vi
stringlengths 846
10.5k
| en
stringlengths 799
10.5k
|
---|---|
Phát biểu suy nghĩ của em về niềm vui, nổi buồn tuổi thơ hoặc tình cảm với một món đồ chơi
Hướng dẫn
Bây giờ, trời đang xuân, tôi khép lại những trang sácíi văn đã để lại trong lòng nhiều suy nghĩ và cảm xúc sâu sắc. Trong đó tôi thích nhất những trang viết bài “Cổng trường mở ra” của Lý Lan gợi nhớ niềm vui của những ngày đầu tiên đi học, và bài “Cuộc chia tay của những con búp bê” cũng đong lai nỗi buồn thời thơ ấu.
Ngày xưa, tôi cũng như mọi người khác, cũng có một ngày đầu tiên đi học. Và những kỉ niệm của ngày ấy vẫn luôn theo tôi cho đến tận bây giờ. Lần đầu đọc bài “Cổng trường mở ra”, bao nhiêu kỉ niệm trong lòng bỗng sống dậy. Nhớ quá! Hồi tôi vào lớp một, tôi cũng đi trên “con đường làng dài và hẹp”… một mình bước đến trường, không ai dắt tay cả, khác hẳn với đám bạn bè bên cạnh, đơn giản vì ba mẹ tôi không ở đây, không thể đưa tôi đến trường được, dơn giản vậy thôi… Ây thế mà lại gây cho tôi một nỗi buồn tủi thân khi nhìn thấy những đứa trẻ khác được mẹ âu yếm dắt tay đến trường, còn tôi chỉ một mình lủi thủi đơn độc, bị nhấn chìm trong đại dương hạnh phúc của người khác. Tuy nhiên, đọc bài văn của Lí Lan, tôi bỗng hiểu thêm ngày khai trường là ngày lễ của toàn xã hội. Người lớn đưa trẻ con đến trường, đường phố dược dọn sạch sẽ và trang trí tươi vui vì ai cũng biết rằng sai lầm trong giáo dục sẽ ảnh hưởng đến cả một thế hệ mai sau, và sai lầm một li có thể đưa thế hệ ấy đi chệch cả hàng dặm sau này.
Xem thêm: Phân tích Nội dung và nghệ thuật châm biếm, đả kích trong truyện ngắn Vi hành của Nguyễn Ái QuốcKhép lại những kỉ niệm của ngày đầu tiên đi học, mở ra những cảm xúc mới về trang sách viết bài “Cuộc chia tay của những con búp bê”. Thật tội nghiệp cho tuổi thơ của hai anh em rất thương nhau mà phải chia lìa vì cha mẹ li dị. Người mẹ đã bắt hai anh em phải chia đồ chơi trước lúc chia tay. Nhưng không gì có thể chia cắt được tình cảm trong sáng, hồn nhiên, vô tư của trẻ thơ vì cuối cùng con búp bê Em Nhỏ và con Vệ Sĩ cũng đứng bên cạnh nhau. Tuy nhiên cuộc chia tay đau đớn và đầy cảm động của hai em bé trong truyện khiến người đọc thấm thìa rằng “Tổ ấm gia đình là vô cùng quan trọng và quí giá. Mọi người hãy cố gắng trân trọng và giữ gìn. Không nên vì bất cứ lý do gì mà làm tổn hại đến tình cảm thiêng liêng ấy.”
Nói đến những con búp bê*, tôi lại nhớ đến những dồ chơi thuở nhỏ. Có em bé nào mà lại không ham thích đồ chơi. Con trai thì thích những hòn bi, trái banh,… còn con gái thì thích những con búp bê xinh đẹp,… Đến Tết Trung thu thì những đèn lồng hình con bướm, con rồng,.. lung linh, nhảy múa theo những bước chân trẻ em. Mong rằng xã hội sẽ quan tâm đến thiếu nhi nhiều hơn bằng những đồ chơi mang tính giáo dục chứ không phải là những đồ chơi súng đạn, dao kiếm, làm cho trẻ em nhiễm tính hung bạo, tàn ác.
Ai mà chẳng có những ngày thơ ấu nhỉ! Những ngày ấy, dù hạnh phúc, dù đau khổ, dù dắng cay nhưng đó cũng chính là những kỉ niệm không bao giờ quên được. Sau này nhìn lại, nhớ lại sẽ cảm thấy “sao ngày ấy hồn nhiên quá”, hồn nhiên ở cái tuổi chưa hiểu đời và đó cũng là những niềm vui nho nhỏ an ủi ta trong cuộc sống hiện giờ. Có những dòng thơ, dòng văn đọc lên cảm thấy đáng yêu làm sao, cũng vui vui, cũng thích thú. Nhưng cũng có những trang viết nhoè nét mực vì những dòng nước mắt. Tuy nhiên tất cả đều mong muốn cho tuổi thơ vơi đi nỗi buồn mà đong dầy niềm vui, niềm hạnh phúc.
Nguồn: thêm: Viết một bài văn ngắn nêu cảm nhận của em về bài ca dao sau: Anh em nào phải người xa/ Cùng chung bác mẹ, một nhà cùng thân/ Yêu nhau như thể tay chân/ Rách lành đùm bọc dở hay đỡ đần
|
Express your thoughts about the joys and sorrows of childhood or feelings about a toy
Instruct
Now, it is spring, I close the pages of literature that have left many deep thoughts and feelings in my heart. Among them, I like Ly Lan's article "The school gate opens" the most, which reminds me of the joy of the first days of school, and the article "The Dolls' Farewell" also brings back the sadness of childhood. .
Once upon a time, I, like everyone else, had my first day of school. And the memories of that day still follow me until now. The first time I read the article "The school gate opens", many memories suddenly revived in my heart. Miss you so much! When I was in first grade, I also walked on the "long and narrow village road"... walking to school alone, no one holding my hand, different from the group of friends next to me, simply because my parents were not here. can't take me to school, it's as simple as that... But it makes me feel sad and miserable when I see other children being lovingly led to school by their mothers, while I am alone and alone. , drowned in the ocean of other people's happiness. However, reading Ly Lan's essay, I suddenly understood that the first day of school is a holiday for the entire society. Adults take their children to school, the streets are cleaned and decorated cheerfully because everyone knows that mistakes in education will affect an entire future generation, and a single mistake can lead to the death of another generation. He went miles off course later.
See more: Analysis of the content and art of satire and criticism in the short story Vi behavior by Nguyen Ai Quoc. Closing the memories of the first day of school, opening up new emotions on the page of the book "Farewell" of dolls". What a pity for the childhood of two brothers who loved each other so much but had to be separated because their parents divorced. The mother forced the two brothers to share their toys before parting. But nothing can separate the pure, innocent, and carefree feelings of a child because in the end the Little Em doll and the Bodyguard stand side by side. However, the painful and emotional farewell of the two children in the story makes the reader understand that "The family home is extremely important and precious. Everyone should try to respect and preserve it. We should not, for any reason, damage that sacred feeling.”
Talking about dolls*, I remember my childhood toys. What baby doesn't love toys? Boys like marbles, balls, etc. and girls like beautiful dolls, etc. During the Mid-Autumn Festival, lanterns shaped like butterflies, dragons, etc. shimmer and dance with each step. children's feet. I hope that society will pay more attention to children with educational toys, not toys with guns, knives and swords, which make children become violent and cruel.
Who doesn't have childhood days? Those days, no matter how happy, no matter how painful, no matter how bitter, they are memories that can never be forgotten. Looking back later, you will feel "how innocent you were back then", innocent at an age where you don't understand life and those are also the little joys that comfort us in life now. There are lines of poetry and prose that feel lovely, fun, and enjoyable when read. But there are also pages where the ink is blurred because of tears. However, everyone wants their childhood to be less sad and filled with joy and happiness.
Source: more: Write a short essay expressing your feelings about the following folk song: Brothers are not far away/ Sharing the same parents, the same family/ Loving each other is like limbs/ Good and bad, good care for each other help
|
Đề bài: Phát biểu suy nghĩ của em về rừng
Bài làm
Cuối năm lớp 6 gia đình em chuyển nhà từ Đà Lạt ra Hà Nội sinh sống. Thời gian trôi đi thật nhanh mới hôm nào mà đã được hơn một năm rồi. Em phải rời xa quê hương Đà Lạt thân thương của mình, nơi gắn bó bao kỷ niệm của tuổi ấu thơ. Nơi có những hàng thông reo vi vu, che chở bao bọc cho em những buổi chiều đi học về. Em nhớ rừng thông biết bao nhiêu.
Sống tại thủ đô nơi sầm uất, đông người với những tòa nhà cao hút tầm mắt nhưng tâm hồn em luôn cảm thấy nhớ thương Đà Lạt, luôn muốn được một lần về với những đồi thông xanh bao la ngút ngàn.
Rừng thông quê em mọc ngút tầm mắt, đi đâu người ta cũng nhìn thấy những đồi thông xanh uốn lượn, nhấp nhô tạo thành những hình vòng cung thoai thoải, đẹp say đắm lòng người.
Chẳng thế mà Đà Lạt quê em được mệnh danh là thành phố đồi thông hay thành phố ngàn hoa.
Ở Đà Lạt không chỉ có thông mà còn rất nhiều loại hoa, đủ màu sắc thi nhau khoe mình trong nắng sớm. Những bông rung rinh đưa mình theo từng ngọn gió vi vu, tạo nên một thảm hoa rực rỡ sắc màu.
Trong rừng thông hoa nở còn có những chú chim thi nhau khoe giọng hót líu lo, chúng đang ca những bài ca mừng xuân phơi phới. Những con chim non vui vẻ gọi bầy.Xem thêm: Phân tích nhân vật Việt và Chiến trong truyện Những đứa con trong gia đình
Trong rừng thông những ánh nắng “bẽn lẽn” xuyên mình qua khe lá rồi những ánh sáng lung linh của mình xuống đất phơi khô những tầng lá mục lâu ngày. Những làn hơi nước bốc lên cao tạo thành những làn sương mờ mong manh, che mặt người mờ ảo khi hư khi thực. Tựa như hơi thở của những cánh rừng.
Hồi còn sống ở Đà Lạt cha em thường đi rừng để tìm kiếm những loại lan quý, hay những loại cây thảo mộc về làm thuốc. Cha kể trong chiến tranh chống Mỹ nhiều người đã vượt rừng Trường Sơn để đi cứu nước.
Rừng là nơi che nắng, che mưa, là nơi ngăn bước quân thù. Nhiều cánh rừng Trường Sơn của chúng ta bị giặc rải bom ác liệt, các chiến sĩ của chúng ta nhiều người đã hy sinh để bảo vệ được mảnh đất quê hương.
Em nhớ hồi còn nhỏ có là theo ba vào rừng kiếm thuốc.Em nhìn thấy rất nhiều động vật quý hiếm như những chú sóc nâu, thỏ trắng, hay những con nai vàng ngơ ngác. Tất cả bọn chúng thật đáng yêu thoáng ẩn thoáng hiện khi thấy con người xuất hiện chúng đều chạy đi vào nơi trú ẩn. Rừng chính là nhà là tổ ấm của những động vật quý hiếm đáng yêu này.
Rừng thông của Đà Lạt là những kỷ niệm gắn bó với tuổi thơ của em. Nó trở thành người bạn thân thiết đã cùng em chia sẻ nhiều buồn vui, giờ xa quê hương nhưng trong lòng em vẫn luôn muốn quay trở lại nơi đây dù chỉ một lần.Xem thêm: Giải thích câu tục ngữ Nhiễu điều phủ lấy giá gương – Người trong một nước phải thương nhau cùng
Nguồn: Tài liệu văn mẫu
|
Topic: Express your thoughts about the forest
Assignment
At the end of 6th grade, my family moved from Da Lat to Hanoi. Time passes so quickly, it's already been more than a year. I have to leave my beloved hometown Da Lat, where many childhood memories are attached. Where rows of pine trees ring, protecting me on the afternoons coming home from school. I miss the pine forest so much.
Living in the capital, a bustling, crowded place with tall buildings as far as the eye can see, my soul always feels nostalgic for Da Lat, always wanting to return once to the vast green pine hills.
The pine forest in my hometown grows as far as the eye can see. Wherever we go, people can see the rolling, undulating green pine hills forming gentle, captivatingly beautiful arcs.
That's why my hometown Da Lat is known as the city of pine hills or the city of thousands of flowers.
In Da Lat, there are not only pine trees but also many types of flowers of all colors competing to show off in the early morning sunlight. The flowers flutter with each wind, creating a colorful flower carpet.
In the blooming pine forest, there are also birds competing to show off their chirping voices, singing songs to celebrate spring. The young birds happily called to the flock. See more: Analysis of the characters Viet and Chien in the story Children in the Family
In the pine forest, the sunlight "shyly" penetrates through the leaves and then its shimmering rays fall to the ground to dry the layers of long-rotted leaves. Waves of steam rose high into the air, forming fragile mists, covering people's faces, sometimes appearing virtual and sometimes real. Like the breath of the forests.
When I was still living in Da Lat, my father often went to the forest to look for precious orchids or medicinal herbs. Father said that during the war against America, many people crossed the Truong Son forest to save the country.
The forest is a shelter from the sun and rain, a place to block the enemy. Many of our Truong Son forests were heavily bombed by the enemy. Many of our soldiers sacrificed their lives to protect their homeland.
I remember when I was young, I followed my father into the forest to find medicine. I saw many rare animals such as brown squirrels, white rabbits, or bewildered golden deer. All of them are so adorable that they suddenly disappear and disappear when they see humans appear, they all run away to the shelter. The forest is the home and nest of these lovely rare animals.
Da Lat's pine forests are memories that stick with my childhood. It has become a close friend with whom I have shared many joys and sorrows. Now far from home, I still want to return here even just once. See more: Explanation of the proverb Noise covers the price mirror – People in a country must love each other
Source: Sample document
|
Phát biểu suy nghĩ của mình về câu nói Đường đi khó không khó vì ngăn sông cách núi mà khó vì lòng người ngại núi e sông
Hướng dẫn
– Mỗi đời người là một cuộc hành trình không ngưng nghỉ. Cuộc hành trình ấy không phải bao giờ cũng thuận buồm xuôi gió, mà nhiều khi phải đối mặt với không ít
trở ngại, thách thức. Thách thức ấy đến từ đâu? Làm sao vượt qua được chúng để cập bến thành công? Câu nói nổi tiếng của Nguyễn Bá Học – một nhà giáo, nhà văn của những thập niên đầu thế kỉ XX – sẽ giúp ta tìm câu trả lời: "Đường đi khó không khó vì ngăn sông cách núi mà khó vì lòng người ngại núi e sông".
– Là một nhà văn, Nguyễn Bá Học đã chọn lối nói hình ảnh để diễn đạt quan điểm của mình. Hình ảnh "đường đi" mà ông dùng trong câu nói chắc chắn không phải là con đường với nghĩa là nơi con người đi lại bằng các phương tiện giao thông. Ở đây, tác giả muốn nói đến đường đời. Trong văn học cũng như trong ngôn ngữ đời sống, hai chữ "đường đời" không hề xa lạ. Người ta vẫn thường dùng hình ảnh "con đường" để chỉ sự vận hành của cuộc sống xã hội cũng như cuộc hành trình của một đời người.
– "Ngăn sông cách núi" là những khó khăn do bên ngoài đưa đến, như ta thường nói là khó khăn khách quan, ngoài ý muốn của con người. Khi đã dùng hình ảnh đường đi, thì "ngăn sông cách núi" là cách nói rất phù hợp. Sông núi do trời đất dựng nên đã vô tình cản trở bước chân con người trong những chuyến đi. "Lòng người ngại núi e sông" phải hiểu là những trở ngại trong chính bản thân người đi đường, nói cách khác, đó là những khó khăn chủ quan. Với cách diễn đạt như vậy, Nguyễn Bá Học muốn nói rằng: trên đường đời, chướng ngại đáng sợ nhất không phải là những khó khăn bên ngoài, do khách quan đưa đến, mà là khó khăn bên trong, do lòng người dựng lên.
– Khi phát biểu quan điểm của mình, Nguyễn Bá Học hoàn toàn ý thức được rằng "ngăn sông cách núi" là điều có thật, không thể phủ nhận. Trên mỗi bước đường đời, luôn tiềm ẩn những hiểm hoạ, thách thức. Nhiều lúc, những khó khăn đến từ mọi nẻo, bất ngờ, không lường trước được. Tuy nhiên, vấn đề mà ông muốn đề cập ở đây là thái độ, tinh thần của con người khi đối mặt với khó khăn. "Lửa thử vàng, gian nan thử sức", cha ông ta đã đúc kết như thế. Trên đường đi, cũng núi ấy, sông ấy, có người hăng hái băng vượt, có người nản chí, thoái lui. Một khi con người thiếu nghị lực, không có chí tiến thủ thì chướng ngại dẫu nhỏ cũng thành lớn, họ dễ quay gót đầu hàng. Ngược lại, với người giàu ý chí, đầy quyết tâm thì trở ngại dẫu lớn cũng thành nhỏ, có thể vượt qua.
– Cũng cần thấy rằng: khi nhấn mạnh tinh thần, khả năng vượt khó, Nguyễn Bá Học không cổ động cho thái độ duy ý chí. Câu nói của nhà văn gọi cho ta suy nghĩ: biết được những thách thức, khó khăn trên đường đời là hết sức cần thiết. Phải luôn tỉnh táo để nhận ra những cản trở đến từ khách quan, từ đó tìm cách giải quyết. Thực tế, không ít người thất bại cay đắng vì đã không tính hết những trở lực đối với công việc của mình. Song mặt khác, không vì thấy khó khăn mà trở nên bối rối, e ngại. Không dám đối đầu vượt qua thách thức là biểu hiện của tinh thần bạc nhược, của tâm lí thất bại chủ nghĩa. Nó sẽ triệt tiêu lòng hăng hái, lửa nhiệt tình, chí tiến thủ và nhất là làm mất đi sự năng động, sáng tạo.
Xem thêm: Viết đoạn văn bàn về chất thơ trong truyện “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam– Chủ ý của Nguyễn Bá Học ở câu nói này là kích thích tinh thần vượt khó của mọi người, nhất là lứa tuổi thanh niên. Nhưng câu nói không sa vào triết lí, rao giảng khô khan, mà như được đúc kết từ những tấm gương thành công nhờ vượt khó. Quả thật, từ xưa đến nay, từ đông sang tây, có biết bao nhiêu con người với nghị lực phi thường đã vượt lên hoàn cảnh và họ đã được đền bù xứng đáng bằng vị ngọt của thành công. Ta không thể quên thầy giáo Nguyễn Ngọc Ký vốn là người bại liệt hai tay, nhưng bằng sự tập rèn không mệt mỏi, đôi chân đã làm được mọi việc, không khác gì đôi bàn tay của người khéo léo. Ở vào hoàn cảnh như Nguyễn Ngọc Ký, người ta nghĩ rằng để sống được đã là khó, mấy ai dám mơ tới một vị trí, một sự nghiệp mà con người tàn tật ấy đã đạt được bằng sự kiên trì vượt khó kì diệu của mình.
– Nhìn những thành quả di truyền học hiện nay, xin đừng quên vị tu sĩ Men-đen đã phải trả giá bằng bao nhiêu lần thí nghiệm thất bại. Nếu vị thầy tu này nản chí, không biết những thành quả của ngành sinh học kia bao giờ mới được tìm ra. Lịch sử khoa học còn ghi lại rõ ràng tấm gương những nhà toán học dám lao vào giải những bài toán khiến nhân loại bao đời bó tay. Khó khăn mà họ đối mặt đúng là chất chồng như núi, vì có những điều tưởng nằm ngoài khả năng trí tuệ con người. Nhưng, bằng sự kiên trì, chịu khói bằng nghị lực vô biên, họ đã chứng minh rằng không có gì ngăn, nổi con người trên con đường khám phá, sáng tạo. Những chân trời khoa học được mở ra bởi bộ óc vĩ đại của những con người không bao giờ "ngại núi e sông". Chính nhà khoa học ấy hiểu hơn ai hết rằng: trong mỗi thành công, tài năng chỉ chiếm 10%, còn 90% là mồ hôi, nước mắt. Những giọt mồ hôi âm thầm đổ trên từng trang sách, trong phòng thí nghiệm và những thành quả mà các nhà khoa học gặt hái được là bằng chứng hùng hồn chứng minh: mọi thành công trên đường đời đều được quyết định bởi một phần quan trọng: tinh thần, ý chí, nghị lực của con người.
– Câu nói của nhà văn Nguyễn Bá Học được cất lên cách đây đã gần một thế kỉ. Cuộc sống đã có bao đổi thay, nhưng ý nghĩa thiết thực của câu nói này thì vẫn không hề phai nhạt. Trong một bức thư gửi cho thanh niên, Bác Hồ cũng dạy: Không có việc gì khó / Chỉ sợ lòng không bền / Đào núi và lấp biển / Quyết chí ắt làm nên.
Lời dạy của Hồ Chủ tịch cũng chính là thông điệp mà Nguyễn Bá Học gửi đến cho các thế hệ.
Hằng ngày, ta phải đối mặt với bao nhiêu khó khăn đến từ mọi phía. Và ngay trong lòng ta cũng không phải đã không từng dựng lên những trở ngại đối với chính bản thân mình. Những lúc ấy, lời nhắc nhở của Nguyễn Bá Học sẽ như tiếp thêm nghị lực cho ta để ta vững bước trên con đường mà mình đã chọn.
Nguồn: thêm: Bình luận về chất lãng mạn trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
|
Express your thoughts on the saying The road is difficult not because it separates the river from the mountains, but because people are afraid of the mountains and afraid of the river
Instruct
– Every human life is a non-stop journey. The journey is not always smooth sailing, but often faces many challenges
obstacles, challenges. Where does that challenge come from? How to overcome them to successfully dock? The famous saying of Nguyen Ba Hoc - a teacher and writer of the early decades of the twentieth century - will help us find the answer: "The road is difficult not because it separates the river from the mountains, but because people are afraid of the mountains. e river".
– As a writer, Nguyen Ba Hoc chose visual language to express his point of view. The image of "road" that he used in the statement is definitely not a road in the sense of a place where people travel by means of transport. Here, the author wants to talk about life's path. In literature as well as in the language of life, the two words "life path" are not unfamiliar. People often use the image "road" to refer to the operation of social life as well as the journey of a human life.
- "Blocking rivers and mountains" are difficulties brought about from outside, as we often say, objective difficulties, beyond people's will. When using the image of a road, "separating the river from the mountain" is a very appropriate expression. Rivers and mountains created by heaven and earth have unintentionally hindered people's footsteps during their trips. "People's hearts are afraid of mountains and rivers" must be understood as obstacles within the traveler himself, in other words, they are subjective difficulties. With such an expression, Nguyen Ba Hoc wants to say: on the path of life, the most terrifying obstacles are not external difficulties, caused by objective factors, but internal difficulties, created by people's hearts. .
– When expressing his opinion, Nguyen Ba Hoc is fully aware that "separating rivers from mountains" is a real thing that cannot be denied. At every step of life, there are always potential dangers and challenges. Many times, difficulties come from all directions, unexpected and unpredictable. However, the issue he wants to mention here is people's attitude and spirit when facing difficulties. "Fire tests gold, hardship tests strength", his father concluded. On the way, there were the same mountains and rivers, some people enthusiastically crossed them, others were discouraged and retreated. When people lack energy and have no will to progress, even small obstacles become big, and they easily turn around and surrender. On the contrary, with people who are strong-willed and determined, even big obstacles become small and can be overcome.
– It is also important to see that: when emphasizing the spirit and ability to overcome difficulties, Nguyen Ba Hoc does not promote a willful attitude. The writer's words call us to think: knowing the challenges and difficulties on life's path is extremely necessary. You must always be alert to recognize obstacles that come from objective sources, and then find solutions. In fact, many people fail bitterly because they did not take into account all the obstacles to their work. But on the other hand, do not become confused or afraid because you find it difficult. Not daring to confront and overcome challenges is a sign of mental weakness and a defeatist mentality. It will destroy enthusiasm, enthusiasm, ambition and especially lose dynamism and creativity.
See more: Write a paragraph discussing the poetry in the story "Two Children" by Thach Lam - Nguyen Ba Hoc's intention in this statement is to stimulate the spirit of overcoming difficulties in everyone, especially young people. But the saying does not fall into philosophy or dry preaching, but seems to be drawn from examples of success through overcoming difficulties. Indeed, from past to present, from east to west, there are countless people with extraordinary determination who have overcome their circumstances and have been rewarded with the sweetness of success. We cannot forget teacher Nguyen Ngoc Ky, who was paralyzed with both arms, but with tireless practice, his legs were able to do everything, no different from the hands of a skillful person. In a situation like Nguyen Ngoc Ky, people think that living is difficult, few dare to dream of a position, a career that that disabled person has achieved through his miraculous perseverance in overcoming difficulties. me.
– Looking at the current achievements of genetics, please do not forget that the monk Mendel had to pay the price with many failed experiments. If this monk is discouraged, he doesn't know when the achievements of that branch of biology will ever be discovered. The history of science also clearly records the examples of mathematicians who dared to rush into solving problems that made humanity helpless for generations. The difficulties they face are truly piled up like mountains, because there are things that are thought to be beyond the capacity of human intelligence. But, with perseverance, endurance and boundless energy, they have proven that nothing can stop people on the path of discovery and creativity. Scientific horizons are opened up by the great minds of people who are never "afraid of mountains or rivers". That scientist understands better than anyone else that: in every success, talent accounts for only 10%, while 90% is sweat and tears. The drops of sweat silently pouring on every page of a book, in the laboratory and the achievements that scientists reap are eloquent evidence that all success in life is determined by an important part. importance: human spirit, will, and energy.
– The words of writer Nguyen Ba Hoc were spoken nearly a century ago. Life has changed a lot, but the practical meaning of this saying has not faded away. In a letter sent to young people, Uncle Ho also taught: Nothing is difficult / Just fear that your heart will not be strong / Digging mountains and filling the sea / With determination, you can achieve it.
President Ho Chi Minh's teachings are also the message that Nguyen Ba Hoc sent to generations.
Every day, we have to face many difficulties coming from all sides. And even in our hearts, it's not like we haven't created obstacles for ourselves. At those times, Nguyen Ba Hoc's reminder will give us more strength to continue on the path we have chosen.
Source: more: Comment on the romantic quality in the poem Tay Tien by Quang Dung
|
Phát biểu ý kiến của em về Đôn-ki-hô-tê
Gợi ý
Nhân vật Đôn-ki-hô-tê trong tác phẩm của nhà văn Xec-van-tec gây nhiều ấn tượng và lí thú cho em. Một con người đáng thương nhưng cũng rất đáng chê, với những hành động nực cười của mình.
Bởi vì ham đọc những truyện kiếm hiệp mà Kihada, một nhà quý tộc bình thường, đã bán hết cả ruộng vườn, tài sản mình có thể mua truyện; nhưng tệ hơn nữa là chàng nghĩ tất cả những điều trong truyện của mình đều có thật, và nghĩ rằng "Đôn-ki-hô-tê, nhà quí tộc tài ba ở Man-tra", biến con ngựa gầy còm cùa mình thành con tuấn mã và bỏ biết bao thời gian để chuẩn bị cho chuyến chu du.
Đi với chàng còn có giám mã Xan-trô Pan-xa, một người thực tế. Em thật buồn cười trước cuộc đánh nhau của chàng với cối xay gió. Chàng đã tưởng tượng cối xay gió là một tên khổng lồ gian ác. Kết quả ra sao chắc các bạn đã rõ rồi. Đôn-ki-hô-tê chịu một thất bại ê chề đau khổ. Thế còn chưa đủ, chàng đã gặp hai thầy tu và một đoàn ngựa đưa phu nhân đi thăm chồng. Vậy mà chàng lại nghĩ hai tên quỷ dữ ấy bắt cóc một nàng công chúa. Và cuộc đánh nhau xậy ra, nhưng thật may mắn phần rủi ro không đến với chàng và chàng đã thắng.
Với những hành động điên rồ đó, không phải chàng là người đáng ghét, vì mục đích của chàng là cứu người yếu, diệt gian tà. Chàng đánh nhau đều có mục đích cứu người, nhưng không biết rằng hành động của mình đều sai cả. Để giữ mình đúng là nhà quí tộc, chàng đã nhịn ăn, rồi không kêu đau khi bị thương. Như vậy chàng cũng là một người đáng thương. Nhưng em chợt nghĩ ra rằng bất cứ người nào dù có mục đích tốt đẹp chăng nữa, nhưng với đầu óc điên rồ cùng chẳng làm nên được việc gì.Xem thêm: Viết đoạn văn miêu tả một loài hoa em yêu thích Nhân vật Đôn-ki-hô-tê có những điều đáng trách, nhưng cũng có nhiều chỗ đáng yêu. Gạt bỏ những tưởng tượng vớ vẩn của chàng, em nghĩ rằng Đôn-ki- hô-tê đáng cho chúng ta kính trọng, yêu mến. Chả thế mà qua mấy trăm năm rồi, Đôn-ki-hô-tê vẫn sống với bao thế hệ người đọc ở khắp nơi trên thế gian đó sao?
Vanmau.edu.vn
|
Express your opinion about Don Quixote
Suggest
The character Don Quixote in the work of writer Xec Van Tec makes a lot of impressions and interests on me. A pitiful but also very reprehensible person, with his ridiculous actions.
Because he loved reading swordplay stories, Kihada, an ordinary nobleman, sold all his fields and assets to buy stories; but what's worse is that he thinks all the things in his story are true, and thinks "Don-ki-hote, the talented nobleman of Man-tra", turns his skinny horse into a handsome horse and spent a lot of time preparing for the trip.
Accompanying him was the horseman Xantro Panza, a practical man. I was so amused by his fight with the windmill. He imagined the windmill as an evil giant. Surely you already know what the result will be. Don Quixote suffered a painful and humiliating defeat. That was not enough, he met two monks and a group of horses to take the lady to visit her husband. Yet he thought those two devils kidnapped a princess. And a fight broke out, but fortunately the misfortune did not come to him and he won.
With those crazy actions, it is not that he is a hateful person, because his purpose is to save the weak and destroy evil. He fought with the intention of saving people, but did not know that his actions were all wrong. To maintain himself as a noble, he fasted and did not complain of pain when injured. So he is also a pitiful person. But I suddenly thought that no matter how good any person has good intentions, with a crazy mind they can't accomplish anything. See more: Write a paragraph describing a flower you love Character Don -ki-hote has some reprehensible things, but also has many lovely things. Putting aside your nonsense fantasies, I think Don Quixote deserves our respect and love. Is it true that after hundreds of years, Don Quixote is still alive with generations of readers all over the world?
Vanmau.edu.vn
|
Phát biểu ý kiến về Đôn-ki-hô-tê
Gợi ý
DÀN Ý ĐẠI CƯƠNG
A. MỞ BÀI:
(Phát biểu cảm nghĩ chung)
+ Buổi sinh hoạt câu lạc bộ văn học có hai nhóm trái ngược nhau đánh giá về chàng kỵ sĩ Đôn-ki-hô-tê.
+ Đối với em thì Đôn-ki-hô-tê: vừa gàn dở vừa mê muội nhưng cũng đáng yêu.
B. THÂN BÀI:
(Phát biểu cảm xúc và suy nghĩ)
1. Đặc điểm nổi bật là Đôn-ki-hô-tê mê đọc sách kiếm hiệp.
+ Đánh giá – Đọc sách tốt, nhưng say sưa quá là có hại.
– Tai hại hơn là muốn biến thành hiệp sĩ.
– Mất trí khôn từ những trang sách vô bổ.
2. + Đánh nhau với cối xay gió. Ngỡ chúng là phù thủy.
+ Mê muội như vậy thật đáng chê.
3. + Đôn-ki-hô-tê chiến đấu có mục đích – bênh kẻ hèn yếu.
– Không ngại khó khăn – xả thân cứu người.
– Căm thù bọn súc sinh, "lũ" phù thủy…
+ Đánh giá: Suy nghĩ của chàng rất cao cả, có bản lĩnh, chỉ có điều đáng tiêc là nó ảo tưởng và không thực tế.
C. KẾT LUẬN
(Khẳng định lại cảm nghĩ)
+ Đôn-ki-hô-tê có điều đáng trách lẫn điều đáng khen.
+ Chúng ta hãy học tập nhiều điều tốt ở nhân vật này.
+ Nhân vật Đôn-ki-hô-tê rất đặc biệt gây nên ấn tượng lâu bền cho người đọc.
BÀI LÀM
Cuộc tranh luận kéo dài đã khá lâu mà vẫn chưa ngã ngũ. Ai cũng hăng hái phát biểu ý kiến của mình về Đôn-ki-hô-tê qua hai chương đã học. Các bạn tự phân thành hai nhóm ý kiến đối lập nhau: một nhóm bênh vực còn nhóm kia lại chê trách "chàng hiệp sĩ". Em lắng nghe ý kiến các bạn và cảm thấy thật thú vị. Đối với em Đôn-ki-hô-tê tuy mê muội, gàn dở nhung vẫn đáng yêu.Xem thêm: Người ta từng đặt cho Nguyễn Tuân danh hiệu người suốt đời đi tìm cái đẹp
Đặc điểm nổi bật ở Đôn-ki-hô-tê mà người đọc nào cũng nhận ra là sự say mê đọc sách của chàng mà chỉ toàn là truyện kiếm hiệp. Để có sách đọc, chàng không ngần ngại bán cả phần ruộng đất đang cày để mua sách. Đôn-ki-hô-tê đọc đến nỗi quên đi săn và công việc nhà, đọc từ "tối đến sáng, rồi lại từ sáng đến tối", đến nỗi đầu óc teo mất đi cả trí khôn. Ham đọc sách là một đức tính tốt nhưng quá say mê như Đôn-ki-hô-tê thì thật là tai hại. Chính vì vậy trong đầu chàng lúc nào cũng có hình bóng của những chàng hiệp sĩ, những trận chiến đấu hiển hách. Thế rồi tai hại hơn, chàng nảy ra ý nghĩ vô cùng kỳ quái là trở thành hiệp sĩ. Việc chàng bỏ cả tuần lễ để làm cái mũ, mất tám ngày để đặt tên cho mình chứng tỏ sự mê muội kì lạ của chàng vào tiểu thuyết. Chàng hoàn toàn mất cả trí khôn, trở thành con người lúc nào cũng sống trong mộng mị từ những trang sách vô bổ kia. Nhìn mấy cái cối xay gió, chàng lại nghĩ là bọn khổng lồ, liều chết xông vào chiến đấu. Trông mấy vị thầy tu, Đôn-ki-hô-tê cứ ngỡ là phù thủy, ra tay nghĩa hiệp để cứu nàng "công chúa". Chàng mê sách đến nỗi những vật bình thường nhất xung quanh mình cũng không nhận ra. Thái độ như thế rõ ràng thật đáng chê.Xem thêm: Phân tích bài ca dao “Công cha như núi ngất trời”
Thế nhưng, Đôn-ki-hô-tê chiến đấu chỉ vì mục đích "bênh vực kẻ hèn yếu, đạp bằng mọi gian khổ, nguy hiểm để tiếng thơm lưu truyền mãi mãi". Chàng rất yêu thương những kẻ gặp nạn, gặp nguy hiểm, liều xả thân mình để cứu họ. Cùng như bao hiệp sĩ khác. Chàng căm thù "lũ súc sinh, bọn phù thủy độc ác", và thẳng tay trừng trị, chàng làm tất cả để vừa lòng "người yêu", rạng rỡ tên mình và tên tố quốc. Suy nghĩ của chàng rất cao cả. Đề chứng tỏ mình là hiệp sĩ, chàng cắn răng chịu đau không một lời rên rỉ; chàng không thèm ăn sáng vì "các hiệp sĩ chỉ nghĩ đến người yêu cũng đã no rồi". Tất cả những việc trên chứng tỏ một bản lãnh cao độ ở con người chàng, nếu không có cái ảo tưởng, cái vô ích trong tiểu thuyết thì những đức tính đó sẽ đáng quý, thiết thực biết chừng nào.
Nói tóm lại, ở Đôn-ki-hô-tê có cả điều đáng trách lẫn đáng khen. Nếu ta bỏ đi cái đáng trách thì chàng là một tấm gương cho chúng ta học tập. Trong chàng có hai nửa người đối lập góp phần tạo nên một Đôn-ki-hô-tê đặc biệt sống mãi trong lòng người với bao ấn tượng và tình cảm khó quên.
Vanmau.edu.vn
|
Express your opinion about Don Quixote
Suggest
OUTLINE OF IDEAS
A. OPENING:
(Expressing general feelings)
+ At the literary club's meeting, two groups had opposite opinions about the knight Don Quixote.
+ For me, Don Quixote: both crazy and confused, but also adorable.
B. BODY OF THE ARTICLE:
(Express feelings and thoughts)
1. The outstanding feature is that Don Quixote loves reading swordplay books.
+ Review – Reading is good, but getting too drunk is harmful.
– More harmful than wanting to become a knight.
– Lose your mind from useless books.
2. + Fight with the windmill. Thought they were witches.
+ Such confusion is truly despicable.
3. + Don Quixote fights with a purpose - defending the weak.
– Not afraid of difficulties – giving up your life to save others.
– Hatred of animals, "witches"...
+ Evaluation: His thinking is very noble and brave, but unfortunately it is illusory and unrealistic.
C. CONCLUSION
(Reaffirming feelings)
+ Don Quixote has both blameworthy and praiseworthy things.
+ Let's learn many good things from this character.
+ The character Don Quixote is very special and makes a lasting impression on the reader.
ASSIGNMENT
The debate has been going on for quite a long time but has not yet been resolved. Everyone enthusiastically expressed their opinions about Don Quixote through the two chapters they had studied. You divide yourself into two groups of opposing opinions: one group defends and the other group criticizes the "knight". I listen to your opinions and find it interesting. For me, although Don Quixote is confused and crazy, he is still adorable. See more: People once gave Nguyen Tuan the title of a person who searches for beauty all his life.
The outstanding feature of Don Quixote that every reader recognizes is his passion for reading books, which are only swordplay stories. To have books to read, he did not hesitate to sell the land he was plowing to buy books. Don Quixote read so much that he forgot to hunt and do housework, reading from "evening to morning, then from morning to night", until his mind atrophied and he lost his wits. Reading books is a good quality, but being too passionate like Don Quixote is harmful. That's why in his mind there are always images of knights and glorious battles. Then, more disastrously, he came up with the extremely strange idea of becoming a knight. The fact that he spent a whole week making the hat and eight days to give himself a name proves his strange obsession with novels. He completely lost his intelligence, becoming a person who always lived in dreams from those useless books. Looking at the windmills, he thought they were giants, risking their lives to fight. Looking at the monks, Don Quixote thought they were witches, acting heroically to save the "princess". He loves books so much that he doesn't even recognize the most ordinary things around him. Such an attitude is clearly reprehensible. See more: Analysis of the folk song "Father's work is like a sky-high mountain"
However, Don Quixote fights only for the purpose of "defending the weak, overcoming all hardships and dangers so that his good name will last forever". He loved those in distress and danger very much, risking his life to save them. Just like any other knight. He hated "the animals and the evil witches" and punished them harshly. He did everything to please his "lover" and make his name and the name of the country shine. His thoughts are very noble. To prove that he was a knight, he gritted his teeth and endured the pain without a single groan; He did not bother to eat breakfast because "knights are already full just thinking about their lovers". All of the above proves a high level of bravery in him. If there were no illusions and futility in the novel, how precious and practical those qualities would be.
In short, there is both blameworthy and praiseworthy things in Don Quixote. If we remove the blame then he is an example for us to learn from. In him there are two opposing halves that contribute to creating a special Don Quixote that lives forever in people's hearts with many unforgettable impressions and emotions.
Vanmau.edu.vn
|
Phân tich vẻ đẹp của trăng trong 2 bài thơ Nguyên Tiêu và Cảnh Khuya
Hướng dẫn
‘Cảnh khuya’và ‘Nguyên tiêu’ là hai bài thơ kiệt tác của nhà thơ Hồ Chí Minh. Cả hai bài đều viết theo thể thất ngôn tứ tuyệt Đường luật, nhưng ngôn từ khác nhau. ‘Cảnh khuya’ viết bằng tiếng Việt; ‘Nguyên tiêu’ viết bằng chữ Hán.
Không gian nghệ thuật của hai bài thơ là thiên nhiên núi rừng Việt Bắc, nhưng thời điểm sáng tác, thời gian nghệ thuật lại khác nhau. ‘Cảnh khuya’ viết vào mùa thu 1947, khi giặc Pháp đang tấn công lên Việt Bắc. Còn ‘Nguyên tiêu’ được viết vào đầu xuân 1948, khi chiến dịch Việt Bắc đã chiến thắng vang dội.
Cả hai bài đều nói đến trăng; cảnh trăng trong mỗi bài thơ lại có những nét đẹp riêng, sắc thái biểu cảm riêng.
Cảnh trăng trong bài ‘Cảnh khuya’ là cảnh trăng thu. Có suối chảy rì rầm trong rừng khuya từ xa vọng đến nghe rất ‘trong’, ‘như tiếng hát xa’ êm đềm, ngọt ngào. Trăng sáng lung linh. Ánh trâng ‘lồng’ vào cổ thụ và hoa ngàn. Cảnh trăng thơ mộng, huyền diệu mang vẻ đẹp cổ điển, rất hữu tình thi vị:
‘Tiếng suối trong như tiếng hát xa,
Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa’
Trăng đã làm đẹp thêm cảnh sắc núi rừng chiến khu, đem đến bao xúc động, khiến nhà thơ khẽ thốt lên trong lòng: ‘Cảnh khuya như vẽ…’.
Xem thêm: Dàn ý bài thơ Phong Kiều dạ bạcCảnh trăng trong bài ‘Nguyên tiêu’ là cảnh trăng xuân, trăng trong đêm rằm tháng giêng, trăng vừa tròn (nguyệt chính viên). Vũ Bằng trong ‘Thương nhớ mười hai’ đã nói về trăng tháng giêng ở miền Bắc: ‘Trời sáng lung linh như ngọc’, ‘cái trăng tháng giêng, non như người con gái mơn mởn đào tơ ‘, ‘ánh trăng ấy không
vàng mà trắng như sữa, trong như nước ôn tuyền’.
Trăng trong bài thơ của Bác làm cho sông xuân, nước xuân, trời xuân trở nên bát ngát bao la, vừa đẹp vừa dạt dào sức sống. Ba chữ ‘xuân’ trong câu thơ thứ 2 làm cho cảnh trăng đất nước trở nên tráng lệ, tinh khôi:
‘Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên,
Xuân giang, xuân thủy, tiếp xuân thiên’.
Câu thơ thứ 4, vầng trăng rằm tháng giêng lại được nói đến. Con thuyền của lãnh tụ để ‘bàn bạc việc quân’ giữa nơi khói sóng đã trở thành con thuyền của thi nhân lúc trở về bến lúc nửa đêm. Con thuyền đã chở đầy ánh trăng:
‘Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền’
Trăng trong hai bài thơ của Bác là trăng sáng, trăng tròn. Cảnh trăng nào cũng hữu tình thơ mộng. Tuy có sắc thái biểu cảm khác nhau, nhưng tất cả đều nói lên tình yêu trăng, tình yêu thiên nhiên chan hòa với tình yêu quê hương đất nước. Cảnh trăng là một nét đẹp trong hồn thơ Hồ Chí minh: ung dung, lạc quan, yêu đời.
Nguồn: thêm: Tìm gia sư Văn lớp 12 tại Hà Nội
|
Analyze the beauty of the moon in the two poems Nguyen Tieu and Canh Late
Instruct
'Night Scene' and 'Nguyen Tieu' are two masterpiece poems by poet Ho Chi Minh. Both articles are written in the seven-word, four-literate Tang luat style, but the language is different. ‘Late Night Scene’ written in Vietnamese; ‘Nguyen Tieu’ is written in Chinese characters.
The artistic space of the two poems is the natural mountains and forests of Viet Bac, but the time of composition and artistic time are different. 'Night Scene' was written in the fall of 1947, when the French enemy was attacking Viet Bac. As for 'Nguyen Tieu', it was written in the early spring of 1948, when the Viet Bac campaign was a resounding victory.
Both songs refer to the moon; The moonscape in each poem has its own beauty and expressive nuances.
The moon scene in the song 'Night Night Scene' is the autumn moon scene. There is a murmuring stream in the forest at night, coming from afar and sounding very 'clear', 'like distant singing', soft and sweet. The moon shines brightly. The sunlight 'cages' into ancient trees and thousands of flowers. The poetic and magical moonscape has a classic beauty and is very poetic and charming:
'The sound of the stream is as clear as a distant song,
Moon, ancient tree cage, shadow of flower cage'
The moon beautified the landscape of the mountains and forests of the war zone, bringing many emotions, making the poet softly exclaim in his heart: 'The late night scene is like a painting...'.
See more: Outline of the poem Phong Kieu Da BacThe moon scene in the poem 'Nguyen Tieu' is the scene of the spring moon, the moon on the full moon night of the first month, the moon just full (the main moon). Vu Bang in 'Longing for Twelve' talked about the January moon in the North: 'The sky is sparkling like jade', 'the moon of January is as young as a young girl blooming with silk', 'that moonlight does not
yellow but white as milk, clear as warm water'.
The moon in Uncle Ho's poem makes the spring river, spring water, and spring sky become immense, both beautiful and full of vitality. The three words 'spring' in the second verse make the country's moonscape become magnificent and pristine:
'Kim night Nguyen Tieu Nguyet Chinh Vien,
Spring river, spring water, next spring heaven'.
In the fourth verse, the full moon of January is mentioned again. The leader's boat to 'discuss military matters' in the midst of the smoke and waves became the poet's boat when returning to the dock at midnight. The boat was filled with moonlight:
'Yes half-gui back to the lunar boat'
The moon in Uncle Ho's two poems is a bright moon, a full moon. Every moonscape is charming and poetic. Although they have different expressions, they all express love for the moon, love for nature mixed with love for the homeland. The moonscape is a beauty in the soul of Ho Chi Minh's poetry: leisurely, optimistic, loving life.
Source: more: Looking for Grade 12 Literature tutors in Hanoi
|
Đoạn trích Trao duyên trong Truyện Kiều có nội dung nói về cuộc trao duyên giữa hai chị em Thúy Kiều. Kiều đã phải bán mình chuộc cha nên trước lúc đi xa đã cầu xin Thúy Vân chấp nhận mối duyên thừa thay Kiều chăm sóc cho Kim Trọng.
12 câu đầu trong đoạn trích trao duyên thể hiện rõ tâm trạng của Kiều. Để giúp các em hiểu thêm về nội dung đoạn trích, Kho tàng văn mẫu sẽ hướng dẫn các em lập dàn ý phân tích 12 câu thơ đầu bài thơ Trao duyên và làm bài văn mẫu.
I. Lập dàn ý phân tích 12 câu thơ đầu bài thơ Trao duyên
1. Mở bài
– Giới thiệu về tác giả Nguyễn Du và Truyện Kiều.
– Giới thiệu về đoạn trích Trao duyên.
– Nêu nội dung của 12 câu đầu.
2. Thân bài phân tích 12 câu thơ đầu bài thơ Trao duyên
a. Hai câu đầu: Lời khẩn cầu của Kiều
– Ngôn ngữ vừa nhờ vả, vừa nài nỉ, vừa là sự ép buộc (cậy, chịu, có).
– Hành động: trang nghiêm, trịnh trọng, hạ mình (lạy, thưa).
=> Ngôn ngữ và hành động thể hiện nội dung vô cùng hệ trọng, không theo lẽ thường tình. Thể hiện sự hiểu biết của Kiều khi đặt em mình vào tình huống éo le.
b. 10 câu tiếp: Thúy Kiều thuyết phục Thúy Vân
– Nhắc lại mối tình đẹp để gợi tình cảm.
– Kiều giãi bày tình thế của mình để cho em được hiểu.
– Đặt em vào một tình thế chắp mối tơ thừa.
– Đối với Kiều việc Thúy Vân chấp nhận giống như một sự ban ơn.
=> Lời cầu xin đầy lí lẽ và giàu sức thuyết phục khiến cho Vân không thể chối từ.
3. Kết luận
– Nêu cảm nhận của em về nội dung và giá trị của đoạn thơ.
Bài viết liên quan:
>> Phân tích bài thơ Phú sông Bạch Đằng (Có dàn ý chi tiết)
Xem thêm: Quan niệm nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu được gửi gắm qua truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa?
>> Phân tích bài thơ Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn (Có dàn ý chi tiết)
>> Phân tích bài thơ Trao duyên trích Truyện Kiều của Nguyễn Du (Có dàn ý chi tiết)
II. Bài làm phân tích 12 câu thơ đầu bài thơ Trao duyên
Nhà thơ Nguyễn Du có tên chữ là Tố Như. Ông sinh ra ở một miền quê hiếu học Hà Tĩnh trong một gia đình phong kiến quý tộc nhưng cuộc đời ông lại phải trải qua khá nhiều biến động. Ông chứng kiến nhiều mảnh đời bất công trong xã hội nên dễ dàng đồng cảm với những phận đời bất hạnh. Sự đồng cảm ấy đi cả vào trong thơ ca của Nguyễn Du, nổi bật nhất là Truyện Kiều. Tài sắc vẹn toàn nhưng Kiều lại phải chịu quá nhiều bất hạnh. Nỗi bất hạnh đầu tiên ập đến trong cuộc đời của Kiều đó là phải bán mình chuộc cha, phải từ bỏ mối lương duyên chỉ vừa mới chớm nở cùng Kim Trọng. Đoạn trích Trao duyên mà cụ thể là 12 câu đầu trong đoạn trích đã thể hiện rõ nét tâm trạng của Kiều lúc này.
Hai câu thơ đầu tiên tái hiện lại khung cảnh của cuộc trao duyên. Chỉ với hai câu thơ nhưng cũng đủ để người đọc thấy được tình thế khó xử của cả hai chị em Thúy Vân và Thúy Kiều. Một đằng Thúy Kiều đau đớn vì phải trao lại mối duyên tình cho em, một đằng Thúy Vân dù tác giả không miêu tả tâm trạng của nàng lúc đó nhưng người đọc hiểu được khi bị rơi vào hoàn cảnh như vậy thì quả thật rất rối bời. Thúy Kiều đã mở lời như thế này:
Cậy em em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa
Phân tích 12 câu thơ đầu bài thơ Trao duyên
Thông qua ngôn ngữ mà Thúy Kiều sử dụng thì rõ ràng nàng đang muốn cậy nhờ em mình một việc gì đó rất hệ trọng. Đường đường là một người chị vậy mà lại phải lạy với thưa em của mình. Đây là điều không bình thường. Chính thái độ khẩn thiết và kính cẩn này của Kiều đã đẩy Vân vào một tình huống éo le đầy bất ngờ và khó lòng có thể trái ý chị của mình. 10 câu thơ tiếp theo, Thúy Kiều đã dùng những lời lẽ như rút ra từ trong gan ruột để van xin Thúy Vân đồng ý:Xem thêm: Bàn về Tiền Ngô Vương
Giữa đường đứt gánh tương tư
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em
Kể từ khi gặp chàng Kim
Khi ngày quạt ước khi đêm chén thề
Đối với Thúy Kiều, mối tình với Kim Trọng là mối tơ duyên nhưng Kiều và Trọng giờ đã đứt gánh tương tư mất rồi. Nàng phải bán mình chuộc cha nên không thể nào đi tiếp đoạn đường cùng với Kim Trọng được nữa. Nay muốn em nối tiếp duyên lành, thay mình giữ trọn lời thề ước với Kim Trọng nhưng Kiều hiểu rằng đối với Thúy Vân đó chỉ là mối tơ thừa mà thôi. Để giúp cho Thúy Vân hiểu rõ hơn về tình cảnh của mình lúc này Kiều đã giãi bày:
Sự đâu sóng gió bất kỳ
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai?
Lúc thề non hẹn biển, cả Kim Trọng và Thúy Kiều đều mong ước tới một tương lai hạnh phúc nhưng có ai ngờ đâu sóng gió lại ập đến quá nhanh như vậy. Kiều phải đứng giữa một bên là tình một bên là hiếu và với trách nhiệm của mình Kiều đã chọn làm tròn bổn phận của một người con. Điều này khiến Kiều cảm thấy vô cùng đau đơn nhưng chữ hiếu nàng vẫn phải làm tròn. Còn chữ duyên, nàng đành cậy nhờ nơi em gái, chỉ mong em xót tình máu mủ mà chấp nhận mối duyên này:
Ngày xuân em hãy còn dài
Xót tình máu mủ, thay lời nước non
Thúy Kiều hiểu hơn ai hết tuổi xuân của Thúy Vân còn đang ở phía trước, cơ hội để Vân có được hạnh phúc trọn vẹn của riêng mình là còn lớn. Nhưng xót tình máu mủ, Kiều mong Vân thay mình giữ trọn lời thề ước cùng Kim Trọng. Đối với Thúy Kiều, việc Thúy Vân chấp nhận mối duyên này là điều mà Kiều cảm thấy vô cùng hạnh phúc và nó giống như một sự ban ơn. Dù có chết đi thì Kiều vẫn có thể mỉm cười nơi chín suối:Xem thêm: Trả lời câu hỏi: “Tôi là ai?”
Chị dù thịt nát xương mòn
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây
Những lời lẽ của Kiều quá chặt chẽ khiến cho Thúy Vân không thể nào chối từ. Một người chị mà dù có phải chết cũng vui với lời chấp thuận của em thì người em nào có dám không nghe theo. Những câu thơ như thốt ra từ gan ruột của Thúy Kiều khiến người đọc cảm nhận tình yêu sâu sắc mà nàng dành cho Kim Trọng. Qua đây, ta cũng càng yêu mến Kiều hơn bởi vì nàng đã chấp nhận hy sinh và đánh đổi hạnh phúc cá nhân vì gia đình. Đó là một sự hy sinh lớn lao.
Trao duyên chỉ là bước mở đầu cho chuỗi ngày đau khổ sau này của Kiều. 12 câu đầu của đoạn trích đã thể hiện được tâm trạng đau đớn của Kiều và cũng cho thấy được tài năng nghệ thuật của Nguyễn Du.
Trên đây là phần lập dàn ý phân tích 12 câu thơ đầu bài thơ Trao duyên và bài văn mẫu do Kho tàng văn mẫu biên soạn. Hy vọng tài liệu này sẽ giúp ích cho các em trong việc học tập và làm bài văn phân tích.
Thu Thủy
|
The excerpt "Exchanging Love" in The Tale of Kieu is about the exchange of love between two sisters, Thuy Kieu. Kieu had to sell herself to ransom her father, so before leaving, she asked Thuy Van to accept the extra relationship to take care of Kim Trong on Kieu's behalf.
The first 12 sentences in the love exchange excerpt clearly express Kieu's mood. To help you understand more about the content of the excerpt, Sample Literature Treasury will guide you to create an outline to analyze the first 12 verses of the poem Giving Love and create a sample essay.
I. Create an outline to analyze the first 12 lines of the poem Giving Love
1. Open the lesson
– Introducing author Nguyen Du and The Tale of Kieu.
– Introduction to the excerpt Giving Love.
– State the content of the first 12 sentences.
2. The body of the essay analyzes the first 12 lines of the poem Giving Love
a. First two sentences: Kieu's request
– Language is both asking, pleading, and forcing (trust, endure, have).
– Action: solemn, solemn, condescending (bowing, bowing).
=> Language and actions express extremely important content, not according to common sense. Shows Kieu's understanding when putting her younger brother in a difficult situation.
b. Next 10 sentences: Thuy Kieu persuades Thuy Van
– Recall a beautiful love story to evoke feelings.
– Kieu explained her situation so that she could understand.
– Put me in a situation of making up redundant threads.
– For Kieu, Thuy Van's acceptance was like a favor.
=> The request was full of reason and conviction, making it impossible for Van to refuse.
3. Conclusion
– State your feelings about the content and value of the poem.
Related articles:
>> Analysis of the poem Phu Bach Dang River (With detailed outline)
See more: Nguyen Minh Chau's artistic concept is conveyed through the short story The boat in the distance?
>> Analysis of the poem Chinh Phu Ngam by Dang Tran Con (With detailed outline)
>> Analysis of the poem Giving Love, excerpt from The Tale of Kieu by Nguyen Du (With detailed outline)
II. This article analyzes the first 12 lines of the poem Giving Love
Poet Nguyen Du's full name is To Nhu. He was born in the studious countryside of Ha Tinh in a feudal and aristocratic family, but his life had to go through many changes. He witnessed many unjust lives in society so he easily sympathized with unfortunate lives. That sympathy goes into Nguyen Du's poetry, most notably The Tale of Kieu. Although she is talented and beautiful, Kieu has suffered too many misfortunes. The first misfortune that happened in Kieu's life was having to sell herself to redeem her father, and having to give up the budding relationship with Kim Trong. The excerpt "Giving Love", specifically the first 12 sentences in the excerpt, clearly shows Kieu's mood at this time.
The first two verses recreate the scene of the exchange of love. With only two verses, it is enough for readers to see the dilemma of both sisters Thuy Van and Thuy Kieu. On the one hand, Thuy Kieu was in pain because she had to give her love relationship back to her younger sister, on the other hand, Thuy Van, although the author did not describe her mood at that time, the reader understands that being in such a situation is really very confusing. because. Thuy Kieu opened her mouth like this:
Trust me, I agree
Sit up so I can bow and then speak
Analysis of the first 12 lines of the poem Giving Love
Through the language that Thuy Kieu used, it was clear that she wanted to ask her younger brother for something very important. Even though she is an older sister, she has to bow to her younger brother. This is not normal. It was Kieu's urgent and respectful attitude that pushed Van into an unexpected and difficult situation, making it difficult for her to disobey her sister. In the next 10 verses, Thuy Kieu used words drawn from her heart to beg Thuy Van to agree: See more: Discussing Tien Ngo Vuong
In the middle of the road, the burden of love is broken
Glue loan pieced together the excess thread and left me alone
Since meeting Kim
When day fanning and wishing, night swearing
For Thuy Kieu, the love affair with Kim Trong was a fateful one, but Kieu and Trong have now broken the burden of their love. She had to sell herself to redeem her father, so she could no longer continue the journey with Kim Trong. Now I want her to continue the good relationship and keep her vow with Kim Trong on her behalf, but Kieu understands that for Thuy Van it's just an extra thread. To help Thuy Van better understand her situation, Kieu confided:
Any turbulence
Is filial piety wise in both ways?
When they made their vows, both Kim Trong and Thuy Kieu wished for a happy future, but no one expected the storm to come so quickly. Kieu had to stand between love and filial piety. With her responsibility, Kieu chose to fulfill her duty as a child. This made Kieu feel extremely sad, but she still had to fulfill her filial piety. As for the word fate, she had to rely on her younger sister, only hoping that she would be merciful and accept this relationship:
My spring days are still long
Merciful love of immature blood instead of words
Thuy Kieu understands better than anyone else that Thuy Van's youth is still ahead, the opportunity for Van to have her own complete happiness is still great. But feeling sorry for her blood relationship, Kieu hopes Van will keep her vow with Kim Trong on her behalf. For Thuy Kieu, Thuy Van's acceptance of this relationship makes Kieu feel extremely happy and it is like a blessing. Even if she dies, Kieu can still smile at nine streams: See more: Answer the question: "Who am I?"
Even though her flesh is broken and her bones are worn out
Smiling until the stream is still fragrant
Kieu's words were so strict that Thuy Van could not refuse. An older sister who, even if she dies, is happy with her younger sister's approval, no younger sister would dare not listen to her. The verses seem to come from Thuy Kieu's gut, making readers feel the deep love she has for Kim Trong. Through this, we also love Kieu even more because she accepted to sacrifice and exchange her personal happiness for her family. It was a great sacrifice.
Giving love is just the beginning of Kieu's future series of painful days. The first 12 sentences of the excerpt express Kieu's painful mood and also show Nguyen Du's artistic talent.
Above is the outline and analysis of the first 12 verses of the poem Giving Love and a sample essay compiled by the Treasury of Sample Literature. Hopefully this document will help you in studying and writing analytical essays.
Thu Thuy
|
Phân tích 13 câu đầu trong bài Vội vàng của Xuân Diệu
Hướng dẫn
Xuân Diệu được đánh giá là nhà thơ mới nhất trong những nhà thơ mới. Những sáng tác của ông đem đến cho người đọc một sự yêu đời, niềm vui về cuộc sống và một niềm khao khát cuộc sống đến mãnh liệt. Vội vàng là một trong những tác phẩ thê hiện tư tưởng đáng quý đó của tác giả, trong đó 13 câu đầu đã để lại những ấn tượng khó quên cho người đọc.
Với niềm yêu cuộc sống đến trào dâng, nhà thơ đã có cảm xúc vội vàng trước cuộc sống ngắn ngủi. Khổ thơ năm chữ duy nhất trong bài thơ mà phần lớn là những câu thơ tám chữ. Thể loại thơ tám chữ gợi cho ta nghĩ đến cách nói vốn có của ca trù và cách sử dụng của Xuân Diệu cùng thể hiện một nét mới của thơ mới. Còn cách đặt những câu thơ ngắn trong trường hợp này làm nên giọng điệu gấp gáp giống như một hơi thở hối hả của một con người đang tràn đầy cảm xúc. Mặt khác, Xuân Diệu đã đặt ở đầu tiên những câu lẻ hai chữ “ tôi muốn ”, và chủ đề trữ tình lập tức xuất hiện. Nhà thơ thể hiện cái tôi công khai, ngang nhiên không lẩn tránh hay giấu giếm, cái tôi đầy thách thức, đi ngược lại với thơ ca trung đại, nơi rất ít dám thể hiện cái Tôi. Cách nhà thơ công nhiên khiêu khích thẩm mĩ thơ của thời đại trước, chính là để thể hiện cái tôi trong một khao khát lớn lao, cái tôi muốn đoạt quyền tạo hoá để làm những việc mà chỉ tạo hoá mới làm được như “ tắt nắng đi “ và “buộc gió lại “. Nhưng trong cách diễn đạt của nhà thơ thì “tắt nắng” và “buộc gió” không phải là ý muốn cuối cùng, vì những câu chẵn của khổ thơ đều bắt đầu bằng một chữ “cho”.
Cho màu đừng nhạt mất,
……
Cho hương đừng bay đi.
Vì yêu cuộc sống, trong ánh mắt của tác giả luôn thấy cái đẹp của cuộc sống nên nhà thơ muốn líu giữ tất cả cho riêng mình. Những câu thơ gợi cảm giác lo âu rằng cái đẹp sẽ giảm hương sắc đi, màu nắng sẽ bớt rực rỡ nếu nắng cứ toả, và làn hương kia sẽ bớt nồng nàn nếu gió cứ bay. Nhưng mong muốn càng trở nên thiết tha hơn khi nhà thơ dùng đến hai lần chữ “đừng” – chứa đựng một nguyện vọng thiết tha. Từng chữ một của bốn câu thơ đều nói lên nỗi ham sống đến vô biên, tột cùng đến trở nên cuồng si, tham lam, muốn giữ lại cho mình và cho đời vẻ đẹp, sự sống ở trong tạo vật.Xem thêm: Kể về một lần trót xem nhật ký của bạn
Tiếc nuối cuộc sống nên phải sống vội, sống gấp, tư tưởng ấy của nhà thơ còn thể hiện cả trong nhịp của câu thơ, thể hiện ở chỗ câu thơ đang năm chữ bỗng chuyển xuống 8 chữ. Một sự chuyển đổi rất đẹp của bài thơ, làm trải ra trước mắt người đọc một bức tranh xuân tuyệt diệu. Trong bốn dòng thơ ấy đầy ắp những tiếng “này đây” rải ra khắp các dòng thơ, vừa trùng điệp vừa biến hoá. Những câu thơ gợi hình dung về một con người đang mê man, đắm đuối, cuống quýt trước mùa xuân đang trải ra cuộc đời. Đó không chỉ là một bức tranh xuân, xuân sắc, xuân tình mà còn là cách để tác giả nói đến cái mê đắm về một mùa xuân của tuổi trẻ, của tình yêu. Vì vậy, không có một loài vật nào khác ngoài “ong bướm, yến anh”, bởi nó gợi ra vẻ lả lơi, tình tứ,và “bướm lả ong lơi “ gợi ý niệm về mùa xuân và tình yêu. Khúc nhạc của tình yêu, và hơn thế, “của tình si”, gợi nên sự mê đắm. Bên cạnh đó, chữ “của” trở đi trở lại cùng với “này đây” như một cặp không thể tách rời. Đó là cách để Xuân Diệu biểu hiện cảm xúc trước thiên nhiên luôn có sự kết đôi, mọi vật quấn quýt lấy nhau, là của nhau không thể tách rời. Tất cả đều mang vẻ đẹp của sự trẻ trung và sức sống. “ Hoa “ nở trên nền “ xanh rì “ của đồng nội bao la, “lá ” của “ cành tơ ” đầy sức trẻ và nhựa sống. Cảm giác non tơ, mơn mởn ấy lại được tôn lên trong sự hiệp vần “ tơ phơ phất ” ở sau. Và như thế, cuộc sống hiện ra trong hình ảnh của một vườn địa đàng, trong xúc cảm của một niềm vui trần thế. Giá trị nhân văn của những câu thơ và cả bài thơ chính là ở đó.
Nếu như bốn câu thơ trên có vẻ như đã cân xứng, hoàn chỉnh rồi, thì câu thơ thứ chín xuất hiện bằng ba chữ “ và này đây ”, như thể một người vẫn còn chưa thoả, chưa muốn dừng lại, trong cảm xúc đầy tiếc nuối muốn giăng bày cho hết niềm vui được sống. Nhưng đây không còn là những hình sắc cụ thể như “lá, hoa, ong bướm “ mà trừu tượng hơn là ánh sáng, niềm vui, thời gian – những vật thể không hữu hình. Đó cũng là cách để nhà thơ bộc lộ quan điểm thẩm mĩ mới mẻ và thú vị. Thiên nhiên đã thôi không còn là chuẩn mực của vẻ đẹp trong quan niệm của Xuân Diệu. Vẻ đẹp của thiên nhiên chỉ được coi là đẹp khi mang dáng dấp của vẻ đẹp con người. Ánh sáng đẹp vì gợi ra liên tưởng về “hàng mi” của một đôi mắt đẹp. Niềm vui đẹp vì gợi ra liên tưởng về một vị thần, đại diện cho con người. Và xúc cảm thẩm mĩ được nâng lên trong câu thơ về tháng giêng, gợi nên vẻ đẹp của sự táo bạo, cuồng nhiệt, làm người đọc thơ phải sửng sốt.Xem thêm: Anh (chị) nghĩ gì về Ngày vì nạn nhân chất độc da cam Việt Nam 10 - 8 hằng năm
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần.
Trong con mắt của kẻ si tình, mùa xuân hiện ra thật đẹp, thật gợi cảm. Vì thế, mùa xuân như sinh ra cho con người tận hưởng, cho hạnh phúc đến với con người, làm nên một khía cạnh khác nữa của tinh thần nhân văn của bài thơ. Ở đó, cái quí giá, đẹp đẽ nhất của con người lại là chính con người. Vì vậy, con người là thực thể cao nhất, chứ không phải là thiên nhiên, là tôn giáo hay một chuẩn mực đạo đức nào. Con người trong câu thơ này đã được tôn lên làm chuẩn mực thẩm mĩ, làm cho người đọc ngạc nhiên, sửng sốt. Tác giả đưa ra ý niệm về một tháng trẻ trung nhất của một mùa trẻ trung nhất trong năm: “ tháng giêng “. Nhưng sự bất ngờ lại đến từ chữ thứ ba – “ngon”, điều mà ít ai có thể ngờ. Và càng không ai có thể nghĩ rằng tác giả lại so sánh với “cặp môi gần”. Nhưng có được sự so sánh ấy thì thời gian trừu tượng mới trở nên gần gũi, do vậy mùa xuân hiện lên trong cảm xúc của một tâm hồn đang thèm khát tận hưởng. Vẻ đẹp của mùa xuân như đã bị hoàn toàn chiếm hữu.
Hình ảnh so sánh ấy như một người đang đợi chờ, sẵn sàng dâng hiến cho tình yêu. Và hẳn phải có một tình yêu thật nồng nàn với cuộc đời thì tác giả mới tạo ra được một hình ảnh lạ kì đến thế.Xem thêm: Cảm nghĩ về thiên nhiên và đời sống của con người trong thời khắc chuyển mùa sang xuân
“Tôi sung sướng”
Những tiếng tất yếu được thốt lên sau tất cả những gì viết ở trên. Nhưng sau ba chữ ấy lại là một dấu chấm ở giữa câu, khiến cho niềm sung sướng ấy như bị ngắt lại, chặn lại giữa chừng để trở thành một niềm vui dở dang, không trọn vẹn. Bởi sau dấu chấm là một chữ “ nhưng “ dự báo một cảm xúc hoàn toàn mới lạ. Cái ám ảnh của sự vội vàng xuất hiện ở nửa sau. Nhà thơ dường như không thể tận hưởng hết được mùa xuân vì cái cảm giác hoài xuân ngay khi mùa xuân chưa hết. Và cảm xúc của nhà thơ đã đi sang một phía ngược lại, xuất hiện một phản đề:
Nhưng vội vàng một nửa.
Ai đã được nghe hai câu đầu của sự phản đề cũng đều có ấn tượng sâu sắc.
Xuân đương đến nghĩa là xuân đương qua
Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già.
Sự mới mẻ, táo bạo, sự phát hiện lớn nhất của hai câu thơ lại được nằm ở hai chữ tưởng như rất bình thường “ nghĩa là “, khiến cho câu thơ mang dáng dấp của một đẳng thức nghệ thuật. Tác giả đã mạnh bạo đặt một dấu bằng ở hai vế tưởng như trái ngược nhau:“đang tới” đối với “đang qua”, “non” nghịch với “già”. Cách nói đầy ấn tượng như thế làm nên sự trôi mau vô cùng của thời gian. Điều ấy càng có ý nghĩa với một người mà sự sống đồng nghĩa với tuổi xuân, được thể hiện với đẳng thức thứ ba:
Và xuân hết nghĩa là tôi cũng mất.
Nhà thơ đã tái hiện lại khung cảnh hết sức lãng mạn, một thiên đường dưới mặt đất. Trong con mắt của nhà thơ cuộc sống thật tươi đẹp và đáng sống biết bao, nhưng cuộc sống thật ngắn ngủi nên phải sống vội vàng để tận hưởng hết niềm vui và hạnh phúc của cuộc sống. Đó là tư tưởng lạc quan yêu đời mà tác giả đã tạo ra cho thế hệ trẻ, họ cần phải sống cho đúng, không để phí hoài tuổi trẻ một cách vô ích.
Nguồn:
|
Phân tích 13 câu đầu trong bài Vội vàng của Xuân Diệu
Hướng dẫn
Xuân Diệu được đánh giá là nhà thơ mới nhất trong những nhà thơ mới. Những sáng tác của ông đem đến cho người đọc một sự yêu đời, niềm vui về cuộc sống và một niềm khao khát cuộc sống đến mãnh liệt. Vội vàng là một trong những tác phẩ thê hiện tư tưởng đáng quý đó của tác giả, trong đó 13 câu đầu đã để lại những ấn tượng khó quên cho người đọc.
Với niềm yêu cuộc sống đến trào dâng, nhà thơ đã có cảm xúc vội vàng trước cuộc sống ngắn ngủi. Khổ thơ năm chữ duy nhất trong bài thơ mà phần lớn là những câu thơ tám chữ. Thể loại thơ tám chữ gợi cho ta nghĩ đến cách nói vốn có của ca trù và cách sử dụng của Xuân Diệu cùng thể hiện một nét mới của thơ mới. Còn cách đặt những câu thơ ngắn trong trường hợp này làm nên giọng điệu gấp gáp giống như một hơi thở hối hả của một con người đang tràn đầy cảm xúc. Mặt khác, Xuân Diệu đã đặt ở đầu tiên những câu lẻ hai chữ “ tôi muốn ”, và chủ đề trữ tình lập tức xuất hiện. Nhà thơ thể hiện cái tôi công khai, ngang nhiên không lẩn tránh hay giấu giếm, cái tôi đầy thách thức, đi ngược lại với thơ ca trung đại, nơi rất ít dám thể hiện cái Tôi. Cách nhà thơ công nhiên khiêu khích thẩm mĩ thơ của thời đại trước, chính là để thể hiện cái tôi trong một khao khát lớn lao, cái tôi muốn đoạt quyền tạo hoá để làm những việc mà chỉ tạo hoá mới làm được như “ tắt nắng đi “ và “buộc gió lại “. Nhưng trong cách diễn đạt của nhà thơ thì “tắt nắng” và “buộc gió” không phải là ý muốn cuối cùng, vì những câu chẵn của khổ thơ đều bắt đầu bằng một chữ “cho”.
Cho màu đừng nhạt mất,
……
Cho hương đừng bay đi.
Vì yêu cuộc sống, trong ánh mắt của tác giả luôn thấy cái đẹp của cuộc sống nên nhà thơ muốn líu giữ tất cả cho riêng mình. Những câu thơ gợi cảm giác lo âu rằng cái đẹp sẽ giảm hương sắc đi, màu nắng sẽ bớt rực rỡ nếu nắng cứ toả, và làn hương kia sẽ bớt nồng nàn nếu gió cứ bay. Nhưng mong muốn càng trở nên thiết tha hơn khi nhà thơ dùng đến hai lần chữ “đừng” – chứa đựng một nguyện vọng thiết tha. Từng chữ một của bốn câu thơ đều nói lên nỗi ham sống đến vô biên, tột cùng đến trở nên cuồng si, tham lam, muốn giữ lại cho mình và cho đời vẻ đẹp, sự sống ở trong tạo vật.Xem thêm: Kể về một lần trót xem nhật ký của bạn
Tiếc nuối cuộc sống nên phải sống vội, sống gấp, tư tưởng ấy của nhà thơ còn thể hiện cả trong nhịp của câu thơ, thể hiện ở chỗ câu thơ đang năm chữ bỗng chuyển xuống 8 chữ. Một sự chuyển đổi rất đẹp của bài thơ, làm trải ra trước mắt người đọc một bức tranh xuân tuyệt diệu. Trong bốn dòng thơ ấy đầy ắp những tiếng “này đây” rải ra khắp các dòng thơ, vừa trùng điệp vừa biến hoá. Những câu thơ gợi hình dung về một con người đang mê man, đắm đuối, cuống quýt trước mùa xuân đang trải ra cuộc đời. Đó không chỉ là một bức tranh xuân, xuân sắc, xuân tình mà còn là cách để tác giả nói đến cái mê đắm về một mùa xuân của tuổi trẻ, của tình yêu. Vì vậy, không có một loài vật nào khác ngoài “ong bướm, yến anh”, bởi nó gợi ra vẻ lả lơi, tình tứ,và “bướm lả ong lơi “ gợi ý niệm về mùa xuân và tình yêu. Khúc nhạc của tình yêu, và hơn thế, “của tình si”, gợi nên sự mê đắm. Bên cạnh đó, chữ “của” trở đi trở lại cùng với “này đây” như một cặp không thể tách rời. Đó là cách để Xuân Diệu biểu hiện cảm xúc trước thiên nhiên luôn có sự kết đôi, mọi vật quấn quýt lấy nhau, là của nhau không thể tách rời. Tất cả đều mang vẻ đẹp của sự trẻ trung và sức sống. “ Hoa “ nở trên nền “ xanh rì “ của đồng nội bao la, “lá ” của “ cành tơ ” đầy sức trẻ và nhựa sống. Cảm giác non tơ, mơn mởn ấy lại được tôn lên trong sự hiệp vần “ tơ phơ phất ” ở sau. Và như thế, cuộc sống hiện ra trong hình ảnh của một vườn địa đàng, trong xúc cảm của một niềm vui trần thế. Giá trị nhân văn của những câu thơ và cả bài thơ chính là ở đó.
Nếu như bốn câu thơ trên có vẻ như đã cân xứng, hoàn chỉnh rồi, thì câu thơ thứ chín xuất hiện bằng ba chữ “ và này đây ”, như thể một người vẫn còn chưa thoả, chưa muốn dừng lại, trong cảm xúc đầy tiếc nuối muốn giăng bày cho hết niềm vui được sống. Nhưng đây không còn là những hình sắc cụ thể như “lá, hoa, ong bướm “ mà trừu tượng hơn là ánh sáng, niềm vui, thời gian – những vật thể không hữu hình. Đó cũng là cách để nhà thơ bộc lộ quan điểm thẩm mĩ mới mẻ và thú vị. Thiên nhiên đã thôi không còn là chuẩn mực của vẻ đẹp trong quan niệm của Xuân Diệu. Vẻ đẹp của thiên nhiên chỉ được coi là đẹp khi mang dáng dấp của vẻ đẹp con người. Ánh sáng đẹp vì gợi ra liên tưởng về “hàng mi” của một đôi mắt đẹp. Niềm vui đẹp vì gợi ra liên tưởng về một vị thần, đại diện cho con người. Và xúc cảm thẩm mĩ được nâng lên trong câu thơ về tháng giêng, gợi nên vẻ đẹp của sự táo bạo, cuồng nhiệt, làm người đọc thơ phải sửng sốt.Xem thêm: Anh (chị) nghĩ gì về Ngày vì nạn nhân chất độc da cam Việt Nam 10 - 8 hằng năm
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần.
Trong con mắt của kẻ si tình, mùa xuân hiện ra thật đẹp, thật gợi cảm. Vì thế, mùa xuân như sinh ra cho con người tận hưởng, cho hạnh phúc đến với con người, làm nên một khía cạnh khác nữa của tinh thần nhân văn của bài thơ. Ở đó, cái quí giá, đẹp đẽ nhất của con người lại là chính con người. Vì vậy, con người là thực thể cao nhất, chứ không phải là thiên nhiên, là tôn giáo hay một chuẩn mực đạo đức nào. Con người trong câu thơ này đã được tôn lên làm chuẩn mực thẩm mĩ, làm cho người đọc ngạc nhiên, sửng sốt. Tác giả đưa ra ý niệm về một tháng trẻ trung nhất của một mùa trẻ trung nhất trong năm: “ tháng giêng “. Nhưng sự bất ngờ lại đến từ chữ thứ ba – “ngon”, điều mà ít ai có thể ngờ. Và càng không ai có thể nghĩ rằng tác giả lại so sánh với “cặp môi gần”. Nhưng có được sự so sánh ấy thì thời gian trừu tượng mới trở nên gần gũi, do vậy mùa xuân hiện lên trong cảm xúc của một tâm hồn đang thèm khát tận hưởng. Vẻ đẹp của mùa xuân như đã bị hoàn toàn chiếm hữu.
Hình ảnh so sánh ấy như một người đang đợi chờ, sẵn sàng dâng hiến cho tình yêu. Và hẳn phải có một tình yêu thật nồng nàn với cuộc đời thì tác giả mới tạo ra được một hình ảnh lạ kì đến thế.Xem thêm: Cảm nghĩ về thiên nhiên và đời sống của con người trong thời khắc chuyển mùa sang xuân
“Tôi sung sướng”
Những tiếng tất yếu được thốt lên sau tất cả những gì viết ở trên. Nhưng sau ba chữ ấy lại là một dấu chấm ở giữa câu, khiến cho niềm sung sướng ấy như bị ngắt lại, chặn lại giữa chừng để trở thành một niềm vui dở dang, không trọn vẹn. Bởi sau dấu chấm là một chữ “ nhưng “ dự báo một cảm xúc hoàn toàn mới lạ. Cái ám ảnh của sự vội vàng xuất hiện ở nửa sau. Nhà thơ dường như không thể tận hưởng hết được mùa xuân vì cái cảm giác hoài xuân ngay khi mùa xuân chưa hết. Và cảm xúc của nhà thơ đã đi sang một phía ngược lại, xuất hiện một phản đề:
Nhưng vội vàng một nửa.
Ai đã được nghe hai câu đầu của sự phản đề cũng đều có ấn tượng sâu sắc.
Xuân đương đến nghĩa là xuân đương qua
Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già.
Sự mới mẻ, táo bạo, sự phát hiện lớn nhất của hai câu thơ lại được nằm ở hai chữ tưởng như rất bình thường “ nghĩa là “, khiến cho câu thơ mang dáng dấp của một đẳng thức nghệ thuật. Tác giả đã mạnh bạo đặt một dấu bằng ở hai vế tưởng như trái ngược nhau:“đang tới” đối với “đang qua”, “non” nghịch với “già”. Cách nói đầy ấn tượng như thế làm nên sự trôi mau vô cùng của thời gian. Điều ấy càng có ý nghĩa với một người mà sự sống đồng nghĩa với tuổi xuân, được thể hiện với đẳng thức thứ ba:
Và xuân hết nghĩa là tôi cũng mất.
Nhà thơ đã tái hiện lại khung cảnh hết sức lãng mạn, một thiên đường dưới mặt đất. Trong con mắt của nhà thơ cuộc sống thật tươi đẹp và đáng sống biết bao, nhưng cuộc sống thật ngắn ngủi nên phải sống vội vàng để tận hưởng hết niềm vui và hạnh phúc của cuộc sống. Đó là tư tưởng lạc quan yêu đời mà tác giả đã tạo ra cho thế hệ trẻ, họ cần phải sống cho đúng, không để phí hoài tuổi trẻ một cách vô ích.
Nguồn:
|
Phân tích 8 câu thơ Tự Tình II của Hồ Xuân Hương
Hướng dẫn
Để phân tích bài thơ Tự tình, các em cần phân tích theo thứ tự của các cặp câu: đề, thuật, luận, kết và dựa trên những điểm nhãn (từ ngữ chính truyền tải nội dung câu thơ hoặc bài thơ).
a. Hai câu đề
“Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn” câu thơ hiện lên bối cảnh không gian và thời gian
+ “Đêm khuya” khoảng thời gian tĩnh mịch nhất trong ngày, với người phụ nữ có chồng, lẽ ra đang say giấc nồng bên chồng con nhưng nhân vật trữ tình lại đối diện với chính mình. Đêm khuya cũng là thời gian làm người ta hồi tưởng lại quá khứ, suy nghĩ về tương lai và chợt nhận ra mình ở chính hiện tại.
+ “văng vẳng”, đây là âm thanh của trống canh dồn gõ nhịp thời gian, nó như khơi gợi, thôi thúc từng bước đi của thời gian thật vội vã, thật nhanh chóng, tuổi xuân cũng theo đó mà trôi qua, tình yêu hạnh phúc của người con gái cũng qua đi. Tiếng trống canh văng vẳng càng làm cho tâm trạng người phụ nữ cô đơn thêm rối bời.
Câu thơ “trơ cái hồng nhan với nước non” khắc sâu nỗi cô đơn, bẽ bàng, tủi hổ của người phụ nữ cho duyên số của mình.
+ Từ trơ được đảo lên đầu câu để nhấn mạnh sự cô đơn, trơ trọi theo đó là sự tủi hổ, bẽ bàng. “cái” là chỉ từ đi kèm với những vật dụng như cái ghế, cái bàn…ở đây nó lại đi kèm với từ chỉ vẻ đẹp của người phụ nữ “hồng nhan” điều đó cho thấy thân phận người phụ nữ đáng được trân trọng lại bị rẻ rúng, mỉa mai. Câu thơ không nhắc đến hai chữ “ bạc phận” nhưng ta vẫn thấm nỗi bạc phận của kiếp hồng nhan.Xem thêm: Phân tích câu Vì chưng hay ghét cũng là hay thương. Bạn hiểu ý thơ trên như thế nào?
+ nhịp thơ đáng chứ ý: 1/3/3/ trơ/cái hồng nhan/với nước non như một tiếng nấc vừa uất nghẹn vừa chì chiết. Tác giả tự mạt sát cái thân phận của mình.
+ Không giống với người phụ nữ chỉ biết than thân trách phận, HXH cho thấy được sự mạnh mẽ và bản lĩnh ở ngay từ “trơ”, ngoài thể hiện sự trơ trọi, cô đơn, “trơ” còn là lời thách thức của tác giả với cuộc đời, với tạo hóa.
b. Hai câu thực
“chén rượu hương đưa say lại tỉnh” câu thơ gợi lên hình ảnh người phụ nữ lẻ loi trong đêm khuya, chỉ có chén rượu là tri kỉ.
+ khi đối diện với nỗi đau, nhất là sự cô đơn, con người thường mượn rượu để giải sầu, nhưng rượu càng cay thì sầu càng sầu. Người phụ nữ muốn mình say để quên những phiền muộn dù chỉ trong giây phút, nhưng càng uống càng tỉnh, rượu không đưa người lên cung mây mà làm người thêm bẽ bàng cho hiện thực.
+ “say lại tỉnh” là cái vòng luẩn quẩn của tạo hóa, tình duyên của nữ sĩ cũng trở thành trò đùa, đắng cay, chua chát.
“vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn” câu thơ tả cảnh nhưng gợi tình vì chính cảnh và tình là một. Câu thơ chứa đựng nghịch lý “vầng trăng bóng xế” trăng đã già nhưng “khuyết chưa tròn” trăng già lẽ đương nhiên đã qua thời kì viên mãn nhưng ở đây vầng trăng lại chưa một lần tròn đầy. Tuổi thanh xuân của nhà thơ cũng thế, tuổi xuân cứ qua đi mà nhân duyên còn chưa trọn vẹn.
Lời thơ là nỗi ê chế, chán chường trong sâu thẳm tâm hồn nữ sĩ.
Xem thêm: Trong văn bản "Thông tin về Ngày Trái Đất năm 2000", vấn đề bao bì ni lông đã được tác giả trình bày như thế nào?
c. Hai câu luận
“xiên ngang mặt đất rêu từng đám/đâm toạc chân mây đá mấy hòn” thiên nhiên trong hai câu luận mang tính cách mạnh mẽ của con người, đó là niềm phẫn uất muốn bức phá, muốn đạp đổ để được tự do.
+ “xiên ngang mặt đất”, “đam toạc chân mây” là hành động mạnh mẽ của những sinh vật tưởng chừng thấp bé, im lặng, cam chịu như rêu và đá.
+ Hai động từ “xiên, đâm” được đảo lên đầu để khẳng định thái độ phẫn uất không chấp nhận cam chịu của những thân phận thấp bé mà người phụ nữ chính là đối tượng được nói đến.
+ Không dừng lại ở sự phẫn uất, hai câu thơ còn là thái độ phản kháng của một tân hồn đầy sức sống mãnh liệt nhưng luôn chịu đựng sự bất công của cuộc đời.
d. Hai câu kết
“Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại/ mảnh tình san sẻ tí con con” thể hiện sự chán chường khi một lần nữa trở lại cùng nghịch cảnh.
+ “Ngán” tậm trạng chán chường đến tột độ, ngán ngẩm cho cuộc đời bất công và tạo hóa trớ trêu buộc má hồng vào vòng luẩn quẩn của hôn nhân.
+ “xuân” mang hai ý nghĩa, thứ nhất chỉ mùa xuân của trời đất, thứ hai chỉ tuổi trẻ, tuổi thanh xuân của người phụ nữ. Mùa xuân đất trời đi rồi lại đến, tan rồi lại hiệp nhưng mùa xuân của con người qua đi bao giờ trở lại “còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi”. Chính vì thế thi sĩ đau lại càng đau, tiếc lại càng tiếc. Hai từ “lại” trong câu thơ cũng mang hai nghĩa khác nhau. Lại thứ nhất nghĩa là thêm lần nữa, lại thứ hai là sự trở lại. Sự trở lại của mùa xuân đồng nghĩa với sự ra đi của tuổi xuân.Xem thêm: Phân tích bài ca dao Khăn thuơng nhớ ai
Mảnh tình – san sẻ – tí – con con: dùng biện pháp tăng tiến, mảnh tình vốn đã chẳng nhiều lại còn đi san sẻ để lại ít ỏi “tí” cuối cùng chỉ được “con con”, thật sự đáng thương tội nghiệp.
Câu thơ nói riêng và bài thơ nói chung là tiếng lòng của người phụ nữ trong xã hội phong kiến, tuổi xuân thì ngắn ngủi nhưng họ phải phó mặt cho tạo hóa xoay vần, chẳng được hạnh phúc trọn vẹn dù “cố đấm ăn xôi”.
|
Analysis of 8 verses of Tu Tinh II poem by Ho Xuan Huong
Instruct
To analyze the poem Self-love, you need to analyze the order of sentence pairs: topic, narrative, conclusion, conclusion and based on the labels (main words conveying the content of the verse or poem).
a. Two sentences
"Late at night, the drums are ringing" the poem shows the context of space and time
+ "Late night" is the quietest time of the day, for a married woman, who should be sleeping soundly with her husband and children, but the lyrical character is facing herself. Late night is also the time when people reminisce about the past, think about the future and suddenly realize that they are in the present.
+ "echoing", this is the sound of the drum beating the rhythm of time, it seems to evoke and urge each step of time to be so hasty, so quick, youth also passes by, love The girl's love and happiness also passed away. The echoing sound of the soup drum made the lonely woman's mood even more confused.
The poem "the beauty is inert to the water" deeply engraves a woman's loneliness, humiliation, and shame over her fate.
+ The word bare is inverted at the beginning of the sentence to emphasize loneliness and loneliness, followed by shame and humiliation. "the" is the word that comes with items such as chairs, tables... here it comes with the word that refers to the beauty of a woman, "beautiful", which shows that a woman's status is worthy of respect. importance is despised and ridiculed. The poem does not mention the words "unlucky" but we still feel the unlucky fate of a beautiful life. See more: Analysis of the sentence Because people who hate often also love them. How do you understand the meaning of the above poem?
+ interesting poetic rhythm: 1/3/3/ inert/the red face/with young water like a sob that is both choked and resentful. The author kills his own identity.
+ Unlike women who only know how to feel sorry for themselves, HXH shows strength and bravery right from the word "inert", in addition to expressing loneliness, loneliness, and "inertness", it is also a challenge of the author with life, with creation.
b. Two real sentences
"A cup of fragrant wine brings drunkenness back to consciousness" the poem evokes the image of a lonely woman in the dead of night, with only a cup of wine as her soulmate.
+ When faced with pain, especially loneliness, people often borrow alcohol to relieve their sadness, but the spicier the wine, the more sad they become. The woman wants to get drunk to forget her troubles even for a moment, but the more she drinks, the more awake she becomes. Alcohol does not take her to the clouds but makes her more humiliated by reality.
+ "Get drunk and wake up" is a vicious cycle of creation, the female artist's love also becomes a joke, bitter and sour.
"The waning moon is not yet full" the poem describes the scene but is erotic because the scene and love are one. The poem contains the paradox "the moon has a late shadow" the moon is old but "not yet full" the old moon is of course past its fullness but here the moon has never been full. The same is true of the poet's youth. The youth keeps passing but the relationship is not yet complete.
The poem is the sadness and frustration deep in the female poet's soul.
See more: In the text "Information about Earth Day 2000", how did the author present the issue of plastic packaging?
c. Two essays
"Slanted moss across the ground/pierced the base of the clouds and kicked a few rocks" nature in the two essays has a strong human personality, that is, the resentment that wants to break through, wants to be crushed to be free.
+ "Slanting across the ground", "passing through the clouds" are powerful actions of seemingly small, silent, and resigned creatures like moss and rocks.
+ The two verbs "skew, pierce" are reversed to the beginning to affirm the resentful attitude of not accepting the resignation of lowly statuses, of which women are the object being talked about.
+ Not stopping at resentment, the two verses are also the protest attitude of a new soul full of vitality but always enduring the injustice of life.
d. Two concluding sentences
"Tired of spring again and again / sharing little pieces of love" shows the boredom of once again returning to the same adversity.
+ "Bored" is a state of extreme boredom, fed up with unfair life and the irony of nature forcing pink cheeks into the vicious cycle of marriage.
+ "Spring" has two meanings, the first refers to the spring of heaven and earth, the second refers to youth, the youth of a woman. The spring of heaven and earth passes and then comes again, dissolves and then unites again, but the spring of humans has passed and will never return. "There is still heaven and earth, but there is no longer me forever". That's why poets hurt even more when they're hurt, and regret even more. The two words "re" in the poem also have two different meanings. The first again means one more time, the second again is a return. The return of spring means the departure of youth. See more: Analysis of the folk song Who Do You Miss?
A piece of love - sharing - a little - a child: using progressive measures, a piece of love that already doesn't have much is shared, leaving behind a little "little" in the end and only having a "child", truly pitiful and pitiful. .
The verse in particular and the poem in general are the voices of women in feudal society. Youth is short but they have to surrender to the twists and turns of nature and cannot be completely happy even if they "try hard to eat sticky rice". ”.
|
Phân tích 8 câu thơ đầu bài thơ Việt Bắc
Hướng dẫn
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, hiệp định Geneve được ký kết, tháng 10 năm 1954, các cơ quan Trung ương của Đảng và Chính phủ rời chiến khu Việt Bắc trở về Hà Nội. Nhân sự kiện có tính chất lịch sử ấy, Tố Hữu sáng tác bài thơ Việt Bắc, khắc họa lại cuộc chia tay lịch sử với những tình cảm thủy chung son sắt. Tình cảm ấy được thể hiện qua những câu thơ sau:
“Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn
Tiếng ai tha thiếu bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay”
Đoạn thơ tràn đầy một nỗi nhớ tưởng như không thể kìm nén được, cứ trào ra theo ngòi bút và tuôn chảy thành những dòng thơ. Có đến bốn chữ “nhớ” trong một đoạn thơ tám câu chắc hẳn nỗi nhớ ấy phải thật da diết và sâu nặng. Đây là nỗi nhớ quê hương cách mạng của người đã từng gắn bó sâu sắc với vùng đất thiêng đầy kỷ niệm ấy, là nỗi nhớ của nghĩa tình, của ân tình thủy chung.
Khúc hát dạo đầu đã nhắc đến nỗi nhớ của đạo lí Việt Nam, cảnh tiễn đưa bâng khuâng trong nỗi nhớ, người ở lại hỏi người ra đi cũng chỉ một nỗi nhớ và người ra đi trả lời bằng chính nỗi nhớ ấy của mình. Tố Hữu đã diễn tả nỗi nhớ quê hương cách mạng bằng tiếng nói ngọt ngào, tha thiết của khúc hát đối đáp giao duyên nam nữ trong dân ca. Khúc hát ấy thấm nhuần đạo lí ân tình thủy chung:Xem thêm: Giải thích câu tục ngữ Tiên học lễ, hậu học văn
“Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi nhìn sông nhớ nguồn”.
Nghe như ca dao, lại phảng phất âm hưởng thơ Kiều, hai câu đầu gợi ta nhớ đến một câu thơ trong Truyện Kiều:
“Mười lăm năm ấy biết bao nhiêu tình”
Việt Bắc đã hỏi người cán bộ về xuôi có còn nhớ mình không? Có còn nhớ những tình cảm thiết tha, mặn nồng trong suốt khoảng thời gian mười lăm năm gắn bó. Nhìn cây còn có nhớ núi, nhìn sông còn có nhớ đến nguồn? Bốn câu thơ nhưng thực chất là hai câu hỏi tu từ. Lời của người ở nhưng thực chất là lời nói của người đi để nói lên đạo lí Việt Nam truyền thống vốn là bản chất tốt đẹp của dân tộc ta. Không chỉ nói lên mà chính là nhắc nhở mọi người, nhắc nhở chính mình bởi vì cái đạo lí ấy thiêng liêng lắm, quý giá lắm, phải giữ gìn và phát huy.
Sâu nặng biết bao trong “mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng”, ân tình biết bao khi “nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn”. Bốn câu thơ mà có đến bốn chữ “mình”, bốn chữ “nhớ” hòa quyện quấn quýt cùng chữ “ta”, khiến cái đạo lí ân tình Việt Nam đã trở thành sợi chỉ đỏ xuyên suốt bài thơ Việt Bắc, trở thành chủ đề lớn của tác phẩm.Xem thêm: Câu tục ngữ Lá lành đùm lá rách gợi cho anh (chị) suy nghĩ gì về truyền thống đạo lí của dân tộc ta?
Sau khúc hát mở đầu là cảnh tiễn đưa bâng khuâng trong nỗi nhớ của người ra đi và cả người ở lại:
“Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay”
Có âm thanh da diết và màu sắc đậm đà thủy chung, có bước chân bồn chồn và những cái nắm tay đầy lưu luyến. Mỗi bước chân của người đi mang theo nỗi niềm luyến lưu cho người ở lại. “Tiếng ai” không phải là câu hỏi, cũng chẳng phải là đại từ phiếm chỉ mà đó chính là cách nói thể hiện nỗi niềm “bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi”. “Bâng khuâng” vì “đi không nỡ”, nhưng “bồn chồn” vì ở cũng chẳng đành bởi lẽ Việt Bắc đã trở thành ký ức, thành tình yêu, thành tâm hồn:
“Khi ta ở chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi đất bỗng hóa tâm hồn”
Từ láy bâng khuâng, bồn chồn được Tố Hữu sử dụng rất tinh tế ở câu thơ này. Nó thể hiện được nỗi niềm, được tâm trạng và cả những chuyển động trong cảm xúc, để rồi hình ảnh tiếp theo xuất hiện là chiếc áo chàm qua thủ pháp hoán dụ gợi tả con người Việt Bắc:
“Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay”
Màu áo chàm là một hình ảnh đầy ý nghĩa, đó là màu áo của Việt Bắc đậm đà, son sắt như chính lòng chủy chung của con người nơi đây. Màu áo ấy nhắc nhở người ra đi nhiều ký ức khó phai nhòa.Xem thêm: Văn biểu cảm về sự vật, con người - Bờ rào thuốc
Câu thơ “cầm tay nhau biết nói gì hôm nay” mang một giá trị biểu cảm rất lớn. “Cầm tay nhau” nhưng chẳng “biết nói gì” vì có quá nhiều nỗi niềm cần bày tỏ, vì trong lòng họ tràn ngập nỗi nhớ thương nên không biết nói điều gì trước, điều gì sau, điều gì nên giãi bày, điều gì nên giấu kín trong tim. Cho nên chẳng “biết nói gì” chính là nói lên rất nhiều tấm lòng thương nhớ. Câu thơ ngắt nhịp 3/3/2 như sự ngập ngừng lưu luyến, làm ta liên tưởng đến buổi tiễn đưa của người chinh phu và chinh phụ trong Chinh phụ ngâm:
“Bước đi một bước, giây giây lại dừng”.
Trong màn đối đáp giao duyên của cuộc chia tay lịch sử ấy, Tổ Hữu đã để cho người ở lại lên tiếng trước. Điều này không chỉ hợp lý, tế nhị mà còn cần thiết cho sự phát triển mạch thơ trong cả bài thơ.
Bằng việc sử dụng đại từ “mình – ta” cùng thể thơ lục bát, Tố Hữu đã tái hiện cuộc chia tay lịch sử của Việt Bắc và người chiến sĩ cách mạng với biết bao ân tình, chung thủy. Con người dễ cộng khổ nhưng khó đồng cam, Việt Bắc ra đời chính là lời nhắc nhở tình nghĩa gắn bó cùng đạo lý tri ân muôn đời của dân tộc.
|
Analysis of the first 8 lines of the Viet Bac poem
Instruct
After the Dien Bien Phu victory, the Geneva Agreement was signed. In October 1954, the Central agencies of the Party and Government left the Viet Bac war zone and returned to Hanoi. On that historic event, To Huu composed the poem Viet Bac, portraying the historic farewell with faithful feelings. That sentiment is expressed through the following verses:
“When I come back, I miss you
Those fifteen years were passionate and passionate
Do you remember when I come back?
Looking at the trees remembers the mountains, looking at the river remembers its source
The sound of someone forgiving someone in the dunes
With butterflies in my stomach, I walked restlessly
Indigo shirt brings separation
We held each other's hand, did not know what to say"
The poem is filled with a seemingly irrepressible nostalgia that keeps flowing out of the pen and flowing into lines of poetry. There are four words "remember" in an eight-line poem, that nostalgia must be very strong and deep. This is the nostalgia for the revolutionary homeland of someone who was deeply attached to that sacred land full of memories, a nostalgia for love and faithful love.
The opening song mentioned the nostalgia of Vietnamese morality, the farewell scene was wistful in nostalgia, the person who stayed asked the person who left to point out the same nostalgia and the person who left answered with that nostalgia of their own. To Huu expressed his longing for the revolutionary homeland with the sweet, earnest voice of the love song between men and women in folk songs. That song is imbued with the morality of love and fidelity: See more: Explanation of the proverb: Tien learns rituals, then learns literature
“When I come back, I miss you
Those fifteen years were passionate and passionate
Do you remember when I come back?
Looking at the trees, remembering the mountains, looking at the river, remembering its source.
It sounds like a folk song, with a subtle echo of Kieu's poetry. The first two lines remind us of a verse in The Tale of Kieu:
"There were so many loves in those fifteen years"
Viet Bac asked the officer who returned home if he still remembered him? Do you still remember the passionate, passionate feelings during the fifteen years of togetherness? Looking at trees, do you remember the mountains? Looking at the river, do you remember the source? Four verses but actually two rhetorical questions. The words of those who live are actually the words of those who leave to express the traditional Vietnamese morality that is the good nature of our people. Not only speaking up, but reminding everyone, reminding ourselves because that morality is very sacred, very precious, and must be preserved and promoted.
How profound is the "fifteen years of passionate love", how grateful is "looking at the trees, remembering the mountains, looking at the river, remembering its source". Four verses with four words "me" and four words "remember" intertwined with the word "ta", making the morality of Vietnamese love become a red thread throughout Viet Bac's poem, becoming The main theme of the work. See more: The proverb "Good leaves protect torn leaves" does it remind you of the moral traditions of our nation?
After the opening song, there is a wistful farewell scene filled with nostalgia for both those who left and those who stayed:
“The sound of someone earnestly beside the alcohol
Feeling restless in my stomach, I walked away
Indigo shirt brings separation
We held each other's hand, did not know what to say"
There are poignant sounds and rich, faithful colors, restless footsteps and nostalgic handshakes. Every step of the person leaving brings nostalgia for those who stay. “Whose voice” is not a question, nor is it a casual pronoun, but it is a way of speaking expressing the feeling of “wistfulness in the heart, restlessness in walking”. "Wanted" because "I can't bear to go", but "restless" because I can't help but stay because Viet Bac has become a memory, a love, a soul:
"Where we stay that lead a stay
When we go to the land suddenly turns soul"
To Huu uses the words wistful and restless very delicately in this verse. It expresses feelings, moods and emotional movements, and then the next image that appears is the indigo shirt through metonymy to describe the people of Viet Bac:
“The indigo shirt brought the separation ceremony
We held each other's hand, did not know what to say"
The color of the indigo shirt is a meaningful image, it is the color of Viet Bac's shirt, as rich and bold as the common spirit of the people here. The color of that shirt reminds the deceased of many unforgettable memories. See more: Expressive writing about things and people - Fence of medicine
The verse "holding hands, knowing what to say today" has great expressive value. "Hold each other's hands" but didn't "know what to say" because there were too many feelings to express, because their hearts were filled with longing so they didn't know what to say first, what to say next, what to confess, what to say. What should be kept hidden in the heart? So not "knowing what to say" means saying a lot of longing. The poem's 3/3/2 rhythm is like a lingering hesitation, reminding us of the send-off of the conqueror and his wife in Chinh Phu Ngu:
“Take one step, stop for a second.”
In the exchange of love in that historic farewell, To Huu let the person who remained speak first. This is not only reasonable and delicate but also necessary for the development of the poetic flow in the whole poem.
By using the pronouns "I - I" and the six-eight poetic form, To Huu recreated the historic farewell of the Viet Bac and the revolutionary soldiers with so much love and loyalty. It is easy for people to suffer together but difficult to live together. Viet Bac's birth is a reminder of the nation's eternal love and gratitude.
|
Phân tích bi kịch của nhân vật Hồn Trương Ba
Hướng dẫn
Dựa trên những cảm nhân, hiểu biết về đoạntrích vở kich Hồn Trương Ba, da hàng thịt, HS có thểgiải quyết vấn đề mà câu hỏi nêu ra theo nhiều cách khác nhau. Sau đây là gợi ý cho phần thân bài của bài viết:
– Giải thích câu nói của chị con dâu: nói về sự đổi thay, tha hoá của Hồn Trương Ba khi ở trong thân xác hàng thịt. Đó chính là bi kịch của nhân vật.
– Phân tích bi kịch của nhân vật Hồn Trương Ba:
+ Hồn Trương Ba tự ý thức được sự tha hoá của mình (qua cuộc đối thoại với Xác Hàng Thịt).
+ Hồn Trương Ba đau khổ, tuyệt vọng khi bị người thân xa lánh, trách móc (trong cuộc đối thoại với những người thân).
+ Hồn Trương Ba nhận thấy cái giá phải trả là quá đắt nếu sống cuộc sống không phải của mình (trong cuộc đối thoại với Đế Thích).
– Nhận xét về ý nghĩa câu nói của chị con dâu:
+ Những nỗi niềm hoặc buồn bã, đau khổ hoặc thương xót, bất lực hoặc căm ghét, chối bỏ,… của người thân, nhất là lời nói của chị con dâu, đã khẳng định sự tha hoá đáng buồn, đáng thương và cũng đáng sợ, đáng ghét của Hồn Trương Ba khi phải sống nhờ vào thân xác hàng thịt; đồng thời làm đậm thêm nỗi đau khổ, tuyệt vọng của một con người ý thức sâu sắc về bi kịch đárih mất mình. Những yếu tố này góp phần đẩy mâu thuẫn kịch lên đến cao trào.
+ Qua câu nói của chị con dâu, nhà văn thể hiện tư tưởng phê phán đối với những người chạy theo những ham muốn tầm thường về vật chất, chỉ thích hưởng thụ đến mức trở nên phàm phu, thô thiển; những người lấy cớ tâm hồn là cao quý, đời sống tinh thần là đáng trọng mà không chăm lo thích đáng đến đời sống vật chất, không phấn đấu vì hạnh phúc toàn vẹn (thực chất, đây là biểu hiện của chủ nghĩa duy tâm chủ quan, của sự lười biếng, không tưởng); tình trạng con người phải sống giả (từ thiên đình cho đến mặt đất), không dám và cũng không được là chính bản thân mình… Đó là nguy cơ đẩy con người đến chỗ bị tha hoá.
Nguồn: thêm: “Trí tuệ giàu lên nhờ cái nó nhận được. Con tim giàu lên nhờ cái nó cho đi” (Vích-to Huy-gô)
|
Analyze the tragedy of the character Hon Truong Ba
Instruct
Based on feelings and understanding of the excerpt from the play Truong Ba's Soul and Butcher's Skin, students can solve the problem raised by the question in many different ways. Here are suggestions for the body of the article:
– Explain the daughter-in-law's statement: talking about the change and corruption of Truong Ba's soul while in the butcher's body. That is the tragedy of the character.
– Analysis of the tragedy of the character Hon Truong Ba:
+ Truong Ba's soul becomes aware of his alienation (through a conversation with the Butcher's Corpse).
+ Truong Ba's soul suffered and despaired when he was shunned and blamed by his relatives (in dialogue with relatives).
+ Truong Ba's soul realized that the price to pay was too high if he lived a life that was not his (in conversation with De Thich).
– Comment on the meaning of the daughter-in-law's statement:
+ The feelings of sadness, pain or pity, helplessness or hatred, rejection, etc. of relatives, especially the words of the daughter-in-law, have confirmed the sad, pitiful and also pitiful alienation. Truong Ba's soul is scary and hateful when it has to live on the butcher's body; At the same time, it deepens the suffering and despair of a person who is deeply aware of the tragedy of losing himself. These factors contribute to pushing the dramatic conflict to its climax.
+ Through the words of his daughter-in-law, the writer expressed his critical thoughts towards those who chase after trivial material desires, only enjoying enjoyment to the point of becoming ordinary and crude; People who use the excuse that their soul is noble and their spiritual life is respectable but do not take proper care of their material life and do not strive for complete happiness (in fact, this is a manifestation of idealism). subjective, of laziness, of utopia); The situation where people have to live fake lives (from heaven to earth), not daring and not being able to be themselves... That is the risk of pushing people to the point of being corrupted.
Source: more: “The mind is enriched by what it receives. The heart is enriched by what it gives" (Victo Huygo)
|
Phân tích bi kịch của nhân vật Hộ trong truyện ngắn “Đời thừa” của Nam Cao
Gợi ý
Trong các nhà văn hiện thực phê phán Việt Nam những năm trước Cách mạng tháng Tám có lẽ hiếm có một người nào lại có thể miêu tả về đời sống của tầng lớp mình sâu sắc và tài năng như Nam Cao. Không chỉ khắc họa những nỗi khổ về vật chất của họ Nam Cao còn mổ xẻ ở họ những bi kịch của một lớp người muốn bay lên nhưng lại bị gánh nặng áo cơm “ghì sát đất”. Hộ trong “Đời thừa” cũng là một trong số những nhân vật bi kịch ấy.
Con người Nam Cao nhìn bề ngoài có vẻ lạnh lùng, ít nói nhưng đời sống nội tâm lại rất phong phú, luôn sục sôi, có khi căng thẳng. Người trí thực “trung thực vô ngần” (Tô Hoài) ấy luôn nghiêm khắc đấu tranh với chính mình để thoát khỏi lối sống tầm thường, nhỏ nhen, ích kỉ, khát khao vươn tới “tâm hồn trong sạch và ước mơ, tới cảnh sống, tới những con người thật đẹp” (trích trong Nhật kí ở rừng). Nam Cao viết nhiều về người nông dân và trí thức. Trong hình tượng người trí thức, người ta có thể nhận thấy chính một Nam Cao cũng đang vật lộn với gánh nặng cơm áo, đang trăn trở, thấm thìa những bi kịch của chính mình.
Hộ là một nhà văn nghèo không gặp thời. Bi kịch đầu tiên mà anh mắc phải, cũng giống như phần lớn người dân thời kì bấy giờ là bi kịch của đói nghèo. Là một tri thức, nhưng cuộc sống của anh cũng không hơn những người nông dân xung quanh mình là mấy: vẫn cảnh chạy ăn từng đồng, vợ con nheo nhóc, ốm yếu. Cái nghèo không cho người ta cuộc sống yên ổn. Và còn nữa, cái nghèo khiến cho người ta không thể có thời gian và tâm trí mà sáng tạo nghệ thuật. Mà đối với một người nghệ sĩ chân chính, còn đau khổ nào hơn khi không thể có thời gian dành cho niềm dam mê và sự sống thứ hai ấy của chính mình. “Cơm áo không đùa với khách thơ”. Cuộc sống qụẩn quanh, mòn mỏi đã không chỉ đè nặng lên con người họ mà còn bóp méo con người họ, nhiều khi tạo ra tư thế thảm hại đến tội nghiệp: so đo không thể đứng thẳng lên được (Quên điều độ).
Bi kịch về vật chất đã là đau khổ nhưng những bi kịch tinh thần còn đau đớn hơn. Đó là bi kịch vỡ mộng. Như những Điền, những Thứ, những San, những “hắn”, những “tôi”, Hộ đã từng là nhân vật có máu mặt ở quê ít gì cũng là người trí thức hiểu biết được người ta trọng vọng. Hộ ấp ủ trong mình những ước mơ, hoài bão, dự định lớn lao. Hộ say mê nghệ thuật, anh đã từng sẵn sàng đánh đổi cả đời mình cho nghề văn. Và chính những say mê nghệ thuật ấy đã chắp cánh cho ước mơ và hoài bão không giới hạn. “Lòng hắn đẹp. Đầu hắn mang một hoài bão lớn. Hắn khinh những lo lắng tủn mủn về vật chất. Hắn chỉ lo vun trồng cho cái tài của hắn mỗi ngày một thêm nảy nở. Hắn đọc, ngẫm nghĩ, tìm tòi, nhặn xét và suy tưởng không biết chán. Đối với hắn lúc ấy, nghệ thuật là tất cả, ngoài nghệ thuật không có gì đáng quan tâm nữa”. Thậm chí, đã có lúc hắn từng mơ về một tác phẩm đạt giải Nô-ben, được cả thế giới biết đến. Những hoài bão, dự định lớn lao luôn gắn với tư tưởng tiến bộ. Một tác phẩm thực sự đối với Hộ “phải vượt lên bên trên tất cả bờ cõi và giới hạn, phải là một tác phẩm chung cho cả loài người. Nó phải chứa đựng một cái gì lớn lao, mạnh mẽ, vừa đau đớn lại vừa phấn khỏi. Nó ca tụng lòng thương, tình bác ái, sự công bình…Nó làm cho người gần người hơn”… nhưng đáng tiếc, cuộc sống không cho phép họ thực hiện những dự định và ước vọng lớn lao ây. Khi vướng vào cuộc sống, vào những cái vật chất mà Hộ coi là tẹp nhẹp, là tủn mủn, tất cả mọi ước mơ đều vỡ tan như bong bóng xà phòng. Hộ khát khao sáng tác những tác phẩm thực sự nhưng lại vẫn phải làm ra “Toàn những cái vô vị, nhạt nhẽo, gợi những tình cảm rất nhẹ, rất nông, diễn một vài ý rết thông thường quấy loãng trong một thứ văn bằng phẳng và quá dề dãi”, những bài báo để “người ta đọc rồi quên ngay sau khi đọc. Rồi mỗi lần đọc lại một cuốn sách hay một đoạn văn kí tên mình, hắn lại đỏ mặt lên, cau mày, nghiến răng, vò nát sách mà mắng mình là thằng khốn nạn”. Mộng văn chương đã không thành mà ngay cả những quan niệm nghệ thuật mà mình tôn thờ cũng đã dần dần bị phá vỡ. Hộ tiếp tục rơi vào bi kịch của người muốn sống có ý nghĩa bằng sự công hiến của mình mà không được. Hắn thấy mình như một kẻ vô ích, một “người thừa”. Hộ đã luôn quan niệm rằng: “Văn chương không cần những người thợ khéo tay, làm theo một vài kiểu mẫu đã cho. Văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gi chưa có”. Nhưng “Có gì đau đớn hơn cho một kẻ vẫn khát khao làm một cái gì nâng cao giá trị đời sống của mình, mà kết cục chẳng làm được gì cả, chỉ những lo cơm áo mà đủ mệt”. Khát khao công hiến va thay đổi cuộc sống theo một chiều hướng tốt đẹp hơn, khát khao làm nên giá trị đích thực của văn chương nghệ thuật nhưng Hộ đã không vượt qua được những rào cản xung quanh mình, không thể vươn tới những cái mình mơ ước mà còn đẩy nó theo chiều hướng ngược lại. Càng bi kịch hơn khi anh lại là người có tài năng và ý thức được cái tài của mình. Bi kịch được ý thức sâu sắc nhưng lại không thể tìm ra lói thoát, nó gặm nhấm, cẩn xé Hộ, làm cho anh đau đớn, mệt mỏi đến cùng kiệt.Xem thêm: Anh (chị) có ấn tượng gì về hình tượng ông Huấn Cao trong tác phẩm "Chữ người tử tù" của Nguyễn Tuân
Hộ đã không thể tự giải thoát cho bi kịch nghề nghiệp, trong vai trò một nhà văn. Và rồi, cũng chính anh lại rơi vào một bi kịch khác còn đau đớn, ám ảnh hơn rất nhiều. Là bi kịch sống cuộc sống của một người bình thường, làm một người cha, một người chồng tốt cũng không được. Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh khi bàn đến những bi kịch của Hộ đã đặc biệt nhân mạnh ý này. Theo ông, nỗi đau đớn nhất của người tri thức tư sản là khi họ vi phạm vào lẽ sống tình thương của chính mình. Vỡ mộng văn chương, đó chỉ là bi kịch trong nghề nghiệp. Thất vọng vì lẽ sống của chính mình, về lôi sống cần có ở một con người, đó là bi kịch của cả một nhân cách. Hộ đã từng cúi xuống nỗi đau khổ của Từ và đưa bàn tay ra cứu vớt nàng, giữa lúc nàng đang đau thương vô bờ bến. Việc làm ấy đã từng khiến Hộ cảm thấy sung sướng, cái sung sướng của người vừa làm một việc nghĩa và nhận được sự tôn thờ, của người đã thực hiện được triết lí sống tình thương mà mình đề ra. Nhưng rồi, đã có lúc hắn lại mơ tưởng về cuộc sống của mình lủc chưa có Từ, chưa phải nuôi cái gia đình nheo nhóc. Cuộc sống ấy mới tươi sáng biết bao. Cũng giông như mơ tưởng của Điền khi ngắm vầng trăng sáng, ai dám chắc rằng, lúc đó, Hộ đã không có chút gì đó hối hận vì hành động nghĩa hiệp trước đó của mình? Người trí thức vì những gánh nặng áo cơm đã dần bước vào bi kịch của sự tha hoá về nhân phẩm. Thất vọng trong nghề nghiệp, túng quẫn trong cơm áo, Hộ đã từng làm cho mình biết ác. “Hộ diên người lên vì phải xoay tiền. Hắn còn điên người lên vì con khóc, mà không lúc nào được yên tĩnh cho hắn viết hay đọc sách. Hắn thấy mình khổ quá, bực bội quá. Hắn trở nên cau có và gắt gỏng. Hắn gắt gỏng với con, với vợ, với bất kì ai, vói chính mình”. Triết lí tình thương: “Kẻ mạnh không phải là kẻ dẫm lên vai người khác dể thoả mãn lòng ích kỉ. Kẻ mạnh chính là kẻ nâng đỡ kẻ khác trên đôi vai của mình” đã bị vi phạm. Không phải Hộ không yêu và thương Từ. Họ đã có những phút giây hạnh phúc. Ấy là khi Hộ gặp được một đoạn văn hay, mỉm cười san sẻ với vợ. Hắn đọc lại đoạn văn, giảng giải cho Từ hiểu. Còn Từ thì ngồi đó, mỉm cười nhìn chồng, chẳng hiểu được bao nhiêu nhưng “cũng tin lời hắn lắm”. Là khi hắn chuẩn bị đi xuống phố để lĩnh nhuận bút của toà báo. “Hắn cố ý chạm khẽ môi mình vào má Tù’ một cái. Từ vờ rũ mấy cái bụi ở tay áo hắn. Vợ chồng nhìn nhau âu yếm. Hắn vuốt má Từ một cái rồi ra đi”. Tình yêu thương đã khiến cho hắn nhận ra vẻ tái xanh trên khuôn mặt, trên đôi môi nhợt nhạt, ở cái cẳng tay lủng củng những xương, những đường gân xanh bóng, mỏng manh, yếu đuối, cần được che chở. Hắn đã đổ ra “hàng suối nước mắt” vì hối hận. Vì thương xót mà tự nhận mình là một thằng “khốn nạn”. Tình yêu thương bị gánh nặng vật chất làm cho lu mờ. Hộ luôn ý thức được mình phải làm gì nhưng lại lưôn không thể làm được. Tính bi kịch vì thế mà càng trở nên sâu sắc. Hộ trong tác phẩm vọng lên một lời kêu cứu khẩn thiết về nhân phẩm của người tri thức dưới gáng nặng vật chát. Người trí thức bị thực tế quăng quật làm biến dạng cả về thể xác và tâm hồn. Họ bị từ chòi trong cuộc sống bình thường để rơi vào những kiếp “sống mòn”, “đời thừa” đang rỉ ra, đang mốc lên. Bi kịch ấy cũng đau đớn và sâu sắc không kém gì bi kịch của người nông dân như Chí Phèo, như Lão Hạc.Xem thêm: Phân tích nhân vật vợ Tràng trong truyện Vợ nhặt của Kim Lân Đọc “Đời thừa”, người ta mãi ám ảnh bởi những bi kịch tinh thần của nhân vật Hộ. Nam Cao đã tỏ ra rất tài tình khi để cho nhân vật luôn bị giằng xé giữa – ước mơ và trách nhiệm, giữa ý thức, khát vọng và thực tế. Mâu thuẫn trong tâm hồn nhân vật càng trở nên gay gắt thì bi kịch càng trở nên sâu sắc và nỗi đau càng được tô đậm. Cái tài và cái tâm của Nam Cao là ở chỗ đó.
Vanmau.edu.vn
|
Phân tích bi kịch của nhân vật Hộ trong truyện ngắn “Đời thừa” của Nam Cao
Gợi ý
Trong các nhà văn hiện thực phê phán Việt Nam những năm trước Cách mạng tháng Tám có lẽ hiếm có một người nào lại có thể miêu tả về đời sống của tầng lớp mình sâu sắc và tài năng như Nam Cao. Không chỉ khắc họa những nỗi khổ về vật chất của họ Nam Cao còn mổ xẻ ở họ những bi kịch của một lớp người muốn bay lên nhưng lại bị gánh nặng áo cơm “ghì sát đất”. Hộ trong “Đời thừa” cũng là một trong số những nhân vật bi kịch ấy.
Con người Nam Cao nhìn bề ngoài có vẻ lạnh lùng, ít nói nhưng đời sống nội tâm lại rất phong phú, luôn sục sôi, có khi căng thẳng. Người trí thực “trung thực vô ngần” (Tô Hoài) ấy luôn nghiêm khắc đấu tranh với chính mình để thoát khỏi lối sống tầm thường, nhỏ nhen, ích kỉ, khát khao vươn tới “tâm hồn trong sạch và ước mơ, tới cảnh sống, tới những con người thật đẹp” (trích trong Nhật kí ở rừng). Nam Cao viết nhiều về người nông dân và trí thức. Trong hình tượng người trí thức, người ta có thể nhận thấy chính một Nam Cao cũng đang vật lộn với gánh nặng cơm áo, đang trăn trở, thấm thìa những bi kịch của chính mình.
Hộ là một nhà văn nghèo không gặp thời. Bi kịch đầu tiên mà anh mắc phải, cũng giống như phần lớn người dân thời kì bấy giờ là bi kịch của đói nghèo. Là một tri thức, nhưng cuộc sống của anh cũng không hơn những người nông dân xung quanh mình là mấy: vẫn cảnh chạy ăn từng đồng, vợ con nheo nhóc, ốm yếu. Cái nghèo không cho người ta cuộc sống yên ổn. Và còn nữa, cái nghèo khiến cho người ta không thể có thời gian và tâm trí mà sáng tạo nghệ thuật. Mà đối với một người nghệ sĩ chân chính, còn đau khổ nào hơn khi không thể có thời gian dành cho niềm dam mê và sự sống thứ hai ấy của chính mình. “Cơm áo không đùa với khách thơ”. Cuộc sống qụẩn quanh, mòn mỏi đã không chỉ đè nặng lên con người họ mà còn bóp méo con người họ, nhiều khi tạo ra tư thế thảm hại đến tội nghiệp: so đo không thể đứng thẳng lên được (Quên điều độ).
Bi kịch về vật chất đã là đau khổ nhưng những bi kịch tinh thần còn đau đớn hơn. Đó là bi kịch vỡ mộng. Như những Điền, những Thứ, những San, những “hắn”, những “tôi”, Hộ đã từng là nhân vật có máu mặt ở quê ít gì cũng là người trí thức hiểu biết được người ta trọng vọng. Hộ ấp ủ trong mình những ước mơ, hoài bão, dự định lớn lao. Hộ say mê nghệ thuật, anh đã từng sẵn sàng đánh đổi cả đời mình cho nghề văn. Và chính những say mê nghệ thuật ấy đã chắp cánh cho ước mơ và hoài bão không giới hạn. “Lòng hắn đẹp. Đầu hắn mang một hoài bão lớn. Hắn khinh những lo lắng tủn mủn về vật chất. Hắn chỉ lo vun trồng cho cái tài của hắn mỗi ngày một thêm nảy nở. Hắn đọc, ngẫm nghĩ, tìm tòi, nhặn xét và suy tưởng không biết chán. Đối với hắn lúc ấy, nghệ thuật là tất cả, ngoài nghệ thuật không có gì đáng quan tâm nữa”. Thậm chí, đã có lúc hắn từng mơ về một tác phẩm đạt giải Nô-ben, được cả thế giới biết đến. Những hoài bão, dự định lớn lao luôn gắn với tư tưởng tiến bộ. Một tác phẩm thực sự đối với Hộ “phải vượt lên bên trên tất cả bờ cõi và giới hạn, phải là một tác phẩm chung cho cả loài người. Nó phải chứa đựng một cái gì lớn lao, mạnh mẽ, vừa đau đớn lại vừa phấn khỏi. Nó ca tụng lòng thương, tình bác ái, sự công bình…Nó làm cho người gần người hơn”… nhưng đáng tiếc, cuộc sống không cho phép họ thực hiện những dự định và ước vọng lớn lao ây. Khi vướng vào cuộc sống, vào những cái vật chất mà Hộ coi là tẹp nhẹp, là tủn mủn, tất cả mọi ước mơ đều vỡ tan như bong bóng xà phòng. Hộ khát khao sáng tác những tác phẩm thực sự nhưng lại vẫn phải làm ra “Toàn những cái vô vị, nhạt nhẽo, gợi những tình cảm rất nhẹ, rất nông, diễn một vài ý rết thông thường quấy loãng trong một thứ văn bằng phẳng và quá dề dãi”, những bài báo để “người ta đọc rồi quên ngay sau khi đọc. Rồi mỗi lần đọc lại một cuốn sách hay một đoạn văn kí tên mình, hắn lại đỏ mặt lên, cau mày, nghiến răng, vò nát sách mà mắng mình là thằng khốn nạn”. Mộng văn chương đã không thành mà ngay cả những quan niệm nghệ thuật mà mình tôn thờ cũng đã dần dần bị phá vỡ. Hộ tiếp tục rơi vào bi kịch của người muốn sống có ý nghĩa bằng sự công hiến của mình mà không được. Hắn thấy mình như một kẻ vô ích, một “người thừa”. Hộ đã luôn quan niệm rằng: “Văn chương không cần những người thợ khéo tay, làm theo một vài kiểu mẫu đã cho. Văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gi chưa có”. Nhưng “Có gì đau đớn hơn cho một kẻ vẫn khát khao làm một cái gì nâng cao giá trị đời sống của mình, mà kết cục chẳng làm được gì cả, chỉ những lo cơm áo mà đủ mệt”. Khát khao công hiến va thay đổi cuộc sống theo một chiều hướng tốt đẹp hơn, khát khao làm nên giá trị đích thực của văn chương nghệ thuật nhưng Hộ đã không vượt qua được những rào cản xung quanh mình, không thể vươn tới những cái mình mơ ước mà còn đẩy nó theo chiều hướng ngược lại. Càng bi kịch hơn khi anh lại là người có tài năng và ý thức được cái tài của mình. Bi kịch được ý thức sâu sắc nhưng lại không thể tìm ra lói thoát, nó gặm nhấm, cẩn xé Hộ, làm cho anh đau đớn, mệt mỏi đến cùng kiệt.Xem thêm: Anh (chị) có ấn tượng gì về hình tượng ông Huấn Cao trong tác phẩm "Chữ người tử tù" của Nguyễn Tuân
Hộ đã không thể tự giải thoát cho bi kịch nghề nghiệp, trong vai trò một nhà văn. Và rồi, cũng chính anh lại rơi vào một bi kịch khác còn đau đớn, ám ảnh hơn rất nhiều. Là bi kịch sống cuộc sống của một người bình thường, làm một người cha, một người chồng tốt cũng không được. Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh khi bàn đến những bi kịch của Hộ đã đặc biệt nhân mạnh ý này. Theo ông, nỗi đau đớn nhất của người tri thức tư sản là khi họ vi phạm vào lẽ sống tình thương của chính mình. Vỡ mộng văn chương, đó chỉ là bi kịch trong nghề nghiệp. Thất vọng vì lẽ sống của chính mình, về lôi sống cần có ở một con người, đó là bi kịch của cả một nhân cách. Hộ đã từng cúi xuống nỗi đau khổ của Từ và đưa bàn tay ra cứu vớt nàng, giữa lúc nàng đang đau thương vô bờ bến. Việc làm ấy đã từng khiến Hộ cảm thấy sung sướng, cái sung sướng của người vừa làm một việc nghĩa và nhận được sự tôn thờ, của người đã thực hiện được triết lí sống tình thương mà mình đề ra. Nhưng rồi, đã có lúc hắn lại mơ tưởng về cuộc sống của mình lủc chưa có Từ, chưa phải nuôi cái gia đình nheo nhóc. Cuộc sống ấy mới tươi sáng biết bao. Cũng giông như mơ tưởng của Điền khi ngắm vầng trăng sáng, ai dám chắc rằng, lúc đó, Hộ đã không có chút gì đó hối hận vì hành động nghĩa hiệp trước đó của mình? Người trí thức vì những gánh nặng áo cơm đã dần bước vào bi kịch của sự tha hoá về nhân phẩm. Thất vọng trong nghề nghiệp, túng quẫn trong cơm áo, Hộ đã từng làm cho mình biết ác. “Hộ diên người lên vì phải xoay tiền. Hắn còn điên người lên vì con khóc, mà không lúc nào được yên tĩnh cho hắn viết hay đọc sách. Hắn thấy mình khổ quá, bực bội quá. Hắn trở nên cau có và gắt gỏng. Hắn gắt gỏng với con, với vợ, với bất kì ai, vói chính mình”. Triết lí tình thương: “Kẻ mạnh không phải là kẻ dẫm lên vai người khác dể thoả mãn lòng ích kỉ. Kẻ mạnh chính là kẻ nâng đỡ kẻ khác trên đôi vai của mình” đã bị vi phạm. Không phải Hộ không yêu và thương Từ. Họ đã có những phút giây hạnh phúc. Ấy là khi Hộ gặp được một đoạn văn hay, mỉm cười san sẻ với vợ. Hắn đọc lại đoạn văn, giảng giải cho Từ hiểu. Còn Từ thì ngồi đó, mỉm cười nhìn chồng, chẳng hiểu được bao nhiêu nhưng “cũng tin lời hắn lắm”. Là khi hắn chuẩn bị đi xuống phố để lĩnh nhuận bút của toà báo. “Hắn cố ý chạm khẽ môi mình vào má Tù’ một cái. Từ vờ rũ mấy cái bụi ở tay áo hắn. Vợ chồng nhìn nhau âu yếm. Hắn vuốt má Từ một cái rồi ra đi”. Tình yêu thương đã khiến cho hắn nhận ra vẻ tái xanh trên khuôn mặt, trên đôi môi nhợt nhạt, ở cái cẳng tay lủng củng những xương, những đường gân xanh bóng, mỏng manh, yếu đuối, cần được che chở. Hắn đã đổ ra “hàng suối nước mắt” vì hối hận. Vì thương xót mà tự nhận mình là một thằng “khốn nạn”. Tình yêu thương bị gánh nặng vật chất làm cho lu mờ. Hộ luôn ý thức được mình phải làm gì nhưng lại lưôn không thể làm được. Tính bi kịch vì thế mà càng trở nên sâu sắc. Hộ trong tác phẩm vọng lên một lời kêu cứu khẩn thiết về nhân phẩm của người tri thức dưới gáng nặng vật chát. Người trí thức bị thực tế quăng quật làm biến dạng cả về thể xác và tâm hồn. Họ bị từ chòi trong cuộc sống bình thường để rơi vào những kiếp “sống mòn”, “đời thừa” đang rỉ ra, đang mốc lên. Bi kịch ấy cũng đau đớn và sâu sắc không kém gì bi kịch của người nông dân như Chí Phèo, như Lão Hạc.Xem thêm: Phân tích nhân vật vợ Tràng trong truyện Vợ nhặt của Kim Lân Đọc “Đời thừa”, người ta mãi ám ảnh bởi những bi kịch tinh thần của nhân vật Hộ. Nam Cao đã tỏ ra rất tài tình khi để cho nhân vật luôn bị giằng xé giữa – ước mơ và trách nhiệm, giữa ý thức, khát vọng và thực tế. Mâu thuẫn trong tâm hồn nhân vật càng trở nên gay gắt thì bi kịch càng trở nên sâu sắc và nỗi đau càng được tô đậm. Cái tài và cái tâm của Nam Cao là ở chỗ đó.
Vanmau.edu.vn
|
Phân tích bi kịch tinh thần của người trí thức tiểu tư sản trong tác phẩm Đòi thừa của Nam Cao
Hướng dẫn
Ông vừa là một nhà văn hiện thực nghiêm ngặt lại vừa là một nhà nhân đạo chủ nghĩa sâu sắc. Ông thường viết về hai chủ đề chính: về những người nông dân lam lũ, nghèo khổ và bi kịch về những người trí thức tiểu tư sản, trong đó, tác phẩm Đời thừalà một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của Nam Cao về đề tài này. Người trí thức Hộ, một nhân vật của Đời thừaluôn bị rơi vào bi kịch tinh thần. Một nhà văn có rất nhiều những hoài bão, những lý tưởng cao đẹp, một nhà Văn chân chính luôn sống bằng tinh thần yêu thương, bị tha hoá nhân cách khi phải đối diện với cuộc sống tù túng, bế tắc về vật chất. Nhân vật Hộ là một nhân vật điển hình của những người trí thức lúc đó.
Khi khám phá bi kịch tinh thần đó của họ, Nam Cao luôn khẳng định quá trình vươn lên hướng thiện của chính họ. Đồng thời Nam Cao qua đó đã lên án gay gắt xã hội thực dân phong kiến đã làm cho không chỉ những người nông dân mà còn cả một tầng lớp trí thức phải rơi vào bế tắc. Nhân vật nhà văn Hộ rơi vào bi kịch của một nhà văn, mà sâu sắc hơn nữa đó là bi kịch về chính con người của Hộ. Ngòi bút phân tích tâm lý của Nam Cao rất tinh tế, điêu luyện và sắc sảo khi phảnảnh tận cùng những dằn vặt trong tâm hồn Hộ.
Trong tác phẩm, nhân vật Hộ luôn khắc khoải, thất vọng trước hết bi kịch này đến
bi kịch khác. Nhưng có lẽ bi kịch tinh thân đầu tiên của Hộ là bi kịch về văn chương. Với nhà văn Hộ, anh luôn mang trong đầu những hoài bão lớn, anh luôn khinh thường những tủn mủn vật chất. Đối với anh nghệ thuật luôn là tất cả, nó không Chỉ là niềm say mê của anh mà còn là cả lý tưởng. Hộ là một nhà văn chân chính, là một người có tài, có hoài bão, là một nhà văn mà đáng để người ta tôn trọng và nâng niu. Hộ là một người rất “mê văn”. Hộ yêu văn đến nỗi có thể nói về văn chương bằng tất cả lòng nhiệt thành của mình, hơn nữa Hộ không chỉ là một người mê văn đến kỳ lạ mà còn là người rất có ý thức trách nhiệm về nghềvăn của mình. Hộ đã từng nói tuyên ngôn về nghệ thuật của mình: “Văn chương phải là một cái gì đó lớn lao, nó phải vừa đau đớn, vừa phấn khởi. Nó phải ca tụng sự công bình. Nó làm người gần người hơn” hay sựcẩu thả khi viết văn đó chính là kẻ đê tiện. Như vậy Hộ là một nhà văn rất có ý thức trách nhiệm, đã tựđưara yêu cẩu cho mình khi viết vãn, Hộ xứng đáng là một nhà văn cao cá không chỉ bởi cái tài, sự thận trọng của Hộ mà còn bởi lương tâm của mình. Như vậy ở nhân vật Hộ đã hội đủ tất cả những phẩm chất cao đẹp nhất của một nhà văn: có tài,có lý tưởng vươn tới và có lương tri.
Một nhà văn đẩy những hoài bão cao cả. Hộ luôn muốn viết lên những tác phẩm mà có thể giúp cho thế giới trở lên tốt đẹp hơn, thậm chí Hộ còn muốn “có một tác phẩm đạt giải Nobel”. Mặc dù những ước vọng đó thật khó thành hiện thực song ta cũng có thế nhận thấy một khát khao rất đẹp của Hộ để cho thế giới đẹp lên. Nhưng những hoài bão ấy khi phải đối mặt với cuộc sống tù túng, vật chất nghèo khổ như bị sụp đố như bị tan vỡ. Khi Hộ phải tìm đủ mọi cách để giúp cho cuộc sống gia đình được nâng cao thì Hộ đã luôn phải viết những tác phẩm mà “khi người ta đọc song sẽ chẳng để lại một ấn tượng gì” đểcó chút tiền nhuận bút nhỏ nhoi, để mọi người có thểsống qua ngày, để tồn tại. Thử nghĩ xem một người giàu mơ ước, lý tưởng như Hộ mà lại phái viết những tác phẩm như kia thì sẽ thấy dằn vặt mình, luôn cảm thấy vô cùng giằng xé, thấy lương tâm mình bịcắn dứt, Hộ luôn tự ý thức rằng: như vậy là trái lương tám song lại không biết phải làm thế nào. Chính vậy mà Hộ rơi vào bi kịch. Hộ cho rằng “cẩu thả” là “đê tiện”, là “bất lương” song những người mà có thể ý thức được ràng mình bất lương thì người đó sẽ không phải là bất lương, đê tiện.
Bi kịch nhà văn của Hộcó giá trị tố cáo gay gắt xã hội đương thời. Một xã hội ngột ngạt, tàn ác đã bóp nghẹt mọi khát vọng sống của con người. ở xã hội đó, con người đó, con người không những không thể thực hiện được những ý tưởng của mình mà còn làm cho con người không còn khát vọng sống nữa, họsống chỉ như là một sựtồn tại không hoài bão, không lý tưởng mà sống một cách vô nghĩa. Là xã hội mà không những không hướng cho con người phải sống tốt hơn lên mà còn buộc họ phải làm trái lương tâm mình.
Xem thêm: Bài văn kêu gọi ủng hộ người đồng tính
Song có lẽso với bi kịch nhà văn thì bi kịch con người đối với Hộ luôn dằn vặt giằng xékhi viết văn, Hộ thấy bế tắc túng quẫn. Song Hộcó một gia đình, một tổấm hạnh phúc là nơi để Hộ tìm đến, tìm sựsẻ chia, là nơi mà Hộcần phải bao bọc, yêu thương lấy vợ và con. Nhưng cuối cùng chính Hộ lại là người chà đạp lên gia đình mình. Khi đó Hộ rơi vào bi kịch, bi kịch lớn nhất khi nhận ra mình đã tha hoá và mình
đang chà đạp lên chính lẽsống tình thương của mình.
Nhân vật Hộ không chỉ là một người có lý tưởng, hoài bão mà Hộ còn là một con người chân chính, một người có gốc rễ là tình yêu thương. Với Hộ, Hộ luôn lấy tình yêu thương để làm lẽsống cho mình và để làm thước đo khi cư xử với mọi người. Hộ đã từng nói: “Kẻ mạnh là kẻ phải biết giúp đỡ người khác trên chính đôi vai của mình”. Hộcó một tư chất tốt đẹp của một con người chân chính. Hơn nữa, chính Hộ là người đã đưa bàn tay ra để cứu vớt lấy Từ trong lúc khó khăn nhất. Chính Hộ đã nhận nuôi mẹ già con dại cho Từ. Thật khó có được một người nào tốt bụng như Hộ đến như vậy, đặc biệt là trong lúc xã hội khó khăn đương thời. Đối với Từ, Hộ chính là một ân nhàn. Còn đối vớiHộ. Từ là người vợ liền luôn giúp đỡ, an ủi sẻ chia cùng Hộ. Song giữa họ đó không chỉ là một tình cảm nghĩa vụ mà đó còn là một tình yêu thương thắm thiết, đó còn là một gia đình hạnh phúc mà Hộ chính là trụ cột, chính là mái nhà để che chở, để yêu thương, Hộ rất yêu gia đình đó của mình.
Nhưng khi đối diện với cuộc sống “cơm áo ghì sát đất”, thì Hộ đã chà đạp lên gia đình mình. Hộ trở lên tàn nhẫn ích kỷ và nhận ra rằng: “phải biết ác, phải biết tàn nhẫn để mà sống cho mạnh mẽ”. Hộ đánh đuổi vợ con lúc say rượu. Hộ chà đạp vợ con và khi tỉnh dậy thì Hộ thấy hối hận, dằn vặt vì những hành động của mình đã chà đạp lèn lẽsống tình thương của mình. Khi đó Hộ lại rơi vào bi kịch, một bi kịch xót xa, nghiệt ngã. Hộ nói với Từ: “Ngày mai… chỉ ngày mai thôi! Mình biết không? Tôi sẽ đuổi tất cả mấy mẹ con mình ra khỏi cái nhà này”. Những lời lẽ hết sức cay đắng, đay nghiến, dường như không thể là của Hộ. Hộ đã trở thành một người khác. Hộ đã bị tha hoá về nhân cách. Xã hội tàn ác kia đã khiến cho người ta bị tha hoá. Từ những người lương thiện trở thành bất lương. Song bi kịch được đẩy lên cao nhất là khi Hộ muốn nâng cao giá trịcuộc sống của mình thì cứ phải sống trong nghèo túng, bế tắc, muốn có những tác phẩm hay thì cứ phải viết những bài “cẩu thả”, muốn yêu thương gia đình thì lại chà đạp lên chính vợ con. Một sự khắc khoải, một cuộc sống thừa, sống mòn mỏi trong nghèo đói, bế tắc, đường như mọi cánh cửa với Hộ đã đóng sập.
Bi kịch của Hộ còn là sự quẩn quanh của vòng luẩn quẩn tỉnh, say, say rồi tỉnh. Hộ muốn say để quên đi nỗi đau hiện tại nhưng khi tỉnh thì nỗi đau càng sáu sắc. Vòng tính say ấy càng lặp lại nhiều lần thì nỗi đau càng xót xa và nghiệt ngã hơn để cuối cùng Hộ đã lắc đầu nói: “Thôi thế là hết! Ta đã hỏng đút rồi”. Một sự bẽ bàng, tê tái, một bi kịch xót xa “còn gì chán hơn khi chính mình lại chán mình”.
Kết thúc tác phẩm là hình ảnh dòng nước mắt của Hộ, đó là dòng nước mắt biểu hiện cao độsự hối hận của mình, biểu hiện sự muốn tìm sự chia sẻ, và cao hơn là thể hiện khát khao hướng thiện của con người. Hộ mặc dù rơi vào tâm trạng bi kịch tinh thần, bi kịch nhà văn phải làm trái với lương tâm của mình, bi kịch của chính con người nhà văn, lấy tình thương làm lẽsống nhung cuối cùng lại chà đạp lên chính lẽsống đó của mình. Tuy nhiên Hộ vân luôn khát vọng những cuộc sống tốt đẹp hơn.
Trong Đời thừa,Nam Cao đã khẳng định được tinh thần của chủ nghĩa nhân văn cao cả. Bên cạnh việc phản ánh tấn bi kịch của người trí thức tiểu tư sản, ngòi bút văn chương của Nam Cao còn có khả năng nâng đỡ tâm hồn con người. Qua tác phẩm, ta
nhận ra được giá trị to lớn của tình yêu thương, nó chính là gốc rễ của mọi giá trịcuộc sống, nó cứu vớt con người và nâng đỡ tâm hồn họ. Chừng nào con người còn sống trong đau khổ, nhận ra được sự đau khổ của mình và muốn khao khát vươn lên một cuộc sống tốt đẹp thì chừng ấy câu chuyện trong Đời thừacòn có ý nghĩa.
Nguồn: thêm: Nghị luận xã hội Sự cẩu thả trong bất cứ nghề gì cũng là một sự bất lương
|
Phân tích bi kịch tinh thần của người trí thức tiểu tư sản trong tác phẩm Đòi thừa của Nam Cao
Hướng dẫn
Ông vừa là một nhà văn hiện thực nghiêm ngặt lại vừa là một nhà nhân đạo chủ nghĩa sâu sắc. Ông thường viết về hai chủ đề chính: về những người nông dân lam lũ, nghèo khổ và bi kịch về những người trí thức tiểu tư sản, trong đó, tác phẩm Đời thừalà một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của Nam Cao về đề tài này. Người trí thức Hộ, một nhân vật của Đời thừaluôn bị rơi vào bi kịch tinh thần. Một nhà văn có rất nhiều những hoài bão, những lý tưởng cao đẹp, một nhà Văn chân chính luôn sống bằng tinh thần yêu thương, bị tha hoá nhân cách khi phải đối diện với cuộc sống tù túng, bế tắc về vật chất. Nhân vật Hộ là một nhân vật điển hình của những người trí thức lúc đó.
Khi khám phá bi kịch tinh thần đó của họ, Nam Cao luôn khẳng định quá trình vươn lên hướng thiện của chính họ. Đồng thời Nam Cao qua đó đã lên án gay gắt xã hội thực dân phong kiến đã làm cho không chỉ những người nông dân mà còn cả một tầng lớp trí thức phải rơi vào bế tắc. Nhân vật nhà văn Hộ rơi vào bi kịch của một nhà văn, mà sâu sắc hơn nữa đó là bi kịch về chính con người của Hộ. Ngòi bút phân tích tâm lý của Nam Cao rất tinh tế, điêu luyện và sắc sảo khi phảnảnh tận cùng những dằn vặt trong tâm hồn Hộ.
Trong tác phẩm, nhân vật Hộ luôn khắc khoải, thất vọng trước hết bi kịch này đến
bi kịch khác. Nhưng có lẽ bi kịch tinh thân đầu tiên của Hộ là bi kịch về văn chương. Với nhà văn Hộ, anh luôn mang trong đầu những hoài bão lớn, anh luôn khinh thường những tủn mủn vật chất. Đối với anh nghệ thuật luôn là tất cả, nó không Chỉ là niềm say mê của anh mà còn là cả lý tưởng. Hộ là một nhà văn chân chính, là một người có tài, có hoài bão, là một nhà văn mà đáng để người ta tôn trọng và nâng niu. Hộ là một người rất “mê văn”. Hộ yêu văn đến nỗi có thể nói về văn chương bằng tất cả lòng nhiệt thành của mình, hơn nữa Hộ không chỉ là một người mê văn đến kỳ lạ mà còn là người rất có ý thức trách nhiệm về nghềvăn của mình. Hộ đã từng nói tuyên ngôn về nghệ thuật của mình: “Văn chương phải là một cái gì đó lớn lao, nó phải vừa đau đớn, vừa phấn khởi. Nó phải ca tụng sự công bình. Nó làm người gần người hơn” hay sựcẩu thả khi viết văn đó chính là kẻ đê tiện. Như vậy Hộ là một nhà văn rất có ý thức trách nhiệm, đã tựđưara yêu cẩu cho mình khi viết vãn, Hộ xứng đáng là một nhà văn cao cá không chỉ bởi cái tài, sự thận trọng của Hộ mà còn bởi lương tâm của mình. Như vậy ở nhân vật Hộ đã hội đủ tất cả những phẩm chất cao đẹp nhất của một nhà văn: có tài,có lý tưởng vươn tới và có lương tri.
Một nhà văn đẩy những hoài bão cao cả. Hộ luôn muốn viết lên những tác phẩm mà có thể giúp cho thế giới trở lên tốt đẹp hơn, thậm chí Hộ còn muốn “có một tác phẩm đạt giải Nobel”. Mặc dù những ước vọng đó thật khó thành hiện thực song ta cũng có thế nhận thấy một khát khao rất đẹp của Hộ để cho thế giới đẹp lên. Nhưng những hoài bão ấy khi phải đối mặt với cuộc sống tù túng, vật chất nghèo khổ như bị sụp đố như bị tan vỡ. Khi Hộ phải tìm đủ mọi cách để giúp cho cuộc sống gia đình được nâng cao thì Hộ đã luôn phải viết những tác phẩm mà “khi người ta đọc song sẽ chẳng để lại một ấn tượng gì” đểcó chút tiền nhuận bút nhỏ nhoi, để mọi người có thểsống qua ngày, để tồn tại. Thử nghĩ xem một người giàu mơ ước, lý tưởng như Hộ mà lại phái viết những tác phẩm như kia thì sẽ thấy dằn vặt mình, luôn cảm thấy vô cùng giằng xé, thấy lương tâm mình bịcắn dứt, Hộ luôn tự ý thức rằng: như vậy là trái lương tám song lại không biết phải làm thế nào. Chính vậy mà Hộ rơi vào bi kịch. Hộ cho rằng “cẩu thả” là “đê tiện”, là “bất lương” song những người mà có thể ý thức được ràng mình bất lương thì người đó sẽ không phải là bất lương, đê tiện.
Bi kịch nhà văn của Hộcó giá trị tố cáo gay gắt xã hội đương thời. Một xã hội ngột ngạt, tàn ác đã bóp nghẹt mọi khát vọng sống của con người. ở xã hội đó, con người đó, con người không những không thể thực hiện được những ý tưởng của mình mà còn làm cho con người không còn khát vọng sống nữa, họsống chỉ như là một sựtồn tại không hoài bão, không lý tưởng mà sống một cách vô nghĩa. Là xã hội mà không những không hướng cho con người phải sống tốt hơn lên mà còn buộc họ phải làm trái lương tâm mình.
Xem thêm: Bài văn kêu gọi ủng hộ người đồng tính
Song có lẽso với bi kịch nhà văn thì bi kịch con người đối với Hộ luôn dằn vặt giằng xékhi viết văn, Hộ thấy bế tắc túng quẫn. Song Hộcó một gia đình, một tổấm hạnh phúc là nơi để Hộ tìm đến, tìm sựsẻ chia, là nơi mà Hộcần phải bao bọc, yêu thương lấy vợ và con. Nhưng cuối cùng chính Hộ lại là người chà đạp lên gia đình mình. Khi đó Hộ rơi vào bi kịch, bi kịch lớn nhất khi nhận ra mình đã tha hoá và mình
đang chà đạp lên chính lẽsống tình thương của mình.
Nhân vật Hộ không chỉ là một người có lý tưởng, hoài bão mà Hộ còn là một con người chân chính, một người có gốc rễ là tình yêu thương. Với Hộ, Hộ luôn lấy tình yêu thương để làm lẽsống cho mình và để làm thước đo khi cư xử với mọi người. Hộ đã từng nói: “Kẻ mạnh là kẻ phải biết giúp đỡ người khác trên chính đôi vai của mình”. Hộcó một tư chất tốt đẹp của một con người chân chính. Hơn nữa, chính Hộ là người đã đưa bàn tay ra để cứu vớt lấy Từ trong lúc khó khăn nhất. Chính Hộ đã nhận nuôi mẹ già con dại cho Từ. Thật khó có được một người nào tốt bụng như Hộ đến như vậy, đặc biệt là trong lúc xã hội khó khăn đương thời. Đối với Từ, Hộ chính là một ân nhàn. Còn đối vớiHộ. Từ là người vợ liền luôn giúp đỡ, an ủi sẻ chia cùng Hộ. Song giữa họ đó không chỉ là một tình cảm nghĩa vụ mà đó còn là một tình yêu thương thắm thiết, đó còn là một gia đình hạnh phúc mà Hộ chính là trụ cột, chính là mái nhà để che chở, để yêu thương, Hộ rất yêu gia đình đó của mình.
Nhưng khi đối diện với cuộc sống “cơm áo ghì sát đất”, thì Hộ đã chà đạp lên gia đình mình. Hộ trở lên tàn nhẫn ích kỷ và nhận ra rằng: “phải biết ác, phải biết tàn nhẫn để mà sống cho mạnh mẽ”. Hộ đánh đuổi vợ con lúc say rượu. Hộ chà đạp vợ con và khi tỉnh dậy thì Hộ thấy hối hận, dằn vặt vì những hành động của mình đã chà đạp lèn lẽsống tình thương của mình. Khi đó Hộ lại rơi vào bi kịch, một bi kịch xót xa, nghiệt ngã. Hộ nói với Từ: “Ngày mai… chỉ ngày mai thôi! Mình biết không? Tôi sẽ đuổi tất cả mấy mẹ con mình ra khỏi cái nhà này”. Những lời lẽ hết sức cay đắng, đay nghiến, dường như không thể là của Hộ. Hộ đã trở thành một người khác. Hộ đã bị tha hoá về nhân cách. Xã hội tàn ác kia đã khiến cho người ta bị tha hoá. Từ những người lương thiện trở thành bất lương. Song bi kịch được đẩy lên cao nhất là khi Hộ muốn nâng cao giá trịcuộc sống của mình thì cứ phải sống trong nghèo túng, bế tắc, muốn có những tác phẩm hay thì cứ phải viết những bài “cẩu thả”, muốn yêu thương gia đình thì lại chà đạp lên chính vợ con. Một sự khắc khoải, một cuộc sống thừa, sống mòn mỏi trong nghèo đói, bế tắc, đường như mọi cánh cửa với Hộ đã đóng sập.
Bi kịch của Hộ còn là sự quẩn quanh của vòng luẩn quẩn tỉnh, say, say rồi tỉnh. Hộ muốn say để quên đi nỗi đau hiện tại nhưng khi tỉnh thì nỗi đau càng sáu sắc. Vòng tính say ấy càng lặp lại nhiều lần thì nỗi đau càng xót xa và nghiệt ngã hơn để cuối cùng Hộ đã lắc đầu nói: “Thôi thế là hết! Ta đã hỏng đút rồi”. Một sự bẽ bàng, tê tái, một bi kịch xót xa “còn gì chán hơn khi chính mình lại chán mình”.
Kết thúc tác phẩm là hình ảnh dòng nước mắt của Hộ, đó là dòng nước mắt biểu hiện cao độsự hối hận của mình, biểu hiện sự muốn tìm sự chia sẻ, và cao hơn là thể hiện khát khao hướng thiện của con người. Hộ mặc dù rơi vào tâm trạng bi kịch tinh thần, bi kịch nhà văn phải làm trái với lương tâm của mình, bi kịch của chính con người nhà văn, lấy tình thương làm lẽsống nhung cuối cùng lại chà đạp lên chính lẽsống đó của mình. Tuy nhiên Hộ vân luôn khát vọng những cuộc sống tốt đẹp hơn.
Trong Đời thừa,Nam Cao đã khẳng định được tinh thần của chủ nghĩa nhân văn cao cả. Bên cạnh việc phản ánh tấn bi kịch của người trí thức tiểu tư sản, ngòi bút văn chương của Nam Cao còn có khả năng nâng đỡ tâm hồn con người. Qua tác phẩm, ta
nhận ra được giá trị to lớn của tình yêu thương, nó chính là gốc rễ của mọi giá trịcuộc sống, nó cứu vớt con người và nâng đỡ tâm hồn họ. Chừng nào con người còn sống trong đau khổ, nhận ra được sự đau khổ của mình và muốn khao khát vươn lên một cuộc sống tốt đẹp thì chừng ấy câu chuyện trong Đời thừacòn có ý nghĩa.
Nguồn: thêm: Nghị luận xã hội Sự cẩu thả trong bất cứ nghề gì cũng là một sự bất lương
|
Đề bài: Phân tích bi kịch trong Hồn Trương Ba da Hàng thịt của Lưu Quang Vũ
Lưu Quang Vũ là người có tài về nhiều mặt như: viết văn, làm thơ, vẽ tranh…nhưng ông được xem là một trong những nhà soạn kịch tài năng nhất của nền văn học Việt nam. Những vở kịch của ông đã làm xôn xao dư luận và được đón nhận nồng nhiệt của khán giả. Phần lớn các vở kịch của ông đều được các đoàn nghệ thuật dàn dựng, trong đó vở kịch Hồn Trương Ba da hàng thịt là đặc sắc nhất. Lưu Quang Vũ đã có rất nhiều sáng tạo. Ông đã đổ rượu mới vào bình cũ để kể lại chuyện hài xưa như một bi kịch triết lí thời nay. Qua vở kịch Lưu Quang Vũ đã gửi gắm rất nhiều suy nghĩ và qua niệm sống của mình đến với khán giả.
Nhan đề truyện thể hiện một quan niệm: Giữa hồn và xác phải có một sự tương hợp hài hòa, thế nhưng ở đây có sự khập khiễng không thể hòa hợp. Đặc biệt là hồn của một người thanh cao, trong sáng, trung thực lại ngụ trong xác của một kẻ tầm thường, phàm tục, đầy bản năng, thô lỗ. Bi kịch này sinh từ đó. Như vậy tên gọi của vở kịch đã thâu tóm được những mâu thuẫn xung đột bên trong của một con người. Điều nảy sinh là linh hồn là hồn trong sạch đang dần dần bị tha hóa. Từ chỗ thanh cao đến chỗ có những ham muốn tầm thường. Nhan đề đã thâu tóm những mâu thuẫn xác định ngay trong một con người. Đây là mâu thuẫn nội tại.
Bi kịch của Trương Ba: ông đã chết vô cớ vì sự thiếu trách nhiệm của tiên thánh. Tiên thánh sửa sai thì lại càng tệ hại hơn. Bi kịch xảy ra từ khi Trương Ba được sống lại. Như vậy vấn đề không chỉ được sống mà còn là phải sống như thế nào. Sống trong cái xác của anh hàng thịt, Trương Ba thấy mình bị tha hóa: hồn trong sạch ngay thẳng đang bị cái thể xác thô lỗ, ranh mãnh, ve vãn, chế nhạo, cám dỗ. Có lúc hồn phải thỏa hiệp với những đòi hỏi bản năng của xác. Bây giờ không còn thích đánh cờ – một thú vui trí tuệ, thanh cao. Những nước cờ không còn phóng khoáng mà tủn mủn vô hồn. Không còn là người có bàn tay khéo léo nữa mà là một kẻ vụng về. Bên trong một đường, bên ngoài một nẻo. Ý thức được điều đó nên hồn càng thêm đau khổ. Đây là sự đau khổ vì không làm chủ được bản thân. Đây cũng là nỗi đau khổ của con người khi phải sống trong hoàn cảnh không phù hợp với mong ước của mình, phông phải là chính mình.
Bi kịch của Trương Ba không chỉ là bi kịch của cá nhân mà còn là bi kịch gia đình. Quay lại với thể xác, hồn Trương Ba phải đối diện với một xung đột khác đó là bi kịch không được thừa nhận. Người vợ hiền thục rất đau khổ, tìm cách tránh mặt và định bỏ đi. Con trai thì hư hỏng, cháu nội thì tỏ thái độ thù ghét và đuổi ông đi. Đứa con dâu là người cảm thông với ông nhất, tiếc nuối một người cha chồng trước kia thì lại vướng mắc với một loại câu hỏi rất khó lí giải: “…làm sao giữ được thầy ở lại, hiền hậu, vui vẻ, tốt lành như thầy của chúng con xưa kia? Làm thế nào, thầy ơi?”.Trương Ba đã rơi vào cái khổ của việc không được chia sẻ và thấu hiểu. Cháu nội thù ghét không nhận và đuổi ông đi, dù ông có thanh minh. Ông đã gây ra những xáo trộn, bất an trong gia đình, gia đình lại khổ lây vì sự nhũng nhiễu của lí tưởng.
Như vậy, Trương Ba đã rơi vào tình thế cô đơn ngay tại nhà mình. Trương Ba ý thức nỗi khổ này của vợ con lớn hơn cả nỗi khổ khi chôn ông xuống đất. Ông đã tự ý thức được tất cả và cảm thấy mình có lỗi với gia đình. Điều đó cho ta thấy Trương Ba là một con người rất vị tha.
Bi kịch của Trương Ba là ở chỗ mình không phải là mình. Khổ vì bị sự trói buộc có tính định mệnh của phần xác đối với phần hồn. Đây là nỗi đau khổ tột cùng của Trương Ba. Để thể hiện điều này, Lưu Quang Vũ đã tạo ra một cuộc đấu trí đầy trí tuệ giữa linh hồn và thể xác. Tiếng nói của xác là tiếng nói của bản năng. Tiếng nói của Trương Ba là tiếng nói của con người thanh cao, trong sạch, tự ý thức. Đó là cuộc đấu tranh gay gắt giữa hai mặt tồn tại của con người, thể hiện khát vọng hướng thiện và tầm quan trọng cảu việc tự ý thức về bản thân và vượt lên chính mình.
Xem thêm: Cảm nhận của em về bài ca dao: Rủ nhau lên núi đốt than. Chồng mang đòn gánh vợ mang quang giành. Củi than nhem nhuốc với tình. Ghi lời vàng đá xin mình chớ quênAnh hàng thịt cũng không kém phần khôn ngoan, lí lẽ cũng có phần đúng đắn: “Những vị lắm chữ nhiều sách như các ông là hay vin vào cớ tâm hồn là quý, khuyên con người sống vì phần hồn, để rồi bỏ bê cho thân xác của họ nỗi khổ sở nhếch nhác…”. Vì thế mâu thuẫn cũng khó có thể giải quyết nhanh chóng. Qua lí lẽ của anh hàng thịt tác giả cũng muốn nói lên một điều: Con người phải có khát vọng sống thanh cao nhưng cũng không thể tách hồn khỏi vật chất đời thường, cũng như những nhu cầu chính đáng rất con người. Mặt khác tác giả cũng muốn nói lên những người vượt lên hoàn cảnh đã gặp không ít trở lực có lúc làm cho họ nản lòng. Điều đó thể hiện qua những câu thoại có vẻ đuối lí của Trương Ba. Rồi hồn Trương Ba phải thỏa hiệp và nhập vào xác anh hàng thịt, đuối lí bởi những lí lẽ vừa khó chịu vừa chứa đựng một phần chân lí. Màn đối thoại vừa có tính chất hài kịch lại vừa có tính bi kịch. Màn đối thoại vừa toát lên giọng điệu nghiêm trang lại vừa có ý mỉa mai hài hước. Đó là một sự kết hợp giữa hài kịch và bi kịch của người nghệ sĩ tài ba. Bi kịch này có sự mâu thuẫn giữa khát vọng và khả năng.
Hồn Trương Ba ý thức được nghịch cảnh mình nên đau đớn day dứt cùng với sự tác động từ bên ngoài: lí trưởng, gia đình nên Trương Ba phải gặp Đế Thích để giải quyết vấn đề này. Màn đối thoại giữa Trương Ba và Đế Thích cũng rắt đặc sắc. Ngôn ngữ của Đế Thích là ngôn ngữ dụ dỗ thuyết phục: lí lẽ không ngoan có vẻ có lí, nâng cao giá trị của Trương Ba, bôi bác sự giả dối có trên thiên đình. Tiên thánh cũng không được sống theo những gì mình nghĩ ở bên trong, đến Ngọc Hoàng cũng phải ép mình cho xứng danh Ngọc Hoàng. Trên trời, dưới đất người ta đều thế cả. Đế Thích sửa sai lại càng thêm sai. Trương Ba đã bác bỏ một cách cương quyết: “Thần có thể chấp nhận một cuộc sống như thế chứ con người thì không” và khăng khăng đòi chết, không chịu nhập vào cái xác của ai nữa. Bi kịch của ông bắt đầu từ khi ông được sống lại trong cái xác anh hàng thịt. Như vậy, là con người ai cũng muốn là chính mình mà không muốn sống tạm bợ, chắp vá. Trương Ba đã ý thức được vấn đề là sống như thế nào chứ không phải chỉ được sống là đủ. Trương Ba đã dũng cảm chấp nhận cái chết để bảo vệ chân lí, bảo vệ nhân cách, bảo vệ các giá trị nhân sinh và dù có chết cũng là cái chết bất tử. Dù là nghịch lí nhưng đó là con đường phục hưng những giá trị nhân văn. Đó là cuộc thắng lợi của cuộc tranh chấp muôn thuở giữa cái thánh thiện và cái phàm tục. Trương Ba đã chiến thắng được mình và còn chủ động phê phán khuyên bảo Đế Thích. Đó là chuyện phi thường, một ông tiên phải đuối lí trước con người. Cuối cùng phải thốt lên một câu như vỡ lẽ ra một điều mới: “con người dưới hạ giới các ông thật là kì lạ”. Hóa ra các lực lượng siêu nhiên, thần thánh tuy có thể quyết định được việc sống chết của con người nhưng không thể can thiệp vào sự tự do của con người. Lưu Quang Vũ đã thể hiện niềm tin sâu sắc vào con người vào khả năng vươn lên mọi thực tế nghiệt ngã. Thật xúc động khi hồn Trương Ba xuất hiện giữa màu xanh lá với lời nói thiệt thiết tha. Cái chết của Trương Ba là cái chết bất tử, tâm hồn của ông vẫn sống mãi giữa màu xanh cây vườn. Bi kịch của Trương Ba là một bi kịch lạc quan.
