vi
stringlengths
846
10.5k
en
stringlengths
799
10.5k
Bài thơ Sang thu của Hữu Thỉnh cũng lấy đề tài về mùa thu nhưng lại là khoảnh khắc trời bắt đầu chuyển giao mùa vì vậy mà những cảm nhận của nhà thơ vô cùng tinh tế. Ông đã bắt trọn những thời khắc chuyển mùa với tất cả các giác quan của mình. Để có thể làm tốt đề văn phân tích bài thơ Sang thu, Kho tàng văn mẫu sẽ hướng dẫn các em lập dàn ý chi tiết cho đề phân tích bài thơ Sang thu cùng với bài văn mẫu cho các em tham khảo. I. Lập dàn ý chi tiết phân tích bài thơ Sang thu 1. Mở bài – Giới thiệu về bài thơ Sang thu và tác giả Hữu Thỉnh. – Bài thơ miêu tả cảnh mùa thu mới chớm tới, mang đậm hương vị, màu sắc với những hình ảnh rất đỗi thân quen. Nội dung bài thơ nhẹ nhàng và qua đây, nhà thơ cũng gửi chút tâm sự của mình vào trong đó. 2. Thân bài phân tích bài thơ Sang thu Khổ 1: Những cảm nhận đầu tiên của nhà thơ khi mùa thu về – Hương ổi: được cảm nhận bằng thính giác, là mùi hương đặc trưng của Bắc Bộ mỗi khi mùa thu về. – Động từ phả gợi mùi hương ổi ở độ đậm nhất, quyến rũ nhất và nó lan tỏa trong khắp không gian. – Sương chùng chình: gợi cảm giác thong thả, nhẹ nhàng. => Tâm trạng ngỡ ngàng của tác giả khi chợt nhận ra mùa thu đã về thể hiện qua các từ bỗng, hình như. Khổ 2: Bức tranh mùa thu đẹp đẽ và trong sáng được nhà thơ cảm nhận bằng những hình ảnh quen thuộc. – Dòng sông trôi hiền hỏa và mang một sự thanh thản. – Những đàn chim trở nên vội vã đi tìm nơi tránh rét – Hình ảnh mây vắt nửa mình sang thu cho thấy một cảm nhận tinh tế của nhà thơ. Khổ 3: Thông qua hiện tượng thiên nhiên nắng, mưa để bày tỏ tâm trạng của bản thân. – Nắng còn đó nhưng đã bớt gay gắt hơn. – Mưa cũng vơi dần đi. => Hai câu thơ tả thực về hiện tượng tự nhiên của thời tiết 4 mùa. – Sấm là hình ảnh ẩn dụ cho những vang động bất thường của ngoại cảnh.Xem thêm: Phân tích bài thơ Đoàn thuyền đánh cá (Có dàn ý chi tiết) – Hàng cây đứng tuổi để nói về những con người từng trải, đã vượt qua nhiều thăng trầm của cuộc sống. => Hai câu thơ cuối thể hiện sự vững vàng của con người nhưng cũng mang một chút cảm xúc tiếc nuối. 3. Kết luận – Tóm tắt lại nội dung của bài thơ trong 1 – 2 câu và nêu cảm nghĩ của em về bài thơ này. Bài viết liên quan: >> Phân tích bài thơ Viếng lăng Bác của Viễn Phương (Có dàn ý chi tiết) II. Bài làm phân tích bài thơ Sang Thu Nhà thơ Hữu Thỉnh sinh năm 1942 ở Vĩnh Phúc. Từ năm 1963, Hữu Thỉnh bắt đầu sáng tác thơ và ông có nhiều bài thơ rất hay. Từ năm 2000 đến nay, Hữu Thỉnh giữ chức vụ Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam. Trong số rất nhiều những bài thơ đặc sắc của ông viết về con người, về cuộc sống thì bài thơ Sang thu là một bài thơ vô cùng độc đáo. Mặc dù trong thi ca Việt Nam đã có rất nhiều bài thơ hay viết về mùa thu nhưng bài thơ Sang thu của Hữu Thỉnh vẫn để lại một ấn tượng độc đáo trong lòng người đọc bởi sự cảm nhận quá tinh tế của tác giả. Sự cảm nhận tinh tế đó là gì thì thông qua việc phân tích bài thơ Sang thu chúng ta sẽ thấy rõ. Mở đầu bài thơ, tác giả không viết về một hình ảnh cụ thể nào mà lại diễn tả một mùi hương đó chính là hương ổi. Hương ổi chính là hương thơm đặc trưng mỗi khi mùa thu về. Thông thường, người ta chỉ biết mùa thu đã về thật sự khi mà những chiếc lá vàng đã bắt đầu rơi. Nhưng trong bài thơ này của Hữu Thỉnh lại không hề xuất hiện bất cứ hình ảnh lá vàng rơi nào. Điều này cũng dễ hiểu bởi Hữu Thỉnh đang miêu tả khoảnh khắc chuyển giao mùa. Không phải như sự chuyển giao của thời gian khi con người có thể nhìn vào đồng hồ để đoán biết. Sự chuyển giao của thiên nhiên buộc con người phải cảm nhận. Và chúng ta cũng không thể nào đoán biết được lúc nào thì mùa thu sẽ đến để mà chờ đợi. Chính vì vậy mà nhà thơ Hữu Thỉnh mới sử