khiến cho cây giáo của tráng sĩ trở thành trường giáo, và theo đó, tầm vóc con người càng trở nên vĩ đại hơn. Và để không gian trở nên vô tận, con người trở nên phi thường, tác giả lại đặt tất cả trong thời gian đằng đẵng kháp kỉ thu. Thời gian khiến hình tượng thơ không im lìm, bất động mà có sự vận động. Điều đó cũng có nghĩa tầm vóc, tư thế phi thường, vĩ đại kia không thuộc về một thời khắc riêng biệt nào mà nó là tầm vóc, tư thế của cả một thời đại lịch sử. Sự dài rộng của không gian và thời gian xuất hiện phía sau chính là phông nền tôn cao hơn hình tượng trang nam tử được khắc hoạ thông qua hành động hoành sóc ban đầu.Xem thêm: Trình bày suy nghĩ của anh (chị) về câu nói sau: ‘Tình thương là hạnh phúc của con người’. Nếu câu thơ đầu tiên phác hoạ chân dung chung nhất cho hình tượng tráng sĩ thời Trần thì câu thơ thứ hai là nét vẽ về quân đội hùng hậu. Đến đầy, sức mạnh của con người được nhân lên gấp bội bằng cách gọi tam quân, bằng nghệ thuật so sánh (tì hổ) và phép ẩn dụ (khí thôn ngưu). Sức mạnh con người được hình tượng hoá bằng sức mạnh của những loài mãnh thú, được nhấn mạnh ở sự vô biên, át cả sức mạnh của vũ trụ. Làm nên sức mạnh phi thường này chẳng phải là sức vóc tráng kiện của quan quân tướng sĩ nhà Trần sao? Hai câu đầu cho phép người đọc hình dung về những tráng sĩ với sức mạnh vô song, với khí thế “sát thát” ngút trời. Phải ý thức thật sâu sắc về vị trí, tầm vóc, sức mạnh con người thời đại mình, Phạm Ngũ Lão mới có thể viết những câu thơ ngắn gọn mà tuyệt đẹp như vậy.
Song hành cùng vẻ đẹp phi thường, vĩ đại toát ra từ tư thế, tầm vóc là vẻ đẹp của ý chí, của lí tưởng con người. Thời phong kiến, các dâng tu mi nam tử luôn mang trong mình chí làm trai, luôn có giấc mộng công danh cao đẹp. Từ câu ca dân gian:
Làm trai cho đáng nên trai
Xuống đông, đông tĩnh; lên đoài, đoài an
đến lời thơ Nguyễn Công Trứ cuổì thế kĩ XIX:
Làm trai đứng ở trong trời đất
Phải có danh gì với núi sông
dường như chí anh hùng đã trở thành lí khí xuyên mọi thời đại. Con người đã có tầm vóc cao lớn, có hành động phi thường ắt phải mang trong mình hoài bão lớn lao. Có điều, hoài bão ây lại được giấu kín sau nỗi “thẹn”, lại khuất sau nỗi trằn trọc khi tự kiểm điểm về bản thân mình: Công danh nam tử còn vương nợ. Không phải giấc mộng công danh của con người thời đại này quá lớn, lớn đến mức không tưởng. Cũng không phải con người không có khả năng biến giấc mộng công danh thành hiện thực, không có khả năng trả món nợ công danh. Với những chiến công hiển hách của mình, Phạm Ngũ Lão hay những trang nam tử hào kiệt thời Trần có quyền ngẩng cao đầu tự hào về chính bản thân mình. Nói như vậy để chúng ta hiểu rằng tướng quân họ Phạm nói riêng và các đấng nam tử thời đại nhà Trần nói chung dường như không bao giờ bằng lòng với chính mình. Chính vì nghiêm khắc với bản thân, không tự thoả mãn với những gì mình làm được nên con người mới mang trong mình nỗi “thẹn”. Tự sánh mình với Gia Cát Khổng Minh không phải là biểu hiện của sự tự cao, tự đại. Thực ra soi minh vào chuẩn mực của đạo đức phong kiến, Phạm Ngũ Lão muốn thể hiện khát vọng hoàn thiện mình. Và nỗi thẹn của người là nỗi thẹn làm nên nhân cách.Xem thêm: Nghị luận xã hội - Tình thương là hạnh phúc của con người Bài thơ vẻn vẹn hai mươi tám chữ nhưng mỗi chữ viết ra đều khiến người đọc phải ngẫm nghiệm, suy tư. Đọc bài thơ, không chỉ cảm nhận được về vẻ đẹp toàn thiện của tác giả nói riêng và của con người thời Trần nói chung, mà từ đó, người đọc còn có thể rút ra nhiều ý nghĩa cho chính bản thân mình. Hình ảnh đáng nam nhi thời Trần chắc chắc có sức ảnh hưởng lớn đến thế hệ thanh niên thời đại mới. Tất nhiên, sự khác nhau về hoàn cảnh lịch sử, xã hội… sẽ khién cho con người ở các thời đại không trùng khít nhau. Nhưng đó không phải là trở lực khiến thế hệ trẻ hôm nay và ngày mai không học hỏi được từ cha ông những điều tốt đẹp. Thanh niên Việt Nam thời hiện đại được sông trong hoà bình, nhưng điều đó không có nghĩa họ không phải chiến đấu và chiến thắng. Hơn khi nào hết, con người thời hiện đại nói chung, đặc biệt là thế hệ trẻ Việt Nam ý thức rất cao về tầm vóc, vị trí của mình. Họ hiểu sức mạnh của cá nhân mình là sức mạnh thuộc về cộng "đong. Đó là lí do họ không ngại ngần công hiến. Bao sinh viên Việt Nam đã nhiệt tình hưởng ứng tháng tình nguyện “Mùa hè xanh”. Họ không ngại ngần đi đến các miền xa xôi của Tổ quốc, không ngại ngần cùng ăn, cùng ở, cùng lao động với đồng bào miền núi, hải đảo. Đó là lí do khiến thế hệ trẻ Việt Nam ngày càng hăng say học tập, rèn luyện, phấn đấu trở thành nhân tài cho đất nước. Và rõ ràng vị trí của nước ta trên trường quốc tế được khẳng định một phần nhờ những chiến thắng của sức trẻ, của lực lượng thanh niên. Thế hệ trẻ ngày nay luôn tự tin vào tài trí, bản lĩnh của mình nên họ không mang trong mình nỗi “thẹn” như đấng anh hùng năm xưa. Nhưng điều đó không có nghĩa thanh niên Việt Nam không mang trong mình hoài bão, khát vọng công danh. “Học vì ngày mai lập nghiệp” vừa là một phong trào, vừa trở thành mục tiêu phấn đâu của hàng triệu thanh niên thời đại mới. Điều kiện sông, điều kiện học tập không ngừng được cải thiện nhưng đó không trở thành lí do khiến các bạn trẻ tự thoả mãn và dung dưỡng bản thân mình. Mọi đỉnh cao văn hoá, trí tuệ của loài người đều có lực hút mạnh mẽ đốì với thanh niên ngày nay. Và càng thành công, họ càng khao khát được chiếm lĩnh sâu rộng hơn nữa. Họ làm những điều đó tất nhiên không vì chính bản thân mình mà còn vì cộng đồng, vì xã hội, vì đất nước Việt Nam này.Xem thêm: Phân tích bài Bạch Đằng giang phú (Phú sông Bạch Đằng) (Trương Hán Siêu) để chứng minh cho nhận định trong sách giáo khoa: Bạch Đằng giang phú là đỉnh cao nghệ thuật của thể phú trong văn học trung đại Việt Nam Có thể nói ý thức về tầm vóc, vị trí của bản thần và khát vọng công danh, khát vọng công hiến của thế hệ trẻ hôm nay và ngày mai không chỉ là sự kế thừa truyền thông của cha ông mà còn là phẩm chất vốn có trong mỗi con người thời đại mới. Điều cổ nhân tâm niệm tự ngàn xưa đã, đang và sẽ mãi còn có ý nghĩa to lớn đối với sự đi lên của mỗi thế hệ, mỗi thời đại.
Vanmau.edu.vn
|
Qua những lời thơ Thuật hoài (tỏ lòng), anh (chị) thấy hình ảnh trưng nam nhi thời Trần mang vẻ đẹp như thế nào? Điều đó có ý nghĩa gì với thế hệ trẻ hôm nay và ngày mai
Gợi ý
Thời đại lịch sử nào Cũng có những con người làm nên hình ảnh cho nó. Và nhà văn luôn là người mang vào các tác phẩm văn chương con người thời đại mình. Đó là lí do đọc Thuật hoài hay bất cứ sáng tác văn học thời Trần nào, chúng ta cũng có thể cảm nhận rõ ràng hình ảnh trang nam nhi – hình ảnh tuyệt đẹp của thời đại này.
Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu,
Tam quân tì hổ khí thôn ngưu.
Nam nhi vị liễu công danh trái,
Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu.
Có thể nói triều Trần là một trong những triều đại anh hùng nhất trong lịch sử phong kiến Việt Nam. Lập nên những chiến công oanh liệt, dệt nên bản tráng ca cho non sông, đất nước, cho thời đại đó chính là quan quân tướng sĩ những đấng bậc anh hào. Không chỉ Thuật hoài mà từ Hịch tướng sĩ (Trần Quốc Tuấn), Tụng giá hoàn kinh sư (Trần Quang Khải), Bạch Đằng giang phú (Trương Hán Siêu) hay từ nhiều sáng tác văn học khác, chúng ta có thể cảm nhận rõ ràng vẻ đẹp của những trang nam nhi thời đại này.
Ấn tượng đầu tiên bài thơ gieo vào lòng người đọc là hình ảnh con người kì vĩ. Chỉ bằng một nét vẽ đơn giản, tư thế, hành động người anh hùng đã in dấu ấn đậm nét trong tâm trí người đọc. Hoành sóc là cầm ngang ngọn giáo. Nó khác với “cầm giáo”, “múa giáo”. Hoành sóc gợi tả sự oai phong, lẫm liệt của tư thế. Không cần nói đến khí phách nhưng lại lột tả một cách chân xác về khí phách hiên ngang tiềm chứa trong con người thời đại. Trong hoành sóc còn có sự chủ động chiến đấu và chiến thắng, còn có sự thách thức đầy ngạo nghễ. Hiện lên trước mắt chúng ta là hình ảnh đấng anh hào phi thường. Cái phi thường đó còn được nhân lên gấp bội khi tác giả đặt con người trong không gian và thời gian trường cửu. Sự rộng lớn, kì vĩ của không gian được thu hết vào hai chữ giang sơn. Không gian ấy khiến cho cây giáo của tráng sĩ trở thành trường giáo, và theo đó, tầm vóc con người càng trở nên vĩ đại hơn. Và để không gian trở nên vô tận, con người trở nên phi thường, tác giả lại đặt tất cả trong thời gian đằng đẵng kháp kỉ thu. Thời gian khiến hình tượng thơ không im lìm, bất động mà có sự vận động. Điều đó cũng có nghĩa tầm vóc, tư thế phi thường, vĩ đại kia không thuộc về một thời khắc riêng biệt nào mà nó là tầm vóc, tư thế của cả một thời đại lịch sử. Sự dài rộng của không gian và thời gian xuất hiện phía sau chính là phông nền tôn cao hơn hình tượng trang nam tử được khắc hoạ thông qua hành động hoành sóc ban đầu.Xem thêm: Trình bày suy nghĩ của anh (chị) về câu nói sau: ‘Tình thương là hạnh phúc của con người’. Nếu câu thơ đầu tiên phác hoạ chân dung chung nhất cho hình tượng tráng sĩ thời Trần thì câu thơ thứ hai là nét vẽ về quân đội hùng hậu. Đến đầy, sức mạnh của con người được nhân lên gấp bội bằng cách gọi tam quân, bằng nghệ thuật so sánh (tì hổ) và phép ẩn dụ (khí thôn ngưu). Sức mạnh con người được hình tượng hoá bằng sức mạnh của những loài mãnh thú, được nhấn mạnh ở sự vô biên, át cả sức mạnh của vũ trụ. Làm nên sức mạnh phi thường này chẳng phải là sức vóc tráng kiện của quan quân tướng sĩ nhà Trần sao? Hai câu đầu cho phép người đọc hình dung về những tráng sĩ với sức mạnh vô song, với khí thế “sát thát” ngút trời. Phải ý thức thật sâu sắc về vị trí, tầm vóc, sức mạnh con người thời đại mình, Phạm Ngũ Lão mới có thể viết những câu thơ ngắn gọn mà tuyệt đẹp như vậy.
Song hành cùng vẻ đẹp phi thường, vĩ đại toát ra từ tư thế, tầm vóc là vẻ đẹp của ý chí, của lí tưởng con người. Thời phong kiến, các dâng tu mi nam tử luôn mang trong mình chí làm trai, luôn có giấc mộng công danh cao đẹp. Từ câu ca dân gian:
Làm trai cho đáng nên trai
Xuống đông, đông tĩnh; lên đoài, đoài an
đến lời thơ Nguyễn Công Trứ cuổì thế kĩ XIX:
Làm trai đứng ở trong trời đất
Phải có danh gì với núi sông
dường như chí anh hùng đã trở thành lí khí xuyên mọi thời đại. Con người đã có tầm vóc cao lớn, có hành động phi thường ắt phải mang trong mình hoài bão lớn lao. Có điều, hoài bão ây lại được giấu kín sau nỗi “thẹn”, lại khuất sau nỗi trằn trọc khi tự kiểm điểm về bản thân mình: Công danh nam tử còn vương nợ. Không phải giấc mộng công danh của con người thời đại này quá lớn, lớn đến mức không tưởng. Cũng không phải con người không có khả năng biến giấc mộng công danh thành hiện thực, không có khả năng trả món nợ công danh. Với những chiến công hiển hách của mình, Phạm Ngũ Lão hay những trang nam tử hào kiệt thời Trần có quyền ngẩng cao đầu tự hào về chính bản thân mình. Nói như vậy để chúng ta hiểu rằng tướng quân họ Phạm nói riêng và các đấng nam tử thời đại nhà Trần nói chung dường như không bao giờ bằng lòng với chính mình. Chính vì nghiêm khắc với bản thân, không tự thoả mãn với những gì mình làm được nên con người mới mang trong mình nỗi “thẹn”. Tự sánh mình với Gia Cát Khổng Minh không phải là biểu hiện của sự tự cao, tự đại. Thực ra soi minh vào chuẩn mực của đạo đức phong kiến, Phạm Ngũ Lão muốn thể hiện khát vọng hoàn thiện mình. Và nỗi thẹn của người là nỗi thẹn làm nên nhân cách.Xem thêm: Nghị luận xã hội - Tình thương là hạnh phúc của con người Bài thơ vẻn vẹn hai mươi tám chữ nhưng mỗi chữ viết ra đều khiến người đọc phải ngẫm nghiệm, suy tư. Đọc bài thơ, không chỉ cảm nhận được về vẻ đẹp toàn thiện của tác giả nói riêng và của con người thời Trần nói chung, mà từ đó, người đọc còn có thể rút ra nhiều ý nghĩa cho chính bản thân mình. Hình ảnh đáng nam nhi thời Trần chắc chắc có sức ảnh hưởng lớn đến thế hệ thanh niên thời đại mới. Tất nhiên, sự khác nhau về hoàn cảnh lịch sử, xã hội… sẽ khién cho con người ở các thời đại không trùng khít nhau. Nhưng đó không phải là trở lực khiến thế hệ trẻ hôm nay và ngày mai không học hỏi được từ cha ông những điều tốt đẹp. Thanh niên Việt Nam thời hiện đại được sông trong hoà bình, nhưng điều đó không có nghĩa họ không phải chiến đấu và chiến thắng. Hơn khi nào hết, con người thời hiện đại nói chung, đặc biệt là thế hệ trẻ Việt Nam ý thức rất cao về tầm vóc, vị trí của mình. Họ hiểu sức mạnh của cá nhân mình là sức mạnh thuộc về cộng "đong. Đó là lí do họ không ngại ngần công hiến. Bao sinh viên Việt Nam đã nhiệt tình hưởng ứng tháng tình nguyện “Mùa hè xanh”. Họ không ngại ngần đi đến các miền xa xôi của Tổ quốc, không ngại ngần cùng ăn, cùng ở, cùng lao động với đồng bào miền núi, hải đảo. Đó là lí do khiến thế hệ trẻ Việt Nam ngày càng hăng say học tập, rèn luyện, phấn đấu trở thành nhân tài cho đất nước. Và rõ ràng vị trí của nước ta trên trường quốc tế được khẳng định một phần nhờ những chiến thắng của sức trẻ, của lực lượng thanh niên. Thế hệ trẻ ngày nay luôn tự tin vào tài trí, bản lĩnh của mình nên họ không mang trong mình nỗi “thẹn” như đấng anh hùng năm xưa. Nhưng điều đó không có nghĩa thanh niên Việt Nam không mang trong mình hoài bão, khát vọng công danh. “Học vì ngày mai lập nghiệp” vừa là một phong trào, vừa trở thành mục tiêu phấn đâu của hàng triệu thanh niên thời đại mới. Điều kiện sông, điều kiện học tập không ngừng được cải thiện nhưng đó không trở thành lí do khiến các bạn trẻ tự thoả mãn và dung dưỡng bản thân mình. Mọi đỉnh cao văn hoá, trí tuệ của loài người đều có lực hút mạnh mẽ đốì với thanh niên ngày nay. Và càng thành công, họ càng khao khát được chiếm lĩnh sâu rộng hơn nữa. Họ làm những điều đó tất nhiên không vì chính bản thân mình mà còn vì cộng đồng, vì xã hội, vì đất nước Việt Nam này.Xem thêm: Phân tích bài Bạch Đằng giang phú (Phú sông Bạch Đằng) (Trương Hán Siêu) để chứng minh cho nhận định trong sách giáo khoa: Bạch Đằng giang phú là đỉnh cao nghệ thuật của thể phú trong văn học trung đại Việt Nam Có thể nói ý thức về tầm vóc, vị trí của bản thần và khát vọng công danh, khát vọng công hiến của thế hệ trẻ hôm nay và ngày mai không chỉ là sự kế thừa truyền thông của cha ông mà còn là phẩm chất vốn có trong mỗi con người thời đại mới. Điều cổ nhân tâm niệm tự ngàn xưa đã, đang và sẽ mãi còn có ý nghĩa to lớn đối với sự đi lên của mỗi thế hệ, mỗi thời đại.
Vanmau.edu.vn
|
Qua những tác phẩm đã học và đọc thêm trong chương trình, anh (chị) hãy nêu vắn tắt những suy nghĩ của mình về số phận của người phụ nữ Việt Nam trong xã hội cũ
Gợi ý
Trong các tác phẩm văn học dân tộc dân gian và trung đại học trong chương trình, mảng thơ văn viết về hình tượng người phụ nữ tuy không nhiều nhưng cũng để lại những dấu ấn nhất định. Từ các bài ca dao viết về người phụ nữ đến hình ảnh cô gái trong Tiễn dặn người yêu của người Thái; từ những người con gái hồng nhan bạc mệnh đến người chinh phụ trong nỗi nhớ chồng đằng đẵng… có thể thấy nổi bật lên một điểm chung nhất là cuộc đời và số phận bất hạnh của họ.
Xưa nay, người phụ nữ vẫn luôn là những người phải chịu nhiều thiệt thòi hơn cả. Bên cạnh những thiệt thòi, hạn chế thuộc về giới họ còn thường hay phải chịu những ràng buộc mang tính chất định kiến từ xã hội, điều mà người đàn ông ít nhiều được nhìn nhận thoáng hơn.
Trước hết, cần phải khẳng định một điều, tất cả những người phụ nữ được các tác giả văn học thời xưa đưa vào văn chương đều là những người phụ nữ có vẻ đẹp về hình thể và họ ít nhiều ý thức được vẻ đẹp ấy. Cô gái trong chùm ca dao Thân em như… tự ví mình như tấm lụa đào, như giếng giữa đàng, như cây quế giữa rừng… Nhưng quan trọng hơn đó còn là vẻ đẹp về mặt phẩm chất, tâm hồn. Giếng giữa đàng trong mát, có ích cho người, cho đời, cây quế giữa rừng ngát hương, tấm lụa đẹp mềm mại. Ngay cả củ ấu gai tuy bên ngoài có vẻ sần sùi, đen đúa nhưng bên trong lại trắng trong ngọt bùi. Càng về sau, bước vào nền văn học trung đại, những vẻ đẹp ấy càng được cụ thể hoá một cách sinh động hơn. Có thể lấy hình tượng nhân vật Thuý Kiều và Thuý Vân trong Truyện Kiều của Nguyễn Du là một ví dụ. Nguyễn Du đã không tiếc lời khi dành cho hai nhân vật của mình, đặc biệt là nhân vật Thuý Kiều những lời ngợi ca đẹp nhất:Xem thêm: Em hãy viết đoạn văn giới thiệu về nhà thơ Thanh Hải và ý nghĩa hoàn cảnh ra đời bài thơ Mùa xuân nho nhỏMai cốt cách, tuyết tinh thần
Mỗi người một vẻ, mười phân vẹn mười
Người phụ nữ thời xưa không chỉ mang vẻ đẹp về hình thể mà còn có được cái đẹp tâm hồn đắm say mặn mà. Nhưng xã hội bất công, cái đẹp không có điều kiện để phát triển. Cái đẹp là đối tượng bị vùi dập. Đặc biệt đó lại là cái đẹp của phái yếu nên sức sống của nó càng trở nên mong manh. Xã hội cũ đã tồn tại sẵn những định kiến dành cho người phụ nữ, những ràng buộc mà họ phải tuân theo. Người phụ nữ đẹp họ ý thức được điều đó nhưng lại bị rơi vào bi kịch không được trân trọng, và nâng niu vẻ đẹp của mình. Giếng nước giữa đàng có thể chỉ là một thứ nước rửa chân cho kẻ phàm tục, cũng như củ ấu gai dù bên trong ngọt bùi nhưng nào phải được ai cũng biết đến.
Trong xã hội ấy, người phụ nữ không thể tự quyết định số phận và vận mệnh của mình. Cô gái trong ca dao than thân trách phận mình như tấm lụa, phất phơ giữa chợ không biết vào tay ai, như hạt mưa sa nếu may mắn thì được rơi vào nơi đài các. Cô gái trong Tiễn dặn người yêu chỉ là một món hàng cho mẹ cha trao đổi. Cô có tình yêu của mình nhưng tình yêu ấy không thành. Người con gái không thể tự quyết định chuyện hôn nhân của mình. Hết lần này sang lần khác, nàng vùng lên chống lại số phận nhưng càng chống đỡ lại càng vô vọng. Phải lấy người không yêu, cô cố tỏ ra vụng về khiến nhà chồng chán mà trả về cha mẹ nhưng cô lại bị bán vào cửa quan. Càng phá phách, Giã gạo – quăng chày; Phơi thóc – chửi sàn; Dỡ xôi – quật vỡ mâm lại càng bế tắc. Cô bị đem ra chợ bán và cuối cùng để được đổi vào chính gia đình người yêu cũ với giá chỉ bằng một cuộn lá dong cho đỡ phải mang về. Tủi nhục và đau đớn thay! Ngay cả những người tài hoa, được xã hội thừa nhận tài năng và sắc đẹp như Thuý Kiều cuối cùng cũng không thoát khỏi sự nghiệt ngã của số phận. Hồng nhan đa truân, nàng đã có tên trong sổ đoạn trường thế nên phải trải qua mười lăm năm lưu lạc. Hai lần rơi vào lầu xanh, bị lừa gạt, bị làm nhục, bị vày vò về thể xác, đau đớn về tinh thần, nàng vẫn không thể nào thoát ra khỏi thân phận bất hạnh của những người tài hoa bạc mệnh… Những con người ấy có tình yêu tự do và khát khao được tự do trong tình yêu, trong hôn nhân nhưng không thể thực hiện. Người con gái dân tộc Thái bị ép gả cho người mình không yêu chỉ vì “chân lí” muôn đời của xã hội ấy:Xem thêm: Anh (chị) hãy bình luận câu ngạn ngữ Hi Lạp: Học vấn có những chùm rễ đắng cay nhưng hoa quả lại ngọt ngàoMẹ em tham thúng xôi đền,
Tham con lợn béo tham tiền Cảnh Hưng.
Em đã bảo mẹ rằng đừng,
Mẹ hấm mẹ hứ mẹ bưng ngay vào…
Trong cuộc đời Thuý Kiều, tình yêu và hôn nhân đều không trọn vẹn. Vì cái bất công mà thằng bán tơ từ đâu vu vạ cho gia đình Vương ông, Kiều phải bán mình chuộc cha, vì chữ “hiếu” mà gạt nước mắt dứt bỏ chữ “tình”. Rồi hai lần làm vợ cuối cùng cũng đều nhận lấy một kết cục bi thảm. Lần thì bị vợ cả đánh ghen mà nhục nhã ê chề; lần vì cả tin mà đẩy chồng vào chỗ chết. Mười lăm năm lưu lạc trở về cũng chỉ có thể đổi duyên cầm sắt sang duyên cầm kì mà thôi.
Xã hội bất công, không phải là một cá nhân cụ thể nào là những lực lượng tạo thành cả một thế lực chà đạp lên quyền sống, đẩy con người vào những kết thúc bất hạnh và bi thảm mà người phụ nữ là những nạn nhân đáng thương nhất. Chiến tranh phong kiến khiến người chồng phải ra trận, người vợ ở nhà biến thành chinh phụ, vò võ ngóng trông, chịu cảnh giường đơn gối chiếc mà cô đơn, xót xa:
Khắc giờ đằng đẵng như niên
Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa
Hương gượng đốt hồn đà mề mải
Gương gượng soi lệ lại châu chan
Sắt cầm gượng gẩy phím đàn
Dây uyên kinh đứt, phím loan ngại chùng.
Thi nhân trung đại đã thể hiện sự tinh tế của mình và tấm lòng đồng cảm sâu sắc để phát hiện ra cả nỗi cô đơn của người chinh phụ nơi phòng không, gối lẻ. Tuổi trẻ đang dào dạt và khát khao yêu đương nhưng mộng gốì chăn chưa thoả để lại phải một mình chịu cảnh giường không vò võ, trông tuổi xuân qua đi va vóc hình của mình đang ngày càng tàn tạ. Và cũng chính bởi chiến tranh nên mới có nỗi oan khuất như của nàng Vũ Nương: Trung hiếu tiết nghĩa để cuối cùng bị chồng ngờ vực, chỉ còn cách gieo mình xuống dòng Hoàng Giang để minh chứng cho nỗi oan.Xem thêm: Cảm nghĩ của anh (chị) về đoạn thơ: "Bỗng nhận ra hương Ổi .../ Phả vào trong gió se/ Sương chùng chình qua ngõ/ Hình như thu đã về." (Sang thu - Hữu Thỉnh) Rõ ràng, những người phụ nữ trong xã hội xưa đều phải chịu chung cho mình một số phận mang tên Bất hạnh. Họ dù nhận được lòng yêu thương và sự cảm thông sâu sắc của dân gian, của người đời và của chính tác giả nhưng vẫn không đủ để vượt lên trên hiện thực mà chiến thắng số hiện thực nghiệt ngã đó. Đồng cảm với họ ta xót thương cho số phận họ một cách sâu sắc mà thêm quí mến và trân trọng. Mong rằng đó sẽ chỉ là câu chuyện của quá khứ và không bao giờ lặp lại trong cuộc sống của những người phụ nữ thời hiện đại, một nửa để làm cho thế giới này tốt đẹp hơn.
Vanmau.edu.vn
|
Qua những tác phẩm đã học và đọc thêm trong chương trình, anh (chị) hãy nêu vắn tắt những suy nghĩ của mình về số phận của người phụ nữ Việt Nam trong xã hội cũ
Gợi ý
Trong các tác phẩm văn học dân tộc dân gian và trung đại học trong chương trình, mảng thơ văn viết về hình tượng người phụ nữ tuy không nhiều nhưng cũng để lại những dấu ấn nhất định. Từ các bài ca dao viết về người phụ nữ đến hình ảnh cô gái trong Tiễn dặn người yêu của người Thái; từ những người con gái hồng nhan bạc mệnh đến người chinh phụ trong nỗi nhớ chồng đằng đẵng… có thể thấy nổi bật lên một điểm chung nhất là cuộc đời và số phận bất hạnh của họ.
Xưa nay, người phụ nữ vẫn luôn là những người phải chịu nhiều thiệt thòi hơn cả. Bên cạnh những thiệt thòi, hạn chế thuộc về giới họ còn thường hay phải chịu những ràng buộc mang tính chất định kiến từ xã hội, điều mà người đàn ông ít nhiều được nhìn nhận thoáng hơn.
Trước hết, cần phải khẳng định một điều, tất cả những người phụ nữ được các tác giả văn học thời xưa đưa vào văn chương đều là những người phụ nữ có vẻ đẹp về hình thể và họ ít nhiều ý thức được vẻ đẹp ấy. Cô gái trong chùm ca dao Thân em như… tự ví mình như tấm lụa đào, như giếng giữa đàng, như cây quế giữa rừng… Nhưng quan trọng hơn đó còn là vẻ đẹp về mặt phẩm chất, tâm hồn. Giếng giữa đàng trong mát, có ích cho người, cho đời, cây quế giữa rừng ngát hương, tấm lụa đẹp mềm mại. Ngay cả củ ấu gai tuy bên ngoài có vẻ sần sùi, đen đúa nhưng bên trong lại trắng trong ngọt bùi. Càng về sau, bước vào nền văn học trung đại, những vẻ đẹp ấy càng được cụ thể hoá một cách sinh động hơn. Có thể lấy hình tượng nhân vật Thuý Kiều và Thuý Vân trong Truyện Kiều của Nguyễn Du là một ví dụ. Nguyễn Du đã không tiếc lời khi dành cho hai nhân vật của mình, đặc biệt là nhân vật Thuý Kiều những lời ngợi ca đẹp nhất:Xem thêm: Em hãy viết đoạn văn giới thiệu về nhà thơ Thanh Hải và ý nghĩa hoàn cảnh ra đời bài thơ Mùa xuân nho nhỏMai cốt cách, tuyết tinh thần
Mỗi người một vẻ, mười phân vẹn mười
Người phụ nữ thời xưa không chỉ mang vẻ đẹp về hình thể mà còn có được cái đẹp tâm hồn đắm say mặn mà. Nhưng xã hội bất công, cái đẹp không có điều kiện để phát triển. Cái đẹp là đối tượng bị vùi dập. Đặc biệt đó lại là cái đẹp của phái yếu nên sức sống của nó càng trở nên mong manh. Xã hội cũ đã tồn tại sẵn những định kiến dành cho người phụ nữ, những ràng buộc mà họ phải tuân theo. Người phụ nữ đẹp họ ý thức được điều đó nhưng lại bị rơi vào bi kịch không được trân trọng, và nâng niu vẻ đẹp của mình. Giếng nước giữa đàng có thể chỉ là một thứ nước rửa chân cho kẻ phàm tục, cũng như củ ấu gai dù bên trong ngọt bùi nhưng nào phải được ai cũng biết đến.
Trong xã hội ấy, người phụ nữ không thể tự quyết định số phận và vận mệnh của mình. Cô gái trong ca dao than thân trách phận mình như tấm lụa, phất phơ giữa chợ không biết vào tay ai, như hạt mưa sa nếu may mắn thì được rơi vào nơi đài các. Cô gái trong Tiễn dặn người yêu chỉ là một món hàng cho mẹ cha trao đổi. Cô có tình yêu của mình nhưng tình yêu ấy không thành. Người con gái không thể tự quyết định chuyện hôn nhân của mình. Hết lần này sang lần khác, nàng vùng lên chống lại số phận nhưng càng chống đỡ lại càng vô vọng. Phải lấy người không yêu, cô cố tỏ ra vụng về khiến nhà chồng chán mà trả về cha mẹ nhưng cô lại bị bán vào cửa quan. Càng phá phách, Giã gạo – quăng chày; Phơi thóc – chửi sàn; Dỡ xôi – quật vỡ mâm lại càng bế tắc. Cô bị đem ra chợ bán và cuối cùng để được đổi vào chính gia đình người yêu cũ với giá chỉ bằng một cuộn lá dong cho đỡ phải mang về. Tủi nhục và đau đớn thay! Ngay cả những người tài hoa, được xã hội thừa nhận tài năng và sắc đẹp như Thuý Kiều cuối cùng cũng không thoát khỏi sự nghiệt ngã của số phận. Hồng nhan đa truân, nàng đã có tên trong sổ đoạn trường thế nên phải trải qua mười lăm năm lưu lạc. Hai lần rơi vào lầu xanh, bị lừa gạt, bị làm nhục, bị vày vò về thể xác, đau đớn về tinh thần, nàng vẫn không thể nào thoát ra khỏi thân phận bất hạnh của những người tài hoa bạc mệnh… Những con người ấy có tình yêu tự do và khát khao được tự do trong tình yêu, trong hôn nhân nhưng không thể thực hiện. Người con gái dân tộc Thái bị ép gả cho người mình không yêu chỉ vì “chân lí” muôn đời của xã hội ấy:Xem thêm: Anh (chị) hãy bình luận câu ngạn ngữ Hi Lạp: Học vấn có những chùm rễ đắng cay nhưng hoa quả lại ngọt ngàoMẹ em tham thúng xôi đền,
Tham con lợn béo tham tiền Cảnh Hưng.