Qua bi kịch của Trương Ba nhà văn Lưu Quang Vũ muốn gửi đến người đọc những thông điệp: Con người cần phải sống hài hòa giữa hai mặt vật chất và tinh thần. Không nên kì thị những đòi hỏi vật chất của con người, cần tôn trọng quyền tự do cá nhân, giúp mỗi người phải được là mình, sống đúng với chính mình. Và phải sửa chữa những sai lầm để xây dựng một tương lai tốt đẹp.
Nguồn Edufly
Xem thêm: Phân tích bài thơ Quê hương của Tế Hanh (Có dàn ý chi tiết)
|
Đề bài: Phân tích bi kịch trong Hồn Trương Ba da Hàng thịt của Lưu Quang Vũ
Lưu Quang Vũ là người có tài về nhiều mặt như: viết văn, làm thơ, vẽ tranh…nhưng ông được xem là một trong những nhà soạn kịch tài năng nhất của nền văn học Việt nam. Những vở kịch của ông đã làm xôn xao dư luận và được đón nhận nồng nhiệt của khán giả. Phần lớn các vở kịch của ông đều được các đoàn nghệ thuật dàn dựng, trong đó vở kịch Hồn Trương Ba da hàng thịt là đặc sắc nhất. Lưu Quang Vũ đã có rất nhiều sáng tạo. Ông đã đổ rượu mới vào bình cũ để kể lại chuyện hài xưa như một bi kịch triết lí thời nay. Qua vở kịch Lưu Quang Vũ đã gửi gắm rất nhiều suy nghĩ và qua niệm sống của mình đến với khán giả.
Nhan đề truyện thể hiện một quan niệm: Giữa hồn và xác phải có một sự tương hợp hài hòa, thế nhưng ở đây có sự khập khiễng không thể hòa hợp. Đặc biệt là hồn của một người thanh cao, trong sáng, trung thực lại ngụ trong xác của một kẻ tầm thường, phàm tục, đầy bản năng, thô lỗ. Bi kịch này sinh từ đó. Như vậy tên gọi của vở kịch đã thâu tóm được những mâu thuẫn xung đột bên trong của một con người. Điều nảy sinh là linh hồn là hồn trong sạch đang dần dần bị tha hóa. Từ chỗ thanh cao đến chỗ có những ham muốn tầm thường. Nhan đề đã thâu tóm những mâu thuẫn xác định ngay trong một con người. Đây là mâu thuẫn nội tại.
Bi kịch của Trương Ba: ông đã chết vô cớ vì sự thiếu trách nhiệm của tiên thánh. Tiên thánh sửa sai thì lại càng tệ hại hơn. Bi kịch xảy ra từ khi Trương Ba được sống lại. Như vậy vấn đề không chỉ được sống mà còn là phải sống như thế nào. Sống trong cái xác của anh hàng thịt, Trương Ba thấy mình bị tha hóa: hồn trong sạch ngay thẳng đang bị cái thể xác thô lỗ, ranh mãnh, ve vãn, chế nhạo, cám dỗ. Có lúc hồn phải thỏa hiệp với những đòi hỏi bản năng của xác. Bây giờ không còn thích đánh cờ – một thú vui trí tuệ, thanh cao. Những nước cờ không còn phóng khoáng mà tủn mủn vô hồn. Không còn là người có bàn tay khéo léo nữa mà là một kẻ vụng về. Bên trong một đường, bên ngoài một nẻo. Ý thức được điều đó nên hồn càng thêm đau khổ. Đây là sự đau khổ vì không làm chủ được bản thân. Đây cũng là nỗi đau khổ của con người khi phải sống trong hoàn cảnh không phù hợp với mong ước của mình, phông phải là chính mình.
Bi kịch của Trương Ba không chỉ là bi kịch của cá nhân mà còn là bi kịch gia đình. Quay lại với thể xác, hồn Trương Ba phải đối diện với một xung đột khác đó là bi kịch không được thừa nhận. Người vợ hiền thục rất đau khổ, tìm cách tránh mặt và định bỏ đi. Con trai thì hư hỏng, cháu nội thì tỏ thái độ thù ghét và đuổi ông đi. Đứa con dâu là người cảm thông với ông nhất, tiếc nuối một người cha chồng trước kia thì lại vướng mắc với một loại câu hỏi rất khó lí giải: “…làm sao giữ được thầy ở lại, hiền hậu, vui vẻ, tốt lành như thầy của chúng con xưa kia? Làm thế nào, thầy ơi?”.Trương Ba đã rơi vào cái khổ của việc không được chia sẻ và thấu hiểu. Cháu nội thù ghét không nhận và đuổi ông đi, dù ông có thanh minh. Ông đã gây ra những xáo trộn, bất an trong gia đình, gia đình lại khổ lây vì sự nhũng nhiễu của lí tưởng.
Như vậy, Trương Ba đã rơi vào tình thế cô đơn ngay tại nhà mình. Trương Ba ý thức nỗi khổ này của vợ con lớn hơn cả nỗi khổ khi chôn ông xuống đất. Ông đã tự ý thức được tất cả và cảm thấy mình có lỗi với gia đình. Điều đó cho ta thấy Trương Ba là một con người rất vị tha.
Bi kịch của Trương Ba là ở chỗ mình không phải là mình. Khổ vì bị sự trói buộc có tính định mệnh của phần xác đối với phần hồn. Đây là nỗi đau khổ tột cùng của Trương Ba. Để thể hiện điều này, Lưu Quang Vũ đã tạo ra một cuộc đấu trí đầy trí tuệ giữa linh hồn và thể xác. Tiếng nói của xác là tiếng nói của bản năng. Tiếng nói của Trương Ba là tiếng nói của con người thanh cao, trong sạch, tự ý thức. Đó là cuộc đấu tranh gay gắt giữa hai mặt tồn tại của con người, thể hiện khát vọng hướng thiện và tầm quan trọng cảu việc tự ý thức về bản thân và vượt lên chính mình.
Xem thêm: Cảm nhận của em về bài ca dao: Rủ nhau lên núi đốt than. Chồng mang đòn gánh vợ mang quang giành. Củi than nhem nhuốc với tình. Ghi lời vàng đá xin mình chớ quênAnh hàng thịt cũng không kém phần khôn ngoan, lí lẽ cũng có phần đúng đắn: “Những vị lắm chữ nhiều sách như các ông là hay vin vào cớ tâm hồn là quý, khuyên con người sống vì phần hồn, để rồi bỏ bê cho thân xác của họ nỗi khổ sở nhếch nhác…”. Vì thế mâu thuẫn cũng khó có thể giải quyết nhanh chóng. Qua lí lẽ của anh hàng thịt tác giả cũng muốn nói lên một điều: Con người phải có khát vọng sống thanh cao nhưng cũng không thể tách hồn khỏi vật chất đời thường, cũng như những nhu cầu chính đáng rất con người. Mặt khác tác giả cũng muốn nói lên những người vượt lên hoàn cảnh đã gặp không ít trở lực có lúc làm cho họ nản lòng. Điều đó thể hiện qua những câu thoại có vẻ đuối lí của Trương Ba. Rồi hồn Trương Ba phải thỏa hiệp và nhập vào xác anh hàng thịt, đuối lí bởi những lí lẽ vừa khó chịu vừa chứa đựng một phần chân lí. Màn đối thoại vừa có tính chất hài kịch lại vừa có tính bi kịch. Màn đối thoại vừa toát lên giọng điệu nghiêm trang lại vừa có ý mỉa mai hài hước. Đó là một sự kết hợp giữa hài kịch và bi kịch của người nghệ sĩ tài ba. Bi kịch này có sự mâu thuẫn giữa khát vọng và khả năng.
Hồn Trương Ba ý thức được nghịch cảnh mình nên đau đớn day dứt cùng với sự tác động từ bên ngoài: lí trưởng, gia đình nên Trương Ba phải gặp Đế Thích để giải quyết vấn đề này. Màn đối thoại giữa Trương Ba và Đế Thích cũng rắt đặc sắc. Ngôn ngữ của Đế Thích là ngôn ngữ dụ dỗ thuyết phục: lí lẽ không ngoan có vẻ có lí, nâng cao giá trị của Trương Ba, bôi bác sự giả dối có trên thiên đình. Tiên thánh cũng không được sống theo những gì mình nghĩ ở bên trong, đến Ngọc Hoàng cũng phải ép mình cho xứng danh Ngọc Hoàng. Trên trời, dưới đất người ta đều thế cả. Đế Thích sửa sai lại càng thêm sai. Trương Ba đã bác bỏ một cách cương quyết: “Thần có thể chấp nhận một cuộc sống như thế chứ con người thì không” và khăng khăng đòi chết, không chịu nhập vào cái xác của ai nữa. Bi kịch của ông bắt đầu từ khi ông được sống lại trong cái xác anh hàng thịt. Như vậy, là con người ai cũng muốn là chính mình mà không muốn sống tạm bợ, chắp vá. Trương Ba đã ý thức được vấn đề là sống như thế nào chứ không phải chỉ được sống là đủ. Trương Ba đã dũng cảm chấp nhận cái chết để bảo vệ chân lí, bảo vệ nhân cách, bảo vệ các giá trị nhân sinh và dù có chết cũng là cái chết bất tử. Dù là nghịch lí nhưng đó là con đường phục hưng những giá trị nhân văn. Đó là cuộc thắng lợi của cuộc tranh chấp muôn thuở giữa cái thánh thiện và cái phàm tục. Trương Ba đã chiến thắng được mình và còn chủ động phê phán khuyên bảo Đế Thích. Đó là chuyện phi thường, một ông tiên phải đuối lí trước con người. Cuối cùng phải thốt lên một câu như vỡ lẽ ra một điều mới: “con người dưới hạ giới các ông thật là kì lạ”. Hóa ra các lực lượng siêu nhiên, thần thánh tuy có thể quyết định được việc sống chết của con người nhưng không thể can thiệp vào sự tự do của con người. Lưu Quang Vũ đã thể hiện niềm tin sâu sắc vào con người vào khả năng vươn lên mọi thực tế nghiệt ngã. Thật xúc động khi hồn Trương Ba xuất hiện giữa màu xanh lá với lời nói thiệt thiết tha. Cái chết của Trương Ba là cái chết bất tử, tâm hồn của ông vẫn sống mãi giữa màu xanh cây vườn. Bi kịch của Trương Ba là một bi kịch lạc quan.
Qua bi kịch của Trương Ba nhà văn Lưu Quang Vũ muốn gửi đến người đọc những thông điệp: Con người cần phải sống hài hòa giữa hai mặt vật chất và tinh thần. Không nên kì thị những đòi hỏi vật chất của con người, cần tôn trọng quyền tự do cá nhân, giúp mỗi người phải được là mình, sống đúng với chính mình. Và phải sửa chữa những sai lầm để xây dựng một tương lai tốt đẹp.
Nguồn Edufly
Xem thêm: Phân tích bài thơ Quê hương của Tế Hanh (Có dàn ý chi tiết)
|
Phân tích bài ca dao Anh em nào phải người xa
Hướng dẫn
“Anh em nào phải người xa,
Cùng chung bác mẹ, một nhà cùng thân”
Hai câu cuối là lời khuyên bảo anh em, chị em về cách sống, cách đối xử trong gia đình sao choleó tình nghĩa^
“Yêu nhau như thể tay chân,
Anh em hòa thuận, hai thân vui vầy”
Tục ngữ có câu: “Anh em như chân với tay”. Chân với tay. là hai bộ phận gắn bó của con người. Con người hoàn chỉnh không thể thiếu tay hoặc chân. Cũng như anh em ruột thịt phải biết yêu nhau, thương nhau, gắn bó đỡ đần nhau “như thê’ tay chân”. Anh em phải sống hòa thuận, nghĩa là đoàn kết, đùm bọc, nhường nhịn nhau, anh thương em, em kính trọng anh. Anh em ruột thịt có biết “yêu nhau”, có “hòa thuận” thì cha mẹ mới “vui vầy” sống yên vui hạnh phúc. Các động từ: “yêu nhau” và “hòa thuận” nói lên cách sống, cách cư xử đầy tình nghĩa tốt đẹp của anh em, chị em trong gia đình.
Nguồn:
Xem thêm: Vẻ đẹp kì vĩ của thiên nhiên trong bài thơ Xa ngắm thác núi Lư (“Xa vọng Lư sơn bộc bố”) của Lí Bạch
|
Analysis of the folk song Brothers are not far away
Instruct
“Brothers are not far away,
Same parents, same family, same family"
The last two sentences are advice to brothers and sisters on how to live and how to behave in the family in a way that shows gratitude^
“Love each other like hands and feet,
Brothers and sisters are in harmony, both of us are happy."
There is a proverb that says: "Brothers are like arms and legs." Legs and arms. are two inseparable parts of a human being. A complete human being cannot lack arms or legs. Just like siblings, we must know how to love each other, care for each other, and stick together to help each other "like hands and feet". Brothers must live in harmony, which means solidarity, support, and tolerance of each other. I love you, you respect me. Only if siblings know how to "love each other" and "get along" will their parents "be happy" and live a peaceful and happy life. The verbs: "love each other" and "get along" express the way of life and good behavior of brothers and sisters in the family.
Source:
See more: The majestic beauty of nature in the poem Far from looking at Lu mountain waterfall ("Far from looking at Lu mountain waterfall") by Ly Bach
|
Phân tích bài ca dao Chiều chiêu ra đứng ngõ sau
Hướng dẫn
Nó gắn bó với tâm hồn nhân dân ta từ bao đời nay. Trong đó, những bài ca dao nói về tình cảm gia đình sao mà hồn hậu, thắm thiết thế. Tinh cha, nghĩa mẹ, tình yêu thương anh chị em, tình yêu nam nữ, tình nghĩa vợ chồng, v.v… trong nhiều câu ca dao “sống” với ta như một kỉ niệm đẹp không bao giờ quên. Bài ca dao nói về tình thương nỗi nhớ của người con gái đối với mẹ già là một ví dụ làm cho em cảm động: “Chiều chiều ra đứng ngõ sau,
Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều”
Thơ lục bát vốn nhịp nhàng, êm đềm. Hai câu ca dao này, cũng vậy, nhịp hai cân đối hài hòa, với chín thanh bằng quá bán, với ba tiếng “chiều chiều… chiều” đứng ở đầu và cuối câu,… đã tạo nên nhạc điệu, giai điệu nhè nhẹ, buồn thương. Điệu tâm hồn của câu ca dao là vô cùng đặc sắc, nó quyện lấy tâm hồn người đọc người nghe. Sức hấp dần trước hết ở giọng điệu tâm tinh.
' 1. Câu thứ nhất vừa có tính thời gian (chiều chiều) vừa có tính khống gian (ngõ
sau, quê mẹ). Buổi chiều tà, nhất là lúc hoàng hôn, ngày tàn, màn đêm dần buông xuống, là thời điểm gợi nhớ, gợi sầu man mác cho những người tha hương. “Song 22 sa vò võ phương trời – Nay hoàng hôn đã lại mai hôn hoàng” (Truyện Kiều), “Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà” (Huy Cận). Bài ca dao cũng nói vể buổi chiều, không chỉ một buổi chiểu mà là nhiều buổi chiều rồi: “Chiều chiều..”. Sự việc cứ diễn ra, cứ lặp đi lặp lại “ra đứng ngõ sau”… “Ngõ sau” là nơi vắng vẻ. Câu ca dao gợi lên một chút tâm tình cô đơn. Câu ca dao không nói ai “ra đứng ngõ sau”, ai “trông về quê mẹ…”, nhân vật trữ tình không được giới thiệu cụ thể vẻ dáng hình, diện mạo… nhưng người đọc, người nghe xưa nay tinh lắm, vẫn cảm nhận được đó là cô gái xa quê hương, xa gia đình… (đi lấy chổng xa?). Nhớ lắm, nỗi nhớ vơi đầy, nên chiều nào cũng như chiều nào, nàng một mình “ra đứng ngõ sau”, lúc hoàng hôn để nhìn về quê mẹ phía chân trời xa:
“Chiều chiều ra đứng ngõ sau”…
2.Càng trông về quê mẹ, người con càng thấy lẻ loi nơi quê người, nỗi thương nhớ da diết khôn nguôi:
Xem thêm: Phân tích cơn gió lạnh nhưng ấm áp tình người trong truyện Gió lạnh đầu mùa“Trông về quê mẹ, ruột đau chín chiều”
Quê mẹ khuất sau lũy tre xanh. Có cây đa, bến nước, sân đình. Có con đò nhỏ và dòng sông xanh uốn quanh. Có cánh đồng “mênh mông bát ngát… bát ngát mênh mông” ngào ngạt bốn mùa hương lúa. Có bà con chất phác, hiền lành và lam lũ sớm hôm. Có ngôi nhà gianh bé nhỏ thân yêu, nơi người con gái sinh ra và lớn lèn với bao kỉ niệm đẹp đẽ của tuổi thơ, của thời con gái. “Năm gian nhà cỏ thấp le te…” (Nguyễn Khuyến). Quê mẹ là nơi anh chị em ruột thịt quây quần xung quanh mâm cơm dẻo thơm có“canh rau muống… cà dầm tương”. Quê mẹ giờ đây có người mẹ già tóc bạc phơ đang tựa cửa thương nhớ đứa con gái đi xa…
Ca dao nói ít, tả ít mà gợi nhiều bởi đó là “cây đàn muôn điệu” của dân gian. Chỉ là hai chữ “quê mẹ” thôi mà đã đem đến cho người đọc một trường liên tưởng chứa chan tình cố hương.
Người con “trông về quê mẹ”, càng trông càng nhớ day dứt, tha thiết, nhớ khôn nguôi. Bốn tiếng “ruột đau chín chiều” diễn tả cực hay nỗi nhớ đó. Nhà thơ dân gian không sử dụng một bổ ngữ, một trạng ngữ mà lại dùng số từ “chín chiều” để biểu lộ tâm trạng, thật là độc đáo. Tục ngữ, thành ngữ có “năm nhớ mười
thương” thì ở câu ca dao này lại có “ruột đau chín chiều”. Buổi chiểu nào cũng thấy nhớ thương, đau đớn. Đứng trông về chiều hướng nào, người con tha hương cũng buồn đau tê tái, nỗi nhớ quê, nhớ mẹ, nhớ người thân thương dâng lên, càng thấy cô đơn vô cùng. Và chỉ một âm thanh đồng quê cũng gợi lên bao tình thương nỗi nhớ, nhớ mẹ hiền khôn nguôi:
“Vẳng nghe chim vịt kêu chiều,
Bâng khuâng nhớ mẹ chín chiu ruột đau”
Tinh mẹ con, tình yêu quê hương được nói đến trong bài ca dao trên đã để lại một ấn tượng sâu sắc trong tâm hồn mõi chúng ta. Tình thương nỗi nhớ gắn liền với tấm lòng biết ơn của người con gái đi xa đối với mẹ già. Giọng điệu tâm tình, sâu lắng dàn trải khắp vần thơ, một nỗi buồn đẹp khơi dậy trong lòng người đọc bao liên tưởng về quê hương yêu dấu, về tuổi thơ. Có thể nói đây là một trong những bài ca dao trữ tình hay nhất, một đóa hoa đồng nội tươi thắm mãi với thời gian và con người quê ta.
Nguồn: thêm: Tấm lòng nhân đạo của dân gian thể hiện qua Truyện An Dương vương và Mị Châu - Trọng Thủy
|
Analysis of the folk song Afternoon Chieu stands at the back alley
Instruct
It has been attached to the souls of our people for many generations. In it, the folk songs talk about family love, how soulful and passionate it is. Father's love, mother's love, brother and sister love, love between man and woman, love between husband and wife, etc. in many folk songs "live" with us as beautiful memories that we will never forget. The folk song about a girl's love and nostalgia for her elderly mother is an example that touches me: "In the afternoon, I stand in the back alley,
Looking back to my mother's hometown is painful."
Luc Bat poetry is inherently rhythmic and peaceful. These two folk songs, too, have a harmoniously balanced rhythm, with nine overtones, with three words "afternoon afternoon... afternoon" standing at the beginning and end of the sentence,... creating a gentle melody and melody. , sad. The soulful melody of the folk song is extremely unique, it entwines the soul of the reader and listener. The first attraction is in the emotional tone.
' 1. The first sentence is both temporal (afternoon) and spatial (alley
later, motherland). Late afternoon, especially sunset, when the day ends and night gradually falls, is a time of remembrance and sadness for those in exile. "Song of 22 clouds in the sky - Now sunset, tomorrow sunset" (Story of Kieu), "Even without smoke in the sunset, I miss home" (Huy Can). The folk song also talks about afternoons, not just one afternoon but many afternoons: "Afternoon, afternoon...". The incident kept happening, repeating "go to the back alley" over and over... "The back alley" is a deserted place. The folk song evokes a bit of loneliness. The folk song does not say who "stands in the back alley", who "looks back to the motherland...", the lyrical characters are not specifically introduced with their shape, appearance... but the readers and listeners have always been very sophisticated. I still feel that she is a girl far from home, far from family... (getting married far away?). She missed her so much, her nostalgia filled her, so every afternoon, like every afternoon, she went alone to the back alley at sunset to look at her mother's hometown on the distant horizon:
"Lane stood next afternoon"…
2. The more the child looks back to his mother's homeland, the more lonely he feels in his homeland, and his longing for him is so intense that it is inconsolable:
See more: Analysis of the cold but warm wind of human love in the story Cold Winds at the Beginning of the Season "Looking back to my mother's hometown, my stomach aches nine times"
My mother's homeland is hidden behind green bamboo. There is a banyan tree, a water wharf, and a communal yard. There is a small boat and a green river winding around. There is a field that is "immense... immense" filled with the scent of rice in all four seasons. There are people who are simple, gentle and work hard every morning. There is a lovely little house where a girl was born and grew up with many beautiful memories of childhood and girlhood. “Five houses with low grass…” (Nguyen Khuyen). Mother's hometown is where siblings gather around a tray of fragrant rice with "water spinach soup... pickled eggplant with soy sauce". My mother's hometown now has an old mother with gray hair leaning on the door, missing her daughter who is far away...
Folk songs say little, describe little, but evoke a lot because it is the "musical instrument" of the people. Just the two words "motherland" bring to the reader a field of associations filled with love for the homeland.
The son "looks back to his motherland", the more he looks, the more he misses it, passionately, inconsolably. The four words "nine-dimensional pain in the intestines" describe that nostalgia very well. Folk poets do not use a complement or an adverb but instead use a number of "nine-dimensional" words to express their mood, which is truly unique. Proverbs and idioms say “remember ten in five
injury" then in this folk song there is "nine-dimensional pain in the intestines". Every afternoon I feel nostalgic and painful. No matter which direction you look, the exiled child will feel pain and numbness, longing for his hometown, missing his mother, missing his loved ones will rise, making him feel even more lonely. And just a single country sound evokes so much love, nostalgia, and indelible longing for my mother:
“I can hear the birds and ducks chirping in the afternoon,
Missing my mother, I miss my mother so much it hurts."
The spirit of mother and child, the love of the homeland mentioned in the above folk song has left a deep impression in each of our souls. Love and nostalgia are closely linked to the gratitude of a distant daughter towards her elderly mother. The sentimental, deep tone spreads throughout the poem, a beautiful sadness that evokes in the reader many thoughts of his beloved homeland and childhood. It can be said that this is one of the best lyrical folk songs, a flower of the field that stays fresh with time and the people of our hometown.
Source: more: The humanity of the people is shown through the Tale of An Duong Vuong and My Chau - Trong Thuy
|
Phân tích bài ca dao cày đồng đang buổi ban trưa
Hướng dẫn
sương một nắng”,ca ngợi đức tính cần cù, kiên nhẫn của người dân cày quê ta. Hình ảnh người trai cày sao mà đáng yêu thế:
“Cày dồng đang buổi ban trưa,
Mồ hôithánhthót như mưa ruộng cày.
Ai ơi, bưng bát cơm đẩy,
Dẻo thơm một hạt, đắng cay muôn phần”.
Hai cầu đầu miêu tả cảnh cày đồng. Câu ca dao gợi lên trước mắt chúng ta người nông dân đang lội bùn, tay cầm cày, theo sau con trâu, dưới ánh nắng “ban trưa” chang chang mùa hạ. Người và con trâu phải làm việc vô cùng vất vả. Mồ hôi tuôn ra như mưa. Từ tượng thanh “thánh thót” gợi tả mồ hôi rơi xuống từng giọt… từng giọt liên tiếp, gieo vào không gian âm thanh “thánh thót”. “Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày” là hình ảnh so sánh thậm xưng gợi tả công việc cày đồng vất vả, cực nhọc không thể nói hết. “Mưa” làm cho lúa xanh tươi, cũng như “mồ hôi” đổ xuống luống cày làm cho đất đai thêm màu mỡ. Nghệ thuật ví von “mổ hôi” với “mưa” thật là sáng tạo, làm cho người đọc, người nghe thấm thía, cảm thông với bao cực nhọc của nhà nông. Thật vậy, họ đã đổ biết bao mồ hôi, công sức vào luống cày, sá bừa, ngày này qua ngày khác, tháng này qua tháng khác, để làm ra bông lúa, củ khoai nuôi sống xã hội. Vần ca dao đã vẽ lên một hình ảnh tuyệt đẹp về người nông dân trên cánh đồng quê hương. Đó là những con người khỏe mạnh dẻo dai, cần mẫn và chm khó:
“Cày đồng đang buổi ban trưa,
Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày”
Hai tiếng cảm thán “ai ơi!” vang lên một cách tha thiết, đã tạo nên âm điệu êm ái, ngọt ngào. Nhà thơ dân gian nhắn gửi mọi người gần xa một tình cảm đẹp. Mỗi khi “bưng bát cơm đầy”, chúng ta cần ghi nhớ công ơn khó nhọc của người nông dân đã cuốc bẫm cày sâu, sản xuất lúa gạo cho nhân dân no ấm. Câu thơ sâu lắng, thấm thía:
Xem thêm: Hình ảnh Thánh Gióng trong truyện “Thánh Gióng” để lại nhiều ấn tượng sâu sắc cho mỗi người Việt Nam. Em hãy phát hiểu cảm nghĩ của mình về người anh hùng ấy“Ai ơi, bưng bát cơm đầy,
Dẻo thơm một hạt, đắng cay muôn phần”
Câu cuối bài ca dao được tạo nên bằng nghệ thuật tương phản đặc sắc. Câu 8 chia thành hai vế tiểu đối cân xứng. Tính từ “dẻo thơm” đối chọi với tính từ “đắng cay”, “một hạt” đối lập với “muôn phần”, làm nổi bật sức lao động sáng tạo của nhà nông. Câu ca dao đã nâng nhận thức và cảm xúc cho mọi người về giá trị của bông lúa, hạt gạo, bát cơm dẻo thơm mà ta được hưởng thụ hàng ngày thật là đáng quý vô ngần. Cho nên, nhân dân ta mới gọi hạt gạo là “hạt vàng”, “hạt ngọc” là thế!
Cũng như phần lớn ca dao, dân ca, bài “Cày đồng đang buổi ban trưa…” được viết bằng thê’ thơ lục bát quen thuộc. Giọng thơ nhẹ nhàng thấm thía. Ngôn từ chọn lọc tinh tế, vừa giàu sức biểu hiện vừa đậm đà sắc thái biểu cảm: thánh thót, dẻo thơm, đắng cay, bát cơm đầy,… Các biện pháp tu từ: ví von so sánh, tương phản đối lập được vận dụng sáng tạo, viết nên những vần thơ giàu hình ảnh, nhạc điệu.
Nước ta là một nước nông nghiệp, trên 80% dân số sống bằng nghề nông. Người nông dân Việt Nam cần cù, chất phác, hiền lành, dũng cảm và giàu lòng yêu nước. Người nông dân Việt Nam tượng trưng cho sức sống bền vững của dân
tộc qua bốn nghìn năm dựng nước và giữ nước. Chính họ là những con người: “Biết
trồng tre đợi ngày thành gậy – Đi trả thù mà không sợ dài lâu”(Nguyễn Khoa Điềm).
Đức tính cần mẫn, dẻo dai của nhà nông đã làm nên những mùa vàng quê ta, đem đến sự ấm no cho xã hội. Mọi gia đình có bát cơm dẻo thơm, đất nước có nhiều lương thực xuất khẩu là nhờ vào công sức nhà nông. Yêu kính và biết ơn nhà nông, em nguyện khắc sâu vào tâm hồn lời nhắn gọi tha thiết:
“Ai ơi, bưng bát cơm đầy,
Nhớ công hôm sớm, cấy cày cho chăng!”
Nguồn: thêm: Em hãy chứng minh rằng: “Sai lầm cũng có hai mặt. Tuy nó đem lại tổn thất, nhưng nó cũng đem đến bài học cho đời” (“Không sợ sai lầm” - theo Hồng Diễm). Em có suy nghĩ gì về điều đó
|
Analyze the song of plowing in the fields at noon
Instruct
dew and sunshine", praising the diligence and patience of the people plowing our countryside. The image of a plow boy is so adorable:
“Plowing the fields at noon,
Holy sweat like rain from plowing fields.
Oh my God, hold the bowl of rice and push it,
A flexible aromatic bitter seeds want to share".
The first two bridges depict scenes of plowing fields. The folk song evokes before our eyes a farmer wading through mud, plow in hand, following the buffalo, under the bright "noon" sunlight of summer. People and buffaloes have to work extremely hard. Sweat poured out like rain. The onomatopoeia "holy thud" evokes the description of sweat falling drop by drop... drop by drop in a row, sowing into the space the sound of "holy thud". “Holy sweat like the rain of a plowed field” is an evocative comparison that describes the arduous work of plowing the fields, an indescribable hardship. “Rain” makes the rice green, just as “sweat” poured into the furrows makes the land more fertile. The art of comparing "sweat" with "rain" is truly creative, making readers and listeners deeply understand and sympathize with the hardships of farmers. Indeed, they have poured so much sweat and effort into the furrows and harrows, day after day, month after month, to produce rice and potatoes to feed society. The folk song paints a beautiful image of a farmer in his hometown fields. These are healthy, resilient, diligent and hard-working people:
“Plowing the fields at noon,
Sweat is like rain from plowing fields."
Two exclamations of "who!" rang out earnestly, creating a soft, sweet melody. The folk poet sends a beautiful sentiment to people near and far. Every time we "carry a bowl full of rice", we need to remember the hard work of the farmers who have plowed deeply to produce rice for the people. The poem is profound and poignant:
See more: The image of Saint Giong in the story "Thanh Giong" leaves many deep impressions on every Vietnamese person. Please understand your feelings about that hero: "Hey, hold a bowl full of rice,
A flexible aromatic bitter seeds want to share"
The last sentence of the folk song is created with a unique art of contrast. Sentence 8 is divided into two symmetrical clauses. The adjective "fragrant" contrasts with the adjective "bitter", "one grain" contrasts with "many parts", highlighting the creative labor of farmers. The folk song has raised people's awareness and emotions about the value of rice flowers, rice grains, and bowls of fragrant rice that we enjoy every day, which is truly precious. That's why our people call rice grains "golden grains" and "pearl grains"!
Like most folk songs and folk songs, the song "Plowing the fields at noon..." is written in the familiar six-eight verse. The poetic voice is gentle and poignant. The words are delicately selected, both rich in expressive power and rich in expressive nuances: sacred, fragrant, bitter, full of rice bowls,... Rhetorical devices: similes, comparisons, contrasts, contrasts, etc. Use creativity and write poems rich in images and music.
Our country is an agricultural country, over 80% of the population lives on agriculture. Vietnamese farmers are diligent, simple, gentle, brave and patriotic. Vietnamese farmers symbolize the sustainable vitality of the people
over four thousand years of building and defending the country. They are people themselves: “Know
Plant bamboo and wait for the day it becomes a stick - Take revenge without fear of a long time" (Nguyen Khoa Diem).
The diligence and resilience of farmers have created golden seasons in our country, bringing prosperity to society. Every family has a bowl of fragrant sticky rice, the country has a lot of food for export thanks to the efforts of farmers. Loving and grateful to farmers, I vow to engrave deeply into my heart this earnest message:
“Hey, bring a bowl full of rice,
Remember the work of early morning, tilling and plowing!”
Source: more: Let me prove that: "Mistakes also have two sides. Although it brings losses, it also brings lessons for life" ("Not afraid of mistakes" - according to Hong Diem). What do you think about that?
|
Đề bài: Em hãy viết bài văn Phân tích bài ca dao Khăn thương nhớ ai.
Khăn thương nhớ ai,
Khăn rơi xuống đất.
Khăn thương nhớ ai,
Khăn vắt lên vai.
Khăn thương nhớ ai,
Khăn chùi nước mắt.
Đèn thương nhớ ai,
Mà đèn không tắt,
Mắt thương nhớ ai,
Mắt ngủ không yên.
Đêm qua em những lo phiền,
Lo vì một nỗi không yên một bề…
Bài thơ được viết theo thể bốn chữ và kết thúc bằng hai câu lục bát rất phù hợp với việc gửi gắm tâm tư sâu kín và những trạng thái phức tạp, tinh tế của tâm hồn. Nhân vật trữ tình trong bài ca dao là cô gái đang sống trong tâm trạng thương nhớ người yêu khôn nguôi. Những lo phiền chất chứa trong lòng cũng xuất phát từ niềm thương nhớ ấy.
Thương nhớ vốn là thứ tình cảm khó hình dung, nhất là thương nhớ trong tình yêu. Vậy mà ở bài này, nó lại được diễn tả một cách cụ thể, tinh tế và gợi cảm nhờ cách nói bằng những hình ảnh tượng trưng mang tính nghệ thuật cao. Nỗi niềm thương nhớ của cô gái đối với người yêu đã được gửi gắm vào các sự vật như cái khăn, cái đèn, đôi mắt, đặc biệt là hình ảnh cái khăn.
Xưa kia, cái khăn thường là ki vật để trao duyên, gợi nhớ đến người yêu đang xa cách:
Gửi khăn, gửi ảo, gửi lời,
Gửi đôi chàng mạng cho người đàng xa.
Hay
Nhớ khi khăn mở, trầu trao,
Miệng thì cười nụ biết bao nhiêu tình.
Các tác giả dân gian mượn ngoại vật là cái khăn, cái đèn đã được nhân hoá và con mắt là hoán dụ để diễn tả tâm trạng của nhân vật trữ tình. Rõ ràng mục đích của nhà thơ bình dân là biến cái khăn, cái đèn, đôi mầt thành biểu tượng cho nỗi niềm thương nhớ của người con gái đang yêu.
Sáu câu thơ cấu trúc theo lối vắt dòng láy lại sáu lần từ Khăn ở vị trí đầu câu và láy lại ba lần câu hỏi thương nhớ ai thể hiện nỗi nhớ triền miên, da diết. Dường như mỗi lần hỏi là một lần nỗi nhớ lại trào dâng. Yêu và nhớ là hai mặt của tình yêu, yêu say đắm thì nhớ thiết tha. Đó là nỗi nhớ có không gian trải ra trên nhiều chiều: Khăn rơi xuống đất, Khăn vắt lên vai, Khăn chùi nước mắt và biểu hiện trong mọi suy nghĩ, hành động, khiến cô gái bồn chồn, khắc khoải như đứng đống lửa, như ngồi đống than và rơi nước mắt.
Sáu câu thơ hỏi khăn gồm 24 chữ, thì đã có đến 16 thanh bằng mà hầu hết là thanh không, gợi nỗi thương nhớ người yêu đến cháy lòng của cô gái. Tuy vậy, cô vẫn biết kìm nén dòng cảm xúc đang dâng trào trong tâm hồn.
Xem thêm: Dựa theo lời kể của thầy (cô) và các tranh vẽ đã cho, hãy kể lại từng đoạn truyện “Cây cỏ nước Nam”Nỗi nhớ mở rộng theo không gian và trải dài theo thời gian. Nỗi nhớ được tiếp tục gửi vào ngọn đèn: Đèn thương nhớ ai, Mà đèn không tắt. Chừng nào ngọn lửa tình yêu vẫn cháy sáng trong trái tim người con gái thì ngọn đèn kia vẫn sáng thâu đêm. Đèn không tắt hay chính con người đang thao thức thâu đêm trong nỗi nhớ thương đằng đẵng? Nếu trên kia, cái khăn đã biết giãi bày, thì ở đây, ngọn đèn cũng biết thổ lộ. Nó nói với chúng ta nhiều điều không có trong lời ca…
Cuối cùng, cô gái hỏi chính đôi mất của mình. Dù kín đáo, gợi cảm bao nhiêu chăng nữa thì cái khăn và ngọn đèn cũng chỉ là những hình ảnh được mượn làm cái cớ để gửi gắm nỗi niềm tâm sự. Đến đây, dường như không kìm lòng được nữa, cô gái đã hỏi trực tiếp chính mình: Mất thương nhớ ai, Mắt ngủ không yên. Nỗi nhớ thương nặng trĩu, cho nên: Đêm nằm lưng chẳng tới giường. Cứ nhắm mắt vào, hình ảnh người thương lại hiện ra, ngủ làm sao cho được! Ở trên là đèn không tắt thì ở đây Mắt ngủ không yên. Hình tượng thơ thật hợp lí, nhất quán và tự nhiên như tình yêu và niềm thương nỗi nhớ của cô gái.
Nếu tâm trạng cô gái trong những câu thơ bốn chữ được diễn tả bằng hình thức gián tiếp thì đến hai câu lục bát cuối cùng nó đã được giãi bày trực tiếp, ở trên, nỗi nhớ còn được che giấu ít nhiều bằng những hình ảnh có tính chất tượng trưng thì đến đây trái tim đã tự thốt lên Iời.
Tâm trạng lo phiền của cô gái cũng xuất phát từ cội nguồn thương nhớ. Cô Lo vì một nỗi không yên một bề. Một nỗi, một bề mà hoá thành rất nhiểu vấn vương, thao thức. Cô gái lo cho chàng trai hay lo rằng chàng trai không yêu thương mình tha thiết như mình đã yêu thương chàng? Đây cũng là tâm trạng phổ biến của những cô gái đang yêu.
Nỗi nhớ được nói đến dồn dập trong 10 câu thơ 4 chữ, chỉ có lời hỏi mả không có lời đáp. Nhưng câu trả lời đã được giản tiếp khẳng định trong năm điệp khúc thương nhớ ai vang mãi không dứt như một niềm khắc khoải để rồi cuối cùng trào ra thành một niềm lo âu thực sự cho hạnh phúc lứa đôi:
Đêm qua em những lo phiền,
Lo vì một nỗi không yên một bề…
Tình yêu dù trong sáng, mãnh liệt, lãng mạn bay bổng tới đâu chăng nữa cũng gắn bó với đời thường mà đời thường vốn lại nhiều dâu bể. Bởi thế mà Cô gái nhớ thương người yêu và lo lắng cho duyên phận đôi lứa không yên một bề. Vì sao vậy? Phải đặt bài ca này vào cuộc sống của người phụ nữ xưa và trong hệ thống của những bài ca than thân về hôn nhân và gia đình thì ta mới thấy hết ý nghĩa của hai câu kết, hạnh phúc lứa đôi của họ thường bấp bênh vì tình yêu tha thiết nhiều khi không dẫn đến hôn nhân. Mặc dầu vậy, bài ca dao vẫn là tiếng hát của một trái tim khao khát yêu thương.. Điều đó khiến cho nỗi nhớ này không hề bi luỵ mà như một nét đẹp trong tâm hồn đáng quý của các cô gái Việt ở làng quê xưa
Xem thêm: Trình bày ý nghĩa tư tưởng của văn bản "Ôn dịch, thuốc lá" của Nguyễn Khắc Viện
|
Topic: Write an essay Analyzing the folk song Towel and miss someone.
I miss someone so much,
The towel fell to the ground.
I miss someone so much,
Towel draped over shoulder.
I miss someone so much,
Towel to wipe away tears.
The lamp misses someone,
But the lights don't turn off,
Eyes miss someone,
Eyes sleep restlessly.
Last night I was worried,
Worrying about an uneasy feeling...
The poem is written in four-word form and ends with two six-eight sentences, which are very suitable for conveying deep thoughts and complex, delicate states of the soul. The lyrical character in the folk song is a girl living in a state of endless longing for her lover. The worries stored in my heart also come from that longing.
Missing is a feeling that is difficult to imagine, especially missing in love. Yet in this article, it is expressed in a specific, delicate and sexy way thanks to highly artistic symbolic images. The girl's longing for her lover was expressed in objects such as the scarf, the lamp, the eyes, especially the image of the scarf.
In the past, scarves were often used as tokens of love, reminiscent of a distant lover:
Send scarves, send virtual, send words,
Send a couple of guys' lives to people far away.
Good
Remember when the towel was opened, the betel was given,
The mouth smiles with so much love.
Folk authors borrow foreign objects such as scarves, anthropomorphized lamps and eyes as metonyms to express the lyrical character's mood. It is clear that the popular poet's purpose is to turn the scarf, the lamp, and the blinds into symbols of the longing and nostalgia of the girl in love.
The six lines of the poem are structured in a way that repeats the word "Khan" six times at the beginning of the sentence and repeats the question "I miss someone" three times, expressing a constant, intense longing. It seems like every time I ask, the nostalgia overflows. Love and miss are two sides of love, love passionately then miss passionately. It is a nostalgia with space spread out in many dimensions: The towel falls to the ground, The towel is draped over the shoulder, The towel wipes away tears and is expressed in every thought and action, making the girl restless and restless like standing at a fire. , like sitting on a pile of coals and shedding tears.
Six verses of the poem asking for towels include 24 words, there are 16 flat tones, most of which are empty tones, evoking the girl's burning longing for her lover. However, she still knew how to suppress the emotions rising in her soul.
See more: Based on the teacher's words and the pictures given, retell each paragraph of the story "Southern Grass and Plants". Nostalgia expands in space and stretches over time. Nostalgia is continued to be sent into the lamp: The lamp misses someone, but the lamp does not turn off. As long as the fire of love still burns brightly in a girl's heart, the other lamp will still shine brightly all night. The lights don't turn off or are people themselves lying awake all night longing for each other? If up there, the scarf knows how to confide, then here, the lamp also knows how to confide. It tells us many things that are not in the lyrics...
Finally, the girl asked her own husband. No matter how discreet and sexy, the scarf and the lamp are just images borrowed as an excuse to express one's feelings. At this point, seemingly unable to hold back any longer, the girl asked herself directly: Who do you miss? Eyes can't sleep peacefully. The nostalgia is so heavy that I can't even get to bed at night. Every time I close my eyes, the image of my loved one appears, how can I sleep! Up above, the light doesn't turn off, so here Eye can't sleep peacefully. The poetic image is reasonable, consistent and natural like the girl's love and nostalgia.
If the girl's mood in the four-word verses is expressed indirectly, then in the last two verses it is expressed directly. Above, the nostalgia is more or less hidden by images. If it has a symbolic nature, at this point the heart will say "I" by itself.
The girl's worried mood also comes from the source of nostalgia. Ms. Lo was uneasy because of one thing. One problem, one surface, turns into a lot of troubles and restlessness. Does the girl worry about the boy or does she worry that the boy doesn't love her as passionately as she loves him? This is also a common mood of girls in love.
Nostalgia is mentioned in 10 four-word verses, with only questions and no answers. But the answer has been simply affirmed in the five refrains of missing someone that echo endlessly like a restlessness that eventually spills out into a real worry for the couple's happiness:
Last night I was worried,
Worrying about an uneasy feeling...
Love, no matter how pure, intense, or romantic it is, is still attached to everyday life, and everyday life is full of troubles. That's why the girl misses her lover and worries about the unstable fate of the couple. Why? We must place this song in the lives of ancient women and in the system of songs of self-pity about marriage and family to see the full meaning of the two concluding sentences. Their couple's happiness was often unstable. Because passionate love often does not lead to marriage. Even so, the folk song is still the song of a heart longing for love. That makes this nostalgia not at all tragic but like a beauty in the precious souls of Vietnamese girls in the countryside. old
See more: Presenting the ideological meaning of the text "Epidemic, tobacco" by Nguyen Khac Vien
|
Phân tích bài ca dao Làng ta phong cảnh hữu tình
Hướng dẫn
“Làng ta phong cảnh hữu tình,
Dân cư giang khúc như hình con long.
Nhờ trời hạ kế sang đông,
Làm nghề cày cấy vun trồng tốt tươi.
Vụ năm cho đến vụ mười,
Trong làng ke’ gái người trai đua nghề.
Trời ra: gắng; trời lặn: về.
Ngày ngày, tháng thúng nghiệp nghề truân chuyên…”.
Mở đầu bài ca dao, hai tiếng “làng ta” cất lên sao nghe tha thiết, bồi hồi. Phong cảnh làng ta “hữu tình”, nên thơ và đáng yêu lắm! Vì đó là nơi chôn nhau cắt rốn của ta, nơi mà tâm hồn ta gắn liền với mái nhà êm ấm của mẹ cha, được sống trong tình yêu thương của ông bà, cha mẹ, anh chị em… Làng ta có giếng nước, gốc đa, sân đình, mái trường, con đường đi học và tình bạn tuổi thơ. Niềm vui, nỗi buồn, tình thương, nỗi nhớ, cuộc sống và ước mơ… của mỗi chúng ta gắn bó với “làng ta”,… “Phong cảnh hữu tình” vì làng ta có dòng sông nước chảy êm đềm, đẹp tựa con rồng đang uốn lượn. Một hình ảnh tuyệt đẹp được sáng tạo bằng biện pháp tu từ so sánh-:
“Dân cư giang khúc như hình con long”
Có yêu quê hương tha thiết thì mới cảm nhận “làng ta” đẹp và hữu tình như thế! Lũy tre, mái rạ, vườn tược, cây trái, ruộng đồng… được dòng sông như con rồng chở che, ôm ấp. Hai câu tiếp theo nói lên ước mơ nghìn đời của người dân “làng ta”, của người nông dân Việt Nam:
“Nhờ trời hạ kể sang đông,
Làm nghề cày cấy VUn trồng tốt tươi”
Họ cầu mong mưa thuận gió hòa “chân cứng đá mềm” để “cày cấy vun trồng”, lúa khoai… “tốt tươi”, làm nên những mùa vàng bội thu, no ấm. “Nhờ trời” vói tất cả niềm tin và hi vọng. Lời cầu mong ấy cho thấy tàm hồn người dân què rất hồn hậu, chất phác. Nhiều câu ca dao có hai tiếng “nhờ trời”, bởi lẽ công việc mùa màng phụ thuộc vào thời tiết:
“Nhờ trời mưa thuận gió hòa,
Xem thêm: Viết một đoạn văn (từ 8 đến 10 câu) nói về tác dụng của cốm (có thể dựa vào văn bản “Một thứ quà của lúa non: "cốm” của Thạch Lam) trong đó có sử dụng ít nhất hai cặp từ đồng nghĩa (gạch chân dưới những từ ấy)Nào cày, nào cấy trẻ già đúa nhau”…
Bốn câu cuối giới thiệu về con người và cuộc sống lao động nơi thôn dã của quê ta. Chiêm, mùa nối vụ, cày bừa cấy hái quanh năm:
“Vụ năm cho đến vụ mười,
Trong làng kẻ gái, người trai đua nghề…”
Câu thơ đăng đối, cân xứng hài hòa: Vụ năm – vụ mười, kẻ gái – người trai, trời ra – trời lặn, gắng – về. Nhịp sống lao động theo nông lịch đã đi vào nền nếp từ bao đời nay. Các động từ: “đua, gắng, về” – diễn tả những phẩm chất tốt đẹp như tinh thần chịu khó, cần cù, hay lam hay làm, lạc quan… của bà con nông dân “làng ta”. Lao động là niềm vui sáng tạo của họ:
“Trời ra: gắng; trời lặn: về,
Ngày ngày, tháng tháng, nghiệp nghề truân chuyên”
“Truân chuyên”nghĩa là vất vả, khó nhọc. Chữ “ngày” và “tháng” được lặp lại hai lần “ngày ngày, tháng tháng”, đó là một lối nói của người dân quê lấy thời gian để ca ngợi đức tính bền bì dẻo dai, cần mẫn của họ. Chính người dân cày Việt Nam đã đem mồ hôi tưới xuống luống cày mới làm ra lúa gạo, những bát cơm dẻo thơm nuôi sống xã hội và làm cho làng ta ngày thêm trù phú.
“Kẻgái người trai đua nghề”,lo làm ăn vì một cuộc sống ấm no hạnh phúc. Hình ảnh ấy làm ta liên tưởng đến những bức tranh sinh hoạt của đồng quê:
– “Bao giờ cho đến tháng hai,
Con gái làm cỏ, con trai be bờ…”
– “Trên đồng cạn, dưới đồng sâu,
Chồng cày, vợ cấy con trâu đi bừa”
Hình ảnh làng ta với con sông xanh mang vẻ đẹp bình dị đáng yêu. Con người làng ta chất phác và cần mẫn được nói đến trong bài ca dao tiêu biểu cho những phẩm chất tốt đẹp của người nông dân Việt Nam. Có thể nói đây là một trong những bài ca dao mộc mạc trong sáng nói về làng quê Việt Nam. Yêu màu xanh của bờ tre ruộng lúa, tự hào về người dân cày, ta yêu thêm đất nước và con người Việt Nam.
Nguồn: thêm: Trong đoạn kết của truyện ngắn Bến quê, nhà văn Nguyễn Minh Châu đã tập trung miêu tả chân dung và cử chỉ của nhân vật Nhĩ với vẻ rất khác thường: Anh... đó. Viết đoạn văn ngắn (8 - 10 câu) nêu ý nghĩa hành động trên của nhân vật này
|
Analysis of folk songs Our village has a charming landscape
Instruct
“Our village has a charming landscape,
The population is like a dragon.
Thanks to God, summer is coming to winter,
Working as a farmer and cultivating good crops.
Season five to season ten,
In the village, girls and boys compete for jobs.
Heaven comes out: try; sunset: return.
Day by day, month by day, a busy career...".
At the beginning of the folk song, the two words "our village" are sung, so they sound earnest and evocative. The scenery of our village is "charming", poetic and lovely! Because that is where our birthplace is, where our soul is attached to the warm home of our parents, living in the love of our grandparents, parents, brothers and sisters... Our village has a well, banyan tree, communal house yard, school roof, path to school and childhood friendship. The joy, sadness, love, nostalgia, life and dreams... of each of us are attached to "our village",... "Charming landscape" because our village has a river flowing smoothly, as beautiful as The dragon is winding. A beautiful image created using the rhetorical device of comparison-:
"The population is like a dragon"
Only if you love your homeland passionately will you feel that "our village" is so beautiful and charming! Bamboo ramparts, thatched roofs, gardens, fruit trees, fields... are protected and embraced by the river like a dragon. The next two sentences express the lifelong dream of the people of "our village", of the Vietnamese farmers:
“Thanks to the heavens, summer turns to winter,
Working as a plower, VUn grows well"
They pray for favorable weather and wind, "hard feet and soft rocks" to "plow and cultivate", "good" rice and potatoes, creating prosperous and prosperous golden seasons. “Thank God” with all faith and hope. That wish shows that the souls of the crippled people are very kind and simple. Many folk songs have the words "thank God", because crop work depends on the weather:
“Thanks to the favorable weather and wind,
See more: Write a paragraph (from 8 to 10 sentences) about the effects of green rice (can be based on the text "A gift of young rice: "green rice" by Thach Lam) in which you use at least two pair of synonyms (underline those words) Let's plow, let's plant, let's grow old together"...
The last four sentences introduce the people and working life in the countryside of our hometown. Chiem, season after season, plowing and harvesting all year round:
“The fifth to the tenth season,
In the village, girls and boys compete for jobs..."
The poem is symmetrical and harmoniously balanced: Fifth case - tenth case, girl - boy, sun out - sun down, try - return. The rhythm of working life according to the agricultural calendar has been in order for many generations. Verbs: "race, try, return" - describe good qualities such as the spirit of hard work, diligence, hard work, optimism... of the farmers of "our village". Labor is their creative joy:
“Heaven comes out: try; sunset: return,
Day by day, month and month, a busy career"
“Truan Chuyen” means hard work and hardship. The words "day" and "month" are repeated twice, "day day, month month", which is a way of saying that rural people take time to praise their qualities of perseverance, endurance, and diligence. It is the Vietnamese plowmen who pour their sweat into the furrows to produce rice, bowls of fragrant rice that feed society and make our village more prosperous.
"Girls and boys compete for jobs", worrying about business for a prosperous and happy life. That image reminds us of pictures of countryside activities:
– “How long until February,
Girls are weeding, boys are on the beach..."
- "On co shallow depth under contract,
Husband went plowing ox harrows bark"
The image of our village with a green river has a lovely, simple beauty. The simple and diligent people of our village mentioned in the folk song represent the good qualities of Vietnamese farmers. It can be said that this is one of the pure and simple folk songs about Vietnamese villages. Loving the green color of the bamboo banks of the rice fields, proud of the people plowing, we love the country and people of Vietnam even more.
Source: more: In the ending of the short story Ben Nghe, writer Nguyen Minh Chau focused on describing the portrait and gestures of the character Nhi with a very unusual look: You... that. Write a short paragraph (8 - 10 sentences) stating the meaning of the above action of this character
|
Đề bài: Phân tích bài ca dao sau:
Bắc thang lên tận cung mây,
Hỏi sao Cuội phải ấp cây cả đời?
Cuội nghe thấy nói, Cuội cười:
Bởi hay nói dối, phải ngồi gốc cây.
Bài làm
Hình ảnh chú Cuội xuất hiện khá nhiều trong cổ tích, ca dao tục ngữ và trở nên quen thuộc với trẻ thơ. Mỗi năm vào dịp Tết Trung thu, ngắm vầng trăng sáng, hình ảnh chú Cuội ngồi gốc cây đa lại hiển hiện rõ ràng trong trí tưởng tượng của các bạn nhỏ. Bài ca dao dưới đây gợi mở về sự tích đầy hấp dẫn đó:
Bắc thang lên tận cung mây,
Hỏi sao Cuội phải ấp cây cả đời?
Cuội nghe thấy nói, Cuội cười:
Bởi hay nói dối, phải ngồi gốc cây.
Từ một hiện tượng thiên nhiên có thật là các vết sẫm trên mặt trăng nhìn thấy rất rõ trong những đêm trăng sáng; với trí tưởng tượng phong phú, bay bổng, người xưa đã tưởng tượng ra hình ảnh cây đa, chú Cuội và lồng vào đó những câu chuyện thú vị có ý nghĩa giáo dục sâu xa.
Có hai truyện hoàn toàn khác nhau về nhân vật Cuội. Truyện thứ nhất là về chú Cuội chữa bệnh cứu người. Truyện thứ hai là về chú Cuội có tật xấu hay nói dối. Cuội ở truyện thứ nhất làm nghề đốn củi. Một hôm vào rừng, bất ngờ chạm trán với con hổ nhỏ, Cuội lấy búa đập chết nó. Hổ mẹ về, thấy con đã chết liền đến một gốc cây, bứt ít lá nhai nát đắp vào vết thương, hổ con sống lại. Từ chỗ nấp trên cao, Cuội nhìn thấy hết. Đợi mẹ con hổ đã đi xa, chàng bứng cả gốc cây đem về nhà trồng. Từ đó, nhờ lá thuốc thần mà Cuội cải tử hoàn sinh cho nhiều người trong vùng. Phú ông có cô con gái ngã vỡ đầu, Cuội đắp lá nhiều lần mà cô ta vẫn không sống lại. Chàng bèn nghĩ ra cách nặn một bộ óc bằng đất sét thay thế rồi đắp lá thần vào. Cô gái ấy sau thành vợ chàng.
Vợ Cuội khỏe mạnh, xinh đẹp nhưng lại có tính hay quên. Nhiều lần, Cuội đã dặn vợ là không được tưới nước bẩn cho cây nhưng rồi cô ta quên mất, lấy nước giải tưới. Cây rung chuyển dữ dội rồi bật gốc, bay lên trời. Vừa lúc Cuội đi rừng về, chàng vội vàng bám rễ cố lôi xuống nhưng cây đã kéo chàng lên tới tận cung trăng. Từ đó, những đêm trăng sáng, Cuội ngồi dưới gốc đa, đau đáu nhìn xuống trần gian, mong được trở lại.
Còn nhân vật Cuội trong truyện thứ hai là một cậu bé có tật hay nói dối. Đi chăn trâu, Cuội cùng lũ trẻ thịt trâu nướng ăn, còn cái đuôi đem cắm xuống lỗ nẻ rồi báo tin cho chú thím là trâu đã chui xuống đất. Thím tắm ngoài sông, Cuội vờ hớt hải chạy về bảo với chủ rằng thím đã chết đuối khiến chú hoảng kinh. Vì nói dối như thật nên nhiều phen Cuội làm cho xóm làng điên đảo. Thấy mọi người bực bội và tức giận nên Trời đã đày Cuội lên cung trăng, bắt ở một mình để không thể nói dối được nữa.
Ở truyện thứ nhất, chàng Cuội tốt bụng, giàu lòng thương người, phải ngồi gốc đa là vì tính hay quên của vợ. Ở truyện sau, Cuội là người xấu, phải ấp cây cả đời là vì bị trừng phạt cho chừa tật nói dối.
Bài ca dao có cấu trúc như một câu chuyện có đủ bối cảnh, sự kiện, nhân vật và đậm chất hoang đường, kì ảo. Ta hãy tưởng tượng nội dung câu chuyện như sau: Có người hiếu kì đã mất bao công phu Bắc thang lên đến cung mây, để Hỏi sao Cuội phải ấp cây cả đời. Nghe người kia hỏi thế, Cuội bật cười, trả lời không giấu điếm: Bởi hay nói dối, phải ngồi gốc cây.
Xem thêm: Tiếng khóc của Nguyễn Du trong bài thơ Độc Tiểu Thanh kí (Độc Tiểu Thanh kí)Từ xưa tới nay, người đời ít nói đến cái tốt của nhân vật chú Cuội. Hầu như họ chi đàm tiếu về tật nối dối của cuội. Việc Cuội phải ấp cây cả đời trên cung trăng được giải thích là do tội nói dối không thể tha thứ ấy.
Ca dao xưa thường dùng cách nói cường điệu, phóng đại để diễn tả sự việc. Không có cái thang nào có thể bắc lên tận cung mây được. Đó chi là trí tưởng tượng của người xưa được thể hiện qua cách nói dí dỏm, hài hước mà thôi. Mục đích của việc Bắc thang lên tận cung mây là để: Hỏi sao Cuội phải ấp cây cả đời? Hình ảnh Cuội phải ấp cây cả đời gợi sự mỉa mai, hài hước. Từ ấp cây hàm chứa thái độ giễu cợt của mọi người đối với chú Cuội. Cuội phải có tội lớn đến mức nào thì mới bị giam lỏng trên cung trăng. Trước câu hỏi có ý trêu chọc, chế giễu, Cuội không thể không thú thật:
Cuội nghe thấy nói Cuội cười:
Bởi hay nói dối, phải ngồi gốc cây.
Cái cười và lời đáp của Cuội thể hiện tính cách láu linh, tinh nghịch vốn là bản chất của nhân vật này. Lúc đầu, nghe người ta hỏi, Cuội cũng thoáng chạnh lòng, nhưng vốn dĩ thông minh nên Cuội đã lấy lại được bình tĩnh và trả lời bằng nụ cười tinh nghịch: Bởi hay nói dối phải ngồi gốc cây. Câu thơ này gồm hai vế có quan hệ nguyên nhân – kết quả, thể hiện thái độ không vòng vo, loanh quanh mà bộc trực, thẳng thắn của Cuội. Cuội nhận lỗi ngay, không thanh minh, không đổ lỗi cho ai. Cuội cũng tự nhận thấy việc phải ấp cây cả đời là sự trừng phạt đích đáng cho thói nói dối quá quắt của mình.
Nói dối như Cuội từ lâu đã là thành ngữ quen thuộc của nhân dân mỗi khi nhận xét về một người nào đó nói dối một cách trơn tru, tự nhiên như thật. Dân gian thích đùa cợt với Cuội, không ai ghét Cuội, nhưng cũng ít ai tin… Cuội. Dân gian đã rộng lòng tha thứ cho chú Cuội vì chú biết nhận khuyết điểm. Trẻ em cũng nhìn chú Cuội với con mắt đáng thương hơn là đáng trách. Hình ảnh Cuội phải ấp cây cả đời mãi mãi gây ấn tượng sâu sắc về một con người phạm nhiều khuyết điểm nhưng biết nhận lỗi một cách dũng cảm.
Nói dối là tật xấu khá phổ biến trong xã hội, tuy ở nhiều mức độ khác nhau. Nhưng Đi nói dối cha, về nhà nói dối chú thì nói dối không còn là biện pháp đối phó nhất thời nữa mà đã thành tật xấu khó sửa, thậm chí thành bản chất dối trá. Những kẻ dối trá không có lòng tự trọng, luôn dối người và dối cả mình, để mất niềm tin của mọi người.
Đối với những kẻ nót dối gây thiệt hại tới quyền lợi chính đáng của người khác thì phải có biện pháp xử lí thích đáng. Như chú Cuội đă bị Trời tách biệt khỏi trần gian, bắt ở một mình trên cung Quảng lạnh lẽo, không một bóng người để cho chú ta lừa dối. Hình phạt nặng nề như thế là đúng đắn, triệt tận gốc tật xấu của Cuội, đồng thời là bài học thiết thực nhắc nhở, cảnh tỉnh mọi người.
Nghệ thuật độc đáo của bài ca dao trên là mượn một câu chuyện hoàn toàn hoang đường để nói đến một hiện tượng hoàn toàn có thật trong cuộc sống hằng ngày. Nội dung bài ca dao là lời nhắc nhở: Nói dối là một tật xấu đáng bị chê cười, phê phán vì nó chỉ mang lại tác hại mà thôi. Giáo dục một vấn đề đạo đức quan trọng bằng hình thức hóm hỉnh, nhẹ nhàng như bài ca dao trên là tinh tế, khéo léo, thích hợp không chỉ với tuổi thơ mà cả với người lớn chúng ta.
Xem thêm: Hãy chỉ ra yếu tố thần kì trong Chuyện chức phán sự đền Tản Viên và phân tích tác dụng của chúng
|
Đề bài: Phân tích bài ca dao sau:
Bắc thang lên tận cung mây,
Hỏi sao Cuội phải ấp cây cả đời?
Cuội nghe thấy nói, Cuội cười:
Bởi hay nói dối, phải ngồi gốc cây.
Bài làm
Hình ảnh chú Cuội xuất hiện khá nhiều trong cổ tích, ca dao tục ngữ và trở nên quen thuộc với trẻ thơ. Mỗi năm vào dịp Tết Trung thu, ngắm vầng trăng sáng, hình ảnh chú Cuội ngồi gốc cây đa lại hiển hiện rõ ràng trong trí tưởng tượng của các bạn nhỏ. Bài ca dao dưới đây gợi mở về sự tích đầy hấp dẫn đó:
Bắc thang lên tận cung mây,
Hỏi sao Cuội phải ấp cây cả đời?
Cuội nghe thấy nói, Cuội cười:
Bởi hay nói dối, phải ngồi gốc cây.
Từ một hiện tượng thiên nhiên có thật là các vết sẫm trên mặt trăng nhìn thấy rất rõ trong những đêm trăng sáng; với trí tưởng tượng phong phú, bay bổng, người xưa đã tưởng tượng ra hình ảnh cây đa, chú Cuội và lồng vào đó những câu chuyện thú vị có ý nghĩa giáo dục sâu xa.
Có hai truyện hoàn toàn khác nhau về nhân vật Cuội. Truyện thứ nhất là về chú Cuội chữa bệnh cứu người. Truyện thứ hai là về chú Cuội có tật xấu hay nói dối. Cuội ở truyện thứ nhất làm nghề đốn củi. Một hôm vào rừng, bất ngờ chạm trán với con hổ nhỏ, Cuội lấy búa đập chết nó. Hổ mẹ về, thấy con đã chết liền đến một gốc cây, bứt ít lá nhai nát đắp vào vết thương, hổ con sống lại. Từ chỗ nấp trên cao, Cuội nhìn thấy hết. Đợi mẹ con hổ đã đi xa, chàng bứng cả gốc cây đem về nhà trồng. Từ đó, nhờ lá thuốc thần mà Cuội cải tử hoàn sinh cho nhiều người trong vùng. Phú ông có cô con gái ngã vỡ đầu, Cuội đắp lá nhiều lần mà cô ta vẫn không sống lại. Chàng bèn nghĩ ra cách nặn một bộ óc bằng đất sét thay thế rồi đắp lá thần vào. Cô gái ấy sau thành vợ chàng.
Vợ Cuội khỏe mạnh, xinh đẹp nhưng lại có tính hay quên. Nhiều lần, Cuội đã dặn vợ là không được tưới nước bẩn cho cây nhưng rồi cô ta quên mất, lấy nước giải tưới. Cây rung chuyển dữ dội rồi bật gốc, bay lên trời. Vừa lúc Cuội đi rừng về, chàng vội vàng bám rễ cố lôi xuống nhưng cây đã kéo chàng lên tới tận cung trăng. Từ đó, những đêm trăng sáng, Cuội ngồi dưới gốc đa, đau đáu nhìn xuống trần gian, mong được trở lại.
Còn nhân vật Cuội trong truyện thứ hai là một cậu bé có tật hay nói dối. Đi chăn trâu, Cuội cùng lũ trẻ thịt trâu nướng ăn, còn cái đuôi đem cắm xuống lỗ nẻ rồi báo tin cho chú thím là trâu đã chui xuống đất. Thím tắm ngoài sông, Cuội vờ hớt hải chạy về bảo với chủ rằng thím đã chết đuối khiến chú hoảng kinh. Vì nói dối như thật nên nhiều phen Cuội làm cho xóm làng điên đảo. Thấy mọi người bực bội và tức giận nên Trời đã đày Cuội lên cung trăng, bắt ở một mình để không thể nói dối được nữa.
Ở truyện thứ nhất, chàng Cuội tốt bụng, giàu lòng thương người, phải ngồi gốc đa là vì tính hay quên của vợ. Ở truyện sau, Cuội là người xấu, phải ấp cây cả đời là vì bị trừng phạt cho chừa tật nói dối.
Bài ca dao có cấu trúc như một câu chuyện có đủ bối cảnh, sự kiện, nhân vật và đậm chất hoang đường, kì ảo. Ta hãy tưởng tượng nội dung câu chuyện như sau: Có người hiếu kì đã mất bao công phu Bắc thang lên đến cung mây, để Hỏi sao Cuội phải ấp cây cả đời. Nghe người kia hỏi thế, Cuội bật cười, trả lời không giấu điếm: Bởi hay nói dối, phải ngồi gốc cây.
Xem thêm: Tiếng khóc của Nguyễn Du trong bài thơ Độc Tiểu Thanh kí (Độc Tiểu Thanh kí)Từ xưa tới nay, người đời ít nói đến cái tốt của nhân vật chú Cuội. Hầu như họ chi đàm tiếu về tật nối dối của cuội. Việc Cuội phải ấp cây cả đời trên cung trăng được giải thích là do tội nói dối không thể tha thứ ấy.
Ca dao xưa thường dùng cách nói cường điệu, phóng đại để diễn tả sự việc. Không có cái thang nào có thể bắc lên tận cung mây được. Đó chi là trí tưởng tượng của người xưa được thể hiện qua cách nói dí dỏm, hài hước mà thôi. Mục đích của việc Bắc thang lên tận cung mây là để: Hỏi sao Cuội phải ấp cây cả đời? Hình ảnh Cuội phải ấp cây cả đời gợi sự mỉa mai, hài hước. Từ ấp cây hàm chứa thái độ giễu cợt của mọi người đối với chú Cuội. Cuội phải có tội lớn đến mức nào thì mới bị giam lỏng trên cung trăng. Trước câu hỏi có ý trêu chọc, chế giễu, Cuội không thể không thú thật:
Cuội nghe thấy nói Cuội cười:
Bởi hay nói dối, phải ngồi gốc cây.
Cái cười và lời đáp của Cuội thể hiện tính cách láu linh, tinh nghịch vốn là bản chất của nhân vật này. Lúc đầu, nghe người ta hỏi, Cuội cũng thoáng chạnh lòng, nhưng vốn dĩ thông minh nên Cuội đã lấy lại được bình tĩnh và trả lời bằng nụ cười tinh nghịch: Bởi hay nói dối phải ngồi gốc cây. Câu thơ này gồm hai vế có quan hệ nguyên nhân – kết quả, thể hiện thái độ không vòng vo, loanh quanh mà bộc trực, thẳng thắn của Cuội. Cuội nhận lỗi ngay, không thanh minh, không đổ lỗi cho ai. Cuội cũng tự nhận thấy việc phải ấp cây cả đời là sự trừng phạt đích đáng cho thói nói dối quá quắt của mình.
Nói dối như Cuội từ lâu đã là thành ngữ quen thuộc của nhân dân mỗi khi nhận xét về một người nào đó nói dối một cách trơn tru, tự nhiên như thật. Dân gian thích đùa cợt với Cuội, không ai ghét Cuội, nhưng cũng ít ai tin… Cuội. Dân gian đã rộng lòng tha thứ cho chú Cuội vì chú biết nhận khuyết điểm. Trẻ em cũng nhìn chú Cuội với con mắt đáng thương hơn là đáng trách. Hình ảnh Cuội phải ấp cây cả đời mãi mãi gây ấn tượng sâu sắc về một con người phạm nhiều khuyết điểm nhưng biết nhận lỗi một cách dũng cảm.
Nói dối là tật xấu khá phổ biến trong xã hội, tuy ở nhiều mức độ khác nhau. Nhưng Đi nói dối cha, về nhà nói dối chú thì nói dối không còn là biện pháp đối phó nhất thời nữa mà đã thành tật xấu khó sửa, thậm chí thành bản chất dối trá. Những kẻ dối trá không có lòng tự trọng, luôn dối người và dối cả mình, để mất niềm tin của mọi người.
Đối với những kẻ nót dối gây thiệt hại tới quyền lợi chính đáng của người khác thì phải có biện pháp xử lí thích đáng. Như chú Cuội đă bị Trời tách biệt khỏi trần gian, bắt ở một mình trên cung Quảng lạnh lẽo, không một bóng người để cho chú ta lừa dối. Hình phạt nặng nề như thế là đúng đắn, triệt tận gốc tật xấu của Cuội, đồng thời là bài học thiết thực nhắc nhở, cảnh tỉnh mọi người.
Nghệ thuật độc đáo của bài ca dao trên là mượn một câu chuyện hoàn toàn hoang đường để nói đến một hiện tượng hoàn toàn có thật trong cuộc sống hằng ngày. Nội dung bài ca dao là lời nhắc nhở: Nói dối là một tật xấu đáng bị chê cười, phê phán vì nó chỉ mang lại tác hại mà thôi. Giáo dục một vấn đề đạo đức quan trọng bằng hình thức hóm hỉnh, nhẹ nhàng như bài ca dao trên là tinh tế, khéo léo, thích hợp không chỉ với tuổi thơ mà cả với người lớn chúng ta.
Xem thêm: Hãy chỉ ra yếu tố thần kì trong Chuyện chức phán sự đền Tản Viên và phân tích tác dụng của chúng
|
Phân tích bài ca dao Tháng chạp là tháng trồng khoai
Hướng dẫn
“Tháng chạp là tháng trồng khoai, Tháng giêng trồng đậu, tháng hai trồng cà.
Tháng ba càyvỡ ruộng ra,
Tháng tư làm mạ, mưa sa đẩy đồng.
Ai ơi cũng vợ cũng chổng,
Chồng cày vợ cấy, trong lòng vui thay!
Tháng năm gặt hái đã xong,
Nhờ trời một mầu năm nong thóc đẩy.
Nám nong đầy em xay em giã,
Trấu ủ phân, cám bã nuôi heo.
Sang năm lúa tốt tiền nhiều,
Em đem đóng thuế đóng sưu cho chồng.
Đói no có thiếp có chàng,
Còn hơn chung đỉnh giàu sang một mình”
Bài ca dao gồm có 14 câu viết theo thể thơ lục bát có xen vào một khổ thơ song thất lục bát. Hai lần tác giả chuyển đổi vần thơ (câu 6-7 và câu 12-13), nhưng người đọc vẫn cảm thấy giọng điệu liền mạch, tự nhiên và truyền cảm.
Hình ảnh người phụ nữ nông dân được nói đến trong bài ca dao rất dễ mến. Đó là một người vợ còn khá trẻ, rất đảm đang tháo vát, bàn tính công việc làm ăn với chồng, ước mơ được sống một cuộc đời ấm no, hạnh phúc.
Sáu câu đầu của bài ca dao liệt kê một số công việc đồng áng theo thời vụ. Từ tháng chạp năm trước đến tháng 5 năm sau, mỗi tháng là một công việc đúng mùa vụ. Ta thấy người vợ trẻ này nắm chắc nông lịch và công việc ruộng đồng, thời tiết. Chị đang bàn với chồng về việc trồng khoai, trồng đậu, trồng cà. Các chữ “tháng”, chữ “trồng” được điệp lại ba, bốn lần đã làm cho vần điệu, âm điệu của bài ca phong phú, uyển chuyển, nhịp nhàng như giọng nói dịu dàng của người phu nữ nhà quê hay lam hay làm:
“Tháng chạp là tháng trồng khoai,
Tháng giêng trồng đậu, tháng hai trồng cà”
Công việc trồng trọt cứ diễn ra tuần tự theo ngày tháng. Một nếp sống dân dã cần cù. Cuối năm, đầu năm, công việc trồng hoa màu cứ nối tiếp diễn ra khắp mọi miền quê đất nước. Tháng chạp khô ráo thì trồng khoai; khoai vừa bén rễ, đón xuân về mà xanh mướt đồng làng, tốt tươi nhiều củ. Mùa xuân đã bao đời nay là mùa sản xuất, là ngày hội xuống đồng của bà con dân cày Việt Nam. Giêng hai, thời tiết ấm áp, người nông dân đã đem công sức mồ hôi gieo trồng cày cấy, đem lại màu xanh biêng biếc, ngọt ngào cho đồng quê. Chứ không phải, không thể: “Tháng giêng là tháng ăn chơi,
Tháng hai cờ bạc, tháng ba hội hè…”
(Ca dao)
Tiếp theo người vợ trẻ nhắc nhở, bàn bạc với chồng hai công việc quan trọng trong tháng 3, tháng 4 là cày vỡ và gieo mạ trước khi “mưa sa đầy đồng”. Cày vỡ có nơi còn gọi là cày bở để xếp ải đón nắng mới đầu hè, một kinh nghiệm sản xuất quý báu láu đời của nhà nông quê ta, để làm cho đất đai tơi xốp, màu mỡ. Gieo mạ phải đúng thời vụ, phải tránh mưa rào. Gieo mạ gặp mưa rào “mưa sa đầy đồng” xem như mất trắng. Nắm chắc thời tiết, thời vụ để sản xuất, để gieo trồng, cấy hái ' là một kinh nghiệm quý báu được nhà nông đúc kết đã bao đời nay. Người vợ trẻ này thật giỏi giang:
“Tháng ba cày vỡ ruộng ra,
Tháng tư làm mạ mưa sa đầy đồng”
Niềm hạnh phúc gia đình là cảnh vợ chồng cùng làm ăn bên nhau “chồng cày vợ cấy, con trâu đi bừa” trên đổng cạn dưới đồng sâu. Đây cũng là nhịp sống lao động sản xuất tấp nập, vui vẻ, thuận hòa của xóm làng, cùa mỗi gia đình khắp chốn quê:
“Ai ai cũng vợ cũng chồng,
Chồng cày vợ cấy trong lòng vui thay!”
Cách dùng từ sóng đôi là một nét nghệ thuật đặc sắc thể hiện trong bài ca này. Các từ sóng đôi như: “cũng vợ cũng chồng”, “chồng cày vợ cấy” đã gợi tả một nhịp sống lao động hài hòa, quấn quýt của những cặp vợ chồng nhà quê đang sống trong niềm vui lao động, thuận hòa, hạnh phúc. Câu cảm thán với bốn tiếng “trong lòng vui thay!” cất lên diễn tả bao vui sướng dào dạt. Hai câu ca dao này nói lên được ba niềm vui bình dị của người dân cày Việt Nam: niềm vui trong lao động sản xuất, niêm vui làm ăn của vợ chồng, niềm vui của mỗi gia đình khắp làng quê. Tấm lòng của người nhà quê mới hồn hậu biết bao! Những con người chân lấm tay bùn làm ra hạt gạo dẻo thơm, củ khoai, hạt đậu ngọt bùi nuôi sống xã hội mới có niềm vui đẹp như vậy. Một văn bản khác ghi:
Xem thêm: Phân tích bài thơ Nam quốc sơn hà của Lí Thường Kiệt và nói lên cảm nghĩ của em“Nhà nhà vợ vợ chồng chồng,
Đi làm ngoài đồng, sá kể sớm trưa”
Qua đó, ta dễ dàng cảm thấy sắc thái biểu cảm giữa “sá kể sớm trưa” và “trong lòng vui thay!”.
Ba tháng trông cây không bằng một ngày trông quả. Vui sướng biết bao khi đón một vụ chiêm bội thu:
“Tháng năm gặt hái đã xong,
Nhờ trời một mẫu năm nong thóc đầy”
“Nhờ trời”hay “ơn trời” là cách nghĩ, cách cảm phác thực của người nhà quê xưa nay. “ơn trời mưa nắng phải thì” mà được mùa, xóm thôn no ấm. “Nhờ trời” mưa thuận gió hòa mà đồng điền tốt tươi:
“Nhờ trời hạ kế sang đông,
Làm nghê cày cấy, vun trổng tôt tươi”
“Một mẫu năm nong thóc đầy”cũng như “Một nong tằm là năm nong kén”, là cách tính, cách nói ước lệ của bà con nông dân ngày xưa khi được mùa lúa, mùa tằm.
Khổ thơ song thất lục bát xuất hiện làm cho giọng thơ thay đổi hẳn. Giọng thơ vui, điệu thơ hối hả đã thể hiện thật hay những lo toan về cách làm ăn, những niềm vui tỏa rộng trong lòng của một người vợ đảm đang, hiền thảo rất đáng quý trọng:
“Năm nong đầy/ em xay em giã,
Trấu ủ phân / cám bã nuôi heo.
Sang năm/ lúa tốt/ tiên nhiều,
Em dem đóng thuế ỉ đóng sưu cho chồng”
Một cách làm ăn chu đáo siêng năng: “em xay em giã”. Một nếp sống căn cơ, cần kiệm: “Trấu ủ phân, cám bã nuôi heo”. Niềm tự hào của người đàn bà nhà quê ngày xưa là có cuộc sống dư dật “lúa tốt tiền nhiều” để trang trải công nợ, sưu thuế cho chồng. Như thế mới mát mặt, mới hãnh diện với chị em trong làng ngoài xã.
Câu “Em đem đóng thuế, đống sưu cho chồng” là một tín hiệu cho biết bài ca dao này ra đời trên miền Bắc nước ta trước cách mạng tháng Tám. Sưu thuế dã man “món nợ nhà nước” ấy là nỗi lo đầy ám ảnh của hàng triệu người phụ nữ nhà quê (như chị Dậu) trong thời Pháp thuộc. Vì thế “lúa tốt tiền nhiều”, được mùa là ước mơ hạnh phúc bao đời của nhà nông quê ta.
Một nét đặc sắc về nghệ thuật trong khổ thơ song thất lục bát là sử dụng thành công nhiều từ ngữ sóng đôi như: “Em xay / em giã”, “lúa tốt / tiền nhiều”, “đóng thuế/ đóng sưu”. Những từ ngữ sóng đôi ấy đã làm cho bài ca dao giàu nhạc điệu, vừa làm nổi bật đức tính tháo vát, đảm đang, đôn hậu của người vợ trẻ, người đàn bà nhà quê ngày xưa.
Hai câu cuối là linh hổn, là điểm sáng của bài ca dao này:
“Đói no có thiếp có chàng,
Còn hơn chung đỉnh giàu sang một mình”
Ngôn từ đã cách điệu hóa, trang trọng hóa: thiếp – chàng, chung đỉnh, giàu sang. Câu ca dao đã nói lên thật ý vị ước mơ hạnh phúc của người phụ nữ ngày xưa là được sống và làm ăn trong cảnh vợ chồng yên ấm thủy chung. Chung đỉnh là hai vật dụng thời cổ tượng trưng cho sự giàu sang phú quý. Nhà thơ dân gian đã có một cách nói tương phản, so sánh rất hay. Tương phản về hai cuộc sống vật chất: “đói no” với “chung đỉnh giàu sang”. Tương phản về hai cảnh đời tinh thần: “Có thiếp có chàng” với “một mình” (cô đơn, lẻ loi). Một cách so sánh khẳng định “còn hơn”. Hai câu kết đã thể hiện một quan niệm về hạnh phúc gia đình mộc mạc, bình dị của nhân dân lao động xưa nay.
Ca dao dân ca là điệu tâm hồn của người dân cày Việt Nam từ bao đời nay. Bài ca dao “Tháng chạp là tháng trồng khoai” là điệu ru, tiếng hát đồng quê thể hiện ý vị đời sống lao động, đời sống tâm hồn phác thực, đôn hậu của người phụ nữ nông dân đảm đang, tháo vát, thủy chung trong tình yêu và hạnh phúc gia đình. Nó không phải là một bài ca về nông lịch.
Phép liệt kê và nghệ thuật dùng từ ngữ sóng đôi đã tạo nên vẻ đẹp riêng của bài ca dao này.
Nguồn: thêm: Giới thiệu về loài hoa của làng quê Việt Nam
|
Phân tích bài ca dao Tháng chạp là tháng trồng khoai
Hướng dẫn
“Tháng chạp là tháng trồng khoai, Tháng giêng trồng đậu, tháng hai trồng cà.
Tháng ba càyvỡ ruộng ra,
Tháng tư làm mạ, mưa sa đẩy đồng.
Ai ơi cũng vợ cũng chổng,
Chồng cày vợ cấy, trong lòng vui thay!
Tháng năm gặt hái đã xong,
Nhờ trời một mầu năm nong thóc đẩy.
Nám nong đầy em xay em giã,
Trấu ủ phân, cám bã nuôi heo.
Sang năm lúa tốt tiền nhiều,
Em đem đóng thuế đóng sưu cho chồng.
Đói no có thiếp có chàng,
Còn hơn chung đỉnh giàu sang một mình”
Bài ca dao gồm có 14 câu viết theo thể thơ lục bát có xen vào một khổ thơ song thất lục bát. Hai lần tác giả chuyển đổi vần thơ (câu 6-7 và câu 12-13), nhưng người đọc vẫn cảm thấy giọng điệu liền mạch, tự nhiên và truyền cảm.
Hình ảnh người phụ nữ nông dân được nói đến trong bài ca dao rất dễ mến. Đó là một người vợ còn khá trẻ, rất đảm đang tháo vát, bàn tính công việc làm ăn với chồng, ước mơ được sống một cuộc đời ấm no, hạnh phúc.
Sáu câu đầu của bài ca dao liệt kê một số công việc đồng áng theo thời vụ. Từ tháng chạp năm trước đến tháng 5 năm sau, mỗi tháng là một công việc đúng mùa vụ. Ta thấy người vợ trẻ này nắm chắc nông lịch và công việc ruộng đồng, thời tiết. Chị đang bàn với chồng về việc trồng khoai, trồng đậu, trồng cà. Các chữ “tháng”, chữ “trồng” được điệp lại ba, bốn lần đã làm cho vần điệu, âm điệu của bài ca phong phú, uyển chuyển, nhịp nhàng như giọng nói dịu dàng của người phu nữ nhà quê hay lam hay làm:
“Tháng chạp là tháng trồng khoai,
Tháng giêng trồng đậu, tháng hai trồng cà”
Công việc trồng trọt cứ diễn ra tuần tự theo ngày tháng. Một nếp sống dân dã cần cù. Cuối năm, đầu năm, công việc trồng hoa màu cứ nối tiếp diễn ra khắp mọi miền quê đất nước. Tháng chạp khô ráo thì trồng khoai; khoai vừa bén rễ, đón xuân về mà xanh mướt đồng làng, tốt tươi nhiều củ. Mùa xuân đã bao đời nay là mùa sản xuất, là ngày hội xuống đồng của bà con dân cày Việt Nam. Giêng hai, thời tiết ấm áp, người nông dân đã đem công sức mồ hôi gieo trồng cày cấy, đem lại màu xanh biêng biếc, ngọt ngào cho đồng quê. Chứ không phải, không thể: “Tháng giêng là tháng ăn chơi,
Tháng hai cờ bạc, tháng ba hội hè…”
(Ca dao)
Tiếp theo người vợ trẻ nhắc nhở, bàn bạc với chồng hai công việc quan trọng trong tháng 3, tháng 4 là cày vỡ và gieo mạ trước khi “mưa sa đầy đồng”. Cày vỡ có nơi còn gọi là cày bở để xếp ải đón nắng mới đầu hè, một kinh nghiệm sản xuất quý báu láu đời của nhà nông quê ta, để làm cho đất đai tơi xốp, màu mỡ. Gieo mạ phải đúng thời vụ, phải tránh mưa rào. Gieo mạ gặp mưa rào “mưa sa đầy đồng” xem như mất trắng. Nắm chắc thời tiết, thời vụ để sản xuất, để gieo trồng, cấy hái ' là một kinh nghiệm quý báu được nhà nông đúc kết đã bao đời nay. Người vợ trẻ này thật giỏi giang:
“Tháng ba cày vỡ ruộng ra,
Tháng tư làm mạ mưa sa đầy đồng”
Niềm hạnh phúc gia đình là cảnh vợ chồng cùng làm ăn bên nhau “chồng cày vợ cấy, con trâu đi bừa” trên đổng cạn dưới đồng sâu. Đây cũng là nhịp sống lao động sản xuất tấp nập, vui vẻ, thuận hòa của xóm làng, cùa mỗi gia đình khắp chốn quê:
“Ai ai cũng vợ cũng chồng,
Chồng cày vợ cấy trong lòng vui thay!”
Cách dùng từ sóng đôi là một nét nghệ thuật đặc sắc thể hiện trong bài ca này. Các từ sóng đôi như: “cũng vợ cũng chồng”, “chồng cày vợ cấy” đã gợi tả một nhịp sống lao động hài hòa, quấn quýt của những cặp vợ chồng nhà quê đang sống trong niềm vui lao động, thuận hòa, hạnh phúc. Câu cảm thán với bốn tiếng “trong lòng vui thay!” cất lên diễn tả bao vui sướng dào dạt. Hai câu ca dao này nói lên được ba niềm vui bình dị của người dân cày Việt Nam: niềm vui trong lao động sản xuất, niêm vui làm ăn của vợ chồng, niềm vui của mỗi gia đình khắp làng quê. Tấm lòng của người nhà quê mới hồn hậu biết bao! Những con người chân lấm tay bùn làm ra hạt gạo dẻo thơm, củ khoai, hạt đậu ngọt bùi nuôi sống xã hội mới có niềm vui đẹp như vậy. Một văn bản khác ghi:
Xem thêm: Phân tích bài thơ Nam quốc sơn hà của Lí Thường Kiệt và nói lên cảm nghĩ của em“Nhà nhà vợ vợ chồng chồng,
Đi làm ngoài đồng, sá kể sớm trưa”
Qua đó, ta dễ dàng cảm thấy sắc thái biểu cảm giữa “sá kể sớm trưa” và “trong lòng vui thay!”.
Ba tháng trông cây không bằng một ngày trông quả. Vui sướng biết bao khi đón một vụ chiêm bội thu:
“Tháng năm gặt hái đã xong,
Nhờ trời một mẫu năm nong thóc đầy”
“Nhờ trời”hay “ơn trời” là cách nghĩ, cách cảm phác thực của người nhà quê xưa nay. “ơn trời mưa nắng phải thì” mà được mùa, xóm thôn no ấm. “Nhờ trời” mưa thuận gió hòa mà đồng điền tốt tươi:
“Nhờ trời hạ kế sang đông,
Làm nghê cày cấy, vun trổng tôt tươi”
“Một mẫu năm nong thóc đầy”cũng như “Một nong tằm là năm nong kén”, là cách tính, cách nói ước lệ của bà con nông dân ngày xưa khi được mùa lúa, mùa tằm.
Khổ thơ song thất lục bát xuất hiện làm cho giọng thơ thay đổi hẳn. Giọng thơ vui, điệu thơ hối hả đã thể hiện thật hay những lo toan về cách làm ăn, những niềm vui tỏa rộng trong lòng của một người vợ đảm đang, hiền thảo rất đáng quý trọng:
“Năm nong đầy/ em xay em giã,
Trấu ủ phân / cám bã nuôi heo.
Sang năm/ lúa tốt/ tiên nhiều,
Em dem đóng thuế ỉ đóng sưu cho chồng”
Một cách làm ăn chu đáo siêng năng: “em xay em giã”. Một nếp sống căn cơ, cần kiệm: “Trấu ủ phân, cám bã nuôi heo”. Niềm tự hào của người đàn bà nhà quê ngày xưa là có cuộc sống dư dật “lúa tốt tiền nhiều” để trang trải công nợ, sưu thuế cho chồng. Như thế mới mát mặt, mới hãnh diện với chị em trong làng ngoài xã.
Câu “Em đem đóng thuế, đống sưu cho chồng” là một tín hiệu cho biết bài ca dao này ra đời trên miền Bắc nước ta trước cách mạng tháng Tám. Sưu thuế dã man “món nợ nhà nước” ấy là nỗi lo đầy ám ảnh của hàng triệu người phụ nữ nhà quê (như chị Dậu) trong thời Pháp thuộc. Vì thế “lúa tốt tiền nhiều”, được mùa là ước mơ hạnh phúc bao đời của nhà nông quê ta.
Một nét đặc sắc về nghệ thuật trong khổ thơ song thất lục bát là sử dụng thành công nhiều từ ngữ sóng đôi như: “Em xay / em giã”, “lúa tốt / tiền nhiều”, “đóng thuế/ đóng sưu”. Những từ ngữ sóng đôi ấy đã làm cho bài ca dao giàu nhạc điệu, vừa làm nổi bật đức tính tháo vát, đảm đang, đôn hậu của người vợ trẻ, người đàn bà nhà quê ngày xưa.
Hai câu cuối là linh hổn, là điểm sáng của bài ca dao này:
“Đói no có thiếp có chàng,
Còn hơn chung đỉnh giàu sang một mình”
Ngôn từ đã cách điệu hóa, trang trọng hóa: thiếp – chàng, chung đỉnh, giàu sang. Câu ca dao đã nói lên thật ý vị ước mơ hạnh phúc của người phụ nữ ngày xưa là được sống và làm ăn trong cảnh vợ chồng yên ấm thủy chung. Chung đỉnh là hai vật dụng thời cổ tượng trưng cho sự giàu sang phú quý. Nhà thơ dân gian đã có một cách nói tương phản, so sánh rất hay. Tương phản về hai cuộc sống vật chất: “đói no” với “chung đỉnh giàu sang”. Tương phản về hai cảnh đời tinh thần: “Có thiếp có chàng” với “một mình” (cô đơn, lẻ loi). Một cách so sánh khẳng định “còn hơn”. Hai câu kết đã thể hiện một quan niệm về hạnh phúc gia đình mộc mạc, bình dị của nhân dân lao động xưa nay.
Ca dao dân ca là điệu tâm hồn của người dân cày Việt Nam từ bao đời nay. Bài ca dao “Tháng chạp là tháng trồng khoai” là điệu ru, tiếng hát đồng quê thể hiện ý vị đời sống lao động, đời sống tâm hồn phác thực, đôn hậu của người phụ nữ nông dân đảm đang, tháo vát, thủy chung trong tình yêu và hạnh phúc gia đình. Nó không phải là một bài ca về nông lịch.
Phép liệt kê và nghệ thuật dùng từ ngữ sóng đôi đã tạo nên vẻ đẹp riêng của bài ca dao này.
Nguồn: thêm: Giới thiệu về loài hoa của làng quê Việt Nam
|
Phân tích bài ca dao thương thay thân phận con tằm
Hướng dẫn
“Con tằm”và “lũ kiến” là hai ẩn dụ nói về những thân phận “nhỏ bé” sống âm thầm dưới đáy xã hội cũ. Thật đáng “thương thay”, thương xót cho những kiếp người phải làm đầu tắt mặt tối mà chẳng được ăn, được hưởng một tí gì! Khác nào một kiếp tằm, một kiếp kiến!
“Thương thay thân phận con tằm,
Kiếm ăn được mấy phải nằm nhả tơ.
Thương thay lũ kiến li ti,
Kiểm ăn được mấy phải đi tìm mồi”
Kiếp tằm “phải nằm nhả tơ”,kiếp kiến “phải đì tìm mồi”,nhưng “kiếm ăn được mấy”.Điệp ngữ “kiếm ăn được mấy”cất lên hai lần đã tố cáo và phản kháng xã hội cũ bất công, kẻ thì “ngồi mát hưởng bát vàng”, “kẻ ăn không hết, người lấn không ra”.
Hạc, chim, con cuốc,là ba ẩn dụ nói về những thân phận, số phận nếm trải nhiều bi kịch cuộc đời. “Hạc” muốn tìm đến mọi chân trời, muốn “lánh đường mây” để thỏa chí tự do, phiêu bạt. “Chim” muốn bay cao, bay xa, tung hoành giữa bầu trời, nhưng chỉ “mỏi cánh” mà thôi. Đó là những cuộc đời phiêu bạt, những cố gắng vô vọng của người lao động trong xã hội cũ, thật “thương thay” thật đáng thương!
“Thương thay hạc lánh đường mây,
Chim bay mỏi cánh biết ngày nào thôi”
Thân phận con cuốc càng đáng “thương thay”! Nó đã “kêu ra máu” giữa trời mà “cố người nào nghe”, nào có được cảm thông, được san sẻ. “Con cuốc” trong văn cảnh này biểu hiện cho nỗi oan trái, cho nỗi đau khổ của nhân dân lao động không được lẽ công bằng nào soi tỏ. Càng kêu máu càng chảy, càng đau khổ tuyệt vọng:
“Thương thay con cuốc giữa trời,
Dầu kêu ra máu cố người nào nghe”
Ngoài cách sử dụng điệp ngữ và ẩn dụ, những câu hát than thân này còn được diễn tả dưới hình thức câu hỏi tu từ: “kiếm ăn được mấy”, “biết ngày nào thôi”, “có người nào nghe”. Giá trị phản kháng và tố cáo càng trở nên sâu sắc, mạnh mẽ.
Nguồn: thêm: Cảm nhận về bài tùy bút ‘Mùa xuân của tôi’ của Vũ Bằng
|
Analyze the folk song that mourns the fate of the silkworm
Instruct
“Silkworm” and “ants” are two metaphors about the “small” people living silently at the bottom of the old society. How pitiful it is, pitiful for the lives of people who have to work hard and not be able to eat or enjoy anything at all! It's like a life of silkworms and a life of ants!
“Pity the fate of the silkworm,
To earn a living, you have to lie down and spin silk.
Pity the tiny ants,
If you can't eat anything, you have to go find prey."
In the life of a silkworm "you have to lie down and spin silk", in the life of an ant "you have to search for prey", but "you can't make a living". The alliteration "you can earn a living" is repeated twice, denouncing and protesting against the old unjust society. Some "sit coolly and enjoy the golden bowl", "some can't eat it all, some can't get out".
Crane, bird, and hoe are three metaphors that talk about the fate and fate of experiencing many tragedies in life. "Hac" wants to reach every horizon, wants to "avoid the clouds" to satisfy his desire for freedom and adventure. “Birds” want to fly high, fly far, fly in the sky, but their wings are just “tired”. Those are the wandering lives, the hopeless efforts of workers in the old society, "so pitiful" so pitiful!
“Pity the cranes that flee from the clouds,
Birds get tired of flying and only know when the day will come."
The hoe's fate is even more "pitiful"! It "cried out blood" in the sky but "no one listened" or could sympathize or share. "Hoe" in this context represents the injustice, the suffering of the working people that is not illuminated by any justice. The more you scream, the more blood flows, the more suffering and despair:
“Pity the hoe in the sky,
Even if you cry out for blood, no one will listen."
In addition to using alliteration and metaphor, these songs of self-pity are also expressed in the form of rhetorical questions: "How much money can I make?", "Who knows when?", "Is there anyone who will listen?" The value of protest and denunciation becomes deeper and stronger.
Source: more: Comments on the essay 'My Spring' by Vu Bang
|
Phân tích bài ca dao Trâu ơi ta bảo trâu này
Hướng dẫn
“Trâu ơi, ta bảo trâu này,
Trâu ra ngoài ruộng, trâu cày với ta.
Cấy cày vốn nghiệp nông gia,
Ta đây trâu đấy ai mà quản công.
Bao giờ cây lúa còn bông,
Thì cồn ngọn cỏ ngoài đồng trâu ăn”
Đây là lời an ủi, vỗ về của người nông dân với tất cả tấm lòng yêu thương, quý mến và biết ơn sâu sắc đối với con trâu của gia đình mình.
Mở đầu bài ca dao là tiếng gọi trâu trìu mến. Hai tiếng cảm thán “Trâu ơi” vang, lên tha thiết ngọt ngào. Mối quan hệ giữa người với trâu là “bạn bè”, bình đẳng và cảm thông. Công việc đồng áng tuy vất vả, nhưng vốn cần cù nên người nông dân không ngại những công việc chân lấm tay bùn mà còn phấn khởi làm ăn. Đã yêu lao động, yêu quý nghề nông, nên đối với công cụ sản xuất, đối với con trâu, người nông dân cũng biểu lộ tất cả sự chăm sóc, trìu mến của họ. Con trâu là cánh tay đắc lực của nhà nông, đồng cam cộng khổ với nhau, tin cậy “trâu ra ngoài ruộng trâu cày với ta”. Nếu thay chữ “với” bằng chữ “cho” (trâu cày cho ta) thì mối quan hệ thân tình sẽ bị phá vỡ, đâu còn nữa! Trâu với người cùng chung chịu gian truân, thức khuya dậy sớm một nắng hai sương. “Lao xao gà gáy rạng ngày, Vai vác cái cày tay dắt con trâu…”; “Trên đồng cạn dưới đồng sâu, Chồng cày vợ cấy con trâu đi bừa”. Và những buổi cày đồng dưới ánh nắng chang chang mùa hạ, trâu với người “mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày”. “Trâu cày với ta” động viên, vỗ về, tin cậy.
Cấy cày là công việc nhà nông, là “nghiệp nông gia”. Chữ “vốn” gợi nên sự lâu đời của một nền nông nghiệp. Dân ta vốn có nghề trồng lúa nước lâu đời.
Xem thêm: Cảm nhận của em về bài thơ “Cảnh khuya” của Hồ Chí MinhCon trâu đa được thuần dưỡng, trở thành vật nuôi trong gia đình, đứng đầu hàng lục súc. Con trâu là tài sản quý giá. “Con trâu là đầu cơ nghiệp”.Trâu đã giúp nhà nông cấy cày làm nên những hạt gạo trắng thơm, những mùa vàng bát ngát “ta đây trâu đấy, ai mà quản cóng”.Như một câu ca đã lưu truyền:
“Cánh đổng ta năm đôi ba vụ.
Trâu với người vất vả quanh năm”
Vất vả quanh năm như thế, nhưng người với trâu chia sẻ ngọt bùi, luôn luôn bên nhau “ta đây trâu đấy”nên chẳng bao giờ “ai mà quản công”.Người chăm sóc nuôi nấng trâu. Trâu giúp người cày bừa. Tình bạn, tình thương đã được hình thành qua mấy nghìn năm dằng dặc.
Hai càu cuối, như một lời nguyên, rất chân thành cảm động, chứa chan tình nghĩa thủy chung:
. “Bao giờ cây lúa còn bông,
Thì còn ngọn cỏ ngoài đồng trâu ăn”
Ý thơ đăng đối: lúa còn thì cò còn, người được hạnh phúc, ấm no thì trâu cũng được no ấm. Người và trâu cùng trường tồn bên nhau. Cấu trúc vần thơ “Bao giờ còn… thì còn…”, ý thơ được nhấn mạnh, lời thề nguyền trở nên sắt đá. Chân lí cuộc sống và chân lí nghệ thuật hòa quyện trong một lời thề nguyền đẹp. Có tâm hồn chất phác, hồn hậu, có tinh nghĩa thủy chung mới có cách ứng xử đẹp như vậy.
Nói về bài ca dao này, nhà văn Vũ Ngọc Phan trong cuốn “Tục ngữ ca dao dân ca Việt hỉ am”đã viết: “Tình cảm của người nông dân Việt Nam đối với con trâu thật là thắm thiết”(…). Lòng yêu quý công cụ, yêu thương loài vật thể hiện trong một chữ “ai”bình đẳng và thõng cảm…”.
Bài ca dao chứa chan tình nghĩa. Nó phản ánh tấm lòng đôn hậu, hiền lành và chất phác của người dân cày Việt Nam. Trên đồng ruộng quê ta đã mấy ngàn năn chưa bao giờ vắng bóng con trâu. Có thể một ngày mai tươi đẹp ca hát, nền nông nghiệp Việt Nam được cơ giới hóa, nhưng con trâu vẫn có một vị trí quan trọng trong nền kinh tế, trong tâm hồn nhân dân ta.
Nguồn: thêm: Phân tích nhân vật Quan phụ mẫu tong chuyện Sống chết mặc bay
|
Analysis of the folk song Buffalo, I say this buffalo
Instruct
“O buffalo, I say to this buffalo,
The buffalo goes out into the fields, the buffalo plows with us.
Plowing and plowing are the capital of farmers,
I am a buffalo, who cares?
As long as the rice plant still blooms,
Then the grass in the field is eaten by the buffalo."
These are words of comfort and consolation from the farmer with all his love, affection and deep gratitude for his family's buffalo.
The folk song begins with an affectionate buffalo call. Two sounds of exclamation "Oh Buffalo" rang out, sounding sweet and earnest. The relationship between people and buffalo is "friends", equality and sympathy. Although farm work is difficult, farmers are inherently diligent, so farmers do not mind dirty work but are still excited about doing business. Having loved labor and farming, farmers also show all their care and affection towards production tools and buffaloes. The buffalo is a powerful arm of the farmer, sharing the suffering together, trusting "the buffalo goes out into the fields and plows with us". If we replace the word "with" with the word "for" (the buffalo plows for us), the intimate relationship will be broken, no more! Buffaloes and people share hardships, staying up late and waking up early, one day, two days of dew. "The rooster crows at dawn, The buffalo is on the shoulder carrying the plow..."; "In the shallow fields and in the deep fields, the husband plows and the wife plants the buffalo to harrow." And during plowing sessions under the hot summer sun, buffaloes and people "sweated like rain from plowed fields". "The buffalo plows with me" encouragement, comfort, and trust.
Plowing is a farmer's job, a "farmer's profession". The word "capital" evokes the longevity of an agricultural system. Our people have a long history of wet rice cultivation.
See more: My feelings about Ho Chi Minh's poem "Night Scene" The buffalo was domesticated and became a family pet, ranking first in the six cattle ranks. The buffalo is a valuable asset. "The buffalo is the source of the fortune." The buffalo has helped farmers cultivate and plow, creating fragrant white rice grains and endless golden seasons. "I am here, the buffalo, who cares for the frost?" As a song has passed down:
“Our fields have two or three crops each year.
Buffaloes and people work hard all year round"
It's so hard all year round, but people and buffaloes share the sweetness, always together "it's me, it's the buffalo" so there's never "anyone else in charge". People take care of raising the buffalo. Buffaloes help people plow. Friendship and love have been formed over thousands of years.
The last two sentences, like an original statement, are very sincere and touching, filled with faithful love:
. “As long as the rice plant has flowers,
There is still a blade of grass in the field for the buffalo to eat."
The idea of the poem is the same: as long as the rice is still there, the stork is still there, if people are happy and prosperous, then the buffalo will also be prosperous. Humans and buffaloes live together forever. The poetic structure "As long as there is... will still be...", the poetic meaning is emphasized, the vow becomes iron. The truth of life and the truth of art blend in a beautiful vow. Only people with a simple, kind, and loyal soul can have such beautiful behavior.
Talking about this folk song, writer Vu Ngoc Phan in the book "Proverbs and folk songs of Viet hi am" wrote: "The affection of Vietnamese farmers for the buffalo is truly passionate" (...). The love for tools and animals is expressed in the word "who" is equal and sympathetic...".
The folk song is filled with love. It reflects the kind, gentle and simple heart of Vietnamese farmers. In the fields of our countryside for thousands of years, there has never been a buffalo absent. There may be a beautiful tomorrow when Vietnamese agriculture is mechanized, but the buffalo still has an important position in the economy and in the souls of our people.
Source: more: Character analysis of Guan and mother in the story Life and death let fly
|
Phân tích bài ca dao Trăm năm đành lỗi hẹn hò, cây đa bến cũ con đà khác đưa
Hướng dẫn
Bài ca dao đã nói lên toàn bộ một câu chuyện tình đẹp nhưng kết thúc không có hậu. Trong kho tàng văn học Việt Nam, những tác phẩm ca dao dân ca thường dễ nhớ, dễ đi vào lòng người, bởi nó gắn liền với cuộc sống chân thực của con người, nó là những tình cảm lứa đôi cao đẹp trong sáng.
Bài ca dao đã miêu tả lại khung cảnh mà nhân vật trữ tình đã từng gắn bó, đã từng thiết tha, không thể là nơi nào khác ngoài mảnh đất miền Trung với những phương ngữ rất dễ nhận biết như: từ “còn lựa” nghĩa là “còn đó” và “mô” nghĩa là “đâu”.
Bài ca dao đã sử dụng những hình ảnh ẩn dụ tượng trưng để nói lên vẻ đẹp trong câu chuyện tình của đôi trái gái, và cũng là nỗi buồn khi đôi trai gái phải xa nhau. Những loại ẩn dụ này đã trở nên quá quen thuộc trong dân ca Việt Nam khiến nó trở nên những hình ảnh ước lệ rất tượng trưng mà người đọc khi nghe nhắc tới chứng đều liên tưởng được ngay một cuộc tình giữa trai và gái. Con thuyền có nét nghĩa chỉ sự đi lại tự do và vì thế mà chủ động, thường là hình ảnh nói về chàng trai và “cây đa”, “bến nước” là những vật đứng yên, không chủ động được trong tình cảm, lại thường nói về người phụ nữ. Có lẽ do quan hệ tế nhị về giới tính và cũng do chế độ hôn nhân phong kiến đã hình thành một nếp liên tưởng tự nhiên có từ lâu đời trong văn học thế này rồi chăng?
Có rất nhiều bài ca dao nói về tình yêu, phần lớn đếu là những câu chuyện buồn, phải xa cách.Xem thêm: Phân tích tứ thơ độc đáo trong bài Đây mùa thu tới của Xuân Diệu
Thuyền ơi có nhớ bến chăng?
Bến thì một dạ, khăng khăng đợi thuyền
Cũng một ý tương tự như trên, cô gái ví mình là:
Cây đa cũ, bến đò xưa
Bộ hành có nghĩa, nắng mưa củng chờ
So với bài ca dao trên, những hình ảnh truyền thống vẫn không hề thay đổi, cũng “cây đa”, “bến cũ”, cũng là “con đò”… Nhưng nhân vật trữ tình thì lại khác. Không phải là cô gái mà là lời của chàng trai. Nói đúng hơn là lời của người trai. Bởi trong quá khứ, chàng đã rời xứ sở ra đi và nay trở về, mới thốt ra được những câu tuyệt diệu để ngụ tâm tình của mình:
Ngẩn ngơ trăm mối bên lòng
Chàng trai đang tâm sự với chính minh mà thôi, đang buồn đau cho mối tình của mình. Con người của hôm nay gặp lại con người của quá khứ, gặp lại những vàng son của kỉ niệm đã qua rồi là “cây đa, bến cũ, con đò”. Ba hình ảnh ấy tượng trưng, là ẩn dụ, gần như không cần bàn cãi. Nhưng liệu đó có phải là ba hình ảnh có thực, đang hiện ra trước mắt người là về bến sông chờ một chuyến dò sang để thăm lại quê nhà, thăm lại dấu tích cũ? Trăm năm đành lỗi hẹn hò.
Thực tế xã hội xưa cho thấy, việc bội thề không tính trước có thể xảy ra thường xuyên với những cặp trai gái yêu nhau lắm chứ? Những chuyến đi xa không hẹn ngày trở lại (có lẽ là vì mục đích của miếng ăn và cuộc sống giày vò) đã cắt đứt thê thẳm những cuộc tình duyên như thế. Ta đã từng nghe cái ngậm ngùi nói những lời chia tay “Anh đi anh nhớ quê nhà”, và ta cũng đã đọc được những lời thảng thốt của chàng trai khi trở về:Xem thêm: Nghị luận xã hội về hiện tượng nghiện game online
Ngày đi, em chửa có chồng
Ngày về, em đã tay bỗng tay mang.
Đọc bài thơ, người đọc có thể cảm nhận thấy chàng trai của bài ca dao mà chúng ta đang đọc đã “đành” ngậm ngùi phải xa quê để lỡ cuộc trăm năm. Cuộc ra đi ấy dường như là bắt buộc, cho nên “đành” có lỗi với tình yêu, “đành” có lỗi với những cuộc hẹn hò, mà hơn một lần, cả anh cả ả đã thề thốt trăm năm! Câu ca dao mở đầu với từ “đành” nghiệt ngã đã gợi trong ta một nỗi đau xoáy sâu, một nỗi đau không cần phải bọc kín, nó trần trụi buốt nhói trong tim của chàng trai.
Trong tâm trạng cùng cực ấy, chàng trai đã tìm về kỉ niệm để khuây khoả chút lòng, cây đa ấy đã một lần che bóng mát cho đôi ta, bến cũ ấy đã lần nào em và anh khỏa chân soi bóng mình trên mặt nước. Tất cả vẫn như xưa: “Cây đa bến cũ” nhưng “Con đò khác đưa” “Con đò khác” cũng làm cho “cây đa bến cũ” trở nên khác mất rồi. Mà khác là đúng lắm. Ai dừng lại bước chân của thời gian được? Chàng trai muốn giữ nguyên tất cả kỉ niệm như chàng Kim muốn nhờ rêu phong gởi dấu hài của Kiều nhưng thực tế là đã “khác” xưa.
Những kỉ niệm bắt đầu ào về theo dòng suy tưởng của chàng trai như một nhát cắt rất nhẹ và rất sâu, chặn đứng những hồi ức về quá khứ để mở ra một sự thật. Sự thật đó cần phải được khẳng định lại:
Cây đa bến cũ còn lưa
Vâng, cây đa bến cũ – những kỉ niệm ngày xưa vẫn còn đó. Thế nhưng “con đò khác” đã thay “con đò xưa”.
Câu thơ cuối, mở vết thương quá khứ ra sâu hơn, rộng hơn:Xem thêm: Phân tích hào khí Đông A qua bài thơ Tỏ lòng của Phạm Ngũ Lão và phân tích ý nghĩa của nỗi “thẹn” trong bài thơ
Con đò năm ngoái, năm xưa mô rồi?…
“Năm ngoái” – thời gian mới đây, khi trở về, cô gái vẫn là của chàng đấy ư? Tại sao cái “năm xưa” lại được chỉ đặt ra ở sau câu thơ, gây ra một nỗi buồn hun hút?
Bài ca dao bàng bạc một nỗi buồn hoài niệm. Chính cái phi lôgic trong việc sắp xếp thứ tự của “năm ngoái” và “năm xưa” cho phép ta nghĩ rằng: “Năm ngoái” chỉ là một giả định, một tưởng tượng chủ quan. Sự thật là “người xưa” đã có khi nào chàng đã gặp lại bao giờ?
Câu thơ cuối cùng kết thúc, nhưng dư âm của nó thì cứ âm thầm lan tỏa trong lòng ta một nỗi đau rưng lệ. Một hoài cổ nhớ thương về tình yêu đã mất. Chung quy chỉ vì mình đang phải biệt li xa quê… Lí do không cụ thể nhưng ta cũng hiểu được hoàn cảnh thật là phụ bạc mới có thể chịu lìa lứa đôi. Trong xã hội cũ, những tình yêu chân thật có bao giờ được hưởng trọn vẹn một hạnh phúc đích thực? Tinh yêu “thiêng liêng là thế nhưng không thành tình yêu” chỉ vì một yếu tố khách quan mà “Tình sâu nghĩa nặng hóa mỏng manh”. Cô gái vì chờ đợi chàng trai quá lâu mà phải lên chuyến đò khác, đành chấp nhận cái tiếng là phụ bac người yêu.
Bài ca dao có ý nghĩa thật sâu sắc, nói lên sự trớ trêu, bất hạnh của những cô gái những chàng trai bị chia lìa đôi lứa. Vì hoàn cảnh xã hội mà những cặp uyên ương phải rời xa nhau. Bài ca dao là tiếng nói là lời tâm tình của những cô gái những chàng trai yêu nhau mà không đến được với nhau, phải rời xa nhau trong nỗi nhớ nhung buồn khổ.
Nguồn:
|
Analysis of the folk song One hundred years of dating, the old banyan tree is brought by another
Instruct
The folk song tells the whole story of a beautiful love story with an unhappy ending. In the treasury of Vietnamese literature, works of folk songs are often easy to remember and enter people's hearts, because they are associated with people's true lives, and they are beautiful and pure love between couples.
The folk song describes the scene that the lyrical character was once attached to, was passionate about, which could not be any other place than the land of the Central region with very recognizable dialects such as: the word "choosing" means “still there” and “mo” means “where”.
The folk song uses symbolic metaphors to express the beauty of the couple's love story, and also the sadness when the couple has to be apart. These types of metaphors have become so familiar in Vietnamese folk songs that they have become very symbolic conventional images that when readers hear it mentioned, they immediately think of a love affair between a boy and a girl. The boat has the meaning of moving freely and therefore being active. It is often the image of a boy and a "banyan tree" or "water wharf" which are stationary objects, unable to be active in emotions. often talk about women. Perhaps due to the delicate relationship between gender and also due to the feudal marriage regime, a natural association has been formed for a long time in literature like this?
There are many folk songs about love, most of them are sad stories of separation. See more: Analysis of four unique poems in Xuan Dieu's Here Comes Autumn
Boat, do you remember the dock?
Ben is an insistence stomach waiting boat
With a similar idea as above, the girl compares herself to:
Old banyan tree, old wharf
Walking makes sense, sun and rain are waiting
Compared to the folk song above, the traditional images remain unchanged, the same "banyan tree", "old wharf", also "boat"... But the lyrical characters are different. It's not the girl's words, it's the boy's words. To be more precise, it's the man's words. Because in the past, he had left the country and now returned, only to utter these wonderful sentences to express his feelings:
Hundreds of bewildered thoughts in my heart
The boy was only confiding in himself, feeling sad for his love. The people of today meet the people of the past, the golden memories of the past are "the banyan tree, the old wharf, the boat". Those three images represent and are metaphors, almost without debate. But are those three images real, appearing before people's eyes as they return to the riverbank, waiting for a trip to visit their hometown, to revisit old traces? Hundreds of years of dating.
The reality of ancient society shows that unforeseen oath breaking can happen often to couples who love each other very much, right? Long trips without a return date (perhaps for the sake of food and a tormented life) have severely severed such love relationships. We have heard the sad farewell words, "I'm leaving, I miss my hometown", and we have also read the boy's shocked words upon returning: See more: Social commentary on the phenomenon of game addiction online
When I left, I was pregnant and had a husband
The day I returned, I suddenly brought it with me.
Reading the poem, the reader can feel that the young man of the folk song we are reading "had to" sadly have to leave his hometown and miss a hundred years. That departure seemed forced, so she "had" to blame for love, "had" to blame for dates, and more than once, even her eldest brother had sworn for a hundred years! The folk song that begins with the harsh word "can't" evokes a deep pain, a pain that does not need to be covered up, it is naked and throbbing in the boy's heart.
In that extreme mood, the boy looked back to memories to comfort himself a bit, that banyan tree that once shaded us, that old wharf that every time you and I naked reflected our reflections on the water. . Everything is still the same as before: "The old banyan tree at the wharf" but "Another boat takes it" "Another boat" also makes the "old banyan tree at the wharf" become different. But the difference is very true. Who can stop the footsteps of time? The boy wanted to keep all the memories intact like Kim wanted to ask the moss to send Kieu's humorous mark but in reality, it was "different" from the past.
Memories began to flow through the boy's thoughts like a very light and very deep cut, blocking memories of the past to reveal the truth. That fact needs to be reaffirmed:
The old banyan tree still exists
Yes, the old banyan tree - the old memories are still there. But "another boat" has replaced the "old boat".
The last verse opens the wound of the past deeper and wider: See also: Analyzing the spirit of Dong A through the poem Expressing Your Heart by Pham Ngu Lao and analyzing the meaning of "shy" in the poem
Last year's boat, was it last year?...
“Last year” – recently, when he returned, was the girl still his? Why is the word "old years" only mentioned at the end of the poem, causing a deep sadness?
The folk song is filled with nostalgic sadness. It is the illogicality in arranging the order of "last year" and "last year" that allows us to think that: "Last year" is just an assumption, a subjective imagination. The truth is, when did he ever meet the "old people" again?
The last verse ends, but its echo silently spreads a tearful pain in my heart. A nostalgic nostalgia for lost love. In the end, it's just because we have to separate from our hometown... The reason is not specific, but we also understand that the situation is truly ungrateful to be able to bear to leave the couple. In the old society, could true loves ever fully enjoy true happiness? Love is "so sacred but does not become love" just because of an objective factor that "Deep love becomes heavy and fragile". Because the girl waited for the boy for too long, she had to get on another boat and had to accept the reputation of betraying her lover.
The folk song has a profound meaning, expressing the irony and misfortune of girls and boys separated from their couples. Because of social circumstances, lovebirds have to leave each other. Folk songs are the voices and confessions of girls and boys who love each other but cannot be together, and have to leave each other in sadness and longing.
Source:
|
Phân tích bài ca dao đường vô xứ Huế quanh quanh
Hướng dẫn
Bài ca dao ba câu lục bát, dừng lại ở câu lục, một hiện tượng độc đáo, ít thấy trong thơ ca dân gian:
“Đường vô xứ Huế quanh quanh
Non xanh nước biếc như tranh họa đồ.
Ai vô xứ Huế thì vô…”
Có nhiều người cho rằng bài ca dao này nói về cảnh đẹp xứ Huế. Chưa đầy đủ. Không gian địa lí và không gian nghệ thuật được nói trong bài ca dao rộng lớn hơn nhiều.
Câu thứ nhất nói về “đường vô xứ Huê”, đó là con đường rất dài phải qua chí ít sáu tỉnh miền Trung (từ Bắc đi vào): Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên. Hai chữ “quanh quanh” gợi tả sự uốn lượn, khúc khuỷu, hiểm trở, gập ghềnh xa xôi. Ngày xưa vô Huế phải vượt qua “Hoành Sơn nhất đái” (một dải Hoành Sơn), phải vượt qua bao sông suối, núi đèo; sông Mã, sông Lam, sông La, sông Gianh, sông Thạch Hãn… đến sông Hương núi Ngự. Phải qua núi Hồng Lĩnh, đèo Ngang, lũy Thầy, truông Nhà Hồ, phá Tam Giang…
Hồng Sơn cao ngất mấy tầng,
Đò Cài mấy trượng là lòng bấy nhiêu!
(Nguyễn Du)
“Yêu em anh cũng muốn vô,
Sợ truông Nhà Hồ, sợ phá Tam Giang”
(Ca dao)
Câu thứ hai nêu lên một ấn tượng khái quát về cảnh sắc thiên nhiên trên “đường vô xứ Huê”. “Non xanh nước biếc” vừa là thành ngữ vừa là hình ảnh rất đẹp, có màu “xanh” bất tận của non, có màu “biếc” mê hồn của nước. Đó là cảnh sông núi tráng lệ, hùng vĩ, hữu tình, nên thơ… “Non xanh nước biếc” ấy lại được so sánh “như tranh họa đồ” gợi lên trong lòng người niềm tự hào về giang sơn gấm vóc, về què hương đất nước kì thú, xinh đẹp, mến yêu.
' Câu cuối là lời chào mời chân tình, như một tiếng lòng vẫy gọi: “Ai vô xứ Huế thì vô“… Vô xứ Nghệ hay vô xứ Huế là đến với một miên quê rất đẹp, rất đáng yêu có “Non xanh nước biếc như tranh họa đồ”. Bởi thế, nhà thơ Huy Cận mới viết:
… “Ai đi vô nơi đây
Xin dừng chân xứ Nghệ
Ai đi ra nơi này
Xin chân dừng xứ Nghệ.
Nghe câu hò ví giặm Càng lắng lại càng sâu Như sông La chảy chậm Đọng bao thuở vui sầu”
(“Gởi bạn người Nghệ Tĩnh”)
Bài ca dao “Đường vô xứ Huế quanh quanh” đích thực là một viên ngọc trong kho tàng ca dao dân ca Việt Nam. Nó là bài ca về tình yêu và niềm tự hào đối với quê hương đất nước. Hình tượng mĩ lệ, vần điệu nhạc điệu du dương. Ba chữ "vớ“ rất mộc mạc đậm đà. vần chân, vần lưng, điệp thanh phối hợp hài hòa: “quanh quanh – xanh – tranh”, “vô – dồ – vô – vô“, gợi lên sự ân cần tha thiết. “Ai” là đại từ nhân xưng phiếm chỉ, nhưng người đọc, dù quê hương ở đâu vẫn cảm thấy mình đang được mời gọi.
Nguồn: thêm: Phân tích giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của truyện Vợ nhặt
|
Analysis of folk songs on the way to Hue around the world
Instruct
The folk song has three six-eight verses, stopping at the six verses, a unique phenomenon, rarely seen in folk poetry:
“The road to Hue is all around
Green non specifically Graphic picturesque.
Whoever comes to Hue will go..."
Many people think that this folk song is about the beautiful scenery of Hue. Not enough. The geographical space and artistic space mentioned in the folk song are much larger.
The first sentence talks about "the road to Hue", which is a very long road that must pass through at least six central provinces (coming from the North): Thanh Hoa, Nghe An, Ha Tinh, Quang Binh, Quang Tri, Thua Thien . The two words "around" describe the winding, winding, dangerous, and rugged distance. In the past, going to Hue had to pass "Hoanh Son Nhat Tieu" (a strip of Hoanh Son), had to cross many rivers, streams, and mountain passes; Ma River, Lam River, La River, Gianh River, Thach Han River... to Huong River and Ngu Mountain. Must pass Hong Linh mountain, Ngang pass, Thay citadel, Ho Dynasty farm, Tam Giang lagoon...
Hong Son towers several stories high.
A few meters from the boat installation is enough!
(Nguyen Du)
“I love you, I want to come too,
Fear of the Ho Dynasty, fear of destroying Tam Giang"
(Folk)
The second sentence gives a general impression of the natural scenery on the "road to Hue". "Green mountains and blue water" is both an idiom and a very beautiful image, with the endless "green" color of the mountains, the enchanting "blue" color of the water. It is a magnificent, majestic, charming, poetic scene of rivers and mountains... "Green mountains and blue waters" are compared to "like a painting" evoking in people's hearts pride in the brocade country and the lameness. The scent of the country is amazing, beautiful, and beloved.
' The last sentence is a sincere invitation, like a heart beckoning: "Whoever comes to Hue, please come"... To come to Nghe An or to Hue is to come to a very beautiful, very lovely countryside with "Green mountains and water". as clear as a painting." That's why poet Huy Can wrote:
… “Who comes in here?
Please stop in Nghe An
Who comes to this place?
Please stop in Nghe An.
Listen to the Vi Giam song. The more you settle down, the deeper it becomes. Like the slow flowing La River, holding on to many happy and sad times."
(“To a friend from Nghe Tinh”)
The folk song "The road to Hue around" is truly a gem in the treasure trove of Vietnamese folk songs. It is a song about love and pride for one's homeland. Beautiful images, melodious musical rhymes. The three words "socks" are very rustic and charming. The foot rhyme, the back rhyme, and the chorus coordinate harmoniously: "around - green - thatch", "no - do - no - no", evoking earnest care. "Who" is a personal pronoun, but the reader, no matter where his hometown is, still feels invited.
Source: more: Analysis of the realistic value and humanitarian value of the story The Picked Wife
|
Phân tích bài ca dao Đứng bên ni đồng ngó bên tê đồng
Hướng dẫn
Ca dao dân ca Việt Nam vô cùng phong phú và sâu sốc, đằm thắm và mượt mà biết bao! Nó là tiếng hát tâm tình nơi bờ xôi ruộng mật, lưu truyền trong dângian, phản ánh đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân ta từ bao đời nay. Có những khúc hát ru chứa chan tình yêu thương, ngọt ngào, tha thiết. Có bài ca nói về đất nước quê hương, với nương dâu, ruộng lúa, với hình ảnh người dân quê hiền hậu, cần cù hay lam hay làm đáng yêu. Cánh cò “bay lả bay la”, đầm sen “lá xanh bông trắng lại chen nhị vàng”. Có tiếng “nghé ọ” và con trâu hiển lành gặm cỏ trên đồng xanh, có cô thôn nữ tát nước “múc ánh trăng vàng đổ đi”,… Tất cả như đem đến cho lòng người gần xa bao niềm thương nỗi nhớ…
Đọc ca dao dân ca, sao mà ta thấy thích thú lạ về câu hát nói về cánh đồng lúa quê hương và hình ảnh cô thôn nữ đứng giữa đồng quê một sớm mai hồng rạng rỡ:
“Đứng bên ni đồng ngó bên tê đồng, mênh móng bát ngát,
Đứng bên tê đồng ngó bên ni đồng, cũng bát ngát mênh mông.
Thản em như chẽn lúa đòng đòng,
Phất phơ dưới ngọn nắng hồng ban mai”.
1. Ca dao thường được diễn đạt bằng thể thơ lục bát. Nhưng ở bài này, nhà thơ dân gian đã sử dụng thơ lục bát biến thể, mở rộng câu thơ thành 12, 13 từ rất độc đáo.
Cô thôn nữ không vịnh cảnh đề thơ, mà chỉ nói lên những ý nghĩ, cảm xúc hồn nhiên, tự nhiên của lòng mình khi vác cuốc ra thăm đồng sung sướng ngắm nhìn cánh đồng thân thuộc, thẳng cánh cò bay của làng mình:
“Đứng bên ni đồng ngó bên tê đồng, mênh mông bát ngát,
Đứng bên tê đồng ngó bên ni đồng, cũng bát ngát mênh mông”.
“Ngó”gần nghĩa với nhìn, trông, ngắm… Từ “ngó” trong vàn cảnh này gợi tả một tư thế say sưa ngắm nhìn, một cách quan sát kĩ càng, một lối nói dân dã mộc mạc, bình dị mà đậm đà. Cô thôn nữ “đứng bên ni đồng ngó bên tê đồng” rồi lại “đứng bên tê đồng ngó bên ni đồng”, dù quan sát ở vị trí nào, góc độ nào, cô cũng cảm thấy sung sướng tự hào trước sự “mênh mông bát ngát… bát ngát mênh mông” của cánh đồng quê hương. Hai chữ “bên ni” và “bên tê” vốn là ngôn ngữ miền Trung (tiếng địa phương Nghệ Tĩnh) dùng để trỏ vị trí bên này, bên kia, được đứa vào bài ca dao gợi lên tính chất mộc mạc, chất phác của một tình quê hồn hậu. Nghệ thuật đảo từ ngữ “mênh mông bát ngát” rồi lại “bát ngát mênh mông” thể hiện một bút pháp điêu luyện trong việc miêu tả cánh đồng làng quê rộng bao la bát ngát một màu xanh, xa trông hút tầm mắt chẳng thấy đâu là bến bờ. Có yêu quê hương tha thiết, mới có cái nhìn đẹp, cách nói say mê đậm đà thế!
Hai câu đầu bài ca dao dược cấu trúc đăng đối song hành, làm hiện lên trước mắt chúng ta một cảnh đẹp: cánh đồng bao la, trù phú của quê nhà, rất thân thuộc với mỗi con người Việt Nam chúng ta như nhà thơ Hoàng Cầm đã viết:
“Xanh xanh bãi mía hờ dâu
Ngô khoai biêng biếc
(…) Quê hương ta lúa nếp thơm nồng”…
(“Bên kia sông Đuống”)
Xem thêm: Cảm nhận về một nét đẹp truyền thống của con người Việt Nam - Lòng yêu nước qua bài: Tinh thần yêu nước của nhân dân ta
Bằng tấm lòng yêu mến tự hào nơi chôn nhau cắt rốn của mình, mảnh đất thương yêu thân thiết mà từ bao đời nay tổ tiên ông bà con cháu, từ thế hệ này qua thế hệ khác đã đem mồ hôi, xương máu để bồi đắp và gìn giữ, nên nhà thơ dân gian mới có thể viết được những lời ca mộc mạc mà đằm thắm nghĩa tình, làm xao xuyến lòng ta như vậy!
2. Hai câu cuối là hình ảnh cô thôn nữ ra thăm đồng. Niềm vui sướng trào dâng. Cô không ví mình với “hạt mưa sa”, với “tấm lụa đào” như có người con gái đã nói về thân phận mình. Trái lại, cô đã lấy “chẽn lúa đòng đòng” để so sánh với cuộc đời đẹp tươi, nhiều mơ ước của mình. “Chẽn lúa” còn gọi là dảnh lúa, một bộ phận của khóm lúa. Hình ảnh “chẽn lúa đòng đòng” thể hiện sự phát triển trưởng thành sinh sôi nảy nở, hứa hẹn một mùa vàng bội thu sây hạt trĩu bông. Có lúa thì con gái rồi mới có “chẽn lúa đòng đòng”. Câu ca dao “Thân em như chẽn lúa đòng đòng” gợi tả một vẻ đẹp xinh tươi duyên dáng, một sức lực căng tràn. Đây là một hình ảnh khỏe khoắn, trẻ trung và hồn nhiên yêu đời của cô thôn nữ được nói đến trong tiếng hát lời ca sau bờ dâu ruộng lúa.
Trên cái nền xanh của cánh đồng, trong hương thơm ngào ngạt của lúa đòng đòng, dưới ánh hồng bình minh rực rỡ, trong làn gió mát rượi, ta thấy hiện lên bức chân dung cô thôn nữ thật đáng yêu vô cùng:
“Thân em như chẽn lúa đòng đòng,
Phất phơ dưới ngọn nắng hồng ban mai”.
“Phất phơ”nghĩa là nhẹ nhàng đung đưa, uốn lượn… Chẽn lúa đòng đòng “phất phơ” bay nhẹ trước làn gió trên đồng nội vào một buổi sớm mai hồng thơ mộng. Thiếu nữ hân hoan sung sướng thấy hồn mình phơi phới hướng về một ngày mai hạnh phúc như “chẽn lúa đòng đòng” đang “phất phơ” dưới ánh bình minh.
Tại sao nhà thơ đồng quê lại dùng hình ảnh “ngọn nắng”? Có thể dùng hình ảnh làn nắng, tia nắng thì ý câu cao dao vẫn đúng. Nhưng “ngọn nắng” hay hơn, sát nghĩa hơn. Vì đó là tia nắng, làn nắng đầu tiên của một ngày đẹp trời, ánh hồng ban mai đang tụ hội và rập rờn trên ngọn lúa xanh. Trong bài thơ “Mùa xuân chín” thi sĩ Hàn Mặc Tử viết:
“Trong làn nắng ửng: khói mơ tan,
Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng”
Và nhà thơ Đoàn Văn Cừ trong bài “Chợ tết” cũng đã viết:
“Sương trắng rỏ đầu cành như giọt sữa,
Tia nắng tía nhảy hoài trong ruộng lúa”
Qua đó, ta càng thấy rõ tính chính xác, tính hình tượng, tính biểu cảm là những đặc trưng cơ bản nhất tạo nên giá trị nghệ thuật của ngôn từ thơ ca.
Bài ca dao “Đứng bên ni đồng…” là một bài ca dao trữ tình đặc sắc đã ca ngợi vẻ đẹp quê hương đất nước qua hình ảnh cánh đồng lúa bát ngát mênh mông va vẻ đẹp duyên dáng, tươi trẻ, cần mẫn và yêu đời của nàng thiếu nữ làng quê Việt Nam.
Bài ca dao được sáng tạo nên bằng bút pháp nghệ thuật độc đáo. Cách dùng từ chính xác, gợi cảm. Biện pháp tu từ so sánh, phép song hành đối xứng, cách đảo từ ngữ và sử dụng tiếng địa phương đã làm cho ý tưởng, lời ca đậm đà, ý vị. Có thể coi nó là một “viên ngọc quý” trong kho tàng thơ ca dân gian Việt Nam.
Học bài ca dao này, ta thấy tâm hồn mình thêm gắn bó, yêu thương quê hương đất nước, biết quý trọng và biết ơn những người nông dân vất vả dãi nắng dầm mưa để làm nên những bát cơm đầy dẻo thơm
Nguồn: thêm: Cảm nhận của em về bài thơ “Rằm tháng Giêng” (Nguyên Tiêu) của Hồ Chí Minh
|
Analysis of the folk song Standing next to the ni dong, looking at the other side of the dong
Instruct
Vietnamese folk songs are extremely rich and profound, how loving and smooth! It is a sentimental song on the shores of honey fields, passed down among the villagers, reflecting the material and spiritual life of our people for many generations. There are lullabies filled with love, sweetness, and earnestness. There is a song about the homeland, with its mulberry fields, rice fields, with the image of the gentle, industrious and loving country people. The stork's wings "fly away", the lotus pond "has green leaves and white flowers interspersed with yellow stamens". There was the sound of "calf gurgling" and the buffalo happily grazing in the green fields, there was a village girl splashing water "to scoop up the golden moonlight",... All seemed to bring so much love and nostalgia to the hearts of people near and far...
Reading folk songs, why do we feel strangely interested in the song about the rice fields of our homeland and the image of a village girl standing in the middle of the countryside on a bright pink morning:
“Standing next to the fields, looking at the fields, vast and immense,
Standing on the side of the field and looking at the other side of the field, it is also immense.
I care about you like a rice field,
Floating under the pink morning sun.
1. Folk songs are often expressed in six-eight verse form. But in this poem, the folk poet used six-eight variations of poetry, expanding the verse into 12 or 13 very unique words.
The village girl did not admire the scene of the poem, but only expressed the innocent and natural thoughts and feelings of her heart when she carried her hoe to visit the fields and happily looked at the familiar fields, flying straight from the stork's wings:
“Standing on the side of the field, looking at the side of the field, vast and vast,
Standing on the side of the field and looking at the other side of the field, it is also immense."
"Look" is close in meaning to look, look, watch... The word "look" in many of these scenes describes a posture of passionately watching, a way of observing carefully, a rustic, simple yet rich way of speaking. . The village girl "stands next to the field and looks at the field" and then "stands next to the field and looks at the field". No matter from what position or angle she observes, she feels happy and proud at the "immensity of the field". The vast expanse... the vast expanse" of the homeland's fields. The two words "side ni" and "side numb" are originally from the Central region language (Nghe Tinh dialect) used to indicate the location of this side and that side, and are included in folk songs to evoke the rustic and naive nature. of a soulful hometown love. The art of reversing the words "immense" and then "immense" shows a skillful penmanship in describing the vast countryside fields of a green color, as far as the eye can see. Where is the shore? If you love your homeland passionately, you will have such a beautiful look and such a passionate way of speaking!
The first two lines of the folk song have a parallel parallel structure, creating a beautiful scene before our eyes: the vast, rich fields of our homeland, very familiar to each of us Vietnamese people like poets. Hoang Cam wrote:
“Green and green with sugarcane fields and mulberry trees
Sweet corn and potatoes
(…) Our homeland has fragrant sticky rice”…
(“Across Duong River”)
See more: Feeling about a traditional beauty of Vietnamese people - Patriotism through the article: The patriotic spirit of our people
With a heart of love and pride in the place of our birth, the land of close love that for generations, our ancestors, grandparents, children, and grandchildren, from generation to generation, have brought their sweat, blood, and blood to nourish us. built and preserved, so folk poets can write such simple yet loving lyrics that make our hearts flutter!
2. The last two sentences are the image of a village girl visiting the fields. Joy welled up. She does not compare herself to "raindrops" or "peach silk" as one girl said about her fate. On the contrary, she used "a field of rice" to compare with her beautiful life with many dreams. “Rice stalk” is also called rice stalk, a part of the rice clump. The image of "throws of rice fields" represents mature growth and proliferation, promising a rich golden harvest of sowing seeds and flowers. If you have rice, then you will have a daughter and then you will have "a field of rice". The folk song "Your body is like a rice field" describes a graceful beauty and overflowing strength. This is a healthy, youthful and innocent image of the village girl mentioned in the song behind the rice fields.
On the green background of the field, in the sweet scent of rice fields, under the bright pink light of dawn, in the cool breeze, we see a portrait of an extremely lovely village girl appear:
“My body is like a stalk of rice,
Floating under the pink morning sun.
"Float" means gently swaying, winding... The rice field "flutters" lightly in the breeze in the fields on a romantic pink morning. The young girl was delighted and happy to see her soul fluttering towards a happy tomorrow like "a field of rice" "fluttering" under the dawn light.
Why does the country poet use the image of "sunshine"? You can use the image of sunshine and rays, then the meaning of the Cao Dao sentence is still correct. But "sunshine" is better, more literal. Because that is the ray of sunlight, the first ray of sunlight of a beautiful day, the pink light of the morning is gathering and fluttering on the green rice tops. In the poem "Nine Spring" poet Han Mac Tu wrote:
“In the blushing sunlight: the apricot smoke dissipates,
Two thatched cottages with scattered yellow"
And poet Doan Van Cu in the article "Tet Market" also wrote:
“White dew falls from the tips of branches like drops of milk,
Purple rays of sunlight dance forever in the rice fields.
Thereby, we see more clearly that accuracy, imagery, and expressiveness are the most basic characteristics that create the artistic value of poetic language.
The folk song "Standing beside the fields..." is a unique lyrical folk song that praises the beauty of the homeland through the image of immense rice fields and the graceful, youthful, diligent and beautiful beauty. love the life of a Vietnamese village girl.
The folk song is created with a unique artistic style. How to use words accurately and sensuously. Rhetorical devices of comparison, parallelism, word inversion and use of local language have made the ideas and lyrics rich and meaningful. It can be considered a "precious gem" in the treasure trove of Vietnamese folk poetry.
Learning this folk song, we feel our souls are more attached to and love our homeland, appreciate and be grateful to the farmers who work hard in the sun and rain to make bowls of fragrant rice.
Source: more: My feelings about the poem "Full Moon in January" (Nguyen Tieu) by Ho Chi Minh
|
Đề bài: Phân tích bài ca dao sau:
Bao giờ cho đến tháng ba,
Ếch cắn cổ rắn tha ra ngoài đồng,
Hùm nằm cho lợn liếm lông
Một chục quá hồng nuốt lão tám mươi.
Nắm xôi nuốt trẻ lên mười,
Con gà be rượu nuốt người lao đao.
Lươn nằm cho trúm bò vào,
Một đàn cào cào đuổi bắt cá rô.
Lúa mạ nhảy lên ăn bò,
Cỏ năn cỏ lác rình mò bắt trâu.
Gà con đuổi đánh diều hâu,
Chim ri đuổi đánh vỡ đầu bồ nông
Bai làm
Trong văn học dân gian có một thể loại khá đặc biệt là đồng dao. Thực ra, đồng dao cũng là ca dao nhưng thường sáng tác cho trẻ con đọc hoặc hát khi chăn trâu cắt cỏ trên cánh đồng hoặc lúc vui chơi trên bờ đê, ngõ xóm. Bản sắc đồng dao gần gũi với ngụ ngôn, có phong vị của thơ trào phúng, kết hợp với chất trữ tình ngọt ngào vốn có của ca dao, rất phù hợp với tính hồn nhiên, ham hiểu biết của trẻ thơ. Đồng dao có đề tài muôn hình muôn vẻ.
Phạm vi miêu tả của nó rất rộng: từ cây cỏ, loài vật đến sinh hoạt xã hội, các trò chơi con trẻ v.v… Nó mở ra trước mắt trẻ em cả một thế giới rộng lớn. Chủ đề đồng dao thường diễn tả tinh thần lạc quan yêu đời, đồng thời ẩn chứa triết lí về nhân sinh quan, thế giới quan của nhân dân lao động trong xã hội phong kiến ngày xưa. Bài đồng dao dưới đây là bức tranh phong phú về thế giới tự nhiên và cuộc sống của con người:
Bao giờ cho đến tháng ba,
Ếch cắn cổ rắn tha ra ngoài đồng,
Hùm nằm cho lợn liếm lông
Một chục quá hồng nuốt lão tám mươi.
Nắm xôi nuốt trẻ lên mười,
Con gà be rượu nuốt người lao đao.
Lươn nằm cho trúm bò vào,
Một đàn cào cào đuổi bắt cá rô.
Lúa mạ nhảy lên ăn bò,
Cỏ năn cỏ lác rình mò bắt trâu.
Gà con đuổi đánh diều hâu,
Chim ri đuổi đánh vỡ đầu bồ nông
Những hiện tượng mà bài đồng dao miêu tả toàn là ngược đời, chẳng bao giờ xảy ra trọng thực tế. Qua đó, tác giả chế giễu những hiện tượng phi lí trong xã hội, đồng thời đề cập tới sự xoay vần muôn màu muôn vẻ của thế giới tự nhiên và cuộc sống của con người.
Kết cấu của bài đồng dao này là kiểu kết cấu trùng điệp, đề cập tới rất nhiều nhân vật với nhiều sự kiện thú vị, hấp dẫn. Mở đầu lả một câu hỏi mang tính ước lệ: Bao giờ cho đến tháng ba?Đọc toàn bộ bài đồng dao, ta thấy rất nhiều hiện tượng trong bài không gắn với tháng ba. Chẳng hạn, tháng ba chưa có hồng, chưa có cào cào, v.v… Mặt khác, nếu các hiện tượng như Nắm xôi nuốt trẻ lên mười, Con gà be rượu nuốt người lao đao là có thật thì nó xảy ra quanh năm chứ chẳng cứ gì tháng ba mới có.
Những hiện tượng được miêu tả trong bài đồng dao này nếu nói xuôi thì chẳng có gì để nói. Nói ngược mới có chuyện, chuyện cuộc đời cũng như chuyện nghệ thuật. Cách nói ngược này rất phổ biến trong hò vè, ca dao, chẳng hạn nói ngược trong vè: Lên núi đặt lờ, xuống sông bổ củi; nói ngược trong ca dao ; Bao giờ chạch đẻ ngọn đa, Sáo đẻ dưới nước thì ta lấy mình, Bao giờ rau diếp làm đình, Gỗ lim thái ghém thì mình lấy ta…
Trong toàn bộ mười một câu tiếp theo của bài đồng dao, các tác giả dân gian đã sử dụng nghệ thuật nói ngược làm phương tiện nghệ thuật chủ đạo nhằm lôi cuốn sự chú ý qua người nghe và khắc sâu kiến thức muốn truyền đạt; qua đó kín đáo gửi gắm suy nghĩ và tình cảm của mình.
Tháng ba là thời gian cuối xuân, đầu hạ với những cơn mưa rào, báo hiệu sự thay đổi của thời tiết, khí hậu. Ở đây, tháng ba mang tính chất ước lệ, tượng trưng cho khao khát đổi thay trong cuộc sống của con người. Câu hỏi tu từ mở đẩu bài đồng dao thể hiện khao khát, mong mỏi ấy:
Bao giờ cho đến tháng ba,
Ếch cắn cổ rắn tha ra ngoài đồng.
Hùm nằm cho lợn liếm lông,
Ếch là con vật bé nhỏ thựờng sống quẩn quanh ở góc ao, vũng nước; còn rắn là con vật có nọc độc nguy hiểm, kẻ thù xưa nay của ếch. Tháng ba đến tức là cơ hội vừa đến. Ếch cắn cổ rắn tha ra ngoài đồng, thật bất ngờ và hả hê, thỏa mãn vì ếch đã trả được mổi thù truyền kiếp.
Xem thêm: Phân tích bài thơ Phản Chiêu Hồn.Lợn là con vật hiền lành, chỉ sống loanh quanh trong vườn, trong chuồng, là mồi ngon của con hùm to lớn, hung dữ. Vậy mà giờ đây, hùm lại ngoan ngoãn nằm im cho lợn liếm lông. Quả là chuyện lạ, chuyện thay bậc đổi ngôi!
Tiếp theo, bài đồng dạo chuyển sang đề tài sinh hoạt trong cuộc sống hằng ngày:
Một chục quả hồng nuốt lão tám mươi.
Nắm xôi nuốt trẻ lên mười,
Con gà be rượu nuốt người lao đao.
Những quả hồng xinh xắn, đỏ tươi, chín mọng thường thấy trong dịp Tết Trung thu là món quà quý giá mà con cháu trân trọng dâng lên để mừng thọ lão tám mươi. Nắm xôi là món quà thơm ngon hằng ngày rất được ưa thích của trẻ lên mười. Hình ảnh nắm xôi và trẻ lên mười thật xinh xắn, nhỏ bé, dễ thương, dễ mến!
Nhưng cuộc sống đâu chỉ có toàn chuyện vui, chuyện đáng yêu mà bên cạnh đấy còn có những chuyện đáng trách, đáng ghét nữa. Đó là hình ảnh người uống rượu đến mức say nhè mà bài đồng dao gọi là người lao đao. Hình ảnh người say ngật ngưỡng, chệnh choạng, đi không vững sau khi nhắm hết con gà, be rượu thật là đáng cười. Những lúc đó thì đúng là rượu nuốt người, chứ đâu phải người nuốt rượu nữa. Từ xưa, đồng dao đã giễu cợt, châm biếm tệ nghiện rượu, một thói xấu chỉ đem lại tác hại cho cuộc sống con người.
Ở đoạn cuối của bài đồng dao, tác giả tiếp tục dẫn dắt các em nhỏ đến với thế giới sinh động của các loài vật và cây cỏ. Nghệ thuật nói ngược làm cho việc miêu tả thêm ấn tượng và hiệu quả:
Lươn nằm cho trúm bò vào,
Một đàn cào cào đuổi bắt cá rô.
Lúa mạ nhảy lên ăn bò,
Cỏ năn cỏ lác rình mò bắt trâu.
Gà con đuổi đánh diều hâu,
Chim ri đuổi đánh vỡ đẩu bồ nông.
Trong cuộc sống thường ngày, mọi việc diễn ra ngược lại như vậy: trũm được dùng để bắt lươn, cá rô bắt cào cào, bò ăn lúa mạ, trâu ăn cỏ năn, cỏ lác, diều hâu bắt gà con và bồ nông đuổi đánh chim ri… Nhưng với cái nhìn hài hước, hóm hỉnh, mọi trật tự của thiên nhiên có sự đảo lộn. Các động từ đuổi bắt, nhảy lên, rình mò, đuổi đánh vỡ đầu thật sinh động, ngộ nghĩnh, có khả năng miêu tả và biểu cảm kì lạ.
Như trên đã nói, nghệ thuật miêu tả của bài đồng dao vô cùng độc đáo. Đó là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa thủ pháp nội ngược, yếu tố thậm xưng, ước lệ với giọng điệu hài hước, dí dỏm. Nếu chúng ta lược bỏ giọng điệu chế giễu những hiện tượng phi lí ngược đời thì bài đồng dao là bức tranh sinh động về con người và cuộc sống, nhằm mục đích cung cấp những kiến thức cơ bản về cỏ cây (quả hồng, lúa mạ, cỏ năn, cỏ lác), về loài vật (cá rô, con gà, con lươn, cào cào, chim ri, con bò, con trâu, diều hâu, con hùm, con ếch, bồ nông), về đồ vật, sự vật (nắm xôi be rượu) và về con người (lão tám mươi, trẻ lên mười, người lao đao…). Đó là những kiến thức đầu đời quý giá giúp cho trẻ em làm quen, tìm hiểu, khám phá, tiếp cận dần dần với thế giới tự nhiên phong phú và xã hội con người phức tạp. Cách nói ngược gây ấn tượng và lôi cuốn sự chú ý, tạo sức hấp dẫn, gợi trí tò mò, giúp các em dễ thuộc lòng bài đồng dao để từ đó quan tâm tìm hiểu, suy nghĩ về thế giới xung quanh.
Ngày nay ở nông thôn, mỗi khi cùng nhau vui chơi, nhảy múa, trẻ em vẫn hát đồng dao để làm cho không khí càng thêm hào hứng, sôi động. Có thể ý nghĩa sâu xa, thâm thúy của bài đồng dao này con trẻ chưa hiểu hết, nhưng lời hát, nhịp điệu và trò chơi đi kèm bài đồng dao thì các em đón nhận một cách dễ dàng. Rồi sau này lớn lên, các em sẽ suy ngẫm ra ý tứ sâu xa của bài đồng dao mà lúc còn bé các em đã từng say mê, yêu thích và càng thương yêu thêm chốn quê nghèo, nơi minh đã sinh ra và lớn lên.
Cũng như nhiều bài đồng dao khác, bài đồng dao bao giờ cho đến tháng ba… mãi mãi hấp dẫn người lớn và trẻ em. Nó gợi mở những hiểu biết, suy nghĩ về thiên nhiên, về thế giới động vật, về con người, về khao khát ước mơ công lí, ước mơ hạnh phúc. Sức sống của đồng dao có thể ví như một dòng suối trong veo, cứ róc rách tuôn chảy mà không bao giờ khô cạn.
Xem thêm: Sự phát triển các mâu thuẫn trong truyện Tấm Cám? Ý nghĩa
|
Đề bài: Phân tích bài ca dao sau:
Bao giờ cho đến tháng ba,
Ếch cắn cổ rắn tha ra ngoài đồng,
Hùm nằm cho lợn liếm lông
Một chục quá hồng nuốt lão tám mươi.
Nắm xôi nuốt trẻ lên mười,
Con gà be rượu nuốt người lao đao.
Lươn nằm cho trúm bò vào,
Một đàn cào cào đuổi bắt cá rô.
Lúa mạ nhảy lên ăn bò,
Cỏ năn cỏ lác rình mò bắt trâu.
Gà con đuổi đánh diều hâu,
Chim ri đuổi đánh vỡ đầu bồ nông
Bai làm
Trong văn học dân gian có một thể loại khá đặc biệt là đồng dao. Thực ra, đồng dao cũng là ca dao nhưng thường sáng tác cho trẻ con đọc hoặc hát khi chăn trâu cắt cỏ trên cánh đồng hoặc lúc vui chơi trên bờ đê, ngõ xóm. Bản sắc đồng dao gần gũi với ngụ ngôn, có phong vị của thơ trào phúng, kết hợp với chất trữ tình ngọt ngào vốn có của ca dao, rất phù hợp với tính hồn nhiên, ham hiểu biết của trẻ thơ. Đồng dao có đề tài muôn hình muôn vẻ.
Phạm vi miêu tả của nó rất rộng: từ cây cỏ, loài vật đến sinh hoạt xã hội, các trò chơi con trẻ v.v… Nó mở ra trước mắt trẻ em cả một thế giới rộng lớn. Chủ đề đồng dao thường diễn tả tinh thần lạc quan yêu đời, đồng thời ẩn chứa triết lí về nhân sinh quan, thế giới quan của nhân dân lao động trong xã hội phong kiến ngày xưa. Bài đồng dao dưới đây là bức tranh phong phú về thế giới tự nhiên và cuộc sống của con người:
Bao giờ cho đến tháng ba,
Ếch cắn cổ rắn tha ra ngoài đồng,
Hùm nằm cho lợn liếm lông
Một chục quá hồng nuốt lão tám mươi.
Nắm xôi nuốt trẻ lên mười,
Con gà be rượu nuốt người lao đao.
Lươn nằm cho trúm bò vào,
Một đàn cào cào đuổi bắt cá rô.
Lúa mạ nhảy lên ăn bò,
Cỏ năn cỏ lác rình mò bắt trâu.
Gà con đuổi đánh diều hâu,
Chim ri đuổi đánh vỡ đầu bồ nông
Những hiện tượng mà bài đồng dao miêu tả toàn là ngược đời, chẳng bao giờ xảy ra trọng thực tế. Qua đó, tác giả chế giễu những hiện tượng phi lí trong xã hội, đồng thời đề cập tới sự xoay vần muôn màu muôn vẻ của thế giới tự nhiên và cuộc sống của con người.
Kết cấu của bài đồng dao này là kiểu kết cấu trùng điệp, đề cập tới rất nhiều nhân vật với nhiều sự kiện thú vị, hấp dẫn. Mở đầu lả một câu hỏi mang tính ước lệ: Bao giờ cho đến tháng ba?Đọc toàn bộ bài đồng dao, ta thấy rất nhiều hiện tượng trong bài không gắn với tháng ba. Chẳng hạn, tháng ba chưa có hồng, chưa có cào cào, v.v… Mặt khác, nếu các hiện tượng như Nắm xôi nuốt trẻ lên mười, Con gà be rượu nuốt người lao đao là có thật thì nó xảy ra quanh năm chứ chẳng cứ gì tháng ba mới có.
Những hiện tượng được miêu tả trong bài đồng dao này nếu nói xuôi thì chẳng có gì để nói. Nói ngược mới có chuyện, chuyện cuộc đời cũng như chuyện nghệ thuật. Cách nói ngược này rất phổ biến trong hò vè, ca dao, chẳng hạn nói ngược trong vè: Lên núi đặt lờ, xuống sông bổ củi; nói ngược trong ca dao ; Bao giờ chạch đẻ ngọn đa, Sáo đẻ dưới nước thì ta lấy mình, Bao giờ rau diếp làm đình, Gỗ lim thái ghém thì mình lấy ta…
Trong toàn bộ mười một câu tiếp theo của bài đồng dao, các tác giả dân gian đã sử dụng nghệ thuật nói ngược làm phương tiện nghệ thuật chủ đạo nhằm lôi cuốn sự chú ý qua người nghe và khắc sâu kiến thức muốn truyền đạt; qua đó kín đáo gửi gắm suy nghĩ và tình cảm của mình.
Tháng ba là thời gian cuối xuân, đầu hạ với những cơn mưa rào, báo hiệu sự thay đổi của thời tiết, khí hậu. Ở đây, tháng ba mang tính chất ước lệ, tượng trưng cho khao khát đổi thay trong cuộc sống của con người. Câu hỏi tu từ mở đẩu bài đồng dao thể hiện khao khát, mong mỏi ấy:
Bao giờ cho đến tháng ba,
Ếch cắn cổ rắn tha ra ngoài đồng.
Hùm nằm cho lợn liếm lông,
Ếch là con vật bé nhỏ thựờng sống quẩn quanh ở góc ao, vũng nước; còn rắn là con vật có nọc độc nguy hiểm, kẻ thù xưa nay của ếch. Tháng ba đến tức là cơ hội vừa đến. Ếch cắn cổ rắn tha ra ngoài đồng, thật bất ngờ và hả hê, thỏa mãn vì ếch đã trả được mổi thù truyền kiếp.
Xem thêm: Phân tích bài thơ Phản Chiêu Hồn.Lợn là con vật hiền lành, chỉ sống loanh quanh trong vườn, trong chuồng, là mồi ngon của con hùm to lớn, hung dữ. Vậy mà giờ đây, hùm lại ngoan ngoãn nằm im cho lợn liếm lông. Quả là chuyện lạ, chuyện thay bậc đổi ngôi!
Tiếp theo, bài đồng dạo chuyển sang đề tài sinh hoạt trong cuộc sống hằng ngày:
Một chục quả hồng nuốt lão tám mươi.
Nắm xôi nuốt trẻ lên mười,
Con gà be rượu nuốt người lao đao.
Những quả hồng xinh xắn, đỏ tươi, chín mọng thường thấy trong dịp Tết Trung thu là món quà quý giá mà con cháu trân trọng dâng lên để mừng thọ lão tám mươi. Nắm xôi là món quà thơm ngon hằng ngày rất được ưa thích của trẻ lên mười. Hình ảnh nắm xôi và trẻ lên mười thật xinh xắn, nhỏ bé, dễ thương, dễ mến!
Nhưng cuộc sống đâu chỉ có toàn chuyện vui, chuyện đáng yêu mà bên cạnh đấy còn có những chuyện đáng trách, đáng ghét nữa. Đó là hình ảnh người uống rượu đến mức say nhè mà bài đồng dao gọi là người lao đao. Hình ảnh người say ngật ngưỡng, chệnh choạng, đi không vững sau khi nhắm hết con gà, be rượu thật là đáng cười. Những lúc đó thì đúng là rượu nuốt người, chứ đâu phải người nuốt rượu nữa. Từ xưa, đồng dao đã giễu cợt, châm biếm tệ nghiện rượu, một thói xấu chỉ đem lại tác hại cho cuộc sống con người.
Ở đoạn cuối của bài đồng dao, tác giả tiếp tục dẫn dắt các em nhỏ đến với thế giới sinh động của các loài vật và cây cỏ. Nghệ thuật nói ngược làm cho việc miêu tả thêm ấn tượng và hiệu quả:
Lươn nằm cho trúm bò vào,
Một đàn cào cào đuổi bắt cá rô.
Lúa mạ nhảy lên ăn bò,
Cỏ năn cỏ lác rình mò bắt trâu.
Gà con đuổi đánh diều hâu,
Chim ri đuổi đánh vỡ đẩu bồ nông.
Trong cuộc sống thường ngày, mọi việc diễn ra ngược lại như vậy: trũm được dùng để bắt lươn, cá rô bắt cào cào, bò ăn lúa mạ, trâu ăn cỏ năn, cỏ lác, diều hâu bắt gà con và bồ nông đuổi đánh chim ri… Nhưng với cái nhìn hài hước, hóm hỉnh, mọi trật tự của thiên nhiên có sự đảo lộn. Các động từ đuổi bắt, nhảy lên, rình mò, đuổi đánh vỡ đầu thật sinh động, ngộ nghĩnh, có khả năng miêu tả và biểu cảm kì lạ.
Như trên đã nói, nghệ thuật miêu tả của bài đồng dao vô cùng độc đáo. Đó là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa thủ pháp nội ngược, yếu tố thậm xưng, ước lệ với giọng điệu hài hước, dí dỏm. Nếu chúng ta lược bỏ giọng điệu chế giễu những hiện tượng phi lí ngược đời thì bài đồng dao là bức tranh sinh động về con người và cuộc sống, nhằm mục đích cung cấp những kiến thức cơ bản về cỏ cây (quả hồng, lúa mạ, cỏ năn, cỏ lác), về loài vật (cá rô, con gà, con lươn, cào cào, chim ri, con bò, con trâu, diều hâu, con hùm, con ếch, bồ nông), về đồ vật, sự vật (nắm xôi be rượu) và về con người (lão tám mươi, trẻ lên mười, người lao đao…). Đó là những kiến thức đầu đời quý giá giúp cho trẻ em làm quen, tìm hiểu, khám phá, tiếp cận dần dần với thế giới tự nhiên phong phú và xã hội con người phức tạp. Cách nói ngược gây ấn tượng và lôi cuốn sự chú ý, tạo sức hấp dẫn, gợi trí tò mò, giúp các em dễ thuộc lòng bài đồng dao để từ đó quan tâm tìm hiểu, suy nghĩ về thế giới xung quanh.
Ngày nay ở nông thôn, mỗi khi cùng nhau vui chơi, nhảy múa, trẻ em vẫn hát đồng dao để làm cho không khí càng thêm hào hứng, sôi động. Có thể ý nghĩa sâu xa, thâm thúy của bài đồng dao này con trẻ chưa hiểu hết, nhưng lời hát, nhịp điệu và trò chơi đi kèm bài đồng dao thì các em đón nhận một cách dễ dàng. Rồi sau này lớn lên, các em sẽ suy ngẫm ra ý tứ sâu xa của bài đồng dao mà lúc còn bé các em đã từng say mê, yêu thích và càng thương yêu thêm chốn quê nghèo, nơi minh đã sinh ra và lớn lên.
Cũng như nhiều bài đồng dao khác, bài đồng dao bao giờ cho đến tháng ba… mãi mãi hấp dẫn người lớn và trẻ em. Nó gợi mở những hiểu biết, suy nghĩ về thiên nhiên, về thế giới động vật, về con người, về khao khát ước mơ công lí, ước mơ hạnh phúc. Sức sống của đồng dao có thể ví như một dòng suối trong veo, cứ róc rách tuôn chảy mà không bao giờ khô cạn.
Xem thêm: Sự phát triển các mâu thuẫn trong truyện Tấm Cám? Ý nghĩa
|
Phân tích bài ca dao “Công cha như núi ngất trời”
Hướng dẫn
“Công cha như núi ngất trời,
Nghĩa mẹ như nước ở ngoài biển Đông.
Núi cao biển rộng mênh mông,
Cù lao chín chữ ghi lòng con ơi!”
Câu thứ nhất nói về “công cha”. Công cha đã từng được so sánh với núi Thái Sơn; ờ đây công cha lại được ví với “núi ngất trời”, núi hùng vĩ, núi cao chót vót. cao đến mấy tầng mây xanh, núi chọc trời. Câu thứ hai nói về “nghĩa me”- nghĩa mẹ bao la, mênh mông, không thể nào kể xiết. Nghĩa mẹ được so sánh với "như nước ở ngoài biển Đông”. Nghệ thuật so sánh và đối xứng đã tao nên hai hình ảnh kì vĩ, vừa cụ thể hóa, hình tượng hóa, vừa ca ngợi nghĩa me công cha với tất cả tình yêu sâu nặng. Tiêng thơ dân gian khẽ nhắc mỗi chúng ta hãy ngước lèn nhìn núi cao, trời cao, hãy nhìn xa ra ngoài biển Đông, lắng tai nghe sóng reo sóng hát, thủy triều vỗ mà suy ngẫm về công cha nghía ne thấm thía và rung dong biết bao:
“Công cha như núi ngất trời,
Nghĩa mẹ như nướcngoài biển Đông”
Hai câu cuối, giọng thơ cất lên thiết tha ngọt ngào. Tiếng cảm thán “con ơi!” là lời nhắn nhủ ân tình về đạo làn. con phải biết “ghi lòng” tạc dạ công cha nghĩa mẹ:
“Núi cao biển rộng mênh mông,
Cù lao chín chữ ghi lòng con ơi!”
Xem thêm: Phân tích một bài thơ (thơ văn nước ngoài) đã đem đến cho em nhiều cảm xúcCâu trên là một ẩn dụ, nhắc lại, nhấn mạnh công cha nghĩa mẹ như “Núi cao biển rộng mênh mông”. Câu cuối bài ca dao, nhà thơ dân gian sử dụng cụm từ Hán Việt “cù lao chín chữ” để nói lên công ơn to lớn của cha mẹ như sinh thành nuôi dưỡng, cho bú mớm nâng niu, chăm sóc dạy bảo… con cái lớn khôn nén người, trải qua nhiều bề vất vả, khó nhọc. Có cha mẹ mới có con cái. Cha lo làm ăn, vất vả khó nhọc để nuôi con. Từ bát cơm, tấm áo đến ngọn đèn, quyển sách của con là do “công cha” và “nghĩa mẹ”. Mẹ mang nặng đẻ đau, như tục ngữ đã ghi lại: “Đứa con là hạt máu cắt đôi của mẹ”. Con thơ lớn lên bằng dòng sữa tiếng ru, tiếng hát, bằng sự vỗ về, âu yếm chở che của mẹ hiền. Mẹ theo dõi, mẹ vui sướng từng ngày, từng ngày: “Ba tháng con biết lẫy, bảy tháng con biết bò, chín tháng con lò dò biết đi”… Mẹ lo lắng, tóc mẹ bạc dần… khi con thơ ốm đau bệnh tật. Bát cháo, chén thuốc cho con chứa đựng biết bao tình thương của mẹ hiền. Và cái ngày con cắp sách đến trường vào học lớp Một, mẹ cha như trẻ lại, dào dạt sống trong niềm vui hạnh phúc và hi vọng. Đó là “cù lao chín chữ”, đó là công ơn to lớn trời bể của mẹ cha, mà con cái phải biết “ghi lòng”. Có hiếu thảo thì con cái mới biết “ghi lòng” công cha nghĩa mẹ. Hai tiếng “con ơi!” thật thấm thía, vần thơ như thấm sâu, lắng sâu vào tám hồn ta.