dụng từ bỗng. Từ bỗng cho ta thấy sự ngạc nhiên của nhà thơ khi bất chợt nhận thấy mùi hương ổi:Xem thêm: Trong bài thơ Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ của Nguyễn Khoa Điềm, em thích hình ảnh thơ nào nhất. Viết một đoạn văn (8 - 10 câu) nói rõ cái hay của hình ảnh thơ ấy trong đó có sử dụng thành phần tình thái và thành phần phụ chú Bỗng nhận ra hương ổi Phả vào trong gió se Sương chùng chình qua ngõ Hình như thu đã về Phân tích bài thơ Sang thu Hương ổi thơm đang theo gió lan tỏa ra khắp không gian. Từ “phả” gợi lên cảm giác hương ổi đã rất đậm đà. Sau sự cảm nhận của khứu giác là đến sự cảm nhận của thị giác với hình ảnh “sương chùng chình qua ngõ”. Sương như đang đủng đỉnh, chầm chậm len lỏi vào trong khắp các ngõ nhỏ. Sương cũng là một nét đặc trưng nữa của mùa thu. Mặc dù vậy, nhà thơ vẫn chưa dám khẳng định rằng mùa thu đã về. Hai chữ “hình như” gợi lên cảm giác ngờ ngợ, thiếu chắc chắn. Cũng dễ hiểu bởi vì hương ổi hay sương đều không phải là hình ảnh cụ thể. Thế nhưng, sang đến khổ thơ thứ hai, hình ảnh về mùa thu đã hiện lên rõ nét hơn, sinh động hơn. Câu thơ có hình ảnh của sông. Nhà thơ có cảm nhận tinh tế và thể hiện rõ sự hiểu biết của mình thông qua những câu thơ này. Mùa hè ở nước ta thường có nhiều mưa lũ vì vậy nước sông chảy siết hơn. Nhưng vào mùa thu, mưa lũ ít đi, nước sông sẽ chảy chậm lại. Và cái sự dềnh dàng của sông đã khiến cho người đọc hình dung ra rõ hơn khung cảnh của mua thu. Lúc này, bức tranh về mùa thu đã có những hình khối và đường nét cụ thể: Sông được lúc dềnh dàng Chim bắt đầu vội vã Có đám mây mùa hạ Vắt nửa mình sang thu Nếu dưới sông nước chảy dềnh dàng thì đối lập với nó là trên bầu trời chim đang bay vội vã. Sự vội vã của những cánh chim là điều dễ hiểu. Đặc tính của các loài chim di cư là chúng sẽ tìm về nơi ấm áp để làm tổ. Do vậy, mùa thu đến cũng chính là thời khắc chúng bắt đầu chuẩn bị cho một cuộc hành trình dài bay về phương nam tránh rét. Nhưng hai câu thơ sau mới thật sự là tinh tế. Nhà thơ đã nhìn thấy, đã bắt trọn được khoảnh khắc đám mây mùa hạ “vắt nửa mình sang thu”. Câu thơ mang đến một hình ảnh tươi đẹp và nó gợi lên cho chúng ta thấy rằng thời tiết đang chuyển mùa. Một nửa đã bước sang mùa thu còn một nửa vẫn đang luyến lưu mùa hạ.Xem thêm: Đất nước Việt Nam ta có một nỗi đau mang tên "màu da cam". Để góp phần giảm bớt nỗi đau do di họa của chất độc này, cả nước đã lập quỹ giúp đỡ các nạn nhân. Hãy nêu suy nghĩ của mình về các sự kiện đó Đó là lý do vì sao mà lúc này trời vẫn còn có nắng, nhưng nắng đã bớt gay gắt hơn. Những cơn mưa rào của mùa hạ cũng đã vơi dần. Nhà thơ nói đến hiện tượng tự nhiên nắng, mưa khiến người đọc cảm giác như ông đang đơn thuần tả cảnh sang thu. Nhưng không, hai câu thơ cuối cho người đọc thấy được tâm trạng của nhà thơ: Vẫn còn bao nhiêu nắng Đã vơi dần cơn mưa Sấm cũng bớt bất ngờ Trên hàng cây đứng tuổi Sấm ở đây vừa là nói về một hiện tượng tự nhiên nhưng có lẽ nó cũng nhằm ám chỉ những cái bất ngờ trong cuộc sống của con người. Chúng ta có thể dự báo được nắng vừa mưa nhưng không thể dự báo được tiếng sấm sẽ đến vào lúc nào. Nhưng một khi đã quen với tiếng sấm rồi thì sẽ không còn thấy nó bất ngờ nữa. Cũng giống như một người lớn tuổi, vì đã quen với những thử thách, khó khăn rồi nên có gặp phải thêm những thử thách nữa thì cũng nhẹ nhàng mà đối diện và vượt qua. Bài thơ của Hữu Thỉnh khép lại với một tâm trạng man mác buồn nhưng nếu xét về tổng thể thì đây vẫn là một bài thơ hay và giàu hình ảnh đẹp. Đây cũng là một trong những bài thơ viết về mùa thu để lại trong em nhiều ấn tượng sâu đậm nhất. Trên đây, chúng ta đã cùng nhau lập dàn ý và phân tích bài thơ Sang thu của nhà thơ Hữu Thỉnh. Kho tàng văn mẫu hy vọng rằng bài viết này sẽ giúp các em có một tài liệu tham khảo tốt, phục vụ cho việc học môn Ngữ văn 9 được tốt hơn. Thu Thủy