Em đã bảo mẹ rằng đừng,
Mẹ hấm mẹ hứ mẹ bưng ngay vào…
Trong cuộc đời Thuý Kiều, tình yêu và hôn nhân đều không trọn vẹn. Vì cái bất công mà thằng bán tơ từ đâu vu vạ cho gia đình Vương ông, Kiều phải bán mình chuộc cha, vì chữ “hiếu” mà gạt nước mắt dứt bỏ chữ “tình”. Rồi hai lần làm vợ cuối cùng cũng đều nhận lấy một kết cục bi thảm. Lần thì bị vợ cả đánh ghen mà nhục nhã ê chề; lần vì cả tin mà đẩy chồng vào chỗ chết. Mười lăm năm lưu lạc trở về cũng chỉ có thể đổi duyên cầm sắt sang duyên cầm kì mà thôi.
Xã hội bất công, không phải là một cá nhân cụ thể nào là những lực lượng tạo thành cả một thế lực chà đạp lên quyền sống, đẩy con người vào những kết thúc bất hạnh và bi thảm mà người phụ nữ là những nạn nhân đáng thương nhất. Chiến tranh phong kiến khiến người chồng phải ra trận, người vợ ở nhà biến thành chinh phụ, vò võ ngóng trông, chịu cảnh giường đơn gối chiếc mà cô đơn, xót xa:
Khắc giờ đằng đẵng như niên
Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa
Hương gượng đốt hồn đà mề mải
Gương gượng soi lệ lại châu chan
Sắt cầm gượng gẩy phím đàn
Dây uyên kinh đứt, phím loan ngại chùng.
Thi nhân trung đại đã thể hiện sự tinh tế của mình và tấm lòng đồng cảm sâu sắc để phát hiện ra cả nỗi cô đơn của người chinh phụ nơi phòng không, gối lẻ. Tuổi trẻ đang dào dạt và khát khao yêu đương nhưng mộng gốì chăn chưa thoả để lại phải một mình chịu cảnh giường không vò võ, trông tuổi xuân qua đi va vóc hình của mình đang ngày càng tàn tạ. Và cũng chính bởi chiến tranh nên mới có nỗi oan khuất như của nàng Vũ Nương: Trung hiếu tiết nghĩa để cuối cùng bị chồng ngờ vực, chỉ còn cách gieo mình xuống dòng Hoàng Giang để minh chứng cho nỗi oan.Xem thêm: Cảm nghĩ của anh (chị) về đoạn thơ: "Bỗng nhận ra hương Ổi .../ Phả vào trong gió se/ Sương chùng chình qua ngõ/ Hình như thu đã về." (Sang thu - Hữu Thỉnh) Rõ ràng, những người phụ nữ trong xã hội xưa đều phải chịu chung cho mình một số phận mang tên Bất hạnh. Họ dù nhận được lòng yêu thương và sự cảm thông sâu sắc của dân gian, của người đời và của chính tác giả nhưng vẫn không đủ để vượt lên trên hiện thực mà chiến thắng số hiện thực nghiệt ngã đó. Đồng cảm với họ ta xót thương cho số phận họ một cách sâu sắc mà thêm quí mến và trân trọng. Mong rằng đó sẽ chỉ là câu chuyện của quá khứ và không bao giờ lặp lại trong cuộc sống của những người phụ nữ thời hiện đại, một nửa để làm cho thế giới này tốt đẹp hơn.
Vanmau.edu.vn
|
Qua những tác phẩm đã học và đọc thêm, hãy phát biểu cảm nghĩ của em về người phụ nữ trong thơ trung đại
Gợi ý
Thơ ca trung đại Việt Nam có rất nhiều tác phẩm hay và độc đáo hướng đến số phận của người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Qua ba bài thơ "Chinh phụ ngâm khúc" của Đoàn Thị Điểm, "Bánh trôi nước" của Hồ Xuân Hương và "Qua đèo Ngang" của Bà Huyện Thanh Quan, người đọc đã. cảm nhận được vẻ đẹp đáng trân trọng cùng số phận bất hạnh, nổi trôi đáng thương của những kiếp người ấy.
Đọc ba bài thơ, hình ảnh của người phụ nữ xưa hiện lên thật chân thực với bao phẩm chất quý giá. Trong bài thơ “Bánh trôi nước” của Hồ Xuân Hương:
"Thân em vừa trắng lại vừa tròn
Bảy nổi ha chìm với nước non
Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn
Mà em vẫn giữ tấm lòng son"
Người phụ nữ hiện lẽn đẹp đẽ với ngoại hình xinh xẻo, đáng yêu đáng mến. Họ không chỉ đẹp vẻ bề ngoài mà còn rất thanh cao, trong sáng về tâm hồn. Dầu cho cuộc đời vùi dập, cân đong họ vẫn giữ một “tấm lòng son” trung trinh nguyên vẹn. Nhưng số phận đâu có chiều theo ý người. Thời xưa, những người phụ nữ luôn phải phụ thuộc vào xã hội, vào cha, vào chồng, vào con: Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử. Họ không được quyết định cuộc sống của chính mình. Không chỉ vậy, số phận họ lại long đong, lận đận, chìm nổi với cuộc mưu sinh nhọc nhằn. Câu thơ “bảy nổi ba chìm với nước non” gợi đến bài ca dao rất quen thuộc viết về người phụ nữ:Xem thêm: Thanh niên và số phận“Cái cò lặn lội bờ ao
Gánh gạo nuôi chồng tiếng khóc nỉ non”.
Đến văn bản “Sau phút chia li”, tác giả đã thể hiện cụ thể một nỗi niềm khổ đau của người phụ nữ: chiến tranh phong kiến đã chia hai hạnh phúc gia đình để đôi lứa phải chịu cảnh kẻ ở, người đi đầy quyến luyến, nhớ nhung:
"Chàng thì đi cõi xa mưa gió
Thiếp thì về buồng cũ chiếu chăn
Đoái trông theo đã cách ngăn
Tuôn màu mây biếc trải ngàn núi xanh"
Chốn Hàm Dương chàng còn ngoảnh lại
Bến Tiêu Tương thiếp hãy trông sang
Bến Tiêu Tương cách Hàm Dương
Cây Hàm Dương cách Tiếu Tương mấy trùng
"Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy
Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu
Ngàn dâu xanh ngắt một màu
Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai".
Đọc bài thơ, có lẽ ai cũng thấu hiểu được nỗi buồn, cô đơn của người phụ nữ tiễn đưa chồng ra trận. Chiến tranh đã cướp đi của người phụ nữ ấy hạnh phúc lứa đôi. Hình ảnh “chàng đi” – “thiếp về” thật ngậm ngùi, tê tái. Chia tay chồng mà cô không muốn rời, vẫn lưu luyến. Điều đó thể hiện rất rõ qua những hành động “đoái trông theo”, “hãy trông sang”, “cùng trông lại”,… Đặc biệt là phép điệp ngữ Tiêu Tương – Tiêu Tương, Hàm Dương – Hàm Dương, thấy – thấy, xanh xanh – xanh, ngàn dâu – ngàn dâu; cùng phép tiểu đối "Chốn Hàm Dương chàng còn ngoảnh lại” – “Bến Tiêu Tương thiếp hãy trông sang”, “Bến Tiêu Tương cách Hàm Dương” – “Cây Hàm Dương cách Tiêu Tương”. Câu chữ như đan quyện vào nhau và lòng người cũng quyến luyến, bịn rịn chẳng muốn rời. Cuộc sống gia đình của ngươi phụ nữ vốn nhiều nhọc nhằn nay cũng chẳng được yên bình. Chiến tranh tao loạn đã chia li đôi lứa, từ nay, người thiếu phụ ấy sẽ phải ngậm ngùi sống trong cô đơn đế tuổi thanh xuân qua đi trong tủi hờn.Xem thêm: Tả một loại trái cây mà em thích Mỗi người phụ nữ lại có một hoàn cảnh, một tâm sự riêng. Nếu bài thơ “Bánh trôi nước” và văn bản “Sau phút chia li” là tâm sự của những người phụ nữ bình dân trong xã hội thì. “Qua Đèo Ngang” lại là lời tự tình của người phụ nữ thành đạt, có địa vị trong xã hội. Dầu vậy, lòng nhà thơ cũng mang nặng ưu tư về niềm riêng, nỗi chung trước cuộc đời:
"Bước tới Đèo Ngang bóng xế tài
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa
Lom. khom dưới núi tiều vài chú
Lác đác bên sống chợ mấy nhà
Nhớ nước đau lòng con quốc quốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia
Dừng chân đứng lại: trời, non, nước
Một mảnh tình riêng ta với ta".
Bài thơ là lời tác giả – một thiếu phụ đang trên đường đời quê đê đến nơi đất khách quê người. Cho dù đó là chôn kinh đô hoa lệ, chuyến tha hương vẫn gợi lên trong lòng bà những nỗi sầu xót xa, thấm thìa.
Đứng trước cảnh xế chiều nơi Đèo Ngang hoang vu rợn ngợp, chứng kiến cuộc sống vất vả, heo hút của người dân miền sơn cước, Bà Huyện Thanh Quan không chỉ chạnh lòng buồn mà còn rất cô đơn buồn tủi. Một mình bà phải đốì diện với chính mình giữa không gian ấy:
“Dừng chân dứng lại: trời, non, nước
Một mảnh tình riêng ta với tạ".
Tâm hồn người phụ nữ thể hiện qua bài thơ là.sự nhạy cảm, tinh tế và cũng rất nhân ái, vị tha.Xem thêm: Cảm nhận của em về ý văn sau trong văn bản "Cổng trường mở ra" của tác giả Lí Lan: "Đi đi con, hãy can đảm lên, thế giới này là của con, bước qua cánh cổng trường là một thế giới kì diệu sẽ mở ra" Ba bài thơ, ba người phụ nữ khác nhau, ba tình cảm khác nhau. Dầu cùng đẹp, cùng tài nhưng họ luôn phải ấp ủ trong lòng những niềm riêng chẳng biết chia sẻ cùng ai. Viết về những người phụ nữ trong xã hội xưa các tác giả đã thể hiện sự đồng cảm chân thành tha thiết đối với số phận của họ. Và như thế, những tác phẩm ấy sẽ còn sống mãi với thời gian bởi giá trị nhân đạo sâu sắc.
Vanmau.edu.vn
|
Through the works you have studied and read further, express your feelings about women in medieval poetry
Suggest
Vietnamese medieval poetry has many good and unique works aimed at the fate of women in feudal society. Through the three poems "Chinh Phu's Song" by Doan Thi Diem, "Water Floating Cake" by Ho Xuan Huong and "Through Ngang Pass" by Ba Huyen Thanh Quan, the reader has learned. feel the precious beauty and the unfortunate, miserable fate of those human lives.
Reading the three poems, the image of an ancient woman appears realistically with many precious qualities. In the poem "Water Floating Cake" by Ho Xuan Huong:
"My body is both white and round
Seven floating hectares sink with young water
The snake is crushed even if it is molded by your own hands
But I still keep my heart."
The woman appears to be beautiful with a pretty, lovely appearance. They are not only beautiful in appearance but also very noble and pure in soul. Even though life has beaten them up and weighed them down, they still keep their "heart" intact. But fate does not follow people's wishes. In ancient times, women always had to depend on society, on their fathers, on their husbands, on their children: At home, they followed the father, when they married, the husband followed, and the husband followed the children. They do not get to decide their own lives. Not only that, their fate is uncertain, difficult, up and down with a hard life. The verse "seven floats, three sinks with young water" evokes a very familiar folk song written about women: See more: Youth and fate "The stork wades around the pond
Carrying rice to feed her husband and crying loudly.
In the text "After the Moment of Separation", the author specifically expressed a woman's suffering: the feudal war divided family happiness into two so that the couple had to endure the situation of one staying and the other leaving. attachment, nostalgia:
"He's gone to a faraway land filled with rain and wind
I went back to my old room to get blankets
Looking forward to stopping
Flowing with blue clouds and thousands of green mountains"
At Ham Duong, he still looked back
Ben Tieu Tuong, please look forward
Tieu Tuong wharf is far from Ham Duong
The Ham Duong tree is several miles away from Tieu Tuong
"We looked back but we didn't see
Seeing thousands of strawberries green and green
Thousands of green strawberries are one color
Who's heart is sadder than anyone else?
Reading the poem, perhaps everyone can understand the sadness and loneliness of the woman sending her husband off to war. The war robbed that woman of her marital happiness. The image of "the guy leaving" - "the concubine returning" is so sad and numb. She broke up with her husband but she didn't want to leave, still attached. That is clearly shown through the actions of "look after", "look forward to", "look back together",... Especially the alliteration Tieu Tuong - Tieu Tuong, Ham Duong - Ham Duong, see - see , green blue – green, thousand strawberries – thousand strawberries; with the diminutive "Where you still look back at Ham Duong" - "Bien Tieu Tuong, please look over", "Ben Tieu Tuong is far from Ham Duong" - "The Ham Duong tree is far from Tieu Tuong". The words seem to be intertwined and People's hearts are also attached, reluctant to leave. The woman's family life, which has been very difficult, is no longer peaceful. The war has separated the couple, from now on, that woman will have to live sadly living in loneliness until youth passes in sadness. See more: Describe a fruit that you like Each woman has her own situation, her own feelings. If the poem "Banh floats in the water". and the text "After the moment of separation" is the confession of ordinary women in society, but "Qua Deo Ngang" is the confession of a successful woman with a position in society , the poet's heart also carries heavy concerns about personal and common feelings before life:
"Going to Ngang Pass in the shadow of the driver
Chen stone plants, leaves flowers chen
Lom. bent down under the mountain to make a few trees
There are a few houses scattered around the market
Missing the country is painful for the country's children
Trade the mouth so adhered fatigue
Stop and stand: sky, mountains, water
A piece of me with my own situation".
The poem is written by the author - a young woman on her way to a foreign land. Even though it was the burial of the magnificent capital, the exile still evoked deep, painful sadness in her heart.
Standing in front of the late afternoon scene at the desolate and terrifying Ngang Pass, witnessing the hard and desolate lives of the people in the mountainous region, Ba Huyen Thanh Quan not only felt sad but also felt very lonely and sad. She alone had to face herself in that space:
“Stop and stop: sky, mountains, water
A piece of love between me and you."
The woman's soul expressed through the poem is sensitive, delicate and also very compassionate and altruistic. See more: My feelings about the following idea in the author's text "The school gate opens" Ly Lan: "Go, my child, be brave, this world is yours, step through the school gate and a magical world will open" Three poems, three different women, three different feelings together. Even though they are both beautiful and talented, they always have to cherish their own feelings and do not know how to share them with anyone. Writing about women in ancient society, the authors showed sincere sympathy for their fate. And so, those works will live forever because of their profound humanitarian value.
Vanmau.edu.vn
|
Qua văn bản Phong cách Hồ Chí Minh của Lê Anh Trà, em hãy viết đoạn văn cho biết tại sao Hồ Chí Minh có được một vốn văn hoá nhân loại sâu rộng và phong phú
Gợi ý
Hồ Chí Minh có một vốn tri thức văn hoá nhân loại sâu rộng. Đó là những hiểu biết uyên thâm về các dân tộc và nhân dân thế giới, văn hoá thế giới từ Đông sang Tây, từ văn hoá các nước châu Á, châu Âu cho đến châu Phi, châu Mĩ. Để có được vốn tri thức văn hoá sâu rộng ấy, Người đã không ngừng học tập để nói và viết thạo nhiều thứ tiếng nước ngoài như: Pháp, Anh, Hoa, Nga… Người cũng đi nhiều nơi, làm nhiều nghề – tức là học hỏi từ thực tiễn và lao động, không gò ép bản thân trong khuôn khổ của sách vở và những giáo lí khô khan. Qua đó, tìm hiểu văn hoá, nghệ thuật của các khu vực khác nhau trên thế giới một cách sâu sắc, uyên thâm. Hơn thế, trong việc học hỏi, trau dồi vốn tri thức văn hoá, Hồ Chí Minh đã thể hiện một phương châm đúng đắn: “đã tiếp thu mọi cái đẹp và cái hay đồng thời với việc phê phán những tiêu cực của chủ nghĩa tư bản,… Những ảnh hưởng quốc tế đó đã nhào nặn với cái gốc văn hoá dân tộc không gì lay chuyển được ờ Người, để trở thành một nhân cách rất Việt Nam, một lối sống rất bình dị, rất Việt Nam, rất phương Đông, nhưng cũng đồng thời rất mới, rất hiện đại”. Tức là chủ động lựa chọn, tiếp thu những thành tựu văn hoá của nhân loại một cách có phê phán dựa trên nền tảng căn bản của văn hoá dân tộc. Con đường học tập vốn văn hoá nhân loại ở Hồ Chí Minh là một bài học lớn cho thế hệ trẻ Việt Nam hôm nay.Xem thêm: Anh (chị) có suy nghĩ gì về hình tượng dòng sông trong tập trường ca Mặt đường khát vọng?Vanmau.edu.vn
|
Using the text Ho Chi Minh's Style by Le Anh Tra, write a paragraph explaining why Ho Chi Minh has a deep and rich human cultural capital.
Suggest
Ho Chi Minh has an extensive knowledge of human culture. That is profound knowledge about the world's peoples and peoples, world culture from East to West, from the cultures of Asian and European countries to Africa and America. To gain that extensive cultural knowledge, he constantly studied to speak and write fluently in many foreign languages such as: French, English, Chinese, Russian... He also traveled to many places and did many jobs - that is, Learn from practice and work, do not limit yourself within the framework of books and dry teachings. Thereby, learn about the culture and art of different regions of the world in a profound and profound way. Moreover, in learning and cultivating cultural knowledge, Ho Chi Minh demonstrated a correct motto: "absorbed all beauty and goodness at the same time as criticizing the negatives of capitalism." capitalist,... Those international influences have molded the unshakable national cultural roots in him, to become a very Vietnamese personality, a very simple lifestyle, very Vietnamese, very Eastern, but at the same time very new, very modern." That means proactively choosing and critically absorbing humanity's cultural achievements based on the basic foundation of national culture. The path of learning human cultural capital in Ho Chi Minh is a great lesson for the young generation of Vietnam today. See more: What do you think about the image of the river in the epic poem The Road of Thirst? hope?Vanmau.edu.vn
|
Qua đoạn trích từ Tam quốc diễn nghĩa, nêu nhận xét về lối kể chuyện và khắc họa tính cách nhân vật của tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc
Gợi ý
Tam quốc diễn nghĩa là truyện lịch sử xuất hiện đầu tiên và trở thành lá cờ đầu của tiểu thuyết giảng sử (chữ dùng của Lỗ Tấn) Trung Quốc. Có thể nói, để thiên truyện đi vào lòng người đọc bao thế hệ, La Quán Trung đã dụng công rất nhiều trong lối kể chuyện và khắc hoạ nhân vật. Qua đoạn trích Hồi trống Cổ Thành, chúng ta có thể cảm nhận được điều đó.
Hồi trống Cổ Thành là đoạn truyện kể về mối nghi ngờ của Trương Phi đối với Quan Công, Quan Công đưa hai chị dâu đi tìm anh, đến cổ Thành thì biết em mình là Trương Phi đang trấn giữ ở đó. Trương Phi nghe tin anh đến không nghênh tiếp mà còn múa xà mâu toan đâm anh. Nhìn thấy đám quân do tướng Tào là Sái Dương kéo đến phía sau Quan Công, Trương Phi càng ngờ anh thay lòng đổi dạ. Quạn Công buộc phải chấp nhận điều kiện chém đầu Sái Dương trong khi Trương Phi đánh ba hồi trống. Chưa dứt hồi trống thứ nhất, đầu Sái Dương đã rơi xuống đất. Anh em Quan Vũ – Trương Phi đoàn tụ. Câu chuyện được kể lại một cách ngắn gọn (ba trang giấy), lối kể chuyện giản dị, không tô vẽ, không bình phẩm như các tiểu thuyết hiện đại sau này. Nhưng trong chính sự ngắn gọn, giản dị ấy, La Quán Trung đã xây dựng nên mâu. thuẫn đầy kịch tính, mang lại sức hấp dẫn cho đoạn trích.Xem thêm: “Tao muốn làm người lương thiện... Không được! Ai cho tao lương thiện? Làm thế nào cho mất những vết mảnh chai trên mặt này? Tao không thể là người lương thiện nữa…”. Câu nói cuối cùng của Chí Phèo đã bộc lộ rõ chủ đề tác phẩm. Hãy phân tích và chứng minh Mâu thuẫn được tạo dựng bằng cách đốì lập thái độ của hai anh em Quan Công – Trương Phi khi họ gặp lại nhau. Trong khi Vân Trường mừng rõ vô cùng thì Trương Phi lại múa xà mâu chạy lại đâm Quan Công. Người đọc bất ngờ bởi lẽ giữa hai người là tình nghĩa anh em vốn dĩ rất sâu đậm. Và chỉ khi nghe lời kết tội của Trương Phi đối với Quan Công, chúng ta mới vỡ lẽ về căn nguyên của hành động thất lễ với anh là mối ngờ vực trong nhân vật này. Trong màn đối thoại giữa hai anh em, La Quán Trung đã để Trương Phi liên tục xưng mày – tao một cách nóng giận với anh mặc cho Quan Công vẫn ta – em mềm mỏng. Người đọc say sưa dõi theo câu chuyện của nhà văn, bị cuốn vào mối mâu thuẫn gay cấn, kịch tính. Để rồi khi câu mâu thuẫn đến chỗ khó giải quyết, tưởng chừng như bế tắc, La Quán Trung lại mở ra con đường giải thoát: Sái Dương xuất hiện tạo cơ hội để Quan Công minh oan bằng tài nghệ, khí phách.
Không cần ngôn ngữ khoa trương, không cần lời lẽ miêu tả dài dòng, chỉ. bằng nghệ thuật xây dựng mâu thuẫn kịch tính, nhà vãn đã mang lại câu chuyện sức hấp dẫn khôn tả.
Một thành công nghệ thuật khác của La Quán Trung trong Tam quốc nói chung và Hồi trống Cổ Thành nói riêng là khắc hoạ tính cách nhân vật. Tác giả chủ yếu tạc dựng chân dung nhân vật của mình bằng hành động và lời nói. Sự độ lượng và từ tôn của Quan Công được thể hiện bằng hàng loạt các chi tiết miêu tả hành động, lời nói. Khi thấy em múa xà mâu đâm mình, Quan Vân Trường giật mình hốt hoảng, sau đó vẫn gọi Trương Phi là hiền đệ và nhún mình thanh minh.Xem thêm: Nghị luận văn học về hành động trả thù của Tấm Đoạn trích có hai nhân vật nhưng nhân vật chính là Trương Phi. Quan Công được xây dựng để làm ảnh chiếu để nổi bật Trương Phi. Tính cách nóng nảy, cương trực của nhân vật này được khắc hoạ bằng nhiều hành động mạnh mẽ, dữ tợn: mắt trợn tròn xoe, râu hùm vểnh ngược, hò hét như sấm, hầm hầm quá. Lời lẽ nhân vật dứt khoát, cách xưng hô (mày – tao) thể hiện rõ thái độ coi thường, căm phẫn.
Từ cách khắc hoạ các nhân vật trong đoạn trích, có thể La Quán Trung chủ yếu tập trung vào hành động, lời nói để hoàn thiện chân dung nhân vật trong người đọc. Lẽ tất nhiên, điều này khác với tiểu thuyết hiện đại. Tiểu thuyết hiện đại quan tâm đến diễn biến tâm lí, đến suy nghĩ, đến dòng ý thức của nhân vật.
Lốì kể chuyện và khắc hoạ tính cách nhân vật của La Quán Trung là lối kể chuyện và khắc hoạ tính cách nhân vật thườnẹ thấy trong tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc. Có thể nói, đây là những nét nghệ thuật đặc trưng cho một thời đại, và là bậc thang đưa đến những kĩ xảo điêu luyện hơn trong tiểu thuyết hiện đại, đương đại.
Vanmau.edu.vn
|
Through an excerpt from Romance of the Three Kingdoms, comment on the storytelling and character characterization of the classic Chinese novel.
Suggest
Romance of the Three Kingdoms means a historical story that appeared first and became the flagship of Chinese historical novels (Lu Xun's word). It can be said that in order for the story to enter the hearts of readers for generations, La Quan Trung has put a lot of effort into storytelling and portraying characters. Through the excerpt of Co Thanh Drums, we can feel that.
Co Thanh drum is a story about Truong Phi's suspicions about Quan Cong. Quan Cong took his two sisters-in-law to find him. When he arrived at Co Thanh, he found out that his younger brother Truong Phi was guarding there. When Truong Phi heard that he was coming, he did not welcome him and instead used a snake and spear to stab him. Seeing the army led by Cao general Sai Duong arriving behind Quan Cong, Truong Phi suspected that he had a change of heart. Quan Cong was forced to accept the condition of beheading Sai Duong while Truong Phi played three drum beats. Before the first drum beat ended, Sai Duong's head fell to the ground. Guan Yu and Truong Phi brothers reunited. The story is told briefly (three pages), in a simple narrative style, without embellishment or criticism like later modern novels. But in that brevity and simplicity, La Quan Trung built a spear. Dramatic conflict, bringing appeal to the excerpt. See more: “I want to be an honest person... No! Who gave me honest? How to get rid of these calluses on the face? I can not be a good guy anymore…". Chi Pheo's last sentence clearly revealed the theme of the work. Analyze and prove that the conflict is created by contrasting the attitudes of the two brothers Quan Cong - Truong Phi when they meet again. While Van Truong was clearly extremely happy, Truong Phi used his snake spear and ran back to stab Quan Cong. The reader is surprised because the brotherly love between the two is inherently very deep. And only when we hear Truong Phi's accusations against Quan Cong do we understand that the root cause of his disrespectful actions towards him is the distrust in this character. In the dialogue between the two brothers, La Quan Trung let Truong Phi repeatedly call you - me angrily to him despite Quan Cong being soft-spoken. Readers passionately follow the writer's story, caught up in the intense and dramatic conflict. Then, when the contradiction reached a difficult point to resolve, seemingly deadlocked, La Quan Trung opened the way to liberation: Sai Duong appeared to create an opportunity for Quan Cong to clear his name with his talent and courage.
No need for bombastic language, no need for lengthy descriptions, just. With the art of building dramatic conflicts, the writer has brought an indescribably attractive story.
Another artistic success of La Guanzhong in Three Kingdoms in general and Hoi Co Thanh in particular is portraying the character's personality. The author mainly creates portraits of his characters through actions and words. Quan Cong's generosity and kindness are shown through a series of detailed descriptions of actions and words. When he saw his brother dancing the snake spear to stab him, Quan Van Truong was startled and panicked, then still called Truong Phi his good brother and humbly explained. See more: Literary discussion on Tam's act of revenge. The excerpt has two characters but the main character is Truong Phi. Quan Cong was built as a projection to highlight Truong Phi. This character's hot-tempered and upright personality is portrayed by many strong and ferocious actions: eyes wide open, beard curled up, screaming like thunder, and screaming loudly. The character's words are decisive and the way of addressing him (you - me) clearly shows his disdain and indignation.
From the way the characters are portrayed in the excerpt, it is possible that La Quan Trung mainly focuses on actions and words to perfect the character's portrait in the reader. Of course, this is different from modern novels. Modern novels are concerned with the psychological developments, thoughts, and stream of consciousness of the characters.
Luo Guanzhong's storytelling and character characterization style is often seen in classical Chinese novels. It can be said that these are the artistic features typical of an era, and are the stepping stones to more skillful techniques in modern and contemporary novels.
Vanmau.edu.vn
|
Qua đoạn trích “Tình yêu và thù hận”, chứng minh rằng: “Ca ngợi tình yêu chân chính của con người cũng chính là khẳng định con người”
Gợi ý
“Rô-mê-ô và Giu-li-ét” là vở bi kịch nổi tiếng của sếch-xpia, nhà thơ, nhà viết kịch thiên tài của nước Anh và của nhân loại. Vở bi kịch dựa trên xung đột giữa khát vọng yêu đương mãnh liệt với hoàn cảnh thù địch vây hãm. Mối tình của họ khẳng định sức sống, sức vươn dậy vượt lên trên mọi hoàn cảnh trói buộc con người, mối tình đó cũng là lời kết án đanh thép, tố cáo thành kiến phong kiến, nguyên nhân thù hận của tình người, của chủ nghĩa nhân văn. Với những gì được thể hiện trong tác phẩm cũng như qua đoạn trích “Tình yêu và thù hận” có một chân lý đã được chứng minh: Ca ngợi tình yêu chân chính của con người cũng chính là khẳng định con người.
Đề tài tình yêu xưa nay vẫn là đề tài nhận được nhiều sự ưu ái của con người, đặc biệt là người nghệ sĩ. Đó là một thứ tình cảm thể hiện tính nhân văn, nhân dạo cao cả. Tình yêu có rất nhiều cung bậc khác nhau và nó có sức mạnh làm thay đổi cuộc sống. Một tình yêu chân chính là tình yêu mà con người ta đến với nhau hoàn toàn trong sáng, bằng tình cảm chân thành, thực sự, không tính toán, vụ lợi. Tình yêu chân chính còn là biết trở thành động lực của nhau, giúp nhau vượt qua khó khăn. Người ta nói rằng: Ca ngợi tình yêu chân chính cũng chính là khẳng định con người, cũng là vì như vậy. Trước hết vì tình yêu đó là một tình cảm hết sức tự nhiên của con người. Con người sinh ra dã biết yêu: yêu gia đình, người thân, yêu bạn bè, yêu quê hương đất nước, tình yêu đôi lứa. Đó là những tình cảm mang đầy tính nhân bản bởi vậy nên khẳng định tình yêu, đó cũng chính là khẳng định con người. Hơn thế nữa, những người có thể có được tình yêu trong sáng, đích thực, chân chính với người khác thì hẳn đó cũng sẽ là biểu hiện cho một tâm hồn đẹp. Và họ cũng xứng đáng để nhận được sự ngợi ca.