Cái hay của bài ca dao là cách nói so sánh cụ thể, nên thơ. Cái đẹp của bài ca dao là thể hiện sự ca ngợi, nói lên lòng biết ơn công cha nghĩa mẹ vô cùng to lớn. Ý nghĩa bài ca dao vô cùng sâu sắc; nó dạy chúng ta bài học về lòng hiếu thảo của đạo làm con.
Nguồn: thêm: Phân tích tính huống độc đáo trong truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân
|
Analysis of the folk song "Father's merit is like a sky-high mountain"
Instruct
“Father's merit is like a mountain towering over the sky,
Motherhood is like water in the East Sea.
High mountains, vast seas,
The island has nine words in mind, my child!
The first sentence talks about "father's merit". Cong Cha was once compared to Mount Thai Son; Here, my father's work is compared to a "sky-high mountain", a majestic mountain, a towering mountain. High up to several layers of blue clouds, mountains reaching up to the sky. The second sentence talks about "mother's meaning" - mother's meaning is vast, immense, indescribable. The meaning of mother is compared to "like water in the East Sea". The art of comparison and symmetry has created two magnificent images, both concretizing, picturing, and praising the meaning of mother and father for all. Deep love. Folk poetry gently reminds each of us to look up at the high mountains and high sky, look far out to the East Sea, listen to the singing waves and the lapping tides, and reflect on our father's merits. How profound and touching:
“Father's merit is like a mountain towering over the sky,
A mother's meaning is like water in the East Sea"
In the last two lines, the poetic voice sounds passionate and sweet. The exclamation "my child!" is a message of kindness about religion. Children must know how to "remember" the kindness of their father and mother:
“The mountains are high and the sea is vast,
The island has nine words in mind, my child!
See more: Analysis of a poem (foreign poetry) that has brought me many emotions. The above sentence is a metaphor, repeating and emphasizing the merits of parents like "High mountains and vast sea". In the last sentence of the folk song, the folk poet uses the Sino-Vietnamese phrase "nine-word island" to express the great gratitude of parents such as giving birth, nurturing, nursing, nurturing, caring for and educating... children. Greatness suppresses people, goes through many hardships and hardships. Only parents have children. Father took care of business and worked hard to raise his children. From the bowl of rice, the shirt to the lamp, my book is due to "father's merit" and "mother's kindness". The mother bears a heavy burden of childbirth, as the proverb records: "The child is a drop of blood cut in half by the mother." Children grow up with milk, lullabies, songs, and the caress and care of their mother. Mom watched, she was happy every day, every day: "At three months I learned to roll over, at seven months I learned to crawl, at nine months I learned to walk"... Mom was worried, her hair gradually turned gray... when her baby was sick. disability. The bowl of porridge and the bowl of medicine for my child contain so much love from a kind mother. And the day my child went to school and entered first grade, my mother and father felt like children again, filled with joy, happiness and hope. That is the "nine-word island", that is the great gratitude of parents, that children must know how to "remember". Only by being filial will children know how to "remember" their parents' deeds. Two words "my child!" It's so profound, the poem seems to penetrate deeply into our souls.
The beauty of folk songs is the specific, poetic way of comparing. The beauty of the folk song is to express praise and express gratitude for the great deeds of parents. The meaning of the folk song is extremely profound; it teaches us the lesson of filial piety.
Source: more: Analysis of unique situations in the short story The Picked Wife by Kim Lan
|
Đề bài: Phân tích bài ca dao:
Làm trai cho đảng nên trai,
Một trăm đám cỗ chẳng sai đám nào.
Trong xã hội phong kiến, quan niệm trọng nam khinh nữ xuất phát từ nền kinh tế tiểu nông tự cung tự cấp. Bao nhiêu công việc nặng nhọc, khó khăn chỉ biết trông chờ vào sức vóc của người đàn ông. Mỗi khi chiến tranh xảy ra thì đương đầu với mũi tên hòn đạn cũng chính là các trang nam nhi khỏe mạnh. Vì vậy, vai trò đàn ông được xã hội đề cao và khẳng định. Trong ca dao – dân ca có rất nhiều câu ca dao thể hiện rõ điều đó, ví dụ như:
Làm trai cho đáng nên trai,
Phú Xuân đã trải, Đồng Nai cũng từng.
Làm trai cho đáng nên trai,
Xuống Đông, Đông tĩnh, lên Đoài, Đoài yên.
Làm trai quyết chí tang bồng,
Sao cho tỏ mặt anh hùng mới cam.
Bản thân chữ Làm trai đã bao hàm ý nghĩa khẳng định chí khí, bản lĩnh và sức mạnh của các đấng nam nhi đại trượng phu.
Bài ca dao là tiếng cười châm biếm được tạo nên bằng thủ pháp nghệ thuật đối lập. Trước hết, tác giả tạo nên sự đối lập (tương phản) giữa cái cao cả: Làm trai cho đáng nên trai với cái tầm thường: Một trăm đám cỗ chẳng sai đám nào. Chàng trai trong câu ca dao không lo làm lụng mà chỉ trông chờ hưởng thụ.
Hình ảnh một trăm đám cỗ là con số ước lệ mang ý nghĩa khái quát. Chẳng sai là chẳng quên, chẳng bỏ sứt đám nào. Tác giả dân gian khéo léo dùng nghệ thuật phóng đại, cường điệu để tô đậm hiện tượng, châm biếm kẻ làm trai sức dài vai rộng mà chỉ “giỏi” hơn người ở cái tài đi… ăn cỗ, chỉ có mỗi một việc là chăm chú đợi đến ngày được hàng xóm láng giềng mời ăn cỗ. Thật mỉa mai, đáng cười cho đấng mày râu có tư tưởng ăn bám, hưởng thụ, không thích lao động. Anh ta không phải là loại người mà gia đình và xã hội mong muốn.
Xem thêm: Phân tích nhân vật Xuân Tóc Đỏ trong Hạnh phúc của một tang gia
|
Topic: Analysis of folk songs:
Being a boy for the party is a boy,
One hundred parties are not wrong.
In feudal society, the concept of favoring men over women comes from the self-sufficient smallholder economy. Many hard and difficult jobs depend only on the strength of the man. Every time a war breaks out, the arrows and bullets that face us are also healthy men. Therefore, the role of men is promoted and affirmed by society. In folk songs, there are many folk songs that clearly show that, for example:
Younger son should do for good,
Phu Xuan experienced it, Dong Nai also experienced it.
Younger son should do for good,
Down to the East, East is quiet, up to Doai, Doai is quiet.
Be a boy determined to mourn,
How can I show my hero's face?
The word "Be a man" itself has the meaning of affirming the character, bravery and strength of macho men.
Folk songs are satirical laughter created by contrasting artistic techniques. First of all, the author creates an opposition (contrast) between the sublime: Being a man worthy of being a man and the triviality: One hundred parties will not be wrong. The boy in the folk song does not worry about working but only looks forward to enjoyment.
The image of a hundred crowds is an approximate number with a general meaning. If you don't make mistakes, don't forget, don't leave anything out. The folk author skillfully uses the art of exaggeration and exaggeration to highlight the phenomenon, satirizing the man who is a man with long and broad shoulders but is only "better" than others in the ability to walk... eat food, with only one thing to do: attentively waiting for the day when neighbors invite me to dinner. It's ironic and laughable for a man who has the mindset of being a parasite, enjoying himself, and not liking to work. He is not the kind of person his family and society want.
See more: Analysis of the character Xuan Red Hair in Happiness of a Mourning Family
|
Đề bài: Viết một đoạn văn phân tích bài ca dao:
Thân em như hạt mưa rào,
Hạt rợi xuống giếng, hạt vào vườn hoa.
Thân em như hạt mưa sa,
Hạt vào đài các, hạt ra ruộng cày.
Bài làm:
Ca dao – dân ca phản ánh sinh động đời sống tình cảm phong phú của nhân dân lao động. Họ đã gửi gắm vào đó tiếng nói tâm tình chân thành tha thiết, với đủ mọi cung bậc buồn vui. Nhiều câu ca dao về hình thức và nội dung có những nét giống nhau nhưng mỗi câu lại mang một vẻ đẹp riêng, phù hợp với từng hoàn cảnh và tâm trạng nhân vật khác nhau. Ví dụ một số câu mở đầu bằng cụm từ Thân em và nội dung cùng đề cập đến phẩm chất tốt đẹp, cao quý cùng số phận hẩm hiu, bất hạnh của người phụ nữ trong xã hội phong kiến ngày xưa.
Hình ảnh hạt mưa sa lại gợi lên một sắc thái khác. Người phụ nữ cảm thấy thân phận mình quá nhỏ bé, gần như vô nghĩa. Có bao nhiêu hạt mưa từ trời cao rơi xuống trong một cơn mưa?! Mọi hạt mưa đều trong trẻo, mát lành như nhau nhưng chỗ rơi xuống – tức số phận của từng hạt mưa lại không giống nhau.
Sự rủi may của hoàn cảnh không thể nào đoán định trước được. Nó có thể dẫn đến những điều trái ngược hoàn toàn trong cảnh ngộ. Giữa muôn ngàn hạt mưa, một số hạt may mắn không rơi xuống giếng, không mất hút vào luống cày mà lại rơi vào vườn hoa, vào chốn lầu son gác tía đài các. Bài ca dao này quả là một bức tranh sinh động về thân phận bấp bênh của người phụ nữ xưa kia.
Nếu không may gặp phải vào hoàn cảnh trớ trêu, họ chỉ có một cách lựa chọn là cúi đầu chấp nhận. Dân gian đã ví: Thân con gái mười hai bến nước, trong nhờ, đục chịu, bởi vì người phụ nữ đã bị bao điều đè nén, ràng buộc bị tước đoạt quyền tự do, quyền làm chủ bản thân, Luật Tam tòng: Tại gia tòng phụ, Xuất giá tòng phu, Phu tử tòng tử không cho họ được sống theo ý mình mà hoàn toàn phụ thuộc vào người khác. Dẫu biết là vô lí, bất công cũng vẫn phải nhẫn nhục, cam chịu, chẳng biết kêu ai.
Xem thêm: Viết một bài văn với chủ đề: Hãy biết quý thời gian
|
Topic: Write a paragraph analyzing the folk song:
My body is like raindrops,
Seeds fall into the well, seeds into the flower garden.
My body is like falling raindrops,
Seeds go into the cisterns, seeds go to the plowed fields.
Assignment:
Folk songs and folk songs vividly reflect the rich emotional life of working people. They have expressed their sincere and heartfelt feelings, with all levels of joy and sadness. Many folk songs have similarities in form and content, but each verse has its own beauty, suitable for each different situation and character's mood. For example, some sentences begin with the phrase My dear and the content refers to the good and noble qualities and the sad and unfortunate fate of women in ancient feudal society.
The image of falling raindrops evokes another nuance. The woman feels her status is too small, almost meaningless. How many raindrops fall from the sky in one rain?! All raindrops are equally clear and cool, but the place they fall - that is, the fate of each raindrop - is not the same.
The luck of the situation cannot be predicted in advance. It can lead to completely opposite things in the situation. Among thousands of raindrops, some lucky ones did not fall into the well, did not disappear into the furrows, but instead fell into the flower garden, into the red tower guarding the tower. This folk song is truly a vivid picture of the precarious status of women in the past.
If they are unlucky enough to encounter an ironic situation, their only choice is to bow their heads and accept it. Folk have compared: A girl's body is twelve water stations, clear and cloudy, because the woman has been oppressed and constrained by many things, deprived of her right to freedom and self-mastery, the Law of Three Obedience: In the family, they obey the father, in the marriage, they obey the husband, and the husband follows the son, not allowing them to live as they wish but completely depending on others. Even though we know it's unreasonable and unfair, we still have to be patient and resigned, not knowing who to call.
See more: Write an essay with the topic: Know how to value time
|
Đề bài: Phân tích Bài ca ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ
Nếu được phép hiểu con người một cách giản đơn thì nhìn vào cụ Uy Viễn tướng công ta sẽ thấy rõ hai nét: Thấm nhuần đến chân tơ kẽ tóc đạo trung hiếu Nho gia và ý thức rất rõ về tài đức của mình, cố đem hết tài đức ấy cống hiến để làm nên sự nghiệp và danh tiếng để đời. Chí hướng và nhiệt huyết ấy í tai bì kịp. Nguyễn Công Trứ – ông quan kinh bang tế thế lại có một tâm hồn nghệ sĩ, cống hiến thì hết mình nhưng việc xong, công thành, lại tự thưởng cho mình được vui chơi – vui chơi thanh nhã: Nợ tang bồng một khi đã trắng thì vỗ tay reo và thơ túi rượu bầu, hoặc hẹn với những ông cao niên tiên ẩn sĩ nào đó ở tận chốn thâm sơn cùng cốc và thả hồn theo nào địch nào đàn…
Có thể coi Bài ca ngất ngưởng là một bài tự thuật ngắn gọn có ý nghĩa tổng kết cuộc đời và tính cách của Uy Viễn ướng công Nguyễn Công Trứ. Lời lẽ gọn mà vẫn đủ. Điệu thơ gửi vào thể ca trù nhiều tự do, ít khuôn phép, là thơ mà cũng là ca, là nhạc.
Vũ trụ nội mạc phi phận sự
Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng.
Khi Thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đốc Đông,
Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng.
Lúc bình Tây cờ đại tướng,
Có khi về Phủ doãn Thừa Thiên.
Đô môn giải tổ chi niên,
Đạc ngựa bò vàng đeo nhất ngưởng.
Kìa núi nợ phau phau mây trắng.
Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi
Gót tiên theo đủng đỉnh một đôi dì.
Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng.
Được mất dương dương người thái thượng,
Khen chê phơi phới ngọn đông phong,
Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng.
Không Phật, không Tiên, không vướng tục.
Chẳng Trái, Nhạc cũng vào phường Hàn, Phú.
Nghĩa vua tôi cho trọn vẹn đạo sơ chung,
Trong triều ai ngất ngưởng như ông!
Không rõ tựa đề bài thơ này tự cụ đặt hay người sưu tập đưa vào, nhưng tinh thần chung vẫn là kẻ nói lên sự ngất ngưởng. Không chỉ ở đầu đề mà toàn bài còn có thêm bốn chữ nữa, một sự cố ý trùng lặp thành điệp khúc, đúng vào chỗ tóm tắt và đúc kết một ý bày lên trên hay ẩn giấu ở dưới.
Phong thái ấy của Nguyễn Công Trứ vốn có từ nhỏ nhưng nó bộc phát mạnh mẽ và không giấu giếm hhất là sau thời điểm Đô môn giải tổ chi niên ( được trả ấn từ quan, vua cho về nghỉ). Bởi dù sao trong một thái độ ngất ngưởng như thế không bao giờ được phép lọt vào mắt vào tai các vua chuyên chế của triều Nguyễn. Cho nên mở bài vẫn phải phô ra cái nét thứ nhất ( như bên trên đã giải bày): Vũ trụ nội mạc phi phận sự, tác giả đặt mình ngang tầm vũ trụ nhưng rồi cũng khiêm tốn, kín mà hở nói tiếp ngay: Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng. Vào lồng là vào khuôn phép vua chúa nhưng vẫn là chật hẹp, tù túng trái với bộ đội trời đạp đất của ông.
Nhà thơ vừa mới tự đề cao vai trò của mình trong vũ trụ ở câu thứ nhất thì lập tức tự chê mình đã đem cái tài ba ấy nhốt vào lồng ở câu thứ hai nhưng dù sao vẫn nổi hẳn lên sự khoan khoái, tự hào khi nhắc tới đôi cái mốc của đời mình, dù mỗi sự kiện chỉ nhắc đến bằng vài chữ, như bất cần, không có gì quan trọng.
Khi thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đốc Đông.
….
Lúc bình Tây cờ đại tướng,
Có khi về Phủ doãn Thừa Thiên.
Giọng thơ kể toàn chuyện lớn lao hiển hách mà nghe như nói chơi. Đỗ Thủ khoa ( đỗ đầu cử nhân khoa thi hương), làm Tham tán quân sự…chức vị ấy nói sơ qua cũng được. Nhưng làm đến Tổng đốc Hải An ( Hải Dương và Quảng Yên), một chức quan to trong tỉnh hay lĩnh chức đại tướng bình Tây ( xứ Tây Nam nước ta) mà chỉ gọi cộc lốc khi Tổng đốc Đông và bình Tây, cờ đại tướng thì thật sự Nguyễn Công Trứ không coi những chức tước ấy đều là vẻ vang lớn nhất đối với mình. Tất cả chỉ là phận sự trong vũ trụ, đến tay mình thì làm, cái cốt yếu đã làm hết lòng hết sức. Chẳng phải cụ đã từng nói: Làm tổng đốc tôi không lấy làm vinh, làm lính tôi cũng không coi là nhục đó sao?. Cho nên, câu tổng kết: Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng khẳng định, đối với công danh, dù Tổng đốc, dù đại tướng cụ coi cũng nhẹ tênh. Đó là một loại ngất ngưởng.
Xem thêm: Viết bài bình luận ngắn về tai nạn giao thông ở nước ta hiện nay (không quá 400 từ)Tiếp theo là một hành ngất ngưởng hơi bất thường: người giàu sang thì cưỡi ngựa, còn cụ lại cưỡi bò và cho bò đeo đạc ngựa:
Người đời bảo cụ khác người, có kẻ cho là cụ đặt mình lên trên dư luận. Xét ra có thể còn xa hơn thế, cụ cho bò đeo nhạc ngựa cũng là một cách chơi ngông. Hơn nữa, hành động ấy xảy ran gay sau ngày cụ về nghỉ việc quan. Vừa nêu rõ năm tháng mình thôi đeo ấn vua ban, đô môn giải tổ chi niên ( giải tổ có nghĩa là cởi dây đeo ấn) thì lại cho ngay bò mình cưỡi đeo đạc ngựa để cho nó cùng ngất ngưởng như mình? Ai suy diễn ra điều này chắc không khỏi cho hành vi của cụ là xấc xược. Đó là hai thứ ngất ngưởng.
Ba là ngất ngưởng cả với Bụt:
Kìa núi nọ phau phau mây trắng,
Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi.
Gót tiên theo đủng đỉnh một đôi dì,
Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng.
Cười bò lên thăm chùa ở núi Nài mây phủ trắng phau, cụ cười mình là: Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi, kỳ thực đó là cái dạng thôi. Bởi theo hầu cụ có một đoàn gót sen “ tiên nữ” đủng đỉnh một đôi dì là các cô ả đầu. Không những chẳng từ bi chút nào mà còn bất kính là đằng khác. Tuy vậy nhưng vẫn rất tự nhiên. Và cụ khiến But không những chẳng chau mày quở trách mà còn nực cười độ lượng với ông quan thượng già.
Đến chùa, cụ đâu có lễ Phật mà bày tiệc ca hát, một tiệc hát ả đào có cả đàn kịch, trống phách hẳn hoi. Nhà chùa chắc cũng vì nể uy cụ mà làm lơ. Cụ được tất cả tục lụy mà lâng lâng bay bổng trên chín tấng mây, phơi phới luồng ấm mát của gió xuân.
Được mất dương dương người thái thượng,
Khen chê phơi phới ngọn đông phong.
Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng.
Không Phật, không Tiên, không vướng tục.
Cá tính thượng thư bốc lên hết cỡ trong roi chầu tài hoa của cụ. Bấy giờ thì mọi sự đời, cái được, cái mất, miệng khen, miệng chê…tất cả đều coi như không có. Hồn cụ lâng lâng ở cõi mây trong lành, cao khiết, lời thơ vút lên hào hứng: Được mất/ dương dương người thái thượng: Khen chê/ phơi phới ngọn đông phong. Con người có bay bổng trên tầng cao, trong say sưa âm nhạc của điệu ca, tiếng trống. Khi ca/ khi tửu/ khi cắc, khi tùng. Dù cuộc vui bày trong của Phật có các cô tiên tham dự mà mình vẫn trong sạch, thanh cao. Không phật, không/ Tiên, không vướng tục:
Đây là đoạn thơ rõ nhất và cũng là đoạn hay nhất của bài thơ. Hai câu trước trải dài, thanh thoát cao siêu như tấm lòng không còn vướng chút bụi trần trong nhịp điệu thênh thang thì hai câu sau là nhịp ca, nhịp trống, nhịp phách, nhịp rượu chúc mừng, rồi dồn lên rối rít để chấm dứt ở một chữ mang thanh trắc, đục, mạnh, chấm dứt câu thơ cũng là nện mạnh xuống mặt trống để tự thưởng, tự hào, tự khằng định cái tài tình, cái khoáng đạt của tâm hồn mình.
Riêng mấy câu thơ ấy cũng đủ bộc lộ tâm tính của Uy Viễn tướng công, giúp ta hiểu được phần nào cái ngất ngưởng và Bài ca ngất ngưởng này của cụ.
Kết thúc bài thơ, Nguyễn Công Trứ cũng phải trở lại cái điệp khúc nhàm chán của đạo sơ chung với triều Nguyễn, mặc dù câu đó chĩ đặt giữa một câu tự đánh giá cao và một câu như muốn thách thức với cả triều đình:
Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung,
Trong triều ai ngất ngưởng như ông!
Nội dung ngất ngưởng bất chấp dư luận, bất cần mọi sự đã tìm được ở thể ca trù một âm hiệu hoàn toàn thích hợp, câu ngắn, câu dài tùy ý, vẫn liền từng cặp xen lẫn đều đặn bằng trắc: niêm luật tự do, đối không bắt buộc, âm điệu quyết định ở trạng thái tâm hồn nhà thơ: bi thương, hùng tráng, cười cợt…
Giọng điệu bài thơ amng nét độc đáo của tác giả: tự hào gần như tự phụ, thậm chí đến ồn ào. Hai nét lớn trong tính cách cụ không hề che giấu, công tích lớn mà kể coi như chuyện thường tình, còn thú chơi ngông thì lại đề cao tột bậc.
Nguồn Edufly
Xem thêm: Bàn về đức tính hoà nhã, cách sống hoà nhã
|
Đề bài: Phân tích Bài ca ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ
Nếu được phép hiểu con người một cách giản đơn thì nhìn vào cụ Uy Viễn tướng công ta sẽ thấy rõ hai nét: Thấm nhuần đến chân tơ kẽ tóc đạo trung hiếu Nho gia và ý thức rất rõ về tài đức của mình, cố đem hết tài đức ấy cống hiến để làm nên sự nghiệp và danh tiếng để đời. Chí hướng và nhiệt huyết ấy í tai bì kịp. Nguyễn Công Trứ – ông quan kinh bang tế thế lại có một tâm hồn nghệ sĩ, cống hiến thì hết mình nhưng việc xong, công thành, lại tự thưởng cho mình được vui chơi – vui chơi thanh nhã: Nợ tang bồng một khi đã trắng thì vỗ tay reo và thơ túi rượu bầu, hoặc hẹn với những ông cao niên tiên ẩn sĩ nào đó ở tận chốn thâm sơn cùng cốc và thả hồn theo nào địch nào đàn…
Có thể coi Bài ca ngất ngưởng là một bài tự thuật ngắn gọn có ý nghĩa tổng kết cuộc đời và tính cách của Uy Viễn ướng công Nguyễn Công Trứ. Lời lẽ gọn mà vẫn đủ. Điệu thơ gửi vào thể ca trù nhiều tự do, ít khuôn phép, là thơ mà cũng là ca, là nhạc.
Vũ trụ nội mạc phi phận sự
Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng.
Khi Thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đốc Đông,
Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng.
Lúc bình Tây cờ đại tướng,
Có khi về Phủ doãn Thừa Thiên.
Đô môn giải tổ chi niên,
Đạc ngựa bò vàng đeo nhất ngưởng.
Kìa núi nợ phau phau mây trắng.
Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi
Gót tiên theo đủng đỉnh một đôi dì.
Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng.
Được mất dương dương người thái thượng,
Khen chê phơi phới ngọn đông phong,
Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng.
Không Phật, không Tiên, không vướng tục.
Chẳng Trái, Nhạc cũng vào phường Hàn, Phú.
Nghĩa vua tôi cho trọn vẹn đạo sơ chung,
Trong triều ai ngất ngưởng như ông!
Không rõ tựa đề bài thơ này tự cụ đặt hay người sưu tập đưa vào, nhưng tinh thần chung vẫn là kẻ nói lên sự ngất ngưởng. Không chỉ ở đầu đề mà toàn bài còn có thêm bốn chữ nữa, một sự cố ý trùng lặp thành điệp khúc, đúng vào chỗ tóm tắt và đúc kết một ý bày lên trên hay ẩn giấu ở dưới.
Phong thái ấy của Nguyễn Công Trứ vốn có từ nhỏ nhưng nó bộc phát mạnh mẽ và không giấu giếm hhất là sau thời điểm Đô môn giải tổ chi niên ( được trả ấn từ quan, vua cho về nghỉ). Bởi dù sao trong một thái độ ngất ngưởng như thế không bao giờ được phép lọt vào mắt vào tai các vua chuyên chế của triều Nguyễn. Cho nên mở bài vẫn phải phô ra cái nét thứ nhất ( như bên trên đã giải bày): Vũ trụ nội mạc phi phận sự, tác giả đặt mình ngang tầm vũ trụ nhưng rồi cũng khiêm tốn, kín mà hở nói tiếp ngay: Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng. Vào lồng là vào khuôn phép vua chúa nhưng vẫn là chật hẹp, tù túng trái với bộ đội trời đạp đất của ông.
Nhà thơ vừa mới tự đề cao vai trò của mình trong vũ trụ ở câu thứ nhất thì lập tức tự chê mình đã đem cái tài ba ấy nhốt vào lồng ở câu thứ hai nhưng dù sao vẫn nổi hẳn lên sự khoan khoái, tự hào khi nhắc tới đôi cái mốc của đời mình, dù mỗi sự kiện chỉ nhắc đến bằng vài chữ, như bất cần, không có gì quan trọng.
Khi thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đốc Đông.
….
Lúc bình Tây cờ đại tướng,
Có khi về Phủ doãn Thừa Thiên.
Giọng thơ kể toàn chuyện lớn lao hiển hách mà nghe như nói chơi. Đỗ Thủ khoa ( đỗ đầu cử nhân khoa thi hương), làm Tham tán quân sự…chức vị ấy nói sơ qua cũng được. Nhưng làm đến Tổng đốc Hải An ( Hải Dương và Quảng Yên), một chức quan to trong tỉnh hay lĩnh chức đại tướng bình Tây ( xứ Tây Nam nước ta) mà chỉ gọi cộc lốc khi Tổng đốc Đông và bình Tây, cờ đại tướng thì thật sự Nguyễn Công Trứ không coi những chức tước ấy đều là vẻ vang lớn nhất đối với mình. Tất cả chỉ là phận sự trong vũ trụ, đến tay mình thì làm, cái cốt yếu đã làm hết lòng hết sức. Chẳng phải cụ đã từng nói: Làm tổng đốc tôi không lấy làm vinh, làm lính tôi cũng không coi là nhục đó sao?. Cho nên, câu tổng kết: Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng khẳng định, đối với công danh, dù Tổng đốc, dù đại tướng cụ coi cũng nhẹ tênh. Đó là một loại ngất ngưởng.
Xem thêm: Viết bài bình luận ngắn về tai nạn giao thông ở nước ta hiện nay (không quá 400 từ)Tiếp theo là một hành ngất ngưởng hơi bất thường: người giàu sang thì cưỡi ngựa, còn cụ lại cưỡi bò và cho bò đeo đạc ngựa:
Người đời bảo cụ khác người, có kẻ cho là cụ đặt mình lên trên dư luận. Xét ra có thể còn xa hơn thế, cụ cho bò đeo nhạc ngựa cũng là một cách chơi ngông. Hơn nữa, hành động ấy xảy ran gay sau ngày cụ về nghỉ việc quan. Vừa nêu rõ năm tháng mình thôi đeo ấn vua ban, đô môn giải tổ chi niên ( giải tổ có nghĩa là cởi dây đeo ấn) thì lại cho ngay bò mình cưỡi đeo đạc ngựa để cho nó cùng ngất ngưởng như mình? Ai suy diễn ra điều này chắc không khỏi cho hành vi của cụ là xấc xược. Đó là hai thứ ngất ngưởng.
Ba là ngất ngưởng cả với Bụt:
Kìa núi nọ phau phau mây trắng,
Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi.
Gót tiên theo đủng đỉnh một đôi dì,
Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng.
Cười bò lên thăm chùa ở núi Nài mây phủ trắng phau, cụ cười mình là: Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi, kỳ thực đó là cái dạng thôi. Bởi theo hầu cụ có một đoàn gót sen “ tiên nữ” đủng đỉnh một đôi dì là các cô ả đầu. Không những chẳng từ bi chút nào mà còn bất kính là đằng khác. Tuy vậy nhưng vẫn rất tự nhiên. Và cụ khiến But không những chẳng chau mày quở trách mà còn nực cười độ lượng với ông quan thượng già.
Đến chùa, cụ đâu có lễ Phật mà bày tiệc ca hát, một tiệc hát ả đào có cả đàn kịch, trống phách hẳn hoi. Nhà chùa chắc cũng vì nể uy cụ mà làm lơ. Cụ được tất cả tục lụy mà lâng lâng bay bổng trên chín tấng mây, phơi phới luồng ấm mát của gió xuân.
Được mất dương dương người thái thượng,
Khen chê phơi phới ngọn đông phong.
Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng.
Không Phật, không Tiên, không vướng tục.
Cá tính thượng thư bốc lên hết cỡ trong roi chầu tài hoa của cụ. Bấy giờ thì mọi sự đời, cái được, cái mất, miệng khen, miệng chê…tất cả đều coi như không có. Hồn cụ lâng lâng ở cõi mây trong lành, cao khiết, lời thơ vút lên hào hứng: Được mất/ dương dương người thái thượng: Khen chê/ phơi phới ngọn đông phong. Con người có bay bổng trên tầng cao, trong say sưa âm nhạc của điệu ca, tiếng trống. Khi ca/ khi tửu/ khi cắc, khi tùng. Dù cuộc vui bày trong của Phật có các cô tiên tham dự mà mình vẫn trong sạch, thanh cao. Không phật, không/ Tiên, không vướng tục:
Đây là đoạn thơ rõ nhất và cũng là đoạn hay nhất của bài thơ. Hai câu trước trải dài, thanh thoát cao siêu như tấm lòng không còn vướng chút bụi trần trong nhịp điệu thênh thang thì hai câu sau là nhịp ca, nhịp trống, nhịp phách, nhịp rượu chúc mừng, rồi dồn lên rối rít để chấm dứt ở một chữ mang thanh trắc, đục, mạnh, chấm dứt câu thơ cũng là nện mạnh xuống mặt trống để tự thưởng, tự hào, tự khằng định cái tài tình, cái khoáng đạt của tâm hồn mình.
Riêng mấy câu thơ ấy cũng đủ bộc lộ tâm tính của Uy Viễn tướng công, giúp ta hiểu được phần nào cái ngất ngưởng và Bài ca ngất ngưởng này của cụ.
Kết thúc bài thơ, Nguyễn Công Trứ cũng phải trở lại cái điệp khúc nhàm chán của đạo sơ chung với triều Nguyễn, mặc dù câu đó chĩ đặt giữa một câu tự đánh giá cao và một câu như muốn thách thức với cả triều đình:
Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung,
Trong triều ai ngất ngưởng như ông!
Nội dung ngất ngưởng bất chấp dư luận, bất cần mọi sự đã tìm được ở thể ca trù một âm hiệu hoàn toàn thích hợp, câu ngắn, câu dài tùy ý, vẫn liền từng cặp xen lẫn đều đặn bằng trắc: niêm luật tự do, đối không bắt buộc, âm điệu quyết định ở trạng thái tâm hồn nhà thơ: bi thương, hùng tráng, cười cợt…
Giọng điệu bài thơ amng nét độc đáo của tác giả: tự hào gần như tự phụ, thậm chí đến ồn ào. Hai nét lớn trong tính cách cụ không hề che giấu, công tích lớn mà kể coi như chuyện thường tình, còn thú chơi ngông thì lại đề cao tột bậc.
Nguồn Edufly
Xem thêm: Bàn về đức tính hoà nhã, cách sống hoà nhã
|
Đề bài: Phân tích bài chuyện chức phán sự ở đền Tản Viên của Nguyễn Dữ
Chuyện chức phán sự ở đền Tàn Viên là 1 trong những chuyện hay, tiêu biểu của Truyền kỳ mạn lục. Câu chuyện đã phê phán hiện thực xã hội và đề cao phẩm chất kẽ sĩ, đồng thơi phản ánh khá rõ tinh thần dân tộc của tác giả, mà nhân vật chính là Ngô Tử Văn một con người tính tình khảng kháng, trung trực.
Khác với một số truyện trong đó Nguyễn Dữ trình bày lai lịch và hành trình số phận của nhân vật từ đầu đến cuối, Chuyện chúc phán sự ở đền Tản viên chỉ chọn 1 thời điểm có ý nghĩa nổi bật để bộc lộ đầy đủ tính cách nhân vật. Chuyện giống như một màn kịch ngắn, mở màn là sự xuất hiện của ngô Từ Văn với hành động châm lửa đốt đền thiêng. Hành độn đó chính là ngòi nổ cho 1 cuộc chiến đấu giữa chàng và hồn ma tên tướng giặc bại trận.
“Chuyện chức phán sự đền Tản Viên” viết bằng chữ Hán theo thể văn xuôi truyền kỳ. Đây là thể loại văn học phản ánh hiện thực cuộc sống qua những yếu tố kỳ ảo hoang đường. Nhân vật trong bộ truyền kỳ gồm cả người, ma quỷ, thần thánh, có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, có thể xâm nhập thế giới của nhau. Bộ truyện “Truyền kì mạn lục” được sáng tác vào khoảng thế kỉ XVI, lúc xã hội phong kiến Việt Nam rơi vào suy thoái, khủng hoảng, nhân dân bất bình với tầng lớp thống trị, nhiều nho sĩ rơi vào tâm trạng hụt hẫng, nuối tiếc cho thời thịnh trị dưới sự cai trị của vua Lê Thánh Tông. Nguyễn Dữ sáng tác bộ truyện trong khoảng thời gian ông đã cáo quan ở ẩn vừa để phản ánh tình trạng xã hội, vừa để bộc lộ quan điểm sống và tấm lòng của ông với cuộc đời.
Nhân vật chính của tác phẩm “Chuyện chức phán sự đền Tản Viên” xuất hiện ngay từ đầu truyện bằng mấy dòng giới thiệu trực tiếp ngắn gọn về tên họ, quê quán, tính tình, phẩm chất. Ngô Tử Văn được giới thiệu là người tính tình cương trực, thẳng thắn, khảng khái, nóng nảy, thấy sự gian tà thì không thể chịu được. Lời giới thiệu mang giọng ngợi khen, có tác dụng định hướng cho người đọc về hành động kiên quyết của nhân vật này. Minh chứng rõ ràng cho tính cách cứng cỏi của Ngô Tử Văn là hành động đốt đền tà của chàng. Trong khi mọi người đều lắc đầu, lè lưỡi, không dám làm gì quỷ thần ở ngôi đền gần làng quấy hại nhân dân thì Tử Văn cương quyết, công khai, đường hoàng, ung dung, tắm rửa sạch sẽ, khấn trời rồi châm lửa đốt hủy ngôi đền. Hành động đó xuất phát từ muốn diệt trừ yêu ma, trừ hại cho dân, từ lòng tự tin vào chính nghĩa của Ngô Tử Văn, chứng tỏ cốt cách khảng khái của kẻ sĩ.
Xem thêm: Hãy bình luận câu tục ngữ sau: "Đất tốt trồng cây rườm rà, Những người thanh lịch nói ra dịu dàng". "Đất xấu trồng cây khẳng khiu, Những người thô tục nói điều phàm phu"Sự cương trực, khảng khái của Ngô Tử Văn còn bộc lộ rõ qua thái độ của chàng với hồn ma tên tướng giặc. Tướng giặc khi sống là kẻ xâm lược nước ta, tàn hại dân ta, khi chết rồi vẫn quen thói ỷ mạnh hiếp yếu, cướp nơi trú ngụ của thổ thần nước Việt, lại còn gian trá bày trò đút lót rồi tác yêu tác quái với nhân dân trong vùng. Hắn bị Tử Văn đốt đền là đáng đời nhưng lại hiện hình, xảo quyệt làm như mình là kẻ bị hại, dùng tà phép khiến cho chàng bị sốt nóng sốt rét, đầu lảo đảo. Hồn ma tướng giặc buông lời mắng mỏ, đe dọa, quyết kiện Tử Văn xuống tận Diêm Vương. Trước sự ngang ngược trắng trợn, quyền phép đáng sợ của hồn ma tướng giặc, Ngô Tử Văn vẫn điềm nhiên, không hề run sợ mà tự tin, không coi những lới đe dọa ra gì, thậm chí chẳng thèm tiếp lời hồn ma tướng giặc. Thái độ ấy thể hiện một khí phách cứng cỏi, một niềm tin mạnh mẽ vào chính nghĩa, sự đúng đắn trong hành động của Ngô Tử Văn. Mặt khác, bản lĩnh của chàng còn thể hiện qua thái độ biết ơn lời chỉ dẫn của thổ thần nước Việt. Do Tử Văn dũng cảm, trừ hại cho dân nên thần linh mới phù trợ giúp đỡ chàng.
Tính cách kiên định chính nghĩa của Ngô Soạn còn thể hiện rõ trong quá trình chàng bị lôi xuống địa phủ. Cảnh địa phủ rùng rợn với quỷ sứ hung ác, con sông đầy gió tanh sóng xám. Tử Văn bị bọn quỷ sai lôi đi rất nhanh, bị phán xét lạnh lùng là kẻ “tội sâu ác nặng, không được liệt vào hàng khoan giảm”, bị kết thêm tội ngoan cố bướng bỉnh nhưng chàng chẳng hề run sợ, không hề nhụt chí, một mực kêu oan, đòi phải được phán xét công khai, minh bạch. Khi đối diện trước Diêm vương uy nghiêm, Tử Văn đấu tranh vạch tội tên tướng giặc bằng những lí lẽ cứng cỏi, bằng chững không thể chối cãi, giọng điệu rất đanh thép vững vàng. Chàng đã bảo vệ lẽ phải mà bất chấp tính mạng của mình, không chịu khuất phục trước uy quyền, kiên quyết đấu tranh cho công lí và lẽ phải đến cùng. Kết quả, chàng đã chiến thắng hồn ma gian tà của tên tướng giặc, bảo toàn được sự sống của mình, được tiến cử vào chức phán sự đền Tản Viên, chịu trách nhiệm giữ gìn bảo vệ công lí. Chiến thắng ấy của Ngô Tử Văn có nghĩa vô cùng to lớn, đã trừng trị đích đáng hồn ma tướng giặc xảo trá, làm sáng tỏ nỗi oan khuấ, phục hồi chức vị cho thổ thần nước Việt, giải trừ tai họa cho nhân dân.
Qua cuộc đấu tranh không khoan nhượng, chống lại cái ác, Ngô Tử Văn đã nổi bật lên là người chính trực, khảng khái, dũng cảm bảo vệ công lí đến cùng, là một kẻ sĩ cứng cỏi của nước Việt. Từ đó, tác giả Nguyễn Dữ đã khẳng định niềm tin chính nghĩa nhất định thắng gian tà, thể hiện tinh thần tự tôn dân tộc, bộc lộ quyết tâm đấu tranh triệt để với cái xấu cái ác.
Truyện thông qua cuộc đấu tranh của Ngô Tử Văn còn ngầm phản ánh thế giới thực của con người với đầy rẫy sự việc xấu xa như nạn ăn của đút,tham quan dung túng che dấu cho cái ác hoành hành, công lí bị che mắt.
Nguồn Edufly
Xem thêm: Cảm nhận về bài thơ Bạn đến chơi nhà của Nguyễn Khuyến
|
Topic: Analyze the story of the judgeship at Tan Vien temple by Nguyen Du
The story of the judge at Tan Vien temple is one of the best and typical stories of Legend of Man Luc. The story criticized social reality and promoted the qualities of scholars, and at the same time clearly reflected the author's national spirit, the main character of which was Ngo Tu Van, a man of resistance and integrity.
Unlike some stories in which Nguyen Du presents the character's background and fate journey from beginning to end, The Story of the Judge at Tan Vien Temple only chooses a significant moment to fully reveal his character. character way. The story is like a short play, the opening is the appearance of Ngo Tu Van with the act of setting fire to the sacred temple. That action was the trigger for a battle between him and the ghost of the defeated enemy general.
"The story of the magistrate of Tan Vien temple" is written in Chinese characters in the form of legendary prose. This is a literary genre that reflects the reality of life through fantasy and mythical elements. Characters in the legend include humans, demons, and gods, who have close relationships with each other and can invade each other's world. The series "The Legend of Man Luc" was composed around the 16th century, when Vietnamese feudal society fell into recession and crisis, the people were dissatisfied with the ruling class, and many Confucian scholars fell into depression. disappointed and regretful for the prosperous times under the rule of King Le Thanh Tong. Nguyen Du composed the series during the time he went into hiding, both to reflect the social situation and to reveal his perspective on life and his heart for life.
The main character of the work "The Story of the Judge of Tan Vien Temple" appears right at the beginning of the story with a few short direct introduction lines about his name, hometown, personality, and qualities. Ngo Tu Van was introduced as a person with an upright, straightforward, clear-headed, hot-tempered personality, and could not stand seeing evil. The introduction has a praising tone, which has the effect of orienting readers about this character's resolute actions. A clear testament to Ngo Tu Van's tough character is his act of burning evil temples. While everyone shook their heads, stuck out their tongues, and did not dare to do anything to the ghosts and spirits at the temple near the village that were harassing the people, Tu Van was resolute, public, dignified, and leisurely, bathed, prayed to heaven, and lit the candle. Fire destroyed the temple. That action stemmed from Ngo Tu Van's desire to eliminate demons, eliminate harm to the people, and from his confidence in the cause of justice, proving the noble character of a scholar.
See more: Please comment on the following proverb: "Good soil grows cumbersome trees, Elegant people speak gently." "Bad soil grows spindly trees, Vulgar people say vulgar things" Ngo Tu Van's uprightness and courage are also clearly revealed through his attitude towards the ghost of the enemy general. When he was alive, the enemy general invaded our country and devastated our people. When he died, he still had the habit of relying on the strong to bully the weak, robbing the country's land gods of residence, and also deceitfully plotting bribes and acting evil. with the people in the area. He deserved to be burned by Tu Van, but he reappeared and cunningly acted like he was the victim, using evil magic to make him suffer from fever and malaria, making his head stagger. The enemy general's ghost scolded and threatened, determined to sue Tu Van all the way to the King of Hell. Faced with the blatant arrogance and terrifying power of the enemy general's ghost, Ngo Tu Van remained calm, not afraid but confident, disregarding the threats, not even bothering to respond to the ghost general's words. enemy. That attitude shows a tough spirit, a strong belief in justice and the correctness of Ngo Tu Van's actions. On the other hand, his bravery is also shown through his gratitude for the guidance of the Vietnamese land god. Because Tu Van was brave and eliminated harm to the people, the gods helped him.
Ngo Soan's steadfast and righteous personality was also clearly shown during the process when he was dragged to the underworld. The scene of the underworld is scary with cruel demons, the river is full of wind and gray waves. Tu Van was quickly dragged away by the demons. He was coldly judged as a person with a "deeply serious crime, not to be considered in the category of leniency", and was also convicted of being stubborn and stubborn, but he did not tremble at all, not at all. discouraged, persistently complaining, demanding to be judged publicly and transparently. When facing the majestic King of Hell, Tu Van fought to expose the enemy general's crimes with tough arguments, undeniable certainty, and a very strong and steady tone. He defended what was right at the risk of his own life, refused to submit to authority, and resolutely fought for justice and righteousness to the end. As a result, he defeated the evil ghost of the enemy general, preserved his life, and was recommended to the position of judge of Tan Vien temple, responsible for preserving and protecting justice. Ngo Tu Van's victory was of great significance. He punished the ghosts of treacherous enemy generals, cleared up the injustice, restored the position of the land god of Vietnam, and eliminated disasters for the people. people.
Through his uncompromising struggle against evil, Ngo Tu Van stood out as a man of integrity, courage, courage to protect justice to the end, and a tough soldier of Vietnam. Since then, author Nguyen Du has affirmed the belief that justice will definitely overcome evil, expressed the spirit of national pride, and revealed the determination to thoroughly fight against evil and evil.
The story, through Ngo Tu Van's struggle, also implicitly reflects the real world of people, full of evil events such as bribery, corruption, tolerance to cover up evil, and justice being blinded. .
Source Edufly
See more: Comments on the poem You come to visit at home by Nguyen Khuyen
|
Phân tích bài Cáo tật thị chúng của Mãn Giác Thiền sư.
Hướng dẫn
Về thời nhà Lí (1009 – 1225), Thăng Long trở thành kinh đô nước Đại Việt. Sau chiến thắng sông Cầu – Như Nguyệt (1076), nền độc lập của Tổ quốc ta được củng cố, ý thức dân tộc phát triển mạnh mẽ. Việc học hành được mở mang, Kinh tế nông nghiệp và thủ công nghiệp phát triển khá phồn thịnh. Đạo Phật trở thành quốc giáo. Việc xây chùa, đúc chuông, tạc tượng, in kinh Phật diễn ra sôi nổi khắp nơi. Nhiều vị Thiền sư được triều đình trọng vọng. Họ là những con người lỗi lạc, đức trọng, tài cao, giỏi thơ văn, tên tuổi sáng ngời sử sách.
Trong số đó, Mãn Giác Thiền sư (1052 – 1096) là một vị cao tăng mang tâm hồn thi sĩ tuyệt đẹp. Bài "Có bệnh bảo mọi người" (Cáo tật thị chúng) được vị Thiền sư đọc cho các đệ tử nghe khi ông lâm bệnh trọng, trước lúc qua đời. Vốn là một bài kệ (kinh kệ) hàm chứa triết lí đạo Phật cao sâu, nhưng lại tươi mát, gợi cảm, đầy thi vị. Nguyên tác bằng chữ Hán, đây là bản dịch thơ:
“Xuân qua, trăm hoa rụng,
Xuân tới, trăm hoa cười.
Trước mắt, việc đi mãi,
Trên đầu, già đến rồi.
Đừng tưởng xuân tàn hoa rụng hết;
Đêm qua, sân trước, một cành mai”
(Ngô Tất Tố dịch)
Bài kệ – thơ đã nói lên quy luật của sự sống và thiên nhiên, biểu lộ tâm thế của nhà sư trước quy luật sinh, tử ở cõi nhân gian, cái tịch diệt và cái vĩnh hằng trong vũ trụ.
“Có bệnh bảo mọi người” gồm 6 câu, cứ 2 câu kết thành một liên đăng đối, hài hoà để lại nhiều ấn tượng thú vị.
Hai câu đầu nói lên sự tuần hoàn của 4 mùa, tiêu biểu là sự chuyển vần của mùa xuân. Mỗi độ xuân về, trăm hoa nở (bách hoa khai) đua sắc khoe hương.
Hình ảnh “trăm hoa cười’’ tượng trưng cho sức sống mạnh mẽ, cho vẻ đẹp của cây cổ thiên nhiên và mùa xuân. Nhựa sống mùa xuân, hương sắc mùa xuân… còn gì đẹp hơn? Và khi mùa xuân đi qua, ngày tháng sẽ trôi nhanh theo mùa hạ, chuyển sang mùa thu rồi đến mùa đông, chẳng bao lâu lại trở về mùa xuân… cỏ cây, hoa lá, tạo vật cũng biến đổi, sinh trưởng hay phai tàn theo 4 mùa, năm tháng. Khi mùa xuân trôi qua, “trăm hoa rụng” (bách hoa lạc) theo quy luật của tự nhiên. Hai câu thơ mang màu sắc triết lí, khái quát quy luật tồn tại của thiên nhiên và sự vận động của thời gian. Mùa xuân cũng như sự sống thiên nhiên chuyển biến bất tận: “xuân qua” rồi “xuân tới”, “hoa nở” rồi “hoa tàn ”… Mùa xuân là vĩnh hằng. Cỏ cây, trăm hoa cũng như vạn vật, con người đều bị chi phối theo quy luật khắc nghiệt của tự nhiên:
"'Xuân qua, trăm hoa rụng,
Xuân tới, trăm hoa cười”
Bước đi của mùa xuân “qua… tới”, cũng như trăm hoa “rụng… nở”, một lối nói đầy cảm xúc, làm cho câu kệ vốn khô khan đã trở thành câu thơ đẹp và hay. Qua đó, ta thấy tâm hồn vị Thiền sư quả là đẹp!
Xem thêm: “Một quyển sách tốt là một người bạn hiền”. (La Rochefoucault). Em hãy giải thích và chứng minh ý kiến trênHai câu tiếp theo, Mãn Giác nói về chuyện người, chuyện đời. Trong cõi nhân sinh, vạn vật biến diễn không ngừng, vận động theo năm tháng “Trước mắt việc đi mãi… Cũng như con người, có sinh tất có tử, lúc khoẻ mạnh ắt có lúc ốm đau, bệnh tật, có tuổi hoa niên trẻ tráng tất cái già sẽ đến. Quy luật cuộc sống là như thế, vốn thế! Vị cao tăng đang nằm trên giường bệnh, đọc bài kệ này cho các đệ tử nghe. Ông muốn nhắc nhở họ với tất cả sự thanh thản: Ông đã về già, đang “có bệnh ”, nhất định sẽ “tịch ” (chết). Đó là lẽ thường tình, có gì đáng sợ, đáng lo. Ý tưởng và triết lí của câu kệ cao siêu vô cùng. Hãy biết yêu cuộc đời với sự thanh thản – hãy làm chủ cuộc sống:
“Trước mắt, việc đi mãi,
Trên đầu, già đến rồi”.
Bài kệ được khép lại bằng hai câu tuyệt cú, xưa nay được truyền tụng như một vần thơ đẹp trong bài cổ thi:
“Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận,
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai
(Đừng tưởng xuân tàn hoa rụng hết,
Đêm qua sân trước, một cành mai).
Hai tiếng "mạc vị ” (đừng tưởng) như một lời nhắc khẽ, thấm thìa. Câu thơ cấu trúc liên hoàn, tương phản: “hoa rụng hết ” và “một cành mai ” nở ra. Hình ảnh “nhất chi mai ” (một cành mai) là một thi liệu ta thường bắt gặp trong thơ cổ. “Đối ngạn: nhất chi mai ”, (Bên suối: một nhành mai) – Hồ Chí Minh… nhành mai tượng trưng cho vẻ đẹp tinh khiết, thanh cao, lộng lẫy của thiên nhiên và con người. Trong bài thơ này, cành mai nở hoa buổi xuân tàn là một hoán dụ nghệ thuật, nhà thơ lấy nó để nói về mình, chỉ về mình, biểu lộ một quan niệm nhân sinh của vị chân tu: vạn vật sinh ra, tồn tại rồi mất đi, có sinh, trưởng, lão, bệnh, tử… nhưng nhà tu hành chân chính, đắc đạo có thể vượt ra khỏi vòng sinh tử, ngoài quy luật tự nhiên như cành mai nở hoa buổi xuân tàn, khi trăm hoa đã rụng hết! Vậy thì ta (Thiền sư Mãn Giác) đang “có bệnh ” là chuyện thường tình, theo quy luật của tự nhiên có gì đáng băn khoăn? "Thác là thể phách, còn là tinh anh” (Truyện Kiều). Ngoài triết lí sâu xa của đạo Phật, được cụ thể hóa và hình tượng hóa qua hình ảnh “nhất chi mai ”, câu thơ còn ẩn chứa một ý nghĩa đẹp: nhà sư rất lạc quan yêu đời. Với ông, thìthiên nhiên hữu sắc hữu hương, tràn đầy sức sống, tươi mát trẻ trung, cuộc sống không ngừng vươn lên mạnh mẽ theo dòng chảy thời gian.
Bài kệ “Cáo tật thị chúng ” thể hiện một cốt cách, một quan niệm sống đẹp của vị Thiền sư đức trọng tài cao. Tư tưởng Phật giáo hoà quyện với chất thơ, tầm cao sâu triết lí đạo Phật được trang phục bằng lời thơ đẹp, giàu hình tượng và cảm xúc.
Bài kệ đã trở thành bài cổ thi, đã đi suốt hành trình một thiên niên kỉ. Đọc bài “Cáo tật thị chúng”, ta trân trọng tinh thần yêu đời, yêu sự sống của vị Thiền sư, chúng ta yêu thêm vẻ đẹp trắng muốt của cành mai nở hoa buổi xuân tàn. Dư vị của bài thơ như một lời nhắc khẽ: hãy làm chủ thiên nhiên, làm chủ cuộc đời và biết làm chủ bản thân mình, để yêu đời, yêu sống, để lao động và học tập say mê.
Nguồn: thêm: Bình luận câu cổ ngữ: “Ngọc vô cùng qúy giá, nhưng ngọc tâm hồn còn qúy giá hơn nhiều"
|
Analysis of Zen Master Man Giac's article "Reporting to the Public"
Instruct
During the Ly Dynasty (1009 - 1225), Thang Long became the capital of Dai Viet. After the victory of Cau River - Nhu Nguyet (1076), the independence of our Fatherland was consolidated and national consciousness developed strongly. Education was expanded, agricultural economy and handicraft industry developed quite prosperously. Buddhism became the state religion. Building pagodas, casting bells, carving statues, and printing Buddhist scriptures takes place enthusiastically everywhere. Many Zen masters were respected by the royal court. They are outstanding people, virtuous, highly talented, good at poetry and literature, and have bright names in history books.
Among them, Zen Master Man Giac (1052 - 1096) was a noble monk with a beautiful poet's soul. The article "Tell everyone when you are sick" (Reporting your illness to the public) was read by the Zen Master to his disciples when he was seriously ill, before his death. Originally a verse (verse) containing profound Buddhist philosophy, yet fresh, sexy, and full of poetry. The original work is in Chinese, this is the poetic translation:
“Spring has passed, hundreds of flowers have fallen,
Spring comes, hundreds of flowers smile.
In the immediate future, things go on forever,
On the head, old age is coming.
Don't think spring has ended and all flowers fall;
Last night in front of a branch tomorrow pitch"
(Translated by Ngo Tat To)
The verse - poem speaks about the laws of life and nature, expressing the monk's attitude towards the laws of birth and death in the human world, death and eternity in the universe.
"If I'm sick, tell everyone" includes 6 sentences, every 2 sentences combine into a parallel, harmonious connection, leaving many interesting impressions.
The first two lines speak of the cycle of the four seasons, typically the change of spring. Every spring, hundreds of flowers bloom (hundreds of flowers) blooming with color and fragrance.
The image of "hundreds of smiling flowers" symbolizes strong vitality, the beauty of natural ancient trees and spring. The sap of spring, the scent of spring... what could be more beautiful? And when spring passes, the days will pass quickly with summer, turning to autumn and then winter, soon returning to spring... grass, flowers, and creatures also change, grow or fade. fades in four seasons and five months. When spring passes, "hundreds of flowers fall" (hundreds of flowers fall) according to the laws of nature. The two verses are philosophical, summarizing the laws of nature's existence and the movement of time. Spring, like natural life, changes endlessly: "spring passes" then "spring comes", "flowers bloom" then "flowers fade"... Spring is eternal. Grass and trees, hundreds of flowers, as well as all living things and people, are governed by the harsh laws of nature:
"'Spring has passed, hundreds of flowers have fallen,
Spring comes, hundreds of flowers smile"
The step of spring "passes... comes", as well as hundreds of flowers "fall... bloom", an emotional way of speaking, making the originally dry verse become a beautiful and beautiful poem. Through this, we see that the Zen Master's soul is truly beautiful!
See more: "A good book is a good friend." (La Rochefoucault). Please explain and prove the above opinion. In the next two sentences, Man Giac talks about people and life stories. In the human world, all things are constantly evolving, moving over the years. "In the immediate future, things go on forever... Just like humans, there is birth, there is death, when you are healthy, there are times when you get sick, get sick, and get old." youth and strength, old age will come. The rules of life are like that, as they are! The noble monk was lying on his hospital bed, reading this verse to his disciples. He wanted to remind them with all serenity: He was old, "sick", and would definitely "pass away" (die). That's common sense, there's nothing scary or worrying about it. The idea and philosophy of the verse are extremely sublime. Learn to love life with serenity - take control of life:
“For now, things will go on forever,
On my head, I'm getting old."
The verse ends with two great sentences, which have long been recited as beautiful poems in ancient poems:
"Spring flowers to your Mac remains optimistic take,
Most families cherish spending money tomorrow
(Don't think spring has ended and all the flowers fall,
Last night in front of a branch tomorrow pitch).
The two words "mac vi" (don't think) are like a gentle reminder. The poem has a continuous, contrasting structure: "all the flowers fall" and "an apricot branch" blooms. The image "one branch of apricot" (an apricot branch) is a poetic material we often encounter in ancient poetry. "On the bank: Nhat chi apricot", (By the stream: an apricot branch) - Ho Chi Minh... the apricot branch symbolizes pure, elegant beauty. The height and splendor of nature and people. In this poem, the apricot branch blooming in the fading spring is an artistic metonymy. The poet uses it to talk about himself, only about himself, expressing a concept of life. of a true practitioner: all things are born, exist and then pass away, there is birth, growth, old age, sickness, death... but a true practitioner, with enlightenment, can go beyond the cycle of birth and death, beyond the laws of nature. Like an apricot branch blooming in the fading spring, when all the flowers have fallen! So I (Zen Master Man Giac) being "sick" is normal, according to the laws of nature, what is there to worry about? body, but also the essence" (The Tale of Kieu). In addition to the profound philosophy of Buddhism, concretized and visualized through the image of "Nhat chi mai", the poem also contains a beautiful meaning: the monk is very optimistic and loves life. To him, nature has color and fragrance, full of vitality, freshness and youthfulness, life constantly rises strongly with the flow of time.
The poem "Reporting to the Disabled People" shows a core character, a beautiful concept of life of a Zen master with high merit. Buddhist thought blends with poetry, the depth of Buddhist philosophy is dressed in beautiful poetry, rich in images and emotions.
The verse has become an ancient poem, traveling for a millennium. Reading the article "Reporting to the Public", we appreciate the Zen Master's spirit of love for life, love for life, and we love even more the white beauty of apricot branches blooming in the fading spring. The aftertaste of the poem is like a gentle reminder: master nature, master life and know how to master yourself, to love life, to love living, to work and study passionately.
Source: more: Comment on the old saying: "Jade is extremely valuable, but the pearl of the soul is much more precious"
|
Phân tích bài học nhân sinh được truyền tải qua tác phẩm Chiếc lá cuối cùng của Ô-hen-ri
Bài làm
Đồng tiền luôn có một sức mạnh kì lạ chi phối con người, rồi từ đồng tiền mà trong xã hội xuất hiện nhiều điều tiêu cực, con người hầu như chẳng còn mấy tình thương với nhau, chạy theo đồng tiền nhằm phục vụ nhu cầu thiết yếu bản thân mỗi người, nhưng trong số đó vẫn còn những con người tuy nghèo khổ mà biết thương yêu nhau, dùng tình cảm để san sẻ đùm bọc lẫn nhau, từ đó mà những con người này đi vào văn học một cách tự nhiên nhất, tiêu biểu cho hình ảnh đó là tác phẩm “Chiếc là cuối cùng”, một tác phẩm đọng lại trong người nghe nhiều cảm xúc về tình người.
Qua tác phẩm ta thấy được cuộc sống nghèo khổ của hai nữ họa sĩ trẻ tuổi tại một khu nhỏ phía tây công viên Oa-Sinh-Tơn, một người họa sĩ già dành cả cuộc đời mình cho nghệ thuật nhưng chưa bao giờ thành đạt, họ sống trong một môi trường thiếu thốn nặng nề về mặt vật chất, những ngôi nhà lụp sụp chật hẹp với sự khan hiếm thức ăn là nỗi khó khăn lớn nhất với những con người nay. Nhưng nhìn về mặt tinh thần thì là một hoàn cảnh hoàn toàn trái ngược, họ yêu thương đùm bọc lẫn nhau, cật lực làm việc để dành tình yêu sâu đậm cho nhau.Xem thêm: Phân tích bài thơ Tiếng hát con tàu của Chế Lan Viên ngữ văn 12
Hai nữ họa sĩ Xiu và Giôn – xi từ những vùng đất xa xôi hội tụ tại nơi đây thông qua niềm đam mê mãnh liệt với nghệ thuật, thấu hiểu và gắn kết với nhau thông qua những sở thích chung giữa hai người, đó là rau xà lách, là ống tay áo ngoài. Rồi thứ tình cảm đó được thấy rõ hơn cả khi Giôn – xi ốm nặng, cô đã không bỏ rơi bạn của mình, gồng mình lên vừa nuôi bản thân vừa chăm sóc cho người bạn của mình, động viên bạn mình trước những suy nghĩ yếu đuối của bản thân. Hai con người sống vì tình cảm chứ không phải vì thứ vật chất rẻ tiền, không lợi dụng, không toan tính, một thứ tình cảm đáng yêu hơn bất cứ thứ gì tồn tại trên đời.
Giá trị nhân sinh trong tác phẩm còn được thể hiện thông qua hình ảnh bác Bơ – men, một người nghệ sĩ đã có tuổi ở cũng với hai nữ họa sĩ trẻ, con người bác thể hiện tình thương theo cách rất khác biệt, không nhẹ nhàng chăm sóc, không ân cần trìu mến bảo ban. Khi biết tin Giôn – xi bị bệnh nặng tuyệt vọng không muốn sống nữa người họa sĩ già đã rất bực tức, bác thể hiện cảm xúc ra ngoài, la mắng giận dữ vô cùng. Nặng lời là vậy, lời lẽ nghe thật đau lòng nhưng người họa sĩ đã tìm ra liều thuốc quý hiếm lấy lại niềm tin cho Giôn – xi, đó là bức vẽ chiếc là cuối cùng, bức tranh tuyệt vời nhất trên thế giới, bức vẽ được thực hiện trong đêm tối dưới cái lạnh giá của tuyết trời, dưới ánh sáng mờ ảo của chiếc đèn trước bão. Một con người đã dành phần lớn cuộc đời mình cho nghệ thuật chưa bao giờ thành đạt, một người đang mang trong mình căn bệnh viêm phổi nặng tại sao lại có được bức vẽ tuyệt vời như vậy, đơn giản bởi vì nét bút, màu sắc xuất phát từ trái tim người bác Bơ – men, xuất phát từ tình thương giữa con người với con người. Chiếc là sẽ mãi ở đó, chẳng bao giờ rụng cả và cô gái mang tên Giôn – xi trở lại với niềm tin vào cuộc sống, còn người bác già đã trút hơi thở cuối cùng đời mình khi hoàn thành kiệt tác có một không hai. Tới nay chẳng ai có thể kìm nổi cảm xúc, người đọc có thể thấu hiểu phần nào sự yêu thương trong những con người nghệ sĩ nghèo khó.Xem thêm: Giới thiệu về món ăn dân tộc
Nhà văn đã xây dựng thành công hình ảnh nhân vật, thể hiện rõ nét những tình cảm đáng quý, tác phẩm như một lời tỏ, lời mong muốn đưa con người tới cái đẹp, tới tình người, bỏ đi cái xấu, cái hẹp hòi bên trong mỗi con người.
|
Analyze the life lessons conveyed through Ohenri's work The Last Leaf
Assignment
Money always has a strange power to influence people, and from money, many negative things appear in society, people have almost no love for each other, chasing after money to serve their needs. essential for each person, but among them there are still people who, despite being poor, know how to love each other, use their emotions to share and care for each other, from there these people naturally enter literature. Most naturally, typical of that image is the work "The Last One", a work that leaves in the listener many emotions about human love.
Through the work, we see the poor life of two young female artists in a small area west of Washington Park, an old artist devoted his whole life to art but was never successful. , they live in an environment of severe material deprivation, cramped, shabby houses with scarcity of food are the biggest difficulties for these people. But spiritually, it is a completely opposite situation, they love and protect each other, working hard to have a deep love for each other. See more: Analysis of the poem The Singing of the Ship by Che Lan Vien Literature 12
Two female artists Xiu and Gon - xi from distant lands converged here through their strong passion for art, understanding and connecting with each other through their common interests, which is lettuce, which is the outer sleeve. Then that feeling was seen even more clearly when Gion-xi was seriously ill, she did not abandon her friend, she struggled to both support herself and take care of her friend, encouraging her friend with her thoughts. own weakness. Two people live for love, not for cheap material things, without taking advantage, without calculating, a love that is more lovely than anything that exists in the world.
The value of human life in the work is also expressed through the image of Uncle Bo-men, an old artist who lives with two young female artists. He shows love in a very different way. Gently caring, not attentive and affectionate. When he heard that John Xi was seriously ill and did not want to live anymore, the old artist was very angry. He showed his emotions and scolded him extremely angrily. Such harsh words, the words sounded so painful, but the artist found a rare medicine to restore Joni's confidence, that was the last painting, the most wonderful painting in the world, the painting. The painting was done in the dark, under the cold snow, under the dim light of a storm lamp. A person who has devoted most of his life to art and has never been successful, a person who is suffering from severe pneumonia, how can he have such a wonderful drawing, simply because of the brushstrokes and colors? Beauty comes from the heart of Uncle Bo-men, from the love between people. The iron will always be there, never falling off, and the girl named Jon - Xi returned to her faith in life, and the old uncle breathed his last breath after completing his unique masterpiece. . Up to now, no one can hold back their emotions, readers can partly understand the love in poor artists. See more: Introduction to national dishes
The writer has successfully built the character's image, clearly expressing precious feelings. The work is like an expression, a wish to bring people to beauty, to human love, to get rid of the ugly and the narrow. inside every human being.
|
Phân tích bài Mộ (Ngục trung nhật kí) của Hồ Chí Minh
Gợi ý
Hồ Chí Minh bị bắt ngày 19-8-1942 tại phố Túc Vinh thuộc trấn Thiên Bảo, tỉnh Quảng Tây (Trung Quốc). Sau đó, chính quyền Tưởng Giới Thạch giải Người ngược trở lại phía biên giới để giam giữ tại nhà ngục huyện Tĩnh Tây; đúng ngày quốc khánh Trung Hoa cũ (10-10), Hồ Chí Minh lại bị giải vào Thiên Bảo ngục. Trên đoạn đường trên dưới l00 km từ Tĩnh Tây đến Thiên Bảo, Người phải đi bộ trong hai ngày. Tuy vậy, Hồ Chí Minh vẫn tức cảnh sinh tình, sáng tác ba bài thơ: Tẩu lộ (Đi đường); Mộ (Chiều tối); Dạ túc Long tuyền (Đêm ngủ ở Long Tuyền); đó là chưa kể đến bài Sơ đáo Thiên Bảo ngục (Mới đến nhà lao Thiên Bảo). Trong các bài thơ sáng tác trên chặng đường này, bài "Mộ" được xem là áng thơ tuyệt bút.
MỘ
Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ,
Cô vân mạn mạn độ thiên không;
Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc,
Bao túc ma hoàn, lô dĩ hồng.
Dịch thơ:
CHIỂU TỐI
Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ
Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không
Cô em xóm núi xay ngô tối
Xay hết, lò than đã rực hồng.
Qua vài nét chấm phá, hai câu đầu của bài thơ đã đề lại một bức tiểu họa về cảnh thiên nhiên vùng sơn cước ở thời điểm "chiều tối". Những buổi chiều như vậy đâu có thiếu trong văn chương cổ kim; nhưng nếu cảnh ấy qua cái nhìn của một Lý Bạch tiêu diêu, một Khuất Nguyêu u uất chắc chắn sẽ đầy ảm đạm, thê lương. Còn ở đây, nếu không rõ xuất xứ, nhiều người sẽ lầm tưởng Mộ là bài thơ của thời Thịnh Đường. Có người nhận xét cảnh thiên nhiên chiều tối trong bài Mộ có cái gì ấm áp, thậm chí có cả niềm vui nữa ở hình ảnh "chim bay về tổ"; vì nó sẽ được nghỉ ngơi trong tổ ấm của một vòm cây nào đó. "Chim mỏi về rừng tìm cây ngủ" khác với "Chim bay về tổ". Nhìn lên trời, Hồ Chí Minh nhận ra vẻ mệt mỏi, uể oải của cánh chim. Cái nhìn ấy thể hiện tình cảm nhân ái bao la của Người đối với cảnh vật. Cánh chim trong thơ Bác gợi nhớ cánh chim qua ánh mắt nàng Kiều trong thơ của đại thi hào dân tộc Nguyễn Du: Xem thêm: Tác dụng của nghệ thuật miêu tả tương phản trong truyện ngắn “Hai đứa trẻ” (Thạch Lam) Chim hôm thoi thót về rừng
Cánh chim trong thơ Vương Bột, Lý Bạch, Nguyễn Du… thường bay về chốn vô tận, vô cùng, vô định, gợi cảm giác xa xăm, phiêu bạt, chia lìa. Ngược lại, cánh chim trong thơ Hồ Chí Minh là cánh chim đang tìm về với sự sống thường ngày. Nhờ vậy, mà nó có hồn và nhuộm đầy tâm trạng hơn.
Cùng với "Quyện điểu quy lâm" là "Cô vân mạn mạn". Bài thơ dịch khá uyển chuyển, nhưng đã làm mất đi vẻ lẻ loi, trôi nổi, lững lờ của đám mây. Người dịch đã bỏ sót chữ "cô" và chưa thể hiện được hết nghĩa của hai từ láy "mạn mạn". Câu thơ dịch:
Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không
để khiến người đọc nghĩ đến cái nhìn của một du khách. Phải chăng, vì quá tin vào bản dịch mà ai đó nói cảnh thiên nhiên trong "chiều tối" là một cảnh vui. Hình ảnh "Cánh chim mỏi về rừng tìm cây ngủ" – tìm một chỗ ngủ tạm qua đêm, và chòm mây lẻ loi, trôi lững lờ gợi một khung cảnh thiên nhiên hoang vắng nhưng không ảm đạm, đượm buồn nhưng không thê lương, rộng lớn mênh mông nhưng đâu có "xanh trong thi vị"… Cảnh ấy, tương đồng với tâm trạng của người bị giải, vẻ đẹp của bài thơ là ở chỗ: Tác giả không để lộ cái mệt mỏi, cô đơn của chính mình. Với Hồ Chí Minh mọi nỗi buồn, niềm vui dường như đều gắn liền với dân tộc, nhân dân mà ít khi phụ thuộc vào cảnh ngộ riêng của Người.
Thơ tứ tuyệt thường bất ngờ ở câu chuyển, bất ngờ mà vẫn phải tự nhiên, hợp lí, liền mạch. Nổi bật lên trên không gian chiều tối, sâu lắng, tĩnh lặng là hình ảnh con người: Xem thêm: Cảm xúc của mọi người dân Việt Nam qua ba khổ thơ cuối trong bài thơ Bác ơi như thể nào? Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc,
Bao tức ma hoàn, lô dĩ hồng.
"Sơn thôn thiếu nữ" dịch là "Cô em xóm núi" đứng trên bình diện nghĩa của từ thì không có gì sai. Nhưng câu thơ dịch đã không thể hiện được cái nhìn trân trọng của nhân vật trữ tình đối với con người; giọng điệu trang trọng của câu thơ nguyên tác không hiện diện trong lời thơ dịch (mà nhiều khi giọng điệu còn quan trọng hơn cả cái được miêu tả). Người phụ nữ đã nhiều lần có mặt trong thơ chữ Hán, nhưng phần lớn họ đều thuộc giới thượng lưu hoặc chí ít cũng gần gũi với giới thượng lưu. Không rõ trước Hồ Chí Minh đã có một "sơn thôn thiếu nữ" thực sự là người lao động bước vào thế giới của nàng thơ hay chưa? Chỉ biết rằng việc đặt hình ảnh "sơn thôn thiếu nữ" ở vị trí trung tâm của bức tranh phong cảnh chiều tối đã làm cho bức tranh thiên nhiên trở thành bức tranh về cuộc sống con người. Sự chuyển đổi ấy thể hiện một khuynh hướng vận động của hình tượng thơ và quan điểm nhân sinh của Bác. Trong bất cứ hoàn cảnh nào, Hồ Chí Minh cũng gắn bó với cuộc sống con người nơi trần thế – đặc biệt là cuộc sống nhân dân lao động.
Về mặt nghệ thuật, ở hai câu thơ kết, người đọc thấy nhà thơ dường như không tả, ngòi bút của Người chỉ ghi nhận một cách khách quan "những điều trông thấy" trong cảnh chiều tối. Điệp ngữ liên hoàn "ma bao túc" nối liền dòng thơ thứ ba với dòng thơ kết đã góp phần diễn tả được cái vòng quay liên tục, đều đặn của động tác xay ngô. Điều đáng tiếc là bài thơ dịch đã không thể hiện được điều ấy. Để cảm thụ giá trị tuyệt diệu của câu thơ, không thể không tiếp xúc với phần phiên âm chữ Hán.
Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc,
Bao túc ma hoàn, lô dĩ hồng.
Vòng quay của chiếc cối chấm dứt, công việc kết thúc (bao túc ma hoàn) thì lò than cũng vừa đỏ (lô dĩ hồng), ánh lửa đỏ ấm nồng xuất hiện thật bất ngờ, tỏa sáng vào đêm tối. Tài hoa của Hồ Chí Minh là ở chỗ tả cảnh thiên nhiên, tả cảnh chiều tôi mà Người không phải dùng đến một tính từ chỉ thời gian nào. Người dùng ánh lửa đỏ để thể hiện thời gian đã tối (trời có tối, lò mới rực hồng). Hơn nữa, người đọc còn cảm nhận được bước đi của thời gian từ chiều đến tối. Cô gái xay ngô từ khi trời còn ánh sáng; xay xong thì trời đã tối. Phải chăng Hồ Chí Minh đã có một phát hiện mới trong bút pháp tả thời gian. Rõ ràng, ngay cả khi tả cảnh chiều tối, thơ Hồ Chí Minh vẫn có sự vận động từ bóng tối ra ánh sáng. Người đọc cảm thấy không hài lòng khi dịch giả thêm vào câu chuyển một từ "tối". Nhìn bề ngoài việc thêm vào như vậy có vẻ như vô thưởng, vô phạt; nhưng nghĩ sâu xa thì chính chữ ấy đã phá vỡ một quy luật vận động lớn trong thơ Hồ Chí Minh và không bộc lộ hết tài năng của Người. Chữ "hồng" rất xứng đáng là "ông thánh thứ hai mươi tám" của bài thơ. Trong Ngục trung nhật kí có bao nhiêu chữ "hồng" như vậy? Chữ "hồng" là nơi hội tụ, kết tinh ánh sáng của toàn bài, là hình ảnh của sự sống thường nhật và niềm vui lao động. Xem thêm: Một trong những nét phong cách nổi bật của thơ Hồ Chí Minh là "hình tượng thơ luôn luôn vận động hướng về sự sống, ánh sáng và tương lai". Hãy chứng tỏ điều đó qua hai bài thơ Chiều tối và Giải đi sớm trong Nhật kí trong tù của Bác Buổi chiều tối rực ánh hồng ở bài Mộ là buổi chiều tối không dễ gì lặp lại lần thứ hai trong thơ, ánh hồng ấy không chỉ tỏa ra từ chiếc bếp lửa bình dị của một "sơn thôn thiếu nữ mà chủ yếu được tỏa ra từ tấm lòng nhân ái, tinh thần lạc quan của Hồ Chí Minh. Niềm vui của chúng ta khi đọc Mộ nói riêng và thơ Bác nói chung là niềm vui của người được tiếp nhận ánh sáng lấp lánh của chất thép kì diệu thể hiện trong từng câu, từng chữ của bài thơ.
Vanmau.edu.vn
|
Phân tích bài Mộ (Ngục trung nhật kí) của Hồ Chí Minh
Gợi ý
Hồ Chí Minh bị bắt ngày 19-8-1942 tại phố Túc Vinh thuộc trấn Thiên Bảo, tỉnh Quảng Tây (Trung Quốc). Sau đó, chính quyền Tưởng Giới Thạch giải Người ngược trở lại phía biên giới để giam giữ tại nhà ngục huyện Tĩnh Tây; đúng ngày quốc khánh Trung Hoa cũ (10-10), Hồ Chí Minh lại bị giải vào Thiên Bảo ngục. Trên đoạn đường trên dưới l00 km từ Tĩnh Tây đến Thiên Bảo, Người phải đi bộ trong hai ngày. Tuy vậy, Hồ Chí Minh vẫn tức cảnh sinh tình, sáng tác ba bài thơ: Tẩu lộ (Đi đường); Mộ (Chiều tối); Dạ túc Long tuyền (Đêm ngủ ở Long Tuyền); đó là chưa kể đến bài Sơ đáo Thiên Bảo ngục (Mới đến nhà lao Thiên Bảo). Trong các bài thơ sáng tác trên chặng đường này, bài "Mộ" được xem là áng thơ tuyệt bút.
MỘ
Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ,
Cô vân mạn mạn độ thiên không;
Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc,
Bao túc ma hoàn, lô dĩ hồng.
Dịch thơ:
CHIỂU TỐI
Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ
Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không
Cô em xóm núi xay ngô tối
Xay hết, lò than đã rực hồng.
Qua vài nét chấm phá, hai câu đầu của bài thơ đã đề lại một bức tiểu họa về cảnh thiên nhiên vùng sơn cước ở thời điểm "chiều tối". Những buổi chiều như vậy đâu có thiếu trong văn chương cổ kim; nhưng nếu cảnh ấy qua cái nhìn của một Lý Bạch tiêu diêu, một Khuất Nguyêu u uất chắc chắn sẽ đầy ảm đạm, thê lương. Còn ở đây, nếu không rõ xuất xứ, nhiều người sẽ lầm tưởng Mộ là bài thơ của thời Thịnh Đường. Có người nhận xét cảnh thiên nhiên chiều tối trong bài Mộ có cái gì ấm áp, thậm chí có cả niềm vui nữa ở hình ảnh "chim bay về tổ"; vì nó sẽ được nghỉ ngơi trong tổ ấm của một vòm cây nào đó. "Chim mỏi về rừng tìm cây ngủ" khác với "Chim bay về tổ". Nhìn lên trời, Hồ Chí Minh nhận ra vẻ mệt mỏi, uể oải của cánh chim. Cái nhìn ấy thể hiện tình cảm nhân ái bao la của Người đối với cảnh vật. Cánh chim trong thơ Bác gợi nhớ cánh chim qua ánh mắt nàng Kiều trong thơ của đại thi hào dân tộc Nguyễn Du: Xem thêm: Tác dụng của nghệ thuật miêu tả tương phản trong truyện ngắn “Hai đứa trẻ” (Thạch Lam) Chim hôm thoi thót về rừng
Cánh chim trong thơ Vương Bột, Lý Bạch, Nguyễn Du… thường bay về chốn vô tận, vô cùng, vô định, gợi cảm giác xa xăm, phiêu bạt, chia lìa. Ngược lại, cánh chim trong thơ Hồ Chí Minh là cánh chim đang tìm về với sự sống thường ngày. Nhờ vậy, mà nó có hồn và nhuộm đầy tâm trạng hơn.
Cùng với "Quyện điểu quy lâm" là "Cô vân mạn mạn". Bài thơ dịch khá uyển chuyển, nhưng đã làm mất đi vẻ lẻ loi, trôi nổi, lững lờ của đám mây. Người dịch đã bỏ sót chữ "cô" và chưa thể hiện được hết nghĩa của hai từ láy "mạn mạn". Câu thơ dịch:
Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không
để khiến người đọc nghĩ đến cái nhìn của một du khách. Phải chăng, vì quá tin vào bản dịch mà ai đó nói cảnh thiên nhiên trong "chiều tối" là một cảnh vui. Hình ảnh "Cánh chim mỏi về rừng tìm cây ngủ" – tìm một chỗ ngủ tạm qua đêm, và chòm mây lẻ loi, trôi lững lờ gợi một khung cảnh thiên nhiên hoang vắng nhưng không ảm đạm, đượm buồn nhưng không thê lương, rộng lớn mênh mông nhưng đâu có "xanh trong thi vị"… Cảnh ấy, tương đồng với tâm trạng của người bị giải, vẻ đẹp của bài thơ là ở chỗ: Tác giả không để lộ cái mệt mỏi, cô đơn của chính mình. Với Hồ Chí Minh mọi nỗi buồn, niềm vui dường như đều gắn liền với dân tộc, nhân dân mà ít khi phụ thuộc vào cảnh ngộ riêng của Người.
Thơ tứ tuyệt thường bất ngờ ở câu chuyển, bất ngờ mà vẫn phải tự nhiên, hợp lí, liền mạch. Nổi bật lên trên không gian chiều tối, sâu lắng, tĩnh lặng là hình ảnh con người: Xem thêm: Cảm xúc của mọi người dân Việt Nam qua ba khổ thơ cuối trong bài thơ Bác ơi như thể nào? Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc,
Bao tức ma hoàn, lô dĩ hồng.
"Sơn thôn thiếu nữ" dịch là "Cô em xóm núi" đứng trên bình diện nghĩa của từ thì không có gì sai. Nhưng câu thơ dịch đã không thể hiện được cái nhìn trân trọng của nhân vật trữ tình đối với con người; giọng điệu trang trọng của câu thơ nguyên tác không hiện diện trong lời thơ dịch (mà nhiều khi giọng điệu còn quan trọng hơn cả cái được miêu tả). Người phụ nữ đã nhiều lần có mặt trong thơ chữ Hán, nhưng phần lớn họ đều thuộc giới thượng lưu hoặc chí ít cũng gần gũi với giới thượng lưu. Không rõ trước Hồ Chí Minh đã có một "sơn thôn thiếu nữ" thực sự là người lao động bước vào thế giới của nàng thơ hay chưa? Chỉ biết rằng việc đặt hình ảnh "sơn thôn thiếu nữ" ở vị trí trung tâm của bức tranh phong cảnh chiều tối đã làm cho bức tranh thiên nhiên trở thành bức tranh về cuộc sống con người. Sự chuyển đổi ấy thể hiện một khuynh hướng vận động của hình tượng thơ và quan điểm nhân sinh của Bác. Trong bất cứ hoàn cảnh nào, Hồ Chí Minh cũng gắn bó với cuộc sống con người nơi trần thế – đặc biệt là cuộc sống nhân dân lao động.
Về mặt nghệ thuật, ở hai câu thơ kết, người đọc thấy nhà thơ dường như không tả, ngòi bút của Người chỉ ghi nhận một cách khách quan "những điều trông thấy" trong cảnh chiều tối. Điệp ngữ liên hoàn "ma bao túc" nối liền dòng thơ thứ ba với dòng thơ kết đã góp phần diễn tả được cái vòng quay liên tục, đều đặn của động tác xay ngô. Điều đáng tiếc là bài thơ dịch đã không thể hiện được điều ấy. Để cảm thụ giá trị tuyệt diệu của câu thơ, không thể không tiếp xúc với phần phiên âm chữ Hán.
Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc,
Bao túc ma hoàn, lô dĩ hồng.
Vòng quay của chiếc cối chấm dứt, công việc kết thúc (bao túc ma hoàn) thì lò than cũng vừa đỏ (lô dĩ hồng), ánh lửa đỏ ấm nồng xuất hiện thật bất ngờ, tỏa sáng vào đêm tối. Tài hoa của Hồ Chí Minh là ở chỗ tả cảnh thiên nhiên, tả cảnh chiều tôi mà Người không phải dùng đến một tính từ chỉ thời gian nào. Người dùng ánh lửa đỏ để thể hiện thời gian đã tối (trời có tối, lò mới rực hồng). Hơn nữa, người đọc còn cảm nhận được bước đi của thời gian từ chiều đến tối. Cô gái xay ngô từ khi trời còn ánh sáng; xay xong thì trời đã tối. Phải chăng Hồ Chí Minh đã có một phát hiện mới trong bút pháp tả thời gian. Rõ ràng, ngay cả khi tả cảnh chiều tối, thơ Hồ Chí Minh vẫn có sự vận động từ bóng tối ra ánh sáng. Người đọc cảm thấy không hài lòng khi dịch giả thêm vào câu chuyển một từ "tối". Nhìn bề ngoài việc thêm vào như vậy có vẻ như vô thưởng, vô phạt; nhưng nghĩ sâu xa thì chính chữ ấy đã phá vỡ một quy luật vận động lớn trong thơ Hồ Chí Minh và không bộc lộ hết tài năng của Người. Chữ "hồng" rất xứng đáng là "ông thánh thứ hai mươi tám" của bài thơ. Trong Ngục trung nhật kí có bao nhiêu chữ "hồng" như vậy? Chữ "hồng" là nơi hội tụ, kết tinh ánh sáng của toàn bài, là hình ảnh của sự sống thường nhật và niềm vui lao động. Xem thêm: Một trong những nét phong cách nổi bật của thơ Hồ Chí Minh là "hình tượng thơ luôn luôn vận động hướng về sự sống, ánh sáng và tương lai". Hãy chứng tỏ điều đó qua hai bài thơ Chiều tối và Giải đi sớm trong Nhật kí trong tù của Bác Buổi chiều tối rực ánh hồng ở bài Mộ là buổi chiều tối không dễ gì lặp lại lần thứ hai trong thơ, ánh hồng ấy không chỉ tỏa ra từ chiếc bếp lửa bình dị của một "sơn thôn thiếu nữ mà chủ yếu được tỏa ra từ tấm lòng nhân ái, tinh thần lạc quan của Hồ Chí Minh. Niềm vui của chúng ta khi đọc Mộ nói riêng và thơ Bác nói chung là niềm vui của người được tiếp nhận ánh sáng lấp lánh của chất thép kì diệu thể hiện trong từng câu, từng chữ của bài thơ.
Vanmau.edu.vn
|
Phân tích bài số phận con người của M. Sô – lô – khốp
Gợi ý
Qua hình tượng trung tâm – nhân vật An-đrây Xô-cô-lốp, truyện ngắn Số phận con người của Sô-lô-khốp đã khắc hoạ nổi bật vẻ đẹp của tính cách Nga, như lời khẳng định của nhà văn trong đoạn trữ tình ngoại đề ở cuối thiên truyện: Hai con người côi cút, hai hạt cát đã bị sức mạnh phủ phàng của bão tố chiến tranh thổi bạt tới những miền xa lạ… Cái gì đang chờ đón họ ở phía trước? Tự nhiên tôi muốn nghĩ rằng con người Nga đó là người có ý chí kiên cường không gì bẻ gãy được, và sống bên cạnh bố, chú bé kia một khi đã lớn lên sẽ có thể đương đầu với mọi thử thách, sẽ vượt qua mọi chướng ngại trên đường, nếu như Tổ quốc kêu gọi.
Hình ảnh những hạt cát bị sức mạnh phũ phàng của bão tố chiến tranh thổi bợt tới những miền xa lạ có ý nghĩa biểu trưng cho số phận của con người là nạn nhân của chiến tranh. Xô-cô-lốp bị chiến tranh phát xít cướp đi người vợ và ba đứa con, phải sống tha hương sau chiến tranh. Va-ni-a bị chiến tranh cướp đi cả bố và mẹ, trở thành trẻ mồ côi lang thang. Hai con người ấy, hai số phận bi thảm ấy gặp nhau và bù đắp cho nhau những mất mát về tình cảm với sự ấm áp của lòng vị tha mang đậm chất Nga. Câu hỏi Cái gì. đang chờ đón họ phía trước? là một câu hỏi lớn đặt ra cho hiện tại và tương lai. Số phận những con người như Xô-cô-lốp và Va-ni-a sẽ ra sao? Câu hỏi ấy chỉ có thể có được khi nhà văn nhìn thẳng vào sự thật chiến tranh, nhìn thẳng vào những đau thương, mất mát của con người trong và sau chiến tranh.Xem thêm: Nghị luận văn học - Âm nhạc và cuộc sống Có sáo rỗng không khi Sô-cô-lốp bày tỏ niềm tin tưởng, lạc quan vào sức mạnh của ý chí kiên cường như một phẩm chất tiêu biểu của con người Nga trước cuộc sống của Xô-cô- lốp và Va-ni-a? Dưới cái nhìn hiện thực của nhà văn, Xô-cô-lốp đã trải qua nhưng bất hạnh của số phận bằng một nghị lực như một bản năng sống mạnh mẽ. Và Va-ni-a là niềm an ủi, là nguồn động lực sống cho anh trong cuộc sống đời thường vốn không ít những khó khăn, nghịch lí. Hai số phận bất hạnh gặp nhau đã như một lời hứa hẹn tươi * sáng cho tương lai.
Bằng những số phận cụ thể, Sô-lô-khốp đã nói về tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc, tinh thần hiến dâng vì Tổ quốc mà không sa vào hô hào, hình thức.
Vanmau.edu.vn
|
Analyze the article on human fate by M. So - Lo - Khop
Suggest
Through the central image - the character Andrei Shokolov, Solokhov's short story The Fate of Man highlights the beauty of the Russian character, as the writer affirms in the passage. lyrical epilogue at the end of the story: Two orphans, two grains of sand blown by the overwhelming power of the storm of war to strange lands... What awaits them ahead? Naturally, I want to think that that Russian man has an unbreakable will, and living next to his father, once he grows up, he will be able to face all challenges and overcome them. every obstacle on the way, if the Fatherland calls.
The image of grains of sand being blown by the harsh force of the storm of war to strange regions symbolizes the fate of people who are victims of war. Shokolov was robbed of his wife and three children by the fascist war, and had to live in exile after the war. Vania was robbed of both her parents by war, becoming a wandering orphan. Those two people, those two tragic fates met and compensated each other for their emotional losses with the warmth of Russian altruism. Question What. waiting for them ahead? is a big question for the present and the future. What will be the fate of people like Socolov and Vania? That question can only be asked when the writer looks straight at the truth of war, looks straight at the pain and loss of people during and after the war. See more: Literary discussion - Music and life Is it cliche when Sokolov expressed confidence and optimism in the power of strong will as a typical quality of the Russian people before the lives of Socolov and Vani- a? Under the writer's realistic view, Socolov experienced the misfortunes of fate with determination like a strong life instinct. And Vania is a comfort and a source of motivation for him in everyday life, which is full of difficulties and paradoxes. The meeting of two unfortunate fates was like a bright promise for the future.
Through specific fates, Solokhov spoke about the sacred calling of the Fatherland, the spirit of dedication to the Fatherland without falling into exhortations or formalities.
Vanmau.edu.vn
|
Phân tích bài Thu Điếu của Nguyễn Khuyến
Hướng dẫn
Thu trong thơ Nguyễn Khuyến tiêu biểu cho mùa thu ở đồng bằng Bắc Bộ. Thu trong thơ ông thật êm đềm, đơn sơ nhưng vô cùng sống động, làm say đắm lòng người. Trong chùm thơ về mùa thu của ông bài Thu điếu để lại nhiều ấn tượng trong lòng người đọc.
Mùa thu là mùa đẹp nhất trong năm của vùng đồng bằng Bắc Bộ, hòa cùng vào cảnh vật con người cũng thể hiện nỗi niềm cảm xúc của mình. Đọc Thu điếuchúng ta sẽ cảm nhận được vẻ đẹp của cảnh thu và tâm trạng của nhà thơ. Nếu như ở Thu Vịnh, cảnh thu đựơc đón nhận từ cao, xa đến gần, rồi gần đến cao, xa thì ở Thu Điếu cảnh thu được đón nhận từ gần đến cao – xa rồi từ cao xa trở lại gần. Điểm nhìn cảnh thu được nhìn từ chiếc thuyền câu đến mặt ao rồi nhìn lên bầu trời, nhìn tới ngõ trúc rồi nhìn ra mặt ao. Từ khung ao hẹp tác giả miêu tả mùa thu đựơc cả không gian và thời gian cảnh sắc mùa thu mở ra nhiều hướng thật sinh động.
Ngay từ tiêu đề của bài, tác giả đã muốn giới thiệu đến người đọc về cảnh câu cá mùa thu, nhưng thực ra đó lại là nói chuyện mùa thu, miêu tả cảnh mùa thu của vùng quê đồng bằng Bắc Bộ, quê hương của tác giả Nguyễn Khuyến. Trong bài thơ có ao thu, thuyền câu, có lá vàng, có tầng mây, có sóng, có cá và người câu cá. Không gian mùa thu, vắng lặng và chính sự vắng lặng này mới tả được khoảnh khắc lặng lẽ của mùa thu và tả được tâm trạng, tĩnh lặng của tác giả.
Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo
Ngay từ câu thơ đầu tác giả đã cho người đọc hình dung một không gian thu buồn nhưng đẹp, một không gian tĩnh lặng không phải ở vùng quê nào cũng có được. Hai câu thơ này không chỉ miêu tả được cả không gian mùa thu (ao thu) mà còn miêu tả được cả thời gian của mùa thu. Mùa thu được biểu hiện ở làn nước trong veo, đã trong lại còn trong veo và thêm lạnh lẽo. Ao thu lạnh lẽo càng làm tăng thêm độ buồn của mùa thu. Đó là mùa thu của lòng của lòng người buồn, của thi nhân buồn mà thôi. Mùa thu thường là mùa của tâm trạng buồn, qua hai câu thơ này càng thấy Nguyễn Khuyến đã rất tài tình khi miêu tả khung cảnh mùa thu. Chiếc thuyền câu vốn đã bé lại càng bé tẻo teo. Hai vầng eo càng làm cho không gian càng thêm thu nhỏ lại.Xem thêm: Thuyết minh về vai trò của rừng trong cuộc sống con người
Làn nước trong veo, nhưng lại lạnh lẽo hai sự kết hợp này đã làm cho không gian ở đây có phần mông lung và như tan ra cùng sự lạnh lẽo của ao mùa thu. Mùa thu nước ao mới trong xanh như vậy làm cho không gian thêm nhỏ, chiếc thuyền đã bé lại bé thêm, như thu mình thêm nhỏ lại.
Trong không khí vắng lặng êm ả đó, mọi không gian cảnh vật như hòa vào nhau, làm mọi cảnh vật đều gợi cho ta cảm giac buồn.
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo.
Phải nói rằng, con mắt nhà thơ phải thật tinh tế mới có thể nhìn được và cảm nhận được sự chuyển động rất nhỏ của cảnh vật, sóng chỉ hơi gợi, gió ở đây rất nhẹ chỉ tạo đủ độ để sóng gợn mà thôi. Khung cảnh mùa thu đượm buồn như im lìm, lặng lẽ, chỉ có chiếc lá khẽ đưa mà thôi, không tạo ra âm thanh từ khẽ miêu tả được cả âm thanh, đó là âm thanh, đó là âm thanh, tĩnh chứ không động, tả được cái trạng thái tĩnh lặng của mùa thu. Ngày cả từ vèo cũng vậy đó không chỉ là bay qua của chiếc lá khi có làn gió mà từ vèo đó còn là thể hiện tâm trạng, thời thế của nhà thơ, một tâm sự đầy đau buồn trước tình hình của đất nước đầy đau thương.Xem thêm: Một nhà văn có nói: “Sách là người bạn tốt của con người”. Hãy giải thích nội dung của câu nói đó
Không chỉ dừng lại ở việc miêu tả cảnh ao thu, bằng con mắt tinh tế của mình, tác giả miêu tả rộng ra đó là cảnh trời mùa thu. Cảnh sắc trời tác giả miêu tả rộng ra đó là cảnh mặt trời mùa thu. Cảnh sắc trời mùa thu được nhìn rộng ra từ mặt ao, từ khung cảnh rộng đó tác giả nhìn xa:
Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo
Khung cảnh trời thu thật đẹp, mây lơ lửng trôi trên nền trời xanh ngắt, có điều đám mây có vẻ buồn, không muốn trôi. Ở đây từ lơ lửng đó còn là tâm trạng suy nghĩ của tác giả về một vấn đề gì đó chưa quyết định rõ ràng. Từ trời thu tác giả nhìn xuống, nhìn xa ngõ trúc. Không gian lại trở nên vắng lặng buồn thảm bên cạnh đó việc khách vắng teo lại càng làm tăng thêm không khí của mùa thu. Cái vắng lặng, không khí buồn của mùa thu không dừng lại ở không gian của cái ao mà nó còn lan tỏa khắp trời đất, mây thì lơ lửng không buồn trôi. Ngõ xóm trước kia đông đúc người qua lại là vậy mà giờ đây cũng vắng teo. Con đường cũng trở nên quanh co. Tất cả mọi vật đều vắng lặng trong khung cảnh mùa thu.
Tựa gối ôm cần lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo
Cuối cùng thì hình ảnh người câu cá cũng xuất hiện. Thông qua vài nét miêu tả việc tựa gối câu cá, thì hình ảnh ông già ngồi câu cá mới hiện lên rõ nét. Tư thế xuất hiện của ông già câu cá cũng như cảnh vật trở nên buồn, ông không ngồi trong thế của người câu cá mà gò bó tựa gối. Ta thường biết khi câu cá con người ta cảm thấy thoải mái nhất thì ở đây ông già ngôi câu cá không được sự thoải mái, thanh thản cúi người và tựa mặt lên đầu gối như đang suy nghĩ một điều gì. Đó phải chăng cũng là tác giả đang trăn trở buồn rầu về thế sự.Xem thêm: Nhà văn Nga Lép Tôn - Xtôi từng nói: “Lí tưởng là ngọn đèn chỉ đường. Không có lí tưởng thì không có phương hướng kiên định, mà không có phương hướng thì không có cuộc sống”. Em hiểu câu nói trên của nhà văn như thế nào
Có vẻ như ông già câu cá ngồi câu cho có thú vui, chứ không thấy bóng dáng của chú cá thì ngồi câu cũng đâu được gì. Sự chờ đợi của ông già câu cá đó cũng là một sự mòn, về sự vắng lặng, trống không. Một tiếng động quậy nhẹ của con cá dưới chân bèo. Nhưng tiếng động đó cũng nhẹ, một tiếng động lẻ loi, lại càng làm tăng thêm sự vắng vẻ lặng lẽ của không gian mùa thu. Ở câu cuối sử dụng ba âm đ ( đâu, đớp, động) ta cảm giác như động mà lại không động, chỉ đủ miêu tả đủ sự quẫy đuôi nhẹ của con cá.
Có thể nói khung cảnh mùa thu trong Thu điếu thật tĩnh lặng, êm ả, nhưng buồn. Khung cảnh đó càng gợi cho người ta suy nghĩ chiêm nghiệm về cuộc sống. Một sự chuyển động đều nhẹ nhàng, rất khẽ sự im lặng này lại tạo thêm sự tĩnh lặng của cảnh. Cái tĩnh bao trùm được gợi lên từ cái động rất nhẹ. Thủ pháp lấy động tả tĩnh là thủ pháp quen thuộc của thơ cổ phương Đông.
Tác giả đã dùng thủ pháp gieo vần theo vần eo trong bài, để tạo nên sự vắng lặng im lìm trong khung cảnh mùa thu gợi lên cái gì thu hẹp lại, nhỏ lại, lắng vào hư không nó cũng góp phần làm cho không khí vắng lặng được tăng thêm.
Bằng sự cảm nhận tinh tế của tác giả về mùa thu, ta cảm nhận được ở tác giả một tâm hồn gắn bó thiết tha với thiên nhiên, một tấm lòng yêu nước thầm kín. Nhà thơ đã vẽ lên một mùa thu giản dị, thanh đạm, đơn sơ, nhưng đẹp của làng quê Việt Nam.
Nguồn:
|
Phân tích bài Thu Điếu của Nguyễn Khuyến
Hướng dẫn
Thu trong thơ Nguyễn Khuyến tiêu biểu cho mùa thu ở đồng bằng Bắc Bộ. Thu trong thơ ông thật êm đềm, đơn sơ nhưng vô cùng sống động, làm say đắm lòng người. Trong chùm thơ về mùa thu của ông bài Thu điếu để lại nhiều ấn tượng trong lòng người đọc.
Mùa thu là mùa đẹp nhất trong năm của vùng đồng bằng Bắc Bộ, hòa cùng vào cảnh vật con người cũng thể hiện nỗi niềm cảm xúc của mình. Đọc Thu điếuchúng ta sẽ cảm nhận được vẻ đẹp của cảnh thu và tâm trạng của nhà thơ. Nếu như ở Thu Vịnh, cảnh thu đựơc đón nhận từ cao, xa đến gần, rồi gần đến cao, xa thì ở Thu Điếu cảnh thu được đón nhận từ gần đến cao – xa rồi từ cao xa trở lại gần. Điểm nhìn cảnh thu được nhìn từ chiếc thuyền câu đến mặt ao rồi nhìn lên bầu trời, nhìn tới ngõ trúc rồi nhìn ra mặt ao. Từ khung ao hẹp tác giả miêu tả mùa thu đựơc cả không gian và thời gian cảnh sắc mùa thu mở ra nhiều hướng thật sinh động.
Ngay từ tiêu đề của bài, tác giả đã muốn giới thiệu đến người đọc về cảnh câu cá mùa thu, nhưng thực ra đó lại là nói chuyện mùa thu, miêu tả cảnh mùa thu của vùng quê đồng bằng Bắc Bộ, quê hương của tác giả Nguyễn Khuyến. Trong bài thơ có ao thu, thuyền câu, có lá vàng, có tầng mây, có sóng, có cá và người câu cá. Không gian mùa thu, vắng lặng và chính sự vắng lặng này mới tả được khoảnh khắc lặng lẽ của mùa thu và tả được tâm trạng, tĩnh lặng của tác giả.
Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo
Ngay từ câu thơ đầu tác giả đã cho người đọc hình dung một không gian thu buồn nhưng đẹp, một không gian tĩnh lặng không phải ở vùng quê nào cũng có được. Hai câu thơ này không chỉ miêu tả được cả không gian mùa thu (ao thu) mà còn miêu tả được cả thời gian của mùa thu. Mùa thu được biểu hiện ở làn nước trong veo, đã trong lại còn trong veo và thêm lạnh lẽo. Ao thu lạnh lẽo càng làm tăng thêm độ buồn của mùa thu. Đó là mùa thu của lòng của lòng người buồn, của thi nhân buồn mà thôi. Mùa thu thường là mùa của tâm trạng buồn, qua hai câu thơ này càng thấy Nguyễn Khuyến đã rất tài tình khi miêu tả khung cảnh mùa thu. Chiếc thuyền câu vốn đã bé lại càng bé tẻo teo. Hai vầng eo càng làm cho không gian càng thêm thu nhỏ lại.Xem thêm: Thuyết minh về vai trò của rừng trong cuộc sống con người
Làn nước trong veo, nhưng lại lạnh lẽo hai sự kết hợp này đã làm cho không gian ở đây có phần mông lung và như tan ra cùng sự lạnh lẽo của ao mùa thu. Mùa thu nước ao mới trong xanh như vậy làm cho không gian thêm nhỏ, chiếc thuyền đã bé lại bé thêm, như thu mình thêm nhỏ lại.
Trong không khí vắng lặng êm ả đó, mọi không gian cảnh vật như hòa vào nhau, làm mọi cảnh vật đều gợi cho ta cảm giac buồn.
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo.
Phải nói rằng, con mắt nhà thơ phải thật tinh tế mới có thể nhìn được và cảm nhận được sự chuyển động rất nhỏ của cảnh vật, sóng chỉ hơi gợi, gió ở đây rất nhẹ chỉ tạo đủ độ để sóng gợn mà thôi. Khung cảnh mùa thu đượm buồn như im lìm, lặng lẽ, chỉ có chiếc lá khẽ đưa mà thôi, không tạo ra âm thanh từ khẽ miêu tả được cả âm thanh, đó là âm thanh, đó là âm thanh, tĩnh chứ không động, tả được cái trạng thái tĩnh lặng của mùa thu. Ngày cả từ vèo cũng vậy đó không chỉ là bay qua của chiếc lá khi có làn gió mà từ vèo đó còn là thể hiện tâm trạng, thời thế của nhà thơ, một tâm sự đầy đau buồn trước tình hình của đất nước đầy đau thương.Xem thêm: Một nhà văn có nói: “Sách là người bạn tốt của con người”. Hãy giải thích nội dung của câu nói đó
Không chỉ dừng lại ở việc miêu tả cảnh ao thu, bằng con mắt tinh tế của mình, tác giả miêu tả rộng ra đó là cảnh trời mùa thu. Cảnh sắc trời tác giả miêu tả rộng ra đó là cảnh mặt trời mùa thu. Cảnh sắc trời mùa thu được nhìn rộng ra từ mặt ao, từ khung cảnh rộng đó tác giả nhìn xa:
Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo
Khung cảnh trời thu thật đẹp, mây lơ lửng trôi trên nền trời xanh ngắt, có điều đám mây có vẻ buồn, không muốn trôi. Ở đây từ lơ lửng đó còn là tâm trạng suy nghĩ của tác giả về một vấn đề gì đó chưa quyết định rõ ràng. Từ trời thu tác giả nhìn xuống, nhìn xa ngõ trúc. Không gian lại trở nên vắng lặng buồn thảm bên cạnh đó việc khách vắng teo lại càng làm tăng thêm không khí của mùa thu. Cái vắng lặng, không khí buồn của mùa thu không dừng lại ở không gian của cái ao mà nó còn lan tỏa khắp trời đất, mây thì lơ lửng không buồn trôi. Ngõ xóm trước kia đông đúc người qua lại là vậy mà giờ đây cũng vắng teo. Con đường cũng trở nên quanh co. Tất cả mọi vật đều vắng lặng trong khung cảnh mùa thu.
Tựa gối ôm cần lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo
Cuối cùng thì hình ảnh người câu cá cũng xuất hiện. Thông qua vài nét miêu tả việc tựa gối câu cá, thì hình ảnh ông già ngồi câu cá mới hiện lên rõ nét. Tư thế xuất hiện của ông già câu cá cũng như cảnh vật trở nên buồn, ông không ngồi trong thế của người câu cá mà gò bó tựa gối. Ta thường biết khi câu cá con người ta cảm thấy thoải mái nhất thì ở đây ông già ngôi câu cá không được sự thoải mái, thanh thản cúi người và tựa mặt lên đầu gối như đang suy nghĩ một điều gì. Đó phải chăng cũng là tác giả đang trăn trở buồn rầu về thế sự.Xem thêm: Nhà văn Nga Lép Tôn - Xtôi từng nói: “Lí tưởng là ngọn đèn chỉ đường. Không có lí tưởng thì không có phương hướng kiên định, mà không có phương hướng thì không có cuộc sống”. Em hiểu câu nói trên của nhà văn như thế nào
Có vẻ như ông già câu cá ngồi câu cho có thú vui, chứ không thấy bóng dáng của chú cá thì ngồi câu cũng đâu được gì. Sự chờ đợi của ông già câu cá đó cũng là một sự mòn, về sự vắng lặng, trống không. Một tiếng động quậy nhẹ của con cá dưới chân bèo. Nhưng tiếng động đó cũng nhẹ, một tiếng động lẻ loi, lại càng làm tăng thêm sự vắng vẻ lặng lẽ của không gian mùa thu. Ở câu cuối sử dụng ba âm đ ( đâu, đớp, động) ta cảm giác như động mà lại không động, chỉ đủ miêu tả đủ sự quẫy đuôi nhẹ của con cá.
Có thể nói khung cảnh mùa thu trong Thu điếu thật tĩnh lặng, êm ả, nhưng buồn. Khung cảnh đó càng gợi cho người ta suy nghĩ chiêm nghiệm về cuộc sống. Một sự chuyển động đều nhẹ nhàng, rất khẽ sự im lặng này lại tạo thêm sự tĩnh lặng của cảnh. Cái tĩnh bao trùm được gợi lên từ cái động rất nhẹ. Thủ pháp lấy động tả tĩnh là thủ pháp quen thuộc của thơ cổ phương Đông.
Tác giả đã dùng thủ pháp gieo vần theo vần eo trong bài, để tạo nên sự vắng lặng im lìm trong khung cảnh mùa thu gợi lên cái gì thu hẹp lại, nhỏ lại, lắng vào hư không nó cũng góp phần làm cho không khí vắng lặng được tăng thêm.
Bằng sự cảm nhận tinh tế của tác giả về mùa thu, ta cảm nhận được ở tác giả một tâm hồn gắn bó thiết tha với thiên nhiên, một tấm lòng yêu nước thầm kín. Nhà thơ đã vẽ lên một mùa thu giản dị, thanh đạm, đơn sơ, nhưng đẹp của làng quê Việt Nam.
Nguồn:
|
Phân tích bài thơ Buổi sớm mùa xuân của Mạnh Hạo Nhiên
Hướng dẫn
Xuân hiểu
Xuân miên bất giác hiểu,
Xứ xứ văn đề điểu.
Dạ lai phong vũ thanh,
Hoa lạc trí đa thiểu?
Mạnh Hạo Nhiên (689 – 740)
Buổi sớm mùa xuân
Giấc xuân sáng chẳng biết,
Khắp nơi chim ríu rít;
Đêm nghe tiếng gió mưa,
Hoa vụng nhiều huy ít?
Tương Như dịch
Mạnh Hạo Nhiên (689 – 740) là một trong những thi sĩ nổi tiếng thời Thịnh Đường, sở trường vềthơ sơn thủy, mỗi bài thơ xinh đẹp như một bức tranh thủy mặc.
Ông là bạn tri kỉ của Lý Bạch. Người đời vẫn nhắc lại bài thơ sau đây của Lý Bạch:
Tặng Mạnh Hạo Nhiên
Mạnh phu tử, đáng yêu thay,
Phong lưu nổi tiếng đấy đây tươngtruyền.
Trẻ trungchẳng thích quý quyền,
Già nua vui chốn lâm tuyền tùng mây.
Dưới trăng là thánh khi say,
Mê hoa đâu có đoái hoài thờ vua.
Ngẩng trông chót vót núi gò,
Bấy nhiêu cũng đủ thơm tho nhẹ nhàng.
Trần Trọng Kim dịch
Bài thơ của Thi tiên Lý Bạch đã nói lên được cốt cách phong lưu ưa nhàn, tình yêu thiên nhiên của Mạnh Hạo Nhiên.
Mạnh Hạo Nhiên hiện còn để lại 271 bài thơ, trong đó có bài “Xuân hiểu” viết bằng thể ngũ ngôn tứ tuyệt:
"Xuân miên bất giác hiểu,
Xứ xứ văn đê điểu.
Dạ lai phong vũ thanh,
Hoa lạc tri đa thiểu? ”
Bài thơ ghi lại một nét xuân đẹp đáng yêu. Đó là một buổi sớm mùa xuân.
Sau một giấc xuân êm đềm, thi nhân chợt tỉnh. Không biết trời đã sáng. Nhàn nhã và vô tư. Nhà thơ lắng nghe tiếng chim hót nơi gần nơi xa. Tiếng chim chào bình minh. Tiếng chim mừng nắng hửng, ríu rít hót vang:
“Xuân miên bất giác hiểu,
Xứ xứ văn đề điểu
Xem thêm: Phân tích vẻ đẹp của hai câu thơ sau: "Muốn vượt bể Đông theo cánh gió/ Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi”. (“Lưu biệt khi xuất dương” - Phan Bội Châu)
(Giấc xuân sáng chẳng biết,
Khắp nơi chim ríu rít).
Tiếng chim hót gần xa, nhà thơ nghe được mới hay trời đã sáng tự lúc nào. Tiếng chim đã đánh thức thi nhân. Tiếng chim là tín hiệu của sáng sớm, của bình minh.Bút pháp lấy động (tiếng chim) để tả tĩnh (một buổi sáng sớm xuân êm đềm). Chữ “văn ” nghĩa là nghe – nhãn tự của vần thơ. Tiếng chim rung động một hồn thơ thanh tao nhẹ nhàng.
Hai câu cuối nhà thơ tự hỏi mình về hoa sau mưa gió đêm qua, chẳng hay có bao nhiêu hoa đã rụng. Hai câu thơ tả cảnh buổi sớm mùa xuân bằng thính giác và bằng cảm giác. Cảm xúc bâng khuâng; lời thơ đẹp, ý thơ đẹp:
"Dạ lai phong vũ thanh,
Hoa lạc tri đa thiểu
“Phong vũ" nghĩa là mưa gió; “thanh ” có nghĩa là tiếng (kêu) cũng có nghĩa là âm thanh nghe được. Có lẽ đó là tiếng gió mưa mà thi nhân nghe được lúc chợt tỉnh giấc giữa đêm khuya. Tiếng mưa đêm thường gợi buồn, nhất là đối với những li khách. Nguyễn Trãi cũng có bài thơ "Thính vũ" (nghe mưa) đọc lên nghe thật buồn:
“Vò võ trai phòngvắng
Suốt đêm nghe tiếng mưa.
Não nùng rung gối khách;
Thánh thót mấy canh dư… ”
(Đào Duy Anh dịch)
Hoa là biểu tượng cho cái đẹp của tạo vật, của thiên nhiên và con người. Mưa gió làm hoa rụng; hoa rụng ít hay nhiều? Thi nhân hỏi hoa hay tự hỏi mình? Tình thương cho cái đẹp trong cảnh gió mưa, gió mưa của đất trời, gió mưa cuộc đời, thể hiện một trái tim đa cảm của thi nhân, trước những kiếp hoa rụng, kiếp hoa tàn.
Bài thơ “Xuân hiểu ” tả cảnh buổi sớm mùa xuân, tả bằng thính giác, bằng cảm giác về tiếng chim hót, về tiếng gió mưa đêm xuân và man mác bâng khuâng về hoa rụng. Đúng là cả bài thơ 20 chữ, không một chữ nào chỉ tình cảm, thế mà bài thơ đã thể hiện tình yêu thiên nhiên và cái đẹp của thi nhân. Ý tại ngôn ngoại là vậy. Sự rung động của tâm hồn trước một tiếng chim hót, tình thương nghĩ đến những bông hoa đẹp bị rụng trong gió mưa, không phải ai cũng có như Mạnh Hạo Nhiên.
“Xuân hiểu ” là một bài thơ xuân đẹp, một bài thơ kiệt tác thể hiện phong cách và bút pháp nghệ thuật “sơn thủy ” của Mạnh Hạo Nhiên.
Nguồn: Những bài văn hayXem thêm: Viết một bài văn nghị luận nêu suy nghĩ của em về lợi và hại về hiện tượng sử dụng blog trong giới trẻ hiện nay
|
Analysis of the poem Spring Morning by Manh Hao Nhien
Instruct
Xuan understands
Xuan Mien suddenly understood,
The land of literature.
Da Lai Phong Vu Thanh,
How many flowers are there?
Meng Haoran (689 – 740)
Spring morning
The morning spring dream I don't know,
Everywhere birds chirped;
At night, I heard the sound of wind and rain,
More flowers, less flowers?
Tuong Nhu translated
Meng Hao Ran (689 - 740) was one of the famous poets of the Tang Dynasty, with a knack for mountain and water poetry, each poem as beautiful as a watercolor painting.
He is a close friend of Ly Bach. People still recall the following poem by Ly Bach:
Presented to Manh Hao Nhien
Manh, how lovely,
This is a famous story, here's the legend.
Youth does not like royalty,
Old people are happy in the forests and clouds.
Under the moon is holy when drunk,
Lovers of flowers do not care about worshiping kings.
Looking up at the towering mountains and hills,
That's enough to be fragrant and gentle.
Translated by Tran Trong Kim
Poetry fairy Ly Bach's poem conveys Manh Hao Nhien's leisurely style and love of nature.
Manh Hao Nhien still left behind 271 poems, including the poem "Xuan Understanding" written in pentameter and quatrain:
"Xuan Mien suddenly understood,
The land of literature and birds.
Da Lai Phong Vu Thanh,
Tri tri flower multi-minimum? ”
The poem captures a lovely and beautiful spring. It was a spring morning.
After a peaceful spring sleep, the poet suddenly woke up. I didn't know it was morning. Leisurely and carefree. The poet listens to the sound of birds singing near and far. The sound of birds greeting the dawn. The sound of birds cheering for the sunshine, chirping and singing:
“Spring Mien suddenly understood,
The land of literature
See more: Analyze the beauty of the following two verses: "Want to cross the East Sea with the wings of the wind/ Thousands of silver waves send off to sea". ("Farewell when leaving the ocean" - Phan Boi Chau)
(The morning spring dream I don't know,
Birds chirping everywhere).
The sound of birds singing from near and far was enough for the poet to hear when the sky had already dawned. The sound of birds awakened the poet. The sound of birds is the signal of early morning, of dawn. The penmanship uses movement (bird sounds) to describe stillness (a calm early spring morning). The word "literature" means listening - the label of the poem. The sound of birds vibrates a gentle, poetic soul.
In the last two lines, the poet asks himself about the flowers after last night's wind and rain, not knowing how many flowers have fallen. The two verses describe the spring morning scene through hearing and feeling. Feelings of sadness; beautiful lyrics, beautiful poetic ideas:
"Da Lai Phong Vu Thanh,
Tri Tri multi-minus flowers
"Phong vu" means rain and wind; "thanh" means sound (cry) and also means audible sound. Perhaps it is the sound of wind and rain that the poet heard when he suddenly woke up in the middle of the night. The sound of rain The night often evokes sadness, especially for guests. Nguyen Trai also has a poem "Thịnh Vũ" (listening to the rain) that sounds sad when read:
“The martial arts room is empty
All night I heard the sound of rain.
Nervousness shook the guest's knees;
Holy shit, a few leftover soups..."
(Translated by Dao Duy Anh)
Flowers are a symbol of the beauty of creation, nature and people. Wind and rain cause flowers to fall; Flowers fall more or less? Does the poet ask about flowers or himself? Love for the beauty in the wind and rain, the wind and rain of heaven and earth, the wind and rain of life, shows a poet's sentimental heart, before the lifetimes of falling flowers and fading flowers.
The poem "Spring Understands" describes the spring morning scene, described by hearing, by feeling the sound of birds singing, the sound of wind and rain on a spring night and the wistfulness of falling flowers. It is true that the entire poem has 20 words, not a single word indicates emotion, yet the poem shows the poet's love for nature and beauty. That's what the foreign language means. The vibration of the soul before a bird's song, the love of thinking about beautiful flowers lost in the wind and rain, not everyone has it like Manh Hao Nhien.
"Spring Understands" is a beautiful spring poem, a masterpiece poem showing the "mountain water" style and artistic style of Manh Hao Nhien.
Source: Good essays See more: Write an argumentative essay stating your thoughts on the advantages and disadvantages of the phenomenon of using blogs among young people today
|
Đề bài: Phân tích bài thơ Bài Ca Ngất Ngưởng của Nguyễn Công Trứ
Bài làm
Nguyễn Công Trứ là một trong những nhà thơ tiêu biểu trong nửa đầu thế kỷ XIX ở nước ta. Ông là một người có tài kinh bang tế thế, văn chương lỗi lạc và có cuộc đời thăng trầm. Dù lúc ở đỉnh cao danh vọng hay lúc sóng gió, thăng trầm thì ở Nguyễn Công Trứ luôn luôn có khát vọng phi thường, hăm hở chí nam nhi trong trời đất. Bài thơ Bài Ca Ngất Ngưởng chính là bài mang phong cách rất riêng của ông.
Bài thơ không chỉ là sự cắt nghĩa, lý giải sự ngất ngưởng của mình mà còn như một lời tự thuật về chính cuộc đời của nhà thơ. Ngay câu thơ mở đầu ông đã nêu quan niệm sống của mình:
“Vũ trụ nội mạc phi phận sự”
Câu thơ cho ta hiểu thêm tâm thế của một nhà nho chân chính đó là mọi việc trong vũ trụ chẳng có việc nào không phải phận sự của ta. Ông đã lĩnh hội được bổn phận của phận làm trai trong thiên hạ, xác định được vị trí của mình trong cuộc đời. Có người cho rằng đó là một điều đơn giản nhưng đâu hay rằng có người sống đến cuối đời cũng không biết mình đứng ở đâu giữa thế giới rộng lớn này, mình cần phải làm gì để chứng minh sự tồn tại của mình. Có những người sống bi quan, không có lý tưởng cho riêng mình. Ấy nhưng Nguyễn Công Trứ hoàn toàn khác ông đã nhận ra ngay từ sớm và phấn đấu theo quan niệm sống tích cực của chính bản thân. Ông luôn ý thức được vai trò của mình và không hề ngần ngại thể hiện cho người khác thấy được bản ngã của chính mình:Xem thêm: Cảm nhận nội dung và nghệ thuật truyện Chuyện chức phán sự đền Tản Viên của Nguyễn Dữ
“Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng
Khi thủ khoa, Tham tán, khi Tổng đốc Đông
Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng”
Phân tích bài thơ Bài Ca Ngất Ngưởng
Hi Văn chính là tên mà ông tự xưng danh và nhà thơ đã tự khẳng định “tài bộ” của mình. Khi tìm hiểu về cuộc đời của ông ta mới thấy được Nguyễn Công Trứ thực sự là một người vừa có thực tài vừa có thực danh. Chuyện học hành thi cử của ông giống như một con đường thênh thang, rộng mở với việc ông đỗ thủ khao và từng giữ nhiều chức vụ quan trọng. Nắm trong tay “tài bộ”, với thao lược chính vì thế ông mới có đủ tư cách “ngất ngưởng” với đời, một con người hơn đời, đứng trên cao trong thiên hạ. Chính cách ngắt nhịp kết hợp với giọng điệu hào hùng đã cho ta thấy cốt cách phi thường, chí khí mạnh mẽ của nhà thơ. Ông có thể tiếp tục ngất ngưởng với đời vì ông có những thứ mà khiến chính ông tự hào về mình:
“Lúc bình Tây, cờ đại tướng
Có khi về Phủ doãn Thừa Thiên”
Đó chính là minh chứng chân thực cho tài năng của ông. Cũng từ đó ông mới tự tin thể hiện bản ngã của mình:
“Độc môn giải tổ chi niên
Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng”
Trở lại với cuộc sống đời thường thì ông vẫn hành động một cách khác đời thường như để chế giễu đời, để bộc lộ sự ngất ngưởng của mình. Từng là một vị quan với ngựa xe, lõng vọng nay lại cười bò và cho bò đeo đạc ngựa. Không chỉ người mà ngay cả bò cũng ngất ngưởng không kém chủ nhân của nó. Tiếp nối hình ảnh đó là tám câu thơ làm nổi bật lên sự ngất ngưởng của ông:Xem thêm: Tả một chị bán hàng đang làm việc ở cửa hàng bách hóa (hoặc cửa hàng hợp tác xã mua bán) lúc đông khách
“Kìa núi nọ phau phau mây trắng
Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi
Gót tiên theo đủng đỉnh một đôi dì
Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng”
Nguyễn Công Trứ sống hết mình, làm việc hết mình và chơi cũng hết mình. Ông là một nhà Nho nhưng cũng từng là một vị tướng từng xông pha trận mạc ấy vậy lại có khi trở về cuộc sống bình thường “nên dạng từ bi”. Câu thơ như một lời tự trào về chính mình, ông bất chấp tất cả để giễu cợt chính bản thân mình. Một hình ảnh không gò bó với bất cứ một khuôn mẫu nào và hình ảnh “bụt cũng nực cười” giống như lời khen chê mà thiên hẹ khi nhìn về ông:
“Được mất dương dương người thái thượng
Khen chê phơi phới ngọn đông phong"
Khi đã thoát ra khỏi vòng danh lợi thì đối với ông việc được mất hay người đời khen chê chẳng xá vào đâu. Ông bỏ ngoài tai tất cả những gì người đời nói về ông, những lời thị phi bên ngoài mà sống một cuộc sống thảnh thơi, vui thú:
“Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng
Không Phật, không Tiên, không vướng tục”
Cuối cùng là lời khẳng định của ông về chính mình, ngất ngưởng nhưng là một trung thần, là người làm trọn đạo vua tôi:
“Chẳng Trái, Nhạc cũng vào phường Hàn, Phú
Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo xơ chung
Trong triều ai ngất ngưởng như ông”
Bài Ca Ngất Ngưởng đã cho ta thấy được khí phách và quan niệm sống lạc quan của một người “tài bộ” trong lịch sử. Bài thơ không chỉ đem lại cho chúng ta tiếng cười hài hước, dí dỏm mà còn cho thấy phong cách thơ đặc sắc, một con người ngất ngưởng, ngạo nghễ với đời.Xem thêm: Theo anh (chị), làm thế nào để môi trường sống của chúng ta ngày càng sạch đẹp?
Loan Trương
|
Topic: Analysis of the poem "Sweet Song" by Nguyen Cong Tru
Assignment
Nguyen Cong Tru is one of the typical poets in the first half of the 19th century in our country. He was a man of great economic talent, brilliant literature, and had a life of ups and downs. Whether at the peak of fame or during turbulent times, ups and downs, Nguyen Cong Tru always has extraordinary aspirations, eagerness to be a man in heaven and earth. The poem "The Uncanny Song" is a poem with his very own style.
The poem is not only an explanation of his ecstasy, but also an autobiography of the poet's own life. In the opening verse, he stated his concept of life:
“The inner universe has no duty”
The poem helps us understand more about the mindset of a true Confucian, which is that there is nothing in the universe that is not our responsibility. He has understood the duties of being a man in the world and determined his position in life. Some people think it's a simple thing, but what's not known is that some people live until the end of their lives not knowing where they stand in this vast world, what they need to do to prove their existence. There are people who live pessimistic lives, with no ideals of their own. However, Nguyen Cong Tru was completely different, as he realized early on and strived to follow his own positive concept of life. He is always aware of his role and does not hesitate to show others his own ego: See more: Feelings about the content and art of the story The Story of the Judge of Tan Vien Temple by Nguyen Du
“Mr. Hi Van, the financial officer, has entered the cage
When valedictorian, Counselor, when Governor General of the East
"Including strategies, you will be extremely skilled"
Analysis of the poem The Song of Ecstasy
Hi Van is the name he called himself and the poet has affirmed his "talent". When learning about his life, we can see that Nguyen Cong Tru is truly a person with both real talent and a real name. His exam studies were like a wide, open road with him passing the exam and holding many important positions. Holding "talent" in his hands and having strategy is why he is qualified to "overwhelm" with life, a superior person, standing high in the world. It is the rhythm combined with the heroic tone that shows us the poet's extraordinary personality and strong will. He can continue to enjoy life because he has things that make him proud:
“At the Western peace, general chess
Sometimes I go back to Phu Doan Thua Thien.”
That is a true testament to his talent. From then on, he confidently expressed his ego:
“The year of the single door to solve the ancestors
The golden horse and cow accessories are stunningly worn."
Returning to everyday life, he still acted in a different way than usual, as if to mock life, to express his ecstasy. Once an official with horses and carriages, Lac Vong now laughs at cows and lets cows carry horses. Not only people but even cows are as ecstatic as their owners. Following that image are eight verses that highlight his ecstasy: See more: Describe a saleswoman working at a department store (or cooperative store) when it's crowded with customers.
“Look at that mountain covered in white clouds
The bow and sword hand should be compassionate
The fairy's heels followed a pair of aunts
Even the Buddha was so funny that he was overwhelmed."
Nguyen Cong Tru lives hard, works hard and plays hard. He was a Confucian but was also a general who fought in battle, but sometimes returned to normal life "becoming compassionate". The poem is like a self-satire about himself, he defied everything to make fun of himself. An image that does not conform to any stereotype and the image of "Buddha is also ridiculous" is like the praise and criticism that people hear when looking at him:
“Gaining and losing Yangyang, the supreme person
"Praise and criticism make the Dongfeng tree shine"
Once he has escaped the cycle of fame and fortune, winning or losing or people praising or criticizing him is of no concern to him. He ignored everything people said about him and the gossip outside and lived a leisurely and enjoyable life:
“Sometimes singing, sometimes drinking, sometimes singing, sometimes spare
No Buddha, no Immortal, no worldliness"
Finally, he affirmed himself, unsurprisingly, as a loyal servant, someone who fulfills my king's teachings:
“Not Left, Nhac also went to Han and Phu wards
The king's duty is to uphold the common religion
Who in the court is as proud as you?
Song Ngat Nguong has shown us the mettle and optimistic outlook on life of a "talented" person in history. The poem not only brings us humorous and witty laughter but also shows a unique poetic style, a person who is overwhelmed and arrogant with life. See more: In your opinion, how to Is our living environment increasingly cleaner and more beautiful?
Loan Truong
|
Phân tích bài thơ Bài ca nhà tranh bị gió thu phá của Đỗ Phủ
Hướng dẫn
Sau bao nhiêu năm vất vả, lận đận, cơm không có ăn, áo không có mặc và nhà không có ở, năm 760 (lúc này 48 tuổi), được bạn bè giúp đỡ, Đỗ Phủ dựng tạm được một mái nhà lợp bằng cỏ ở bên một bờ khe phía tây Thành Đô, thuộc tỉnh Tứ Xuyên. Sau thời gian chạy loạn, nay có túp lều che tạm, Đỗ Phủ và cả gia đình rất phấn khởi. Âm cúng dưới mái nhà cỏ chưa được bao lâu, thì mùa thu năm sau, qua một trận gió to, mái nhà của ông bị tốc sạch, không còn có nơi nương tựa. Xót xa trước cảnh tượng này, ông đã làm bài thơ “Mao ốc vị thu phong sở phá ca”
“Tháng tám, thu cao, gió thét già,
Cuộn mất ha lớp tranh nhà ta.
Tranh bay sang sông rải khắp bờ,
Mảnh cao treo tót ngọn rừng xa,
Mảnh thấp quay lộn vào mương sa.”
Mở đầu bài thơ, Đỗ Phủ giới thiệu thời gian là vào tháng tám, đang bước vào mùa thu. Tháng tám, mùa thu, đặc điểm nổi bật nhất của thời tiết lúc này là bầu trời cao và gió thổi rất lớn. Gió thổi làm tốc hết lớp nhà cỏ của ông. Bằng biện pháp kể và tả, nhà thơ đã dựng dậy trước mắt người đọc bức tranh về nhà tốc mái rất cụ thể và sinh động. Bốn câu thơ đầu, tác giả hoàn toàn dùng bút pháp miêu tả. Chỉ thông qua từ ngữ, ông nêu bật những trận cuồng phong, cảnh nhà tốc mái, cảnh mái tranh gió cuốn bay đi khắp nơi. Cái “bay rải khắp ven sông”, “cái “mắc cành cao”, cái “giữa dòng”. Cách tả của nhà thơ rất gọn, cô đọng nhưng gây rất nhiều ấn tượng cho người đọc.
Những câu thơ tả của ông không khác gì những thước phim chân thực về gió thổi nhà tốc mái.
“Trẻ con thôn nam khinh ta già không sức,
Nỡ nhè trước mặt xô cướp giật,
Cắp tranh đi tuốt vào lũy tre
Môi khô miệng cháy gào chẳng được,
Quay về, chống gậy lòng ấm ức!”
Từ việc nhà tốc mái dẫn đến nhiều cảnh đời đau khổ, xót xa. Lợi dụng gió thổi tốc mái, trẻ con nghèo khổ, hàng xóm ngỗ ngược khi thấy Đỗ Phủ già yếu mà chạy đến cướp tranh mang về. Tác giả đành bất lực đứng nhìn lũ trẻ con cướp giật từng cọng tranh. Mặc dù ông cố sức quát tháo “khản tiếng, rát hầu” nhưng cũng không giữ lại được những cọng tranh đã mất vào tay lũ trẻ.
Trước cảnh cướp giật tranh của lũ trẻ, Đỗ Phủ chỉ biết “quay về, vịn gậy thở than hoài”, ông giận mà không ghét lũ trẻ nghèo khổ. Vì ông biết rằng, cũng vì hoàn cảnh cùng cực, túng thiếu mà chúng phải làm thế! Lòng thông cảm những con người nghèo khổ ở Đỗ Phủ được thể hiện dưới những câu thơ mủi lòng, kín dáo.
“Giây lát, gió lặng, mây tối mực,
Trời thu mịt mịt đêm đen đặc.
Mền vải lâu năm lạnh tựa sắt,
Con nằm xấu nết đạp lót nát
Đầu giường nhà dột chẳng chừa đâu
Dày hạt mưa, mưa, mưa chẳng dứt.
Từ trải cơn loạn ít ngủ nghê
Đêm dài ướt át sao cho trót?”
Chốc lát gió yên, mây đen kịt. Trời thu mờ mịt, tối sập rồi. Đó là những câu thơ tác giả tả cảnh trời sắp mưa. Ban ngày thì gió thổi tốc mái. Đêm đến thì mưa đổ nước xuống mái nhà dột. Hết cảnh khổ nhà tốc mái, gia đình ông lại chịu cảnh nhà dột suốt đêm. Cảnh rét, với cái chăn đã rách nát, cảnh nhà dột ướt không sao nhắm mắt được… Tất cả đều được nhà thơ kể bằng những câu thơ ngắn gọn, súc tích, xúc động lòng người. Nghệ thuật dựng cảnh ở đoạn thơ này thật tài tình. Đỗ Phủ vừa kể vừa tả. Tác giả khéo lựa chọn những chi tiết cụ thể và rất gợi hình: mây đen kịt, chăn vải lâu năm lạnh hơn sắt, con thơ nằm hỗn đạp rách toang đều là những chi tiết thực, gây ấn tượng cho người đọc. Cảnh đêm rét, trời mưa, nhà dột, nhà thơ ngồi suốt đêm không ngủ được với bao cơ cực, tủi nhục, ê chề, đau đớn của một thiên tài có thể là gây nhiều xúc động nhất. Ớ dây, hình ảnh của một con người suốt đời nghèo khổ và tật bệnh lại hiện lên, làm xoáy gan, chảy ruột bao nhiêu người. Giá trị của bài thơ chính là từ nỗi đau của riêng một người, nỗi bất hạnh của một gia đình, đại quần chúng nhân dân thời Đường lúc bấy giờ.
Xem thêm: Cảm nghĩ của em về bài thơ Cảnh khuya của Bác HồVấn đề lớn nhất được đặt ra bức thiết và nhức nhối trong bài thơ này là tình trạng nghèo khổ, cơ cực đến mức tủi nhục của nhân dân, trong đó có người trí thức, người nghệ sĩ. Một con người vĩ đại như Đỗ Phủ, xuất thân từ gia đình quan lại, tôn thờ đạo Nho, làm quan suốt mấy dời, thơ phú bậc nhất thiên hạ và được hưởng đặc quyền dặc lợi của xã hội phong kiến thế mà nhà không có ở, hoặc có chăng cũng chỉ là túp lều tranh tạm bợ, chỉ cần một trận gió cũng “bốc sạch không”. Một con người được mệnh danh là “Thi thánh” để cho dời hơn 1400 bài “Thi sử” thế mà đêm mưa dột, không có chỗ nằm, không có chăn mà đắp.
“Ước được nhà rộng muôn ngàn gian,
Che khắp thiên hạ kể sĩ nghèo đều hân hoan,
Gió mưa chẳng núng, vững vàng như thạch bàn!”
Nhà ở và cớm áo là những điều mà Đỗ Phủ hằng mong ước. Sống trong những điều kiện khốn khổ không còn là con người, nhưng nhà thơ vẫn nêu cao tính người, tình người, giữ được bản chất tốt đẹp của con người. Bài thơ chẳng những mang giá trị hiện thực lớn mà còn chứa đựng giá trị nhân đạo cao cả. Đầu bài thơ, Đỗ Phủ nêu hoàn cảnh bi đát của mình do thiên nhiên và xã hội gây nên thì phần cuối bài thơ, ông có quyền đề cập đến yêu cầu và ước muốn của cá nhân. Đó chính là lô-gích của sự việc. Nhưng đằng này, nhà thơ không giải quyết như thế. Cuối bài thơ, tác giả không đề cập đến “cái tôi” cá nhân mà nói đến “cái ta” tất cả.
Từ một mái tranh nhà tốc mái, ướt dột, không đủ che thân, nhà thơ ước mơ đến “ngàn vạn ngôi nhà rộng. Ngôi nhà ấy không phải cho riêng mình Đỗ Phủ mà là để “che khắp thế gian, dân rét mừng”. Ước mơ của nhà thơ thật lớn lao, cao đẹp! Ong ước mơ cho toàn nhân loại, nhất là những người đói rét đều có nhà cao, cửa rộng để họ thoát khỏi cảnh cơ hàn. Toà nhà Đỗ Phủ mơ ước chẳng những nhiều, rộng rãi, vô số “ngàn vạn gian” mà nó phải là những ngôi nhà cao ngất, chắc chắn “vững như núi, gió mưa chẳng chuyển”. Ước mơ của ông thật là thực tế, cụ thể, nhưng cũng đầy tính chất lãng mạn của một nhà thơ.
“Than ôi! Bao giờ nhà ấy sừng sững, dựng trước mắt,
Riêng lều ta nát, chịu chết rét cũng được!”
Hai câu cuối bài thơ là hai câu chân thành, xúc động phát ra từ trái tim yêu thương con người của Đỗ Phủ. Giá trị nhân đạo cao cả của tác giả cũng được thể hiện ở hai câu thơ này. Mơ ước, niềm tin và hy vọng được diễn tả bằng thơ ca: “Than ôi! Bao giờ nhà ấy sừng sững dựng trước mắt?”. Đó là lời cảm thán, tự hỏi của Đỗ Phủ. Có thể ông tự hỏi mình đồng thời tự vấn xã hội. Ông vừa tin mà vừa không tin. Nhưng dù hiện thực hay không hiện thực thì ước mơ của Đỗ Phủ vẫn là chính đáng, cao đẹp, phù hợp với ước mơ của nhân dân nghèo khổ thời nhà Đường.
Khi nhìn thấy ngôi nhà to lớn sừng sững trước mắt và dân nghèo khổ có nơi an cư thì dù cho túp lều của ông bị đổ và bản thân bị chết rét, ông vẫn cam lòng. Đây chính là một hình tượng đẹp đẽ của toàn bài. Từ bút pháp hiện thực ở phần đầu, nhà thơ chuyển sang bút pháp lãng mạn ở phần cuối. Vì vậy, bài thơ này có thể được coi là bài thơ tiêu biểu kết hợp hai phương pháp nghệ thuật phổ biến của thơ Đỗ Phủ. Lòng thương mình và thương người của Đỗ Phủ thể hiện rất rõ ở trong bài thơ này.
Ngôn ngữ bài thơ giản dị, dễ hiểu. Hình tượng thơ đẹp đẽ, gợi cảm. Hình tượng nhân vật dược tác giả miêu tả rất sinh động, gây xúc dộng người đọc. Yếu tố hiện thực và lãng mạn kết hợp rất hài hoà. “Cái Tôi” cá nhân và “cái Ta” rộng lứn được nhà thơ diễn tả khéo léo qua từng câu thơ, ý thơ. Điểm đặc sắc của bài thơ là từ nỗi khổ “gió thu tốc nhà” của mình, Đỗ Phủ đã liên tưởng đến bao nhiêu người, bao nhiêu gia đình cũng có nỗi khổ đó. Bài thơ này là một ước mơ vĩ đại bắt nguồn từ thực tế của nhà thơ.
Nguồn: thêm: Hình tượng người phụ nữ trong Tự tình II và Thương vợ
|
Phân tích bài thơ Bài ca nhà tranh bị gió thu phá của Đỗ Phủ
Hướng dẫn
Sau bao nhiêu năm vất vả, lận đận, cơm không có ăn, áo không có mặc và nhà không có ở, năm 760 (lúc này 48 tuổi), được bạn bè giúp đỡ, Đỗ Phủ dựng tạm được một mái nhà lợp bằng cỏ ở bên một bờ khe phía tây Thành Đô, thuộc tỉnh Tứ Xuyên. Sau thời gian chạy loạn, nay có túp lều che tạm, Đỗ Phủ và cả gia đình rất phấn khởi. Âm cúng dưới mái nhà cỏ chưa được bao lâu, thì mùa thu năm sau, qua một trận gió to, mái nhà của ông bị tốc sạch, không còn có nơi nương tựa. Xót xa trước cảnh tượng này, ông đã làm bài thơ “Mao ốc vị thu phong sở phá ca”
“Tháng tám, thu cao, gió thét già,
Cuộn mất ha lớp tranh nhà ta.
Tranh bay sang sông rải khắp bờ,
Mảnh cao treo tót ngọn rừng xa,
Mảnh thấp quay lộn vào mương sa.”
Mở đầu bài thơ, Đỗ Phủ giới thiệu thời gian là vào tháng tám, đang bước vào mùa thu. Tháng tám, mùa thu, đặc điểm nổi bật nhất của thời tiết lúc này là bầu trời cao và gió thổi rất lớn. Gió thổi làm tốc hết lớp nhà cỏ của ông. Bằng biện pháp kể và tả, nhà thơ đã dựng dậy trước mắt người đọc bức tranh về nhà tốc mái rất cụ thể và sinh động. Bốn câu thơ đầu, tác giả hoàn toàn dùng bút pháp miêu tả. Chỉ thông qua từ ngữ, ông nêu bật những trận cuồng phong, cảnh nhà tốc mái, cảnh mái tranh gió cuốn bay đi khắp nơi. Cái “bay rải khắp ven sông”, “cái “mắc cành cao”, cái “giữa dòng”. Cách tả của nhà thơ rất gọn, cô đọng nhưng gây rất nhiều ấn tượng cho người đọc.
Những câu thơ tả của ông không khác gì những thước phim chân thực về gió thổi nhà tốc mái.
“Trẻ con thôn nam khinh ta già không sức,
Nỡ nhè trước mặt xô cướp giật,
Cắp tranh đi tuốt vào lũy tre
Môi khô miệng cháy gào chẳng được,
Quay về, chống gậy lòng ấm ức!”
Từ việc nhà tốc mái dẫn đến nhiều cảnh đời đau khổ, xót xa. Lợi dụng gió thổi tốc mái, trẻ con nghèo khổ, hàng xóm ngỗ ngược khi thấy Đỗ Phủ già yếu mà chạy đến cướp tranh mang về. Tác giả đành bất lực đứng nhìn lũ trẻ con cướp giật từng cọng tranh. Mặc dù ông cố sức quát tháo “khản tiếng, rát hầu” nhưng cũng không giữ lại được những cọng tranh đã mất vào tay lũ trẻ.
Trước cảnh cướp giật tranh của lũ trẻ, Đỗ Phủ chỉ biết “quay về, vịn gậy thở than hoài”, ông giận mà không ghét lũ trẻ nghèo khổ. Vì ông biết rằng, cũng vì hoàn cảnh cùng cực, túng thiếu mà chúng phải làm thế! Lòng thông cảm những con người nghèo khổ ở Đỗ Phủ được thể hiện dưới những câu thơ mủi lòng, kín dáo.
“Giây lát, gió lặng, mây tối mực,
Trời thu mịt mịt đêm đen đặc.
Mền vải lâu năm lạnh tựa sắt,
Con nằm xấu nết đạp lót nát
Đầu giường nhà dột chẳng chừa đâu
Dày hạt mưa, mưa, mưa chẳng dứt.
Từ trải cơn loạn ít ngủ nghê
Đêm dài ướt át sao cho trót?”
Chốc lát gió yên, mây đen kịt. Trời thu mờ mịt, tối sập rồi. Đó là những câu thơ tác giả tả cảnh trời sắp mưa. Ban ngày thì gió thổi tốc mái. Đêm đến thì mưa đổ nước xuống mái nhà dột. Hết cảnh khổ nhà tốc mái, gia đình ông lại chịu cảnh nhà dột suốt đêm. Cảnh rét, với cái chăn đã rách nát, cảnh nhà dột ướt không sao nhắm mắt được… Tất cả đều được nhà thơ kể bằng những câu thơ ngắn gọn, súc tích, xúc động lòng người. Nghệ thuật dựng cảnh ở đoạn thơ này thật tài tình. Đỗ Phủ vừa kể vừa tả. Tác giả khéo lựa chọn những chi tiết cụ thể và rất gợi hình: mây đen kịt, chăn vải lâu năm lạnh hơn sắt, con thơ nằm hỗn đạp rách toang đều là những chi tiết thực, gây ấn tượng cho người đọc. Cảnh đêm rét, trời mưa, nhà dột, nhà thơ ngồi suốt đêm không ngủ được với bao cơ cực, tủi nhục, ê chề, đau đớn của một thiên tài có thể là gây nhiều xúc động nhất. Ớ dây, hình ảnh của một con người suốt đời nghèo khổ và tật bệnh lại hiện lên, làm xoáy gan, chảy ruột bao nhiêu người. Giá trị của bài thơ chính là từ nỗi đau của riêng một người, nỗi bất hạnh của một gia đình, đại quần chúng nhân dân thời Đường lúc bấy giờ.
Xem thêm: Cảm nghĩ của em về bài thơ Cảnh khuya của Bác HồVấn đề lớn nhất được đặt ra bức thiết và nhức nhối trong bài thơ này là tình trạng nghèo khổ, cơ cực đến mức tủi nhục của nhân dân, trong đó có người trí thức, người nghệ sĩ. Một con người vĩ đại như Đỗ Phủ, xuất thân từ gia đình quan lại, tôn thờ đạo Nho, làm quan suốt mấy dời, thơ phú bậc nhất thiên hạ và được hưởng đặc quyền dặc lợi của xã hội phong kiến thế mà nhà không có ở, hoặc có chăng cũng chỉ là túp lều tranh tạm bợ, chỉ cần một trận gió cũng “bốc sạch không”. Một con người được mệnh danh là “Thi thánh” để cho dời hơn 1400 bài “Thi sử” thế mà đêm mưa dột, không có chỗ nằm, không có chăn mà đắp.
“Ước được nhà rộng muôn ngàn gian,
Che khắp thiên hạ kể sĩ nghèo đều hân hoan,
Gió mưa chẳng núng, vững vàng như thạch bàn!”
Nhà ở và cớm áo là những điều mà Đỗ Phủ hằng mong ước. Sống trong những điều kiện khốn khổ không còn là con người, nhưng nhà thơ vẫn nêu cao tính người, tình người, giữ được bản chất tốt đẹp của con người. Bài thơ chẳng những mang giá trị hiện thực lớn mà còn chứa đựng giá trị nhân đạo cao cả. Đầu bài thơ, Đỗ Phủ nêu hoàn cảnh bi đát của mình do thiên nhiên và xã hội gây nên thì phần cuối bài thơ, ông có quyền đề cập đến yêu cầu và ước muốn của cá nhân. Đó chính là lô-gích của sự việc. Nhưng đằng này, nhà thơ không giải quyết như thế. Cuối bài thơ, tác giả không đề cập đến “cái tôi” cá nhân mà nói đến “cái ta” tất cả.
Từ một mái tranh nhà tốc mái, ướt dột, không đủ che thân, nhà thơ ước mơ đến “ngàn vạn ngôi nhà rộng. Ngôi nhà ấy không phải cho riêng mình Đỗ Phủ mà là để “che khắp thế gian, dân rét mừng”. Ước mơ của nhà thơ thật lớn lao, cao đẹp! Ong ước mơ cho toàn nhân loại, nhất là những người đói rét đều có nhà cao, cửa rộng để họ thoát khỏi cảnh cơ hàn. Toà nhà Đỗ Phủ mơ ước chẳng những nhiều, rộng rãi, vô số “ngàn vạn gian” mà nó phải là những ngôi nhà cao ngất, chắc chắn “vững như núi, gió mưa chẳng chuyển”. Ước mơ của ông thật là thực tế, cụ thể, nhưng cũng đầy tính chất lãng mạn của một nhà thơ.
“Than ôi! Bao giờ nhà ấy sừng sững, dựng trước mắt,
Riêng lều ta nát, chịu chết rét cũng được!”
Hai câu cuối bài thơ là hai câu chân thành, xúc động phát ra từ trái tim yêu thương con người của Đỗ Phủ. Giá trị nhân đạo cao cả của tác giả cũng được thể hiện ở hai câu thơ này. Mơ ước, niềm tin và hy vọng được diễn tả bằng thơ ca: “Than ôi! Bao giờ nhà ấy sừng sững dựng trước mắt?”. Đó là lời cảm thán, tự hỏi của Đỗ Phủ. Có thể ông tự hỏi mình đồng thời tự vấn xã hội. Ông vừa tin mà vừa không tin. Nhưng dù hiện thực hay không hiện thực thì ước mơ của Đỗ Phủ vẫn là chính đáng, cao đẹp, phù hợp với ước mơ của nhân dân nghèo khổ thời nhà Đường.
Khi nhìn thấy ngôi nhà to lớn sừng sững trước mắt và dân nghèo khổ có nơi an cư thì dù cho túp lều của ông bị đổ và bản thân bị chết rét, ông vẫn cam lòng. Đây chính là một hình tượng đẹp đẽ của toàn bài. Từ bút pháp hiện thực ở phần đầu, nhà thơ chuyển sang bút pháp lãng mạn ở phần cuối. Vì vậy, bài thơ này có thể được coi là bài thơ tiêu biểu kết hợp hai phương pháp nghệ thuật phổ biến của thơ Đỗ Phủ. Lòng thương mình và thương người của Đỗ Phủ thể hiện rất rõ ở trong bài thơ này.
Ngôn ngữ bài thơ giản dị, dễ hiểu. Hình tượng thơ đẹp đẽ, gợi cảm. Hình tượng nhân vật dược tác giả miêu tả rất sinh động, gây xúc dộng người đọc. Yếu tố hiện thực và lãng mạn kết hợp rất hài hoà. “Cái Tôi” cá nhân và “cái Ta” rộng lứn được nhà thơ diễn tả khéo léo qua từng câu thơ, ý thơ. Điểm đặc sắc của bài thơ là từ nỗi khổ “gió thu tốc nhà” của mình, Đỗ Phủ đã liên tưởng đến bao nhiêu người, bao nhiêu gia đình cũng có nỗi khổ đó. Bài thơ này là một ước mơ vĩ đại bắt nguồn từ thực tế của nhà thơ.
Nguồn: thêm: Hình tượng người phụ nữ trong Tự tình II và Thương vợ
|
Bài thơ Bánh trôi nước của Hồ Xuân Hương là một bài thơ độc đáo về nội dung. Tác giả Hồ Xuân Hương đã khéo léo mượn hình ảnh của bánh trôi để nói về thân phận nổi lênh của người phụ nữ trong xã hội cũ. Nó khiến cho chúng ta hiểu hơn và thêm thương cảm cho họ.
Bài viết này sẽ hướng dẫn các em lập dàn ý phân tích bài thơ Bánh trôi nước đồng thời gợi ý bài văn mẫu để các em có thể đọc và tham khảo để chọn lọc ra những ý hay cho bài viết của mình.
I. Lập dàn ý phân tích bài thơ Bánh trôi nước
1. Mở bài
– Giới thiệu về tác giả Hồ Xuân Hương và bài thơ Bánh trôi nước.
– Hồ Xuân Hương là bà chúa thơ Nôm với nhiều tác phẩm độc đáo.
– Bánh trôi nước là một trong những bài thơ đặc sắc được nhiều người yêu thích.
2. Thân bài phân tích bài thơ Bánh trôi nước
a. Câu thơ thứ nhất
– Nhân hóa cái bánh
+ Dùng từ thân em để chỉ người phụ nữ một cách kín đáo.
+ Trắng và tròn thể hiện vẻ đẹp trinh trắng, duyên dáng của người thiếu nữ.
b. Câu thơ thứ hai và ba
– Hàm nghĩa về thân phận người phụ nữ trong cuộc đời:
+ Vận dụng thành ngữ một cách linh hoạt để ám chỉ thân phận nổi lênh của người phụ nữ trong xã hội cũ.
+ Hạnh phúc hay khổ đau, rắn hay nát đều phụ thuộc vào tay kẻ nặn.
+ Sự cảm thông của tác giả đối với thân phận người phụ nữ.
c. Câu cuối
Xem thêm: Nêu xuất xứ, thể thơ và chủ đề bài thơ Nam quốc sơn hà
– Hình ảnh ẩn dụ nói về sự thủy chung, son sắt của người phụ nữ.
3. Kết luận
– Khái quát nội dung bài thơ Bánh trôi nước và nêu lên cảm nghĩ của em về bài thơ này.
II. Bài làm phân tích bài thơ Bánh trôi nước
Nhà thơ Hồ Xuân Hương là một trong những tác giả nổi tiếng của văn học Việt Nam. Các sáng tác của bà vô cùng độc đáo về nội dung. Thường thì Hồ Xuân Hương mượn sự vật, hiện tượng khách quan để nói về thân phận của người phụ nữ sống trong xã hội cũ. Bài thơ Bánh trôi nước cũng là một trong những bài thơ như vậy. Nhìn vào mặt nghĩa đen nổi lên trên mặt chữ thì dường như nhà thơ đang tả những chiếc bánh trôi nước nhưng nếu chúng ta đi sâu vào tìm hiểu và phân tích từng câu từng chữ thì sẽ thấy được nhà thơ đang miêu tả thân phận người phụ nữ.
Bánh trôi là loại bánh được làm từ bột nếp, sau quá trình nhào nặn rồi đun nấu, bánh chín nổi lên trên mặt nước và có hình tròn màu trắng đẹp mắt. Bánh trôi vốn chỉ có vậy nhưng Hồ Xuân Hương đã thật khéo léo khi liên tưởng nó với hình ảnh của người phụ nữ. Nhìn vào bánh trôi, Hồ Xuân Hương đã nổi hứng thi sĩ và bà đã viết:
Thân em vừa trắng lại vừa tròn.
Phân tích bài thơ Bánh trôi nước
Chỉ với hai chữ thân em thôi cũng đủ để cho người đọc thấy được hình ảnh người con gái ẩn hiện trong bài thơ này. Thân em ở đây chính là người con gái và phải chăng người con gái ấy đã hóa thân vào trong chiếc bánh trôi trắng và tròn kia. Nó là vẻ ngoài của bánh trôi nhưng đồng thời cũng là vẻ đẹp của người thiếu nữ. Đó là sắc trắng của làn da và cũng là sắc trắng của sự trinh tiết, thủy chung. Tròn là tròn trịa, thể hiện một vẻ đẹp hoàn mĩ không tì vết. Họ giống như những đóa hoa xinh tươi, lộng lẫy. Thế nhưng, vẻ đẹp ấy không đồng nhất với cuộc sống hạnh phúc. Số phận của người phụ nữ trong xã hội phong kiến không khác nào chiếc bánh trôi:Xem thêm: Ca dao dân ca là tiếng nói cảm động về tình cảm gia đình, tình yêu quê hương đất nước. Em có đồng ý như vậy không? Hãy phân tích một số dẫn chứng để làm rõ
Bảy nổi ba chìm với nước non
Câu thơ này có sử dụng thành ngữ bảy nổi ba chìm ý chỉ sự trôi nổi và lênh đênh. Chiếc bánh trôi khi chín sẽ có 3 phần chìm và bảy phần nổi. Lúc này, bánh trôi cần được vớt ra và để vào trong bát nước lạnh. Nhưng Hồ Xuân Hương không chỉ đơn thuần nói về bánh trôi mà bà muốn nói đến thân phận nổi lênh của người phụ nữ. Họ là những con người có ngoại hình xinh đẹp nhưng phải chịu một cuộc sống long đong, lận đận. Không chỉ vậy, hạnh phúc của họ còn bị đặt vào trong tay của kẻ khác. Họ không có quyền tự quyết, không có quyền tự định đoạt. Cũng giống như chiếc bánh kia, rắn hay nát là phụ thuộc vào tay kẻ nặn:
Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn
Đó là một sự may rủi của cuộc đời. Chúng ta vẫn biết xã hội cũ là một xã hội trọng nam khinh nữ, nơi mà những người đàn ông thì có tiếng nói còn người phụ nữ là những người yếu thế thấp cổ bé họng. Không chỉ không có quyền lên tiếng mà họ còn không có quyền định đoạt cuộc đời của mình. Đó mới là điều đáng nói. Cuộc sống của họ hạnh phúc hay khổ đau sẽ phụ thuộc vào người đàn ông bên cạnh. Trong ca dao, có rất nhiều câu ca cũng đã nói lên sự phụ thuộc này của người phụ nữ. Thế nhưng mặc dù không thể tự quyết, người phụ nữ vẫn sống và giữ trọn vẹn sự thủy chung, son sắt của mình:Xem thêm: Phát biểu cảm nghĩ về nhân vật Mai An Tiêm trong tác phẩm “Sự tích dưa hấu”
Mà em vẫn giữ tấm lòng son.
Đây chính là vẻ đẹp hoàn hảo của người phụ nữ. Họ không chỉ đẹp ở vẻ ngoài mà còn đẹp trong tâm hồn, trong nhân cách. Tấm lòng son ở đây đã nói lên được phẩm chất của người phụ nữ, thủy chung, chịu thương, chịu khó. Họ đã hi sinh chính mình để vun đắp cho chồng, cho con, cho gia đình được ấm êm, hạnh phúc.
Bài thơ Bánh trôi nước đã nói lên được tiếng nói của người phụ nữ thời xưa, là sự đồng cảm sâu sắc của Hồ Xuân Hương với những số phận cùng cảnh ngộ. Bánh trôi nước là một trong những bài thơ hay nhất của bà giúp người đọc hiểu thêm một phần cuộc sống của xã hội cũ.
Trên đây là phần lập dàn ý phân tích bài thơ Bánh trôi nước cùng với bài văn phân tích bài thơ Bánh trôi nước. Hy vọng bài viết này sẽ giúp ích được nhiều cho các em.
Thu Thủy
|
The poem Water Floating Cake by Ho Xuan Huong is a unique poem in terms of content. Author Ho Xuan Huong cleverly borrowed the image of banh troi to talk about the emerging status of women in the old society. It makes us understand and sympathize more with them.
This article will guide you to create an outline to analyze the poem Banh Troi Nuoc and also suggest sample essays so you can read and refer to them to select good ideas for your writing.
I. Create an outline to analyze the poem Water Floating Cake
1. Open the lesson
– Introducing the author Ho Xuan Huong and the poem Floating Water Cake.
– Ho Xuan Huong is the queen of Nom poetry with many unique works.
– Banh troi nuoc is one of the unique poems loved by many people.
2. Body analysis of the poem Floating Water Cake
a. First verse
– Humanize the cake
+ Use the word "em" to refer to a woman discreetly.
+ White and round represents the virginal and graceful beauty of a young woman.
b. Verses two and three
– Meaning of women's status in life:
+ Use idioms flexibly to refer to the prominent status of women in old society.
+ Happiness or suffering, whether solid or broken all depend on the hands of the one who shapes it.
+ The author's sympathy for the condition of women.
c. Last sentence
See more: State the origin, poetic form and theme of the poem Nam Quoc Son Ha
– Metaphorical image talks about a woman's loyalty and integrity.
3. Conclusion
– Overview of the content of the poem Water Floating Cake and state your feelings about this poem.
II. Essay analyzing the poem Floating Water Cake
Poet Ho Xuan Huong is one of the famous authors of Vietnamese literature. Her compositions are extremely unique in content. Often, Ho Xuan Huong borrows objective objects and phenomena to talk about the fate of women living in the old society. The poem Banh troi nuoc is also one such poem. Looking at the literal meaning emerging on the surface of the words, it seems that the poet is describing cakes floating in the water, but if we go deeper and analyze each sentence and each word, we will see that the poet is describing the human condition. women.
Banh troi is a type of cake made from glutinous rice flour. After kneading and cooking, the cooked cake floats on the water and has a beautiful white round shape. Banh troi is originally just that, but Ho Xuan Huong was clever in associating it with the image of a woman. Looking at the floating cake, Ho Xuan Huong got inspired as a poet and she wrote:
Her body is both white and round.
Analyze the poem Floating Water Cake
Just the two words "you" are enough to let readers see the image of a girl hidden in this poem. My body here is the girl and perhaps that girl has transformed into that white and round cake. It is the appearance of banh troi but at the same time is the beauty of a young woman. It is the white color of the skin and also the white color of virginity and fidelity. Round is plump, representing flawless, perfect beauty. They are like beautiful, gorgeous flowers. However, that beauty is not synonymous with a happy life. The fate of a woman in a feudal society is no different from a floating cake: See more: Folk songs are a touching voice about family affection and love for the homeland. Do you agree with that? Let's analyze some evidence to clarify
Seven floating sunken with water
This verse uses the idiom seven floats, three sinks, which means floating and drifting. When the cake is cooked, it will have 3 submerged parts and seven floating parts. At this time, the floating cake needs to be taken out and placed in a bowl of cold water. But Ho Xuan Huong did not simply talk about floating cakes, she wanted to talk about the emerging status of women. They are people with beautiful appearances but have to endure a long and difficult life. Not only that, their happiness is also placed in the hands of others. They have no right to self-determination, no right to self-determination. Just like that cake, whether it is solid or crushed depends on the hands of the person who molds it:
The snake is crushed even if it is molded by your own hands
It is a chance of life. We still know that the old society was a society that respected men and despised women, where men had a voice and women were weak and powerless. Not only do they not have the right to speak up, but they also have no right to decide their own lives. That's what's worth mentioning. Their lives will be happy or miserable depending on the man next to them. In folk songs, there are many verses that also express this dependence of women. But even though she cannot make her own decisions, the woman still lives and maintains her loyalty and integrity: See more: Expressing feelings about the character Mai An Tiem in the work "The Legend of Watermelon"
But I still keep my heart.
This is the perfect beauty of a woman. They are not only beautiful in appearance but also beautiful in their soul and personality. The red heart here shows the qualities of a woman: faithful, loving, and hard-working. They sacrificed themselves to keep their husbands, children, and families warm and happy.
The poem "Banh troi nuoc" speaks to the voice of ancient women, and is Ho Xuan Huong's deep sympathy with the same fate and plight. Banh troi nuoc is one of her best poems that helps readers understand more about the life of the old society.
Above is the outline for analyzing the poem Banh troi nuoc along with the essay analyzing the poem Banh troi nuoc. Hope this article will be of great help to you.
Thu Thuy
|
Phân tích bài thơ Bạn đến chơi nhà của Nguyễn Khuyến
Hướng dẫn
Đã bấy lâu nay bác tới nhà,
Trẻ thời đi vắng, chợ thời xa.
Ao sâu nước cả khôn chài cá,
Vườn rộng rào thưa khó đuổi gà.
Cải chửa ra cây, cà mới nụ,
Bầu vừa rụng rốn, mướp đương hoà.
Đầu trò tiếp khách, trầu không có,
Bác đến chơi đây ta với ta.
Nguyễn Khuyến (1835 – 1909) là nhà thơ Nôm kiệt xuất của dân tộc. Ong để lại nhiều bài thơ nói về tình bạn: bạn cùng quê, bạn đồng học, bạn đồng khoa…
‘Ai lên thăm hỏi bác Châu Cẩu
Lụt lội năm nay bác ỏ đâu…’
(Lụt hỏi thăm bạn)
‘Bác Dương thôi đã thôi rồi
Nước mây man mác ngậm ngùi lòng ta…’
(Khóc Dương Khuê)
Châu Cầu, Dương Khuê là hai bạn đồng khoa của Nguyễn Khuyên. Bài ‘Bạn đến chơi nhà’ là một trong những bài thơ Nôm đặc sắc của ông, nói lên một tình bạn đẹp.