Bài thơ Sang thu của Hữu Thỉnh cũng lấy đề tài về mùa thu nhưng lại là khoảnh khắc trời bắt đầu chuyển giao mùa vì vậy mà những cảm nhận của nhà thơ vô cùng tinh tế. Ông đã bắt trọn những thời khắc chuyển mùa với tất cả các giác quan của mình. Để có thể làm tốt đề văn phân tích bài thơ Sang thu, Kho tàng văn mẫu sẽ hướng dẫn các em lập dàn ý chi tiết cho đề phân tích bài thơ Sang thu cùng với bài văn mẫu cho các em tham khảo. I. Lập dàn ý chi tiết phân tích bài thơ Sang thu 1. Mở bài – Giới thiệu về bài thơ Sang thu và tác giả Hữu Thỉnh. – Bài thơ miêu tả cảnh mùa thu mới chớm tới, mang đậm hương vị, màu sắc với những hình ảnh rất đỗi thân quen. Nội dung bài thơ nhẹ nhàng và qua đây, nhà thơ cũng gửi chút tâm sự của mình vào trong đó. 2. Thân bài phân tích bài thơ Sang thu Khổ 1: Những cảm nhận đầu tiên của nhà thơ khi mùa thu về – Hương ổi: được cảm nhận bằng thính giác, là mùi hương đặc trưng của Bắc Bộ mỗi khi mùa thu về. – Động từ phả gợi mùi hương ổi ở độ đậm nhất, quyến rũ nhất và nó lan tỏa trong khắp không gian. – Sương chùng chình: gợi cảm giác thong thả, nhẹ nhàng. => Tâm trạng ngỡ ngàng của tác giả khi chợt nhận ra mùa thu đã về thể hiện qua các từ bỗng, hình như. Khổ 2: Bức tranh mùa thu đẹp đẽ và trong sáng được nhà thơ cảm nhận bằng những hình ảnh quen thuộc. – Dòng sông trôi hiền hỏa và mang một sự thanh thản. – Những đàn chim trở nên vội vã đi tìm nơi tránh rét – Hình ảnh mây vắt nửa mình sang thu cho thấy một cảm nhận tinh tế của nhà thơ. Khổ 3: Thông qua hiện tượng thiên nhiên nắng, mưa để bày tỏ tâm trạng của bản thân. – Nắng còn đó nhưng đã bớt gay gắt hơn. – Mưa cũng vơi dần đi. => Hai câu thơ tả thực về hiện tượng tự nhiên của thời tiết 4 mùa. – Sấm là hình ảnh ẩn dụ cho những vang động bất thường của ngoại cảnh.Xem thêm: Phân tích bài thơ Đoàn thuyền đánh cá (Có dàn ý chi tiết) – Hàng cây đứng tuổi để nói về những con người từng trải, đã vượt qua nhiều thăng trầm của cuộc sống. => Hai câu thơ cuối thể hiện sự vững vàng của con người nhưng cũng mang một chút cảm xúc tiếc nuối. 3. Kết luận – Tóm tắt lại nội dung của bài thơ trong 1 – 2 câu và nêu cảm nghĩ của em về bài thơ này. Bài viết liên quan: >> Phân tích bài thơ Viếng lăng Bác của Viễn Phương (Có dàn ý chi tiết) II. Bài làm phân tích bài thơ Sang Thu Nhà thơ Hữu Thỉnh sinh năm 1942 ở Vĩnh Phúc. Từ năm 1963, Hữu Thỉnh bắt đầu sáng tác thơ và ông có nhiều bài thơ rất hay. Từ năm 2000 đến nay, Hữu Thỉnh giữ chức vụ Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam. Trong số rất nhiều những bài thơ đặc sắc của ông viết về con người, về cuộc sống thì bài thơ Sang thu là một bài thơ vô cùng độc đáo. Mặc dù trong thi ca Việt Nam đã có rất nhiều bài thơ hay viết về mùa thu nhưng bài thơ Sang thu của Hữu Thỉnh vẫn để lại một ấn tượng độc đáo trong lòng người đọc bởi sự cảm nhận quá tinh tế của tác giả. Sự cảm nhận tinh tế đó là gì thì thông qua việc phân tích bài thơ Sang thu chúng ta sẽ thấy rõ. Mở đầu bài thơ, tác giả không viết về một hình ảnh cụ thể nào mà lại diễn tả một mùi hương đó chính là hương ổi. Hương ổi chính là hương thơm đặc trưng mỗi khi mùa thu về. Thông thường, người ta chỉ biết mùa thu đã về thật sự khi mà những chiếc lá vàng đã bắt đầu rơi. Nhưng trong bài thơ này của Hữu Thỉnh lại không hề xuất hiện bất cứ hình ảnh lá vàng rơi nào. Điều này cũng dễ hiểu bởi Hữu Thỉnh đang miêu tả khoảnh khắc chuyển giao mùa. Không phải như sự chuyển giao của thời gian khi con người có thể nhìn vào đồng hồ để đoán biết. Sự chuyển giao của thiên nhiên buộc con người phải cảm nhận. Và chúng ta cũng không thể nào đoán biết được lúc nào thì mùa thu