Ca ngợi về tình yêu, sếch-xpia đã đặt nó trong một hoàn cảnh nghiệt ngã: đó là tình yêu của hai con người nảy sinh trong mối thù truyền kiếp giữa hai dòng họ, qua đó nó càng được thử thách và tỏa ra ánh hào quang rạng ngời. Rô-mê -ô và Giu-li-ét, hai người đến với nhau hoàn toàn tự nguyện, vì những mối tình cảm nảy nở không sao cưỡng lại được. Họ đã không để cho những định kiến vốn có của hai gia đình ảnh hưởng đến tình yêu của mình. Tình yêu của họ nảy nở và bùng lên một cách mãnh liệt. Ngay trong đêm gặp đầu tiên ở lễ hội hóa trang, Giô-mê-ô đã quay trở lại để gặp Giu-li-ét, đúng lúc Giu-li-ét cũng đang đứng bên cửa sổ để thổ lộ tình cảm với người mình yêu. Những lời độc thoại của nhân vật được dẫn ra dưới hình thức của một lời dẫn chuyện khiến cho người ta phải cảm động bởi mối tình si mê mà Rô-mê-ô giành cho Giu-li-ét: “Ánh sáng nào vừa lóe trên cửa sổ kia? Đấy là phương Đông và nàng Giu-li-ét là mặt trời! – Vừng dương đẹp tươi ơi, hãy hiện lên đi và giết chết ả Hằng Nga đố kị héo hon, nhợt nhạt vì đau buồn khi thấy cô hầu của ả lại đẹp hơn cả rất nhiều (…) chẳng qua hai ngôi sao đẹp nhất bầu trời có việc phải đi vắng, đã thiết tha nhờ mắt nàng lấp lánh, chờ đến lúc sao về..”.. Cuộc gặp gỡ, đối thoại và độc thoại của hai người được đặt trong một khung cảnh thiên nhiên thơ mộng tuyệt đẹp như để tôn thêm vẻ đẹp của mối tình, của những người đang chìm đắm trong yêu thương, vượt lên trên tất cả những thù hận đang đe dọa, rình rập phía trước. Bối cảnh đêm khuya – trăng sáng với màn đêm thanh vắng và vầng trăng trên trời cao đã tạo ra chiều sâu cho sự bộc lộ tình cảm của đôi tình nhân. Thiên nhiên được nhìn từ điểm nhìn của nhân vật, là thiên nhiên hòa cảm, đồng tình, trân trọng và chở che. Trong đôi mắt của người đang yêu, Giu-li-ét hiện ra như một nàng tiên lộng lẫy, “tỏa ánh hào quang, trên đầu ta như một sứ giả nhà trời có cánh”. Đây là cảm xúc của người đang yêu và được tình yêu đáp lại, cũng lạ sự cộng hưởng kỳ lạ và tuyệt vời trong tâm hồn của những người đang yêu mà sếch-xpia đã quan sát và nhận biết được. Đó là một tình yêu chân thành, không toan tính, vụ lợi mà rất hồn nhiên trong trắng được cái đẹp của bối cảnh làm nền.Xem thêm: Văn nghị luận - Giải thích câu tục ngữ: “Thất bại là mẹ thành công“
Tình yêu dẫu mãnh liệt nhưng đau đớn thay vẫn không thể thoát hỏi những ám ảnh về lòng thù hận. Nỗi ám ảnh này xuất hiện trong suy nghĩ của Giu-li-ét nhiều hơn, cho thấy nỗi lo lắng của nàng. Trong đoạn trích, đã có tới năm lần trong cả đối thoại lẫn độc thoại nàng bị nỗi ám ảnh đó đeo bám. Tình yêu trắc trở về sự hận thù, sự nhận thức đó khiến cho Giu-li-ét băn khoăn, day dứt, đứng trước những tâm trạng rối bời. Nàng đã không ngần ngại thổ lộ tình yêu mãnh liệt với chính bản thân mình. Nàng tự đặt mình vào trong tất cả những nỗi băn khoăn, ám ảnh rồi lại tự tìm cách trả lời để tự trấn an chính mình. (“Chàng hãy khước từ cha và từ chối dòng họ của chàng đi”; “Chỉ có tên họ chàng là thù địch với em thôi”; “Nơi tử địa”; “Họ mà bắt gặp anh”; “Em chẳng đời nào muốn họ bắt gặp anh nơi đây”. Với linh cảm của một người phụ nữ, Giu-i-ét đã dự cảm thấy trong tình yêu mình những sóng gió, và nàng lo sợ, không chỉ cho mình mà còn cho người mình yêu. Còn với Giô-mê-ô, chàng sẵn sàng từ bỏ tên họ của mình để có thể đến được với người mình yêu và của chính Rô-mê-ô (“Từ nay, tôi sẽ không bao giờ còn là Rô-mê-ô nữa”; “tôi thù ghét cái tên của tôi”; “càng phải Giô-mê-ô cũng chẳng phải Mông-ta-ghiu”). Nhưng vượt lên trên tất cả, mối quan tâm lớn nhất của họ lại là việc liệu tình cảm của người kia giành cho mình như thế nào? Tình yêu mãnh liệt đến độ cả hai vẫn ý thức được sự thù hận nhưng giờ đây nỗi lo chung của hai người là lo họ không được yêu nhau, họ không có được tình yêu của nhau. Cả hai đều nhắc tới hận thù nhưng không nhằm khoét sâu thêm hận thù mà con hướng tới vượt lên trên hận thù, bất chấp hận thù. Có thể nói, trong đoạn trích này, tình yêu đã không xung đột với thù hận mà chỉ diễn ra trên nền thù hận. Thù hận bị đẩy lùi, bị xóa đi vĩnh viễn, chỉ còn lại tình người, tình đời bao la, phù hợp với lý tưởng nhân văn.Xem thêm: Cảm nhận của em về bài thơ Nam quốc sơn hà Tình yêu của Giô-mê-ô và Giu-li-ét, đặt trong thời đại Phục hưng, càng có giá trị trong việc ngợi ca và khẳng định con người. Hai con người đó, họ đã sống với tất cả những tình cảm tự nhiên và chân thực nhất của mình, vượt lên trên mọi hoàn cảnh nghiệt ngã, éo le, vượt lên trên thù hận. Tình cảm của họ vượt lên trên bóng tôi của màn đêm trung cổ để tỏa ra ánh hào quang rực rỡ. Qua tình yêu đó, Sêch-xpia ca ngợi vẻ đẹp trần thế của con người, ca ngợi hạnh phúc do chính con người tạo ra chứ không phải là thứ hạnh phúc hư ảo do chúa trời ban phát. Không chỉ vậy, qua đề tài tình yêu tác giả cũng lên tiếng bênh vực và bảo vệ cho quyền lợi của người phụ nữ. Họ có quyền được yêu và thể hiện tình yêu của mình. Kết. thúc vở kịch, hai người yêu nhau cuối cùng cũng đã được ở bên nhau. Họ đã sống hết lòng trong tình yêu và cũng đã có thể chết vì tình yêu. Và cuối cùng, sức mạnh của tình yêu chân chính đã chiến thắng. Hai dòng họ đã tự nguyện xóa đi mối thâm thù truyền kiếp để sống với nhau trong hòa bình. Tình yêu chân chính đã có sức mạnh nối kết con người lại với nhau, xóa đi mọi thành kiến lạc hậu hay hận thù chia rẽ con người; tình yêu làm cho tình người được nối lại; tình yêu nâng đỡ, cổ vũ cho con người tạo nên lẽ sống: “Sống là yêu thương” và do đó, đó luôn là một tình cảm thể hiện tính nhân văn cao đẹp của con người, trong mọi thời đại.Xem thêm: Viết bài bình luận ngắn về tai nạn giao thông ở nước ta hiện nay (không quá 400 từ) Đoạn trích cũng như toàn vở bi kịch là câu chuyện tình yêu vượt lên trên thù hận của Giô-mê-ô và Giu-li-ét. Thông qua mối tình đích thực ấy, Sếch-xpia đã ngợi ca và khẳng định vẻ đẹp của tình người, của tình dời theo lý tưởng của chủ nghĩa nhân văn. Tác phẩm chứng minh cho một chân lý có ý nghĩa không chỉ trong thời đại bây giời: “Ca ngợi tình yêu chân chính của con người cũng chính là khẳng định con người”.
Vanmau.edu.vn
|
Qua đoạn trích “Tình yêu và thù hận”, chứng minh rằng: “Ca ngợi tình yêu chân chính của con người cũng chính là khẳng định con người”
Gợi ý
“Rô-mê-ô và Giu-li-ét” là vở bi kịch nổi tiếng của sếch-xpia, nhà thơ, nhà viết kịch thiên tài của nước Anh và của nhân loại. Vở bi kịch dựa trên xung đột giữa khát vọng yêu đương mãnh liệt với hoàn cảnh thù địch vây hãm. Mối tình của họ khẳng định sức sống, sức vươn dậy vượt lên trên mọi hoàn cảnh trói buộc con người, mối tình đó cũng là lời kết án đanh thép, tố cáo thành kiến phong kiến, nguyên nhân thù hận của tình người, của chủ nghĩa nhân văn. Với những gì được thể hiện trong tác phẩm cũng như qua đoạn trích “Tình yêu và thù hận” có một chân lý đã được chứng minh: Ca ngợi tình yêu chân chính của con người cũng chính là khẳng định con người.
Đề tài tình yêu xưa nay vẫn là đề tài nhận được nhiều sự ưu ái của con người, đặc biệt là người nghệ sĩ. Đó là một thứ tình cảm thể hiện tính nhân văn, nhân dạo cao cả. Tình yêu có rất nhiều cung bậc khác nhau và nó có sức mạnh làm thay đổi cuộc sống. Một tình yêu chân chính là tình yêu mà con người ta đến với nhau hoàn toàn trong sáng, bằng tình cảm chân thành, thực sự, không tính toán, vụ lợi. Tình yêu chân chính còn là biết trở thành động lực của nhau, giúp nhau vượt qua khó khăn. Người ta nói rằng: Ca ngợi tình yêu chân chính cũng chính là khẳng định con người, cũng là vì như vậy. Trước hết vì tình yêu đó là một tình cảm hết sức tự nhiên của con người. Con người sinh ra dã biết yêu: yêu gia đình, người thân, yêu bạn bè, yêu quê hương đất nước, tình yêu đôi lứa. Đó là những tình cảm mang đầy tính nhân bản bởi vậy nên khẳng định tình yêu, đó cũng chính là khẳng định con người. Hơn thế nữa, những người có thể có được tình yêu trong sáng, đích thực, chân chính với người khác thì hẳn đó cũng sẽ là biểu hiện cho một tâm hồn đẹp. Và họ cũng xứng đáng để nhận được sự ngợi ca.
Ca ngợi về tình yêu, sếch-xpia đã đặt nó trong một hoàn cảnh nghiệt ngã: đó là tình yêu của hai con người nảy sinh trong mối thù truyền kiếp giữa hai dòng họ, qua đó nó càng được thử thách và tỏa ra ánh hào quang rạng ngời. Rô-mê -ô và Giu-li-ét, hai người đến với nhau hoàn toàn tự nguyện, vì những mối tình cảm nảy nở không sao cưỡng lại được. Họ đã không để cho những định kiến vốn có của hai gia đình ảnh hưởng đến tình yêu của mình. Tình yêu của họ nảy nở và bùng lên một cách mãnh liệt. Ngay trong đêm gặp đầu tiên ở lễ hội hóa trang, Giô-mê-ô đã quay trở lại để gặp Giu-li-ét, đúng lúc Giu-li-ét cũng đang đứng bên cửa sổ để thổ lộ tình cảm với người mình yêu. Những lời độc thoại của nhân vật được dẫn ra dưới hình thức của một lời dẫn chuyện khiến cho người ta phải cảm động bởi mối tình si mê mà Rô-mê-ô giành cho Giu-li-ét: “Ánh sáng nào vừa lóe trên cửa sổ kia? Đấy là phương Đông và nàng Giu-li-ét là mặt trời! – Vừng dương đẹp tươi ơi, hãy hiện lên đi và giết chết ả Hằng Nga đố kị héo hon, nhợt nhạt vì đau buồn khi thấy cô hầu của ả lại đẹp hơn cả rất nhiều (…) chẳng qua hai ngôi sao đẹp nhất bầu trời có việc phải đi vắng, đã thiết tha nhờ mắt nàng lấp lánh, chờ đến lúc sao về..”.. Cuộc gặp gỡ, đối thoại và độc thoại của hai người được đặt trong một khung cảnh thiên nhiên thơ mộng tuyệt đẹp như để tôn thêm vẻ đẹp của mối tình, của những người đang chìm đắm trong yêu thương, vượt lên trên tất cả những thù hận đang đe dọa, rình rập phía trước. Bối cảnh đêm khuya – trăng sáng với màn đêm thanh vắng và vầng trăng trên trời cao đã tạo ra chiều sâu cho sự bộc lộ tình cảm của đôi tình nhân. Thiên nhiên được nhìn từ điểm nhìn của nhân vật, là thiên nhiên hòa cảm, đồng tình, trân trọng và chở che. Trong đôi mắt của người đang yêu, Giu-li-ét hiện ra như một nàng tiên lộng lẫy, “tỏa ánh hào quang, trên đầu ta như một sứ giả nhà trời có cánh”. Đây là cảm xúc của người đang yêu và được tình yêu đáp lại, cũng lạ sự cộng hưởng kỳ lạ và tuyệt vời trong tâm hồn của những người đang yêu mà sếch-xpia đã quan sát và nhận biết được. Đó là một tình yêu chân thành, không toan tính, vụ lợi mà rất hồn nhiên trong trắng được cái đẹp của bối cảnh làm nền.Xem thêm: Văn nghị luận - Giải thích câu tục ngữ: “Thất bại là mẹ thành công“
Tình yêu dẫu mãnh liệt nhưng đau đớn thay vẫn không thể thoát hỏi những ám ảnh về lòng thù hận. Nỗi ám ảnh này xuất hiện trong suy nghĩ của Giu-li-ét nhiều hơn, cho thấy nỗi lo lắng của nàng. Trong đoạn trích, đã có tới năm lần trong cả đối thoại lẫn độc thoại nàng bị nỗi ám ảnh đó đeo bám. Tình yêu trắc trở về sự hận thù, sự nhận thức đó khiến cho Giu-li-ét băn khoăn, day dứt, đứng trước những tâm trạng rối bời. Nàng đã không ngần ngại thổ lộ tình yêu mãnh liệt với chính bản thân mình. Nàng tự đặt mình vào trong tất cả những nỗi băn khoăn, ám ảnh rồi lại tự tìm cách trả lời để tự trấn an chính mình. (“Chàng hãy khước từ cha và từ chối dòng họ của chàng đi”; “Chỉ có tên họ chàng là thù địch với em thôi”; “Nơi tử địa”; “Họ mà bắt gặp anh”; “Em chẳng đời nào muốn họ bắt gặp anh nơi đây”. Với linh cảm của một người phụ nữ, Giu-i-ét đã dự cảm thấy trong tình yêu mình những sóng gió, và nàng lo sợ, không chỉ cho mình mà còn cho người mình yêu. Còn với Giô-mê-ô, chàng sẵn sàng từ bỏ tên họ của mình để có thể đến được với người mình yêu và của chính Rô-mê-ô (“Từ nay, tôi sẽ không bao giờ còn là Rô-mê-ô nữa”; “tôi thù ghét cái tên của tôi”; “càng phải Giô-mê-ô cũng chẳng phải Mông-ta-ghiu”). Nhưng vượt lên trên tất cả, mối quan tâm lớn nhất của họ lại là việc liệu tình cảm của người kia giành cho mình như thế nào? Tình yêu mãnh liệt đến độ cả hai vẫn ý thức được sự thù hận nhưng giờ đây nỗi lo chung của hai người là lo họ không được yêu nhau, họ không có được tình yêu của nhau. Cả hai đều nhắc tới hận thù nhưng không nhằm khoét sâu thêm hận thù mà con hướng tới vượt lên trên hận thù, bất chấp hận thù. Có thể nói, trong đoạn trích này, tình yêu đã không xung đột với thù hận mà chỉ diễn ra trên nền thù hận. Thù hận bị đẩy lùi, bị xóa đi vĩnh viễn, chỉ còn lại tình người, tình đời bao la, phù hợp với lý tưởng nhân văn.Xem thêm: Cảm nhận của em về bài thơ Nam quốc sơn hà Tình yêu của Giô-mê-ô và Giu-li-ét, đặt trong thời đại Phục hưng, càng có giá trị trong việc ngợi ca và khẳng định con người. Hai con người đó, họ đã sống với tất cả những tình cảm tự nhiên và chân thực nhất của mình, vượt lên trên mọi hoàn cảnh nghiệt ngã, éo le, vượt lên trên thù hận. Tình cảm của họ vượt lên trên bóng tôi của màn đêm trung cổ để tỏa ra ánh hào quang rực rỡ. Qua tình yêu đó, Sêch-xpia ca ngợi vẻ đẹp trần thế của con người, ca ngợi hạnh phúc do chính con người tạo ra chứ không phải là thứ hạnh phúc hư ảo do chúa trời ban phát. Không chỉ vậy, qua đề tài tình yêu tác giả cũng lên tiếng bênh vực và bảo vệ cho quyền lợi của người phụ nữ. Họ có quyền được yêu và thể hiện tình yêu của mình. Kết. thúc vở kịch, hai người yêu nhau cuối cùng cũng đã được ở bên nhau. Họ đã sống hết lòng trong tình yêu và cũng đã có thể chết vì tình yêu. Và cuối cùng, sức mạnh của tình yêu chân chính đã chiến thắng. Hai dòng họ đã tự nguyện xóa đi mối thâm thù truyền kiếp để sống với nhau trong hòa bình. Tình yêu chân chính đã có sức mạnh nối kết con người lại với nhau, xóa đi mọi thành kiến lạc hậu hay hận thù chia rẽ con người; tình yêu làm cho tình người được nối lại; tình yêu nâng đỡ, cổ vũ cho con người tạo nên lẽ sống: “Sống là yêu thương” và do đó, đó luôn là một tình cảm thể hiện tính nhân văn cao đẹp của con người, trong mọi thời đại.Xem thêm: Viết bài bình luận ngắn về tai nạn giao thông ở nước ta hiện nay (không quá 400 từ) Đoạn trích cũng như toàn vở bi kịch là câu chuyện tình yêu vượt lên trên thù hận của Giô-mê-ô và Giu-li-ét. Thông qua mối tình đích thực ấy, Sếch-xpia đã ngợi ca và khẳng định vẻ đẹp của tình người, của tình dời theo lý tưởng của chủ nghĩa nhân văn. Tác phẩm chứng minh cho một chân lý có ý nghĩa không chỉ trong thời đại bây giời: “Ca ngợi tình yêu chân chính của con người cũng chính là khẳng định con người”.
Vanmau.edu.vn
|
Qua “Câu cá mùa thu”, anh (chị) có cảm nhận như thế nào về tấm lòng của nhà thơ Nguyễn Khuyến đối với thiên nhiên, đất nước
Gợi ý
Nguyễn Khuyến sinh ra và lớn lên ở một vùng quê yên ả. Phần lớn cuộc đời nhà thơ gắn bó với mảnh đất Yên Đổ, mà hình ảnh của nó đã in đậm lên từng trang thơ với những nét hết sức tiêu biểu. Thông qua các tác phẩm của ông, ta cảm nhận được ở đó tấm chân tình với quê hương, đất nước mình của một người được mệnh danh là “nhà thơ của làng cảnh Việt Nam” (Xuân Diệu).
Cả bài thơ là một bức tranh làng quê Bắc Bộ thu nhỏ với những nét thật đặc trưng và ấn tượng:
“Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo
Sóng biếc theo làn hợi gợn tí
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo
Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo
Tựa gối ôm cần lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo”.
Bức tranh mùa thu được mở rộng theo nhiều chiều kích mà mỗi chiều kích lại có những khoảnh khắc gieo vào lòng người rất nhiều ấn tượng. Người câu cá thực ra lại là người ngoạn cảnh, người suy tư và cũng nhờ đó mà ta hiểu được phần nào tâm sự của vị “Tam nguyên Yên Đổ” nổi tiếng.
Bức tranh thiên nhiên mở đầu với hình ảnh của ao thu.
“Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo”
Những dấu hiệu đầu tiên báo hiệu một buổi đi câu là ao thu và thuyền câu. Ta bắt gặp một hình ảnh quen thuộc thường gặp ở vùng chiêm trũng đồng bằng Bắc Bộ: những chiếc ao nhỏ nhắn, tĩnh lặng đến độ làm cho “nước trong veo”. Ao thu lạnh, ao thu nhỏ và ao thu trong và có lẽ vì thế mà chiếc thuyền câu cũng phải trở nên “bé tẻo teo” cho hợp cảnh. Chiếc thuyền được đặt trong một không gian tĩnh lặng, dường như ngay từ đầu đã nằm trong chủ ý của tác giả, chỉ là một phần trong đó chứ không làm khuấy động bầu không khí vốn có của cảnh. Bức tranh ngay từ đầu đã hiện lên với những đường nét thật hài hòa.Xem thêm: Hãy bàn luận về câu nói: Học như bơi thuyền ngược nước. Không tiến sẽ phải lùi (Ngạn ngữ Trung Quốc) Từ viễn cảnh, nhìn bao quát toàn bộ cảnh ao thu, bức tranh thu về cận cảnh với hình ảnh của sóng. Chỉ là “sóng biếc theo làn hơi gợn tí”, nghĩa là chỉ là những gợn lăn tăn, rất nhẹ. Câu thơ tả nhưng có sức gợi. Nhìn sóng người ta còn như cảm nhận được làn gió cũng đang mơn man rất nhẹ trong không gian, trên mặt hồ. Mơn man nhẹ đủ để sóng nước chỉ gợn lên đôi chút. Lại thêm một net nữa của mùa thu không muôn là mất đi bầu không khí mùa thu tĩnh lặng đang bao trùm lên không gian. Trong tất cả những sự chuyển động chậm rãi ấy, chiếc lá xuất hiện đột ngột nhưng chỉ làm bức tranh lại có thêm một nét chấm phá thật nhẹ:
“Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo”
Đọc câu thơ người ta còn nhận ra nhịp chuyển động trước khi tiếp đất (mà cũng có thể là tiếp mặt nước – và đặt trong không gian đó hình ảnh chiếc lá “khẽ đưa vèo” càng trở nên đẹp hơn). Phải là người có tâm hồn tinh tế nhạy cảm lại đang chìm đắm, say sưa trong cảnh vật mới có thể nắm bắt được nét vẽ rất động nhưng cũng rất nhẹ ấy của bức tranh thiên nhiên. Từ xa tới gần, bức tranh lại tiếp tục được mở rộng lên cao, ra xa:
“Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo"
Không biết tại khí thu vốn mang trong nó vị buồn hay lòng người sẵn mối suy tư mà vô hình chung, tất cả cảnh vật hiện lên trong bức tranh đều có một cái gì đó lạnh lẽo, lẻ loi, vắng vẻ. Tất cả đều đượm buồn. Chắc cũng vẫn là cái màu da trời xanh ngắt trong “Thu ẩm”, màu xanh rất đặc trưng của khí thu vùng nhiệt đới, khí thu vùng đồng bằng Bắc Bộ nhưng ở đây nó không trở nên “gắt” như trong câu hỏi “Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt” mà hài hoà hơn cùng với tầng mây trôi lơ lửng. Không gian vắng, lạnh nhưng rất sáng. Một lần nữa, góc nhìn của nhân vật trữ tình lại có sự thay đổi khi nhìn ra xa, tới những ngõ trúc quanh co uốn lượn, vẫn không có sự xuất hiện của con người. Chỉ là “khách vắng teo” dường như để tạo nên sự tĩnh lặng đến tuyệt đối, chỉ có tác giả – người câu cá – đối mặt với cả một bầu không gian mùa thu buồn. Không biết bởi lòng người mang sẵn nhiều tâm sự nên mang điều ấy, mang cái nhìn ấy gieo vào cảnh vật hay cảnh vật dường như cũng đồng cảm với tâm sự của con người mà thay đổi theo mà giữa con người và cảnh vật có một sự hài hoà cao độ. Người ta thấy bức tranh mùa thu trở nên hoàn toàn tĩnh lặng đến độ:Xem thêm: Nguyễn Đình Thi đã suy tư và cảm nhận như thế nào về quê hương, đất nước Việt Nam trong phần cuối bài thơ. (Từ: “ôi những cánh đồng quê chảy máu" đến hết)“Tựa gối ôm cần lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo”
Bài thơ mang tựa đề là “Thu điếu” (Câu cá mùa thu) mà đến tận cuối bài thơ, hình ảnh người đi câu và công việc đi câu mới được nhắc tới. Nhưng ngay cả lúc này, cũng vẫn là hình ảnh một người đi câu trầm lặng ngồi “tựa gối ôm cần”. Tư thế ấy giống như bức tượng “Người suy tư” nổi tiếng của Auguster Rodin, tạc khắc một dáng ngồi bất động vào không gian. Đi câu cá, “tựa gối ôm cần” tưởng chừng như để chờ cá cắn câu nhưng thực ra lại không phải như vậy. Người đi câu đang chìm đắm trong suy tư của riêng mình đến nỗi dường như không còn quan tâm đến việc có câu được cá hay không nữa. Mải mê suy nghĩ đến mức chỉ một tiếng “cá đâu đớp động dưới chân bèo” cũng đủ để khiến người trong cuộc nghe thấy và sực tỉnh. Chỉ là tiếng cá đớp động, nghĩa là những âm thanh vô cùng nhỏ nhưng cũng đủ khiến người đi câu giật mình trở về với thực tại. Đi câu chỉ là một cái cớ để tác giả suy ngẫm về cuộc đời, về mình chính, là một cái cớ để “câu” sự thanh tĩnh, câu cái bình yên trong tâm hồn mình mà thôi. Con người ấy, hồn thơ ấy phải đi tìm những phút giây tĩnh lặng này bởi trong lòng ông đang nổi sóng.Xem thêm: Bài đọc tham khảo Cần tự giáo dục lấy mình Qua ngòi bút miêu tả tinh tế của Nguyễn Khuyến, bức tranh thiên nhiên mùa thu hiện lên thật buồn nhưng cũng thật đẹp. Buồn, đó là khí thu đặc trưng nhưng đó cũng là bởi người ngoạn cảnh cũng đang mang rất nhiều tâm trạng. Bài thơ cho ta cảm nhận về một tâm hồn thơ nhạy cảm yêu thiên nhiên đất nước. Sự gắn bó và tình yêu thương trìu mến đặc biệt với vùng đồng bằng chiêm trũng, với những ao chuôm nhỏ nhắn, với thuyền câu, lá vàng, ngõ trúc quanh co… đã giúp cho nhà thơ có được những cảm nhận tinh tế về thiên nhiên cũng như giành cho nó tình cảm ưu ái đặc biệt. Bài thơ còn là sự gửi gắm những tâm sự thầm kín của một người luôn nặng trĩu suy tư về quê hương, đất nước, về trách nhiệm của bản thân đối với quê hương đất nước mình. Là một trí thức yêu nước, ông không thể làm ngơ trước nỗi nhục, nỗi đau vong quốc mà ở đó “Vua chèo còn chẳng ra gì/ Quan chèo vai nhọ khác chi thằng hề”. Chính nỗi “non nước” khôn nguôi này làm ông tủi hổ, làm như lỗi tại mình nên mượn thơ mà cả thẹn: “Áo xiêm nghĩ lại thẹn thân già/ Xuân về ngày loạn càng lơ láo”. Mượn tiếng cuốc kêu mà thổ lộ tâm sự: “Có phải tiếc xuân mà đứng gọi/ Hay là nhớ nước vẫn nằm mơ”. Có thể nói Nguyễn Khuyến đã nén cả một nhân cách lớn, một hồn thơ lớn một nỗi đau lớn vào tiếng cuốc nhớ nước thảm thiết làm chảy máu cả tâm can người đọc hôm nay.
Nằm trong chùm ba bài thơ thu nổi tiếng, “Thu điếu” là một trong những bài thơ không chỉ góp phần đưa Nguyễn Khuyến trở thành “nhà thơ của làng cảnh Việt Nam” mà còn làm nên một nhân cách lớn Nguyễn Khuyến còn lại mãi trong lòng người.
Vanmau.edu.vn
|
Qua “Câu cá mùa thu”, anh (chị) có cảm nhận như thế nào về tấm lòng của nhà thơ Nguyễn Khuyến đối với thiên nhiên, đất nước
Gợi ý
Nguyễn Khuyến sinh ra và lớn lên ở một vùng quê yên ả. Phần lớn cuộc đời nhà thơ gắn bó với mảnh đất Yên Đổ, mà hình ảnh của nó đã in đậm lên từng trang thơ với những nét hết sức tiêu biểu. Thông qua các tác phẩm của ông, ta cảm nhận được ở đó tấm chân tình với quê hương, đất nước mình của một người được mệnh danh là “nhà thơ của làng cảnh Việt Nam” (Xuân Diệu).
Cả bài thơ là một bức tranh làng quê Bắc Bộ thu nhỏ với những nét thật đặc trưng và ấn tượng:
“Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo
Sóng biếc theo làn hợi gợn tí
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo
Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo
Tựa gối ôm cần lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo”.
Bức tranh mùa thu được mở rộng theo nhiều chiều kích mà mỗi chiều kích lại có những khoảnh khắc gieo vào lòng người rất nhiều ấn tượng. Người câu cá thực ra lại là người ngoạn cảnh, người suy tư và cũng nhờ đó mà ta hiểu được phần nào tâm sự của vị “Tam nguyên Yên Đổ” nổi tiếng.
Bức tranh thiên nhiên mở đầu với hình ảnh của ao thu.
“Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo”
Những dấu hiệu đầu tiên báo hiệu một buổi đi câu là ao thu và thuyền câu. Ta bắt gặp một hình ảnh quen thuộc thường gặp ở vùng chiêm trũng đồng bằng Bắc Bộ: những chiếc ao nhỏ nhắn, tĩnh lặng đến độ làm cho “nước trong veo”. Ao thu lạnh, ao thu nhỏ và ao thu trong và có lẽ vì thế mà chiếc thuyền câu cũng phải trở nên “bé tẻo teo” cho hợp cảnh. Chiếc thuyền được đặt trong một không gian tĩnh lặng, dường như ngay từ đầu đã nằm trong chủ ý của tác giả, chỉ là một phần trong đó chứ không làm khuấy động bầu không khí vốn có của cảnh. Bức tranh ngay từ đầu đã hiện lên với những đường nét thật hài hòa.Xem thêm: Hãy bàn luận về câu nói: Học như bơi thuyền ngược nước. Không tiến sẽ phải lùi (Ngạn ngữ Trung Quốc) Từ viễn cảnh, nhìn bao quát toàn bộ cảnh ao thu, bức tranh thu về cận cảnh với hình ảnh của sóng. Chỉ là “sóng biếc theo làn hơi gợn tí”, nghĩa là chỉ là những gợn lăn tăn, rất nhẹ. Câu thơ tả nhưng có sức gợi. Nhìn sóng người ta còn như cảm nhận được làn gió cũng đang mơn man rất nhẹ trong không gian, trên mặt hồ. Mơn man nhẹ đủ để sóng nước chỉ gợn lên đôi chút. Lại thêm một net nữa của mùa thu không muôn là mất đi bầu không khí mùa thu tĩnh lặng đang bao trùm lên không gian. Trong tất cả những sự chuyển động chậm rãi ấy, chiếc lá xuất hiện đột ngột nhưng chỉ làm bức tranh lại có thêm một nét chấm phá thật nhẹ:
“Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo”
Đọc câu thơ người ta còn nhận ra nhịp chuyển động trước khi tiếp đất (mà cũng có thể là tiếp mặt nước – và đặt trong không gian đó hình ảnh chiếc lá “khẽ đưa vèo” càng trở nên đẹp hơn). Phải là người có tâm hồn tinh tế nhạy cảm lại đang chìm đắm, say sưa trong cảnh vật mới có thể nắm bắt được nét vẽ rất động nhưng cũng rất nhẹ ấy của bức tranh thiên nhiên. Từ xa tới gần, bức tranh lại tiếp tục được mở rộng lên cao, ra xa:
“Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo"
Không biết tại khí thu vốn mang trong nó vị buồn hay lòng người sẵn mối suy tư mà vô hình chung, tất cả cảnh vật hiện lên trong bức tranh đều có một cái gì đó lạnh lẽo, lẻ loi, vắng vẻ. Tất cả đều đượm buồn. Chắc cũng vẫn là cái màu da trời xanh ngắt trong “Thu ẩm”, màu xanh rất đặc trưng của khí thu vùng nhiệt đới, khí thu vùng đồng bằng Bắc Bộ nhưng ở đây nó không trở nên “gắt” như trong câu hỏi “Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt” mà hài hoà hơn cùng với tầng mây trôi lơ lửng. Không gian vắng, lạnh nhưng rất sáng. Một lần nữa, góc nhìn của nhân vật trữ tình lại có sự thay đổi khi nhìn ra xa, tới những ngõ trúc quanh co uốn lượn, vẫn không có sự xuất hiện của con người. Chỉ là “khách vắng teo” dường như để tạo nên sự tĩnh lặng đến tuyệt đối, chỉ có tác giả – người câu cá – đối mặt với cả một bầu không gian mùa thu buồn. Không biết bởi lòng người mang sẵn nhiều tâm sự nên mang điều ấy, mang cái nhìn ấy gieo vào cảnh vật hay cảnh vật dường như cũng đồng cảm với tâm sự của con người mà thay đổi theo mà giữa con người và cảnh vật có một sự hài hoà cao độ. Người ta thấy bức tranh mùa thu trở nên hoàn toàn tĩnh lặng đến độ:Xem thêm: Nguyễn Đình Thi đã suy tư và cảm nhận như thế nào về quê hương, đất nước Việt Nam trong phần cuối bài thơ. (Từ: “ôi những cánh đồng quê chảy máu" đến hết)“Tựa gối ôm cần lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo”
Bài thơ mang tựa đề là “Thu điếu” (Câu cá mùa thu) mà đến tận cuối bài thơ, hình ảnh người đi câu và công việc đi câu mới được nhắc tới. Nhưng ngay cả lúc này, cũng vẫn là hình ảnh một người đi câu trầm lặng ngồi “tựa gối ôm cần”. Tư thế ấy giống như bức tượng “Người suy tư” nổi tiếng của Auguster Rodin, tạc khắc một dáng ngồi bất động vào không gian. Đi câu cá, “tựa gối ôm cần” tưởng chừng như để chờ cá cắn câu nhưng thực ra lại không phải như vậy. Người đi câu đang chìm đắm trong suy tư của riêng mình đến nỗi dường như không còn quan tâm đến việc có câu được cá hay không nữa. Mải mê suy nghĩ đến mức chỉ một tiếng “cá đâu đớp động dưới chân bèo” cũng đủ để khiến người trong cuộc nghe thấy và sực tỉnh. Chỉ là tiếng cá đớp động, nghĩa là những âm thanh vô cùng nhỏ nhưng cũng đủ khiến người đi câu giật mình trở về với thực tại. Đi câu chỉ là một cái cớ để tác giả suy ngẫm về cuộc đời, về mình chính, là một cái cớ để “câu” sự thanh tĩnh, câu cái bình yên trong tâm hồn mình mà thôi. Con người ấy, hồn thơ ấy phải đi tìm những phút giây tĩnh lặng này bởi trong lòng ông đang nổi sóng.Xem thêm: Bài đọc tham khảo Cần tự giáo dục lấy mình Qua ngòi bút miêu tả tinh tế của Nguyễn Khuyến, bức tranh thiên nhiên mùa thu hiện lên thật buồn nhưng cũng thật đẹp. Buồn, đó là khí thu đặc trưng nhưng đó cũng là bởi người ngoạn cảnh cũng đang mang rất nhiều tâm trạng. Bài thơ cho ta cảm nhận về một tâm hồn thơ nhạy cảm yêu thiên nhiên đất nước. Sự gắn bó và tình yêu thương trìu mến đặc biệt với vùng đồng bằng chiêm trũng, với những ao chuôm nhỏ nhắn, với thuyền câu, lá vàng, ngõ trúc quanh co… đã giúp cho nhà thơ có được những cảm nhận tinh tế về thiên nhiên cũng như giành cho nó tình cảm ưu ái đặc biệt. Bài thơ còn là sự gửi gắm những tâm sự thầm kín của một người luôn nặng trĩu suy tư về quê hương, đất nước, về trách nhiệm của bản thân đối với quê hương đất nước mình. Là một trí thức yêu nước, ông không thể làm ngơ trước nỗi nhục, nỗi đau vong quốc mà ở đó “Vua chèo còn chẳng ra gì/ Quan chèo vai nhọ khác chi thằng hề”. Chính nỗi “non nước” khôn nguôi này làm ông tủi hổ, làm như lỗi tại mình nên mượn thơ mà cả thẹn: “Áo xiêm nghĩ lại thẹn thân già/ Xuân về ngày loạn càng lơ láo”. Mượn tiếng cuốc kêu mà thổ lộ tâm sự: “Có phải tiếc xuân mà đứng gọi/ Hay là nhớ nước vẫn nằm mơ”. Có thể nói Nguyễn Khuyến đã nén cả một nhân cách lớn, một hồn thơ lớn một nỗi đau lớn vào tiếng cuốc nhớ nước thảm thiết làm chảy máu cả tâm can người đọc hôm nay.