Câu nhập để rất tự nhiên, như một lời nói mộc mạc của nhà thơ sau bao tháng ngày mới gặp lại bạn. Lời chào vồn vã, biểu lộ niềm vui mừng khôn xiết: ‘Đã bấy lâu nay bác tới nhà’
Chữ ‘bác’ gợi lên thái độ niềm nở, thân mật và kính trọng của nhà thơ đối với bạn tri âm, một cách xưng hô thân tình. Đằng sau câu thơ – lời chào hỏi – có thể là những giọt lệ ứa ra ở khoẻ mắt đôi bạn già.
‘Đã bấy lâu nay’là bao năm tháng? Tính thời gian không được xác định cụ thể, nhưng chắc chắn là đã khá lâu, vì sức yếu tuổi già… nên xiết bao đợi chờ, mong nhớ. Bộ phận trạng ngữ chỉ thời gian được đặt lên đầu câu thơ diễn tả sự xa cách nhớ mong, làm nổi bật ý thơ: niềm xúc động và niềm vui sướng vô hạn khi gặp lại bạn. Trong bài thơ ‘Khóc Dương Khuê’, có một chi tiết giúp ta cảm nhận được một phần nào cái hay, cái tình ẩn chứa trong câu nhập đề:
‘Muốn đi lại tuổi già thêm nhác,
Trước ba năm gặp bác một lần,
Cầm tay hỏi hết xa gần
Mừng rằng bác vẫn tinh thần chưa can’
Chữ ‘bác’ được nói đến trong bài thơ ‘Bạn đến chơi nhà’ là bạn chí thân, ở xa, lâu ngày mới gặp nên Nguyễn Khuyến rất mừng và cảm động.Xem thêm: Cảm nhận về bức thư của người bố gửi con trai mìnhSáu câu thơ tiếp theo toát lên một nụ cười hóm hỉnh. Một ý thơ bao trùm: Đã lâu ngày bạn mới đến chơi, biết lấy gì đãi bạn đây? Một tình thế khá éo le: ‘Trẻ thời đi vắng, chợ thời xa’. Chữ ‘thời’ (thì) là một hư từ, rất ít khi xuất hiện trong thơ vì dễ rơi vào sự tầm thường nhạt nhẽo. Nhưng dưới ngòi bút của Tam Nguyên Yên Đổ, nó trở nên thanh thoát tự nhiên vô cùng, chứng tỏ ông có một bản lĩnh nghệ thuật điêu luyện.
Nguyễn Khuyến sau khi cáo quan, lui về sống bình dị ở chốn vườn Bùi quê cũ, với ‘năm gian nhà cỏ thấp te le’, với một cơ ngơi:
‘Chín sào tư thổ là nơi ở,
Một bó tàn thư ấy nghiệp nhà’
(Ngày xuân dạy các con -1)
Phần thực và luận, tính hệ thống của ngôn ngữ thơ rất chặt chẽ, nhất quán ở một cách nói, một lối biểu cảm: Có tất cả mà cũng chẳng có gì để đãi bạn thân! Có ao và cá, có vườn và gà, có cà và cải, có mướp và bầu, nhưng… Bức tranh vườn Bùi thân thuộc hiện lên sống động, vui tươi. Một nếp sống thôn dã chất phác, cần cù, bình dị đáng yêu. Một cuộc đời thanh bạch, ấm áp cây đời và tình người rất đáng tự hào. Chúng ta như cảm thấy Nguyễn Khuyến đang dắt tay bạn ra thăm vườn cây ao cá, tận hưởng thú vui dân dã của một ông quan về quê à ẩn. Phép đối hợp cách, chặt chẽ: cảnh với cảnh, thượng hạ, trắc – bằng phân minh, tạo nên một giọng thơ nhẹ nhàng, vui tươi, lời thơ cân xứng, hòa hợp như cảnh vườn tược xinh xắn, hữu tình:
‘‘Ao sâu nước cả, khôn chài cá,
Vườn rộng rào thưa, khó đuổi gà’
Các tính từ (sâu, cả, rộng, thưa), các trạng từ chỉ tình trạng (khôn, khó), các trạng từ chỉ sự tiếp diễn của hành động (chửa, mới, vừa, đường) hô hứng, bổ trợ cho nhau, được sử dụng thần tình, khéo léo, dung dị và tự nhiên. Những từ ngữ ấy được đặt bên cạnh những chi tiết miêu tả chấm phá đã làm hiện lên khung cảnh vườn tược, cây cối đang đơm hoa kết trái, ẩn chứa một sức sống tiềm tàng, gần gũi và mến yêu:Xem thêm: Chứng minh câu tục ngữ "Có chí thì nên"
‘Cải chửa ra cây, cà mới nụ,
Bầu vừa rụng rốn, mướp đương hoà’
Dân gian có câu: ‘Khách đến chơi nhà không gà cũng vịt’. Qua các câu thơ trên, ta thấy Nguyễn Khuyến đang giãi bày với bạn: trong nhà ngoài vườn có bao nhiêu thứ, nhưng thực ra chẳng có gì để thết bạn, đãi bạn vì tất cả mọi thứ, mọi thức chưa đến lúc, đến thời’! Câu thơ thứ bảy tiếp nối và mở rộng ý thơ trên, khẳng
định luôn cái ‘không có’:
‘Đẩu trò tiếp khách trầu không có’
Phải chăng cái nghèo của cụ Tam Nguyên Yên Đổ đã đến’mức ấy ư? ‘vẻ chi một mớ trầu cay’ (ca dao). Nhà thơ đã thậm xưng hóa cái nghèo, thi vị hóa cái nghèo. Một ông quan to triều Nguyễn về quê ở ẩn, với một cơ ngơi ‘chín sào tư thổ là nơi ở’ thì không thể ‘miếng trầu là đầu câu chuyện’ để tiếp bạn cũng ‘không có’. Đây là một lời thơ hóm hỉnh, pha chút tự trào vui vui, để bày tỏ một cuốc sống thanh bạch, một tâm hồn thanh cao của một nhà nho khước từ lương bổng của thực dân Pháp, lui về sống bình dị giữa xóm làng quê hương.
Câu kết là một sự ‘bùng nổ’ về ý và tình. Tiếp bạn chẳng cần có mâm cao, cỗ đầy, cao lương mĩ vị, cơm gà cá gỡ, mà chỉ có một tấm lòng, một tình bạn chân thành, thắm thiết:
‘Bác đến chơi đây, ta với ta’
Lần thứ hai, chữ ‘bác’ đã xuất hiện trong bài thơ, thể hiện một sự trìu mến, kính trọng. Bác đã không quản tuổi già sức yếu, không quản đường sá xa xôi đến thăm tôi, còn gì quý hóa bằng! Tinh bạn là trên hết. Không một thứ vật chất nào có thể thay thế được tình bạn tri âm tri kỉ. Mọi cái đều ‘không có’ nhưng lại ‘có’: tình bằng hữu thân thiết. Chữ ‘ta’ là đại từ nhân xưng, trong bài thơ này là ‘tôi’, là ‘bác’, là ‘hai chúng ta’, không có gì cách bức nữa. Cụm từ ‘ta với ta’ biểu lộ một niềm vui trọn vẹn, tràn đầy và lắng đọng trong tâm hồn, tỏa rộng trong không gian và thời gian. Với cụm từ ‘ta với ta’ trong câu thơ ‘Một mảnh tình riêng ta với ta’ của Bà Huyện Thanh Quan là nỗi buồn cô đơn của khách li hương khi đứng trên đỉnh Đèo Ngang lúc hoàng hôn, còn ở đây, trong câu thơ của Nguyễn Khuyến lại ấm áp tình đời và sâu nặng tình bạn. Qua đó, ta cảm nhận được phân nào tính cá thể hóa của ngôn ngữ và sắc điệu trữ tình tạo nên giá trị văn chương trong những bài thơ cổ.Xem thêm: Cảm nhận của em về bài thơ “Cảnh khuya” của Hồ Chí MinhCó đọc qua một số bài thơ của Nguyễn Khuyến viết vẻ tình bạn, ta mới thấy hết cái hay, cái ý vị của bài thơ ‘Bạn đến chơi nhà’:
‘Từ trước bàng vàng nhà sẵn có,
Chẳng qua trong bác với ngoài tôi’
(‘Gửi bác Châu cầu’)
‘Đến thăm bác, bác đang đau ốm,
Vừa thấy tôi bác nhổm dậy ngay.
Bác bệnh tật, tôi yếu gầy,
Giao du rồi biết sau này ra sao?’
(‘Gửí thăm quan Thượng thư họ Dương’)
Bài thơ ‘Bạn đến chơi nhà’ viết theo thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật, niêm, bằng trắc và đối chặt chẽ, hợp cách. Ngôn ngữ thuần nôm, không có một từ Hán – Việt nào, đọc lên nghe thanh thoát, nhẹ nhàng, tự nhiên. Ta có cảm giác như Nguyền Khuyến xuất khẩu thành chương. Đặc biệt bố cục bài thơ không theo quy cách: đề, thực, luận, kết – mà lại cấu trúc theo: (1+6+1) câu đầu nói lên niềm vui khi bạn đến; 6 câu giữa hóm hỉnh, cười vui không có gì để tiếp bạn; câu cuối chỉ có tình bạn đẹp mà thôi!
Bài thơ nôm khó quên này cho thấy một hồn thơ đẹp, một tình bằng hữu thâm giao, chân tình, một tấm lòng hồn hậu, đẹp đẽ. Tình bạn của Nguyễn Khuyến trong sáng, thanh bạch, đối lập với nhân tình thế thái ‘Còn bạc, còn tiền, còn đệ tử – Hết cơm hết rượu hết ông tôi’ mà Nguyễn Bỉnh Khiêm đã kịch liệt lên án. Hai nhà thơ sống cách nhau mấy trăm năm mà có chung một tâm hồn lớn: nhân hậu, thủy chung, thanh bạch. Tâm hồn đó, tấm lòng đó của tiền nhân đối với thế thái nhân tình ngày nay vẫn xứng đáng là tấm gương sáng để mọi người soi chung. Nguyễn Khuyến không những là nhà thơ của làng cảnh Việt Nam mà còn là nhà thơ của tình bạn trong sáng, thủy chung và cao đẹp rất đáng yêu, đáng kính.
Nguồn:
|
Phân tích bài thơ Bạn đến chơi nhà của Nguyễn Khuyến
Hướng dẫn
Đã bấy lâu nay bác tới nhà,
Trẻ thời đi vắng, chợ thời xa.
Ao sâu nước cả khôn chài cá,
Vườn rộng rào thưa khó đuổi gà.
Cải chửa ra cây, cà mới nụ,
Bầu vừa rụng rốn, mướp đương hoà.
Đầu trò tiếp khách, trầu không có,
Bác đến chơi đây ta với ta.
Nguyễn Khuyến (1835 – 1909) là nhà thơ Nôm kiệt xuất của dân tộc. Ong để lại nhiều bài thơ nói về tình bạn: bạn cùng quê, bạn đồng học, bạn đồng khoa…
‘Ai lên thăm hỏi bác Châu Cẩu
Lụt lội năm nay bác ỏ đâu…’
(Lụt hỏi thăm bạn)
‘Bác Dương thôi đã thôi rồi
Nước mây man mác ngậm ngùi lòng ta…’
(Khóc Dương Khuê)
Châu Cầu, Dương Khuê là hai bạn đồng khoa của Nguyễn Khuyên. Bài ‘Bạn đến chơi nhà’ là một trong những bài thơ Nôm đặc sắc của ông, nói lên một tình bạn đẹp.
Câu nhập để rất tự nhiên, như một lời nói mộc mạc của nhà thơ sau bao tháng ngày mới gặp lại bạn. Lời chào vồn vã, biểu lộ niềm vui mừng khôn xiết: ‘Đã bấy lâu nay bác tới nhà’
Chữ ‘bác’ gợi lên thái độ niềm nở, thân mật và kính trọng của nhà thơ đối với bạn tri âm, một cách xưng hô thân tình. Đằng sau câu thơ – lời chào hỏi – có thể là những giọt lệ ứa ra ở khoẻ mắt đôi bạn già.
‘Đã bấy lâu nay’là bao năm tháng? Tính thời gian không được xác định cụ thể, nhưng chắc chắn là đã khá lâu, vì sức yếu tuổi già… nên xiết bao đợi chờ, mong nhớ. Bộ phận trạng ngữ chỉ thời gian được đặt lên đầu câu thơ diễn tả sự xa cách nhớ mong, làm nổi bật ý thơ: niềm xúc động và niềm vui sướng vô hạn khi gặp lại bạn. Trong bài thơ ‘Khóc Dương Khuê’, có một chi tiết giúp ta cảm nhận được một phần nào cái hay, cái tình ẩn chứa trong câu nhập đề:
‘Muốn đi lại tuổi già thêm nhác,
Trước ba năm gặp bác một lần,
Cầm tay hỏi hết xa gần
Mừng rằng bác vẫn tinh thần chưa can’
Chữ ‘bác’ được nói đến trong bài thơ ‘Bạn đến chơi nhà’ là bạn chí thân, ở xa, lâu ngày mới gặp nên Nguyễn Khuyến rất mừng và cảm động.Xem thêm: Cảm nhận về bức thư của người bố gửi con trai mìnhSáu câu thơ tiếp theo toát lên một nụ cười hóm hỉnh. Một ý thơ bao trùm: Đã lâu ngày bạn mới đến chơi, biết lấy gì đãi bạn đây? Một tình thế khá éo le: ‘Trẻ thời đi vắng, chợ thời xa’. Chữ ‘thời’ (thì) là một hư từ, rất ít khi xuất hiện trong thơ vì dễ rơi vào sự tầm thường nhạt nhẽo. Nhưng dưới ngòi bút của Tam Nguyên Yên Đổ, nó trở nên thanh thoát tự nhiên vô cùng, chứng tỏ ông có một bản lĩnh nghệ thuật điêu luyện.
Nguyễn Khuyến sau khi cáo quan, lui về sống bình dị ở chốn vườn Bùi quê cũ, với ‘năm gian nhà cỏ thấp te le’, với một cơ ngơi:
‘Chín sào tư thổ là nơi ở,
Một bó tàn thư ấy nghiệp nhà’
(Ngày xuân dạy các con -1)
Phần thực và luận, tính hệ thống của ngôn ngữ thơ rất chặt chẽ, nhất quán ở một cách nói, một lối biểu cảm: Có tất cả mà cũng chẳng có gì để đãi bạn thân! Có ao và cá, có vườn và gà, có cà và cải, có mướp và bầu, nhưng… Bức tranh vườn Bùi thân thuộc hiện lên sống động, vui tươi. Một nếp sống thôn dã chất phác, cần cù, bình dị đáng yêu. Một cuộc đời thanh bạch, ấm áp cây đời và tình người rất đáng tự hào. Chúng ta như cảm thấy Nguyễn Khuyến đang dắt tay bạn ra thăm vườn cây ao cá, tận hưởng thú vui dân dã của một ông quan về quê à ẩn. Phép đối hợp cách, chặt chẽ: cảnh với cảnh, thượng hạ, trắc – bằng phân minh, tạo nên một giọng thơ nhẹ nhàng, vui tươi, lời thơ cân xứng, hòa hợp như cảnh vườn tược xinh xắn, hữu tình:
‘‘Ao sâu nước cả, khôn chài cá,
Vườn rộng rào thưa, khó đuổi gà’
Các tính từ (sâu, cả, rộng, thưa), các trạng từ chỉ tình trạng (khôn, khó), các trạng từ chỉ sự tiếp diễn của hành động (chửa, mới, vừa, đường) hô hứng, bổ trợ cho nhau, được sử dụng thần tình, khéo léo, dung dị và tự nhiên. Những từ ngữ ấy được đặt bên cạnh những chi tiết miêu tả chấm phá đã làm hiện lên khung cảnh vườn tược, cây cối đang đơm hoa kết trái, ẩn chứa một sức sống tiềm tàng, gần gũi và mến yêu:Xem thêm: Chứng minh câu tục ngữ "Có chí thì nên"
‘Cải chửa ra cây, cà mới nụ,
Bầu vừa rụng rốn, mướp đương hoà’
Dân gian có câu: ‘Khách đến chơi nhà không gà cũng vịt’. Qua các câu thơ trên, ta thấy Nguyễn Khuyến đang giãi bày với bạn: trong nhà ngoài vườn có bao nhiêu thứ, nhưng thực ra chẳng có gì để thết bạn, đãi bạn vì tất cả mọi thứ, mọi thức chưa đến lúc, đến thời’! Câu thơ thứ bảy tiếp nối và mở rộng ý thơ trên, khẳng
định luôn cái ‘không có’:
‘Đẩu trò tiếp khách trầu không có’
Phải chăng cái nghèo của cụ Tam Nguyên Yên Đổ đã đến’mức ấy ư? ‘vẻ chi một mớ trầu cay’ (ca dao). Nhà thơ đã thậm xưng hóa cái nghèo, thi vị hóa cái nghèo. Một ông quan to triều Nguyễn về quê ở ẩn, với một cơ ngơi ‘chín sào tư thổ là nơi ở’ thì không thể ‘miếng trầu là đầu câu chuyện’ để tiếp bạn cũng ‘không có’. Đây là một lời thơ hóm hỉnh, pha chút tự trào vui vui, để bày tỏ một cuốc sống thanh bạch, một tâm hồn thanh cao của một nhà nho khước từ lương bổng của thực dân Pháp, lui về sống bình dị giữa xóm làng quê hương.
Câu kết là một sự ‘bùng nổ’ về ý và tình. Tiếp bạn chẳng cần có mâm cao, cỗ đầy, cao lương mĩ vị, cơm gà cá gỡ, mà chỉ có một tấm lòng, một tình bạn chân thành, thắm thiết:
‘Bác đến chơi đây, ta với ta’
Lần thứ hai, chữ ‘bác’ đã xuất hiện trong bài thơ, thể hiện một sự trìu mến, kính trọng. Bác đã không quản tuổi già sức yếu, không quản đường sá xa xôi đến thăm tôi, còn gì quý hóa bằng! Tinh bạn là trên hết. Không một thứ vật chất nào có thể thay thế được tình bạn tri âm tri kỉ. Mọi cái đều ‘không có’ nhưng lại ‘có’: tình bằng hữu thân thiết. Chữ ‘ta’ là đại từ nhân xưng, trong bài thơ này là ‘tôi’, là ‘bác’, là ‘hai chúng ta’, không có gì cách bức nữa. Cụm từ ‘ta với ta’ biểu lộ một niềm vui trọn vẹn, tràn đầy và lắng đọng trong tâm hồn, tỏa rộng trong không gian và thời gian. Với cụm từ ‘ta với ta’ trong câu thơ ‘Một mảnh tình riêng ta với ta’ của Bà Huyện Thanh Quan là nỗi buồn cô đơn của khách li hương khi đứng trên đỉnh Đèo Ngang lúc hoàng hôn, còn ở đây, trong câu thơ của Nguyễn Khuyến lại ấm áp tình đời và sâu nặng tình bạn. Qua đó, ta cảm nhận được phân nào tính cá thể hóa của ngôn ngữ và sắc điệu trữ tình tạo nên giá trị văn chương trong những bài thơ cổ.Xem thêm: Cảm nhận của em về bài thơ “Cảnh khuya” của Hồ Chí MinhCó đọc qua một số bài thơ của Nguyễn Khuyến viết vẻ tình bạn, ta mới thấy hết cái hay, cái ý vị của bài thơ ‘Bạn đến chơi nhà’:
‘Từ trước bàng vàng nhà sẵn có,
Chẳng qua trong bác với ngoài tôi’
(‘Gửi bác Châu cầu’)
‘Đến thăm bác, bác đang đau ốm,
Vừa thấy tôi bác nhổm dậy ngay.
Bác bệnh tật, tôi yếu gầy,
Giao du rồi biết sau này ra sao?’
(‘Gửí thăm quan Thượng thư họ Dương’)
Bài thơ ‘Bạn đến chơi nhà’ viết theo thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật, niêm, bằng trắc và đối chặt chẽ, hợp cách. Ngôn ngữ thuần nôm, không có một từ Hán – Việt nào, đọc lên nghe thanh thoát, nhẹ nhàng, tự nhiên. Ta có cảm giác như Nguyền Khuyến xuất khẩu thành chương. Đặc biệt bố cục bài thơ không theo quy cách: đề, thực, luận, kết – mà lại cấu trúc theo: (1+6+1) câu đầu nói lên niềm vui khi bạn đến; 6 câu giữa hóm hỉnh, cười vui không có gì để tiếp bạn; câu cuối chỉ có tình bạn đẹp mà thôi!
Bài thơ nôm khó quên này cho thấy một hồn thơ đẹp, một tình bằng hữu thâm giao, chân tình, một tấm lòng hồn hậu, đẹp đẽ. Tình bạn của Nguyễn Khuyến trong sáng, thanh bạch, đối lập với nhân tình thế thái ‘Còn bạc, còn tiền, còn đệ tử – Hết cơm hết rượu hết ông tôi’ mà Nguyễn Bỉnh Khiêm đã kịch liệt lên án. Hai nhà thơ sống cách nhau mấy trăm năm mà có chung một tâm hồn lớn: nhân hậu, thủy chung, thanh bạch. Tâm hồn đó, tấm lòng đó của tiền nhân đối với thế thái nhân tình ngày nay vẫn xứng đáng là tấm gương sáng để mọi người soi chung. Nguyễn Khuyến không những là nhà thơ của làng cảnh Việt Nam mà còn là nhà thơ của tình bạn trong sáng, thủy chung và cao đẹp rất đáng yêu, đáng kính.
Nguồn:
|
Đề bài: Phân tích bài thơ Bếp Lửa của Bằng Việt
Bài làm
Bằng Việt là một nhà thơ trưởng thành trong thời kỳ kháng chiến chống Mĩ. Ông sáng tác hơn một trăm bài thơ và viết hơn một trăm bài dịch. Nổi bật trong sự nghiệp sáng tác chính là những bài viết về tình cảm gia đình, một trong số đó phải kể đến bài thơ Bếp Lửa.
Bài thơ Bếp Lửa của Bằng Việt nói về tình cảm bà cháu, được nhà thơ viết khi ông đang là một du học sinh tại Liên Xô. Bài thơ giống như sự hồi tưởng những kỉ niệm về những tháng ngày tuy đói khổ nhưng lại ấm áp, tràn đầy tình yêu thương của bà. Những kỉ niệm dường như sống lại vào một ngày đông giá rét, những tình cảm nhớ thương dường như trỗi dậy nhớ về cuộc sống khó khăn, gian khổ:
“Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa”
Hình ảnh đầu tiên nhà thơ không nhắc về bà luôn mà nhắc về “một bếp lửa”. Nhưng thông qua hình ảnh ấy ta cảm nhận được cảm giác ấm áp, chan hòa, dường như thấy được hình ảnh người bà thức dậy vào mỗi sớm mai để nhóm bếp. Ngọn lửa như “chờn vờn” để sưởi ấm cả căn nhà nhỏ bé vào sáng sớm mùa đông. Chính vì hình bóng của bà gắn với bếp lửa nên khi người cháu hồi tưởng về quá khứ thì hình ảnh bếp lửa như chập chờn trong tâm trí. Bếp lửa không chỉ sưởi ấm ngày đông mà còn giống như sưởi ấm trái tim cháu, để cho cháu không còn cảm thấy cô đơn, lãnh lẽo và trống vắng khi căn nhà chỉ có hai bà cháu. Bên cạnh đó người cháu còn trực tiếp bày tỏ tình cảm của mình đối với bà “cháu thương bà biết mấy nắng mưa”. Chính là vì biết bà nhọc nhằn, tần tảo nắng mưa, sớm tối để chăm lo cho cháu nên dù cho khi bên bà hay ngay lúc này đang ở nơi phương xa thì những tình cảm cháu dành cho bà vẫn vẹn nguyên. Từ tình cảm đó dòng hồi tưởng đó tiếp tục được gợi mở theo ánh lửa:Xem thêm: Bài thơ Tống biệt hành của Thâm Tâm kết thúc bằng bốn câu: “Người đi? ừ nhỉ... người đi thực…”."Chiếc lá bay", "hạt bụi", "hơi rượu say" trong ba câu cuối là để chỉ ai? Từ đó, anh (chị) cảm nhận được gì về tâm trạng của người ra đi trong bài thơ?
Phân tích bài thơ Bếp Lửa
“Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói
Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi
Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy
Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu
Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay”
Kỉ niệm mà cháu nhớ nhất đó chính là năm lên bốn, những kỉ niệm gắn liền với mùi khói, với cái đói ở quê nghèo. Trong những năm “đói mòn đói mỏi” ấy thì mùi khói như ám ảnh cả tuổi thơ người cháu, nó như ăn sâu vào tâm trí và khiến cháu không thể nào quên được. Khi ấy bao trùm lên cảnh vật chính là không khí tang thương, chết chóc của nạn đói năm 1945, nạn đói kinh hoàng đó đã cướp đi hơn hai triệu người. Không gian không chỉ là mùi khói từ bếp lửa, mà còn là khói từ ngoài đường xá, đồng ruộng với mùi xác chết. Khói cay xè mắt cháu, ám ảnh tới mức mà đến bây giờ hay nhiều năm về sau có lẽ cũng không bao giờ có thể quên được. Giữa lúc ấy, hình ảnh người bà xuất hiện giống như ánh sáng, giống như làn gió mát, trong lành đến bên cháu:
“Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa
Tu hú kêu trên những cánh đồng xa
Khi tu hú kêu bà còn nhớ không bà
Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế
Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế”
Đoạn thơ gợi nhắc về kỉ niệm sáu năm người cháu sống cùng bà, mỗi ngày cùng bà nhóm lửa. Một bếp lửa thấm đượm tình thương giữa hai bà cháu. Trong tình cảm thân thương, ấm áp ấy hiện diện tiếng kêu của chim tu hú. Đây là loài chim quen thuộc thường xuất hiện vào mùa hè, tiếng chim da diết, cùng với tiếng bà kể chuyện:Xem thêm: Nghị luận xã hội Đi một ngày đàng, học một sàng khôn
“Mẹ cùng cha bận công tác không về
Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học
Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc
Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa”
Người cháu nhớ lại những tháng ngày được bà chăm sóc, dạy dỗ. Qua đó ta thấy được những phẩm chất cao quý của người bà. Bà mong có thể tự tay chăm sóc cho cháu để con trai bà có thể yên tâm làm việc ở chiến khu. Kể cả khi “giặc đốt làng”, khi túp lều tranh của hai bà cháu bị giặc đốt và được hàng xóm giúp đỡ dựng lại thì bà cũng không muốn cháu viết thư kể cho bố. Chính vì thế bà mới dặn cháu:
“Bố ở chiến khu, bố còn việc bố
Mày có viết thư chớ kể này kể nọ
Cứ bảo nhà vẫn được bình yên”
Kết thúc khổ thơ nhà thơ đã nâng hình ảnh bếp lửa trở thành ngọn lửa bất diệt:
“Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng”
Câu thơ mang sức truyền cảm mạnh mẽ về hình ảnh bếp lửa về tình thương của bà. Để đến bây giờ, khi nhà thơ Bằng Việt ở xa vẫn luôn hướng về bà.
Bài thơ Bếp Lửa mang đến cho người đọc nỗi niềm xúc động về tình cảm giữa hai bà cháu. Khiến cho chúng ta thêm yêu thương đối với những người thân, với quê hương nơi chúng ta đã sinh ra và lớn lên, thêm trân trọng những gì mà ta đã và đang có.Xem thêm: Cảm nghĩ về nhân vật anh thanh niên trong truyện ngắn Lặng lẽ Sa Pa
Loan Trương
|
Topic: Analysis of the poem Bep Lua by Bang Viet
Assignment
Bang Viet is a poet who grew up during the resistance war against America. He composed more than a hundred poems and wrote more than a hundred translations. Outstanding in his writing career are the articles about family love, one of which is the poem Bep Lua.
Bang Viet's poem Bep Lua is about the love between grandmother and grandson, written by the poet when he was an international student in the Soviet Union. The poem is like a remembrance of her memories of her hungry but warm and full of love days. Memories seem to come back to life on a cold winter day, feelings of longing seem to arise, remembering a difficult and arduous life:
“A fire flickers with the morning dew
A warm, loving stove
I love you through sunshine and rain."
In the first image, the poet does not always talk about her, but about "a stove". But through that image we feel a warm, harmonious feeling, as if we see the image of a grandmother waking up every morning to light the stove. The fire seemed to "play around" to warm the whole small house in the early morning of winter. Because the grandmother's image is associated with the stove, when the grandchild reminisces about the past, the image of the stove flickers in her mind. The fire not only warms the winter day but also warms my heart, so that I no longer feel lonely, cold and empty when there are only two people in the house. Besides, the nephew also directly expressed his feelings for his grandmother, "I love you through sunshine and rain". It is because I know that she works hard, working day and night to take care of me, so whether I am with her or right now in a far away place, my feelings for her are still intact. From that sentiment, that line of remembrance continues to be evoked by the light of the fire: See more: Tam Tam's poem Farewell Song ends with four sentences: "Are you leaving? Oh right... the real traveler..." "The flying leaf", "dust particle", "drunken breath" in the last three sentences refer to whom? From there, what do you feel about the mood of the person leaving in the poem?
Analyze the poem Bep Lua
“When I was four years old, I got used to the smell of smoke
That year was a year of hunger and fatigue
Dad drove a cart, his horse was dry and thin
I just remember the smoke blinding my eyes
Thinking about it now, my nose still stings."
The memory I remember most is when I was four years old, memories associated with the smell of smoke and hunger in a poor countryside. During those years of "hunger and fatigue", the smell of smoke seemed to haunt my entire childhood, it seemed to be deeply ingrained in my mind and made it impossible for me to forget. At that time, covering the landscape was the atmosphere of sadness and death of the famine of 1945, a terrible famine that claimed more than two million people. The air is not only the smell of smoke from the stove, but also smoke from the roads and fields with the smell of corpses. The smoke stung my eyes and was so haunting that even now or many years from now I will probably never be able to forget. At that moment, the image of the grandmother appeared like light, like a cool, fresh breeze coming to the child:
“For eight long years, I built a fire with my grandmother
Howling in the distant fields
Do you still remember when I howled?
She often tells stories about her days in Hue
The howling sound is so earnest."
The poem reminds of the six-year anniversary of the grandchild living with her grandmother, making the fire with her every day. A fireplace imbued with love between grandparents and grandchildren. In that warm, loving affection, the sound of a howling bird is present. This is a familiar bird that often appears in the summer, the bird's sound is melodious, along with the voice of a grandmother telling stories: See more: Social commentary Take a day's journey, learn a sieve of wisdom
“Mom and dad were busy with work and didn't come home
I'm with you, I told you to listen
She taught me how to do things, she took care of me studying
It's hard to build a fire and feel sorry for her
Tu howl! Don't come stay with her
Why cry all the time in the fields far away?
The grandson remembers the days when his grandmother took care of him and taught him. Through this we can see the noble qualities of the grandmother. She hopes to be able to take care of her grandchildren herself so that her son can work in peace in the war zone. Even when "the enemy burned the village", when the thatched hut of the two of us was burned by the enemy and neighbors helped rebuild it, my grandmother did not want me to write a letter to tell my father. That's why she told her child:
“Dad is in the war zone, he still has work to do
If you write a letter, don't tell me this or that
Just say the house is still peaceful.”
At the end of the stanza, the poet elevates the image of the stove to an eternal flame:
“A fire in her heart is always brewing
A fire of persistent faith.”
The poem has a strong inspirational power about the image of a fire and her love. Until now, when poet Bang Viet is far away, he always looks up to her.
The poem Bep Lua gives readers emotional feelings about the love between a grandmother and a grandchild. Makes us love our loved ones more, the homeland where we were born and raised, and appreciate what we have and have more. See more: Feelings about the young man character in short story Quiet Sa Pa
Loan Truong
|
Chinh Phụ Ngâm là một tác phẩm bày tỏ được thân phận của người phụ nữ trong xã hội cũ. Họ phải chịu đựng cuộc đời hẩm hiu, xa chồng khi mà nước nhà có chiến tranh. Họ phải chờ đợi trong sự mòn mỏi, vô vọng. Tiếng gọi của họ hoàn toàn không có lời đáp.
Để giúp các em có thể hiểu rõ hơn về bài thơ này cũng như có thể phân tích bài thơ Chinh phụ ngâm, chúng ta cùng đi lập dàn ý phân tích bài thơ Chinh phụ ngâm và tham khảo bài văn mẫu dưới đây.
I. Lập dàn ý phân tích bài thơ Chinh phụ ngâm
1. Mở bài
– Giới thiệu về tác giả Đặng Trần Côn và bài thơ Chinh phụ ngâm.
– Giới thiệu về đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ.
2. Thân bài
a. Tâm trạng của người chinh phụ khi tiễn chồng ra trận
– Tâm trạng rối bời, thấp thỏm, nhiều lo lắng thể hiện thông qua hành động đi quanh quẩn, buông rèm rồi lại cuốn rèm nhiều lần.
– Lặp đi lặp lại các hành động, cử chỉ trong vô thức.
– Nỗi cô đơn của người chinh phụ.
– Nỗi buồn kéo dài triền miên khi người chồng ra trận.
– Không gian mênh mông, nỗi cô đơn càng vô bờ bến.
– Nàng như người mất hồn, không còn tâm trí, sống trong lẻ loi, cô độc.
b. Niềm thương nhớ chồng của người chinh phụ
– Một nỗi nhớ da diêt, khôn nguôi người chinh phụ gửi tới nơi chiến trường cho người chồng.
– Nỗi đau day dứt, tâm trạng xót xa, buồn tủi, cô độc.
3. Kết bài
– Khái quát nội dung đoạn trích và nêu cảm nhận của em về đoạn trích này.
Bài viết liên quan
>> Phân tích bài thơ Trao duyên trích Truyện Kiều của Nguyễn Du (Có dàn ý chi tiết)
>> Phân tích bài thơ Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm (Có dàn ý chi tiết)
II. Bài làm phân tích bài thơ Chinh phụ ngâm
Văn học Việt Nam viết về nhiều chủ đề khác nhau nhưng xuyên suốt vẫn là cảm hứng nhân đạo. Giai đoạn nửa cuối thế kỉ 18 – nửa đầu thế kỉ 19 với rất nhiều những biến động của lịch sử xã hội đã khiến cho đời sống của con người gặp nhiều đe dọa. Thời gian này, hình ảnh của người phụ nữ được nói đến khá nhiều. Một trong số những tác phẩm như vậy chính là Chinh phụ ngâm. Bài thơ giống như một lời than vãn đầy tủi hờn của người phụ nữ thời ấy. Cho tới nay vẫn còn nhiều tranh cãi về tác giả của bài thơ nhưng dù là của Đặng Trần Côn hay Đoàn Thị Điểm thì đây cũng là bài thơ xuất sắc. Đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ mà chúng ta được học là đoạn trích thể hiện rõ nhất nội dung và cảm xúc của bài.Xem thêm: Bình luận về câu tục ngữ: “Chết trong còn hơn sống đục”
Sau buổi tiễn đưa chồng ra trận trở về, người chinh phụ đã tưởng tượng cảnh chiến trường mà xót xa, lo lắng cho chồng. Đồng thời người chinh phụ cũng ái ngại cho tình cảnh của mình. Ngay từ những câu thơ mở đầu đoạn trích thì tâm sự ấy đã được thể hiện vô cùng rõ nét:
Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước
Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen
Hai câu thơ đã tái hiện lại hình ảnh của người chinh phụ đang phải ở nhà một mình. Người phụ nữ đi ra, đi bảo với một tâm trạng thấp thỏm, lo âu, hêt cuốn rèm lên rồi lại rủ rèm xuống. Đó là những hành động được thực hiện trong vô thức khi mà tâm trạng của con người đang rối bời, không tập trung được vào việc gì. Dường như lúc này thời gian đang trôi đi một cách nặng nề, nhàm chán trong một trạng thái tâm lý bồn chồn nhưng lại không có lấy một người để chia sẻ.
Phân tích bài thơ Chinh phụ ngâm
Trong nỗi niềm tâm sự của mình, người chinh phụ có nhắc đến tiếng chim thước. Trong hoàn cảnh này, tiếng chim vẫn im bặt khiến cho người chinh phụ phải trách móc. Ban đầu, người chinh phụ còn nghĩ ngọn đèn có thể lắng nghe lời tâm sự của mình nhưng rồi cuối cùng thì nàng hiểu rằng đèn có biết cũng chẳng để làm gì:Xem thêm: Cảm nhận bài thơ Cảnh ngày hè của Nguyễn Trãi.
Ngoài rèm thước chẳng mách tin
Trong rèm, dường đã có đèn biết chăng
Đèn có biết dường bằng chẳng biết
Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi
Buồn rầu nói chẳng nên lời
Hoa đèn kia với bóng người khá thương
Ngọn đèn đã cùng với nàng thức suốt những đêm thâu vời vợi, chứng kiến sự trằn trọc của nàng trong đêm vắng. Trong ca dao, chúng ta cũng đã từng bắt gặp ngọn đèn ấy. Ngọn đèn vô tri không thể nào an ủi được nàng. Sự lặp đi lặp lại từ chẳng là một cách để phủ định sự tồn tại của con chim thước, đồng thời cũng là cách tác giả nhấn mạnh nỗi cô đơn của người chinh phụ. Nó càng làm tăng lên sự héo úa và tàn lụi. Đèn và người chinh phụ là hai đối tượng khác biệt nhưng có sự đồng nhất. Nàng thương cho đèn cũng là thương cho chính mình. Nỗi niềm xót thương mà người chinh phụ bày tỏ giống như một bản tố cáo tội ác chiến tranh một cách đanh thép. Nỗi niềm ấy xuyên qua cả không gian và thời gian:
Gà eo óc gáy sương năm trống
Hòe phất phơ rủ bóng bốn bên
Nội tâm của nhân vật được ẩn phía sau những câu thơ hướng về ngoại cảnh. Âm thanh của tiếng gà eo óc chính là âm thanh của tâm trạng. Người chinh phụ ngắm nhìn bóng hòe là để đếm từng thời khắc trôi đi. Mong sao cho thời gian trôi qua thật nhanh bởi vì mỗi giờ lúc này dài như cả chục năm:
Khắc giờ đằng đẵng như niên
Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa
Cảm nghĩ về thời gian của người chinh phụ thật đặc biệt. Bằng cách sử dụng những từ láy mang tính biểu bảo, nhà thơ đã khắc sâu thêm thời gian chờ đợi miên man của người chinh phụ. Người chinh phụ trong trạng thái cô đơn cũng đã cố gắng để thoát ra:
Hương gượng đốt hồn đà mê mái
Gương gượng soi lệ lại châu chan
Sắt cầm gượng gảy ngón đàn
Dây uyên kinh đứt phím loan ngại chùng
Thế nhưng mọi sự cố gắng của người chinh phụ đều chìm vào bi kịch. Nàng đốt hương để tìm được sự ấm áp, soi sương để tìm hình ảnh khát, gảy đàn để khuây khỏa lòng nhưng mọi thứ đều không được như ý muốn. Sau khi tiễn chồng ra trận, người chinh phụ đã thấm thía cảm giác chờ đợi, mòn mỏi, nhớ nhung và rồi bế tắc. Nhưng sau sự bế tắc ấy, tậm trạng của người chinh phụ bỗng trở nên nhẹ nhõm hơn, câu thơ đã vượt khỏi căn phòng bé nhỏ mà vươn mình ra ngoài vũ trụ bao la:Xem thêm: Anh (chị) hãy bình luận về hành động trả thù của Tấm đối với mẹ con Cám
Lòng này gửi gió đông có tiện
Nghìn vàng xin gửi đến non Yên
Non Yên dù chẳng tới miền
Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời
Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu
Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong
Đoạn thơ đã thể hiện rõ nét tấm lòng của người chinh phụ đáng giá nghìn vàng. Bên cạnh đó với việc sử dụng điệp từ gửi cho thấy nỗi khát vọng lớn lao, mạnh mẽ của người chinh phụ khi muốn được chia sẻ cùng chồng. Núi Yên Nhiên ở đây chỉ là một hình ảnh ước lệ chứ không phải là nơi mà chồng của người chinh phụ đang đánh giặc:
Hồn tử sĩ gió ù ù thổi
Mặt chinh phu trăng dõi dõi soi
Đã ra nơi chiến trận thì không ai có thể hẹn trước ngày trở về. Nỗi đau của người chinh phụ là nỗi đau chung của những người phụ nữ thời ấy. Nỗi cô đơn, sầu héo va sự thất vọng kéo người chinh phụ trở về với thực tại:
Cảnh buồn người thiết tha lòng
Cành cây sương đượm tiếng trùng mưa phun
Tác phẩm chinh phụ ngâm không chỉ có ý nghĩa về mặt giá trị thẩm mĩ mà còn có giá trị nhân đạo sâu sắc. Bài thơ là tiếng nói tố cáo tội ác của chiến tranh phi nghĩa, đồng thời đề cao khát vọng tình yêu của con người.
Như vậy là chúng ta đã cùng nhau lập dàn ý phân tích bài thơ Chinh phụ ngâm. Với phần lập dàn ý và bài văn mẫu trên đây, hy vọng các em đã có thể tự làm một bài văn phân tích của riêng mình.
Thu Thủy
|
Chinh Phụ Ngâm là một tác phẩm bày tỏ được thân phận của người phụ nữ trong xã hội cũ. Họ phải chịu đựng cuộc đời hẩm hiu, xa chồng khi mà nước nhà có chiến tranh. Họ phải chờ đợi trong sự mòn mỏi, vô vọng. Tiếng gọi của họ hoàn toàn không có lời đáp.
Để giúp các em có thể hiểu rõ hơn về bài thơ này cũng như có thể phân tích bài thơ Chinh phụ ngâm, chúng ta cùng đi lập dàn ý phân tích bài thơ Chinh phụ ngâm và tham khảo bài văn mẫu dưới đây.
I. Lập dàn ý phân tích bài thơ Chinh phụ ngâm
1. Mở bài
– Giới thiệu về tác giả Đặng Trần Côn và bài thơ Chinh phụ ngâm.
– Giới thiệu về đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ.
2. Thân bài
a. Tâm trạng của người chinh phụ khi tiễn chồng ra trận
– Tâm trạng rối bời, thấp thỏm, nhiều lo lắng thể hiện thông qua hành động đi quanh quẩn, buông rèm rồi lại cuốn rèm nhiều lần.
– Lặp đi lặp lại các hành động, cử chỉ trong vô thức.
– Nỗi cô đơn của người chinh phụ.
– Nỗi buồn kéo dài triền miên khi người chồng ra trận.
– Không gian mênh mông, nỗi cô đơn càng vô bờ bến.
– Nàng như người mất hồn, không còn tâm trí, sống trong lẻ loi, cô độc.
b. Niềm thương nhớ chồng của người chinh phụ
– Một nỗi nhớ da diêt, khôn nguôi người chinh phụ gửi tới nơi chiến trường cho người chồng.
– Nỗi đau day dứt, tâm trạng xót xa, buồn tủi, cô độc.
3. Kết bài
– Khái quát nội dung đoạn trích và nêu cảm nhận của em về đoạn trích này.
Bài viết liên quan
>> Phân tích bài thơ Trao duyên trích Truyện Kiều của Nguyễn Du (Có dàn ý chi tiết)
>> Phân tích bài thơ Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm (Có dàn ý chi tiết)
II. Bài làm phân tích bài thơ Chinh phụ ngâm
Văn học Việt Nam viết về nhiều chủ đề khác nhau nhưng xuyên suốt vẫn là cảm hứng nhân đạo. Giai đoạn nửa cuối thế kỉ 18 – nửa đầu thế kỉ 19 với rất nhiều những biến động của lịch sử xã hội đã khiến cho đời sống của con người gặp nhiều đe dọa. Thời gian này, hình ảnh của người phụ nữ được nói đến khá nhiều. Một trong số những tác phẩm như vậy chính là Chinh phụ ngâm. Bài thơ giống như một lời than vãn đầy tủi hờn của người phụ nữ thời ấy. Cho tới nay vẫn còn nhiều tranh cãi về tác giả của bài thơ nhưng dù là của Đặng Trần Côn hay Đoàn Thị Điểm thì đây cũng là bài thơ xuất sắc. Đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ mà chúng ta được học là đoạn trích thể hiện rõ nhất nội dung và cảm xúc của bài.Xem thêm: Bình luận về câu tục ngữ: “Chết trong còn hơn sống đục”
Sau buổi tiễn đưa chồng ra trận trở về, người chinh phụ đã tưởng tượng cảnh chiến trường mà xót xa, lo lắng cho chồng. Đồng thời người chinh phụ cũng ái ngại cho tình cảnh của mình. Ngay từ những câu thơ mở đầu đoạn trích thì tâm sự ấy đã được thể hiện vô cùng rõ nét:
Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước
Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen
Hai câu thơ đã tái hiện lại hình ảnh của người chinh phụ đang phải ở nhà một mình. Người phụ nữ đi ra, đi bảo với một tâm trạng thấp thỏm, lo âu, hêt cuốn rèm lên rồi lại rủ rèm xuống. Đó là những hành động được thực hiện trong vô thức khi mà tâm trạng của con người đang rối bời, không tập trung được vào việc gì. Dường như lúc này thời gian đang trôi đi một cách nặng nề, nhàm chán trong một trạng thái tâm lý bồn chồn nhưng lại không có lấy một người để chia sẻ.
Phân tích bài thơ Chinh phụ ngâm
Trong nỗi niềm tâm sự của mình, người chinh phụ có nhắc đến tiếng chim thước. Trong hoàn cảnh này, tiếng chim vẫn im bặt khiến cho người chinh phụ phải trách móc. Ban đầu, người chinh phụ còn nghĩ ngọn đèn có thể lắng nghe lời tâm sự của mình nhưng rồi cuối cùng thì nàng hiểu rằng đèn có biết cũng chẳng để làm gì:Xem thêm: Cảm nhận bài thơ Cảnh ngày hè của Nguyễn Trãi.
Ngoài rèm thước chẳng mách tin
Trong rèm, dường đã có đèn biết chăng
Đèn có biết dường bằng chẳng biết
Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi
Buồn rầu nói chẳng nên lời
Hoa đèn kia với bóng người khá thương
Ngọn đèn đã cùng với nàng thức suốt những đêm thâu vời vợi, chứng kiến sự trằn trọc của nàng trong đêm vắng. Trong ca dao, chúng ta cũng đã từng bắt gặp ngọn đèn ấy. Ngọn đèn vô tri không thể nào an ủi được nàng. Sự lặp đi lặp lại từ chẳng là một cách để phủ định sự tồn tại của con chim thước, đồng thời cũng là cách tác giả nhấn mạnh nỗi cô đơn của người chinh phụ. Nó càng làm tăng lên sự héo úa và tàn lụi. Đèn và người chinh phụ là hai đối tượng khác biệt nhưng có sự đồng nhất. Nàng thương cho đèn cũng là thương cho chính mình. Nỗi niềm xót thương mà người chinh phụ bày tỏ giống như một bản tố cáo tội ác chiến tranh một cách đanh thép. Nỗi niềm ấy xuyên qua cả không gian và thời gian:
Gà eo óc gáy sương năm trống
Hòe phất phơ rủ bóng bốn bên
Nội tâm của nhân vật được ẩn phía sau những câu thơ hướng về ngoại cảnh. Âm thanh của tiếng gà eo óc chính là âm thanh của tâm trạng. Người chinh phụ ngắm nhìn bóng hòe là để đếm từng thời khắc trôi đi. Mong sao cho thời gian trôi qua thật nhanh bởi vì mỗi giờ lúc này dài như cả chục năm:
Khắc giờ đằng đẵng như niên
Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa
Cảm nghĩ về thời gian của người chinh phụ thật đặc biệt. Bằng cách sử dụng những từ láy mang tính biểu bảo, nhà thơ đã khắc sâu thêm thời gian chờ đợi miên man của người chinh phụ. Người chinh phụ trong trạng thái cô đơn cũng đã cố gắng để thoát ra:
Hương gượng đốt hồn đà mê mái
Gương gượng soi lệ lại châu chan
Sắt cầm gượng gảy ngón đàn
Dây uyên kinh đứt phím loan ngại chùng
Thế nhưng mọi sự cố gắng của người chinh phụ đều chìm vào bi kịch. Nàng đốt hương để tìm được sự ấm áp, soi sương để tìm hình ảnh khát, gảy đàn để khuây khỏa lòng nhưng mọi thứ đều không được như ý muốn. Sau khi tiễn chồng ra trận, người chinh phụ đã thấm thía cảm giác chờ đợi, mòn mỏi, nhớ nhung và rồi bế tắc. Nhưng sau sự bế tắc ấy, tậm trạng của người chinh phụ bỗng trở nên nhẹ nhõm hơn, câu thơ đã vượt khỏi căn phòng bé nhỏ mà vươn mình ra ngoài vũ trụ bao la:Xem thêm: Anh (chị) hãy bình luận về hành động trả thù của Tấm đối với mẹ con Cám
Lòng này gửi gió đông có tiện
Nghìn vàng xin gửi đến non Yên
Non Yên dù chẳng tới miền
Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời
Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu
Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong
Đoạn thơ đã thể hiện rõ nét tấm lòng của người chinh phụ đáng giá nghìn vàng. Bên cạnh đó với việc sử dụng điệp từ gửi cho thấy nỗi khát vọng lớn lao, mạnh mẽ của người chinh phụ khi muốn được chia sẻ cùng chồng. Núi Yên Nhiên ở đây chỉ là một hình ảnh ước lệ chứ không phải là nơi mà chồng của người chinh phụ đang đánh giặc:
Hồn tử sĩ gió ù ù thổi
Mặt chinh phu trăng dõi dõi soi
Đã ra nơi chiến trận thì không ai có thể hẹn trước ngày trở về. Nỗi đau của người chinh phụ là nỗi đau chung của những người phụ nữ thời ấy. Nỗi cô đơn, sầu héo va sự thất vọng kéo người chinh phụ trở về với thực tại:
Cảnh buồn người thiết tha lòng
Cành cây sương đượm tiếng trùng mưa phun
Tác phẩm chinh phụ ngâm không chỉ có ý nghĩa về mặt giá trị thẩm mĩ mà còn có giá trị nhân đạo sâu sắc. Bài thơ là tiếng nói tố cáo tội ác của chiến tranh phi nghĩa, đồng thời đề cao khát vọng tình yêu của con người.
Như vậy là chúng ta đã cùng nhau lập dàn ý phân tích bài thơ Chinh phụ ngâm. Với phần lập dàn ý và bài văn mẫu trên đây, hy vọng các em đã có thể tự làm một bài văn phân tích của riêng mình.
Thu Thủy
|
Bài thơ Chiều tối là một trong rất nhiều sáng tác được Hồ Chí Minh viết trong thời gian đang bị giam ở nhà ngục của Trung Quốc. Trên đường chuyển lao vào một buổi chiều tối, Bác đã viết nên bài thơ này.
Để giúp các em có thêm tài liệu tham khảo, bài viết này sẽ hướng dẫn các em lập dàn ý chi tiết cho đền phân tích bài thơ Chiều tối cũng như gợi ý bài văn mẫu. Nội dung do Kho tàng văn mẫu biên soạn và giữ bản quyền.
I. Lập dàn ý phân tích bài thơ Chiều tối
1. Mở bài phân tích bài thơ Chiều tối
Giới thiệu về tác giả Hồ Chí Minh và bài thơ Chiều tối. Bài thơ được rút ra từ tập thơ Nhật kí trong tù, được Bác viết khi đang trên đường di chuyển giữa hai nhà ngục. Bài thơ được sáng tác trong một hoàn cảnh đặc biệt nhưng nội dung vẫn mang đậm giá trị nghệ thuật độc đáo. Dù đang bị xiềng xích nhưng nội dung bài thơ không hề có sự than vãn, xót xa.
2. Thân bài phân tích bài thơ Chiều tối
a. Hai câu đầu
– Bức tranh yên bình của cuộc sống, có hình ảnh chim bay về tổ, hình ảnh đám mây đang trôi trên bầu trời xanh. Tất cả gợi nên sự ấm cúng, đoàn viên.
– Cảnh vật tuy đẹp nhưng vẫn mang một chút buồn. Phân tích các từ quyện, tầm, cô, mạn mạn trong nguyên tác để thấy rõ điều này.
=> Bác không hề than vãn mà vẫn khiến người đọc phải xót xa.
b. Hai câu cuối
– Hình tượng thơ có sự chuyển hướng vận động. Hình ảnh lò than rực hồng cho ta thấy trời đã bắt đầu về đêm. Câu thơ có sự xuất hiện của con người khiến cho khung cảnh trở nên đầm ấm hơn, giàu sức sống hơn.
– Người nghệ sĩ phóng tầm mắt ra xa và lên cao bắt gặp hình ảnh ánh sáng của lò than. Nó làm cho lòng người trở nên ấm áp hơn đôi chút.
3. Kết bài
Nêu tổng quan về nội dung bài thơ cũng như cảm nhận của em về bài thơ này.Xem thêm: Phân tích đặc điểm ngôn ngữ kể chuyện và chứng tỏ tính độc đáo, sáng tạo của Nam Cao trong đoạn mở đầu truyện ngắn Chí Phèo: "Hắn vừa đi vừa chửi. Bao giờ cũng cứ rượu xong là hắn chửi... Có trời mà biết! Hắn không biết, cả làng Vũ Đại không ai biết..."Bài viết liên quan
>> Phân tích bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu (Có dàn ý chi tiết)
>> Phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mạc Tử (Có dàn ý chi tiết)
>> Phân tích bài thơ Từ ấy của Tố Hữu (Có dàn ý chi tiết)
II. Bài làm phân tích bài thơ Chiều tối
Trong những ngày bị giam cầm tại nhà ngục ở Quảng Tây ở Trung Quốc, Bác Hồ đã phải chịu nhiều khổ ải như bệnh tật hay như khi phải di chuyển từ nhà lao này sang nhà lao khác. Tuy nhiên, Người vẫn luôn giữ được phong thái của một vị lãnh tụ và viết nên những vần thơ đầy cảm xúc. Bài thơ Chiều tối được Bác viết trên đường di chuyển từ nhà ngục Tĩnh Tây sang nhà ngục Thiên Bảo. Trên đường đi hẳn Bác đã gặp và chứng kiến nhiều sự việc. Một phần những gì Bác trông thấy, Bác trải qua đã được ghi lại trong bài thơ Chiều tối này. Có thể thấy, hoàn cảnh ra đời bài thơ thật đặc biệt nhưng chính sự đặc biệt ấy lại làm nên nét độc đáo của bài thơ này.
Nếu chỉ nhìn vào mặt hình thức con chữ của bài thơ, chúng ta sẽ thấy như bài thơ đơn thuần là miêu tả cảnh trên đường đi vào một buổi chiều tối. Câu thơ có hình ảnh của chim, của mây, của cô gái đang lao động. Toàn bộ bài thơ, cảnh vật đều là cảnh động, có sự vận động. Chẳng hạn như chim đang bay, mây đang trôi, cô gái đang xay ngô. Đúng ra đó phải là một bức tranh tươi vui nhưng nếu phân tích bài thơ Chiều tối và mổ xẻ từng chữ trong bài chúng ta sẽ thấy rằng có những nét đượm buồn của tác giả gửi gắm thông qua những vần thơ này.
Hai câu thơ đầu đúng theo nguyên tác là:
Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ
Cô vân mạn mạn độ thiên không
Phân tích bài thơ Chiều tối
Câu thơ đọc lên sẽ thấy như Bác đang miêu tả khung cảnh của bầu trời. Chiều tối rồi, màn đêm đã sắp buông xuống nơi đây, con chim sau một ngày đi kiếm ăn xa nay đã mỏi cánh và đang bay về tìm nơi chốn để nghỉ ngơi. Có lẽ, nó đang quay về với cái tổ của mình nơi mà gia đình nó đang chờ. Chòm mây thì vẫn đang trôi nhẹ giữa bầu trời. Dường như có một sự thảnh thơi, ung dung khi chiều tối. Câu thơ dịch Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không sát nghĩa nhưng không hay được như nguyên tác và không thể hiện được cái cô độc của mây, cái rộng lớn của bầu trời. Hai câu thơ sử dụng nhiều động từ và tính từ gợi nên sự mỏi mệt và cô độc: quyện, tầm, cô, mạn mạn. Quyện có nghĩa là mỏi, tầm có nghĩa là tìm, câu thơ thể hiện được sự mỏi mệt của cánh chim. Ở đây, bản dịch thơ Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ khá sát với bản gốc và thể hiện được đúng ý đồ của Bác. Câu sau, chữ cô cho thấy sự cô độc. Mặc dù chữ chòm ở bản dịch thơ cũng gợi cảm giác đơn độc nhưng nó không được đắt giá như từ cô. Hai chữ mạn mạn gợi lên một bầu trời bao la, rộng lớn. Chỉ có duy nhất một chòm mây trên bầu trời quá rộng, như vậy mới thật là cô đơn làm sao. Là cảnh vật cô đơn hay Bác đang nói đến sự cô độc của chính mình? Chắc hẳn Người cũng đang rất mệt mỏi. Mệt không chỉ ở thể xác mà còn mệt ở tâm hồn. Người lo lắng vì đang bị xiềng xích, nóng ruột vì không biết bao giờ mới được thoát khỏi cảnh này để tiếp tục hành trình tìm đường cứu nước.Xem thêm: Giữa Nguyễn Khuyến và Tú xương có nỗi niềm tâm sự giống nhau nhưng giọng thơ khác nhau? Hãy làm rõ ý kiến của mìnhMỗi bước chân của người tù mang theo biết bao gánh nặng tâm tư. Thời gian vì vẫn cứ trôi qua lặng lẽ. Dù Bác không có câu nào chỉ sự chuyển dịch của thời gian nhưng thông qua hình ảnh thơ chúng ta có thể thấy rõ điều đó. Nếu như hai câu trước Bác phóng tầm mắt lên cao thì đến hai câu thơ sau Bác phóng tầm mắt ra xa. Chính bởi vậy mà Bác bắt gặp hình ảnh:
Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc
Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng
Hai câu thơ có sử dụng điệp từ bao túc cho thấy hạnh động lặp đi lặp lại của cô gái. Thật tiếc khi bản dịch thơ lại không giữ được nghệ thuật này. Hình ảnh cô sơn thôn xuất hiện trong thơ khiến cho bài thơ trở nên tươi vui và ấm áp hơn một chút. Cô sơn thôn đang ngồi xay ngô tối, đó cảnh tượng của sự đoàn viên, ấm áp và nó đủ. Cụm từ lô dĩ hồng cho chúng ta thấy trời đã tối hẳn, chỉ có ánh lửa từ lò than đang rực hồng. Ánh sáng ấy sưởi ấm tâm hồn của Bác, khiến cho người bớt đi phần nào cái mỏi mệt của thể xác. Thế nhưng, hình ảnh cô gái vẫn như một ước vọng của Bác về một ngày được trở về nơi chốn bình dị như thế. Hình ảnh lò than rực hồng cũng làm bừng sáng cho cả bài thơ, bừng sáng cho cả không gian u tối, hoang sơ và có phần giá lạnh nơi núi non hiểm trở.Xem thêm: Phân tích đoạn thơ Hai Bà Trưng trích Đại Nam quốc sử diễn caBài thơ Chiều tối mang màu sắc cổ điển nhưng cũng có những nét hiện đại và chứa đựng cái riêng của Bác. Vẫn là lối viết ngắn gọn, thông qua tả cảnh để nói lên tâm trạng của bản thân. Bài thơ như một lời tâm sự, một nỗi ước mong của Bác muốn được thoát khỏi nơi này và trở về với quê hương.
Trên đây là phần dàn ý cho đề phân tích bài thơ Chiều tối cũng như bài mẫu phân tích bài thơ Chiều tối. Hy vọng rằng bài viết này đã mang đến cho các em thêm nhiều kiến thức bổ ích và lý thú để giúp các em học tập môn Ngữ văn được tốt hơn.
Thu Thủy
|
Bài thơ Chiều tối là một trong rất nhiều sáng tác được Hồ Chí Minh viết trong thời gian đang bị giam ở nhà ngục của Trung Quốc. Trên đường chuyển lao vào một buổi chiều tối, Bác đã viết nên bài thơ này.
Để giúp các em có thêm tài liệu tham khảo, bài viết này sẽ hướng dẫn các em lập dàn ý chi tiết cho đền phân tích bài thơ Chiều tối cũng như gợi ý bài văn mẫu. Nội dung do Kho tàng văn mẫu biên soạn và giữ bản quyền.
I. Lập dàn ý phân tích bài thơ Chiều tối
1. Mở bài phân tích bài thơ Chiều tối
Giới thiệu về tác giả Hồ Chí Minh và bài thơ Chiều tối. Bài thơ được rút ra từ tập thơ Nhật kí trong tù, được Bác viết khi đang trên đường di chuyển giữa hai nhà ngục. Bài thơ được sáng tác trong một hoàn cảnh đặc biệt nhưng nội dung vẫn mang đậm giá trị nghệ thuật độc đáo. Dù đang bị xiềng xích nhưng nội dung bài thơ không hề có sự than vãn, xót xa.
2. Thân bài phân tích bài thơ Chiều tối
a. Hai câu đầu
– Bức tranh yên bình của cuộc sống, có hình ảnh chim bay về tổ, hình ảnh đám mây đang trôi trên bầu trời xanh. Tất cả gợi nên sự ấm cúng, đoàn viên.
– Cảnh vật tuy đẹp nhưng vẫn mang một chút buồn. Phân tích các từ quyện, tầm, cô, mạn mạn trong nguyên tác để thấy rõ điều này.
=> Bác không hề than vãn mà vẫn khiến người đọc phải xót xa.
b. Hai câu cuối
– Hình tượng thơ có sự chuyển hướng vận động. Hình ảnh lò than rực hồng cho ta thấy trời đã bắt đầu về đêm. Câu thơ có sự xuất hiện của con người khiến cho khung cảnh trở nên đầm ấm hơn, giàu sức sống hơn.
– Người nghệ sĩ phóng tầm mắt ra xa và lên cao bắt gặp hình ảnh ánh sáng của lò than. Nó làm cho lòng người trở nên ấm áp hơn đôi chút.
3. Kết bài
Nêu tổng quan về nội dung bài thơ cũng như cảm nhận của em về bài thơ này.Xem thêm: Phân tích đặc điểm ngôn ngữ kể chuyện và chứng tỏ tính độc đáo, sáng tạo của Nam Cao trong đoạn mở đầu truyện ngắn Chí Phèo: "Hắn vừa đi vừa chửi. Bao giờ cũng cứ rượu xong là hắn chửi... Có trời mà biết! Hắn không biết, cả làng Vũ Đại không ai biết..."Bài viết liên quan
>> Phân tích bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu (Có dàn ý chi tiết)
>> Phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mạc Tử (Có dàn ý chi tiết)
>> Phân tích bài thơ Từ ấy của Tố Hữu (Có dàn ý chi tiết)
II. Bài làm phân tích bài thơ Chiều tối
Trong những ngày bị giam cầm tại nhà ngục ở Quảng Tây ở Trung Quốc, Bác Hồ đã phải chịu nhiều khổ ải như bệnh tật hay như khi phải di chuyển từ nhà lao này sang nhà lao khác. Tuy nhiên, Người vẫn luôn giữ được phong thái của một vị lãnh tụ và viết nên những vần thơ đầy cảm xúc. Bài thơ Chiều tối được Bác viết trên đường di chuyển từ nhà ngục Tĩnh Tây sang nhà ngục Thiên Bảo. Trên đường đi hẳn Bác đã gặp và chứng kiến nhiều sự việc. Một phần những gì Bác trông thấy, Bác trải qua đã được ghi lại trong bài thơ Chiều tối này. Có thể thấy, hoàn cảnh ra đời bài thơ thật đặc biệt nhưng chính sự đặc biệt ấy lại làm nên nét độc đáo của bài thơ này.
Nếu chỉ nhìn vào mặt hình thức con chữ của bài thơ, chúng ta sẽ thấy như bài thơ đơn thuần là miêu tả cảnh trên đường đi vào một buổi chiều tối. Câu thơ có hình ảnh của chim, của mây, của cô gái đang lao động. Toàn bộ bài thơ, cảnh vật đều là cảnh động, có sự vận động. Chẳng hạn như chim đang bay, mây đang trôi, cô gái đang xay ngô. Đúng ra đó phải là một bức tranh tươi vui nhưng nếu phân tích bài thơ Chiều tối và mổ xẻ từng chữ trong bài chúng ta sẽ thấy rằng có những nét đượm buồn của tác giả gửi gắm thông qua những vần thơ này.
Hai câu thơ đầu đúng theo nguyên tác là:
Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ
Cô vân mạn mạn độ thiên không
Phân tích bài thơ Chiều tối
Câu thơ đọc lên sẽ thấy như Bác đang miêu tả khung cảnh của bầu trời. Chiều tối rồi, màn đêm đã sắp buông xuống nơi đây, con chim sau một ngày đi kiếm ăn xa nay đã mỏi cánh và đang bay về tìm nơi chốn để nghỉ ngơi. Có lẽ, nó đang quay về với cái tổ của mình nơi mà gia đình nó đang chờ. Chòm mây thì vẫn đang trôi nhẹ giữa bầu trời. Dường như có một sự thảnh thơi, ung dung khi chiều tối. Câu thơ dịch Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không sát nghĩa nhưng không hay được như nguyên tác và không thể hiện được cái cô độc của mây, cái rộng lớn của bầu trời. Hai câu thơ sử dụng nhiều động từ và tính từ gợi nên sự mỏi mệt và cô độc: quyện, tầm, cô, mạn mạn. Quyện có nghĩa là mỏi, tầm có nghĩa là tìm, câu thơ thể hiện được sự mỏi mệt của cánh chim. Ở đây, bản dịch thơ Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ khá sát với bản gốc và thể hiện được đúng ý đồ của Bác. Câu sau, chữ cô cho thấy sự cô độc. Mặc dù chữ chòm ở bản dịch thơ cũng gợi cảm giác đơn độc nhưng nó không được đắt giá như từ cô. Hai chữ mạn mạn gợi lên một bầu trời bao la, rộng lớn. Chỉ có duy nhất một chòm mây trên bầu trời quá rộng, như vậy mới thật là cô đơn làm sao. Là cảnh vật cô đơn hay Bác đang nói đến sự cô độc của chính mình? Chắc hẳn Người cũng đang rất mệt mỏi. Mệt không chỉ ở thể xác mà còn mệt ở tâm hồn. Người lo lắng vì đang bị xiềng xích, nóng ruột vì không biết bao giờ mới được thoát khỏi cảnh này để tiếp tục hành trình tìm đường cứu nước.Xem thêm: Giữa Nguyễn Khuyến và Tú xương có nỗi niềm tâm sự giống nhau nhưng giọng thơ khác nhau? Hãy làm rõ ý kiến của mìnhMỗi bước chân của người tù mang theo biết bao gánh nặng tâm tư. Thời gian vì vẫn cứ trôi qua lặng lẽ. Dù Bác không có câu nào chỉ sự chuyển dịch của thời gian nhưng thông qua hình ảnh thơ chúng ta có thể thấy rõ điều đó. Nếu như hai câu trước Bác phóng tầm mắt lên cao thì đến hai câu thơ sau Bác phóng tầm mắt ra xa. Chính bởi vậy mà Bác bắt gặp hình ảnh:
Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc
Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng
Hai câu thơ có sử dụng điệp từ bao túc cho thấy hạnh động lặp đi lặp lại của cô gái. Thật tiếc khi bản dịch thơ lại không giữ được nghệ thuật này. Hình ảnh cô sơn thôn xuất hiện trong thơ khiến cho bài thơ trở nên tươi vui và ấm áp hơn một chút. Cô sơn thôn đang ngồi xay ngô tối, đó cảnh tượng của sự đoàn viên, ấm áp và nó đủ. Cụm từ lô dĩ hồng cho chúng ta thấy trời đã tối hẳn, chỉ có ánh lửa từ lò than đang rực hồng. Ánh sáng ấy sưởi ấm tâm hồn của Bác, khiến cho người bớt đi phần nào cái mỏi mệt của thể xác. Thế nhưng, hình ảnh cô gái vẫn như một ước vọng của Bác về một ngày được trở về nơi chốn bình dị như thế. Hình ảnh lò than rực hồng cũng làm bừng sáng cho cả bài thơ, bừng sáng cho cả không gian u tối, hoang sơ và có phần giá lạnh nơi núi non hiểm trở.Xem thêm: Phân tích đoạn thơ Hai Bà Trưng trích Đại Nam quốc sử diễn caBài thơ Chiều tối mang màu sắc cổ điển nhưng cũng có những nét hiện đại và chứa đựng cái riêng của Bác. Vẫn là lối viết ngắn gọn, thông qua tả cảnh để nói lên tâm trạng của bản thân. Bài thơ như một lời tâm sự, một nỗi ước mong của Bác muốn được thoát khỏi nơi này và trở về với quê hương.
Trên đây là phần dàn ý cho đề phân tích bài thơ Chiều tối cũng như bài mẫu phân tích bài thơ Chiều tối. Hy vọng rằng bài viết này đã mang đến cho các em thêm nhiều kiến thức bổ ích và lý thú để giúp các em học tập môn Ngữ văn được tốt hơn.
Thu Thủy
|
Đề bài: Phân tích bài thơ Chiều Tối của Hồ Chí Minh
Bài làm
Bác Hồ là một người yêu thiên nhiên say đắm, Người sống gần gũi với thiên nhiên, viết nên những vần thơ hay chan chứa biết bao nhiêu cảnh sắc của đất trời, nơi mà Người đã từng thấy, từng đi qua. Ngay cả khi bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam vô căn cứ và trên con đường chuyển lao người cũng làm nên những bài thơ hay và đặc sắc. Một trong số đó phải kể đến bài thơ Chiều Tối.
Bài thơ được Bác Hồ lấy cảm hứng viết khi Người trên đường chuyển lao từ nhà tù Tĩnh Tây đến nhà tù Thiên Bảo. Qua con mắt của một người đang bị gông cùm, tại một nơi xa với quê hương về cảnh vật vùng sơn dã đã được người khắc họa rất đẹp, rất nên thơ và cũng thấm đẫm tâm trạng của chủ thể trữ tình:
“Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ
Cô vân mạn mạn độ thiên không
Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc
Bao túc ma hoàn, lỗ dĩ hồng”
Dịch thơ:
“Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ
Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không
Cô em xóm núi xay ngô tối
Xay hết, lò than đã rực hồng”
Ngay từ nhan đề bài thơ đã gợi lên cho người đọc về một khoảng thời gian cụ thể trong ngày đó chính là lúc chiều tối. Đây là một thời điểm đặc biệt trong ngày, đó là lúc mọi người đang trở về nhà nghỉ ngơi, sum họp cùng với gia đình sau một ngày làm việc vất vả, cực nhọc. Đồng thời cũng là lúc những cánh chim trở về tổ sau một ngày kiếm ăn:Xem thêm: Trình bày hiểu biết của anh (chị) về những nét chính trong trào lưu văn học hiện thực phê phán Việt Nam 1930 - 1945
“Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ
Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không”
Phân tích bài thơ Chiều Tối
Một ngày dài sắp tàn, cánh chim trở về tìm trốn ngủ, nhưng con người mà ở đây chính là người tù thì vẫn tiếp tục con đường chuyển lao của mình. Con đường đầy gian truân, vất vả với trên người là những gông cùm, xiềng xích. Trời đã về chiều tối và màn đêm sắp buông xuống nhưng vẫn chưa được nghỉ ngơi. Tác giả không trực tiếp miêu tả nỗi vất vả, cực nhọc cửa mình mà sử dụng hình ảnh cánh chim mỏi. Bên cạnh đó, giữa thiên nhiên bao la, rộng lớn, nhưng tất cả ánh mắt đều dừng lại trên chòm mây đang trôi nhẹ. Một chòm mây đối lập với cả “tầng không” đã cho ta thấy được sự nhỏ bé, cô đơn, lẻ loi giống với những bước chân độc hành của Người nơi đất khách quê người. Bên cạnh đó hai câu thơ đầu còn thể hiện khao khát của người tù được tự do như cánh chim kia để trở về với mái ấm quê hương, được như đám mây tự do trôi giữa trời. Hai hình ảnh thơ rất giản dị, gần gũi nhưng lại tạo nên hiệu ứng thơ mang nét cổ điển lại vừa mang tính hiện đại.
Giữa khung cảnh cô đơn, hiu quạnh ấy lại xuất hiện hình ảnh con người, tạo nên điểm nhấn cho tác phẩm:Xem thêm: Với những kiến thức đã học về Nguyễn Trãi và Nguyễn Đình Chiểu, anh (chị) cảm nhận điều gì gần gũi về tư tưởng nhân nghĩa giữa hai nhà thơ này? Hãy trình bày ý kiến của mình
“Cô em xóm núi xay ngô tối
Xay hết, lò than đã rực hồng”
Cuộc sống của con người nơi rừng núi bình yên và đẹp đẽ đến nhường nào. Trên con đường chuyển lao mệt mỏi, người tù vươn tầm nhìn ra xa và thấy được một xóm nhỏ. Tại đó hiện lên hình ảnh “sơn thôn thiếu nữ” mặc dù trời dã sắp tối nhưng vẫn miệt mài lao động khiến cho bức tranh chiều tối trở nên sinh động, vui tươi. Hình tượng thơ có sự vận động khiến cho bức tranh thu vào tầm mắt của chủ thể trữ tình trở nên ấm áp, khỏe khoắn. Ở nơi đất khách quê người nhưng lại bắt gặp hình ảnh quen thuộc của thôn xóm, của quê hương khiến người tù như trút đi sự mệt mỏi, cảm thấy có động lực hơn để kết thúc một ngày chuyển lao. Cau thơ khiến người đọc như thấy được sự nhịp nhàng của cối xay ngô, những vòng quay không chỉ mang theo âm điệu của thời gian mà còn là cả hơi thở của sự sống. Vòng quay của cối xay ngô dừng lại cũng là lúc mà trời đã tối hẳn.
Tuy nhiên bài thơ không kết thúc ở hình ảnh cô gái xay ngô mà kết thúc ở hình ảnh “lò than đã rực hồng”. Chữ “hồng” như làm bừng sáng lên cả bài thơ và trở thành hình ảnh trung tâm cho bài thơ. Nhà thơ không nhắc đến chữ tối nhưng bằng từ “hồng” ấy đã cho chúng ta cảm nhận được sự chuyển động của thời gian từ chiều tối đến tối hẳn. Ánh sáng phát ra từ lò than khiến ta cảm thấy không khí gia đình đầm ấm, cuộc sống bình dị của những người lao động trong một thôn xóm nhỏ. Ánh sáng ấy còn là niềm tin, sự lạc quan của người tù khi luôn hướng về phía trước, không trùn bước.Xem thêm: Hãy giới thiệu một vài nét về nhà văn Et-môn-đô Đơ A-mi-xi
Bài thơ Chiều Tối của Hồ Chí Minh chính là một bài thơ tiêu biểu cho nét đẹp cổ điển và hiện đại trong những sáng tác của Người. Qua bài thơ ta thấy được phong thái ung dung, tự tại của người tù, cũng qua đó thể hiện tình yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống và yêu con người của Bác.
Loan Trương
|
Topic: Analysis of Ho Chi Minh's poem Evening
Assignment
Uncle Ho was a passionate lover of nature. He lived close to nature, writing beautiful poems filled with countless sceneries of heaven and earth, places he had seen and gone through. Even when he was unjustly imprisoned by Chiang Kai-shek's government and on the way to prison, he still wrote beautiful and unique poems. One of them is the poem Evening Afternoon.
The poem was inspired by Uncle Ho when he was on his way from Tinh Tay prison to Thien Bao prison. Through the eyes of a person in shackles, in a place far from his homeland, the landscape of the mountainous region was portrayed very beautifully, very poetically and also imbued with the mood of the lyrical subject:
“The bird returns to the forest to search for the tree
She is so arrogant that she reaches the sky
The ghostly girl in the mountain village is surrounded by ghosts
Bao Su Ma Hoan, Lo Di Hong"
Poetry translation:
“Tired birds return to the forest to find a place to sleep
Clouds float gently in mid-air
The girl from the mountain village grinds corn at night
After grinding, the charcoal furnace was glowing red."
The very title of the poem reminds readers of a specific time of day, which is evening. This is a special time of the day, when people are returning home to rest and reunite with their families after a hard day's work. At the same time, it is also the time when the birds return to their nests after a day of foraging: See more: Present your understanding of the main features of the Vietnamese critical realist literary movement from 1930 - 1945
“Tired birds return to the forest to find a place to sleep
Clouds float gently in mid-air.
Analysis of the poem Dark Afternoon
A long day is about to end, the birds return to seek shelter and sleep, but the person here who is the prisoner still continues on his path of labor. The road is full of hardships and hardships with shackles and chains on the body. It was late afternoon and night was about to fall but there was still no rest. The author does not directly describe his hardships and hardships, but uses the image of a tired bird's wings. Besides, in the midst of vast and vast nature, all eyes stop on the gently drifting clouds. A constellation of clouds contrasting with the entire "empty layer" shows us the smallness, loneliness, and isolation similar to his single footsteps in a foreign land. Besides, the first two verses also express the prisoner's desire to be free like that bird to return to his homeland, to be like a cloud freely floating in the sky. The two poetic images are very simple and close, but create a poetic effect that is both classic and modern.
In the midst of that lonely, lonely scene, human images appear, creating a highlight for the work: See more: With the knowledge you have learned about Nguyen Trai and Nguyen Dinh Chieu, what do you feel? What is the closeness in humane ideology between these two poets? Please present your opinion
“The girl from the mountain village grinds corn at night
After grinding, the charcoal furnace was glowing red."
How peaceful and beautiful is human life in the mountains and forests. On the tiring road, the prisoner looked out into the distance and saw a small hamlet. There appears the image of a "village girl" who, although it is almost dark, still works hard, making the evening picture lively and joyful. The poetic image has movement, making the painting capture the lyrical subject's eyes and become warm and healthy. Being in a foreign land but encountering familiar images of the village and homeland made the prisoner feel like he was relieved of his fatigue and felt more motivated to finish the day's labor. The poem makes the reader feel the rhythm of the corn mill, the rotations that not only carry the rhythm of time but also the breath of life. The rotation of the corn mill stopped when it was completely dark.
However, the poem does not end with the image of a girl grinding corn, but with the image of "a glowing coal furnace". The word "pink" seems to brighten up the whole poem and becomes the central image for the poem. The poet does not mention the word dark, but with the word "pink" he lets us feel the movement of time from dusk to complete darkness. The light emitted from the brazier makes us feel the warm family atmosphere, the simple life of workers in a small village. That light is also the prisoner's faith and optimism as he always looks forward, not slowing down. See more: Let's introduce a few features of the writer Et-mon-do De Ami-xi
Ho Chi Minh's poem Afternoon and Evening is a poem that represents the classic and modern beauty of his works. Through the poem, we can see the prisoner's leisurely and free manner, which also shows Uncle Ho's love for nature, love for life and love for people.
Loan Truong
|
Đề bài: Phân tích bài thơ Chí Khí Anh Hùng của Nguyễn Du
Bài làm
Chí Khí Anh Hùng là một đoạn trích trong tác phẩm Truyện Kiều của Nguyễn Du. Đây là đoạn nói về nhân vật Từ Hải. Đây là một hình tượng nhân vật lí tưởng thể hiện ước vọng về một nhân vật anh hùng mang những phẩm chất phi thường.
Truyện Kiều viết về cuộc đời của nhân vật Thúy Kiều. Sau khi nàng bị lừa bán mình vào lầu xanh chịu nhiều đau đớn, tủi nhục thì gặp được Từ Hải và được cứu ra khỏi đó. Giữa Từ Hải với Thúy Kiều tồn tại một thứ tình yêu rất đẹp nhưng tình yêu ấy lại không thể níu giữ và ngăn cản được chí hướng làm việc lớn, xây dựng cơ đồ của Từ Hải:
“Nửa năm hương lửa đương nồng
Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương
Trông vời trời bể mênh mang
Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong”
Từ ngày cùng trở về sống bên nhau thấm thoắt đã được nửa năm trời, cuộc sống và tình cảm vợ chồng còn đương nồng nàn nhưng lại không thể tiếp tục níu giữ được. Người trượng phu ấy đã sớm “động lòng bốn phương”. Qua đó ta thấy được ý chí lập công danh, sự nghiệp được nung nấu trong con người của Từ Hải. Hình ảnh ước lệ “trời bể mênh mang” gợi cho ta liên tưởng đến vóc dáng lớn lao, phi thường của người anh hùng, cùng với phong thái ung dung “lên đường thẳng rong”.Xem thêm: Lập dàn ý nghị luận về đức tính trung thực
Phân tích bài thơ Chí Khí Anh Hùng
Tiếp đó chính là cảnh tiễn biệt của Thúy Kiều mang theo sự khác biệt hoàn toàn với cảnh tiễn biệt với Kim Trọng hay Thúc Sinh:
“Nàng rằng: Phận gái chữ tòng
Chàng đi thiếp cũng quyết lòng xin đi”
Vốn phận gái theo chồng, Thúy Kiều cũng không mong muốn gì hơn và cũng không ngăn cản bước chân theo đuổi lý tưởng của chồng mà chỉ xin được đi cùng. Nàng cũng chỉ mong được thực hiện “xuất giá tòng phu” giống như bao người con gái khác không chỉ bởi nàng là vợ mà còn vì Từ Hải là ân nhân cứu mạng của nàng. Mong muốn là vậy nhưng Từ Hải nay đã quyết và đã có ý định của riêng mình:
“Từ rằng: Tâm phúc tương tri
Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình
Bao giờ mười vạn tinh binh
Tiếng chiêng dậy đất, bóng tinh rợp đường
Làm cho rõ mặt phi thường
Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia”
Trước lời xin đi cùng của Thúy Kiều thì Từ Hải đã bày tỏ lời trách móc đối với nàng. Tách nàng vốn không chỉ là người vợ mà còn là tri kỷ của mình cơ sao vẫn chưa thoát khỏi “nữ nhi thường tình”. Đồng thời còn khuyên nàng không cần phải đặt nặng việc “tòng phu” mà chỉ cần ở lại an phận thủ thường chờ tin. Đồng thời Từ Hải cũng cho Thúy Kiều một lời hứa hẹn đó là khi mà có trong tay mười vạn tinh binh thì chàng sẽ đón nàng “nghi gia”. Có thể thấy đây chính là điểm thể hiện chí khí của một người anh hùng, không chỉ cứu Thúy Kiều ra khỏi lầu xanh mà còn hứa hẹn khi lập được cơ đồ, sự nghiệp thì sẽ đón nàng về dinh và cho nàng một danh phận. Mặc dù cứng rắn, mặc dù có chút trách móc nhưng Từ Hải vẫn kín đáo thể hiện sự quan tâm, lo lắng của mình:Xem thêm: Cảm nhận của em về vấn đề kỷ luật trong học đường
“Bằng ngay bốn bể không nhà
Theo càng thêm bận, biết là đi đâu
Đành lòng chờ đó ít lâu
Chầy chăng là một năm sau vội gì”
Ra đi chỉ với một người một ngựa thong dong nhưng Từ Hải rất tự tin vào khả năng của mình. Lo lắng chuyến đi này của mình phải lang thang, phiêu bạt khắp nơi bởi chính chàng cũng không biết chắc mình sẽ đi đâu nên không muốn Thúy Kiều phải cùng phiêu bạt, chịu khổ với mình. Thêm vào đó thì chằng còn tự tin, quyết tâm xây dựng cơ đồ chỉ trong vòng một năm và bày tỏ ý định này của mình với Kiều để nàng có thể yên tâm chờ đợi. Lý tưởng của người anh hùng Từ Hải rất lớn lao, cao cả và chàng sẽ không để những chuyện “nữ nhi thường tình” làm ảnh hưởng đến quyết định của mình. Chính vì thế chàng sau khi bày tỏ suy nghĩ của mình đã dứt khoát lên đường:
“Quyết lời dứt áo ra đi
Gió mây bằng đã đến kỳ dặm khơi”
“Dứt áo ra đi” là hành động thể hiện sự quyết đoán, không gì có thể khiến người quyết định thay đổi ý kiến hay nán lại nữa. Bên cạnh đó nhà thơ còn mượn hình ảnh “gió mây bằng đã đến kì dặm khơi” để diễn tả giây phút tiễn biệt hào hùng. Có thể nói hình tượng người anh hùng Từ Hải là một sáng tạo đặc sắc của Nguyễn Du. Qua ngòi bút của ông thì Từ Hải là một con người mang tầm vóc cao lớn, vĩ đại.Xem thêm: Qua những lời thơ Thuật hoài (tỏ lòng), anh (chị) thấy hình ảnh trưng nam nhi thời Trần mang vẻ đẹp như thế nào? Điều đó có ý nghĩa gì với thế hệ trẻ hôm nay và ngày mai
Bài thơ Chí Khí Anh Hùng của Nguyễn Du đã cho ta thấy một người anh hùng với lý tưởng và ước mơ công lý mạnh mẽ. Bên cạnh đó bài thơ còn là nỗi niềm, tâm tư của tác giả về khát vọng công lý trong bối cảnh xã hội cũ.
Loan Trương
|
Topic: Analysis of the poem Chi Khi Anh Hung by Nguyen Du
Assignment
Chi Khi Anh Hung is an excerpt from the work The Tale of Kieu by Nguyen Du. This is a paragraph about the character Tu Hai. This is an ideal character image expressing the desire for a heroic character with extraordinary qualities.
The Tale of Kieu is written about the life of the character Thuy Kieu. After she was tricked into selling herself into a brothel and suffered a lot of pain and humiliation, she met Tu Hai and was saved from there. Between Tu Hai and Thuy Kieu, there exists a very beautiful love, but that love cannot hold and prevent Tu Hai's ambition to do great things and build a fortune:
“For half a year, the fragrance of the fire is strong
The man was instantly touched in all directions
It looks like a vast sky
The sword saddles its horse on a straight path."
It has been half a year since we returned to live together. Life and love between husband and wife are still passionate but they cannot continue to hold on. That man was soon "touched in all directions". Through this, we can see that the will to establish a reputation and a career is burning in Tu Hai's personality. The conventional image of the "immense sky" reminds us of the hero's great, extraordinary physique, along with his leisurely demeanor "on a straight path". See more: Prepare an outline for a discussion about the virtue of honesty
Analysis of the poem Chi Khi Anh Hero
Next is Thuy Kieu's farewell scene, which is completely different from the farewell scene with Kim Trong or Thuc Sinh:
“She said: A girl's fate is obedient
When he left, I was also determined to go."
Originally a woman who followed her husband, Thuy Kieu wanted nothing more and did not stop her from pursuing her husband's ideals, but only asked to go with him. She also just wants to be able to "exit her husband" like many other girls, not only because she is his wife but also because Tu Hai is her life-saving benefactor. That's the wish, but Tu Hai has now made up his mind and has his own intention:
“From the words: The heart and soul know each other
Why haven't you escaped the common womanhood yet?
When will there be 100,000 elite soldiers?
The sound of gongs shook the earth, shadows filled the street
Make your face extraordinary
Then I will take her into my family."
Before Thuy Kieu's request to go with her, Tu Hai expressed his blame towards her. Although she is not only his wife but also his soulmate, why hasn't he escaped from being a "normal girl?" At the same time, he also advised her not to put too much emphasis on "following her husband" but to just stay in peace and wait for news. At the same time, Tu Hai also gave Thuy Kieu a promise that when he had 100,000 elite soldiers in hand, he would welcome her into his "family". It can be seen that this is the point that shows the character of a hero, not only saving Thuy Kieu from the brothel but also promising that when he has established his fortune and career, he will welcome her back to the palace and give her a title. . Despite being tough and a bit scolding, Tu Hai still discreetly expressed his care and concern: See more: My feelings about discipline issues in school
“Equivalent to four oceans without a home
Theo is even busier, knowing where to go
Please wait a little while
Maybe it will be a year later."
Leaving with only one person and one horse, Tu Hai was very confident in his abilities. Worried that on this trip he would have to wander and wander everywhere because he himself was not sure where he was going, so he did not want Thuy Kieu to have to wander and suffer with him. In addition, he was no longer confident and determined to build his fortune in just one year and expressed his intention to Kieu so that she could wait with peace of mind. Hero Tu Hai's ideals are very great and noble and he will not let "normal girl" things affect his decisions. That's why, after expressing his thoughts, he decided to set out:
“Decided to leave
The wind and clouds have reached their peak."
"Take off your shirt and leave" is an act of decisiveness, nothing can make the person deciding to change their mind or stay any longer. Besides, the poet also borrowed the image of "the wind and clouds have come to an end" to describe the heroic moment of farewell. It can be said that the image of the hero Tu Hai is a unique creation of Nguyen Du. Through his pen, Tu Hai is a man of great stature and greatness. See more: Through the words Thuat Hoai (expressing love), you see the image of a man of the Tran Dynasty with beauty. how? What does that mean for the young generation of today and tomorrow?
Nguyen Du's poem Chi Khi Anh Hung shows us a hero with strong ideals and dreams of justice. Besides, the poem is also the author's feelings and thoughts about the desire for justice in the old social context.
Loan Truong
|
Đoạn trích Chị em Thúy Kiều nằm trong Truyện Kiều của Nguyễn Du là một đoạn trích vô cùng đặc sắc. Đoạn trích này đã thể hiện được tài năng miêu tả bậc thầy của Nguyễn Du trong việc thể hiện được vẻ đẹp của hai chị em Thúy Kiều.
Để giúp các em có thể phân tích bài thơ Chị em Thúy Kiều được tốt nhất, Kho tàng văn mẫu sẽ hướng dẫn các em lập dàn ý phân tích đoạn trích Chị em Thúy Kiều. Việc lập dàn ý sẽ giúp ích cho các em rất nhiều trong việc làm bài văn phân tích.
I. Lập dàn ý phân tích bài thơ Chị em Thúy Kiều
1. Mở bài
– Giới thiệu về tác giả Nguyễn Du và đoạn trích Chị em Thúy Kiều.
– Nguyễn Du là đại thi hào của dân tộc.
– Truyện Kiều là một tác phẩm xuất sắc. Đoạn trích Chị em Thúy Kiều là đoạn trích giới thiệu và miêu ả về tài sắc của hai chị em Thúy Vân, Thúy Kiều.
2. Thân bài phân tích bài thơ Chị em Thúy Kiều
a. 4 câu đầu
– Giới thiệu chung về chị em Thúy Kiều.
– Chị là Thúy Kiều, em là Thúy Vân.
– Hai người con gái đẹp toàn vẹn.
b. 4 câu tiếp
– Vẻ đẹp của Thúy Vân.
– Vẻ đẹp khiến cho thiên nhiên phải nhường nhịn
c. 16 câu còn lại
– Tài sắc của Thúy Kiều.
– Vẻ đẹp khiến người khác phải ghen tị.
– Kiều là người con gái sắc sảo với đủ các tài lẻ mà nổi bật nhất là tài gảy đàn.
– Dự báo trước về số phận bi thương của Kiều.
3. Kết luận
– Khái quát nội dung đoạn trích và nêu cảm nhận của em về đoạn trích này.
Bài viết liên quan:
>> Phân tích bài thơ Tức cảnh Pác Bó của Hồ Chí Minh (Có dàn ý chi tiết)
>> Phân tích bài thơ Con cò của Chế Lan Viên (Có dàn ý chi tiết)
>> Phân tích bài thơ về tiểu đội xe không kính (Có dàn ý chi tiết)
II. Lập dàn ý phân tích bài thơ Chị em Thúy Kiều
Nhà thơ Nguyễn Du là vị đại thi hào của dân tộc. Ông đã để lại cho đời nhiều tác phẩm lớn trong đó có tác phẩm Truyện Kiều. Truyện Kiều mặc dù lấy cốt truyện từ Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân nhưng Nguyễn Du đã có những sáng tạo vô cùng tuyệt vời và biến nó trở thành một tác phẩm thi ca xuất sắc của Việt Nam. Đoạn trích Chị em Thúy Kiều nằm ở phần mở đầu của Truyện Kiều. Nội dung đoạn trích này giới thiệu về hoàn cảnh, gia thế cũng như vẻ đẹp của hai chị em Thúy Kiều.Xem thêm: Phân tích bài thơ Độc Tiểu Thanh Ký của Nguyễn Du hay nhất
Mở đầu đoạn trích, tác giả Nguyễn Du đã giới thiệu về hoàn cảnh của hai chị em Thúy Kiều. Thúy Vân và Thúy Kiều là hai người con đầu lòng của gia đình Vương Ông. Họ là những người con gái đẹp:
Đầu lòng hai ả tố nga
Thúy Kiều là chị em là Thúy Vân
Mai cốt cách tuyết tinh thần
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười
Phân tích bài thơ Chị em Thúy Kiều
Có thể thấy ngay từ những câu thơ mở đầu này, Nguyễn Du đã dành nhiều tình cảm cho cả hai cô gái. Họ là những người đẹp về ngoại hình, đẹp cả cốt cách bên trong. Đó là vẻ đẹp hoàn mĩ khiến cho nhiều người ngưỡng mộ. Mặc dù cùng là hai người con gái đẹp nhưng mỗi người lại có một vẻ riêng không giống nhau. Nhà thơ Nguyễn Du cũng đã dành những vần thơ khác nhau để miêu tả hai người con gái này. Trước hết, ông miêu tả vẻ đẹp của Thúy Vân:
Vân xem trang trọng khác vời
Khuôn trăng đầy đặn nét ngày nở nang
Hoa cười ngọc thốt đoan trang
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da
Chỉ với 2 cặp lục bát miêu tả vẻ đẹp của Thúy Vân thôi nhưng cũng đủ để cho người đọc thấy cái tài trong việc sử dụng ngôn ngữ của Nguyễn Du. Khi miêu tả Thúy Vân, Nguyễn Du đã dùng những từ ngữ như trang trọng, đầy đặn, nở nang, đoan trang. Trước mắt người đọc hiện lên một Thúy Vân có vẻ đẹp trang trọng, thân mình đầy đặn, khuôn mặt bầu bĩnh. Nụ cười của nàng e lệ, đoan trang. Làn da trắng và mái tóc óng vượt như mây. Ở đây, nhà thơ đã so sánh vẻ đẹp của Thúy Vân với vẻ đẹp của thiên nhiên. Những từ ngữ như thua, nhường thể hiện sự ưu ái của thiên nhiên dành cho Thúy Vân. Thiên nhiên công nhận vẻ đẹp của nàng và chịu nhường trước vẻ đẹp ấy. Nó là dự báo cho một tương lại đầy êm đềm của Thúy Vân sau này.Xem thêm: Phân tích nhân vật Vũ Nương trong Chuyện người con gái Nam Xương (Có dàn ý chi tiết)
Mặc dù là em nhưng Thúy Vân lại được Nguyễn Du miêu tả trước. Điều này không có gì khó hiểu nếu như chúng ta phân tích tiếp phần sau của đoạn trích này. Ở đây, Nguyễn Du đã khéo léo sử dụng biện pháp đòn bẩy, mượn vẻ đẹp của Thúy Vân để làm nổi bật lên vẻ đẹp của Thúy Kiều:
Kiều càng sắc sảo mặn mà
So bề tài sắc lại là phần hơn
Như vậy là Vân đẹp bao nhiêu thì Kiều lại sắc sảo, mặn mà hơn bấy nhiêu. Và nếu so với Thúy Vân thì tài sắc của Thúy Kiều có nhiều phần hơn. Tuy nhiên, sự tài sắc của Thúy Kiều vượt quá cả thiên nhiên, nó khiến cho thiên nhiên phải ghen tị với nàng và đây chính là điềm báo cho một tương lai gặp nhiều sóng gió của Kiều:
Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh
Hai chữ ghen và hờn đủ để cho người đọc thấy được sự hờn ghen của thiên nhiên trước vẻ đẹp của Kiều. Phàm từ xưa đến nay, những người phải chịu sự ghen ghét của người đời thường hay gặp phải những điều bất hạnh bởi những người ghét họ sẽ luôn tìm cách để hãm hại họ. Nếu như thiên nhiên nhường nhịn trước vẻ đẹp của Thúy Vân thì Nguyễn Du lại để thiên nhiên hờn ghen trước vẻ đẹp của Thúy Kiều. Đây không chỉ là dự báo, nó còn thể hiện tài năng bậc thầy trong việc vận dụng từ ngữ của Nguyễn Du.Xem thêm: Soạn bài Con người quý nhất
Thúy Kiều không chỉ là một cô gái đẹp nghiêng nước nghiêng thành mà còn là một người:
Thông minh vốn sẵn tính trời
Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm
Thông minh và tài năng, Thúy Kiều có đủ tài cầm, kì, thi, họa đúng mẫu người phụ nữ lý tưởng của thời xưa. Trong số những tài năng ấy, cái tài gẩy đàn của Thúy Kiều được xem là:
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một chương
Khúc nhà tay lựa nên chương
Một thiên bạc mệnh lại càng não nhân.
Tài năng gẩy đàn của Thúy Kiều không ai có thể so sánh được. Nàng gảy bản nhạc do tự tay mình viết, nghe thôi cũng khiến người ta não nề. Thêm một lần nữa, Nguyễn Du lại dự báo cuộc đời đầy sóng gió của Thúy Kiều thông qua tiếng đàn.
Cuối bài, Nguyễn Du miêu tả cuộc sống của Thúy Kiều hiện tại. Đó là một cuộc sống êm đềm:
Phong lưu rất mực hồng quần
Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê
Êm đềm trướng rủ màn che
Tường đông ong bướm đi về mặc ai
Đoạn trích dài 24 câu nhưng Nguyễn Du chỉ miêu tả vẻ đẹp của Thúy Vân trong 4 câu và cũng chỉ tả về vẻ đẹp chứ không nói gì đến tài năng của Vân. Trong khi đó, Nguyễn Du dành tới 12 câu để miêu tả về vẻ đẹp cũng như tài sắc của Kiều. Ông miêu tả một cách kĩ lưỡng và tỉ mỉ để cho người đọc hiểu được, hình dung ra hết được vẻ đẹp của người con gái này.
Đoạn trích Chị em Thúy Kiều đã lột tả được tài năng của Nguyễn Du. Đây là một đoạn trích hay và đắt giá của tác phẩm Truyện Kiều.
Trên đây, chúng ta đã cùng nhau lập dàn ý phân tích bài thơ Chị em Thúy Kiều. Đoạn trích này có rất nhiều từ ngữ đắt giá, các em hãy chú ý khai thác kĩ ngôn ngữ trong đoạn trích để có thể làm bài văn phân tích bài thơ Chị em Thúy Kiều được sâu nhất.
Thu Thủy
|
Đoạn trích Chị em Thúy Kiều nằm trong Truyện Kiều của Nguyễn Du là một đoạn trích vô cùng đặc sắc. Đoạn trích này đã thể hiện được tài năng miêu tả bậc thầy của Nguyễn Du trong việc thể hiện được vẻ đẹp của hai chị em Thúy Kiều.
Để giúp các em có thể phân tích bài thơ Chị em Thúy Kiều được tốt nhất, Kho tàng văn mẫu sẽ hướng dẫn các em lập dàn ý phân tích đoạn trích Chị em Thúy Kiều. Việc lập dàn ý sẽ giúp ích cho các em rất nhiều trong việc làm bài văn phân tích.
I. Lập dàn ý phân tích bài thơ Chị em Thúy Kiều
1. Mở bài
– Giới thiệu về tác giả Nguyễn Du và đoạn trích Chị em Thúy Kiều.
– Nguyễn Du là đại thi hào của dân tộc.
– Truyện Kiều là một tác phẩm xuất sắc. Đoạn trích Chị em Thúy Kiều là đoạn trích giới thiệu và miêu ả về tài sắc của hai chị em Thúy Vân, Thúy Kiều.
2. Thân bài phân tích bài thơ Chị em Thúy Kiều
a. 4 câu đầu
– Giới thiệu chung về chị em Thúy Kiều.
– Chị là Thúy Kiều, em là Thúy Vân.
– Hai người con gái đẹp toàn vẹn.
b. 4 câu tiếp
– Vẻ đẹp của Thúy Vân.
– Vẻ đẹp khiến cho thiên nhiên phải nhường nhịn
c. 16 câu còn lại
– Tài sắc của Thúy Kiều.
– Vẻ đẹp khiến người khác phải ghen tị.
– Kiều là người con gái sắc sảo với đủ các tài lẻ mà nổi bật nhất là tài gảy đàn.
– Dự báo trước về số phận bi thương của Kiều.
3. Kết luận
– Khái quát nội dung đoạn trích và nêu cảm nhận của em về đoạn trích này.
Bài viết liên quan:
>> Phân tích bài thơ Tức cảnh Pác Bó của Hồ Chí Minh (Có dàn ý chi tiết)
>> Phân tích bài thơ Con cò của Chế Lan Viên (Có dàn ý chi tiết)
>> Phân tích bài thơ về tiểu đội xe không kính (Có dàn ý chi tiết)
II. Lập dàn ý phân tích bài thơ Chị em Thúy Kiều
Nhà thơ Nguyễn Du là vị đại thi hào của dân tộc. Ông đã để lại cho đời nhiều tác phẩm lớn trong đó có tác phẩm Truyện Kiều. Truyện Kiều mặc dù lấy cốt truyện từ Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân nhưng Nguyễn Du đã có những sáng tạo vô cùng tuyệt vời và biến nó trở thành một tác phẩm thi ca xuất sắc của Việt Nam. Đoạn trích Chị em Thúy Kiều nằm ở phần mở đầu của Truyện Kiều. Nội dung đoạn trích này giới thiệu về hoàn cảnh, gia thế cũng như vẻ đẹp của hai chị em Thúy Kiều.Xem thêm: Phân tích bài thơ Độc Tiểu Thanh Ký của Nguyễn Du hay nhất
Mở đầu đoạn trích, tác giả Nguyễn Du đã giới thiệu về hoàn cảnh của hai chị em Thúy Kiều. Thúy Vân và Thúy Kiều là hai người con đầu lòng của gia đình Vương Ông. Họ là những người con gái đẹp:
Đầu lòng hai ả tố nga
Thúy Kiều là chị em là Thúy Vân
Mai cốt cách tuyết tinh thần
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười
Phân tích bài thơ Chị em Thúy Kiều
Có thể thấy ngay từ những câu thơ mở đầu này, Nguyễn Du đã dành nhiều tình cảm cho cả hai cô gái. Họ là những người đẹp về ngoại hình, đẹp cả cốt cách bên trong. Đó là vẻ đẹp hoàn mĩ khiến cho nhiều người ngưỡng mộ. Mặc dù cùng là hai người con gái đẹp nhưng mỗi người lại có một vẻ riêng không giống nhau. Nhà thơ Nguyễn Du cũng đã dành những vần thơ khác nhau để miêu tả hai người con gái này. Trước hết, ông miêu tả vẻ đẹp của Thúy Vân:
Vân xem trang trọng khác vời
Khuôn trăng đầy đặn nét ngày nở nang
Hoa cười ngọc thốt đoan trang
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da
Chỉ với 2 cặp lục bát miêu tả vẻ đẹp của Thúy Vân thôi nhưng cũng đủ để cho người đọc thấy cái tài trong việc sử dụng ngôn ngữ của Nguyễn Du. Khi miêu tả Thúy Vân, Nguyễn Du đã dùng những từ ngữ như trang trọng, đầy đặn, nở nang, đoan trang. Trước mắt người đọc hiện lên một Thúy Vân có vẻ đẹp trang trọng, thân mình đầy đặn, khuôn mặt bầu bĩnh. Nụ cười của nàng e lệ, đoan trang. Làn da trắng và mái tóc óng vượt như mây. Ở đây, nhà thơ đã so sánh vẻ đẹp của Thúy Vân với vẻ đẹp của thiên nhiên. Những từ ngữ như thua, nhường thể hiện sự ưu ái của thiên nhiên dành cho Thúy Vân. Thiên nhiên công nhận vẻ đẹp của nàng và chịu nhường trước vẻ đẹp ấy. Nó là dự báo cho một tương lại đầy êm đềm của Thúy Vân sau này.Xem thêm: Phân tích nhân vật Vũ Nương trong Chuyện người con gái Nam Xương (Có dàn ý chi tiết)
Mặc dù là em nhưng Thúy Vân lại được Nguyễn Du miêu tả trước. Điều này không có gì khó hiểu nếu như chúng ta phân tích tiếp phần sau của đoạn trích này. Ở đây, Nguyễn Du đã khéo léo sử dụng biện pháp đòn bẩy, mượn vẻ đẹp của Thúy Vân để làm nổi bật lên vẻ đẹp của Thúy Kiều:
Kiều càng sắc sảo mặn mà
So bề tài sắc lại là phần hơn
Như vậy là Vân đẹp bao nhiêu thì Kiều lại sắc sảo, mặn mà hơn bấy nhiêu. Và nếu so với Thúy Vân thì tài sắc của Thúy Kiều có nhiều phần hơn. Tuy nhiên, sự tài sắc của Thúy Kiều vượt quá cả thiên nhiên, nó khiến cho thiên nhiên phải ghen tị với nàng và đây chính là điềm báo cho một tương lai gặp nhiều sóng gió của Kiều:
Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh
Hai chữ ghen và hờn đủ để cho người đọc thấy được sự hờn ghen của thiên nhiên trước vẻ đẹp của Kiều. Phàm từ xưa đến nay, những người phải chịu sự ghen ghét của người đời thường hay gặp phải những điều bất hạnh bởi những người ghét họ sẽ luôn tìm cách để hãm hại họ. Nếu như thiên nhiên nhường nhịn trước vẻ đẹp của Thúy Vân thì Nguyễn Du lại để thiên nhiên hờn ghen trước vẻ đẹp của Thúy Kiều. Đây không chỉ là dự báo, nó còn thể hiện tài năng bậc thầy trong việc vận dụng từ ngữ của Nguyễn Du.Xem thêm: Soạn bài Con người quý nhất
Thúy Kiều không chỉ là một cô gái đẹp nghiêng nước nghiêng thành mà còn là một người:
Thông minh vốn sẵn tính trời
Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm
Thông minh và tài năng, Thúy Kiều có đủ tài cầm, kì, thi, họa đúng mẫu người phụ nữ lý tưởng của thời xưa. Trong số những tài năng ấy, cái tài gẩy đàn của Thúy Kiều được xem là:
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một chương
Khúc nhà tay lựa nên chương
Một thiên bạc mệnh lại càng não nhân.
Tài năng gẩy đàn của Thúy Kiều không ai có thể so sánh được. Nàng gảy bản nhạc do tự tay mình viết, nghe thôi cũng khiến người ta não nề. Thêm một lần nữa, Nguyễn Du lại dự báo cuộc đời đầy sóng gió của Thúy Kiều thông qua tiếng đàn.
Cuối bài, Nguyễn Du miêu tả cuộc sống của Thúy Kiều hiện tại. Đó là một cuộc sống êm đềm:
Phong lưu rất mực hồng quần
Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê
Êm đềm trướng rủ màn che
Tường đông ong bướm đi về mặc ai
Đoạn trích dài 24 câu nhưng Nguyễn Du chỉ miêu tả vẻ đẹp của Thúy Vân trong 4 câu và cũng chỉ tả về vẻ đẹp chứ không nói gì đến tài năng của Vân. Trong khi đó, Nguyễn Du dành tới 12 câu để miêu tả về vẻ đẹp cũng như tài sắc của Kiều. Ông miêu tả một cách kĩ lưỡng và tỉ mỉ để cho người đọc hiểu được, hình dung ra hết được vẻ đẹp của người con gái này.
Đoạn trích Chị em Thúy Kiều đã lột tả được tài năng của Nguyễn Du. Đây là một đoạn trích hay và đắt giá của tác phẩm Truyện Kiều.
Trên đây, chúng ta đã cùng nhau lập dàn ý phân tích bài thơ Chị em Thúy Kiều. Đoạn trích này có rất nhiều từ ngữ đắt giá, các em hãy chú ý khai thác kĩ ngôn ngữ trong đoạn trích để có thể làm bài văn phân tích bài thơ Chị em Thúy Kiều được sâu nhất.
Thu Thủy
|
Bài thơ Con cò của Chế Lan Viên là một bài thơ mang phong cách nghệ thuật rõ nét và độc đáo của tác giả. Bài thơ viết về hình ảnh con cò, một hình ảnh đã quen thuộc trong ca dao, dân ca Việt Nam. Qua đó, nhà thơ muốn nói đến tình mẹ ấm áp và bao la.
Để các em có thể làm bài văn phân tích bài thơ Con cò được tốt nhất, Kho tàng văn mẫu sẽ hướng dẫn các em lập dàn ý chi tiết phân tích bài thơ Con cò đồng thời gợi ý làm văn để các em tiện tham khảo.
I. Lập dàn ý phân tích bài thơ Con cò
1. Mở bài
– Giới thiệu về tác giả Chế Lan Viên và bài thơ Con cò
– Nhà thơ Chế Lan Viên là một trong những tác giả xuất sắc của thi ca Việt Nam.
– Bài thơ Con cò được sáng tác năm 1962.
2. Thân bài phân tích bài thơ Con cò
a. Hình tượng con cò trong bài thơ
Khổ thơ thứ nhất
– Hình ảnh con cò trong thiên nhiên hiện lên trong lời ru:
+ Con cò bay lượn trên bầu trời yên ả.
+ Con cò lặn lội kiếm ăn
– Hình ảnh con cò – đứa con thơ của mẹ:
+ Con cò đến với tuổi ấu thơ của con một cách vô thức.
Khổ thơ thứ hai
– Cánh cò trở thành người bạn đồng hành cùng với con trên chặng đường đời.
b. Tấm lòng của người mẹ thể hiện qua lời ru
Khổ thơ thứ nhất
– Trong lời ru có tình thương của mẹ.
– Mẹ luôn ở bên cạnh yêu thương và che chở cho con.
Khổ thơ thứ hai
– Lời ru thấm đẫm tình thương của mẹ.
– Cánh cò trở thành ý nghĩa biểu tượng về lòng mẹ.
– Lòng mẹ luôn theo con đến suốt cuộc đời.
Khổ thơ thứ ba
– Hình ảnh con cò mang ý nghĩa biểu tượng cho tấm lòng của mẹ.
– Mẹ lúc nào cũng ở bên con, dù lớn con vẫn là con của mẹ.
3. Kết bài
– Khái quát lại nội dung bài thơ Con cò, ý nghĩa của bài thơ.
– Nêu cảm nhận của em về bài thơ Con cò.Xem thêm: Nghị luận xã hội về vấn đề ô nhiễm môi trường
Bài viết liên quan:
>> Phân tích bài thơ về tiểu đội xe không kính (Có dàn ý chi tiết)
>> Phân tích bài thơ Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận (Có dàn ý chi tiết)
>> Phân tích bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt (Có dàn ý chi tiết)
II. Bài làm phân tích bài thơ Con cò
Nhà thơ Chế Lan Viên tên thật là Phan Ngọc Hoan, ông sinh ra ở Quảng Trị nhưng lớn lên ở Bình Định. Sinh thời, Chế Lan Viên là một trong những nhà thơ xuất sắc và có rất nhiều đóc góp cho văn học Việt Nam thế kỉ XX. Thơ Chế Lan Viên mang một phong cách độc đáo, triết lý và trữ tình. Một trong số những bài thơ xuất sắc của Chế Lan Viên là bài thơ Con cò, nó thể hiện rõ nét nhất phong cách sáng tác của nhà thơ.
Hình ảnh con cò vốn đã quen thuộc với người dân Việt Nam thông qua các bài ca dao, dân ca. Thế nhưng trong bài thơ của mình, nhà thơ không dừng lại ở những cái có sẵn mà đã mở rộng hơn, nâng cao hơn thành biểu hiện cao quý của tình mẹ. Bài thơ được viết theo thể thơ tự do, số lượng tiếng trong mỗi câu lúc dài, lúc ngắn khiến cho âm điệu của bài thơ ngân nga như lời ru ngọt ngào của mẹ.
Phân tích bài thơ Con cò
Ngay từ những câu thơ mở đầu, chúng ta có thể nhận thấy hình ảnh người mẹ đang ôm ấp con trong vòng tay thương yêu của mình:
Con còn bế trên tay
Con chưa biết con cò
Nhưng trong lời mẹ hát
Có cánh cò đang bay
Từ điệu ru quen thuộc ấy, hình ảnh của những cánh cò bay lả bay la đã đi vào trong những giấc ngủ của con, mang theo những gì yên bình nhất. Trong khi con được ấm êm trong vòng tay của mẹ thì có biết bao nhiêu cánh cò ngoài kia đang phải lặn lội kiếm ăn. Mẹ đã tỏ rõ sự xót thương cho những cánh cò lận đận trong ca dao:
Có một mình, cò phải kiếm lấy ăn
Con có mẹ, con chơi rồi lại ngủ
Thân cò bé nhỏ phải đi kiếm ăn một mình chắc hẳn sẽ gặp không ít những khó khăn. Mẹ thương cho cánh cò nên càng thương con nhiều hơn, càng cố gắng bao bọc và che chở cho con. Những gì tốt đẹp nhất, mẹ đều dành cả cho con. Mẹ đã cùng con chơi, mẹ đã nâng giấc ngủ cho con bằng câu hát ru à ơi ngọt ngào, bằng dòng sữa mát trong của mẹ:Xem thêm: Nghị luận xã hội về tự lập
Ngủ yên! Ngủ yên! Ngủ yên
Cành có mềm, mẹ đã sẵn tay nâng
Trong lời ru của mẹ thấm hơi xuân
Con chưa biết con cò, con vạc
Con chưa biết những cành mềm mẹ hát
Sữa mẹ nhiều, con ngủ chẳng phân vân
Trong đoạn thơ này, nhà thơ đã sử dụng chất liệu lấy từ ca dao đó chính là con cò, con vạc, cành mềm. Nó khiến cho câu thơ trở nên gần gũi và gợi lên những hình ảnh đời thường của hai mẹ con. Qua đây, câu thơ cũng thể hiện được tình thương con lớn lao của người mẹ. Con còn nhỏ, suy nghĩ của con còn non nớt, ngây thơ và trong sáng vì thế chưa thể biết được những khó khăn, hoạn nạn trong cuộc đời. Nó cũng giống như cành mềm đã khiến cho cánh cò trong ca dao bị ngã xuống ao. Con cứ việc ngủ ngon mà chẳng cần phân vân vì những điều khó khăn ấy.
Trong lời ru của mẹ không chỉ nhằm giúp con ngủ ngon mà còn gửi gắm vào đó mong ước cho con được lớn khôn, rồi con cũng sẽ đến trường và đi học như bao đứa trẻ khác:
Ngủ yên! Ngủ yên! Ngủ yên
Con khôn lớn, con theo cò đi học
Cánh trắng cò bay theo gót đôi chân
Không dừng lại ở việc đi học, mẹ ước mong cho tâm hồn con được chắp cánh và vươn xa như cánh cò bay. Mẹ mong sao con lớn lên có thể trở thành một người có ích:
Lớn lên, lớn lên, lớn lên,…
Con làm gì?
Con làm thi sĩ
Cánh cò trắng lại bay hoài không nghỉ
Trước hiên nhà
Và trong hơi mát câu văn
Đó chính là mong ước của mẹ, mong ước con được nối nghiệp cha để sau này viết tiếp những câu chuyện về tình tượng cánh cò. Con sẽ làm đầy lên kho tàng văn học nước nhà, thổi những hơi thở mới mát lành vào trong những câu văn.Xem thêm: Lớp em tổ chức thảo luận với chủ đề “Nhà văn mà tôi hâm mộ”. Em hãy viết bài văn ngắn giới thiệu về nhà văn mà em yêu quý
Đến khổ thơ cuối của bài, mẹ đã hóa thân vào cánh cò để thể hiện tình yêu của mình với con. Dù cho cuộc sống sau này có đi đến đâu, con có tới nơi chân trời góc bể nào và dù phải vượt qua khó khăn, khổ ải như thế nào thì mẹ cũng sẽ tìm đến bên con, bảo vệ và che chở cho con:
Dù ở gần con
Dù ở xa con
Lên rừng xuống bể
Cò sẽ tìm con
Cò mãi yêu con
Con dù lớn vẫn là con của mẹ
Đi hết đời, lòng mẹ vẫn theo con.
Cuộc đời là thế, thời gian luôn vận động không ngừng. Hôm nay con còn bé, còn ở gần bên mẹ nhưng ngày mai con sẽ lớn, sẽ vỗ cánh bay xa, bay đến chân trời mơ ước của riêng con. Nhưng đối với mẹ con lớn thế nào cũng bé bỏng trong mắt mẹ, lớn thế nào cũng vẫn là con của mẹ và cho đến hơi thở cuối cùng mẹ vẫn luôn bên con.
Cuối cùng, người mẹ đưa mắt nhìn về phía xa xăm như để kiếm tìm hình bóng của một con cò:
À ơi
Một con cò thôi
Con cò mẹ hát
Cũng là cuộc đời
Vỗ cánh qua nôi
Bài thơ Con cò đã thể hiện được tình yêu thương bao la của mẹ dành cho con. Đó là tình thương sâu đậm, vô bờ bến. Những người mẹ Việt Nam, người mẹ nào cũng vậy, họ yêu con mình hơn chính bản thân. Nhà thơ đã nói thay được nỗi lòng của những người mẹ. Nội dung bài thơ thật đáng quý biết bao.
Trên đây là phần lập dàn ý phân tích bài thơ Con cò và bài văn mẫu. Các em hãy đọc thật kỹ, nắm được ý chính của bài sau đó tự lập dàn ý và viết bài văn của riêng mình.
Thu Thủy
|
The poem Stork by Che Lan Vien is a poem with a clear and unique artistic style of the author. The poem is written about the image of a stork, a familiar image in Vietnamese folk songs and folk songs. Through that, the poet wants to talk about mother's warm and immense love.
In order for you to be able to write the best essay analyzing the poem The Stork, Sample Literature Treasury will guide you to create a detailed outline to analyze the poem The Stork and at the same time give you suggestions on how to write an essay for your convenience. .
I. Create an outline to analyze the poem The Stork
1. Open the lesson
– Introduction to author Che Lan Vien and the poem Stork
– Poet Che Lan Vien is one of the outstanding authors of Vietnamese poetry.
– The poem Stork was composed in 1962.
2. Body analysis of the poem The Stork
a. The image of a stork in the poem
First stanza
– The image of a stork in nature appears in the lullaby:
+ The stork flies in the peaceful sky.
+ The stork dives around looking for food
– Image of a stork – a mother's child:
+ The stork comes to your childhood unconsciously.
Second stanza
– The stork becomes your child's companion on life's journey.
b. A mother's heart is expressed through lullabies
First stanza
– In the lullaby there is a mother's love.
– Mom is always by my side to love and protect me.
Second stanza
– The lullaby is imbued with a mother's love.
– The stork's wings become the symbolic meaning of the mother's womb.
– A mother's heart always follows her child throughout her life.
Third stanza
– The image of a stork symbolizes a mother's heart.
– Mom is always with you, no matter how old you are, you are still my child.
3. Conclusion
– Overview of the content of the poem The Stork, the meaning of the poem.
– State your feelings about the poem The Stork. See more: Social commentary on the issue of environmental pollution
Related articles:
>> Analysis of the poem about a squad of cars without windows (with detailed outline)
>> Analysis of the poem Fishing Boats by Huy Can (With detailed outline)
>> Analysis of the poem Fire Stove by Bang Viet (With detailed outline)
II. Essay analyzing the poem The Stork
Poet Che Lan Vien's real name is Phan Ngoc Hoan, he was born in Quang Tri but grew up in Binh Dinh. During his lifetime, Che Lan Vien was one of the outstanding poets and had many contributions to Vietnamese literature of the 20th century. Che Lan Vien's poetry has a unique, philosophical and lyrical style. One of Che Lan Vien's excellent poems is the poem Stork, which most clearly shows the poet's writing style.
The image of the stork is already familiar to the Vietnamese people through folk songs and folk songs. However, in his poem, the poet does not stop at what is available but expands and elevates it into a noble expression of mother's love. The poem is written in free verse, the number of words in each sentence is sometimes long, sometimes short, making the poem's melody hum like a mother's sweet lullaby.
Analysis of the poem The Stork
Right from the opening verses, we can see the image of a mother holding her child in her loving arms:
The child was still carried in his arms
I don't know the stork yet
But in the words my mother sings
There are stork wings flying
From that familiar lullaby, the image of storks fluttering about has entered my sleep, bringing with it the most peaceful things. While the child is warm and cozy in the mother's arms, there are countless storks out there who are scavenging for food. Mother clearly expressed her compassion for the struggling storks in the folk song:
Alone, the stork has to find food
I have a mother, I play and then sleep
The little stork having to go looking for food alone will certainly encounter many difficulties. Mom loves the stork so she loves her child even more and tries to cover and protect him even more. Mothers give the best things to their children. Mom played with me, she put me to sleep with her sweet lullaby, with her cool, clear milk: See more: Social commentary on independence
Sleep peacefully! Sleep peacefully! Sleep peacefully
Soft spike, the mother had already raised hands
In my mother's lullaby, I see the breath of spring
I don't know the stork or the cauldron
I don't know the soft branches my mother sings about
Mother's milk is abundant, baby sleeps without hesitation
In this poem, the poet used materials taken from folk songs: storks, cauldrons, and soft branches. It makes the poem closer and evokes everyday images of mother and child. Through this, the poem also shows the mother's great love for her child. You are still young, your thinking is still immature, naive and pure so you cannot know the difficulties and tribulations in life. It is like the soft branch that caused the stork's wing in the folk song to fall into the pond. You can just sleep well without worrying about those difficulties.
A mother's lullaby is not only intended to help her child sleep well, but also conveys her wish for her child to grow up and then go to school like any other child:
Sleep peacefully! Sleep peacefully! Sleep peacefully
When I grow up, I follow the stork to school
The stork's white wings flew along the heels of its feet
Not stopping at going to school, I wish for my child's soul to have wings and reach as far as a stork's wings. I hope you grow up to become a useful person:
Grow up, grow up, grow up,…
What do you do?
I am a poet
The white stork's wings flew again and again without stopping
Front porch
And in the coolness of the sentence
That was my mother's wish, my wish for my son to follow in his father's footsteps and continue writing stories about storks in the future. I will fill up the country's literary treasure, breathing fresh new breath into the sentences. See more: My class organized a discussion with the topic "Writers I admire". Write a short essay introducing the writer you love
In the last stanza of the poem, the mother transformed into a stork's wing to express her love for her child. No matter where life goes in the future, no matter what corner of the world you reach, and no matter what difficulties and hardships you have to overcome, I will always come to you, protect and protect you:
Even if you're close to me
Even though I'm far away from you
Up to the forest and down to the lake
The stork will find you
Stork loves you forever
Children, big is still the mother
Gone away, still under the mother's womb.
That's life, time is always in constant motion. Today you are still small, still close to your mother, but tomorrow you will grow up, flap your wings and fly far away, flying to the horizon of your own dreams. But for me, no matter how big you are, you are still small in my eyes, no matter how old you are, you are still my child and until my last breath, I will always be with you.
Finally, the mother looked into the distance as if searching for the silhouette of a stork:
Oh my
Just a stork
The mother stork sings
It's also life
Flap wings over the cradle
The poem The Stork shows a mother's immense love for her child. That is a deep, boundless love. Vietnamese mothers, like all mothers, love their children more than themselves. The poet has expressed the feelings of mothers. The content of the poem is so precious.
Above is an outline for analyzing the poem The Stork and a sample essay. Please read carefully, grasp the main idea of the article, then create an outline and write your own essay.
Thu Thuy
|
Đề bài: Phân tích bài thơ Con cò của Chế Lan Viên
Bài làm
Bài thơ Con cò của Chế Lan Viên là một trong những bài thơ xuất sắc của ông được sáng tác vào năm 1962. Bài thơ mang âm hưởng ca dao, dân ca đằm thắm, ngân nga ngọt ngào như một lời ru trong trẻo, tròn đầy những ân tình của tấm lòng người mẹ
Bài thơ mang tựa đề Con cò và có những câu thơ miêu tả sâu sắc và chân thực hình ảnh của những con cò. Nhưng thực chất hình ảnh cò là hình ảnh ẩn dụ, hình ảnh biểu trưng cho người phụ nữ, đặc biệt là những người mẹ:
“Con còn bế trên tay
Con chưa biết con cò
Nhưng trong lời mẹ hát
Có cánh cò đang bay…..
Con cò bay la
Con cò bay lả
Con cò Cổng Phủ
Con cò Đồng Đăng…
Cò một mình, cò phải kiếm lấy ăn
Con có mẹ, con chơi rồi lại ngủ
Con cò ăn đêm ….
Con cò xa tổ
Cò gặp cành mềm
Cò sợ xáo măng…”
Ngay từ những câu thơ đầu của bài thơ đã có những câu thơ nói lên thật chân thực và rõ rệt hoàn cảnh của con cò. Con cò được coi như một linh vật quan trọng không thể thiếu trong những lời hát ru của mẹ. Và những lời ru là những câu hát thiêng liêng đóng góp một phần giúp con khôn lớn thành người. Hình ảnh con cò cũng rất gần gũi với hình ảnh mẹ, bởi thân phận cò với thân phận người mẹ mang nhiều nét tương đồng. Những con cò luôn tần tảo, vất vả sớm hôm nhưng cò không hề biết than vãn, không bao giờ biết than thân. Bởi với thân cò, không phải là nghĩ cho mình, mà quan trọng hơn cả là nỗi lo lắng cho con. Nghĩ về con, lo lắng cho con nhiều hơn lo lắng cho mình, cò lúc nào cũng chỉ mang trong mình mối lo sợ những chú cò con của mình bị đói. Tấm lòng người mẹ cũng vậy, sinh con ra trên đời, người mẹ nhận ra đối với sinh linh bé nhỏ do mình tạo ra, hơn cả sự trách nhiệm mà là tình yêu thương thật sự. Có con, con chính là tất cả của mẹ, là niềm vui của mẹ, là nỗi buồn của mẹ, là những nỗi lòng của mẹ: “Con có mẹ, con chơi rồi lại ngủ”. Thật vậy, con có mẹ là chỗ dựa, con cần phải lo lắng điều chi? Con còn sợ điều chi? Trong tất cả mọi thứ tình cảm có trong cuộc đời mỗi người, tình mẫu tử luôn là thứ tình cảm thiêng liêng, cao quý nhất. Mẹ là người mang tình cảm sâu sắc và chân thật nhất với con. Người có thể hy sinh tất cả vì con, không chút toan tính, vụ lợi với con, chỉ có mẹ mới cho con cảm giác an toàn, ở bên mẹ con không bao giờ phải lo sợ những mối lo mang tên “thế giới bên ngoài” hay “xã hội ngoài kia”Xem thêm: Thuyết minh về con mèo“Ngủ yên! Ngủ yên! Ngủ yên!
Cành có mềm, mẹ đã sẵn tay nâng!
Trong lời ru của mẹ thấm hơi xuân.
Con chưa biết con cò, con vạc
Con chưa biết những cành mềm mẹ hát
Sữa mẹ nhiều, con ngủ chẳng phân vân”
Phân tích bài thơ Con cò
Bài thơ có lối sử dụng ngôn ngữ rất đặc sắc. Cùng với đó là nghệ thuật hoán dụ được vận dụng một cách sắc sảo đã đã giúp cho hình tượng tình mẫu tử càng thêm tỏa sáng. Những lời ru ngọt ngào, chứa chan tình yêu thương của mẹ. Những lời ru của mẹ mãi là những lời ca tuyệt vời nhất. Trong mỗi lời ru, mẹ phần nào đã có những nỗi niềm mong ngóng đến ngày con khôn lớn. Cánh cò, những lời ru cũng là hiện thân của mẹ, sẽ mãi theo con, chở che cho con, nâng đỡ những bước con đi. Không những sẽ cùng con khôn lớn trưởng thành, mẹ cũng sẽ cùng con chắp cánh những ước mơ:
“Lớn lên, lớn lên, lớn lên…
Con làm gì?
Con làm thi sĩ!
Cánh cò trắng lại bay hoài không nghỉ
Trước hiên nhà
Và trong hơi mát câu văn…”
Vì với mẹ, con là ý nghĩa lớn của cuộc đời mẹ, bởi vậy, con không cần phải lo lắng điều gì, dù con có khôn lớn trưởng thành, ngoài xã hội kia có bão tố phong ba thì mẹ cũng cùng con chống đỡ, mẹ bảo vệ con, che chở cho con. Tình mẫu tử của mẹ là nghĩa tình bền chặt, sắt son nhất trong cuộc đời mỗi con người:Xem thêm: Phân tích bài học nhân sinh được truyền tải qua tác phẩm Chiếc lá cuối cùng của Ô-hen-ri“Dù ở gần con
Dù ở xa con
Lên rừng xuống bể,
Cò sẽ tìm con
Cò mãi yêu con
Con dù lớn vẫn là con của mẹ
Đi hết đời, lòng mẹ vẫn theo con”
Bài thơ với những câu thơ mang âm hưởng nhẹ nhàng, giản dị nhưng lại thấm thía những ý nghĩa lớn vì tình mẹ vô cùng, Tình mẹ đối với con là bao la, là son sắt vô cùng. Tình mẫu tử là thứ tình cảm thiên liêng, đáng trân quý nhất trong cuộc đời.
Minh Anh
|
Topic: Analysis of the poem The Stork by Che Lan Vien
Assignment
Che Lan Vien's poem The Stork is one of his excellent poems composed in 1962. The poem has a profound folk and folk song sound, humming sweetly like a clear, round lullaby. full of love from a mother's heart
The poem is titled Stork and has verses that deeply and realistically describe the image of storks. But actually the stork image is a metaphor, a symbolic image for women, especially mothers:
“I still carry it in my arms
I don't know the stork yet
But in the words my mother sings
There are stork wings flying....
The stork flew away screaming
The stork flew away
Phu Gate stork
Dong Dang stork…
The stork is alone, the stork has to find food
I have a mother, I play and then sleep
The stork eats at night....
The stork is far from the nest
The stork meets a soft branch
Storks are afraid of disturbing bamboo shoots..."
Right from the first verses of the poem, there are verses that truly and clearly express the stork's situation. The stork is considered an important and indispensable mascot in mother's lullabies. And lullabies are sacred songs that contribute a part to helping children grow into adults. The image of a stork is also very close to the image of a mother, because the status of a stork and the identity of a mother have many similarities. Storks are always diligent and hard working day and night, but storks never know how to complain, never know how to feel sorry for themselves. Because with the stork body, it's not about thinking about yourself, but more importantly, worrying about your children. Thinking about her children, worrying about them more than worrying about herself, the stork always carries within herself the fear that her little storks will go hungry. The mother's heart is the same, when giving birth to a child, the mother realizes that for the little creature she created, it is more than responsibility but true love. Having a child, you are my everything, my joy, my sadness, my heartache: "I have my mother, I play and then sleep." Indeed, I have my mother as my support, so what do I need to worry about? What are you still afraid of? Of all the emotions in every person's life, motherly love is always the most sacred and noble. Mother is the person who has the deepest and most honest feelings for her child. The person who can sacrifice everything for her child, without any calculation or self-interest, is the only one who can give her a sense of security. With her by her side, she never has to fear the worries called "the outside world." out" or "society out there"See also: Explanation about the cat"Sleep peacefully! Sleep peacefully! Sleep peacefully!
Soft spike, the mother had already raised hands!
In my mother's lullaby, I see the breath of spring.
I don't know the stork or the cauldron
I don't know the soft branches my mother sings about
Mother's milk is abundant, baby sleeps without hesitation."
Analysis of the poem The Stork
The poem has a very unique use of language. Along with that, the skillfully applied art of metonymy has helped the image of motherhood shine even brighter. Sweet lullabies, filled with a mother's love. Mother's lullabies are always the most wonderful lyrics. In every lullaby, the mother somehow has hopes for the day her child grows up. The stork's wings and lullabies are also the embodiment of a mother, and will always follow you, protect you, and support your every step. Not only will I grow up and mature with my child, I will also help my child make dreams come true:
“Grow up, grow up, grow up…
What do you do?
I'm a poet!
The white stork's wings flew again and again without stopping
Front porch
And in the coolness of the sentence…”
Because for me, you are the great meaning of my life, so you don't need to worry about anything, even if you grow up and become an adult, if there are storms out there in society, I will support you together. , mother protects you, protects you. A mother's love is the strongest and most enduring love in every person's life: See more: Analysis of life lessons conveyed through Ohenri's work The Last Leaf "Even if you are near" child
Even though I'm far away from you
Up to the forest, down to the lake,
The stork will find you
Stork loves you forever
Children, big is still the mother
Gone away, still under the mother's womb"
The poem's verses have a gentle, simple sound but are imbued with great meanings because a mother's love is infinite, a mother's love for her child is immense, it is extremely ironclad. Motherly love is the most sacred and precious feeling in life.
Minh Anh
|
Đề bài: Phân tích bài thơ Con Cò của nhà thơ Chế Lan Viên
Bài làm
Con cò là một hình ảnh quen thuộc trong thơ ca dân gian của dân tộc. Mỗi khi nhắc đến hình ảnh con cò người ta lại gợi nhớ về quê hương và con người Việt Nam. Bài thơ Con Cò của Chế Lan Viên cũng đem lại cho người đọc những cảm nhận quen thuộc về tuổi thơ và cánh cò như trong thơ ca dân gian mà chúng ta đã quen thuộc.
Khổ thơ đầu của bài thơ giống như một lời ca nhẹ nhàng, êm ái:
“Con còn bế trên tay
Con chưa biết con cò
Nhưng trong lời mẹ ru
Có cánh cò đang bay”
Hình ảnh ta bắt gặp ở khổ thơ đầu này chính là hình ảnh đứa con nhỏ được mẹ ru bằng lời ru về con cò. Chắc hẳn trong số chúng ta đều từng nghe những câu hát ru có cánh cò:
“Con cò bay lả bay la
Bay từ cổng phủ bay ra cánh đồng”
Hay:
“Con cò mà đi ăn đêm
Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao”
Lời ru của mẹ đã mang đến cho con giấc ngủ yên bình, ấm áp. Trong những lời ru ấy khiến cho con có ấn tượng sâu sắc về cánh cò, cánh cò từ lời ru vào trong giấc mộng của con rồi lại từ giấc ngủ ấy khiến con nhận biết được hiện thực khi con thức. Lời ru cho ta cảm nhận được tình thương, cảm xúc dạt dào yêu thương của mẹ. Lời mẹ ru con gắn với những lời mẹ mong muốn truyền đạt, thấm nhuần vào tâm tưởng của con. Hình ảnh con cò là hình ảnh biểu tượng cho người nông dân cần cù, lam lũ, vất vả kiếm ăn mỗi ngày. Người mẹ mong muốn con được tiếp cận với những gì thân thuộc, thân thương của quê hương trước những tri thức bao la của nhân loại mà sau này con sẽ học ở trường lớp.Xem thêm: Phân tích nghệ thuật lập luận kết hợp với biểu cảm của trong bài Tựa “Trích diễm thi tập"
“Ngủ yên! Ngủ yên! Ngủ yên!
Cánh cò mềm mẹ sẵn tay nâng!
Trong lời ru của mẹ thấm hơi xuân!
Con chưa biết con cò, con vạc
Con chưa biết những cành mềm mẹ hát
Sữa mẹ nhiều con ngủ chẳng phân vân”
Phân tích bài thơ Con Cò
Điệp ngữ “ngủ yên” kết hợp với hình ảnh con cò được nhắc đi nhắc lại trong lời ru của mẹ. Qua đó ta thấy được tình cảm thiết tha mẹ dành cho con. Người mẹ hết lòng vì con, sẵn sàng hi sinh, trở che để con có giấc ngủ yên, để con chẳng phải phân vân bất cứ một điều gì. Câu thơ khiến cho người đọc nhớ về tuổi thơ, nhớ về những tháng ngày còn vô lo, vô nghĩ, những giây phút được nằm trong vòng tay dịu êm của mẹ. Điệp khúc “ngủ yên” ấy lại tiếp tục được cất lên từ lời ru của mẹ:
“Ngủ yên, ngủ yên, ngủ yên
Cho cò trắng đến làm quen
Cò đứng ở quanh nôi
Rồi cò vào trong tổ
Con ngủ yên thì cò cũng ngủ
Cánh của cò, hai đứa đắp chung đôi
Mai khôn lớn theo cò đi học
Cánh trắng cò bay theo gót đôi chân”
Mặc dù mẹ biết con còn bé bỏng, còn chưa biết con cò, con vạc nhưng mẹ vẫn muốn gửi gắm đến con những hình ảnh thân thuộc của quê hương, để cánh cò trắng đồng hành với con không chỉ trong lời ru của tuổi thơ mà cả khi con đã lớn khôn, khi con tới trường, tới lớp. Cánh cò đi từ lời ru đến hiện thực, cho con cảm nhận được cánh cò đang ở gần bên con, đang cùng con đi vào giấc ngủ. Và việc con ngủ yên có mối quan hệ mật thiết đến giấc ngủ của con cò, cò trở thành người bạn tri kỷ của con. Rồi khi con lớn lên những cánh cò vẫn tiếp tục theo gót chân con tới trường:Xem thêm: Từ bài văn Lao xao của Duy Khán, em hãy tả lại khu vườn trong một buổi sáng đẹp trời.
“Lớn lên, lớn lên, lớn lên…
Con làm gì?
Con làm thi sĩ?
Cánh cò trắng lại bay hoài không nghỉ
Trước hiên nhà
Và trong hơi mát câu văn”
Dù sau này có trưởng thành, dù con có làm bất cứ công việc gì thì mẹ vẫn mãi luôn là nguồn động lực cho con vững bước và thành công trên đường đời. Cánh cò trắng ở đây ta có thể hiểu đó chình là hình ảnh tượng trưng cho người mẹ. Khi con còn nhỏ, con nằm trong vòng tay mẹ, ngoài giấc ngủ của con là hình ảnh người mẹ vất vả kiếm sống để nuôi nấng con. Rồi sau này khi con lớn lên, khi con đã có nghề nghiệp cho riêng mình thì cánh cò trắng vẫn “bay hoài không nghỉ” bởi vì vẫn tiếp tục phải lo cho con, lo cho cuộc sống gia đình. Cánh cò ấy có thể không theo sát, hiện diện trước mắt con nhưng vẫn luôn dõi theo con. Cho đến khổ thơ thứ ba khiến cho ta thấy một thứ tình cảm giản dị mà xúc động:
“Dù được gần con
Dù ở xa con
Lên rừng xuống bể
Cò sẽ tìm con
Cò mãi yêu con
Con dù lớn, vẫn là con của mẹ
Đi hết đời, lòng mẹ vẫn yêu con”
Đây chính là những tâm tình của một người mẹ đối với người con. Dù con đã trưởng thành, lớn khôn, dù vòng tay của em bây giờ không thể ôm trọn con vào lòng, dù bất cứ hoàn cảnh nào thì mẹ vẫn yêu con. Bài thơ Con Cò được mở đầu bằng lời ru và cũng được kết lại với lời ru à ơi của mẹ. Một lời ru cho ta cảm nhận sâu sắc về tình mẫu tử thiêng liêng.Xem thêm: Anh (chị) Hãy phân tích hình tượng sóng trong bài thơ cùng tên của Xuân Quỳnh
Loan Trương
|
Topic: Analysis of the poem Con Co by poet Che Lan Vien
Assignment
The stork is a familiar image in the nation's folk poetry. Every time the image of a stork is mentioned, people are reminded of their homeland and people of Vietnam. Che Lan Vien's poem The Stork also gives readers familiar feelings about childhood and stork wings like in the folk poetry that we are familiar with.
The first stanza of the poem is like a gentle, gentle song:
“I still carry it in my arms
I don't know the stork yet
But in my mother's lullaby
There are stork wings flying"
The image we encounter in the first stanza of this poem is the image of a small child being lulled by his mother with a lullaby about a stork. Surely all of us have heard these lullabies with stork wings:
“The stork flew away screaming
Fly from the palace gate to the fields"
Or:
“The stork comes out to eat at night
I landed on a soft branch and flipped my neck into the pond."
Mother's lullaby has brought me a peaceful, warm sleep. Those lullabies made me have a deep impression of the stork's wings. The stork wings from the lullabies entered my dreams and then from that sleep made me aware of reality when I was awake. Lullabies help us feel our mother's love and feelings of love. A mother's lullaby to her child is closely linked to the words she wishes to convey and penetrates the child's mind. The image of a stork is a symbol of a hard-working, hard-working farmer who struggles to earn a living every day. The mother wants her child to have access to the familiar and beloved things of the homeland before the vast knowledge of humanity that the child will later learn in school. See more: Analysis of the art of argumentation combined with the expression in the title song "Excerpt from poetry collection"
“Sleep peacefully! Sleep peacefully! Sleep peacefully!
Mom's soft stork wings are ready to hold!
In my mother's lullaby, I see the breath of spring!
I don't know the stork or the cauldron
I don't know the soft branches my mother sings about
Breast milk makes many children sleep without hesitation."
Analysis of the poem Con Co
The alliteration "sleep peacefully" combined with the image of a stork is repeated again and again in mother's lullaby. Through this we can see the passionate love a mother has for her child. A mother is devoted to her child, ready to sacrifice and protect her child so that she can sleep peacefully, so that the child does not have to wonder about anything. The poem makes the reader remember their childhood, the carefree, thoughtless days, the moments lying in their mother's gentle arms. That "sleep peacefully" chorus continues to be heard from mother's lullaby:
“Sleep peacefully, sleep peacefully, sleep peacefully
Let the white stork come and get acquainted
The stork stood around the cradle
Then the stork entered the nest
If the child sleeps peacefully, the stork also sleeps
The two of us covered the stork's wings together
Mai grew up and followed the stork to school
The stork's white wings fly along the heels of its feet."
Even though I know you are still young and don't know the stork or the cauldron yet, I still want to send you familiar images of my homeland, so that the white stork will accompany you not only in the lullabies of your childhood. but also when you grow up, when you go to school and class. The stork's wings go from a lullaby to reality, allowing children to feel that the stork's wings are near them, accompanying them to sleep. And the child's peaceful sleep is closely related to the stork's sleep, and the stork becomes the child's soulmate. Then when the child grows up, the storks continue to follow the child to school: See more: From Duy Khan's essay Lao Cai, describe the garden on a beautiful morning.
“Grow up, grow up, grow up…
What do you do?
Are you a poet?
The white stork's wings flew again and again without stopping
Front porch
And in the coolness of the sentence"
Even when I grow up in the future, no matter what job I do, my mother will always be the source of motivation for me to move forward and succeed in life. The white stork wing here can be understood as a symbol of a mother. When I was young, I lay in my mother's arms. Outside of my sleep was the image of my mother struggling to make a living to raise her child. Then when the child grows up, when he has a career of his own, the white stork still "flies non-stop" because he continues to have to take care of his child and family life. That stork may not be closely following or present before your eyes, but it is always watching you. Until the third stanza makes us see a simple but touching sentiment:
“Even though I can be close to you
Even though I'm far away from you
Up to the forest and down to the lake
The stork will find you
Stork loves you forever
Children, big is still the mother
For the rest of my life, my heart will still love you."
These are the feelings of a mother towards her child. Even though you've grown up and grown up, even though your arms now can't hold you completely, no matter the circumstances, I still love you. The poem Con Co begins with a lullaby and also ends with a lullaby from mother. A lullaby gives us a deep sense of sacred motherhood. See more: Please analyze the image of waves in Xuan Quynh's poem of the same name.
Loan Truong
|
Phân tích bài thơ Cuối xuân tức sự của Nguyễn Trãi
Hướng dẫn
Đề bài: Phân tích bài thơ Cuôi Xuân Tức Sự của Nguyễn Trãi. Đây là bài văn có hay, chuc các em học tốt,
Nguyễn Trãi không chỉ là một vị quan tài giỏi, có công lớn trong việc xây dựng và bảo vệ đất nước mà còn là một nhà văn, nhà thơ, một đại thi hào của dân tộc. Ngoài áng thiên cổ hùng văn Bình ngô đại cáo, nhà thơ lớn này còn là tác giả của hàng trăm bài thơ Quốc âm, thơ chữ Hán đặc sắc. Trong số đó, phải kể đến bài Mộ xuân tức sự nguyên văn bằng chữ Hán.
Bài thơ được nhà thơ Khương Hữu Dụng dịch thành Cuối xuân tự sự như sau:
"Suốt ngày nhàn nhã khép phòng văn
Khách tục không ai bén mảng gần
Trong tiếng cuốc kêu xuân đã muộn
Đầy sân mưa bụi nở hoa xoan."
Bài thơ mang tên Cuối xuân tức sự, nghĩa là tả các sự việc xảy ra trước mắt vào một ngày cuối xuân. Nguyễn Trãi viết bài thơ này khi ông đã lui về ở ẩn tại Côn Sơn. Khi ấy ông đã không được tin dùng, lại bị nghi kị, gièm pha. Không gian trong bài thơ thu hẹp lại nơi phòng văn của tác giả, vắng lặng trọn ngày cửa khép, khách tục không kẻ vãng lai. Phải chăng nơi đây được ví như tiên cảnh, tách biệt hẳn với không khí ồn ào, náo nhiệt bụi bặm của phù hoa trần thế. Trọn ngày nhàn nhã, nhà thơ đang ẩn mình giữa rừng nho biển thánh, đắm mình trong hương sắc tư tưởng đạo đức của cố nhân từ các áng sách xưa lan tỏa.
"Suốt ngày nhàn nhã khép phòng vănXem thêm: Viết bài bình luận ngắn về tai nạn giao thông tại nước ta hiện nay (không quá 400 từ)
Khách tục không ai bén mảng gần"
Lời thơ rất mực nhẹ nhàng, nhưng hàm chứa ít nhiều chua cay, bực bội và khó chịu, mang theo tâm trạng của nhà thơ. Con người trước nay ham hành động vì nước vì dân như Nguyễn Trãi, bây giờ phải chịu bó rọ giữa phòng văn suốt ngày nhàn nhã. Nhìn cảnh đất nước lầm than, dân chúng khổ sở ông rất đau lòng mà không làm gì được.
Lúc bấy giờ các bậc công thần cũ có lòng yêu nước thương dân như Trần Nguyên Hãn, Phạm Văn Xảo đã bị gian thần gièm pha hãm hại cả rồi. Triều đình gần như chỉ còn lại một bọn xu nịnh âm mưu kéo bè kết cánh, thực hiện mọi thủ đoạn gian ác để củng cố địa vị của mình. Nhà thơ của chúng ta đã phải lánh xa bọn gian thần tục tử ấy, từ chối mọi gần gũi giao tiếp với họ. Ông chọn cho mình thái độ lánh đục tìm trong để bảo toàn khí tiết, dù phải cam chịu một nỗi cô đơn trong sạch. Thật thanh cao biết bao khi mà nhà thơ cố gắng ẩn mình để tìm sự trong sạch, từ bỏ phú quý giàu sang để không phải sống cùng những kẻ tội đồ xáu xa.
Thật ra trong thâm tâm nhà thơ lớn này, thái độ sống ấy chẳng qua là bất đắc dĩ, cùng đường nên mới phải giam mình như vậy. Tuy phải giam mình trong một phòng văn bé nhỏ, nhưng tâm hồn ông mở ra lồng lộng gió trời. Đóng cửa đấy, nhưng mùa xuân vẫn tràn qua bằng âm thanh của tiếng cuốc khắc khoải, bằng mùi hương của hoa xoan thoảng nhẹ. Cửa đóng mà lòng vẫn giao cảm chan hòa với thiên nhiên bên ngoài:Xem thêm: Phát biểu cảm nghĩ của em về truyện Chân, Tay, Tai, Mắt, Miệng
"Trong tiếng cuốc kêu xuân đã muộn"
Đầy sân mưa bụi nở hoa xoan. Nhà thơ cảm nhận xuân bằng tiếng cuốc và bằng mùi hương vọng vào, ông cảm nhận ra rằng ngoài kia hoa xoan đang nở trong làn mưa bụi rắc nhẹ lay phay. Tiếng cuốc gọi hè ở đây đâu chỉ nhắc nhở cho nhà thơ biết mùa xuân sắp tàn mà phải chăng như còn đem đến cho ông âm vang một hướng vọng về đất nước như một cách cảm nhận của người xưa. Ông đã linh cảm được số phận của đất nước, số phận của nhân dân. Chim cuốc là hóa thân Thục Đế ngày nào bị mất nước, nên còn ôm mãi mối hờn khôn nguôi. Tuy trong phòng văn, nhưng chẳng phút nào nhà thơ không nghĩ đến hoàn cảnh đất nước đang buổi khó khăn. Đôi lúc lại chạnh nghĩ đến cảnh mình tuổi xuân đã muộn. Nỗi day dứt không nguôi trong lòng đã hóa thân thành từng dòng thơ hàm súc mà ta đang phân tích. Đủ thấy, dù trong hoàn cảnh nào, nhà thơ vẫn không nguôi ngoai được nỗi niềm ái quốc yêu dân của mình.
Bài thơ khép lại với hình ảnh trong làn mưa bụi, hoa xoan hé mở thoảng một mùi hương. Sao lại là hoa xoan, một thứ hoa dân dã quen thuộc của quê hương mà không là hoa huệ, hoa lan ước lệ kiêu sa? Hoa nở dìu dịu trong mưa bụi lay phay thực là gợi cảm như niềm hy vọng hé nở trong lòng người, sau cuộc phong ba. Ta không thể không liên tưởng đến đôi dòng thơ của thiền sư Mãn Giác đời Lý:
"Chớ bảo xuân làn hoa lụi hếtXem thêm: Chọn và phân tích một số câu thơ hay trong bài thơ Cảnh ngày hè
Đêm qua sân trước một nhà mai"
Hay tả đôi câu của cụ Trạng Trình sau này:
"Chín mươi thì kể xuân đã muộn
Xuân ấy qua ngày xuân khắc còn"
Tuy mỗi người một cảnh, nhưng người xưa hầu như lúc nào cũng thắm thiết lòng tin yêu cuộc sống! Có thể xem đó là một bài học lớn cho con cháu ngày sau chăng?
Tóm lại, tuy có nhan đề là Cuối xuân tức sự, nhưng trong bài thơ, đâu phải nhà thơ ghi toàn các sự việc. Rõ ràng là phía sau xuân đã muộn mà hoa xoan vẫn bừng nở đầy xuân kia là tấm lòng của Nguyễn Trãi. Tấm lòng của một con người có nỗi niềm buồn bực, âu lo trong cô quạnh, nhưng vẫn tin yêu và hy vọng: lòng ưu dân ái quốc mãi mãi vẫn tràn đầy như sức xuân bất chấp cả tuổi tác, thời gian.
Bản dịch của nhà thơ Khương Hữu Dụng giản dị, trong sáng, thể hiện được tính cách và tâm hồn của tác giả. Về tiết tấu, bản dịch đã ít nhiều thoát khỏi khuôn sáo để có được âm điệu nhẹ nhàng, đa dạng. Có thể xem đây là một bài thơ hay, vì nó đã cô đúc được tâm tình và tư tưởng cao quý, thanh bạch của một thi hào thật đáng để cho người đời sau suy nghĩ và học hỏi.
Đứng trước cảnh đất nước lầm than, nhân dân khổ cục nhiều bậc nho sĩ tự giam mình nơi yên tĩnh. Với mong muốn là có thể giúp gĩ cho đất nước. Bài thơ không chỉ có nghệ thuât hay mà nó còn thể hiện khí phách kiên cường hiên ngang của một nho sĩ trước mặt chồng.
Nguồn:
|
Analysis of the poem At the end of spring is the story by Nguyen Trai
Instruct
Topic: Analysis of the poem Cuoi Xuan Tuc Su by Nguyen Trai. This is a good essay, I hope you study well,
Nguyen Trai is not only a good mandarin, with great contributions to building and protecting the country, but also a writer, poet, and a great national poet. In addition to the ancient epic poem Binh Ngo Dai Cao, this great poet is also the author of hundreds of national poems and unique Chinese poems. Among them, the poem Mo Xuan means the original text in Chinese characters.
The poem was translated by poet Khuong Huu Dung into the story of the end of spring as follows:
"All day leisurely closing the office
No one comes close to the ordinary guests
In the sound of the hoes, spring is late
The yard is full of dust and rain, blooming with oval flowers."
The poem is called At the end of spring, it means describing the events happening before our eyes on a late spring day. Nguyen Trai wrote this poem when he retired to Con Son. At that time, he was not trusted and was suspected and slandered. The space in the poem narrows to the author's office, which is quiet all day, the door is closed, and no one visits. Is this place considered a fairyland, completely separate from the noisy, bustling, dusty atmosphere of earthly vanity? All day leisurely, the poet is hiding in the middle of the holy sea grape forest, immersing himself in the fragrance of the moral thoughts of his ancestors spread from ancient books.
"Relaxing in the office all day long See more: Write a short commentary on traffic accidents in our country today (no more than 400 words)
No one comes close to ordinary guests."
The poem's lyrics are very gentle, but contain some bitterness, frustration and discomfort, conveying the poet's mood. People like Nguyen Trai, who were always eager to act for the country and the people, are now forced to spend their leisurely days in an office. Looking at the country's misery and people's suffering, he was very heartbroken but could do nothing.
At that time, old civil servants with patriotism and love for the people such as Tran Nguyen Han and Pham Van Xao were all harmed by detractors. The court was left with almost nothing but a group of flatterers plotting to form factions and carry out all sorts of evil tricks to consolidate their position. Our poet had to stay away from those deceitful people, refusing all close communication with them. He chose for himself the attitude of staying hidden to preserve his peace, even though he had to endure pure loneliness. How noble it is that the poet tries to hide himself to find purity, giving up wealth and wealth so he doesn't have to live with cruel sinners.
In fact, in the heart of this great poet, that attitude towards life was just a reluctance and a dead end, so he had to confine himself like that. Although he had to confine himself to a small office, his soul was open to the winds of heaven. The door is closed, but spring still flows through with the sound of the anxious hoe and the faint scent of neem flowers. The door is closed but my heart is still in harmony with nature outside: See more: Express your feelings about the story Legs, Hands, Ears, Eyes, Mouth
"In the sound of the hoes, spring is late"
The yard is full of dust and rain, blooming with oval flowers. The poet feels spring by the sound of the hoe and by the smell of the scent, he feels that outside the oval flowers are blooming in the lightly dusty rain. The sound of the hoe calling for summer here not only reminds the poet that spring is about to end, but also gives him an echo of the country like a way of feeling of the ancients. He had a premonition of the fate of the country, the fate of the people. The coot is the reincarnation of Emperor Thuc, who lost his country one day, so he still harbors endless resentment. Even though he was in the office, there was never a moment when the poet did not think about the difficult situation of the country. Sometimes I feel sad when I think about how late my youth is. The unrelenting torment in my heart has transformed into each line of concise poetry that we are analyzing. Enough to see that, no matter the circumstances, the poet still could not calm down his patriotic feelings and love for his people.
The poem closes with the image of a dusty rain, the neem flowers opening and smelling of scent. Why is it the oval flower, a familiar wild flower of the homeland, and not the beautiful lily or orchid? Flowers blooming gently in the dust and rain are truly as sensual as the hope that blooms in a person's heart after a storm. We cannot help but think of a couple of lines of poetry by Zen master Man Giac of the Ly dynasty:
"Don't say spring flowers will all fade See more: Select and analyze some good verses in the poem Summer Day Scenes
Last night in the front yard of a plum house"
Or describe a couple of sentences of Mr. Trang Trinh later:
"At ninety, spring is already late
That spring has passed and the spring still remains."
Although each person has a different situation, the ancients almost always had a deep faith and love for life! Can it be considered a great lesson for future generations?
In short, even though the title is Late Spring, the events, in the poem, the poet does not write down all the events. It's clear that spring is late but the ao dai is still blooming in full bloom, that is Nguyen Trai's heart. The heart of a person is filled with sadness and anxiety in solitude, but still believes in love and hopes: patriotism is forever filled with spring energy regardless of age and time.
Poet Khuong Huu Dung's translation is simple and clear, expressing the author's personality and soul. Regarding rhythm, the translation has more or less escaped cliché to have a gentle, diverse tone. This can be considered a good poem, because it has captured the noble and pure feelings and thoughts of a poet that is worthy for future generations to think and learn from.
Faced with the country's misery and the people's suffering, many Confucian scholars locked themselves in quiet places. With the desire to be able to help the country. The poem not only has good art, but it also shows the tenacity and courage of a Confucian scholar in front of her husband.
Source:
|
Đề bài: Phân tích bài thơ Câu Cá Mùa Thu của Nguyễn Khuyến
Bài làm
Nguyễn Khuyến được mệnh danh là nhà thơ của nông thôn Việt Nam. Những đề tài trong thơ ca của ông đều viết về những vùng quê dân dã. Bài thơ Thu Điếu hay còn được gọi là bài Câu Cá Mùa Thu là một trong ba bài thuộc chùm thơ thu của ông.
Câu Cá Mùa Thu mang đến cho người đọc những cảm nhận sâu sắc về mùa thu, về tâm trạng của nhà thơ. Mở đầu bài thơ chính là cảnh thu được đón nhận từ cao, xa đến gần:
“Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo”
Hình ảnh một cái ao thu là hình ảnh thường thấy của vùng nông thôn Bắc Bộ, một vùng thuộc quê hương của Nguyễn Khuyến. Chỉ hai câu thơ ngắn ngủi nhưng lại xuất hiện rất nhiều vần “eo” khiến ý thơ như bị lắng đọng lại, không gian như gợi lên cho người đọc một cảm giác lạnh lẽo, yên tĩnh. Ao thu không được tác giả nói đến chiều rộng nhưng vẫn khiến ta cảm nhận được chiều rộng, chiều sâu bởi thấy làn nước “trong veo”. Giữa ao thu lạnh lẽo và rộng ấy xuất hiện một chiếc thuyền câu nhỏ đối lập với chiếc ao thu ấy. Khung cảnh có dấu vết của sự sống con người khiến cho cảnh vật bớt lạnh lẽo, tiêu điều nhưng vẫn gợi lên một nỗi buồn man mác.Xem thêm: Cuộc sống là một chuỗi bất tận những lựa chọn. Trình bày suy nghĩ của anh (chị) về vấn đề này
“Sóng biếc theo làn hơi gợi tí
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo”
Ao thu không quá lớn nhưng vì trong không gian có gió nên đã tạo nên làn sóng biếc “hơi gợn”. Mặc dù có sự chuyển động nhưng lại càng tô đậm thêm không gian yên tĩnh. Mùa thu chắc hẳn không thể thiếu lá vàng, chiếc lá thu nhẹ nhàng bay trong gió rồi khẽ rơi xuống mặt hồ yên ả. Phải có một một tâm hồn tinh tế, sự quan sát tỉ mỉ thì mới có thể nhận ra những âm thanh, những chuyển động rất nhẹ của cảnh vật trong không gian. Nguyễn Khuyến không chỉ cho thấy chiều sâu của cảnh mà còn thấy được độ cao, tạ nên sự khoáng đạt:
Phân tích bài thơ Câu Cá Mùa Thu
“Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo”
Ao thu nay đến bầu trời thu xanh ngắt, đó chính là những đặc trưng, những biểu tượng đẹp về mùa thu. Những áng mây “lơ lửng” khắp bầu trời mở ra không gian rộng rãi cho bài thơ. Nguyễn Khuyến lại trở về với những hình ảnh quen thuộc của đồng quê đó chính là hình ảnh con ngõ nhỏ với hàng trúc xanh. Tất cả đều thân thương, mộc mạc và gần gũi đến lạ. Cảnh vật gợi cho ta thấy một không ý yên bình, êm ả. Trời vào thu, ngõ trúc quanh co ấy im lìm bởi chẳng có ai, chẳng có “vị khách” nào qua lại.Xem thêm: Hình ảnh thiên nhiên trong các bài thơ Tràng Giang (Huy Cận), Đây mùa thu tới (Xuân Diệu), Đây thôn Vĩ Dạ (Hàn Mặc Tử). Phân tích những nét chung của thiên nhiên trong ba bài thơ và chỉ ra đặc điểm riêng của thiên nhiên trong từng bài thơ
Không còn buông ánh mắt đi ra xa nữa mà nhà thơ quay trở lại với nơi ông đang đứng:
“Tựa gối buông cần lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo”
Hai câu thơ cuối đã hé lộ chân dung và hành động của chính mình. Nguyễn Khuyến không dùng từ “buông cần” mà thành “ôm cần” nhưng lại cho chúng ta cảm nhận về phong cách rất riêng của nhà thơ. Những ngày tháng lui về ở ẩn, câu cá chính là thú vui tao nhã của những vị quan như ông. Bởi nó khiến cho con người ta có thể hòa mình với thiên nhiên, tâm hồn được thanh thản và tạm thời quên đi nỗi bận lòng với đất nước, với thế sự. Nhà thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm khi lui về ở ẩn cũng từng viết:
“Một mai, một cuốc, một cần câu
Thơ thẩn dầu ai vui thú nào”
Có thể thấy rằng câu cá là thú vui mà nhiều người ưa thích, nhiều người dùng nó làm trò tiêu khiển, để hưởng thụ cuộc sống. Với Nguyễn Khuyến ông còn phát hiện ra âm thanh của sự sống “cá đâu đớp động”, một âm thanh mơ hồ, phảng phất như đâu đây mà người ôm cần câu không thể xác định được vị trí của nó. Gắn với cuộc đời của Nguyễn Khuyến, ông vốn từng là một vị quan to trong triều đình, vì yêu nước thương dân nhưng lại bất lực trước thời cuộc. Ông không chịu khuất phục, không chịu làm tay sai cho thực dân nên đã từ quan, lui về ở ẩn. Giữa lúc câu cá có thể ông dã lơ là vì bận lòng nghĩ tới giấc mộng thu, mong ước quê hương êm ả, yên bình giống với mùa thu. Nhưng bất chợt âm thanh của cá đớp mồi khiến nhà thơ như bừng tỉnh và tìm kiếm vị trí phát ra tiếng động. Bên cạnh đó âm thanh này còn làm nổi bật hơn sự tĩnh mịch của ao thu.Xem thêm: Phân tích vẻ đẹp của hình tượng nhân vật Huấn Cao - trong truyện ngắn Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân. Từ đó nhận xét về nghệ thuật khắc họa nhân vật của nhà văn
Bài thơ Câu Cá Mùa Thu mang những nét đặc sắc trong nghệ thuật thơ Nguyễn Khuyến. Qua bài thơ ta thấy được tình yêu thiên nhiên, yêu quê hương tha thiết. Nguyễn Khuyến xứng đáng là nhà thơ của làng cảnh Việt Nam, giữ vị trí quan trọng trong nền thơ ca dân tộc.
Loan Trương
|
Topic: Analysis of the poem Autumn Fishing by Nguyen Khuyen
Assignment
Nguyen Khuyen is known as the poet of rural Vietnam. The topics in his poetry are all about rustic countryside. The poem Thu Dieu, also known as Autumn Fishing, is one of three poems in his collection of autumn poems.
Autumn Fishing gives readers deep feelings about autumn and the poet's mood. The beginning of the poem is an autumn scene that is welcomed from high, far and near:
"Cold pond water is clear collected
A tiny fishing boat atrophy"
The image of a autumn pond is a common image of the Northern countryside, a region of Nguyen Khuyen's hometown. Only two short verses but there are many "eo" rhymes, making the poetic meaning seem to be stagnant, the space seems to evoke a cold, quiet feeling for the reader. The width of the autumn pond is not mentioned by the author, but it still makes us feel the width and depth by seeing the "clear" water. In the middle of that cold and wide autumn pond, a small fishing boat appeared in opposition to that autumn pond. The scene has traces of human life, making the scene less cold and desolate but still evoking a profound sadness. See more: Life is an endless series of choices. Present your thoughts on this issue
“Blue waves follow the evocative breeze
Yellow leaves gently sway in the wind.