sẽ đến để mà chờ đợi. Chính vì vậy mà nhà thơ Hữu Thỉnh mới sử dụng từ bỗng. Từ bỗng cho ta thấy sự ngạc nhiên của nhà thơ khi bất chợt nhận thấy mùi hương ổi:Xem thêm: Trong bài thơ Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ của Nguyễn Khoa Điềm, em thích hình ảnh thơ nào nhất. Viết một đoạn văn (8 - 10 câu) nói rõ cái hay của hình ảnh thơ ấy trong đó có sử dụng thành phần tình thái và thành phần phụ chú Bỗng nhận ra hương ổi Phả vào trong gió se Sương chùng chình qua ngõ Hình như thu đã về Phân tích bài thơ Sang thu Hương ổi thơm đang theo gió lan tỏa ra khắp không gian. Từ “phả” gợi lên cảm giác hương ổi đã rất đậm đà. Sau sự cảm nhận của khứu giác là đến sự cảm nhận của thị giác với hình ảnh “sương chùng chình qua ngõ”. Sương như đang đủng đỉnh, chầm chậm len lỏi vào trong khắp các ngõ nhỏ. Sương cũng là một nét đặc trưng nữa của mùa thu. Mặc dù vậy, nhà thơ vẫn chưa dám khẳng định rằng mùa thu đã về. Hai chữ “hình như” gợi lên cảm giác ngờ ngợ, thiếu chắc chắn. Cũng dễ hiểu bởi vì hương ổi hay sương đều không phải là hình ảnh cụ thể. Thế nhưng, sang đến khổ thơ thứ hai, hình ảnh về mùa thu đã hiện lên rõ nét hơn, sinh động hơn. Câu thơ có hình ảnh của sông. Nhà thơ có cảm nhận tinh tế và thể hiện rõ sự hiểu biết của mình thông qua những câu thơ này. Mùa hè ở nước ta thường có nhiều mưa lũ vì vậy nước sông chảy siết hơn. Nhưng vào mùa thu, mưa lũ ít đi, nước sông sẽ chảy chậm lại. Và cái sự dềnh dàng của sông đã khiến cho người đọc hình dung ra rõ hơn khung cảnh của mua thu. Lúc này, bức tranh về mùa thu đã có những hình khối và đường nét cụ thể: Sông được lúc dềnh dàng Chim bắt đầu vội vã Có đám mây mùa hạ Vắt nửa mình sang thu Nếu dưới sông nước chảy dềnh dàng thì đối lập với nó là trên bầu trời chim đang bay vội vã. Sự vội vã của những cánh chim là điều dễ hiểu. Đặc tính của các loài chim di cư là chúng sẽ tìm về nơi ấm áp để làm tổ. Do vậy, mùa thu đến cũng chính là thời khắc chúng bắt đầu chuẩn bị cho một cuộc hành trình dài bay về phương nam tránh rét. Nhưng hai câu thơ sau mới thật sự là tinh tế. Nhà thơ đã nhìn thấy, đã bắt trọn được khoảnh khắc đám mây mùa hạ “vắt nửa mình sang thu”. Câu thơ mang đến một hình ảnh tươi đẹp và nó gợi lên cho chúng ta thấy rằng thời tiết đang chuyển mùa. Một nửa đã bước sang mùa thu còn một nửa vẫn đang luyến lưu mùa hạ.Xem thêm: Đất nước Việt Nam ta có một nỗi đau mang tên "màu da cam". Để góp phần giảm bớt nỗi đau do di họa của chất độc này, cả nước đã lập quỹ giúp đỡ các nạn nhân. Hãy nêu suy nghĩ của mình về các sự kiện đó Đó là lý do vì sao mà lúc này trời vẫn còn có nắng, nhưng nắng đã bớt gay gắt hơn. Những cơn mưa rào của mùa hạ cũng đã vơi dần. Nhà thơ nói đến hiện tượng tự nhiên nắng, mưa khiến người đọc cảm giác như ông đang đơn thuần tả cảnh sang thu. Nhưng không, hai câu thơ cuối cho người đọc thấy được tâm trạng của nhà thơ: Vẫn còn bao nhiêu nắng Đã vơi dần cơn mưa Sấm cũng bớt bất ngờ Trên hàng cây đứng tuổi Sấm ở đây vừa là nói về một hiện tượng tự nhiên nhưng có lẽ nó cũng nhằm ám chỉ những cái bất ngờ trong cuộc sống của con người. Chúng ta có thể dự báo được nắng vừa mưa nhưng không thể dự báo được tiếng sấm sẽ đến vào lúc nào. Nhưng một khi đã quen với tiếng sấm rồi thì sẽ không còn thấy nó bất ngờ nữa. Cũng giống như một người lớn tuổi, vì đã quen với những thử thách, khó khăn rồi nên có gặp phải thêm những thử thách nữa thì cũng nhẹ nhàng mà đối diện và vượt qua. Bài thơ của Hữu Thỉnh khép lại với một tâm trạng man mác buồn nhưng nếu xét về tổng thể thì đây vẫn là một bài thơ hay và giàu hình ảnh đẹp. Đây cũng là một trong những bài thơ viết về mùa thu để lại trong em nhiều ấn tượng sâu đậm nhất. Trên đây, chúng ta đã cùng nhau lập dàn ý và phân tích bài thơ Sang thu của nhà thơ Hữu Thỉnh. Kho tàng văn mẫu hy vọng rằng bài viết này sẽ giúp các em có một tài liệu tham khảo tốt, phục vụ cho việc học môn Ngữ văn 9 được tốt hơn. Thu Thủy