Nằm trong chùm ba bài thơ thu nổi tiếng, “Thu điếu” là một trong những bài thơ không chỉ góp phần đưa Nguyễn Khuyến trở thành “nhà thơ của làng cảnh Việt Nam” mà còn làm nên một nhân cách lớn Nguyễn Khuyến còn lại mãi trong lòng người.
Vanmau.edu.vn
|
Quan niệm của anh (chị) về lối sống giản dị của một con người
Gợi ý
Sinh ra ở trên đời, mỗi người một tính cách, một lối sống. Người ưa lộng lẫy, người thích xuề xoà, người muốn nổi bật,… Nhưng dù ở thời đại nào, xã hội nào con người vẫn luôn nhắc nhở nhau giữ gìn, tập rèn lối sống giản dị.
Giản dị là sự đơn giản một cách tự nhiên trong phong cách sống. Đó là lối sống sử dụng các điều kiện vật chất phù hợp với điều kiện riêng của cá nhân, điều kiện chung của xã hội và điều kiện cụ thể của hoàn cảnh hoạt động, giao tiếp. Trong cuộc đời, hoa còn có muôn ngàn muôn vẻ, có hoa rực rỡ trên phù sa, có hoa khiêm nhường trên đá núi, con người cũng có người giàu người nghèo, người đầy đủ người chưa được ấm no. Vậy trong chi tiêu, sử dụng phải hợp lí phù hợp với điều kiện cá nhân sao cho không rơi vào tình cảnh “bóc ngắn cắn dài” để mang tiếng đua đòi lố lăng. Bên cạnh đó, cũng cần hiểu rằng đã là con người thì phải cùng chung sống, mỗi cá nhân làm nên một tế bào của xã hội có mối quan hệ gắn bó khăng khít với nhau. Vì vậy, cũng cần quan sát điều kiện cụ thể của đất nước, của xã hội để có lối sống phù hợp. Trong những năm sau cách mạng Tháng 8 – 1945 Bác Hồ từng kêu gọi: “Đất nước ta còn nghèo, dân ta còn đói khổ, đồng bào ta không phải ai cũng có cơm ăn áo mặc”. Trong điều kiện như thế cả nước chung lưng đấu cật “áo nâu túi vải” để sẻ chia giúp đỡ nhau. Cũng trong thời kì ấy, ngòi bút của nhà văn Nam Cao đã phê phán gay gắt lối sống xa hoa, hưởng lạc của một số văn nghệ sĩ, tiêu biểu là nhân vật Hoàng: khi đường phố đầy người chết đói con chó của anh vẫn chưa phải nhịn bữa nào; tản cư đi kháng chiến anh vẫn giữ những thói quen ngày thường: đọc Tam Quốc trước khi ngủ, ăn khoai vùi thật khéo, mía ướp hoa bưởi,… Nhưng những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể cũng chi phối đòi hỏi mỗi người phải có sự điều chỉnh phù hợp. Không phải lúc nào chưng diện lộng lẫy cũng là xa hoa và dễ dãi xuề xoà cũng là giản dị. Trong những buổi lễ, buổi đón tiếp khách,… sự chỉn chu, gọn gàng, trang trọng cũng là sự thể hiện ý thức thái độ nghiêm túc, lòng tôn trọng người khác của con người.Xem thêm: Tả một cánh rừng Ngược lại với giản dị là xa hoa. Lối sống ấy thường có ở những kẻ hay phô trương, khoe khoang quá lố, thích thể hiện “chơi trội”. Viện vào cớ “sành điệu”, đúng mốt họ tiệc tùng liên miên, chi tiêu quá tốn kém vào những việc vô bổ. Ngày nay còn truyền lại câu chuyện về Hắc Bạch công tử Bạc Liêu đốt tiền nấu cháo. Và thực tế hiện giờ cũng có những cậu ấm, cô chiêu chưa làm ra tiền nhưng tiêu tiền thường quá mức tài chính của cha mẹ.
Phủ nhận lối sống xa hoa, phô trương không có nghĩa là tán đồng lối sống xuề xoà dễ dãi "ăn xổi ả thì". Sự lộn xộn, bừa bãi trong sắp xếp bài trí sự vật, sự luộm thuộm trong ăn mặc cũng là những biểu hiện cần phê phán. Điều đó chỉ khiến người đối diện thấy mình không được tôn trọng, thấy ác cảm với chủ nhân. Không vị chủ nhà nào mặc áo rách ra đón khách, lấy nước lã ra thay trà. Chẳng ai mặc quần áo vá đi dự tiệc, dự lễ,… Người Việt Nam đi ăn cỗ, đi hội hè phải chọn mặc những bộ quần áo đẹp nhất mình có. Người Việt Nam tiếp khách phải có chén trà nóng, miếng trầu tình "làm đầu câu chuyện".
Con người muốn thành người, bên cạnh việc học vô vàn đức tính như "cẩn, kiệm, liêm, chính", trung thực, nhân ái,… còn phải phải học thêm sự giản dị ở đời. Một tấm gương sáng về lối sống giản dị của dân tộc ta, đó là chính là Bác Hồ vĩ đại. Bác vĩ đại ở nhiều điểm nhưng trước hết là đức tính giản dị vô cùng. Là Chủ tịch, nước mà Bác chỉ mặc bộ ka ki, đôi dép cao su mộc mạc. Được tặng áo bông, điều hoà,… Bác đều tặng lại hết cho những người mà theo Bác “cần chúng hơn”. Nhà Bác, ngôi nhà sàn đơn sơ làm lay động trái tim nhân loại bởi trong ấy chỉ có những thứ tôi thiểu cần dùng cho một người lãnh đạo: bộ bàn ghế làm việc, chiếc giường con, cái đồng hồ,… Nhà thơ Tố Hữu từng ca ngợi Bác:Xem thêm: Người ta nói: từ một hạt cát có thể kể thành truyện. Em hãy thử kể một câu chuyện như thế"Bác Hồ đó chiếc áo nâu giản dị
Màu qua thời gian bền bỉ, đậm đà."
Tấm gương sáng của người khiến mỗi chúng ta bỗng lớn lên bên Người một chút. Bác Hồ, đúng như Putstin tâm niệm “Cái vĩ đại nằm trong giản dị".
Ngợi ca sự giản dị để mỗi chúng ta học sống giản dị. Vậy làm sao để giản dị?
Để sống giản dị không hề đơn giản nhưng không phải là không làm được. Mỗi người cần hiểu rõ về bản thân về điều kiện của gia đình, về hoàn cảnh cụ thể của công việc từ đó xác định phù hợp những yếu tố vật chất đi kèm.
Với người học sinh, việc luyện rèn lối sống giản dị rất quan trọng bởi từ đây chúng sẽ trở thành lối sống suốt đời thành nhân cách của con người. Vì vậy mỗi người học sinh phải ý thức sâu sắc việc luyện rèn này. Còn là học sinh cha làm ra tiền, còn phải xin bố mẹ, chúng ta nên chi tiêu tích kiệm, chỉ dùng tiền vào những việc cần thiết; trang phục, ăn uống phải đúng nơi, đúng lúc. Có những bạn mặc váy ngắn đi chùa, không mặc đồng phục khi đi học theo quy định của nhà trường vì chê "vừa xấu, vừa nóng, vừa nhà quê",… Như vậy là không nên.
Giản dị giúp mỗi con người đẹp hơn, thanh thoát hơn, tích luỹ được của cải làm giàu cho xã hội, tạo cho xã hội sự hoà đồng, bình đẳng, thân ái. Xây dựng lối sống giản dị là điều cần thiết đối với mọi người.Xem thêm: Cảm nghĩ về bài ca dao “Đi cấy”- văn lớp 7Vanmau.edu.vn
|
Your concept of a simple human lifestyle
Suggest
Born into this world, each person has a personality and a lifestyle. Some people like to be gorgeous, some people like to be modest, some people want to stand out,... But no matter what era or society, people always remind each other to preserve and practice a simple lifestyle.
Simplicity is natural simplicity in lifestyle. It is a lifestyle that uses material conditions suitable to the individual's own conditions, the general conditions of society and the specific conditions of the operating and communication situation. In life, there are thousands of flowers, there are brilliant flowers on alluvial soil, there are humble flowers on mountain rocks, there are rich and poor people, there are well-off people and there are not enough people. Therefore, spending and use must be reasonable in accordance with personal conditions so as not to fall into the situation of "cutting short and taking long" to get a reputation for being ridiculously demanding. Besides, it is also necessary to understand that to be human, we must live together, each individual makes up a cell of society with a close relationship with each other. Therefore, it is also necessary to observe the specific conditions of the country and society to have a suitable lifestyle. In the years after the August 1945 revolution, Uncle Ho once called out: "Our country is still poor, our people are still hungry and suffering, not everyone of our people has food to eat and clothes to wear." In such conditions, the whole country unites to "brown clothes and cloth bags" to share and help each other. Also during that period, writer Nam Cao's pen harshly criticized the luxurious and hedonistic lifestyle of some writers and artists, typically the character Hoang: when the streets were full of people, his dog died of starvation. Haven't had to fast yet; Evacuating to fight the resistance, he still kept his usual habits: reading the Three Kingdoms before bed, eating well-buried potatoes, sugar cane marinated with grapefruit flowers, etc. But specific conditions and circumstances also dictated the need for each person to have appropriate adjustments. Dressing up extravagantly is not always extravagant and being easy-going is not always simple. In ceremonies, receptions, etc., neatness, neatness, and solemnity are also expressions of people's sense of serious attitude and respect for others. See more: Describing a forest In contrast with simplicity comes luxury. That lifestyle is often found in people who show off, show off too much, and like to show off their superiority. Using the excuse of being "fashionable", they party constantly and spend too much money on useless things. Today, the story is still passed down about the Black White Prince of Bac Lieu burning money to cook porridge. And in reality, there are also young men and women who have not yet made money but spend money often beyond their parents' financial capacity.
Denying a lavish and ostentatious lifestyle does not mean approving of the easy-going "let's get away with it" lifestyle. Clutter and disorder in the arrangement of things and sloppiness in clothing are also signs that need criticism. That only makes the other person feel disrespected and resentful of the owner. No host wears torn clothes to welcome guests, or brings out water to replace tea. No one wears patched clothes to parties, ceremonies, etc. Vietnamese people who go to parties or festivals must choose to wear the best clothes they have. Vietnamese people must have a cup of hot tea and a piece of betel to "start the conversation" when receiving guests.
If people want to become human, besides learning countless virtues such as "carefulness, frugality, integrity, integrity", honesty, kindness,... they also have to learn simplicity in life. A shining example of our nation's simple lifestyle is the great Uncle Ho. He was great in many ways, but first and foremost was his extremely simple qualities. As President, Uncle Ho only wore khaki and rustic rubber sandals. When he was given cotton shirts, air conditioners, etc., he gave them all to those who, according to him, "needed them more". Uncle Ho's house, a simple house on stilts, touches the hearts of humanity because in it there are only the bare necessities for a leader: a desk and chair set, a child's bed, a clock,... Poet To Huu once praised Uncle Ho: See more: People say: from a grain of sand a story can be told. Try telling a story like that: "Uncle Ho wore a simple brown shirt
The color is durable and rich over time."
His shining example makes each of us suddenly grow up with him a little. Uncle Ho, as Putstin believed, "Greatness lies in simplicity".
Praise simplicity so that each of us can learn to live simply. So how to be simple?
Living simply is not simple, but it is not impossible. Each person needs to understand clearly about themselves, their family's conditions, and the specific circumstances of their work, thereby appropriately determining the accompanying material factors.
For students, practicing simple lifestyles is very important because from here they will become a lifelong lifestyle and a person's personality. Therefore, each student must be deeply aware of this practice. As students, our parents make money and we still have to ask our parents. We should spend and save money, only use money for necessary things; Dressing, eating and drinking must be in the right place and at the right time. There are people who wear short skirts to go to temple, do not wear uniforms when going to school according to school regulations because they say they are "ugly, hot, and rustic", etc. This is not advisable.
Simplicity helps each person be more beautiful, more elegant, accumulate wealth to enrich society, and create harmony, equality, and friendliness in society. Building a simple lifestyle is necessary for everyone. See more: Feelings about the folk song "Going to transplant" - grade 7 literatureVanmau.edu.vn
|
Quan niệm của anh (chị) về tình yêu và trách nhiệm của tuổi trẻ trong tình yêu.
Hướng dẫn
Trọng tâm của bài luận là quan niêm về tình yêu và ý thức, trách nhiệm của tuổi trẻ trong tình yêu. Khi bàn luận, cần nêu rõ suy nghĩ, thái độ của bản thân đối với các vấn đề cụ thể như: Tình yêu có vai trò như thế nào trong đời sống tinh thần của con người, đặc biệt là đối với những người trẻ tuổi? Những quan niệm về tình yêu của giới trẻ hiện nay? Tuổi trẻ cần có trách nhiệm như thế nào với tình yêu?
Có thể tham khảo gợi ý sau:
– Nêu khái quát vị trí củatình yêu trong cuộc sống của con người:
+ Tình yêu là một trong những tình cảm sâu sắc, thiêng liêng nhất của con người. Nó chi phối rất lớn đến đời sống tinh thần, thậm chí có thể làm thay đổi số phận của con người. Đối với tuổi trẻ, tình yêu càng có sức hút mãnh liệt. Trái tim thanh xuân thường tràn đầy khát vọng khám phá, chiếm lĩnh tình yêu.
+ Tâm hồn, nhân cách của mỗi người được thể hiện rất rõ trong tình yêu. Thậm chí, chỉ cần quan sát cách yêu thương đã có thể nhìn nhận, đánh giá bản chất của một con người.
– Bàn luận về trách nhiệm của tuổi trẻ với tình yêu:
+ Hiện nay, quan niệm và thái độ với tình yêu của giới trẻ có những đổi thay như thế nào? Có thể nêu một số hiện tượng tích cực và tiêu cực để minh hoạ cho những quan niệm đó.
+ Sống trong xã hội hiện đại, họ có những thuận lợi và khó khăn gì trên con đường đến với tình yêu và hạnh phúc?
+ Mỗi người cần có trách nhiệm như thế nào với tình yêu? Cụ thể là trách nhiệm với đối tượng mình yêu thương. Chú ý các hoàn cảnh khác nhau: khi tình yêu nồng nàn, mãnh liệt và đặc biệt là khi tình yêu không được đáp lại hoặc tan vỡ, chia li…
– Liên hệ bản thân: đã từng được chứng kiến những hiện tượng đẹp và chưa đẹp nào trong tình yêu của bạn bè cùng lớp, cùng trường hoặc ngoài xã hội? Những hiện tượng đó gợi cho anh (chị) suy nghĩ gì? Quan niệm của anh (chị) về tình yêu: Tình cảm đó có còn chiếm giữ vị trí quan trọng trong đời sống tinh thần của mỗi con người hiện đại? Bản thân anh (chị) đã có những trải nghiệm nào trong vấn đề này? Theo anh (chị), cần phải làm gì để tình yêu mãi mãi là tình cảm thiêng liêng, cao thượng, có khả năng nâng đỡ và hoàn thiện con người…
* Bài văn tham khảo
YÊU LÀ BIẾT SỐNG ĐẸP HƠN
Tình yêu là vấn đề của muôn đời. Từ xa xưa đến mai sau, có lẽ nhịp đập của trái tim con người vẫn cứ bồi hồi, xao xuyến, khắc khoải, thao thức… như thế trước tiếng gọi của tình yêu. Nhưng quan niệm và cách ứng xử trong tình yêu thì chắc chắn sẽ có những đổi thay theo từng thời đại. Trong bối cảnh cuộc sống hiện nay, có khá nhiều điều cần phải bàn luận, suy ngẫm về tình yêu và trách nhiệm của tuổi trẻ với tình yêu.
So với các thế hệ trước, con người hiện đại đã có được sự bình đẳng, tự do trong tình yêu. Họ không còn phải chịu cảnh "cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy"; cũng không bị tróibuộc bởi các hủ tục xã hội khắt khe như thời xưa. Hầu hết mọi người được tự do lựa chọn và có thể chủ động trong việc kiếm tìm hạnh phúc. Chúng ta không còn phải chứng kiến nỗi đau khổ của lứa đôi yêu nhau tha thiết mà không được nên vợ nên chồng chỉ vì sự cách biệt về tài sản, đẳng cấp. Người phụ nữ cũng không còn phải nếm trải nỗi khổ vì thân phận lộ thuộc "Thân em như tấm lụa đào – Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai"; hoặc "Em thương anh cũng muốn kết nghĩa giao hoà – Sợ mẹ bằng biển, sợ cha bằng trời"… Thậm chí, sau khikết hôn, nếu tình yêu không còn, họ có thể chia tay và đi tìm hạnh phúc mới mà không phải gánh chịu "búa rìu dư luận" nghiệt ngã như thời xưa (Nứa trôi sông không dập thì gãy – Gái chồng rẫy không chứng nọ cũng tật kia…).
Nhưng cũng chính môi trường của cuộc sống hiện đại đã làm nảy sinh không ít quan niệm lệch lạc và nhiều hiện tượng chưa đẹp trong tình yêu. Hình như chuyện đến và đi trong tình yêu có chiều hướng ngày càng dễ dãi và không hiếm bạn trẻ thay đổi người yêu như thay áo. Nhiều bạn yêu theo "trào lưu" – lớp mình, trường mình có các đôi cặp kè thì mình cũng thế cho khỏi "tụt hậu". Có người coi việc chinh phục được đối tượng là một chiến tích, càng nhiều "chiến công" càng tự hào về tài "chinh chiến" của mình! Có người biến tình yêu thành phương tiện để thoả mãn nhu cầu ăn chơi, hưởng lạc. Không ít đôi dễ dàng "sống thử" cuộc sống vợ chồng trước hôn nhân. Kết quả là những tình cảm "giống như tình yêu" ấy thường nhanh chóng tan vỡ, để lại nỗi chán chường, thất vọng và có khi là nỗi hận thù. Đáng buồn nhất là cách ứng xử của một số bạn trẻ khi tình yêu không được đáp lại hoặc dang dở, chia li: nhẹ thì bôi xấu, lăng mạ; nặng thì "cho một trận đòn dằn mặt"; thậm chí có người nhẫn tâm huỷ hoại hình hài người yêu bằng a-xít hoặc cướp đi cả sinh mệnh của họ.
Xem thêm: Phân tích bài thơ Sang Thu của Hữu Thỉnh hay nhấtTôi hoàn toàn không tin khi có người nói rằng những hành động kia bắt nguồn từ tình yêu, vì "quá yêu" mà hành động mù quáng. Bởi vì, tình yêu thực sự không bao giờ chung sống với thói vị kỉ, sự tàn nhẫn. Trái lại, tình yêu luôn gắn liền với lòng chung thuỷ, vị tha và đức hi sinh. Tinh yêu phải khiến con người biết hướng tới những hành động đẹp đẽ, cao thượng. Nó sẽ trở thành nguồn sức mạnh kì diệu giúp mỗi người vượt qua khó khăn, thử thách trên con đường đời. Tôi nhớ những câu ca xưa "Muối ba năm muối đương còn mặn – Gừng chín tháng gừng hãy còn cay – Đôi ta tình nặng nghĩa dày – Có xa nhau đi nữa ba vạn sáu ngàn ngày mới xa". Tôi nhớ mãi câu chuyện có thật về một chàng trai miền biển, đến bệnh viện chăm sóc người thân, tình cờ gập một cô gái mang bệnh hiểm nghèo và đem lòng yêu thương cô. Anh đã vượt qua sự phản đối của gia đình, sự mặc cảm của cô gái để trở thành người bạn đời thuỷ chung, ân cần. Hai người đã nên vợ nên chồng và họ hạnh phúc bất chấp những nhọc nhằn, gian khó của cuộc sống đời thường.
Như thế, yêu không chỉ là đắm say, nồng nàn, nhớ nhung da diết, mà trước hết phải biết sống có trách nhiệm với mình, với người yêu. Ở trường tôi học, có một đôi thường được các lứa "đàn em" nhắc đến với lòng ngưỡng mộ. Anh và chị đều là học sinh sốngtrong khu nội trú. Khi anh học lớp 12 thì chị vào lớp 10. Mọi người xung quanh chỉ thấy anh quan tâm, săn sóc chị như một cô em gái mà không có chuyện hò hẹn, cặp kè như nhiều đôi khác. Vào đại học rồi, anh vẫn thường xuyên trở về thăm các em, giúp đỡ mọi người từ chuyện học hành đến việc treo lại một cái giá sách, đóng lại cái mắc áo… Ngày chị có kết quả thi đại học, anh mới trao cho chị cuốn nhật kí của ba năm được viết từ khoảnh khắc trái tim anh bồi hồi, xao xuyến trước gương mặt ngơ ngác của cô bé lớp 10 vừa nhập học; ghi lại bao lần anh phải kìm giữ lòng mình không dám thổ lộ tình yêu để giữ cho cô bé ấy những ngày tháng hồn nhiên, êm đềm của tuổi học trò… Tôi nghĩ, mình nghe kể đã thấy xúc động, cảm phục rồi, thì "người trong cuộc kia" không biết sẽ hạnh phúc đến thế nào khi được trao, được nhận một tình yêu như thế. Họ chính là những con người biết nâng niu, trân trọng tình yêu.
Khi tình yêu không được đáp lại hoặc tan vỡ vì một lí do nào đó, con người càng phải có trách nhiệm cao hơn để gìn giữ vẻ đẹp của tình cảm thiêng liêng này. Chắc hẳn mỗi chúng ta còn nhớ "cảnh ngộ" của chàng trai trong bài thơ Tôi yêu em của Pu-skin: tâm hồn bị giằng xé bởi bao cảm xúc trái ngược của mối tình đơn phương, khi lặng lẽ, âm thầm, lúc hậm hực ghen tuông, lúc chân thành đằm thắm… Vậy mà chàng trai ấy đã tự nguyện giã từ vì tôn trọng sự thanh thản, bình yên trong tâm hồn người con gái mình yêu thương. Anh từ biệt cô với lời chúc phúc "Cầu em được người tình như tôi đã yêu em". Trong cuộc sống, cũng có bao nhiêu đôi lứa không nên duyên chồng vợ vẫn có thể là bạn hoặc vẫn nhớ về nhau với những kỉ niệm tốt lành. Họ đã vượt lên nỗi đau khổ, thất vọng của riêng mình mà không làm tổn thương người khác, không xúc phạm tình yêu. Bố tôi có một người bạn thân từ nhỏ, bác ấy yêu một cô học cùng trường đại học nhưng cô ấy lại yêu người khác. Suốt mấy năm bác kiên trì "theo đuổi", rồi- thất vọng, đau khổ nhưng không có một lời oán trách, giận hờn dù tình cảm chân thành của mình chẳng được đáp lại. Khi mỗi người đã có gia đình riêng, bác vẫn quan tâm đến cuộc sống của cô, lặng lẽ giúp đỡ lúc cô ấy đau ốm, hoạn nạn. Năm 49 tuổi, cô ấy qua đời vì căn bệnh nan y, bác đi công tác xa về, cùng bố tôi đến nghĩa trang, đốt trên mộ cô tờ giấy có những dòng chữ ố vàng từ ba mươi năm trước: "Người mình yêu thương mãi mãi vẫn yêu thương"… Tôi nghĩ, chính những con người như thế đã tôn vinh giá trị của tình yêu giữa cuộc đời.
Mỗi một thời đại có thể thêm và bớt đi những tiêu chí định giá con người và cuộc sống. Nhưng riêng với tình yêu, có lẽ "chuẩn giá trị" vẫn là một hằng số không đổi. Con đường đến với tình yêu muôn màu muôn vẻ và tình yêu có thể mang đến niềm vui, hạnh phúc; cũng có thể khiến ta đau khổ, xót xa, tiếc nuối song tình cảm ấy mãi mãi là món quà vô giá của cuộc sống. Tất nhiên, tuỳ thuộc vào cách mỗi người trao và nhận nó. Với tôi, yêu là phải biết sống đẹp hơn…
Nguồn: thêm: Tóm tắt truyện (đoạn trích) "Mùa lá rụng trong vườn" của Ma Văn Kháng
|
Quan niệm của anh (chị) về tình yêu và trách nhiệm của tuổi trẻ trong tình yêu.
Hướng dẫn
Trọng tâm của bài luận là quan niêm về tình yêu và ý thức, trách nhiệm của tuổi trẻ trong tình yêu. Khi bàn luận, cần nêu rõ suy nghĩ, thái độ của bản thân đối với các vấn đề cụ thể như: Tình yêu có vai trò như thế nào trong đời sống tinh thần của con người, đặc biệt là đối với những người trẻ tuổi? Những quan niệm về tình yêu của giới trẻ hiện nay? Tuổi trẻ cần có trách nhiệm như thế nào với tình yêu?
Có thể tham khảo gợi ý sau:
– Nêu khái quát vị trí củatình yêu trong cuộc sống của con người:
+ Tình yêu là một trong những tình cảm sâu sắc, thiêng liêng nhất của con người. Nó chi phối rất lớn đến đời sống tinh thần, thậm chí có thể làm thay đổi số phận của con người. Đối với tuổi trẻ, tình yêu càng có sức hút mãnh liệt. Trái tim thanh xuân thường tràn đầy khát vọng khám phá, chiếm lĩnh tình yêu.
+ Tâm hồn, nhân cách của mỗi người được thể hiện rất rõ trong tình yêu. Thậm chí, chỉ cần quan sát cách yêu thương đã có thể nhìn nhận, đánh giá bản chất của một con người.
– Bàn luận về trách nhiệm của tuổi trẻ với tình yêu:
+ Hiện nay, quan niệm và thái độ với tình yêu của giới trẻ có những đổi thay như thế nào? Có thể nêu một số hiện tượng tích cực và tiêu cực để minh hoạ cho những quan niệm đó.
+ Sống trong xã hội hiện đại, họ có những thuận lợi và khó khăn gì trên con đường đến với tình yêu và hạnh phúc?
+ Mỗi người cần có trách nhiệm như thế nào với tình yêu? Cụ thể là trách nhiệm với đối tượng mình yêu thương. Chú ý các hoàn cảnh khác nhau: khi tình yêu nồng nàn, mãnh liệt và đặc biệt là khi tình yêu không được đáp lại hoặc tan vỡ, chia li…
– Liên hệ bản thân: đã từng được chứng kiến những hiện tượng đẹp và chưa đẹp nào trong tình yêu của bạn bè cùng lớp, cùng trường hoặc ngoài xã hội? Những hiện tượng đó gợi cho anh (chị) suy nghĩ gì? Quan niệm của anh (chị) về tình yêu: Tình cảm đó có còn chiếm giữ vị trí quan trọng trong đời sống tinh thần của mỗi con người hiện đại? Bản thân anh (chị) đã có những trải nghiệm nào trong vấn đề này? Theo anh (chị), cần phải làm gì để tình yêu mãi mãi là tình cảm thiêng liêng, cao thượng, có khả năng nâng đỡ và hoàn thiện con người…
* Bài văn tham khảo
YÊU LÀ BIẾT SỐNG ĐẸP HƠN
Tình yêu là vấn đề của muôn đời. Từ xa xưa đến mai sau, có lẽ nhịp đập của trái tim con người vẫn cứ bồi hồi, xao xuyến, khắc khoải, thao thức… như thế trước tiếng gọi của tình yêu. Nhưng quan niệm và cách ứng xử trong tình yêu thì chắc chắn sẽ có những đổi thay theo từng thời đại. Trong bối cảnh cuộc sống hiện nay, có khá nhiều điều cần phải bàn luận, suy ngẫm về tình yêu và trách nhiệm của tuổi trẻ với tình yêu.
So với các thế hệ trước, con người hiện đại đã có được sự bình đẳng, tự do trong tình yêu. Họ không còn phải chịu cảnh "cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy"; cũng không bị tróibuộc bởi các hủ tục xã hội khắt khe như thời xưa. Hầu hết mọi người được tự do lựa chọn và có thể chủ động trong việc kiếm tìm hạnh phúc. Chúng ta không còn phải chứng kiến nỗi đau khổ của lứa đôi yêu nhau tha thiết mà không được nên vợ nên chồng chỉ vì sự cách biệt về tài sản, đẳng cấp. Người phụ nữ cũng không còn phải nếm trải nỗi khổ vì thân phận lộ thuộc "Thân em như tấm lụa đào – Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai"; hoặc "Em thương anh cũng muốn kết nghĩa giao hoà – Sợ mẹ bằng biển, sợ cha bằng trời"… Thậm chí, sau khikết hôn, nếu tình yêu không còn, họ có thể chia tay và đi tìm hạnh phúc mới mà không phải gánh chịu "búa rìu dư luận" nghiệt ngã như thời xưa (Nứa trôi sông không dập thì gãy – Gái chồng rẫy không chứng nọ cũng tật kia…).
Nhưng cũng chính môi trường của cuộc sống hiện đại đã làm nảy sinh không ít quan niệm lệch lạc và nhiều hiện tượng chưa đẹp trong tình yêu. Hình như chuyện đến và đi trong tình yêu có chiều hướng ngày càng dễ dãi và không hiếm bạn trẻ thay đổi người yêu như thay áo. Nhiều bạn yêu theo "trào lưu" – lớp mình, trường mình có các đôi cặp kè thì mình cũng thế cho khỏi "tụt hậu". Có người coi việc chinh phục được đối tượng là một chiến tích, càng nhiều "chiến công" càng tự hào về tài "chinh chiến" của mình! Có người biến tình yêu thành phương tiện để thoả mãn nhu cầu ăn chơi, hưởng lạc. Không ít đôi dễ dàng "sống thử" cuộc sống vợ chồng trước hôn nhân. Kết quả là những tình cảm "giống như tình yêu" ấy thường nhanh chóng tan vỡ, để lại nỗi chán chường, thất vọng và có khi là nỗi hận thù. Đáng buồn nhất là cách ứng xử của một số bạn trẻ khi tình yêu không được đáp lại hoặc dang dở, chia li: nhẹ thì bôi xấu, lăng mạ; nặng thì "cho một trận đòn dằn mặt"; thậm chí có người nhẫn tâm huỷ hoại hình hài người yêu bằng a-xít hoặc cướp đi cả sinh mệnh của họ.
Xem thêm: Phân tích bài thơ Sang Thu của Hữu Thỉnh hay nhấtTôi hoàn toàn không tin khi có người nói rằng những hành động kia bắt nguồn từ tình yêu, vì "quá yêu" mà hành động mù quáng. Bởi vì, tình yêu thực sự không bao giờ chung sống với thói vị kỉ, sự tàn nhẫn. Trái lại, tình yêu luôn gắn liền với lòng chung thuỷ, vị tha và đức hi sinh. Tinh yêu phải khiến con người biết hướng tới những hành động đẹp đẽ, cao thượng. Nó sẽ trở thành nguồn sức mạnh kì diệu giúp mỗi người vượt qua khó khăn, thử thách trên con đường đời. Tôi nhớ những câu ca xưa "Muối ba năm muối đương còn mặn – Gừng chín tháng gừng hãy còn cay – Đôi ta tình nặng nghĩa dày – Có xa nhau đi nữa ba vạn sáu ngàn ngày mới xa". Tôi nhớ mãi câu chuyện có thật về một chàng trai miền biển, đến bệnh viện chăm sóc người thân, tình cờ gập một cô gái mang bệnh hiểm nghèo và đem lòng yêu thương cô. Anh đã vượt qua sự phản đối của gia đình, sự mặc cảm của cô gái để trở thành người bạn đời thuỷ chung, ân cần. Hai người đã nên vợ nên chồng và họ hạnh phúc bất chấp những nhọc nhằn, gian khó của cuộc sống đời thường.
Như thế, yêu không chỉ là đắm say, nồng nàn, nhớ nhung da diết, mà trước hết phải biết sống có trách nhiệm với mình, với người yêu. Ở trường tôi học, có một đôi thường được các lứa "đàn em" nhắc đến với lòng ngưỡng mộ. Anh và chị đều là học sinh sốngtrong khu nội trú. Khi anh học lớp 12 thì chị vào lớp 10. Mọi người xung quanh chỉ thấy anh quan tâm, săn sóc chị như một cô em gái mà không có chuyện hò hẹn, cặp kè như nhiều đôi khác. Vào đại học rồi, anh vẫn thường xuyên trở về thăm các em, giúp đỡ mọi người từ chuyện học hành đến việc treo lại một cái giá sách, đóng lại cái mắc áo… Ngày chị có kết quả thi đại học, anh mới trao cho chị cuốn nhật kí của ba năm được viết từ khoảnh khắc trái tim anh bồi hồi, xao xuyến trước gương mặt ngơ ngác của cô bé lớp 10 vừa nhập học; ghi lại bao lần anh phải kìm giữ lòng mình không dám thổ lộ tình yêu để giữ cho cô bé ấy những ngày tháng hồn nhiên, êm đềm của tuổi học trò… Tôi nghĩ, mình nghe kể đã thấy xúc động, cảm phục rồi, thì "người trong cuộc kia" không biết sẽ hạnh phúc đến thế nào khi được trao, được nhận một tình yêu như thế. Họ chính là những con người biết nâng niu, trân trọng tình yêu.