The autumn pond is not too big, but because there is wind in the space, it creates a "slightly rippled" blue wave. Although there is movement, it further enhances the quiet space. Autumn is certainly indispensable for yellow leaves. Autumn leaves gently flutter in the wind and then gently fall onto the calm lake surface. One must have a delicate soul and meticulous observation to be able to recognize sounds and very slight movements of scenes in space. Nguyen Khuyen not only shows the depth of the scene but also the height, creating spaciousness:
Analysis of the poem Autumn Fishing
“Clouds float in the blue sky
The winding bamboo alley is empty of customers."
The autumn pond and the blue autumn sky are the characteristics and beautiful symbols of autumn. The clouds "floating" across the sky open up a spacious space for the poem. Nguyen Khuyen returned to the familiar images of the countryside, which is the image of a small alley with rows of green bamboo. Everything is so dear, rustic and strangely close. The scenery reminds us of a peaceful, quiet atmosphere. It's autumn, that winding bamboo alley is quiet because there is no one, no "guests" passing by. See more: Images of nature in the poems Trang Giang (Huy Can), Here comes autumn (Spring Dieu), This is Vi Da village (Han Mac Tu). Analyze the common features of nature in the three poems and point out the unique characteristics of nature in each poem
No longer letting his eyes wander away, the poet returned to where he was standing:
“If you lean on the pillow and let go of the lever for a long time, it won't work
The fish don't bite under the water duck's feet."
The last two verses reveal his own portrait and actions. Nguyen Khuyen does not use the word "let go can" but "hug can" but gives us a sense of the poet's very own style. The days of retiring and fishing are the elegant pastimes of mandarins like him. Because it allows people to be in harmony with nature, their souls are at peace and temporarily forget their worries about the country and worldly affairs. Poet Nguyen Binh Khiem, when retiring, also wrote:
“One spade, one hoe, one fishing rod
Poetry is fun no matter who it is."
It can be seen that fishing is a hobby that many people enjoy, many people use it as a pastime, to enjoy life. With Nguyen Khuyen, he also discovered the sound of life, "fish do not move", a vague, subtle sound like somewhere that the person holding the fishing rod cannot determine its location. Associated with the life of Nguyen Khuyen, he was once a high-ranking official in the royal court, because he loved the country and loved the people but was powerless in the face of the times. He refused to submit, refused to be a lackey for the colonialists, so he resigned and retired. While fishing, he may have been absent-minded because he was preoccupied with thinking about autumn dreams, wishing for a quiet and peaceful homeland similar to autumn. But suddenly the sound of a fish biting the bait made the poet wake up and look for the location where the noise came from. Besides, this sound also highlights the stillness of the autumn pond. See more: Analysis of the beauty of the image of the character Huan Cao - in the short story Letters from death row prisoners by Nguyen Tuan. From there, comment on the writer's art of portraying characters
The poem Autumn Fishing carries unique features in Nguyen Khuyen's poetic art. Through the poem, we can see the love for nature and the passionate love for the homeland. Nguyen Khuyen deserves to be a poet of Vietnamese landscapes, holding an important position in national poetry.
Loan Truong
|
Phân tích bài thơ Cảm hoài của Đặng Dung
Hướng dẫn
Đặng Dung là danh tướng đời Hậu Trần, theo Trần Trùng Quang chống giặc Minh, lập được nhiều chiến công rất oanh liệt, về sau ông bị giặc bắt, giải về Trung Quốc, dọc đường ông nhảy xuống sông tự tử. Ông chỉ để lại một bài thơ duynhất, bài "Cảm hoài ” được coi là bài thơ bi hùng nhất trong nền văn thơ cổ điển Việt Nam đầu thế kỉ XV, Nguyễn tác bằng chữ Hán, viết theo thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật:
“Thế sự du du nại lão hà,
Vô cùng thiên địa nhập hàm ca.
Thời lai đồ điếu thành công dị,
Vận khứ anh hùng ẩm hận đa.
Trí chủ hữu hoài phù địa trục,
Tẩy binh vô lộ vãn thiên hà.
Quốc thù vị báo đầu tiên bạch,
Kỉ độ longtuyền đới nguyệt ma”
Cuối thế kỉ XIV, nhà Trần suy vong. Hồ Quý Ly đã cướp ngôi nhà Trần lập ra triều đại mới. Nhưng chẳng bao lâu sau, nhà Minh đem quân sang xâm lược nước ta: “Quân cuồng Minh đã thừa cơ gây hoạ – Bọn gian tà còn bán nước cầu vinh” (Bình Ngô đại cáo). Nước ta bị quân giặc chiếm đóng, thành Thăng Long bị chúng đổi thành Đông Quan. Dân tộc ta chìm trong đau thương tang tóc.
Cha con Hồ Quý Ly bị giặc Minh bắt đưa về Trung Quốc. Một bộ phận quý tộc nhà Trần tổchức kháng chiến, tiêu biểu là Trần Ngỗi và Trần Quý Khoáng. Nhưng đại sự không thành, nhiều anh hùng bị giặc bắt, bị giặc giết, trong đó có Đặng Dung. Bài thơ “Cảm hoài" được Đặng Dung viết trong những năm tháng cầm quân đánh giặc, cứu nước. Bài thơ là tiếng nói, là nỗi lòng của một thế hệ anh hùng cay đắng trước cảnh nước mất, nhân dân lầm than, quyết chiến đấu phục thù rửa hận.
Hai câu đầu phản ánh "thế sự" nước ta vào những năm 1407, 1408, 1409… khi quân "cuồng Minh" như sóng dữ ngập tràn non sông Đại Việt. Như một tiếng than khi đứng nhìn thời cuộc: “Việc đời thì dằng dặc mà tu đã giàrồi, biết làm thế nào… Đúng là lòng dạ bối rối. Và đó là bi kịch của người anh hùng:
“Thếsự du du nại lão hà,
Vô cùng thiên địa nhập hàm ca”
(Việc đời bối rối tuổi già vay,
Trời đất vô cùng một cuộc say).
Nói rằng “thiên địa nhập hàm ca ” là biểu lộ một thái độ về sự đảo điên trong cuộc đời. Câu 1 và câu 2 tương phản về mặt ý nghĩa đã nói lên “nỗi lòng” cảm hoài của nhà thơ.
Hai câu trong phần “thực” đối nhau, nêu bật “gặp thời” và “thất thế” đối với người anh hùng. Như một chiêm nghiệm lịch sử đầy cay đắng:
Thời lai đồ điếu thanh côngdị,
Vận khứ anh hùngẩm hận da
Đồ điếu: là đồ tể, người làm nghề mổ thịt; điếu: câu cá. Gặp thời, những kẻ “đồ điếu ”, bần tiện cũng dễ dàng làm nên công trạng, sự nghiệp lớn. Câu thơ gợi nhớ đến những nhân vật như Phàn Khoái, bán thịt chó, Hàn Tín, câu cá, về sau giúp Lưu Bang mà làm nên sự nghiệp lớn. Trái lại, nhiều anh hùng thất thế (vận khứ) phải nếm, phải uống nhiều hận (ẩm hận đa). Lịch sử từ bao đời nay đã cho ta thấy rõ điều nhà thơ cảm hoài. Trong câu thơ như có nhiều lệ. Đây là lời thơ dịch khá hay của Phan Kế Bính:
Xem thêm: Phân tích bài thơ Ngắm Trăng của Hồ Chí Minh“Bần tiện gặp thời, nên cũng dễ,
Anh hùng lỡ bước, ngẫm càng cay”.
Bảy trăm năm đã trôi qua, biết bao vật đổi sao dời, “phế, hưng mấy lớp ” mà ba chữ “ẩm hận đa” vẫn làm nhức nhối lòng người. Đó là nỗi cảm hoài vậy. Đó là nỗi cay đắng của người anh hùng thất thế, lỡ bước.
Phần “luận ” nói lên chí lớn của người anh hùng. Hình tượng thơ kì vĩ, tráng lệ:
“Trí chủ hữu hoài phù địa trục,
Tẩy binh vô lộ vãn thiên hà”.
Trên đường mưu đồ nghiệp lớn, cha bị Trần Ngỗi giết oan, ông đặt quyền lợi dân tộc lên trên hết, vẫn giãi gió dầm sương, xông pha trận mạc, để phò chúa, cứu nước, mong đem lại thái bình cho dân tộc. "Phù địa trục ” (nâng trục đất), “vãn thiên hà ” (lôi sông Ngân hà xuống) là hai hình ảnh kì vĩ, mang kích thước và tầm vóc vũ trụ, nói lên chí khí và khát vọng anh hùng trong thời loạn. Hai câu thơ hô ứng, đối chọi nhau, tạo nên giọng điệu anh hùng ca đầy ấn tượng. Câu thơ dịch khá hay, lột tả được ý vị cổ điển, trang trọng của vần thơ tráng lệ:
"Vai khiêng trái đất mong phò chúa,
Giáp gột sông trời khó vạch mây”
Hình ảnh người anh hùng mài gươm dưới ánh trăng đã "mấy độ”, trải qua nhiều năm tháng, mái tóc nay đã bạc, gợi lên màu sắc bi tráng. Trăng đã tà. Tuổi đã già. Thế mà "quốc thù ” vẫn đè nặng tâm hồn nhà thơ:
“Quốc thù vị báo đầu tiên bạch,
Kỉ độ long tuyền đới nguyệt ma”
“Long tuyền ” là gươm báu, thanh gươm để giết giặc, trả mối thù nước, đem lại thái bình cho đất nước và nhân dân. Đây là hai câu thơ đẹp nhất trong thơ văn Lí Trần, chói sáng "Hào khí Đông-A”.Đúng như Lí Tử Tấn, một danh sĩ đầu thời Lê đã viết: "Phi hào kiệt chi sĩ bất năng”. (không phải là kẻ sĩ hào kiệt thì không thể làm nổi).
Không thể lấy sự thành, bại để luận anh hùng. Đặng Dung là một anh hùng hào kiệt. Bài thơ thấm đượm một tình yêu nước, nhức nhối nỗi đau của người anh hùng lỡ bước. Cốt cách thi sĩ lồng trong cốt cách anh hùng. Đó là tư thế hiên ngang lẫm liệt, cho đến chết vẫn mang nặng mối thù nước không nguôi.
Đặng Dung đã “ẩm hận đa ”, sự nghiệp “quốc thờ vị báo ” không thực hiện được. Nhưng khí phách lẫm liệt, lòng yêu nước thiết tha của người anh hùng mãi mãi trường tồn cùng sông núi Đại Việt. Bài thơ “Cảm hoài ” cùng với tên tuổi Đặng Dung mãi mãi là bài ca yêu nước chống xâm lăng:
“Thù trả chưa xong, đầu đã bạc,
Gươm mài bóng nguyệt biết bao rày!”
Đó là “di hận ” của người anh hùng vận khứ – lỡ vận. Nửa thế kỉ sau Nguyễn Trãi trong bài thơ "Quan hải ” cũng nói về mối "di hận ” ấy. Đó là nỗi đau muôn thuở:
“Hoạ phúc hữu môi phi nhất nhật,
Anh hùng di hận kỉ thiên niên
(Hoạ phúc có manh mối, đâu phải một ngày,
Anh hùng để mối hận mấy nghìn năm sau).
“Cảm hoài ” là bài ca yêu nước bi tráng, là tiếng vọng sông núi nghìn năm.
Nguồn: thêm: Đặc sắc của truyện Chuyện chức phán sự đền Tản Viên (Tản Viên từ phán sự lục - Trích Truyền kì mạn lục - Nguyễn Dữ)
|
Analysis of the poem Feeling nostalgic by Dang Dung
Instruct
Dang Dung was a famous general of the Later Tran Dynasty. He followed Tran Trung Quang against the Ming invaders and achieved many glorious victories. Later, he was captured by the enemy and taken back to China. Along the way, he jumped into the river and committed suicide. He left behind only one poem, "Feeling" which is considered the most heroic and tragic poem in the classical Vietnamese poetry of the early 15th century. Nguyen composed it in Chinese characters and wrote it in the form of seven-word, eight-word Tang verse. the law:
"The world's troubles are endless, old man,
Infinite heaven and earth enter the jaws of brother.
In the future, the cigarette will be a success,
The hero's past is filled with hatred.
The owner's wisdom is filled with earthly axis,
Killing soldiers without revealing the rest of the galaxy.
The first reporter of the national enemy declared,
Longquan period of lunar demon zone"
At the end of the 14th century, the Tran Dynasty declined. Ho Quy Ly robbed the Tran dynasty to establish a new dynasty. But not long after, the Ming Dynasty sent troops to invade our country: "The crazy Ming army took advantage of the opportunity to cause trouble - The evil people still sold the country for glory" (Binh Ngo Dai Cao). Our country was occupied by the enemy, Thang Long citadel was changed to Dong Quan. Our nation is immersed in grief and mourning.
Ho Quy Ly's father and son were captured by the Ming invaders and brought back to China. A part of the Tran dynasty's nobles organized resistance, typically Tran Ngoi and Tran Quy Khoang. But the great event failed, many heroes were captured and killed by the enemy, including Dang Dung. The poem "Feeling Noi" was written by Dang Dung during his years leading the army to fight the enemy and save the country. The poem is the voice and heart of a generation of heroes who are bitter at the loss of their country and the people's suffering and determination. fight for revenge.
The first two sentences reflect the "world affairs" of our country in the years 1407, 1408, 1409... when the "mad Ming" army was like fierce waves flooding the Dai Viet river. It's like a lament when standing and looking at the situation: "Life's work is so endless, but since I'm old, I don't know what to do... It's really confusing. And that is the hero's tragedy:
“The world is so restless, old man,
Infinite heaven and earth enter the jaws of brother"
(Life is confusing in old age,
Heaven and earth are extremely drunk).
Saying that "heaven and earth enter into chaos" is to express an attitude about the chaos in life. Sentences 1 and 2 contrast in meaning, expressing the poet's "longings" and feelings.
The two sentences in the "real" part are opposite each other, highlighting "time is up" and "failure" for the hero. As a bitter historical contemplation:
In the future, you will have a strange success story,
The hero's past is filled with hatred
Tu Tu: is a butcher, a person who butchers meat; cigarette: fishing. When the time comes, even "stupid" and mean people can easily make great achievements and careers. The poem recalls characters like Phan Khoai, a dog meat seller, Han Tin, a fisherman, who later helped Luu Bang make a great career. On the contrary, many heroes who have lost their fortunes have had to taste and drink a lot of hatred (damp hatred). History for many generations has shown us clearly what the poet feels. There seem to be many rules in the poem. This is a pretty good translation of Phan Ke Binh's poem:
See more: Analysis of Ho Chi Minh's poem Watching the Moon: "It's easy to be mean in times of need.
The hero misses a step, thinking about it is even more bitter."
Seven hundred years have passed, so many things have changed and moved, "wasting, gaining many layers" but the three words "moist and hateful" still make people's hearts ache. That's such a nostalgic feeling. That is the bitterness of a defeated hero who missed a step.
The "essay" part speaks of the hero's great ambition. Magnificent and magnificent poetic images:
“The owner's wisdom is filled with earthly amulets,
Eradicate soldiers without revealing the rest of the galaxy."
On his way to plotting a great career, his father was unjustly murdered by Tran Ngoi. He put the nation's interests first, still braved the wind and fog, rushed into battle, to defend the lord, save the country, hoping to bring peace to the nation. . "Phu Dia axis" (lifting the earth axis) and "Van galaxy" (pulling down the Milky Way River) are two magnificent images, with cosmic size and stature, expressing the heroic spirit and aspirations of the times. The two verses respond and contrast, creating an impressive, heroic tone. The verse is translated quite well, portraying the classic, solemn meaning of the magnificent poem:
"Shoulders carry the earth, hoping to serve the lord,
Bordering the river and sky, it is difficult to separate the clouds"
The image of the hero sharpening his sword under the moonlight has "severed degrees", over many years, his hair is now silver, evoking a tragic color. The moon has turned dark. His age is old. Yet the "national enemy" still remains. weighs heavily on the poet's soul:
“The first reporter of the national enemy said,
"Dynasty Dragon and Lunar Zone"
"Long Tuyen" is a precious sword, a sword used to kill enemies, avenge feuds, bring peace to the country and its people. These are the two most beautiful verses in Ly Tran's poetry, shining "The pride of Dong-A". Just as Ly Tu Tan, a famous scholar in the early Le dynasty, wrote: "A heroic hero, an incompetent soldier". (If you're not a talented warrior, you can't do it).
You cannot use success or failure to judge heroes. Dang Dung is a heroic hero. The poem is imbued with patriotism, aching with the pain of the hero who missed a step. The poet's character is embedded in the hero's character. That is a fierce and courageous posture, even until death, one still carries an unrelenting hatred for the country.
Dang Dung was "soaked in hatred", his career of "worshiping the nation's newspaper" could not be achieved. But the heroic spirit and fervent patriotism of the hero will forever live on with the rivers and mountains of Dai Viet. The poem "Feeling" along with the name Dang Dung will forever be a patriotic song against invasion:
"Revenge is not yet finished, my head is gray,
Swords are polished to the moon's shine!”
That is the "hate" of a hero of past fortunes - bad luck. Half a century later, Nguyen Trai in the poem "Quan Hai" also talked about that "hate". It's an eternal pain:
“The misfortunes and misfortunes are one and the same day,
The hero who hates the millennium
(Happy luck has a clue, it's not just one day,
The hero leaves a grudge for thousands of years later).
"Feeling Forever" is a tragic patriotic song, an echo of thousands of years of mountains and rivers.
Source: more: Characteristics of the story The story of the judge of Tan Vien temple (Tan Vien Tu Judge Luc - Excerpt from Truyen Ky Man Luc - Nguyen Du)
|
Phân tích bài thơ Cảm tác vào nhà ngục Quảng Đông của Phan Bội Châu
Gợi ý
Cuối thế kỷ XIX, khi các phong trào đấu tranh chống Pháp lần lượt bị thất bại, đất nước chìm ngập trong đau thương. Bước sang đầu thế kỷ XX, hưởng ứng luồng gió mới từ phương Tây thổi tới, những con người yêu nước, quyết chí dành tự do cho dân tộc lại náo nức bước vào một cuộc đấu tranh mới, theo khuynh hướng dân chủ tư sản.
Phan Bội Châu xuất thân nho học song lại là người sớm có tinh thần tiên tiến, bắt nhịp với thời đại mới. Cái chí khí "phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất” (giàu sang không thể làm cho mê đắm, nghèo khó không thể làm cho thay lòng đổi dạ, uy vũ không thể làm cho khuất phục) của một nho gia đã biến thành bản lĩnh vững vàng, thành cốt cách anh hùng trước cơn tai biến ngụy nan của một chí sĩ cách mạng. Ngày 19-1-1914, Phan Bội Châu bị bắt giam vào ngục Quảng Đông. Trước đó, thực dân Pháp đã kết án tử hình vắng mặt đối với ông. Bài thơ Cảm tác vào nhà ngục Quảng Đông nằm trong Ngục trung thư – một huyết tâm thư tuyệt mệnh. Ngay từ đêm đầu tiên vào ngục Phan đã làm hai bài thơ Nôm (Cảm tác vào nhà ngục Quảng Đông là một trong hai bài ấy): "Làm xong hai bài thơ tôi ngâm nga lớn tiếng rồi cả cười, vang động cả bốn vành, hầu như không biết thân mình đang bị nhốt trong ngục". Xem ra, tù ngục cũng chẳng mảy may khiến bậc trượng phu nao núng.Xem thêm: Phân tích truyện Tam đại con gà. Đây là bài thơ thất ngôn bát cú Đường luật. Hai câu vào bài thể hiện ngay khẩu khí của bậc anh hùng:
"Vẫn là hào kiệt, vẫn phong lưu
Chạy mỏi chân thì hãy ở tù".
Nhân vật trữ tình hiện ra với một phong thái đường hoàng, tự tin đến ngang tàng, ngạo mạn. Giọng đùa vui, tự trào làm tan biến đi cảm giác của một người tù, chỉ thấy một tư thế cao ngạo, xem thường hiểm nguy. Cố nhân nói: Trí hơn vạn người gọi là "anh", trí hơn nghìn người gọi là "tuấn”, trí hơn trăm người gọi là "hào", trí hơn mười người gọi là "kiệt". Kẻ tài trí hơn người, phong thái ung dung, đường hoàng (phong lưu) đang ngân nga tỏ chí. Hai từ vẫn trong câu thơ đầu mang đậm tính khẩu ngữ. Một sự việc nghiêm trọng (tù) được nói đến bằng một thái độ cười cợt, xem thường. Bị giam hãm trong tù ngục (lại là tử tù!) mà cứ như khách tài tử tạm dừng chân trên chặng đường dài dặc. Hoàn cảnh dù có đổi thay, tai biến có thể đến bất cứ lúc nào nhưng chí khí thì chẳng khi nào dời đổi.
Hai câu tiếp, giọng thơ chợt chuyển:
Đã khách không nhà trong bốn biển,
Lại người có tội giữa năm châu
Tác giả tự nghiệm về thân thế của mình. Một cuộc đời bôn ba đầy sóng gió. Phan Bội Châu từng phiêu bạt khắp nơi (khi Trung Quốc, khi thì Nhật Bản, Thái Lan). Trên hành trình, lưu lạc ấy ông đã phải trải qua biết bao cay đắng, cực khổ.Xem thêm: Câu nói của M. Go-rơ-ki "Hãy yêu sách, nó là nguồn kiến thức, chỉ có kiến thức mới là con đường sống" gợi cho em những suy nghĩ gì?
Chỉ vì hết lòng muốn tìm đường cứu nước, chỉ vì yêu đất nước, dân tộc mình mà người chí sĩ bị xem như một tội nhân, bị truy nã khắp nơi. Phiêu bạt, lênh đênh, chẳng được yên ổn bao giờ, con người ấy cất tiếng than cho mình cũng là đau cho nỗi đau chung của một đất nước đang mất chủ quyền. Tiếng thở dài ấy là của bậc anh hùng. Cái buồn ấy là cái buồn của một người tù yêu nước, của một nhân cách phi thường. Một phút ngẫm ngợi về mình để rồi lại sang sảng ca lên âm giai lãng mạn:
Bủa tay ôm chặt bồ kinh tế
Mở miệng cười tan cuộc oán thù.
Kinh tế – kinh bang tế thế, người chí sĩ chẳng lúc nào thôi ôm ấp hoài bão trị nước cứu đời. Đấy là con đường Phan đã chọn, nguyện dấn thân. Vẫn là cái khẩu khí hơn người, tiếng "cười" của một người tù sao mà khoáng đạt đến thế. Đến độ ta chỉ còn thấy âm hưởng hào hùng bao trùm tất cả, lấn át tất cả như cánh buồm thênh thênh lướt sóng đại dương. Lối nói khoa trương đã được sử dụng để biểu đạt cái chí lớn lao, khát vọng xoay chuyển càn khôn. Như trong bài thơ Chơi xuân, Phan viết:
Phùng xuân hội, may ra, ừ cũng dễ,
Nắm địa cầu vừa một tí con con.
Đạp toang hai cánh càn khôn,
Đem xuân vẽ lại trong non nước nhà…
Hai liên giữa câu 3 – 4 câu 5-6 của bài thơ Cảm tác vào nhà ngục Quảng Đông đã tuân thủ khuôn mẫu của một bài thơ thất ngôn bát cú luật Đường trong đối ý, đối lời. Sự đăng đối, hài hòa ở những câu thơ này góp phần tạo ra ấn tượng về cái vững vàng. Các cặp tứ đối: bốn biển – năm châu, bủa tay – mở miệng, bồ kinh tế – cuộc oán thù khiến cho tầm vóc của người chí sĩ trở nên phi thường phù hợp với âm hưởng chủ đạo của bài thơ.Xem thêm: Bình giảng khổ thơ sau đây trong bài Đất nước của Nguyễn Đình Thi, từ: "Súng nổ rung trời giận dữ... Rũ bùn đứng dậy sáng loà" Bản lĩnh và tư thế khác người của người anh hùng yêu nước được khẳng định dứt khoát trong hai câu thơ kết bài:
Thân ấy hãy còn, còn sự nghiệp,
Bao nhiêu nguy hiểm sợ gì đâu!
Con người ấy còn sống là còn tranh đấu đến cùng cho lý tưởng chính nghĩa của mình. Hai chữ còn ngắt ra, điệp lại càng tăng thêm sắc thái mạnh mẽ, dứt khoát cho câu thơ. Ý chí thép sẽ chiến thắng hiểm nguy.
Cả bài thơ toát lên một tinh thần bất khuất, một tư thế vững vàng của bậc trượng phu trong cơn sóng gió. Truyền thống yêu nước, chí khí anh dũng của dân tộc đang tiếp tục mạch chảy bất tận trong tâm huyết chí sĩ Phan Bội Châu. Hình ảnh người anh hùng đã tạc vào lịch sử như một minh chứng cho tinh thần yêu nước, xả thân vì lý tưởng chính nghĩa.
Vanmau.edu.vn
|
Analysis of the poem Feelings of entering a Guangdong prison by Phan Boi Chau
Suggest
At the end of the 19th century, when the anti-French resistance movements failed one after another, the country was engulfed in pain. Entering the beginning of the twentieth century, responding to the new wind blowing from the West, patriotic people, determined to gain freedom for the nation, excitedly entered a new struggle, following the trend of bourgeois democracy. .
Phan Boi Chau came from a Confucian background but was an early adopter of an advanced spirit, keeping pace with the new era. The spirit of "wealth cannot be deceived, poverty cannot be betrayed, power cannot be hidden" (wealth cannot be infatuated, poverty cannot change one's mind, power cannot be hidden. The uniform) of a Confucian scholar turned into the steadfast courage and heroic character of a revolutionary scholar. On January 19, 1914, Phan Boi Chau was imprisoned in Guangdong. Before that, the French colonialists had sentenced him to death in absentia. The poem "Commission to Guangdong Prison" was in Central Prison - a suicide note. Right from the first night in prison, Phan wrote two words Nom poem (Reaction to entering a Guangdong prison is one of those two poems): "After finishing the two poems, I hummed loudly and then laughed, echoing all four rings, hardly knowing that my body was being locked inside. It seems that prison doesn't make the man flinch in the slightest. See more: Analysis of the story of the Three Great Chickens. This is a seven-word, eight-syllable poem, Tang Luat. Two lines in the poem immediately express the tone of voice. of heroes:
"Still heroic, still stylish
If your legs get tired of running, then you should go to jail."
The lyrical character appears with a dignified, confident and arrogant demeanor. The joking, self-deprecating tone made the feeling of a prisoner disappear, leaving only an arrogant posture, disregarding danger. The ancients said: Wisdom of more than ten thousand people is called "brother", wisdom of more than a thousand people is called "tun", wisdom of more than a hundred people is called "hao", wisdom of more than ten people is called "masterful". Those who are more talented than others, The leisurely, dignified manner (style) is humming to express the will. The two words in the first verse still have a strong tongue-in-cheek quality. A serious incident (prison) is mentioned with a joking, disdainful attitude . Being locked up in prison (on death row again!) is like an actor temporarily stopping on a long journey. Even though circumstances change, disaster can come at any time, but the spirit does not when to change.
In the next two sentences, the poetic tone suddenly changes:
Already a homeless guest in the four seas,
Another guilty person in five continents
The author reflects on his own situation. A life full of ups and downs. Phan Boi Chau used to wander everywhere (sometimes China, sometimes Japan, Thailand). On that journey and wandering, he had to go through so much bitterness and hardship. See more: M. Gorki's quote "Love books, it is the source of knowledge, only knowledge is What thoughts does "path of life" remind you of?
Just because he wholeheartedly wants to find a way to save the country, just because he loves his country and people, the brave man is considered a criminal, wanted everywhere. Wandering, adrift, never at peace, that person lamented for himself and for the common pain of a country losing its sovereignty. That sigh belongs to a hero. That sadness is the sadness of a patriotic prisoner, of an extraordinary personality. Take a moment to reflect on yourself and then sing in a romantic tone:
Holding hands tightly to the economy
Open your mouth and smile to dissolve the hatred.
The economy - the state of the economy, the wise man never stops embracing the ambition to rule the country and save life. That is the path Phan has chosen and is willing to commit to. It's still a more than human voice, the "laughter" of a prisoner is so spacious. To the point where we can only see the heroic sound that covers everything, overwhelming everything like a vast sail surfing the ocean waves. The rhetoric was used to express great will and the desire to turn the universe around. As in the poem Spring Play, Phan wrote:
Spring festival, luck, yes it's easy,
Hold the earth just a little bit.
Stepping on the two wings of the universe,
Bringing spring back to our country...
The two conjunctions between verses 3 - 4, verses 5-6 of the poem Entering a Guangdong prison follow the pattern of a poem with seven words and eight syntaxes of Tang law in contrasting ideas and words. The symmetry and harmony in these verses contribute to creating the impression of stability. The pairs of four opposites: four seas - five continents, clasping hands - opening mouth, economic affairs - revenge make the scholar's stature extraordinary in accordance with the main tone of the poem. See more: Commentary on the following stanza in Nguyen Dinh Thi's poem Country, from: "The gun shot shook the angry sky... Shaking off the mud, he stood up shining" The bravery and unique posture of the patriotic hero are affirmed. decisively in the two concluding verses:
That body still exists, the career still exists,
How many dangers are there to fear?
As long as that person is alive, he is still fighting to the end for his righteous ideals. The two words are still separated, the repetition adds a strong and decisive nuance to the poem. A will of steel will overcome danger.
The whole poem exudes an indomitable spirit, a steadfast posture of a man in the midst of storms. The nation's patriotic tradition and heroic spirit continue to flow endlessly in the heart of scholar Phan Boi Chau. The image of the hero has been carved into history as a testament to the spirit of patriotism and sacrifice for righteous ideals.
Vanmau.edu.vn
|
Bài thơ Cảnh khuya là một sáng tác độc đáo của Hồ Chí Minh. Bác đã miêu tả khung cảnh đêm khuya thật lung linh và huyền ảo. Nhưng không chỉ có vậy, thông qua bài thơ, Bác cũng thể hiện được tâm sự của bản thân mình.
Để các em có thêm tài liệu tham khảo bổ ích, Kho tàng văn mẫu sẽ cung cấp bài dàn ý phân tích bài thơ Cảnh khuya và bài văn mẫu của đề văn này.
I. Lập dàn ý phân tích bài thơ Cảnh khuya
1. Mở bài
– Giới thiệu về tác giả Hồ Chí Minh và bài thơ Cảnh Khuya.
2. Thân bài phân tích bài thơ Cảnh khuya
a. Hai câu đầu: Vẻ đẹp của bức tranh thiên nhiên
– Sử dụng biện pháp so sánh: tiếng suối như tiếng hát.
– Thiên nhiên tạo nên một bản nhạc quyến rũ.
– Điệp từ lồng: gợi sự huyền ảo của cảnh đêm.
b. Hai câu sau: Hình ảnh nhân vật trữ tình
– Khẳng định vẻ đẹp của bức tranh thiên nhiên.
– Tâm trạng lo âu đến không ngủ được của Bác.
3. Kết luận
– Khái quát nội dung bài thơ và nêu cảm nhận của em về bài thơ này.
Bài viết liên quan:
>> Phân tích bài thơ Bánh trôi nước của Hồ Xuân Hương (Có dàn ý chi tiết)
II. Bài làm phân tích bài thơ Cảnh khuya
Hồ Chí Minh không chỉ được biết đến là một vị lãnh tụ của cách mạng Việt Nam, Người còn là một nhà thơ, một nhà văn hóa lỗi lạc được cả thế giới kính trọng. Bác sáng tác nhiều bài thơ dù không tự nhận mình là nhà thơ. Bài thơ Cảnh khuya của Bác là một trong những bài thơ vô cùng độc đáo. Bác vẫn giữ phong cách thơ của mình trong bài này, tả cảnh để ngụ tình.Xem thêm: Dựa vào những tác phẩm đã học và đọc thêm, em hãy chứng minh ý kiến của Hoài Thanh: "Văn chương gây cho ta những tình cảm ta chưa có, luyện những tình cảm ta sẵn có" (Ý nghĩa văn chương). Từ đó, em rút ra cho mình bài học gì về việc đọc sách?
Bài thơ Cảnh khuya có tất cả 4 câu trong đó 2 câu đầu tiên Bác dùng để miêu tả khung cảnh thiên nhiên trong một đêm khuya thanh vắng:
Tiếng suối trông như tiếng hát xa
Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa
Phân tích bài thơ Cảnh khuya
Thời kháng chiến, Bác thường sống ở những nơi mà người ta vẫn gọi là rừng thiêng, nước độc. Những con suối, khe suối đã trở thành một đặc sản của miền sơn cước. Trong đêm khuya thanh tĩnh, chỉ có tiếng suối chảy róc rách vang lên. Tiếng suối càng làm tăng thêm vẻ êm đềm của màn đêm. Nếu như là ban ngày, thật khó để chúng ta có thể lắng nghe được tiếng suối. Nhưng đây là một đêm khuya, nó giúp Bác có thể lắng nghe tiếng suối chảy với những thanh âm trong veo vọng về như một tiếng hát từ đằng xa. Hòa chung với tiếng hát là hình ảnh trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa. Từ lồng ở đây thật đẹp, nó làm cho cây cối, cảnh vật, đất trời như hòa chung lại làm một. Trăng lồng vào ngọn cây cổ thụ, bóng của cây cổ thụ lại lồng vào với những bông hoa nở bên dưới gốc cây. Tất cả tạo nên một sự bó, thiên nhiên ôm ấp lấy nhau, hiền hòa và thơ mộng. Trong đêm, chỉ có những mảng sáng tối, vậy mà Bác nhìn ra được hình ảnh này, điều đó đủ để cho ta thấy tâm hồn của Bác thật cao đẹp.Xem thêm: Cảm nghĩ về dòng sông (hoặc dãy núi, cánh đồng, vườn cây,...) quê hương
Hai câu sau, Bác không miêu tả thiên nhiên nữa mà khẳng định vẻ đẹp của thiên nhiên. Qua đây, Bác cũng bộc lộ rõ tâm tư của bản thân mình. Bác lý giải việc mình không ngủ như sau:
Cảnh khuya như vẽ người chưa ngủ
Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà
Câu thơ thứ ba, Người khẳng định lý do mình chưa ngủ là vì cảnh khuya rất đẹp. Cảnh đẹp như tranh vẽ khiến cho con người yêu thiên nhiên như Bác không thể nào khước từ. Chúng ta thấy trong rất nhiều bài thơ của Bác, bài thơ nào Bác cũng miêu tả cảnh. Đó là một hồn thơ yêu thiên nhiên sâu sắc. Một người như Bác làm sao có thể từ chối cảnh đẹp như vậy. Nhưng đó chỉ là một phần, lý do chính khiến Bác không ngủ thật sự là vì Bác lo nỗi nước nhà. Nước nhà đang còn lầm than, nhân dân đang còn bị mất tự do thì Người còn tâm trí đâu để ngủ. Câu thơ đã làm toát lên được vẻ đẹp cốt cách của người lãnh tụ. Qua đây, người đọc thêm phần kính yêu Bác hơn.
Bài thơ Cảnh khuya là một sáng tác hay, nội dung thể hiện được tấm lòng của Bác đối với dân tộc, con người Việt Nam. Chính nhờ có Bác, cách mạng Việt Nam mới đi đến thắng lợi. Bác đã thức để con cháu của mình có được những giấc ngủ ngon.Xem thêm: Nguyên tiêu - Cảm nhận từ chữ nghĩa đến câu từ
Trên đây chúng ta đã cùng lập dàn ý phân tích bài thơ Cảnh khuya cũng như làm bài văn mẫu phân tích bài thơ Cảnh khuya. Bài viết này hy vọng đã đem đến cho các em thông tin bổ ích và cần thiết nhất.
Thu Thủy
|
The poem Late Night Scene is a unique composition of Ho Chi Minh. He described the late night scene as sparkling and magical. But not only that, through the poem, Uncle Ho also expressed his own feelings.
In order for you to have more useful reference materials, the Sample Literature Treasury will provide an outline for analyzing the poem Late Night Scene and a sample essay for this topic.
I. Create an outline to analyze the poem Late Night Scene
1. Open the lesson
– Introduction to author Ho Chi Minh and the poem Canh Late.
2. Body analysis of the poem Late Night Scene
a. First two sentences: The beauty of natural paintings
– Use comparison: the sound of a stream is like singing.
– Nature creates a captivating music.
– Rhyme from the cage: evokes the magic of the night scene.
b. The next two sentences: Image of a lyrical character
– Affirming the beauty of natural paintings.
– Uncle's anxiety to the point of not being able to sleep.
3. Conclusion
– Overview of the poem's content and state your feelings about this poem.
Related articles:
>> Analysis of the poem Water Floating Cake by Ho Xuan Huong (With detailed outline)
II. Essay analyzing the poem Late Night Scene
Ho Chi Minh is not only known as a leader of the Vietnamese revolution, he is also a poet and a prominent cultural figure respected around the world. He composed many poems even though he did not consider himself a poet. Uncle Ho's poem Late Night Scene is one of the most unique poems. He still maintains his poetic style in this article, describing scenes to convey love. See more: Based on the works you have learned and read more, please prove Hoai Thanh's opinion: "Literature causes us emotional feelings." The feelings we don't yet have, practice the feelings we already have" (Literary meaning). From there, what lesson did you learn about reading?
The poem Late Night Scene has a total of 4 sentences, of which the first 2 sentences are used by Uncle Ho to describe the natural scene in a quiet late night:
The sound of the stream looks like singing in the distance
Moon cage, ancient tree, shadow of flower cage
Analysis of the poem Late Night Scene
During the resistance war, Uncle Ho often lived in places that people called sacred forests and poisonous waters. Streams and streams have become a specialty of the mountainous region. In the quiet night, only the sound of the gurgling stream could be heard. The sound of the stream further enhances the peacefulness of the night. If it were daytime, it would be difficult for us to hear the sound of the stream. But this was a late night, which helped Uncle Ho to listen to the sound of the stream flowing with clear sounds echoing like a song from afar. Mixed in with the singing is the image of the moon cage, the shadow of an ancient tree, and the shadow of a flower cage. The cage here is so beautiful, it makes the trees, landscape, heaven and earth seem to blend into one. The moon is embedded in the top of the old tree, the shadow of the old tree is integrated with the flowers blooming below the tree. All create a bond, nature embracing each other, gentle and poetic. In the night, there are only patches of light and dark, yet Uncle Ho can see this image, which is enough to show us that Uncle Ho's soul is truly beautiful. See more: Feelings about the river (or mountains, or fields , garden,...) hometown
In the following two sentences, Uncle Ho no longer describes nature but affirms the beauty of nature. Through this, Uncle Ho also clearly expressed his own thoughts. He explained his lack of sleep as follows:
The late night scene is like drawing a person who hasn't slept yet
Not sleep, worrying that country
In the third verse, he affirms that the reason he hasn't slept yet is because the late night scene is very beautiful. The picturesque scene makes it impossible for people who love nature like Uncle Ho to refuse. We see in many of Uncle Ho's poems that every poem describes a scene. It is a poetic soul that deeply loves nature. How could a person like Uncle Ho refuse such a beautiful scene? But that's only part of it, the main reason why Uncle Ho doesn't sleep is really because he's worried about his country. The country is still suffering, the people are still losing freedom, so he has no mind to sleep. The poem brings out the beauty of the leader's personality. Through this, readers respect Uncle Ho more.
The poem Late Night Scene is a good composition, the content shows Uncle Ho's heart for the people and people of Vietnam. It was thanks to Uncle Ho that the Vietnamese revolution came to victory. He stayed awake so that his children and grandchildren could have a good night's sleep. See more: Nguyen Tieu - Feelings from words to sentences
Above we have created an outline to analyze the poem Late Night Scene as well as created a sample essay analyzing the poem Late Night Scene. This article hopes to bring you the most useful and necessary information.
Thu Thuy
|
Đề bài: Phân tích bài thơ Cảnh Ngày Hè của Nguyễn Trãi
Bài làm
Nguyễn Trãi là một nhà thơ nổi tiếng, một danh nhân văn hóa thế giới. Ông để lại cho văn đàn Việt Nam rất nhiều tác phẩm có giá trị lớn. Ngoài tác phẩm Bình Ngô đại cáo, một tuyệt tác được xem như một bản tuyên ngôn độc lập của dân tộc thì ông còn nhiều sáng tác khác viết về cảnh đẹp quê hương, đất nước, về vẻ đẹp tâm hồn của một thi nhân lớn của dân tộc. Một trong số đó chính là bài thơ Cảnh Ngày Hè.
Cảnh Ngày Hè được viết trong khi ông lui về ở ẩn tại Côn Sơn khi bị bề trên nghi kỵ. Tại đây ông tận hưởng một cuộc sống chan hòa với thiên nhiên, cây cỏ. Tuy nhiên vốn là một người luôn một lòng hướng về dân về nước nên ông vẫn không tránh khỏi nỗi lòng thế sự, khát khao cháy bỏng cống hiến vì nhân dân. Bài thơ được mở đầu bằng một hoàn cảnh an nhàn của người cư sĩ ở ẩn:
“Rồi hóng mát thuở ngày trường”
Ý thơ kết thúc bởi từ “trường” như kéo dài cả bài thơ, cả cuộc “hóng mát”. Những vẫn thơ liên kết với nhau giống như tiếng thở dài của chủ thể trữ tình. Nhà thơ nói về sự hưởng thụ cuộc sống đó là ngồi hóng mát nhưng lại không đem đến cảm giác an nhàn, tự tại. Từ “ngày trường” giống như giãi bày nỗi chán chường của những ngày dài vô vị. Những ngày tuy được vui vầy với thiên nhiên nhưng lại không hề thư thái, không được làm những gì mình mong muôn để cống hiến cho đời. Có thể đây chính là khởi nguồn của nỗi bực dọc sau này.Xem thêm: Phân tích tâm sự của Nguyễn Du trong bài Độc Tiểu Thanh kí
Phân tích bài thơ Cảnh Ngày Hè
Ấy vậy, đứng trước thiên nhiên tươi đẹp, tất cả những buồn phiền, bực bội đều được đè nén lại:
“Hòe lục đùn đùn tán rợp giương
Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ
Hồng liên trì đã tiễn mùi hương”
Chỉ với ba câu thơ ngắn ngủi nhưng đã phác họa nên một bức tranh thiên nhiên đầy màu sắc và chan chứa sức sống mãnh liệt. Trước tiên là hình ảnh cây hòe với màu xanh lục, màu xanh không chỉ ở vài điểm nhỏ mà “đùn đùn” giống như đang có sự chuyển động ngay trong nó và trải cả một vùng không gian rộng lớn. Màu lục của hòe giống như rợp cả đất trời. Đó là một cái nhìn rộng, bao quát của nhà thơ khi chuyển tầm mắt từ gần ra xa. Không chỉ có màu lục mà trong không gian ấy, nổi bật trên nền lục chính là màu đỏ của thạch lựu trước hiên nhà, là màu hồng của hoa sen. Cảnh vật nhiều sắc màu và còn mang theo mùi hương thanh mát của hoa sen. Thiên nhiên tươi đẹp biết bao nhiêu thêm vào đó còn mang một sức sống mãnh liệt và được tác giả miêu tả bằng những động từ như “đùn đùn”, “phun”. Cảnh vật đang bừng bừng sức sống nhưng cụm từ “tiễn mùi hương” như cô đọng lại thành một nỗi buồn man mác khi hương sen đương vào cuối hạ. Bởi có lẽ là tâm trạng khi mùa hạ sắp qua đi đón chào mùa thu bởi “Sen tàn cúc lại nở hoa”.Xem thêm: Cảm nhận của anh (chị) về hình ảnh ngọc trai - giếng nước
Bốn câu thơ đầu nhà thơ sống cuộc sống chan hòa giữa thiên nhiên đầy sức sống. Nhà thơ có sự cảm nhận tinh tế bằng nhiều giác quan đó là nhìn những cảnh sắc, là thấy mùi hương thơm. Không chỉ vậy mà Nguyễn Trãi còn lắng nghe âm thanh của cuộc sống:
“Lao xao chợ cá làng ngư phủ
Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương”
Thiên nhiên không hề vắng lặng, u tịch mà nó gắn liền với con người, với cuộc sống của người lao động. Từ láy “lao xao” đã khắc họa rõ nét âm thanh của của chợ cá, đó là cuộc sống thanh bình, yên ấm của làng chài. Phải có cuộc sống đầy đủ, sung túc thì cảnh mua bán mới tấp nập, chợ mới đông. Trong hai câu thơ có sự đăng đối giữa làng ngư phủ và lầu tịch dương. Nghệ thuật tương phản khiến cho câu thơ trở nên trang trọng, âm hưởng mới vẻ cho bài thơ. Điều mà tác giả ấn tượng, ám ảnh không phải là lầu trong chiều tà mà là tiếng ve kêu, tiếng ve mang đặc trưng của mùa hè. “Dắng dỏi cầm ve” giống như một bản nhạc vừa mạnh mẽ, vừa rạo rực, giống như đệm tiếng đàn cho cuộc sống đang hối hả. Chính Nguyễn Trãi dường như đang muốn được hòa cùng với cuộc sống nhộn nhịp ấy chứ không phải ngồi “hóng mát” nơi đây.
Thiên nhiên giống như làm thức tỉnh khát vọng mãnh liệt của nhà thơ, đó là khát vọng muốn kết thúc chuỗi ngày nhàn hạ, được trở lại với đời:Xem thêm: Phân tích câu Vì chưng hay ghét cũng là hay thương. Bạn hiểu ý thơ trên như thế nào?
“Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng
Dân giàu đủ khắp đòi phương”
Đó là ước mơ chân thành, giản dị và hết sức mộc mạc. Thiên nhiên quá mức tươi đẹp nhưng nhà thơ không muốn sống nhàn hạ, không muốn chỉ chăm chăm giữ lấy sự trong sạch cho riêng mình. Nguyễn Trãi luôn mong muốn được hành động, được sống vì lợi ích của dân tộc. Đó là một tấm lòng luôn hướng về nhân dân, về đất nước.
Bài thơ Cảnh Ngày Hè là một sáng tác thể hiện tình yêu thiên nhiên, yêu đất nước tha thiết. Qua đó ta thấy được tấm lòng của một người thi sĩ, của một người luôn muốn được cống hiến để nhân dân ấm no, hạnh phúc. Bài thơ giống như một bài học cho giới trẻ về lòng yêu nước về thái độ sống để trở thành người có ích cho xã hội.
Loan Trương
|
Topic: Analysis of the poem Summer Day Scene by Nguyen Trai
Assignment
Nguyen Trai is a famous poet and world cultural celebrity. He left behind many works of great value to Vietnamese literature. In addition to the work Binh Ngo Dai Cao, a masterpiece considered a national declaration of independence, he also wrote many other works about the beauty of his homeland, the country, and the beauty of the soul of a great poet. of the nation. One of them is the poem Summer Day Scene.
Summer Day Scene was written while he retreated to Con Son when he was suspected by his superiors. Here he enjoys a life in harmony with nature and plants. However, as a person who always had a heart for the people and the country, he still could not avoid worldly affairs and a burning desire to contribute to the people. The poem opens with a peaceful situation of a lay person in hiding:
"Then enjoy the cool air of school days"
The poem's meaning ends with the word "school" as if it extends the whole poem, the whole "cooling off". The poems are linked together like the sigh of the lyrical subject. The poet talks about enjoying life, which is sitting in the cool air, but it does not bring a feeling of comfort and freedom. The word "long day" is like expressing the boredom of long, boring days. These days, although we are happy with nature, we are not at all relaxed, we are not able to do what we want to contribute to life. Maybe this is the source of future frustration. See more: Analysis of Nguyen Du's confession in the article Doc Tieu Thanh Ky
Analysis of the poem Scenes of a Summer Day
Yet, standing in front of beautiful nature, all sadness and frustration are suppressed:
“Green trees spread out and spread out
Pomegranate jelly still sprays red
The red lotus tree has sent away the scent."
With just three short verses, it paints a colorful picture of nature filled with intense vitality. First is the image of the green tree, the green color is not just in a few small spots but "extrudes" as if there is movement right within it and spreads over a large area of space. The green color of the rose is like covering the whole sky and earth. It is a broad, comprehensive view of the poet when shifting his gaze from near to far. Not only is there green, but in that space, standing out on the green background is the red of the pomegranates on the front porch, the pink of the lotus. The scenery is colorful and also carries the cool scent of lotus flowers. How beautiful nature is, in addition it also carries a strong vitality and is described by the author with verbs such as "extrusion", "spray". The landscape is bursting with vitality, but the phrase "saying goodbye to the scent" seems to condense into a deep sadness as the scent of lotus blooms at the end of summer. Because perhaps it is the mood when summer is about to pass and welcome autumn because "The lotus withered chrysanthemum blooms again". See more: Your feelings about the image of pearls - wells of water
In the first four verses, the poet lives a harmonious life amidst vibrant nature. The poet has a delicate perception with many senses, seeing the sights and smells. Not only that, but Nguyen Trai also listens to the sounds of life:
“The bustle of the fisherman's village fish market
Carefully holding the cicada and passing away"
Nature is not quiet or desolate, but it is closely linked to humans and the lives of workers. The word "churn" clearly depicts the sound of the fish market, which is the peaceful, peaceful life of the fishing village. We must have a full and prosperous life for the shopping scene to be bustling and the market to be crowded. In two verses there is a contrast between the fisherman's village and the Tich Duong pavilion. The art of contrast makes the verse more solemn and gives a new sound to the poem. What impressed and haunted the author was not the building in the late afternoon but the sound of cicadas, the sound of cicadas characteristic of summer. “Strong and enthusiastic” is like a song that is both strong and exciting, like a musical accompaniment to a bustling life. Nguyen Trai himself seems to want to join in with that bustling life, not sit "cooling off" here.
Nature seems to awaken the poet's strong desire, which is the desire to end his leisurely days and return to life: See more: Analysis of the sentence Because often hating is also often loving. How do you understand the meaning of the above poem?
“There will be Ngu playing the guitar for a while
Rich people everywhere demand direction."
It is a sincere, simple and very rustic dream. Nature is so beautiful, but the poet does not want to live a leisurely life, does not want to just focus on keeping his own purity. Nguyen Trai always wants to act and live for the benefit of the nation. It is a heart that is always directed towards the people and the country.
The poem Summer Day Landscape is a composition expressing love for nature and passionate love for the country. Through this we can see the heart of a poet, of a person who always wants to contribute to making the people prosperous and happy. The poem is like a lesson for young people about patriotism and life attitude to become useful people for society.
Loan Truong
|
Phân tích bài thơ Cảnh ngày hè của Nguyễn Trãi
Hướng dẫn
Bài thơ Cảnh ngày hè được Nguyễn Trãi viết vào những ngày rỗi rãi, ngồi hóng mát, nhưng tâm trạng mang nỗi niềm tâm sự sâu kín. Trước vẻ đẹp của thiên nhiên, nhà thơ đã hòa mình vào thiên nhiên chung niềm vui với thiên nhiên, nhưng nhìn lại, tác giả vẫn không nguôi ngoai nỗi buồn đang chất chứa trong lòng mình.
Đứng trước đời sống thường ngày tại nơi ở ẩn để vẻ nên bức tranh phong cảnh với lầu cao, lúc mặt trời sắp lặn, những tiếng ve inh ỏi cuối cùng để rồi sẽ chìm vào im ắng, và người thi sĩ ấy có thể hóng mát một mình suốt ngày. Ông sẽ thấy gì ở cuộc sống ngày hè? Cây và hoa, người và vật đề bọc lệ hết nhiệt độ sống tối đa của nó. Cây thạch lựu cũng cố phun sắc đỏ. Hoa sen hồng thì cố tỏa hương ngát hơn. Chợ cá phải náo nhiệt lắm thì từ nơi xa mới vẳng lại được tiếng lao xao. Những tiếng ve cuối cùng của cuối ngày như muốn đứt giọng mà kêu.
Các động từ đùn đùn, phun, tiễn, lao xao, dắng dỏi đều diễn tả trạng thái đang vận động mạnh mẽ, ứa căng, tràn đầy của vạn vật. Cách ngắt nhịp cũng có sự biến đổi đặc biệt. Không đều đều, cân đối, nhịp nhàng 3/4 quen thuộc của thể thơ đường luật. Giữa "Hè lục đùn đùn / tán rợp gương" và "lao xao chợ cá / làng ngư phủ; dắng dỏi cầm ve / lầu tịch dương" là "Thạch lựu hiên / còn phun thức đỏ; hồng liên trì / đã tiễn mùi hương" (nhịp 3/4). Người ta sẽ cảm nhận được muôn vật, muôn vẻ khác nhau qua trạng thái và nhịp sống của nó bằng các động từ miêu tả và sự thay đổi tiết tấu ở các câu thơ. Sức sống này đầy đặn, lớp lớp sinh sôi, sức sống kia mạnh mẽ, cái này là bề rộng, cái kia là chiều cao. Tất cả đề sống động, đang khát sống. Cái thể trạng hừng hực là thể trạng riêng, là vẻ đẹp của cảnh vật ngày hè dưới con mắt nhìn của Nguyễn Trãi.
Xem thêm: Vẻ đẹp tâm hồn Nguyễn Trãi qua bài Cảnh ngày hè
Nhà thơ đã hòa mình vào thiên nhiên để cảm nhận vẻ đẹp của làng quê thanh bình, để tận hưởng thú vui chơi tao nhã của một kẻ sĩ có tại nhưng lại rồi nghề. Nhà thơ quan sát, tận hưởng hương vị, lắng nghe cái rướn mình sinh sôi, nảy nở, thôi thúc bên trong, đang ứa căng, tràn đầy, xôn xao của vạn vật và đời sống. Phải chăng có lòng yêu thiên nhiên, cuộc sống sâu sắc, thắm thiết, thấm thía con người này mới có thể thụ hưởng được như thế trong một buổi tối chiều hè, nhập nhoạng hoàn hôn khi đang mang một tâm rạng riêng dường như cô đơn, cô độc như vậy. Nguyễn Trãi sẽ vui cái vui sinh sôi, nảy nở đang diễn ra quanh mình để quên đi cái tâm không nhàn. Và cái tâm không nhàn của ông, chính là nỗi niềm, khát vọng về một đời sống thái bình, hạnh phúc cho dân cho nước. Nhất là khi chứng kiến đời sống thực, tự nhiên, yên lành, khát sống, không đua chen, bụi bặm của con người, tạo vật buổi tối cùng chiều như ngày hè này
Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng
Dân giàu đủ khắp đòi phương
Cuối cùng rồi tác giả cũng giãi bày được tâm trạng của mình trước sự đói khổ của dân của nước, giữ cảnh tang thương của chiến tranh. Đúng là một nhà yêu nước yêu dân vĩ đại, con người ấy chỉ mong cho đất nước được thái bình, nhân dân được yên ổn, no đủ. Chiến tranh chấm dứt: thế sự yên ổn, không ngờ lại đang chứa chất những rối ren, chưa biết khi nào mới thái bình. Con người đó muốn quên thân mình, phận mình để day dứt cho dân, cho nước. Nỗi đau, niềm lo, nỗi khát khao và tâm trạng ngậm ngùi cùng đồng thời hiện diện ở con người trước sau chỉ giữ vựng một quan niệm, một tình cảm "việc nhân nghĩa cốt ở yên dân".
Suốt cuộc đời Nguyễn Trãi đều lo cho dân cho nước, hi sinh mình để dân được ấm lo hạnh phúc. Việc ông xin về ở ẩn là vì ông thấy bất lực với thời cuộc, với chế độ xã hội lúc bấy giờ. Bài thơ cảnh ngày hè vừa miêu tả cảnh đẹp về ngày hè thật bình dị, yên bình, vừa thể hiện tâm trạng của nhà thơ, tác giả mong muốn có thể thay đổi được thời cuộc để người dân khắp nơi được ấm lo hạnh phúc.
Nguồn: thêm: Lập dàn ý cho đề văn: Phân tích bài thơ ‘Hồi hương ngẫu thư’
|
Analysis of the poem Summer Day Scene by Nguyen Trai
Instruct
The poem Summer Day Scene was written by Nguyen Trai on free days, sitting in the cool air, but his mood was filled with deep feelings. Faced with the beauty of nature, the poet immersed himself in nature and shared joy with nature, but looking back, the author still could not relieve the sadness that was contained in his heart.
Standing in front of daily life in a hidden place to paint a landscape painting with high floors, when the sun is about to set, the last loud sounds of cicadas will then fall silent, and the poet can contemplate. cool alone all day. What will you see in summer life? Trees and flowers, people and objects are exhausted from their maximum life temperature. The pomegranate tree also tries to spray red. Pink lotus flowers try to give off a more fragrant scent. The fish market must be very bustling for the sound of people to be heard from far away. The last sounds of the cicadas at the end of the day seemed like they were about to break and cry.
The verbs to extrude, to spray, to send, to stir, to be strong all describe the state of strong movement, fullness, and fullness of all things. The way of stopping the rhythm also has a special change. Irregular, balanced, and familiar 3/4 rhythm of Tang Luat poetry. Between "Summer green extrusion / canopy covered with mirrors" and "Current fish market / fisherman's village; boldly holding cicadas / Tich Duong floor" is "Pomegranate porch / still spraying red; persimmon persistently / has sent away the scent " (3/4 time). People will feel all things and their different appearances through their states and rhythms of life through descriptive verbs and rhythm changes in the verses. This vitality is full, multiplication, that vitality is strong, this is the width, that is the height. Everything is alive, thirsty for life. The fiery state is its own state, the beauty of the summer landscape under Nguyen Trai's eyes.
See more: The beauty of Nguyen Trai's soul through the article Summer Day Scenes
The poet immersed himself in nature to feel the beauty of the peaceful countryside, to enjoy the elegant pleasures of a successful scholar. The poet observes, enjoys the taste, listens to the growing, growing, urging within, the overflowing, overflowing, tumultuous movement of all things and life. Is it true that this person has a deep, passionate, and profound love for nature and life that he can enjoy like that on a summer evening, in the twilight of twilight, while carrying a separate, seemingly lonely mind? so alone, so lonely. Nguyen Trai will enjoy the joy of birth and growth happening around him to forget his idle mind. And his restless mind is the desire and desire for a peaceful and happy life for the people and the country. Especially when witnessing the real life, natural, peaceful, thirsty for life, without competition or dust of people and creatures in the evening and afternoon like this summer day.
There will be Ngu playing the guitar for a while
Rich people everywhere demand direction
Finally, the author was able to express his feelings towards the hunger and poverty of the country's people and the tragic scenes of war. Truly a great patriot who loves his people, he only wishes for the country to be peaceful and for the people to be peaceful and well-off. The war ended: the world was peaceful, unexpectedly it was filled with chaos, it was unknown when peace would come. That person wants to forget his body and destiny to suffer for the people and the country. Pain, worry, longing and sadness are present at the same time in people who have always held only one concept, one sentiment "the kindness of the people".
Throughout his life, Nguyen Trai always cared for the people and the country, sacrificing himself so that the people could be warm and happy. His request to go into hiding was because he felt powerless with the times and with the social regime at that time. The summer day scene poem not only describes the beautiful scenery of a simple and peaceful summer day, but also expresses the poet's mood and the author's wish to change the times so that people everywhere can be warm and happy. .
Source: more: Outlining the topic: Analyzing the poem 'Return to Homeland'
|
Phân tích bài thơ Cảnh ngày hè
Gợi ý
HƯỚNG DẪN
1. Trong bài thơ có nhiều động từ diễn tả trạng thái của cảnh ngày hè. Đó là: đùn đùn, rạp, giương, phun, tiễn, lao xao, dắng dỏi… Trạng thái của cảnh được diễn tả sinh động, nhiều màu sắc, đầy sức sống. Câu thơ tả cảnh vật đang ở lúc cuối ngày nhưng sự vật không dừng lại mà như đang có vận động, thôi thúc từ bên trong.
2. Cảnh ở đây có sự hài hòa giữa âm thanh và màu sắc, cảnh vật và con người.
Ầm thanh của cuộc sống lao động (lao xao chợ cá…), âm thanh của thiên nhiên(dắng dỏi cầm ve…) – tiếng ve mùa hè – được vang lên trên không gian làng quê bé nhỏ nhưng tràn đầy sức sông, vui tươi. Điều đó khẳng định tâm hồn đồng cảm với thiên nhiên mạnh mẽ của nhà thơ ức Trai.
3. Nhà thơ đã vận dụng hầu hết các giác quan của con người để cảm nhận thiên nhiên (thị giác, thính giác, khứu giác). Qua bức tranh thiên nhiên sinh động và đầy sức sống, ta thấy được sự giao cảm mạnh mẽ và tinh tế của tác giả đốì với cảnh vật. Yêu thiên nhiên, hòa mình trong cuộc sông của thiên nhiên, đó là một trong những nét đẹp của tâm hồn ức Trai tiên sinh.
4. Yêu thiên nhiên, nhưng với Nguyễn Trãi, trên hết vẫn là tấm lòng tha thiết với dân với nước. Trong cảnh no ấm, yên vui thái bình, Nguyễn Trãi ước có được chiếc đàn của Ngu Thuấn (vị vua của triều đại phong kiến lí tưởng, xã hội thanh bình, nhân dân hạnh phúc) để gảy khúc Nam phong thể hiện ước muôn “Dân giàu đủ khắp đòi phương”. Câu kết là một câu thơ 6 chữ (lục ngôn), thể hiện sự dồn nén cảm xúc của toàn bài. Ý thơ cũng được dồn nén ở đây: Yêu thiên nhiên, cảnh vật, nhưng trên hết là ước mơ về một cuộc sông ấm no, hạnh phúc cho muôn dân. Tâm hồn của một con người cả cuộc đời lo cho dân cho nước.Xem thêm: Nghị luận xã hội về giờ trái đất5. Cảm hứng chủ đạo của bài thơ là tình yêu thiên nhiên, cuộc sống và khát vọng về cuộc sống thái bình, hạnh phúc cho nhân dân. Điều này thể hiện rõ vẻ đẹp tâm hồn của Nguyễn Trãi.
Vanmau.edu.vn
|
Analysis of the poem Scenes of a Summer Day
Suggest
INSTRUCT
1. In the poem there are many verbs that describe the state of a summer day. Those are: extruding, spreading, spreading, spraying, sending off, rushing, fierce... The state of the scene is described vividly, colorfully, full of vitality. The poem describes the scene at the end of the day, but things do not stop but seem to be moving and motivated from within.
2. The scene here has harmony between sound and color, scenery and people.
The sounds of working life (the bustling fish market...), the sounds of nature (soundly holding cicadas...) - the sound of summer cicadas - are heard in the small village space but full of vitality and joy. fresh. That confirms poet Duc Trai's strong sympathy for nature.
3. The poet used most human senses to perceive nature (sight, hearing, smell). Through the vivid and vibrant natural paintings, we can see the author's strong and delicate sympathy with the landscape. Loving nature, immersing yourself in the life of nature, that is one of the beauties of Mr. Trai's soul.
4. Love nature, but for Nguyen Trai, above all, he still has a passionate heart for the people and the country. In a prosperous, peaceful and happy situation, Nguyen Trai wished to have Ngu Thuan's instrument (king of the ideal feudal dynasty, peaceful society, happy people) to play the Nam Phong song to express his wish. "Rich people everywhere demand their way." The ending sentence is a 6-word poem (six words), expressing the emotional compression of the entire poem. The poetic meaning is also expressed here: Love for nature and scenery, but above all, the dream of a prosperous and happy life for all people. The soul of a person spends his whole life caring for the people and the country. See more: Social commentary on earth hour5. The main inspiration of the poem is love for nature, life and the desire for a peaceful and happy life for the people. This clearly shows the beauty of Nguyen Trai's soul.
Vanmau.edu.vn
|
Phân tích bài thơ của chủ Hồ Chí MInh để thấy được vẻ đẹp tâm hồn của người
Hướng dẫn
Lưu ý:
1- Các tác phẩm (của Bác) mà em đã được học đã đọc là những tác phẩm nào? – ‘Nhật kí trong tù’, (‘Không ngủ được’, ‘Ngắm trăng’, ‘Đi đường’, ‘Ôm nặng’, ‘Giữa đường đáp thuyền đi Ung Ninh’).Thơ tiếng Việt và thơ chữ Hán khác: ‘Tức cảnh Pắc-Bó’, ‘Cảnh khuya’, ‘Rằm tháng giêng’.
2- Vẻ đẹp tâm hồn phong phú cao cả của nhà thơ Hồ Chí Minh là:
– Tinh yêu nước.
– Tình thương người.
– Tình yêu thiên nhiên.
3- Kiểu phân tích – chứng minh văn học.
Có một tên người đẹp nhất: ‘Nước Nam đẹp nhất có tên Bác Hồ’.
Có một bài ca đẹp nhất, bài ca: ‘Ái Quốc’.
Có một hồn thơ đẹp nhất, hồn thơ Hồ Chí Minh.
Người anh hùng giải phóng dân tộc Hồ Chí Minh còn là nhà thơ lớn của đất nước ta trong thế kỉ 20. Trong khoảng 300 bài thơ Người để lại, thơ chữ Hán cũng như thơ tiếng Việt, ta cảm thấy vẻ đẹp tâm hồn phong phú cao cả của một cốt cách chiến sĩ – thi sĩ. Thơ của Bác Hồ là những bài ca, khúc hát đằm thắm, ngọt ngào, chứa chan tình yêu nước, tình thương người và tình yêu thiên nhiên.
1. Thơ của chủ tịch Hồ Chí Minh là những bài ca yêu nước. Bác đi tìm đường cứu nước ‘Những đất tự do, những trời nô lệ’,… Lúc nào Bác cũng sống trong tâm trạng: ‘Đêm mơ nước, ngày thấy hình của nước’ (Chế Lan Viên). ‘Nhật kí trong tù’ có bài thơ ‘Không ngủ được’', bài thơ là tiếng lòng nhớ nước thiết tha. Nằm 168
trong ngục tối, chân tay bị cùm, bị trói, Bác thao thức nhớ nước khônnguôi. Hồn nước thiêng liêng chập chờn trong tàm trí Bấc trong lúc trằn trọc và cả trong giấc mộng:
‘Canh bốn canh năm vừa chợp mắt,
Sao vàng năm cánh mộng hồn quanh’
BỊ đày đọa tù đày nơi xa xứ, rồi bị ốm nặng. Hai lần đau khổ đối với tù nhân. Đau khổ vì ốm nặng. Càng đau khổ hơn vì trước cảnh lầm than của dân tộc. Bài thơ ‘Ôm nặng’ thể hiện bi kịch của một chiến sĩ cách mạng giàu lòng yêu nước:
‘ ‘Ngoại cảm’ trời Hoa cơn nóng lạnh,
‘Nội thương’ đất Việt cảnh lầm than.
Ở tù mắc bệnh càng đau khổ.
Đáng khóc mà ta cứ hát tràn!’
Những năm tháng kháng chiến chống Pháp, Bác sống và hoạt động tại chiến khu Việt Bắc. Đêm đêm người thao thức lo lắng cho vận mệnh của Tổ quốc trong khói lửa, sự nghiệp kháng chiến ‘việc quân việc nước’ đè nặng lên đôi vai:
‘Cảnh khuya như vẽ người chưa ngủ Chưa ngủ vì lo nổi nước nhà’
(Cảnh khuya)
Xem thêm: Em hãy tưởng tượng và tả lại chân dung của Lượm (nhân vật trong bài thơ cùng tên của nhà thơ Tố Hữu)* ‘Lòng riêng riêng những bàn hoàn,
Lo sao khôi phục giang san Tiên Rồng’
(Đi thuyền trên sông Đáy)
2. Tinh yêu nước của chủ tịch Hồ Chí Minh vô cùng sâu sắc, mãnh liệt, phong phú và cao cả biết bao. Tinh cảm ấy đã làm phát triển tình thương người trong lòng Bác. ‘Tự do cho đất nước tôi! Tự do cho dồng bào tôi’ là mục tiêu phấn đấu suốt đời của Bác. Lòng nhân ái của Bác bao la. Trong tù phải nếm trải bao cay đắng, bị cùm trói, muỗi rệp, phải sống đọa đày trong đói rét,… thế mà Bác vẫn hướng tình thương tới đồng loại. Bác gọi mọi tù nhân là ‘nạn hữu’, người bạn cùng chung hoạn nạn. Bác thương một em bé Trung Hoa cất tiếng khóc trong ngục tối:
‘Oa! Oa! Oa!
Cha trốn không đi lính nước nhà,
Nên nỗi thân em vừa nửa tuổi,
Phải theo mẹ đến ở nhà pha’
(Cháu bé trong ngục Tân Dương)
Bác thương một người bạn tù da bọc xương chết nằm co quắp trong ngục lạnh. Bác nghĩ tới công sức vất vả của những phu phen ‘dãi nắng dầm mưa’ đã làm nên những con đường. Bài thơ ‘Người bạn tù thổi sáo’ cảm động nhất, biểu lộ một tình thương mênh mông. Người thì nhớ nước nhớ quê. Người bạn tù thì nhớ quê nhớ vợ. Người khuê phụ ngóng đợi người chồng đi tù mãi chưa về. Tiếng sáo buồn kết đọng lại ba tâm trạng buồn thương ấy:
‘Bổng nghe trong ngục sáo vi vu,
Khúc nhạc tình quê chuyển điệu sầu,
Muôn dặm quan hù khôn xiết nỗi,
Lên lầu ai đó ngóng trông nhau’
3. Tình yêu thiên nhiên là một vẻ đẹp tâm hồn phong phú của hồn thơ Hồ Chí Minh. Bác có nhiều vần thơ trăng đẹp. Trong tù, không có rượu có hoa, Bác vẫn say mè thưởng trăng. Một tư thế ngắm trăng rất ung dung, thanh cao-
‘Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ,
Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ’
(Ngắm trăng)
Trong kháng chiến chống Pháp, Bác ngắm trăng ‘Rằm tháng giêng’, ngắm cảnh sông nước, bầu trời mùa xuân:
‘Rằm xuân lồng lộng trăng soi,
Sông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân’
Suối rừng, trăng, hoa, cổ thụ… hội tụ trong thơ Bác với bao tình yêu thương dào dạt: yêu chiến khu, yêu thiên nhiên tạo vật:
‘Tiếng suối trong như tiếng hát xa,
Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa’
(Cảnh khuya)
‘Văn là người’.Thơ Bác là tâm hồn, trí tuệ, đạo đức, tình cảm của Bác. Lòng yêu nước, tình thương người, tình yêu thiên nhiên hội tụ và tỏa sáng trong tâm hồn Bác, trong thơ Bác. Vì thế, thơ Bác nuôi dưỡng tâm hồn ta bao cảm xúc nhân văn.
Nguồn: thêm: Hãy cho biết cảm nghĩ của em về nhân vật Dế Mèn ở chương I (Tôi sống độc lập từ bé. Một sự ngỗ nghịch đáng ân hận suốt đời) mà em đã học
|
Analyze Ho Chi Minh's poem to see the beauty of his soul
Instruct
Note:
1- What are the works (of Uncle Ho) that you have learned and read? – 'Prison diary', ('Can't sleep', 'Watching the moon', 'Going on the road', 'Hugging heavily', 'Midway taking the boat to Ung Ninh').Vietnamese poetry and other Chinese poetry: 'The Pac-Bo scene', 'The late night scene', 'The full moon of the first month'.
2- The beauty of poet Ho Chi Minh's rich and noble soul is:
– Patriotism.
– Love for people.
– Love of nature.
3- Type of analysis - literary proof.
There is a most beautiful person's name: 'The most beautiful country in the South is named Uncle Ho'.
There is the most beautiful song, the song: 'Love for the Country'.
There is the most beautiful poetic soul, Ho Chi Minh's poetic soul.
The national liberation hero Ho Chi Minh was also a great poet of our country in the 20th century. In about 300 poems he left behind, Chinese poetry as well as Vietnamese poetry, we feel the beauty of his soul. noble endowment of a warrior-poet personality. Uncle Ho's poems are loving and sweet songs and songs, filled with love for country, love for people and love for nature.
1. President Ho Chi Minh's poems are patriotic songs. He searched for a way to save the country, 'Lands of freedom, heavens of slavery',... Uncle always lived in the mood: 'Dreaming of water at night, seeing its image by day' (Che Lan Vien). 'Prison Diary' contains the poem 'Can't sleep', the poem is the sound of a person's longing for the country. Located 168
In the dungeon, his limbs were shackled and tied, Uncle lay awake longing for water endlessly. The sacred spirit of water flickered in Buck's mind while he was restless and even in his dreams:
'Fourth watch, fifth watch just fell asleep,
Five-pointed yellow star dreaming around
He was imprisoned in a far away country, then became seriously ill. Twice the suffering for the prisoner. Suffering from serious illness. Even more miserable because of the plight of the nation. The poem 'Heavy Embrace' shows the tragedy of a patriotic revolutionary soldier:
'Experiencing' the hot and cold weather of the Hoa sky,
'Internal injury' to the miserable Vietnamese land.
Being in prison is even more painful.
It's worth crying but I keep singing!'
During the years of resistance against the French, Uncle Ho lived and worked in the Viet Bac war zone. At night, people lie awake worrying about the fate of the Fatherland in the midst of fire and smoke, the resistance cause of 'military work and country work' weighs heavily on their shoulders:
'The late night scene is like drawing people who haven't slept yet. They can't sleep because they can't worry about their country'
(Late scene)
See more: Imagine and describe the portrait of Luom (character in the poem of the same name by poet To Huu)* 'The heart is separate from the complete thoughts,
Wondering how to restore Tien Rong river?
(Boat on Day River)
2. President Ho Chi Minh's patriotism is extremely deep, intense, rich and noble. That feeling developed love for people in Uncle Ho's heart. ‘Freedom for my country! Freedom for my people' was Uncle Ho's lifelong goal. Uncle Ho's kindness is immense. In prison, he had to experience so much bitterness, being shackled, exposed to mosquitoes and bugs, having to live in exile in hunger and cold,... yet Uncle Ho still directed his love towards his fellow human beings. He called all prisoners 'victims', friends who share the same hardship. He felt sorry for a Chinese child who cried in a dungeon:
‘Wow! Wow! Wow!
Father escaped to join the country's army,
So my body is just half a year old,
I have to follow my mother to stay at home'
(The child in Tan Duong prison)
He felt sorry for a dead prisoner lying curled up in a cold prison. He thought of the hard work of the people who worked hard in the sun and in the rain to build the roads. The poem 'The Prisoner Who Plays the Flute' is the most touching, expressing immense love. People miss their country and their hometown. The prisoner missed his hometown and his wife. The mother-in-law waited for her husband to go to prison and still not return. The sad sound of the flute condenses those three sad moods:
'I suddenly heard the flute in prison,
The country love song turns melancholy,
Thousands of miles of unspeakable fear,
Upstairs, someone is waiting for each other'
3. Love of nature is a rich spiritual beauty of Ho Chi Minh's poetry. He has many beautiful moon poems. In prison, without flowery wine, Uncle Ho was still drunk and enjoying the moon. A very leisurely and elegant position to watch the moon -
'People look at the moon shining outside the window,
Moon peeked poet watching the door'
(Watching the moon)
During the resistance war against the French, Uncle Ho looked at the 'Full Moon of January', admiring the river and spring sky:
'The full moon of spring is full of moonlight,
Spring river, water and sky color add spring'
Forest streams, moon, flowers, ancient trees... converge in Uncle Ho's poetry with abundant love: love of war zones, love of nature and creation:
'The sound of the stream is as clear as a distant song,
Moon, ancient tree cage, shadow of flower cage'
(Late scene)
'Literature is people'. Uncle Ho's poetry is his soul, intelligence, morality, and emotions. Patriotism, love for people, love for nature converge and shine in Uncle Ho's soul and in his poetry. Therefore, Uncle Ho's poetry nourishes our souls with many humane emotions.
Source: more: Please tell me your thoughts about the character Cricket in chapter I (I have lived independently since I was a child. A disobedience worth regretting for the rest of my life) that you have learned.
|
Phân tích bài thơ Dục Thuý Sơn của Nguyễn Trãi.
Hướng dẫn
Phân tích bài thơ “Dục Thuý Sơn” của Nguyễn Trãi.
Dục Thuý Sơn
Nguyễn Trãi
Hải Khẩu hữu tiên san,
Tiền niên lũ vãnghoàn.
Liên hoa phù thuỷ thượng,
Tiên cảnh trụy trần gian
Tháp ảnh trâm thanh ngọc
Ba quangkính thuý hoàn.
Hữu hoài Trương Thiếu bảo.
Bi khắc tiển hoa han.
Núi Dục Thuý
Cửa biển có non tiên
Từng qua lại mấy phen.
Cảnh tiên rơi cõi Tục.
Mặt nước nổi hoa sen,
Bóng tháp hình trâm ngọc
Gương sôngánh tóc huyền
Nhớ xưa Trương Thiếu bảo
Bia khắc dấu rêu hoen.
Khương Hữu Dụng dịch.
Bài làm
Tên cũ của núi là Băng Sơn. Về đời Trần, Trương Hán Siêu lên chơi núi này, mới đổi thành Dục Thuý Sơn (núi tắm màu biếc); ngày nay gọi là núi Non Nước, thuộc thị xã Ninh Bình. Dục Thuý Sơn là một thắng cảnh, từng được nhiều tao nhân mặc khách đến thăm và làm thơ ca ngợi. Trên núi vốn có chùa và tháp rất đẹp; núi lại gần cửa biển, có sông Vân uốn quanh, Sông Vân núi Thuý là cảnh nên thơ, rất hữu tình. Sách “Đại Nam nhất thống chí" có ghi: “phía hắc núi (Dục Thuý) có động, trong động có đền thờ Tam phủ, sườn núi có một tảngđá gần sông có khắc ba chữ “Hám Giao Đình ”, phía tây nam núi có đền thờ Sơn Tinh và Thuỷ Tinh, trên đỉnh có chùa… ”
Biển dâu biến đổi, nay chùa xưa tháp cũ đã đổ nát, biển lùi xa hàng chục cây số. Trương Hán Siêu, Nguyễn Trãi, Cao Bá Quát, Tản Đà… đều làm thơ vịnh Dục Thuý Sơn – núi Non Nước. Bài thơ này rút trong "Ức Trai thi tập ” của Nguyễn Trãi.
Bài thơ nói về cảnh sắc thần tiên núi Dục Thuý và nỗi cảm hoài của Ức Trai.
Đọc “Ức Trai thi tập” và “Quốc âm thi tập”, ta thấy Nguyễn Trãi đã từng thăm thú nhiều nơi. Lúc thì “nhẹ cánh buồm thơ vượt Bạch Đằng”, lúc thì lên núi Long Đại, say mê ngắm hang động, ao hồ:
“Ngao đội núi lên thành động đấy
Kình bơi biển lấp hoá ao rồi
(Núi Long Đại)
Lúc thì hành hương về chùa Hoa Yên trên đỉnh núi Yên Tử cao xanh, gột rửa bụi trần, thảnh thơi giữa rừng trúc, hang đá:
“Muôn hàng giáo ngọc tre gài cửa,
Bao dãi tua châu đá rủ mành ”
(Đề chùa Hoa Yên núi Yên Tử)
Trong những năm tháng “hình Ngô“, Nguyễn Trãi đã từng mang gươm đi khắp mọi miền đất nước, sau này, đất nước thanh bình, ông lại mang bầu rượu túi thơ đi thăm cảnh núi sông tráng lệ. Riêng Dục Thuý Sơn đã nhiều lần in dấu ấn nhà thơ.
1. Cảnh tiên nơi cõi tục
Có thể nói, 6 câu đầu bài thơ là bức tranh sơn thuỷ tuyệt vời về núi Dục Thuý, được vẽ bằng bút pháp vô cùng điêu luyện. Nhà thơ đã mấy lần đến chơi núi. Cảnh tuy đã quen, nhưng lần này đến không khỏi ngạc nhiên vẻ đẹp "non tiên ” hiện lên trước cửa biển. Đó là cảm hứng "Bồnglai lạc lối ” như Từ Thức trong cổ tích:
“Cửa biển có non tiên,.
Từng qua lại mấy phen ”
Người đọc như đang cùng thi nhân du mộng vào cõi thần tiên. Vừa ảo, vừa thực, hồn thơ kì thú, lâng lâng, ta như đang được “chiếm lĩnh " cõi tiên nơi trần gian. Câu 1 đã nói “non tiên” giữa cửa biển, câu 4 nói rõ thêm núi Dục Thuý "như cảnh tiên rơi xuống cõi trần gian ” (tiên cảnh truỵ trần gian). Hai hình ảnh “tiên san” và “tiên cảnh” hô ứng nhau, bổ trợ nhau, ý thơ và cảm xúc mở rộng, phát triển nhằm ca ngợi Dục Thuý sơn là một thắng cảnh, đẹp kì lạ, hiếm có trên đất nước ta.
Từ cảm nhận trực giác đến tưởng tượng, ngắm cảnh từ xa đến gần, thi sĩ tả núi như một bông sen khổng lồ xoè nở ra trên mặt nước. Hình ảnh ẩn dụ “Liên hoa phù thuỷ thượng ” tuyệt đẹp, đầy chất thơ. Hoa sen tượng trưng cho vẻ đẹp rực rỡ, sự thanh khiết thanh cao, là một biểu tượng cao quý của đạo Phật. Nhiều tượng Phật đều tọa lạc trên “đài sen Đài sen mang ý niệm tu tròn quả đức mà triết lí Phật giáo nói đến. Có tháp, có mái chùa hình hoa sen (Chùa Một Cột). Hoa sen là một mô tip khá tiêu biểu của nghệ thuật điêu khắc và kiến trúc chùa chiền, tượng Phật ở nước ta. Trên núi Dục Thuý lại có chùa và tháp, Ức Trai ví núi Dục Thuý với bông sen nổi trên mặt nước thật là hay, gợi ra nhiều liên tưởng thú vị. Hai chữ “phủ ” (nổi lên) và “trụy” (rơi xuống) đối chọi nhau rất thần tình, gợi tả cảnh núi non, chùa chiền, sông nước vừa ảo vừa thực, cảm xúc chìm nổi, trầm bổng, lâng lâng:
“Liên hoa phù thuỷ thượng,
Tiên cảnh trụy trần gian ”
Xem thêm: Thuyết minh về tác phẩm Bình Ngô Đại Cáo của Nguyễn Trãi,Để hiệp vần, Khương Hữu Dụng đã đảo lại vị trí 2 câu thơ 3, 4; chất thơ nhạt đi nhiều, cấu trúc nội tại của tứ thơ bị phá vỡ:
“Cảnh tiên rơi cõi tục,
Mặt nước nổi hoa sen ”
Học giả Đào Duy Anh đã dịch: “Hoa sen trôi mặt nước -Cõi tục nổi non bồng Hai câu luận (5, 6) tả tháp trên núi và ánh sáng trên mặt sông, vẫn là bút pháp tạo hình bằng hai hình ảnh ẩn dụ mĩ lệ. Bóng ngọn tháp trên núi tựa như cái trâm bằng ngọc xanh (trâm thanh ngọc). Ánh sáng lấp lánh trên sóng nước tựa như gương soi mái tóc xanh biếc (kính thuý hoàn). Trâm, tóc và gương ấy đều mang màu sắc rất đẹp (thanh ngọc, thuý hoàn), vì là của tiên nữ (nơi non tiên, cảnh tiên). Cảnh sắc rất ngoạn mục. Phép đối được sáng tạo qua vẩn thơ như hai bức tranh của trường phái “ấn tượng”:
"Tháp ảnh trâm thanh ngọc,
Ba quang kính thúy hoàn ”
(Bóng tháp hình trâm ngọc,
Gương sông ánh tóc huyền).
Núi Dục Thúy có sông Vân uốn quanh. Cách đây năm, sáu trăm năm, núi còn nằm trên cửa biển. Trên núi có chùa và tháp. Bàn tay của con người góp phần điểm tô cho cảnh núi non, sông biển thêm đẹp. Trương Hán Siêu từng ca ngợi: "Giữa dòng long lanh bóng tháp ” (Dục Thúy sơn khắc thạch); “Tháp gồm bốn tầng, đêm tỏa hào quang”, xa gần đều trôngthấy… cao sừng sững, thế chạm trời xanh, tô thêm vẻhùngvĩ cho non sông… ” (Dục Thúy SơnLinh Tế tháp kí)- Phát triển mạch cảm xúc của tiền nhân, trong bài thơ này, Ức Trai miêu tả cảnh sắc núi Dục Thúy bằng những nét vẽ tài hoa, với tất cả tâm hồn người nghệ sĩ: “một cái nhìn mới độc đáo, mangcốt cách phongtình, đầy tính chất nhân vân.
Thật vậy, Nguyễn Trãi đã liên tưởng và sáng tạo nên một loạt hình ảnh ẩn dụ có đường nét, màu sắc, ánh sáng đầy huyền áo để ca ngợi cảnh sắc thiên nhiên tuyệt trần của Dục Thúy Sơn. Nhà thơ đã đem đến cho ngọn núi như con chim trả tắm nước biếc này một tình yêu say đắm của người nghệ sĩ tài hoa.
2. Nhớ xưa Trương Thiếu bảo
Du khách đối cảnh sinh tình. Hai câu kết biểu lộ một nỗi cảm hoài man mác. Nhiều bài thơ của ức Trai đều có cấu tứ cảm xúc tương tự. Nhà thơ trực tiếp thổ lộ tình cảm:
"Dẽ cố ngu cầm đàn một tiếng
Dân giàu đủ khấp đòi phương"
(Bảo kính cảnh giới – 43)
“Việc cũ ngoảnh đầu ôi đã dứt
Dòng trôi tìm bóngdạ bâng khuâng’’
(Cửa biển Bạch Đằng)
Gần một thế kỉ sau lên chơi núi Dục Thúy, khi người xưa đã khuất từ lâu rồi, đọc bia tháp Linh Tế, nhà thơ xúc động nhìn nét chữ khắc đã mờ dưới làn rêu. Vật đổi sao dời. Bao nhiêu nước đã chảy qua cầu. Đất nước ta đã trải qua, bao biến cố, bao triều đại hưng vong, suy thịnh… ức Trai bồi hồi nhớ đến công đức người xưa:
“Nhớ xưa Trương Thiếu bảo,
Bia khắc dấu rêu hoen”.
Trương Hán Siêu là bậc danh sĩ cao khiết, nhà thơ lỗi lạc đời Trần. Tên tuổi ông gắn liền với Dục Thúy Sơn, với những bài kí rất nổi tiếng. Ông đã được thờ ở Văn Miếu, Thăng Long. Thiếu bảo là danh vị cao quý vua Trần ban cho ông. Ức Trai không gọi tên mà chỉ nhắc đến họ, đến danh vị Trương Hán Siêu là một cách xưng hô đầy trọng vọng, cung kính. Đúng là trông núi, ngắm tháp mà bùi ngùi thương nhớ người xưa. Hình bóng Trương Thiếu bảo còn phảng phất đâu đây. Lời thơ hàm súc, nỗi cảm hoài sâu lắng mênh mông. Hình ảnh bia đã phủ đầy rêu gợi tả cảm xúc hoài cổ đậm đà tình nghĩa. Đến chơi núi, nhìn tháp và chùa mà nhớ đến người xưa. Tấm lòng "Uống nước nhớ nguồn” thấm đẫm qua một vần thơ đẹp. Hai chữ “nhớxưa ” (hữu hoài) biểu lộ cái tâm trong trẻo của Ức Trai.
3. Dấu ấn của một ngòi bút tài hoa
"Dục Thúy Sơn ” là bài thơ tả cảnh ngụ tình đặc sắc. Bài thơ ngũ ngôn bát cú bằng chữ Hán. Hình tượng thơ mĩ lệ, cảnh sắc đượm vẻ thần tiên. Trong phần luận,4 hình ảnh ẩn dụ sóng nhau, đối nhau, hình ảnh này làm đẹp thêm hình ảnh kia, thể hiện cách cảm, cách tả của nhà thơ mang tâm hồn thơ mộng, tài hoa. Ức Trai, trong cảm nhận cái đẹp của thiên nhiên, sông núi, ngòi bút tài hoa của ông rất tinh tế và nhạy cảm trong gợi tả và biểu cảm.
"Dục Thúy Sơn ” phản ánh một tài năng lớn, một nhân cách văn hóa cao đẹp của Đại Việt trong thế kỉ XV. Ức Trai đã để lại khá nhiều bài thơ giàu tình yêu thiên nhiên, đất nước. Đọc bài thơ này, ta cảm nhận úc Trai là “ôngtiên ngồi trong lầu ngọc" như bạn ông đã nói. Ông đến thăm núi Dục Thúy mà nhớ Trương Hán Siêu; chúng ta đọc thơ ông mà nhớ đến người anh hùng đã cùng Lê Lợi “bình Ngô“ và thảo “Bình Ngô đại cáo Nói rằng thơ ca mang nặng tình người và tình đời là như vậy. Bốn chữ "Vũ trụ di lai ” vuông vắn, to và đẹp khắc trên tấm đá phủ đầy rêu xanh trên đỉnh núi Dục Thúy, đó là dấu tích của Trương Hán Siêu để lại cho đời. Ai đã một lần lên thăm núi chắc sẽ bồi hồi nhìn thấy "Bia khắc dấu rêu hoen ”…
Nguồn: thêm: Giá trị hiện thực sâu sắc của đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh
|
Phân tích bài thơ Dục Thuý Sơn của Nguyễn Trãi.
Hướng dẫn
Phân tích bài thơ “Dục Thuý Sơn” của Nguyễn Trãi.
Dục Thuý Sơn
Nguyễn Trãi
Hải Khẩu hữu tiên san,
Tiền niên lũ vãnghoàn.
Liên hoa phù thuỷ thượng,
Tiên cảnh trụy trần gian
Tháp ảnh trâm thanh ngọc
Ba quangkính thuý hoàn.
Hữu hoài Trương Thiếu bảo.
Bi khắc tiển hoa han.
Núi Dục Thuý
Cửa biển có non tiên
Từng qua lại mấy phen.
Cảnh tiên rơi cõi Tục.
Mặt nước nổi hoa sen,
Bóng tháp hình trâm ngọc
Gương sôngánh tóc huyền
Nhớ xưa Trương Thiếu bảo
Bia khắc dấu rêu hoen.
Khương Hữu Dụng dịch.
Bài làm
Tên cũ của núi là Băng Sơn. Về đời Trần, Trương Hán Siêu lên chơi núi này, mới đổi thành Dục Thuý Sơn (núi tắm màu biếc); ngày nay gọi là núi Non Nước, thuộc thị xã Ninh Bình. Dục Thuý Sơn là một thắng cảnh, từng được nhiều tao nhân mặc khách đến thăm và làm thơ ca ngợi. Trên núi vốn có chùa và tháp rất đẹp; núi lại gần cửa biển, có sông Vân uốn quanh, Sông Vân núi Thuý là cảnh nên thơ, rất hữu tình. Sách “Đại Nam nhất thống chí" có ghi: “phía hắc núi (Dục Thuý) có động, trong động có đền thờ Tam phủ, sườn núi có một tảngđá gần sông có khắc ba chữ “Hám Giao Đình ”, phía tây nam núi có đền thờ Sơn Tinh và Thuỷ Tinh, trên đỉnh có chùa… ”
Biển dâu biến đổi, nay chùa xưa tháp cũ đã đổ nát, biển lùi xa hàng chục cây số. Trương Hán Siêu, Nguyễn Trãi, Cao Bá Quát, Tản Đà… đều làm thơ vịnh Dục Thuý Sơn – núi Non Nước. Bài thơ này rút trong "Ức Trai thi tập ” của Nguyễn Trãi.
Bài thơ nói về cảnh sắc thần tiên núi Dục Thuý và nỗi cảm hoài của Ức Trai.
Đọc “Ức Trai thi tập” và “Quốc âm thi tập”, ta thấy Nguyễn Trãi đã từng thăm thú nhiều nơi. Lúc thì “nhẹ cánh buồm thơ vượt Bạch Đằng”, lúc thì lên núi Long Đại, say mê ngắm hang động, ao hồ:
“Ngao đội núi lên thành động đấy
Kình bơi biển lấp hoá ao rồi
(Núi Long Đại)
Lúc thì hành hương về chùa Hoa Yên trên đỉnh núi Yên Tử cao xanh, gột rửa bụi trần, thảnh thơi giữa rừng trúc, hang đá:
“Muôn hàng giáo ngọc tre gài cửa,
Bao dãi tua châu đá rủ mành ”
(Đề chùa Hoa Yên núi Yên Tử)
Trong những năm tháng “hình Ngô“, Nguyễn Trãi đã từng mang gươm đi khắp mọi miền đất nước, sau này, đất nước thanh bình, ông lại mang bầu rượu túi thơ đi thăm cảnh núi sông tráng lệ. Riêng Dục Thuý Sơn đã nhiều lần in dấu ấn nhà thơ.
1. Cảnh tiên nơi cõi tục
Có thể nói, 6 câu đầu bài thơ là bức tranh sơn thuỷ tuyệt vời về núi Dục Thuý, được vẽ bằng bút pháp vô cùng điêu luyện. Nhà thơ đã mấy lần đến chơi núi. Cảnh tuy đã quen, nhưng lần này đến không khỏi ngạc nhiên vẻ đẹp "non tiên ” hiện lên trước cửa biển. Đó là cảm hứng "Bồnglai lạc lối ” như Từ Thức trong cổ tích:
“Cửa biển có non tiên,.
Từng qua lại mấy phen ”
Người đọc như đang cùng thi nhân du mộng vào cõi thần tiên. Vừa ảo, vừa thực, hồn thơ kì thú, lâng lâng, ta như đang được “chiếm lĩnh " cõi tiên nơi trần gian. Câu 1 đã nói “non tiên” giữa cửa biển, câu 4 nói rõ thêm núi Dục Thuý "như cảnh tiên rơi xuống cõi trần gian ” (tiên cảnh truỵ trần gian). Hai hình ảnh “tiên san” và “tiên cảnh” hô ứng nhau, bổ trợ nhau, ý thơ và cảm xúc mở rộng, phát triển nhằm ca ngợi Dục Thuý sơn là một thắng cảnh, đẹp kì lạ, hiếm có trên đất nước ta.
Từ cảm nhận trực giác đến tưởng tượng, ngắm cảnh từ xa đến gần, thi sĩ tả núi như một bông sen khổng lồ xoè nở ra trên mặt nước. Hình ảnh ẩn dụ “Liên hoa phù thuỷ thượng ” tuyệt đẹp, đầy chất thơ. Hoa sen tượng trưng cho vẻ đẹp rực rỡ, sự thanh khiết thanh cao, là một biểu tượng cao quý của đạo Phật. Nhiều tượng Phật đều tọa lạc trên “đài sen Đài sen mang ý niệm tu tròn quả đức mà triết lí Phật giáo nói đến. Có tháp, có mái chùa hình hoa sen (Chùa Một Cột). Hoa sen là một mô tip khá tiêu biểu của nghệ thuật điêu khắc và kiến trúc chùa chiền, tượng Phật ở nước ta. Trên núi Dục Thuý lại có chùa và tháp, Ức Trai ví núi Dục Thuý với bông sen nổi trên mặt nước thật là hay, gợi ra nhiều liên tưởng thú vị. Hai chữ “phủ ” (nổi lên) và “trụy” (rơi xuống) đối chọi nhau rất thần tình, gợi tả cảnh núi non, chùa chiền, sông nước vừa ảo vừa thực, cảm xúc chìm nổi, trầm bổng, lâng lâng:
“Liên hoa phù thuỷ thượng,
Tiên cảnh trụy trần gian ”
Xem thêm: Thuyết minh về tác phẩm Bình Ngô Đại Cáo của Nguyễn Trãi,Để hiệp vần, Khương Hữu Dụng đã đảo lại vị trí 2 câu thơ 3, 4; chất thơ nhạt đi nhiều, cấu trúc nội tại của tứ thơ bị phá vỡ:
“Cảnh tiên rơi cõi tục,
Mặt nước nổi hoa sen ”
Học giả Đào Duy Anh đã dịch: “Hoa sen trôi mặt nước -Cõi tục nổi non bồng Hai câu luận (5, 6) tả tháp trên núi và ánh sáng trên mặt sông, vẫn là bút pháp tạo hình bằng hai hình ảnh ẩn dụ mĩ lệ. Bóng ngọn tháp trên núi tựa như cái trâm bằng ngọc xanh (trâm thanh ngọc). Ánh sáng lấp lánh trên sóng nước tựa như gương soi mái tóc xanh biếc (kính thuý hoàn). Trâm, tóc và gương ấy đều mang màu sắc rất đẹp (thanh ngọc, thuý hoàn), vì là của tiên nữ (nơi non tiên, cảnh tiên). Cảnh sắc rất ngoạn mục. Phép đối được sáng tạo qua vẩn thơ như hai bức tranh của trường phái “ấn tượng”:
"Tháp ảnh trâm thanh ngọc,
Ba quang kính thúy hoàn ”
(Bóng tháp hình trâm ngọc,
Gương sông ánh tóc huyền).
Núi Dục Thúy có sông Vân uốn quanh. Cách đây năm, sáu trăm năm, núi còn nằm trên cửa biển. Trên núi có chùa và tháp. Bàn tay của con người góp phần điểm tô cho cảnh núi non, sông biển thêm đẹp. Trương Hán Siêu từng ca ngợi: "Giữa dòng long lanh bóng tháp ” (Dục Thúy sơn khắc thạch); “Tháp gồm bốn tầng, đêm tỏa hào quang”, xa gần đều trôngthấy… cao sừng sững, thế chạm trời xanh, tô thêm vẻhùngvĩ cho non sông… ” (Dục Thúy SơnLinh Tế tháp kí)- Phát triển mạch cảm xúc của tiền nhân, trong bài thơ này, Ức Trai miêu tả cảnh sắc núi Dục Thúy bằng những nét vẽ tài hoa, với tất cả tâm hồn người nghệ sĩ: “một cái nhìn mới độc đáo, mangcốt cách phongtình, đầy tính chất nhân vân.
Thật vậy, Nguyễn Trãi đã liên tưởng và sáng tạo nên một loạt hình ảnh ẩn dụ có đường nét, màu sắc, ánh sáng đầy huyền áo để ca ngợi cảnh sắc thiên nhiên tuyệt trần của Dục Thúy Sơn. Nhà thơ đã đem đến cho ngọn núi như con chim trả tắm nước biếc này một tình yêu say đắm của người nghệ sĩ tài hoa.
2. Nhớ xưa Trương Thiếu bảo
Du khách đối cảnh sinh tình. Hai câu kết biểu lộ một nỗi cảm hoài man mác. Nhiều bài thơ của ức Trai đều có cấu tứ cảm xúc tương tự. Nhà thơ trực tiếp thổ lộ tình cảm:
"Dẽ cố ngu cầm đàn một tiếng
Dân giàu đủ khấp đòi phương"
(Bảo kính cảnh giới – 43)
“Việc cũ ngoảnh đầu ôi đã dứt
Dòng trôi tìm bóngdạ bâng khuâng’’
(Cửa biển Bạch Đằng)
Gần một thế kỉ sau lên chơi núi Dục Thúy, khi người xưa đã khuất từ lâu rồi, đọc bia tháp Linh Tế, nhà thơ xúc động nhìn nét chữ khắc đã mờ dưới làn rêu. Vật đổi sao dời. Bao nhiêu nước đã chảy qua cầu. Đất nước ta đã trải qua, bao biến cố, bao triều đại hưng vong, suy thịnh… ức Trai bồi hồi nhớ đến công đức người xưa:
“Nhớ xưa Trương Thiếu bảo,
Bia khắc dấu rêu hoen”.
Trương Hán Siêu là bậc danh sĩ cao khiết, nhà thơ lỗi lạc đời Trần. Tên tuổi ông gắn liền với Dục Thúy Sơn, với những bài kí rất nổi tiếng. Ông đã được thờ ở Văn Miếu, Thăng Long. Thiếu bảo là danh vị cao quý vua Trần ban cho ông. Ức Trai không gọi tên mà chỉ nhắc đến họ, đến danh vị Trương Hán Siêu là một cách xưng hô đầy trọng vọng, cung kính. Đúng là trông núi, ngắm tháp mà bùi ngùi thương nhớ người xưa. Hình bóng Trương Thiếu bảo còn phảng phất đâu đây. Lời thơ hàm súc, nỗi cảm hoài sâu lắng mênh mông. Hình ảnh bia đã phủ đầy rêu gợi tả cảm xúc hoài cổ đậm đà tình nghĩa. Đến chơi núi, nhìn tháp và chùa mà nhớ đến người xưa. Tấm lòng "Uống nước nhớ nguồn” thấm đẫm qua một vần thơ đẹp. Hai chữ “nhớxưa ” (hữu hoài) biểu lộ cái tâm trong trẻo của Ức Trai.
3. Dấu ấn của một ngòi bút tài hoa
"Dục Thúy Sơn ” là bài thơ tả cảnh ngụ tình đặc sắc. Bài thơ ngũ ngôn bát cú bằng chữ Hán. Hình tượng thơ mĩ lệ, cảnh sắc đượm vẻ thần tiên. Trong phần luận,4 hình ảnh ẩn dụ sóng nhau, đối nhau, hình ảnh này làm đẹp thêm hình ảnh kia, thể hiện cách cảm, cách tả của nhà thơ mang tâm hồn thơ mộng, tài hoa. Ức Trai, trong cảm nhận cái đẹp của thiên nhiên, sông núi, ngòi bút tài hoa của ông rất tinh tế và nhạy cảm trong gợi tả và biểu cảm.
"Dục Thúy Sơn ” phản ánh một tài năng lớn, một nhân cách văn hóa cao đẹp của Đại Việt trong thế kỉ XV. Ức Trai đã để lại khá nhiều bài thơ giàu tình yêu thiên nhiên, đất nước. Đọc bài thơ này, ta cảm nhận úc Trai là “ôngtiên ngồi trong lầu ngọc" như bạn ông đã nói. Ông đến thăm núi Dục Thúy mà nhớ Trương Hán Siêu; chúng ta đọc thơ ông mà nhớ đến người anh hùng đã cùng Lê Lợi “bình Ngô“ và thảo “Bình Ngô đại cáo Nói rằng thơ ca mang nặng tình người và tình đời là như vậy. Bốn chữ "Vũ trụ di lai ” vuông vắn, to và đẹp khắc trên tấm đá phủ đầy rêu xanh trên đỉnh núi Dục Thúy, đó là dấu tích của Trương Hán Siêu để lại cho đời. Ai đã một lần lên thăm núi chắc sẽ bồi hồi nhìn thấy "Bia khắc dấu rêu hoen ”…
Nguồn: thêm: Giá trị hiện thực sâu sắc của đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh
|
Phân tích bài thơ Giải đi sớm của Hồ Chí Minh
Gợi ý
Giải đi sớm là một trong những bài thơ hay của Hồ Chí Minh trong tập "Nhật ký trong tù". Bài thơ thể hiện sự tinh tế, nhạy cảm của tâm hồn Bác trước vẻ đẹp của thiên nhiên bao la. Đồng thời cũng thể hiện thái độ ung dung, hiên ngang của một người tù vĩ đại trong mọi hoàn cảnh. Bài thơ như một điệu nhạc trầm hùng, một bức tranh hoà quyện vẻ đẹp tâm hồn Bác với vẻ đẹp của thiên nhiên
Phân tích thơ Chủ tịch Hồ Chi Minh, Đặng Thái Mai phân biệt hai bút pháp: bút pháp hiện thực và bút pháp tượng trưng
Có người coi bài "Giải đi sớm” chủ yếu được viết theo bút pháp tượng trưng. Thực ra không phải như vậy:
Gà gáy một lần đêm chửa tan
Câu thơ đầu ghi nhận thời điểm hiện thực của cuộc giải tù. Như vậy là một ngày đày ải nặng nề bắt đầu ngay từ khoảng quá nửa đêm. Người đọc tưởng tượng một cảnh tăm tối mịt mùng và vắng lặng vây quanh người tù cô đơn nơi đất khách.
Nhưng câu thứ hai bỗng toả sáng đột ngột trên bầu trời thơ.
Chòm sao đưa nguyệt vượt lên ngàn.
Đẹp biết bao là hình ảnh trăng sao đang đưa nhau lên đỉnh núi mùa thu: "Quần tinh ủng nguyệt thướng thu san" Mạch thơ của Hồ Chí Minh vẫn thường vận động khoẻ khoắn và đột ngột như thế. Đúng là một tâm hồn có sức cải tạo hoàn cảnh, cải tạo tình thếXem thêm: Cảm nhận về bài thơ Bạn đến chơi nhà của Nguyễn Khuyến Dĩ nhiên trăng sao là của thiên nhiên. Không có trăng sao trên bầu trời lúc ấy thì cũng không thể có trăng sao trong thơ Bác Hồ được. Tuy nhiên nếu không có tâm hồn rất khoẻ của Hồ Chi Minh luôn luôn hướng về ánh sáng, thì trăng sao cũng khó có thể đi vào thơ sáng đẹp đến thế.
Có người nói, ở khổ thơ đầu này của bài thơ, thiên nhiên và con người đối lập nhau. Đây là một sự thật. Nhưng còn một sự thật khác, sự thật trong tâm hồn nhà cách mạng vĩ đại: trong quan hệ đối lập, Người vẫn phát hiện ra sự hoà hợp với tâm hồn rất đẹp, rất sáng của mình. Một tâm hồn làm chủ trong mọi tình huống.
Thiên nhiên trong thơ của Chủ tịch Hồ Chí Minh thường là thiên nhiên động. Khi người tù cẩt bước, thì trên trời trăng sao cũng khởi hành. Vậy là trăng sao cùng với Bác lên đường. Đấy cũng là một điều đột ngột nữa trong tứ thơ: trong hoàn cảnh đơn độc, tâm hồn nhà cách mạng vẫn không hề đơn độc. Thật là bất ngờ một cách thú vị biết bao khi có được những người bạn đồng hành không hẹn trước. Mà phải ai xa lạ: vẫn là những người bạn thiên nhiên rất quen thuộc, thậm chí là tri âm tri kỷ với nhà thơ
ở hai cảu sau của khổ thơ đầu, có người đặc biệt chú ý đến hai chữ "nghênh diện”, được hiểu như là một thái độ hiên ngang của người tù vỉ đại Có lẽ nên chú ý hơn đến hai chữ "chinh" ở câu thứ ba và hai chữ "trận" ở câu bốn. Bốn tiếng điệp với nhau tạo nên một âm hưởng rất thích:Xem thêm: “Ở đâu có lao động thì ở đó có sáng tạo ra ngôn ngữ. Văn không linh hoạt gọi là văn cứng đơ thấp khớp ”Bình luận ý kiến trên đây của nhà văn Nguyễn Tuân và bằng thực tê”cảm nhận văn học của mình hãy làm rõ những vân đề mà nhà văn đặt ra- Văn 12 Chinh nhân dĩ tại chinh đồ thượng
Nghênh diện thu phong trận trận hàn.
Nhịp điệu ấy, âm hưởng ấy khiến cho bài thơ không phải là tiếng hát đi đày mà là một hành khúc trầm hung.
Khổ hai của bài thơ gây ấn tượng nổi bật là sự bừng sáng của trời đất
Câu thơ thứ nhất của khổ thơ này dịch chưa sát:
Phương đông màu trắng chuyển sang hồng.
Nguyên văn chữ Hán:
Đông phương bạch sắc dĩ thành hồng.
"Dĩ thành" là đã thành. Phương Đông màu trắng đã thành màu hồng rồi, ý đột ngột bừng sáng này bị đánh mất trong lời thơ dịch. Cả khổ thơ câu nào cũng như thế. Không có sự chuyển đổi dần dần. Cả vũ trụ bừng sáng, toàn cành thơ bỗng rực rờ một màu hồng và hơi ấm thì trùm lên cả vũ trụ, không một chút tàn dư của bóng tối và hơi lạnh.
Người đi dường trong không khí hoà hợp thoải mái như thế nên chữ nghĩa cũng phải thay đổi cho thích hợp: từ hai chữ "chinh nhân”, nhà thơ hạ hai chữ "hành nhân".
Hành nhân thi hứng hốt gia nồng
(Người đi thi hứng bỗng thêm nồng).
Mỗi chữ phải dùng đúng nghĩa và đúng vị trí của nó. Cái tinh tế của lời thơ là thế.
Vanmau.edu.vn
|
Analysis of the poem "Early Leaving" by Ho Chi Minh
Suggest
Leave early is one of Ho Chi Minh's great poems in the collection "Prison Diary". The poem shows the sophistication and sensitivity of Uncle Ho's soul before the beauty of immense nature. At the same time, it also shows the leisurely and courageous attitude of a great prisoner in all circumstances. The poem is like a majestic melody, a picture blending the beauty of Uncle Ho's soul with the beauty of nature
Analyzing President Ho Chi Minh's poetry, Dang Thai Mai distinguishes two styles: realistic style and symbolic style.
Some people consider the article "Solving early" to be written mainly in a symbolic style. In fact, this is not the case:
The rooster crows once at night
The first verse records the actual moment of the prison release. Thus a day of heavy exile began just after midnight. The reader imagines a scene of darkness and silence surrounding the lonely prisoner in a foreign land.
But the second verse suddenly shines suddenly in the poetic sky.
The constellation brings the moon beyond the thousand.
How beautiful is the image of the moon and stars leading each other to the top of the mountain in autumn: "The cluster of stars supports the moon and autumn." Ho Chi Minh's poetry often moves so strongly and suddenly. It is true that a soul has the power to transform circumstances and situations. See more: Comments on the poem You come to visit at home by Nguyen Khuyen Of course the moon and stars belong to nature. If there were no moon and stars in the sky at that time, there could not have been moon and stars in Uncle Ho's poetry. However, without Ho Chi Minh's very strong soul, always looking towards the light, it would be difficult for the moon and stars to enter such beautiful and bright poetry.
Some people say that in this first stanza of the poem, nature and humans are opposed to each other. This is a fact. But there is another truth, the truth in the soul of the great revolutionary: in the relationship of opposition, he still discovered harmony with his very beautiful, very bright soul. A soul in control of every situation.
Nature in President Ho Chi Minh's poetry is often dynamic nature. When the prisoner stopped walking, the moon and stars in the sky also departed. So the moon and stars set out with Uncle Ho. That is also another sudden thing in the four poems: in a lonely situation, the soul of the revolutionary is still not alone. What a pleasant surprise it is to have unexpected companions. But they must be strangers: they are still very familiar natural friends, even close confidants to the poet
In the last two stanzas of the first stanza, some people pay special attention to the two words "honored", which are understood as a brave attitude of a great prisoner. Perhaps we should pay more attention to the two words "honest" in the third sentence and the two words "battle" in verse four. The four sounds together create a very pleasing sound: See more: "Wherever there is labor, there is the creation of inflexible language." "Commenting on the above opinion of writer Nguyen Tuan and using his own literary experience, let's clarify the issues that the writer raises - Literature 12 The cause of victory depends on the superior map."
Welcome to the autumn wind and the cold battle.
That rhythm, that sound makes the poem not a song of exile but a sad march.
The second stanza of the poem makes a striking impression of the brightness of heaven and earth
The first verse of this stanza is not translated closely:
The white oriental turns pink.
Original Chinese text:
In the East, white turns into red.
"It will happen" means it has happened. The white East has already become pink, this suddenly bright meaning is lost in the translated lyrics. Every stanza and every line of the poem is like that. There is no gradual transition. The whole universe lit up, all branches of poetry suddenly glowed with a pink color and warmth covered the whole universe, without a trace of darkness and cold.
People walk in such a comfortable and harmonious atmosphere, so the words have to be changed accordingly: from the two words "warrior", the poet lowers the two words "actionman".
The contestants were excited about the competition
(The contestant's excitement suddenly became more intense).
Each word must be used in its correct meaning and in its correct position. That's the sophistication of poetry.
Vanmau.edu.vn
|
Phân tích bài thơ Hai Chữ Nước Nhà của Trần Tuấn Khải:
Hướng dẫn
Đoạn thơ có khá nhiều từ Hán-Việt. Học sinh nên đọc thật kỹ phần chú thích trước khi đọc lại để hiểu nghĩa của từng câu. Học sinh cũng cần đọc lại những trang sử đời nhà Hồ-Hậu Trần lệ thuộc nhà Minh (1400-1413) để có thể dựa vào đó mà hiểu ý nghĩa của từng câu thơ.
– Khung cảnh“Chốn ải Bắc-Cõi trời Nam" lúc ấy như thế nào? (4 câu đầu)
– Người cha mang tâm sự gì? Đang ở trong hoàn cảnh nào? Có thương con không? (các câu 5-6-8).
– Người có nói gì không khỉ theo bước tiễn cha (câu 7)
*Giữa bối cảnh đau thương uất nghẹn ấy,“lời cha khuyên” ắt hẳn có giá trị thức tĩnh và thúc giục con trai “lo trả thù cho cha, rửa thẹn cho nước
– Người cha đã gợi cho con điều gì về đất nước, dân tộc?(4 câu đầu cửa đoạn 2)
– Người cha đã than với con về tội ác của quân Minh, đó là những tội ác gì? (8 câu kế tiếp)
– Hãy cho biết nỗi lo của người cha?(8 câu cuối của đoạn 2)
– Giữa sự xâm lược nước ta của quân Minh và quân Pháp có sự khác biệt về thời gian, bối cảnh lịch sử, nhưng về bản chất thì không khác nhau.
I.Trần Tuấn Khải người Nam Định. Bút hiệu Á Nam nổi tiếng từ những năm 20 của thế kỷ XX, nhất là hai bài hát mang tựa đề Anh Khóa, sau đó là những bài thơ được viết bằng thứ ngôn ngữ chân chất theo các thể thơ thuần Việt như lục bát, song thất lục bát.
Là một nhà thơ giàu tình cảm, sống gắn bó với nỗi buồn vui của con người. Ông buồn về thói đời đen bạc, buồn về những nỗi biệt ly, buồn về thế sựthăngtrầm… về tình đời thì ông lấy luân lý làm trọng, về thế sự thăng trầm thì ông tìm kiếm đề tài ở lịch sử để kín đáo bộc lộ nỗi đau mất nước nhằm khơi dậy tinh thần yêu nước của đồng bào mà những vần thơ Hai chữ nước nhà là một ví dụ. Mượn chuyện Nguyễn Phi Khanh bị quàn Minh bắt giải về Trung Quốc dặn dò con trai (Nguyễn Trãi) hãy về lo việc trả thù cho cha, rửa hận cho nước, Trần Tuấn Khải đã gửi gắm tâm sự yêu nước của mình.
II. Đoạn trích là phần md đầu của bài thơ. Tám câu thơ song thất lục bát giới thiệu khung cảnh của việc chuyển tù và tâm trạng của người cha. Khung cảnh là “chôn ải Bắc ”, biên giới của nước Đại Việt với Trung Quốc thời bây giờ. Vào thời điểm đó, Nguyễn Phi Khanh, người bị quân Minh bắt giải đi và Nguyễn Trãi theo tiễn chân cha đang ở “cỡ/ trời Nam", đang ở phần đất nước của Đại Việt. Nơi kia thì “mây sầu ảm đạm”, chôn này thì “gió thảm đìu hiu”. Khung cảnh hoang vắng cô liêu, tuyệt không thây bóng người mà chỉ nghe tiếng “hổ thét chim kêu” lạnh lùng. Giữa khung cảnh “như khêu bất bình ”, như gợi lên sự buồn thương và căm giận kẻ đã gây nên tội ác ấy, Nguyễn Phi Khanh, “chút thân tàn" đang chịu gông cùm vẫn canh cánh “hồn nước"ò trong tim, ông đã quay lại.
Trông con tầm tã châu rơi Con ơi, con nhớ lấy lời cha khuyên.
Tám câu thơ song thất lục bát có nhịp điệu, tiết tấu chậm, từng cặp câu bảy chữ đôi lời đối ý thấm đậm nỗi buồn của cha con trong giờ phút biệt ly. Cả hai cha con đềư khóc. Không khóc làm sao được khi cả hai đều biết rằng ngày đi thì có còn ngày về thì không. Nhưng người cha tin con mình đúng là trang nam nhi. Nhìn con khóc nghẹn không nói được câu gì, ông đã gợi lại và nhắc con ‘‘nhớ lấy" rằng:
Giống Hồng Lạc hoàng thiên đã định,
Mấy ngàn năm suy thịnh đổi thay,
Giờ Nam riêng một cỗi này,
Anh hùng hiệp nữ xưa nay kém gì!
Nguyễn Phi Khanh đã gợi lại thủy tổ của dân Việt thuộc họ Hồng Bàng và Lạc Long Quân. Từ thuở
Bồ ký đóng cõi Mê Linh Lĩnh Nam riêng một triều dinh nước ta
Xem thêm: Cả lớp đều khâm phục tinh thần giúp đỡ các gia đình thương bỉnh, liệt sĩ của bạn H. Bạn ấy xứng dáng là Cháu ngoan Bác Hồ. Lớp trưởng thay mặt lớp viết đơn xin Ban Giám hiệu nhà trường biểu dương, khen thưởng bạn HĐại nam quốc sử diễn ca
Đến Đại cồ Việt thời nhà Đinh. Tới năm 1054, Lý Thánh Tông đổi tên nước thành Đại Việt. Như thế, non sông Việt đã có từ trước, chưa kể thời đại Hùng Vương trị vì nước Văn Lang, Âu Lạc. Mười mấy thế kỷ về trước, cốt lỗi đã được dựng lên cả về phần xác lần phần hồn, cả về vật chất lẫn phi vật chất trong bôn câu thơ khái quát nhưng rất cơ bản. Những “anh hùng hiệp nữ” như các vua Hùng, hai Bà Trứng, Bà Triệu, Đinh Bộ Lĩnh, Ngô Quyền, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo,… đều được truyền tụng như những tấm gương sáng ngời mang tâm hồn Việt. •
Những câu thơ kế tiếp, người cha đã nêu nguyên nhân khiến, “quân Minh thừa hội xâm lăng” và gây bao tội tày đình. Dù người cha không nêu đích danh nhưng câu “Than vận nước gặp khi biến đổi'" gợi lại giai đoạn lịch sử cuối đời Trần có liên quan tới Hồ Quý Ly. Theo sử sách ghi lại thì ông tên thật là Lê Quý Ly được vua Trần Nghệ Tông tin dùng. Quý Ly có hai người cô đều là vợ của Trần Minh Tông, và là mẹ của ba vua Trần Hiến Tông, Trần Nghệ Tông và Trần Duệ Tông. Nhờ có liên hệ bà con, lại giúp Trần Nghệ Tông củng cố được địa vị thống trị của họ Trần nên Quý Ly được tin dùng. Sau khi Trần Nghệ Tông mất, thì Quý Ly càng lúc càng chuyên quyền. Đầu năm 1400, Hồ Quý Ly truất ngôi nhà Trần, lên làm vua, lấy quốc hiệu là Đại Ngu. “Vận nước gặp khi biến đổi là như thế”. Và quân nhà Minh đã lấy cớ đó để xâm lăng nước Đại Việt, gây nên đại họa:
Bốn phương khói lửa bừng bừng,
Xiết bao thảm họa xương rừng máu sông!
Nơi đô thị thành tung quách vỡ,
Chốn nhân gian bỏ vợ lìa con.
Cảnh quân Minh xâm lược được miêu tả thật khủng khiếp dù không đi sâu vào từng chi tiết. Chúng tha hồ đốt, và giết không nương tay. Nghệ thuật láy từ, sử dụng các từ mạnh như “bừng bừng, tung, vỡ, bỏ, lìa”. Khiến người đọc cảm nhận không thứ gì còn nguyên vẹn, kể cả con người. Thành quách, nhà cửa, vợ con trong cảnh đổ nát hoang tàn, nhất là thảm họa diệt chửng ở cụm từ so sánh “xương rừng máu sông". Cảnh tượng khủng khiếp hãi hùng do quân cuồng Minh gây ra không chỉ tạo nên mối uất hận trong mỗi người dân Đại Việt thời bây giờ mà còn “Ngậm ngùi đất khóc giời than” nữa. Mối uất hận ấy phải trả, tội tày đình ấy phải bị trừng trị. Nhưng làm sao đây?
Tám câu thơ cuối là tâm sự chân thành và tha thiết của cha với con. Sự chân thành ấy chính là:
Cha xót phận tuổi già sức yếu,
Lỡ sa cơ đành chịu bó tay,
Và sự tha thiết ấy chính là:
Giang sơn gánh vác sau này cậy con.
Còn hơn sự tha thiết, đó là chuyển giao trọng trách thiêng liêng nhất là giữ cho được:
Bắc Nam bờ cõi phân mao Ngọn cờ độc lập máu đào còn đây…
Cụ Á Nam Trần Tuấn Khải làm bài thơ này lúc chính phủ Pháp thời bấy giờ (1924) đang ra sức củng cố chế độ thực dân. Mượn chuyện Nguyễn Phi Khanh dặn dò con trai là Nguyễn Trãi “giang sơn gánh vác” là cụ muốn kín đáo gửi gắm tâm sự yêu nước của mình vào tầng lớp thanh niên thời bấy giờ.
Luật bằng trắc tạo nên nhịp điệu, tiết tấu, còn vần thì tạo sự hòa âm giữa các câu thơ. Với những đặc điểm ấy, thể loại thơ song thất lục bát phù hợp với những bi kịch giữa cuộc đời, những lời tâm sự thương khóc, oán hờn kẻ đã gieo tai vạ cho mình. Những tác phẩm như Chinh phụ ngâm (đã học ở lớp 7), Cung oán ngâm khúc, Tự tình khúc, Khóc Dương Khuê,… đều là những tác phẩm nổi tiếng. Và thế kỷ XX có thêm Hai chữ nước nhà của Á Nam Trần Khải làm kho tàng thơ văn song thất lục bát của dân tộc càng phong phú và giá trị thêm lên.
tag: hai chu nuoc nha, soan bai hai chu nuoc nha, phan tich bai tho hai chu nuoc nha, soan bai bai tho hai chu nuoc nha, giao an giang bai hai chu nuoc nha.Xem thêm: Đọc sách có lợi gì? Trong các loại sách em thích nhất loại sách nào? Đọc như thế nào thì có lợi?Nguồn:
|
Phân tích bài thơ Hai Chữ Nước Nhà của Trần Tuấn Khải:
Hướng dẫn
Đoạn thơ có khá nhiều từ Hán-Việt. Học sinh nên đọc thật kỹ phần chú thích trước khi đọc lại để hiểu nghĩa của từng câu. Học sinh cũng cần đọc lại những trang sử đời nhà Hồ-Hậu Trần lệ thuộc nhà Minh (1400-1413) để có thể dựa vào đó mà hiểu ý nghĩa của từng câu thơ.
– Khung cảnh“Chốn ải Bắc-Cõi trời Nam" lúc ấy như thế nào? (4 câu đầu)
– Người cha mang tâm sự gì? Đang ở trong hoàn cảnh nào? Có thương con không? (các câu 5-6-8).
– Người có nói gì không khỉ theo bước tiễn cha (câu 7)
*Giữa bối cảnh đau thương uất nghẹn ấy,“lời cha khuyên” ắt hẳn có giá trị thức tĩnh và thúc giục con trai “lo trả thù cho cha, rửa thẹn cho nước
– Người cha đã gợi cho con điều gì về đất nước, dân tộc?(4 câu đầu cửa đoạn 2)
– Người cha đã than với con về tội ác của quân Minh, đó là những tội ác gì? (8 câu kế tiếp)
– Hãy cho biết nỗi lo của người cha?(8 câu cuối của đoạn 2)
– Giữa sự xâm lược nước ta của quân Minh và quân Pháp có sự khác biệt về thời gian, bối cảnh lịch sử, nhưng về bản chất thì không khác nhau.
I.Trần Tuấn Khải người Nam Định. Bút hiệu Á Nam nổi tiếng từ những năm 20 của thế kỷ XX, nhất là hai bài hát mang tựa đề Anh Khóa, sau đó là những bài thơ được viết bằng thứ ngôn ngữ chân chất theo các thể thơ thuần Việt như lục bát, song thất lục bát.
Là một nhà thơ giàu tình cảm, sống gắn bó với nỗi buồn vui của con người. Ông buồn về thói đời đen bạc, buồn về những nỗi biệt ly, buồn về thế sựthăngtrầm… về tình đời thì ông lấy luân lý làm trọng, về thế sự thăng trầm thì ông tìm kiếm đề tài ở lịch sử để kín đáo bộc lộ nỗi đau mất nước nhằm khơi dậy tinh thần yêu nước của đồng bào mà những vần thơ Hai chữ nước nhà là một ví dụ. Mượn chuyện Nguyễn Phi Khanh bị quàn Minh bắt giải về Trung Quốc dặn dò con trai (Nguyễn Trãi) hãy về lo việc trả thù cho cha, rửa hận cho nước, Trần Tuấn Khải đã gửi gắm tâm sự yêu nước của mình.
II. Đoạn trích là phần md đầu của bài thơ. Tám câu thơ song thất lục bát giới thiệu khung cảnh của việc chuyển tù và tâm trạng của người cha. Khung cảnh là “chôn ải Bắc ”, biên giới của nước Đại Việt với Trung Quốc thời bây giờ. Vào thời điểm đó, Nguyễn Phi Khanh, người bị quân Minh bắt giải đi và Nguyễn Trãi theo tiễn chân cha đang ở “cỡ/ trời Nam", đang ở phần đất nước của Đại Việt. Nơi kia thì “mây sầu ảm đạm”, chôn này thì “gió thảm đìu hiu”. Khung cảnh hoang vắng cô liêu, tuyệt không thây bóng người mà chỉ nghe tiếng “hổ thét chim kêu” lạnh lùng. Giữa khung cảnh “như khêu bất bình ”, như gợi lên sự buồn thương và căm giận kẻ đã gây nên tội ác ấy, Nguyễn Phi Khanh, “chút thân tàn" đang chịu gông cùm vẫn canh cánh “hồn nước"ò trong tim, ông đã quay lại.
Trông con tầm tã châu rơi Con ơi, con nhớ lấy lời cha khuyên.
Tám câu thơ song thất lục bát có nhịp điệu, tiết tấu chậm, từng cặp câu bảy chữ đôi lời đối ý thấm đậm nỗi buồn của cha con trong giờ phút biệt ly. Cả hai cha con đềư khóc. Không khóc làm sao được khi cả hai đều biết rằng ngày đi thì có còn ngày về thì không. Nhưng người cha tin con mình đúng là trang nam nhi. Nhìn con khóc nghẹn không nói được câu gì, ông đã gợi lại và nhắc con ‘‘nhớ lấy" rằng:
Giống Hồng Lạc hoàng thiên đã định,
Mấy ngàn năm suy thịnh đổi thay,
Giờ Nam riêng một cỗi này,
Anh hùng hiệp nữ xưa nay kém gì!
Nguyễn Phi Khanh đã gợi lại thủy tổ của dân Việt thuộc họ Hồng Bàng và Lạc Long Quân. Từ thuở
Bồ ký đóng cõi Mê Linh Lĩnh Nam riêng một triều dinh nước ta
Xem thêm: Cả lớp đều khâm phục tinh thần giúp đỡ các gia đình thương bỉnh, liệt sĩ của bạn H. Bạn ấy xứng dáng là Cháu ngoan Bác Hồ. Lớp trưởng thay mặt lớp viết đơn xin Ban Giám hiệu nhà trường biểu dương, khen thưởng bạn HĐại nam quốc sử diễn ca
Đến Đại cồ Việt thời nhà Đinh. Tới năm 1054, Lý Thánh Tông đổi tên nước thành Đại Việt. Như thế, non sông Việt đã có từ trước, chưa kể thời đại Hùng Vương trị vì nước Văn Lang, Âu Lạc. Mười mấy thế kỷ về trước, cốt lỗi đã được dựng lên cả về phần xác lần phần hồn, cả về vật chất lẫn phi vật chất trong bôn câu thơ khái quát nhưng rất cơ bản. Những “anh hùng hiệp nữ” như các vua Hùng, hai Bà Trứng, Bà Triệu, Đinh Bộ Lĩnh, Ngô Quyền, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo,… đều được truyền tụng như những tấm gương sáng ngời mang tâm hồn Việt. •
Những câu thơ kế tiếp, người cha đã nêu nguyên nhân khiến, “quân Minh thừa hội xâm lăng” và gây bao tội tày đình. Dù người cha không nêu đích danh nhưng câu “Than vận nước gặp khi biến đổi'" gợi lại giai đoạn lịch sử cuối đời Trần có liên quan tới Hồ Quý Ly. Theo sử sách ghi lại thì ông tên thật là Lê Quý Ly được vua Trần Nghệ Tông tin dùng. Quý Ly có hai người cô đều là vợ của Trần Minh Tông, và là mẹ của ba vua Trần Hiến Tông, Trần Nghệ Tông và Trần Duệ Tông. Nhờ có liên hệ bà con, lại giúp Trần Nghệ Tông củng cố được địa vị thống trị của họ Trần nên Quý Ly được tin dùng. Sau khi Trần Nghệ Tông mất, thì Quý Ly càng lúc càng chuyên quyền. Đầu năm 1400, Hồ Quý Ly truất ngôi nhà Trần, lên làm vua, lấy quốc hiệu là Đại Ngu. “Vận nước gặp khi biến đổi là như thế”. Và quân nhà Minh đã lấy cớ đó để xâm lăng nước Đại Việt, gây nên đại họa:
Bốn phương khói lửa bừng bừng,
Xiết bao thảm họa xương rừng máu sông!
Nơi đô thị thành tung quách vỡ,
Chốn nhân gian bỏ vợ lìa con.
Cảnh quân Minh xâm lược được miêu tả thật khủng khiếp dù không đi sâu vào từng chi tiết. Chúng tha hồ đốt, và giết không nương tay. Nghệ thuật láy từ, sử dụng các từ mạnh như “bừng bừng, tung, vỡ, bỏ, lìa”. Khiến người đọc cảm nhận không thứ gì còn nguyên vẹn, kể cả con người. Thành quách, nhà cửa, vợ con trong cảnh đổ nát hoang tàn, nhất là thảm họa diệt chửng ở cụm từ so sánh “xương rừng máu sông". Cảnh tượng khủng khiếp hãi hùng do quân cuồng Minh gây ra không chỉ tạo nên mối uất hận trong mỗi người dân Đại Việt thời bây giờ mà còn “Ngậm ngùi đất khóc giời than” nữa. Mối uất hận ấy phải trả, tội tày đình ấy phải bị trừng trị. Nhưng làm sao đây?
Tám câu thơ cuối là tâm sự chân thành và tha thiết của cha với con. Sự chân thành ấy chính là:
Cha xót phận tuổi già sức yếu,
Lỡ sa cơ đành chịu bó tay,
Và sự tha thiết ấy chính là:
Giang sơn gánh vác sau này cậy con.
Còn hơn sự tha thiết, đó là chuyển giao trọng trách thiêng liêng nhất là giữ cho được:
Bắc Nam bờ cõi phân mao Ngọn cờ độc lập máu đào còn đây…
Cụ Á Nam Trần Tuấn Khải làm bài thơ này lúc chính phủ Pháp thời bấy giờ (1924) đang ra sức củng cố chế độ thực dân. Mượn chuyện Nguyễn Phi Khanh dặn dò con trai là Nguyễn Trãi “giang sơn gánh vác” là cụ muốn kín đáo gửi gắm tâm sự yêu nước của mình vào tầng lớp thanh niên thời bấy giờ.
Luật bằng trắc tạo nên nhịp điệu, tiết tấu, còn vần thì tạo sự hòa âm giữa các câu thơ. Với những đặc điểm ấy, thể loại thơ song thất lục bát phù hợp với những bi kịch giữa cuộc đời, những lời tâm sự thương khóc, oán hờn kẻ đã gieo tai vạ cho mình. Những tác phẩm như Chinh phụ ngâm (đã học ở lớp 7), Cung oán ngâm khúc, Tự tình khúc, Khóc Dương Khuê,… đều là những tác phẩm nổi tiếng. Và thế kỷ XX có thêm Hai chữ nước nhà của Á Nam Trần Khải làm kho tàng thơ văn song thất lục bát của dân tộc càng phong phú và giá trị thêm lên.
tag: hai chu nuoc nha, soan bai hai chu nuoc nha, phan tich bai tho hai chu nuoc nha, soan bai bai tho hai chu nuoc nha, giao an giang bai hai chu nuoc nha.Xem thêm: Đọc sách có lợi gì? Trong các loại sách em thích nhất loại sách nào? Đọc như thế nào thì có lợi?Nguồn:
|
Phân tích bài thơ Hoàng Hạc lâu của Thôi Hiệu qua bản dịch thơ của thi sĩ Tản Đà.
Hướng dẫn
"Trước mắt có cảnh nói không được,
Vì thơ Thôi Hiệu ở trên đầu”
Đó là hai câu thơ của Lý Bạch nói vì sao mình không làm thơ để vịnh lầu Hoàng Hạc. Lý Bạch là một trong những nhà thơ cự phách đời Đường. Hai câu thơ trên cho thấy “thi tiên” Lý Bạch là một con người cực kì khiêm nhường, đồng thời khẳng định “HoàngHạc lâu ” của Thôi Hiệu là một áng thơ kiệt tác.
Nguyên tác là thơ thất ngôn bát cú. Thi sĩ Tản Đà sáng tạo dịch thành thơ lục bát. Nhiều nhà thơ Việt Nam đã thử bút dịch bài thơ này, nhưng theo ý kiến của Xuân Diệu thì bản dịch của Tản Đà là xuất sắc hơn cả.
Lầu Hoàng Hạc
Hạc vàngai cưỡi đi dâu,
Mà đây HoàngHạc riênglầu còn trơ.
Hạc vàngđi mất từ xưa!
Nghìn năm mây trắngbây giờ còn bay
Hán Dương sông tạnh cây bày,
Bãi xa Anh Vũ xanh dày cỏ non.
Quê hươngkhuất bóng hoàng hôn,
Trên sông khói sóngcho buồn lòng ai?
Tản Đà dịch
Lầu Hoàng Hạc là một thắng cảnh ở Vũ Xương thuộc tỉnh Hồ Bắc, Trung Quốc. Lầu đẹp, cảnh nên thơ, lại được bao phủ bằng một lớp sương mờ huyền thoại, nên càng trở nên hấp dẫn. Tương truyền Phí Văn Vi, tu tiên đắc đạo, thường cưỡi hạc vàng đến đây chơi. Có biết bao tao nhân mặc khách đã đến thăm lầu, ngoạn cảnh và đề thơ. Thôi Hiệu chỉ để lại gần 40 bài thơ, nhưng chỉ có “Hoàng Hạc lâu” là được truyền tụng hơn cả.
Dào dạt qua những vần thơ là cảm hứng hoài cổ của một thi nhân, du khách. Hai câu đầu, thi hứng khơi nguồn từ chuyện“Hạc vàng ” trong huyền thoại, từ đó nói lên sự xúc động đến ngạc nhiên khi nhà thơ nhìn thấy lầu xưa. Lầu đứng chơvơ. Mái lầu như chìm trong tĩnh mịch, hoang sơ. Bao hoài niệm về "tích nhân” về Hoàng Hạc dâng lên dạt dào, man mác:
"Hạc vàng ai cưỡi đi đâu,
Mà đây Hoàng Hạc riêng lầu còn trơ”.
Niềm thương nhớ cảm hoài một lúc một dâng cao. Hạc vàng cùng tiên đã bay đi, chẳng bao giờ trở lại nữa "nhất khứ bất phục phản Như ngẩn ngơ! Như chìm đi trong mộng tưởng. Như man mác một mối sầu thương. Nhìn mây trắng phủ trên mái lầu vàng, lơ lửng bay trên bầu trời xanh (bạch vân… du du), nhà thơ như sực tỉnh:
"Hạc vàng đi mất từxưa!
Nghìn năm mây trắng bây giờ còn bay”
“Hạc vàng” với “mây trắng”, quá khứ với hiện tại, cái mất đi từ nghìn xưa với cái hữu hình “còn bay”… hô ứng nhau, đối ứng nhau, tạo nên những vần thơ đẹp vô cùng gợi cảm. Trong phần "đề” và “thực” của bài thơ, ba từ “Hoàng hạc ”ba lần xuất hiện trên cái nền “mây trắng ngàn năm bay chơi vơi ” (câu thơ dịch của Khương Hữu Dụng); màu sắc hài hòa tuyệt đẹp làm gợi lên một cảnh quan mỹ lệ nên thơ. Đặc biệt câu thơ thứ 4 “Hoànghạc nhất khứ hất phục phản” gồm 6 thanh trắc xuất hiện liên tiếp, luật bằng trắc của thơ Đường bị phá cách. Âm hưởng câu thơ như bị “thắt ” lại nhằm biểu hiện cái cảm giác ngẩn ngơ, bâng khuâng, tiếc nuối của du khách khi ngắm lầu vàng. Ngòi bút của Thôi Hiệu rất điêu luyện trong phối thanh hòa sắc để tạo nên những vần thơ đẹp “thi trung hữu họa, thi trung hữu cầm ” cho ta nhiều rung cảm.
Xem thêm: Tuần 15: Chính tả Buôn Chư Lênh đón cô giáo
Ngắm trời xanh, mây trắng, lầu vàng, mỗi bước chân của thi nhân như dẫn hồn mình phiêu du vào thế giới thần tiên, mộng ảo. Rồi nhà thơ bâng khuâng đưa mắt ra bốn phía, ra chân trời xa. Mặt sông lúc trời tạnh, sáng trong như tấm gương phản chiếu cây cối vùng Hán Dương rõ mồn một,cỏ thơm trên bãi Anh Vũ mơn mởn xanh tươi. Cảnh vật sông nước, cỏ cây như chan chứa xuân sắc, xuân tình. Hai câu luận được cấu trúc đăng đối hài hòa, cặp từ láy "lịch lịch – thê thê ” là hai nét vẽ tinh tế khắc họa cái "hồn ” của cảnh trí non sông. Ngòi bút của Thôi Hiệu đã làm sống dậy cỏ cây thiên nhiên bằng đường nét và gam màu tươi sáng nhiều ấn tượng:
"Tình xuyên lịch lịch Hán Dương thụ,
Phương thảo thê thê Anh Vũ châu”
Trải qua trên 1200 năm, không biết đích xác Thôi Hiệu đã đến chơi lầu Hoàng Hạc vào thời gian cụ thể nào, nhưng qua hình ảnh “tình xuyên lịch lịch… ” và “phương thảo thê thê”, người đọc cảm nhận được đó là một mùa xuân đẹp, thanh bình. Câu thơ như một bức tranh thủy mặc, đường nét xa-gần, đậm-nhạt, màu sắc trong và dịu, tinh tế và biểu cảm. Câu thơ dịch của Tản Đà thật vô cùng linh diệu, nó làm tái hiện lại “điệu Đường”, “hồn Đường” trong nguyên tác:
"Hán Dương sôngtạnh cây bày,
Bãi xa Anh Vũ xanh dày cỏ non ”
Thi nhân đứng một mình trên lầu cao. Trời đã về chiều. Lầu Hoàng Hạc mờ dần trong bóng hoàng hôn. Lòng man mác sầu thương. Du khách nhìn mãi… nhìn mãi… khắp bốn phía chân trời, vẫn chẳng thấy quê hương mình ở đâu: “Nhật mộhương quan hà xứ thị? ”.Câu hỏi tu từ khơi gợi bao nỗi niềm nao nao, bâng khuâng. Người đọc như hòa điệu, đồng cảm với nỗi u hoài, thương nhớ quê hương của nhà thơ:
"Quê hương khuất bóng hoàng hôn,
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai?”
“Trên sông khói sóng” (Yên ba giang thượng) là một hình ảnh đầy thi vị, huyền ảo, gợi tả cảnh sông nước phủ mờ sương khói lúc hoàng hôn. Câu thơ tả ít mà gợi nhiều. Một nỗi buồn thương thấm thìa. Một tình quê vơi đầy lâng lâng. Hình ảnh ấy, thi liệu ấy đã được tái tạo, được nhập thân vào hồn thơ dân tộc ta, làm nên vẻ đẹp phong vị Đường thi cổ kính, hoa lệ:
– “Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoànghôn cũng nhớ nhà"
("Tràng Giang" – Huy Cận)
– “Yên ba thâm xứ đàm quân sự… ”
("Nguyên tiêu" – Hồ Chí Minh)
Thơ Đường rất gần gũi và quen thuộc với nhân dân ta. Nó là món ăn tinh thần của các nhà nho, các nhà thơ Việt Nam. Phần lớn các bài thơ kiệt tác của văn học trung đại dân tộc ta đều được sáng tạo theo thi pháp Đường thi – dân tộc hóa, tạo nên bản sắc Việt Nam.
Bài thơ “Hoàng Hạc lâu " của Thôi Hiệu xứng đáng là một viên ngọc quý trong kho tàng văn học phương Đông. Cảnh lầu đẹp nên thơ được khơi gợi dưới một lớp sương mờ huyền thoại. Cảm hứng hoài cổ man mác, tình quê bâng khuâng vơi đầy… Tất cả làm nên vẻ đẹp nhân văn của thi phẩm này, và hồn thơ dào dạt của li khách đã in dấu đậm đà trong lòng mỗi chúng ta.
Nguồn: thêm: Cảm nhận về bài thơ Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm hay nhất
|
Analysis of the poem Hoang Hac Lau by Thoi Hieu through the translation of poet Tan Da's poem.
Instruct
"There is a scene in front of me that cannot be said,
Because Thoi Hieu's poetry is at the top"
Those are two lines of Ly Bach's poem about why he didn't write poetry to admire the Hoang Hac tower. Li Bai was one of the great poets of the Tang Dynasty. The above two verses show that "poet fairy" Ly Bach is an extremely humble person, and at the same time confirm that "HoangHac Lau" by Thoi Hieu is a masterpiece of poetry.
The original work is a seven-word, eight-syllable poem. Poet Tan Da creatively translated it into six-eight poetry. Many Vietnamese poets have tried to translate this poem, but in Xuan Dieu's opinion, Tan Da's translation is the most excellent.
Hoang Hac Tower
The golden crane is riding on the bride,
But here Hoang Hac's private floor is still bare.
The golden crane disappeared long ago!
Thousands of years of white clouds are still flying now
Han Yang river stops and trees spread out,
The beach far from Anh Vu is thick with green grass.
Homeland hidden in the sunset,
On the river smoke waves to sad anyone?
Translated by Tan Da
Yellow Crane Tower is a scenic spot in Wuchang, Hubei province, China. The floor is beautiful, the scenery is poetic, and it is covered with a layer of legendary mist, so it becomes even more attractive. Legend has it that Phi Van Vi, an immortal who attained enlightenment, often rode a golden crane to come here to play. There are countless guests who have visited the building, admired the scenery, and written poems. Cui Hieu only left behind nearly 40 poems, but only "Hoang Hac Lau" is the most widely recited.
Flowing through the poems is the nostalgic inspiration of a poet and tourist. In the first two sentences, the poem's inspiration originates from the legendary story "Golden Crane", thereby expressing the surprising emotion when the poet saw the old building. Standing floor. The rooftop seems to be immersed in silence and wilderness. So many memories of "legitimate people" about Hoang Hac surged forth, filled with sadness:
Who rides the golden crane and goes where?
But here, the Hoang Hac private building is still bare."
The feeling of longing and nostalgia rises higher and higher. The yellow crane and the fairy have flown away, never to return again. "Once again, irreversible. As bewildered! As if drowning in a dream. As if filled with sadness. Looking at the white clouds covering the golden roof, floating flying in the blue sky (white clouds... du du du du), the poet seemed to suddenly awaken:
"The golden crane disappeared long ago!
A thousand years of white clouds are still flying"
"Yellow crane" with "white clouds", past with present, what has been lost since ancient times with what is tangible "still flying"... interact with each other, creating extremely beautiful and sexy poems. In the "theme" and "reality" part of the poem, the three words "Royal crane" appear three times on the background of "thousand-year white clouds flying about" (verse translated by Khuong Huu Dung); the colors are in perfect harmony. beautiful, evoking a beautiful and poetic landscape. In particular, the 4th verse "Hoanghec Nhat Quac Phuc Trai" has 6 tones appearing consecutively, the tone rule of Tang poetry is broken was "tied" to express the feeling of bewilderment, wistfulness, and regret of tourists when looking at the golden palace. Thoi Hieu's pen is very skilled in mixing tones and colors to create beautiful, "poetic" poems "There's a painting, there's a poem in the middle, there's a holding" gives us a lot of vibes.
See more: Week 15: Spelling Buon Chu Lenh welcomes the teacher
Admiring the blue sky, white clouds, and golden buildings, each step of the poet seems to lead his soul into a magical, dreamy world. Then the poet wistfully looked out to all four directions, to the distant horizon. The river surface at calm weather is as bright as a mirror, reflecting the trees of the Han Duong region clearly, the fragrant grass on Anh Vu beach is lush and green. The scenery of rivers, trees and grass seems to be filled with spring color and spring love. The two essays are structured in a harmonious contrast, the pair of words "calendar calendar - marriage" are two delicate strokes that depict the "soul" of the river scene. Thoi Hieu's pen has revived natural plants and trees with impressive lines and bright colors:
"Love travels through the Han Yang calendar,
Phuong and his wife Anh Vu Chau"
After over 1,200 years, it is not known exactly when Thoi Hieu visited the Hoang Hac Palace, but through the images of "love across history..." and "marriage", the reader can feel it. It's a beautiful, peaceful spring. The poem is like a watercolor painting, the lines are far-near, dark-light, the colors are clear and soft, delicate and expressive. Tan Da's translated poem is extremely magical, it recreates the "Duong melody" and "Duong soul" in the original work:
"The Han Yang river stops the trees,
The beach far away from Anh Vu is green and thick with young grass.
The poet stands alone on a high floor. It was afternoon. Hoang Hac Tower fades into the sunset. Heart full of sadness. Tourists look forever... look forever... all over the horizon, still can't see their homeland anywhere: "Japan, Huong Quan, Ha Land?" "The rhetorical question evokes so many feelings of anxiety and sadness. Readers seem to be in tune and sympathize with the poet's sadness and longing for his homeland:
"The homeland disappears into the sunset,
On the river smoke waves to sad anyone?"
“On the river with smoke and waves” (Yen ba giang thuong) is a poetic and magical image, depicting the scene of a river covered in mist and smoke at sunset. The poem describes little but evokes much. A deep sadness. A love for the countryside full of lightness. That image, that poetic material has been recreated, incarnated into the soul of our nation's poetry, creating the beauty of the ancient and magnificent Tang poetry style:
– “The countryside is as undulating as the water
Even if there's no smoke at sunset, you'll miss home."
("Trang Giang" – Huy Can)
– “Yen ba deep land military talks…”
("Nguyen Tieu" – Ho Chi Minh)
Tang poetry is very close and familiar to our people. It is the spiritual dish of Vietnamese scholars and poets. Most of the masterpiece poems of our nation's medieval literature were created according to Tang poetry - nationalization, creating Vietnamese identity.
The poem "Hoang Hac Lau" by Thoi Hieu deserves to be a precious gem in the Oriental literary treasure. The beautiful and poetic scene of the building is evoked under a layer of legendary mist. The inspiration is nostalgic, nostalgic, and love for the countryside. filled with sadness... All of this creates the humanistic beauty of this poem, and the poetic soul of Ly Guest has left a strong mark in each of us.
Source: more: Feelings about the best poem Nhan by Nguyen Binh Khiem
|
Bài thơ Hầu trời của Tản Đà là một trong những bài thơ thể hiện rõ cái tôi ngông cuồng của tác giả. Nhà thơ đã xem ông trời như một người bạn của mình. Cũng trong bài thơ này, tác giả đã tự ý thức về tài năng của bản thân cũng như khao khát khẳng định cái tôi giữa cuộc đời.
Để giúp các em làm tốt đề văn phân tích bài thơ Hầu trời của Tản Đà, Kho tàng văn mẫu sẽ hướng dẫn các em lập dàn ý chi tiết cho đề văn này, sau đó chúng ta sẽ cùng nhau làm bài văn phân tích.
I. Lập dàn ý phân tích bài thơ Hầu trời
1. Mở bài
– Giới thiệu về tác giả Tản Đà và bài thơ Hầu trời.
– Tản Đà là một tác giả thuộc phong trào Thơ mới. Ông có cái tôi phóng khoáng, ngông cuồng.
– Bài thơ Hầu trời thể hiện đúng tính cách của tác giả.
2. Thân bài phân tích bài thơ Hầu trời
a. Thi nhân đọc thơ cho trời và chư tiên nghe
– Thi nhân đọc một cách hào hứng.
– Giọng thơ hóm hỉnh, ngông cuồng.
– Nội dung kể về cuộc sống và công việc của mình.
b. Thái độ của người nghe
– Trời: tâm đắc, khen ngợi.
– Chư tiên: xúc động, tâm đắc.
c. Thi nhân trò chuyện với trời
– Thi nhân khẳng định cái tôi của bản thân.
– Tác giả có cuộc sống nghèo khó nhưng thư thái.
– Bao trùm lên bài thơ là cảm hứng nghệ thuật.
3. Kết luận
– Khái quát lại nội dung, nghệ thuật của bài thơ Hầu trời và nêu cảm nhận của em về bài thơ này.
Bài viết liên quan:
>> Phân tích bài thơ Vội vàng đoạn 2 của Xuân Diệu (Có dàn ý chi tiết)
>> Phân tích bài thơ Thu điếu của Nguyễn Khuyến (Có dàn ý chi tiết)
>> Phân tích bài thơ Lưu biệt khi xuất dương của Phan Bội Châu (Có dàn ý chi tiết)
Xem thêm: Quan niệm của anh (chị) về lối sống giản dị của một con người
II. Bài làm phân tích bài thơ Hầu trời
Tản Đà là một trong những tác giả tiêu biểu của văn học Việt Nam. Ông là một trong những nhà văn thuộc phong trào Thơ mới. Ông sáng tác cả văn xuôi lẫn thơ ca nhưng vẫn được biết đến nhiều hơn là các tác phẩm thơ. Các tác phẩm thi ca của ông mang nhiều màu sắc cổ điển về hình thức nhưng lại mới mẻ về nội dung. Tản Đà vốn là tác giả có cái tôi khá lớn. Ông thể hiện rõ cái tôi chơi ngông của mình trong nhiều tác phẩm. Bài thơ Hầu trời là một trong những bài thơ thể hiện được cái tôi của ông.
Hầu trời là một bài thơ được viết dưới dạng tự sự, trong đó nhà thơ tưởng tượng mình được lên trời để đọc thơ cho trời nghe. Đối với người phương Đông, trời là một đấng tối cao. Vậy nên chỉ riêng với việc nhà thơ tưởng tượng được đọc thơ cho trời là đủ để thấy cái tôi ngông cuồng của nhà thơ. Mặc dù là một câu chuyện tưởng tượng nhưng nội dung bài thơ được triển khai một cách logic, các chi tiết cụ thể, rành mạch. Sau khi thi nhân được đưa lên trời, Trời và các vị chư tiên tỏ thái độ thành kính chứ không hề cao ngạo, họ nhiệt thành và tổ chức vô cùng long trọng. Sau khi nhà thơ giãi bày cảnh ngộ cùng Trời thì Trời cũng khen ngợi tài năng của nhà thơ và đưa nhà thơ về trần giới một cách an toàn. Như vậy là thay vì nhà thơ bộc lộ tâm sự của mình như phần đa các nhà thơ khác thì nhà thơ lại chọn một cách thể hiện mới mẻ và đầy cá tính.
Phân tích bài thơ Hầu trời
Nói thẳng ra, câu chuyện Hầu trời là một truyện bịa nhưng cách thể hiện của nhà thơ quá hấp dẫn và logic khiến cho người đọc cảm thấy như đang được tiếp cận một câu chuyện rất thật:Xem thêm: Phân tích "phần tuyên ngôn" trong bản Tuyên ngôn Độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh (từ "Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị" cho đến hết), nêu rõ: Ý nghĩa sâu sắc của "phần tuyên ngôn" và lập luận chặt chẽ, giọng văn hùng biện đầy sức thuyết phục
Đêm qua chẳng biết có hay không
Thật được lên tiên sướng lạ lùng
Nhà thơ đã đưa ra lý do để mình được lên Hầu trời một cách rất đời thường nên khiến người đọc dễ tin: đó là khi nhà thơ đang đun nước uống và ngâm nga bài thơ chơi trăng động tới trời xanh. Lời thơ đã làm cho trời mất ngủ vậy là được các vị Chư tiên mời lên trời.
Nội dung Hầu trời vẽ ra cuộc hội kiến giữa nhà thơ và Trời cùng với các vị Chư tiên, nội dung ấy được kể lại một cách vô cùng chi tiết, nên càng làm tăng lên cảm giác chân thật. Nhà thơ đã thể hiện nội dung một cách hóm hỉnh với lối kể chuyện nôm na của dân gian để tái hiện câu chuyện hầu Trời.
Thông qua việc tưởng tượng, nhà thơ đã có cơ hội giới thiệu tên tuổi, quê hương, đất nước, nghề nghiệp và còn kể tên các tác phẩm mà mình đã viết. Với cách lựa chọn tình huống độc đáo, nhà thơ đã khẳng định được tài năng của bản thân mình:
Đương cơn đắc ý đọc đã thích
Chè trời nhấp giọng càng tốt hơi
Văn dài, hơi tốt ran cung mây.
Rõ ràng, nhà thơ đang tự khen mình nhưng ông lại chọn hình thức là để cho ông Trời và các vị chư tiên khen. Đây quả là một cách chơi ngông tếu táo và đáng yêu. Thậm chí, nhà thơ còn mượn lời của Trời để khẳng định tài năng của bản thân mình:
Trời lại phê cho: Văn thật tuyệt
Văn trần được thế chắc có ít
Đầm như mưa sa, lạnh như tuyết
Trong thời buổi đất nước đang mất đi quyền tự chủ, việc Tản Đà đứng lên tự giới thiệu, tự khẳng định bản thân giống như một sự tự hào và tự tôn của dân tộc. Nhưng chưa dừng lại ở đó, ông còn hóm hỉnh khẳng định cái ngông của mình rằng:Xem thêm: Phân tích nhân vật ông Sáu trong Chiếc lược ngà (Có dàn ý chi tiết)
Bẩm quả có tên Nguyễn Khắc Hiếu
Đày xuống hạ giới vì tội ngông
Nói về cái tôi của bản thân không đơn thuần vì nhà thơ muốn khẳng định mình. Ông nói như vậy bởi ông nhận thấy được trách nhiệm của bản thân và cũng chỉ ra trách nhiệm chung của những người nghệ sĩ đó chính là lo việc thiên lương của nhân loại. Điều này thể hiện rõ thông qua các câu thơ:
Trời rằng: Không phải là Trời đày
Trời định sai con một việc này
Là việc thiên lương của nhân loại
Cho con xuống thuật cùng đời hay
Qua đây, nhà thơ đã chỉ ra cho người đọc thấy ý nghĩa của văn chương và tầm quan trọng của văn chương trong cuộc sống, đề cao những người văn nghệ sĩ. Văn chương cũng là một nghề giúp con người ta kiếm sống. Và vì vậy, nhà thơ chẳng ngại ngần khi mang văn chương ra đường đem bán. Nhà thơ đã kể với Trời chuyện đó và mượn lời của Trời để tự an ủi chính mình.
Bằng việc sự dụng hình thức độc đáo, bài thơ Hầu trời đã mang đến một luồng gió mới cho văn học Việt Nam đầu thế kỉ XX. Qua đây, nhà thơ khẳng định được mình, khẳng định được vai trò, vị trí của văn chương cũng như khẳng định vai trò của người nghệ sĩ đó là làm đẹp cho đời.
Trên đây chúng ta đã cùng lập dàn ý phân tích bài thơ Hầu trời cũng như làm bài văn mẫu phân tích bài thơ Hầu trời. Bài văn mẫu chỉ mang tính chất tham khảo, các em có thể chắt lọc và tự viết ra những bài văn của riêng mình.
Thu Thủy
|
Tan Da's poem Almost Heaven is one of the poems that clearly shows the author's extravagant ego. The poet considered God as his friend. Also in this poem, the author is self-aware of his own talent as well as his desire to assert his ego in life.
To help you do well in your essay analyzing Tan Da's poem Almost Heaven, Sample Literature Treasury will guide you to create a detailed outline for this essay, then we will write the analysis essay together.
I. Create an outline to analyze the poem Almost Heaven
1. Open the lesson
– Introduction to author Tan Da and the poem Almost Heaven.
– Tan Da is an author belonging to the New Poetry movement. He has a liberal and extravagant ego.
– The poem Almost Heaven accurately reflects the author's personality.
2. Body analysis of the poem Almost Heaven
a. Poets recite poems for heaven and fairies to hear
– The poet reads enthusiastically.
– The poetic voice is humorous and extravagant.
– Content about my life and work.
b. Attitude of the listener
– God: admire, praise.
– Immortals: moved, pleased.
c. The poet talks to the sky
– The poet asserts his own ego.
– The author has a poor but relaxing life.
– Covering the poem is artistic inspiration.
3. Conclusion
– Overview of the content and art of the poem Almost Heaven and state your feelings about this poem.
Related articles:
>> Analysis of Xuan Dieu's poem "Hurry" part 2 (With detailed outline)
>> Analysis of the poem Autumn Leaves by Nguyen Khuyen (With detailed outline)
>> Analysis of the poem "Farewell when leaving the world" by Phan Boi Chau (With detailed outline)
See more: Your concept of a simple human lifestyle
II. Essay analyzing the poem Almost Heaven
Tan Da is one of the typical authors of Vietnamese literature. He is one of the writers of the New Poetry movement. He composed both prose and poetry but is still better known for his poetic works. His poetic works are classic in form but new in content. Tan Da is an author with quite a big ego. He clearly expressed his eccentric ego in many works. The poem Almost Heaven is one of the poems that shows his ego.
Almost Heaven is a poem written in narrative form, in which the poet imagines himself going to heaven to read poetry to heaven. For Eastern people, heaven is a supreme being. So just the fact that the poet imagines reading poetry to heaven is enough to show the poet's extravagant ego. Although it is an imaginary story, the poem's content is developed logically, with specific and clear details. After the poet was taken to heaven, Heaven and the gods showed respect, not arrogance, they were enthusiastic and organized extremely solemnly. After the poet confided his plight to Heaven, Heaven also praised the poet's talent and brought the poet safely back to earth. So instead of the poet expressing his feelings like most other poets, the poet chose a new and personal way of expressing himself.
Analysis of the poem Almost Heaven
To put it bluntly, the story Almost Heaven is a fabrication, but the poet's way of expressing it is so attractive and logical that the reader feels like they are approaching a very real story: See more: Analysis of the "manifesto" " in President Ho Chi Minh's Declaration of Independence (from "France flees, Japan surrenders, King Bao Dai abdicates" until the end), clearly states: The profound meaning of the "declaration" and the strong argument Tight, persuasive rhetoric
Last night I didn't know if it was there or not
It's a strange joy to be in heaven
The poet gave the reason for his return to Heaven in a very ordinary way, making it easy for the reader to believe: that was when the poet was boiling water and reciting a poem playing with the moon moving to the blue sky. The poem made heaven lose sleep, so the gods invited him to heaven.
The content of Almost Heaven depicts the meeting between the poet and Heaven along with the Immortals. The content is told in great detail, thus increasing the feeling of authenticity. The poet presented the content humorously with a simple folk storytelling style to recreate the story of serving Heaven.
Through imagination, the poet had the opportunity to introduce his name, hometown, country, profession and also name the works he had written. With a unique choice of situations, the poet has affirmed his own talent:
I enjoyed reading it when I was proud
The better the quality of the tea, the better
The writing is long and somewhat good.
Obviously, the poet is praising himself, but he chose the form to let God and the gods praise him. This is such a playful and adorable way to play. The poet even borrowed God's words to affirm his own talent:
God bless you again: The writing is great
There must be very little literature like that
The lagoon is like falling rain, cold like snow
In a time when the country is losing its autonomy, Tan Da standing up to introduce himself and assert himself is like a sign of national pride and self-respect. But he did not stop there, he also humorously affirmed his arrogance: See more: Analysis of Mr. Sau's character in The Ivory Comb (With detailed outline)
The fruit's name is Nguyen Khac Hieu
Banished to the lower world for the crime of arrogance
Talking about his own ego is not simply because the poet wants to assert himself. He said this because he realized his own responsibility and also pointed out the common responsibility of artists, which is to take care of the good things of humanity. This is clearly shown through the verses:
Heaven said: It is not Heaven's banishment
God intended to send me this task
It is a noble work of humanity
Let me go down and tell you about life
Through this, the poet pointed out to readers the meaning of literature and the importance of literature in life, promoting writers and artists. Literature is also a profession that helps people make a living. And so, poets do not hesitate to bring literature to the streets to sell. The poet told God that story and borrowed God's words to comfort himself.
By using a unique form, the poem Hau Troi brought a breath of fresh air to Vietnamese literature in the early twentieth century. Through this, the poet can assert himself, affirm the role and position of literature as well as affirm that the role of the artist is to beautify life.
Above we have created an outline to analyze the poem Hau Troi as well as a sample essay analyzing the poem Hau Troi. Sample essays are for reference only, students can refine and write their own essays.
Thu Thuy
|
Phân tích bài thơ Hữu Cảm của Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Hướng dẫn
Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 – 1585) là một trong những vị danh nhân của dân tộc, từng đỗ trạng nguyên, có rất nhiều công trạng với vua với dân với nước, nhưng trước cuộc đời đen bạc ông đã khước từ mọi vinh hoa phú quý rút lui về sống một cuộc đời ẩn dật, giản dị tại quê nhà. Bất lực trước các sự hèn hạ của chế độ xã hội mục nát, ông đã lui về ở ẩn nhưng lòng ông vẫn nặng trĩu nỗi lo nước thương đời thương dân. Bài thơ Hữu cảm bộc lộ tâm trạng đó của nhà thơ.
Nguyễn Bỉnh Khiêm là học rộng hiểu nhiều, tâm hồn thanh cao, nhưng sống trong giai đoạn lịch sử có nhiều biến động loạn li, các tập đoàn phong kiến vì tranh giành quyền vị đã chém giết lẫn nhau, chiến tranh đã xảy ra liên miên. Mở đầu bài thơ, tác giả viết:
"Giặc giã tung hoành lấn đế kinh"
Thời điểm đó đang xảy ra chiến tranh giữa các nước làm cho vua chúa lo lắng vì quyền lợi ngôi báu bị đe dọa, uy hiếp; các bề tôi, những kẻ phục vụ vì vua chúa, quyền lợi của họ gắn liền với vua chúa nên họ cũng đều lo sợ. Trước tình cảnh ấy, nhà thơ tỏ thái độ thông cảm với nỗi lo của chúa, với nỗi nhục của tôi (chúa lo tôi nhục đáng thương tình xiết bao – lời dịch nghĩa).Xem thêm: Giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm Tiễn dặn người yêu
Nếu xảy ra chiến tranh tai họa ghê gớm sẽ giáng xuống đầu những kẻ dân đen. Họ phải gánh chịu nhiều đau khổ nhất: tan cửa, nát nhà, mất chồng mất con vì chiến tranh. Trong các cuộc xâu xé vì quyền lợi của các tập đoàn phong kiến, họ biến thành những con vật hi sinh đáng thương. Vì vậy họ mong chờ những vị cứu tinh đến giải thoát cho họ ra khỏi cơn binh lửa chiến tranh, lòng khát khao cháy bỏng đó của dân chúng biết bao ngày tháng đã kết lại thành nỗi uất ức trong lòng:
"Mong mưa, dân chúng lòng dân vọng
Trừ bạo, tưng bừng đạo nghĩa binh"
(Chờ người đến cứu sống lòng mong đợi của dân chúng đến từ lâu. Thương dân đánh kẻ có tội, ai dấy quân như trận mưa gặp thời).