Đề bài: Phân tích bài thơ Sang Thu của Hữu Thỉnh Bài làm Một năm có bốn mùa, mỗi mùa lại mang những vẻ đẹp riêng và trở thành những đề tài quen thuộc trong văn chương. Viết về mùa thu có rất nhiều bài thơ hay và một trong số đó phải kể đến bài thơ Sang Thu của nhà thơ Hữu Thỉnh. Sang Thu tái hiện khoảnh khắc giao mùa của trời đất khi chuyển từ mùa hạ sang mùa thu. Với Hữu Thỉnh, một nhà thơ có tài năng quan sát tinh tế và gần gũi với thiên nhiên, ông đã nhạy cảm phát hiện ra những chuyển biến rất nhỏ trong tự nhiên: “Bỗng nhận ra hương ổi Phả vào trong gió se” Không phải là màu vàng của hoa cúc, không phải sắc vàng của tán lá mùa thu hay mặt hồ yên ả mà Hữu Thỉnh nhận thấy sự giao mùa từ sớm do hương ổi, một thứ quả đặc trưng của vùng thôn quê Việt Nam. Hương ổi không giống với hương sen, hương lúa non mà nó rất đỗi nhẹ nhàng. Phải là người thật tinh tế và nhạy cảm thì mới có thể nhận ra. Cụm từ “bỗng nhận ra” diễn tả sự ngạc nhiên, như một phát hiện mới, thú vị mà tác giả bỗng nhiên nhận ra. Động từ “phả” giống như sự khẳng định sự có mặt của hương ổi đang chuyển động theo làn gió. Một mùi hương không nồng nàn, ngào ngạt và rất khó nhận ra nhưng cũng đủ để đánh thức giác quan và cảm xúc của lòng người.Xem thêm: Nghị luận xã hội về tệ nạn cờ bạc Phân tích bài thơ Sang Thu Hữu Thỉnh không chỉ cảm nhận mùa thu bằng khứu giác mà còn cảm nhận qua cả thị giác: “Sương chùng chình qua ngõ Hình như thu đã về” Nhận thấy hương ổi trong gió, nay lại thấy không gian phía trước ở trong ngõ có màn sương giăng mắc. Nhà thơ sử dụng từ láy “chùng chình” để diễn tả màn sương di chuyển mang đến cho ta cảm giác lưu luyến, ngập ngừng. Cảnh thu được gợi lên trong sự tĩnh lặng, thong thả và yên bình. “Chùng chình” không chỉ là sự chuyển động của màn sương mà còn là sự rung động trong tâm hồn của người thi sĩ. Có một chút ngỡ ngàng, một chút bâng khuâng của nhà thơ khi phát hiện ra sự giao mùa, nhưng dường như vẫn chưa chắc chắn nên Hữu Thỉnh đã sử dụng một từ tình thái để diễn tả sự phân vân đó của mình “Hình như thu đã về”. Tuy nhiên tác giả không phải phân vân lâu bởi ngay sau đó nhà thơ đã quan sát được hình ảnh của mùa thu xuất hiện ở nhiều nơi trong không gian, cảnh vật: “Sông được lúc dềnh dàng Chim bắt đầu vội vã Có đám mây mùa hạ Vắt nửa mình sang thu” Đến khổ thơ này thì tác giả đã có thể khẳng định mùa thu đã về. Mùa thu đến khiến cảnh vật hình như có phần chậm lại. Đó là dòng sông không còn cuồn cuộn, chảy mạnh mẽ như khi còn là mùa hè nữa mà trôi nhẹ, “dềnh dàng”, thong thả. Tuy rằng hầu hết mọi vật đều chuyển động chậm lại nhưng chỉ có riêng loài chim là “vội vã”. Bởi thu đến, nghĩa là cận kề với cái đông giá rét. Chính vì thế đàn chim phải vội vã kiếm thức ăn để dự trữ cho mùa đông sắp tới. Điểm nhìn của tác giả được di chuyển từ dòng sông đến cánh chim, rồi là tới bầu trời cao. Hữu Thỉnh đã có sự hình dung rất đặc sắc về hình ảnh đám mây đó là “vắt nửa mình sang thu”. Đám mây giống như một dải lụa mềm mại với một nửa bên mùa hạ, một nửa vắt sang mùa thu. Cách liên tưởng thật ấn tượng, khiến cho người đọc cảm nhận được thiên nhiên có sự thay đổi thật thú vị, sống động.Xem thêm: Khan hiếm nước ngọt và những nguy cơ tiềm ẩn Đến khổ thơ cuối nhà thơ không còn gợi tả những biến đổi trực tiếp mà tác giả thấy được mà cảm nhận thông qua sự suy ngẫm, chiêm nghiệm về những gì xảy ra trong thời gian gần đây: “Vẫn còn bao nhiêu nắng Đã vơi dần cơn mưa Sấm cũng bớt bất ngờ Trên hàng cây đứng tuổi” Tuy là cuối hạ nhưng nắng vẫn còn chói chang, vẫn còn khiến người ta không dám trực