Khi tình yêu không được đáp lại hoặc tan vỡ vì một lí do nào đó, con người càng phải có trách nhiệm cao hơn để gìn giữ vẻ đẹp của tình cảm thiêng liêng này. Chắc hẳn mỗi chúng ta còn nhớ "cảnh ngộ" của chàng trai trong bài thơ Tôi yêu em của Pu-skin: tâm hồn bị giằng xé bởi bao cảm xúc trái ngược của mối tình đơn phương, khi lặng lẽ, âm thầm, lúc hậm hực ghen tuông, lúc chân thành đằm thắm… Vậy mà chàng trai ấy đã tự nguyện giã từ vì tôn trọng sự thanh thản, bình yên trong tâm hồn người con gái mình yêu thương. Anh từ biệt cô với lời chúc phúc "Cầu em được người tình như tôi đã yêu em". Trong cuộc sống, cũng có bao nhiêu đôi lứa không nên duyên chồng vợ vẫn có thể là bạn hoặc vẫn nhớ về nhau với những kỉ niệm tốt lành. Họ đã vượt lên nỗi đau khổ, thất vọng của riêng mình mà không làm tổn thương người khác, không xúc phạm tình yêu. Bố tôi có một người bạn thân từ nhỏ, bác ấy yêu một cô học cùng trường đại học nhưng cô ấy lại yêu người khác. Suốt mấy năm bác kiên trì "theo đuổi", rồi- thất vọng, đau khổ nhưng không có một lời oán trách, giận hờn dù tình cảm chân thành của mình chẳng được đáp lại. Khi mỗi người đã có gia đình riêng, bác vẫn quan tâm đến cuộc sống của cô, lặng lẽ giúp đỡ lúc cô ấy đau ốm, hoạn nạn. Năm 49 tuổi, cô ấy qua đời vì căn bệnh nan y, bác đi công tác xa về, cùng bố tôi đến nghĩa trang, đốt trên mộ cô tờ giấy có những dòng chữ ố vàng từ ba mươi năm trước: "Người mình yêu thương mãi mãi vẫn yêu thương"… Tôi nghĩ, chính những con người như thế đã tôn vinh giá trị của tình yêu giữa cuộc đời.
Mỗi một thời đại có thể thêm và bớt đi những tiêu chí định giá con người và cuộc sống. Nhưng riêng với tình yêu, có lẽ "chuẩn giá trị" vẫn là một hằng số không đổi. Con đường đến với tình yêu muôn màu muôn vẻ và tình yêu có thể mang đến niềm vui, hạnh phúc; cũng có thể khiến ta đau khổ, xót xa, tiếc nuối song tình cảm ấy mãi mãi là món quà vô giá của cuộc sống. Tất nhiên, tuỳ thuộc vào cách mỗi người trao và nhận nó. Với tôi, yêu là phải biết sống đẹp hơn…
Nguồn: thêm: Tóm tắt truyện (đoạn trích) "Mùa lá rụng trong vườn" của Ma Văn Kháng
|
Quan niệm của bạn về hạnh phúc
Gợi ý
“Có một cậu bé sống trong trại mồ côi từ nhỏ. Cậu bé luôn có ước mơ rằng mình có thể bay được như những chú chim. Mọi lời giải thích đều chẳng có nghĩa lí gì đối với cậu bé. Cậu ta luôn thắc mắc rằng tại sao mình lại không thể bay cơ chứ trong khi trong vườn thú có những chú chim to hơn cậu nhiều mà chúng vẫn bay được.
Có một cậu bé khác bị liệt từ nhỏ, ước mơ duy nhất của cậu bé là có thể đi đứng và chạy được giống như các cô cậu bé khác. Cậu bé cũng luôn hỏi bô’ mình tại sao cậu lại không thể đi được.
Một hôm, cậu bé sống ở trại trẻ mồ côi được đi ra ngoài. Cậu ta đến công viên và nhìn thấy cậu bé bị liệt đang chơi trong hố cát. Cậu bé chạy lại ngay hỏi xem cậu bé trong hố cát kia đã bao giờ mơ ước được bay chưa.
– Tớ chưa bao giờ mơ ước như vậy – Cậu bé bị liệt trả lời — Nhưng tớ luôn ước rằng tớ có thể đi lại bình thường như cậu.
– Tớ xin lỗi, chuyện của cậu thật đáng buồn. Này, chúng ta có thể làm bạn với nhau được chứ?
– Tất nhiên rồi.
Hai đứa trẻ chơi với nhau rất vui vẻ cho đến khi bố cậu bé bị liệt mang chiếc xe lăn ra đón con trai mình về. Cậu bé có mơ ước được bay ra nói thầm điều gì đó vào tai bố bạn mình.
– Được thôi, nếu cháu muôn – Người bố vui vẻ đáp.
Cậu bé tiến lại chỗ bạn mình và nói:
– Cậu là người bạn duy nhất của tớ. Tớ ước gì có một điều kì diệu sẽ làm cho bạn có thể đi lại được. Tớ chỉ có thể làm cho bạn một điều nhỏ này.
Nói rồi cậu bé cõng ngay người bạn bị liệt của mình trên lưng và đi. Lúc đầu, cậu đi từ từ, rồi dần dần cậu chạy, chạy nhanh hơn. Cậu bé bị liệt hứng thú reo lên:Xem thêm: Phân tích triết lý sống trong “Hồn Trương Ba da hàng thịt” của Lưu Quang Vũ- Văn 12– Cảm ơn cậu, đây là lần đầu tiên tớ không cần xe lăn.
Cậu bé có ước muốn được bay càng chạy nhanh hơn nữa dù mặt cậu đỏ bừng và áo thì ướt sũng mồ hôi. Người cha hạnh phúc nhìn hai đứa trẻ chạy vòng vòng quanh thảm cỏ. Cậu bé bị liệt giơ hai tay lên trời hét to:
– Bố ơi nhìn này, con có thể bay được rồi, con đang bay này!
Câu chuyện cảm động của hai cậu bé nhắc nhở chúng ta rằng: Nếu bạn không thể bay, bạn vẫn có thể giúp người khác bay. Cũng giống như là nếu bạn không thực hiện được ước mơ của mình thì bạn vẫn có thể giúp người khác thực hiện ước mơ của họ cho dù ước mơ đó giông hệt ước mơ của bạn, và bạn sẽ cảm thấy hạnh phúc!”.
Hạnh phúc là gì? Ngạn ngữ Hi Lạp xưa đã nói: “Người hạnh phúc có ba điều: khỏe mạnh, giàu sang và có tri thức”. Suy cho cùng, khi xã hội càng văn minh, hiện đại, quan niệm về hạnh phúc nói trên không thay đổi mấy về bản chất, có chăng là mức độ phong phú, đa dạng, nhiều màu sắc hơn, phức tạp, tinh vi hơn và tất nhiên, khó tìm thấy hơn. Một khi người ta cảm thấy được thỏa mãn nhu cầu và lợi ích của mình, ta sẽ thấy một niềm cảm xúc vui sướng dâng trào. Đó chính là lúc niềm hạnh phúc đang đến. Khi đang hạnh phúc, dường như ta sẽ sống tốt hơn bình thường, muốn chia sẻ niềm vui sướng cho những người xung quanh, đặc biệt là người thân. Vì thế hạnh phúc thì khó giấu trong khi nỗi buồn lại có khả năng che đậy được.
Tuy nhiên, mặt khác có nhiều quan niệm: hạnh phúc chỉ là hạnh phúc khi người ta khao khát một điều gì đó hơn là lúc ta chiếm hữu được điều đó. Quả thật, đó là quan điểm của những người bi quan, họ không tin có một hạnh phúc đích thực, lâu dài. Hạnh phúc chỉ là những khoảnh khắc trong cuộc sống, đến nhanh và tan biến mau. Chính khi chúng ta phấn đấu hết sức mình trên con đường dẫn đến hạnh phúc là lúc ta cảm thấy niềm hạnh phúc rõ ràng nhất, còn một khi đã đạt được mục đích, người ta lại cố tìm kiếm những mục đích cao hơn, xa hơn, những thử thách mới mẻ, quan trọng hơn. Vì thế mà cả một cuộc đời ta cứ đi tìm những đỉnh cao để thỏa mãn chính mình mà quên rằng hạnh phúc còn là những gì nhỏ nhoi, giản dị mà ta có thể bắt gặp bất cứ lúc nào trong cuộc sống quanh ta: hạnh phúc là đóa hoa nở ban sáng mùa xuân, là cánh chim mỗi buổi chiều tà bay về tổ ấm. Hạnh phúc ở trong giọt mồ hôi người nông dân buổi trưa nắng, hạnh phúc khi tìm thấy chiếc nhẫn bằng thép nằm sâu dưới tuyết lạnh mùa đông. Hạnh phúc khi người lính ra chiến trường với trái tim hồng lí tưởng. Hạnh phúc khi người thiếu nữ nhận lời tỏ tình của một chàng trai. Hạnh phúc khi người ta không còn đòi hỏi, tham lam, ham muôn. Nghĩa là hạnh phúc mang dấu ấn của một cá nhân nhưng mỗi cá nhân là một phần của xã hội. Mỗi người bị ràng buộc với nhau bằng một mối dây vô hình mà bền chặt đó là loài giông. Những ai dửng dưng trước đồng loại cũng sẽ dửng dưng với chính mình và hạnh phúc đối với họ chỉ là một điều gì đó xa vời. Con người càng ích kỉ thì lòng ham muôn cá nhân càng to lớn, càng khó tìm thấy hạnh phúc. Vì thế mà hạnh phúc phải gắn liền với yêu thương, thấu hiểu, nếu con người trên thế giới đều hiểu biết lẫn nhau sẽ không để xảy ra chiến tranh, chết chóc, khủng bô", làm cho người ta nghi ngờ nhau, thậm chí nghi ngờ cả lòng tốt của nhau, làm cho dân tộc chia rẽ dân tộc, giáo phái đàn áp giáo phái.Xem thêm: Trình bày ý kiến của anh (chị) về quan niệm: "Văn học nghệ thuật là một mặt trận” (Hồ Chí Minh). Chứng minh bằng các tác phẩm của Hồ Chí Minh trong tập “Nhật kí trong tù” Một định lí trong cuộc sống mà ai cũng phải đồng tình: một ánh lửa chia sẻ là một ánh lửa lan tỏa, một đồng tiền kinh doanh là một đồng tiền sinh lợi, một đôi môi hé mở mới thu nhận được nụ cười, một bàn tay có mở rộng mới nhận được hạnh phúc; một tâm hồn có hòa nhịp cùng cộng đồng mới tràn ngập sướng vui. Chúng ta ngày càng văn minh hơn nhưng rõ ràng chúng ta không hạnh phúc hơn. Con người hiện đại bị bủa vây vì sự đe dọa về tính an toàn, bởi khủng bô’, bởi hận thù sắc tộc. Những vụ bắt cóc con tin ở I-rắc vẫn diễn ra nóng bỏng, khủng bô’ ở Mĩ, cuộc chiến giành hòa bình ở Pa-le-xtin còn dang dở khi người lãnh đạo ưu tú A-ra-phát đã ra đi. Chỉ cần con người hiểu biết lẫn nhau, sự hòa bình cho toàn thế giới mới là hạnh phúc đích thực.
Những người trẻ tuổi là những người cảm nhận dễ dàng hạnh phúc. Bởi lẽ tất cả những gì xảy đến đều là mới mẻ. Cuộc sống vẫn còn là một điều gì đó diệu ki, đáng yêu. Bởi vậy, họ là nguồn động lực tinh thần và vật chất của toàn xã hội, là những người có ảnh hưởng nhiều nhất đến hạnh phúc chung của cộng đồng. Có thể nói niềm tin vào cuộc sống chính là kho báu tinh thần lớn nhất của tuổi trẻ chúng ta.Xem thêm: Kể lại một câu chuyện đã học từ Trung học cơ sở để lại trong lòng anh chị ấn tượng sâu đậm Tình yêu cuộc sống chan hòa trong trái tim tuổi trẻ sẽ dẫn ta đến với niềm hạnh phúc. Hạnh phúc không ở đâu xa, nó luôn ở quanh ta một khi ta biết mở lòng ra đón nhận hạnh phúc đi vào.
Cảm xúc của nhà thơ Dương Hương Ly khi nói về hạnh phúc:
Hạnh phúc là gì bao lần ta lúng túng,
Hỏi nhau hoài mà nghĩ mãi không ra.
Cho đến ngày cất bước đi xa,
Miền Nam gọi hai đứa mình có mặt.
Vanmau.edu.vn
|
Quan niệm của bạn về hạnh phúc
Gợi ý
“Có một cậu bé sống trong trại mồ côi từ nhỏ. Cậu bé luôn có ước mơ rằng mình có thể bay được như những chú chim. Mọi lời giải thích đều chẳng có nghĩa lí gì đối với cậu bé. Cậu ta luôn thắc mắc rằng tại sao mình lại không thể bay cơ chứ trong khi trong vườn thú có những chú chim to hơn cậu nhiều mà chúng vẫn bay được.
Có một cậu bé khác bị liệt từ nhỏ, ước mơ duy nhất của cậu bé là có thể đi đứng và chạy được giống như các cô cậu bé khác. Cậu bé cũng luôn hỏi bô’ mình tại sao cậu lại không thể đi được.
Một hôm, cậu bé sống ở trại trẻ mồ côi được đi ra ngoài. Cậu ta đến công viên và nhìn thấy cậu bé bị liệt đang chơi trong hố cát. Cậu bé chạy lại ngay hỏi xem cậu bé trong hố cát kia đã bao giờ mơ ước được bay chưa.
– Tớ chưa bao giờ mơ ước như vậy – Cậu bé bị liệt trả lời — Nhưng tớ luôn ước rằng tớ có thể đi lại bình thường như cậu.
– Tớ xin lỗi, chuyện của cậu thật đáng buồn. Này, chúng ta có thể làm bạn với nhau được chứ?
– Tất nhiên rồi.
Hai đứa trẻ chơi với nhau rất vui vẻ cho đến khi bố cậu bé bị liệt mang chiếc xe lăn ra đón con trai mình về. Cậu bé có mơ ước được bay ra nói thầm điều gì đó vào tai bố bạn mình.
– Được thôi, nếu cháu muôn – Người bố vui vẻ đáp.
Cậu bé tiến lại chỗ bạn mình và nói:
– Cậu là người bạn duy nhất của tớ. Tớ ước gì có một điều kì diệu sẽ làm cho bạn có thể đi lại được. Tớ chỉ có thể làm cho bạn một điều nhỏ này.
Nói rồi cậu bé cõng ngay người bạn bị liệt của mình trên lưng và đi. Lúc đầu, cậu đi từ từ, rồi dần dần cậu chạy, chạy nhanh hơn. Cậu bé bị liệt hứng thú reo lên:Xem thêm: Phân tích triết lý sống trong “Hồn Trương Ba da hàng thịt” của Lưu Quang Vũ- Văn 12– Cảm ơn cậu, đây là lần đầu tiên tớ không cần xe lăn.
Cậu bé có ước muốn được bay càng chạy nhanh hơn nữa dù mặt cậu đỏ bừng và áo thì ướt sũng mồ hôi. Người cha hạnh phúc nhìn hai đứa trẻ chạy vòng vòng quanh thảm cỏ. Cậu bé bị liệt giơ hai tay lên trời hét to:
– Bố ơi nhìn này, con có thể bay được rồi, con đang bay này!
Câu chuyện cảm động của hai cậu bé nhắc nhở chúng ta rằng: Nếu bạn không thể bay, bạn vẫn có thể giúp người khác bay. Cũng giống như là nếu bạn không thực hiện được ước mơ của mình thì bạn vẫn có thể giúp người khác thực hiện ước mơ của họ cho dù ước mơ đó giông hệt ước mơ của bạn, và bạn sẽ cảm thấy hạnh phúc!”.
Hạnh phúc là gì? Ngạn ngữ Hi Lạp xưa đã nói: “Người hạnh phúc có ba điều: khỏe mạnh, giàu sang và có tri thức”. Suy cho cùng, khi xã hội càng văn minh, hiện đại, quan niệm về hạnh phúc nói trên không thay đổi mấy về bản chất, có chăng là mức độ phong phú, đa dạng, nhiều màu sắc hơn, phức tạp, tinh vi hơn và tất nhiên, khó tìm thấy hơn. Một khi người ta cảm thấy được thỏa mãn nhu cầu và lợi ích của mình, ta sẽ thấy một niềm cảm xúc vui sướng dâng trào. Đó chính là lúc niềm hạnh phúc đang đến. Khi đang hạnh phúc, dường như ta sẽ sống tốt hơn bình thường, muốn chia sẻ niềm vui sướng cho những người xung quanh, đặc biệt là người thân. Vì thế hạnh phúc thì khó giấu trong khi nỗi buồn lại có khả năng che đậy được.
Tuy nhiên, mặt khác có nhiều quan niệm: hạnh phúc chỉ là hạnh phúc khi người ta khao khát một điều gì đó hơn là lúc ta chiếm hữu được điều đó. Quả thật, đó là quan điểm của những người bi quan, họ không tin có một hạnh phúc đích thực, lâu dài. Hạnh phúc chỉ là những khoảnh khắc trong cuộc sống, đến nhanh và tan biến mau. Chính khi chúng ta phấn đấu hết sức mình trên con đường dẫn đến hạnh phúc là lúc ta cảm thấy niềm hạnh phúc rõ ràng nhất, còn một khi đã đạt được mục đích, người ta lại cố tìm kiếm những mục đích cao hơn, xa hơn, những thử thách mới mẻ, quan trọng hơn. Vì thế mà cả một cuộc đời ta cứ đi tìm những đỉnh cao để thỏa mãn chính mình mà quên rằng hạnh phúc còn là những gì nhỏ nhoi, giản dị mà ta có thể bắt gặp bất cứ lúc nào trong cuộc sống quanh ta: hạnh phúc là đóa hoa nở ban sáng mùa xuân, là cánh chim mỗi buổi chiều tà bay về tổ ấm. Hạnh phúc ở trong giọt mồ hôi người nông dân buổi trưa nắng, hạnh phúc khi tìm thấy chiếc nhẫn bằng thép nằm sâu dưới tuyết lạnh mùa đông. Hạnh phúc khi người lính ra chiến trường với trái tim hồng lí tưởng. Hạnh phúc khi người thiếu nữ nhận lời tỏ tình của một chàng trai. Hạnh phúc khi người ta không còn đòi hỏi, tham lam, ham muôn. Nghĩa là hạnh phúc mang dấu ấn của một cá nhân nhưng mỗi cá nhân là một phần của xã hội. Mỗi người bị ràng buộc với nhau bằng một mối dây vô hình mà bền chặt đó là loài giông. Những ai dửng dưng trước đồng loại cũng sẽ dửng dưng với chính mình và hạnh phúc đối với họ chỉ là một điều gì đó xa vời. Con người càng ích kỉ thì lòng ham muôn cá nhân càng to lớn, càng khó tìm thấy hạnh phúc. Vì thế mà hạnh phúc phải gắn liền với yêu thương, thấu hiểu, nếu con người trên thế giới đều hiểu biết lẫn nhau sẽ không để xảy ra chiến tranh, chết chóc, khủng bô", làm cho người ta nghi ngờ nhau, thậm chí nghi ngờ cả lòng tốt của nhau, làm cho dân tộc chia rẽ dân tộc, giáo phái đàn áp giáo phái.Xem thêm: Trình bày ý kiến của anh (chị) về quan niệm: "Văn học nghệ thuật là một mặt trận” (Hồ Chí Minh). Chứng minh bằng các tác phẩm của Hồ Chí Minh trong tập “Nhật kí trong tù” Một định lí trong cuộc sống mà ai cũng phải đồng tình: một ánh lửa chia sẻ là một ánh lửa lan tỏa, một đồng tiền kinh doanh là một đồng tiền sinh lợi, một đôi môi hé mở mới thu nhận được nụ cười, một bàn tay có mở rộng mới nhận được hạnh phúc; một tâm hồn có hòa nhịp cùng cộng đồng mới tràn ngập sướng vui. Chúng ta ngày càng văn minh hơn nhưng rõ ràng chúng ta không hạnh phúc hơn. Con người hiện đại bị bủa vây vì sự đe dọa về tính an toàn, bởi khủng bô’, bởi hận thù sắc tộc. Những vụ bắt cóc con tin ở I-rắc vẫn diễn ra nóng bỏng, khủng bô’ ở Mĩ, cuộc chiến giành hòa bình ở Pa-le-xtin còn dang dở khi người lãnh đạo ưu tú A-ra-phát đã ra đi. Chỉ cần con người hiểu biết lẫn nhau, sự hòa bình cho toàn thế giới mới là hạnh phúc đích thực.
Những người trẻ tuổi là những người cảm nhận dễ dàng hạnh phúc. Bởi lẽ tất cả những gì xảy đến đều là mới mẻ. Cuộc sống vẫn còn là một điều gì đó diệu ki, đáng yêu. Bởi vậy, họ là nguồn động lực tinh thần và vật chất của toàn xã hội, là những người có ảnh hưởng nhiều nhất đến hạnh phúc chung của cộng đồng. Có thể nói niềm tin vào cuộc sống chính là kho báu tinh thần lớn nhất của tuổi trẻ chúng ta.Xem thêm: Kể lại một câu chuyện đã học từ Trung học cơ sở để lại trong lòng anh chị ấn tượng sâu đậm Tình yêu cuộc sống chan hòa trong trái tim tuổi trẻ sẽ dẫn ta đến với niềm hạnh phúc. Hạnh phúc không ở đâu xa, nó luôn ở quanh ta một khi ta biết mở lòng ra đón nhận hạnh phúc đi vào.
Cảm xúc của nhà thơ Dương Hương Ly khi nói về hạnh phúc:
Hạnh phúc là gì bao lần ta lúng túng,
Hỏi nhau hoài mà nghĩ mãi không ra.
Cho đến ngày cất bước đi xa,
Miền Nam gọi hai đứa mình có mặt.
Vanmau.edu.vn
|
Quan niệm của bạn về lối sống giản dị của một con người
Gợi ý
HƯỚNG DẪN
a. Quan điểm của cá nhân về lối sống giản dị
– Giản dị: là đơn giản một cách tự nhiên trong phong cách sống. Người ta hay nói: ăn mặc giản dị, phong cách giản dị, nói năng giản dị, lối sống giản dị.
– Lối sống giản dị được bộc lộ ở nhiều phương diện:
+ Giản dị, tự nhiên trong trang phục, không cần phải phô trương cầu kì, không chạy theo mốt, không cần những đồ trang sức đắt tiền.
+ Giản dị trong lối sống, trong ăn uống, thói quen.
+ Giản dị trong giao tiếp, nói năng, trong phong cách làm việc…
b. Vai trò
– Giản dị khiến cho người ta dễ hòa nhập với mọi người, xóa tan những khoảng cách, những e ngại trong giao tiếp.
– Sự giản dị làm cho con người trở nên thân thiện với nhau, có thể bày tỏ những nỗi niềm riêng để sẻ chia những vui buồn trong cuộc sống.
– Sự giản dị giúp ta có thêm bạn bè và những người thân.
– Sự giản dị cũng góp phần làm sáng lên nhân cách của mỗi người.
c. Phăn biệt sống giản dị với sống cẩu thả, xa hoa
– Lối sống giản dị hoàn toàn khác với lối sống cẩu thả, buông xuôi. Giản dị thuộc về ý thức. Sự cẩu thả là lối sống vô ý thức, được chăng hay chớ, qua loa, cho xong chuyện. Trong khi đó giản dị là sự đơn giản, thuộc về phong cách. Người giản dị vẫn giữ được sự tao nhã, lịch sự, mang cốt cách văn hóa. Để đạt được sự giản dị đích thực, nhiều khi phải trải qua sự rèn luyện.Xem thêm: Giải thích ý nghĩa nhan đề bài thơ và khổ thơ đề từ trong bài thơ "Tiếng hát con tàu” (Chế lan Viên)– Giản dị cũng khác xa với lối sống xa hoa, đua đòi, chạy theo mốt thời thượng. Sự xa hoa đua đòi không đúng lúc, đúng chỗ, không phù hợp với hoàn cảnh chỉ bộc lộ sự thiếu hiểu biết, thiếu văn hóa và nhiều khi trở thành lố lăng, kệch cỡm.
d. Chứng minh vẻ đẹp của lối sống giản dị trong cuộc sống và trong văn học
(HS có thể lấy dẫn chứng về lối sống giản dị của Bác Hồ, một tấm gương tuyệt đẹp về sự giản dị).
Vanmau.edu.vn
|
Your concept of a simple human lifestyle
Suggest
INSTRUCT
a. Personal perspective on a simple lifestyle
– Simplicity: is naturally simple in lifestyle. People often say: simple dress, simple style, simple speech, simple lifestyle.
– Simple lifestyle is revealed in many aspects:
+ Be simple and natural in your clothes, no need to show off or follow fashion, no need for expensive jewelry.
+ Simplicity in lifestyle, eating, and habits.
+ Simplicity in communication, speaking, working style...
b. Role
– Simplicity makes it easier for people to integrate with others, eliminating gaps and fears in communication.
– Simplicity makes people friendly with each other, able to express their own feelings and share the joys and sorrows in life.
– Simplicity helps us have more friends and relatives.
– Simplicity also contributes to brightening each person's personality.
c. Distinguishing a simple life from a careless, lavish life
– A simple lifestyle is completely different from a careless, indulgent lifestyle. Simplicity belongs to consciousness. Carelessness is an unconscious way of life, whether it's good or not, going through the motions, and getting it over with. Meanwhile, simplicity is simplicity, belonging to style. Simple people still maintain elegance, politeness, and cultural essence. To achieve true simplicity, many times one must undergo practice. See more: Explain the meaning of the poem's title and the stanza from the poem "The Singing of the Ship" (Che Lan Vien) - Simple Being eccentric is also far different from a lavish lifestyle, chasing after trendy fashions. Luxurious pursuits at the wrong time, in the right place, and not suitable for the situation only reveal ignorance, lack of culture, and many things. when it becomes ridiculous and ridiculous.
d. Proving the beauty of a simple lifestyle in life and in literature
(Students can cite evidence of Uncle Ho's simple lifestyle, a beautiful example of simplicity).
Vanmau.edu.vn
|
Quan niệm của Nguyễn Du về đồng tiền trong “Truyện Kiều” và quan niệm của anh (chị) về đồng tiền trong cuộc sống ngày hôm nay
Gợi ý
Gắn với lợi danh của con người, đồng tiền là chủ đề bàn luận từ xưa đến nay, trong văn học cũng như trong cuộc sống. Nguyễn Du trong tác phẩm “Truyện Kiều”, đã tố cáo lên án phê phán mãnh liệt thể hiện đồng tiền với bao lời thơ ghê gớm. Vậy trong đời sống hôm nay cần nhìn nhận như thế nào về đồng tiền?
Tiền về bản chát là một vật ngang giá trong trao đổi buôn bán. Để hàng hóa lưu thông, buôn bán phát triển cần nhờ có tiền. Vậy thực chất; đồng tiền có tác dụng thúc đẩy kinh tế, nó là vật vô tri không thể gây hại cho con người. Vấn đề là con người đã sử dụng đồng tiền với những mục đích xấu. Người có tiền trong tay đã lợi dụng làm hoen ố đồng tiền.
Ta không ngạc nhiên khi Sêch – pia kết tội: “Đồng tiền là con đĩ của nhân loại”. Càng không ngạc nhiên khi Nguyễn Du trong “Truyện Kiều” nhìn đồng tiền với một ác cảm sâu sắc.
Với Nguyễn Du, đồng tiền là thủ phạm gây ra những đau thương bất hạnh cho con người. Gia đình Kiều tan tác chia lìa chỉ bởi đồng tiền:
“Một ngày lạ thái sai nha
Làm cho khốc hại chẳng qua vì tiền”.
Đây chính là nguyên nhân đầu tiên, trực tiếp đưa đến nỗi khổ đau vùi dập Kiều trong mười lăm năm chìm nổi. Rồi trong mười lăm năm ây đồng tiền tiếp tục dầm Kiều trong bùn đen. Vì đồng tiền người ta đẩy Kiều lăn lóc qua các nhà chứa “Thanh lâu hai lượt thanh y hai lần”. Đồng tiền đã tưởng như trói chặt nàng trong ô nhục.
Chưa hết, đồng tiền còn làm đảo lộn mọi trật tự, mọi giá trị đạo đức luân lý ở đời. Đồng tiền có thế đổi trắng thay đen, làm lệch cán cân công lí:Xem thêm: Bình luận ý kiến “Không nên kết bạn với những người học yếu”“Trong tay sẵn có đồng fiền
Dầu rằng đổi trắng thay đen khó gì”.
Đồng tiền khơi dậy lòng tham, lòng ác nơi con người. Vi tiền có kẻ sẵn sàng bất chấp tất cả: “Máu tham hễ thấy hơi đồng thì mê” kể cả việc mặc cả, kỳ kèo “trả giá” cho một con người “Kỳ kèo bớt một thêm hai/ Giờ lâu ngã giá vàng ngoài bốn trăm”.
Đồng tiền với Nguyễn Du trở thành đốì tượng để lên án tố cáo với tất cả niềm căm hờn. Nhân danh tình yêu thương con người, đại thi hào đã kết án đồng tiền. Đi vào thơ Nguyễn Du, đồng tiền phải chịu nguyền rủa đến muôn đời.
Song thực chất, có phải đồng tiền đáng ghét nhự vậy không? Lên án đồng tiền, tất cả chúng ta đã bỏ quên tác dụng của đồng tiền cũng như việc lên án kẻ dùng tiền sai trái.
Trong xã hội phong kiến của Truyện Kiều, kẻ lắm tiền rặt một phường dâm ô, bạc ác. Chẳng đê tiện như Hồ Tôn Hiến cũng mưu mô xảo quyệt như Hoạn Thư, tởm lợm, vô học như Mã Giám Sinh, Tú Bà… “Làm tớ” cho những “thằng dại” như vậy, đồng tiền hỏi sao không thành kẻ bất nhân?
Ngày nay, nhắc đến đồng tiền ta nhắc đến một phương tiện sống hữu hiệu của con người, vẫn với vai trò giúp cho lưu thông hàng hóa, tiền – vật ngang giá là một trong những động lực thúc đẩy sản xuất phát triển. Phát minh ra tiền là một quá trình lâu dài nhiều biến động. Ban đầu chỉ là những vỏ sò, vỏ ốc; sau là những đồng kẽm, đồng nhôm,… và ngày nay ngoài những đồng xu Euro, ta còn biết thêm tiền giấy. Lịch sử đã chứng minh tiền là một phát minh quan trọng của nền sản xuất xã hội. Không có tiền, kinh tế khó có thể phát triển như ngày nay.Xem thêm: Yếu tố thời gian và vai trò của thời gian trong “Vội vàng” (Xuân Diệu)
Tuy nhiên, đồng tiền bị lên án hay được ngợi ca lại phụ thuộc vào người nắm giữ quyền sử dụng tiền. Tiền tham ô, tiền buôn lậu, tiền buôn bán ma túy, tiền hốì lộ… thứ tiền ấy nhắc đến ai cũng muốn nguyền rủa. Vì thứ tiền ấy, vì những kẻ đê tiện kia mà bao nhà tan tác cha mẹ già yếu, các con mỗi đứa một tù; bao mảnh đời bị ném lên các vỉa hè, xó hẻm; bao em thơ phải khóc phải rên xiết khổ đau… Ai có thể quên những vụ buôn bán ma túy, buôn lậu nổi tiếng: Vũ Văn Trường, Khánh Trắng, Năm Cam,… mà hậu quả của nó là những cái án tử hình, chung thân, những đứa trẻ bơ vơ mất cha, mất mẹ. Là học sinh, chẳng ai có thể quên những tiêu cực trong thi cử để bao học sinh chăm ngoan phải trượt thi oan ức, và bao học sinh khác ngồi "nhầm lớp, nhầm trường, nhầm chỗ",… Tất cả những sự kiện khó quên ấy, chẳng kẻ nào khác ngoài đồng tiền làm môi giới.
Ngược lại, ta cũng cần nhớ đến giọt nước mắt rưng rưng của những gia đình nghèo nhìn món quà của các tổ chức từ thiện. Đất nước ta nhiều thiên tai, địch họa; sau chiến tranh ác liệt, sau mỗi cơn lũ đi qua, những gì để lại là thương tật, là mất mát, thương đau cần lắm chứ những giúp đỡ sẻ chia, những đồng tiền giúp dựng lại, vực lên những nếp nhà lũ cuốn, những mảnh đời bất hạnh. Cũng cần ghi nhận sự hiện đại, tráng lệ của những công ty, tòa nhà… đánh dấu, ghi nhận sự phát triển của xã hội… Đánh giá phát triển của một quốc gia, bao giờ cũng vậy, ta thường nhìn vào cơ sở vật chất hạ tầng với hệ thống nhà xưởng, cầu đường,… Đất nước ta tự hào đang đi lên với những khu đô thị, những khu chế xuất, những khu vui chơi giải trí,… đang ngày càng hiện đại. Những đồng tiền tốt đẹp ấy nằm trong những đợt vận động ủng hộ quỹ “Vì người nghèo” trong những tài khoản “đầu tư đúng chỗ”…Xem thêm: Bình luận câu: “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia, nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh, rồi lên cao, nguyên khí suy thì thế nước yếu, rồi xuống thấp” Thân Nhân Trung (1418 - 1499) viết năm 1484, thời Hồng Đức) Như vậy, cầm đồng tiền trong tay, mỗi người sẽ có một mục đích, cách thức sử dụng khác nhau. Mục đích sử dụng tốt đẹp chính đáng sẽ thúc đẩy sự phát triển của cá nhân, xã hội. Ngược lại, sử dụng sai sẽ kìm hãm tiến bộ xã hội. Mặt khác, cách thức sử dụng tiền cũng là điều đáng lưu ý. Nên tiết kiệm, không quá hoang phí cũng không quá bủn xỉn. Hoang phí sẽ thành "Vung tay quá trán", "Bóc ngắn cắn dài". Keo kiệt lại thành "Vắt cổ chày ra nước", thành món "cá gỗ" cho dư luận chê cười! Bên cạnh đó, có khi mục đích tốt đẹp nhưng cách thức chưa đúng sẽ gây phản tác dụng. Dùng tiền dể mua sắm, giải trí, vui chơi, may mặc là chính đáng nhằm phục vụ nhu cầu cá nhân. Nhưng quá sa đà sẽ trở thành xa hoa, trụy lạc. Lạm dụng đồng tiền để hối lộ, để phục vụ nhu cầu hưởng lạc… sẽ phải trả những giá rất đắt: tù tội, đền bù, án tử hình,…
Như vậy, phải khẳng định rằng tiền là một phương tiện sống không thể thiếu trong đời sống kinh tế – xã hội. Vậy ta hãy biết sử dụng đồng tiền đúng cách để trả lại cho đồng tiền bản chất tốt đẹp vốn có của mình.