Thấu hiểu nỗi lòng mong mỏi của nhân dân, có những người tài giỏi đứng lên dẹp trừ gian ác,là kẻ thương dân đánh kẻ có tội? Chính lúc này nếu có ai đó vì thương dân đứng lên dấy quân để trừng trị kẻ bạo tặc dẹp yên cơn loạn lại thì bốn bể dân chúng sẽ quay về:
"Bốn bể vui theo người đạo đức"
Nếu có người đó xuất hiện, thi đó là vị cứu tinh của dân tộc, dân chúng sẽ reo vui mà mãi mãi nhớ ơn vị cứu tinh đã đem lại cho họ cảnh yên vui thái bình:Xem thêm: Phân tích đoạn Chí khí anh hùng (Trích Truyện Kiều - Nguyễn Du)
"Khắp nơi lại thấy cảnh thanh bình."
Sinh ra đúng thời loạn lạc, là người có tài và chí lớn, nhưng một mình ông không thể thay đổi được thế thời, yêu nước thương dân nhưng không thể cứu giúp được dân. Tuy đã từng làm quan đại thần dưới thời Trịnh Mạc… nhưng ông lại là con người thấu hiểu nỗi khổ đau của nhân dân, đồng cảm với họ, đứng về phía họ, bênh vực họ.
Cuộc chiến tranh không thể diễn ra liên miên, rồi cũng kết thúc có kẻ thắng, người bại, nhà thơ đã rút ra một kết luận: “ Xưa nay nhân giả là vô địch”. Một nhà nho nên rất coi trọng chữ nhân, vì thế ông khẳng định kẻ nào vì nhân ái biết thương dân kẻ ấy sẽ chiến thắng:
"Nhân giả là vô địch"
Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Bỉnh Khiêm làm ta nhớ lại lời người anh hùng Nguyễn Trãi trong Bình ngô đại cáo đã khảng khái tuyên bố:
"Đem đại nghĩa để thắng hung tàn
Lấy chí nhân để thay cường bạo"
Ông đã đặt một câu hỏi, nhưng cũng là một câu trả lời cho những kẻ gây ra chiến tranh, gây ra sự hung tàn, chết chóc cho dân cho nước.
"Lo phải khư khư thích chiến tranh?"
Câu thơ ngắn gọn tưởng chừng chỉ như câu hỏi bình thường, nhưng là lời phê phán lên án những kẻ thích gây ra cảnh binh đao chỉ vì quyền lợi ích kỉ của cá nhân mình. Nhà thơ đứng trên lập trường nhân dân. Xuất phát từ lòng nhân đạo mà lên án chiến tranh. Phê phán chiến tranh phi nghĩa, một biểu hiện của tư tưởng tiến bộ. Có thể nói Nguyễn Bỉnh Khiêm là nhà thơ rất sớm nếu không nói đầu tiên – bằng sáng tác của mình đã lên án chiến tranh bảo vệ quyền lợi của người dân.Xem thêm: 14 website văn mẫu chọn lọc dành cho học sinh
Bài Hữu cảm đã ra đời cách chúng ta rất xa, nhưng hôm nay đọc lại lòng ta vẫn xúc động về tấm lòng của nhà thơ đối với nhân dân được thể hiện qua từng câu thơ. Nguyễn Bỉnh Khiêm thật xứng đáng cây đại thu che rợp bóng văn học trong mấy thế kỉ, người đầu tiên giám đứng lên phê phán chiến tranh phi nghĩ, mở đầu cho hàng laotj những sáng tác về đề tài chiến tranh về sau.
Nguồn:
|
Analysis of the poem Huu Cam by Nguyen Binh Khiem.
Instruct
Nguyen Binh Khiem (1491 - 1585) is one of the nation's famous people, once passed the poinsettia, had many merits to the king, people and country, but before his black and silver life, he refused all glory and wealth. You retreated to live a simple, secluded life in your hometown. Helpless in the face of the vileness of the rotten social regime, he retreated into hiding, but his heart was still heavy with worries about the country, life, and people. The poem "Sentimentality" reveals that mood of the poet.
Nguyen Binh Khiem was well-educated and knowledgeable, with a noble soul, but he lived in a period of history with many upheavals and chaos, feudal groups fighting for power killed each other, and wars broke out repeatedly. hypnotic. At the beginning of the poem, the author writes:
"The enemy is rampaging and encroaching on the capital"
At that time, there was a war between countries, making kings worried because their rights to the throne were threatened and threatened; The servants, those who serve the king, their interests are tied to the king, so they are also afraid. Faced with that situation, the poet expressed sympathy for God's concern and my humiliation (how pitiful God is for my humiliation - translation). See more: The content and artistic value of the poem The work Saying Goodbye to My Lover
If war breaks out, terrible disasters will befall the common people. They have to suffer the most: broken homes, broken homes, lost husbands and children due to war. In the struggles for the interests of feudal corporations, they turned into pitiful sacrificial animals. Therefore, they waited for saviors to come and rescue them from the fire of war. That burning desire of the people for many days had turned into resentment in their hearts:
"Hoping for rain, people's hearts hope
Eliminate tyranny, rejoicing the way of righteousness"
(Waiting for someone to come and save the people's lives has been waiting for a long time. Loving the people hits the sinner, whoever raises the army is like the rain at the right time).
Understanding the people's longing, are there talented people who stand up to eliminate evil, who love the people and fight the sinners? At this moment, if someone, out of love for the people, stands up and raises troops to punish the bandits and quell the rebellion, the people will return:
"Four pools of joy according to virtuous people"
If that person appears, it is the savior of the nation. The people will shout with joy and forever remember the savior for bringing them peace and joy: See more: Analysis of Chi Khi Anh hero (Excerpt from the Tale of Kieu - Nguyen Du)
"Everywhere you see peace."
Born in a chaotic time, he was a man of great talent and ambition, but he alone could not change the times. He loved the country and loved the people but could not save them. Although he was once a mandarin under Trinh Mac... he was a person who understood the suffering of the people, sympathized with them, stood by their side, and defended them.
The war cannot go on continuously, in the end there will be winners and losers, the poet has drawn a conclusion: "In the past, fake people were invincible". A Confucian scholar should value humanity very much, so he affirmed that whoever loves his people out of compassion will win:
"The hypocrite is the champion"
Nguyen Binh Khiem's benevolent ideology reminds us of the words of hero Nguyen Trai in Binh Ngo Dai Cao who boldly declared:
"Use great justice to overcome brutality
Use kindness to replace violence."
He asked a question, but also an answer to those who cause war, brutality, and death to the people and the country.
"Afraid of having to like war?"
The short poem seems like just a normal question, but it is a criticism and condemnation of those who like to cause police brutality just for their own selfish interests. The poet stands on the people's stance. Out of humanity, we condemn war. Criticizing unjust war, an expression of progressive ideology. It can be said that Nguyen Binh Khiem was a very early poet, if not the first - with his writing he condemned war to protect the rights of the people. See more: 14 selected sample literary websites for students
The poem "Sentimental" was born a long way from us, but reading it today, we are still moved by the poet's heart for the people expressed through each verse. Nguyen Binh Khiem is truly worthy of the great tree that has shaded literature for several centuries. He was the first person to stand up and criticize the unthinkable war, opening the door to many later works on the topic of war.
Source:
|
Đề bài: Phân tích bài thơ Khi Con Tu Hú của nhà thơ Tố Hữu
Bài làm
Khi Con Tu Hú là một bài thơ ra đời trong thời điểm mà nhà thơ Tố Hữu đang bị giam tại nhà lao Thừa Thiên khi bị thực dân Pháp bắt vì tội làm cách mạng/ Bài thơ là nỗi niềm xốn xang, bức bối của người thanh niên cộng sản đang khao khát được tự do, được hết mình vì cách mạng nhưng lại phải chịu cảnh tù đày.
Chính tiếng chim tu hú kêu khiến cho Tố Hữu như trỗi dậy cảm xúc của mình:
“Khi con tu hú gọi bầy
Lúa chiêm đương chín, trái cây ngọt dần”
Chim tu hú kêu báo hiệu mùa hè đã đến, đây cũng là thời điểm mà lúa chiêm chín chuẩn bị cho một mùa thu hoạch, màu mà những tia nắng khiến cho trái cây trở nên ngọt ngào, nhanh chín hơn. Đối diện với cảnh vật bừng nắng mới của ngày hè, cảnh vật rực rỡ ấy thì người thanh niên cộng sản lại phải ở trong không gian chật hẹp của lao tù, bị xiềng xích hạn chế sự tự do. Lắng nghe tiếng chim, lắng nghe âm thanh của cuộc sống khiến cho nhà thơ không cần trực tiếp chứng kiến cũng biết rằng “Lúa chiêm đương chín, trái cây ngọt dần”. Có thể thấy rằng chỉ một tiếng chim hót nhưng gợi nhớ cả mùa hè của quê hương.Xem thêm: Đọc truyện cười sau, từ đó phát biểu những suy nghĩ của anh (chị) về việc cho và nhận trong cuộc sống hàng ngày. Cứu người chết đuối...
Những ký ức như ùa về trong tâm trí của nhà thơ:
“Vườn râm dậy tiếng ve ngân
Bắp rây vàng hạt dầy sân nắng đào
Trời xanh càng rộng càng cao
Đôi con diều sáo lộn nhào từng không”
Nhắc đến mùa hè thì không thể thiếu tiếng ve, tiếng ve ngân vang trong trí óc của những cô cậu học trò, suốt một quãng đời thơ ấu làm sao có thể quên được. Rồi ở vùng quê yên ả ấy ngoài màu vàng của nắng hạ còn có màu vàng của lúa, bắp, màu xanh của bầu trời. Một cảnh vật, một bức tranh quê hương mang nhiều màu sắc, lung linh, rực rỡ. Trên bầu trời trong xanh ấy có đôi con diều sáo vi vu, bay lượn. Chắc hẳn phải yêu, phải gắn bó với mùa hè xứ Huế thì tác giả mới có thể tái hiện được cảnh sắc tươi đẹp ấy.
Phân tích bài thơ Khi Con Tu Hú
Có thể nói, sáu câu thơ lục bát đầu của bài thơ đã mở ra một thế giới căng tràn nhựa sống. Gần như tất cả những đặc trưng của mùa hè được tác giả thu gọn vào mấy câu thơ trên. Gắn với hoàn cảnh của nhà thơ khi ông đang chịu sự giam cầm của thực dân Pháp có thể thấy được người tù đang có một khát khao tự do cháy bỏng, niềm yêu đời, tha thiết với quê hương. Khi Tố Hữu đang hồi tưởng về quá khứ tươi đẹp thì nhà thơ lại phải trở lại hiện thực phũ phàng:Xem thêm: Bình luận về gương, noi gương và nêu gương
“Ta nghe hè dậy bên lòng
Mà chân muốn đạp tan phòng, hè ôi!”
Tiếng chim tu hú, tiếng ve kêu, tiếng diều sáo khiến cho nhà thơ thấy rạo rực, nôn nao. Sự xao động trong tâm hồn của người nghệ sĩ như một cơn sóng lớn muốn phá tan rào cản, giật tung xiềng xích để trở về với cuộc sống tự do, phóng khoáng. Dường như cái sức nóng của mùa hè không phải từ bên ngoài mà là xuất phát từ nội tâm của người chiến sĩ. Kháo khát, sự bứt rứt khó chịu ấy tiếp tục được nhà thơ lột tả ở hai câu thơ cuối:
“Ngột làm sao, chết uất thôi
Con chim tu hú ngoài trời cứ kêu”
Tâm trạng nhứ nhối, sự ngột ngạt khiến cho nhà thơ không thể kìm nén nỗi lòng của mình mà bộc bạch một cách trực tiếp. Cách ngắt nhịp chia câu thơ làm hai nửa bằng nhau kết hợp với những từ ngữ thể hiện tâm trạng khiến cho người đọc dễ dàng hình dung được tình cảnh mà nhà thơ đang chịu đựng. Giữa không gian, giữa lúc tâm trạng đang ngột ngạt thì tiếng chim tu hú ở bên ngoài cứ tiếp tục kêu khiến cho sự phẫn uất này dường như được đẩy lên cao độ. Hai câu thơ như chứa đựng sự khắc khoải, day dứt khôn nguôi đang chiếm cứ cả tinh thần và thể xác của nhà thơ, của người thanh niên cộng sản.Xem thêm: Ý nghĩa nhan đề Chiếc thuyền ngoài xa
Bài thơ Khi Con Tu Hú được nhà thơ viết bằng thể thơ lục bát, một thể thơ dân tộc rất phù hợp với việc diễn tả tâm trạng của nhân vật. Với nhịp điệu thong thả, những từ ngữ và những hình ảnh gần gũi, thân thuộc khiến cho bài thơ trở nên chân thực, không xa rời thực tế. Cùng với đó chính là nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật rất chân thực, tinh tế khiến cho người đọc cảm nhận sâu sắc được những tâm sự của nhân vật trữ tình. Đó là tâm trạng của một người chiến sĩ cách mạng khi chưa hoạt động được bao lâu thì đã lâm vào cảnh tù ngục và khao khát mãnh liệt được tự do, được cống hiến.
Bài thơ Khi Con Tu Hú của Tố Hữu là tiếng lòng của người chiến sĩ cộng sản. Một người còn rất trẻ tuổi, tuy chịu cảnh lao tù nhưng vẫn luôn tràn đầy sức sống và chan chứa tình yêu con người, yêu quê hương và yêu cuộc sống.
Loan Trương
|
Topic: Analysis of the poem Khi Con Tu Hu by poet To Huu
Assignment
When Con Tu Hu is a poem born at a time when poet To Huu was imprisoned in Thua Thien prison when he was arrested by the French colonialists for being a revolutionary. The poem is about the turmoil and frustration of people. Young communists are yearning for freedom, to devote themselves to the revolution, but are forced to endure imprisonment.
It was the sound of howling birds that made To Huu feel his emotions awaken:
“When you howl and call the herd
The rice is ripening, the fruit is gradually sweetening.
The howling bird signals that summer has come. This is also the time when rice is ripening to prepare for the harvest season, the color of the sun's rays makes the fruit become sweeter and ripen faster. Faced with the new sunny landscape of the summer day, that brilliant landscape, the young communist had to stay in the cramped space of prison, chained and restricting his freedom. Listening to the birds, listening to the sounds of life makes the poet know without directly witnessing that "The rice is ripening, the fruit is gradually sweetening". It can be seen that just one bird song reminds us of the whole summer of our homeland. See more: Read the following joke, from which you express your thoughts about giving and receiving in daily life. Saving drowning people...
Memories seemed to rush back into the poet's mind:
“The shady garden is filled with the sound of cicadas
Yellow sifted corn with thick kernels in the sunny peach yard
The blue sky is wider and higher
A pair of starling kites somersaulted into nothingness."
When talking about summer, the sound of cicadas cannot be missed. The sound of cicadas resonates in the minds of school children and students. How can one forget it throughout their childhood? Then in that quiet countryside, in addition to the yellow of the summer sun, there is also the yellow of rice, corn, and the blue of the sky. A landscape, a picture of the homeland that is colorful, sparkling, and brilliant. In that clear blue sky, there were a pair of starling kites flying and flying. Surely one must love and be attached to the summer of Hue for the author to be able to recreate that beautiful scene.
Analyze the poem When You Howl
It can be said that the first six verses of the poem have opened up a world full of life. Almost all the characteristics of summer are condensed by the author into the above verses. Associated with the poet's situation when he was imprisoned by the French colonialists, it can be seen that the prisoner had a burning desire for freedom, a love of life, and a passion for his homeland. While To Huu was reminiscing about the beautiful past, the poet had to return to the harsh reality: See more: Comments on example, imitation and setting an example
“I hear summer rising in my heart
But my feet want to smash the room, oh summer!”
The sounds of birds chirping, cicadas chirping, and kites chirping make the poet feel excited and nauseous. The turmoil in the artist's soul is like a big wave that wants to break down barriers, rip off chains, and return to a free and liberal life. It seems that the heat of summer does not come from the outside but comes from the inside of the soldier. That longing and uneasiness continue to be described by the poet in the last two verses:
“How sad, I'll just die of frustration
The howling bird outside keeps calling.
The painful and stuffy mood made the poet unable to suppress his feelings and express them directly. The rhythm of dividing the poem into two equal halves combined with words expressing mood makes it easy for the reader to imagine the situation the poet is enduring. In the middle of the space, in the midst of a stifling mood, the howling sound of birds outside continued to chirp, making this resentment seem to be pushed to a peak. The two verses seem to contain the endless restlessness and torment that is occupying both the spirit and body of the poet and the communist youth. See more: Meaning of the title The boat in the distance
The poem Khi Con Tu Hu was written by the poet in six-eight verse, a national poetic form that is very suitable for expressing the character's mood. With a leisurely rhythm, close and familiar words and images make the poem realistic, not far from reality. Along with that is the art of describing the character's psychology very realistically and delicately, making the reader deeply feel the sentiments of the lyrical character. That is the mood of a revolutionary soldier who, after not being active for long, falls into prison and has a strong desire to be free and contribute.
To Huu's poem Khi Con Tu Hu is the voice of a communist soldier. A very young person, despite being in prison, is still full of vitality and full of love for people, love for his homeland and love for life.
Loan Truong
|
Tố Hữu là một nhà thơ cách mạng nổi tiếng của nước ta. Ông có nhiều sáng tác hay và bài thơ Khi con tu hú là một sáng tác đầy ấn tượng của ông. Bài thơ này tuy không dài nhưng nội dung của nó vẫn thể hiện được tinh thần khát khao tự do của nhà thơ khi ông đang phải ở trong hoàn cảnh ngục tù.
Để các em có thể làm một bài văn phân tích bài thơ Khi con tu hú được tốt nhất, Kho tàng văn mẫu sẽ hướng dẫn các em lập dàn ý phân tích bài thơ Khi con tu hú và cung cấp thêm bài văn mẫu cho các em tham khảo.
I. Lập dàn ý phân tích bài thơ Khi con tu hú
1. Mở bài
– Giới thiệu về nhà thơ Tố Hữu và bài thơ Khi con tu hú.
– Nhà thơ Tố Hữu quê ở Thừa Thiên – Huế. Từ thời học sinh ông đã tham gia cách mạng. Cả cuộc đời mình ông dành trọn cho cách mạng và sáng tác thi ca. Ông được xem như là ngọn cờ đầu của thơ ca cách mạng Việt Nam.
– Hoàn cảnh sáng tác bài thơ Khi con tu hú là khi tác giả bị thực dân Pháp bắt và giam cầm ở nhà lao Thừa Phủ – Huế.
2. Thân bài phân tích bài thơ Khi con tu hú
a. Cảnh đất trời vào hè trong tâm tưởng người tù cách mạng
– Tiếng chim tu hú giống như một tiếng báo thức làm bừng tỉnh tâm hồn người chiến sĩ trẻ khiến cho anh cảm nhận được khung cảnh mùa hè rộn rã:
+ Trong vườn có tiếng ve râm ran.
+ Trên cánh đồng lúa chiêm đã chín vàng.
+ Cánh diều chao lượn trên bầu trời cao rộng.
+ Trong vườn trái cây đượm ngọt.
– Khung cảnh của mùa hè được hiện lên trong tâm tưởng của tác giả. Trong hoàn cảnh ngục tù mà có thể cảm nhận được sự sôi động của mùa hè chứng tỏ nhà thơ là người có tâm hồn trẻ trung, yêu đời.
b. Tâm trạng người tù cách mạng
– Cách ngắt nhịp bất thường, cách dùng từ ngữ mạnh, từ cảm thán làm lột tả sự ngột ngạt một cách cao độ. Thể hiện khát khao cháy bỏng được thoát ra khỏi chốn ngục từ của tác giả để tìm về với tự do.Xem thêm: Em hãy miêu tả con mèo nhà em nuôi3. Kết luận
– Khái quát lại nội dung bài thơ và nêu cảm nhận của em về bài thơ này.
Bài viết liên quan:
>> Phân tích bài thơ Ngắm trăng của Hồ Chí Minh (Có dàn ý chi tiết)
>> Phân tích bài thơ Quê hương của Tế Hanh (Có dàn ý chi tiết)
II. Bài làm phân tích bài thơ Khi con tu hú
Nhà thơ Tố Hữu sinh ra và lớn lên ở mảnh đất Thừa Thiên – Huế. Ông được biết đến là nhà thơ của lý tưởng cộng sản. Những bài thơ mà ông viết ngập tràn hình ảnh lãng mạn cách mạng. Nội dung thơ được tác giả gửi gắm nhiều cảm xúc, tâm tư của bản thân mình vào trong đó. Viết cho độc giả nhưng cũng là viết cho chính mình. Trong thời gian tham gia hoạt động cách mạng, nhà thơ đã từng bị giam cầm trong nhà ngục Thừa Phủ – Huế. Trong thời gian này, ông đã viết bài thơ Khi con tu hú để thể hiện khát vọng tự do, hướng tới tự do.
Nhan đề của bài thơ là Khi con tu hú giống như một cụm từ chỉ mốc thời gian. Nó chính là thời điểm mà mọi khao khát trong tâm trí nhà thơ bùng lên. Đó là thời điểm mùa hè đầy sôi động đang đến. Với những người trẻ tuổi như Tố Hữu lúc bấy giờ, mùa hè sôi động luôn khiến con người khao khát được hoạt động, được hòa mình vào cuộc sống, được cảm nhận hương lúa chiêm chín thơm trên cánh đồng. Thế nhưng lúc này, nhà thơ đang ở trong hoàn cảnh tù đầy và mọi hình ảnh ông viết ra trong bài thơ này đều là bằng tưởng tượng hoặc là bằng nỗi nhớ của những mùa hè khi nhà thơ đang được tự do.
Phân tích bài thơ Khi con tu hú
Tác giả đã bắt đầu bài thơ của mình bằng một tiếng chim tu hú. Có thể lý giải việc tiếng chim tu hú tác động mạnh lên tâm trí của nhà thơ là bởi tiếng chim tu hú là tiếng kêu báo hiệu cho những ngày hè rực rỡ đang đến gần. Hình ảnh cánh chim bay lượn trên bầu trời lại là biểu tượng cho sự tự do. Nó tác động mạnh lên tâm tưởng của nhà thơ và ông đã viết:Xem thêm: Nghị luận xã hội về thực trạng internetKhi con tu hú gọi bầy
Lúa chiêm đương chín, trái cây ngọt dần
Ở đây, nhà thơ không miêu tả sự đơn độc của tiếng chim mà miêu tả một tiếng chim đang gọi bầy. Đó là tiếng chim báo tin vui thể hiện một sự gắn bó, khăng khít. Chúng đang gọi nhau bởi vì trên cánh đồng lúa chiêm đang chín còn trái cây thì đang ngọt dần. Chưa dừng lại ở đó, tiếng chim còn gợi lên trong lòng tác giả cả một thế giới ngập tràn hình ảnh, màu sắc, âm thanh đầy tươi đẹp:
Vườn ươm dậy tiếng ve ngân
Bắp rây vàng hạt đầy sân nắng đào
Trời xanh càng rộng càng cao
Đôi con diều sáo lộn nhào tầng không
Đây là những hình ảnh, âm thanh, màu sắc của cuộc sống thường ngày. Đó là một khu vườn mùa hè với tiếng ve ngân râm ran như đáng hát khúc ca mùa hạ. Đó là khoảng sân vàng ươm màu của những hạt ngô. Đó là một bầu trời cao và rộng nơi đôi diều sáo đang lộn nhào. Không gian ấy thật vui tươi và sinh động. Tất cả những hình ảnh mà nhà thơ Tố Hữu đưa ra đều thể hiện một mùa màng bội thu, một cuộc sống no ấm và đủ đầy. Sự sống ngoài kia đang vận động và không ngừng được sinh sôi, nảy nở. Không chỉ có vậy, chúng được tác giả tô đậm và đẩy lên mức cao nhất có thể. Chẳng hạn như hạt bắp vàng được viết là bắp rây vàng hạt, ánh nắng thì là nắng đào, trời xanh thì càng rộng càng cao. Có thể thấy màu sắc trong thơ vô cùng lộng lẫy. Tiếng ve không chỉ ngân vang mà nó còn dậy lên rất nhiều điều. Và để hòa nhập vào không gian ấy, đôi con diều sáo cũng phải thể hiện sự náo nức của mình bằng cách lộn nhào tầng không.
Lý giải cho việc miêu tả của tác giả, chúng ta có thể thấy hoàn cảnh của ông lúc này là đang trong cảnh tù đầy. Nhà thơ bị giam cầm trong 4 bức tường lao nên tất thảy những gì ông miêu tả kia đều là bằng trí tưởng tượng, bằng trí nhớ và bằng tình yêu dành cho quê hương, đất nước. Chính từ những điều đó, nhà thơ mới tô đậm cuộc sống lên một chút bởi với ông lúc này, mọi hình ảnh, âm thanh, màu sắc của cuộc sống đều vô cùng quý giá. Những thứ trước đây vốn bình dị thì nay càng trở nên sâu sắc hơn.Xem thêm: Vào vai Giôn-xi kể lại câu chuyện Chiếc lá cuối cùng của O. Hen-riCảnh vật trong trí tưởng tượng của tác giả càng tươi đẹp bao nhiêu thì nó lại càng làm cho thực tại trở nên cay nghiệt bấy nhiêu. Những câu thơ cuối của bài thơ đã thể hiện rõ cái ngột ngạt, bí bách mà nhà thơ đang phải trải qua:
Ta nghe hè dậy bên lòng
Mà chân muốn đạp tan phòng, hè ôi
Ngột làm sao, chết uất thôi
Khi con tu hú ngoài trời cứ kêu
Nếu như đoạn thơ trên tác giả miêu tả khung cảnh bên ngoài nhà giam thì đến đoạn thơ này nhà thơ đã miêu tả tâm trạng của mình. Thoạt tiên ta tưởng như có sự mâu thuẫn ở đây nhưng kì thực giữa hai đoạn thơ có một sự liên kết vô cùng khéo léo. Ở đây, mối dây liên kết chính là tiếng chim tu hú. Tiếng chim không chỉ gợi lên khung cảnh bên ngoài nhà giam, tiếng chim còn gợi lên trong lòng tác giả niềm khao khát được tự do. Nó khiến cho nhà thơ cảm thấy ngột ngạt, chết uất.
Ở cuối bài thơ, tiếng chim tu hú trở thành tiếng gọi của tự do và chính bởi vậy nó càng khiến cho nhà thơ bực bội, đau khổ vì không thể thoát khỏi cảnh tù đầy.
Bài thơ được viết theo thể thơ dân tộc cùng với những hình ảnh quen thuộc của làng quê nên tạo cảm giác gần gũi và yên bình. Qua đây, ta cũng hiểu và cảm nhận được sâu sắc lý tưởng cách mạng của người chiến sĩ muốn thoát ra khỏi cảnh tù đầy để hòa mình vào cuộc sống, tiếp tục chiến đấu để mang đến sự bình yên, giữ vững sự bình yên cho quê hương.
Như vậy là chúng ta đã cùng nhau lập dàn ý và phân tích bài thơ Khi con thu hú của Tố Hữu. Bài viết này hy vọng sẽ giúp các em có thêm một tài liệu tham khảo bổ ích để vận dụng vào việc học của mình được tốt hơn.
Thu Thủy
|
Tố Hữu là một nhà thơ cách mạng nổi tiếng của nước ta. Ông có nhiều sáng tác hay và bài thơ Khi con tu hú là một sáng tác đầy ấn tượng của ông. Bài thơ này tuy không dài nhưng nội dung của nó vẫn thể hiện được tinh thần khát khao tự do của nhà thơ khi ông đang phải ở trong hoàn cảnh ngục tù.
Để các em có thể làm một bài văn phân tích bài thơ Khi con tu hú được tốt nhất, Kho tàng văn mẫu sẽ hướng dẫn các em lập dàn ý phân tích bài thơ Khi con tu hú và cung cấp thêm bài văn mẫu cho các em tham khảo.
I. Lập dàn ý phân tích bài thơ Khi con tu hú
1. Mở bài
– Giới thiệu về nhà thơ Tố Hữu và bài thơ Khi con tu hú.
– Nhà thơ Tố Hữu quê ở Thừa Thiên – Huế. Từ thời học sinh ông đã tham gia cách mạng. Cả cuộc đời mình ông dành trọn cho cách mạng và sáng tác thi ca. Ông được xem như là ngọn cờ đầu của thơ ca cách mạng Việt Nam.
– Hoàn cảnh sáng tác bài thơ Khi con tu hú là khi tác giả bị thực dân Pháp bắt và giam cầm ở nhà lao Thừa Phủ – Huế.
2. Thân bài phân tích bài thơ Khi con tu hú
a. Cảnh đất trời vào hè trong tâm tưởng người tù cách mạng
– Tiếng chim tu hú giống như một tiếng báo thức làm bừng tỉnh tâm hồn người chiến sĩ trẻ khiến cho anh cảm nhận được khung cảnh mùa hè rộn rã:
+ Trong vườn có tiếng ve râm ran.
+ Trên cánh đồng lúa chiêm đã chín vàng.
+ Cánh diều chao lượn trên bầu trời cao rộng.
+ Trong vườn trái cây đượm ngọt.
– Khung cảnh của mùa hè được hiện lên trong tâm tưởng của tác giả. Trong hoàn cảnh ngục tù mà có thể cảm nhận được sự sôi động của mùa hè chứng tỏ nhà thơ là người có tâm hồn trẻ trung, yêu đời.
b. Tâm trạng người tù cách mạng
– Cách ngắt nhịp bất thường, cách dùng từ ngữ mạnh, từ cảm thán làm lột tả sự ngột ngạt một cách cao độ. Thể hiện khát khao cháy bỏng được thoát ra khỏi chốn ngục từ của tác giả để tìm về với tự do.Xem thêm: Em hãy miêu tả con mèo nhà em nuôi3. Kết luận
– Khái quát lại nội dung bài thơ và nêu cảm nhận của em về bài thơ này.
Bài viết liên quan:
>> Phân tích bài thơ Ngắm trăng của Hồ Chí Minh (Có dàn ý chi tiết)
>> Phân tích bài thơ Quê hương của Tế Hanh (Có dàn ý chi tiết)
II. Bài làm phân tích bài thơ Khi con tu hú
Nhà thơ Tố Hữu sinh ra và lớn lên ở mảnh đất Thừa Thiên – Huế. Ông được biết đến là nhà thơ của lý tưởng cộng sản. Những bài thơ mà ông viết ngập tràn hình ảnh lãng mạn cách mạng. Nội dung thơ được tác giả gửi gắm nhiều cảm xúc, tâm tư của bản thân mình vào trong đó. Viết cho độc giả nhưng cũng là viết cho chính mình. Trong thời gian tham gia hoạt động cách mạng, nhà thơ đã từng bị giam cầm trong nhà ngục Thừa Phủ – Huế. Trong thời gian này, ông đã viết bài thơ Khi con tu hú để thể hiện khát vọng tự do, hướng tới tự do.
Nhan đề của bài thơ là Khi con tu hú giống như một cụm từ chỉ mốc thời gian. Nó chính là thời điểm mà mọi khao khát trong tâm trí nhà thơ bùng lên. Đó là thời điểm mùa hè đầy sôi động đang đến. Với những người trẻ tuổi như Tố Hữu lúc bấy giờ, mùa hè sôi động luôn khiến con người khao khát được hoạt động, được hòa mình vào cuộc sống, được cảm nhận hương lúa chiêm chín thơm trên cánh đồng. Thế nhưng lúc này, nhà thơ đang ở trong hoàn cảnh tù đầy và mọi hình ảnh ông viết ra trong bài thơ này đều là bằng tưởng tượng hoặc là bằng nỗi nhớ của những mùa hè khi nhà thơ đang được tự do.
Phân tích bài thơ Khi con tu hú
Tác giả đã bắt đầu bài thơ của mình bằng một tiếng chim tu hú. Có thể lý giải việc tiếng chim tu hú tác động mạnh lên tâm trí của nhà thơ là bởi tiếng chim tu hú là tiếng kêu báo hiệu cho những ngày hè rực rỡ đang đến gần. Hình ảnh cánh chim bay lượn trên bầu trời lại là biểu tượng cho sự tự do. Nó tác động mạnh lên tâm tưởng của nhà thơ và ông đã viết:Xem thêm: Nghị luận xã hội về thực trạng internetKhi con tu hú gọi bầy
Lúa chiêm đương chín, trái cây ngọt dần
Ở đây, nhà thơ không miêu tả sự đơn độc của tiếng chim mà miêu tả một tiếng chim đang gọi bầy. Đó là tiếng chim báo tin vui thể hiện một sự gắn bó, khăng khít. Chúng đang gọi nhau bởi vì trên cánh đồng lúa chiêm đang chín còn trái cây thì đang ngọt dần. Chưa dừng lại ở đó, tiếng chim còn gợi lên trong lòng tác giả cả một thế giới ngập tràn hình ảnh, màu sắc, âm thanh đầy tươi đẹp:
Vườn ươm dậy tiếng ve ngân
Bắp rây vàng hạt đầy sân nắng đào
Trời xanh càng rộng càng cao
Đôi con diều sáo lộn nhào tầng không
Đây là những hình ảnh, âm thanh, màu sắc của cuộc sống thường ngày. Đó là một khu vườn mùa hè với tiếng ve ngân râm ran như đáng hát khúc ca mùa hạ. Đó là khoảng sân vàng ươm màu của những hạt ngô. Đó là một bầu trời cao và rộng nơi đôi diều sáo đang lộn nhào. Không gian ấy thật vui tươi và sinh động. Tất cả những hình ảnh mà nhà thơ Tố Hữu đưa ra đều thể hiện một mùa màng bội thu, một cuộc sống no ấm và đủ đầy. Sự sống ngoài kia đang vận động và không ngừng được sinh sôi, nảy nở. Không chỉ có vậy, chúng được tác giả tô đậm và đẩy lên mức cao nhất có thể. Chẳng hạn như hạt bắp vàng được viết là bắp rây vàng hạt, ánh nắng thì là nắng đào, trời xanh thì càng rộng càng cao. Có thể thấy màu sắc trong thơ vô cùng lộng lẫy. Tiếng ve không chỉ ngân vang mà nó còn dậy lên rất nhiều điều. Và để hòa nhập vào không gian ấy, đôi con diều sáo cũng phải thể hiện sự náo nức của mình bằng cách lộn nhào tầng không.
Lý giải cho việc miêu tả của tác giả, chúng ta có thể thấy hoàn cảnh của ông lúc này là đang trong cảnh tù đầy. Nhà thơ bị giam cầm trong 4 bức tường lao nên tất thảy những gì ông miêu tả kia đều là bằng trí tưởng tượng, bằng trí nhớ và bằng tình yêu dành cho quê hương, đất nước. Chính từ những điều đó, nhà thơ mới tô đậm cuộc sống lên một chút bởi với ông lúc này, mọi hình ảnh, âm thanh, màu sắc của cuộc sống đều vô cùng quý giá. Những thứ trước đây vốn bình dị thì nay càng trở nên sâu sắc hơn.Xem thêm: Vào vai Giôn-xi kể lại câu chuyện Chiếc lá cuối cùng của O. Hen-riCảnh vật trong trí tưởng tượng của tác giả càng tươi đẹp bao nhiêu thì nó lại càng làm cho thực tại trở nên cay nghiệt bấy nhiêu. Những câu thơ cuối của bài thơ đã thể hiện rõ cái ngột ngạt, bí bách mà nhà thơ đang phải trải qua:
Ta nghe hè dậy bên lòng
Mà chân muốn đạp tan phòng, hè ôi
Ngột làm sao, chết uất thôi
Khi con tu hú ngoài trời cứ kêu
Nếu như đoạn thơ trên tác giả miêu tả khung cảnh bên ngoài nhà giam thì đến đoạn thơ này nhà thơ đã miêu tả tâm trạng của mình. Thoạt tiên ta tưởng như có sự mâu thuẫn ở đây nhưng kì thực giữa hai đoạn thơ có một sự liên kết vô cùng khéo léo. Ở đây, mối dây liên kết chính là tiếng chim tu hú. Tiếng chim không chỉ gợi lên khung cảnh bên ngoài nhà giam, tiếng chim còn gợi lên trong lòng tác giả niềm khao khát được tự do. Nó khiến cho nhà thơ cảm thấy ngột ngạt, chết uất.
Ở cuối bài thơ, tiếng chim tu hú trở thành tiếng gọi của tự do và chính bởi vậy nó càng khiến cho nhà thơ bực bội, đau khổ vì không thể thoát khỏi cảnh tù đầy.
Bài thơ được viết theo thể thơ dân tộc cùng với những hình ảnh quen thuộc của làng quê nên tạo cảm giác gần gũi và yên bình. Qua đây, ta cũng hiểu và cảm nhận được sâu sắc lý tưởng cách mạng của người chiến sĩ muốn thoát ra khỏi cảnh tù đầy để hòa mình vào cuộc sống, tiếp tục chiến đấu để mang đến sự bình yên, giữ vững sự bình yên cho quê hương.
Như vậy là chúng ta đã cùng nhau lập dàn ý và phân tích bài thơ Khi con thu hú của Tố Hữu. Bài viết này hy vọng sẽ giúp các em có thêm một tài liệu tham khảo bổ ích để vận dụng vào việc học của mình được tốt hơn.
Thu Thủy
|
Phân tích bài thơ Khi con tu hú của Tố Hữu
Hướng dẫn
Bài thơ "Khi con tu hú” được sáng tác vào tháng 7 năm 1939, khi nhà thơ trên bước đường hoạt động cách mạng đang bị địch bắt giam tại nhà lao Thừa Phủ (Huế). Bài thơ phản ánh tâm trạng ngột ngạt của một người cộng sản trẻ tuổi sôi nổi, yêu đời bị giam cầm giữa bốn bức tường vôi lạnh, Tâm trạng ấy càng trở nên bức xúc khi nhà thơ hướng tâm hồn mình đến bầu trời tự do ở bên ngoài. Đặc biệt giữa không gian tự do ấy bỗng vang lên tiếng chim tu hú gọi bầy. Với âm thanh da diết đó, nỗi ngột ngạt, u uất càng dồn nén và biến thành niềm khát vọng tự do cháy bỏng không thể kìm hãm nổi:
“Ta nghe /lè dậy bèn lòng
Mà chân muốn đập tan phòng, hè ôi!”.
Mở đầu bài thơ, với tựa đề “Khi con tu hú”, tác giả muốn khẳng định đây là một thứ âm thanh mở ra mạch cảm xúc toàn bài thơ. Tác động của âm thanh này đặt vào tâm cảnh của bài thơ càng trở nên tha thiết và thôi thúc hướng đến tự do.
Ta biết rằng người thanh niên cộng sản TốHữu bị tù đày, tra tấn nhưng không nản chí sờn lòng. Nhà thơ đã xác định:
“Đời cáchmạng từ khi tôi đã hiểu
Dấn thân vô là phải chịu tù đày
Là gươm kề tận cổ, súng kề tai
Là thân sống chỉ coi còn có một nửa”.
(Trăng trối)
Trở lại câu thơ mở đầu của bài thơ: “Khi con tu hú gọi bầy”. Đó là cái thời điểm thiết thân và thiếu thốn khi nghe con chim tu hú gọi bầy, tiếng gọi trở về với bạn bè, đồng đội dữ dội. Tiếng chim gọi bầy càng tăng thêmnỗicô đơn của nhà thơ giữa bốn bức tường lạnh lẽo. TốHữu đã bị bắt giam giữa lúc nhiệt tình cách mạng của tuổi xuân đang sục sôi. Muốn đem tất cả nhiệt huyết để cống hiến cho cách mạng.
Tiếng chim tu hú gọi bầy đã thức dậy một nỗi nhớ sâu xa trong TốHữu. Trong thế giới tối tăm của ngục tù, nhà thơ đã huy động nhiều giác quan để hình dung, tưởng tượng đồng quê thân thuộc ngoài kia:
“Lúa chiêm đương chín, trái cây ngọt dần
Vườn râm dậy tiếng ve ngân
Bắp rây vàng hạt đầy sân nắng đào”.
Xem thêm: Anh (chị) hãy viết một đoạn văn phân tích những câu trong bài “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” thể hiện đầy đủ, sâu sắc triết lí nhân sinh về quan niệm sống của ông cha ta thời kì đầu kháng chiến chống Pháp...
Một bức tranh được “vẽ” trong tâm tưởng bằng nỗi nhớ da diết. Nhịp sống của đồng quê thật rộn rã và tràn đầy sức sống: “Lúa chiêm đương chín, trái cây ngọt dẩn”. Sự vật đang vận động tiến dần đến sự hoàn thiện, hoàn mĩ (đương chín, ngọt dần). Tất cả đã báo hiệu một mùa hè với những cảnh vật, âm thanh,màu sắc, ánh nắng quen thuộc. Phải là một con người tha thiết yêu cuộc sống, gắn bó máu thịt với quê hương mới có nỗi nhức nhối khôn nguôi đến thế.
Trí tưởng tượng của nhà thơ được chắp cánh đến với bầu trời khoáng đạt:
“Trời xanh càng rộng càng cao
Đôi con diều sáo lộn nhào từng không”.
Cũng là bầu trời xanh thân thiết của tuổi thơ với “đôi con diều sáo lộn nhào từng không”. Giữa khoảng trời bao la, cao, rộng, vài con diều sáo nhào lộn như nét chấm nhỏ nhoi giữa cái mênh mông của đất trời. Hình ảnh con diều sáo lộn nhào giữa từng không cũng là niềm khát vọng được tự do của người chiến sĩ cách mạng bị giam cầm.
Niềm khát khao đó bị dồn nén lúc này đây đã bùng lên mãnh liệt:
“Ta nghe hè dậy bên lòng
Mà chân muốn đạp tan phòng, hè ôi!
Ngột làm sao, chết uất thôi
Con chim tu hú ngoài trời cứ kêu”.
Nhịp sông trào dâng, mời gọi, thôi thúc tràn ngập vào tận ngõ ngách tăm tối của chốn ngục tù, len lỏi vào tâm hồn người cộng sản trẻ tuổi biến thành nỗi khát khao hành động “muốn đạp tan phòng" của cái nhà tù tăm tối.
Bài thơ có 10 câu, câu mở đầu và câu kết thúc là tiếng kêu của con tu hú. Âm hưởng tiếng kêu xuyên suốttoàn bài, tiếng kêu liên hồi, khắc khoải và da diết. Tiếng kêu vang vào thế giới chật chội, tối tăm của nhà lao và tâm trạng nhà thơ trở nên bức bối, ngột ngạt đến nỗi phải kêu kên:
“Ngột làm sao, chết uất thôi”.
Bài thơ khép lại nhưng ta vẫn nghe tiếng tu hú “cứ kêu”, kêu hoài, kêumãi…
Bài thơ cho ta hiểu thêm nét đẹp trong tâm hồn người cộng sản trẻ tuổi. Người chiến sĩ gang thép đó có một thế giới nội tâm rất mực phong phú, rung động mãnh liệt với nhịp đập của cuộc sống, gắn bó thiết tha với quê hương ruộng đồng, và một niềm khát khao tự do cháy bỏng.
Nguồn: thêm: Tả thầy giáo trong một giờ học đáng nhớ
|
Analysis of the poem When I Howl by To Huu
Instruct
The poem "When I Howl" was composed in July 1939, when the poet, on his way to revolutionary activities, was imprisoned by the enemy at Thua Phu Prison (Hue). The poem reflects the suffocating mood of the poet. An enthusiastic, life-loving young communist imprisoned between four cold lime walls. That mood became even more frustrating when the poet directed his soul to the free sky outside, especially in space That freedom suddenly rang out with the sound of howling birds calling the flock. With that poignant sound, the stuffiness and melancholy became even more compressed and turned into a burning desire for freedom that could not be contained:
“I was heartbroken when I heard it
But my feet want to smash the room, oh summer!”.
At the beginning of the poem, with the title "When you howl", the author wants to confirm that this is a sound that opens the emotional circuit of the entire poem. The impact of this sound placed on the poem's scene becomes even more passionate and urging towards freedom.
We know that the young communist To Huu was imprisoned and tortured but was not discouraged. The poet determined:
“Revolutionary life has since been understood by me
To commit is to be imprisoned
A sword to the neck, a gun to the ear
As a living body, only half is considered alive.
(Last Moon)
Returning to the opening verse of the poem: "When the cow howls and calls the herd." It was a time of intimacy and deprivation when I heard the howling bird calling to the flock, the fierce call to return to friends and comrades. The sound of birds calling increased the poet's loneliness between four cold walls. To Huu was arrested while the revolutionary enthusiasm of youth was boiling. I want to devote all my enthusiasm to the revolution.
The sound of howling birds calling the flock awakened a deep nostalgia in To Huu. In the dark world of prison, the poet mobilized many senses to visualize and imagine the familiar countryside out there:
“The rice is slowly ripening, the fruit is gradually sweetening
The shady garden is filled with the sound of cicadas
Corn sifted with yellow kernels filled the sunny peach yard."
See more: Please write a paragraph analyzing the sentences in the article "Can Giuoc Martyr's Funeral" that fully and deeply express the human philosophy of our ancestors' concept of life in the early resistance war period. anti-French...
A picture is "painted" in the mind with intense nostalgia. The pace of life in the countryside is bustling and full of vitality: "The rice is slowly ripening, the fruit is sweet." Things are moving towards perfection and perfection (ripe and sweet). All signaled a summer with familiar sights, sounds, colors, and sunlight. It must be a person who passionately loves life and is attached to his homeland by blood and flesh to have such unbearable pain.
The poet's imagination takes wings to the open sky:
“The blue sky is wider and higher
A pair of starling kites somersaulted into nothingness.
It is also the friendly blue sky of childhood with "a pair of starling kites doing somersaults". In the middle of the vast, high, wide sky, a few starling kites tumble like tiny dots in the vastness of heaven and earth. The image of a kite tumbling in the air is also the desire for freedom of an imprisoned revolutionary soldier.
That pent-up desire has now flared up fiercely:
“I hear summer rising in my heart
But my feet want to smash the room, oh summer!
How sad, I'm just dying of frustration
The howling bird outside keeps calling."
The rhythm of the river surged, inviting and urging, flooding into the dark corners of the prison, penetrating the young communist's soul, turning into the desire to act "to destroy the room" of the prison. dark.
The poem has 10 lines, the opening and ending lines are the cries of a howler. The sound of cries runs throughout the entire song, the cries are continuous, restless and painful. The cry echoed into the cramped, dark world of the prison and the poet's mood became so frustrated and suffocated that he cried out:
"How sad, I'll just die of frustration."
The poem ends but we still hear the howling sound "keep calling", keep calling, keep calling...
The poem helps us understand more about the beauty in the soul of a young communist. That iron and steel soldier had a very rich inner world, vibrating strongly with the pulse of life, passionately attached to his homeland and fields, and a burning desire for freedom.
Source: more: Describe a teacher in a memorable lesson
|
Phân tích bài thơ Khuê oán cuả Vương Xương Linh.
Hướng dẫn
Khuê oán
Khuê trung thiếu phụ bất tri sầu,
Xuân nhật ngưng trang thướng thuỷ lâu.
Hốt kiến mạch đầu dương liễu sắc,
Hối giao phu tế mịch phong hầu.
Vương Xương Linh
(? – 756)
Nỗi oán cuả người phòng khuê
Trẻ trung nàng biết chi sầu,
Ngày xuân trang điểm lên lầu ngẩm gương.
Nhác trông vẻ liễu bên đường,
"Phong hầu ” nghĩ dại, xui chàng kiếm chi.
Tả Đà dịch
Bài làm
Vương Xương Linh là một trong những nhà thơ kiệt xuất thời Thịnh Đường. Thi phẩm của ông đểlại hiện còn 186 bài,phần lớn là thơ thất ngôn tuyệt cú. Bài “Khuê oán ” là một kiệt tác, tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của Vương Xương Linh: thâm trầm, trangnhã,tinh tế.
Khuê oán
"Khuê tru nụ thiếu phụ bất tri sầu,
Xuân nhật ngưng trang thướng thuỷ lâu.
Hốt kiến mạch đầu dương liễu sắc,
Hối giao phu tế mịch phong hầu”.
Bài thơ thể hiện tâm trạng người thiếu phụ nơi phòng khuê trong những năm tháng mà người chồng thân yêu đang xông pha, đang gối đất nằm sương trên miền chiến địa.
Người thiếu phụ được nói đến trong "Khuê oán ” không phải thuộc lớp bình dân, mà là một mệnh phụ phu nhân sống trong chốn lầu son gác tía, trong những lầu đẹp (thuý lâu). Đó là điều cần biết đểcảm hiểu bài thơ "Khuê oán Hai câu thơ đầu nói lên cuộc sống nhàn nhã, đài các của thiếu phụ thời son trẻ, khi sống hạnh phúc đoàn tụ với người chồng yêu thương. Khi ấy, nàng chưa hề biết đến nỗi buồn (bất tri sầu). Phòng khuê là tổ ấm hạnh phúc. Suốt một thời son trẻ, mỗi lần trang điểm xong, nàng bước lên lầu đẹp (để dạo bước, để ngắm hoa, nhìn cảnh, nhìn trời…):
"Khuê trụng thiếu phụ bất tri sầu,
Xuân nhật ngưng trang thướng thúy lâu
(Trẻ trung nàng biết chi sầu,
Ngày xuân trang điểm lên lầu ngắm gương).
Trong câu thơ dịch, hai chữ “ngắm gương” là Tản Đà suy luận ra, chứ trong nguyên tác không hề có. Hai chữ “Xuân nhật" nghĩa đen là ngày xuân; trong văn cảnh còn mang hàm nghĩa chỉ thời trẻ trung, đầy xuân sắc, xuân tình, đó là những ngày êm đẹp, hạnh phúc nhất của nàng. Nhưng những ngày ấy đã trôi qua lâu rồi, nay chỉ còn là kỉ niệm đẹp.
Hai câu thơ đầu vừa tả tâm hồn vô tư, yêu đời (chẳng biết sầu là gì) vừa tả cử chỉ động tác (soi gương, nhẹ bước lên lầu) đúng là nhà thơ tả ít mà gợi nhiều. Hai chữ “xuân nhật” là thời gian nghệ thuật, ba chữ “bất tri sầu” là tâm trạng nghệ thuật đồng hiện, gợi tả sự trẻ trung, yêu kiều, đài các, nhàn nhã, quý phái, phong lưu…
Xem thêm: Kể tóm tắt truyện Tấm Cám theo nhân vật TấmNàng đã sống trong giàu sang phú quý, trong êm ấm hạnh phúc gia đình thời son trẻ. Nhưng ấn phong hầu cho chồng là niềm khao khát và mơ ước của nàng. Người chồng cũng vậy, “chí làm trai dặm nghìn da ngựa"… Có thể nói, giấc mộng phong hầu ấy rất đẹp và chính đáng. Nàng khuê phụ và chồng nàng được nói đến trong bài thơ là những con người thuộc tầng lớp trên thời Thịnh Đường cách chúng ta hơn 13 thế kỉ. Họ gắn bó với nhà vua theo lí tưởng trung quân.
Hai câu 3, 4, các chữ “hốt kiến ” và “hối giao ” là nhãn tự của bài thơ:
"Hốt kiến mạch đầu dương liễu sắc,
Hối giao phu tế mịch phong hầu
(Nhác trông vẻ liễu bên đường,
"Phong hầu ” nghĩ dại, xui chàngkiếm chi).
“Dương liễu sắc ” là sắc màu dương liễu, là hình ảnh hiện tại. Sau những năm dài sống cô đơn, nàng khuê phụ lên lầu cao chọt nhìn thấy. Như có sự giật mình trước sự đổi thay của sắc màu dương liễu. “Xuân nhật” là quá khứ, “dương liễu sắc ” là hiện tại. Và đó là mùa thu, sắc thu. Hình ảnh ấy mang hàm nghĩa: tuổi xuân đẹp đã trôi qua, nhan sắc xinh tươi đã dần phai sau năm tháng đợi chờ và cô đơn. “Dương liễu sắc ” là một ẩn dụ, một hình ảnh ước lệ, lấy cảnh để tả tình.
Khuê phụ chợt nhìn thấy sắc màu dương liễu mà hối hận (hối giao) vì mình đã đểchồng đi tòng chinh mong kiếm ấn phong hầu. Hối hận vì phải trả giá cho giấc mộng công hầu. Người chồng có thể giãi thây trên chiến địa. Người chồng cũng có thể trở thành “ChàngSiêu tốc đã điểm sương mới về” (Chinh phụ ngâm). Thực tế phũ phàng: cô đơn, sầu muộn, tuổi xuân mỏi mòn, mong chờ rồi tuyệt vọng. Khuê phụ thở dài, than khóc, hối hận. Nàng tự trách mình, nàng oán trách duyên phận mình. Đó là “khuê oán”.
Ởđây, thời gian nghệ thuật và tâm trạng nghệ thuật một lần nữa lại đồng hiện. “Hốt kiến ”, “hối giao ” là tâm trạng khuê phụ, là nỗi đau, nỗi buồn của người vợ trẻ có chồng đi lính ngày xưa: hối hận, u sầu, đau khổ, nàng chỉ còn biết tự trách mình.
Có người cho rằng “Khuê oán ” tiêu biểu cho tinh thần phản đối chiến tranh phi nghĩa của con người thời Đường. Chúng tôi không nghĩ như thế. “Khuê oán ” chỉ là tiếng thở dài, giọt nước mắt, sự hối hận của người khuê phụ về mộng công hầu mà nàng phải nếm trải với bao cay đắng cô đơn. Cách viết của Vương Xương Linh nhẹ nhàng và thấm thìa. Cái ấn phong hầu thời nào cũng có giá: máu và nước mắt.
Qua bài “Khuê oán ”, ta thấy phong cách nghệ thuật của Vương Xương Linh chứa chan tình đời và tình người. Càng đọc càng suy nghĩ mới thấy hay, thấy rung động.
Nguồn: thêm: Hoàn cảnh ra đời Bình ngô đại cáo và giá trị của tác phẩm
|
Analysis of the poem "Resentment" by Vuong Xuong Linh.
Instruct
Grieving
Khue Trung's young woman did not feel sad,
Spring, sun, and water stay for a long time.
Pick up the first vein of the willow tree,
Communicate with the courtiers and concubines.
Vuong Xuong Linh
(? – 756)
The resentment of the housekeeper
Young, she knows nothing of sorrow,
On a spring day, I put on my makeup and went upstairs to look in the mirror.
There are willows on the side of the road,
"Phong Marquis" thought foolishly, why did he make him look for something?
Translated by Ta Da
Assignment
Vuong Xuong Linh was one of the outstanding poets of the Sheng Dynasty. There are currently 186 poems left behind by him, most of which are complete seven-word poems. The song "Khue resent" is a masterpiece, typical of Vuong Xuong Linh's artistic style: profound, elegant, and delicate.
Grieving
"The young woman's buds are filled with sadness,
Spring, sun, and water stay for a long time.
Pick up the first vein of the willow tree,
Communicate with the courtiers of the Mich Phong Marquis.
The poem expresses the mood of a young woman in her bedroom during the years when her beloved husband was in battle, lying on his knees in the battlefield.
The young woman mentioned in "Khue oi" is not from the common class, but is a lady who lives in a purple mansion, in beautiful buildings (thuy lau). That is what you need to know to understand the story. Poem "Khue resentment" The first two lines of the poem speak about the leisurely and dignified life of a young woman, when she lives happily reunited with her loving husband. At that time, she had never known sadness (no sadness). The room is a happy home. During her youth, every time she finished her makeup, she went upstairs to look beautiful (to walk, to look at flowers, to look at the scenery, to look at the sky...):
"The young woman was not sad,
The spring and the sun last a long time
(When she is young, she knows nothing about sadness,
On spring day, I put on my makeup and went upstairs to look in the mirror.
In the translated poem, the words "looking at the mirror" were inferred by Tan Da, but they do not exist in the original work. The two words "Xuan Nhat" literally mean spring day; in context, it also has the connotation of being youthful, full of spring color, spring love, those were her most beautiful and happiest days. But those days have passed. It's been a long time, now it's just a beautiful memory.
The first two lines of the poem both describe a carefree soul, loving life (not knowing what sadness is) and describe gestures (looking in the mirror, lightly walking upstairs), it is true that the poet describes little but evokes much. The two words "spring" are the time of art, the three words "no sadness" are the concurrent artistic mood, suggesting youthfulness, loveliness, elegance, leisure, nobility, style...
See more: Briefly tell the story of Tam Cam according to the character Tam. She lived in wealth and prosperity, in a warm and happy family during her youth. But sealing her husband is her desire and dream. The husband is the same, "the will to be a man is miles away from a thousand horse skins"... It can be said that that dream of becoming a Marquis is very beautiful and legitimate. The lady and her husband mentioned in the poem are people of the upper class. During the Thinh Duong period, more than 13 centuries ago, they were attached to the king according to the ideal of loyalty.
In verses 3 and 4, the words "repentance" and "repentance" are the title words of the poem:
"Seeing the first vein of the willow tree,
Communicate with the courtiers and concubines
(Looking at the willows on the side of the road,
"Phong Marquis" thought foolishly, why did he seek it?
“The color of willow” is the color of willow, the current image. After many years of living alone, the maid went upstairs and saw. As if startled by the change in color of the willow. “Spring sun” is the past, “Yang willow color” is the present. And that's autumn, autumn colors. That image has the meaning: beautiful youth has passed, beautiful beauty has gradually faded after years of waiting and loneliness. “The color of the willow tree” is a metaphor, a conventional image, using a scene to describe love.
Khue's father suddenly saw the color of willow and regretted that she had let her husband go on an expedition to seek the seal of the marquis seal. Regret having to pay the price for the prince's dream. The husband can lie on the battlefield. The husband can also become "The Super Speed Guy who has just returned from the dew" (Chinh Phu Ngu). The harsh reality: loneliness, sadness, tired youth, anticipation and despair. Khue's father sighed, cried, and regretted. She blamed herself, she blamed her fate. That is "resentment".
Here, artistic time and artistic mood once again appear together. "Hospital", "repentance" is the mother's mood, the pain and sadness of the young wife whose husband was in the army in the past: regret, sadness, suffering, she can only blame herself.
Some people believe that "Khue resentment" represents the spirit of people opposing unjust wars during the Tang Dynasty. We don't think like that. “Resentment” is just the sigh, the tears, the regret of the mother-in-law about the dream of a princess that she had to experience with so much bitterness and loneliness. Vuong Xuong Linh's writing style is gentle and penetrating. The seal almost always has a price: blood and tears.
Through the song "Khue resent", we see that Vuong Xuong Linh's artistic style is filled with love for life and humanity. The more I read, the more I think about it, the more interesting and thrilling it becomes.
Source: more: Circumstances of the birth of Binh Ngo Dai Cao and the value of the work
|
Đề bài: Phân tích bài thơ Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ của Nguyễn Khoa Điềm.
Trong thơ ca Việt Nam hiện đại, có nhiều bài viết về chủ đề quê hương, đất nước. Lòng yêu nước thể hiện ở mỗi bài mỗi khác, tùy theo cảm hứng của tác giả, song mỗi bài là một nốt nhạc trong bản giao hưởng ngợi ca Tổ quốc và nhân dân anh hùng.
Nguyễn Khoa Điềm là một nhà thơ chiến sĩ trưởng thành trong chiến khu tây Thừa Thiên gian khổ và ác liệt thời chống Mĩ. Trong những ngày mưa bom bão đạn ấy, bài thơ Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ đã ra đời.
Bài thơ kể về người mẹ dân tộc Tà-ôi vừa địu con trôn lưng vừa giã gạo để nuôi bộ đội; tỉa bắp trên nương góp phần sản xuất lương thực cho kháng chiến và mơ ước sau này sẽ được thấy Bác Hồ, ước mong con mình khôn lớn được sống trong đất nước tự do. Qua đó, tác giả ca ngợi tình yêu con thiết tha, đằm thắm và tình yêu nước sâu nặng của bà mẹ Tà-ôi.
Bài thơ có 3 khúc ru, mỗi khúc đều mở đầu bằng câu:
Em cu Tai ngủ trên lưng mẹ ơi
Kết thúc là lời ru của mẹ được lặp lại ở mỗi đoạn:
Ngủ ngoan a-kay ơi, ngủ ngoan a-kay hỡi.
Mẹ thương a-kay, mẹ thương…
Con mơ cho mẹ…
Mai sau con lớn…
Trong mỗi khúc hát ru đều có hình ảnh người mẹ với công việc vất vả cùng tình cảm, ước vọng đối với đứa con và quê hương đất nước.
Mở đầu bài thơ là tiếng ru thân thương, vỗ về của nhà thơ, đưa em bé vào giấc ngủ say nồng:
Em cu Tai ngủ trên lưng mẹ ơi
Em ngủ cho ngoan đừng rời lưng mẹ
Trong lời ru đứa con chứa chan niềm thương mến sâu xa đối với người mẹ. Hai câu thơ sau miêu tả người mẹ trong công việc giã gạo nuôi quân:
Mẹ giã gạo mẹ nuôi bộ dội
Nhịp chày nghiêng giấc ngủ em nghiêng
Nếu câu thơ trên tả thực thì câu thơ dưới thể hiện tình cảm gắn bó sâu nặng giữa mẹ và con. Tác giả vừa miêu tá công việc giã gạo nặng nhọc của người mẹ, vừa miêu tả giấc ngủ chập chờn, giấc ngủ nghiêng của cu Tai trên lưng mẹ. Dường như chú bé cũng thấy được nỗi vất vả và ý nghĩa đẹp đó trong việc làm của mẹ nên hơi thở em hoà cùng hơi thở mẹ và em cố ngủ ngoan cho mẹ yên lòng.
Nếu ai đà từng chứng kiến cảnh giã gạo bằng chày trong cối gỗ của đồng bào miền núi thì mới thấy hết sự vất vả khi biến hạt thóc thành hạt gạo trắng ngần. Nhà thơ đã chọn lựa những động tác tiêu biểu để miêu tả công việc giã gạo nặng nhọc và thế hiện tình mẹ con chân chất, sâu nặng của người mẹ miền núi. Cảnh tượng mộc mạc ấy đâ làm xúc động lòng người:
Mồ hôi mẹ rơi má em nóng hổi
Vai mẹ gầy nhấp nhô làm gối
Lưng đưa nôi và tim hát thành lời
Khi mẹ giã gạo, cu Tai vần ngủ trên lưng. Trong giấc ngủ, em vẫn cảm nhận được mồ hôi của mẹ rơi trên má em nóng hổi, cảm nhận được sự vất vả và tình yêu con thiết tha của mẹ.
Tác giả đã sử dụng thành công nghệ thuật so sánh: đôi vai mẹ gầy làm gối cho con, lưng mẹ đung đưa làm nôi ru con ngủ và nhịp tim của mẹ hát thành lời yêu thương tha thiết. Trong giấc ngủ, lúc nào Cu Tai cũng được ấp ủ tròng hơi thở và tình thương của mẹ, được nghe mẹ hát ru. Khổ thơ đã thể hiện được tình mẫu tử thắm thiết, thiêng liêng cùng công việc vất vả của người mẹ giã gạo để nuôi con, nuôi bộ đội Giải phóng.
Nếu khổ thơ đầu là lời ru của nhà thơ thì khổ thơ thứ hai là tiếng nói tâm tình của người mẹ:
Ngủ ngoan a-kay ơi, ngủ ngoan a-kay hỡi
Mẹ thương a-kay, mẹ thương bộ đội
Câu thơ như lời ru êm ái chất chứa yêu thương. Tình cảm mẹ con vốn đã đẹp nay càng đẹp hơn bởi nó gắn liền với tình cảm lớn lao là tình thương bộ đội, tình yêu nước. Mẹ mong trong giấc ngủ, Cu Tai sẽ mơ giấc mơ của mẹ là có nhiều gạo thật ngon để nuôi bộ đội và Cu Tai sẽ lớn lẽn thật nhanh để giúp mẹ giã gạo nuôi quân:
Con mơ cho mẹ hạt gạo trắng ngần
Mai sau con lớn vung chày lún sân…
Từ ước mơ có hạt gạo trắng ngần đến ước mơ mai sau con lớn vung chày lún sân đều chứa đựng niềm hi vọng cháy bỏng của người mẹ về đứa con sau này sẽ trở thành một thanh niên cường tráng, có ích cho nước, cho dân.
Hình ảnh người mẹ trong cảnh tỉa bắp trên nương thật đẹp và cảm động:
Xem thêm: Viết đoạn văn nêu cảm nhận của em về nhan đề bài thơ Mùa xuân nho nhỏ của nhà thơ Thanh HảiEm cu Tai ngủ trên lưng mẹ ơi
Em ngủ cho ngoan đừng rời lưng mẹ
Mẹ đang tỉa bắp trên núi Ka-Lưi
Lưng núi thì to mà lưng mẹ nhỏ
Vẫn là lời vỗ về của trái tim chan chứa thương yêu của nhà thơ, mong em bé ngủ ngon để mẹ yên tâm làm việc, nhưng ở khổ thơ này, cảm xúc da diết hơn thể hiện qua hình ảnh tương phản độc đáo: Lưng núi thì to mà lưng mẹ nhỏ. Núi thì lớn, nương bắp thì rộng mà sức mẹ có hạn. Mẹ cắm cúi, lom khom tỉa bắp, trên lưng mẹ con vẫn ngủ say. Câu thơ đã khắc sâu nổi vất vả khó nhọc của người mẹ vùng cao trong lao động sản xuất thời chông Mĩ.
Đối với những bà mẹ sớm hôm tần tảo nuôi con, dường như họ không biết mệt mỏi bởi đứa con là niềm hi vọng, là nguồn an ủi, động viên, tiếp thêm sức mạnh và nghị lực cho mẹ:
Em ngủ ngoan em đừng làm mẹ mỏi
Mặt trời của bắp thì nằm trên đồi
Mặt trời của mẹ em nằm trên lưng.
Câu thơ lấp lánh nét đẹp cuộc đời và tình mẹ con. Biện pháp ẩn dụ trong những câu thơ này có nhiều ý nghĩa. Bắp trên nương tươi tốt nhờ ánh nắng mặt trời. Cu Tai cũng giống như mặt trời tỏa nắng sưởi ấm trái tim mẹ để mẹ sống tốt hơn, đẹp hơn cho đời. Em là mặt trời bé bỏng, thân yêu của mẹ.
Lời ru ở khúc ru này vẫn là tiếng nói tâm tình của người mẹ nhưng đã chứa đựng ước mơ lớn hơn:
Ngủ ngoan a-kay ơi, ngủ ngoan a-kay hỡi
Mẹ thương a-kay, mẹ thương làng đói
Con mơ cho mẹ hát bắp lên đều
Mai sau con lớn phát mười Ka-lưi…
Càng thương con, người mẹ lại càng thương bà con dân bản. Mẹ ước mơ về một ngày mai no ấm hạnh phúc, về sự trưởng thành và sức mạnh kì diệu của đứa con thân yêu.
Nêu ở hai đoạn thờ trước, tác giả miêu tả cảnh mẹ địu con trên lưng giã gạo nuôi bộ đội, địu con lên nương tỉa bắp thì ở đoạn thơ này là cảnh mẹ địu coh cùng đi đánh giặc:
Em cu Tai ngủ trên lưng mẹ ơi
Em ngủ cho ngoan, đừng rời lưng mẹ
Mẹ đang chuyển lán, mẹ đi đạp rừng
Thằng Mĩ đuổi ta phải rời con suối
Anh trai cầm súng, chị gái cầm chông
Mẹ địu em đi để giành trận cuối
Sự lặp lại hai câu thơ Em cu Tai ngủ trên lưng mẹ ơi, Em ngủ cho ngoan, đừng rời lưng mẹ đã tạo nên âm điệu ngân nga, thấm dần vào người đọc một cảm xúc thân thương. Con cùng mẹ băng suối, vượt ngàn, đạp rừng xông tới. Cả nhà, cả làng, cả nước cùng đánh giặc.
Nhịp thơ sôi nổi, thôi thúc như một hành khúc lên đường. Câu kết vẽ lên hình ảnh thật xúc động:
Từ trên lưng mẹ, em đến chiến trường
Từ trong đói khổ em vào Trường Sơn.
Lời thơ khẳng định ý chí chiến đấu mãnh liệt của bà mẹ Tà-ôi nói riêng và đồng bào miền tây Thừa Thiên Huế nói chung. Lúc này, mẹ và em cùng lên đường vào Trường Sơn đánh giặc, nơi có biêt bao khó khăn vất vả, nơi cái chết và sự sống chỉ cách nhau gang tấc.
Kết thúc bài thơ vẫn là lời hát ru và ước nguyện của mẹ:
Ngủ ngoan a-kay ơi, ngủ ngoan a-kay hỡi
Mẹ thương a-kay, mẹ thương đất nước
Con mơ cho mẹ được thấy Bác Hồ
Mai sau con lớn làm người Tự do…
Điệp khúc: Ngủ ngoan a-kay ơi, ngủ ngoan a-kay hỡi, Mẹ thương a-kay…, Con mơ cho mẹ…, Mai sau con lớn… đã thể hiện khát vọng cháy bỏng trong lòng người mẹ. Mẹ mong ước cho con những điều thật thiết thực và cũng thật lớn lao, kì diệu:
Mai sau con lớn vung chày lún sân…,
Mai sau con lớn phát mười Ka-lưi
Mai sau con lớn làm người Tự do…
Khi giã gạo, mẹ mong con mơ cho mẹ hại gạo trắng ngần. Khi tỉa bắp trên nương, mẹ mong con mơ cho mẹ hạt bắp lên đều. Khi chiến đấu, mẹ mong con mơ cho mẹ được thấy Bác Hồ trong ngày đất nước sạch bóng quận thù, Bắc-Nam thông nhất. Chính tình thương, đức hi sinh, lòng vị tha và nhân hậu cao cả của những người mẹ nghèo yêu nước ấy đã góp phần làm nên chiến thắng hôm nay.
Bài thơ ra đời năm 1971, trong giai đoạn ác liệt nhất của cuộc chiến đấu chông Mĩ cứu nước nhưng đến nay nó vẫn còn giừ nguyên giá trị. Khúc hát ru đã được phổ nhạc, trở thành bài ca được nhiều người ưa thích. Tình yêu thương con của bà mẹ nghèo miền núi gắn liền với tình thương bộ đội, tình yêu làng bản, lòng kính yêu Bác Hồ và tình yêu đất nước.
Khúc hát ru những em bé lởn trên lưng mẹ được đánh giá là một trong những bài thơ hay của thơ ca giai đoạn chống Mĩ cứu nước. Giờ đây, đọc lại bài thơ, người ta vẫn rưng rưng xúc động bởi tình cảm mộc mạc, chân thành cao đẹp của những người mẹ trong cuộc kháng- chiến chống Mĩ gian khổ và oanh liệt của dân tộc ta. Tự hào thay, người mẹ Việt Nam!
Sau cuộc chiến tranh chống MI cứu nước, Tổ quốc ta, nhân dân ta đã xây dựng biết bao tượng đài để ghi nhớ công ơn và ngợi ca những người mẹ Việt Nam anh hùng, Với Khúc hát ru những em bé lớn trẽn lưng mẹ, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm cũng đã xây dựng thành công một tượng đài bằng ngôn ngữ về những người mẹ miền núi vô danh.
Xem thêm: Soạn và viết nội dung báo cáo về phong trào đội
|
Đề bài: Phân tích bài thơ Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ của Nguyễn Khoa Điềm.
Trong thơ ca Việt Nam hiện đại, có nhiều bài viết về chủ đề quê hương, đất nước. Lòng yêu nước thể hiện ở mỗi bài mỗi khác, tùy theo cảm hứng của tác giả, song mỗi bài là một nốt nhạc trong bản giao hưởng ngợi ca Tổ quốc và nhân dân anh hùng.
Nguyễn Khoa Điềm là một nhà thơ chiến sĩ trưởng thành trong chiến khu tây Thừa Thiên gian khổ và ác liệt thời chống Mĩ. Trong những ngày mưa bom bão đạn ấy, bài thơ Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ đã ra đời.
Bài thơ kể về người mẹ dân tộc Tà-ôi vừa địu con trôn lưng vừa giã gạo để nuôi bộ đội; tỉa bắp trên nương góp phần sản xuất lương thực cho kháng chiến và mơ ước sau này sẽ được thấy Bác Hồ, ước mong con mình khôn lớn được sống trong đất nước tự do. Qua đó, tác giả ca ngợi tình yêu con thiết tha, đằm thắm và tình yêu nước sâu nặng của bà mẹ Tà-ôi.
Bài thơ có 3 khúc ru, mỗi khúc đều mở đầu bằng câu:
Em cu Tai ngủ trên lưng mẹ ơi
Kết thúc là lời ru của mẹ được lặp lại ở mỗi đoạn:
Ngủ ngoan a-kay ơi, ngủ ngoan a-kay hỡi.
Mẹ thương a-kay, mẹ thương…
Con mơ cho mẹ…
Mai sau con lớn…
Trong mỗi khúc hát ru đều có hình ảnh người mẹ với công việc vất vả cùng tình cảm, ước vọng đối với đứa con và quê hương đất nước.
Mở đầu bài thơ là tiếng ru thân thương, vỗ về của nhà thơ, đưa em bé vào giấc ngủ say nồng:
Em cu Tai ngủ trên lưng mẹ ơi
Em ngủ cho ngoan đừng rời lưng mẹ
Trong lời ru đứa con chứa chan niềm thương mến sâu xa đối với người mẹ. Hai câu thơ sau miêu tả người mẹ trong công việc giã gạo nuôi quân:
Mẹ giã gạo mẹ nuôi bộ dội
Nhịp chày nghiêng giấc ngủ em nghiêng
Nếu câu thơ trên tả thực thì câu thơ dưới thể hiện tình cảm gắn bó sâu nặng giữa mẹ và con. Tác giả vừa miêu tá công việc giã gạo nặng nhọc của người mẹ, vừa miêu tả giấc ngủ chập chờn, giấc ngủ nghiêng của cu Tai trên lưng mẹ. Dường như chú bé cũng thấy được nỗi vất vả và ý nghĩa đẹp đó trong việc làm của mẹ nên hơi thở em hoà cùng hơi thở mẹ và em cố ngủ ngoan cho mẹ yên lòng.
Nếu ai đà từng chứng kiến cảnh giã gạo bằng chày trong cối gỗ của đồng bào miền núi thì mới thấy hết sự vất vả khi biến hạt thóc thành hạt gạo trắng ngần. Nhà thơ đã chọn lựa những động tác tiêu biểu để miêu tả công việc giã gạo nặng nhọc và thế hiện tình mẹ con chân chất, sâu nặng của người mẹ miền núi. Cảnh tượng mộc mạc ấy đâ làm xúc động lòng người:
Mồ hôi mẹ rơi má em nóng hổi
Vai mẹ gầy nhấp nhô làm gối
Lưng đưa nôi và tim hát thành lời
Khi mẹ giã gạo, cu Tai vần ngủ trên lưng. Trong giấc ngủ, em vẫn cảm nhận được mồ hôi của mẹ rơi trên má em nóng hổi, cảm nhận được sự vất vả và tình yêu con thiết tha của mẹ.
Tác giả đã sử dụng thành công nghệ thuật so sánh: đôi vai mẹ gầy làm gối cho con, lưng mẹ đung đưa làm nôi ru con ngủ và nhịp tim của mẹ hát thành lời yêu thương tha thiết. Trong giấc ngủ, lúc nào Cu Tai cũng được ấp ủ tròng hơi thở và tình thương của mẹ, được nghe mẹ hát ru. Khổ thơ đã thể hiện được tình mẫu tử thắm thiết, thiêng liêng cùng công việc vất vả của người mẹ giã gạo để nuôi con, nuôi bộ đội Giải phóng.
Nếu khổ thơ đầu là lời ru của nhà thơ thì khổ thơ thứ hai là tiếng nói tâm tình của người mẹ:
Ngủ ngoan a-kay ơi, ngủ ngoan a-kay hỡi
Mẹ thương a-kay, mẹ thương bộ đội
Câu thơ như lời ru êm ái chất chứa yêu thương. Tình cảm mẹ con vốn đã đẹp nay càng đẹp hơn bởi nó gắn liền với tình cảm lớn lao là tình thương bộ đội, tình yêu nước. Mẹ mong trong giấc ngủ, Cu Tai sẽ mơ giấc mơ của mẹ là có nhiều gạo thật ngon để nuôi bộ đội và Cu Tai sẽ lớn lẽn thật nhanh để giúp mẹ giã gạo nuôi quân:
Con mơ cho mẹ hạt gạo trắng ngần
Mai sau con lớn vung chày lún sân…
Từ ước mơ có hạt gạo trắng ngần đến ước mơ mai sau con lớn vung chày lún sân đều chứa đựng niềm hi vọng cháy bỏng của người mẹ về đứa con sau này sẽ trở thành một thanh niên cường tráng, có ích cho nước, cho dân.
Hình ảnh người mẹ trong cảnh tỉa bắp trên nương thật đẹp và cảm động:
Xem thêm: Viết đoạn văn nêu cảm nhận của em về nhan đề bài thơ Mùa xuân nho nhỏ của nhà thơ Thanh HảiEm cu Tai ngủ trên lưng mẹ ơi
Em ngủ cho ngoan đừng rời lưng mẹ
Mẹ đang tỉa bắp trên núi Ka-Lưi
Lưng núi thì to mà lưng mẹ nhỏ
Vẫn là lời vỗ về của trái tim chan chứa thương yêu của nhà thơ, mong em bé ngủ ngon để mẹ yên tâm làm việc, nhưng ở khổ thơ này, cảm xúc da diết hơn thể hiện qua hình ảnh tương phản độc đáo: Lưng núi thì to mà lưng mẹ nhỏ. Núi thì lớn, nương bắp thì rộng mà sức mẹ có hạn. Mẹ cắm cúi, lom khom tỉa bắp, trên lưng mẹ con vẫn ngủ say. Câu thơ đã khắc sâu nổi vất vả khó nhọc của người mẹ vùng cao trong lao động sản xuất thời chông Mĩ.
Đối với những bà mẹ sớm hôm tần tảo nuôi con, dường như họ không biết mệt mỏi bởi đứa con là niềm hi vọng, là nguồn an ủi, động viên, tiếp thêm sức mạnh và nghị lực cho mẹ:
Em ngủ ngoan em đừng làm mẹ mỏi
Mặt trời của bắp thì nằm trên đồi
Mặt trời của mẹ em nằm trên lưng.
Câu thơ lấp lánh nét đẹp cuộc đời và tình mẹ con. Biện pháp ẩn dụ trong những câu thơ này có nhiều ý nghĩa. Bắp trên nương tươi tốt nhờ ánh nắng mặt trời. Cu Tai cũng giống như mặt trời tỏa nắng sưởi ấm trái tim mẹ để mẹ sống tốt hơn, đẹp hơn cho đời. Em là mặt trời bé bỏng, thân yêu của mẹ.
Lời ru ở khúc ru này vẫn là tiếng nói tâm tình của người mẹ nhưng đã chứa đựng ước mơ lớn hơn:
Ngủ ngoan a-kay ơi, ngủ ngoan a-kay hỡi
Mẹ thương a-kay, mẹ thương làng đói
Con mơ cho mẹ hát bắp lên đều
Mai sau con lớn phát mười Ka-lưi…
Càng thương con, người mẹ lại càng thương bà con dân bản. Mẹ ước mơ về một ngày mai no ấm hạnh phúc, về sự trưởng thành và sức mạnh kì diệu của đứa con thân yêu.
Nêu ở hai đoạn thờ trước, tác giả miêu tả cảnh mẹ địu con trên lưng giã gạo nuôi bộ đội, địu con lên nương tỉa bắp thì ở đoạn thơ này là cảnh mẹ địu coh cùng đi đánh giặc:
Em cu Tai ngủ trên lưng mẹ ơi
Em ngủ cho ngoan, đừng rời lưng mẹ
Mẹ đang chuyển lán, mẹ đi đạp rừng
Thằng Mĩ đuổi ta phải rời con suối
Anh trai cầm súng, chị gái cầm chông
Mẹ địu em đi để giành trận cuối
Sự lặp lại hai câu thơ Em cu Tai ngủ trên lưng mẹ ơi, Em ngủ cho ngoan, đừng rời lưng mẹ đã tạo nên âm điệu ngân nga, thấm dần vào người đọc một cảm xúc thân thương. Con cùng mẹ băng suối, vượt ngàn, đạp rừng xông tới. Cả nhà, cả làng, cả nước cùng đánh giặc.
Nhịp thơ sôi nổi, thôi thúc như một hành khúc lên đường. Câu kết vẽ lên hình ảnh thật xúc động:
Từ trên lưng mẹ, em đến chiến trường
Từ trong đói khổ em vào Trường Sơn.
Lời thơ khẳng định ý chí chiến đấu mãnh liệt của bà mẹ Tà-ôi nói riêng và đồng bào miền tây Thừa Thiên Huế nói chung. Lúc này, mẹ và em cùng lên đường vào Trường Sơn đánh giặc, nơi có biêt bao khó khăn vất vả, nơi cái chết và sự sống chỉ cách nhau gang tấc.
Kết thúc bài thơ vẫn là lời hát ru và ước nguyện của mẹ:
Ngủ ngoan a-kay ơi, ngủ ngoan a-kay hỡi
Mẹ thương a-kay, mẹ thương đất nước
Con mơ cho mẹ được thấy Bác Hồ
Mai sau con lớn làm người Tự do…
Điệp khúc: Ngủ ngoan a-kay ơi, ngủ ngoan a-kay hỡi, Mẹ thương a-kay…, Con mơ cho mẹ…, Mai sau con lớn… đã thể hiện khát vọng cháy bỏng trong lòng người mẹ. Mẹ mong ước cho con những điều thật thiết thực và cũng thật lớn lao, kì diệu:
Mai sau con lớn vung chày lún sân…,
Mai sau con lớn phát mười Ka-lưi
Mai sau con lớn làm người Tự do…
Khi giã gạo, mẹ mong con mơ cho mẹ hại gạo trắng ngần. Khi tỉa bắp trên nương, mẹ mong con mơ cho mẹ hạt bắp lên đều. Khi chiến đấu, mẹ mong con mơ cho mẹ được thấy Bác Hồ trong ngày đất nước sạch bóng quận thù, Bắc-Nam thông nhất. Chính tình thương, đức hi sinh, lòng vị tha và nhân hậu cao cả của những người mẹ nghèo yêu nước ấy đã góp phần làm nên chiến thắng hôm nay.
Bài thơ ra đời năm 1971, trong giai đoạn ác liệt nhất của cuộc chiến đấu chông Mĩ cứu nước nhưng đến nay nó vẫn còn giừ nguyên giá trị. Khúc hát ru đã được phổ nhạc, trở thành bài ca được nhiều người ưa thích. Tình yêu thương con của bà mẹ nghèo miền núi gắn liền với tình thương bộ đội, tình yêu làng bản, lòng kính yêu Bác Hồ và tình yêu đất nước.
Khúc hát ru những em bé lởn trên lưng mẹ được đánh giá là một trong những bài thơ hay của thơ ca giai đoạn chống Mĩ cứu nước. Giờ đây, đọc lại bài thơ, người ta vẫn rưng rưng xúc động bởi tình cảm mộc mạc, chân thành cao đẹp của những người mẹ trong cuộc kháng- chiến chống Mĩ gian khổ và oanh liệt của dân tộc ta. Tự hào thay, người mẹ Việt Nam!
Sau cuộc chiến tranh chống MI cứu nước, Tổ quốc ta, nhân dân ta đã xây dựng biết bao tượng đài để ghi nhớ công ơn và ngợi ca những người mẹ Việt Nam anh hùng, Với Khúc hát ru những em bé lớn trẽn lưng mẹ, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm cũng đã xây dựng thành công một tượng đài bằng ngôn ngữ về những người mẹ miền núi vô danh.
Xem thêm: Soạn và viết nội dung báo cáo về phong trào đội
|
Đề bài: Có thể xem bài thơ Lai Tân là bức tranh thu nhỏ của cái chế độ xã hội Tưởng Giới Thạch được không? Phân tích bài thơ (chú ý nêu lên sự kết hợp tài tình giữa bút pháp tả thực và bút pháp trào phúng của Bác để tăng thêm sức mạnh châm biếm, tố cáo hiện thực chế độ xã hội Tưởng Giới Thạch).
"Nhật kí trong tù" của Hồ Chí Minh được kết hợp từ hai yếu tô’"trữ tình" và "hiện thực”,"Lai Tân" là một trong những bài thơ thể hiện rõ những yếu tố đó. Nó là.một thành công của Bác trong việc kết hợp bút pháp tả thực và trào phúng vẽ nên bức tranh thời sự về chế độ xã hội Tưởng Giới Thạch.
Với tư cách là người thư ký trung thành của thời đại, Bác đã ghi lại một cách khách quan những cảnh:
"Giam phòng ban trưởng thiền thiên đổ
Cảnh trưởng tham thôn giải phạm tiền
Huyện trưởng thiêu đăng biện công sự"
Khác với Tú Xương trong hoàn cảnh tự do nên có ‘thể thẳng tay độp vào mặt bọn thông trị những cái tát giáng trời:
"Ớ phố Hàng Song thật lắm -quan
Thành thì đen kịt, Đốc thì lang
Chồng chung vợ chạ kìa cô Bố
Dậu lạy quan xin nọ chú Hàn"
(Lắm quan)
Hồ Chí Minh chỉ có thể mỉa mai, châm.biếm sâu cay bọn thông trị bằng ngòi bút trong hoàn cảnh tù đày, gông xiềng. Từ cái mặt bên ngoài đến tận cùng những ngộc ngách bôn trong của bộ máy thông trị Trung Hoa quốc dân đảng đã chứa đầy những mâu thuẫn. Tác giả "Lai Tân" đưa ra ba gương mặt điển hình của bộ máy chính quyền Tưởng Giới Thạch đó là: "Ban trưởng","cảnh trưởng", "huyện trưởng cái chức "trưởng’ của họ khá oai vệ, đầy uy lực, nhưng việc làm của họ đầy khuất tất, bất chính. Khuôn khổ bài thơ rất ngắn gọn nhưng lại được đặt liên tiếp ba chừ "trường" trong ba cồu thơ đầu là sự "cớ tình" dùng phép lặp của Bác trong vỉệc dựng lên những chân dung tiêu biểu của giai cấp thống trị. Ba câu thơ – mồi câu là một bức tranh sống động mang tính
thời sự nóng hổi, chân thật đến từng cõi tiết được vẽ bằng nét bút bình thản, lạnh lùng Bức thứ nhất bày ra trước mắt mọi người là hình ảnh một "ban trưởng nhà lao chuyên đánh bạc". Bức thứ hai là hình ảnh "cảnh trưởng tham lam ăn tiền phạm nhãn bị giải".
Cả ban trưởng và cảnh trưởng đều là những công cụ thi hành pháp luật rất đắc lực của cái xã hội đầy rẫy những bỉ lậu, xấu xa. Chúng khoác trên mình chiếc áo "công lý’ để làm những việc "bất công ly’ một cách thường xuyên hết ngày này đến ngày khác. Chức "trưởng" của chúng đã to, sự phạm pháp của chúng còn lớn hơn ngàn vạn lần. Tiếng cười trào lộng bật lên từ nghịch cảnh đó. Thoạt tiên, mới nhắc đến "ban trưởng", "cảnh trưởng" thiết tưởng đó là những người cầm cân nẩy mực chắc hẳn phải công minh, trong sạch nhưng ta thực sự bất ngờ khi biết chúng chẳng qua là những con mọt dân, gây rối, bắt bớ dân để mà tham nhũng, cờ bạc. Chúng mượn cái danh để tự đặt ra cho mình cái quyền thích làm gì thì làm. Đất Lai Tân có ban trưởng, cảnh trưởng tưởng chừng cuộc sông hình yên nhưng trớ trêu thay trật tự an ninh không được đảm bảo, những vi phạm pháp luật vẫn diễn ra đầy rẫy mà những kẻ đứng đầu bộ máy thống trị ở Lai Tân cũng chính là những kẻ cầm đầu những chuyện phạm pháp đó. Nực cười thay, nhà tù là nơi giam giữ những kẻ phạm tội vậy mà lại chính là nơi để tội phạm cổ thể thịnh hành rộng rãi nhất, tiêu biểu hơn cả, nhiều hơn cả vẫn là tội phạm cờ bạc mà chính giai cấp thống trị nhà lao cũng là những "đỗ phạm’. Cái nghịch cảnh "đánh bạc ở ngoài quan bắt tội, trong tù được đánh bạc công khai" là hiện thực thôi nát của nhà tù Tưởng Giới Thạch không thể phủ nhận được.
Cấp dưới sông và hành động bê tha, tàn ác như thế, vậy mà cấp trên – huyện trưởng – vẫn đêm đêm "chong đèn lo công việc". Mức độ mỉa mai, châm biếm của tác giả tăng dần. Kích thước của những bức tranh về sau to hơn, rộng hơn bức trước. Từ chân dung một ban trưởng trông coi một phạm vi nhà tù nhỏ hẹp tới một cảnh trưởng cai quản một địa phận lớn hơn đến một huyện trưởng cai trị một vùng rộng lớn và bao quát cả quyền của ban trưởng cảnh trưởng. Bức tranh thứ ba mở ra hình ảnh "Huyện trưởng thiêu đăng biện công sự’ vẻ ngoài tưởng mẫu cách, sát sao với "công việc" nhưng thực ra lại là một kẻ quan liêu, vô trách nhiệm, không biết tay chân, cấp dưới làm những gì, phạm pháp những gì. Câu thơ phạm luật "nhị tứ lục phân minh" ở một chữ "công". Bao mỉa mai, đả kích sâu cay dồn nén vào một chữ "công" đó. Huyện trưởng "lo công việc" hay là mượn "việc công" để tạo một tấm bình phong che cho mình "io việc riềng", "chong đèn’ hút thuốc phiện? Tác giả đặt chữ "đăng" chính giữa câu thơ không nhằm mục đích tỏa sáng chận dung huyện trưởng mà nhằm đối lập, phản chiếu cái tối tăm của bộ máy thông trị Lai Tân (nói riêng), hệ thống chỉnh quyền Tưởng Giới Thạch (nói chung).
Giữa thực trạng ấy, thử hỏi bình yên ở đâu? Câu trả lời là: Bình yên vẫn ở chốn Lai Tân này!
Xem thêm: Phân tích vẻ đẹp của hình tượng "li khách" trong bài thơ Tống biệt hành của Thâm Tâm"Trời đất Lai Tân vẫn thái bình"
Câu trả lời bất ngờ đến mức khiến người đọc ngã ngửa người. Thì ra là thế! Lời bình giá đã đi ngược lại với tất cả những mục ruỗng, thối nát của chính quyền Tưởng Giới Thạch được phơi bày ở trên. Từ lời bình giá đó đã vút lên một lời đã kích mạnh mẽ. Tác giả "Lai Tân" đã kết luận đầy châm biếm, mỉa mai sắc sảo và rất hùng hồn về cái xã hội ấy. Thủ pháp nói ngược của Bác đã làm bật ra tiếng cười trào phúng. ‘Trờiđất Lai Tân vẫn thái binh". Đúng vậy! Nhưng chỉ một chữ "vẫn" cũng đủ "điếng người’. Một cái bĩu môi dài, một cái cười khẩy, một giọng mĩa kéo dài bắc đầu từ chữ "vẫn" ấy. Nghệ thuật nâng cao – quật mạnh, nâng cao 1 quật càng được Bác sử dụng rất công hiệu ở câu thơ cuối bài này đã lay tỉnh người đọc nhìn sâu vào xã hộ ấy mà xem xét, đánh giá đúng thực chất của nó. Như con đà điểu thấy nguy hiểm là húc đầu vào sâu trong cát, giai cấp thống trị ở Lại Tân thấy trời đất thái bình là tưởng thây yên ổn chúng bằng lòng với cách thái bình đó mà không ngờ rằng dó chi là cảnh thái bình giả dối, trong đó chất chứa rất nhiều sóng gió, hiểm nguy. Điều ấy cũng thể hiện sự ngu dốt, vô trách nhiệm hết sức của bọn chúng. Ba bức tranh – ba chân dung của ba kẻ đại diện cho giai cấp thông trị chế độ Tưởng Gịới Thạch ghép lại với nhau thành một bức tranh lớn – một chân dung lớn đầy đủ, trọn vẹn về xã hội Trung Hoa quốc dân đảng. Với "nghệ thuật vế đường tròn dồng tâm"t tác giả "Lai Tân’ đã vẽ được một bức tranh sinh động mỗi lúc một toàn diện hơn chế độ xã hội Tưởng Giới Thạch. Nhà "dột từ nóc dột xuống" chỉ qua một huyện Lai Tân mà cả bộ mặt thối nát, bỉ lậu của xã hội Tưởng được phơi bày. Tác giả đã phủ định triệt để tận gốc giai cấp thống trị ấy. Cái "loạn" của mảnh đất Lai Tân được tô đậm bằng màu xám, màu tối của những bê tha, xấu xa, vô trách nhiệm, rất quan liêu của văn võ bá quan. Và hơn thế, nó được "trang trí" bằng sự "thái bình” nhưng ai cũng hiểu trời đất Lai Tân "thái bình" như thế nào. Cách kết thúc bài thơ của Hồ Chí Minh giống lối thơ trào phúng truyền thống của các nhà thơ trào phúng Việt Nam như Tú Xương, Nguyễn Công Trứ, Hồ Xuân Hương… đồng thời đậm chất (gây cười) của phương Tây. Hai chữ Lai Tân dường như không chỉ là một tên huyện đơn thuần mà tự bản thân nó đã mang một lớp nghĩa là mảnh đất mới, sáng sủa, bình yên. Và quả thật, huyện Lai Tân rất bình yên – bình yên "như xưa". Nhưng "như xưa" ở đây nghĩa là sự trì trệ, là chậm chạp không phát triển đã thành truyền thông; "như xưa" là không hề đổi thay, là duy trì những cái xâu xã, bĩ lậu của ngày trước. Hồ Chí Minh đã đả kích trực tiếp và khách quan chế độ Tưởng, do đó sức tế cáo, châm biếm của nó rất mạnh mẽ, quyết liệt. Bác đã giáng những đòn liên tiếp, chính xác vào xã hội ấy khiến nó phải "quần lèn" ở nhát đòn quyết định có tên là "thái bình”.
Không phải chỉ ở "Lai Tân" mà ở rất nhiều bàỉ thơ khác của "Nhật ki trong tu Bác cũng đã đả kích châm biếm sâu sắc xã hội Tưởng Giới Thạch như "Trảng binh gia quyến", "Đổ", "Đổ phạm’. Đó là "những ngón đòn trào phúng thâm thúy mà Bác đă đánh thẳng vào kẻ thù, vạch trần cái vô lý, tàn tệ" của chế độ ấy khiến "ta cười ra nước mắt". Tiếng cười trào lộng cất lên vừa trữ tình, vừa đẩm chất trí tuệ khiến ta thoải mái, hả hê.
Ta chợt nhớ tới Tú Xương ngày trước cũng từng có một tiếng cười trào lộng như thế:
"Tri phủ Xuân Trường được mấy niên
Nhờ trời hạt ẩy cùng bình yên"
(Đưa ông phủ)
Tiếng cười dân tộc đã thâm nhuần trong thơ hiện thực trào phúng của Hồ Chí Minh mà càng đọc ta càng thây nó sâu cay. "Lai Tân" là một bài thơ cũng năm trong số đó. Vừa có ý nghĩa hiện thực chân xác, vừa mang tính chiến đâu sắc mạnh tố cáo châm biếm cao độ, bài thơ đã giúp ta hiểu thêm về xã hội Tưởng Giới Thạch và hiểu hơn tâm hồn tài năng của Bác
Xem thêm: Bên cạnh vẻ đẹp hùng vĩ, hung bạo, sông Đà còn mang nét đẹp trữ tình. Hãy phân tích vẻ đẹp trữ tình ấy.
|
Đề bài: Có thể xem bài thơ Lai Tân là bức tranh thu nhỏ của cái chế độ xã hội Tưởng Giới Thạch được không? Phân tích bài thơ (chú ý nêu lên sự kết hợp tài tình giữa bút pháp tả thực và bút pháp trào phúng của Bác để tăng thêm sức mạnh châm biếm, tố cáo hiện thực chế độ xã hội Tưởng Giới Thạch).
"Nhật kí trong tù" của Hồ Chí Minh được kết hợp từ hai yếu tô’"trữ tình" và "hiện thực”,"Lai Tân" là một trong những bài thơ thể hiện rõ những yếu tố đó. Nó là.một thành công của Bác trong việc kết hợp bút pháp tả thực và trào phúng vẽ nên bức tranh thời sự về chế độ xã hội Tưởng Giới Thạch.
Với tư cách là người thư ký trung thành của thời đại, Bác đã ghi lại một cách khách quan những cảnh:
"Giam phòng ban trưởng thiền thiên đổ
Cảnh trưởng tham thôn giải phạm tiền
Huyện trưởng thiêu đăng biện công sự"
Khác với Tú Xương trong hoàn cảnh tự do nên có ‘thể thẳng tay độp vào mặt bọn thông trị những cái tát giáng trời:
"Ớ phố Hàng Song thật lắm -quan
Thành thì đen kịt, Đốc thì lang
Chồng chung vợ chạ kìa cô Bố
Dậu lạy quan xin nọ chú Hàn"
(Lắm quan)
Hồ Chí Minh chỉ có thể mỉa mai, châm.biếm sâu cay bọn thông trị bằng ngòi bút trong hoàn cảnh tù đày, gông xiềng. Từ cái mặt bên ngoài đến tận cùng những ngộc ngách bôn trong của bộ máy thông trị Trung Hoa quốc dân đảng đã chứa đầy những mâu thuẫn. Tác giả "Lai Tân" đưa ra ba gương mặt điển hình của bộ máy chính quyền Tưởng Giới Thạch đó là: "Ban trưởng","cảnh trưởng", "huyện trưởng cái chức "trưởng’ của họ khá oai vệ, đầy uy lực, nhưng việc làm của họ đầy khuất tất, bất chính. Khuôn khổ bài thơ rất ngắn gọn nhưng lại được đặt liên tiếp ba chừ "trường" trong ba cồu thơ đầu là sự "cớ tình" dùng phép lặp của Bác trong vỉệc dựng lên những chân dung tiêu biểu của giai cấp thống trị. Ba câu thơ – mồi câu là một bức tranh sống động mang tính
thời sự nóng hổi, chân thật đến từng cõi tiết được vẽ bằng nét bút bình thản, lạnh lùng Bức thứ nhất bày ra trước mắt mọi người là hình ảnh một "ban trưởng nhà lao chuyên đánh bạc". Bức thứ hai là hình ảnh "cảnh trưởng tham lam ăn tiền phạm nhãn bị giải".
Cả ban trưởng và cảnh trưởng đều là những công cụ thi hành pháp luật rất đắc lực của cái xã hội đầy rẫy những bỉ lậu, xấu xa. Chúng khoác trên mình chiếc áo "công lý’ để làm những việc "bất công ly’ một cách thường xuyên hết ngày này đến ngày khác. Chức "trưởng" của chúng đã to, sự phạm pháp của chúng còn lớn hơn ngàn vạn lần. Tiếng cười trào lộng bật lên từ nghịch cảnh đó. Thoạt tiên, mới nhắc đến "ban trưởng", "cảnh trưởng" thiết tưởng đó là những người cầm cân nẩy mực chắc hẳn phải công minh, trong sạch nhưng ta thực sự bất ngờ khi biết chúng chẳng qua là những con mọt dân, gây rối, bắt bớ dân để mà tham nhũng, cờ bạc. Chúng mượn cái danh để tự đặt ra cho mình cái quyền thích làm gì thì làm. Đất Lai Tân có ban trưởng, cảnh trưởng tưởng chừng cuộc sông hình yên nhưng trớ trêu thay trật tự an ninh không được đảm bảo, những vi phạm pháp luật vẫn diễn ra đầy rẫy mà những kẻ đứng đầu bộ máy thống trị ở Lai Tân cũng chính là những kẻ cầm đầu những chuyện phạm pháp đó. Nực cười thay, nhà tù là nơi giam giữ những kẻ phạm tội vậy mà lại chính là nơi để tội phạm cổ thể thịnh hành rộng rãi nhất, tiêu biểu hơn cả, nhiều hơn cả vẫn là tội phạm cờ bạc mà chính giai cấp thống trị nhà lao cũng là những "đỗ phạm’. Cái nghịch cảnh "đánh bạc ở ngoài quan bắt tội, trong tù được đánh bạc công khai" là hiện thực thôi nát của nhà tù Tưởng Giới Thạch không thể phủ nhận được.
Cấp dưới sông và hành động bê tha, tàn ác như thế, vậy mà cấp trên – huyện trưởng – vẫn đêm đêm "chong đèn lo công việc". Mức độ mỉa mai, châm biếm của tác giả tăng dần. Kích thước của những bức tranh về sau to hơn, rộng hơn bức trước. Từ chân dung một ban trưởng trông coi một phạm vi nhà tù nhỏ hẹp tới một cảnh trưởng cai quản một địa phận lớn hơn đến một huyện trưởng cai trị một vùng rộng lớn và bao quát cả quyền của ban trưởng cảnh trưởng. Bức tranh thứ ba mở ra hình ảnh "Huyện trưởng thiêu đăng biện công sự’ vẻ ngoài tưởng mẫu cách, sát sao với "công việc" nhưng thực ra lại là một kẻ quan liêu, vô trách nhiệm, không biết tay chân, cấp dưới làm những gì, phạm pháp những gì. Câu thơ phạm luật "nhị tứ lục phân minh" ở một chữ "công". Bao mỉa mai, đả kích sâu cay dồn nén vào một chữ "công" đó. Huyện trưởng "lo công việc" hay là mượn "việc công" để tạo một tấm bình phong che cho mình "io việc riềng", "chong đèn’ hút thuốc phiện? Tác giả đặt chữ "đăng" chính giữa câu thơ không nhằm mục đích tỏa sáng chận dung huyện trưởng mà nhằm đối lập, phản chiếu cái tối tăm của bộ máy thông trị Lai Tân (nói riêng), hệ thống chỉnh quyền Tưởng Giới Thạch (nói chung).
Giữa thực trạng ấy, thử hỏi bình yên ở đâu? Câu trả lời là: Bình yên vẫn ở chốn Lai Tân này!
Xem thêm: Phân tích vẻ đẹp của hình tượng "li khách" trong bài thơ Tống biệt hành của Thâm Tâm"Trời đất Lai Tân vẫn thái bình"
Câu trả lời bất ngờ đến mức khiến người đọc ngã ngửa người. Thì ra là thế! Lời bình giá đã đi ngược lại với tất cả những mục ruỗng, thối nát của chính quyền Tưởng Giới Thạch được phơi bày ở trên. Từ lời bình giá đó đã vút lên một lời đã kích mạnh mẽ. Tác giả "Lai Tân" đã kết luận đầy châm biếm, mỉa mai sắc sảo và rất hùng hồn về cái xã hội ấy. Thủ pháp nói ngược của Bác đã làm bật ra tiếng cười trào phúng. ‘Trờiđất Lai Tân vẫn thái binh". Đúng vậy! Nhưng chỉ một chữ "vẫn" cũng đủ "điếng người’. Một cái bĩu môi dài, một cái cười khẩy, một giọng mĩa kéo dài bắc đầu từ chữ "vẫn" ấy. Nghệ thuật nâng cao – quật mạnh, nâng cao 1 quật càng được Bác sử dụng rất công hiệu ở câu thơ cuối bài này đã lay tỉnh người đọc nhìn sâu vào xã hộ ấy mà xem xét, đánh giá đúng thực chất của nó. Như con đà điểu thấy nguy hiểm là húc đầu vào sâu trong cát, giai cấp thống trị ở Lại Tân thấy trời đất thái bình là tưởng thây yên ổn chúng bằng lòng với cách thái bình đó mà không ngờ rằng dó chi là cảnh thái bình giả dối, trong đó chất chứa rất nhiều sóng gió, hiểm nguy. Điều ấy cũng thể hiện sự ngu dốt, vô trách nhiệm hết sức của bọn chúng. Ba bức tranh – ba chân dung của ba kẻ đại diện cho giai cấp thông trị chế độ Tưởng Gịới Thạch ghép lại với nhau thành một bức tranh lớn – một chân dung lớn đầy đủ, trọn vẹn về xã hội Trung Hoa quốc dân đảng. Với "nghệ thuật vế đường tròn dồng tâm"t tác giả "Lai Tân’ đã vẽ được một bức tranh sinh động mỗi lúc một toàn diện hơn chế độ xã hội Tưởng Giới Thạch. Nhà "dột từ nóc dột xuống" chỉ qua một huyện Lai Tân mà cả bộ mặt thối nát, bỉ lậu của xã hội Tưởng được phơi bày. Tác giả đã phủ định triệt để tận gốc giai cấp thống trị ấy. Cái "loạn" của mảnh đất Lai Tân được tô đậm bằng màu xám, màu tối của những bê tha, xấu xa, vô trách nhiệm, rất quan liêu của văn võ bá quan. Và hơn thế, nó được "trang trí" bằng sự "thái bình” nhưng ai cũng hiểu trời đất Lai Tân "thái bình" như thế nào. Cách kết thúc bài thơ của Hồ Chí Minh giống lối thơ trào phúng truyền thống của các nhà thơ trào phúng Việt Nam như Tú Xương, Nguyễn Công Trứ, Hồ Xuân Hương… đồng thời đậm chất (gây cười) của phương Tây. Hai chữ Lai Tân dường như không chỉ là một tên huyện đơn thuần mà tự bản thân nó đã mang một lớp nghĩa là mảnh đất mới, sáng sủa, bình yên. Và quả thật, huyện Lai Tân rất bình yên – bình yên "như xưa". Nhưng "như xưa" ở đây nghĩa là sự trì trệ, là chậm chạp không phát triển đã thành truyền thông; "như xưa" là không hề đổi thay, là duy trì những cái xâu xã, bĩ lậu của ngày trước. Hồ Chí Minh đã đả kích trực tiếp và khách quan chế độ Tưởng, do đó sức tế cáo, châm biếm của nó rất mạnh mẽ, quyết liệt. Bác đã giáng những đòn liên tiếp, chính xác vào xã hội ấy khiến nó phải "quần lèn" ở nhát đòn quyết định có tên là "thái bình”.
Không phải chỉ ở "Lai Tân" mà ở rất nhiều bàỉ thơ khác của "Nhật ki trong tu Bác cũng đã đả kích châm biếm sâu sắc xã hội Tưởng Giới Thạch như "Trảng binh gia quyến", "Đổ", "Đổ phạm’. Đó là "những ngón đòn trào phúng thâm thúy mà Bác đă đánh thẳng vào kẻ thù, vạch trần cái vô lý, tàn tệ" của chế độ ấy khiến "ta cười ra nước mắt". Tiếng cười trào lộng cất lên vừa trữ tình, vừa đẩm chất trí tuệ khiến ta thoải mái, hả hê.
Ta chợt nhớ tới Tú Xương ngày trước cũng từng có một tiếng cười trào lộng như thế:
"Tri phủ Xuân Trường được mấy niên
Nhờ trời hạt ẩy cùng bình yên"
(Đưa ông phủ)
Tiếng cười dân tộc đã thâm nhuần trong thơ hiện thực trào phúng của Hồ Chí Minh mà càng đọc ta càng thây nó sâu cay. "Lai Tân" là một bài thơ cũng năm trong số đó. Vừa có ý nghĩa hiện thực chân xác, vừa mang tính chiến đâu sắc mạnh tố cáo châm biếm cao độ, bài thơ đã giúp ta hiểu thêm về xã hội Tưởng Giới Thạch và hiểu hơn tâm hồn tài năng của Bác
Xem thêm: Bên cạnh vẻ đẹp hùng vĩ, hung bạo, sông Đà còn mang nét đẹp trữ tình. Hãy phân tích vẻ đẹp trữ tình ấy.
|
Bài thơ Lưu biệt khi xuất dương của Phan Bội Châu là một trong những tác phẩm rất hay của tác giả này. Lời bài thơ có sự khích lệ tinh thần to lớn đối với những thanh niên thời bấy giờ. Đồng thời, bài thơ nêu lên được chí làm trai theo như quan niệm của nhà thơ.
Nếu muốn phân tích bài thơ Lưu biệt khi xuất dương của Phan Bội Châu, các em cần lập dàn ý chi tiết để khi làm bài không lo bị thiếu ý, sót ý. Dưới đây, Kho tàng văn mẫu sẽ hướng dẫn các em lập dàn ý và cung cấp bài văn mẫu cho các em tham khảo.
I. Lập dàn ý phân tích bài thơ Lưu biệt khi xuất dương
1. Mở bài
– Giới thiệu về tác giả Phan Bội Châu và bài thơ Lưu biệt khi xuất dương.
– Bài thơ này được tác giả viết vào năm 1905 trước lúc ông lên đường sang Nhật.
– Bài thơ nói lên đước chí làm trai đó là làm nên sự nghiệp cứu nước.
2. Thân bài phân tích bài thơ Lưu biệt khi xuất dương
a. Hai câu đề
– Là nam nhi thì phải mong có điều lạ, phải mong làm nên sự nghiệp lớn.
– Con người cần đứng lên làm chủ cuộc đời chứ không để cuộc đời xoay chuyển mình.
b. Hai câu thực
– Tác giả tự hào về vai trò của bản thân mình trong cuộc đời, trong lịch sử dân tộc.
– Khẳng định ý tưởng vĩ đại là làm nên công danh như Nguyễn Công Trứ cũng đã từng nói đến.
– Quan niệm về chí nam nhi của Phan Bội Châu mới mẻ và hướng về Tổ quốc.
c. Hai câu luận
– Quan niệm sống đẹp của kẻ sĩ trước thời cuộc.
– Phủ định cách học cũ kĩ lạc hậu là đọc sách thánh hiền.
d. Hai câu kết
– Chí lớn không bó hẹp mà mang tầm vũ trụ.Xem thêm: Thiên nhiên trong bài thơ “Tràng giang” của Huy Cận3. Kết luận
– Tổng quan về nội dung bài thơ và nêu cảm nghĩ của em về bài thơ này.
Bài viết liên quan:
>> Phân tích bài thơ Chiều tối của Hồ Chí Minh (Có dàn ý chi tiết)
>> Phân tích bài thơ Từ ấy của Tố Hữu (Có dàn ý chi tiết)
>> Phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mạc Tử (Có dàn ý chi tiết)
II. Bài văn phân tích bài thơ Lưu biệt khi xuất dương
Phan Bội Châu vốn được biết đến là một chí sĩ yêu nước, là một người lãnh đạo nhiều phong trào yêu nước. Tuy con đường mà Phan Bội Châu đang đi gặp nhiều chông gai và đến cuối cùng ông phải chịu thất bại nhưng ông vẫn là tấm gương sáng của thế hệ mai sau. Không chỉ là một người chí sĩ, Phan Bội Châu còn là một người nghệ sĩ với nhiều tác phẩm hay. Năm 1905, Hội Duy Tân của có chủ trương phong trào Đông Du, và đưa thanh niên ưu tú sang Nhật. Việc này vừa nhằm mục đích chuẩn bị lực lượng nòng cốt cho cách mạng, vừa nhằm mục đích tranh thủ sự giúp đỡ của các thế lực bên ngoài. Ngày trước khi lên đường, Phan Bội Châu đã làm bài thơ Lưu biệt khi xuất dương để bày tỏ quan điểm và cảm xúc của mình đối với những người đồng chí, đồng đội.
Trong bài thơ Xuất dương khi lưu biệt, Phan Bội Châu đã sử dụng ngôn ngữ thơ giàu sức lay động. Người chí sĩ cách mạng hiện lên trong thơ mang một vẻ đẹp vừa lãng mạn, vừa hào hùng. Trong buổi ra đi tìm đường cứu nước, những tư tưởng mới mẻ, táo bạo của nhà chí sĩ cách mạng được thể hiện một cách cháy bỏng. Mở đầu bài thơ, Phan Bội Châu đã khẳng định chí làm trai ở trong trời đất:
Làm trai phải lạ ở trên đời
Há để càn khôn tự chuyển dời
Trước đây, Nguyễn Công Trứ cũng đã từng nói về chí làm trai rằng đã làm trai ở trong trời đất thì phải có danh gì với núi sông. Giờ đây, Phan Bội Châu cũng nói về chí làm trai nhưng viết theo một cách khác mới mẻ hơn. Đó chính là làm trai thì phải làm nên được điều lạ ở trên đời. Điều lạ ở đây có thể hiểu là đứng lên chống lại kẻ thù. Làm trai thì phải chủ động chứ không nên bị động để số phận cuộc đời mình cho trời đất xoay chuyển. Đó là một lời thuyết phục thế hệ trẻ phải biết táo bạo và quyết liệt hơn nữa. Chí làm trai của Phan Bội Châu đã vượt qua cái mộng công danh xưa nay là gắn với tam cương, ngũ thường của Nho giáo. Chí làm trai của Phan Bội Châu vươn tới lí tưởng xã hội rộng lớn và cao cả.Xem thêm: Phân tích khổ thơ đầu bài thơ "Từ ấy” của Tố Hữu
Phân tích bài thơ Lưu biệt khi xuất dương
Một phần cảm hứng ấy có lẽ cũng xuất phát từ lý tưởng trí quân, trạch dân của nhà Nho thuở trước nhưng vì mang tính chất cách mạng nên tư tưởng trở nên tiến bộ hơn. Đúng như tự nhiên, con tạo xoay vần là lẽ tự nhiên nhưng Phan Bội Châu không chấp nhận điều đó. Ông muốn xoay chuyển cả càn khôn chứ không để nó tự chuyển vần. Điều này đồng nghĩa với việc Phan Bội Châu không chấp nhận khuất phục số phận hay hoàn cảnh.
Sang đến hai câu thực, nhà thơ ý thức rõ về trách nhiệm của mình trước lịch sử, trước vận mệnh của đất nước:
Trong khoảng trăm năm cần có tớ
Sau này muôn thuở há không ai
Không chỉ đơn giản là xác nhận sự có mặt của nhân vật trữ tình ở trên đời mà câu thơ thứ ba còn hàm chứa một tâm niệm đó là sự hiện diện của tác giả trên đời không phải điều ngẫu nhiên. Chính từ ý thức đó, nhà thơ tự thấy bản thân cần phải làm những điều có ích bởi vì sau này, chắc chẽ cũng sẽ có người nối tiếp con đường mà mình đã đi.
Cái chí làm trai không chỉ là cái lý tưởng suy nghĩ ở trong lòng tác giả mà nó được tác giả đặt vào trong hoàn cảnh thực tế của lịch sử:Xem thêm: Bức tranh của em gái tôiNon sông đã chết sống thêm nhục
Hiền thánh còn đâu học cũng hoài
Ở mỗi thời, có lẽ chí làm trai mỗi khác. Nếu như ở thời bình, chí làm trai là thi đỗ, làm quan thì thời chiến, sự nghiệp học hành, theo đuổi hiền thánh không còn đúng nữa. Nếu đất nước lâm nguy, rơi vào tay giặc thì việc học hành nào có ích gì. Non sông mà không còn thì sống chỉ thêm nhục. Đó là lý tưởng của con người thời đại. Đối với Phan Bội Châu, việc bây giờ là phải đánh đuổi được giặc thù. Hai câu thơ cuối đã thể hiện được khát vọng muốn vươn ra biển lớn của nhà thơ:
Muốn vượt biển Đông theo cánh gió
Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi
Hình ảnh trong hai câu thơ mang tầm vũ trụ, nó khiến cho ý chí của tác giả trở nên lớn lao hơn, kì vĩ hơn. Tất cả mọi thứ cứ như hòa nhập lại và cùng nhau thăng hoa.
Bài thơ Lưu biệt khi xuất dương đã có sức lay động lòng người, khích lệ tinh thần tướng sĩ lúc bấy giờ. Đây xứng đáng là một kiệt tác mà không chỉ thế hệ trước, cả thế hệ chúng ta, thế hệ sau này cũng đều rút ra được bài học cho riêng mình.
Trên đây là phần lập dàn ý phân tích bài thơ Lưu biệt khi xuất dương và bài văn mẫu cho các em tham khảo. Hy vọng bài viết này sẽ giúp ích nhiều cho các em.
Thu Thủy
|
The poem "Farewell when departing" by Phan Boi Chau is one of this author's very good works. The poem's lyrics had great spiritual encouragement for young people at that time. At the same time, the poem highlights the will to be a man according to the poet's concept.
If you want to analyze the poem "Farewell when leaving the world" by Phan Boi Chau, you need to make a detailed outline so that you don't have to worry about missing ideas or missing ideas when writing. Below, Sample Essay Treasury will guide you in making an outline and provide sample essays for your reference.
I. Create an outline to analyze the poem Save farewell when leaving the country
1. Open the lesson
– Introducing the author Phan Boi Chau and the poem Farewell when leaving the country.
– This poem was written by the author in 1905 before he left for Japan.
– The poem speaks of the ambition of being a man, which is to make a career of saving the country.
2. Body analysis of the poem "Farewell when leaving the world".
a. Two sentences
– As a man, you have to hope for something strange, you have to hope to make a great career.
– People need to stand up and take control of their lives, not let life turn them around.
b. Two real sentences
– The author is proud of his own role in life and in the nation's history.
– Affirming the great idea of making a name for yourself as Nguyen Cong Tru also mentioned.
– Phan Boi Chau's concept of manhood is new and oriented towards the Fatherland.
c. Two essays
– The concept of a beautiful life of a scholar before the times.
– To negate the old, outdated way of learning is to read books of saints and sages.
d. Two concluding sentences
– The great will is not limited but has a cosmic level. See more: Nature in the poem "Trang Giang" by Huy Can3. Conclude
– Overview of the poem's content and state your thoughts about this poem.
Related articles:
>> Analysis of Ho Chi Minh's poem Evening (With detailed outline)
>> Analysis of the poem Tu That by To Huu (With detailed outline)
>> Analysis of the poem This Vi Da Village by Han Mac Tu (With detailed outline)
II. Essay analyzing the poem "Farewell when leaving the world".
Phan Boi Chau was known as a patriotic scholar and leader of many patriotic movements. Although the path that Phan Boi Chau was on was full of difficulties and in the end he suffered defeat, he is still a shining example for future generations. Not only is he a scholar, Phan Boi Chau is also an artist with many good works. In 1905, Duy Tan's Association advocated the Dong Du movement, and brought elite youth to Japan. This is both to prepare the core force for the revolution and to enlist the help of outside forces. The day before leaving, Phan Boi Chau wrote the poem "Farewell when leaving the country" to express his views and feelings towards his comrades and teammates.
In the poem "Xu Duong when on leave", Phan Boi Chau used poetic language rich in moving power. The revolutionary soldier who appears in poetry has a beauty that is both romantic and heroic. During his departure to find a way to save the country, the new and bold ideas of the revolutionary scholar were passionately expressed. At the beginning of the poem, Phan Boi Chau affirmed his will to be a man in heaven and earth:
Being a man must be strange in this world
Let the universe move on its own
Previously, Nguyen Cong Tru also talked about the will to be a man, saying that if you are a man in heaven and earth, you must have no reputation with the mountains and rivers. Now, Phan Boi Chau also talks about the will to be a man but writes in a different and newer way. That is, being a man means you have to do strange things in life. The strange thing here can be understood as standing up against the enemy. As a man, you have to be proactive, not passive and leave your life's fate up to heaven and earth. It is a word that convinces the younger generation to be more daring and drastic. Phan Boi Chau's will to be a man has surpassed his dream of fame and fortune, which has always been associated with the three diamonds and five permanences of Confucianism. Phan Boi Chau's will to be a man reaches a broad and noble social ideal. See more: Analysis of the first stanza of the poem "From That" by To Huu
Analyze the poem Farewell when leaving the world
Part of that inspiration probably also came from the ideals of the wise man and the people of the old Confucian dynasty, but because of its revolutionary nature, the ideology became more progressive. Just like nature, it is natural for animals to rotate, but Phan Boi Chau does not accept that. He wanted to turn the whole universe around, not let it change on its own. This means that Phan Boi Chau does not accept to submit to fate or circumstances.
Moving on to the two actual sentences, the poet is clearly aware of his responsibility before history and the fate of the country:
For about a hundred years, I will be needed
After all, there will be no one
Not only does it simply confirm the presence of the lyrical character in the world, but the third verse also contains the thought that the author's presence in the world is not a coincidence. From that awareness, the poet sees himself as needing to do useful things because in the future, there will surely be people who will follow the path he took.
The will to be a man is not only an ideal thought in the author's heart, but it is placed by the author in the actual situation of history: See more: My sister's painting The river is dead and living is more shameful
Wherever the sages are, they always study
In each era, perhaps the will to be a man is different. If in times of peace, the ambition of being a man is to pass the exam and become an official, then in times of war, the career of studying and pursuing saints and sages is no longer true. If the country is in danger and falls into the hands of the enemy, then what is the use of studying? Without rivers and mountains, life will only be more humiliating. That is the ideal of modern people. For Phan Boi Chau, the task now is to expel the enemy. The last two verses express the poet's desire to reach out to the ocean:
Want to cross the East Sea with the wind
Thousands of silver waves send off to sea
The images in the two verses are cosmic, it makes the author's will become greater and more majestic. Everything seemed to integrate and flourish together.
The poem "Farewell when leaving the country" had the power to move people's hearts and encourage the spirit of soldiers at that time. This deserves to be a masterpiece that not only the previous generation, but also our generation and future generations can learn their own lessons from.
Above is an outline for analyzing the poem Save farewell when leaving the country and a sample essay for your reference. Hope this article will be of great help to you.
Thu Thuy
|
Đề bài: Phân tích bài thơ Lưu Biệt Khi Xuất Dương của Phan Bội Châu
Bài làm
Phan Bội Châu không chỉ là một trong những chí sĩ yêu nước đầu tiên của nước ta mà ông còn được biết đến bởi những bài thơ hay do ông sáng tác. Một trong số đó là bài thơ Lưu Biệt Khi Xuất Dương.
Trong quá trình hoạt động thì ông chủ trương thành lập và phát triển phong trào Đông Du, đó chính là phong trào đưa những thanh niên ưu tú sang Nhật để học tập, tiếp thu những tiến bộ của họ để chuẩn bị lực lượng nòng cốt cho phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc. Trước lúc lên đường thì ông đã viết bài thơ Lưu Biệt Khi Xuất Dương để bày tỏ tâm trạng, cảm xúc của mình trước khi từ giã bạn bè, đồng chí của mình:
Phiên âm chữ Hán:
“Sinh vi nam tử yếu hi kì
Khẳng hứa càn khôn tự chuyển di
Ư bách niêm trung tu hữu ngã
Khởi thiên tải hậu cánh vô thùy
Giang sơn tử hĩ sinh đồ nhuế
Hiền thánh liêu nhiên tục diệc si
Nguyện trục trường phong đông hải khứ
Thiên trùng bạch lãng nhất tề phi”
Phân tích bài thơ Lưu Biệt Khi Xuất Dương
Có thể thấy bài thơ Lưu Biệt Khi Xuất Dương mang vẻ đẹp lãng mạn, hào hùng của lớp nhà Nho tiên tiến. Họ mang những ý tưởng mạnh mẽ, táo bạo, mang theo những nhiệt huyết và khát vọng giải phóng dân tộc. Bài thơ được viết bằng chữ Hán và theo thể thất ngôn bát cú Đường luật khiến cho ý thơ trở nên hàm súc, trang trọng. Ngay hai câu đầu của bài thơ thì Phan Bội Châu đã làm toát lên quan niệm về chí làm trai:Xem thêm: Phân tích 12 câu thơ đầu bài thơ Trao duyên trích Truyện Kiều (Có dàn ý chi tiết)
“Sinh vi nam tử yếu hi kì
Khẳng hứa càn khôn tự chuyển di”
(Làm trai phải lạ ở trên đời
Há để càn khôn tự chuyển dời”
Câu thơ giống như sự nối tiếp chí làm trai trong thơ Nguyễn Công Trứ. Dấu ấn ở câu thơ đầu đó chính là hai chữ “hi kì”, có nghĩa là hiếm lạ, khác thường. Nó có thể được hiểu theo tính chất lớn lao, kì vĩ, là trọng trách mà người nam tử phải gánh vác, phải thể hiện. Đó chính là lý tưởng về chí làm trai của Nho gia và khiến bao đáng nam nhi phải băn khoăn. Phạm Ngũ Lão vốn là danh tướng đời Trần cũng không tránh khỏi sự băn khoăn ấy:
“Công danh nam tử còn vương nợ
Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu”
Có thể thấy quan niệm về chí làm trai của Phan Bội Châu đã khiến giới trẻ nể phục và noi theo. Đến câu thơ thứ hai bổ nghĩa cho câu thơ thứ nhất, song song với việc làm nên những điều lớn lao và lạ thì phải tự làm chủ chính bản thân mình. Trong quá trình vận động của càn khôn thì bản thân phải là người can dự vào, là một phần nguyên nhân khiến nó “chuyển dời”. Cảm hứng về chí làm trai của Phan Bội Châu ở thời kỳ đó chính là bởi xuất phát từ lý tưởng của những nhà Nho yêu nước đồng thời mang tính chất cách mạng. Ông là người luôn muốn chủ động, không khuất phục trước cuộc đời, trước hoàn cảnh:Xem thêm: Tả cái bàn học ở nhà
“Ư bách niên trung tu hữu ngã
Khởi thiên tải hậu cánh vô thùy”
(Trong khoảng trăm năm cần có tớ
Sau này muôn thuở há không ai)
Giống như một lời khẳng định mang theo sự khí phách của một bậc đại trượng phu về sức mạnh của mình trước càn khôn. Tác giả đề cao cái tôi cá nhân của mình và đặt ngang hàng bản thân với cái “trăm năm” để khẳng định trách nhiệm của bản thân với cuộc đời, với vận mệnh của dân tộc. Phan Bội Châu đã đưa ra lời kêu gọi những thanh niên trí thức cùng nhau góp sức tranh đấu vì cách mạng dân tộc. Cũng chính bài thơ này đã cảnh tỉnh giới thanh niên trí thức để họ có thêm sự quyết tâm ra đi tìm đường cứu nước. Tiếp nối việc khẳng định chí nam nhi ấy thì nhà thơ đã nói đến trách nhiệm của mình với non sông, đất nước:
“Giang sơn tử hĩ sinh đồ nhuế
Hiền thánh liêu nhiên tục diệc di”
(Non sông đã chết, sống thêm nhục
Hiền thánh còn đâu học cũng hoài)
Dễ nhận ra lẽ nhục vinh của nhà thơ gắn liền với an nguy của non sông đất nước. Câu thơ thứ năm đã bày tỏ một cách dứt khoát thái độ của tác giả đó là khi đất nước lâm nguy thì học sách vở thánh hiền cũng vô ích mà theo ông cần phải Duy Tân đất nước, phải vươn ra thế giới để học hỏi những tiến bộ của họ chứ không phải cố chấp, bảo thủ giữ lấy tư tưởng Nho gia. Chính vì tư tưởng đó nên tác giả đã bày tỏ khát vọng, ước muốn của mình:Xem thêm: Bình luận về tinh thần dũng cảm
“Muốn vượt bể Đông theo cánh gió
Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi”
Bài thơ Lưu Biệt Khi Xuất Dương với khí thế hào hùng, sục sôi nhiệt huyết nhà thơ đã cho thấy hình ảnh mang tầm vóc kỳ vĩ, lớn lao. Đó chính là nơi mà nhà thơ hướng tới, muốn vượt ra khỏi sự nhỏ bé, quẩn quanh để tìm thấy con đường cho cách mạng, con đường giải phóng dân tộc.
Loan Trương
|
Topic: Analysis of the poem Luu Biet Khi Xuat Duong by Phan Boi Chau
Assignment
Phan Boi Chau is not only one of our country's first patriotic writers, but he is also known for the beautiful poems he composed. One of them is the poem Luu Biet Khi Duong.
During his activities, he advocated the establishment and development of the Dong Du movement, which was the movement to bring elite young people to Japan to study and absorb their advances to prepare the core force. for the national liberation movement. Before leaving, he wrote the poem Luu Biet Khi Duong to express his mood and feelings before saying goodbye to his friends and comrades:
Transliteration of Chinese characters:
“The biological male is weak
Promising that the universe will move on its own
U hundred seals cultivate one's own self
Start the sky loading the rear wing without lobes
The rivers and mountains give birth to the poor
The sage and sage are naturally foolish
May the long wind and the sea pass away
Heavenly insect, white lang, one step concubine"
Analysis of the poem Luu Biet Khi Duong
It can be seen that the poem Luu Biet Khi Duong carries the romantic and heroic beauty of the advanced Confucian class. They bring strong, bold ideas, enthusiasm and desire to liberate the nation. The poem is written in Chinese characters and follows the seven-word, eight-syllable Tang Luat style, making the poetic meaning more concise and solemn. In the first two lines of the poem, Phan Boi Chau exudes the concept of the will to be a man: See more: Analysis of the first 12 lines of the poem Giving Love, excerpt from Tale of Kieu (With detailed outline)
“The biological male is weak
Promising that the universe will move on its own.
(Being a man must be strange in this world
Should we let the universe move on its own?
The poem is like a continuation of the will to be a man in Nguyen Cong Tru's poem. The mark in the first verse is the two words "hi strange", which means rare, unusual. It can be understood in terms of greatness, magnificence, and responsibility that men must shoulder and demonstrate. That is the Confucian ideal of being a man and makes many men wonder. Pham Ngu Lao, a famous general of the Tran Dynasty, could not avoid that concern:
“A man's reputation still has debts
Embarrassed to listen to the story of Marquis Vu"
It can be seen that Phan Boi Chau's concept of being a man has made young people admire and follow him. The second verse complements the first verse. Along with creating great and strange things, you must master yourself. In the process of movement of the universe, you must be involved, be part of the reason why it "moves". Phan Boi Chau's inspiration for being a man at that period was because it came from the ideals of patriotic Confucians and was also revolutionary. He is a person who always wants to be proactive, not giving in to life or circumstances: See more: Describe the desk at home
“You have been cultivating for hundreds of years
Start the sky and load the rear wings without lobes"
(For about a hundred years, I will be needed
After all, forever will there be no one?
Like an affirmation carrying the courage of a great man about his strength before the universe. The author promotes his personal ego and equates himself with the "hundred years" to affirm his responsibility for life and the destiny of the nation. Phan Boi Chau issued a call for young intellectuals to join together to fight for the national revolution. It was also this poem that alerted young intellectuals so that they would have more determination to go out and find a way to save the country. Following that affirmation of manhood, the poet talked about his responsibility to the mountains and country:
“The rivers and mountains give birth to the poor
The sage and sage are naturally profane."
(The river is dead, life is more humiliating
Wherever the saints are, they still study.)
It is easy to see that the poet's honor and glory are closely linked to the safety of the country's rivers and mountains. The fifth verse clearly expressed the author's attitude that when the country is in danger, it is useless to study the books of saints and sages. According to him, it is necessary to renew the country, to reach out to the world to learn. Their progress is not a matter of stubbornly and conservatively holding on to Confucian ideology. Because of that thought, the author expressed his aspirations and wishes: See more: Comments on the spirit of courage
“I want to cross the East Sea with the wind
Thousands of silver waves send off to sea"
The poem Luu Biet Khi Duong, with its heroic spirit and boiling enthusiasm, shows an image of majestic and great stature. That is where the poet is aiming, wanting to go beyond smallness and wandering around to find a path for revolution, a path for national liberation.
Loan Truong
|
Phân tích bài thơ Lưu biệt khi xuất dương của Phan Bội Châu
Hướng dẫn
Sau khi vận động lập hội Duy Tân (1905) Phan Bội Châu tranh thủ viện trợ của nước ngoài đào tạo cán bộ cốt cán cho phong trào yêu nước. Bài thơ được làm trong buổi chia tay với các đồng chí của mình trước khi tác giả lên đường. Ngay mở đầu của bài thơ nhân vật trữ tình trong bài thơ đã đặt cho mình một lí tưởng cao cả:
"Làm trai phải lạ ở trên đời,
Há để càn khôn tự chuyển dời"
Người thanh niên này đã đặt cho mình một ý chí rất rõ, thể hiện ý thức cá nhân của bản than. "Làm trai" tức là ý thức về trách nhiệm của thân phận "Chí nam nhi nam bắc đông tây". "Làm trai phải lạ trên đời!". "Phải lạ" là sao? "Phải lạ" là phải có điều gì khác hẳn, vượt lên hẳn mọi thứ tầm thường trên đời. Nói như Nguyễn Công Trứ thì đó là "Phải có danh gì với núi sông". Phan Bội Châu đã ghi dấu ấn với sông với núi bằng khát vọng xoay trời chuyển đất: "Há để càn khôn tự chuyển dời". Không để đất trời tự vần xoaym phải chế ngự sự biến đổi ấy bằng những hành động, việc làm xứng đáng với thân nam nhi.
"Trong khoảng trăm năm cần có tớ
Sau này muôn thuở há không ai".Xem thêm: Hãy tưởng tượng mình là Xi - mông, kể lại chuyện Bố của Xi - mông
Đấng nam nhi này có một tấm lòng yêu nước đến phi thường, có thể hi sinh hết cuộc đời mình cho dân tộc. Lời nói hùng khí ấy chỉ có thể thốt lên từ một bậc anh hùng. Trong khoảng trăm năm cuộc đời cần có ta gánh vác. Câu thơ khẳng định vai trò cá nhân đối với vận mệnh đất nước và cũng là thể hiện một cái "tôi" đầy trách nhiệm sẵn sàng gánh vác kế trăm năm nghiệp vuông tròn của cơ đồ xã tắc. Trong thời cuộc rối ren đầu thế kỷ XX, khi bao kẻ chỉ chăm chăm "nằm co" cho khuôn vừa thời thế, sự vùng vẫy của cái tôi kia thật đáng trân trọng. Tác giả đã dùng từ “ tớ” để thể hiện ý chí quyết tâm của mình, đó là một trong những cái ngông của nhà thơ.
Tác giả đặt ra câu hỏi nhưng cũng tự trả lời cho mình"sau này muôn thuở há không ai". Sau này nghìn năm lại không có ai lưu danh muôn thuở vì dân vì nước hay sao? Câu thơ có dáng dấp một câu hỏi nhưng cũng là một câu khẳng định ắt sau này có người làm nên nghiệp lớn, lưu danh muôn thuở cứu dân cứu nước. Đó không là ta thì sẽ là một người hậu thế. Lời thơ bày tỏ niềm tin tưởng vào tương, đó giống như sự trao gửi lịch sử vào tay hậu thế.Xem thêm: Phân tích Truyện An Dương Vương và Mị Châu - Trọng Thủy
Bàn về chí làm trai, bàn về cái "tôi" ở đời, nhà thơ đặt nhân vật trữ tình vào hoàn cảnh cụ thể của đất nước:
"Non sông đã chết sống thêm nhục
Hiền thánh làm chi học cũng hoài".
Tác giả đã đưa ra lời nhắc nhở đối với đấng nam nhi đang sống trong xã hội lúc bấy giờ. Khi đất nước đã rơi vào tay giặc thì còn đáng sống vì lẽ gì. Luận về lẽ sống chết ở đời để khẳng định, để cao tư tưởng mới mẻ của nhân vật trữ tình. "Non sông đã chết sống thêm nhục". Nếu như chí làm trai gắn số phận kẻ làm trai với trách nhiệm xoay trời chuyển đất thì nước nhà có sa cơ "đã chết" cái nhục thuộc về sự sống kẻ làm trai. Nhận trách nhiệm chung về mình, đó là biểu hiện cao độ của lòng tự trọng của con người. Ở đây lòng tự trọng được thể hiện ở nỗi đau mất nước, nỗi nhục quốc thể.
"Muốn vượt bể Đông theo cánh gió
Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi"
Câu thơ đã cho người đọc liên tưởng tới hình ảnh người anh hùng trong buổi lên đường tìm cách cứu nước, hình ảnh đó thật đẹp, thật đáng tự hào. Lòng yêu nước không còn hiện lên trong khuôn khổ những tư tưởng ý chí mà vụt hóa thành con người của hành động. Câu thơ khắc họa một cuộc tiễn đưa hào hùng của lịch sử. Hình ảnh tư thế người ra đi vô cùng lớn lao kỳ vĩ "vượt bể Đông theo cánh gió" để "Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi". Phải là "bể Đông" "cánh gió" mới xứng đáng với sự kì vĩ của ước mơ người anh hùng. "Muôn trùng sóng bạc" của quê hương tiễn đưa người anh hùng ra đi vì chí lớn. Bài thơ khép lại nhưng mở ra hy vọng cho tương lai đất nước dựa vào cuộc ra đi hào hùng của bậc anh hùng hào kiệt.Xem thêm: Anh (chị) hãy nêu suy nghĩ của mình về ý kiến sau: “Một trong những tổn thất không có gì bù đắp được là tổn thất về thời gian”
Hình tượng nhân vật trữ tình trong bài thơ hiện lên ở nhiều phương diện: tư tưởng, khát vọng, hành động. Qua đó bộc lộ những quan điểm mới mẻ, tiến bộ về nhân sinh quan. Bài thơ kết thúc ở hình ảnh người ra đi đẹp hào hùng gieo vào lòng người những đợi chờ hy vọng.
Mượn hình ảnh nhân vật trữ tình trong bài thơ tác giả đã thể hiện được ý chí, khát vọng lên đường cứu nước của tác giả. Bài thơ ra đời đúng vào thời kì đất nước đang chìm trong vòng luẩn quẩn, chưa biết cứu nước bằng con đường nào, nó trở thành nguồn động lực vô cùng vĩ đại cho phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân ta.
Nguồn:
|
Analysis of the poem "Farewell when leaving the world" by Phan Boi Chau
Instruct
After campaigning to establish Duy Tan Association (1905), Phan Boi Chau took advantage of foreign aid to train key cadres for the patriotic movement. The poem was written during a farewell session with his comrades before the author left. Right at the beginning of the poem, the lyrical character in the poem sets himself a lofty ideal:
"Being a man is strange in this world,
Shall we let the universe move on its own?
This young man has set a very clear will for himself, expressing his personal consciousness. "Being a man" means being aware of the responsibility of the identity of "Being a man, south, north, east, and west". "Being a man must be strange in the world!". What does "must be strange"? "Must be strange" means there must be something different, surpassing all ordinary things in the world. As Nguyen Cong Tru puts it, "There must be something to do with mountains and rivers". Phan Boi Chau left his mark on rivers and mountains with his desire to turn heaven and earth: "Let the universe move on its own". Not letting heaven and earth rotate on their own, we must control that change with actions and deeds worthy of a man's body.
"For about a hundred years I will be needed
After all, will there be no one?" See more: Imagine yourself as Xi - Mong, tell the story of Xi - Mong's Dad
This man has an extraordinary patriotic heart and can sacrifice his entire life for the nation. Those heroic words could only be uttered by a hero. For about a hundred years, life needs me to shoulder the burden. The poem affirms the individual's role in the country's destiny and also shows a responsible "I" ready to shoulder the hundred-year karma of the society's fortune. During the turbulent times of the early twentieth century, when many people only focused on "getting by" to fit the times, the struggle of that ego was truly admirable. The author used the word "me" to express his determination, which is one of the poet's prodigies.
The author poses a question but also answers for himself "will there be no one in the future?" Thousands of years from now, will there be no one who will leave a lasting name for the people and the country? The poem has the appearance of a question but is also an affirmation that in the future, there will be someone who will do a great job and leave a lasting name for saving the people and the country. If it's not me, it will be someone from later generations. The poem expresses confidence in the future, which is like handing over history into the hands of posterity. See more: Analysis of the Tale of An Duong Vuong and Mi Chau - Trong Thuy
Discussing the will to be a man, discussing the "I" in life, the poet places the lyrical character in the specific circumstances of the country:
"The river has died and life has become more humiliating
No matter what the sage does, he never learns."
The author gave a reminder to men living in society at that time. When the country has fallen into the hands of the enemy, why is it still worth living? Discussing the meaning of life and death in life to affirm and elevate the new ideas of the lyrical character. "The river has died and life has become more humiliating." If the will to be a man attaches the destiny of being a man to the responsibility of turning heaven and earth, then the country will fall into "death" and the shame that belongs to the life of a man. Accepting general responsibility for oneself is a high expression of human self-esteem. Here self-esteem is expressed in the pain of losing one's country and national humiliation.
"I want to cross the East Sea with the wings of the wind
Thousands of silver waves send off to sea"
The poem reminds readers of the image of the hero on his journey to save the country. That image is so beautiful and worthy of pride. Patriotism no longer appears within the framework of thoughts and will but suddenly transforms into a person of action. The poem depicts a heroic send-off of history. The image of the person leaving is extremely grand and majestic, "crossing the East Sea with the wings of the wind" to "Send silver waves to the sea". It must be the "East Lake" "wind wing" that is worthy of the grandeur of the hero's dream. The "silver waves" of the homeland bid farewell to the hero who left for a great cause. The poem ends but opens up hope for the country's future based on the heroic departure of the heroic hero. See more: Please give your thoughts on the following opinion: "One of the The loss that nothing can compensate for is the loss of time.”
The image of the lyrical character in the poem appears in many aspects: thoughts, aspirations, actions. Thereby revealing new and progressive perspectives on life. The poem ends with the image of a beautiful and heroic person leaving, sowing hopes and expectations in people's hearts.
Borrowing the image of a lyrical character in the poem, the author has expressed the author's will and desire to set out to save the country. The poem was born right at a time when the country was sinking in a vicious circle, not knowing how to save the country. It became an extremely great source of motivation for our people's national liberation movement.
Source:
|
Phân tích bài thơ Lượm của Tố Hữu.
Hướng dẫn
Tố Hữu đã xây dựng hình ảnh nhân vật Lượm thật đẹp. Đó là một chàng thiếu niên, hồn nhiên vô tư, nhưng vô cùng dũng cảm trước bom đạn của kẻ thù. Vì lí tưởng chiến đấu để bảo vệ đất nước, Lượm đã vượt qua hết nhũng làn bom, bão đạn để góp sức của mình cho công cuộc cứu nước của toàn dân.
Hình tượng nhân vật Lượm, xuất hiện khiến người đọc hình dung như một người có thật, từ trang phục đến dáng đi, cử chỉ, lời nói.
"Chú bé loắt choắt
Cái xắc xinh xinh
Cái chân thoăn thoắt
Cái đầu nghênh nghênh"
Qua miêu tả của tác giả, ta nhận thấy nét hồn nhiên vui tươi trong con người của Lượm, đúng với độ tuổi của em. Nhưng điều bất bình thường ở đây là, em còn bé nhưng đã làm công việc phi thường mà những người lớn chưa chắc đã làm được. Lượm đã coi việc đi liên lạc nguy hiểm khó khăn kí như một chuyến đi chơi, thật vui và thích thú.
"- Cháu đi liên lạc
Vui lắm chú à
Ở đồn Mang Cá
Thích hơn ở nhà!"
Có lẽ niềm vui lớn nhất cần được chia sẻ lúc này là niềm vui của con cá tung tăng được từ suối, ra sông, ra biển. Lượm đã là con của đất nước "con của vạn nhà" chứ không chỉ hạn hẹp là con của một nhà. Lời thơ không phân tích lí giải mà đơn giản chỉ là sự giãi bày của Lượm, cách dẫn dắt như vậy cũng chính là một dấu hiệu về sự hồn nhiên, hợp với tuổi nhỏ. Cũng như tâm lí thích làm người lớn, tập làm người lớn mà biểu hiện cái háo hức bên trong không giấu được của mình"
"Cháu cười híp mí
Má đỏ bồ quân
– Thôi chào đồng chí!
Cháu đi xa dần…"
Lượm đã dùng từ đồng chí để nói với người đáng tuổi chú mình, vừa có ý nghĩa chứng tỏ Lượm cũng đang làm nhiệm vụ của một chiến sĩ cách mạng, và người đồng chí kia chỉ là bạn trong chiến đấu của mình, hai từ đồng chí nghe mà náo nức, xôn xao. Đó là ngôn ngữ mà cũng là tiếng reo vang khi người ta có thể giã từ tuổi thơ để bước vào đội ngũ. Một thế giới mới lạ mở ra, cho dù dấu vết của tuổi thơ còn đó (cười híp mí, má đỏ bồ quân). Với nhà thơ, những kỉ niệm ấy làm sao có thể dễ dàng quên, quên đi lớp thiếu niên của nước Việt Nam độc lập, quên đi đứa cháu thật đáng tự hào và cũng rất đáng yêu của mình như thế? Trong hành trang của nhà thơ, hình tượng bé Lượm là một sự cổ vũ lớn, có một vị trí không gì thay thế được.Xem thêm: Kể về một việc em đã làm khiến bố mẹ vui lòng.
Sự hồn nhiên nhí nhảnh, lòng dũng cảm kiên cường của em cũng không tránh khỏi bom đạn của kẻ thù. Thì ra, sự ác liệt của chiến tranh đã không loại trừ một ai kể cả những em nhỏ chưa kịp thành người lớn. Lượm tự nguyện bước vào cuộc đời chiến đấu và chấp nhận hi sinh, dũng cảm hi sinh. Hình ảnh ấy đã trở thành một tượng đài bất tử. Đoạn thơ nói về cái chết anh dũng của em bắt đầu từ câu: "Ra thế – Lượm ơi!". Một câu thơ tưởng như đơn giản vật thôi mà hội tủ đủ ba tính chất: nhất quán, cao trào và đột biến. Nói nhất quán vì đây là một bài thơ kết hợp hai yếu tố trữ tình và tự sự. Tự sự là mạch nổi, còn mạch chìm là cảm xúc của nhà thơ. Nói cao trào vì đây là những nổi niềm của nhà thơ dâng lên cực điểm. Còn nói đột biến vì dòng cảm xúc từ yêu thương, phấn khởi đã thành đột ngột, hụt hẫng, đau đớn, rụng rời. Câu thơ tự nó vỡ ra thành hai nhịp, tự nó cắt rời với những khoảng trống xót xa. "Ra thế" thuộc về câu chuyện chú bé hi sinh, còn "Lượm ơi!" là tiếng khóc thầm thì bật lên thành nức nở?. "Ra thế" thuộc về khách quan, còn "Lượm ơi!" thuộc thuộc về chủ quan, về nỗi đau của trái tim nhà thơ như viên đạn bắn vào. Từ cảm xúc tức thời ấy mà câu chuyện trong cái kênh "tin nhà" kia được kể lại, tất nhiên là trong tưởng tượng mà nhà thơ có thế hình dung:
"Một hôm nào đó
Như bao hôm nào
Chú đồng chí nhỏ
Bỏ thư vào bao…"
Chính với ý thức ấy mà nhà thơ thay đổi đại từ xưng gọi, những đại từ đơn: cháu, chú bé, Lượm… bằng một đại từ ghép: chú đồng chí nhỏ. Cách gọi tên trang trọng này tương ứng với hành động, với sự kiện hi sinh. Vị trí của người kể chuyện khi hòa nhập vào nhân vật được kể, khi thì tách ra với cự li cần có để đảm bảo tính khách quan của việc trần thuật:Xem thêm: Tùy viên thi thoại của Tuyết Mai
"Vụt qua mặt trận
Đạn bay vèo vào
Thư đề "Thượng khẩn"
Sợ chi hiểm nghèo".
Biết trước sự ra đi lúc này là rất nguy hiểm, nhưng Lượm vẫn vô tư, hiên ngang bất khuất trước bom đạn của kẻ thù. Lượm đã đối mặt với cái chết mà Lượm không hề nghĩ đến nó mặc dù nó có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Vì yêu cầu của nhiệm vụ, Lượm đã vượt lên tất cả, đó là trường hợp tác giả đã hóa thân vào nhân vật của mình. Còn khổ thơ sau đó, ông trở lại vị trí của người quan sát:
"Đường quê vắng vẻ
Lúa trổ đòng đòng
Ca lô chú bé
Nhấp nhô trên đồng..
Chính chất biểu cảm trữ tình trong thơ tự sự tỏa ra theo một cách riêng từ phía ấy. Và chính nó làm cho người theo dõi lo lắng đến thắt lòng. Kẻ thù (đồng nghĩa với cái chết) thì tàn bạo, hiểm độc mà chú bé của chúng ta trong trẻo, thơ ngây như một tiên đồng. Cái hồn nhiên thần thánh của nhân vật là ở chỗ: trước họng súng của kẻ thù, em vẫn không biết giấu mình, cứ lồ lộ, không hề quan tâm đến hiểm họa bao vây. Bởi vậy. khi cái chết ập đến. câu thơ như có gì vỡ ra thật đau đớn, nghẹn ngào. Giọng trần thuật không còn ở dạng thông thường. Thay thế cho nó là một tiếng kêu thảng thốt cất lên. Tâm trạng của nhà thơ qua câu: "Thôi rồi! Lượm ơi!" chẳng những như người bước hụt mà còn có gì như bâng khuâng nửa mê, nửa tỉnh. Cảm giác không tin là có thật, vì bé Lượm, vì chú tiên đồng làm sao có thể chết? Nhưng thực sự đau xót "Một dòng máu tươi" lại không thể không tin. Chí có điều kẻ thù cướp đi mạng sống mà không giết được cái thanh thản, hồn nhiên của một tâm hồn thơm mùi đồng quê gặt hái.
Đoạn thơ thứ ba của bài bắt đầu bằng một câu thơ đặt biệt: "Lượm ơi, còn không". Đó là lời gọi, lòng tiếc thương và khâm phục trước sự hi sinh của Lượm, Lượm không bao giờ mất đi trong niềm mến yêu, nhớ tiếc. Lượm vẫn còn sống trong lòng đồng chí, đồng bào. Cấu trúc trùng điệp (hai khổ thơ kết lặp lại hai khổ thơ đầu của bài thơ) như một âm vang bất tử. Nó vừa là câu hỏi, vừa là những hồi âm. Sự hô ứng trong bài thơ này dễ tạo nên ở người đọc sự tri âm, đồng điệu.Xem thêm: Cảm nhận về bài thơ Tây Tiến của nhà thơ Quang Dũng
Về nghệ thuật bài thơ, Tố Hữu đã bắc được một cái cầu nối với bạn đọc nhỉ tuổi bằng thể thơ bốn chứ thật trong trẻo, hồn nhiên như bà kể cho cháu, mẹ kể cho con. Cách kể cũng không một chiều, đơn điệu. Tuy vẫn sử dụng cấu trúc đường thẳng, lấy trục thời gian làm điểm tựa nhưng khi trực tiếp (đoạn một), lúc gián tiếp (đoạn hai), kết hợp giữa miêu tả (đoạn một, đoạn hai ) với độc thoại (đoạn ba). Tính sinh động của bài thơ còn thể hiện ở sự ngắt nhịp như những nốt lặng trên dòng chảy tâm tình. Những khổ thơ đặc biệt như "Ra thế – lượm ơi!" hoặc "Lượm ơi, còn không?" là những cơ hội giao tiếp (giữa nhà thơ với bạn đọc, giữa nhà thơ với nhân vật), cũng là cơ hội mà tác giả bộc lộ tâm tình. Một dụng ý không thể không nói là cơ hội mà tác giả bộc lộ tâm tình. Một dụng ý không thể không nói là nhà thơ đặt nhân vật anh hùng nhỏ tuổi vào bối cảnh thiên nhiên, một thiên nhiên thuần phác, trẻ trung, ngọt ngào rất quen thuộc. Với Lượm, thiên nhiên ấy như một thứ khí trời. Về với nó như cá được về với nước. Sự quấn quýt giữa Lượm với cánh đồng quê phảng phất một tình mẫu tử thân thiết lạ lùng, có một cái gì thật thanh khiết bản năng. Đó là nơi ra đi (đi chiến đấu), cũng là bờ bến trở về (lúc hi sinh):
"Cháu nằm trên lúa
Tay nắm chặt bông
Lúa thơm mùi sữa
Hồn bay giữa đồng…"
Hình ảnh Lượm trong thơ Tố Hữu thật đáng tự hào. Lượm đã cho kẻ thù thấy được trong cuộc kháng chiến ác liệt của dân tộc, toàn thể dân tộc ta đều đứng lên chiến đấu, những người nhỏ tuổi cũng có thể góp phần làm nên chiến thắng của dân tộc. Thật đáng tự hào biết bao với những người con dũng cảm ấy. Thế hệ trẻ chúng ta được sống trong một xã hội hòa bình, xã hội mà cha ông ta đã đánh đổi bằng xương máu để có được chúng ta phải sống sao cho xứng đáng với công lao đó.
Nguồn:
|
Phân tích bài thơ Lượm của Tố Hữu.
Hướng dẫn
Tố Hữu đã xây dựng hình ảnh nhân vật Lượm thật đẹp. Đó là một chàng thiếu niên, hồn nhiên vô tư, nhưng vô cùng dũng cảm trước bom đạn của kẻ thù. Vì lí tưởng chiến đấu để bảo vệ đất nước, Lượm đã vượt qua hết nhũng làn bom, bão đạn để góp sức của mình cho công cuộc cứu nước của toàn dân.
Hình tượng nhân vật Lượm, xuất hiện khiến người đọc hình dung như một người có thật, từ trang phục đến dáng đi, cử chỉ, lời nói.
"Chú bé loắt choắt
Cái xắc xinh xinh
Cái chân thoăn thoắt
Cái đầu nghênh nghênh"
Qua miêu tả của tác giả, ta nhận thấy nét hồn nhiên vui tươi trong con người của Lượm, đúng với độ tuổi của em. Nhưng điều bất bình thường ở đây là, em còn bé nhưng đã làm công việc phi thường mà những người lớn chưa chắc đã làm được. Lượm đã coi việc đi liên lạc nguy hiểm khó khăn kí như một chuyến đi chơi, thật vui và thích thú.
"- Cháu đi liên lạc
Vui lắm chú à
Ở đồn Mang Cá
Thích hơn ở nhà!"
Có lẽ niềm vui lớn nhất cần được chia sẻ lúc này là niềm vui của con cá tung tăng được từ suối, ra sông, ra biển. Lượm đã là con của đất nước "con của vạn nhà" chứ không chỉ hạn hẹp là con của một nhà. Lời thơ không phân tích lí giải mà đơn giản chỉ là sự giãi bày của Lượm, cách dẫn dắt như vậy cũng chính là một dấu hiệu về sự hồn nhiên, hợp với tuổi nhỏ. Cũng như tâm lí thích làm người lớn, tập làm người lớn mà biểu hiện cái háo hức bên trong không giấu được của mình"
"Cháu cười híp mí
Má đỏ bồ quân
– Thôi chào đồng chí!
Cháu đi xa dần…"
Lượm đã dùng từ đồng chí để nói với người đáng tuổi chú mình, vừa có ý nghĩa chứng tỏ Lượm cũng đang làm nhiệm vụ của một chiến sĩ cách mạng, và người đồng chí kia chỉ là bạn trong chiến đấu của mình, hai từ đồng chí nghe mà náo nức, xôn xao. Đó là ngôn ngữ mà cũng là tiếng reo vang khi người ta có thể giã từ tuổi thơ để bước vào đội ngũ. Một thế giới mới lạ mở ra, cho dù dấu vết của tuổi thơ còn đó (cười híp mí, má đỏ bồ quân). Với nhà thơ, những kỉ niệm ấy làm sao có thể dễ dàng quên, quên đi lớp thiếu niên của nước Việt Nam độc lập, quên đi đứa cháu thật đáng tự hào và cũng rất đáng yêu của mình như thế? Trong hành trang của nhà thơ, hình tượng bé Lượm là một sự cổ vũ lớn, có một vị trí không gì thay thế được.Xem thêm: Kể về một việc em đã làm khiến bố mẹ vui lòng.
Sự hồn nhiên nhí nhảnh, lòng dũng cảm kiên cường của em cũng không tránh khỏi bom đạn của kẻ thù. Thì ra, sự ác liệt của chiến tranh đã không loại trừ một ai kể cả những em nhỏ chưa kịp thành người lớn. Lượm tự nguyện bước vào cuộc đời chiến đấu và chấp nhận hi sinh, dũng cảm hi sinh. Hình ảnh ấy đã trở thành một tượng đài bất tử. Đoạn thơ nói về cái chết anh dũng của em bắt đầu từ câu: "Ra thế – Lượm ơi!". Một câu thơ tưởng như đơn giản vật thôi mà hội tủ đủ ba tính chất: nhất quán, cao trào và đột biến. Nói nhất quán vì đây là một bài thơ kết hợp hai yếu tố trữ tình và tự sự. Tự sự là mạch nổi, còn mạch chìm là cảm xúc của nhà thơ. Nói cao trào vì đây là những nổi niềm của nhà thơ dâng lên cực điểm. Còn nói đột biến vì dòng cảm xúc từ yêu thương, phấn khởi đã thành đột ngột, hụt hẫng, đau đớn, rụng rời. Câu thơ tự nó vỡ ra thành hai nhịp, tự nó cắt rời với những khoảng trống xót xa. "Ra thế" thuộc về câu chuyện chú bé hi sinh, còn "Lượm ơi!" là tiếng khóc thầm thì bật lên thành nức nở?. "Ra thế" thuộc về khách quan, còn "Lượm ơi!" thuộc thuộc về chủ quan, về nỗi đau của trái tim nhà thơ như viên đạn bắn vào. Từ cảm xúc tức thời ấy mà câu chuyện trong cái kênh "tin nhà" kia được kể lại, tất nhiên là trong tưởng tượng mà nhà thơ có thế hình dung:
"Một hôm nào đó
Như bao hôm nào
Chú đồng chí nhỏ
Bỏ thư vào bao…"
Chính với ý thức ấy mà nhà thơ thay đổi đại từ xưng gọi, những đại từ đơn: cháu, chú bé, Lượm… bằng một đại từ ghép: chú đồng chí nhỏ. Cách gọi tên trang trọng này tương ứng với hành động, với sự kiện hi sinh. Vị trí của người kể chuyện khi hòa nhập vào nhân vật được kể, khi thì tách ra với cự li cần có để đảm bảo tính khách quan của việc trần thuật:Xem thêm: Tùy viên thi thoại của Tuyết Mai
"Vụt qua mặt trận
Đạn bay vèo vào
Thư đề "Thượng khẩn"
Sợ chi hiểm nghèo".
Biết trước sự ra đi lúc này là rất nguy hiểm, nhưng Lượm vẫn vô tư, hiên ngang bất khuất trước bom đạn của kẻ thù. Lượm đã đối mặt với cái chết mà Lượm không hề nghĩ đến nó mặc dù nó có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Vì yêu cầu của nhiệm vụ, Lượm đã vượt lên tất cả, đó là trường hợp tác giả đã hóa thân vào nhân vật của mình. Còn khổ thơ sau đó, ông trở lại vị trí của người quan sát:
"Đường quê vắng vẻ
Lúa trổ đòng đòng
Ca lô chú bé
Nhấp nhô trên đồng..
Chính chất biểu cảm trữ tình trong thơ tự sự tỏa ra theo một cách riêng từ phía ấy. Và chính nó làm cho người theo dõi lo lắng đến thắt lòng. Kẻ thù (đồng nghĩa với cái chết) thì tàn bạo, hiểm độc mà chú bé của chúng ta trong trẻo, thơ ngây như một tiên đồng. Cái hồn nhiên thần thánh của nhân vật là ở chỗ: trước họng súng của kẻ thù, em vẫn không biết giấu mình, cứ lồ lộ, không hề quan tâm đến hiểm họa bao vây. Bởi vậy. khi cái chết ập đến. câu thơ như có gì vỡ ra thật đau đớn, nghẹn ngào. Giọng trần thuật không còn ở dạng thông thường. Thay thế cho nó là một tiếng kêu thảng thốt cất lên. Tâm trạng của nhà thơ qua câu: "Thôi rồi! Lượm ơi!" chẳng những như người bước hụt mà còn có gì như bâng khuâng nửa mê, nửa tỉnh. Cảm giác không tin là có thật, vì bé Lượm, vì chú tiên đồng làm sao có thể chết? Nhưng thực sự đau xót "Một dòng máu tươi" lại không thể không tin. Chí có điều kẻ thù cướp đi mạng sống mà không giết được cái thanh thản, hồn nhiên của một tâm hồn thơm mùi đồng quê gặt hái.
Đoạn thơ thứ ba của bài bắt đầu bằng một câu thơ đặt biệt: "Lượm ơi, còn không". Đó là lời gọi, lòng tiếc thương và khâm phục trước sự hi sinh của Lượm, Lượm không bao giờ mất đi trong niềm mến yêu, nhớ tiếc. Lượm vẫn còn sống trong lòng đồng chí, đồng bào. Cấu trúc trùng điệp (hai khổ thơ kết lặp lại hai khổ thơ đầu của bài thơ) như một âm vang bất tử. Nó vừa là câu hỏi, vừa là những hồi âm. Sự hô ứng trong bài thơ này dễ tạo nên ở người đọc sự tri âm, đồng điệu.Xem thêm: Cảm nhận về bài thơ Tây Tiến của nhà thơ Quang Dũng
Về nghệ thuật bài thơ, Tố Hữu đã bắc được một cái cầu nối với bạn đọc nhỉ tuổi bằng thể thơ bốn chứ thật trong trẻo, hồn nhiên như bà kể cho cháu, mẹ kể cho con. Cách kể cũng không một chiều, đơn điệu. Tuy vẫn sử dụng cấu trúc đường thẳng, lấy trục thời gian làm điểm tựa nhưng khi trực tiếp (đoạn một), lúc gián tiếp (đoạn hai), kết hợp giữa miêu tả (đoạn một, đoạn hai ) với độc thoại (đoạn ba). Tính sinh động của bài thơ còn thể hiện ở sự ngắt nhịp như những nốt lặng trên dòng chảy tâm tình. Những khổ thơ đặc biệt như "Ra thế – lượm ơi!" hoặc "Lượm ơi, còn không?" là những cơ hội giao tiếp (giữa nhà thơ với bạn đọc, giữa nhà thơ với nhân vật), cũng là cơ hội mà tác giả bộc lộ tâm tình. Một dụng ý không thể không nói là cơ hội mà tác giả bộc lộ tâm tình. Một dụng ý không thể không nói là nhà thơ đặt nhân vật anh hùng nhỏ tuổi vào bối cảnh thiên nhiên, một thiên nhiên thuần phác, trẻ trung, ngọt ngào rất quen thuộc. Với Lượm, thiên nhiên ấy như một thứ khí trời. Về với nó như cá được về với nước. Sự quấn quýt giữa Lượm với cánh đồng quê phảng phất một tình mẫu tử thân thiết lạ lùng, có một cái gì thật thanh khiết bản năng. Đó là nơi ra đi (đi chiến đấu), cũng là bờ bến trở về (lúc hi sinh):
"Cháu nằm trên lúa
Tay nắm chặt bông
Lúa thơm mùi sữa
Hồn bay giữa đồng…"
Hình ảnh Lượm trong thơ Tố Hữu thật đáng tự hào. Lượm đã cho kẻ thù thấy được trong cuộc kháng chiến ác liệt của dân tộc, toàn thể dân tộc ta đều đứng lên chiến đấu, những người nhỏ tuổi cũng có thể góp phần làm nên chiến thắng của dân tộc. Thật đáng tự hào biết bao với những người con dũng cảm ấy. Thế hệ trẻ chúng ta được sống trong một xã hội hòa bình, xã hội mà cha ông ta đã đánh đổi bằng xương máu để có được chúng ta phải sống sao cho xứng đáng với công lao đó.