tiếp đối mặt. Nhưng sang đến mùa thu thì cái nắng sẽ có phần dịu đi. Mùa hạ được biết đến với những cơn mưa rào bất chợt nhưng gần vào thu nên mưa cũng giảm bớt. Trong những trận mưa không thì những tiếng sấm cũng không còn xuất hiện nhiều, bất ngờ khiến mọi người giật mình nữa. Hình ảnh “hàng cây đứng tuổi” mang đến cho người đọc những suy nghĩ vè đời người. Hàng cây giống như những người từng trải, họ không còn cảm thấy bất ngờ với những thay đổi. Khi ấy con người ta trở nên điềm đạm, tĩnh lặng chứ không giống như khi còn tuổi trẻ bồng bột nữa. Giọng thơ ở câu thơ cuối như trầm lắng giống như tâm trạng của con người đang suy ngẫm về cuộc đời. Bài thơ Sang Thu xứng đáng là một trong những bài thơ hay nhất viết về mùa thu. Qua những vần thơ, những hình ảnh độc đáo, thú vị ta thấy được sự chuyển biến của sự giao mùa, cảm nhận sâu sắc về cảnh sắc mùa thu của thiên nhiên ở miền Bắc nước ta.Xem thêm: Qua văn bản Phong cách Hồ Chí Minh của Lê Anh Trà, em hãy viết đoạn văn cho biết tại sao Hồ Chí Minh có được một vốn văn hoá nhân loại sâu rộng và phong phú Loan Trương
Topic: Analysis of the poem Sang Thu by Huu Thinh Assignment There are four seasons in a year, each season has its own beauty and become familiar topics in literature. There are many good poems written about autumn and one of them is the poem Sang Thu by poet Huu Thinh. Sang Thu recreates the changing seasons of heaven and earth when moving from summer to autumn. For Huu Thinh, a poet with a talent for subtle observation and closeness to nature, he sensitively discovered very small changes in nature: “Suddenly I noticed the scent of guava Blown into the wind" Not the yellow color of chrysanthemums, not the yellow color of autumn foliage or the calm lake surface, but Huu Thinh noticed the change of seasons early due to the scent of guava, a typical fruit of the Vietnamese countryside. The scent of guava is not like the scent of lotus or young rice, but it is very gentle. Only a very delicate and sensitive person can recognize it. The phrase "suddenly realized" expresses surprise, like a new, interesting discovery that the author suddenly realized. The verb "fa" is like affirming the presence of guava scent moving with the wind. A scent that is not passionate, sweet and very difficult to detect but is enough to awaken people's senses and emotions. See more: Social commentary on gambling problems Analyze the poem Sang Thu Huu Thinh not only feels autumn through smell but also through sight: “The fog drifted across the alley Thu seemed to have about" I noticed the scent of guava in the wind, but now I saw the space in front of me in the alley covered with mist. The poet uses the word "hanging" to describe the moving mist, giving us a feeling of nostalgia and hesitation. The autumn scene is evoked in silence, leisure and peace. “Drifting” is not only the movement of the mist but also the vibration in the poet's soul. There was a bit of surprise, a bit of wistfulness on the part of the poet when he discovered the change of seasons, but it still seemed uncertain, so Huu Thinh used a modal word to describe his confusion: "It seems like Autumn has arrived." However, the author did not have to hesitate for long because soon after, the poet observed images of autumn appearing in many places in space and landscape: “The river is easy at times Birds began to rush There are summer clouds Squeeze half of yourself into autumn" By this stanza, the author can confirm that autumn has come. Autumn comes and the scenery seems to slow down a bit. It is a river that is no longer rushing and flowing strongly like it did in summer, but flows gently, "easily", and leisurely. Although most things move