Vanmau.edu.vn
|
Nguyen Du's concept of money in "The Tale of Kieu" and his concept of money in life today
Suggest
Associated with human profit and fame, money has been a topic of discussion from ancient times to the present, in literature as well as in life. Nguyen Du in his work "The Tale of Kieu", denounced and criticized the strong expression of money with many terrible poetic words. So in today's life, how should we view money?
Money is essentially an equivalent object in trade. For goods to circulate and trade to develop, money is needed. So essentially; Money has the effect of promoting the economy, it is an inanimate object that cannot harm people. The problem is that people have used money for bad purposes. People who have money in their hands take advantage of it to tarnish it.
We are not surprised when Shech-pia accused: "Money is the whore of humanity". It is not surprising that Nguyen Du in "The Tale of Kieu" looks at money with a deep aversion.
For Nguyen Du, money is the culprit that causes pain and misfortune for people. Kieu's family was torn apart because of money:
“What a strange day
Make fatal, just because of money".
This was the first cause, directly leading to the suffering that overwhelmed Kieu for fifteen years. Then for fifteen years the money continued to soak Kieu in black mud. Because of money, people pushed Kieu around brothels, "Changing the building twice, changing the clothes twice". Money seemed to bind her in disgrace.
And yet, money also upsets all order and moral values in life. Money can change white to black, distorting the balance of justice: See more: Comment on the opinion "Do not make friends with weak students" "Have money in hand
Although it is difficult to change white to black.
Money arouses greed and evil in people. Because of money, there are people who are willing to risk everything: "Greedy people, if they see the slightest bit of money, they are addicted" including bargaining, betting on "paying" for a person. beyond four hundred”.
Money for Nguyen Du became an object to condemn and denounce with all hatred. In the name of love for people, the great poet condemned money. Going into Nguyen Du's poetry, money must be cursed forever.
But in reality, is money really that hateful? Condemning money, we have all forgotten the effects of money as well as condemning those who use money wrongly.
In the feudal society of The Tale of Kieu, those with a lot of money reap a group of lewd and cruel people. Not as despicable as Ho Ton Hien, but also cunning and cunning like Hoan Thu, disgusting and uneducated like Ma Giam Sinh, Tu Ba... "Being a servant" for such "fools", why don't you become a bad guy for money? core?
Today, when talking about money, we talk about an effective means of living for people, still playing a role in helping the circulation of goods and money - equivalent objects are one of the driving forces to promote production development. The invention of money was a long and tumultuous process. At first it was just seashells and snail shells; Next came zinc coins, aluminum coins, etc. and today, in addition to Euro coins, we also know paper money. History has proven that money is an important invention of social production. Without money, it is difficult for the economy to develop as it is today. See more: The element of time and the role of time in "Hurry" (Xuan Dieu)
However, whether money is condemned or praised depends on the person who holds the right to use the money. Money from embezzlement, money from smuggling, money from drug trafficking, money from bribery... that kind of money makes everyone want to curse it. Because of that money, because of those despicable people, many families are ruined, parents are old and weak, and each child is in prison; So many pieces of life were thrown onto sidewalks and alleys; Many children had to cry and groan in pain... Who can forget the famous drug trafficking and smuggling cases: Vu Van Truong, Khanh Trang, Nam Cam,... whose consequences were death sentences, Life in prison, helpless children lose their father and mother. As a student, no one can forget the negative experiences in exams that have caused many hard-working students to unfairly fail the exam, and many other students to sit in the "wrong class, wrong school, wrong place",... All these events unforgettable, no one else but money is the broker.
On the contrary, we also need to remember the tears of poor families looking at gifts from charity organizations. Our country has many natural disasters and enemy attacks; After a fierce war, after each flood passes, what is left behind is injury, loss, and pain, but we need help and money to help rebuild and revive the flooded houses. , the unfortunate lives. It is also necessary to note the modernity and magnificence of companies, buildings... that mark and recognize the development of society... Assessing the development of a country, as always, we often look at the basis Infrastructure with factory systems, bridges and roads, etc. Our country is proud to be on the rise with urban areas, export processing zones, entertainment areas, etc. that are increasingly modern. Those good coins are in campaigns to support the "For the Poor" fund in "investment in the right places" accounts... See more: Comment on the sentence: "Talent is the nation's natural energy, the natural energy of the nation." If the country is prosperous, then the country will be strong, then it will rise, if the vital energy is weak, the country will be weak, then it will be low." Than Nhan Trung (1418 - 1499) wrote in 1484, during Hong Duc's time) Thus, holding a coin in hand, each person will has a different purpose and method of use. Legitimate good use purposes will promote personal and social development. On the contrary, misuse will inhibit social progress. On the other hand, the way money is used is also worth noting. You should be frugal, not too wasteful and not too stingy. Wastefulness will become "Spending too much money", "Putting the short end of the stick". Being stingy turns into "Springing the neck of a pestle into water", becoming a dish of "wooden fish" that the public laughs at! Besides, sometimes the intention is good but the method is not correct and it will be counterproductive. Using money for shopping, entertainment, entertainment, and clothing is legitimate to serve personal needs. But too much indulgence will lead to luxury and debauchery. Misusing money to bribe, to serve the needs of pleasure... will have to pay very expensive prices: imprisonment, compensation, death penalty,...
Thus, it must be affirmed that money is an indispensable means of living in socio-economic life. So let's know how to use money properly to return money to its inherently good nature.
Vanmau.edu.vn
|
Quan niệm nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu được gửi gắm qua truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa?
Hướng dẫn
1. Mở bài
– Giới thiệu tác giả, tác phẩm.
– Mối quan hệ giữa nghệ thuật với cuộc đời: nghệ thuật chân chính cần bắt nguồn từ cuộc đời, con người và phải vì cuộc đời và và con người để phát triển.
2. Thân bài
a) Cuộc sống có những nghịch lí mà con người buộc phải chấp nhận, “sống chung” với nó. Muốn con người thoát ra khỏi cảnh đau khổ, tối tăm, cần có những giải pháp thiết thực chứ không phải chỉ là thiện chí hoặc các lí thuyết đẹp nhưng xa rời thực tiễn.
b) Mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc đời:
– Niềm hạnh phúc của người nghệ sĩ chính là cái hạnh phúc của khám phá và sáng tạo, của sự cảm nhận được cái đẹp tuyệt diệu. Dường như, khi bắt gặp cảnh đẹp giữa biển trời trong sương, Phùng đã bắt gặp cái tận Thiện, tận Mĩ, thấy tâm hồn mình như đang gột rửa, trở nên thật trong trẻo, tinh khôi bởi cái đẹp hài hoà, lãng mạn của cuộc đời.
– Chứng kiến cảnh người đàn bà bị chồng đánh đập, Phùng cay đắng nhận thấy những cái ngang trái, xấu xa, những bi kịch trong gia đình thuyền chài kia là thứ thuốc rửa quái đản làm những thước phim huyền diệu mà anh dày công chụp được bỗng hiện hình thật khủng khiếp, ghê sợ.
Xem thêm: Phân tích vẻ đẹp của đoạn trích Rừng Xà Nu của Nguyễn Trung Thành– Từ những cảnh đối lập trong cuộc đời mà Phùng phát hiện, anh nhận ra mối quan hệ thực sự giữa nghệ thuật và cái đẹp:
+ Phùng nhận ra nghệ thuật phải dành ưu tiên trước hết cho con người. Phải góp phần giải phóng con người khỏi sự cầm tù của đói nghèo, tăm tối, bạo lực.
+ Muốn làm được điều đó nghệ sĩ không thể nhìn đời bằng con mắt đơn giản, dễ dãi, phải có tấm lòng, có can đảm, biết trăn trở về con người.
+ Người nghệ sĩ cần có bản lĩnh trung thực của người nghệ sĩ: Chủ nghĩa nhân đạo trong nghệ thuật không thể xa lạ với số phận của con người.
Nhan đề Chiếc thuyền ngoài xa giống như một gợi ý về khoảng cách, về cự li nhìn ngắm đời sống mà người nghệ sĩ cần coi trọng. Khi quan sát từ“ngoài xa” người nghệ sĩ không thể thấy hết những mảng tối, những góc khuất. Chủ nghĩa nhân đạo trong nghệ thuật không thể xa lạ với số phận cụ thể của con người. Nghệ thuật mà không vì cuộc sống con người thì nghệ thuật chẳng có ích gì. Người nghệ sĩ khi thực sự sống cuộc sống, thực sự hiểu con người thì mới có những sáng tạo nghệ thuật có giá trị đích thực góp phần cải tạo cuộc sống.
3. Kết bài
– Văn học cần hướng đến với cuộc sống của con người mới là văn học chân chính.
Người nghệ sĩ phải là người đi tiên phong đấu tranh cho cuộc sống của con người ngày càng tươi đẹp hơn.
Nguồn: thêm: Qua hai nhân vật Mị và A Phủ (“Vợ chồng A Phủ" - Tô Hoài), hãy phát biểu ý kiến của anh (chị) về giá trị hiện thực về nhân đạo của tác phẩm
|
Nguyen Minh Chau's artistic concept is conveyed through the short story The boat in the distance?
Instruct
1. Open the lesson
- Introducing the author and his work.
– The relationship between art and life: true art needs to originate from life and people and must develop for life and people.
2. Body of the article
a) Life has paradoxes that people are forced to accept and "live" with. If we want people to escape from suffering and darkness, we need practical solutions, not just goodwill or beautiful theories that are far from reality.
b) The relationship between art and life:
– The happiness of an artist is the happiness of discovery and creation, of the feeling of wonderful beauty. It seems that, when encountering a beautiful scene amidst the sea and sky in the mist, Phung encountered the utmost goodness and beauty, feeling his soul as if it were being washed, becoming truly clear and pristine because of the harmonious, romantic beauty. of life.
- Witnessing the scene of a woman being beaten by her husband, Phung bitterly realized that the injustice, evil, and tragedies in that fishing family were the strange antidote that made the magical movies he worked so hard for. The photo suddenly appeared horrifying and horrifying.
See more: Analyzing the beauty of the excerpt Xa Nu Forest by Nguyen Trung Thanh - From the contrasting scenes in life that Phung discovered, he realized the true relationship between art and beauty:
+ Phung realized that art must give priority to people first. We must contribute to liberating people from the imprisonment of poverty, darkness, and violence.
+ To do that, artists cannot look at life with simple, easy-going eyes, they must have heart, courage, and concern about people.
+ Artists need to have the honest spirit of an artist: Humanism in art cannot be alien to human destiny.
The title The Boat in the Far Away is like a hint about the distance, about the distance from which the artist needs to look at life. When observing from "far away", the artist cannot see all the dark areas and hidden corners. Humanism in art cannot be alien to the specific fate of people. If art is not for human life, art is of no use. Only when an artist truly lives life and truly understands people can he create artistic creations of true value that contribute to improving life.
3. Conclusion
– Literature needs to be oriented towards people's lives to be true literature.
Artists must be pioneers who fight for people's lives to become more and more beautiful.
Source: more: Through the two characters Mi and A Phu ("A Phu and his wife" - To Hoai), please express your opinion about the realistic humanitarian value of the work
|
Quan niệm về nhân đạo trong tập thơ Nhật kí trong tù
Hướng dẫn
Tập thơ Nhật kí trong tù nói riêng và thơ Bác nói chung đều toát lên cốt cách của một con người thời đại, con người ấy bộc lộc trước hết là tấm lòng, tình cảm nhân đạo, nhân văn sâu sắc đối với cuộc đời, con người. Thơ Bác luôn ánh lên ngọn lửa ấm áp của tình yêu, Bác yêu thiên nhiên, yêu từng nhành hoa, bụi cỏ, yêu từng mảnh đất, bờ tre của quê hương. Người yêu những con người đau khổ trên khắp đất nước mình và yêu cả những người không quen biết đang chịu những lầm than.
Tình yêu thương con người trong thơ Hồ Chí Minh không phải là tình cảm sầu lụy theo hướng chung chung. Bác yêu những khuôn mặt, những số kiếp cụ thể, những nỗi đau có thật, Bác yêu họ bằng tình cảm của một người cùng cảnh ngộ, một người thấu hiểu, san sẻ chứ không phải kiểu tình cảm thương hại dành để ban phát.
Hồ Chí Minh đặt tình yêu thương con người vào tình cảm giai cấp, những người cùng khổ và hợp với đạo lí cách mạng, đạo đức nhân dân. Người cảm thông sâu sắc cho họ, tìm ra ở họ những điều tốt đẹp, truyền cho họ sự ấm áp và sức sống, dẫn dắt họ tìm lối đi đúng cho cuộc đời.
Xem thêm: Nghị luận xã hội - Suy nghĩ về việc học
|
The concept of humanity in the poetry collection Prison Diary
Instruct
The poetry collection Prison Diary in particular and Uncle Ho's poetry in general both exude the essence of a person of his time, that person reveals first of all his heart, his profound humanity and humanity towards life, human. Uncle Ho's poetry always shines with the warm fire of love. He loves nature, loves every flower branch, every bush of grass, loves every piece of land and bamboo bank of his homeland. He loves the suffering people across his country and loves even those he doesn't know who are suffering.
The love for people in Ho Chi Minh's poetry is not a general feeling of sadness. He loves the faces, the specific lives, the real pain. He loves them with the love of someone in the same situation, someone who understands and shares, not the kind of pity that is meant to be given. .
Ho Chi Minh placed love for people in the feelings of the class and the suffering people and in accordance with revolutionary morality and people's morality. People deeply sympathize with them, find good things in them, give them warmth and vitality, and lead them to find the right path in life.
See more: Social commentary - Thinking about learning
|
Quan niệm về tình bạn qua bài thơ Bạn đến chơi nhà của Nguyễn Khuyến
Gợi ý
Viết về bạn là một đề tài thường gặp của các thi nhân xưa. có lẽ sâu sắc hơn cả là tình bạn của Nguyễn Khuyến dành cho Dương Khuê khi ông qua đời. Và đặc biệt hơn trong bài Bạn đến chơi nhà tình cảm ấy lại được biểu lộ thật thân thiết và đáng kính trọng biết bao. Đồng thời Nguyễn Khuyến cũng bày tỏ một quan điểm về mối quan hệ giữa vật chất và tình cảm:
Đã bấy lâu nay, bác tới nhà
Trẻ thời đi vắng, chợ thời xa
Ao sâu nước cả, khôn chài cá
Vườn rộng rào thưa, khó đuổi gà
Cải chửa ra hoa, cà mới nụ
Bầu vừa rụng rốn, mướp đương hoa
Đầu trò tiếp khách, trầu không có
Bác đến chơi đây, ta với ta
Bạn hiền khi gặp lại nhau thì ai mà chẳng vui. ở đây Nguyễn Khuyến cũng vui mừng xiết bao khi lâu ngày gặp lại bạn cũ. Lời chào tự nhiên thân mật bỗng biến thành câu thơ:
Đã bấy lâu nay, bác tới nhà
Cách xưng hô bác, tôi tự nhiên gần gũi trong niềm vui mừng khi được bạn hiền đến tận nhà thăm. Phải thân thiết lắm mới đến nhà, có lẽ chỉ bằng một câu thơ – lời chào thể hiện được hết niềm vui đón bạn của tác giả như thế nào? Sau lời chào đón bạn, câu thơ chuyển giọng lúng túng hơn khi tiếp bạn: Xem thêm: Phân tích quan điểm sáng tác của Hồ Chí Minh Trẻ thời đi vắng, chợ thời xa
Cách nói hóm hỉnh cho thấy trong tình huống ấy tất yếu phải tiếp bạn theo kiểu "cây nhà lá vườn" của mình. Ta thấy rằng Nguyễn Khuyến đã cường điệu hoá hoàn cảnh khó khăn thiếu thốn của mình đến nỗi chẳng có cái gì để tiếp bạn:
Trẻ thời đi vắng, chợ thời xa
Ao sâu nước cả, khôn chài cá
Vườn rộng rào thưa, khó đuổi gà
Cải chửa ra hoa, cà mới nụ
Bầu vừa rụng rốn, mướp đương hoa
Ta hiểu vì sao sau lời chào hỏi bạn, tác giả nhắc đến chợ, chợ là thể hiện sự đầy đủ các món ngon để tiếp bạn. Tiếc thay chợ thì xa mà người nhà thì đi vắng cả. Trong không gian nghệ thuật này chúng ta thấy chỉ có tác giả và bạn mình (hai người) và tình huống.
Đầu trò tiếp khách, trầu không có
Đến cả miếng trầu cũng không có, thật là nghèo quá, miếng trầu là đầu câu chuyện, cá, gà, bầu, mướp… những thứ tiếp bạn đều không có. Nhưng chính cái không có đó tác giả muốn nói lên một cái có thiêng liêng cao quý – tình bạn chân thành thắm thiết. Câu kết là một sự "bùng nổ" về ý và tình. Tiếp bạn chẳng cần có mâm cao cỗ đầy, cao lương mĩ vị, cơm gà cá gỡ, mà chỉ cần có một tấm lòng, một tình bạn chấn thành thắm thiết. Xem thêm: Phân tích bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh (Có dàn ý chi tiết)
Bác đến chơi đây, ta với ta
Lần thứ hai chữ bác lại xuất hiện trong bài thơ thể hiện sự trìu mến kính trọng. Bác đã không quản tuổi già sức yếu, đường xá xa xôi, đến thăm hỏi thì còn gì quý bằng. Tình bạn là trên hết, không một thứ vật chất nào có thể thay thế được tình bạn tri âm tri kỉ. Mọi thứ vật chất đều "không có" nhưng lại "có" tình bằng hữu thâm giao. Chữ ta là đại từ nhân xưng, trong bài thơ này là bác, là tôi, là hai chúng ta, không có gì ngăn cách nữa. Tuy hai người nhưng suy nghĩ, tình cảm, Lí tưởng sống của họ hoàn toàn giống nhau. Họ coi thường vật chất, trọng tình cảm, họ thăm nhau đến với nhau là dựa trên tình cảm, niềm gắn bó keo sơn thắm thiết. Tình bạn của họ là thứ quý nhất không có gì sánh được. Ta còn nhớ rằng có lần khóc bạn Nguyễn Khuyến đã viết:
Rượu ngon không có bạn hiền
Không mua không phải không tiền không mua
Câu thơ nghĩ, đắn đo muốn viết
Viết đưa ai, ai biết mà đưa?
Giường kia, treo những hững hờ
Đàn kia, gảy cũng ngẩn ngơ tiếng đàn
Có thể trong bài thơ này chính là cuộc trò chuyện thăm hỏi của Nguyễn Khuyến với Dương Khuê. Tình bạn của Nguyễn Khuyến và Dương Khuê gắn bó keo sơn. Trong đoạn thơ trên ta thấy rằng khi uống rượu khi làm thơ… họ đều có nhau. Không chỉ có bài thơ Khóc Dương Khuê. Một số vần thơ khác của Nguyễn Khuyến cũng thể hiện tình bạn chân thành, đậm đà: Xem thêm: Dựa vào những tác phẩm đã học và đọc thêm, em hãy chứng minh ý kiến của Hoài Thanh: "Văn chương gây cho ta những tình cảm ta chưa có, luyện những tình cảm ta sẵn có" (Ý nghĩa văn chương). Từ đó, em rút ra cho mình bài học gì về việc đọc sách?Từ trước bảng vàng nhà sẵn có
Chẳng qua trong bác với ngoài tôi
(Gửi bác Châu cầu)
Đến thăm bác, bác đang đau ốm
Vừa thấy tôi bác nhổm dậy ngay
Bác bệnh tật, tôi yếu gầy
Giao du rồi biết sau này ra sao
(Gửi thăm quan Thượng Thư họ Dương)
Bài thơ này viết theo thể thất ngôn bát cú Đường luật, niêm, luật bằng trắc, đối chặt chẽ, hợp cách. Ngôn ngữ thuần Nôm nghe thanh thoát nhẹ nhàng tự nhiên. Ta có cảm giác như Nguyễn Khuyến xuất khẩu thành thơ. Bài thơ Nôm khó quên này cho thấy một hồn thơ đẹp, một tình bằng hữu thâm giao. Tình bạn của Nguyễn Khuyến thanh bạch, đẹp đẽ đối lập hẳn với nhân tình thế thái Còn bạc còn tiền, còn đệ tử – Hết cơm hết rượu hết ông tôi mà Nguyễn Bỉnh Khiêm đã kịch liệt lên án. Hai nhà thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm và Nguyễn Khuyến sống cách nhau mấy trăm năm mà có chung một tâm hồn lớn: nhân hậu, thủy chung, thanh bạch. Tấm lòng ấy thật xứng đáng là tấm gương đời để mọi người soi chung.
Vanmau.edu.vn
|
The concept of friendship through the poem You come to visit at home by Nguyen Khuyen
Suggest
Writing about yourself is a common topic of ancient poets. Perhaps most profound was Nguyen Khuyen's friendship for Duong Khue when he passed away. And more specifically, in the song You Come to Visit, that feeling is expressed in a very intimate and respectful way. At the same time, Nguyen Khuyen also expressed an opinion on the relationship between material and emotional things:
It's been a long time since you came home
When children are away, the market is far away
The pond is deep and the water is clear, so you can fish wisely
Large garden fence sparse, hard chase chickens
The cabbage is in bloom, the eggplant is in bud
Newly elected cord, melon or flowers
At the beginning of the reception, there was no betel
I'm here to play, you and me
When good friends meet again, who wouldn't be happy? Here, Nguyen Khuyen was also very happy to see an old friend after a long time. The naturally intimate greeting suddenly turned into a poem:
It's been a long time since you came home
The way I address you, I naturally feel close to you in the joy of having a good friend come to my house to visit. It takes a very close relationship to come to the house, perhaps with just one verse - how does the author's greeting fully express the author's joy in welcoming you? After welcoming you, the poem changes its tone to become more awkward when receiving you: See more: Analysis of Ho Chi Minh's perspective on writing When children are away, when the market is far away
The witty way of speaking shows that in that situation it is necessary to receive you in your "homegrown" style. We see that Nguyen Khuyen exaggerated his difficult and needy situation to the point that he had nothing to welcome his friends:
When children are away, the market is far away
The pond is deep and the water is clear, so you can fish wisely
Large garden fence sparse, hard chase chickens
The cabbage is in bloom, the eggplant is in bud
Newly elected cord, melon or flowers
We understand why, after greeting you, the author mentioned the market, which is to show the fullness of delicious dishes to welcome you. Unfortunately, the market is far away and the family is away. In this artistic space we see only the author and his friend (two people) and the situation.
At the beginning of the reception, there was no betel
I don't even have a piece of betel, I'm so poor, a piece of betel is the beginning of the story, fish, chicken, gourd, luffa... the things next to me don't have. But it is precisely that which does not exist that the author wants to express a noble and sacred existence - sincere and passionate friendship. The ending is an "explosion" of ideas and emotions. Receiving friends does not require a full tray of delicious food, chicken and fish rice, but only a heart and a sincere friendship. See more: Analysis of the poem Wave by Xuan Quynh (With detailed outline)
I'm here to play, you and me
The second time the word reappears in the poem to show affection and respect. Uncle did not care about his old age and weak health, the distance was far away, there was nothing more precious than coming to visit. Friendship is everything, no material thing can replace the love of a soulmate. All material things are "not there" but there is "there" deep friendship. The word ta is a personal pronoun, in this poem it is you, it is me, it is the two of us, there is nothing separating us anymore. Even though they are two people, their thoughts, feelings, and ideals of life are completely the same. They despise material things and value emotions. They visit each other based on feelings and a close bond. Their friendship is the most precious thing and nothing can compare. I still remember that Nguyen Khuyen once cried and wrote:
Good wine has no good friends
Not buying doesn't mean no money doesn't buy
The poem thinks and hesitates to write
Who should I write to? Who knows?
That bed, hanging loosely
That guitar, even when strumming, the sound of the instrument is absent-minded
Perhaps in this poem is Nguyen Khuyen's conversation with Duong Khue. The friendship of Nguyen Khuyen and Duong Khue is tight. In the above poem, we see that when they drink wine and write poetry... they all have each other. Not only the poem Crying Duong Khue. Some other poems by Nguyen Khuyen also express sincere and rich friendship: See more: Based on the works you have learned and read more, prove Hoai Thanh's opinion: "Literature causes us bad things." The feelings we don't yet have, practice the feelings we already have" (Literary meaning). From then on, what lesson did you learn about reading books? Before, the family's golden table was available
It's just inside you and outside me
(Sending request to Uncle Chau)
Came to visit my uncle, he was sick
As soon as he saw me, he stood up immediately
Uncle is sick, I am weak and thin
Make friends and see what happens later
(Sent to visit the Minister of the Duong family)
This poem is written in the seven-word, eight-syllable form: Tang luat, seal, law equal to trace, closely parallel, and appropriate. Pure Nom language sounds gentle and natural. We feel like Nguyen Khuyen exported it into poetry. This unforgettable Nom poem shows a beautiful poetic soul and a deep friendship. Nguyen Khuyen's friendship is pure and beautiful, in stark contrast to the situation of humanity. There is still money, no money, no disciples - No food, no wine, all my grandfather that Nguyen Binh Khiem vehemently condemned. The two poets Nguyen Binh Khiem and Nguyen Khuyen lived several hundred years apart but shared the same great soul: kindness, loyalty, and purity. That heart is truly worthy of being a life example for everyone to look at.
Vanmau.edu.vn
|
Quan sát tranh (tr 118, Tiếng Việt 2, tập 1) và trả lời câu hỏi
Gợi ý
Đề bài:
Quan sát tranh (tr 118, Tiếng Việt 2, tập 1) và trả lời câu hỏi:
a. Bạn nhỏ đang làm gì?
b. Mắt bạn nhìn búp bê như thế nào?
c. Tóc bạn như thế nào?
d. Bọn mặc áo màu gì?
Bài làm
a. Bạn nhỏ đang làm gì?
– Bạn nhỏ đang tập cho búp bê ăn.
– Bạn nhỏ ôm búp bê trong lòng và đút cho búp bê ăn.
b. Mắt bạn nhìn búp bê như thế nào?
– Bạn nhìn búp bê với ánh mắt trìu mến.
– Bạn nhìn búp bê âu yếm, yêu thương.
c. Tóc bạn như thế nào?
– Tóc bạn buộc gọn hai bên bằng hai chiếc nơ rất đẹp.
– Bạn buộc hai bím tóc bằng hai chiếc nơ hồng rất xinh.
d. Bạn mặc áo màu gì?
– Bạn mặc bộ quần áo màu xanh gọn gàng, mát mẻ.
– Bạn mặc bộ quần áo màu thiên thanh rất đẹp.
Vanmau.edu.vn
Xem thêm: Giả sử anh (chị) tham gia cuộc thảo luận về một cuốn sách được giới trẻ quan tâm, yêu thích và đã phát biểu một cách tự do những ý kiến của riêng mình. Hãy ghi lại lời phát biểu của anh (chị) có những ưu điểm, hạn chế gì
|
Observe the picture (page 118, Vietnamese 2, volume 1) and answer the questions
Suggest
Topic:
Observe the picture (page 118, Vietnamese 2, volume 1) and answer the questions:
a. What are you doing?
b. How do your eyes look at dolls?
c. How is your hair?
d. What color shirts do they wear?
Assignment
a. What are you doing?
– The little girl is practicing feeding the doll.
– The little girl holds the doll in her lap and feeds the doll.
b. How do your eyes look at dolls?
– You look at the doll with affectionate eyes.
– You look at the doll lovingly and lovingly.
c. How is your hair?
– Your hair is tied neatly on both sides with two beautiful bows.
– You tie your two braids with two beautiful pink bows.
d. What color shirt are you wearing?
– You wear neat, cool blue clothes.
– You wear beautiful blue clothes.
Vanmau.edu.vn
See more: Suppose you participate in a discussion about a book that is of interest and love to young people and freely express your own opinions. Please write down in your statement what are the advantages and limitations
|
Quan sát tranh (tr 30, Tiếng Việt 3, tập 2), Nói những người trí thức
Gợi ý
1. Bức tranh 1: Bác sĩ
Hôm qua bạn Thành lớp em bị cảm nắng; Cả lớp nháo nhác lên và cô giáo đã đưa bạn Thành đến trạm y tế gần đó. Bạn Thành được các cô y tá đưa vào phòng, đặt nằm trên giường. Có một cô bác sĩ còn rất trẻ yà xinh lại gần hỏi han, khám. Một lúc sau cô đi lấy kim và tiêm cho bạn Thành. Cô bảo tiêm một mũi sẽ khỏi ngay.
2. Bức tranh 2: Các kĩ sư xây dựng
Đây là những kĩ sư xây dựng củà thành phố chúng ta. Họ đang cùng nhau nghiên cứu về vấn đề xây dựng một cây cầu lớn, sao cho đẹp và tiện lợi nhất đối với cuộc sống của người dân.
3. Bức tranh 3: Cô giáo
Hôm nào cũng vậy, cô đều mặc bộ quần áo dài truyền thống để lên lớp. Bộ quần áo màu trắng rất giản dị nhưng nhìn cô lại nổi bật trong bộ trang phục đó. Giờ tập đọc của cô cả lớp chúng em ai cũng rất thích. Cô có giọng nói rất truyền cảm, bước chân nhẹ nhàng, uyển chuyển. Cô giảng cho chúng em những bài học đầy bổ ích và quý báu từ những bài tập đọc đó.
4. Bức tranh 4: Những nhà nghiên cứu
Trong một phòng thí nghiệm có hai nhà nghiên cứu đang làm việc. Họ đang nỗ lực nghiên cứu để tìm ra một loại thuốc có thể ngăn chặn và chữa được một dịch bệnh nguy hiểm, ví dụ cúm H1N1 hoặc cũng có thể họ đang cố gắng dể tìm ra một loại gen nào đó…Xem thêm: Phân tích sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị trong tác phẩm Vợ chồng A PhủVanmau.edu.vn
|
Observing paintings (page 30, Vietnamese 3, volume 2), Speaking of intellectuals
Suggest
1. Picture 1: Doctor
Yesterday my classmate Thanh got a heat stroke; The whole class was in an uproar and the teacher took Thanh to a nearby medical station. Thanh was taken into the room by the nurses and placed on the bed. There was a very young and beautiful doctor who came up to ask questions and examine me. After a while, she went to get the needle and injected Thanh. She said one injection would cure her immediately.
2. Picture 2: Construction engineers
These are our city's construction engineers. Together, they are researching the issue of building a large bridge that is most beautiful and convenient for people's lives.
3. Picture 3: Teacher
Every day, she wears traditional long clothes to go to class. The white outfit is very simple but she looks outstanding in that outfit. All of us in the class enjoyed her reading practice time. She has a very inspiring voice and gentle, flexible steps. She taught us useful and valuable lessons from those reading exercises.
4. Picture 4: Researchers
In a laboratory two researchers are working. They are making research efforts to find a drug that can prevent and cure a dangerous disease, such as H1N1 flu, or maybe they are trying to find a certain gene... See more: Analysis Analyze the potential vitality of the character Mi in the work A Phu and his wife. Vanmau.edu.vn
|
Quan sát tranh cảnh biển (tr.67, Tiếng Việt 2, tập 2) và trả lời câu hỏi
Gợi ý
Quan sát tranh cảnh biển (tr.67, Tiếng Việt 2, tập 2) và trả lời câu hỏi:
a. Tranh vẽ cảnh gì?
b. Sóng biển như thế nào?
c. Trên mặt biển có những gì?
d. Trên bầu trời có những gì?
Bài làm
a. Tranh vẽ cảnh gì?
– Tranh vẽ cảnh biển buổi sớm.
– Tranh vẽ cảnh bình minh trên biển thật là đẹp.
b. Sóng biển như thế nào?
– Sóng biển dào dạt xô vào nhau.
– Những con sóng ào ạt, tung bọt trắng xóa.
– Những con sóng nhấp nhô, nối đuôi nhau xô vào bờ cát.
c. Trên mặt biển có những gì?
– Những đoàn thuyền nối đuôi nhau, căng buồn ra khơi. Đàn hải âu chao lượn như đang đùa vui với sóng.
– Những cánh buồm no gió rẽ sóng ra khơi. Từng đàn hải âu dập dờn trên sóng như đang trò chuyện với những người đi thuyền.
d. Trên bầu trời có những gì?
– Vầng mặt trời đang nhô lên, những đám mây tim tím đang bồng bềnh trôi, đàn hải âu nối đuôi nhau bay về phía chân trời xa.
– Những đám mây trắng nhè nhẹ lượn quanh ông mặt trời đỏ ối. Từng đàn hải âu dập dờn bay về phía chân trời.