Nguồn:
|
Phân tích bài thơ Mao ốc vị thu phong sở phá ca của Đổ Phủ
Hướng dẫn
Trong đó, Đỗ Phủ (712 – 770) là một trong những nhà thơ vĩ đại nhất, được tôn vinh là ‘Thi thánh’. Ông là nhà thơ giàu lòng yêu nước, thương dân, lo đời, ghét cường quyền bạo ngược. Tính hiện thực và tinh thần nhân đạo dào dạt trong hơn 1.400 bài thơ ôngđể lại, phản ánh tâm hồn cao đẹp của một ‘nhà thơ dân đen’. Cuộc đời của Đỗ Phủ trải qua nhiều bất hạnh: công danh lận đận, con chết, lưu lạc tha hương, càng cuối đời càng nghèo đói, cơm không đủ ăn, ốm đau không thuốc thang cơm cháo, nằm chết trên một chiếc thuyền rách nát nơi quê người.
‘Bài ca nhà tranh bị gió thu phá’được xếp vào trong số 100 bài thơ hay nhất của Đỗ Phủ. Ông viết bài thơ này vào những năm cuối đời mình. Năm 760 (hay 761?) được bạn bè giúp đỡ, Đỗ Phủ đã dựng được một mái nhà tranh bên cạnh khe Cán Hoá ở phía tây Thành Đô. Nhưng chỉ mấy tháng sau, ngôi nhà bị mưa bão phá nát. Năm đó, loạn An – Sử vẫn đang diễn ra khốc liệt. Bài thơ gồm có 23 câu, phần lớn là câu thất ngôn, có vài câu dài đến trên dưới chục chữ, vừa có vần trắc vừa có vần bằng. Chữ ‘ca’ trong bài thơ ‘Mao ốc vị thu phong sở phá ca’ là một loại thơ cổ (cổ phong) có nguồn gốc sâu xa với một điệu dân ca cổ. Nhiều nhà thơ đời Đường đều có viết thể ‘ca’ này: ‘Thu phô' ca’ (Lí Bạch), ‘Thiên Dục phiêu Đồ ca’ (Đỗ Phủ), ‘Trường hận ca’ (Bạch Cư Dị), v.v…
Muốn cảm nhận ‘Bài ca nhà tranh bị gió thu phá’ này, có lẽ nên đọc lại một trong hai bài thơ sau đây của Đỗ Phủ, bài thơ ‘Nhớ em’. Từ đó, ta mới có thêm căn cứ để phân tích:
‘Chạy loạn sang châu Tế Nghe em đói rét hoài Đường thăm còn vướng giặc Thư gửi biết nhờ ai?
Lủi trốn khi lo vẩn Buồn phiền lúc ốm dai Phó cho dòng nước chảy Nghìn vạn mối sầu dài!’
(Nhượng Tống dịch)
Bài thơ ‘Bài ca nhà tranh bị gió thu phá’ gồm có bốn phần: năm câu đầu nói bão tố phá nát ngôi nhà tranh, năm câu nối tiếp nói bọn trẻ con cướp tranh; tám câu tiếp theo tả cảnh mưa tầm tã nhà bị dột, cha con ngồi trong mưa rét; năm câu cuối thể hiện niềm mơ ước của nhà thơ.
1. Khổ thơ đầu như một ghi chép ngắn về trận thu phong. Đó là một trận bão tố, hoặc là một cơn lốc vào tháng 8 ‘gió thét già’. Ba lớp tranh ngôi nhà của Đỗ Phủ bị ‘cuộn mâ't’ bay tứ tung khắp mọi nơi. Có tấm tranh bay rải khắp bờ sông. Có tấm tranh ‘treo tót ngọn rừng xa’. Có mảnh tranh bị phá nát rơi xuống mương nước. Chữ ‘tranh’ (mao) được nhắc lại 2, 3 lần, lối viết liệt kê đã tái hiện lại trận cuồng phong lần lượt bóc đi từng tấm tranh, nhà thơ ngơ ngác nhìn, bất lực. Cả năm câu thơ đều được gieo vần bằng: ‘hào – mao – giao – sao – ao’, đó là những vần có âm vang diễn tả âm điệu thơ như tiếng khóc, tiếng thở than, về vần thơ, Khương Hữu Dụng thể hiện đúng dụng ýnghệ thuật của Đỗ Phủ trong nguyên tác: ‘già – ta – xa – sa’.
2. Năm câu thơ tiếp theo cho thấy thời loạn, đạo lí suy đồi đến cùng cực! Lũ trẻ con hàng xóm kéo đến cướp tranh mà Đỗ Phủ gọi là ‘dạo tặc’ – đấm kẻ cướp! Chúng khinh nhà thơ ‘già yếu’. Chúng trơ tráo trước tiếng kêu van ‘môi khô miệng 142
Xem thêm: Tục ngữ có câu: Lời nói chằng mất tiền mua, Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau. Em hiểu lời khuyên đó như thế nào?
cháy gào không được’.Lũ trẻ gian tham cướp được chiếc tranh nào thì cứ ngang nhiên ‘cắp tranh đi tuốt vào lũy tre’ chiếc tranh ấy. Như thế là sau thiên tai, gia đình nhà thơ lại gặp ‘đạo tặc’, đó là lũ ‘quần đồng’ hạ lưu, những ‘tiểu tướng…’ sản phẩm của một xã hội đại loạn. Nếu khổ thơ đầu chỉ mới nói đến cái rủithì khổ thơ thứ 2 nói thêm nỗi đau,nỗi buồntrước một xã hội loạn lạc, đảo điên, trong đó lũ ‘quẩn đồng’ trẻ con vừa láo hỗn vừa gian tham.
3. Khổ thơ thứ ba ghi thêm một tai họa mới: trời mưa rét thâu đêm mà mái nhà đã bị gió thu phá nát. Gió lặng thì mây đen che phủ trời đất tối như mực. Mưa tầm tã suốt canh khuya. Nhà dột, giường không có một chỗ nào khô. Chăn rách nay thấm nước lạnh như sắt. Các chi tiết nghệ thuật được miêu tả vừa cụ thể, vừa hiện thực: gió, mưa, nhà dột, giường ướt, chăn rách…
‘Mền vải lâu năm lạnh tựa sắt,
Con nằm xấu nết đạp lót nát Đầu giường nhà dột chẳng chừa đâu Dày hạt mưa, mưa chẳng dứt’
Nhà thơ ngồi trong mưa, ngồi dưới mưa thâu đêm. Tuổi già, sức yếu, bệnh tật… Đỗ Phủ vừa thương vợ con, vừa thương mình. Nỗi đau khổ như dồn lại, trút lên đầu một con người vừa nếm trải nhiều bất hạnh. Đêm như dài thêm ra:
‘Từ trải cơn loạn ít ngủ nghê,
Đêm dài ướt át sao cho trót?’
Khổ thơ thứ 3,về mặt bố cục mang một ý nghĩa lớn, ghi lại cái đại họa trong một đêm thu trời mưa. Nó làm rõ thêm một kinh nghiệm sống: ‘Phúc bất trùng lai, họa vô dơn chí!’. Dân gian có câu: ‘Thứ nhất con đói, thứ nhì nợ đòi, thứ ba nhà dột!’. Đỗ Phủ còn thêm một sự đau khổ nữa, đó là thân già, ốm đau ngồi co ro trong mưa rét, nhìn cảnh vợ con đang nằm dưới mưa lạnh thì nỗi khổ ấy không thể nào tả hết. Cái chăn cũ, mỏng, lâu năm, bình thường đắp đã không đủ ấm, đêm nay lại bị con thơ đạp rách nát trong cảnh mưa rét, nhà thủng mái… là những chi tiết nghệ thuật nói lên cái nghèo khổ, cái cùng cực của một gia đình tàn tạ giữa thời loạn lạc, đúng như trong bài ‘Nhớ em’ ông đã viết: ‘Buồn phiền lúc ốm dai – Phó cho dòng nước chảy – Nghìn vạn mối sầu dài’…
Nếu như ở khổ thơ đầu, ông sử dụng toàn vần bằng thì trong khổ thơ thứ ba nàyông lại sử dụng toàn vần trắc: ‘sắc – hắc – thiết – liệt – tuyệt – triệt’. Đó cũng là một dụng ý nghệ thuật: vần thơ như diễn tả nỗi đau khổ đang thắt lại, dồn nén, uất kết lại trong lòng nhà thơ.
4. Phần thứ tư là phần hay nhất của bài thơ.Năm dòng cuối thể hiện tấm lòng cao cả của một kẻ sĩ chân chính: thương dân và lo đời:
‘Ước được nhà rộng muôn ngàn gian,
Che khắp thiên hạ kẻ sĩ nghèo đều hân hoan,
Gió mưa chẳng núng, vững như thạch bàn!
Than ôi! Bao giờ nhà ấy sừng sững dựng trước mắt Riêng lều ta nát, chịu chết rét cũng được!’
Trong nỗi đau thương phũ phàng của cuộc đời, con người rất dễ rơi vào tình trạng khủng hoảng tinh thần, hoặc gục đầu cam chịu, rồi than thân trách phận. Cũng có thể suốt đêm ngồi trong mưa lạnh rét cóng, Đỗ Phủ có quyền nghĩ đến một mái lều, một tấm chăn, một bát cơm, một ngọn lửa… cho vợ con và bản thân
ông. Nhưng nhà thơ đã làm cho người đọc bất ngờ trước niềm mong ước của ông. Ông mơ ước có một ngôi nhà kì vĩ ‘muôn ngàn gian’ vô cùng vững chắc ‘Gió mưa chẳng núng, vững như thạch bàn’. Ngôi nhà ấy để ‘Che khắp thiên hạ kẻ sĩ nghèo đều hân hoan’. Có thể nói, Đỗ Phủ có tình thương lớn của một nhà nho chân chính sống và ứng xử theo phương châm: ‘Lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ’.
Thực tế xưa nay chưa hề có một ngôi nhà ‘rộng muôn ngàn gian’ như thế trên thế gian. Khổ thơ được sáng tạo nên bằng biện pháp tu từ so sánh và thậm xưng để diễn tả ước mơ to lớn và cảm hứng lãng mạn dào dạt, làm sáng bừng lên tấm lòng nhân ái bao la của một con người trải qua nhiêu bất hạnh giữa thời loạn lạc. Sau loạn An – Sử, nhiều miền rộng lớn bị đốt phá tan hoang, hàng triệu người rơi vào thảm kịch: không cơm ăn, áo mặc, không cửa nhà, khắp mọi nơi người chết đói, chết rét đầy đường. Vì thế nhà thơ mong mỏi ai cũng có một mái ấm nương thân. Lo đời và thương người, khao khát hạnh phúc cho muôn dân là tình cảm tha thiết của nhiều bậc vĩ nhân, nhiều nhà thơ lớn xưa và nay. Nhà thơ Nguyễn Trãi cũng đã từng mơ ước có một cây đàn Ngu Cầm – cây đàn thần của vua Thuấn để mang lại ấm no, hạnh phúc cho nhân dân khắp mọi phương trời:
‘Dễ có Ngu Cầm đàn một tiếng,
Dân giàu đủ khắp đòi phương’
(Quốc âm thi tập)
Trở lại ‘Bài ca nhà tranh bị gió thu phá’, ta vô cùng xúc động trước lời nguyền của nhà ‘hàn sĩ’ Đỗ Phủ. Đây là những lời gan ruột, tâm huyết:
‘Than ôi! Bao giờ nhà ẩy sừng sững dựng trước mắt,
Riêng lều ta nát, chịu chết rét cũng được!’
Thấy được ngôi nhà ấy tức là thấy được cảnh thái bình, no ấm yên vui đến với mọi người, mọi nhà, trong đó có những kẻ sĩ nghèo. Tác giả nêu ra một giả định rất chân thành cảm động. Nếu thấy ngôi nhà ‘muôn ngàn gian’ trong mơ trở thành hiện thực thì riêng Đỗ Phủ ‘lều ta nát, chịu chết rét cũng được!’.
Chân thực là yếu tố hàng đầu của cảm xúc thơ ca. Lời nguyền của Đỗ Phủ rất chân thực. Không chỉ riêng bài thơ này, mà qua nhiều bài thơ khác, như chùm thơ ‘Tam lại’ và ‘Tam biệt’, ông đã nói đến tình thương yêu mãnh liệt và bao la đối với nhân dân lầm than giữa thời loạn lạc.
Có thể nói, năm dòng thơ cuối bài thấm đẫm tình người, chứa chan tinh thần nhàn đạo. Sự kết hợp giữa yếu tố hiện thực và yếu tố lãng mạn đã tạo nên giá trị nhân bản sâu sắc.
Mười ba thế kỷ đã trôi qua, ‘Bài ca nhà tranh bị gió thu phá ‘của Đỗ Phủ vẫn để lại cho chúng ta nhiều rung động và ám ảnh. Ám ảnh về những đau khổ và cay đắng của một nhà thơ vĩ đại lỗi lạc đời Đường phải nếm trải. Rung động về một ước mơ tuyệt đẹp nhưng chẳng bao giờ có được trong một xã hội loạn lạc, bất công và thối nát. Có biết được tình cảnh bi đát của Đỗ Phủ sau khi nhà bị tốc mái, ông phải đưa vợ con xuống ở trên một chiếc thuyền con rách nát lênh đênh giữa dòng sông Tương – mới cảm được phần nào ý vị đậm đà tình nhân áicủa bài thơ, cũng như cái ý vị chua chátcủa một cuộc đời!
Nguồn: thêm: Phân tích bài thơ của chủ Hồ Chí MInh để thấy được vẻ đẹp tâm hồn của người
|
Phân tích bài thơ Mao ốc vị thu phong sở phá ca của Đổ Phủ
Hướng dẫn
Trong đó, Đỗ Phủ (712 – 770) là một trong những nhà thơ vĩ đại nhất, được tôn vinh là ‘Thi thánh’. Ông là nhà thơ giàu lòng yêu nước, thương dân, lo đời, ghét cường quyền bạo ngược. Tính hiện thực và tinh thần nhân đạo dào dạt trong hơn 1.400 bài thơ ôngđể lại, phản ánh tâm hồn cao đẹp của một ‘nhà thơ dân đen’. Cuộc đời của Đỗ Phủ trải qua nhiều bất hạnh: công danh lận đận, con chết, lưu lạc tha hương, càng cuối đời càng nghèo đói, cơm không đủ ăn, ốm đau không thuốc thang cơm cháo, nằm chết trên một chiếc thuyền rách nát nơi quê người.
‘Bài ca nhà tranh bị gió thu phá’được xếp vào trong số 100 bài thơ hay nhất của Đỗ Phủ. Ông viết bài thơ này vào những năm cuối đời mình. Năm 760 (hay 761?) được bạn bè giúp đỡ, Đỗ Phủ đã dựng được một mái nhà tranh bên cạnh khe Cán Hoá ở phía tây Thành Đô. Nhưng chỉ mấy tháng sau, ngôi nhà bị mưa bão phá nát. Năm đó, loạn An – Sử vẫn đang diễn ra khốc liệt. Bài thơ gồm có 23 câu, phần lớn là câu thất ngôn, có vài câu dài đến trên dưới chục chữ, vừa có vần trắc vừa có vần bằng. Chữ ‘ca’ trong bài thơ ‘Mao ốc vị thu phong sở phá ca’ là một loại thơ cổ (cổ phong) có nguồn gốc sâu xa với một điệu dân ca cổ. Nhiều nhà thơ đời Đường đều có viết thể ‘ca’ này: ‘Thu phô' ca’ (Lí Bạch), ‘Thiên Dục phiêu Đồ ca’ (Đỗ Phủ), ‘Trường hận ca’ (Bạch Cư Dị), v.v…
Muốn cảm nhận ‘Bài ca nhà tranh bị gió thu phá’ này, có lẽ nên đọc lại một trong hai bài thơ sau đây của Đỗ Phủ, bài thơ ‘Nhớ em’. Từ đó, ta mới có thêm căn cứ để phân tích:
‘Chạy loạn sang châu Tế Nghe em đói rét hoài Đường thăm còn vướng giặc Thư gửi biết nhờ ai?
Lủi trốn khi lo vẩn Buồn phiền lúc ốm dai Phó cho dòng nước chảy Nghìn vạn mối sầu dài!’
(Nhượng Tống dịch)
Bài thơ ‘Bài ca nhà tranh bị gió thu phá’ gồm có bốn phần: năm câu đầu nói bão tố phá nát ngôi nhà tranh, năm câu nối tiếp nói bọn trẻ con cướp tranh; tám câu tiếp theo tả cảnh mưa tầm tã nhà bị dột, cha con ngồi trong mưa rét; năm câu cuối thể hiện niềm mơ ước của nhà thơ.
1. Khổ thơ đầu như một ghi chép ngắn về trận thu phong. Đó là một trận bão tố, hoặc là một cơn lốc vào tháng 8 ‘gió thét già’. Ba lớp tranh ngôi nhà của Đỗ Phủ bị ‘cuộn mâ't’ bay tứ tung khắp mọi nơi. Có tấm tranh bay rải khắp bờ sông. Có tấm tranh ‘treo tót ngọn rừng xa’. Có mảnh tranh bị phá nát rơi xuống mương nước. Chữ ‘tranh’ (mao) được nhắc lại 2, 3 lần, lối viết liệt kê đã tái hiện lại trận cuồng phong lần lượt bóc đi từng tấm tranh, nhà thơ ngơ ngác nhìn, bất lực. Cả năm câu thơ đều được gieo vần bằng: ‘hào – mao – giao – sao – ao’, đó là những vần có âm vang diễn tả âm điệu thơ như tiếng khóc, tiếng thở than, về vần thơ, Khương Hữu Dụng thể hiện đúng dụng ýnghệ thuật của Đỗ Phủ trong nguyên tác: ‘già – ta – xa – sa’.
2. Năm câu thơ tiếp theo cho thấy thời loạn, đạo lí suy đồi đến cùng cực! Lũ trẻ con hàng xóm kéo đến cướp tranh mà Đỗ Phủ gọi là ‘dạo tặc’ – đấm kẻ cướp! Chúng khinh nhà thơ ‘già yếu’. Chúng trơ tráo trước tiếng kêu van ‘môi khô miệng 142
Xem thêm: Tục ngữ có câu: Lời nói chằng mất tiền mua, Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau. Em hiểu lời khuyên đó như thế nào?
cháy gào không được’.Lũ trẻ gian tham cướp được chiếc tranh nào thì cứ ngang nhiên ‘cắp tranh đi tuốt vào lũy tre’ chiếc tranh ấy. Như thế là sau thiên tai, gia đình nhà thơ lại gặp ‘đạo tặc’, đó là lũ ‘quần đồng’ hạ lưu, những ‘tiểu tướng…’ sản phẩm của một xã hội đại loạn. Nếu khổ thơ đầu chỉ mới nói đến cái rủithì khổ thơ thứ 2 nói thêm nỗi đau,nỗi buồntrước một xã hội loạn lạc, đảo điên, trong đó lũ ‘quẩn đồng’ trẻ con vừa láo hỗn vừa gian tham.
3. Khổ thơ thứ ba ghi thêm một tai họa mới: trời mưa rét thâu đêm mà mái nhà đã bị gió thu phá nát. Gió lặng thì mây đen che phủ trời đất tối như mực. Mưa tầm tã suốt canh khuya. Nhà dột, giường không có một chỗ nào khô. Chăn rách nay thấm nước lạnh như sắt. Các chi tiết nghệ thuật được miêu tả vừa cụ thể, vừa hiện thực: gió, mưa, nhà dột, giường ướt, chăn rách…
‘Mền vải lâu năm lạnh tựa sắt,
Con nằm xấu nết đạp lót nát Đầu giường nhà dột chẳng chừa đâu Dày hạt mưa, mưa chẳng dứt’
Nhà thơ ngồi trong mưa, ngồi dưới mưa thâu đêm. Tuổi già, sức yếu, bệnh tật… Đỗ Phủ vừa thương vợ con, vừa thương mình. Nỗi đau khổ như dồn lại, trút lên đầu một con người vừa nếm trải nhiều bất hạnh. Đêm như dài thêm ra:
‘Từ trải cơn loạn ít ngủ nghê,
Đêm dài ướt át sao cho trót?’
Khổ thơ thứ 3,về mặt bố cục mang một ý nghĩa lớn, ghi lại cái đại họa trong một đêm thu trời mưa. Nó làm rõ thêm một kinh nghiệm sống: ‘Phúc bất trùng lai, họa vô dơn chí!’. Dân gian có câu: ‘Thứ nhất con đói, thứ nhì nợ đòi, thứ ba nhà dột!’. Đỗ Phủ còn thêm một sự đau khổ nữa, đó là thân già, ốm đau ngồi co ro trong mưa rét, nhìn cảnh vợ con đang nằm dưới mưa lạnh thì nỗi khổ ấy không thể nào tả hết. Cái chăn cũ, mỏng, lâu năm, bình thường đắp đã không đủ ấm, đêm nay lại bị con thơ đạp rách nát trong cảnh mưa rét, nhà thủng mái… là những chi tiết nghệ thuật nói lên cái nghèo khổ, cái cùng cực của một gia đình tàn tạ giữa thời loạn lạc, đúng như trong bài ‘Nhớ em’ ông đã viết: ‘Buồn phiền lúc ốm dai – Phó cho dòng nước chảy – Nghìn vạn mối sầu dài’…
Nếu như ở khổ thơ đầu, ông sử dụng toàn vần bằng thì trong khổ thơ thứ ba nàyông lại sử dụng toàn vần trắc: ‘sắc – hắc – thiết – liệt – tuyệt – triệt’. Đó cũng là một dụng ý nghệ thuật: vần thơ như diễn tả nỗi đau khổ đang thắt lại, dồn nén, uất kết lại trong lòng nhà thơ.
4. Phần thứ tư là phần hay nhất của bài thơ.Năm dòng cuối thể hiện tấm lòng cao cả của một kẻ sĩ chân chính: thương dân và lo đời:
‘Ước được nhà rộng muôn ngàn gian,
Che khắp thiên hạ kẻ sĩ nghèo đều hân hoan,
Gió mưa chẳng núng, vững như thạch bàn!
Than ôi! Bao giờ nhà ấy sừng sững dựng trước mắt Riêng lều ta nát, chịu chết rét cũng được!’
Trong nỗi đau thương phũ phàng của cuộc đời, con người rất dễ rơi vào tình trạng khủng hoảng tinh thần, hoặc gục đầu cam chịu, rồi than thân trách phận. Cũng có thể suốt đêm ngồi trong mưa lạnh rét cóng, Đỗ Phủ có quyền nghĩ đến một mái lều, một tấm chăn, một bát cơm, một ngọn lửa… cho vợ con và bản thân
ông. Nhưng nhà thơ đã làm cho người đọc bất ngờ trước niềm mong ước của ông. Ông mơ ước có một ngôi nhà kì vĩ ‘muôn ngàn gian’ vô cùng vững chắc ‘Gió mưa chẳng núng, vững như thạch bàn’. Ngôi nhà ấy để ‘Che khắp thiên hạ kẻ sĩ nghèo đều hân hoan’. Có thể nói, Đỗ Phủ có tình thương lớn của một nhà nho chân chính sống và ứng xử theo phương châm: ‘Lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ’.
Thực tế xưa nay chưa hề có một ngôi nhà ‘rộng muôn ngàn gian’ như thế trên thế gian. Khổ thơ được sáng tạo nên bằng biện pháp tu từ so sánh và thậm xưng để diễn tả ước mơ to lớn và cảm hứng lãng mạn dào dạt, làm sáng bừng lên tấm lòng nhân ái bao la của một con người trải qua nhiêu bất hạnh giữa thời loạn lạc. Sau loạn An – Sử, nhiều miền rộng lớn bị đốt phá tan hoang, hàng triệu người rơi vào thảm kịch: không cơm ăn, áo mặc, không cửa nhà, khắp mọi nơi người chết đói, chết rét đầy đường. Vì thế nhà thơ mong mỏi ai cũng có một mái ấm nương thân. Lo đời và thương người, khao khát hạnh phúc cho muôn dân là tình cảm tha thiết của nhiều bậc vĩ nhân, nhiều nhà thơ lớn xưa và nay. Nhà thơ Nguyễn Trãi cũng đã từng mơ ước có một cây đàn Ngu Cầm – cây đàn thần của vua Thuấn để mang lại ấm no, hạnh phúc cho nhân dân khắp mọi phương trời:
‘Dễ có Ngu Cầm đàn một tiếng,
Dân giàu đủ khắp đòi phương’
(Quốc âm thi tập)
Trở lại ‘Bài ca nhà tranh bị gió thu phá’, ta vô cùng xúc động trước lời nguyền của nhà ‘hàn sĩ’ Đỗ Phủ. Đây là những lời gan ruột, tâm huyết:
‘Than ôi! Bao giờ nhà ẩy sừng sững dựng trước mắt,
Riêng lều ta nát, chịu chết rét cũng được!’
Thấy được ngôi nhà ấy tức là thấy được cảnh thái bình, no ấm yên vui đến với mọi người, mọi nhà, trong đó có những kẻ sĩ nghèo. Tác giả nêu ra một giả định rất chân thành cảm động. Nếu thấy ngôi nhà ‘muôn ngàn gian’ trong mơ trở thành hiện thực thì riêng Đỗ Phủ ‘lều ta nát, chịu chết rét cũng được!’.
Chân thực là yếu tố hàng đầu của cảm xúc thơ ca. Lời nguyền của Đỗ Phủ rất chân thực. Không chỉ riêng bài thơ này, mà qua nhiều bài thơ khác, như chùm thơ ‘Tam lại’ và ‘Tam biệt’, ông đã nói đến tình thương yêu mãnh liệt và bao la đối với nhân dân lầm than giữa thời loạn lạc.
Có thể nói, năm dòng thơ cuối bài thấm đẫm tình người, chứa chan tinh thần nhàn đạo. Sự kết hợp giữa yếu tố hiện thực và yếu tố lãng mạn đã tạo nên giá trị nhân bản sâu sắc.
Mười ba thế kỷ đã trôi qua, ‘Bài ca nhà tranh bị gió thu phá ‘của Đỗ Phủ vẫn để lại cho chúng ta nhiều rung động và ám ảnh. Ám ảnh về những đau khổ và cay đắng của một nhà thơ vĩ đại lỗi lạc đời Đường phải nếm trải. Rung động về một ước mơ tuyệt đẹp nhưng chẳng bao giờ có được trong một xã hội loạn lạc, bất công và thối nát. Có biết được tình cảnh bi đát của Đỗ Phủ sau khi nhà bị tốc mái, ông phải đưa vợ con xuống ở trên một chiếc thuyền con rách nát lênh đênh giữa dòng sông Tương – mới cảm được phần nào ý vị đậm đà tình nhân áicủa bài thơ, cũng như cái ý vị chua chátcủa một cuộc đời!
Nguồn: thêm: Phân tích bài thơ của chủ Hồ Chí MInh để thấy được vẻ đẹp tâm hồn của người
|
Phân tích bài thơ Muốn làm thằng Cuội của Tản Đà
Gợi ý
Tản Đà – Nguyễn Khắc Hiếu xuất hiện trên văn đàn Việt Nam những năm đầu thế kỷ với một cá tính độc đáo: một nhà thơ của sầu và mộng, ngông và đa tình. Bài thơ Muốn, làm thằng Cuội đã thể hiện rất rõ cá tính ấy của ông.
Bài thơ Muốn làm thằng Cuội in trong tập Khối tình con (1916). Mặc dù tác phẩm được làm theo thể thất ngôn bát cú Đường luật song người đọc sẽ thấy ở đây, dưới cái hình thức còn là của thơ cổ ấy những dấu hiệu mới mẻ của cảm xúc. Tâm sự của nhà thơ ở một thời đại mới đã khiến cho cái hình thức thơ cũ có chiều hướng giảm nhẹ đi tính trang trọng, mực thước. Sự giản dị, trong sáng gần với khẩu ngữ tự nhiên làm nên nét duyên của bài thơ này.
Ngay từ nhan đề của bài thơ đã cho thấy một giọng điệu suồng sã, như là đã giải tỏa được một nhu cầu nói thật, thẳng thắn của nhà thơ và cũng lại cho thấy cái ngông nghênh, bất đắc chí: muốn ở đây như một nhu cầu bức xúc, chẳng cấn giấu giếm, vòng vo. Nhưng muốn cái gì? Muốn làm cuội thì đích thực là muốn thoát lên trên rồi. Ứớc vọng lên trên thơ mộng thế mà nói tựa như là muốn ăn, muốn uống, muốn ngủ… thật là thành thực!
Và, nếu muốn thoát tục, lên trên thì thiếu gì những hình mẫu tiên để ước sao cứ phải là thằng Cuội? Thằng chứ không phải chú – cũng là một kiểu nói ngông.
Thế thì chính là thi sĩ đa tình này muốn lên cung trăng rồi!
Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi,
Trần thế em nay chán nửa rồi!
Chị Hằng thì phải ở cung trăng chứ còn gì nữa! Thì ra thi sĩ của chúng ta muốn làm thằng Cuội để tâm sự cùng chị Hằng Nga xinh đẹp. Hai câu mở đầu bài thơ như một tiếng kêu than. Chẳng cần phải mượn cái khác để diễn tả nỗi buồn trong lòng mình, thi sĩ bộc bạch ngay nỗi lòng mình. Hai chữ buồn lắm thật chân thành. Thi sĩ chỉ lòng mình ra trong tiếng gọi tha thiết. Ta thường gặp trong thơ Tản Đà một vẻ buồn chán, cái buồn lan trùm tất cả. Vì buồn lắm như thế nên thi sĩ mới "muốn làm thằng Cuội". Nhưng không phải là cái buồn vô cớ, càng không phải kiếm cớ buồn để được lên tiên. Cái buồn ở đây là cái buồn đời buồn chán cuộc đời tối tăm, đen bạc, đảo điên. Không ít lần Tản Đà kêu chán đời: "Đời đáng trách biết thôi là đủ – Sự chán đời xin nhủ lại tri âm", "Gió gió mưa mưa đã chán phèo – Sự đời nghĩ đến lại buồn teo"… Sống trong bối cảnh xã hội thực dân nửa phong kiến những năm đầu thế kỉ XX, chẳng phải chỉ riêng Tản Đà buồn chán. Không khí tù hãm, u uất của một dân tộc bị mất nước bao trùm hết thảy, đè nặng tâm trí con người, nhất lại là những con người nhạy cảm như thi nhân. Tâm trạng buồn chán là tâm trạng của thời đại. Có trăm ngàn vẻ buồn khác nhau song đều thấy điểm chung là sự bế tắc trước thực tại cuộc đời, từ đó mà sinh ra chán nản, bất mãn đối với thời cuộc.Xem thêm: Anh (chị) hãy viết đoạn văn phân tích nhan đề bài thơ "Tôi yêu em" của Pus-kin Cái buồn của Tản Đà cũng bắt nguồn từ đấy. Và thế là thi sĩ tìm lối thoát bằng cách thoát li khỏi cuộc đời, sống trong một thế giới khác, thế giới mộng mơ, thần tiên. Thi nhân gọi trăng là chị xứng với trăng là em thì vừa là muốn thân tình, gần gũi để giãi bày, vừa là chơi ngông. Bốn câu thơ tiếp càng thể hiện cái ngông của Tản Đà:
Cung quế đã ai ngồi đó chửa?
Cành đa xin chị nhắc lên chơi
Ngông thực chất là một thái độ ứng xử đối với cuộc đời, một biểu hiện khác của sự chán ngán, bất mãn với thời cuộc. Phải là người yêu đời lắm, tha thiết với cuộc sống lắm thì mới tỏ ra buồn chán đến bất hòa trước cuộc đời đang rối ren, đen tối như thế. Câu 3 của bài thơ là lời ướm hỏi, rồi đến câu 4 là lời đề nghị. Nếu Cung quế chưa có ai thì chị cũng buồn, cũng cô đơn lắm nên hãy để em lên chơi cùng, em đỡ buồn mà chị cũng bớt cô đơn. Tính từ đấy mà cũng ngang tàng đấy! Xin chị đừng từ chối nhé, bởi vì em có lí lẽ đây này:
Có bầu có bạn, cùng tri kỷ
Cùng gió cùng mây, thế mới vui.
Cái lí của thi nhân thật là thuyết phục. Song trong sự thuyết phục để thoát li, xa lánh trần thế ấy chúng ta thấy một thực trạng buồn vắng, cô đơn của tâm hồn thi sĩ. Vốn đa tình đa cảm nễn thi nhân luôn luôn có khát vọng được người tri kỉ, mà cõi trần thì "Chung quanh những đá cùng cây; Biết người tri kỉ nơi đâu mà tìm". Cái vui của thi nhân là cái vui được tâm giao, tâm đồng. Gió, mây thơ mộng được không nếu chẳng "có bầu có bạn". Khát vọng lên trên, lánh đời ở đây thực ra là một cách bộc lộ khao khát đồng cảm, tri âm trong cuộc đời của Tản Đà. Và cái cách ở đây là ngông. Chưa hết, thi nhân còn vẽ ra viễn cảnh:Xem thêm: Phát biểu cảm nghĩ về nhân vật Dế Mèn trong đoạn trích mà em đã đọc ở tác phẩm “Dế Mèn phiêu lưu ký” của Tô HoàiRồi cứ mỗi năm rằm tháng tám
Tựa nhau trông xuống thế gian cười
Lãng mạn hết mức, tưởng tượng ra cảnh "tựa nhau" cùng chị Hằng thì quả là cái ngông đã đến đỉnh điểm. Tác giả hạ chữ cười ở cuối bài thật đắt. Cười ở đây chứng tỏ cái hả hê thỏa mãn khi trong ước vọng được thoát tục, rồi bỏ được trần ai mà lên tiên. Cười còn là thái độ mỉa mai, khinh khi cái cuộc đời đang đầy những sầu khổ, cô đơn dưới kia. Cười thách thức. Cười ngông.
Bài thơ tuân thủ khuôn mẫu của một bài thất ngôn bát cú Đường luật cổ điển. Nhưng nguồn cảm xúc tự nhiên, không chừng bay bổng đã tự tìm đến những lời thơ tựa như lời nói hàng ngày: "buồn lắm chị Hằng ơi", "em nay chán nửa rồi", "đã ai ngồi đấy chưa", "xin chị nhắc lên chơi"’, "thế mới vui", "tựa nhau trông xuống thế gian cười"; xưng hô khẩu ngữ (chị – em) tự nhiên, không đẽo gọt cầu kì và ngữ điệu biểu hiện đa dạng (ơi, rồi, đó chửa, xin, thế mới). Lên tiên, thoát tục là thì đề quen thuộc trong thơ cổ, ở đây cái không mới ấy đã được làm mới bằng giọng điệu, bằng lời thơ.
Cái ngông của Tản Đà trong bài thơ này là một hình thức ứng xử vốn nằm trong cốt cách của nhà nho tài từ trong thơ truyền thống. Song, như chúng ta đã thấy, cái ngông ấy lại là thái độ của Tản Đà đối với xã hội ta những năm đầu thế kỉ XX, bộc lộ một nguồn xúc cảm mới, đầy cá tính đa tình, phóng túng. Cái mơ mộng thành ra cái ngông thì quả là đậm chất riêng của Tản Đà.Xem thêm: Nét độc đáo trong bài thơ “Hầu Trời”Vanmau.edu.vn
|
Analysis of the poem Want to be a Cuoi by Tan Da
Suggest
Tan Da - Nguyen Khac Hieu appeared in Vietnamese literature in the early years of the century with a unique personality: a poet of melancholy and dreams, wild and amorous. The poem Wanting, Being Cuoi clearly shows that personality of his.
The poem Wanting to be Cuoi was published in the collection Block of Love (1916). Although the work is made in the seven-word, eight-syllable Tang Luat style, readers will see here, in this still ancient poetic form, new signs of emotion. The poet's confession in a new era has caused the old poetic form to tend to reduce its solemnity and scale. The simplicity and clarity, close to natural speech, create the charm of this poem.
Right from the title of the poem, it shows a casual tone, as if it has relieved the poet's need to speak honestly and frankly, and also shows his arrogance and unwillingness: wanting to be here like this. an urgent need, no need to hide or beat around the bush. But what do you want? If you want to be a pebble, you really want to escape to the top. Dreaming of going up is so poetic that it sounds like wanting to eat, want to drink, want to sleep... it's so sincere!
And, if you want to escape the world and go to the top, there is no shortage of fairy models to wish for, so why do you have to be Cuoi? Boy, not uncle – is also a type of nonsense.
So this passionate poet wants to go to the moon!
The autumn night is so sad, Ms. Hang,
I'm half bored with this world!
Ms. Hang should be in the moon palace, nothing else! It turns out that our poet wants to be Cuoi to confide in the beautiful Hang Nga. The opening two lines of the poem sound like a cry. There is no need to borrow anything else to express the sadness in his heart, the poet immediately confides his feelings. These two words are so sad and sincere. The poet points out his heart in an earnest call. We often encounter in Tan Da poetry a sense of boredom, a sadness that covers everything. Because he was so sad, the poet "wanted to be Cuoi". But it's not sadness for no reason, and it's not just looking for an excuse to be sad to get to heaven. The sadness here is the sadness of life, the sadness of a dark, dark, and crazy life. Many times Tan Da complained of being bored with life: "Life is to blame, knowing that is enough - If I am bored with life, please remind me of my condolences", "The wind, wind, rain, and rain are boring - Life makes me sad when I think about it"... Living in context In the semi-feudal colonial society of the early twentieth century, Tan Da was not alone in being bored. The stagnant and melancholy atmosphere of a nation losing its country covers everything, weighing heavily on people's minds, especially sensitive people like poets. Boredom is the mood of the times. There are hundreds of thousands of different looks of sadness, but they all have in common a deadlock before the reality of life, from which arises boredom and dissatisfaction with the times. See more: Please write an analytical paragraph. The title of the poem "I love you" by Pus-kin. Tan Da's sadness also originates from there. And so the poet finds a way out by escaping from life, living in another world, a dream world, a fairyland. The poet calls the moon a sister worthy of the moon a younger brother, both because he wants to be intimate and close to confide, and at the same time, to play foolishly. The next four verses further demonstrate Tan Da's arrogance:
Who is sitting there in Cung Cinnamon?
Her most exalted spike please play
Gossip is essentially an attitude towards life, another expression of boredom and dissatisfaction with the times. It must be someone who loves life very much and is very passionate about life to act so bored and disharmonious in the face of such a chaotic and dark life. Sentence 3 of the poem is a question, then verse 4 is a proposal. If Cung Que didn't have anyone, I'd be sad and lonely, so let me come play with you. I'll be less sad and you'll be less lonely. That adjective is also arrogant! Please don't refuse, because I have an argument:
Being pregnant has friends and confidantes
With the wind and the clouds, that's fun.
The poet's reason is truly convincing. But in that persuasion to escape and stay away from the world, we see the sad, lonely reality of the poet's soul. Being sentimental and sentimental, the poet always has a desire to find a soulmate, but in the mortal world, "Around the rocks and trees; Knowing where to find a soulmate." The joy of a poet is the joy of being in communion with one another. Can the wind and clouds be poetic if you don't "have friends?" The desire to go up and escape life here is actually a way to express Tan Da's desire for sympathy and friendship in life. And the way here is absurd. And yet, the poet also paints a scenario: See more: Expressing feelings about the character Cricket in the excerpt I read in To Hoai's "The Adventures of Cricket" Then every year, the full moon day of August
Leaning against each other, looking down at the smiling world
Extremely romantic, imagining the scene of "being together" with Ms. Hang is truly foolish at its peak. The author dropped the word laugh at the end of the article, which is really expensive. Laughing here shows the joy and satisfaction when wishing to escape the world, then leave this world and go to heaven. Laughing is also an ironic attitude, disdain for the life below that is full of sadness and loneliness. Laugh in challenge. Laugh foolishly.
The poem follows the pattern of a classic Tang Luat seven-word eight-syllable poem. But the source of natural, perhaps uplifting emotions has found itself in poetic words that are similar to everyday words: "I'm so sad, Hang", "I'm half bored now", "has anyone sat there yet", " Please remind me"', "that's fun", "look down at the world and laugh together"; Oral address (sister - younger) is natural, not elaborate, and the intonation is diverse (oh, yes, that's it, please, that's it). Ascending to immortality and escaping from the world is a familiar theme in ancient poetry. Here, that new nothingness has been renewed through the tone and words of the poem.
Tan Da's arrogance in this poem is a form of behavior that is part of the personality of talented Confucian scholars in traditional poetry. However, as we have seen, that arrogance was Tan Da's attitude towards our society in the early years of the twentieth century, revealing a new source of emotions, full of amorous and liberal personality. The dream that turns into foolishness is indeed Tan Da's own characteristic. See more: Unique features in the poem "Almost Heaven"Vanmau.edu.vn
|
Bài thơ Mùa xuân nho nhỏ của nhà thơ Thanh Hải là một khúc ca mùa xuân tràn ngập sự tươi vui, yêu đời. Bài thơ được viết theo thể thơ 5 chữ nên cảm xúc được cô đọng. Mặc dù thời điểm này nhà thơ đang nằm trên giường bệnh nhưng tâm trạng của nhà thơ vẫn giữ được sự tươi vui.
Nhằm giúp các em có thêm tài liệu để tham khảo cho đề văn phân tích bài thơ Mùa xuân nho nhỏ, Kho tàng văn mẫu hôm nay sẽ hướng dẫn các em lập dàn ý cho đề văn này đồng thời cung cấp bài văn mẫu phân tích bài thơ này.
I. Lập dàn ý phân tích bài thơ Mùa xuân nho nhỏ
1. Mở bài
– Giới thiệu về nhà thơ Thanh Hải và bài thơ mùa xuân nho nhỏ.
– Bài thơ miêu tả về mùa xuân. Đó là mùa xuân trong cảm nhận, mùa xuân trong kí ức của tác giả bởi thực tế lúc này nhà thơ đang nằm trên giường bệnh.
2. Thân bài phân tích bài thơ Mùa xuân nho nhỏ
Khổ 1: Bức tranh mùa xuân với những hình ảnh quen thuộc
– Bức tranh có sự sinh động, rực rỡ của màu sắc, của tiếng chim. Nó khiến cho tâm trạng của nhà thơ trở nên rộn rã.
– Giọt long lanh là hình ảnh tu từ chứa đựng nhiều ý nghĩa, mỗi người có thể hiểu theo một hướng khác nhau.
Khổ 2: Hình ảnh mùa xuân của đất nước
– Hai hình ảnh đối xứng: người cầm súng – người ra đồng, đó chính là những con người đã làm nên mùa xuân của đất nước.
– Điệp ngữ tất cả như tạo nên nhịp điệu sôi nổi, khẩn trương.
Khổ 3: Niềm tự hào dân tộc
– Giọng thơ có sự trầm lắng, suy tư.
– Chặng đường 4000 năm lịch sử của dân tộc được tác giả nhìn lại, điểm lại những vất vả và gian lao.
– So sánh đất nước với vì sao lúc nào cũng tỏa sáng và tiến về phía trước.
Khổ 4: Ước mong giản dị của nhà thơ
– Điệp ngữ ta làm thể hiện ước mong giản dị của nhà thơ, thể hiện niềm khát khao được hòa mình vào trở thành một phần của đất trời.
Khổ 5: Mong muốn được cống hiến cho đất nước
– Hai chữ lặng lẽ cho thấy mong ước giản dị của nhà nhớ. Không cần phải lớn tiếng, không cần ai công nhận. Nhà thơ khao khát được cống hiến sức mình dù là khi còn trẻ hay khi tóc đã bạc.Xem thêm: Nghị luận xã hội Phải sống sao cho khỏi xót xa ân hận
Khổ 6: Khúc nhạc dân ca xứ Huế
– Câu dân ta khiến cho cảm xúc lắng lại. Nhà thơ hẳn rất yêu quê hương của mình.
3. Kết bài
Bài thơ mang một âm hưởng nhẹ nhàng, sâu lắng cùng những hình ảnh thơ vô cùng bình dị. Thông qua những vần thơ của Thanh Hải, chúng ta càng thêm yêu mùa xuân, yêu con người và đất nước Việt Nam.
Bài viết liên quan
>> Phân tích bài thơ Viếng lăng Bác của Viễn Phương (Có dàn ý chi tiết)
>> Phân tích bài thơ Sang thu của Hữu Thỉnh (Có dàn ý chi tiết)
II. Bài làm phân tích bài thơ Mùa xuân nho nhỏ
Có thể nói, mùa xuân luôn mang đến cho con người những cảm xúc tươi mới, nhẹ nhàng. Nó khiến cho con người cảm thấy yêu đời hơn và muốn hòa mình vào với thế giới ngoài kia. Với nhà thơ Thanh Hải, ông cũng viết về mùa xuân với những câu thơ đầy tươi đẹp. Bài thơ Mùa xuân nho nhỏ là bài thơ cuối cùng của ông và được sáng tác khi ông đang nằm trên giường bệnh nhưng thông qua nội dung bài thơ người đọc không hề cảm thấy có chút gì buồn bã. Ngược lại, bài thơ chứa đựng hình ảnh thơ đẹp, ca từ tươi vui và thể hiện được khát vọng hòa mình vào với cuộc sống của nhà thơ.
Bức tranh mùa xuân trước hết được thể hiện qua hình ảnh của dòng sông và hình ảnh của bầu trời. Trong bức tranh ấy có màu xanh của nước, có màu tím biếc của hoa và có cả thanh âm trong trẻo của tiếng chim:
Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
Ôi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời.
Phân tích bài thơ Mùa xuân nho nhỏ
Sắc tím của hoa ở đây có thể là hoa bèo trôi nổi trên mặt sông. Tuy bức tranh đẹp nhưng số từ “một” gợi lên một cảm giác gì đó cô đơn. Dòng sông hơi bình lặng một chút nhưng trên bầu trời lại vô cùng rộn ràng bởi tiếng chim. Chim hót vang trời cho thấy một sự tươi vui. Và chính sự tươi vui ấy khiến cho tác giả muốn ôm trọn mùa xuân vào trong lòng mình:
Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng
Giọt long lanh ở đây là một hình ảnh tu từ mà mỗi người có thể hiểu theo một hướng khác nhau. Đó có thể là giọt sương ban mai đọng lại trên những chiếc lá non xanh. Đó cũng có thể là cả một mùa xuân, là tất cả nhưng gì tinh túy nhất của mùa xuân được tác giả thu nhỏ lại thành giọt long lanh. Hiểu thế nào cũng được bởi vì điều quan trọng là nhà thơ muốn hứng lấy giọt long lanh ấy. Đó là cách mà nhà thơ muốn thể hiện rằng, ông muốn được tận hưởng cuộc sống này.Xem thêm: Ngày nay, rất nhiều bạn trẻ thích sống "sành điệu". Em hiểu thế nào là "sành điệu"? "Sành điệu" có phải là hư hỏng? Hãy viết bài văn ngắn bày tỏ suy nghĩ của bản thân
Sang khổ thơ tiếp theo, nhà thơ miêu tả mùa xuân của đất nước từ những ngày đất nước còn chiến tranh. Đó là mùa xuân của những người cầm súng, mùa xuân của những người ra đồng. Họ tuy mỗi người một công việc nhưng ai cũng tràn đầy hứng khởi. Mùa xuân ấy có những nhánh lộc xanh non và chính họ là những người đã làm nên mùa xuân của đất nước:
Mùa xuân người cầm súng
Lộc giắt đầy quanh lưng
Mùa xuân người ra đồng
Lộc trải dài nương lúa
Tất cả như hối hả
Tất cả như xôn xao
Hai câu thơ cuối của khô thơ sử dụng phép điệp từ, điệp ngữ cùng với việc lựa chọn từ ngữ hối hả và xôn xao của tác giả khiến cho chúng ta cảm nhận được nhịp độ khẩn trương của con người thời bấy giờ. Họ mang trong lòng mình sự hăng hái. Kể cả những người đi lính, vào sinh ra tử, có khi cần kề với cái chết thì họ cũng vẫn hừng hực lửa khí thế với quyết tâm chống lại kẻ thù. Đó cũng là lý do vì sao chúng ta có được nền độc lập, có được mùa xuân như ngày hôm nay. Đất nước ta đã trải qua chiều dài hơn 4000 năm lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước. Chúng ta đã đổ biết bao nhiêu mồ hôi, xương máu, vững vàng qua bao nhiêu cuộc kháng chiến để rồi vững bước đi lên và tỏa sáng như những vì sao:
Đất nước bốn nghìn năm
Vất vả và gian lao
Đất nước như vì sao
Cứ đi lên phía trước
Khổ thơ thứ 3 giống như một tiếng nói của sự tự hào, của lòng tự tôn dân tộc. Phải cảm ơn những thế hệ cha anh đi trước đã không tiếc máu xương để bảo vệ Tổ quốc. Chúng ta, những con người được sinh ra trong thời bình, được tận hưởng hết những vẻ đẹp của mùa xuân chính là nhờ thế hệ cha anh của mình. Như một sự biết ơn với thế hệ trước, cũng là để bày tỏ tình yêu với quê hương, nhà thơ Thanh Hải đã có những ước mong vô cùng giản dị. Ông ước mình được làm chim, làm cành hoa, làm nốt trầm để hòa nhập vào cùng với mùa xuân của cuộc đời. Có lẽ, đây chính là di nguyện cuối đời của nhà thơ:Xem thêm: Nghị luận xã hội về tình bạn
Ta làm con chim hót
Ta làm một cành hoa
Ta nhập vào hòa ca
Một nốt trầm xao xuyến
Nhà thơ muốn trở thành những điều giản dị ấy là bởi vì ông muốn được hiến dâng cuộc đời mình cho một cuộc đời chung. Nếu mỗi con người là một mùa xuân thì nhà thơ muốn dâng mùa xuân của mình cho mùa xuân của đất trời. Không quan trọng tuổi tác, chỉ cần còn hơi sức, thì còn dâng hiến:
Một mùa xuân nho nhỏ
Lặng lẽ dâng cho đời
Dù là tuổi hai mươi
Dù là khi tóc bạc
Mong ước của nhà thơ thật giản dị. Ông chỉ muốn âm thầm, lặng lẽ hiến dâng chứ không cần ai phải biết tới, chẳng cần ai phải ngợi ca. Đến khổ thơ cuối bài, nhà thơ nhắc tới khúc hát dân ca của quê hương xứ Huế. Nó như một sự dự báo rằng thời gian của ông không còn nhiều nữa. Khúc hát tâm tình đủ để cho thấy nhà thơ yêu quê hương mình đến nhường nào. Cũng giống như Bác Hồ trước lúc ra đi, người đã muốn nghe một câu hát dân ta. Tìm về với cội nguồn quê hương, đó là bản chất quý báu của con người Việt Nam:
Mùa xuân ta xin hát
Câu Nam ai, Nam bình
Nước non ngàn dặm mình
Nước non ngàn dặm tình
Nhịp phách tiền đất Huế.
Bài thơ Mùa xuân nho nhỏ đã khép lại với những vần thơ như vậy. Sau khi làm bài thơ này 1 năm thì nhà thơ Thanh Hải cũng qua đời. Số lượng thơ của ông không nhiều nhưng chỉ với riêng bài thơ Mùa xuân nho nhỏ này cũng đủ để tên tuổi của ông sống mãi trong lòng chúng ta.
Trên đây là dàn ý chi tiết và bài mẫu phân tích bài thơ Mùa xuân nho nhỏ. Toàn bộ nội dung trong bài viết này do Kho tàng văn mẫu biên soạn và giữ bản quyền. Hy vọng tài liệu tham khảo này sẽ giúp ích nhiều cho các em trong việc học tập.
Thu Thủy
|
Bài thơ Mùa xuân nho nhỏ của nhà thơ Thanh Hải là một khúc ca mùa xuân tràn ngập sự tươi vui, yêu đời. Bài thơ được viết theo thể thơ 5 chữ nên cảm xúc được cô đọng. Mặc dù thời điểm này nhà thơ đang nằm trên giường bệnh nhưng tâm trạng của nhà thơ vẫn giữ được sự tươi vui.
Nhằm giúp các em có thêm tài liệu để tham khảo cho đề văn phân tích bài thơ Mùa xuân nho nhỏ, Kho tàng văn mẫu hôm nay sẽ hướng dẫn các em lập dàn ý cho đề văn này đồng thời cung cấp bài văn mẫu phân tích bài thơ này.
I. Lập dàn ý phân tích bài thơ Mùa xuân nho nhỏ
1. Mở bài
– Giới thiệu về nhà thơ Thanh Hải và bài thơ mùa xuân nho nhỏ.
– Bài thơ miêu tả về mùa xuân. Đó là mùa xuân trong cảm nhận, mùa xuân trong kí ức của tác giả bởi thực tế lúc này nhà thơ đang nằm trên giường bệnh.
2. Thân bài phân tích bài thơ Mùa xuân nho nhỏ
Khổ 1: Bức tranh mùa xuân với những hình ảnh quen thuộc
– Bức tranh có sự sinh động, rực rỡ của màu sắc, của tiếng chim. Nó khiến cho tâm trạng của nhà thơ trở nên rộn rã.
– Giọt long lanh là hình ảnh tu từ chứa đựng nhiều ý nghĩa, mỗi người có thể hiểu theo một hướng khác nhau.
Khổ 2: Hình ảnh mùa xuân của đất nước
– Hai hình ảnh đối xứng: người cầm súng – người ra đồng, đó chính là những con người đã làm nên mùa xuân của đất nước.
– Điệp ngữ tất cả như tạo nên nhịp điệu sôi nổi, khẩn trương.
Khổ 3: Niềm tự hào dân tộc
– Giọng thơ có sự trầm lắng, suy tư.
– Chặng đường 4000 năm lịch sử của dân tộc được tác giả nhìn lại, điểm lại những vất vả và gian lao.
– So sánh đất nước với vì sao lúc nào cũng tỏa sáng và tiến về phía trước.
Khổ 4: Ước mong giản dị của nhà thơ
– Điệp ngữ ta làm thể hiện ước mong giản dị của nhà thơ, thể hiện niềm khát khao được hòa mình vào trở thành một phần của đất trời.
Khổ 5: Mong muốn được cống hiến cho đất nước
– Hai chữ lặng lẽ cho thấy mong ước giản dị của nhà nhớ. Không cần phải lớn tiếng, không cần ai công nhận. Nhà thơ khao khát được cống hiến sức mình dù là khi còn trẻ hay khi tóc đã bạc.Xem thêm: Nghị luận xã hội Phải sống sao cho khỏi xót xa ân hận
Khổ 6: Khúc nhạc dân ca xứ Huế
– Câu dân ta khiến cho cảm xúc lắng lại. Nhà thơ hẳn rất yêu quê hương của mình.
3. Kết bài
Bài thơ mang một âm hưởng nhẹ nhàng, sâu lắng cùng những hình ảnh thơ vô cùng bình dị. Thông qua những vần thơ của Thanh Hải, chúng ta càng thêm yêu mùa xuân, yêu con người và đất nước Việt Nam.
Bài viết liên quan
>> Phân tích bài thơ Viếng lăng Bác của Viễn Phương (Có dàn ý chi tiết)
>> Phân tích bài thơ Sang thu của Hữu Thỉnh (Có dàn ý chi tiết)
II. Bài làm phân tích bài thơ Mùa xuân nho nhỏ
Có thể nói, mùa xuân luôn mang đến cho con người những cảm xúc tươi mới, nhẹ nhàng. Nó khiến cho con người cảm thấy yêu đời hơn và muốn hòa mình vào với thế giới ngoài kia. Với nhà thơ Thanh Hải, ông cũng viết về mùa xuân với những câu thơ đầy tươi đẹp. Bài thơ Mùa xuân nho nhỏ là bài thơ cuối cùng của ông và được sáng tác khi ông đang nằm trên giường bệnh nhưng thông qua nội dung bài thơ người đọc không hề cảm thấy có chút gì buồn bã. Ngược lại, bài thơ chứa đựng hình ảnh thơ đẹp, ca từ tươi vui và thể hiện được khát vọng hòa mình vào với cuộc sống của nhà thơ.
Bức tranh mùa xuân trước hết được thể hiện qua hình ảnh của dòng sông và hình ảnh của bầu trời. Trong bức tranh ấy có màu xanh của nước, có màu tím biếc của hoa và có cả thanh âm trong trẻo của tiếng chim:
Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
Ôi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời.
Phân tích bài thơ Mùa xuân nho nhỏ
Sắc tím của hoa ở đây có thể là hoa bèo trôi nổi trên mặt sông. Tuy bức tranh đẹp nhưng số từ “một” gợi lên một cảm giác gì đó cô đơn. Dòng sông hơi bình lặng một chút nhưng trên bầu trời lại vô cùng rộn ràng bởi tiếng chim. Chim hót vang trời cho thấy một sự tươi vui. Và chính sự tươi vui ấy khiến cho tác giả muốn ôm trọn mùa xuân vào trong lòng mình:
Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng
Giọt long lanh ở đây là một hình ảnh tu từ mà mỗi người có thể hiểu theo một hướng khác nhau. Đó có thể là giọt sương ban mai đọng lại trên những chiếc lá non xanh. Đó cũng có thể là cả một mùa xuân, là tất cả nhưng gì tinh túy nhất của mùa xuân được tác giả thu nhỏ lại thành giọt long lanh. Hiểu thế nào cũng được bởi vì điều quan trọng là nhà thơ muốn hứng lấy giọt long lanh ấy. Đó là cách mà nhà thơ muốn thể hiện rằng, ông muốn được tận hưởng cuộc sống này.Xem thêm: Ngày nay, rất nhiều bạn trẻ thích sống "sành điệu". Em hiểu thế nào là "sành điệu"? "Sành điệu" có phải là hư hỏng? Hãy viết bài văn ngắn bày tỏ suy nghĩ của bản thân
Sang khổ thơ tiếp theo, nhà thơ miêu tả mùa xuân của đất nước từ những ngày đất nước còn chiến tranh. Đó là mùa xuân của những người cầm súng, mùa xuân của những người ra đồng. Họ tuy mỗi người một công việc nhưng ai cũng tràn đầy hứng khởi. Mùa xuân ấy có những nhánh lộc xanh non và chính họ là những người đã làm nên mùa xuân của đất nước:
Mùa xuân người cầm súng
Lộc giắt đầy quanh lưng
Mùa xuân người ra đồng
Lộc trải dài nương lúa
Tất cả như hối hả
Tất cả như xôn xao
Hai câu thơ cuối của khô thơ sử dụng phép điệp từ, điệp ngữ cùng với việc lựa chọn từ ngữ hối hả và xôn xao của tác giả khiến cho chúng ta cảm nhận được nhịp độ khẩn trương của con người thời bấy giờ. Họ mang trong lòng mình sự hăng hái. Kể cả những người đi lính, vào sinh ra tử, có khi cần kề với cái chết thì họ cũng vẫn hừng hực lửa khí thế với quyết tâm chống lại kẻ thù. Đó cũng là lý do vì sao chúng ta có được nền độc lập, có được mùa xuân như ngày hôm nay. Đất nước ta đã trải qua chiều dài hơn 4000 năm lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước. Chúng ta đã đổ biết bao nhiêu mồ hôi, xương máu, vững vàng qua bao nhiêu cuộc kháng chiến để rồi vững bước đi lên và tỏa sáng như những vì sao:
Đất nước bốn nghìn năm
Vất vả và gian lao
Đất nước như vì sao
Cứ đi lên phía trước
Khổ thơ thứ 3 giống như một tiếng nói của sự tự hào, của lòng tự tôn dân tộc. Phải cảm ơn những thế hệ cha anh đi trước đã không tiếc máu xương để bảo vệ Tổ quốc. Chúng ta, những con người được sinh ra trong thời bình, được tận hưởng hết những vẻ đẹp của mùa xuân chính là nhờ thế hệ cha anh của mình. Như một sự biết ơn với thế hệ trước, cũng là để bày tỏ tình yêu với quê hương, nhà thơ Thanh Hải đã có những ước mong vô cùng giản dị. Ông ước mình được làm chim, làm cành hoa, làm nốt trầm để hòa nhập vào cùng với mùa xuân của cuộc đời. Có lẽ, đây chính là di nguyện cuối đời của nhà thơ:Xem thêm: Nghị luận xã hội về tình bạn
Ta làm con chim hót
Ta làm một cành hoa
Ta nhập vào hòa ca
Một nốt trầm xao xuyến
Nhà thơ muốn trở thành những điều giản dị ấy là bởi vì ông muốn được hiến dâng cuộc đời mình cho một cuộc đời chung. Nếu mỗi con người là một mùa xuân thì nhà thơ muốn dâng mùa xuân của mình cho mùa xuân của đất trời. Không quan trọng tuổi tác, chỉ cần còn hơi sức, thì còn dâng hiến:
Một mùa xuân nho nhỏ
Lặng lẽ dâng cho đời
Dù là tuổi hai mươi
Dù là khi tóc bạc
Mong ước của nhà thơ thật giản dị. Ông chỉ muốn âm thầm, lặng lẽ hiến dâng chứ không cần ai phải biết tới, chẳng cần ai phải ngợi ca. Đến khổ thơ cuối bài, nhà thơ nhắc tới khúc hát dân ca của quê hương xứ Huế. Nó như một sự dự báo rằng thời gian của ông không còn nhiều nữa. Khúc hát tâm tình đủ để cho thấy nhà thơ yêu quê hương mình đến nhường nào. Cũng giống như Bác Hồ trước lúc ra đi, người đã muốn nghe một câu hát dân ta. Tìm về với cội nguồn quê hương, đó là bản chất quý báu của con người Việt Nam:
Mùa xuân ta xin hát
Câu Nam ai, Nam bình
Nước non ngàn dặm mình
Nước non ngàn dặm tình
Nhịp phách tiền đất Huế.
Bài thơ Mùa xuân nho nhỏ đã khép lại với những vần thơ như vậy. Sau khi làm bài thơ này 1 năm thì nhà thơ Thanh Hải cũng qua đời. Số lượng thơ của ông không nhiều nhưng chỉ với riêng bài thơ Mùa xuân nho nhỏ này cũng đủ để tên tuổi của ông sống mãi trong lòng chúng ta.
Trên đây là dàn ý chi tiết và bài mẫu phân tích bài thơ Mùa xuân nho nhỏ. Toàn bộ nội dung trong bài viết này do Kho tàng văn mẫu biên soạn và giữ bản quyền. Hy vọng tài liệu tham khảo này sẽ giúp ích nhiều cho các em trong việc học tập.
Thu Thủy
|
Đề bài: Phân tích bài thơ Mùa Xuân Nho Nhỏ của Thanh Hải
Bài làm
Mùa xuân là mùa đẹp nhất trong năm, mùa cỏ cây hoa lá đâm chồi nảy lộc và muôn hoa khoe sắc thắm. Chính vì thế mùa xuân trở thành nguồn cảm hứng bất tận của những nhà văn nhà thơ. Mùa Xuân Nho Nhỏ chính là một trong những sáng tác hay viết về mùa xuân, mùa xuân của đất nước Việt Nam.
Nhà thơ Thanh Hải viết bài thơ này để dâng tặng cho đời trước khi ông ra đi về cõi vĩnh hằng. Vốn sinh ra và trưởng thành từ hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ nên bất cứ lúc nào ông cũng luôn có khát vọng dâng hiến cho đời, cho quê hương, đất nước. Bài thơ Mùa Xuân Nho Nhỏ giống như tiếng lòng của ông chân thành mà tha thiết.
Mở đầu bài thơ là hình ảnh về mùa xuân trên dòng sông:
“Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc”
Bằng bút pháp chấm phá nhà thơ đã cho ta thấy được một khung cảnh rất lãng mạn, rất xuân và mang theo những đặc sắc của xứ Huế thanh bình. Không gian được bao phủ bởi một gam màu xanh của dòng sông Hương thơ mộng. trên cái nền xanh ấy nổi bật lên hình ảnh của một bông hoa. Đó không phải màu hồng của hoa đào hay màu vàng của hoa mai mà đó là màu “tím biếc” của bông hoa lục bình. Một hình ảnh đặc trưng của xứ Huế.Xem thêm: Hãy sử dụng câu sau làm câu chủ đề để viết một đoạn văn hoàn chỉnh (khoảng 10 - 15 câu): "Từ thân phận bị đọa đày khốn cùng, Thúy Kiều dã trở thành vị quan tòa cầm cán cân công lí."
Phân tích bài thơ Mùa Xuân Nho Nhỏ
Nhắc đến màu tím, ta thường nhớ đến hình ảnh những cô nữ sinh với bộ áo dài tím thướt tha. Điểm nhấn của cảnh vật khiến cho người đọc cảm nhận được một không gian tràn dầy sức sống, đầy sức xuân. Một khung cảnh đẹp không chỉ ở cảnh vật mà còn mang những âm thanh từ thiên nhiên vang vọng:
“Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời”
Tiếng chim ca, ngân nga của loài chim chiền chiện. Tiếng chim như làm xao xuyến cả đất trời, khiến cho tâm hồn của người thi sĩ cảm thấy xao xuyến. Từ “ơi” đã bày tỏ cảm xúc của nhà thơ. Từ những cảnh vật rất quen thuộc, gần gũi nhưng mỗi lần chứng kiến đều khiến tác giả dạt dào cảm xúc. Hay cũng có lẽ đây là mùa xuân cuối cùng mà nhà thơ được tận hưởng nên ông mới cảm thấy mùa xuân dường như đẹp hơn, tươi sáng hơn. Trước vẻ đẹp ấy Thanh Hải cảm thấy bồi hồi xúc động:
“Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng”
Đến hai câu thơ này thì chủ thể trữ tình hay chính tác giả đã xuất hiện trực tiếp trong bài thơ. Từ tiếng chim, từ bông hoa nay thấy được “từng giọt long lanh”. Đó là những giọt sương của sớm mai vốn đọng trên cành lá nay rơi rụng xuống. Nhà thơ như cảm nhận được tiếng rơi của giọt sương. Trước cảnh đẹp ấy, nhà thơ không thể kiềm được lòng của mình mà phải đưa tay hứng lấy. Chỉ với vài nét phác họa tác giả đã khắc họa được một bức tranh mùa xuân sống động, tuyệt đẹp.Xem thêm: "Cảnh... giờ."... Giải thích ngắn gọn cách hiểu của em về hai câu thơ trên, từ đó phân tích tám câu thơ cuối cùng của đoạn Kiều ở lầu Ngưng Bích... để làm nổi bật bút pháp tả cảnh ngụ tình đã đạt đến thành công tuyệt vời của thiên tài Nguyễn Du
Từ mùa xuân của thiên nhiên, nhà thơ Thanh Hải đã liên hệ đến mùa xuân của đất nước, của Cách mạng:
“Mùa xuân người cầm súng
Lộc giắt đầy trên lưng
Mùa xuân người ra đồng
Lộc trải dài nương mạ”
Bốn câu thơ với cấu trúc song hành, đi đôi với mùa xuân là nhiệm vụ chiếc đấu, nhiệm vụ lao động sản xuất của con người. Hai nhiệm vụ quan trọng của người chiến sĩ, người nông dân trong thời đại cách mạng. Điểm sáng của bốn câu thơ là việc lặp lại từ “mùa xuân” để nhấn mạnh thời gian và từ “lộc” để tượng trưng cho sự sung túc, may mắn. Đối với người chiến sĩ thì “lộc” còn mang ý chỉ những cành lá để ngụy trang, che mắt quân thù. Còn với người nông dân thì “lộc” chính là những mầm non của cây lúa, của những loài cây khác đem lại lương thực để phục vụ đời sống sinh hoạt, đời sống chiến đấu. Dường như cả đất nước đã và đang rộn ràng bước vào xuân, khí thê khẩn trương, náo nhiệt đón chào xuân:
“Tất cả như hối hả
Tất cả như xôn xao”
Trước không khí ấy thì tác giả không quên nhắc lại chặng đường lịch sử của đất nước với biết bao thăng trầm:
“Đất nước bốn ngàn năm
Vất vả và gian lao
Đất nước như vì sao
Cứ đi lên phía trước”
Chặng đường ấy với biết bao “Vất vả và gian lao” nhưng dân tộc ta vẫn một lòng chiến đấu, hăng say lao động sản xuất phục vụ cho đời sống chiến đấu để có thể đi tới ngày đại thắng của dân tộc. Thanh Hải so sánh đất nước với vì sao chính là để khăng định vẻ đẹp của đất nước, để nói lên sự tự hào của nhà thơ đối với đất nước, với dân tộc ta. Đất nước giống như vì sao, một nguồn sáng bất diệt và vĩnh hằng với thời gian. Đó còn là ngôi sao vàng năm cánh trên lá cờ Việt Nam. Trong không khí mùa xuân của cả nước, nhà thơ đã thể hiện khát vọng cống hiến của mình:Xem thêm: Cảm nghĩ của em về con người Nguyễn Trãi qua văn bản “Côn Sơn ca”
“Ta làm con chim hót
Ta làm một nhành hoa
Ta nhập vào hòa ca
Một nốt trầm xao xuyến”
Đến khổ thơ cuối, nhà thơ giống như đang hát lên khúc hát yêu thương dành tặng cho dân tộc:
“Mùa xuân, ta xin hát
Câu Nam ai, Nam bình
Nước non ngàn dặm mình
Nước non ngàn dặm tình
Nhịp phách tiền đất Huế”
Bài thơ Mùa Xuân Nho Nhỏ đã cho thấy tình yêu thiên nhiên, yêu đất nước. Đó là thiên nhiên của mùa xuân tươi đẹp, mùa xuân cách mạng. Đồng thời, bài thơ còn thể hiện nỗi khát vọng của nhà thơ đó là muốn cống hiến cho đời, gợi nhắc thế hệ trẻ ngày nay đó là hãy góp “mùa xuân nho nhỏ” của mình với mùa xuân lớn của đất nước, của dân tộc.
Loan Trương
|
Topic: Analysis of the poem Little Spring by Thanh Hai
Assignment
Spring is the most beautiful season of the year, the season when plants, flowers, and trees sprout and flowers bloom. That's why spring becomes an endless source of inspiration for writers and poets. Little Spring is one of the best compositions written about spring, the spring of Vietnam.
Poet Thanh Hai wrote this poem to dedicate to life before he left for eternity. Born and raised during the two resistance wars against the French colonialists and the American imperialists, at any time he always had the desire to dedicate himself to life, to his homeland, and to the country. The poem Little Spring is like the sincere and earnest voice of his heart.
The poem opens with an image of spring on the river:
“Growing in the middle of the green river
A purple flower"
With his dotted style, the poet has shown us a very romantic, very springy scene, bringing with it the characteristics of peaceful Hue. The space is covered with the blue color of the romantic Huong River. On that blue background, the image of a flower stands out. It's not the pink of peach blossoms or the yellow of apricot blossoms, but the "blue purple" color of hyacinth flowers. A typical image of Hue. See more: Use the following sentence as the topic sentence to write a complete paragraph (about 10 - 15 sentences): "From a miserable and miserable fate, Thuy Kieu became become a judge holding the scales of justice."
Analysis of the poem Little Spring
When mentioning the color purple, we often think of images of schoolgirls with graceful purple dresses. The highlight of the scene makes the reader feel a space full of life and spring. A beautiful scene is not only the scenery but also the sounds from nature echoing:
“Oh lark
Why sing to the sky?
The singing and humming sound of larks. The sound of birds seemed to stir the whole world, making the poet's soul feel troubled. The word "oh" expressed the poet's feelings. From scenes that are very familiar and close, but each time they witness them, they make the author filled with emotions. Or perhaps this is the last spring that the poet will enjoy, so he feels that spring seems more beautiful and brighter. Faced with that beauty, Thanh Hai felt emotional:
“Every drop of glitter falls
I put my hand inspiration"
In these two verses, the lyrical subject or the author himself appears directly in the poem. From the sounds of birds and flowers, "every drop of glitter" can now be seen. Those are the dew drops of the morning that were originally deposited on the branches and leaves, now falling down. The poet seems to feel the sound of falling dew drops. Faced with that beautiful scene, the poet could not control his feelings and had to reach out to catch it. With just a few sketches, the author has portrayed a vivid, beautiful spring picture. See more: "Scene... hour."... Briefly explain your understanding of the two verses above , from which we analyze the last eight verses of the Kieu at Ngung Bich pavilion... to highlight the poetic style of love scenes that has achieved great success by the genius Nguyen Du.
From the spring of nature, poet Thanh Hai related the spring of the country and the Revolution:
“Spring people hold guns
Lots of luck on my back
In spring, people go to the fields
Fortune spreads across the fields"
Four verses with a parallel structure, coupled with spring is the task of fighting, the task of human production. Two important tasks of soldiers and farmers in the revolutionary era. The highlight of the four verses is the repetition of the word "spring" to emphasize time and the word "loc" to symbolize prosperity and luck. For soldiers, "loc" also means branches and leaves to camouflage and cover the enemy's eyes. For farmers, "fortune" is the young shoots of rice and other plants that provide food to serve daily life and fighting life. It seems that the whole country has been bustling into spring, the atmosphere is urgent and bustling to welcome spring:
“Everything seems to be in a hurry
Everything is like a stir"
In that atmosphere, the author does not forget to recall the country's historical journey with so many ups and downs:
“Country of four thousand years
Hard work and hardship
The country is like a star
Just keep moving forward.”
That journey was filled with so many "hard work and hardships" but our people still fought wholeheartedly, enthusiastically working in production to serve the fighting life so that we could reach the day of great victory for the nation. Thanh Hai compares the country with the stars to affirm the beauty of the country, to express the poet's pride in our country and our people. The country is like a star, an eternal and eternal source of light over time. It is also the five-pointed golden star on the Vietnamese flag. In the spring atmosphere of the whole country, the poet expressed his desire to contribute: See more: My feelings about the person Nguyen Trai through the text "Con Son ca"
“I make the bird sing
I make a flower branch
We join the chorus
A bass note flutters"
In the last stanza, the poet seems to be singing a love song for the nation:
“Spring, I would like to sing
Go Nam ai, Nam Binh
The country is thousands of miles away
Thousands of miles of love
The rhythm of Hue's pre-land"
The poem Little Spring shows love for nature and love for the country. It is the nature of beautiful spring, revolutionary spring. At the same time, the poem also shows the poet's desire to contribute to life, reminding today's young generation to contribute their "little spring" to the great spring of the country, of nation.
Loan Truong
|
Đề bài: Em hãy viết bài văn phân tích bài thơ Mới ra tù tập leo núi của Hồ Chí Minh.
Bài thơ Mới ra tù, tập leo núi không nằm trong tập Nhật kí trong tù. Hồ Chí Minh viết bài này khi đã được giải thoát khỏi cảnh tù đày. Bài thơ được viêt bến rìa tờ báo cùng với mấy.hàng chữ "Chúc chư huynh ở nhà mạnh, khỏe và cồ’ gắng cổng tác. Ở bên này bình yên" và gửi về cho các đồng chí nhà đang ngày ngày chờ mong tin, tức Bác và lại được tin Bác đã mất trong ngục. Bài thơ đã mang lại cho các đồng chí niềm vui lớn. Người vẫn còn sống, đã ra tù và lại chuẩn bị bước vào chặng đường hoạt dộng mới.
-”Sau khi ở tù ra sức khỏe của Người bị giảm sút hẳn. Tác giả vừa đi đường vừa kể chuyện đã viết: "Khi được thả ra, mắt Bác nhìn kém, chân bước không được, Bác quyết tâm tập đi mỗi ngày mười bước dù đau mà phải bò, phải lết cũng phải mười bước mới thôi. Cuối cùng, Bác chẳng những đi vững, mà còn tréo được núi. Lần đầu tiên lên đỉnh núi, Bác cao hứng làm một bài thơ chữ Hán".
Bài thơ Mới ra tù, tập leo núi được làm trong hoàn cảnh đó. Chuyến leo núi của Bác nhằm mục đích rèn luyện ý chí và thân thể để tiếp tục hoạt động.)Chủ đề của bài thơ Mới rá tù, tập leo núi không nhằm hướng vào chủ đề vượt khổ như một số bài thơ đi đường khác mà chủ yếu là bộc lộ tình cảm nhớ thương với đất nước, với đồng chí bạn bè.
"Núi ấp ôm mây, mây ấp núi"
Hình tượng mây núi được biểu hiện qua hai hình ảnh gắn bổ: núi ấp ôm mây, mây ấp núi như tình cảm đồng chí bạn bè yêu thương nhau. Hình tượng mây núi ở đây không hàm ý ám chỉ cục diện chính trị tăm tối mù mịt ở Trung Quốc vào những năm 40 như có ý đã giải thích.
Sau gần 14 tháng xa đất nước, Người rất nóng lòng chờ tin tức bên nhà:
Xem thêm: "Ông già và Biển cả" là một bản anh hùng ca ca ngợi tư thế ngạo nghễ hào hùng của con người trên thế giới này. Hãy phân tích đoạn trích "Đương đầu với đàn cá dữ" để làm nổi bật tinh thần đó”Năm tròn cố quốc tăm hơi vắng Tin tức bên nhà bừa bữa trông"
(Tức cảnh)
Nhớ đất nước, bạn bè Người cũng muôn giãi bày kín đáo phần nào tâm lòng của mình:
"Lòng sông gương sáng bụi không mờ"..
Đứng trên đỉnh núi cao nhìn xuống dòng sông, lòng sông như gương nước trong không chút bụi mờ. Thiên nhiên cũng có những khoảnh khắc, những trạng thái thanh khiết như chính tấm lòng Người trong cảnh ngộ đó. Tình cảm của Người vẫn trước sau một lòng một dạ trung thành với cách mạng, với nhân dân. Nhà nghiên cứu Đặng Thai Mai nhận xét: "Đằng sau bức tranh phong cảnh này, đằng sau những tầng lớp mây núi trập trùng, đằng sau dòng nước sông trong dưới chân Tây Phong Lĩnh, ấn tượng không bao giờ phai nhạt trong tâm hồn cua độc giả chính là tâm trạng vừa trong trắng sâu sắc, vừa cáo cả cửa con người".
Thiên nhiên ở đây đã góp phần biểu hiện tình cảm sâu kín của con người:
"Bồi hồi dạo bước Tây Phong Lĩnh Trông lại trời Nam nhớ bạn xưa".
Tình bận vẫn là một tình cảm cao đẹp nằm trong chủ đề quen thuộc: nhớ bạn (ức hữu) được biểu hiện trong Nhật kí trong tù:
"Ngày đi bạn tiễn đến bên sông,
Hẹn bạn về khi lúa đỏ đồng
Nay gặt đã xong, cày đã khắp,
Què người, tôi vẫn chốn lao lung”
(Nhớ bạn)
Tình cảm nhớ bạn trong bài Mới ra tù, tập leo núi được bộc lộ trong hoàn cảnh tác giả đã được tự do. Trong lòng Người lúc này có cả niềm vui nỗi buồn. Niềm vui của một chiến sĩ cách mạng giữ vững lòng trung kiên quá những thử thách của cảnh tù đày, niềm vui và hi vọng được gặp lại bạn bè. Nhưng dù sao Người đang còn trong cảnh ngộ xa đất nước, xa bạn bè nên không tránh khỏi cảnh buồn vắng cô đơn. Trước mắt là mệt chặng đường hoạt động mới mà Người chuẩn bị tinh thần để tham gia với lòng quyết tâm. Bao nhiêu cảm xúc bồi hồi xao xuyến trong lòng người chiến sĩ cách mạng,có ai ngờ giữa cảnh thiên nhiên hùng vĩ và trong trẻo ấy con người đương một mình dạo bước trên đỉnh núi kia với cái phong thái rất tiên phong đạo cốt lại là một chiến sĩ cộng sản của thời đại chúng ta đang chuẩn bị để bước vào một cuộc chiến đấu sống chết với kẻ thù" (Hoài Thanh).
Xem thêm: Phân tích ý nghĩa của cuộc đối thoại giữa Hồn và Xác trong đoạn trích kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt của Lưu Quang Vũ.
|
Topic: Write an essay analyzing Ho Chi Minh's poem Just out of prison, learn to climb mountains.
The poem Just released from prison, learning to climb mountains is not in the Prison Diary collection. Ho Chi Minh wrote this article when he was freed from imprisonment. The poem was written on the edge of the newspaper along with the words "Wish you all stay at home strong, healthy and try your best to work. Peace is here" and sent to comrades at home who are waiting every day for news. , that is, Uncle Ho and received news that Uncle Ho had passed away in prison. The poem brought the comrades great joy. He is still alive, has been released from prison and is preparing to enter a new career path.
-"After being released from prison, his health completely declined. The author, while telling the story, wrote: "When he was released, his eyesight was poor and he could not walk. He was determined to learn to walk ten steps a day even though it hurt so much that he had to crawl and drag himself ten steps. . In the end, Uncle Ho not only walked steadily, but also climbed the mountain. The first time he reached the top of the mountain, he was excited to write a poem in Chinese.
The poem Just Released from Prison, Practicing Mountain Climbing was written in that situation. Uncle Ho's mountain climbing trip was aimed at training his will and body to continue working.) The theme of the poem "Just released from prison, learning to climb mountains" is not aimed at the topic of overcoming hardship like some other road trip poems. but mainly to express feelings of nostalgia for the country, comrades and friends.
"Mountains embrace clouds, clouds embrace mountains"
The image of clouds and mountains is expressed through two complementary images: mountains embracing clouds, clouds embracing mountains like the feelings of comrades and friends loving each other. The image of mountain clouds here does not imply the dark and gloomy political situation in China in the 1940s as has been explained.
After nearly 14 months away from the country, he was eagerly waiting for news from home:
See more: "The Old Man and the Sea" is an epic poem praising the arrogant and heroic posture of people in this world. Let's analyze the excerpt "Confronting the flock of fierce fish" to highlight that spirit: "The year of the old country is completely absent. The news at home is messy."
(Scene)
Missing his country and friends, he also wanted to secretly confide part of his heart:
"The river bed is a bright, dusty mirror that does not fade"..
Standing on the top of a high mountain looking down at the river, the river bed is like a clear mirror without any dust. Nature also has moments and states as pure as the human heart in that situation. His feelings were always loyal to the revolution and the people. Researcher Dang Thai Mai commented: "Behind this landscape painting, behind the layers of rolling mountain clouds, behind the clear river water at the foot of Tay Phong Linh, the impression never fades in the soul. The reader's mood is both deeply innocent and at the same time completely human."
Nature here has contributed to expressing people's deep emotions:
"Longing for a walk in Tay Phong Linh, looking back at the Southern sky, remembering old friends."
Love is still a noble feeling in the familiar theme: missing friends (friends) expressed in the Prison Diary:
"The day you left, you sent me off to the riverside,
See you when the rice fields are red
Now the harvest is finished, the plowing is complete,
Crippled, I'm still wandering around."
(Miss you)
The feeling of missing a friend in the article "Just released from prison, learning to climb mountains" is expressed in the context of the author's freedom. In his heart at this moment there is both joy and sadness. The joy of a revolutionary soldier who maintains his integrity despite the challenges of imprisonment, the joy and hope of seeing his friends again. But anyway, he was still in a situation far from his country and friends, so he could not avoid being sad and lonely. Ahead is a tiring journey of new activities that he mentally prepares to participate in with determination. So many emotions fluttered in the heart of the revolutionary soldier, who would have thought that in the midst of that majestic and clear natural landscape, a man was walking alone on that mountain top with a very pioneering style. is a communist soldier of our time preparing to enter a life-and-death fight with the enemy" (Hoai Thanh).
See more: Analyze the meaning of the dialogue between Soul and Body in the excerpt from the play Truong Ba's Soul, Butcher's Skin by Luu Quang Vu.
|
Phân tích bài thơ Mới ra tù, tập leo núi của Hồ Chí Minh
Gợi ý
Trong tập thơ dịch Ngục trung nhật ký của Hồ Chi Minh, có một bài thơ viết sau khi Bác ra tù được xếp vào cuối tập thơ như lời kết của cuốn sách. Đó là bài Tân xuất ngục học đăng sơn (Mới ra tù tập leo núi) Bài thơ được dịch như sau:
Núi ấp ôm mây, mây ấp núi
Lòng sông gương sáng bụi không mờ
Bồi hồi dạo bước Tây Phong Lĩnh
Trông lại trời Nam nhớ bạn xưa.
Bài thơ lấp lánh một vẻ đẹp cổ điển, vừa ghi lại được những xúc động trong tâm hồn tác giả lúc mới ra tù, vừa như một lời báo tin, nhắn nhủ với đồng chí, bạn bè về bản thân mình sau bao ngày bị đày ải giam cầm giữa chốn ngục tù nơi đất khách.
Như chúng ta đều biết, sau mười bốn tháng bị gông cùm với bao vất vả, khó khăn, Bác Hồ đã được trả lại tự do. Những ngày đầu, do bị giam quá lâu làm Người " chân yếu, mắt mờ, tóc bạc" (Tố Hữu), đi lại không vững, vì thế Bác phải tập leo núi để tự rèn luyện thêm sức lực Bài thơ được viết khi leo núi Tây Phong Lĩnh và được gửi về nước một cách bí mật. Đại tướng Võ Nguyên Giáp trong cuốn Tư nhân dân mà ra có kể lại rằng: "Từ khi Bác bị báứt, Trung ương Đảng ta mất hẳn liên lạc, thậm chí do tin tức sai tưởng Bác đã mất trong tù. Mãi hơn một năm sau, một hôm cơ quan Trung ương nhận đươc mội tớ báo Trung Quốc bên lề có ghi một câu: "Chúc chư huynh ở bên nhà mạnh khoẻ và cố gắng công tác. Ở bên này vẫn bình yên" Và bên dưới có ghi bài thơ chữ Hán nàyXem thêm: Vẻ đẹp chân quê trong thơ Nguyễn Bính thể hiện trong bài “Tương tư” Mở đầu bài thơ là hai câu miêu tả, hai nét chấm phá về núi và sông mà như thu gọn vào tầm mắt tất cả mây trời, non nước:
"Vân ủng trùng sơn sơn ủng vân
Giang tâm như kính tịnh vô trần"
Câu thơ dịch khá sát: "Núi ấp ôm mây mây ấp núi – Lòng sông gương sáng bụi không mờ". Trên những ngọn núi cao, mây thường bao phủ bốn mùa. Mây ở lưng chừng núi, núi vượt lên trên mây. Mây và núi hoà quện với nhau lẩn quất trong nhau. Và từ ở trên cao, nhìn xuống, một dòng sòng lấp lánh như mặt gương trong và sáng. Hai câu thơ tạo nên một bức tranh tả thực sinh động, chỉ bằng một vài nét như phóng bút mà ghi lại được linh hồn tạo vật. Trong bức tranh ấy vừa có cái hùng vĩ của mây của núi, lại vừa có vé đep mềm mại trong sáng dịu dàng của dòng sông; có cả cao sơn và lưu thuỷ và hơn nữa sơn thuỷ ở đây còn rất hữu tình. Đối cảnh sinh tình, lấy cảnh ngụ tình vốn là những thủ pháp quen thuộc của thơ ca phương Đông xưa nay. Hình ảnh một dòng sông lấp lánh, sáng trong không chút bụi mờ trong bài thơ vừa là cảnh đấy và cũng,chính là tình đấy; vừa là tả thực, vừa như một biểu trưng về sự sáng trong của tâm hồn người viết. Đặt trong hoàn cảnh ra đời của bài thơ, phải chăng đó cỏn là một ẩn dụ, một lời nhắn gửi sâu kín cho đồng chí, đồng bào trong nước về phẩm chất tâm hồn của chính nhà thơ: sau bao nhiêu thử thách gian nan, vất vả, đắng cay, Hồ Chí Minh vẫn giữ trọn được tấm lòng sáng trong, thuỷ chung với cách mạng, với Tổ quốc, với nhân dân. Câu thơ ngắt nhịp 4/3 như một lời khẳng định vang lên quả quyết và dứt khoát, chứa chất một niềm kiêu hãnh tự hào "tịnh vô trần" (không một hạt bụi). Đứng giữa đất trời, mây núi mịt mùng, Người vẫn thấy mình trong trẻo, thanh khiết, không hề vẩn đục. Một lời tự kiểm điểm, tự đánh giá về bàn thân mình sau một chuỗi ngày bị kẻ thù giam cầm đày đoạ chăng?Xem thêm: Người xưa nói: "Đừng thấy việc thiện nhỏ mà không làm, đừng thấy việc ác nhỏ mà làm." Anh (chị) suy nghĩ như thế nào về lời khuyên trên
Nếu như hai câu thơ đầu tạo nên trong lòng người đọc cảm giác mạnh mẽ, cương quyết… thi hai câu sau lại như trầm lắng, thiết tha bởi tình cảm của người viết:
Bồi hồi độc bộ Tây Phong Lĩnh
Dạo vọng Nam thiên ức cố nhân.
Lời thơ dịch hoàn toàn chính xác: "Bồi hôi dạo bước Tây phomg Lĩnh – trông lại trời Nam nhớ bạn Xưa" Mấy chừ "bồi hồi" "dao vọng" "cố nhân" trong nguyên bản, đọc lên nghe da diết và nặng trĩu một nỗi nhớ khôn nguôi. Hai câu cuối tiếp nối hai câu đầu một cách tự nhiên mà cũng hết sức chặt chẽ hợp với logíc phát triển của tâm trạng trữ tình. Từ xa xưa, leo núi nhớ bạn, nhớ quê hương (đăng sơn, ức hữu) là chuyện thường thấy trong thơ. Nhưng đây không phải là chuyện đăng sơn, ức hữu chung chung mà là nỗi lòng canh cánh ngóng trông về Tổ quốc, nóng lòng được bay về với đồng bào, đồng chi ở phía trời Nam. Đây không phải là một ẩn sĩ mà là một chiến sĩ. Sau sự "rà soát" tự kiểm điểm, tự đánh giá tư tưởng và tấm lòng của mình, Người thấy thanh thản vì vẫn giữ trọn được sự sáng trong, không nhuốm bụi trần, bỗng cảm thấy "bồi hồi" và da diết nhớ "bạn cũ", nhớ những người đồng chí phía Nam quê nhà. Phải giữ được tấm lòng trong sạch, kiên trung không phải hổ thẹn với Tổ quốc, với nhân dân, với chính mình, mới có thể náo nức một nỗi nhớ da diết đến thế.Xem thêm: Giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm Tiễn dặn người yêu Con người leo núi ấy là một con người vừa thoát cành ngục tù với thân hình tiều tuy "chân yếu, mắt mờ" thế mà lời thơ, hình ảnh thơ thật sang trọng, ung dung. Đấy chính là chất thép, là nghị lực phi thường, là tinh thần Hồ Chí Minh đã được tôi luyện trong gian nan của cuộc đời cách mạng và đó cũng là tình cảm đậm đà và hồn thơ bay bổng của Người hướng về Tổ quốc, về đống chí, đồng bào
Nhà thơ Hoàng Trung Thông chắc cũng nhận thấy như thế khi đọc các bài thơ trong Nhật ký trong tù:
Tôi đọc trăm bài trăm ỷ đẹp
Ánh đèn toả rạng mái đầu xanh
Vần thơ của Bác vần thơ thép
Mà vẫn mênh mông bát ngát tình.
(Đọc thơ Bác)
Vanmau.edu.vn
|
Analysis of the poem Just released from prison, learning to climb mountains by Ho Chi Minh
Suggest
In the translated poetry collection Ngu Trung Diary of Ho Chi Minh, there is a poem written after Uncle Ho's release from prison that is placed at the end of the poetry collection as the book's conclusion. That's the poem "Just released from prison, learning to climb mountains". The poem is translated as follows:
The mountains hug the clouds, the clouds hug the mountains
The river bed is bright and dusty without fading
Relaxing walk in Tay Phong Linh
Looking back at the sky, Nam misses his old friends.
The poem sparkles with a classic beauty, both capturing the emotions in the author's soul when he was just released from prison, as well as serving as an announcement and message to comrades and friends about himself after many days of imprisonment. Exiled and imprisoned in a prison in a foreign land.
As we all know, after fourteen months of being shackled with many hardships and difficulties, Uncle Ho was returned to freedom. In the early days, due to being detained for so long, Uncle Ho had "weak legs, blurred eyes, gray hair" (To Huu), and could not walk unsteadily, so Uncle Ho had to practice mountain climbing to strengthen himself. The poem was written when climbed Tay Phong Linh mountain and was sent back to the country secretly. General Vo Nguyen Giap in the book Tu Nhan Dan recounted that: "Since Uncle Ho's imprisonment, our Party Central Committee completely lost contact, even due to false news that Uncle Ho had died in prison. It took more than a year. Later, one day the Central Agency received a Chinese newspaper with a sentence written on the sidelines: "Wishing everyone at home good health and trying their best to work. It's still peaceful on this side" And below is written this Chinese poem. See more: The beauty of the countryside in Nguyen Binh's poetry is expressed in the poem "Similar Love". The poem opens with two descriptive sentences, two highlights about mountains and rivers, as if all the clouds, sky, and water seemed to collapse into view:
"The clouds are the same as the mountains, the mountains are the clouds
Open your mind like pure glass without ceiling"
The poem translates quite closely: "The mountain hugs the clouds, the clouds hug the mountain - The river bed is a bright, dusty mirror that never fades." On high mountains, clouds often cover all four seasons. The clouds are halfway up the mountain, the mountain rises above the clouds. Clouds and mountains blend together and lurk within each other. And from above, looking down, a casino stream sparkles like a clear and bright mirror. The two verses create a vivid, realistic picture, with just a few brushstrokes that capture the soul of creation. In that picture there is both the majesty of the mountain's clouds and the soft, pure beauty of the river; There are both high mountains and flowing water, and moreover, the mountains and water here are very charming. For scenes of love, using scenes of love are familiar methods of ancient Eastern poetry. The image of a sparkling river, bright and clear without any dust in the poem is both that scene and also, that love; It is both a realistic description and a symbol of the clarity of the writer's soul. Given the context of the poem's birth, is it simply a metaphor, a deep message to comrades and compatriots in the country about the quality of the poet's own soul: after many hardships? Through hardship and bitterness, Ho Chi Minh still maintained his pure heart and loyalty to the revolution, to the Fatherland, and to the people. The poem's 4/3 rhythm is like an affirmation that resonates decisively and decisively, containing a sense of "pure and earthless" pride (not a speck of dust). Standing between heaven and earth, surrounded by clouds and mountains, he still sees himself as clear, pure, and not at all cloudy. A word of self-criticism and self-assessment after a series of days of being imprisoned and tortured by the enemy? See more: The ancients said: "Don't see a small good deed but don't do it, don't see a small evil deed and don't do it." ." What do you think about the above advice?
If the first two verses create a strong and determined feeling in the reader's heart... the next two verses seem quiet and passionate because of the writer's feelings:
Recovering the Tay Phong Linh tribe
Wandering around Nam Thien Thien's old friends.
The poem's lyrics are translated completely accurately: "Walking in sweat in the West, Linh - looking back at the Southern sky, missing my old friend." The words "reminiscing" "longing for" "old people" in the original, read aloud and sound intense and heavy. laden with endless nostalgia. The last two sentences continue the first two sentences naturally but also very closely in accordance with the logical development of the lyrical mood. Since ancient times, climbing mountains and missing friends and homeland (Dang Son, Buc Huu) is a common story in poetry. But this is not a general story of going up the mountain or having friends, but a feeling of anxiously looking forward to the Fatherland, anxious to fly back to our compatriots and compatriots in the southern sky. This is not a hermit but a warrior. After the "review" of self-criticism and self-assessment of his thoughts and heart, he felt at peace because he still retained all his clarity and was not tainted with the dust of the world. He suddenly felt "refreshed" and deeply missed. "old friends", miss their southern comrades from home. One must maintain a pure heart, be steadfast and not ashamed of the Fatherland, the people, or oneself, in order to be filled with such a deep nostalgia. See more: The content and artistic value of the novel The work Saying Goodbye to My Lover That mountain climber is a person who has just escaped from prison with a haggard body, although "weak legs, blurred eyes", yet the poetic words and poetic images are so luxurious and leisurely. That is the steel, the extraordinary strength, the spirit of Ho Chi Minh that was forged in the hardships of revolutionary life and that is also his rich sentiment and poetic soul towards the Fatherland. about the solstice, compatriots
Poet Hoang Trung Thong must have noticed the same thing when reading the poems in his Prison Diary:
I read hundreds of beautiful articles
The light shines on the green head
Uncle Ho's poems are verses of steel
But still immense love.
(Read Uncle Ho's poetry)
Vanmau.edu.vn
|
Phân tích bài thơ Nam quốc sơn hà của Lí Thường Kiệt và nói lên cảm nghĩ của em
Hướng dẫn
‘Lí Công nước Việt Noi dấu tiền nhân Cầm quân tất thắng Trị nước yên dân Danh lừng trung hạ Tiếng nức gần xa…’
Lí Công la Lí Thường Kiệt, người con vĩ đại của Thăng Long nghìn năm văn vật, tác giả bài thơ ‘Nam quốc sơn hà’ bất hủ. Lí Thường Kiệt là danh tương thời nhà Lí, tên tuổi gắn liền với chiến thắng Sông Cầu – Như Nguyệt trong thế kỉ 11. Năm 1076, vua nhà Tống sai tướng Quách Quỳ mang đại binh sang xâm chiếm Đại Việt, Lí Thường Kiệt lập chiến tuyến Sông Cầu – Như Nguyệt để chống giặc. Trong những giờ phút giao tranhác liệt, ông viết bài thơ ‘Sông núi nước Nam’ để khích lê và động viên tướng sĩ quyết chiến quyết thắng giặc Tống. Bài thơ nói lên niềm tự hào về chủ quyền của dãn tộc, nêu cao ý chí tự lực tự cường của nhân dân ta:
‘Núi sông Nam Việt vua Nam ở,
Vằng vặc sách trời chia xứ sở.
Giặc dữ cớ sao phạm đến đáy,
Chúng mày nhất định phải tan vỡ!’
Hai câu thơ đầu, ngôn ngữ trang trọng, ý thơ mạnh mẽ đanh thép khẳng định một chân lí lịch sử bất di bất dịch: ‘Sông núi nước Nam’ – nước Đại Việt thân yêu của nhân dân ta là ‘nơi vua Nơm ở’. Theo quan niệm phù hợp với lịch sử thời bấy giờ, thì vua là tượng trưng cho quyển lực tối thượng và đại diện cho quyền lợi tối cao của cộng đồng dân tộc. Nước ta đã có vua, nghĩa là có người làm chủ. Nam đế có thua kém gì Bắc đế. Nước có vua là có chủ quyền, có nền độc lập. Không những thế, ‘Sông núi Nam Việt được ghi rõ ở sách trời’. Đó là một chân lí lịch sử khách quan không ai có thể chối cãi được. Bài thơ nói đến ‘Nam đê’ nói đến ‘thiên thu’ và’định phận’ dể khẳng định một niềm tin, một ý chí về chủ quyền quốc gia, về tinh thần tự lập, tự cường dân tộc:
‘Núi sông Nam Việt vua Nam ở,
Vẳng vặc sách trời chia xứ sở’
Có thể nói, đó là một lời tuyên ngôn về chủ quyền và nền độc lập của Đại Việt. Mọi niềm tin đều cho ta sức mạnh. Trước họa xâm lăng của ngoại bang, niềm tin về độc lập và chủ quyền sẽ làm bùng lên ngọn lửa yêu nước và căm thù giặc trong nhân dàn ta. Hai câu tiếp theo, giọng thơ vang lên sang sảng, căm giận. Lí Thường Kiệt nghiêm khắc lên án hành động ăn cướp trắng trợn của giặc Tống. Chúng đã mang quân sang xâm chiếm nước ta. Câu hỏi tu từ làm cho lời thơ thêm đanh thép:
Xem thêm: Dựa vào văn bản "Sài Gòn tôi yêu", hãy nêu cảm nghĩ về một mảnh đất mà em yêu quý‘Giặc dữ cớ sao phạm đến đây?’
Hành dộng xâm lược của giặc Tống là tàn ác và phi nghĩa. Giết người, đốt phá, ăn cướp, gây ra cảnh chiến tranh điêu tàn. Chúng âm mưu biến nước ta thànhquận huyện của Trung Quốc, xâm phạm tới ‘Nam quốc sơn hà’, làm trái với ‘sách Trời’. Giặc Tống nhất định sẽ bị nhân dân ta giáng cho những đòn trừng phạt đích đáng:
‘Chúng mày nhất đinh phải tan vỡ!’
Câu thơ khẳng định niềm tin chiến thắng. Chiến thắng vì ta có sức mạnh chính nghĩa đánh giặc để bảo vệ sông núi nước Nam. Chiến thắng vì nhận dân ta có truyền thống yêu nước, có tinh thần đoàn kết bất khuất anh hùng chống ngoại xâm. Chiến thắng vì tướng sĩ của ta mưu lược, dũng cảm đánh giặc để giữ gìn quê hương đất nước.
‘Nhất định phải tan vố’là bị đánh cho tan tác, không còn một mảnh giáp. ‘Nhất định phải tan vỡ’ là bị thất bại nhục nhã. Thực tế lịch sử đã minh chứng hùng hồn cho câu thơ của Lí Thường Kiệt. Sông Cầu và bến đò Như Nguyệt là mồ chôn hàng vạn lũ giặc phương Bắc. Trước sự giáng trả sấm sét của quân ta, Quách Quỳ phải tháo' chạy, thất bại nhục nhã. Chiến thắng Sông Cầu – Như Nguyệt là một trong những trang sử vàng chói lọi của Đại Việt.
Bài thơ ‘Sông núi nước Nam’ vẫn được mệnh danh là bài thơ ‘Thần’. Lí Thường Kiệt với tài mưu lược của một nhà quân sự văn võ song toàn đã phủ cho bài thơ một màu sắc thần linh, có tác dụng động viên tướng sĩ đánh giặc với niềm tin thiêng liêng ‘Sông núi nước Nam’ đã được ‘vằng vặc sách trời chia xứ sở’.
Bài thơ được viết theo thể thất ngôn tứ tuyệt. Giọng thơ đanh thép, căm giận, hùng hồn. Nó vừa mang sứ mệnh lịch sử như một bài hịch cứu nước, vừa mang ý nghĩa như một bản tuyên ngôn độc lập lần thứ nhất của nước Đại Việt. Bài thơ là tiếng nói yêu nước và tự hào dân tộc của nhân dân ta. Nó biểu thị ý 'chí và sức mạnh Việt Nam. ‘Nam quốc sơn hà’ là khúc tráng ca chống xâm lăng biểu lộ khí phách và ý chí tự lập tự cường của đất nước và còn người Việt Nam. Nó là bài ca của ‘Sông núi ngàn năm’…
Nguồn: thêm: Phân tích lòng yêu nước qua hai bài thơ Đất nước của Nguyễn Đình Thi và Nguyễn Khoa Điềm
|
Analyze the poem Nam Quoc Son Ha by Ly Thuong Kiet and express your feelings
Instruct
'Viet Cong Ly follows the footsteps of his predecessors, leads the army and wins, rules the country in peace and brings the people, is famous in the middle and low, is famous near and far...'
Ly Cong is Ly Thuong Kiet, a great son of Thang Long's thousand years of literature, author of the immortal poem 'Nam Quoc Son Ha'. Ly Thuong Kiet was a famous man during the Ly Dynasty, his name associated with the Song Cau - Nhu Nguyet victory in the 11th century. In 1076, the King of the Song Dynasty sent general Quach Quy to bring a large army to invade Dai Viet, and Ly Thuong Kiet established him. Song Cau - Nhu Nguyet battle line to fight against the enemy. During the hours of fierce fighting, he wrote the poem 'Southern Rivers and Mountains' to encourage the patriots and soldiers to fight decisively to defeat the Song invaders. The poem speaks of pride in the sovereignty of the ethnic group, highlighting the will of our people to be self-reliant:
'The mountains and rivers of Nam Viet where the king of Nam lives,
The heavenly book divides the land.
Why did the evil enemy commit such a crime to the bottom?
You must be broken!'
The first two verses, the solemn language, the strong poetic meaning affirm an immutable historical truth: 'The rivers and mountains of the South' - our people's beloved country of Dai Viet is 'where King Nom lives. '. According to the concept consistent with the history of that time, the king symbolizes the ultimate power and represents the supreme interests of the national community. Our country has a king, which means there is someone in charge. The Southern Emperor is not inferior to the Northern Emperor. A country with a king has sovereignty and independence. Not only that, 'The rivers and mountains of Nam Viet are clearly recorded in the book of heaven'. That is an objective historical truth that no one can deny. The poem refers to 'Nam dike' and speaks of 'eternity' and 'fate' to affirm a belief and a will in national sovereignty, in the spirit of national independence and self-strength:
'The mountains and rivers of Nam Viet where the king of Nam lives,
The heavenly book divides the land'
It can be said that it is a declaration of Dai Viet's sovereignty and independence. Every belief gives us strength. In the face of foreign invasion, the belief in independence and sovereignty will ignite the fire of patriotism and hatred of the enemy among our people. In the next two sentences, the poetic voice sounds bright and angry. Ly Thuong Kiet strictly condemned the blatant robbery of the Song invaders. They brought troops to invade our country. The rhetorical question makes the poem more powerful:
See more: Based on the text "Saigon I love", express your feelings about a land that you love. 'Why did the enemy commit crimes here?'
The invasion of the Song invaders was cruel and unjust. Murder, arson, robbery, causing devastating war scenes. They plotted to turn our country into a district of China, violating the 'Southern Kingdom' and violating the 'book of Heaven'. The Song invaders will definitely be meted with just punishment by our people:
‘You must be broken!’
The verse affirms the belief in victory. We won because we had the righteous power to fight the enemy to protect the rivers and mountains of the South. Victory is because we recognize that our people have a patriotic tradition and an indomitable heroic spirit of solidarity against foreign invaders. Victory was because our generals were strategic and courageous in fighting the enemy to preserve their homeland.
'Must be destroyed' means being beaten to pieces, without a single piece of armor remaining. 'Definitely broken' is a humiliating defeat. Historical reality has eloquently proven Ly Thuong Kiet's verse. Cau River and Nhu Nguyet wharf are the graves of tens of thousands of Northern invaders. Faced with the thunderous response of our troops, Quach Quy had to flee, suffering a humiliating defeat. The Song Cau - Nhu Nguyet victory is one of the brilliant golden pages of Dai Viet's history.
The poem 'Southern Rivers and Mountains' is still known as the poem 'God'. Ly Thuong Kiet, with the strategic talent of a military and civilized military man, imbued the poem with a divine color, which had the effect of encouraging soldiers to fight the enemy with the sacred belief that 'The rivers and mountains of the South' have been ' Challenging the heavenly book to divide the land'.
The poem is written in a seven-line style. The poetic voice is sharp, angry, and eloquent. It carries both a historical mission as a song to save the country and as the first declaration of independence of Dai Viet. The poem is the voice of patriotism and national pride of our people. It represents the will and strength of Vietnam. 'Nam Quoc Son Ha' is an epic anti-invasion song that shows the mettle and will to be independent and strong of the country and the Vietnamese people. It is the song of 'Thousand Years of Mountains and Rivers'...
Source: more: Analysis of patriotism through two poems Country by Nguyen Dinh Thi and Nguyen Khoa Diem
|
Phân tích bài thơ Nam quốc sơn hà cực hay và sâu sắc
Hướng dẫn
Núi sông nước Nam
‘Núi sông Nam Việt vua Nam ở,
Vằng vặc sách Trời chia xử sở.
Giặc dữ cớ sao phạm đến đây,
Chúng mày nhất định phải tan vố’
(Lê Thước – Nam Trân dịch)
Hai câu thơ đầu nói về núi sông nước Nam, đất nước Việt Nam là nơi ‘Num đế cư’ (vua Nam ở). Hai chữ Nam đế đối sánh với Bắc đế; Nam đế hùng cứ một phương chứ không phải chư hầu của Thiên triều. Vua Nam là đại diện cho uy quyền và quyền lợi tối cao của Đại Việt, cho nhân dân ta. Núi sông nước Nam thuộc chủ quyền của Nam đế, có kinh thành Thăng Long, có nền độc lập vững bền… Không những thế, núi sông nước Nam đã được ‘định phận’, đã được ghi rõ ở sách Trời, đã được ‘sách Trời chia xứ sở’, nghĩa là có lãnh thổ riêng, biên giới, bờ cõi riêng.
Hai chữ ‘sách Trời’ (thiên thư) trong câu thơ thứ hai gợi ra màu sắc thiêng liêng với bao niềm tin mãnh liệt trong lòng người, vần thơ vang lên như một lời
Tuyên ngôn về chủ quyền thiêng liêng của Đại Việt:
‘Núi sông Nam Việt vua Nam ở,
Vằng vặc sách Trời chia xứ sở’
(Nam quốc sơn hà Nam đế cư,
Tiệt nhiên định phận tại Thiên thư)
Từ nhận thức và niềm tin ấy về sông núi nước Nam, Lí Thường Kiệt căm thù lên án hành động xâm lược đầy tội ác, tham vọng bành trướng phi nghĩa của giặc Tống. Chúng âm mưu biến sông núi nước Nam thành quận, huyện của Trung Quốc. Hành động xâm lược của chúng đã làm trái ý Trời, đã xúc phạm đến dân tộc ta. Câu hỏi kết tội lũ giặc đã vang lên đanh thép, đầy phẫn nộ:
‘Giặc dữ cớ sao phạm đến đây?’
(Như hà nghịch lổ lai xâm phạm)
Vị anh hùng dân tộc đã nghiêm khắc cảnh cáo lũ giặc phương Bắc và chỉ rõ, chúng sẽ bị nhân dân ta đánh cho tơi bời, chúng sẽ chuốc lấy thất bại nhục nhã: ‘Chúng mày nhất định phải tan vơ’
(Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư)
Hai câu 3, 4 có giọng thơ đanh thép hùng hồn thể hiện tinh thần đoàn kết chiến đấu của nhàn dân ta quyết tâm giáng trả quân Tống xâm lược những đòn chí mạng để bảo vệ sông núi nước Nam. Chiến thắng Sông Cầu – Như Nguyệt năm 1076 là minh chứng hùng hồn cho ý thơ trên. Triệu Tiết, Quách Quỳ' cùng hơn 20 vạn quàn Tống đã bị quân dân Đại Việt đánh bại, quét sạch khỏi bờ cõi.
‘Nam quốc sơn hà’là bài ca yêu nước chống xâm lăng. Bài thơ đã khẳng định chủ quyền dân tộc, ca ngợi sức mạnh chiến đấu để bảo vệ đất nước Đại Việt. Với nội dung ấy, bài thơ ‘Nam quốc sơn hà’ mang ý nghĩa lịch sử như một Bản Tuyên ngôn độc lập lần thứ nhất của dân tộc Việt Nam.
Tên tuổi người anh hùng Lí Thường Kiệt cùng với bài thơ ‘Nam quốc sơn hà’ và chiến thắng Sông Cầu – Như Nguyệt (1076) mãi mãi chói sáng trong tâm hồn dãn tộc.
Nguồn: thêm: Phân tích những đặc điểm cơ bản của văn học Việt Nam giai đoạn 1945 – 1975.
|
Analyze the poem Nam Quoc Son Ha extremely well and deeply
Instruct
Southern mountains and rivers
'The mountains and rivers of Nam Viet where the king of Nam lives,
Confused about the book of Heaven's division of affairs.
Why did the evil enemy commit this crime?
We will definitely be ruined'
(Translated by Le Thuoc – Nam Tran)
The first two verses talk about the mountains and rivers of the South, the country of Vietnam is where 'Num de resides' (the King of the South resides). The two words Southern Emperor compare with Northern Emperor; The Southern Emperor is a hero in one direction, not a vassal of the Heavenly Dynasty. King Nam represents the supreme authority and interests of Dai Viet and our people. The mountains and rivers of the South belong to the sovereignty of the Southern Emperor, there is the capital Thang Long, and there is a strong independence... Not only that, the mountains and rivers of the South have been 'destined', clearly recorded in the book of Heaven, and have been 'destined'. The book of Heaven divides the country', meaning to have its own territory, borders, and boundaries.
The two words 'heavenly book' (heavenly book) in the second verse evoke sacred colors with strong beliefs in people's hearts, the poem sounds like a word.
Declaration on the sacred sovereignty of Dai Viet:
'The mountains and rivers of Nam Viet where the king of Nam lives,
Confused about the book 'Heaven divides the land'
(The country of the mountains and rivers of the South,
However the natural pasteurized at a department)
From that awareness and belief about the rivers and mountains of the South, Ly Thuong Kiet hatefully condemned the Song invaders' criminal acts of aggression and unjust ambitions for expansion. They plot to turn the rivers and mountains of the South into districts of China. Their act of aggression went against God's will and offended our people. The question accusing the enemy rang out sharply and full of indignation:
'Why did the evil enemy commit this crime?'
(Like mischievous and trespassing)
The national hero sternly warned the Northern invaders and pointed out that they would be beaten to a pulp by our people, and they would suffer a humiliating defeat: 'You will definitely be destroyed'.
(Anhydrous acts as being unbeaten damaged craft)
The two verses 3 and 4 have a strong and eloquent poetic voice, expressing the solidarity and fighting spirit of our people, determined to strike back the invading Song army with fatal blows to protect the rivers and mountains of the South. The Song Cau - Nhu Nguyet victory in 1076 is eloquent proof of the above poetic idea. Trieu Tiet, Quach Quy and more than 200,000 Song Quan were defeated by Dai Viet's army and people, wiped out from the land.
'Nam Quoc Son Ha' is a patriotic song against invasion. The poem affirmed national sovereignty and praised the fighting power to protect the country of Dai Viet. With that content, the poem 'Nam Quoc Son Ha' has historical significance as the first Declaration of Independence of the Vietnamese people.
The name of hero Ly Thuong Kiet along with the poem 'Nam Quoc Son Ha' and the victory of Song Cau - Nhu Nguyet (1076) forever shine in the souls of the people.
Source: more: Analysis of basic characteristics of Vietnamese literature in the period 1945 - 1975.
|
Phân tích bài thơ Ngày xuân dặn các con của Nguyễn Khuyến
Hướng dẫn
Nguyễn Khuyến để lại nhiều thơ chữ Hán và chữ Nôm. Riêng về mảng thơ viết về gia đình đã có hàng chục bài; bài nào cũng ân tình, ân cần và tha thiết. Chùm thơ “Ngày xuân dạy các con” gồm có hai bài theo thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật Giọng thơ nhẹ nhàng, ấm áp bao tình thương. Bài thơ dịch của Vũ Mộng Hùng được đánh giá là bài thơ dịch hay nhất.
Nguyễn Khuyến dặn các con giữ lấy nghiệp nhà: nghiệp nho gia, thanh bạch và cần kiệm. Đó là nội dung bài thơ “Ngày xuân dạy các con”-l này.
Câu phá đề nói năm mới vừa sang, mùa xuân đã về. Xuân về nên có nhiều xuân cảm. Càu thừa đề nói rõ nguồn xuân cảm ấy:
‘Tuy nghèo ta vẫn mến nhà ta”
Nhiều tài liệu cho biết: thân sinh Nguyễn Khuyến là một ông đồ nghèo. Vợ Nguyễn Khuyến là một phụ nữ đảm đang “hay lam hay làm, thắt lưng bó qua, xắn váy quai cồng, tất tả chân đăm đá chân chiêu…”. Nhà nghèo, bà từng bán thêm chiếc yếm để chạy đủ tiền cho chồng đi thi; khi chồng đã đỗ ông Nghè, vinh quy, thì vợ đang cấy mướn ở một đồng xa, mới chạy tắt đồng về. Thuở thiếu thời, Nguyễn Khuyến có lúc phải vừa đánh dậm vừa đi học. Sau hơn mười năm làm quan, Nguyễn Khuyến trở về làng cũ sống cuộc đời thanh bạch trong “Năm gian nhà cỏ thấp le te”, nơi vườn Bùi thuộc vùng đồng chiêm nước trũng huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam. Nguyễn Khuyến dặn các con giữ lấy gia phong nếp nhà: “Tuy nghèo ta vẫn mến nhà ta”. Năm chữ Hán “ngô tự ái ngô lư” thể hiện một cách kín đáo, thâm trầm niềm tự hào về nghiệp nhà nho gia thanh bạch.
Hai câu 3, 4 trong phần thực, người cha nói rõ với các con về cái sự nghèo của nhà mình. Chẳng có ruộng tứ bề, vàng bạc đầy kho, mà sau khi đi làm quan xa, lui về “vườn Bùi chốn cũ” gia sản chỉ có “không đầy chín sào đất” và “một bó sách” của gia tiên để lại. Thật là thanh bạch đáng kính. Vũ Mộng Hùng đã dịch rất hay hai câu thơ đăng đối hài hòa:
“Chín sào tư thổ là nơi ở,
Một bố tàn thư ấy nghiệp nhà”
Mới đọc qua phần luận tưởng như tả cảnh. Thời tiết không thuận, trời u ám “khói dày” lại “mưa ít”. Núi để làm bạn thì núi trở thành xa tắp trong những ngày đầu xuân. Cúc là bạn cũ thì cúc cũng chỉ nở lơ thơ cạnh tường. Thoáng một chút cô đơn. Hình ảnh người cha có tâm hồn thanh cao, trong sáng, có phong thái ung dung hiện lên sau vần thơ:
Xem thêm: Cảm nhận về tình yêu Sài Gòn qua Sài Gòn tôi yêu của Minh Hương“Trước cửa khói dày, non khuất bóng,
Bên tường mưa ít, cúc thưa hoa”
Phần luận mang tính hàm nghĩa nhất là hai thi liệu “sơn sắc” (sắc núi) và “cúc hoa” (hoa cúc). Nó đem đến liên tưởng về Đào Tiềm (365 – 427), một danh sĩ cao khiết ở đời Tấn; người mà nhà thơ Nguyễn Khuyến hay nhắc đến: “Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào” (Thu vịnh), “Thơ Đào ngâm vịnh đưa câu rượu” (Vịnh mùa hè),… Sắc núi và hoa cúc trong thơ Nguyễn Khuyến gợi nhớ đến những vần thơ của Đào Tiềm:
“Thái cúc đông li hạ,
Du nhiên kiến Nam sơn”
(Hái cúc dưới giậu đông,
Thư thái ngắm núi Nam)
(“Ẩm tửu”)
Nguyễn Khuyến đã noi gương Đào Tiềm để giữ vững khí tiết và nếp sống thanh bần của một nhà nho giữa thời loạn lạc. Các con cũng nên noi gương cha để giữ lấy nghiệp nhà. Đó là tính hàm nghĩa của phần luận bài thơ “Ngày xuân dạy các con”-ỉ.
Muốn nối chí cha thì các con phải biết chuyên cần, chăm chỉ đèn sách, nghiên bút, phải biết sống cuộc đời giản dị, cần kiệm. Nhẹ nhàng mà thấm thía, cảm động:
“Các con nối chí cha nên biết:
Nghiên bút đừng quên lúa, đậu, cà”
“Đừng quên lúa, đậu, cà” là đừng quên nghề nông, phải biết gắn bó với quê hương ruộng đồng, chan hòa với chốn quê… Trong bài số 2 “Ngày xuân dạy các con”, Nguyễn Khuyến phàn nàn giữa thời loạn lạc cha đã già yếu “thếmà các con hãy còn say sưa đàn hát mãi”:
“Lẩn thẩn lấy chi đền tấc bóng,
Sao con đàn hát vẫn say sưa”
(Tác giả tựdịch)
Như ta đã biết, con cả của Nguyễn Khuyến là Nguyễn Hoan biết nối chí cha, giữ nghiệp nhà, thi đỗ Phó bảng. Con thành đạt sao bố mẹ không vui? Bài thơ “Ngày xuân dạy các con”-ỉ là một bài thơ rất hay; hay vì lời đạm mà tình sâu, đó là tình cha – con sâu nặng: hết lòng chăm sóc dạy bảo và thương yêu các con.
Nguồn: thêm: Bài văn tả mẹ gây sốc của cậu trò nghèo
|
Analysis of the poem Spring Day's Advice to Children by Nguyen Khuyen
Instruct
Nguyen Khuyen left behind many poems in Chinese and Nom. There are dozens of poems about family alone; Every song is thoughtful, considerate and earnest. The series of poems "Teaching Children on Spring Day" includes two poems in the seven-word, eight-phrase Tang Luat poem's tone. The poetic voice is gentle, warm, and full of love. Vu Mong Hung's translated poem is considered the best translated poem.
Nguyen Khuyen told his children to keep their family's karma: Confucian karma, purity and frugality. That is the content of the poem "Spring day teaches children"-l.
The sentence says that the new year has just begun and spring has come. Spring has come, so there are many spring feelings. The red flag clearly states the source of that spring feeling:
'Even though we are poor, we still love our home'
Many documents say: Nguyen Khuyen's father was a poor man. Nguyen Khuyen's wife is a hard-working woman who "works hard, wears a tight belt, rolls up her skirt with straps, wears tights and kicks her legs...". Her family was poor, so she used to sell extra bibs to make enough money for her husband to take the exam; When the husband passed Mr. Nghe and passed the exam, his wife, who was working as a farmer in a faraway field, just ran back from the field. When he was young, Nguyen Khuyen sometimes had to fight and go to school at the same time. After more than ten years as a mandarin, Nguyen Khuyen returned to his old village to live a pure life in "Five low grass houses", in Bui garden in the low-lying fields of Binh Luc district, Ha Nam province. Nguyen Khuyen told his children to keep the family's style: "Even though we are poor, we still love our family." The five Chinese characters "ngo self-love, ngo lu" discreetly and deeply express pride in the pure Confucian career.
In verses 3 and 4, in the real part, the father clearly tells his children about the poverty of his family. There were no fields on all sides, warehouses full of gold and silver, but after working as a mandarin, he returned to the "old Bui garden", his inheritance was only "less than nine acres of land" and "a bundle of books" left by his ancestors. It's so pure and respectable. Vu Mong Hung has very well translated two harmonious parallel verses:
“Nine acres of land is the place to live,
"A father who ruined his family's business"
Just reading through the essay seems like a scene description. The weather is not favorable, the sky is overcast with "thick smoke" and "little rain". Mountains to be friends, mountains become far away in the early days of spring. Chrysanthemums are old friends, but chrysanthemums only bloom carelessly next to the wall. A little lonely. The image of a father with a noble, pure soul and a leisurely demeanor appears after the poem:
See more: Feeling about the love of Saigon through My Beloved Saigon by Minh Huong "In front of the door, the smoke was thick, the mountains were out of sight,
There is little rain on the wall, chrysanthemum flowers are sparse."
The most meaningful part of the essay is the two poetic materials "mountain color" and "chrysanthemum" (chrysanthemum). It brings to mind Dao Tiem (365 - 427), a noble and noble scholar in the Jin Dynasty; the person that poet Nguyen Khuyen often mentioned: "When I think about it, I feel ashamed of Mr. Dao" (Thu Vinh), "Dao's poetry recites the poem to bring wine" (Summer Bay),... The colors of mountains and chrysanthemums in Nguyen Khuyen's poetry evoke Remember Dao Tiem's poems:
“Thai chrysanthemum winter li ha,
Traveling to the South Mountain"
(Pick chrysanthemums under the winter hedge,
Relax watching Nam Mountain)
(“Damp Wine”)
Nguyen Khuyen followed Dao Tiem's example to maintain the dignity and poor lifestyle of a Confucian scholar in the midst of chaos. Children should also follow their father's example to maintain the family's karma. That is the meaning of the essay of the poem "Spring day teaches children"-il.
If you want to follow your father's will, you must know how to be diligent, diligently study books and pens, and know how to live a simple, frugal life. Gentle yet profound and touching:
“Children who follow their father's will should know:
When writing, don't forget rice, beans, and eggplant."
"Don't forget rice, beans, and eggplant" means don't forget farming, must know how to stick with the homeland and the fields, be in harmony with the countryside... In article number 2 "Teaching children on spring days", Nguyen Khuyen complains in the midst of chaos. Lost father is old and weak "yet the children are still passionate about playing and singing":
"If you're wandering around, what's the cost of losing your footing?
Why are you still drunk singing male"
(Author's own translation)
As we know, Nguyen Khuyen's eldest son, Nguyen Hoan, knew how to follow in his father's footsteps, maintain the family business, and pass the Vice Ranking exam. If your child is successful, why aren't your parents happy? The poem "Spring Day Teaches Children" is a very good poem; Or because of the simple words but deep love, that is the deep father-child love: wholeheartedly caring for, teaching and loving the children.
Source: more: Poor student's shocking essay describing his mother
|
Phân tích bài thơ Ngắm Trăng (Vọng Nguyệt) của Hồ Chí Minh
Hướng dẫn
– Nhà thơ xưa thường có hoa và rượu lúc thưởng trăng. Những thứ ấy không có nhưng trăng bên ngoài thì vẫn đẹp. Thế là xuất hiện một thoáng bối rối làm thế nào để thưởng trăng đây?
– Nhân/ nguyệt – song/ song – minh nguyệt/ thi gia trong hai câu 3 và 4 đối nhau. Cũng lù nhân, cũng là nguyệt nhưng nếu cặp đối ở đầu hai câu chí lù nêu tên sự vật thì cặp đổi ở cuối hai câu lại có thêm tính chất của sự vật, và từ đó làm tăng thêm sức truyền căm của hai câu thơ. Nhăn {người tù) ỉ rở thành thi gia thì nguyệt trở thành minh nguyệt, và được nhân hoa.
I. Từ hang Pác Bó, thang 8 – 1942 Hồ Chí Minh bí mật sang Trung Quốc để vận động các nước viện trợ cho lực lượng cách mạng Việt Nam thì ông bị chính quyền địa phương bắt ở gần thị trấn Túc Vinh vì bị nghi “là gián điệp". Suốt một năm trong cảnh tù đày, qua nhiều nhà lao của 13 huyện thuộc tỉnh Quảng Tây, Hồ Chí Minh đã:
Ngày dài ngâm ngợi chơ khuây,
Vừa ngâm vừa đợi đến ngày tự do.
(Mở đầu tập nhật ký)
133 bài thơ trong Nhật ký trong tù, phần lớn là thơ tứ tuyệt được viết bằng chữ Hán về nhiều đề tài khác nhau đã chứng minh tâm hồn nhạy cảm và tài làm thơ của một lãnh tụ cách mạng. Đề tài về Trăng, nhà thơ viết mấy bài, trong đó có bài Ngắm trăng (Vọng nguyệt).
II.Nhà thơ Nam Trân dịch qua tiếng Việt:
Trong từ không rượu cũng không hoa,
Cảnh đẹp đêm nay, khó hững hờ;
Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ,
Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ.
So sánh với nguyên tác bản dịch tiếng Việt của Nam Trân khá sát nghĩa và đúng với thể thơ thất ngôn tứ tuyệt. Nguyên tác câu Khai, Hồ Chí Minh viết:
Ngục trung vô tửu diệc vô hoa
Nhà thơ Nam Trân dịch:
Trong tù không rượu cũng không hoa
Câu thơ giới thiệu nơi chốn và vật dụng cần cho nhà thơ lúc ấy. Nơi chốn ấy là “ngục trung – trong tù". Thi đúng rồi, nhà tù làm gì cố rượu với hoa. Nhưng cần rượu với hoa để làm gì mới được chứ? Như thế ý ở câu Khai chỉ gợi mở một cách kín đáo, nhẹ nhàng như tạo sự lôi cuốn người đọc đọc tiếp câu thừa:
Đôi thử lương tiêu nại nhược hà?
Câu thơ trong nguyên tác là câu nghi vấn: Trước cảnh đẹp đêm nay biết làm thế nào? Dịch qua tiếng Việt:
Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ;
Xem thêm: Vẻ đẹp của người lao động thể hiện qua các bài ca dao than thân và yêu thương tình nghĩa đã học trong chương trìnhCâu thơ thành câu xác định, từ nghi vấn “biết làm thê'nào?"sángxác định “khó hững hờ”. Hình thức câu văn thì có khác nhưng ý văn thì tương dương vì cùng diễn tả tâm trạng của con người trước cảnh đẹp. Nhưng cảnh đẹp ấy là cảnh gì? Nếu bài thơ chấm dứt ở câu này thì người đọc cũng khó đoán ra được chính xác cảnh đẹp ở trong tù, nơi chẳng có rượu mà cũng chẳng có hoa. Mà cũng chẳng đoán ra sự liên quan giữa rượu, hoa và cảnh đẹp. Điều ấy khêu gợi trí tò mò của người đọc buộc họ phải đọc tiếp câu chuyển:
Nhân hướng song tiền khán minh nguyệt.
Người hướng ra trước song ngắm trăng sáng. Nghĩa câu thơ chữ Hán là như thế. Còn câu dịch ra tiếng Việt là:
Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ
À ra thế! “Cảnh đẹp đêm nay" chính là cảnh “trăng soi ngoài cửa sổ”, hay “trăng soi ngoài song cửa". Mà với những đêm trăng đẹp tuyệt vời như thế, các nhà thơ xưa thường bày hoa và rượu ra để nhâm nhi vài chung rượu nồng, ngửi mùi hương của hoa, lặng nhìn trăng sáng, và đôi khi cao hứng còn làm thơ. “Đêm nay”, có lẽ nhà thơ Hồ Chí Minh cũng mang tâm cảnh ấy, nhưng không quên thực tại là mình đang ở tù nên tiếc là… Thế nhưng cái thiếu thôn kia không ngăn được “Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ". Câu thơ mang hai ý nghĩa với con người, với nhà thơ thì câu thơ biểu hiện sức mạnh của tình yêu thiên nhiên, yêu cái đẹp. Với cảnh thì làm tăng thêm nét đẹp, nét quyến rũ của đêm trăng.
Bài thơ khép lại bởi câu hợp:
Nguyệt tòng song khích khán thi gia
Câu thơ dịch:
Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ.
Cả câu thơ chữ Hán lẫn tiếng Việt đều sử dụng nghệ thuật nhân hóa. Bao nhiêu thực tại: nhà tù, rượu, hoa đều biến mâ't, đều chẳng còn ý nghĩa gì. Trong giây phút ấy, chỉ còn Người với Trăng. Nếu ở câu chuyển nhà thơ viết “nhân khán minh nguyệt – người ngắm trăng soi (sang)" bằng ngôn ngữ miêu tả thông thường thì d câu hợp nhà thơ đã thổi hồn vào trăng bằng nghệ thuật nhân hóa: “nguyệt tòng khán thi gia – trăng nhòm ngắm nhà thơ".
III. Sau này, dù bận trăm công nghìn việc trong những năm đầu của thời kì kháng chiến, Hồ Chí Minh vẫn không quên trăng, vẫn dành cho trăng những vần thơ đẹp, như trong bài Cảnh khuya'.
Tiếng suối trong như tiếng hát xa Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa.
Ngay cả khi bận rộn nhất, tập trung nhất như “bàn bạc việc quân” chẳng hạn, nhà thơ vẫn để tâm đến “lổng lộng trăng soi – bát ngát trăng ngân”, nhất là lúc chờ Tin thắng trận, Hồ Chí Minh vẫn không muốn làm cho trăng buồn.
Trăng vào cửa sổ đòi thơ,
Việc quân đang bận xin chờ hôm sau.
Từ Ngắm trăngtrong Nhật kí trong tùđến những bài thơ sau này, người đọc có thể cảm nhận trăng là người bạn tri kỉ của nhà thơ vậy.
Nguồn: thêm: Bình giảng đoạn thơ sau trong bài thơ "Tây Tiến" của Quang Dũng: “Sông Mã xã rồi Tây Tiên ơi!(...) Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”
|
Analysis of the poem Watching the Moon (Vong Nguyet) by Ho Chi Minh
Instruct
– Ancient poets often had flowers and wine when enjoying the moon. Those things don't exist, but the moon outside is still beautiful. So there appeared a moment of confusion, how to enjoy the moon?
– Nhan/ moon – song/ song – Minh Nguyet/ Poet in verses 3 and 4 are opposite each other. It's also the moon, but if the couplet at the beginning of the two verses even names the thing, the pair at the end of the two sentences has more of the nature of the thing, and thereby increases the power of the two verses. . When Nhe (prisoner) becomes a poet, the moon becomes bright moon, and is blessed with flowers.
I. From Pac Bo cave, August 1942, Ho Chi Minh secretly went to China to mobilize other countries to aid the Vietnamese revolutionary forces when he was arrested by local authorities near Tuc Vinh town on suspicion of "is a spy". During a year in prison, through many prisons in 13 districts of Guangxi province, Ho Chi Minh:
Long days of contemplating and relaxing,
Just soak and wait for the day of freedom.
(Opening diary)
The 133 poems in the Prison Diary, mostly quatrains written in Chinese on many different topics, demonstrate the sensitive soul and poetic talent of a revolutionary leader. On the topic of the Moon, the poet wrote several poems, including Watching the Moon (Vong Nguyet).
II. Poet Nam Tran translated into Vietnamese:
In words there is neither wine nor flowers,
The beautiful scene tonight is hard to ignore;
People look at the moon shining outside the window,
Moon peeked poet watching the door.
Compared to the original, Nam Tran's Vietnamese translation is quite close to the meaning and true to the four-line four-line poem. In the original work of Khai, Ho Chi Minh wrote:
In prison, there are no drinks, no herons, no flowers
Poet Nam Tran translated:
In prison there is neither alcohol nor flowers
The poem introduces the place and items needed by the poet at that time. That place is "intermediate prison - inside a prison". That's right, there's no need for wine and flowers in prison. But what is the need for wine and flowers? So the idea in Khai's sentence is only hinted at in a discreet way. , gently as if to attract the reader to continue reading the extra sentence:
Double test salary to avoid complaints?
The poem in the original work is a question: Faced with the beautiful scene tonight, what should I do? Translated into Vietnamese:
The beautiful scene tonight is hard to ignore;
See more: The beauty of workers is shown through the folk songs of self-pity and love and gratitude learned in the program. The poem becomes a definite sentence, from the question "how can I do it?" to the definite "hard to bear" The form of the sentence is different, but the meaning is the same because it describes the human mood in front of the beautiful scene. But if the poem ends at this sentence, it will be difficult for the reader correctly guessing the beautiful scene in prison, where there is neither wine nor flowers, nor the connection between wine, flowers and beautiful scenery. That piques the reader's curiosity Continue reading the sentence:
People look towards the two fronts to see the bright moon.
People looked out in front of the river to watch the bright moon. The meaning of the Chinese poem is like that. The sentence translated into Vietnamese is:
People look at the moonlight outside the window
Ah so! "The beautiful scene tonight" is the scene of "the moon shining outside the window", or "the moon shining outside the window". On such beautiful moonlit nights, ancient poets often set out flowers and wine to sip some strong wine, smell the scent of flowers, quietly look at the bright moon, and sometimes even write poetry when they were excited. "Tonight", perhaps the poet Ho Chi Minh also had that feeling, but did not forget the reality that he was in prison, so unfortunately... But that young village could not stop "The person watching the moon shining outside the window" The poem has two meanings for people. For the poet, the poem represents the power of love for nature and love for beauty. With the scene, it enhances the beauty and charm of the moonlit night.
The poem ends with the following sentence:
Nguyet encouraged the poet's audience
Translated verse:
Moon peeked poet watching the door.
Both Chinese and Vietnamese verses use the art of personification. So many realities: prisons, alcohol, flowers all disappear, they no longer have any meaning. In that moment, there were only Him and the Moon left. If in the transition sentence, the poet writes "the person watching the moon shines (sang)" in ordinary descriptive language, then in the next sentence the poet has breathed soul into the moon with the art of personification: "the moon is watching the moon (sang)". "The moon is looking at the poet".
III. Later, despite being busy with hundreds of thousands of jobs in the early years of the resistance period, Ho Chi Minh still did not forget the moon, and still dedicated beautiful poems to the moon, as in the song Late Night'.
The sound of the stream is as clear as singing in the distance. Moon cages, trees, shadows of flower cages.
Even when he was the busiest and most focused, like "discussing military affairs", for example, the poet still paid attention to the "splendid moon shining - the immense silver moon", especially when waiting for news of victory, Ho Chi Minh still don't want to make the moon sad.
The moon comes into the window asking for poetry,
The army is busy, please wait until the next day.
From Watching the Moon in Prison Diary to later poems, readers can feel that the moon is the poet's soulmate.
Source: more: Commentary on the following verse in the poem "Tay Tien" by Quang Dung: "The Ma River is commune with Tay Tien!(...) Mai Chau is the season when you are fragrant with sticky rice"
|
Bài thơ Ngắm trăng là một bài thơ độc đáo của Hồ Chí Minh. Vẫn giữ được cái phong thái ung dung, tự tại, Hồ Chí Minh đã làm thơ trong hoàn cảnh tù lao thiếu thốn đủ thứ nhưng Người vẫn nhìn ngắm được cảnh đẹp của trăng, của thiên nhiên phía ngoài song sắt.
Trước khi bước vào phân tích bài thơ Ngắm trăng, các em hãy cùng với Kho tàng văn mẫu lập dàn ý phân tích bài thơ Ngắm trăng. Việc lập dàn ý là quan trọng giúp các em có thể làm bài văn phân tích tốt nhất.
I. Lập dàn ý phân tích bài thơ Ngắm trăng
1. Mở bài
– Giới thiệu về Chủ tịch Hồ Chí Minh và bài thơ Ngắm trăng. Có thể nêu lên hoàn cảnh Bác sáng tác bài thơ để thấy được điểm đặc biệt của bài thơ này.
2. Thân bài phân tích bài thơ Ngắm trăng
a. Hai câu đầu: Tâm trạng của nhà thơ chuẩn bị đón trăng
– Không gian: trong tù, gợi lên hình ảnh người tù bị xiềng xích, mất tự do.
– Thân thể mất tự do nhưng tâm hồn thì không vì vậy người tù vẫn bồi hồi đón trăng.
– Cảnh ngộ đón trăng: cái gì cũng không có.
– Đón trăng bằng một tình yêu giản dị.
b. Hai câu sau: Cảnh ngắm trăng
– Cả trăng và người dường như đang hướng về nhau, ngắm nhìn nhau.
– Song sắt nhà tù trở nên vô nghĩa, người và trăng như xích lại gần nhau, xóa nhòa khoảng cách địa lý.
– Bác chưa bao giờ nhận mình là nhà thơ nhưng trong bài thơ này Người tự xưng là nhà thơ có lẽ là để xứng tầm với vẻ đẹp của ánh trăng.Xem thêm: Hãy sử dụng câu sau đây làm câu chủ đề để viết một đoạn văn hoàn chỉnh (khoảng 10 - 15 câu): "Đọc truyện ngắn Lặng lẽ Sa Pa ta thấy cái lặng lẽ chỉ là bề ngoài giấu kín nhịp sống sôi động... của những người lao dộng hết lòng vì dất nưởc"
3. Kết luận
– Khẳng định nội dung bài thơ Ngắm trăng và nêu cảm nhận của em về bài thơ này.
Bài viết liên quan:
>> Phân tích bài thơ Quê hương của Tế Hanh (Có dàn ý chi tiết)
II. Bài làm phân tích bài thơ Ngắm trăng
Từ xưa đến nay, ánh trăng đã trở thành nguồn cảm hứng của rất nhiều thi nhân. Trăng cũng là đề tài muôn thuở trong hội họa hay trong âm nhạc. Đặc biệt trong thơ ca, có nhiều bài thơ hay lấy cảm hứng từ ánh trăng, các thi sĩ coi trăng như người bạn tri kỉ, tâm tình. Bác Hồ của chúng ta cũng vậy. Người đã có một sáng tác lấy cảm hứng từ ánh trăng đó là bài thơ Ngắm trăng. Điều đặc biệt của bài thơ này là nó được sáng tác ở trong tù.
Người đọc có thể thấy được hoàn cảnh của Bác ngay từ câu thơ mở đầu là:
Trong tù không rượu cũng không hoa
Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ
Trong tù, đó là hoàn cảnh thực tế mà Bác đang phải trải qua lúc bấy giờ. Dù Người không viết nhiều về mình nhưng ai cũng hiểu rằng ở trong tù thì không thể vui sướng được. Đó là chưa kể đến chuyện người tù phải chịu cảnh xiềng xích, còng chân, còng tay, thân xác bị giam cầm trong 4 bức tường lao lạnh lẽo và bị mất tự do. Chuyện không rượu, không hoa ở trong hoàn cảnh lao tù ấy cũng là điều hết sức dễ hiểu. Ở trong hoàn cảnh như vậy, con người ta thường dễ nảy sinh những suy nghĩ tiêu cực, buồn chán, tủi hờn. Nhưng đó là người thường. Còn với Hồ Chí Minh thì khác. Người có một trái tim vĩ đại, một tâm hồn yêu đời, yêu thiên nhiên tha thiết. Chính vì vậy, câu thơ thứ hai là sự chuyển biến tâm lý rõ rệt của tác giả. Bỏ mặc hết tất thảy những khó khăn xung quanh mình, Người hướng về phía ô cửa sổ nhỏ bé và ngắm nhìn khung cảnh đêm trăng. Dù ô cửa rất nhỏ thôi nhưng cũng đủ để cho Người phải thốt lên:Xem thêm: Suy nghĩ của em về hai chữ ‘'Nhường nhịn"
Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ
Phân tích bài thơ Ngắm trăng
Chính ánh trăng đã giúp người tù thoát khỏi tâm trạng u ám của mình, đối diện với ánh trăng Người quê mất việc mình đang là tù nhân, đang phải chịu gông cùm xiềng xích. Đối diện với ánh trăng, Người như được đối diện với một người bạn thân, một vị khách cũ ghé chơi nhà. Câu thơ lúc này giống như một lời tạ tội với trăng bởi vì trăng đến chơi mà không có gì để tiếp đón. Ánh trăng thể hiện khát vọng tự do. Nó như mời gọi nhà thơ hãy bước ra ngoài này để ngắm nhìn cảnh đẹp. Nhưng hoàn cảnh không cho phép điều đó xảy ra. Chính vì vậy mà Người chỉ âm thầm ngắm trăng, bình thản và lặng lẽ:
Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ
Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ
Lúc này, Người đã thực sự quên mất hoàn cảnh ngục tù của mình mà tự nhận mình là nhà thơ. Có thể thấy, bốn bức tường giam chật hẹp không thể ngăn được cảm xúc mênh mông của Người. Bác đã thả hồn mình theo ánh trăng, gửi gắm vào trong ánh trăng khát vọng của sự tự do. Đó là khát khao cháy bỏng của một vị lãnh tụ mang trong mình nỗi lo vì dân, vì nước. Chỉ đơn giản với hình ảnh Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ nhưng đằng sau đó nhìn đó, ta hiểu được Bác đang chất chứa trong lòng mình nhiều nỗi suy tư. Nhìn thì có vẻ ung dung, tự tại đấy nhưng không phải. Bài thơ viết trong cảnh đêm khuya thanh tĩnh nhưng lại không có bất cứ âm thanh nào xuất hiện. Sự im lặng của cảnh vật càng làm tặng thêm vẻ đẹp của tâm hồn Bác. Đáp lại Người ngồi ngắm trăng, trăng cũng nhòm qua khoe cửa để nhìn ngắm nhà thơ.Xem thêm: Kể về một việc tốt mà em đã khiến bố mẹ vui lòng
Bài thơ Ngắm trăng của Hồ Chí Minh tuy có những khác biệt so với các bài thơ khác của Bác ở chỗ Bác tự nhận mình là thi nhân nhưng bài thơ vẫn toát lên được tâm hồn và nhân cách sống cao đẹp của Người. Có lẽ, Bác nhận mình là thi nhân là để tương xứng với vẻ đẹp của ánh trăng.
Như vậy là chúng ta đã cùng nhau lập dàn ý phân tích bài thơ Ngắm trăng của Hồ Chí Minh. Thông qua dàn ý chi chi tiết cùng với bài văn mẫu, hy vọng các em đã có cho mình kiến thức bổ ích để việc làm văn được tốt nhất.
Thu Thủy
|
The poem Watching the Moon is a unique poem by Ho Chi Minh. Still maintaining his leisurely and carefree demeanor, Ho Chi Minh wrote poetry in prison conditions lacking everything but he could still see the beauty of the moon and nature outside the bars.
Before starting to analyze the poem Watching the Moon, let's create an outline for analyzing the poem Watching the Moon with the Model Literature Treasury. Creating an outline is important to help you write the best analytical essay.
I. Create an outline to analyze the poem Watching the Moon
1. Open the lesson
– Introduction to President Ho Chi Minh and the poem Watching the Moon. We can mention the circumstances in which Uncle Ho composed the poem to see the special features of this poem.
2. Body analysis of the poem Watching the Moon
a. First two sentences: The poet's mood prepares to welcome the moon
– Space: in prison, evokes the image of prisoners chained and losing freedom.
- The body lost freedom but the soul did not, so the prisoner still anxiously welcomed the moon.
– The situation of welcoming the moon: nothing.
– Welcoming the moon with simple love.
b. Two sentences later: Moon view
– Both the moon and the person seem to be facing each other, looking at each other.
– The prison bars become meaningless, people and the moon seem to come closer together, erasing the geographical distance.
– I have never claimed to be a poet, but in this poem, the person who calls himself a poet is probably to match the beauty of the moonlight. See more: Use the following sentence as the topic sentence to write a poem. Complete paragraph (about 10 - 15 sentences): "Reading the short story Quiet Sa Pa, we see that the quiet is just a facade that hides the vibrant pace of life... of people who work wholeheartedly for their country"
3. Conclusion
– Affirm the content of the poem Watching the Moon and state your feelings about this poem.
Related articles:
>> Analysis of Te Hanh's poem Homeland (With detailed outline)
II. Essay analyzing the poem Watching the Moon
From ancient times until now, moonlight has become a source of inspiration for many poets. The moon is also an eternal theme in painting or music. Especially in poetry, there are many good poems inspired by moonlight, poets consider the moon as a close friend and confidant. So is our Uncle Ho. He wrote a composition inspired by moonlight, the poem Watching the Moon. The special thing about this poem is that it was composed in prison.
Readers can see Uncle Ho's situation right from the opening verse:
In prison there is neither alcohol nor flowers
The beautiful scene tonight is hard to ignore
In prison, that was the real situation that Uncle Ho was going through at that time. Although he did not write much about himself, everyone understands that being in prison cannot be happy. Not to mention the fact that the prisoner had to endure chains, handcuffs, and shackles, his body being imprisoned in four cold prison walls and losing his freedom. Being without alcohol or flowers in that prison situation is also very understandable. In such circumstances, people often easily develop negative thoughts, boredom, and sadness. But those are ordinary people. As for Ho Chi Minh, it's different. He has a great heart, a soul that loves life and nature passionately. Therefore, the second verse is a clear psychological change of the author. Ignoring all the difficulties around him, he turned towards the small window and looked at the moonlit night scene. Even though the doorway is very small, it is enough for him to say: See more: My thoughts on the two words "Yield"
The beautiful scene tonight is hard to ignore
Analyze the poem Watching the Moon
It was the moonlight that helped the prisoner escape his gloomy mood, facing the moonlight. The countryman who lost his job was a prisoner, suffering from shackles and chains. Facing the moonlight, he felt like he was facing a close friend, an old guest visiting his house. The poem at this time is like an apology to the moon because the moon comes to visit but has nothing to welcome. Moonlight represents the desire for freedom. It seems to invite the poet to step outside to see the beautiful scenery. But circumstances did not allow that to happen. That's why he just quietly looked at the moon, calmly and quietly:
People look at the moonlight outside the window
Moon peeked poet watching the door
At this time, he really forgot his prison situation and called himself a poet. It can be seen that the four narrow prison walls could not contain his immense emotions. He let his soul follow the moonlight, placing in the moonlight the desire for freedom. That is the burning desire of a leader who worries about the people and the country. Simply with the image of a person looking at the moon shining outside the window, but behind that look, we understand that Uncle Ho is harboring many thoughts in his heart. It looks leisurely and carefree, but it's not. The poem was written in a quiet late night scene but without any sound appearing. The silence of the scene further enhances the beauty of Uncle Ho's soul. Responding to the person sitting and looking at the moon, the moon also peeked through the door to look at the poet. See more: Tell about a good deed you did that made your parents happy
Although Ho Chi Minh's poem Watching the Moon has differences compared to Uncle Ho's other poems in that he considered himself a poet, the poem still exudes his soul and noble personality. Perhaps, Uncle Ho considered himself a poet to match the beauty of the moonlight.
So we have together created an outline to analyze the poem Watching the Moon by Ho Chi Minh. Through detailed outlines and sample essays, we hope you have gained useful knowledge for your best writing.
Thu Thuy
|
Đề bài: Phân tích bài thơ Ngắm Trăng của Hồ Chí Minh
Bài làm
Bác Hồ là một người yêu trăng và trong nhiều sáng tác của Người thì ánh trắng chính là nguồn cảm hứng chủ đạo để người bày tỏ tâm trạng, nỗi lòng của mình. Bài thơ Ngắm Trăng chính là một trong số đó.
Bài thơ được rút ra từ tập thơ Nhật Ký Trong Tù, một tập thơ được viết trong hoàn cảnh hết sức đặc biệt đó chính là Người bị chính phủ Tưởng Giới Thạch bắt giam. Chính vì thế hoàn cảnh Ngắm Trăng ở đây cũng rất đặc biệt đó chính là ở trong tù. Bài thơ được viết theo thể thất ngôn tứ tuyệt với ngôn từ hàm súc đã cho ta thấy được vẻ đẹp trong thơ ca và phong cách sống của chủ tịch Hồ Chính Minh. Bài thơ được viết bằng chữ Hán và bản dịch hay nhất đó chính là:
“Trong tù không rượu cũng không hoa
Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ
Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ
Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ”
Mở đầu bài thơ Bác đã giới thiệu về hoàn cảnh của mình lúc bấy giờ:
“Trong tù không rượu cũng không hoa
Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ”
Nhà thơ đang sống trong cảnh tù đày nhưng vẫn không thể ngăn cản thi hứng của Người. Bác đã giới thiệu cho người đọc thấy đực hoàn cảnh đó là trong tù, là nơi chẳng có rượu cũng chẳng có hoa thơm. Ấy nhưng tất cả những điều đó không hề ảnh hưởng gì tới chủ thể thể trữ tình. Đứng trước cảnh đẹp thì Bác vẫn thấy lòng mình bồi hồi, xúc động. Đặc biệt đó là ánh trăng, một người bạn tri kỷ với Người từ bấy lâu nay. Đối với một người thi sĩ thì trăng, rượu, hoa là những tri kỷ gắn liền với cuộc sống hằng ngày. Đó là ngắm trăng, là thưởng hoa, uống rượu là những thú vui tao nhã của những vị ẩn sĩ nơi thôn dã. Với Bác Hồ thì ngay cả đang ở trong hoàn cảnh cơ cực, mất tự do nhưng Người vẫn có cảm hứng làm thơ.Xem thêm: Triết lí nhân sinh của Nguyễn Bỉnh Khiêm trong bài thơ Nhàn
Phân tích bài thơ Ngắm Trăng
ở trong không gian chật hẹp cái mà nhà thơ thấy được đó chính là cảnh đẹp ban đêm ở ngoài khung cửa sổ. Trước cảnh đẹp ấy nhà thơ như tâm sự, giãi bày với thiên nhiên về hoàn cảnh trớ trêu của mình đó là “không rượu, không hoa”. Và trước cảnh đẹp ấy thì nhân vật trữ tình không khỏi “khó hững hờ” nên phải thốt lên lời khen ngợi đối với thiên nhiên. Chính nhờ cảnh đẹp ấy khiến cho nhà thơ vượt lên trên hiện thực khốc liệt, tăm tối để thưởng thức cái đẹp. Vốn chỉ có “ta với ta” nhưng là giữa Người với ánh trăng, điều này đã được thể hiện ở ngay trong hai câu thơ cuối:
“Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ
Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ”
Từ phòng giam tăm tối, Bác hướng ra bên ngoài để ngắm vầng trăng đang tỏa sáng trên cao. Dù chỉ ngắm trăng qua ô cửa sổ nhỏ xíu nhưng cũng không ngăn được thi hứng và không làm giảm bớt được vẻ đẹp của vầng trăng. Dù cho nhà giam lạnh lẽo với những bức tường ngăn cách nhưng cùng không thể ngăn cách hai người bạn tri kỷ. Qua song cửa sắt nhà thơ ngắm vầng trăng đồng thời vầng trăng cũng đang nhòm qua khe cửa để nhìn ngắm nhà thơ. Phòng giam chật hẹp dường như được bừng sáng bởi ánh trăng và không gian lạnh lẽo như được sưởi ấm. Nỗi lòng của người xa quê hương, của một người đang chịu cảnh tù đày nhưng tâm hồn vẫn lo lắng chuyện quốc gia, đại sự. Có lẽ do chính nỗi lòng chứa đầy tâm sự nên trong đêm khuya Người mới thao thức không ngủ được. Cũng qua đó ta thấy được tấm chân tình của Người với ánh trăng, thấy được niềm lạc quan, yêu cuộc sống, yêu tự do của Bác Hồ.Xem thêm: Giới thiệu một nét đẹp văn hoá của quê hương em
Bài thơ Ngắm Trăng chính là một bài thơ tiêu biểu cho hồn thơ phóng khoáng, tự do của Bác Hồ. Qua bài thơ ta thấy được một tình yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống mãnh liệt. Chính nhờ tình yêu ấy khiến Người có động lực vượt qua mọi hoàn cảnh tăm tối để thực hiện ước mơ, khát vọng của mình.
Loan Trương
|
Topic: Analysis of the poem Watching the Moon by Ho Chi Minh
Assignment
Uncle Ho was a lover of the moon and in many of his works, white light was the main source of inspiration for him to express his moods and feelings. The poem Watching the Moon is one of them.
The poem is taken from the poetry collection Prison Diary, a collection of poems written in a very special situation of being imprisoned by Chiang Kai-shek's government. That's why the situation for Moon Viewing here is also very special, it's in prison. The poem is written in seven-quatrain form with concise language, showing us the beauty of President Ho Chinh Minh's poetry and lifestyle. The poem is written in Chinese characters and the best translation is:
“In prison there is no alcohol or flowers
The beautiful scene tonight is hard to ignore
People look at the moonlight outside the window
Moon peeked poet watching the door"
At the beginning of the poem, Uncle Ho introduced his situation at that time:
“In prison there is no alcohol or flowers
The beautiful scenery tonight is hard to ignore"
The poet is living in prison but still cannot stop his poetic inspiration. He introduced the reader to that situation in prison, a place where there was neither wine nor fragrant flowers. But all of that has no effect on the lyrical subject. Standing in front of the beautiful scene, Uncle Ho still felt his heart moved and touched. Especially the moonlight, a close friend of Him for a long time. For a poet, the moon, wine, and flowers are soulmates associated with everyday life. Watching the moon, enjoying flowers, and drinking wine are elegant pleasures of hermits in the countryside. For Uncle Ho, even though he was in a miserable situation and lost freedom, he still had the inspiration to write poetry. See more: Nguyen Binh Khiem's philosophy of life in the poem Nhan
Analyze the poem Watching the Moon
In the narrow space, what the poet sees is the beautiful night scene outside the window. In front of that beautiful scene, the poet seemed to confide and confide to nature about his ironic situation of "no wine, no flowers". And in front of that beautiful scene, the lyrical character cannot help but "hardly be indifferent" so he has to exclaim praise for nature. It is thanks to that beautiful scene that makes the poet overcome the harsh and dark reality to enjoy the beauty. Originally there was only "me and I" but between Him and the moonlight, this was expressed right in the last two verses:
“People look at the moon shining outside the window
Moon peeked poet watching the door"
From the dark cell, Uncle Ho looked outside to see the moon shining high above. Even if you only look at the moon through a tiny window, it cannot stop you from being inspired and cannot reduce the beauty of the moon. Even though the prison is cold with walls separating it, it cannot separate two soulmates. Through the iron door, the poet looks at the moon while the moon is also peering through the door to look at the poet. The narrow cell seemed to be illuminated by moonlight and the cold space seemed to be heated. The feelings of a person far from home, of a person who is in prison but whose soul is still worried about national affairs and big events. Perhaps it was because his heart was filled with confidence that he could not sleep late at night. Through it, we can see his sincerity with the moonlight, see Uncle Ho's optimism, love for life, love for freedom. See more: Introducing a cultural beauty of my homeland
The poem Watching the Moon is a poem that represents Uncle Ho's liberal and free poetic soul. Through the poem we see a strong love for nature and life. It is thanks to that love that he has the motivation to overcome all dark situations to realize his dreams and aspirations.
Loan Truong
|
Bài thơ Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm thể hiện một triết lý sống nhàn. Nội dung bài thơ nhẹ nhàng mà yên bình, thể hiện được tâm thế ung dung, tự tại của một người đã từ quan về quê ở ẩn. Qua bài thơ này, chúng ta thấy được cốt cách thanh cao của Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Dàn ý chi tiết phân tích bài thơ Nhàn cùng với bài văn mẫu phân tích bài thơ Nhàn sẽ là một gợi ý hay, một tài liệu tham khảo hoàn chỉnh cho các em nhằm giúp các em hoàn thiện được kĩ năng viết của mình.
I. Lập dàn ý phân tích bài thơ Nhàn
1. Mở bài
– Giới thiệu về tác giả Nguyễn Bỉnh Khiêm và bài thơ Nhàn. Nếu qua nội dung của bài thơ và dẫn dắt vào phần thân bài.
2. Thân bài phân tích bài thơ Nhàn
a. Hai câu đề: Giới thiệu về cuộc sống nhàn
– Liệt kê và chỉ ra những vật dụng quen thuộc với người dân bình dị ở Việt Nam đó là mai, cuốc, cần câu.
– Sử dụng điệp từ, từ láy, nghệ thuật đối làm nổi bật lên quan niệm sống nhàn.
b. Hai câu thực: Triết lí về lẽ dại – khôn ở đời
– Sử dụng nghệ thuật đối để cho thấy những quan niệm khác nhau về lẽ sống ở đời.
– Sử dụng cách nói ngược đầy hóm hỉnh khiến cho người đọc phải suy ngẫm.
c. Hai câu luận
– Sử dụng nghệ thuật liệt kê nhằm miêu tả chân thực cuộc sống nhàn.
– Câu thơ hiện lên bức tranh về cuộc sống đời thường giản dị. Dù nghèo nhưng không hề khổ.
d. Hai câu kết
– Công danh, lợi lộc theo quan điểm của nhà thơ chỉ như một giấc mơ.
– Thể hiện sự coi thường vinh hoa, phú quý.
3. Kết luận
– Tổng quát nội dung bài thơ và nêu cảm nghĩ của em về bài thơ này.
II. Bài làm phân tích bài thơ Nhàn
Nhà thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm vẫn được người đời biết đến là trạng Trình. Ông là một nhà tri thức nho học lỗi lạc của nước ta thế kỉ 16. Để phản ứng với thời thế nhiễu nhương thời bấy giờ, nhà thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm đã đưa ra quan niệm sống nhàn. Bài thơ Nhàn của ông được rút ra từ tập Bạch Vân quốc ngữ thi là một tác phẩm nói lên quan niệm sống này của ông. Bài thơ được viết theo thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật gồm 8 câu, mỗi câu 7 chữ và câu thơ nào cũng nêu rõ được quan niệm sống nhàn của nhà thơ.Xem thêm: Thuyết minh về tác giả Nguyễn Du và tác phẩm Truyện Kiều.
Có thể nói, nhàn là một cuộc sống nhiều người hằng mong ước. Để được nhàn, đôi khi người ta phải đánh đổi công danh, lợi lộc. Nguyễn Bỉnh Khiêm đã xem thường danh lợi, ông trở về nơi thôn quê bình dị để sống cuộc đời nhàn. Đối với ông, như vậy mới là đáng sống. Những câu thơ mở đầu hiện lên hình ảnh một người nông dân chất phác với vui thú đồng ruộng, ao cá:
Một mai một cuốc một cần câu
Thơ thẩn dầu ai vui thú nào
Câu thơ mở đầu, nhà thơ dùng số từ một để liệt kê những vật dụng mai, cuốc, cần câu là những vật dụng rất quen thuộc đối với người nông dân. Mai và cuốc là dùng trong lao động. Cần câu là dùng trong lúc thư giãn. Đó là thú vui nhàn nhã của người dân sau những ngày lao động mệt nhọc. Nhịp thơ 2/2/3 khiến nhịp thơ trở nên chậm rãi. Nhà thơ như muốn khoe ra cuộc sống lao động bình dị ấy của mình. Qua hai câu thơ này, nhà thơ hiện lên với hình ảnh của một lão nông thực thụ, vui vẻ. Với việc sử dụng từ láy thơ thẩn, câu thơ hiện lên với một tâm thế không vướng bận. Bên cạnh đó, nghệ thuật đối thơ thẩn đối với vui thú nào giữa ta và ai làm nổi bật lên sự khác biệt trong quan niệm sống giữa ta với người. Trong khi ta thích thơ thẩn nơi chốn bình dị thì người lại thích vui thú chốn thị phi. Hai câu thơ đã cho thấy quan niệm sống nhà của nhà thơ đó là được làm những công việc mà mình yêu thích, không quan tâm đến người đời muốn gì, thích gì.Xem thêm: Văn hào Nga Lép Tôn-xtôi nói: "Lí tưởng là ngọn đèn chỉ đường.Không có lí tưởng thì không có phương hướng kiên định, mà không có phương hướng thì không có cuộc sống." Phát biểu suy nghĩ của anh, chị về vấn đề này
Phân tích bài thơ Nhàn
Sang đến câu thơ tiếp theo, nhà thơ tiếp tục sử dụng nghệ thuật đối giữa ta và người, giữa khôn và dại, giữa nơi vắng vẻ và chốn lao xao. Đó là sự khác biệt trong việc lựa chọn cuộc sống giữa ta và người. Trong khi ta chọn nơi vắng vẻ thì người lại tìm đến chốn lao xao:
Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ
Người khôn người đến chốn lao xao
Quan niệm của nhiều người bấy giờ là tìm đến chốn lao xao. Chốn lao xao ở đây là chốn đông đúc, ồn ào, xô bồ. Nơi ấy có cường quyền, cũng có những thú vui của kẻ lắm tiền. Sống ở nơi như vậy mới là khôn. Nhưng Nguyễn Bỉnh Khiêm nghĩ khác. Ông không thích chốn lao xao mà thích nơi vắng vẻ. Nơi vắng vẻ ấy ít người qua lại. Nơi ấy không có sự tranh giành, đấu đá. Nhà thơ tự nhận mình là dại nhưng ở nơi ấy, ông giữ được cho mình sự thanh cao, trong sạch. Và chúng ta có thể thấy cái dại của nhà thơ chính là cái dại khôn. Đây là một cách nói vô cùng hóm hỉnh và thể hiện thái độ châm biếm sâu sắc. Qua hai câu thực này, nhà thơ thể hiện một quan niệm sống nhàn đó là tìm đến chốn thanh cao, không xô bồ, bon chen.
Tiếp đến hai câu luận, nhà thơ lại nhắc tới việc ăn và tắm là những sinh hoạt bình thường trong cuộc sống của con người. Không cao lương mĩ vị, thức ăn của nhà thơ là những gì có sẵn trong tự nhiên với măng trúc vào mùa thu, giá vào mùa đông. Chúng là những thứ bình dị nhưng lại luôn sẵn có. Mùa nào thức nấy, chẳng bao giờ lo bị chết đói. Ăn uống đạm bạc rồi lại được tắm trong hương thơm thanh mát của hoa sen, cuộc đời của con người thật thanh tao, nhàn nhã:Xem thêm: Phân tích 8 câu thơ Tự Tình II của Hồ Xuân Hương
Thu ăn măng trúc đông ăn giá
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao
Hai câu thơ, tác giả liệt kê được cả 4 mùa trong năm và mỗi mùa lại gắn với một thú vui riêng. Mặc dù là hai câu luận nhưng nội dung của hai câu thơ này không có gì là bàn luận mà chỉ nhằm tả thực. Chính vì vậy, cuộc sống nhàn càng trở nên rõ nét hơn, chân thực hơn. Đó chính là cuộc sống hòa mình vào với thiên nhiên, tạo vật.