slowly, only birds are "hurried". Because autumn is coming, it means the cold winter is approaching. That's why the birds have to rush to find food to store for the upcoming winter. The author's point of view is moved from the river to the bird's wings, then to the sky. Huu Thinh had a very unique visualization of the image of the cloud as "squeezing half of himself into autumn". The cloud is like a soft silk strip with half summer and half autumn. The way of association is very impressive, making the reader feel the interesting and lively changes in nature. See more: Fresh water scarcity and potential dangers In the last stanza, the poet no longer describes the direct changes that the author sees but feels through contemplation and contemplation of what has happened recently: “There's still a lot of sunshine left The rain has gradually subsided Thunder is also less surprising On older trees" Even though it was the end of summer, the sun was still bright, making people not dare to face it directly. But come fall, the heat will soften somewhat. Summer is known for its sudden showers, but as autumn approaches, the rain also lessens. During the rains, the sounds of thunder no longer appear much, suddenly startling people. The image of "row of old trees" gives readers thoughts about human life. The trees are like experienced people, they are no longer surprised by changes. At that time, people become calm and quiet, not like when they were impetuous youth. The poetic tone in the last verse seems quiet, like the mood of a person contemplating life. The poem Sang Thu deserves to be one of the best poems written about autumn. Through unique and interesting poems and images, we can see the change of seasons and deeply feel the autumn scenery of nature in the North of our country. See more: Through text Style Ho Chi Minh by Le Anh Tra, please write a paragraph explaining why Ho Chi Minh has a deep and rich human cultural capital. Loan Truong
Đề bài: Phân tích bài thơ Sang thu của Hữu Thỉnh Có lẽ vì nàng thu “thơ mộng muôn thủa” luôn có xu hướng “rủ rê” ngòi bút theo những lối mòn quen thuộc của truyền thống thơ thu. Mà hút theo những con đường dằng đặc đã định hình trước đó là đến tử lộ của văn chương… Phân tích bài thơ Sang thu của Hữu Thỉnh Nói về đề tài mùa thu, một tác giả đã nhận định: “Đề tài "Mùa Thu" bao giờ cũng có vẻ là dễ viết. Mùa thu dường như luôn luôn nấp sẵn trong ngòi bút của chúng ta, nhất là những ngòi bút thơ: hễ động bút là mùa thu cứ chực đổ ùa ra trên mặt giấy. Tưởng như với đề tài thơ mộng muôn thuở này có thể dễ dàng chắp bút. Chỉ đến khi bắt đầu cầm bút ngồi trước mặt giấy, tôi mới thấy đề tài này thật là khó” Tại sao lại có nghịch lí trong kinh nghiệm của người sáng tác như vậy? Có lẽ vì nàng thu “thơ mộng muôn thủa” luôn có xu hướng “rủ rê” ngòi bút theo những lối mòn quen thuộc của truyền thống thơ thu. Mà hút theo những con đường dằng đặc đã định hình trước đó là đến tử lộ của văn chương… Sang thu của Hữu Thỉnh xuất hiện khi trước nó đã có rất nhiều bài thơ nổi tiếng đông tây kim cổ: Thu hứng (Đỗ Phủ), Chùm thơ thu (Nguyễn Khuyến), Đây mùa thu tới (Xuân Diệu)… Nhưng nó vẫn có cái hay, cái độc đáo riêng của một hồn thơ sâu lắng, nhạy cảm khi mùa thu tới. Ngay từ tiêu đề, tác giả đã tự xác định một thời điểm miêu tả: thời điểm giao mùa. Đó không phải là chính thu, khi bầu trời xanh ngắt lơ lửng những tầng cao, không phải cuối thu, khi nắng trời đã nhuộm đỏ lá bàng, hay khi cái rét mùa đông đã lẩn vào trong gió…Sang thu nghĩa là mới chớm thu thôi, cái tứ kết buộc hệ thống hình ảnh trong bài cũng chỉ gói gọn trong chút “chớm” mỏng manh đó. Xem thêm: Phân tích bài thơ Đoàn thuyền đánh cá (Có dàn ý chi tiết)Đặc biệt ở góc