Vanmau.edu.vn
Xem thêm: Từ trích đoạn vở kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt của Lưu Quang Vũ, nghĩ về niềm hạnh phúc khi được sống thực với mình và với mọi người
|
Observe the seascape paintings (p.67, Vietnamese 2, volume 2) and answer the questions
Suggest
Observe the seascape paintings (p.67, Vietnamese 2, volume 2) and answer the questions:
a. What scene does the painting depict?
b. What are the ocean waves like?
c. What is on the sea surface?
d. What's in the sky?
Assignment
a. What scene does the painting depict?
– Painting of early morning seascapes.
– The painting of the sunrise on the sea is really beautiful.
b. What are the ocean waves like?
– The ocean waves rush into each other.
– The waves rushed, creating white foam.
– The waves undulate, one after another, crashing onto the sandy shore.
c. What is on the sea surface?
– Fleets of boats followed each other, anxiously sailing out to sea. A flock of seagulls hovered as if playing with the waves.
– Wind-filled sails part the waves out to sea. Groups of seagulls fluttered on the waves as if they were chatting with boatmen.
d. What's in the sky?
– The sun is rising, purple clouds are floating, flocks of seagulls are flying towards the distant horizon.
– White clouds gently circled around the red sun. Flocks of seagulls fluttered towards the horizon.
Vanmau.edu.vn
See more: From an excerpt from the play Truong Ba's Soul, Butcher's Skin by Luu Quang Vu, think about the happiness of being able to live truly with yourself and with others
|
Đề bài: Trình bày quan điểm Nói không với những tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục
Trong cuộc sống đang bộn bề, biến chuyển hằng ngày như hiện nay thì xã hôi, đất nước đang cần đến một lực lượng thanh niên học sinh giỏi giang, tài đức.Ngay từ bây giờ, học sinh được xem là những mầm non tương lai, là người kế thừa công cuộc phát triển đất nước đang ra sức học tập, rèn luyện hết sức mình. Nhưng trái lại bên cạnh đó, lại có một số học sinh đang học không đúng với khả năng của mình, và điều này đã tạo điều kiện cho một “ căn bệnh” xâm nhập vào học đường hoành hoành, gây xôn xao ngành giáo dục nói riêng và xã hội nói chung. Đó chính là bệnh thành tích trong giáo dục cùng với những tiêu cực trong thi cử.
Thành tích là kết quả có thể đánh giá được của nỗ lực con người. Kết quả đó không chỉ là một lợi ích vật chất hay tinh thần cá nhân, tuy rằng phần lớn yếu tố tạo nên động lực khiến con người phải nỗ lực nhiều hơn, tốt hơn để đạt thành tích chính là lợi ích cho mình. Nhưng con người vẫn có thể làm hết sức mình vì lợi ích chung, lợi ích của xã hội, của đất nước.
Theo định nghĩa đó, nỗ lực đạt thành tích của một cá nhân hay một tập thề là một phẩm chất đạo đức tốt, đáng biểu dương và nhân rộng. Hãy tưởng tượng một xã hội mà trong đó mọi thành viên đều nỗ lực để đạt những thành tích cao hơn trong các lĩnh vực hoạt động: thể thao, văn hóa, nghệ thuật, giáo dục, sản xuất, thương mại, công nghệ… vì lợi ích cho mình và cho cả cộng đồng. Xã hội đó chắc chắn tiến bộ, nền kinh tế nước đó chắc chắn phát triển, đời sống nhân dân nước đó chắc chắn giàu có, quốc gia đó chắc chắn cường thịnh. Nhưng đến một lúc nào đó, khi chính những nỗ lực đạt thành tích, một phẩm chất tốt và cần thiết của mỗi thành viên trong xã hội lại trở thành một căn bệnh, mà ngày nay chúng ta gọi nó là bệnh thành tích.
Điều lo ngại chung hiện nay là căn bệnh thành tích đang lan tràn trong ngành giáo dục của nước ta, không phải chỉ lây nhiễm cho một bộ phận những người công tác trong ngành mà còn cho nhiều gia đình trong xã hội. Với bệnh thành tích, các phương pháp đánh giá, kiếm tra kết quả học tập trở nên dày đặc, nặng nề, phức tạp nhưng lại mang tính chất rập khuôn, không có chỗ dành cho sự sáng tạo của học sinh, sinh viên. Xét từ phía ngành giáo dục, thành tích giáo dục là thước đo sự thành công trong nghề nghiệp của giáo viên nói riêng, của nhà trường và địa phương nói chung. Đáng tiếc thay, trong thời gian qua, chính ngành giáo dục lại “thiết kế” ra thước đo trên bằng các chỉ tiêu giáo dục khô cứng. “Bệnh thành tích giáo dục” chính là việc nhà trường và địa phương cố gắng đạt được các chỉ tiêu giáo dục bằng mọi giá. Chúng ta đều nhận thức rõ ràng rằng một xã hội muốn phát triển tiến bộ phải có nhiều nhân tài, mà nhân tài phải là người có chân tài thực học, được tiếp thu những kiến thức và các phẩm chất đạo đức tinh hoa của nhân loại và của dân tộc thông qua hệ thống giáo dục của cộng đồng. Giáo dục chính là điểm xuất phát, là nơi sản sinh ra nguồn năng lực cho sự cường thịnh của một nước, một cộng đồng dân tộc. Một nền giáo dục tốt và trung thực sẽ tạo nên những con người đạt những thành tích tốt và trung thực. Những thành tích tốt và trung thực sẽ tạo nên những bước tiến mạnh mẽ cho cộng đồng dân tộc trên con đường phát triển.
Xem thêm: Phân tích nhân vật bé Thu trong đoạn trích truyện ngắn Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang SángCuộc vận động “Nói không với tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục'' ngay từ khi mới phát động đã được xã hội quan tâm, nhân dân đồng tình hưởng ứng. Bởi ai cũng biết rằng, nếu cứ để ''nạn tiêu cực trong thi cử'' hoành hành và ''bệnh thành tích trong giáo dục'' trở thành một căn bệnh ''mãn tính” thì sẽ dẫn đến lãng phí thời gian, sức lực, tuổi đời của học sinh; lãng phí tiền bạc, công sức chăm sóc con cái của phụ huynh; của thầy cô và lãng phí của cải xã hội. Điều đó sẽ là hệ quả tất yếu của những suy thoái đạo đức trong học sinh; đạo đức trong quan hệ thầy, trò và sẽ góp phần làm suy thoái những mối quan hệ xã hội khác. Cuộc vận động này là cuộc đấu tranh gay go, quyết liệt. Điều đáng mừng là nhân dân, xã hội đều quyết liệt tham gia chống lại những tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục, sẵn sàng lên tiếng phê phán những cá nhân hoặc tổ chức có thái độ không hưởng ứng. Sự khởi đầu tốt đẹp báo hiệu sự thành công của một cuộc vận động mang tính nhân văn sâu sắc.
Trên tiến trình đổi mới giáo dục, bệnh thành tích phải được xóa bỏ. Đó không phải là một việc quá khó, nhưng chắc chắn cũng không dễ dàng. Điều trước nhất là phải thay đổi từ những sai phạm của ngành giáo dục, phải kiên quyết thực hiện cuộc vận động đã đề ra, vì đó sẽ làm gương để thế hệ trẻ ngày nay tin tưởng và noi theo. Học sinh chúng ta, ngay từ bây giờ phải hết mình phấn đấu học tập bằng chính bản thân, tuyệt đối nói không với tiêu cực trong thi cử đồng thời giúp sức với nhà trường khuyên bảo va ngăn chặn các hành vi tiêu cực ấy.
Đất nước chúng ta đang tiến bước trên con đường đổi mới, mở cửa, hội nhập và tranh đua với thế giới đề giành lấy một vi trí xứng đáng trên hành tinh này. Cuộc đấu tranh kinh tế sắp đến rất quyết liệt và mang tính chất thắng bại sinh tử không khác gì trên thao trường hay trên võ đài. Ở đó, một võ sĩ chỉ chỉ có thể chiến thắng đối chủ bằng tài năng thực sự của chính mình, không phải vì bất kì văn bằng chứng nhận đẳng cấp cao hơn nào. Đất nước chúng ta sau này có cường thịnh hay không tùy thuộc vào việc nền giáo dục của chúng ta có đổi mới để có thể sản sinh ra những chân tài thực học hay không. Vì vậy, chúng ta hãy cùng chung tay góp sức để đẩy lùi những tiêu cực và bệnh thành tích ấy, để đưa nước Việt Nam ta ngày càng phát triển vững mạnh.
Nguồn Edufly
Xem thêm: Giải thích câu tục ngữ “Ta về ta tắm ao ta, Dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn”
|
Topic: Presenting opinions Say no to negativity in exams and achievement problems in education
In today's chaotic and daily changing life, society and the country are in need of a force of talented and virtuous young students. Right now, students are considered the future preschoolers. Lai, the successor to the country's development, is trying his best to study and practice. But on the contrary, there are some students who are not studying according to their abilities, and this has created conditions for a "disease" to invade schools, causing a stir in the education sector. in particular and society in general. That is the disease of achievement in education along with the negative effects of exams.
Achievement is the measurable result of human effort. That result is not just a personal material or spiritual benefit, although most of the factors that create motivation for people to try harder and better to achieve results are benefits for themselves. But people can still do their best for the common good, the benefit of society and the country.
According to that definition, an individual or a group's effort to achieve success is a good moral quality, worthy of praise and replication. Imagine a society in which every member strives to achieve higher achievements in all fields of activity: sports, culture, art, education, production, trade, technology... for the benefit of yourself and the whole community. That society will certainly progress, that country's economy will certainly develop, that country's people's lives will certainly be rich, that country will certainly be prosperous. But at some point, when the very efforts to achieve achievement, a good and necessary quality of each member of society, becomes a disease, which today we call it achievement disease.
The common concern today is that the disease of achievement is spreading in our country's education sector, not only infecting a part of those working in the industry but also many families in society. With achievement disease, methods of evaluating and checking learning outcomes become dense, heavy, complicated but stereotypical, leaving no room for students' creativity. From the education sector's perspective, educational achievement is a measure of the professional success of teachers in particular, of schools and localities in general. Unfortunately, in recent times, the education sector itself has "designed" the above measurement using rigid educational indicators. "Educational achievement disease" is when schools and localities try to achieve educational targets at all costs. We are all clearly aware that a society that wants to develop and progress must have many talented people, and talented people must be people who are truly talented, able to acquire knowledge and the quintessential moral qualities of human beings. type and nation through the community's education system. Education is the starting point, the birthplace of energy for the prosperity of a country and an ethnic community. A good and honest education will create people with good and honest achievements. Good and honest achievements will create strong strides for the ethnic community on the path of development.
See more: Analysis of the character of little Thu in the excerpt of the short story The Ivory Comb by Nguyen Quang Sang. The campaign "Say no to negativity in exams and the disease of achievement in education" has been recognized by the society since its inception. The association paid attention and the people responded unanimously. Because everyone knows that, if the "negativity in exams" continues to prevail and the "achievement disease in education" becomes a "chronic" disease, it will lead to a waste of time. , strength, age of the student; wasting parents' money and effort in taking care of their children; of teachers and waste of social wealth. That will be the inevitable consequence of moral degradation among students; morality in teacher-student relationships and will contribute to the deterioration of other social relationships. This campaign is a tough and fierce struggle. The good news is that the people and society are fiercely participating in fighting against the negativity in exams and the disease of achievement in education, ready to speak out and criticize individuals or organizations with unresponsive attitudes. A good start signals the success of a deeply humane campaign.
In the process of educational reform, achievement disease must be eliminated. It's not too difficult, but it's certainly not easy either. The first thing is to change from the mistakes of the education sector, to resolutely carry out the proposed campaign, because it will set an example for today's young generation to trust and follow. We students, from now on, must try our best to study on our own, absolutely say no to negativity in exams and at the same time help the school advise and prevent those negative behaviors.
Our country is moving forward on the path of innovation, openness, integration and competition with the world to win a worthy position on this planet. The upcoming economic struggle will be very fierce and will have a life-or-death nature no different than on the sports field or in the ring. There, a boxer can only win against his opponent through his own real talent, not because of any higher level certification. Whether or not our country will be prosperous in the future depends on whether our education system can innovate to produce real academic talents. Therefore, let us join hands to contribute to repelling those negative and negative achievements, to make our country increasingly strong and developed.
Source Edufly
See more: Explanation of the proverb "When I return, I bathe in my pond. Even if it is clear or opaque, the pond at home is still better"
|
Quan điểm sáng tác văn học của Hồ Chí Minh
Gợi ý
Quan điểm sáng tác văn học nghệ thuật của Người in đậm trên toàn bộ thơ của Người để lại. Trong hoàn cảnh nước mất nhà tan, cả dân lộc đang chim đắm trong vòng nô lệ, phải vùng lên chiến đấu giành lại tự do, Người quan niệm thơ văn phải có tính chiến đấu, có chất “thép”, là vũ khí cách mạng sắc bén; văn nghệ sĩ phải là người chiến sĩ tiên phong trên mặt trận văn hóa, nghệ thuật. Nếu cổ nhân quan niệm: “Văn dĩ tải đạo”, ‘Thi dĩ ngôn chí”,thì Hồ Chí Minh bổ sung:
Nay ở trong thơ nên có thép,
Nhà thơ cũng phải biết xung phong.
( Cảm tưởng đọc "Thiên gia thi")
Vai trò của người cầm bút phải là người chiến sĩ trên mật trận văn hóa, nghệ thuật: “Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận, anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy”
(Thư gửi các hoa sĩ nhân dịp triển lãm hội họa 1951).
Người quan niệm văn thơ phải có tính chân thực và tính dân tộc, nhà văn phải "miêu tả cho hay, cho chân thật và cho hùng hồn” cuộc sống sản xuất và chiến đấu của nhân dân; phải biết nêu gương "người tốt việc tốt ”, phải biết trân trọng và giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt.
Hồ Chí Minh đặc biệt chú ý đến mối quan hệ giữa tác giá và độc giả. Trong thời đại cách mạng, quần chúng công-nông-binh là đối tượng phục vụ của văn nghệ sĩ. Cho nên tác giải phải tự ý thức nêu cao trách nhiệm của người cầm bút. Người nêu kinh nghiệm chung cho hoạt động báo chí và văn chương: “Viết cho ai?” (đối tượng thưởng thức), “Viết để làm gì?”(mục đích sáng tác), “Viết cái gì?” (nội dung) và như “Viết như thế nào? ” (hình thức).Xem thêm: Lời kể của cuốn vở đang ẩn mình chờ chết Quan điểm sáng tác văn học nghệ thuật của Hồ Chí Minh là quan điểm tiên tiến, là những bài học vô cùng sâu sắc đối với các văn nghệ sĩ trong quá trình phấn đấu trở thành nhà văn chiến sĩ đem ngòi bút và tài năng phục vụ cách mạng và kháng chiến, phục vụ công cuộc xây dựng đất nước, góp phần làm giàu đẹp nền văn học Việt Nam.
Vanmau.edu.vn
|
Ho Chi Minh's perspective on literary creation
Suggest
His perspective on literary and artistic creation is boldly printed on all of the poetry he left behind. In a situation where the country has lost its home and is in ruins, the whole nation is drowning in slavery and must rise up to fight to regain freedom. He believes that poetry must be combative, have "steel", and be a revolutionary weapon. sharp network; Writers and artists must be pioneer soldiers on the cultural and artistic front. If the ancients had the concept: "Literature conveys the teachings", "Poetry speaks the language", then Ho Chi Minh added:
Now in poetry there should be steel,
Poets must also know how to volunteer.
(Impressions of reading "Thien Gia Poem")
The role of the writer must be a soldier on the cultural and artistic front: "Art and culture is also a front, you are soldiers on that front"
(Letter to artists on the occasion of the 1951 painting exhibition).
People believe that poetry must be authentic and nationalistic, writers must "describe well, truthfully and eloquently" the production and fighting life of the people; must know how to set an example of "good people". "good deeds", we must know how to appreciate and preserve the purity of the Vietnamese language.
Ho Chi Minh paid special attention to the relationship between authors and readers. In the revolutionary era, the masses of workers, farmers and soldiers were the subjects of service for writers and artists. Therefore, the author must consciously raise the responsibility of the writer. He stated common experience for journalism and literary activities: "Writing for whom?" (object of enjoyment), “What to write for?” (purpose of writing), “What to write?” (content) and like “How to write? ” (form). See more: Narration of a notebook hiding in waiting for death. Ho Chi Minh's perspective on literary and artistic creation is an advanced perspective, and holds extremely profound lessons for artists. In the process of striving to become a writer and soldier, he brings his pen and talent to serve the revolution and resistance war, serve the cause of national construction, and contribute to enriching and beautifying Vietnamese literature.
Vanmau.edu.vn
|
Rừng mang lại nhiều lợi ích cho con người. Con người phải bảo vệ rừng. Em hãy chứng minh
Gợi ý
Nhân dân ta thường nói “rừng vàng biển bạc”. Không phải vô cớ mà người ta kết luận như vậy. Bởi lẽ rừng là nguồn tài nguyên rất phong phú, nó tiềm ẩn kho báu vô tận và lúc nào cũng sẵn sàng phục vụ cho đời sống con người. Rừng mang lại nhiều lợi ích cho con người, chính vì vậy con người phải bảo vệ rừng. Thực sự rừng có lợi ích gì?
Nhìn lại cuộc sống hằng ngày của con người ta sẽ thấy được giá trị quý báu của rừng và từ đó có ý thức tốt hơn trong việc bảo vệ rừng.
Càng tìm hiểu ta càng thấy rõ sự ích lợi của rừng. Trước hết, rừng đã cung cấp cho ta các loại gỗ: gỗ tạp dùng làm vật dụng, làm củi đốt… để phục vụ đời sống hằng ngày; gỗ quý thì làm vật liệu xây dựng dóng tủ bàn ghế, cung cấp nguyên liệu cho nền công nghiệp hiện đại. Những cột nhà to bằng gỗ lim bóng láng, những bộ tràng kỉ trong các nhà gian nhà cổ, những tủ thờ bằng các loại gỗ hiếm… có được là chính từ nguyên liệu của rừng mà ra.
Bên cạnh đó, rừng còn cung cấp thảo dược phục vụ cho y học. Các loại cây quý hiếm có thể trị bệnh nan y thường có trong rừng sâu được những thầy thuốc đông y tìm tòi nghiêm cứu để chế biến theo phương pháp gia truyền. Ngoài ra từ những cánh rừng già, rừng nguyên sinh ấy còn là nơi nuôi dưỡng sinh sống của các loại vật quý phục vụ lợi ích cho con người như hổ, báo, hươu, nai, voi… và nhiều loài chim quý lạ. Cả một thế giới loài vật thật phong phú là nguồn tài sản vô giá của rừng dành cho con người.Xem thêm: Giới thiệu một vài nét về cuộc đời, sự nghiệp và thơ văn Nguyễn Trãi
Hơn thế nữa, rừng còn là Vạn Lí Trường Thành vững chắc bảo vệ đời sống con người. Không có rừng thì con người sẽ khổ bởi thiên tai lũ lụt. Không có rừng xanh thì làm sao bảo vệ môi trường sống cho con người, cung cấp động vật quý hiếm và cảnh đẹp thiên nhiên nữa. Rừng giúp cho việc điều hòa khí hậu, làm trong lành không khí do khói tỏa từ các nhà máy, xe cộ gây nên. Đặc biệt trong chiến tranh, rừng còn cùng con người đánh giặc “rừng che bộ đội, rừng vây quân thù”. Phải nói rằng rừng đã phục vụ cho con người cả một nguồn tài sản vô giá bất tận. Đây chính là sự ưu đãi của thiên nhiên đối với loài người.
Hiểu được sự ích lợi của rừng cho nên chúng ta cần phải bảo vệ nó. Trước đây vì chưa hiểu biết hết sự cần thiết của rừng mà người ta đốt phá rừng bừa bãi. Và những trận lũ lởn gây biết bao hậu quả khôn lường cho con người chính là do sự khai thác phá rừng bừa bãi mà ra. Do vậy, chúng ta bảo vệ rừng tức là bảo vệ môi trường sống của con người, bảo vệ nguồn lâm sản, động vật quý hiếm của nước ta.
Ngày nay, vấn đề bảo vệ rừng là quốc sách, là vấn đề bức thiết của cả thế giới. Muôn có được môi trường tốt sạch và xanh, chúng ta phải biết trồng cây gây rừng, đôn một cây cổ thụ phải chuẩn bị trước hàng loạt cây con để thay thế. Có như thế mới giữ màu xanh của rừng được xanh tươi mãi. Vì vậy ngoài việc khai thác sử dụng nguồn lâm sản phải đúng kế hoạch, Đảng và Nhà nước đã ban hành những đạo luật bảo vệ rừng, bảo vệ động vật trong rừng, nhất là những loài vật có nguy cơ bị diệt chủng. Cụ thể là ngành kiểm lâm đã thành lập những đội bảo vệ thường trực, ngày đêm canh gác rừng và thông tin tuyên truyền mọi người dân phải có ý thức bảo vệ giữ gìn nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú do rừng tạo ra.Xem thêm: Bài học về nhân cách mà anh (chị) rút ra từ các câu chuyện về Thái phó Tô Hiến Thành và Thái sư Trần Thủ Độ Quả thật, rừng vô cùng quan trọng đối với đời sống con người. Vậy mỗi người chúng ta, khi đã thấu hiểu vấn đề thì cần phải tích cực hơn, có ý thức cao hơn trong việc trồng cây gây rừng và bảo vệ rừng. Yêu quý rừng, bảo vệ rừng là nhiệm vụ của tất cả mọi người chứ không phải của riêng ai. Được như vậy tức là ta đã biết bảo vệ cuộc sống của chúng ta.
Vanmau.edu.vn
|
Forests bring many benefits to humans. People must protect forests. Let me prove it
Suggest
Our people often say "golden forest and silver sea". It is not without reason that people conclude so. Because the forest is a very rich resource, it has endless hidden treasures and is always ready to serve human life. Forests bring many benefits to people, that's why people must protect forests. What benefits do forests really have?
Looking back at people's daily lives, we will see the precious value of forests and from there have a better awareness of protecting forests.
The more we learn, the more clearly we see the benefits of forests. First of all, the forest has provided us with various types of wood: miscellaneous wood used as utensils, firewood... to serve daily life; Precious wood is used as construction material to make cabinets, tables and chairs, providing raw materials for modern industry. The large pillars of the house made of polished ironwood, the sofas in the ancient houses, the altar cabinets made of rare woods... are made from raw materials of the forest.
Besides, the forest also provides herbs for medicine. Rare plants that can cure incurable diseases are often found in deep forests and are carefully researched by oriental physicians to prepare them using traditional methods. In addition, these old forests and primeval forests are also the habitat of precious animals that serve human benefits such as tigers, leopards, deer, elephants... and many rare species of birds. A rich world of animals is a priceless resource of forests for humans. See more: Introducing some features of Nguyen Trai's life, career and poetry
Moreover, the forest is also a solid Great Wall that protects human life. Without forests, people will suffer from natural disasters and floods. Without green forests, how can we protect the living environment for humans, provide rare animals and natural beauty? Forests help regulate the climate and purify the air caused by smoke emitted from factories and vehicles. Especially in war, the forest also fights with humans, "the forest covers the soldiers, the forest surrounds the enemy". It must be said that forests have served humans with an endless source of priceless wealth. This is nature's favor towards humanity.
Understanding the benefits of forests, we need to protect it. In the past, because people did not fully understand the need for forests, they burned them indiscriminately. And the floods that cause so many unpredictable consequences for humans are caused by indiscriminate exploitation and deforestation. Therefore, when we protect forests, we protect human habitat and protect our country's precious forest products and animals.
Today, forest protection is a national policy and a pressing issue for the whole world. If we want to have a good, clean and green environment, we must know how to plant trees to create a forest. To replace an old tree, we must prepare a series of saplings in advance to replace it. Only then can the forest's green color be kept green forever. Therefore, in addition to exploiting and using forest products according to plan, the Party and State have issued laws to protect forests and protect animals in the forest, especially animals at risk of extinction. Specifically, the forest ranger industry has established permanent protection teams, guarding the forest day and night and propagating information to all people to be conscious of protecting and preserving the rich natural resources created by the forest. See more: Lessons about personality that you draw from the stories about Deputy Grand Master To Hien Thanh and Grand Master Tran Thu Do Indeed, forests are extremely important to human life. So each of us, once we understand the problem, needs to be more active and more conscious in planting trees and protecting forests. Loving the forest and protecting it is everyone's duty, not just anyone's. That means we know how to protect our lives.
Vanmau.edu.vn
|
Sai lầm lớn nhất của đời người là tự đánh mất chính mình
Hướng dẫn
Tham khảo một số gợi ý cụ thể sau:
– Giải thích:
+ Thế nào là tự đánh mất chính mình? Là khi con người không giữ được phẩm chất vốn có của mình, sống và hành động theo sự sai khiến của người khác mà không tự mình nhận thức được sự đúng/sai, phải/trái.
+ Đức Phật cho rằng tự đánh mất chính mình là "sai lầm lớn nhất", có nghĩa khẳng định việc mỗi người cần giữ bản tính tự nhiên của mình là điều quan trọng nhất trong cuộc đời.
– Bàn luận, đánh giá:
+ Điều gì xảy ra khi con người "tự đánh mất chính mình": sẽ dễ bị lôi kéo, bị lung lạc, không giữ được mình trước những cám dỗ tầm thường của cuộc sống. Có thể chứng minh qua những ví dụ trong thực tế đời sống mà HS biết.
+ Đối với mỗi người, đánh mất mình là sự mất mát lớn nhất, bởi phẩm giá của mỗi người là tài sản quý báu nhất để họ khẳng định được vị trí của mình trong cuộc sống.
+ Để không "tự đánh mất chính mình", mỗi người cần luôn biết tự nhận thức về bản thân trước mọi tình huống trong cuộc sống để tránh những sai lầm đáng tiếc.
– Liên hệ bản thân:
+ Nhận thức sâu sắc của cá nhân về sự cần thiết phải khẳng định những phẩm chất, cá tính, bản lĩnh của mỗi người trong cuộc sống.
+ Có những phương hướng cụ thể để trau dồi cho mình những phẩm chất trên ngay khi ngồi trên ghế nhà trường.
Nguồn: thêm: Phân tích ý nghĩa ẩn dụ của hình tượng tiếng đàn ghi ta trong bài thơ Đàn ghi ta của Lor - ca của Thanh Thảo
|
The biggest mistake in life is losing oneself
Instruct
Refer to some specific suggestions below:
- Explain:
+ What is self-loss? It is when people cannot maintain their inherent qualities, live and act according to the dictates of others without being aware of right/wrong, right/wrong.
+ Buddha said that losing oneself is "the biggest mistake", meaning that each person needs to keep their natural nature as the most important thing in life.
– Discuss and evaluate:
+ What happens when people "lose themselves": they will be easily manipulated, swayed, and unable to hold themselves against the trivial temptations of life. Can be proven through real life examples that students know.
+ For each person, losing oneself is the greatest loss, because each person's dignity is the most valuable asset for them to affirm their position in life.
+ In order not to "lose oneself", each person needs to always be self-aware in all situations in life to avoid unfortunate mistakes.
– Contact yourself:
+ Deep personal awareness of the need to affirm each person's qualities, personality, and bravery in life.
+ There are specific directions to cultivate the above qualities while sitting at school.
Source: more: Analyzing the metaphorical meaning of the image of the guitar sound in the poem Lor's Guitar - ca by Thanh Thao
|
Sai lầm lớn nhất mà bạn mắc phải trong cuộc sống là luôn sợ sai lầm (Elbert Hubhard). Anh chị có suy nghĩ gì về ý kiến trên
Gợi ý
Đã có bao giờ bạn ngồi nhìn lại mình và tự hỏi: Đâu là sai lầm lớn nhất mà mình mắc phải? Sẽ có rất nhiều câu trả lời khác nhau. Và bạn sẽ suy nghĩ gì khi nghe câu nói này của Elbert Hubhard: “Sai lầm lớn nhất mà bạn mắc phải trong cuộc sống là luôn sợ sai lầm”.
Cuộc đời mỗi con người là một chuỗi của rất nhiều trải nghiệm: thành công – thất bại, hạnh phúc – đau khổ, được – mất,… Sau mỗi trải nghiệm, người ta tự rút ra cho mình những bài học về bản thân, về cuộc sống. Thành công, may mắn mang lại niềm vui và những bài học nhẹ nhàng còn những cái mất mới là cái khiến cho người ta phải day dứt nhiều hơn cả. Một người thất bại trong sự nghiệp có thể nhận ra sai lầm lớn nhất của mình là đã bỏ lỡ những cơ hội, đã không dám thử sức, đã quá chủ quan và nóng vội… Một người thất bại trong tình cảm có thể sẽ thấy mình đã thực sự sai lầm khi không sống đúng với những điều mà trái tim mình mách bảo, khi không sống thực với lòng mình, hay khi đã đối xử không công bằng với người khác… Mỗi người, trong từng trường hợp khác nhau, sẽ tự nhận ra sai lầm – nguyên nhân dẫn đến thất bại lớn nhất là ở đâu. Điều đó đúng. Nhưng chúng ta hãy một lần nữa suy nghĩ về việc: liệu còn có một sai lầm nào lớn hơn, chung cho tất cả mọi người, trong mọi hoàn cảnh. Những sai lầm được nêu lên ở trên kia chỉ là sai lầm trong những hoàn cảnh cụ thể. Nó là sai lầm lớn nhất trong hoàn cảnh đó nhưng chưa hẳn đã là sai lầm lớn nhất mà người ta mắc phải trong cuộc đời mình. Vậy, liệu có phải sai lầm lớn nhất của con người là sợ mình mắc phải những sai lầm như Elbert Hubhard đã nói? Đứng trước một công việc nào đó, khi bắt tay vào thực hiện, con người đã đang tự tạo ra cho mình những cơ hội. Qua những thử thách đó, người ta có thể khám phá ra sức mạnh tiềm ẩn của chính bản thân mình, nhưng điều mà trước đó họ chưa hề biết. Cũng qua thử thách, cộ thể có những cơ hội mới nảy sinh và con người sẽ làm được điều mà người ta tưởng rằng trước đó không thể làm. Tất nhiên không loại trừ khả năng gặp thất bại. Có thể trong quá trình thực hiện, họ mắc phải những sai lầm. Nhưng chỉ bản thản điều đó thôi cũng giúp tự rút ra cho mình những bài học, bản lĩnh hơn, từng trải hơn và sẽ không mắc phải sai lầm tương tự, điều mà nếu như không bắt tay vào thử sức thì người ta không thể có được. Và một điều quan trọng nữa: khi đã dám đối mặt với thách thức, khi đã được thử sức, người ta sẽ tự mình trả lời được câu hỏi mà không còn phải đứng trước những băn khoăn: Liệu mình có thể làm được điều đó? Hay nuối tiếc: Giá như mình đã làm điều đó! Sợ sai lầm, đồng nghĩa với việc không dám đối diện với thử thách và bởi vậy sẽ không bao giờ có thể biết được khả năng thực sự của mình. Thái độ sợ hãi dần biến bạn thành một con ốc chỉ dám co mình lại trong cái vỏ chật hẹp của chính mình. Nó cũng khiến cho bạn sẽ lần lượt bỏ qua những cơ hội của chính cuộc đời mình, những cơ hội mà có thể sẽ là một đi không trở lại. Đó là một điều không nên có trong xã hội hiện nay, điều đủ để biến bạn thành một kẻ tụt hậu, đi sau thời đại.Xem thêm: Viết một bức thư cho người bạn thân về ước mơ của mình
Vậy phải làm sao để thay đổi cuộc đời mình, thay đổi thái độ của mình đối với cuộc sống? Làm sao để bạn có thể mạnh dạn đối mặt với thử thách và chiến thắng nó mà không mắc phải sai lầm? Và thậm chí, phải làm sao để ngay cả khi mắc phải những sai làm đó, người ta vẫn có thể sửa chữa để thay đổi tình thế? Tất nhiên, điều quan trọng đầu tiên và trước hết là cần phải trang bị cho mình kiến thức và hiểu biết để có thể nhìn nhận vấn đề một cách sắc sảo, tìm ra những hướng đi đúng đắn và tự tin thực hiện nó. Khi bạn đã tự tin về điều bạn nghĩ, những gì bạn đang nói và những hành động bạn đang làm, bạn sẽ không ngần ngại mà bắt tay vào công việc. Và nếu như, trong quá trình thực hiện đó, có một sai lầm nào đó, vốn tri thức ấy cũng giúp cho bạn nhìn nhận lại được vấn đề, tìm ra nguyên nhân cũng như cách khắc phục và thay đổi chúng. Hơn thế nữa, mỗi người cần biết rèn luyện bản lĩnh của mình để cho bản thân trở nên tự tin hơn, mạnh mẽ hơn. Trước khi có thể mắc phải một sai lầm (tất nhiên, cũng có thể điều đó sẽ không xảy ra) trong bất cứ việc gì, có thể bạn đã mắc phải một sai lầm lớn hơn vì đã không để cho mình có cơ hội được thử sức, xem mình có thể thực hiện được điều đó, và có thể bị mắc sai lầm hay không?Xem thêm: Hồ Chủ tịch có dạy: "Học với hành phải đi đôi. Học không hành thi vô ích. Hành mà không học thì hành không trôi chảy". Em hiểu lời dạy trên như thế nào? Để rút được kinh nghiệm quý giá từ các sai lầm của mình, chúng ta phải mạnh dạn hành động. Đôi khi bạn sẽ mắc sai lầm. Nhưng mỗi khi mắc sai lầm sẽ là một lần chúng ta đang học hỏi và trưởng thành. Bạn có cảm thấy khó chịu khi mắc sai lầm không? Vậy hãy rút ra kinh nghiệm và hành động khác đi trong lần tới, sửa chữa sai lầm, tự tha thứ và rút kinh nghiệm cho bản thân và tiếp tục tạo nên sự chuyển biến. Đôi khi bạn phải chấp nhận những rủi ro cần thiết để tìm được đúng hướng đi cho mình. Hãy nhớ rằng, những lựa chọn dở nhất đôi khi cũng có thể trở thành cơ hội tuyệt vời để bạn học hỏi. Bởi lẽ qua các quyết định sai chúng ta mới có được quyết định đúng.