Hai câu kết, Nguyễn Bỉnh Khiêm đưa ra quan niệm sống công danh, phú quý chỉ là một giấc chiêm bao. Mà đã là chiêm bao thì chỉ là thoảng qua, sớm muộn gì cũng sẽ vụt tắt:
Rượu đến cội cây ta sẽ uống
Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao
Nhà thơ xem thường phú quý, xem thường danh lợi, thoát khỏi chốn quan trường để tìm về với cuộc sống nhàn.
Bài thơ Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm đã thể hiện một quan niệm sống mới mẻ, thể hiện được tư tưởng thanh cao của nhà thơ. Thiết nghĩ con người thời bây giờ cũng nên học theo tư tưởng của ông, bớt tranh giành quyền lực, như vậy thì cuộc sống mới trở nên đơn giản hơn, nhàn hơn.
Trên đây là bài lập dàn ý chi tiết cũng như bài làm mẫu cho đề phân tích bài thơ Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Kho tàng văn mẫu hy vọng đã góp được sức nhỏ bé của mình để giúp các em học môn Ngữ văn 10 được tốt hơn.
Thu Thủy
|
Nguyen Binh Khiem's poem Nhan expresses a philosophy of leisurely living. The content of the poem is gentle but peaceful, expressing the leisurely and free spirit of a person who has returned from officialdom to live in hiding. Through this poem, we see the noble personality of Nguyen Binh Khiem.
A detailed outline for analyzing Nhan's poem along with a sample essay analyzing Nhan's poem will be a good suggestion and a complete reference for students to help them perfect their writing skills.
I. Create an outline to analyze the poem Nhan
1. Open the lesson
– Introducing author Nguyen Binh Khiem and the poem Nhan. If we go through the content of the poem and lead into the body of the poem.
2. The body of the essay analyzes the poem Nhan
a. Two sentences: Introduction to leisure life
– List and point out items familiar to ordinary people in Vietnam, such as spades, hoes, and fishing rods.
– Using alliteration, repetition, and parallelism to highlight the concept of leisurely living.
b. Two true sentences: Philosophy of foolishness and wisdom in life
– Use parallel art to show different concepts about the meaning of life.
– Use a humorous way of speaking that makes the reader think.
c. Two essays
– Use the art of listing to realistically describe leisure life.
– The poem shows a picture of simple everyday life. Even though I'm poor, I'm not miserable.
d. Two concluding sentences
– Fame and fortune, in the poet's view, are just like a dream.
– Shows contempt for glory and wealth.
3. Conclusion
– Overview of the poem's content and state your thoughts about this poem.
II. Essay analyzing the poem Nhan
Poet Nguyen Binh Khiem is still known as Trinh. He was a prominent Confucian intellectual of our country in the 16th century. To react to the turbulent times of that time, poet Nguyen Binh Khiem introduced the concept of leisurely living. His poem Nhan, drawn from the collection Bach Van Quoc Ngu Thi, is a work that speaks to his concept of life. The poem is written in the seven-word, eight-syllable Tang Luat poetic form, consisting of 8 lines, each line has 7 words, and each line clearly states the poet's concept of leisurely life. See more: Explanation about author Nguyen Du and his work Kieu story.
It can be said that leisure is a life many people dream of. To be leisurely, people sometimes have to trade fame and profit. Nguyen Binh Khiem despised fame and fortune, he returned to the simple countryside to live a leisurely life. For him, that is what makes life worth living. The opening verses present the image of a simple farmer with joy in the fields and fish ponds:
One day, one hoe, one fishing rod
Poetry is fun no matter who it is
In the opening verse, the poet uses numbers starting from one to list tools such as spades, hoes, and fishing rods, which are very familiar to farmers. Spades and hoes are used in labor. Fishing rods are used while relaxing. It is a leisurely pastime for people after tiring days of work. The rhythm of 2/2/3 makes the rhythm of the poem slow. The poet seems to want to show off his simple working life. Through these two verses, the poet appears with the image of a real, happy old farmer. With the use of poetic words, the poem appears with an unencumbered mind. Besides, the art of reflecting on the pleasures between us and others highlights the difference in the concept of life between us and others. While we like to wander around in simple places, others like to have fun in busy places. The two verses show that the poet's concept of living at home is to do the work you love, not caring about what people want or like. See more: Russian writer Lep Tonxi said: " Ideals are guiding lights. Without ideals, there is no steadfast direction, and without direction, there is no life. Express your thoughts on this issue
Analyze the poem Nhan
Moving on to the next verse, the poet continues to use art between us and others, between wise and foolish, between deserted places and noisy places. That is the difference in choosing life between us and others. While we choose a quiet place, others go to a noisy place:
I am stupid, I am looking for a peaceful place
Nguoi khon nguoi den chon lao xao
The concept of many people at that time was to find a place of turmoil. The hustle and bustle here is a crowded, noisy, bustling place. There is power there, and there are also the pleasures of rich people. Living in such a place is wise. But Nguyen Binh Khiem thinks differently. He does not like noisy places but likes quiet places. That deserted place with few people passing by. There is no fighting or fighting there. The poet admitted that he was foolish, but in that place, he maintained his nobility and purity. And we can see that the poet's foolishness is his wise foolishness. This is an extremely humorous way of speaking and shows a deeply sarcastic attitude. Through these two sentences, the poet expresses a concept of a leisurely life that means finding a noble place, without hustle and bustle.
In the next two sentences, the poet again mentions that eating and bathing are normal activities in human life. Without delicacies, the poet's food is what is available in nature with bamboo shoots in the fall and bean sprouts in the winter. They are simple things but always available. Stay awake in any season, never worry about starving to death. Eating frugally and then being bathed in the cool scent of lotus flowers, a person's life is elegant and leisurely: See more: Analysis of 8 verses of Tu Tinh II by Ho Xuan Huong
Eat bamboo shoots in autumn and eat bean sprouts in winter
In spring, you bathe in lotus ponds, in summer you bathe in ponds
In two verses, the author lists all four seasons of the year and each season is associated with a particular pleasure. Although they are two essays, the content of these two verses is not discussed but is only intended to describe reality. Therefore, leisure life becomes clearer and more real. That is a life in harmony with nature and creation.
In the last two sentences, Nguyen Binh Khiem proposed the concept that living a life of fame and fortune is just a dream. But even a dream is just a passing dream, sooner or later it will disappear:
When the wine reaches the tree, I will drink it
Looking at wealth is like a dream
The poet despises wealth, despises fame and fortune, escapes from the official world to return to a leisurely life.
Nguyen Binh Khiem's poem Nhan expressed a new concept of life, expressing the poet's noble thoughts. I think people today should also learn from his ideas and fight less for power, so life will become simpler and more leisurely.
Above is a detailed outline lesson as well as a sample lesson for analyzing the poem Nhan by Nguyen Binh Khiem. The treasure trove of sample literature hopes to have contributed its small part to help students learn Literature 10 better.
Thu Thuy
|
Đề bài: Phân tích bài thơ Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm
Bài làm
Trong xã hội phong kiến, có rất nhiều người đỗ đạt làm quan nhưng vì cảnh quan trường thối nát, đầy bất công đã lui về ở ẩn, sống một cuộc sống an nhàn, tự tại. Nguyễn Bỉnh Khiêm là một người như thế. Ông còn được biết đến với hai tập thơ nổi tiếng là “Bạch Vân am thi tập” và “Bạch Vân quốc ngữ thi”.
Bài thơ Nhàn là bài thơ viết bằng chữ Nôm được rút từ tập “Bạch Vân quốc ngữ thi”. Đây là một trong những tác tác tiêu biểu của Nguyễn Bỉnh Khiêm, được viết bằng thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật. Bài thơ là tiếng lòng, là lời giãi bày của thi sĩ khi được sống cuộc sống an nhàn nơi đồng quê thanh bình, êm ả. Mở đầu bài thơ là hai câu thơ đề rất gần gũi, mộc mạc:
“Một mai, một cuốc, một cần câu
Thơ thẩn dầu ai vui thú nào”
Với phép lặp số từ “một” câu thơ đã phác họa nên trước mắt người đọc một cảnh tượng quen thuộc. Cuốc, mai là những vật dụng quen thuộc của người dân lao động. Tất cả đều được gắn với số “một”, thể hiện sự cô đơn, một mình nhà thơ giữa chốn thôn quê nghèo khó. Cuộc đời của ông sau khi rời xa chốn quan trường thì ông giống với những người nông dân khác đó là dùng mai để xắn đất, dùng cuốc để xới đất. Hai công cụ trên còn đi kèm với chiếc cần câu ý chỉ rằng những lúc rảnh rỗi thì câu cá chính là một trong những thú vui tao nhã của ông. Mặc dù lòng vẫn còn mang nặng chí lớn, phải sống vì nhân dân nhưng lại phải ẩn mình nơi thôn dã khiến tác giả có chút cô đơn, trống vắng. Tuy nhiên khi được sống, được làm việc giống như những người nông dân lại khiến ông có cảm giác mới mẻ, thú vị, cho ông thấy mình gần gũi với công việc nhà nông, gần với tầng lớp nhân dân lao động. Đó là điều mà trước kia khi làm quan ông chưa có dịp được trải nghiệm. Đây được xem là cuộc sống đáng mơ ước của nhiều người, ít ai có thể vứt bỏ chốn quan trường xô bồ để sống cuộc sống lao động nơi đồng quê. Từ “thơ thẩn” tạo nên một nhịp điệu êm ái, khoan thai cho người đọc.Xem thêm: Phân tích nội dung và nghệ thuật các bài Ca dao yêu thương, tình nghĩa
Phân tích bài thơ Nhàn
Đối với Nguyễn Bỉnh Khiêm thì dù cho ai vui vẻ chốn nào cũng không ảnh hưởng gì đến lẽ sống của ông, ông vẫn an phận với cuộc sống hiện tại. Hai câu thơ tiếp theo càng thêm khẳng định điều đó và nhà thơ đã làm toát lên quan niệm sống của mình:
“Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ
Người khôn người đến chốn lao xao”
Nguyễn Bỉnh Khiêm tự nhận là mình “dại” khi rời bỏ chốn quan trường xa hoa mà nhiều người mong muốn được chen chân vào. Nhưng cuộc sống mà ông đã lựa chọn khi lui về ở ẩn đồng thời cũng khiến nhiều người ghen tỵ, ngưỡng mộ. Đối lập với ông là những người “khôn”, sự đối lập giữa “dại” – “khôn”, giữa “vắng vẻ” với “chốn lao xao”. Ông khen người chê mình nhưng rất có thể cũng là khen mình và chê người. Có khi ta tự hỏi không biết rằng việc ông ẩn mình sống nơi thôn dã có phải ông đang trốn tránh trách nhiệm với tổ quốc hay không? Tuy nhiên ta cần đặt vào thời thế lúc bấy giờ thì việc ông tìm đến nơi “vắng vẻ” mới là điều thực sự đúng đắn để có thể giữ được cốt cách thanh cao của mình.
Hai câu thơ luận, nhà thơ đã gợi mở cho mọi người về cuộc sống nơi “vắng vẻ” mà ông lựa chọn:Xem thêm: Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ (Trích bản dịch Chinh phụ ngâm) của Đoàn Thị Điểm.
“Thu ăn măng trúc đông ăn giá
Xuân tắm hồ sen hạ tắm ao”
Chỉ hai câu đã lột tả hết cuộc sống sinh hoạt của cả năm trời với mùa nào, thức ấy. Mùa thu ăn măng trúc, mùa đông ăn giá. Tuy chẳng phải sơn hào hải vị gì nhưng lại đậm đà hương vị quê nhà. Chỉ với vài nét nhưng nhà thơ đã cho ta thấy một vùng thiên nhiên Bắc Bộ với đầy đủ thức ăn. Ăn no thì phải tắm mát mới thêm trọn vẹn cuộc sống. Tắm hồ, ao nhưng lại là cuộc sống thanh tao, không gì sánh bằng. Cuộc sống hòa hợp với thiên nhiên. Cho đến hai câu thơ cuối, tác giả đã đúc kết lại suy nghĩ của mình:
“Rượu đến cội cây ta sẽ uống
Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao”
Thú vui tao nhã câu cá, tắm hồ sen, rồi đến thưởng thức rượu. Đối với ông một người từng hưởng phú quý thì ông coi đó chỉ là giấc chiêm bao. Ông từng có quyền thế, từng có của cải nhưng lại là thứ mà ông không hề nghĩ đến và không có tham vọng. Những thứ đó chỉ là tạm thời, chỉ như một giấc mộng mà khi tỉnh dậy sẽ tan biến. Đây là một cái nhìn nhận sâu sắc, một triết lý mà nhà thơ đã nhận thấy từ thực tế cuộc sống. Đối với ông sống tự do, tự tại, sống không trái với lương tâm và giữ gìn được cốt cách của mình mới là điều quan trọng nhất.Xem thêm: Phân tích bài ”Chiều hôm nhớ nhà” của Bà Huyện Thanh Quan
Bài thơ Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm đã cho người đọc một cái nhìn sâu sắc về giàu sang phú quý với cuộc sống an nhàn, tự tại. Một cuộc sống khiến nhiều người ngưỡng mộ và khâm phục. Qua bài thơ ta thấy được quan niệm sống khi sống hòa hợp với tự nhiên, sống giữ cốt cách thanh cao và không màng danh lợi. Đây là triết lý sống giúp con người ta sống đẹp hơn, sống đúng với chính mình.
Loan Trương
|
Topic: Analysis of the poem Nhan by Nguyen Binh Khiem
Assignment
In feudal society, there were many people who passed the exam to become mandarins, but because of the corrupt and unfair school landscape, they retired and lived a peaceful, free life. Nguyen Binh Khiem is such a person. He is also known for two famous poetry collections, "Bach Van Am Thi Tap" and "Bach Van Quoc Ngu Thi".
The poem Nhan is a poem written in Nom and taken from the collection "Bach Van Quoc Ngu Thi". This is one of Nguyen Binh Khiem's typical works, written in seven-word, eight-syllable Tang luat poetry. The poem is the heart's voice, the poet's confession when living a leisurely life in the peaceful, quiet countryside. The poem begins with two very close and simple verses:
“One spade, one hoe, one fishing rod
Poetry is fun no matter who it is."
With the repetition of numbers from "one", the poem portrays a familiar scene before the reader's eyes. Hoes and spades are familiar items of working people. All are associated with the number "one", expressing the poet's loneliness and being alone in the poor countryside. His life after leaving the official position was similar to other farmers, using a spade to roll the soil and a hoe to till the soil. The above two tools also come with a fishing rod, indicating that in his free time, fishing is one of his elegant hobbies. Although he still has a strong will to live for the people, having to hide in the countryside makes the author feel a bit lonely and empty. However, being able to live and work like farmers gave him a new and exciting feeling, showing him that he was close to farming work, close to the working class. That was something that he had never had the opportunity to experience before when he was an official. This is considered a dream life for many people, few people can leave the hustle and bustle of officialdom to live a working life in the countryside. The word "lounging" creates a gentle, leisurely rhythm for the reader. See more: Analysis of the content and art of folk songs of love and gratitude
Analyze the poem Nhan
For Nguyen Binh Khiem, no matter where anyone is happy, it does not affect his reason for living, he is still at peace with his current life. The next two verses further confirm that and the poet exudes his concept of life:
"I am stupid, I am looking for a peaceful place
Nguoi khon nguoi den chon lao xao"
Nguyen Binh Khiem admitted that he was "foolish" for leaving the luxurious official position that many people wanted to enter. But the life he chose when he retired also made many people jealous and admired. Opposing him are the "wise" people, the opposition between "foolish" - "wise", between "solitary" and "troublesome place". He praised those who criticized him, but most likely he also praised himself and criticized others. Sometimes we wonder if his hiding in the countryside means he is shirking his responsibility to the country? However, we need to put it in the times at that time. It was really right for him to go to a "secluded" place to be able to maintain his noble personality.
In two essay verses, the poet suggests to everyone about the life in the "deserted" place that he chose: See more: The lonely situation of the conqueror's wife (Excerpt from the translation of Chinh Phu Ngam) by Doan Thi Diem.
“Eat bamboo shoots in autumn, eat bean sprouts in winter
Spring bathing in lotus ponds, summer bathing in ponds.
Just two sentences describe the entire year's life with its seasons and moods. In autumn we eat bamboo shoots, in winter we eat bean sprouts. Although it is not a typical dish, it is rich in the flavor of home. With just a few strokes, the poet has shown us a Northern natural region with plenty of food. When you're full, you have to take a cool bath to live a fuller life. Bathing in lakes and ponds is an elegant life, nothing can compare to it. Life in harmony with nature. Until the last two verses, the author summarizes his thoughts:
“The wine comes to the tree and I will drink it
Look at wealth like a dream.”
Elegant pleasures of fishing, bathing in the lotus pond, and then enjoying wine. For him, a man who once enjoyed wealth, he considered it just a dream. He used to have power, he had wealth, but it was something he never thought about and had no ambition for. Those things are only temporary, just like a dream that when you wake up will disappear. This is a profound insight, a philosophy that the poet has realized from real life. For him, living freely, freely, living without going against his conscience and preserving his core character is the most important thing. See more: Analysis of the article "Homesick in the afternoon" by Ms. Huyen Thanh Quan
The poem Nhan by Nguyen Binh Khiem gives readers a profound insight into wealth and a comfortable, free life. A life that many people admire and admire. Through the poem we see the concept of life when living in harmony with nature, living with a noble personality and not caring about fame and profit. This is a philosophy of life that helps people live more beautifully and true to themselves.
Loan Truong
|
Đề bài: Phân tích bài thơ Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm
Phân tích bài thơ Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm
Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 – 1585) là người có học vấn uyên thâm. Tuy nhiên khi nhắc đến ông là làm mọi người phải nghĩ đến việc, lúc ông còn làm quan ông đã từng dâng sớ vạch tội và xin chém đầu mười tám lộng thần nhưng đã không thành công nên ông đã cáo quan về quê. Do học trò của ông đều là những người nổi tiếng nên được gọi là Tuyết Giang Phu Tử. Ông là người có học vấn uyên thâm,là nhà thơ lớn của dân tộc. Thơ của ông mang đậm chất triết lí giáo huấn, ngợi ca chí khí của kẻ sĩ,thú thanh nhàn, đồng thời cũng phê phán những điều sống trong xã hội. Khi mất ông để lại tập thơ bằng tập viết thơ bằng chữ Hán là Bạch Vân am thi tập ; tập thơ viết bằng chữ Nôm là Bạch Vân quốc ngữ thi và “ Nhàn” làbài thơ tiêu biểu trong tập thơ Bạch Vân quốc âm thi tập, được viết bằng thể thất ngôn bát cú đường luật. Bài thơ ca ngợi niềm vui trong cảnh sống thanh nhàn.Qua đó ta có thể thấy được vẻ đẹp chân chính của ông, nét mộc mạc của làn quê.
“ Một mai một cuốc, một cần câu
Thơ thẩn dầu ai vui thú nào
Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ
Người khôn người dến chốn lao xao
Thu ăn năng trúc đông ăn giá
Xuân tắm hồ sen hạ tắm ao
Rượu đến cội cay ta sẽ uống
Nhìn xem phú quí tựa chiêm bao.”
Hai câu đề đã khắc họa dược như thế nào 1 cuộc sống nhàn rỗi
“ Một mai, một cuốc, một cần câu
Thơ thẫn dầu ai vui thú nào…..”
Ở câu thơ đầu câu thơ đã khắc họa hình ảnh 1 ông lão nông dân sống thảnh thơi.Bên cạnh đó tác giả còn dùng biện pháp điệp số từ “ một “thêm vào là 1 số công cụ quen thuộc của nhà nông nhằm khơi gợi trước mắt người đọc 1 cuộc sống rất tao nhãn và gần gũi nhưng không phải ai mún là có. Từ “ thơ thẩn” trong câu hai lại khắc họa dáng vẻ của 1 người đang ngồi ung dung chậm rãi và khoan thai.Đặt hình ảnh ấy vào cuộc đời của tác giả ta có thể thấy được lúc nhàn rỗi nhất của ông chính là lúc ông cáo ông về ở ẩn. Và từ “ vui thứ nào” cũng 1 lần nữa nói lên đề tài của bài thơ là về cảnh nhàn dẫu cho ai có ban chen vòng danh lợi nhưng tác giả vẫn thư thái. Hai câu thơ đầu đã không chỉ giới thiệu được đề tài mà còn khắc họa tư thái ung dung nhàn hạ, tâm trang thoải mái nhẹ nhàng vui thú điền viên.
“….. Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ
Xem thêm: Những hiểu biết của em về tục ngữ Việt NamNgười khôn người dến chốn lao sao……”
Hai câu thực của bài thơ ý tác giả muốn nhắm đến cảnh nhàn và sử dụng các từ đối nhau như “ ta “_ “ người” ; “ dại” _ “ khôn” ; “ nơi vắng vẻ”_ “ chốn lao xao” từ 1 loạt những từ đối lập đó đã thể hiện được quan niệm sống của tác giả. Nhân vật trữ tình đã chủ động tìm đến nơi vắng vẻ đến với chốn thôn quê sống cuộc sống thanh nhàn mặc cho bao người tìm chốn “phồn hoa đô hội”. hai câu thơ đã đưa ra được hai lối sống độc lập hoàn toàn trái ngược nhau. Tác giả tự nhận mình là “ dại” vì đã theo đuổi cuộc sống thanh đạm thoát khỏi vòng danh lợi để giữ cho tâm hồn được thanh nhàn.Vậy lối sống của NBK có phải là lối sống xa đời và trốn tránh trách nhiệm?” Điều đó tất nhiên là không vì hãy đặt bài thơ vào hoàn cảnh sáng tác chỉ có thể làm như vậy mới có thể giữ được cốt cách thanh cao của mình. Do NBK có hoài bảo muốn giúp vua làm cho trăm dân ấm no hạnh phúc nhưng triều đình lúc đó đang tranh giành quyền lực, nhân dân đói khổ tất cả các ước mơ hoài bảo của ông không được xét tới.Vậy nên NBK rời bỏ “ chốn lao xao “ là điều đáng trân trọng.
“ ….. Thu ăn măng trúc đông ăn giá
Xuân tắm hồ sen hạ tắm ao………”
Hai câu luận đã dùng biện pháp liệt kê những đồ ăn quanh năm có sẵn trong tự nhiên. Mùa nào thức ăn nấy, mùa thu thường có măng tre và măng trúc quanh nhà, mùa đông khi vạn vật khó đâm chồi thì có giá thay. Câu thơ “ xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao” gợi cho ta cuộc sống sinh hoạt nơi dân dã.Qua đó ta có thể cảm nhận được tác giả đã sống rất thanh thản, hòa hợp với thiên nhiên tận hưởng mọi vẻ đẹp vốn có của đất trời mà không bon chen, tranh giành.Đăt bài thơ vào hoàn cảnh lúc bấy giờ thì lối sống của NBK thể hiện được vẻ đẹp của tâm hồn thanh cao đó là lối sống tích cực thể hiện rõ thái độ của Bạch Vân cư sĩ.
“……. Rượu đến cội cây ta sẽ uống
Nhìn xem phú quí tựa chiêm bao.”
Hai câu luận đã thể hiện dược cái nhìn của 1 nhà trí tuệ lớn, có tính triết lí sâu sắc, vận dụng ý tượng sáng tạo của điện tích Thuần Vu. Đối với NBK phú quí không phải là 1 giấc chiêm bao vì ông đã từng đỗ Trạng Nguyên, giữ nhiều chức vụ to lớn của triều đình nên cuộc sống phú quí vinh hoa ông đã từng đi qua nhưng ông đã không xem nó là mục đích sống của ông. Mà ông đã xem đó chỉ là 1 giấc chiêm bao không có thực và ông đã tìm đến với cuộc sống thanh thản để luôn giữ được cốt cách thanh cao của mình.
Như vậy qua bài thơ ta đã hiểu được quan niệm sống nhàn và nhân cách của NBK coi thường danh lợi, luôn giũ dược tâm hồn thanh cao hòa hợp với thiên nhiên, dề cao lối sống của những nhà nho giáo giàu lòng yêu nước nhưng do hoàn cảnh nên phải sống ẩn dật. Bên cạnh đó NBK còn sử dụng ngôn ngữ gần gũi mộc mạc nhưng giàu chất triết lí. Sử dụng khéo léo thể thơ thất ngôn đường luật, điện tích điện cố và cách phép đối thường gặp ở thể thơ Nôm 1 cách linh hoạt.
Nguồn Edufly
Xem thêm: Có ý kiến cho rằng “có 3 điều trong cuộc đời mỗi người, nếu đi qua sẽ không lấy lại được: thời gian, lời nói và cơ hội”. Hãy bình luận ý kiến đó
|
Topic: Analysis of the poem Nhan by Nguyen Binh Khiem
Analysis of the poem Nhan by Nguyen Binh Khiem
Nguyen Binh Khiem (1491 - 1585) was a man of profound education. However, when mentioning him, it makes everyone think of the fact that when he was still a mandarin, he once submitted a petition exposing the crimes and asked to behead eighteen courtiers, but it was unsuccessful, so he reported the mandarin to his hometown. Because his students were all famous people, he was called Tuyet Giang Phu Tu. He is a man of profound education and a great poet of the nation. His poetry is imbued with philosophical teachings, praising the spirit of scholars and leisurely animals, while also criticizing things in society. When he died, he left behind a collection of poems written in Chinese characters called Bach Van am thi tap; The collection of poems written in Nom is Bach Van quoc ngu thi and "Nhan" is a typical poem in the collection of poems Bach Van quoc am thi tap, written in the seven-word, eight-kutang luat form. The poem praises the joy in a leisurely life. Through it we can see his true beauty, the simplicity of the countryside.
“One day, one hoe, one fishing rod
Poetry is fun no matter who it is
I am stupid, I am looking for a peaceful place
Smart people go to troublesome places
In autumn, bamboo can be eaten and in winter it can be eaten
Spring bathing in the lotus pond, summer bathing in the pond
When the wine reaches the roots, we will drink it
Seeing wealth is like a dream.”
These two sentences portray what a leisurely life is like
“One spade, one hoe, one fishing rod
Sad poetry is fun no matter who....”
In the first verse, the poem portrays the image of an old farmer living a leisurely life. Besides, the author also uses the alliteration method "one" in addition to some familiar tools of farmers to evoke Before the reader's eyes is a very elegant and intimate life, but not everyone wants to have it. The word "lounging" in sentence two portrays the appearance of a person sitting leisurely and leisurely. Putting that image into the author's life, we can see that his most leisurely time is when he is at his leisure. he told him to go into hiding. And the word "happy with anything" once again shows the theme of the poem which is about leisure, no matter who is jostling around fame and fortune, the author is still relaxed. The first two lines of the poem not only introduce the topic but also portray a leisurely attitude, a relaxed, gentle and happy mood.
"….. I am stupid, I am looking for a peaceful place
See more: My understanding of Vietnamese proverbs: How can a wise person end up in a difficult place……”
The two actual sentences of the poem mean that the author wants to aim at a leisurely scene and uses opposite words such as "ta"_ "people"; “foolish” _ “wise”; "secluded place"_ "troublesome place" from a series of opposing words has expressed the author's concept of life. The lyrical character actively sought out a deserted place to the countryside to live a leisurely life despite many people looking for a "prosperous urban" place. The two verses present two completely opposite independent lifestyles. The author considers himself "foolish" for pursuing a frugal life away from fame and fortune to keep his soul at peace. So is NBK's lifestyle a way of living far away from the world and avoiding responsibility? That of course is not because by placing the poem in the context of writing, only doing so can maintain its noble essence. Because NBK had ambitions to help the king make hundreds of people prosperous and happy, but the court at that time was fighting for power and the people were hungry and hungry, all of his ambitious dreams were not considered. So NBK left. "A place of turmoil" is something worth appreciating.
“ ….. Eat bamboo shoots in autumn and eat bean sprouts in winter
Spring bathing in the lotus pond, summer bathing in the pond……”
The two essays used the method of listing year-round foods available in nature. There are different types of food in every season. In the fall, there are usually bamboo shoots and bamboo shoots around the house. In the winter, when things have difficulty sprouting, they have to be replaced. The poem "bathing in lotus ponds in spring, bathing in ponds in summer" reminds us of the rustic life. Through this, we can feel that the author lived very peacefully, in harmony with nature, enjoying all the inherent beauty. having things from heaven and earth without jostling or fighting. Placing the poem in the situation at that time, NBK's lifestyle shows the beauty of a noble soul. It is a positive lifestyle that clearly shows Bach Van's attitude. layman.
“……. When the wine reaches the tree, I will drink it
Seeing wealth is like a dream.”
The two essays express the perspective of a great intellectual, with profound philosophy, applying the creative ideas of Thuan Vu. For NBK, being rich and wealthy was not a dream because he had passed the exam and held many great positions in the royal court, so he lived a rich and glorious life, but he did not see it as his goal. his life. But he considered it just an unreal dream and he sought a peaceful life to always maintain his noble personality.
Thus, through the poem, we can understand the concept of a leisurely life and the personality of NBK, who despised fame and fortune, always maintained a noble soul in harmony with nature, and promoted the lifestyle of Confucian scholars who are rich in patriotism but Due to circumstances, he had to live in seclusion. Besides, NBK also uses simple but philosophical language. Cleverly use the poetic form of seven lines and lines, fixed charges and parallelisms commonly found in Nom poetry in a flexible way.
Source Edufly
See more: There is an opinion that "there are 3 things in every person's life that, if passed, will never be regained: time, words and opportunities". Please comment on that opinion
|
Bài thơ Nhớ rừng là một bài thơ khá độc đáo của Thế Lữ bởi vì nhân vật chính trong bài thơ này là một con hổ. Tuy nhiên, ẩn chứa đằng sau cái khát khao được trở về rừng của con hổ chính là tâm sự của một nhà thơ yêu nước không chịu chấp nhận sống cuộc đời nô lệ.
Sau đây, Kho tàng văn mẫu sẽ hướng dẫn các em lập dàn ý phân tích bài thơ Nhớ rừng và gợi ý bài văn mẫu cho các em tham khảo. Các em hãy đọc kĩ bài viết này để có thể vận dụng tốt vào trong bài làm của mình.
I. Lập dàn ý phân tích bài thơ Nhớ rừng
1. Mở bài
– Giới thiệu về nhà thơ Thế Lữ và bài thơ Nhớ rừng.
– Thế Lữ là ngọn cờ đầu của phong trào Thơ mới, là người mở đường cho phong trào Thơ mới.
– Nội dung bài thơ xoay quanh nhân vật trung tâm là con hổ nhằm làm toát lên vẻ đẹp của tâm hồn con người yêu nước.
2. Thân bài phân tích bài thơ Nhớ rừng
Đoạn thơ 1:
– Tâm trạng của con hổ trong cảnh bị giam cầm ở trong vườn bách thú.
– Sự chán chường, ngao ngán.
– Thái độ ngạo mạn, khinh thường “lũ người”.
– Khinh cả những con vật bị nhốt ở xung quanh.
Đoạn thơ 2, 3:
– Nỗi nhớ rừng da diết, khôn nguôi của con hổ.
– Nhớ cảnh sơn lâm, bóng cả, cây già.
– Nhớ sự tự do và sự oai hùng của bản thân mình nơi rừng xanh.
Đoạn 4, 5:
– Khinh biệt khung cảnh trong rừng xanh.
– Một tiếng than vọng về phía rừng xanh như một nỗi niềm khao khát tự do.
3. Kết luận
– Khái quát về bài thơ Nhớ rừng và nêu cảm nhận của em về bài thơ này.
Bài viết liên quan:
>> Phân tích bài thơ Khi con tu hú của Tố Hữu (Có dàn ý chi tiết)
Xem thêm: Viết đoạn văn nêu cảm nghĩ của em về nhân vật Trương Sinh trong tác phẩm Chuyện người con gái Nam xương của Nguyễn Dữ
>> Phân tích bài thơ Ngắm trăng của Hồ Chí Minh (Có dàn ý chi tiết)
>> Phân tích bài thơ Quê hương của Tế Hanh (Có dàn ý chi tiết)
II. Bài làm phân tích bài thơ Nhớ rừng
Nhà thơ Thế Lữ là một trong những nhà thơ tiên phong cho phong trào Thơ mới. Những sáng tác của ông ghi một dấu ấn đậm nét trong nền văn học nước nhà. Trong số đó, bài thơ Nhớ rừng được đánh giá là một bài thơ xuất sắc cả về nội dung lẫn hình thức thể hiện. Với thể thơ 8 chữ, nội dung, cảm xúc nói đến trong bài được bộc lộ một cách sâu sắc. Ngôn ngữ trong bài dễ hiểu nên người đọc cũng rất dễ để cảm nhận.
Hổ vốn là chúa tể của sơn lâm. Chúng oai phong, dũng mãnh với tiếng gầm khiết bất cứ con vật nào nghe thấy cũng phải sợ hãi. Ấy vậy mà nay nó phải ngậm nỗi căm hờn, không thể làm gì được khi bị nhốt trong chuồng ở vườn Bách thú:
Gậm một khối căm hờn trong cũi sắt
Ta nằm dài trông ngày tháng dần qua
Khinh lũ người kia ngạo mạn, ngẩn ngơ
Giương mắt bé diễu oai linh rừng thẳm
Phân tích bài thơ Nhớ rừng
Thay vì đi lại trong rừng xanh và tỏ vẻ oai linh nơi rừng thẳm thì nay con hổ phải nằm dài trong cũi sắt với một sự ngao ngán. Nó chẳng có việc gì khác ngoài việc trông cho ngày tháng dần qua. Câu thơ thể hiện rõ sự khinh bỉ của lũ người ngoài kia. Chúng ngạo mạn, ngẩn ngơ và chỉ biết giường cặp mắt nhỏ bé và diễu cợt con hổ, diễu cợt oai linh của rừng thẳm. Ức chế dồn nén nhưng con hổ lại không làm được gì ngoài cam chịu:
Nay sa cơ, bị nhục nhằn tù hãm
Để làm trò lạ mắt, thứ đồ chơi
Chịu ngang bầy cùng bọn gấu dở hơi
Với cặp báo chuồng bên vô tư lự
Tủi nhục, uất hận rồi cuối cùng là cam chịu số phận. Đó chính là tâm trạng của con hổ lúc này. Tuy nhiên, sự cam chịu chỉ là biểu hiện bên ngoài. Trong lòng nó vẫn không chấp nhận việc mình trở thành thứ đồ chơi trong cặp mắt của thiên hạ. Ở đây, những từ ngữ căm hờn, lũ người kia khiến người đọc cảm nhận như tác giả đang ám chỉ bọn thực dân đang nhăm nhe xâm lược nước ta, chúng khiến cho người dân căm hờn.Xem thêm: Viết một đoạn văn khoảng 4, 5 câu nói về hoa mai
Cùng với niềm uất hận của mình, con hổ khinh ghét tất cả những thứ xung quanh. Với nó môi trường mà người ta cố tạo ra chỉ là một sự giả tạo chứ không phải rừng xanh thật nơi đáng lẽ nó phải được sống. Nó ghét từ:
Những cảnh sửa sang, tầm thường, giả dối
Cho đến:
Dải nước đen giả suối, chẳng thông dòng
Len dưới nách những mô gò thấp kém
Những thứ giả tạo ấy càng khiến nó nhớ hơn cảnh rừng xanh hùng vĩ ngoài kia. Nơi ấy nó đã từng có một quá khứ vàng son và đầy oanh liệt. Nó nhỡ những ngày tháng đẹp đẽ ấy:
Nhớ cảnh sơn lâm, bóng cả cây già
Với tiếng gió gào ngàn, với giọng nguồn hét núi
Với khi thét khúc trường ca dữ dội
Ở chốn thiên nhiên hùng vĩ ấy, con hổ xuất hiện như một vị chúa tể sơn lâm. Bước chân đầy dũng mãnh, đôi mắt sáng quắc như mắt thần có thể soi rọi cả hang tối. Nó là chúa tể của rừng xanh và nó có quyền năng khiến những con thú khác phải im lặng. Những thứ ấy giờ đây không còn nữa, chính bởi vậy mà lúc này đây nó thấy nhớ rừng xanh tới cháy bỏng. Nó thèm khát được trở lại cuộc sống như trước đây:
Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối
Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan
Trước đây, thay vì nằm dài đợi ngày dần qua thì nó có thể ngủ ngon khi bình minh đang lên, vui vẻ chờ đợi mặt trời tắt. Thế nhưng với nó bây giờ tất cả những điều ấy đã thành dĩ vãng.Giờ đây, nó chỉ còn biết cất lên một tiếng “Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu. Từ chỗ căm uất cho số phận bị sa cơ, con hổ càng trở nên luyến tiếc cho quá khứ oai hùng của mình. Chính bởi vậy mà nó căm phẫn cuộc sống giả dối đang diễn ra xung quanh:Xem thêm: Tả cây hoa hồng
Ghét những cảnh không đời nào thay đổi
Những cảnh sửa sang, tầm thường giả dối
Hoa chăm, cỏ xén, lối phẳng, cây trồng
Tất cả những thứ ấy chẳng qua cũng chỉ là bắt chước lại rừng xanh mà thôi. Càng khinh bạc cuộc sống thực tại bao nhiêu nó lại càng khao khát được trở về rừng xanh bấy nhiêu, trở về với cuộc đời tự do và phóng khoáng, để được thoải mái vẫy vùng, được chạy trên những cánh đồng, được tham gia vào những cuộc rượt đuổi, được những con vật khác tỏ vẻ khúm núm và sợ hãi. Với nó, đó là một giấc mộng ngàn to lớn. Mộng chỉ là mộng và nó giờ chỉ biết than vãn với đất trời mà thôi.
Bài thơ đã thể hiện rõ khuynh hướng của phong trào Thơ mới đó là muốn thoát ly thực tại, hướng đến một cuộc sống tự do. Bài thơ không chỉ là lời con hổ mà còn là tâm trạng của cả một thế hệ hanh niên lúc bấy giờ.
Trên đây chúng ta đã cùng nhau lập dàn ý phân tích bài thơ Nhớ rừng và đọc tham khảo bài văn mẫu. Nếu bài văn còn gì thiếu sót, các em có thể bình luận góp ý ở bên dưới và chúng ta có thể viết cho hay hơn, hấp dẫn hơn.
Thu Thủy
|
The poem Remembering the Forest is a quite unique poem by The Lu because the main character in this poem is a tiger. However, hidden behind the tiger's desire to return to the forest is the confession of a patriotic poet who refused to accept a life of slavery.
Next, the Sample Literature Treasury will guide you to create an outline to analyze the poem Remembering the Forest and suggest sample essays for your reference. Please read this article carefully so you can apply it well in your work.
I. Create an outline to analyze the poem Remembering the Forest
1. Open the lesson
– Introduction to poet The Lu and the poem Remembering the Forest.
– The Lu is the flagship of the New Poetry movement, the one who paved the way for the New Poetry movement.
– The poem's content revolves around the central character, the tiger, to exude the beauty of the patriotic human soul.
2. Body analysis of the poem Remembering the Forest
Verse 1:
– The tiger's mood in captivity in the zoo.
– Boredom, boredom.
– Arrogant attitude, contempt for "people".
– Contempt for animals trapped around.
Poems 2, 3:
– The tiger's deep, inexhaustible nostalgia for the forest.
– Remember the scenery of the forest, the shadows, the old trees.
– Remember the freedom and majesty of yourself in the green forest.
Paragraph 4, 5:
– Disregard the scenery in the green forest.
– A lament echoed towards the green forest like a longing for freedom.
3. Conclusion
– Overview of the poem Remembering the Forest and state your feelings about this poem.
Related articles:
>> Analysis of the poem When I Howl by To Huu (With detailed outline)
See more: Write a paragraph stating your feelings about the character Truong Sinh in the work The Story of a Nam Xuong Girl by Nguyen Du
>> Analysis of the poem Watching the Moon by Ho Chi Minh (With detailed outline)
>> Analysis of Te Hanh's poem Homeland (With detailed outline)
II. Essay analyzing the poem Remembering the Forest
Poet The Lu is one of the pioneer poets of the New Poetry movement. His works left a bold mark in the country's literature. Among them, the poem Remembering the Forest is considered an excellent poem in both content and form. With 8-word poetry, the content and emotions mentioned in the poem are deeply revealed. The language in the article is easy to understand so readers can easily understand it.
The tiger is the king of the jungle. They are majestic and brave with a roar that makes any animal that hears them afraid. Yet now it has to hold on to its hatred, unable to do anything when locked in a cage at the Zoological Park:
Holding a mass of hatred in an iron cage
I lie down and watch the days slowly pass
Contempt those arrogant, stupid people
Open your eyes and parade the majesty of the deep forest
Analyze the poem Remembering the Forest
Instead of walking around in the green forest and appearing majestic in the deep forest, now the tiger has to lie down in an iron cage with a feeling of boredom. It has nothing else to do but watch the days pass by. The poem clearly shows the contempt of the people out there. They are arrogant, stupid and only know how to sleep with their small eyes and mock the tiger, mock the majesty of the deep forest. Despite all the repression, the tiger could do nothing but endure:
Now I am in trouble, humiliated and imprisoned
To do fancy tricks, toys
Having to deal with crazy bears
With a pair of leopards at his side, carefree
Humiliation, resentment and finally resignation to fate. That is the tiger's mood right now. However, resignation is only an external expression. In his heart, he still did not accept that he had become a toy in the eyes of the world. Here, the words of hatred and those people make the reader feel like the author is implying that the colonialists are planning to invade our country, they make the people hate. See more: Write a paragraph about 4, 5 sentences about apricot flowers
Along with his resentment, the tiger despised everything around him. To it, the environment that people try to create is just a fake, not the real green forest where it should live. It hates words:
Scenes of retouching, banality, and falsehood
Until:
The black water strip pretends to be a stream, there is no flow
Wool under the armpits are low mounds of tissue
Those fake things make him miss the majestic green forest out there even more. That place once had a golden and glorious past. It misses those beautiful days:
I remember the forest scene, the shadow of the old trees
With the sound of the wind roaring, with the voice of the source screaming the mountains
While screaming a fierce song
In that majestic natural place, the tiger appears like a king of the forest. His steps were full of courage, his eyes were as bright as those of a god that could illuminate the entire dark cave. It is the king of the jungle and it has the power to silence other animals. Those things are gone now, that's why right now he misses the green forest so much. It longs to return to life as it was before:
Where are the golden nights by the stream?
I stood drinking intoxicating moonlight tan primer
Previously, instead of lying around waiting for the day to gradually end, he could sleep soundly when dawn was rising, happily waiting for the sun to go down. But for him now, all of those things have become a thing of the past. Now, he can only cry out, "Alas! Where is the glorious time now? From resentment for his fallen fate, the tiger became even more nostalgic for his heroic past. That's why it resents the fake life going on around: See more: Describe the rose tree
Hate scenes that can never be changed
The scenes of renovation and false banality
Careful flowers, clipped grass, flat paths, planted trees
All of these things are just an imitation of the green forest. The more he despises real life, the more he longs to return to the green forest, to return to a free and liberal life, to freely roam around, to run in the fields, to participate. During chases, other animals appear submissive and fearful. For him, it was a huge dream. A dream is just a dream and now it only knows how to complain to heaven and earth.
The poem clearly shows the trend of the New Poetry movement, which is to escape reality and lead a free life. The poem is not only the tiger's words but also the mood of an entire generation of young people at that time.
Above we have together created an outline to analyze the poem Remembering the Forest and read the sample essay for reference. If there are any shortcomings in the essay, you can comment below and we can write it better and more attractive.
Thu Thuy
|
Bài thơ Nói với con của nhà thơ Y Phương là một bài thơ chứa đựng nhiều cảm xúc. Nó là một lời dạy bảo của người cha đối với người con nhưng lại được diễn giải theo kiểu tâm sự. Chính vì vậy nó có sức thuyết phục hơn và khiến cho chúng ta phải suy ngẫm.
Để phân tích bài thơ Nói với con được hay nhất mà lại không sợ thiếu ý, Kho tàng văn mẫu hướng dẫn các em lập dàn ý chi tiết cho đề văn này. Đồng thời, chúng tôi cung cấp cho các em bài văn mẫu để các em tham khảo.
I. Lập dàn ý phân tích bài thơ Nói với con
1. Mở bài
– Giới thiệu về nhà thơ Y Phương và bài thơ Nói với con.
– Nhà thơ Y Phương tên thật là Hứa Vĩnh Sước, ông là một nhà thơ người dân tộc Tày ở Cao Bằng.
– Ngôn ngữ thơ của Y Phương giàu tính dân tộc. Giọng điệu thơ gần gũi, cảm xúc.
– Bài thơ Nói với con là một lời thủ thỉ tâm tình của Y Phương dành cho con của mình.
2. Thân bài phân tích bài thơ Nói với con
Khổ 1: Những lời tự sự của người cha dành cho con
– Quá trình phát triển của một đứa trẻ gắn liền với niềm vui, niềm hạnh phúc của cha mẹ.
– Cha mẹ yêu thương, đùm bọc những đứa con của mình và lấy sự trưởng thành của con cái làm niềm vui.
– Hình ảnh thơ gần gũi không chỉ đối với riêng nhà thơ mà đối với tất cả chúng ta.
– Nhà thơ kể về những kỉ niệm cũ, mọi cảnh vật đều thấm đượm nghĩa tình.
– Thời khắc thiêng liêng quyết định đến sự ra đời của người con.
– Dùng hình ảnh xưa để gợi cho con tình yêu với quê hương, với những con người tuy không cùng dòng máu nhưng lại thân thiết như ruột thịt.
Khổ 2: Đức tính tốt đẹp của người đồng mình và lời nhắn nhủ của người cha
– Cuộc sống dẫu có nhiều vất vả nhưng từ trong cái khó, người đồng mình biết vươn lên.
– Nhắn nhủ con hãy học những đức tính tốt đẹp của người đồng mình, luôn vững vàng tiến lên phía trước.
– Nhắn nhủ con không được quên nguồn cội.
– Tiếp thêm cho con niềm tin vào sức mạnh của chính mình.
3. Kết luận
– Tóm tắt lại nội dung của bài thơ và nêu cảm nghĩ của em về bài thơ này.Xem thêm: Hãy bình luận câu tục ngữ sau: "Đất tốt trồng cây rườm rà, Những người thanh lịch nói ra dịu dàng". "Đất xấu trồng cây khẳng khiu, Những người thô tục nói điều phàm phu"
Bài viết liên quan
>> Phân tích bài thơ Mùa xuân nho nhỏ của Thanh Hải (Có dàn ý chi tiết)
>> Phân tích bài thơ Sang thu của Hữu Thỉnh (Có dàn ý chi tiết)
>> Phân tích bài thơ Viếng lăng Bác của Viễn Phương (Có dàn ý chi tiết)
II. Bài làm phân tích bài thơ Nói với con
Nhà thơ Y Phương là một trong những tác giả miền núi tiêu biểu của thi ca Việt Nam. Cũng như bản chất con người, thơ của Y Phương dung dị, mộc mạc nhưng đọc đến đâu thấm đượm nghĩa tình đến đây. Ông làm thơ khá nhiều và một trong những bài thơ được nhiều người nhớ đến nhất đó chính là bài Nói với con. Nội dung bài thơ là lời thủ thỉ tâm tình của người cha dành cho người quen. Qua đây, ta thấy được tình cảm của nhà thơ dành cho con của mình. Và cũng trong bài thơ này, ta thấy được cái chất dân tộc đậm nét của Y Phương.
Bài thơ Nói với con được viết theo thể thơ tự do, chính vì vậy mà cảm xúc không bị giới hạn. Nhà thơ có thể bộc lộ được hết những cảm xúc của mình thông qua từng câu chữ. Không đánh đố độc giả, hình ảnh thơ mà tác giả Y Phương đưa ra gần gũi, chân thực. Người đọc nào cũng thấy được bóng dáng của mình trong đó. Điều này thể hiện rõ nét nhất trong những câu thơ mở đầu:
Chân phải bước tới cha
Chân trái bước tới mẹ
Một bước chạm tiếng nói
Hai bước tới tiếng cười
Phân tích bài thơ Nói với con
Đó là hình ảnh của một đứa trẻ đang tuổi chập chững biết đi. Những bước chân đầu tiên là bước về phía cha mẹ, chạm vào cảm xúc của cha mẹ. Khung cảnh của một gia đình trẻ nơi có cha mẹ đang động viên con bước đi trên đôi chân của mình thật đầm ấm và hạnh phúc. Những bước chân đầu tiên trên cuộc đời là những bước chân vô cùng quan trọng. Vì sao nhà thơ lại nêu hình ảnh một đứa trẻ tập đi đầu tiên? Đó là bởi vì con người luôn phải tự tập đi, tự đứng vững trên đôi chân của chính mình. Cha mẹ không thể nào bế bổng và nâng đỡ chúng ta được mãi. Những bước đi đầu đời, đứa trẻ nào cũng mang trong mình cảm giác lo sợ nhưng nỗi sợ hãi ấy sẽ nhanh chóng qua đi bởi cha mẹ luôn kề bên. Cha mẹ cũng vậy, họ cũng từng có nhiều lo lắng, phải trải qua nhiều khó khăn và vất vả. Nhưng mọi chuyện qua đi một cách dễ dàng bởi vì bên cạnh họ luôn có tình cảm thắm thiết của người đồng mình:Xem thêm: Nghị luận xã hội Giữ lấy truyền thống dân tộc
Người đồng mình yêu lắm con ơi
Đan lờ cài nan hoa
Vách nhà ken câu hát
Rừng cho hoa
Con đường cho những tấm lòng
Cha mẹ mãi nhớ về ngày cưới
Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời
Người đồng mình là cách mà nhà thơ Y Phương nói về những người đồng bào của ông. Họ sống nơi vùng núi Cao Bằng, cuộc sống còn gặp nhiều khó khăn. Hai câu thơ “Đan lờ cài nan hoa, Vách nhà ken câu hát” đã cho chúng ta hiểu rõ hơn về cuộc sống của những người dân nơi đây. Đan, cài, ken là những động từ chỉ hành động, chỉ những công việc hàng ngày mà người đồng mình vẫn làm. Thế nhưng nếu xét về mặt ngữ âm, ngữ nghĩa, đan, cài, ken còn được hiểu là sự gắn kết. Có thể thấy, nhà thơ đã vận dụng ngôn ngữ tiếng Việt một cách tài tình để nói lên sự gắn kết của những con người miền núi với nhau. Tuy cuộc sống khốn khó nhưng họ vẫn tìm thấy niềm vui. Họ đem câu hát để lấp đầy những chỗ còn hở ở vách nhà. Sự tình nghĩa của con người tỏa lan ra cảnh vật khiến cho khung cảnh như cũng có hồn hơn, có tình hơn. Đó là lý do vì sao mà rừng thì cho hoa, con đường lại cho những tấm lòng. Từ trong tình yêu thương ấy, cha mẹ cũng đã đến với nhau. Núi rừng, con đường chứng kiến ngày vui hạnh phúc của họ. Đó là ngày hạnh phúc nhất và đó cũng là ngày mà hạt giống tình yêu được kết tinh.
Tiếp nối cho mạch cảm xúc của mình, nhà thơ nói về sự can trường, nói về những đức tính quý báu của người đồng mình. Từ yêu lắm, nhà thơ chuyển sang dùng thương lắm. Nếu xét về tính chất thì yêu và thương cũng đều chỉ cảm xúc của con người nhưng từ thương nghe có vẻ rộng lớn hơn. Thương vừa có cái tình người, vừa có sự đồng cảm, vừa có sự trìu mến. Thương vừa là yêu thương, vừa là dễ thương cũng vừa là xót thương. Xót là bởi vì cuộc sống của họ còn có nhiều khổ cực. Họ phải sống trên đá, sống trong thung nhưng họ dễ thương ở chỗ không chê đá gập ghềnh cũng không chê thung nghèo khổ:Xem thêm: Viết đoạn văn nêu những cảm nhận của em về hai tiếng "đồng chí" trong bài thơ cùng tên của Chính Hữu
Người đồng mình thương lắm con ơi
Cao đo nỗi buồn
Xa nuôi chí lớn
Dẫu làm sao thì cha vẫn muốn
Sống trên đá không chê đá gập ghềnh
Sống trong thung không chê thung nghèo khổ
Sống như sông như suối
Lên thác xuống ghềnh
Không lo cực nhọc
Từ trong gian khó của cuộc sống, người đồng mình đã biết vươn cao và vươn xa. Chính ý chí vững vàng đã khiến họ vượt qua tất thảy mọi thử thách của cuộc sống. Niềm lạc quan, tin tưởng vào tương lai tốt đẹp khiến cho họ không lo ngại những nỗi cực nhọc trong cuộc đời. Đó là lý do vì sao những người đồng mình tuy có vóc dáng nhỏ bé nhưng họ lại không bao giờ nhỏ bé trước cuộc đời:
Người đồng mình tuy thô sơ da thịt
Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con
Từ câu chuyện về những người đồng mình, nhà thơ cũng muốn gửi tới một lời nhắn nhủ tới con mình rằng hãy sống đầy tự tin và kiêu hãnh như người đồng mình. Khi chúng ta có niềm tin vào bản thân, chúng ta sẽ làm nên được nhiều điều hơn chúng ta nghĩ:
Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương
Còn quê hương thì làm phong tục
Con ơi tuy thô sơ da thịt
Lên đường
Không bao giờ nhỏ bé được
Nghe con.
Rõ ràng, nhà thơ đang mong muốn con mình trở nên mạnh mẽ và rắn giỏi. Thế nhưng, ông lại nói lên mong muốn ấy một cách nhẹ nhàng. Đó là lời thủ thỉ để cho con cảm nhận và hiểu ra vấn đề chứ không hề có sự ép buộc nào ở đây. Chính điều này đã tạo nên sức hấp dẫn của bài thơ. Và qua đây, người đọc thấy được bản thân mình cũng cần phải học theo những lời khuyên dạy ấy. Những lời khuyên xuất phát từ đáy lòng thật dễ dàng để chạm tới trái tim.
Trên đây là hướng dẫn lập dàn ý phân tích bài thơ Nói với con cũng như bài văn mẫu mà Kho tàng văn mẫu đã biên soạn. Hy vọng tài liệu bổ ích này giúp các em có thêm kiến thức để học tập môn Ngữ văn được tốt hơn.
Thu Thủy
|
Bài thơ Nói với con của nhà thơ Y Phương là một bài thơ chứa đựng nhiều cảm xúc. Nó là một lời dạy bảo của người cha đối với người con nhưng lại được diễn giải theo kiểu tâm sự. Chính vì vậy nó có sức thuyết phục hơn và khiến cho chúng ta phải suy ngẫm.
Để phân tích bài thơ Nói với con được hay nhất mà lại không sợ thiếu ý, Kho tàng văn mẫu hướng dẫn các em lập dàn ý chi tiết cho đề văn này. Đồng thời, chúng tôi cung cấp cho các em bài văn mẫu để các em tham khảo.
I. Lập dàn ý phân tích bài thơ Nói với con
1. Mở bài
– Giới thiệu về nhà thơ Y Phương và bài thơ Nói với con.
– Nhà thơ Y Phương tên thật là Hứa Vĩnh Sước, ông là một nhà thơ người dân tộc Tày ở Cao Bằng.
– Ngôn ngữ thơ của Y Phương giàu tính dân tộc. Giọng điệu thơ gần gũi, cảm xúc.
– Bài thơ Nói với con là một lời thủ thỉ tâm tình của Y Phương dành cho con của mình.
2. Thân bài phân tích bài thơ Nói với con
Khổ 1: Những lời tự sự của người cha dành cho con
– Quá trình phát triển của một đứa trẻ gắn liền với niềm vui, niềm hạnh phúc của cha mẹ.
– Cha mẹ yêu thương, đùm bọc những đứa con của mình và lấy sự trưởng thành của con cái làm niềm vui.
– Hình ảnh thơ gần gũi không chỉ đối với riêng nhà thơ mà đối với tất cả chúng ta.
– Nhà thơ kể về những kỉ niệm cũ, mọi cảnh vật đều thấm đượm nghĩa tình.
– Thời khắc thiêng liêng quyết định đến sự ra đời của người con.
– Dùng hình ảnh xưa để gợi cho con tình yêu với quê hương, với những con người tuy không cùng dòng máu nhưng lại thân thiết như ruột thịt.
Khổ 2: Đức tính tốt đẹp của người đồng mình và lời nhắn nhủ của người cha
– Cuộc sống dẫu có nhiều vất vả nhưng từ trong cái khó, người đồng mình biết vươn lên.
– Nhắn nhủ con hãy học những đức tính tốt đẹp của người đồng mình, luôn vững vàng tiến lên phía trước.
– Nhắn nhủ con không được quên nguồn cội.
– Tiếp thêm cho con niềm tin vào sức mạnh của chính mình.
3. Kết luận
– Tóm tắt lại nội dung của bài thơ và nêu cảm nghĩ của em về bài thơ này.Xem thêm: Hãy bình luận câu tục ngữ sau: "Đất tốt trồng cây rườm rà, Những người thanh lịch nói ra dịu dàng". "Đất xấu trồng cây khẳng khiu, Những người thô tục nói điều phàm phu"
Bài viết liên quan
>> Phân tích bài thơ Mùa xuân nho nhỏ của Thanh Hải (Có dàn ý chi tiết)
>> Phân tích bài thơ Sang thu của Hữu Thỉnh (Có dàn ý chi tiết)
>> Phân tích bài thơ Viếng lăng Bác của Viễn Phương (Có dàn ý chi tiết)
II. Bài làm phân tích bài thơ Nói với con
Nhà thơ Y Phương là một trong những tác giả miền núi tiêu biểu của thi ca Việt Nam. Cũng như bản chất con người, thơ của Y Phương dung dị, mộc mạc nhưng đọc đến đâu thấm đượm nghĩa tình đến đây. Ông làm thơ khá nhiều và một trong những bài thơ được nhiều người nhớ đến nhất đó chính là bài Nói với con. Nội dung bài thơ là lời thủ thỉ tâm tình của người cha dành cho người quen. Qua đây, ta thấy được tình cảm của nhà thơ dành cho con của mình. Và cũng trong bài thơ này, ta thấy được cái chất dân tộc đậm nét của Y Phương.
Bài thơ Nói với con được viết theo thể thơ tự do, chính vì vậy mà cảm xúc không bị giới hạn. Nhà thơ có thể bộc lộ được hết những cảm xúc của mình thông qua từng câu chữ. Không đánh đố độc giả, hình ảnh thơ mà tác giả Y Phương đưa ra gần gũi, chân thực. Người đọc nào cũng thấy được bóng dáng của mình trong đó. Điều này thể hiện rõ nét nhất trong những câu thơ mở đầu:
Chân phải bước tới cha
Chân trái bước tới mẹ
Một bước chạm tiếng nói
Hai bước tới tiếng cười
Phân tích bài thơ Nói với con
Đó là hình ảnh của một đứa trẻ đang tuổi chập chững biết đi. Những bước chân đầu tiên là bước về phía cha mẹ, chạm vào cảm xúc của cha mẹ. Khung cảnh của một gia đình trẻ nơi có cha mẹ đang động viên con bước đi trên đôi chân của mình thật đầm ấm và hạnh phúc. Những bước chân đầu tiên trên cuộc đời là những bước chân vô cùng quan trọng. Vì sao nhà thơ lại nêu hình ảnh một đứa trẻ tập đi đầu tiên? Đó là bởi vì con người luôn phải tự tập đi, tự đứng vững trên đôi chân của chính mình. Cha mẹ không thể nào bế bổng và nâng đỡ chúng ta được mãi. Những bước đi đầu đời, đứa trẻ nào cũng mang trong mình cảm giác lo sợ nhưng nỗi sợ hãi ấy sẽ nhanh chóng qua đi bởi cha mẹ luôn kề bên. Cha mẹ cũng vậy, họ cũng từng có nhiều lo lắng, phải trải qua nhiều khó khăn và vất vả. Nhưng mọi chuyện qua đi một cách dễ dàng bởi vì bên cạnh họ luôn có tình cảm thắm thiết của người đồng mình:Xem thêm: Nghị luận xã hội Giữ lấy truyền thống dân tộc
Người đồng mình yêu lắm con ơi
Đan lờ cài nan hoa
Vách nhà ken câu hát
Rừng cho hoa
Con đường cho những tấm lòng
Cha mẹ mãi nhớ về ngày cưới
Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời
Người đồng mình là cách mà nhà thơ Y Phương nói về những người đồng bào của ông. Họ sống nơi vùng núi Cao Bằng, cuộc sống còn gặp nhiều khó khăn. Hai câu thơ “Đan lờ cài nan hoa, Vách nhà ken câu hát” đã cho chúng ta hiểu rõ hơn về cuộc sống của những người dân nơi đây. Đan, cài, ken là những động từ chỉ hành động, chỉ những công việc hàng ngày mà người đồng mình vẫn làm. Thế nhưng nếu xét về mặt ngữ âm, ngữ nghĩa, đan, cài, ken còn được hiểu là sự gắn kết. Có thể thấy, nhà thơ đã vận dụng ngôn ngữ tiếng Việt một cách tài tình để nói lên sự gắn kết của những con người miền núi với nhau. Tuy cuộc sống khốn khó nhưng họ vẫn tìm thấy niềm vui. Họ đem câu hát để lấp đầy những chỗ còn hở ở vách nhà. Sự tình nghĩa của con người tỏa lan ra cảnh vật khiến cho khung cảnh như cũng có hồn hơn, có tình hơn. Đó là lý do vì sao mà rừng thì cho hoa, con đường lại cho những tấm lòng. Từ trong tình yêu thương ấy, cha mẹ cũng đã đến với nhau. Núi rừng, con đường chứng kiến ngày vui hạnh phúc của họ. Đó là ngày hạnh phúc nhất và đó cũng là ngày mà hạt giống tình yêu được kết tinh.
Tiếp nối cho mạch cảm xúc của mình, nhà thơ nói về sự can trường, nói về những đức tính quý báu của người đồng mình. Từ yêu lắm, nhà thơ chuyển sang dùng thương lắm. Nếu xét về tính chất thì yêu và thương cũng đều chỉ cảm xúc của con người nhưng từ thương nghe có vẻ rộng lớn hơn. Thương vừa có cái tình người, vừa có sự đồng cảm, vừa có sự trìu mến. Thương vừa là yêu thương, vừa là dễ thương cũng vừa là xót thương. Xót là bởi vì cuộc sống của họ còn có nhiều khổ cực. Họ phải sống trên đá, sống trong thung nhưng họ dễ thương ở chỗ không chê đá gập ghềnh cũng không chê thung nghèo khổ:Xem thêm: Viết đoạn văn nêu những cảm nhận của em về hai tiếng "đồng chí" trong bài thơ cùng tên của Chính Hữu
Người đồng mình thương lắm con ơi
Cao đo nỗi buồn
Xa nuôi chí lớn
Dẫu làm sao thì cha vẫn muốn
Sống trên đá không chê đá gập ghềnh
Sống trong thung không chê thung nghèo khổ
Sống như sông như suối
Lên thác xuống ghềnh
Không lo cực nhọc
Từ trong gian khó của cuộc sống, người đồng mình đã biết vươn cao và vươn xa. Chính ý chí vững vàng đã khiến họ vượt qua tất thảy mọi thử thách của cuộc sống. Niềm lạc quan, tin tưởng vào tương lai tốt đẹp khiến cho họ không lo ngại những nỗi cực nhọc trong cuộc đời. Đó là lý do vì sao những người đồng mình tuy có vóc dáng nhỏ bé nhưng họ lại không bao giờ nhỏ bé trước cuộc đời:
Người đồng mình tuy thô sơ da thịt
Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con
Từ câu chuyện về những người đồng mình, nhà thơ cũng muốn gửi tới một lời nhắn nhủ tới con mình rằng hãy sống đầy tự tin và kiêu hãnh như người đồng mình. Khi chúng ta có niềm tin vào bản thân, chúng ta sẽ làm nên được nhiều điều hơn chúng ta nghĩ:
Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương
Còn quê hương thì làm phong tục
Con ơi tuy thô sơ da thịt
Lên đường
Không bao giờ nhỏ bé được
Nghe con.
Rõ ràng, nhà thơ đang mong muốn con mình trở nên mạnh mẽ và rắn giỏi. Thế nhưng, ông lại nói lên mong muốn ấy một cách nhẹ nhàng. Đó là lời thủ thỉ để cho con cảm nhận và hiểu ra vấn đề chứ không hề có sự ép buộc nào ở đây. Chính điều này đã tạo nên sức hấp dẫn của bài thơ. Và qua đây, người đọc thấy được bản thân mình cũng cần phải học theo những lời khuyên dạy ấy. Những lời khuyên xuất phát từ đáy lòng thật dễ dàng để chạm tới trái tim.
Trên đây là hướng dẫn lập dàn ý phân tích bài thơ Nói với con cũng như bài văn mẫu mà Kho tàng văn mẫu đã biên soạn. Hy vọng tài liệu bổ ích này giúp các em có thêm kiến thức để học tập môn Ngữ văn được tốt hơn.
Thu Thủy
|
Đề bài: Phân tích bài thơ Nói Với Con của Y Phương
Bài làm
Tình cảm gia đình là thứ tình cảm rất thiêng liêng và cao quý mà mỗi chúng ta cần phải biết trân trọng, giữ gìn. Nhiều nhà thơ đã mượn những tình cảm ấy để viết lên những vần thơ hay và cảm động để cho chúng ta hiểu sâu sắc hơn. Chính vì có nhiều nhà thơ lấy tình cảm gia đình làm đề tài nên để có thể mang lại ấn tượng cho người đọc thì bài thơ phải mang những nét độc đáo, mới mẻ riêng. Bài thơ Nói Với Con của nhà thơ Y Phương chính là một trong những sáng tác tiêu biểu.
Nói Với Con là một bài thơ tha thiết, chan chứa nỗi niềm xúc động thông qua việc người cha dặn dò, khuyên nhủ đứa con trai của mình. Mở đầu bài thơ, người cha gợi về hình ảnh đứa con đương còn bé, đang chập chững bước đi những bước chân đầu tiên của cuộc đời:
“Chân phải bước tới cha
Chân trái bước tới mẹ
Một bước chạm tiếng nói
Hai tiếng chạm tiếng cười”
Những bước đi của đứa trẻ đang tập đi, hướng về phía cha, mẹ đó chính là hướng về người thân ruột thịt trong gia đình, là những người gần gũi, yêu thương. Ở khổ thơ đầu này ý của nhà thơ không chỉ dừng lại ở việc con chập chững biết đi mà còn là các giai đoạn phát triển, trưởng thành của con đều được người cha ghi nhớ, lưu giữ.Xem thêm: Nghị luận xã hội về căn bệnh vô cảm
“Người đồng mình yêu lắm con ơi
Đan lờ cài đan hoa
Vách nhà ken câu hát
Rừng cho hoa
Con đường cho những tấm lòng”
Người cha không chỉ gửi gắm tình cảm của những người thân trong gia đình mà nó còn được mở rộng ra đó là “người đồng mình”. Đó là những người sống cùng một không gian sinh sống thuộc quê hương, họ là những người cùng quê, có thể không cùng huyết thống hay dòng họ nhưng lại chất chứa tình cảm yêu thương gắn bó với nhau. Những tình cảm chân quê ấy còn được thể hiện qua cuộc sống lao đống sản xuất của họ. Đó là “đan lờ”, là vách nhà đơn sơ nhưng lại mang tiếng hát thể hiện sự yêu đời, lạc quan. Họ sống gần gũi với thiên nhiên, núi rừng.
Phân tích bài thơ Nói Với Con
Tiếp nối ý thơ trên, Y Phương đã gợi nhớ với con về kỷ niệm đẹp trong cuộc đời của mình:
“Cha mẹ nhớ mãi về ngày cưới
Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời”
Con đường càng dài thì càng nhận ra được tấm lòng của nhau và đối với nhà thơ thì khi mà thấu hiểu được tấm lòng của nhau, khi hai trái tim cùng chung nhịp đập thì có nghĩa là ngày đẹp nhất trên đời, “ngày cưới”. Nhắc lại ký ức này, người cha mong muốn con có thể hiểu được sự hình thành của mái nhà hạnh phúc mà con đang sống, con là đứa trẻ được sinh ra trong tình yêu thương của cha mẹ, trong một mái ấm hạnh phúc. Ngay sau khi để người con cảm nhận được ngày hạnh phúc của chả mẹ thì Y Phương đã đưa vào bài thơ lời dạy dỗ đối với đứa con của mình:Xem thêm: Phân tích nhân vật bé Thu trong truyện ngắn Chiếc lược ngà
“Người đồng mình thương lắm con ơi
Cao đo nỗi buồn
Xa nuôi chí lớn
Dẫu sao thì cha vẫn muốn
Sống trên đá không chê đá gập ghềnh
Sống trong thung không chê thung nghèo đói”
Lời dạy của cha rất chân thành và tha thiết. Nó đem lại cho ta cảm rất nhẹ nhàng, gần gũi nhưng cũng không kém phần nghiêm khắc. Trong cuộc sống thì không chỉ có niềm vui mà cũng chan chứa những nỗi buồn. Nỗi buồn không chỉ của riêng con mà còn là cả của “người đồng mình”. Chính vì thế họ phải nuôi chí lớn để có thể làm biến mất đi nỗi buồn của quê hương, dân tộc. Người cha khuyên răn người con rằng dù cho quê hương có nghèo đói, khó khăn thì con cũng phải học cách thích nghi, cải tạo chứ không phải phủ nhận nguồn gốc, chê bai cội nguồn của chính mình. Con nên:
“Sống như sông như suối
Lên thác xuống ghềnh
Không lo cực nhọc”
Khuyên con mình nên sống một cuộc sống phóng khoáng, tự do, phải có sức sống mãnh liệt không bao giờ cạn. Là một người con trai thì phải biết “lên thác xuống ghềnh” để vượt qua những khó khăn, thử thách chứ không được lùi bước. Nhà thơ tiếp tục nhắc đến “người đồng mình” để làm bài học cho người con:
“Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương
Còn quê hương thì làm phong tục
Con ơi tuy thô sơ da thịt
Lên đường
Đừng bao giờ nhỏ bé
Nghe con”
Người cha nhắc về “người đồng mình” với niềm tự hào khôn xiết. Đó là nhắc về truyền thống kiến cường bất khuất, quyết tâm làm giàu đẹp cho quê hương, xứ sở. Người đồng mình “đục đá” để “kê cao quê hương” đây là một hành động có thể hiểu theo hai nghĩa. Thứ nhất đó chính là sức mạnh chế ngự thiên nhiên, họ xây dựng những ngôi nhà trên sườn đá, xây nên những bản làng, tạo dựng thành quê hương. Thứ hai cũng có thể hiểu là truyền thống đấu tranh của dân tộc, đục đá thể hiện sự kiên cường, quyết tâm. Dù cho “thô sơ da thịt” nhưng tầm vóc của họ lại vô cùng lớn lao mà con sau này có rời xa quê hương, hay lớn lên thì cũng phải tiếp nối truyền thống ấy.Xem thêm: Phân tích nhân vật bé Thu trong đoạn trích truyện ngắn Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng
Bài thơ Nói Với Con của Y Phương chính là những lời tâm tình đầy thiết tha và chân thành của người cha dành cho con mình. Người cha đem lại bài học cho con trai của mình rằng phải luôn biết yêu thương, kính trọng và đoàn kết, biết yêu và giữ gìn truyền thống tốt đẹp của quê hương. Đồng thời cũng phải sống mạnh mẽ, kiên cường và trở thành người có ích cho quê hương, cho dân tộc.
Loan Trương
|
Topic: Analysis of the poem Talking to Children by Y Phuong
Assignment
Family love is a very sacred and noble feeling that each of us needs to appreciate and preserve. Many poets have borrowed those feelings to write beautiful and touching poems to give us a deeper understanding. Because many poets take family love as their theme, in order to leave an impression on the reader, the poem must have its own unique and new features. Poet Y Phuong's poem "Speaking to Children" is one of the typical works.
Talk to Your Son is a passionate poem, filled with emotion through the father's instructions and advice to his son. At the beginning of the poem, the father evokes the image of his young child, taking his first steps in life:
“Right foot steps towards dad
Left foot steps towards mother
One step to touch the voice
Two sounds of laughter"
The steps of a child learning to walk, towards his father and mother, are towards his immediate family members, those who are close and loved. In this first stanza, the poet's intention is not only that the child learns to walk, but also that the child's stages of development and maturity are all remembered and preserved by the father. See more: Social commentary about the disease of insensitivity
“My companion loves me very much, my child
Knit flower brooches
The walls of the house sing songs
The forest gives flowers
The path for the hearts"
The father not only conveys the love of his family members, but it is also extended to be an "ally". These are people who live in the same living space in their hometown, they are people from the same hometown, they may not have the same blood or family lineage, but they harbor feelings of love and attachment to each other. These rustic sentiments are also expressed through their hard-working life in production. It is "dan lang", a simple house wall but with a singing voice that shows love for life and optimism. They live close to nature, mountains and forests.
Analyze the poem Speak to Your Children
Following the above poetic idea, Y Phuong reminded her children of beautiful memories in her life:
“Parents always remember their wedding day
The most beautiful first day of my life"
The longer the road, the more we realize each other's hearts, and for the poet, when we understand each other's hearts, when two hearts beat together, it means the most beautiful day in the world, "the wedding day." ”. Recalling this memory, the father wants his child to be able to understand the formation of the happy home in which he lives. He is a child born in the love of his parents, in a happy home. Right after letting the child feel his mother's happy day, Y Phuong included in the poem a teaching for her child: See more: Analysis of Thu's character in the short story The Ivory Comb
“My comrades love me very much, my child
Cao measures sadness
Far from raising great ambition
Anyway, dad still wants it
Living on rocks doesn't mean rocks are bumpy
Living in the valley does not condemn the poverty of the valley."
Father's teachings were very sincere and earnest. It gives us a very gentle, close, but equally strict feeling. In life, there is not only joy but also sadness. The sadness is not only your own but also that of your "comrades". That's why they must cultivate great ambition to make the sadness of their homeland and nation disappear. The father advised his son that even if his homeland is poor and difficult, he must learn to adapt and reform, not deny his origin or disparage his own roots. You should:
“Live like a river like a stream
Up the waterfall and down the rapids
Don't worry about hardship"
Advise your children to live a liberal and free life, and to have a strong and never-ending vitality. As a son, you must know how to "climb waterfalls and rapids" to overcome difficulties and challenges, not retreat. The poet continues to mention his "comrade" as a lesson for his son:
“The fellows themselves carve out rocks to elevate their homeland
As for the homeland, it is customary
My child, although the skin is rough
Let's go
Never be small
Listen to me”
The father talked about his "comrade" with immense pride. It is a reminder of the tradition of indomitable perseverance and determination to enrich and beautify the homeland. Companions "chisel stones" to "lift up the homeland", this is an action that can be understood in two senses. Firstly, it is the power to control nature. They built houses on rocky slopes, built villages, and created their homeland. Second, it can also be understood as the nation's tradition of struggle, stone chiseling shows resilience and determination. Even though they are "rough in flesh", their stature is so great that even if their children leave their homeland in the future, or grow up, they must continue that tradition. See more: Analysis of the character of little Thu in Excerpt from the short story The Ivory Comb by Nguyen Quang Sang
Y Phuong's poem "Speaking to Your Children" is a father's passionate and sincere words for his child. The father brings a lesson to his son that he must always know how to love, respect and unite, know how to love and preserve the good traditions of his homeland. At the same time, we must live strong, resilient and become a useful person for the homeland and the nation.
Loan Truong
|
Bài thơ Phú sông Bạch Đằng của Trương Hán Siêu là một bài thơ nói về sự hùng mạnh, vẻ đẹp và ý nghĩa của con sông Bạch Đằng. Bài thơ này được viết khi tác giả có một cuộc dạo chơi trên sông Bạch Đằng. Bài thơ giúp người đọc nhìn lại lịch sử dân tộc và thêm tự hào về lịch sử của dân tộc ta.
Trước khi làm bài văn phân tích bài thơ Phú sông Bạch Đằng, các em cần phải đọc tham khảo nhiều bài văn mẫu cũng như lập dàn ý chi tiết phân tích bài thơ Phú sông Bạch Đằng. Bài viết này sẽ hướng dẫn các em cách lập dàn ý cũng như cách làm một bài văn phân tích.
I. Lập dàn ý phân tích bài thơ Phú sông Bạch Đằng
1. Mở bài
– Giới thiệu về tác giả Trương Hán Siêu và bài Phú sông Bạch Đằng.
– Trương Hán Siêu là một tham tri chính trị có tài thơ văn nổi tiếng một thời.
– Bài Phú sông Bạch Đằng đã thể hiện được sự hùng mạnh của con sông.
2. Thân bài phân tích bài thơ Phú sông Bạch Đằng
a. Cảm xúc lịch sử của nhân vật khách
– Nhân vật khách là người thích đi ngao du đến các địa danh lịch sử.
– Là người yêu tự do và có tâm hồn phóng khoáng.
– Tái hiện lịch sử tang thương nơi sông Bạch Bằng.
– Nhân vật khách đã thể hiện nỗi niềm hoài cổ, thương tiếc.
– Tâm hồn yêu quê hương, đất nước của nhân vật khách.
b. Lời của các bô lão
– Lời kể về các chiến công có sự tự hào.
– Khẳng định mỗi chiến thắng đều có sức mạnh của con người.
– Thể hiện niềm tự hào dân tộc.
3. Kết luận
– Tổng quan nội dung bài thơ và nêu cảm nghĩ của em về bài thơ này.
Bài viết liên quan
>> Phân tích bài thơ Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn (Có dàn ý chi tiết)
Xem thêm: Ở nềm tin của tình yêu có hạnh phúc
>> Phân tích bài thơ Trao duyên trích Truyện Kiều của Nguyễn Du (Có dàn ý chi tiết)
>> Phân tích bài thơ Nhàn của Nguyễn Bình Khiêm (Có dàn ý chi tiết)
II. Bài làm phân tích bài thơ Phú sông Bạch Đằng
Trương Hán Siêu vốn được biết đến là người có học vấn uyên thâm lại có tính tình trung thực nên ông rất được vua Trần tin tưởng. Không chỉ là một vị tham tri chính trị xuất sắc, ông còn là một thi sĩ có tài. Nội dung các tác phẩm của ông xoay quanh việc ca ngợi đất nước, ca ngợi lịch sử, thể hiện một tinh thần yêu nước sâu sắc. Phú sông Bạch Đằng là một trong những sáng tác hấp dẫn của Trương Hán Siêu nằm trong đề tài này. Bên cạnh việc cung cấp thông tin lịch sử, bài thơ còn đề cao vai trò của con người anh hùng trong các chiến thắng lịch sử.
Ở bài thơ này, nhà thơ tự đặt mình vào trong vai trò là một vị khách đi thăm cảnh sông nước. Chính vì vậy mà hình ảnh nhân vật khách trở nên phóng khoáng và tự do. Nhà thơ đã hòa mình vào với cảnh sông núi nước non của 50 năm sau chiến tháng trên sông Bạch Đằng. Mục đích của bài phú này là ca ngợi vẻ đẹp và nâng cao hiểu biết của con người. Thông qua các địa danh nổi tiếng như cửa Đại Than, Bách Việt, Tam Ngô, Ngũ Hồ, Cửu Giang, bến Đông Triều, tác giả đã nhìn thấy phía xa xa kia chính là sông Bạch Đằng, nơi những con sóng kình nối đuôi nhau dài đến muôn dặm. Nó làm cho cảnh sắc dòng xông trở nên kì vĩ hơn, màu trời hòa lẫn với màu nước khiến cho không gian như được mở rộng hơn:
Bờ lau san sát, bến lách đìu hiu
Sông chìm giáo gãy, gò đầy xương khô
Buồn vì cảnh thảm, đứng lặng giờ lâu
Thương thay nỗi anh hùng đâu vắng tá
Tiếc thay dấu vết luống còn lưu
Phân tích bài thơ Phú sông Bạch Đằng
Khung cảnh hai bên bờ sâu với lau lách mọc um tùm gợi lên cho người đọc một cảm giác hoang vắng và đìu hiu. Nó gợi lên hình ảnh ảm đạm của một bãi chiến trường với xác người, mũi giáo chôn sâu dưới đáy sông. Nhìn vào đó, tác giả cảm nhận được sự tàn khốc của chiến tranh. Dường như mọi chuyện chỉ mới vừa xảy ra ngày hôm qua. Nghĩ vậy khiến cho lòng tác giả thêm buồn, cảnh vật cũng vì vậy mà trở nên bi sầu. Thời gian 50 năm đã làm xóa mờ đi những dấu tích của lịch sử. Những người anh hùng dân tộc xưa kia nay cũng không còn nữa.Xem thêm: Phân tích bài thơ Tỏ lòng (Thuật hoài)
Các bô lão xuất hiện bên sông với một thái độ rất nhiệt tình và hiếu khách. Sau đó, họ kể lại những chiến tích năm xưa một cách ôn hòa. Trong đó có cả một niềm tự hào vô cùng to lớn. Đây là nơi năm xưa Ô Mã đã bị bắt sống, là nơi thuở trước Ngô chúa phá Hoằng Thao. Nó gắn với hai trận đánh lớn của nước ta trên sông Bạch Đằng đó là chiến thắng của Ngô Quyền vào năm 938 và chiến thắng của Trần Quốc Tuấn năm 1288. Trong những trận đánh ấy, thế giặc đều rất mạnh, tinh kì phấp phới, hùng hổ sáu quân mà gươm giáo lại sáng chói. Trong khi đó, quân ta yếu thế hơi và nếu đánh trực diện thì coi như nắm chắc phần thua. Nhưng không, chúng ta có những vị tướng tài ba đã biết dùng mưu để đánh giặc, biết tận dụng thủy triều lên xuống để đóng cọc, biết sức mình và biết sức địch để đưa ra những kế sách đúng đắn. Và trên hết, chúng ta chiến đấu vì chính nghĩa. Chính vì lẽ đó mà cuối cùng nước Đại Việt ta đã giành chiến thắng hết lần này cho tới lần khác. Lời kể của các bô lão có sức hấp dẫn vô cùng lớn và nó khiến cho nhân vật khách cảm thấy thích thú. Thông qua đây, chúng ta thấy được tấm lòng yêu quê hương tha thiết của các bô lão:Xem thêm: Phân tích bài ca dao: Trèo lên cây bưởi hái hoa…
Sông Đằng một dải dài ghê
Sóng hồng cuồn cuộn tuôn về bể Đông
Những người bất nghĩa tiêu vong
Nghìn thu chỉ có anh hùng lưu danh
Tiếp lời của các vị bô lão, nhân vật khách cũng ca rằng:
Anh minh hại vị thánh quân
Sông đây rửa sạch mấy lần giáp binh
Giặc tan muôn thuở thanh bình
Bởi đâu thoát hiểm cốt mình đức cao
Sự dài rộng của sông Bạch Đằng cũng chính là một lợi thế giúp chúng ta ngăn được bước đi của quân thù. Ngay cả sóng nước cũng giận dữ trước những kẻ xâm lăng. Sau trận thua tan tác, ngàn đời quân giặc vẫn còn hãi hùng mỗi khi nghĩ đến. Còn đối với người dân nước ta, ngàn đời sau sử sách cũng vẫn còn lưu danh tên tuổi những trận đánh, tên tuổi những vị anh hùng như Ngô Quyền, như Trần Hưng Đạo. Nhờ có họ mà đất nước mới được thái bình.
Bài Phú sông Bạch Đằng được xem là một đỉnh cao nghệ thuật của thể phú bởi lời văn được sử dụng một cách linh hoạt, hình tượng nghệ thuật sinh động, ngôn ngữ hào sảng, gợi cảm. Bài phú nhắc cho chúng ta nhớ về những chiến thắng lịch sử và nhắc nhớ về những vị tướng anh hùng của dân tộc.
Trên đây, chúng ta đã cùng nhau lập dàn ý phân tích bài thơ Phú sông Bạch Đằng. Dàn ý và bài văn mẫu này hy vọng sẽ là tài liệu tham khảo bổ ích cho các em để các em có thể nắm được cách lập luận, tư duy và triển khai ý khi làm một bài văn phân tích.
Thu Thủy
|
The poem Phu Bach Dang River by Truong Han Sieu is a poem about the power, beauty and meaning of the Bach Dang river. This poem was written when the author had a walk on the Bach Dang River. The poem helps readers look back at our nation's history and be more proud of our nation's history.
Before writing an essay analyzing the poem Phu Bach Dang River, you need to read many sample essays as well as create a detailed outline to analyze the poem Phu Bach Dang River. This article will guide you how to create an outline as well as how to write an analytical essay.
I. Create an outline to analyze the poem Phu Bach Dang River
1. Open the lesson
– Introduction to author Truong Han Sieu and the article Phu Bach Dang River.
– Truong Han Sieu was a political consultant with famous poetic talent at one time.
– Bai Phu Bach Dang River shows the power of the river.
2. Body analysis of the poem Phu Bach Dang River
a. Historical feelings of guest characters
– The guest character is someone who likes to travel to historical places.
– Is a person who loves freedom and has a liberal soul.
– Recreating the tragic history of Bach Bang River.
– The guest character expressed feelings of nostalgia and regret.
– The soul loves the homeland and country of the guest character.
b. Words of the elders
– Accounts of victories are filled with pride.
– Affirming that every victory has human strength.
– Express national pride.
3. Conclusion
– Overview of the poem's content and state your thoughts about this poem.
Related articles
>> Analysis of the poem Chinh Phu Ngam by Dang Tran Con (With detailed outline)
See more: In the belief of love there is happiness
>> Analysis of the poem Giving Love, excerpt from The Tale of Kieu by Nguyen Du (With detailed outline)
>> Analysis of the poem Nhan by Nguyen Binh Khiem (With detailed outline)
II. Essay analyzing the poem Phu Bach Dang River
Truong Han Sieu was known as a man of profound education and honest personality, so he was very trusted by King Tran. Not only is he an excellent political consultant, he is also a talented poet. The content of his works revolves around praising the country, praising history, expressing a deep patriotic spirit. Phu Bach Dang River is one of Truong Han Sieu's attractive compositions on this topic. Besides providing historical information, the poem also highlights the role of heroic people in historical victories.
In this poem, the poet puts himself in the role of a visitor visiting the river scene. That's why the image of the guest character becomes liberal and free. The poet immersed himself in the scenery of mountains and rivers 50 years after the war on the Bach Dang River. The purpose of this poem is to praise beauty and improve human understanding. Through famous places such as Dai Than, Bach Viet, Tam Ngo, Ngu Ho, Cuu Giang, Dong Trieu wharf, the author saw in the distance is the Bach Dang River, where the giant waves follow. thousands of miles long. It makes the stream's scenery more spectacular, the color of the sky blends with the color of the water, making the space seem more expansive:
The reed banks are close together, the wharf is desolate
The river sank, broken spears, and mounds full of dry bones
Sad because of the tragic scene, standing still for a long time
What a pity that heroes are absent
Unfortunately, traces of the furrow remain
Analysis of the poem Phu Bach Dang River
The scenery on both sides of the deep bank with overgrown reeds evokes in the reader a feeling of desolation and desolation. It evokes the gloomy image of a battlefield with human corpses and spear tips buried deep in the river bottom. Looking at it, the author feels the brutality of war. It seems like everything just happened yesterday. Thinking like that makes the author's heart more sad, and the scene also becomes sad. The passage of 50 years has erased the traces of history. The national heroes of the past are no longer there anymore. See more: Analysis of the poem Expressing Your Heart (Thuat Noi)
The elders appeared by the river with a very enthusiastic and hospitable attitude. After that, they peacefully recounted their past victories. There is a great deal of pride in that. This is the place where O Ma was captured alive in the past, and where Lord Ngo destroyed Hoang Thao in the past. It is associated with two major battles of our country on the Bach Dang River, the victory of Ngo Quyen in 938 and the victory of Tran Quoc Tuan in 1288. In those battles, the enemy's position was very strong, their flags were fluttering. , the six armies were fierce, but their swords and spears were shining brightly. Meanwhile, our army is at a slight disadvantage and if we fight head-on, we will surely lose. But no, we have talented generals who know how to use tactics to fight the enemy, who know how to take advantage of the rising and falling tides to drive stakes, who know their own strength and know the enemy's strength to come up with the right plans. And above all, we fight for justice. That's why in the end our Dai Viet country won over and over again. The elders' narration has great appeal and it makes the guest characters feel excited. Through this, we see the elders' sincere love for their homeland: See more: Analysis of the folk song: Climbing the grapefruit tree to pick flowers...
Dang River is a very long strip
The pink waves rolled into the East pool
Unrighteous people perish
In a thousand years, only heroes will remain famous
Following the words of the elders, the guest also sang:
He harmed the holy king
The river here washed the armor several times
The enemy is destroyed and peace is forever
Because escape from danger means high virtue
The length and breadth of the Bach Dang River is also an advantage that helps us stop the enemy's progress. Even the waves were angry before the invaders. After the devastating defeat, thousands of enemy soldiers were still terrified every time they thought about it. As for the people of our country, thousands of generations later, history books will still preserve the names of battles and heroes like Ngo Quyen and Tran Hung Dao. Thanks to them, the country is at peace.
The poem Phu Bach Dang River is considered an artistic pinnacle of the poetic form because of its flexible use of text, vivid artistic images, and generous and sexy language. The poem reminds us of historical victories and of the nation's heroic generals.
Above, we have together created an outline to analyze the poem Phu Bach Dang River. This outline and sample essay hope to be a useful reference for you so you can grasp how to reason, think and develop ideas when writing an analytical essay.
Thu Thuy
|
Phân tích bài thơ Phản Chiêu Hồn.
Hướng dẫn
Bài thơ “Phản chiêu hồn” là một bài thơ có tứ độc đáo. Sự lưu truyền của bài thơ mấy trăm năm qua đã khẳng định giá trị tư tưởng và nghệ thuật của nó. Bài thơ giàu giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo cao cả.
Khuất Nguyên là nhà thơ yêu nước vĩ đại của Trung Quốc thế kỷ IV trước Công nguyên. Thời đại Khuất Nguyên sống được gọi là thời Chiến Quốc, khi mười hai nước lớn thời Xuân Thu đã hợp thành bảy nước lớn hơn tranh giành quyền binh, đánh lẫn nhau để rồi đến năm 221 trước công nguyên, Tần Thủy Hoàng thôn tính tất cả, thống nhất Trung Quốc lập ra nhà Tần. Nước Sở, Tổ quốc của Khuất Nguyên từng là xứ sở hùng mạnh nhưng lúc đó bắt đầu suy vong. Sở Hoài Nguyên lúc đầu trọng dụng Khuất Nguyên do tài năng và dòng dõi của ông, sau khi bọn gian thần gièm pha, vì những cải cách chính trị của ông đề ra ngày càng mâu thuẫn với quyền lợi của bọn chúng. Khuất Nguyên bị Sở Hoài Nguyên ruồng bỏ, thậm chí bắt ông đi đầy xuống phương Nam. Suốt những năm phiêu bạt, Khuất Nguyên vẫn một lòng trung thành với lý tưởng của mình, hướng về nhân dân, đất nước. Năm 287 trước công nguyên, Sính Đô là kinh thành nước Sở bị quân Tần đánh chiếm và tàn phá, nước Sở trước nguy cơ bị diệt vọng, Khuất Nguyên tuyệt vọng, ông nhảy xuống ông Mịch La tự vẫn. Tống Ngọc, một danh sỹ thời Chiến Quốc, học trò của Khuất Nguyên thương thầy mà gọi hồn về, đó là quan điểm tôn sư trọng đạo. Nguyễn Du viết bài Phản Chiêu hồn không phải chống lại Tống Ngọc thương thầy gọi hồn về. Nguyễn Du cũng xuất phát từ lòng thương vô hạn đối với Khuất Nguyên nhưng lại ở khía cạnh khác.
Khuất Nguyên để lại nhiều tác phẩm thơ ca bất hủ như Ly Tao, Thiên vấn, Cửu chương, cửu ca… Đó là những tác phẩm văn học có giá trị nghệ thuật và tư tưởng lớn, thể hiện tinh thần yêu nước và tâm hồn cao đẹp của Khuất Nguyên, trở thành mẫu mực của văn học qua nhiều thời đại về sau.Xem thêm: Top 10 website những bài văn mẫu hay lớp 11 mới nhất
Nguyễn Du đồng cảm với Khuất Nguyên vì hai ông đều có những hoàn cảnh bất đắc chí. Sự thối nát của xã hội thời Khuất Nguyên có khác gì sự mục ruỗng của chế độ phong kiến cuối thế kỷ XVIII thời Nguyễn Du sống. Đây là sự đồng cảm tâm hồn của hai nhà thơ lớn cách nhau hai nghìn năm. Có thể nói chỉ có thiên tài Nguyễn Du mới viết được bài thơ sâu sắc cả giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo như bài “Phản chiêu hồn”.
Theo Nguyễn Du cái xã hội hiện thời đã trở nên xa lạ, dù là một mảnh hồn cũng không một chốn dung thân. Theo Nguyễn Du thì Khuất Nguyên cao khiết quá, trong sáng quá đến nỗi không có người tri kỷ, đồng hành. Bài Phản Chiên Hồn đề cập đến một số vấn đề lớn của xã hội với mong muốn hồn Khuất Nguyên không nên trở về. Vì trở về nơi không xứng đáng với tấm lòng trong sạch của Khuất Nguyên.
Hồn ơi! Hồn ơi! Sao không về?
Đông,Tây,Nam, Bắc không có nơi nào nương tựa đâu!
Lên trời, xuống đất đều không được
Về đất Yên đất Dĩnh mà làm gì?
Thành quách vẫn như cũ, nhưng nhân dân đã khác rồi,
Bụi bay mù mịt bẩn cả quần áo.
Nguyễn Du đã miêu tả lại cảnh tượng hiện nay nơi đất nước Khuất Nguyên từng sống, thật bi đát và tang thương. Trước hết là bọn cầm quyền sống xa hoa, cậy quyền, ỷ thế, ra đường thì vênh vang xe ngựa, về nhà thì vỗ ngực đứng ngồi bàn tán tự coi mình là bậc cao nhân, tài đức thời thịnh như Nghiêu Thuấn. Nhưng lột cái vỏ bề ngoài của chúng đi thì bên trong là nọc độc, nanh vuốt, cắn xé người ngọt xớt…
Họ đi ra ngựa ngựa xe xe, họ ở nhà vênh vênh váo váo
Đứng ngồi bàn tán tựa như ông Cao, ông Quỳ.
Hồn không thấy mấy trăm châu ở HồNamđó sao?
Chỉ có những người gầy gò, không ai béo tốt.
Những loại người này không phải chỉ có số lượng ít, chúng ở khắp nơi khắp chốn. Tiếp đến đối lập với chúng là những dân đen mà Khuất Nguyên yêu mến, bảo vệ. Họ cũng khác xưa ở sự nghèo khổ suốt miền Hồ Nam toàn những người gầy gò, chẳng có ai béo tốt. Họ đang sống trong cảnh bị thống trị đã mất niềm tin và ngột ngạt, nếu Khuất Nguyên có trở về thì họ cũng cho ông không hiểu gì cả.Xem thêm: Tóm tắt sử thi Ô-đi-xê của Hi Lạp
Một xã hội đen tối như thế, chỗ nào cũng thấy Thượng Quan và ở đâu trên mặt đất cũng là sông Mịch La. Nếu Khuất Nguyên trở về có thể coi là lỗi thời. Vì sau thời Tam Hoàng không còn tồn tại cách sống trung nghĩa! Nếu hổ báo trên rừng không ăn thịt thì cá dưới nước cũng rỉa xác đến chết.
Với những hình ảnh miêu tả chân thực Nguyễn Du đã làm hiện hình một xã hội Trung Quốc đen tối, ngột ngạt, thối nát. Bọn thống trị thì hiểm độc, nhân dân thì đói khổ, người sống trung nghĩa thì bế tắc. Phản Chiêu hồn chính là bài thơ trùm đắp cái buồng uất âm ỉ thành nộ khí gây nên sấm chớp bão bùng của sự phản kháng cao độ, phủ nhận cuộc đời đang sống một cách không thương tiếc.
Nhà thơ đã nhắc nhở hồn Khuất Nguyên tới hai từ Thượng Quan và Mịch La, vốn là hai danh từ riêng chỉ con người và một địa điểm cụ thể rất cá biệt. Nhưng đối với Khuất Nguyên và người cùng thời thì Thượng Quan là một quyền thần xu nịnh, gian ác nổi tiếng. Nó có mặt ở mọi xó xỉnh cuộc đời. Còn Mịch La là nơi đã chôn vùi một cách oan nghiệt tài năng của một con người trung nghĩa. Đó là dòng sông mang đầy uất hận… Nhưng cả hai cái danh từ cá biệt này đã trở thành phổ biến thì nhan nhảnh trong cuộc đời, trùm lên hết thảy mọi chốn mọi nơi:Xem thêm: Những bài thơ ngắn hay về hoa đặc sắc nhất
"Đời sau ai cũng là Thượng Quan
Mặt đất đâu đâu cũng là sông Mịch La"
Ông đã khẳng định với hồn Khuất Nguyên rằng, trong xã hội tràn ngập mọi nơi những Thượng Quan và Mịch La thì bi kịch người trí thức như Khuất Nguyên là không thể tránh khỏi, là mang ý nghĩa phổ biến.
" Cá rồng không ăn, hùm sói cũng ăn"
Bi kịch đã dành sẽ là phổ biến, nhưng còn tình trạng bế tắc về lý tưởng như Khuất Nguyên cũng là thường tình, cho nên Nguyễn Du thương người mà kêu lên những lời băn khoăn, da diết:
"Hồn ai! Hồn ai! Hồn làm thế nào?"
Như một câu hỏi đặt ra trước vận mệnh một con người còn sống, không thể trả lời!
Từ số phận và hoàn cảnh của Khuất Nguyên, với bốn câu thơ kết thúc, Nguyễn Du đã khái quát nâng lên thành những số phận, cảnh ngộ phổ biến, bao quát cả không gian và thời gian. Do vậy ý nghĩa phê phán sự xấu xa độc ác trong xã hội phong kiến ở thời đại Nguyễn Du và ở Trung Quốc và Việt Nam đều có ý nghĩa sâu sắc.
Nhà văn Lỗ Tấn sau này, đã nhiều lần gọi xã hội Trung Quốc là xã hội ăn thịt người. Nhưng trong Phản Chiên hồn có hiện lên bằng những hình ảnh cụ thể gây ấn tượng rất mạnh. Phản Chiêu hồn là bài thơ Nguyễn Du viết về Khuất Nguyên với những tên đất, tên người của một thời quá khứ. Bằng những chuyện nước người, nhưng nỗi đau bi phẩn, căm giận thì không phải lấy ra từ sách vở hoặc qua suy ngẫm mà bắt nguồn từ lòng nhân ái, từ sự yêu thương sâu sắc đối với những con người trung nghĩa phải sống trong cái xã hội bản chất là ăn thịt người của nó.
Bài Thơ phản văn chiêu hồn như một nỗi niềm tâm trạng sâu kín của nhà thơ. Ông không chỉ xót thương cho Khuất Nguyên mà xót thương cho chính mình và những vị quan thanh liêm nhưng sống trong xã hội thối nát, bế tắc đến cùng đường.
Nguồn:
|
Phân tích bài thơ Phản Chiêu Hồn.
Hướng dẫn
Bài thơ “Phản chiêu hồn” là một bài thơ có tứ độc đáo. Sự lưu truyền của bài thơ mấy trăm năm qua đã khẳng định giá trị tư tưởng và nghệ thuật của nó. Bài thơ giàu giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo cao cả.
Khuất Nguyên là nhà thơ yêu nước vĩ đại của Trung Quốc thế kỷ IV trước Công nguyên. Thời đại Khuất Nguyên sống được gọi là thời Chiến Quốc, khi mười hai nước lớn thời Xuân Thu đã hợp thành bảy nước lớn hơn tranh giành quyền binh, đánh lẫn nhau để rồi đến năm 221 trước công nguyên, Tần Thủy Hoàng thôn tính tất cả, thống nhất Trung Quốc lập ra nhà Tần. Nước Sở, Tổ quốc của Khuất Nguyên từng là xứ sở hùng mạnh nhưng lúc đó bắt đầu suy vong. Sở Hoài Nguyên lúc đầu trọng dụng Khuất Nguyên do tài năng và dòng dõi của ông, sau khi bọn gian thần gièm pha, vì những cải cách chính trị của ông đề ra ngày càng mâu thuẫn với quyền lợi của bọn chúng. Khuất Nguyên bị Sở Hoài Nguyên ruồng bỏ, thậm chí bắt ông đi đầy xuống phương Nam. Suốt những năm phiêu bạt, Khuất Nguyên vẫn một lòng trung thành với lý tưởng của mình, hướng về nhân dân, đất nước. Năm 287 trước công nguyên, Sính Đô là kinh thành nước Sở bị quân Tần đánh chiếm và tàn phá, nước Sở trước nguy cơ bị diệt vọng, Khuất Nguyên tuyệt vọng, ông nhảy xuống ông Mịch La tự vẫn. Tống Ngọc, một danh sỹ thời Chiến Quốc, học trò của Khuất Nguyên thương thầy mà gọi hồn về, đó là quan điểm tôn sư trọng đạo. Nguyễn Du viết bài Phản Chiêu hồn không phải chống lại Tống Ngọc thương thầy gọi hồn về. Nguyễn Du cũng xuất phát từ lòng thương vô hạn đối với Khuất Nguyên nhưng lại ở khía cạnh khác.
Khuất Nguyên để lại nhiều tác phẩm thơ ca bất hủ như Ly Tao, Thiên vấn, Cửu chương, cửu ca… Đó là những tác phẩm văn học có giá trị nghệ thuật và tư tưởng lớn, thể hiện tinh thần yêu nước và tâm hồn cao đẹp của Khuất Nguyên, trở thành mẫu mực của văn học qua nhiều thời đại về sau.Xem thêm: Top 10 website những bài văn mẫu hay lớp 11 mới nhất
Nguyễn Du đồng cảm với Khuất Nguyên vì hai ông đều có những hoàn cảnh bất đắc chí. Sự thối nát của xã hội thời Khuất Nguyên có khác gì sự mục ruỗng của chế độ phong kiến cuối thế kỷ XVIII thời Nguyễn Du sống. Đây là sự đồng cảm tâm hồn của hai nhà thơ lớn cách nhau hai nghìn năm. Có thể nói chỉ có thiên tài Nguyễn Du mới viết được bài thơ sâu sắc cả giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo như bài “Phản chiêu hồn”.
Theo Nguyễn Du cái xã hội hiện thời đã trở nên xa lạ, dù là một mảnh hồn cũng không một chốn dung thân. Theo Nguyễn Du thì Khuất Nguyên cao khiết quá, trong sáng quá đến nỗi không có người tri kỷ, đồng hành. Bài Phản Chiên Hồn đề cập đến một số vấn đề lớn của xã hội với mong muốn hồn Khuất Nguyên không nên trở về. Vì trở về nơi không xứng đáng với tấm lòng trong sạch của Khuất Nguyên.
Hồn ơi! Hồn ơi! Sao không về?
Đông,Tây,Nam, Bắc không có nơi nào nương tựa đâu!
Lên trời, xuống đất đều không được
Về đất Yên đất Dĩnh mà làm gì?
Thành quách vẫn như cũ, nhưng nhân dân đã khác rồi,
Bụi bay mù mịt bẩn cả quần áo.
Nguyễn Du đã miêu tả lại cảnh tượng hiện nay nơi đất nước Khuất Nguyên từng sống, thật bi đát và tang thương. Trước hết là bọn cầm quyền sống xa hoa, cậy quyền, ỷ thế, ra đường thì vênh vang xe ngựa, về nhà thì vỗ ngực đứng ngồi bàn tán tự coi mình là bậc cao nhân, tài đức thời thịnh như Nghiêu Thuấn. Nhưng lột cái vỏ bề ngoài của chúng đi thì bên trong là nọc độc, nanh vuốt, cắn xé người ngọt xớt…
Họ đi ra ngựa ngựa xe xe, họ ở nhà vênh vênh váo váo
Đứng ngồi bàn tán tựa như ông Cao, ông Quỳ.
Hồn không thấy mấy trăm châu ở HồNamđó sao?
Chỉ có những người gầy gò, không ai béo tốt.
Những loại người này không phải chỉ có số lượng ít, chúng ở khắp nơi khắp chốn. Tiếp đến đối lập với chúng là những dân đen mà Khuất Nguyên yêu mến, bảo vệ. Họ cũng khác xưa ở sự nghèo khổ suốt miền Hồ Nam toàn những người gầy gò, chẳng có ai béo tốt. Họ đang sống trong cảnh bị thống trị đã mất niềm tin và ngột ngạt, nếu Khuất Nguyên có trở về thì họ cũng cho ông không hiểu gì cả.Xem thêm: Tóm tắt sử thi Ô-đi-xê của Hi Lạp
Một xã hội đen tối như thế, chỗ nào cũng thấy Thượng Quan và ở đâu trên mặt đất cũng là sông Mịch La. Nếu Khuất Nguyên trở về có thể coi là lỗi thời. Vì sau thời Tam Hoàng không còn tồn tại cách sống trung nghĩa! Nếu hổ báo trên rừng không ăn thịt thì cá dưới nước cũng rỉa xác đến chết.
Với những hình ảnh miêu tả chân thực Nguyễn Du đã làm hiện hình một xã hội Trung Quốc đen tối, ngột ngạt, thối nát. Bọn thống trị thì hiểm độc, nhân dân thì đói khổ, người sống trung nghĩa thì bế tắc. Phản Chiêu hồn chính là bài thơ trùm đắp cái buồng uất âm ỉ thành nộ khí gây nên sấm chớp bão bùng của sự phản kháng cao độ, phủ nhận cuộc đời đang sống một cách không thương tiếc.
Nhà thơ đã nhắc nhở hồn Khuất Nguyên tới hai từ Thượng Quan và Mịch La, vốn là hai danh từ riêng chỉ con người và một địa điểm cụ thể rất cá biệt. Nhưng đối với Khuất Nguyên và người cùng thời thì Thượng Quan là một quyền thần xu nịnh, gian ác nổi tiếng. Nó có mặt ở mọi xó xỉnh cuộc đời. Còn Mịch La là nơi đã chôn vùi một cách oan nghiệt tài năng của một con người trung nghĩa. Đó là dòng sông mang đầy uất hận… Nhưng cả hai cái danh từ cá biệt này đã trở thành phổ biến thì nhan nhảnh trong cuộc đời, trùm lên hết thảy mọi chốn mọi nơi:Xem thêm: Những bài thơ ngắn hay về hoa đặc sắc nhất
"Đời sau ai cũng là Thượng Quan
Mặt đất đâu đâu cũng là sông Mịch La"
Ông đã khẳng định với hồn Khuất Nguyên rằng, trong xã hội tràn ngập mọi nơi những Thượng Quan và Mịch La thì bi kịch người trí thức như Khuất Nguyên là không thể tránh khỏi, là mang ý nghĩa phổ biến.
" Cá rồng không ăn, hùm sói cũng ăn"
Bi kịch đã dành sẽ là phổ biến, nhưng còn tình trạng bế tắc về lý tưởng như Khuất Nguyên cũng là thường tình, cho nên Nguyễn Du thương người mà kêu lên những lời băn khoăn, da diết:
"Hồn ai! Hồn ai! Hồn làm thế nào?"
Như một câu hỏi đặt ra trước vận mệnh một con người còn sống, không thể trả lời!
Từ số phận và hoàn cảnh của Khuất Nguyên, với bốn câu thơ kết thúc, Nguyễn Du đã khái quát nâng lên thành những số phận, cảnh ngộ phổ biến, bao quát cả không gian và thời gian. Do vậy ý nghĩa phê phán sự xấu xa độc ác trong xã hội phong kiến ở thời đại Nguyễn Du và ở Trung Quốc và Việt Nam đều có ý nghĩa sâu sắc.
Nhà văn Lỗ Tấn sau này, đã nhiều lần gọi xã hội Trung Quốc là xã hội ăn thịt người. Nhưng trong Phản Chiên hồn có hiện lên bằng những hình ảnh cụ thể gây ấn tượng rất mạnh. Phản Chiêu hồn là bài thơ Nguyễn Du viết về Khuất Nguyên với những tên đất, tên người của một thời quá khứ. Bằng những chuyện nước người, nhưng nỗi đau bi phẩn, căm giận thì không phải lấy ra từ sách vở hoặc qua suy ngẫm mà bắt nguồn từ lòng nhân ái, từ sự yêu thương sâu sắc đối với những con người trung nghĩa phải sống trong cái xã hội bản chất là ăn thịt người của nó.
Bài Thơ phản văn chiêu hồn như một nỗi niềm tâm trạng sâu kín của nhà thơ. Ông không chỉ xót thương cho Khuất Nguyên mà xót thương cho chính mình và những vị quan thanh liêm nhưng sống trong xã hội thối nát, bế tắc đến cùng đường.
Nguồn:
|
Bài thơ Qua đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan được viết khi đang trên đường thiên lí vào kinh đô Phú Xuân làm nữ quan. Dừng chân ở đèo Ngang, bà đã viết nên những vần thơ vừa là để miêu tả khung cảnh, vừa là để nói lên tâm sự của mình khi ấy.
Để giúp các em có thể làm tốt bài phân tích bài thơ Qua đèo Ngang, Kho tàng văn mẫu sẽ hướng dẫn các em lập dàn ý cho đề văn này đồng thời gợi ý thêm một bài văn mẫu để các em đọc tham khảo.
I. Lập dàn ý phân tích bài thơ Qua đèo Ngang
1. Mở bài
– Giới thiệu về nhà thơ Bà Huyện Thanh Quan và tác phẩm Qua đèo Ngang.
– Bà Huyện Thanh Quan tên thật là Nguyễn Thị Hinh, quê ở Nghi Tàm, Thăng Long.
– Bài thơ Qua đèo Ngang tả cảnh đèo Ngang lúc ngày tàn, qua đó nhà thơ cũng thể hiện những tâm tư trong lòng mình.
2. Thân bài
a. Hai câu đề
– Thời điểm nữ thi sĩ bước tới đèo Ngang.
– Gợi tả cảnh quan con đèo.
b. Hai câu thực
– Cuộc sống và con người nơi đèo Ngang, cảnh vật có sự đối nhau.
– Sử dụng từ láy lom khom, lác đác làm tăng thêm sự hoang vắng, nghèo nàn của khung cảnh.
c. Hai câu luận
– Tiếng kêu quốc quốc, gia gia càng làm tăng thêm nỗi nhớ nhà.
– Sử dụng phép đối và đảo ngữ, vừa tạo hình, vừa tạo nhạc.
d. Hai câu kết
– Tâm trạng ngơ ngác, bồi hồi của nữ sĩ khi dừng chân đứng lại để nhìn ngắm cảnh đèo.
– Nhận ra cái cô đơn, lẻ loi của mình giữa không gian bao la.
3. Kết luận
– Nêu cảm nghĩ của em về bài thơ Qua đèo Ngang.
Bài viết liên quan:
>> Phân tích bài thơ Cảnh khuya của Hồ Chí Minh (Có dàn ý chi tiết)Xem thêm: Dân gian có câu: Lời nói gói vàng, đồng thời lại có câu: Lời nói chẳng mất tiền mua, Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau. Qua hai câu trên, em hãy cho biết dân gian đã hiểu như thế nào về giá trị, ý nghĩa của lời nói trong cuộc sống
>> Phân tích bài thơ Bánh trôi nước của Bà Huyện Thanh Quan (Có dàn ý chi tiết)
II. Lập dàn ý phân tích bài thơ Qua đèo Ngang
Bà Huyện Thanh Quan tên thật là Nguyễn Thị Hinh, là một nữ sĩ sống vào giữa thế kỉ 19. Vì có chồng làm quan huyện Thanh Quan và được ngời đời ái mộ nên bà được gọi là Bà Huyện Thanh Quan. Sau này, người ta cũng nhớ đến bà nhiều hơn với cái tên này. Vốn sinh ra trong một gia đình quyền quý nên bà hay chữ, giỏi thơ. Các sáng tác thơ Nôm của bà còn lại sáu bài trong đó bài thơ Qua đèo Ngang là một bài thơ nổi bật được nhiều người yêu thích. Bài thơ này được bà viết khi bà đang trên đường vào kinh đô Phú Xuân làm nữ quan. Bài thơ có cách thể hiện độc đáo thể hiện được tài năng thi ca của Bà Huyện Thanh Quan.
Bài thơ được viết theo thể thơ thất ngôn bát cú đường luật với niêm luật vô cùng chặt chẽ. Hai cầu đề cho người đọc thấy được thời gian khi bà đặt chân tới đèo Ngang đó chính là lúc chiều tà. Đèo Ngang vốn là một ranh giới tự nhiên nằm giữa hai tỉnh Hà Tĩnh và Quảng Bình. Nơi đây có cảnh thiên nhiên vô cùng hùng vĩ. Vốn dĩ nơi đây là một cảnh đẹp nhưng tác giả lại miêu tả nó vào một buổi chiều tà khiến cho khung cảnh nhuốm một màu buồn. Nỗi buồn có lẽ xuất phát từ trong lòng của nhà thơ và nó lan ra cảnh vật xung quanh. Âm a trong từ tà ở cuối câu thứ nhất là một âm mở vì vậy nó càng khiến cho nỗi buồn kéo dài ra mãi. Sang đến câu thừa đề, nhà thơ miêu tả một khung cảnh chen chúc của cỏ cây, hoa lá. Chúng chen nhau để được tồn tại ở nơi hoang vu ấy. Tác giả đã gieo vần a ở các tiếng tà – lá – hoa tạo nên cho câu thơ một âm điệu du dương, nhẹ nhàng nhưng cũng man mác buồn:Xem thêm: Phân tích bài thơ “Tiếng hát con tàu” của nhà thơ Chế Lan Viên
Bước tới đèo Ngang bóng xế tà
Cỏ cây chen lá đá chen hoa
Hoa trong câu thơ này là hoa rừng, có thể là hoa mua hoặc hoa sim tím mà như cách nói của Hữu Loan thì đó là một màu hoang biền biệt.
Phân tích bài thơ Qua đèo Ngang
Sang đến hai câu thực, tác giả miêu tả cảnh cuộc sống và con người nơi đèo Ngang từ cách đây hơn 150 năm. Nơi ấy có núi, có sông, có những chú tiều đang gánh củi và có mấy nhà chợ lác đác. Hai hình ảnh một bên là núi, một bên là sông có sự đối nhau làm tăng thêm cảnh hoang vắng, trống trơ:
Lom khom dưới núi tiều vài chú
Lác đác bên sông chợ mấy nhà
Những từ ngữ chỉ số lượng như vài, mấy cho thấy sự vắng vẻ, thưa thớt của con người. Với việc sử dụng phép đảo ngữ đưa hai từ láy lom khom, lác đác lên đứng đầu câu không chỉ khiến cho câu thơ trở nên nổi bật mà nó còn làm tăng lên dáng vẻ của những chú tiều cũng sự sự hoang vu của những nhà chợ ven sông. Nỗi buồn của nhà thơ càng vì thế mà tặng thêm .
Trời cứ thế tối dần, những con chim đã bắt đầu quay về tổ. Chúng cất lên những tiếng kêu quốc quốc và gia gia. Lẽ ra, tiếng chim phải khiến cho nhà thơ vui hơn nhưng không. Nhà thơ đã sử dụng lối chơi chữ đồng âm trong tiếng Việt. Tiếng kêu của con chim cuốc, con chim đa khiến nhà thơ liên tưởng đến quốc quốc, đến gia gia. Đó là một tiếng gọi nhớ nhà, thương nhà. Nó khiến cho nhà thơ cảm thấy đau lòng hơn chứ không hề vui. Ở đây, tiếng chim đã nói hộ tiếng lòng của tác giả:Xem thêm: Cảm nhận về hình ảnh Đăm Săn trong đoạn trích Chiến thắng Mơ Tao, Mơ Xây
Nhớ nước đau lòng con quốc quốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia
Với việc vận dụng phép đối và đảo ngữ, tác giả đã khiến cho âm điệu của câu thơ trở nên da diết, khiến cho người đọc cũng cảm thấy đau lòng.
Đến hai câu cuối bài, nhà thơ đã thể hiện, đã bộc bạch vụ thể tâm trạng ngơ ngác, bồi hồi và lẻ loi của bản thân mình. Đi ngang qua đèo, dừng chân đứng lại để lắng nghe tiếng chim gọi đàn. Ở đây, nhà thơ tiếp tục sử dụng phép đối để người đọc thấy được cái lẻ loi trơ trọi của tác giả giữa khung cảnh trời đất bao la:
Dừng chân đứng lại trời non nước
Một mảnh tình riêng ta với ta
3 tiếng ta với ta đã thể hiện được cái trơ trọi của người lữ khách. Có một chút tình riêng mà nó cũng tan ra thành từng mảnh, nghe mà xót xa. Lại cộng thêm từ một đứng ở đầu câu càng làm tăng thêm nỗi buồn, côc độc.
Bài thơ Qua đèo Ngang là một trong những bài thơ thành công và thể hiện đúng niêm luật, bốc cục của thể thơ thất ngôn bát cứ. Các cặp đối xứng nhau chặt chẽ, thể hiện được tài năng nghệ thuật độc đáo của tác giả. Bài thơ thấm đượm một nỗi buồn và giúp người đọc hiểu ra được tâm trạng của nhà thơ khi ấy.
Trên đây là phần hướng dẫn lập dàn ý phân tích bài thơ Qua đèo Ngang và bài văn mẫu tham khảo. Phụ huynh cũng nên tìm hiểu kĩ để có thể hướng dẫn các con của mình và cùng học với con.
Thu Thủy
|
The poem Crossing Ngang Pass by Ba Huyen Thanh Quan was written while on the way to Phu Xuan capital to work as a female mandarin. Stopping at Ngang Pass, she wrote poems both to describe the scene and to express her feelings at that time.
To help you do well in your analysis of the poem Qua Deo Ngang, Sample Literature Treasury will guide you in making an outline for this topic and also suggest a sample essay for you to read and refer to.
I. Create an outline to analyze the poem Through Ngang Pass
1. Open the lesson
– Introducing the poet Ba Huyen Thanh Quan and her work Through Ngang Pass.
– Ms. Huyen Thanh Quan's real name is Nguyen Thi Hinh, from Nghi Tam, Thang Long.
– The poem Through Ngang Pass describes the scene of Ngang Pass at the end of the day, through which the poet also expresses the thoughts in his heart.
2. Body of the article
a. Two sentences
– The moment the female poet walked to Ngang pass.
– Describe the landscape of the pass.
b. Two real sentences
– Life and people in Ngang Pass, the scenery is opposite.
– Using words that are sloppy and scattered adds to the desolation and poverty of the scene.
c. Two essays
– The cry for nation and family increases homesickness.
– Use parallelism and inversion, both to create images and music.
d. Two concluding sentences
- The female artist's bewildered and restless mood when she stopped to look at the pass.
– Realize your loneliness and loneliness in the vast space.
3. Conclusion
– Describe your thoughts about the poem Through Ngang Pass.
Related articles:
>> Analysis of the poem Late Night Scene by Ho Chi Minh (With detailed outline) See more: There is a folk saying: Words are wrapped in gold, at the same time there is a saying: Words do not cost money to buy, Choose the words to say for them please each other. Through the above two sentences, please tell us how people understand the value and meaning of words in life.
>> Analysis of the poem Water Floating Cake by Ba Huyen Thanh Quan (With detailed outline)
II. Create an outline to analyze the poem Through Ngang Pass
Mrs. Huyen Thanh Quan's real name is Nguyen Thi Hinh, a female scholar who lived in the mid-19th century. Because her husband was an official of Thanh Quan district and was admired by everyone, she was called Mrs. Huyen Thanh Quan. Later, people also remembered her more by this name. Born into a noble family, she was literate and good at poetry. There are six poems left in her Nom poetry compositions, of which the poem Qua Deo Ngang is an outstanding poem loved by many people. This poem was written by her when she was on her way to the capital Phu Xuan to work as a female mandarin. The poem has a unique expression that shows the poetic talent of Ba Huyen Thanh Quan.
The poem is written in the form of seven-word, eight-syllable verse with extremely strict rules. The two threads show the reader that the time when she arrived at Ngang Pass was dusk. Ngang Pass is a natural boundary between Ha Tinh and Quang Binh provinces. This place has extremely majestic natural scenery. This place is inherently a beautiful scene, but the author describes it in a late afternoon, making the scene tinged with sadness. The sadness probably comes from the poet's heart and it spreads to the surrounding landscape. The sound a in the word evil at the end of the first sentence is an open sound, so it makes the sadness last even longer. Coming to the redundancy sentence, the poet describes a crowded scene of trees, flowers and leaves. They jostle each other to survive in that desolate place. The author has rhymed a in the sounds - leaves - flowers, creating a melodious, gentle but also sad tone for the poem: See more: Analysis of the poem "The Singing of the Ship" by poet Che Lan Vien
Stepping to Ngang Pass, the shadow is fading
Grass and trees intersperse leaves and stones intersperse flowers
The flowers in this poem are wild flowers, maybe bought flowers or purple myrtle flowers, but as Huu Loan said, it is a distinct wild color.
Analysis of the poem Through Ngang Pass
Moving on to two sentences, the author describes the life and people at Ngang Pass more than 150 years ago. There are mountains, rivers, bamboo trees carrying firewood and a few scattered markets. The contrast between the two images, one side is a mountain and the other is a river, enhances the desolate and empty scene:
Crouching under the mountain to make a few trees
Few sporadic riverside home market
Words indicating quantity such as several, several, show the desolation and sparseness of people. By using inversion, putting two scattered words at the beginning of the sentence not only makes the verse stand out, but it also enhances the appearance of the trees as well as the desolation of the houses. riverside market. The poet's sadness is made even more so.
The sky kept getting darker and the birds began to return to their nests. They raised their voices calling for nation and family. The sound of birds should have made the poet happier, but it didn't. The poet used homophone wordplay in Vietnamese. The cries of the coot and the partridge make the poet think of his country and his grandfather. It is a call to remember home and love home. It makes the poet feel more heartbroken, not happy. Here, the sound of birds speaks for the author's heart: See more: Feelings about the image of Dam San in the excerpt Victory of Mo Tao, Mo Xay
Missing the country is painful for the country's children
Trade the mouth so adhered fatigue
With the use of parallelism and inversion, the author makes the tone of the verse more poignant, making the reader feel heartbroken.
In the last two lines of the poem, the poet has expressed and confided his own feelings of bewilderment, anxiety and loneliness. Go across the pass, stop to listen to the birds calling. Here, the poet continues to use parallelism to help readers see the author's loneliness amidst the vast landscape of heaven and earth:
Stop and stop at the sky and water
A piece of me with my own situation
The three words me and I express the loneliness of the traveler. There is a little love that is broken into pieces, it's painful to hear. Adding the word one at the beginning of the sentence further increases the sadness and loneliness.
The poem Crossing Ngang Pass is one of the successful poems and shows the correct rhythm and structure of the seven-word, eight-word poetic form. The pairs are closely symmetrical, demonstrating the author's unique artistic talent. The poem is imbued with sadness and helps readers understand the poet's mood at that time.
Above are instructions for creating an outline to analyze the poem Through Ngang Pass and a reference sample essay. Parents should also learn carefully so they can guide their children and learn together with them.
Thu Thuy
|
Đề bài: Em hãy viết bài văn phân tích bài thơ Qua đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan.
Ai đã từng một lần đi trên con đường xuyên Việt, hẳn đều biết đến đèo Ngang. Đây là một đèo khá dài và khá cao, nằm vắt ngang sườn núi cheo leo, hiểm trở của khúc cuối dãy Hoành Sơn, trước khi đâm ra biển. Lên đến đỉnh đèo, du khách sẽ được thưởng thức cảnh đẹp tuyệt vời của thiên nhiên hùng vĩ: núi non trùng điệp, đại dương bao la, trời cao thăm thẳm. Đèo Ngang là ranh giới tự nhiên giữa Hà Tĩnh và Quảng Bình. Thuở xưa, bao người vào kinh đô Huế để thi cử hay làm việc cho triều đình phong kiến đã đi qua đèo này rồi lâng lâng xúc cảm trước vẻ đẹp của nó mà làm thơ ca ngợi. Bà Huyện Thanh Quan nhân dịp từ Thăng Long vào Huế nhậm chức Cung trung giáo tập (dạy dỗ các cung nữ trong cung) đã sáng tác bài Qua đèo Ngang.
Đằng sau bức tranh phong cảnh thiên nhiên là tâm trạng của nữ sĩ: cô đơn, nhớ nhà và hoài niệm về một thời đại huy hoàng đã qua. Có thể coi đây là bài thơ hay nhất trong những bài thơ sáng tác về thắng cảnh này.
Câu phá đề đơn giản chỉ là lời giới thiệu về thời điểm tác giả đặt chân đến đèo Ngang:
Bước tới đèo Ngang bóng xế tà,
Đó là lúc mặt trời đang lặn, phía tây chỉ còn chút nắng hắt những tia sáng yếu ớt lên nền trời đang sẫm dần. Thời điểm này rất dễ gợi buồn trong lòng người, nhất là đối với kẻ lữ thứ tha hương.
Tuy vậy, trời vẫn còn đủ sáng để nhà thơ nhận ra thiên nhiên nơi đây đẹp như một bức tranh thủy mặc:
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa.
Cỏ cây, hoa lá chen nhau mọc bên đá núi. Có cái gì đó như linh hồn của tạo vật thấp thoáng sau từng chữ. Điệp từ chen, các vế đối: cây chen đá, lá chen hoa miêu tả sức sống mãnh liệt của một vùng rừng núi hoang vu. Cảnh đẹp thì có đẹp nhưng nhuốm màu buồn bã, quạnh hiu, thiếu hơi ấm con người. Những bông hoa rừng đây đó không đủ làm sáng, làm vui bức tranh núi non lúc ngày tàn, đêm xuống.
Trên bối cảnh thiên nhiên bao la ấy thấp thoáng bóng dáng con người và hơi hướng cuộc sống nhưng cũng chỉ ít ỏi, mờ nhạt, xa vời:
Xem thêm: Phân tích bài thơ Con cò của Chế Lan Viên (Có dàn ý chi tiết)Lom khom dưới núi tiều vài chú,
Lác đác bên sông chợ mấy nhà.
Con mắt tinh tế của nhà thơ phát hiện ra nét đặc trưng của người và cảnh trước tiên nên bà đã dùng nghệ thuật đảo ngữ để nhấn mạnh đặc trưng ấy. Dáng vẻ lom khom của mấy chú tiều hái củi sườn non làm cho con người vốn đã nhỏ bé lại càng thêm nhỏ bé trước thiên nhiên cao rộng. Cái chợ là nơi biểu hiện sức sống của một cộng đồng làng xã, lẽ ra tấp nập đông vui, nhưng ở đây nó chỉ là mấy túp lều xơ xác bên sông…
Bao trùm lên cảnh vật là một nỗi buồn tê tái và nỗi buồn ấy thấm sâu vào lòng người:
Nhớ nước đau lòng con quốc quốc,
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia.
Giữa không gian tĩnh lặng gần như tuyệt đôi ấy bỗng vẳng lên tiếng chim quốc khắc khoải, tiếng chim đa đa não nuột. Đó là những âm thanh có thật mà cũng có thể là tiếng vọng từ tâm trạng chất chứa nỗi buồn thời cuộc của nhà thơ. Mượn bút pháp ước lệ và nghệ thuật chơi chữ (từ đồng âm khác nghĩa) để nói lên lòng mình trước cảnh, đó là tài hoa của nữ sĩ. Tiếng chim kêu không làm cho cảnh vui lên thêm chút nào mà lại làm tăng phần quạnh quẽ, cô liêu. Phải chăng tiếng chim chính là tiếng lòng của kẻ đang mang nặng tâm trạng u buồn, hoài vọng, nhớ nước thương nhà?!
Hồn cảnh, hồn người như có nét tương đồng, cho dù về hình thức hoàn toàn tương phản. Cái bao la, vô tận của non nước tô đậm cái cô đơn, chơ vơ của con người và ngược lại. Vì vậy nên nỗi buồn càng lắng đọng:
Dừng chân đứng lại trời, non, nước,
Một mảnh tình riêng, ta với ta.
Quả là một nỗi buồn lớn lao, thấm thía, khó san sẻ, giãi bày. Nó như kết thành hình, thành khối, thành mảnh tình riêng khiến nhà thơ phải thốt lên chua xót: ta với ta. Chỉ có ta hiểu lòng ta mà thôi! Vì thế nên sự cô đơn càng tăng lên gấp bội.
Bài thơ Qua đèo Ngang tuy ra đời cách đây đã hơn một thế kỉ nhưng giá trị của nó vẫn nguyên vẹn trước thử thách của thời gian. Bao người yêu thơ thuộc lòng bài thơ này và ca ngợi tài năng của tác giả. Thể thơ Đường luật kiểu cách, sang trọng vào tay nữ sĩ đã trở thành gần gũi, dễ hiểu với người đọc bởi ngôn ngữ giản dị, trong sáng và những hình ảnh dân dã quen thuộc.
Đọc bài thơ, chúng ta thêm yêu Tổ quốc với bao phong cảnh tuyệt vời và càng trân trọng những tâm lòng ưu ái non sông đất nước.
Xem thêm: Suy nghĩ của em về bài thơ Viếng lăng Bác hay nhất
|
Topic: Write an essay analyzing the poem Crossing Ngang Pass by Ba Huyen Thanh Quan.
Anyone who has ever traveled on the road through Vietnam must know about Ngang Pass. This is a quite long and quite high pass, located across the craggy, dangerous mountainside of the end of the Hoanh Son range, before crashing into the sea. Reaching the top of the pass, visitors will enjoy the wonderful beauty of majestic nature: endless mountains, vast ocean, and deep sky. Ngang Pass is the natural boundary between Ha Tinh and Quang Binh. In the past, many people who went to Hue capital to take exams or work for the feudal court passed through this pass and were moved by its beauty and wrote poems praising it. Mrs. Huyen Thanh Quan, on the occasion of moving from Thang Long to Hue to take the position of the Palace's Central Education Officer (teaching the palace maids), composed the song Crossing Ngang Pass.
Behind the natural landscape painting is the female artist's mood: loneliness, homesickness and nostalgia for a glorious past era. This can be considered the best poem among the poems composed about this landscape.
The breaking sentence is simply an introduction to the moment the author arrived at Ngang Pass:
Stepping to Ngang Pass, the shadow of the sunset,
That was when the sun was setting, in the west there was only a little sunlight, casting weak rays of light onto the darkening sky. This time can easily evoke sadness in people's hearts, especially for those traveling abroad.
However, the sky was still bright enough for the poet to realize that the nature here was as beautiful as a watercolor painting:
Chen stone plants, leaves flowers chen.
Grass, trees and flowers grow side by side on the mountain rocks. There is something like the soul of the creature flickering behind each word. The alternating words and opposite clauses: trees overlap rocks, leaves overlap flowers describe the intense vitality of a desolate mountainous area. The scenery is beautiful, but it is tinged with sadness, loneliness, and lacks human warmth. The wild flowers here and there are not enough to brighten and cheer up the mountain picture at the end of the day and nightfall.
On that vast natural background, there are glimpses of people and a glimpse of life, but they are only few, faint, and far away:
See more: Analysis of the poem Stork by Che Lan Vien (With detailed outline) Crouching under the mountain to make a few notes,
Few sporadic riverside home market.
The poet's delicate eye first discovered the characteristics of people and scenes, so she used the art of anaphora to emphasize those characteristics. The stooped appearance of the woodcutters picking spare ribs makes the already small people seem even smaller in front of the vast nature. The market is a place that shows the vitality of a village community. It should be bustling and crowded, but here it is just a few shabby huts by the river...
Covering the landscape is a numbing sadness and that sadness penetrates deeply into people's hearts:
Missing my country makes me sad,
Trade the mouth so adhered fatigue.
In the midst of that almost perfect silence, suddenly came the anxious sound of the national bird, the melancholy sound of the partridge. Those are real sounds that can also be echoes of the poet's sad mood of the times. Borrowing conventional writing style and the art of word play (homophones with different meanings) to express one's heart in front of a scene, that is the female artist's talent. The sound of birds chirping does not make the scene any happier, but only increases the loneliness and loneliness. Is it true that the sound of birds is the sound of the heart of someone who is filled with sadness, longing, and longing for their country and home?!
Soul realms and human souls seem to have similarities, even though they are completely contrasting in form. The vastness and infinity of the mountains highlight the loneliness and helplessness of humans and vice versa. Therefore, the sadness deepens:
Stop and stop at the sky, mountains, water,
A piece of me with my own situation.
It is truly a great, profound sadness that is difficult to share and express. It seemed to form into a shape, into a mass, into a separate piece of love that made the poet exclaim bitterly: me and me. Only I understand my heart! Therefore, loneliness increases even more.
Although the poem Crossing Ngang Pass was born more than a century ago, its value remains intact before the test of time. Many poetry lovers know this poem by heart and praise the author's talent. The elegant and stylish Tang Luat poetry form in the hands of female artists has become close and understandable to readers because of its simple, clear language and familiar folk images.
Reading the poem, we love our Fatherland more with its many wonderful landscapes and appreciate even more the hearts and hearts that love our country.
See more: My thoughts on the best poem Visiting Uncle Ho's Mausoleum
|
Phân tích bài thơ Quy hứng của Nguyễn Trung Ngạn.
Hướng dẫn
Nguyễn Trung Ngạn (1289 – 1370) đỗ Hoàng Giáp năm 16 tuổi, làm quan đến chức Thượng thư thời nhà Trần. Ông còn để lại "Giới Hiên thi tập ” bằng chữ Hán.
Bài thơ “Quy hứng" được viết theo thể thất ngôn tứ tuyệt, sáng tác trong thời gian Nguyễn Trung Ngạn đi sứ sang triều nhà Nguyên, Trung Quốc.
‘‘Quy hứng” thể hiện nỗi nhớ gia đình, quê hương với bao niềm tự hào của một người đang sống nơi đất khách quê người:
"Lão tang điệp lạc tàm phương tận,
Tảo đạo hoa hương giải chính phì.
Kiến thuyết tại gia bần diệc hảo,
Giang Nam tuy lạc, bất như quy”
Hai câu đầu nói lên bao nỗi nhớ của khách tha hương: Nhớ lá dâu già cuối vụ, vàng sẫm rụng khắp các nương bãi, nhớ những lứa tằm vừa chín vàng óng, vàng khươm trong nhà, ngoài sân, nhớ lúa sớm trổ trắng phau cánh đồng dâng hương ngào ngạt, nhớ vị béo đậm cua đồng, Thời gian mà nhà thơ nói lên nỗi nhớ đó là tháng tư hay tháng mười? Có hai chi tiết: "Dâu già lá rụng” và “cua béo” cho ta biết đó là vào dịp tháng mười khi gió heo may đã thổi về. Khí trời lành lạnh ấy càng làm cho nỗi nhớ nhà, nhớ quê thêm phần thấm thìa:
"Lão tang diệp lạc tàm phương tận,
Tảo đạo hoa hương giải chính phì ”
(Dâu già lá rụng tằm vừa chín,
Lúa sơm bóng thơm, cua béo ghê)
Các chi tiết nghệ thuật như dâu, tằm, hương lúa sớm, cua béo, đều là cảnh vật đồng quê, màu sắc, hương vị đậm đà của quê nhà thân yêu. Thật là bình dị, mộc mạc, dân dã. Khách li hương xứ sở mới có nỗi nhớ ấy. Cảnh vật ấy, hương vị ấy đã trở thành máu thịt, tâm hồn của nhà thơ.
Xem thêm: Tả lớp học của emNỗi nhớ của ông quan đi sứ trong thế kỉ XIV sao giống nỗi nhớ của anh trai cày ngày nay thế? Cũng là nỗi nhớ hương vị đậm đà quê hương:
“Anh đi anh nhớ quê nhà
Nhớ canh rau muống, nhớ cà dầm tương”
(Ca dao)
Vànỗi nhớ của người lính chiến:
“Bao giờ trở lại đồng Bương Cấn
Vềnúi Sài Sơn ngó lúa vàng
Sông Đáy chậm nguồn qua Phủ Quốc
Sáo diều khuya khoắt thổi đêm trăng ”
(Mắt người Sơn Tây – Quang Dũng)
Qua đó, ta càng thấy rõ nỗi nhớ gia đình quê hương là nỗi nhớ đẹp, thể hiện tấm lòng thủy chung của con người Việt Nam chúng ta.
Trở lại hai câu cuối bài thơ, ba chữ "bất như quy” vang lên như một mệnh lệnh của tâm hồn:
"Kiến thuyết tại gia bần diệc hào,
Giang Nam tuy lạc bất như quy".
(Nghe nói ở nhà nghèo vẫn tốt
Dẫu vui đất khách, chẳng bằng về)
Nhà thơ sử dụng nghệ thuật tương phản so sánh rất lí thú: “bần diệc hảo " (nghèo vẫn tốt), “gia bần” với "GiangNam tủy lạc”. Cái "vui ” quê người sao bằng cái “nghèo ” của quê hương? Tình nghĩa của khách li hương đối với nơi chôn nhau cắt rốn thật vô cùng sâu nặng. Giang Nam là đất đô hội; quan sứ được đón tiếp linh đình, thiếu gì dê béo rượu ngon, thế mà đêm ngày lòng vẫn nhủ lòng: “bất như quy ” – chẳng bằng về.
Cảm xúc “quy hứng” dào dạt vần thơ. Tình yêu quê hương đất nước và niềm tự hào dân tộc thấm vào từng câu chữ, từng vần thơ.
“Quy hứng” là một bài thơ hay và cảm động. Hay vì cái tình của khách ly hương. Hay vì lời thơ mộc mạc, giản dị mà ý vị thì sâu sắc đậm đà. Sau vần thơ là cả một tình quê vơi đầy, một tâm hồn rộng mở thủy chung.
Nguồn: thêm: Nêu cảm nhận của anh (chị) về đoạn thơ sau: "Mặt trời xuống biển như hòn lửa, ... Câu hát căng buồm cùng gió khơi." (Đoàn thuyền đánh cá - Huy Cận)
|
Analysis of the poem Inspiration by Nguyen Trung Ngan.
Instruct
Nguyen Trung Ngan (1289 - 1370) passed the Hoang Giap exam at the age of 16 and became a mandarin to the position of Minister during the Tran Dynasty. He also left behind "Gioi Hien poetry collection" in Chinese characters.
The poem "Qui inspiration" is written in a seven-word, four-literate form, composed during the time Nguyen Trung Ngan was an ambassador to the Yuan Dynasty, China.
“Inspiration” shows nostalgia for family and homeland with the pride of a person living in a foreign land:
"The old man lost his thoughts in all directions,
Algae, flower and fragrant flowers solve the main problem.
The idea of staying at home is good,
Although Giang Nam is lost, it is not like returning home.
The first two sentences express the nostalgia of expatriates: Remembering the old mulberry leaves at the end of the season, dark yellow falling all over the fields, remembering the golden silkworms that had just ripened, golden yellow in the house and yard, remembering the early white rice. Plowing the fields offers sweet incense, remembering the fatty taste of field crabs. Is the time that the poet speaks of that nostalgia, April or October? There are two details: "Old mulberry with fallen leaves" and "fat crab" that tell us that it was in October when the lucky wind blew. That cold air made the homesickness and hometown more penetrating. spoon:
"The old man Diep Diep lost his thoughts to the end,
Algae Dao Flower Fragrance Solve Chinh Fertility"
(The old mulberry has fallen leaves and the silkworm has just ripened,
The rice is shiny and fragrant, the crab is fat)
Artistic details such as mulberries, silkworms, the scent of early rice, and fat crabs are all rural scenes, colors, and rich flavors of our beloved homeland. It's so simple, rustic, rustic. Visitors who leave their new country have that nostalgia. That scene, that taste became the poet's flesh and blood and soul.
See more: Describe my class. How is the nostalgia of the envoy in the 14th century similar to the nostalgia of the plowman today? It's also a nostalgia for the rich flavors of the homeland:
“When I go, I miss my hometown
Remember the vegetable soup memorized bitter bean soup"
(Folk)
And the memories of soldiers:
“When will I return to Buong Can field?
Return to Sai Son mountain to look at the golden rice
The Day River flows slowly through Phu Quoc
The kite flute plays late at night on a moonlit night.
(Son Tay people's eyes - Quang Dung)
Through that, we see more clearly that the nostalgia for our homeland is a beautiful nostalgia, expressing the faithful heart of our Vietnamese people.
Returning to the last two lines of the poem, the three words "unlikely" sound like a command of the soul:
"The story of the poor heron at home,
Although Giang Nam is lost, it is not like returning home.
(I heard that living in a poor family is still good
Even though you're happy in a foreign land, it's not as good as returning home.)
The poet uses the art of very interesting contrasts and comparisons: "poor heron good" (poor is still good), "poor family" with "Giang Nam is good". How can the "happiness" of one's homeland be compared to the "poverty" of one's homeland? The gratitude of a foreign guest to the place of birth and birth is extremely deep. Giang Nam is an urban land; envoys are warmly welcomed. There's no shortage of fat goats and good wine, yet night and day my heart still tells myself: "It's not like that" - it's better than going home.
Emotions "inspire" the poems abundantly. Love for the homeland and national pride permeates every word and every poem.
“Inspiration” is a beautiful and touching poem. Or because of the love of a foreign guest. Or because the lyrics are rustic and simple but the meaning is profound and rich. Behind the poem is a full love for the countryside, an open and faithful soul.
Source: more: State your feelings about the following verse: "The sun goes down to the sea like a ball of fire, ... The song sails with the wind." (Fishing fleet - Huy Can)
|
Bài thơ Quê hương của nhà thơ Tế Hanh lấy cảm hứng từ đề tài quê hương và bắt nguồn từ nỗi nhớ quê của tác giả. Nơi đó là một làng chài nghèo nhưng nó đã nuôi dưỡng tâm hồn thơ Tế Hanh.
Bài viết này sẽ giúp các em lập dàn ý chi tiết phân tích bài thơ Quê hương của Tế Hanh và cung cấp bài văn mẫu cho các em đọc tham khảo.
I. Lập dàn ý phân tích bài thơ Quê hương
1. Mở bài
– Giới thiệu về nhà thơ Tế Hanh và bài thơ Quê hương
2. Thân bài phân tích bài thơ Quê hương
Khổ 1: Giới thiệu về làng chài quê hương
– Làng nghề chài lưới, xung quanh là biển.
– Con người quanh năm bơi thuyền đi đánh cá.
Khổ 2: Tâm hồn náo nức của nhà thơ
– Hình ảnh con thuyền hiên ngang, náo nức hăng như con tuấn mã.
– Tư thế kiêu hãnh của người làng chài khi chinh phục sông dài, biển rộng.
– Nhà thơ đã cảm nhận cuộc sống lao động của làng quê bằng cả tâm hồn tha thiết, gắn bó.
Khổ 3: Cảnh đón thuyền cá trở về ồn ào, tấp nập
– Âm điệu thơ thư thái, dần lắng lại theo niềm vui no ấm, bình yên của dân làng.
– Thể hiện khung cảnh ồn ào khi đoàn thuyền đánh cá trở về.
Khổ 4: Miêu tả về con người làng chài
– Làn da rám nắng và thân hình nồng thở vị xa xăm.
– Chất muối mặn của biển ngấm vào trong từng thớ vỏ, ngấm vào da thịt và ngấm vào tâm hồn của con người.
Khổ 5: Cảm xúc của tác giả khi nhớ về làng chài
– Hình ảnh làng chài hiện lên trong trí nhớ của nhà thơ.
– Ông không giấu giếm mà thổ lộ rõ nỗi nhớ cái mùi mặn nồng của quê hương.
3. Kết luận
– Tổng kết lại nội dung bài thơ và nêu cảm nghĩ của em về bài thơ Quê hương.
II. Bài làm phân tích bài thơ Quê hương
Quê hương là một tiếng gọi thật thân thương và trìu mến. Đằng sau tiếng gọi ấy ẩn chứa biết bao nhiêu cảm xúc. Đó có thể là sự yêu mến xen lẫn niềm tự hào. Đó cũng có thể là nỗi nhớ mong khắc khoải của những người con xa quê hương lâu ngày. Quê hương của Tế Hanh là một bài thơ chứa đựng nhiều cảm xúc của tác giả. Bài thơ khiến cho những người dù không cùng quê với Tế Hanh cũng phải yêu mến mảnh đất và con người nơi đây.Xem thêm: Nhà văn Nguyễn Tuân khi đọc đến đoạn trích Tức nước vỡ bờ (tiểu thuyết Tắt đèn) đã cho rằng Ngô Tất Tố: "xui người nông dân nổi loạn". Viết đoạn văn nói rõ ý kiến của em
Bài thơ Quê hương được Tế Hanh viết bằng những cảm xúc chân thành và dạt dào nhất. Chính bởi vậy mà nó dễ chạm đến trái tim của người đọc. Chính vì được viết bởi một người gắn bó với quê hương nên câu thơ trở nên chân thực. Mở đầu bài thơ là những hình ảnh giới thiệu về làng chài cũng như nhịp sống hối hả ở nơi đây:
Làng tôi ở vốn làm nghề chài lưới
Nước bao vây cách biển nửa ngày sông
Khi trời trong, gió nhẹ, sớm mai hồng
Dân trai tráng bơi thuyền đi đánh cá
Quê hương của mỗi người sẽ khác nhau. Chẳng hạn như quê hương của Đỗ Trung Quân là chùm khế ngọt, là con diều biếc,… Quê hương của nhiều người là mái đình, cây đa, giếng nước. Còn quê hương của Tế Hành chính là làng chài làm nghề chài lưới, nơi quanh năm nước bao phủ xung quanh. Từ câu thơ của Tế Hanh, một khung cảnh yên bình hiện ra với bầu trời cao và trong xanh, gió thổi nhè nhẹ, ánh nắng buổi sớm chiếu xuống làm bừng lên những ánh hồng rạng rỡ. Đây là lúc mà những chàng trai bắt đầu bơi thuyền đi đánh cá. Cách dùng từ “bơi thuyền” của tác giả cho thấy thuyền đánh cá nơi đây còn thô sơ, thể hiện làng chài còn nghèo khó.
Phân tích bài thơ Quê hương
Mặc dù còn nhiều khó khăn nhưng được sống trên mảnh đất quê hương, được lao động, được làm việc mình yêu thích khiến cho người dân chài luôn cảm thấy tươi vui, yêu đời. Họ bơi thuyền ra khơi với một tinh thần đầy hăng hái:
Chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mã
Phăng mái chèo mạnh mẽ vượt trường giang
Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng
Rướn thân trắng bao la thâu góp gió
Một bức tranh lao động đầy hứng khởi và dào dạt sức sống hiện lên trước mắt người đọc. Ở đây, nhà thơ Tế Hanh đã so sánh con thuyền như một con tuấn mã mạnh mẽ và đầy uy lực. Nó thể hiện được tâm thế vui tươi, phấn khởi của những người dân làng chài. Cùng với đó, những động từ hăng, phăng, vượt được nhà thơ sử dụng trong khổ thơ này cũng diễn tả được khí thế băng tới đầy cũng mãnh của con thuyền. Đồng thời nó cũng toát lên được một sức sống tràn trề và đầy nhiệt huyết. Con thuyền cứ thế vươn lên đầy hiên ngang và hùng tráng, vượt qua sóng, vượt qua gió. Câu thơ thứ 3 trong khổ thơ này, nhà thơ đã so sánh cánh buồm với hồn làng. Thường người ta so sánh những hình ảnh cụ thể với nhau nhưng Tế Hanh lại khác. Ông đã lấy một hình ảnh thực, cụ thể là cánh buồm để so sánh với hồn làng là một hình ảnh trừu tượng không thể hình dung. Làm như vậy để người đọc hiểu hơn và dễ hình dung ra được mảnh hồn làng là như thế nào. Ở đây, cánh buồm chính là linh hồn của quê hương. Biết bao nhiêu hy vọng cuộc sống, người dân đặt cả vào trong cánh buồm. Hình ảnh so sánh quả thực bay bổng và mang một ý nghĩa lớn lao.Xem thêm: Tóm tắt tình huống truyện Vợ nhặt của Kim Lân
Nhịp sống càng hối hả hơn khi người dân đón những chiếc thuyền đánh cá trở về. Thuyền về, chở theo hi vọng của người dân. Trong câu thơ chứa đựng niềm lạc quan của con người, họ đã mong đợi và tin tưởng vào những điều tốt đẹp trong cuộc sống:
Ngày hôm sau ồn ào trên bến đỗ
Khắp dân làng tấp nập đón ghe về
Nhờ ơn trời, biển lặng, cá đầy ghe
Những con cá tươi ngon thân bạc trắng
Cái không khí đông vui, hối hả và sôi động thể hiện rõ thông qua các tính từ ồn ào, tấp nập. Cảm giác như người đọc đang được hoà mình vào trong không khí ấy. Trong niềm vui của cuộc đời, người dân không quên cảm tạ trời đất, cảm tạ biển cả. Mặc dù nhà thơ không miêu tả cảnh người dân đánh bắt cá nhưng thông qua niềm vui hân hoan khi trở về, ta hiểu họ đã phải chịu nhiều vất vả, cực nhọc như thế nào. Bởi vì có vất vả thì khi đón nhận thành quả người ta càng cảm thấy vui sướng.
Chuyến ra khơi kết thúc là lúc con người và thuyền buồm bắt đầu nghỉ ngơi:
Dân chài lưới làn da ngăm rám nắng
Cả thân hình nồng thở vị xa xăm
Chiếc thuyền im bến mỏi trở về năm
Nghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ
Nhà thơ đã miêu tả một cách vô cùng chân thực những người dân làng chài với làn da ngăm rám nắng. Hình ảnh mang lại ấn tượng sâu sắc cho cả bài thơ. Câu thơ Cả thân hình nồng thở vị xa xăm lại cho người đọc thấy được hơi thở của biển cả nồng vị muối của đại dương bao la đã thấm đẫm vào trong thân hình vạm vỡ của người dân chài. Nét đặc sắc ở trong câu thơ này chính là nó đã gợi lên cả linh hồn và tầm vóc của con người và biển cả.Xem thêm: Có người cho rằng ngày nay trong siêu thị cái gì cũng có, vì thế nên dẹp bỏ hết các chợ quê, Ý kiến của anh (chị) thế nào?
Hai câu thơ cuối bài, nhà thơ đã miêu tả được vẻ đẹp cũng như sự mệt mỏi của con thuyền. Con thuyền cũng giống như người dân chài, thấm trong từng thớ vỏ vị mặn mòi của biển. Chính nhờ sự miêu tả này của tác giả mà con thuyền trở nên có hồn hơn. Thuyền không chỉ là công cụ giúp người dân chài ra khơi mà nó còn trở thành người bạn.
Cái chất mặn mòi của quê hương đã thấm vào da thịt và vào máu của người dân nơi đây. Để rồi khi đi xa, nhà thơ không giấu nổi cảm xúc của mình:
Nay xa cách lòng tôi luôn tưởng nhớ
Màu nước xanh, cá bạc, chiếc thuyền vôi
Thoáng con thuyền rẽ sóng chạy ra khơi
Tôi thấy nhớ cái mùi nồng mặn quá
Nếu chỉ đọc những câu thơ trên, có thể nhiều người sẽ hình dung ra cảnh tượng tác giả đang chứng kiến khung cảnh của quê hương và rồi miêu tả bằng vần thơ. Nhưng sự xuất hiện của khổ thơ cuối đã khiến người đọc nhận ra rằng nhà thơ đang xa quê và ông đã miêu tả quê hương bằng trí nhớ của mình. Nhớ quê hương là nhớ đến màu nước xanh, nhớ đến con cá bạc, nhớ chiếc thuyền vôi rẽ sóng chạy ra khơi và nhớ cả mùi nồng mặn của nước biển. Nhớ quá, nỗi nhớ như cồn cào trong gan ruột nhà thơ.
Mặc dù là một trong những nhà thơ thuộc phong trào Thơ mới nhưng Tế Hanh không có tư tưởng thoát ly thực tại. Hồn thơ của ông vẫn hoà quyện vào hồn dân tộc, hoà vào cánh buồm giương to như mảnh hồn làng. Bài thơ Quê hương với những hình ảnh sinh động và âm điệu khoẻ khoắn đã mang đến cho người đọc cảm giác hứng khởi, khơi dậy nỗi nhớ quê hương trong lòng mỗi người.
Trên đây là phần hướng dẫn lập dàn ý phân tích bài thơ Quê hương của Tế Hanh. Các em có thể dựa theo dàn ý này và đọc tham khảo bài văn mẫu phân tích bài thơ Quê hương để có thể làm tốt bài văn của mình.
Thu Thuỷ
|
Bài thơ Quê hương của nhà thơ Tế Hanh lấy cảm hứng từ đề tài quê hương và bắt nguồn từ nỗi nhớ quê của tác giả. Nơi đó là một làng chài nghèo nhưng nó đã nuôi dưỡng tâm hồn thơ Tế Hanh.
Bài viết này sẽ giúp các em lập dàn ý chi tiết phân tích bài thơ Quê hương của Tế Hanh và cung cấp bài văn mẫu cho các em đọc tham khảo.
I. Lập dàn ý phân tích bài thơ Quê hương
1. Mở bài
– Giới thiệu về nhà thơ Tế Hanh và bài thơ Quê hương
2. Thân bài phân tích bài thơ Quê hương
Khổ 1: Giới thiệu về làng chài quê hương
– Làng nghề chài lưới, xung quanh là biển.
– Con người quanh năm bơi thuyền đi đánh cá.
Khổ 2: Tâm hồn náo nức của nhà thơ
– Hình ảnh con thuyền hiên ngang, náo nức hăng như con tuấn mã.
– Tư thế kiêu hãnh của người làng chài khi chinh phục sông dài, biển rộng.
– Nhà thơ đã cảm nhận cuộc sống lao động của làng quê bằng cả tâm hồn tha thiết, gắn bó.
Khổ 3: Cảnh đón thuyền cá trở về ồn ào, tấp nập
– Âm điệu thơ thư thái, dần lắng lại theo niềm vui no ấm, bình yên của dân làng.
– Thể hiện khung cảnh ồn ào khi đoàn thuyền đánh cá trở về.
Khổ 4: Miêu tả về con người làng chài
– Làn da rám nắng và thân hình nồng thở vị xa xăm.
– Chất muối mặn của biển ngấm vào trong từng thớ vỏ, ngấm vào da thịt và ngấm vào tâm hồn của con người.
Khổ 5: Cảm xúc của tác giả khi nhớ về làng chài
– Hình ảnh làng chài hiện lên trong trí nhớ của nhà thơ.
– Ông không giấu giếm mà thổ lộ rõ nỗi nhớ cái mùi mặn nồng của quê hương.
3. Kết luận
– Tổng kết lại nội dung bài thơ và nêu cảm nghĩ của em về bài thơ Quê hương.
II. Bài làm phân tích bài thơ Quê hương
Quê hương là một tiếng gọi thật thân thương và trìu mến. Đằng sau tiếng gọi ấy ẩn chứa biết bao nhiêu cảm xúc. Đó có thể là sự yêu mến xen lẫn niềm tự hào. Đó cũng có thể là nỗi nhớ mong khắc khoải của những người con xa quê hương lâu ngày. Quê hương của Tế Hanh là một bài thơ chứa đựng nhiều cảm xúc của tác giả. Bài thơ khiến cho những người dù không cùng quê với Tế Hanh cũng phải yêu mến mảnh đất và con người nơi đây.Xem thêm: Nhà văn Nguyễn Tuân khi đọc đến đoạn trích Tức nước vỡ bờ (tiểu thuyết Tắt đèn) đã cho rằng Ngô Tất Tố: "xui người nông dân nổi loạn". Viết đoạn văn nói rõ ý kiến của em
Bài thơ Quê hương được Tế Hanh viết bằng những cảm xúc chân thành và dạt dào nhất. Chính bởi vậy mà nó dễ chạm đến trái tim của người đọc. Chính vì được viết bởi một người gắn bó với quê hương nên câu thơ trở nên chân thực. Mở đầu bài thơ là những hình ảnh giới thiệu về làng chài cũng như nhịp sống hối hả ở nơi đây:
Làng tôi ở vốn làm nghề chài lưới
Nước bao vây cách biển nửa ngày sông
Khi trời trong, gió nhẹ, sớm mai hồng
Dân trai tráng bơi thuyền đi đánh cá
Quê hương của mỗi người sẽ khác nhau. Chẳng hạn như quê hương của Đỗ Trung Quân là chùm khế ngọt, là con diều biếc,… Quê hương của nhiều người là mái đình, cây đa, giếng nước. Còn quê hương của Tế Hành chính là làng chài làm nghề chài lưới, nơi quanh năm nước bao phủ xung quanh. Từ câu thơ của Tế Hanh, một khung cảnh yên bình hiện ra với bầu trời cao và trong xanh, gió thổi nhè nhẹ, ánh nắng buổi sớm chiếu xuống làm bừng lên những ánh hồng rạng rỡ. Đây là lúc mà những chàng trai bắt đầu bơi thuyền đi đánh cá. Cách dùng từ “bơi thuyền” của tác giả cho thấy thuyền đánh cá nơi đây còn thô sơ, thể hiện làng chài còn nghèo khó.
Phân tích bài thơ Quê hương
Mặc dù còn nhiều khó khăn nhưng được sống trên mảnh đất quê hương, được lao động, được làm việc mình yêu thích khiến cho người dân chài luôn cảm thấy tươi vui, yêu đời. Họ bơi thuyền ra khơi với một tinh thần đầy hăng hái:
Chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mã
Phăng mái chèo mạnh mẽ vượt trường giang
Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng
Rướn thân trắng bao la thâu góp gió
Một bức tranh lao động đầy hứng khởi và dào dạt sức sống hiện lên trước mắt người đọc. Ở đây, nhà thơ Tế Hanh đã so sánh con thuyền như một con tuấn mã mạnh mẽ và đầy uy lực. Nó thể hiện được tâm thế vui tươi, phấn khởi của những người dân làng chài. Cùng với đó, những động từ hăng, phăng, vượt được nhà thơ sử dụng trong khổ thơ này cũng diễn tả được khí thế băng tới đầy cũng mãnh của con thuyền. Đồng thời nó cũng toát lên được một sức sống tràn trề và đầy nhiệt huyết. Con thuyền cứ thế vươn lên đầy hiên ngang và hùng tráng, vượt qua sóng, vượt qua gió. Câu thơ thứ 3 trong khổ thơ này, nhà thơ đã so sánh cánh buồm với hồn làng. Thường người ta so sánh những hình ảnh cụ thể với nhau nhưng Tế Hanh lại khác. Ông đã lấy một hình ảnh thực, cụ thể là cánh buồm để so sánh với hồn làng là một hình ảnh trừu tượng không thể hình dung. Làm như vậy để người đọc hiểu hơn và dễ hình dung ra được mảnh hồn làng là như thế nào. Ở đây, cánh buồm chính là linh hồn của quê hương. Biết bao nhiêu hy vọng cuộc sống, người dân đặt cả vào trong cánh buồm. Hình ảnh so sánh quả thực bay bổng và mang một ý nghĩa lớn lao.Xem thêm: Tóm tắt tình huống truyện Vợ nhặt của Kim Lân
Nhịp sống càng hối hả hơn khi người dân đón những chiếc thuyền đánh cá trở về. Thuyền về, chở theo hi vọng của người dân. Trong câu thơ chứa đựng niềm lạc quan của con người, họ đã mong đợi và tin tưởng vào những điều tốt đẹp trong cuộc sống:
Ngày hôm sau ồn ào trên bến đỗ
Khắp dân làng tấp nập đón ghe về
Nhờ ơn trời, biển lặng, cá đầy ghe
Những con cá tươi ngon thân bạc trắng
Cái không khí đông vui, hối hả và sôi động thể hiện rõ thông qua các tính từ ồn ào, tấp nập. Cảm giác như người đọc đang được hoà mình vào trong không khí ấy. Trong niềm vui của cuộc đời, người dân không quên cảm tạ trời đất, cảm tạ biển cả. Mặc dù nhà thơ không miêu tả cảnh người dân đánh bắt cá nhưng thông qua niềm vui hân hoan khi trở về, ta hiểu họ đã phải chịu nhiều vất vả, cực nhọc như thế nào. Bởi vì có vất vả thì khi đón nhận thành quả người ta càng cảm thấy vui sướng.
Chuyến ra khơi kết thúc là lúc con người và thuyền buồm bắt đầu nghỉ ngơi:
Dân chài lưới làn da ngăm rám nắng
Cả thân hình nồng thở vị xa xăm
Chiếc thuyền im bến mỏi trở về năm
Nghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ
Nhà thơ đã miêu tả một cách vô cùng chân thực những người dân làng chài với làn da ngăm rám nắng. Hình ảnh mang lại ấn tượng sâu sắc cho cả bài thơ. Câu thơ Cả thân hình nồng thở vị xa xăm lại cho người đọc thấy được hơi thở của biển cả nồng vị muối của đại dương bao la đã thấm đẫm vào trong thân hình vạm vỡ của người dân chài. Nét đặc sắc ở trong câu thơ này chính là nó đã gợi lên cả linh hồn và tầm vóc của con người và biển cả.Xem thêm: Có người cho rằng ngày nay trong siêu thị cái gì cũng có, vì thế nên dẹp bỏ hết các chợ quê, Ý kiến của anh (chị) thế nào?
Hai câu thơ cuối bài, nhà thơ đã miêu tả được vẻ đẹp cũng như sự mệt mỏi của con thuyền. Con thuyền cũng giống như người dân chài, thấm trong từng thớ vỏ vị mặn mòi của biển. Chính nhờ sự miêu tả này của tác giả mà con thuyền trở nên có hồn hơn. Thuyền không chỉ là công cụ giúp người dân chài ra khơi mà nó còn trở thành người bạn.
Cái chất mặn mòi của quê hương đã thấm vào da thịt và vào máu của người dân nơi đây. Để rồi khi đi xa, nhà thơ không giấu nổi cảm xúc của mình:
Nay xa cách lòng tôi luôn tưởng nhớ
Màu nước xanh, cá bạc, chiếc thuyền vôi
Thoáng con thuyền rẽ sóng chạy ra khơi
Tôi thấy nhớ cái mùi nồng mặn quá
Nếu chỉ đọc những câu thơ trên, có thể nhiều người sẽ hình dung ra cảnh tượng tác giả đang chứng kiến khung cảnh của quê hương và rồi miêu tả bằng vần thơ. Nhưng sự xuất hiện của khổ thơ cuối đã khiến người đọc nhận ra rằng nhà thơ đang xa quê và ông đã miêu tả quê hương bằng trí nhớ của mình. Nhớ quê hương là nhớ đến màu nước xanh, nhớ đến con cá bạc, nhớ chiếc thuyền vôi rẽ sóng chạy ra khơi và nhớ cả mùi nồng mặn của nước biển. Nhớ quá, nỗi nhớ như cồn cào trong gan ruột nhà thơ.
Mặc dù là một trong những nhà thơ thuộc phong trào Thơ mới nhưng Tế Hanh không có tư tưởng thoát ly thực tại. Hồn thơ của ông vẫn hoà quyện vào hồn dân tộc, hoà vào cánh buồm giương to như mảnh hồn làng. Bài thơ Quê hương với những hình ảnh sinh động và âm điệu khoẻ khoắn đã mang đến cho người đọc cảm giác hứng khởi, khơi dậy nỗi nhớ quê hương trong lòng mỗi người.
Trên đây là phần hướng dẫn lập dàn ý phân tích bài thơ Quê hương của Tế Hanh. Các em có thể dựa theo dàn ý này và đọc tham khảo bài văn mẫu phân tích bài thơ Quê hương để có thể làm tốt bài văn của mình.
Thu Thuỷ
|
Subsets and Splits
No community queries yet
The top public SQL queries from the community will appear here once available.