Vậy hãy cứ mạnh dạn hành động. Đừng vì sợ phạm sai lầm mà nản lòng và chùn bước trong cuộc sống. Rồi chúng sẽ giúp bạn trở nên tốt hơn. Chính từ những sai lầm trong cuộc đời, bạn có thể rút ra nhiều bài học quý giá và phát huy hết năng lức của mình để ngày càng hoàn thiện hơn! Vậy thì hãy mạnh dạn tiến lên!
Vanmau.edu.vn
|
The biggest mistake you can make in life is always being afraid of making mistakes (Elbert Hubhard). What do you think about the above opinion?
Suggest
Have you ever sat back and asked yourself: What was the biggest mistake I made? There will be many different answers. And what will you think when you hear this quote from Elbert Hubhard: "The biggest mistake you make in life is always being afraid of making mistakes?"
Every person's life is a series of many experiences: success - failure, happiness - suffering, gain - loss,... After each experience, people learn for themselves lessons about themselves, about life. Success and luck bring joy and gentle lessons, but losses are what make people suffer the most. A person who fails in his career may realize that his biggest mistake is missing opportunities, not daring to try, being too subjective and hasty... A person who fails in love may see that I was really wrong when I didn't live according to what my heart told me, when I didn't live true to my heart, or when I treated others unfairly... Each person, in each case, is different. will realize their own mistakes - where the biggest cause of failure is. That's right. But let's once again think about: is there a bigger mistake, common to everyone, in all situations? The mistakes mentioned above are only mistakes in specific situations. It was the biggest mistake in that situation but not necessarily the biggest mistake people make in their lives. So, is the biggest mistake people make is being afraid of making mistakes like Elbert Hubhard said? When faced with a certain job, when starting to do it, people are creating opportunities for themselves. Through those challenges, people can discover their own hidden strengths, but things they never knew before. Also through challenges, new opportunities may arise and people will be able to do things that they thought could not be done before. Of course, the possibility of failure cannot be ruled out. Maybe during the implementation process, they made mistakes. But just being calm about that will help you learn lessons, become more brave, more experienced and not make the same mistakes, something that if you don't try, you can't. have been. And one more important thing: when people dare to face challenges, when they are tested, they will be able to answer the question themselves without having to face concerns: Can I do it? ? Or regret: If only I had done that! Fear of mistakes means not daring to face challenges and therefore will never know your true abilities. An attitude of fear gradually turns you into a snail that only dares to shrink into its own narrow shell. It also makes you miss opportunities in your own life, opportunities that may not come again. That is something that should not exist in today's society, enough to turn you into a laggard, behind the times. See more: Write a letter to a close friend about your dream
So what should we do to change our life, change our attitude towards life? How can you boldly face challenges and win them without making mistakes? And what should we do so that even when we make those mistakes, we can still correct them to change the situation? Of course, the first and foremost important thing is to equip yourself with knowledge and understanding to be able to look at problems sharply, find the right directions and confidently implement them. When you are confident about what you think, what you are saying and the actions you are taking, you will not hesitate to get to work. And if, during the implementation process, there is a mistake, that knowledge also helps you reconsider the problem, find the cause as well as how to fix and change them. Furthermore, each person needs to know how to practice their bravery to become more confident and stronger. Before you can make a mistake (of course, it probably won't happen) in anything, you can make a bigger mistake by not giving yourself the opportunity to Try your best, see if you can do it, and can you make mistakes? See more: President Ho Chi Minh taught: "Learning and practicing must go hand in hand. Studying without practicing is useless. Practicing without practicing is useless." When you study, you don't practice smoothly." How do you understand the above teaching? To learn valuable experience from our mistakes, we must act boldly. Sometimes you will make mistakes. But every time we make a mistake, we are learning and growing. Do you feel uncomfortable when you make mistakes? So learn from experience and act differently next time, correct mistakes, forgive yourself, learn from experience and continue to create change. Sometimes you have to accept necessary risks to find the right direction for yourself. Remember, the worst choices can sometimes become great opportunities for you to learn. Because through wrong decisions we can make right decisions.
So let's act boldly. Don't be discouraged and falter in life because you're afraid of making mistakes. Then they will help you become better. From mistakes in life, you can learn many valuable lessons and develop your full potential to become more and more perfect! Then go ahead boldly!
Vanmau.edu.vn
|
Sau khi tự tử ở giếng Loa Thành, xuống Thuỷ cung, Trọng Thuỷ đã tìm gặp lại Mị Châu. Những sự việc gì đã xảy ra? Hãy kể lại câu chuyện dó
Gợi ý
Trọng Thủy tỉnh dậy thì bàng hoàng nhận ra mình đang ở giữa mênh mông biển nước. Những tầng san hô cứ liên tiếp nốì nhau làm che khuất tầm nhìn. Xung quanh chàng lúc ấy chỉ có nước và những đàn cá tung tăng bơi lội.
Trọng Thủy vẫn còn ngơ ngác. Chàng dấn bước đi miễn cưỡng và không phương hướng. Thế nhưng vừa ra khỏi đám san hô, Trọng Thủy đã bị bốn năm hình nhân quái lạ mình người đầu tôm cá từ đâu kéo đến trói chặt đưa đi. Trọng Thủy được đưa đến một cung điện nguy nga lộng lẫy, nợi mà chàng chưa bao giờ gặp ở trên trần. Những ngôi nhà tráng lệ sáng trưng màu ngọc, có đầy đủ lính canh và người hầu ra vào tấp nập. Qua bôn năm lần cửa canh như thế, Trọng Thủy bị đưa vào quỳ ở trong đại điện. Một tên lính trong nhóm người kia cũng quỳ xuông và thưa:
Thưa công chúa! Bọn thuộc hạ bắt được tên này ở ngoài cổng điện. Xem chừng hắn đến đây có ý gian tà, xin công chúa đưa ra xét tội.
Người ngồi trên kia lên tiếng. Trọng Thủy nghe thấy quen quen nhưng mặt người kia che kín nên chàng không nhìn rõ.Xem thêm: Anh (chị) hãy trình bày suy nghĩ của mình về tính ích kỉ và lòng vị tha trong xã hội ngày nay– Này, anh kia! Anh từ đâu tới mà lại lạc đến đây?
– Dạ, bẩm! Tôi người trần, vì ngỡ người tình đang ở trong giếng nước nên mới lao mình xuống giếng rồi bị lạc đến nơi đây.
– Vậy anh tên gì?
– Tôi là Trọng Thủy, là con trai của Triệu Đà Vương.
– Ta nghe nói ở trên trần, ngươi gây ra nhiều tội ác cho nhân dân Âu Lạc, khiến họ vô cùng oán thán. Điều đó có đúng hay không?
Trọng Thủy vô cùng ngạc nhiên. Không ngờ một người hoàn toàn xa lạ lại biết ngọn ngành mọi chuyện của mình. Biết là không thể chô’i, Trọng Thủy bèn viện lí do:
– Thực tình tôi cũng là làm theo ý của vua cha.
– Nhà ngươi lại còn định chối tội hay sao? Người ngồi trên điện kía nổi nóng. Nhà ngươi giả vờ sang cầụ hòa Âu Lạc, xin cưới công chúa Mị Châu để chờ cơ hội trộm nỏ thần đã là một tội. Tàn bạo. hơn, ngươi lại cho quân lính sang giày xéo bờ cõi nước Nam làm cho muôn dân kêu gào trong đau khổ. Không những thế, nhà ngươi còn nhẫn tâm bức chết vua Âu Lạc, bức chết người vợ thủy chung mà ngây thơ dại dột của mình. Với bằng ấy tội danh nhà ngươi còn muôn đổ lỗi cho ai?
Trọng Thủy tái mặt, không biết người ngồi trên điện là ai. Nhưng sợ quá, chàng cúi đầu nhận tội:Xem thêm: Phân tích bài thơ Cảm hoài của Đặng Dung– Thưa công chúa! Tôi biết mình mang tội lớn nhưng tôi một lòng yêu quý Mị Châu, ngày đêm mong ngóng được gặp nàng để tỏ bày nỗi lòng ân hận.
– Bây giờ nhà ngươi mới hối hận thì giải quyết được gì?
– Tôi biết vậy. Nhưng ngày xưa, Mị Châu vì rất yêu thương tôi mà nghe tôi tất cả. Tôi yêu thương nàng thật nhưng đã lừa dôì trái tim trong trắng của nàng nên tôi day dứt lắm. Đến khi nàng mất đi tôi. mới biết dù có là vua Âu Lạc nhưng nếu mất Mị Châu, cuộc sống của tôi cũng chẳng có ý nghĩa gì. Tôi rất muôn gặp nàng để ít nhất được nói với nàng sự hốì hận của tôi.
– Trọng Thủy! Chàng hãy ngẩng mặt lên và nhìn xem thiếp là ai?
– Nàng là… Mị Châu!
Vâng! Thiếp đúng là Mị Châu. Sau khi thiếp chết đi, vua Thủy Tề đã rất thương tình mà nhận thiếp làm con gái. Vì thế thiếp mới được ở nơi đây.
– Mị Châu! Ta xin lỗi nàng. Vì ta mà nàng phải chịu bao đau khổ. Bấy lâu nay ta chỉ ước được gặp nàng. Ta sẵn sàng bỏ đi tất cả để được cùng nàng sống trong hạnh phúc. Hãy tha thứ cho ta.
– Thiếp mừng vì chàng đã nhận ra lầm lỗi. Nhưng chúng ta không thể sống với nhau. Nếu làm như vậy, người đời sẽ nhạo báng chúng ta mãi mãi. Không được sống với nhau coi như cũng là một sự trừng phạt xứng đáng với những lỗi lầm quá lớn của chúng ta ở trên hạ giới. Thiếp đã đợi ngày này từ rất lâu rồi và chỉ để được nói với chàng một câu thôi: Hãy sống sao cho tốt trong những ngày sắp tới để bù đắp cho những gì mà chúng ta đã gây ra.Xem thêm: Phân tích bài thơ Chiều tối của Hồ Chí MinhMị Châu vừa nói dứt câu thì cả cung điện nguy nga bỗng biến ngay đâu mất. Xung quanh vắng lặng chỉ còn trơ lại một mình Trọng Thủy. Chàng ân hận mà lặng câm không nói được, vết nhơ mà chàng đã gây ra có lẽ chỉ có nước biển Đông xô dạt ngàn đời mới mong xóa được.
Trọng Thủy cứ ngồi đó hàng chục ngày đêm. Và rồi không biết tự bao giờ. Chàng đã hóa thành người đá. Sau này hàng mấy trăm năm, có người lặn xuống biển Đông mò ngọc quý vẫn còn nhìn thấy một tảng đá hình người âu sầu khổ não đang dang hai cánh tay ra như cầu xin ai đó một điều gì.
Vanmau.edu.vn
|
After committing suicide at Loa Thanh well, going down to the Aquarium, Trong Thuy found Mi Chau again. What events happened? Let's retell that story
Suggest
Trong Thuy woke up and was shocked to realize he was in the middle of a vast sea of water. The layers of coral continue to overlap each other, obscuring the view. Around him at that time there was only water and schools of fish swimming freely.
Trong Thuy is still bewildered. He walked reluctantly and without direction. But as soon as he got out of the coral, Trong Thuy was tied up and taken away by four or five strange humanoid figures with bodies and heads of shrimp and fish. Trong Thuy was taken to a magnificent palace, a place he had never seen on earth. The magnificent houses shine brightly in jade color, full of guards and servants coming and going bustlingly. After going through four or five guard gates like that, Trong Thuy was brought to kneel in the main hall. A soldier in the other group also knelt down and said:
Dear princess! The subordinates caught this guy outside the palace gate. It seems that he came here with evil intentions, please ask the princess to bring him to trial.
The person sitting up there spoke up. Trong Thuy heard something familiar, but the other person's face was covered so he couldn't see clearly. See more: Please express your thoughts on selfishness and altruism in today's society - Hey, you there ! Where did you come from and ended up here?
– Yes, yes! I am a mortal, because I thought my lover was in the well, so I threw myself into the well and got lost here.
– So what's your name?
– I am Trong Thuy, the son of Trieu Da Vuong.
– I heard that on earth, you committed many crimes against the people of Au Lac, making them extremely resentful. Is that correct or not?
Trong Thuy was extremely surprised. I didn't expect that a complete stranger would know the secret to everything that happened to me. Knowing that he couldn't play, Trong Thuy gave an excuse:
– Actually, I am also following my father's wishes.
– Are you still going to deny your crime? The person sitting on the throne was angry. It is already a crime for you to pretend to go to Au Lac and ask to marry Princess My Chau, waiting for an opportunity to steal the magic crossbow. Brutal. Moreover, you sent soldiers to trample the southern country's borders, making all people cry out in pain. Not only that, you also cruelly forced King Au Lac to death and forced to death his faithful but naive and foolish wife. With that, who do you want to blame for your family's crimes?
Trong Thuy turned pale, not knowing who was sitting on the throne. But he was too scared, so he bowed his head and confessed: See more: Analysis of the poem Feeling nostalgic by Dang Dung - Dear princess! I know I have committed a big sin, but I love Mi Chau with all my heart, day and night I look forward to meeting her to express my regret.
– Now that you regret it, what can you do about it?
– I know that. But in the past, Mi Chau listened to me because she loved me so much. I really love her, but I deceived her pure heart, so I'm very tormented. Until she lost me. I just realized that even if I am King Au Lac, if I lose Mi Chau, my life will have no meaning. I really wanted to meet her to at least tell her my regrets.
– Trong Thuy! Please raise your face and see who I am?
– She is... Mi Chau!
Yes! My name is Mi Chau. After I died, King Thuy Te was very compassionate and accepted me as his daughter. That's why I can be here.
– Mi Chau! I apologize to her. Because of me, she had to endure so much suffering. For a long time, I just wanted to meet her. I am willing to give up everything to live happily with you. Please forgive me.
– I'm glad you realized your mistake. But we can't live together. If we do so, people will mock us forever. Not being able to live together is considered a worthy punishment for our great mistakes on earth. I have been waiting for this day for a long time and just to say one sentence to you: Live well in the coming days to make up for what we have done. See more: Analysis of the poem Ho Chi Minh's Evening As soon as Mi Chau finished speaking, the entire magnificent palace suddenly disappeared. The surrounding area was quiet, leaving only Trong Thuy alone. He regretted it but was speechless, the stain he had caused could only be erased by the rushing waters of the East Sea for thousands of generations.
Trong Thuy just sat there for dozens of days and nights. And then I don't know when. He turned into a stone man. Hundreds of years later, someone diving into the East Sea to search for precious gems still saw a rock shaped like a sad and miserable person with his arms outstretched as if begging someone for something.
Vanmau.edu.vn
|
Sau khi đánh tan giặc Ân, Thánh Gióng bay lên trời và kể lại chuyện của mình cho Ngọc Hoàng cùng các vị tiên nghe. Em hãy tưởng tượng mình là Thánh Gióng để kể lại truyền thuyết “Thánh Gióng”
Gợi ý
DÀN BÀI
Mở bài:
+ Giới thiệu chiến thắng của Thánh Gióng cùng nhân dân ta trước sự xâm lược của giặc Ân và việc Thánh Gióng bay về trời.
+ Sự đón tiếp Thánh Gióng của Ngọc Hoàng và các vị tiên. Thánh Gióng được đề nghị kể lại chuyện đánh giặc.
Thân bài:
(Thánh Gióng kể chuyện)
+ Chuyện thái tử đầu thai xuống làm con vợ chồng ông bà lão làng Gióng.
+ Sự phát triển không bình thường của Gióng: đã ba năm chưa biết nói, biết cười, đặt đâu nằm đấy.
+ Việc giặc Ân xâm lược nước nhà, vua truyền sứ giả đi tìm người hiền tài cứu nước.
+ Chuyện Gióng cất tiếng nói đầu đời nhờ mẹ gọi sứ giả xin cấp những đồ cần thiết để đi đánh giặc.
+ Chuyện xóm làng nuôi Gióng lớn nhanh như thổi và nhà vua đúc ngựa sắt, áo giáp sắt, roi sắt… cho Gióng.
+ Chuyện Gióng đánh giặc; chiến thắng rồi bay về trời.
Kết bài:
+ Nỗi nhớ cha mẹ dưới trần gian và mong muôn được cùng nhân dân giữ gìn đất nước.
+ Thái độ, suy nghĩ của Ngọc Hoàng và các vị tiên sau khi nghe Thánh Gióng kể chuyện.
Vanmau.edu.vn
Xem thêm: Viết một đoạn văn ngắn (từ 5 đến 7 câu) giải thích diễn biến tâm trạng của người anh khi đứng trước bức tranh em gái vẽ mình. Thoạt tiên là sự ngỡ ngàng, rồi đến hãnh diện, sau đó là xấu hổ
|
After defeating the An enemy, Thanh Giong flew to heaven and told his story to the Jade Emperor and the fairies. Imagine yourself as Saint Giong to retell the legend of "Saint Giong"
Suggest
OUTLINE
Opening:
+ Introducing the victory of Saint Giong and our people against the invasion of the An enemy and Saint Giong flying back to heaven.
+ Saint Giong's welcome by the Jade Emperor and the fairies. Thanh Giong was asked to tell the story of fighting the enemy.
Body of the article:
(Saint Giong tells the story)
+ The story of the crown prince being reincarnated as the son of Giong village old man and his wife.
+ Giong's abnormal development: for three years he has not been able to speak, smile, or lie down anywhere.
+ When the An enemy invaded the country, the king sent messengers to find talented people to save the country.
+ The story of Giong speaking for the first time in his life asked his mother to call a messenger to ask for the necessary items to go fight the enemy.
+ The story of the village that raised Giong grew so quickly that the king cast iron horses, iron armor, iron whips... for Giong.
+ The story of Giong fighting the enemy; won and then flew back to heaven.
End:
+ I miss my parents on earth and wish to join the people in preserving the country.
+ The attitude and thoughts of the Jade Emperor and the fairies after listening to Thanh Giong tell the story.
Vanmau.edu.vn
See more: Write a short paragraph (from 5 to 7 sentences) explaining the evolution of the brother's mood when standing in front of his sister's painting of him. At first there was surprise, then pride, then shame
|
Sau một buổi học, một chiếc bàn bị gãy chân, than phiền với một chiếc ghế hỏng. Em tưởng tượng và kểlại câu chuyện đó
Gợi ý
Bác Ghế ơi!
Em đang đóng nốt cánh cửa cuối cùng, chợt có một giọng khàn khàn cất lên từ cuối phòng học. Em dừng lại lắng nghe.
Bác Ghế ơi! Bác còn thức hay ngủ rồi đó? Giọng nói đó lại vang lên.
Một giọng nói ngái ngủ trả lời:
Tôi đây! Có chuyện gì thế hả Bàn?
Bác Bàn nhìn ra xa, ngẫm nghĩ, rồi bằng một giọng buồn buồn bắt đầu kể:
Như bác đã biết đấy. Tôi với bác cùng ra đời một lúc lại họ hàng với nhau. Dạo ấy… giọng bác Bàn trầm xuống. Học sinh trường này không có bàn ghế ngồi học. Các cô cậu phải ngồi chật chội hoặc phải ngồi dưới đất mà học. Nhờ sự quan tâm của phường, họ đã đóng ra chúng ta và đặt vào phòng học này đây.
Nói tới đây, bác Bàn dừng lại. Ghế giục:
Bác cứ kể đi, tôi nghe đây mà!
Bác Bàn cất giọng kể tiếp:
Lúc mới vào tôi và bác đều sạch sẽ, thơm mùi gỗ mới. A! Cái thầy gì ấy nhỉ?… Thầy ấy luôn dặn dò các cô, các cậu học sinh giữ gìn chúng ta, không được xô đẩy, khắc tên và giây mực trên thân thể chúng ta. Tôi thấy các cô, cậu học sinh cứ vâng vâng dạ dạ tôi tưởng – nào ngờ… mới hôm qua đây, cái cậu Hùng hỗn láo trèo lên mặt tôi, giẫm thình thịch, làm gãy cả chân tôi. Thế có khổ không chứ.Xem thêm: Top 10 website những bài văn mẫu hay lớp 2 mới nhất Bác Ghế lắc đầu nói:
Thế thì có khác gì tôi. Cái cậu gì ấy nhỉ? Cái cậu mà bác mới nói ấy mà. À, ừm à! Cậu Hùng! Cũng chiều hôm qua thôi, cậu lấy tôi dùng làm “vũ khí” để chơi đánh nhau. Bác biết không? Tôi đau quá, vùng vẫy mãi nhưng không thoát được, cậu ấy càng ghì chặt tôi hơn. Bỗng “xoàng” một tiếng, tôi choáng váng cả đầu óc, thét lên rồi ngất lịm. Khi tỉnh dậy, tôi thấy mình đau ê ẩm. Một chiếc xương chân của tôi bị gãy ra. Tôi cố lê về đây đây, bác ạ!
Bác Bàn buồn rầu:
Vết thương của tôi nặng quá, tôi sợ mình không qua khỏi…
Bác Ghế vội vàng:
Ấy, ấy, bác đừng nghĩ đến chuyện đó, tôi sợ lắm.
Tôi và bác phải thoát ra khỏi chốn này – bác Bàn thét lên.
Tôi không đi với bác được đâu.
Bàn ôm mặt rầu rĩ:
Sao tôi không chết đi cho rồi.
Ghế vội an ủi bạn:
Thôi bác đừng khóc nữa. Bác khóc thế có lợi gì đâu? Nhiệm vụ của chúng ta phải ra sức phục vụ cho các cô, các cậu học sinh cơ mà!
Bàn ôm chầm lấy Ghế, vừa cảm động về tấm lòng cao thượng của ghế, vừa ân hận về thái độ bi quan của mình. Mấy giây trôi qua, hai người bạn ấy nhìn nhau bằng ánh mắt đầy nghị lực: “Ngày mai chúng ta sẽ đề nghị nhà trường đưa đi chữa bệnh. Chúng ta sẽ lên tiếng khuyên các cô, cậu học sinh giữ gìn của công, phải có ý thức mới được.” “Nhất định sẽ là như vậy, sẽ là như vậy”.Xem thêm: Cội rễ của học hành thì cay đắng, nhưng quả của nó thì ngọt ngào Vừa lúc đó, đội “Sao đỏ” của trường đi tới. Em vội báo cáo về việc bàn và ghế bị hư hỏng đi “chữa bệnh”. Hình như bàn và ghế cũng nghe được câu nói đó, quên cả đau nhảy lên vì vui sướng.
Vanmau.edu.vn
|
After a class, a table leg broke, complaining about a broken chair. I imagine and retell that story
Suggest
Uncle Chair!
I was closing the last door when suddenly a hoarse voice spoke from the back of the classroom. I stopped to listen.
Uncle Chair! Are you still awake or asleep? That voice rang out again.
A sleepy voice replied:
I'm here! What's the matter, Ban?
Uncle Ban looked into the distance, thought, then in a sad voice began to tell:
As you know. My uncle and I were born at the same time and are related to each other. At that time... Uncle Ban's voice was low. Students at this school do not have desks and chairs to study. Students have to sit cramped or sit on the ground to study. Thanks to the attention of the ward, they built us and placed them in this classroom.
Saying this, Uncle Ban stopped. Urgent chair:
Just tell me, I'm listening!
Uncle Ban raised his voice and continued:
When we first entered, my uncle and I were both clean and fragrant with the smell of new wood. Ah! What kind of teacher is that?... He always tells the girls and students to take care of us, not to push us, or to engrave names and ink on our bodies. I saw the girls and students just obeying and obeying, I thought - who would have thought... just yesterday, that impudent Hung climbed on top of me, stomped on me, and broke my leg. Isn't that miserable? See more: Top 10 websites with the latest good sample essays for grade 2. Uncle Chair shook his head and said:
So it's no different than me. What is that guy? The guy you just talked about. Ah, um ah! Mr. Hung! Just yesterday afternoon, you used me as a "weapon" to fight. Do you know? I was in so much pain, I struggled but couldn't escape, he held me even tighter. Suddenly, with a loud sound, I was dizzy, screamed and fainted. When I woke up, I found myself in severe pain. A bone in my leg was broken. I'm trying to drag myself back here, uncle!
Uncle Ban was sad:
My injury is so severe, I'm afraid I won't survive...
Uncle Chair quickly:
Hey, hey, don't think about that, I'm scared.
You and I have to get out of this place - Uncle Ban screamed.
I can't go with you.
Table hugged his face sadly:
Why don't I just die?
The chair quickly comforts you:
Please don't cry anymore. What's the use in crying like that? Our mission is to do our best to serve the girls and students!
The table hugged the chair, both touched by the chair's noble heart and regretful of his pessimistic attitude. A few seconds passed, and the two friends looked at each other with eyes full of strength: "Tomorrow we will ask the school to take us for medical treatment. We will speak up and advise students to preserve public property and be conscious." “It will definitely be like that, it will be like that.” See more: The roots of learning are bitter, but its fruits are sweet Just at that moment, the school's "Red Star" team arrived. I quickly reported the damaged table and chairs for "treatment". It seemed like the table and chairs also heard that sentence, forgetting the pain and jumping for joy.
Vanmau.edu.vn
|
So sánh hình ảnh buổi chiều và cảm xúc của chủ thể trữ tình trong bài Mộ của Hồ Chí Minh và khổ cuối bài Tràng giang của Huy Cận. Từ đó nêu lên vẻ đẹp cổ điển mà hiện đại của bài Mộ
Gợi ý
DÀN BÀI CHI TIẾT
I. So sánh
1. So sánh hình ảnh buổi chiều trong bài Mộ và trong khổ cuối bài Tràng giang
+ Giống nhau:
– Đều dùng thi liệu cổ điển phương Đông: cánh chim chiều, mây (chòm mây, núi mây).
– Đều đượm buồn, vắng lặng, cô đơn.
– Đều mượn cảnh để bộc lộ tâm trạng.
+ Khác nhau:
– Tràng giang có thêm hình ảnh "con nước" buồn; không có biểu tượng của sự sống ("không khói hoàng hôn").
– Mộ: Sau cảnh chiều muộn buồn vắng của thiên nhiên nơi núi rừng hẻo lánh là cảnh sinh hoạt ấm cúng, đầy sức sống của con người bên xóm núi với ngọn lửa hồng rực sáng trong lò than.
2. So sánh cảm xúc của chủ thể trữ tình
+ Giống nhau: đều buồn lắng, cô đơn trước thiên nhiên trong thời khắc của ngày tàn (có sự hòa hợp giữa thiên nhiên và con người, cảnh và tình).
+ Khác nhau:
– Một người buồn vì nhớ nước, nhớ đồng bào, đồng chí trong cảnh tù đày xa xứ; một người buồn vì nhớ nhà trong cái "tôi" bé nhỏ của thi nhân lãng mạn khi đứng trước Tràng giang mênh mang chưa tìm được hướng đi cho đời mình. Xem thêm: Mở đầu bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ, Hàn Mặc Tử viết: “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”. Đây là lời của ai? Có người cho rằng câu hỏi đó đã được nhà thơ trả lời bằng 11 câu thơ tiếp theo của tác phẩm. Ý kiến anh (chị) như thế nào? Hãy phân tích bài thơ để làm sá– Một người chỉ có buồn, và nỗi buồn đó ngày càng sâu thăm thẳm khi không tìm thấy biểu tượng của sự sống; một người không chỉ có buồn mà còn có niềm vui khi chứng kiến và hòa vào với niềm vui cuộc sống của con người.
– Sự giống nhau là do tư chất nghệ sĩ của hai nhà thơ, còn sự khác nhau do một người là thi sĩ lãng mạn, một người là thi sĩ cách mạng.
II. Vẻ đẹp cổ điển – hiện đại của bài Mộ
1. Các yếu tố cổ điển và hiện đại trong bài Mộ:
– Yếu tố cổ điển: Dùng thi liệu phương Đông (cánh chim bay về rừng, chòm mây trôi trên bầu trời), cùng bút pháp chấm phá bằng hai nét vẽ để dựng lên cảnh chiều muộn như trong một bức tranh thủy mạc (có hồn và thấm đượm tình người). Ngọn lửa rực hồng trong đêm tối cũng là hình ảnh thường gặp trong thơ cổ điển xưa.
– Yếu tố hiện đại: Cảnh sinh hoạt ấm cúng, đầy sức sống của người lao động bên xóm núi cùng với lòng thương người và yêu đời vô hạn của nhà thơ. Tứ thơ, hình tượng thơ vận động theo hướng tích cực, đi lên: từ tối đến sáng, từ tàn lụi đến sự sống, từ buồn đến vui, từ lạnh lẽo, cô đơn đến ấm nóng.
2. Sự kết hợp hài hòa giữa hai yếu tố đó trong bài thơ
– Bức tranh chiều muộn nơi núi rừng hẻo lánh mang đậm chất Đường thi càng thấm đượm nỗi buồn của người tù xa xứ đang nhớ nước, nhớ đồng bào, đồng chí. Xem thêm: Hãy giải thích và bình luận ý kiến sau đây của Thạch Lam: "Đối với tôi, văn chương không phải là một cách đem đến cho người đọc sự thoát li hay sự quên; ..., vừa làm cho lòng người được thêm trong sạch và phong phú hơn"– Hình ảnh cô gái xay ngô thật hài hòa với ngọn lửa rực hồng trong lò than bởi chính ngọn lửa ấy đã làm bừng sáng rực rỡ khuôn mặt của người lao động. Ngọn lửa hồng của thi liệu phương Đông đã thành ngọn lửa của tình yêu con người, yêu cuộc sống trong thơ hiện đại.
– Cảnh chiều muộn nơi núi rừng và cảnh sinh hoạt bên xóm núi cũng hài hòa trong sự phát triển biện chứng của hình tượng thơ để tạo nên một chỉnh thể nghệ thuật thống nhất của tác phẩm. Đó là vẻ đẹp của bài tứ tuyệt, của phong cách thơ Hồ Chí Minh.
Vanmau.edu.vn
|
Compare the image of the afternoon and the emotions of the lyrical subject in Ho Chi Minh's Grave and the last stanza of Huy Can's Trang Giang. From there, the classic yet modern beauty of the poem Mo is highlighted
Suggest
DETAILED OUTLINE
I. Comparison
1. Compare the image of the afternoon in the poem Mo and in the last stanza of the poem Trang Giang
+ Similar:
– All use classical Eastern poetic materials: evening bird wings, clouds (cloud constellations, cloud mountains).
– All sad, quiet, lonely.
– They all borrow scenes to express their moods.
+ Different:
– Trang Giang has a sad "water" image; there is no symbol of life ("no sunset smoke").
– Grave: After the sad late afternoon scene of nature in the remote mountains and forests, there is a scene of cozy, vibrant activities of people in the mountain village with a bright red fire in the brazier.
2. Compare the emotions of the lyrical subject
+ Similar: both sad and lonely in front of nature at the end of the day (there is harmony between nature and people, scene and love).
+ Different:
– A person is sad because he misses his country, his compatriots, and his comrades in exile far away from home; A person is sad because of homesickness in the small "I" of a romantic poet when facing the vast river without finding a direction for his life. See more: At the beginning of the poem This is Vi Da village, Han Mac Tu wrote: "Why don't you go back to visit Vi village?". Whose words are these? Some people believe that that question was answered by the poet in the next 11 verses of the work. What is your opinion? Let's analyze the poem to make a sá - A person is only sad, and that sadness becomes deeper and deeper when he cannot find a symbol of life; a person who not only has sadness but also joy when witnessing and participating in the joy of human life.
– The similarity is due to the artistic qualities of the two poets, and the difference is due to the fact that one is a romantic poet, the other is a revolutionary poet.
II. The classic - modern beauty of the Grave poem
1. Classic and modern elements in the poem Mo:
– Classical elements: Using oriental poetic materials (birds flying into the forest, clouds floating in the sky), and a two-stroke punctuation style to create a late afternoon scene like in a water painting (there are soulful and imbued with human love). The blazing fire in the dark night is also a common image in ancient classical poetry.
– Modern element: The cozy, vibrant living scene of the workers in the mountain village along with the poet's boundless love for people and life. Four poems and poetic images move in a positive, upward direction: from darkness to light, from decay to life, from sadness to joy, from cold, lonely to warm.
2. The harmonious combination of those two elements in the poem
- The late afternoon painting in the remote mountains and forests is imbued with the Duong Thi style and is even more imbued with the sadness of a prisoner far from home who is missing his country, compatriots, and comrades. See more: Please explain and comment on the following opinion of Thach Lam: "For me, literature is not a way to bring readers escape or forgetfulness; ..., it also makes people's hearts happy. become more pure and richer" – The image of the girl grinding corn is in perfect harmony with the blazing fire in the brazier because it is that fire that brightly lights up the worker's face. The red fire of Eastern poetry has become the fire of human love and love of life in modern poetry.
– The late afternoon scene in the mountains and forests and the daily life scene in the mountain village are also in harmony in the dialectical development of poetic images to create a unified artistic whole of the work. That is the beauty of the quatrain, of Ho Chi Minh's poetic style.
Vanmau.edu.vn
|
Subsets and Splits
No community queries yet
The top public SQL queries from the community will appear here once available.