độ miêu tả tạo vật. Không hề có một từ định tính để miêu tả thế giới thu. Có hương ổi, mùi hương vừa đặc trưng cho mùa vừa đặc trưng cho làng thôn ngõ xóm. Nhưng hương ổi “thơm” như thế nào thì thi sĩ hoàn toàn không miêu tả. Có gió, nhưng gió se chứ không phải là gió lạnh. Se gợi một động thái, hơn là gợi một cảm giác. Làn sương giăng phủ ngõ thôn chẳng được đặc tả ở mức độ (mù mịt) hay màu sắc (trắng mờ)… Dòng sông, cánh chim, hay đám mây cũng không tô điểm cho phong cảnh thu bằng những gam màu đặc trưng của nó. Truyền thống thơ thường kiến trúc ngôi nhà thu bằng những chất liệu quen thuộc như cúc, liễu, ngô đồng hay màu trời, sắc nước…Hữu Thỉnh hầu như khơi gợi cảm giác về mùa trong trạng thái mơ hồ của tạo vật. Thành công nổi bật nhất của bài cũng là ở một hệ thống những động từ miêu tả rất giàu cảm giác: “phả”, “se”, “chùng chình” “dềnh dàng” “bắt đầu vội vã” “vắt nửa mình”… “Chùng chình” trước hết gợi tả chính xác những làn sương như ngưng lại và nhẹ nhàng tỏa lan ngõ xóm. Dòng nước thu vốn trong trẻo và sâu hút làm người ta khó mà thấy rõ được sự chuyển động nó nên cảm giác sông lững lờ trôi cũng rất hiện thực. Đám mây như tấm khoăn voan của người thiếu nữ, duyên dáng nối hai mùa là một liên tưởng thực sự độc đáo. Song trên hết, hệ thống động từ toàn bài còn đặc sắc ở chỗ, nó không chỉ miêu tả chính xác trạng thái của tạo vật mà còn thổi vào tạo vật những cảm giác rất người. Tinh tế và sống động sao một buổi sáng chớm thu, sương như người khách ngập ngừng nơi đầu ngõ, gió se lại bởi chút lạnh xa xăm, những cánh chim vội vã tìm về phương ấm áp… Song thời điểm chớm thu không phải chỉ hiển hiện ở những dấu hiệu mơ hồ trong trạng thái biến chuyển của cảnh vật, mà ở cả chút ngỡ ngàng bâng khuâng của lòng người: “Bỗng nhận ra hương ổi”; “Hình như thu đã về”… Tiếp tục thể hiện những dấu hiệu mùa thu rõ rệt hơn nhưng ý nghĩa của khổ cuối không chỉ dừng lại ở đó: Vẫn còn bao nhiêu nắng Đã vơi dần cơn mưa Sấm cũng bớt bất ngờ Trên hàng cây đứng tuổi Con người cảm thấy biết bao biểu hiện khác biệt của thời tiết khi mùa thu tới: mưa và sấm thưa dần, không còn dữ dội nữa. Sang thu, tất cả các dấu hiệu của mùa hạ vẫn còn nhưng đã giảm dần mức độ, cường độ… Hàng cây như đã quá quen với nắng lửa mưa giông, được gọi một cách hình ảnh là “hàng cây đứng tuổi”. Chính các từ “bất ngờ”, “đứng tuổi” khiến ý nghĩa của câu thơ không dừng lại ở nét nghĩa tả thực mà có chiều sâu hơn. Nắng, mưa, sấm chớp… hay là những vang động của cuộc đời? Trong tương quan ấy, hàng cây tượng trưng cho con người từng trải mà bao dâu bể biến đổi không còn đáng ngạc nhiên. Cảnh như sâu lắng hơn bởi liên tưởng suy tư về mùa thu đời người. Không hiểu sao, khi đọc bài thơ này, tôi chợt thấy nhớ rất nhiều những năm tháng đã qua của mình. Miền kí ức tuổi thơ được đánh thức bởi mùi hương ổi, bởi ngõ xóm thân quen ấy. Và có lẽ cũng nhờ giọng điệu êm nhẹ dễ cuốn người đọc vào dòng cảm xúc, suy nghĩ tự nhiên của tác giả. Nét độc đáo nhất của bài là những hình ảnh chính xác và giàu sức gợi tạo nên một bức tranh thu giản dị mà sống động. Đây xứng đáng là một bài thơ thu hay trong thế giới thi ca. Nguồn Edufly Xem thêm: Suy nghĩ về tình bạn tình yêu tuổi học đường
Topic: Analysis of the poem Sang Thu by Huu Thinh Perhaps because the "eternally poetic" autumn girl always tends to "invite" her pen to follow the familiar paths of the autumn poetry tradition. But following the solid paths that have been established before leads to the death road of literature... Analysis of the poem Sang Thu by Huu Thinh Talking about the autumn theme, an author commented: “The theme "Autumn" always seems easy to write about. Autumn seems to always be lurking in our pens, especially poetic pens: every time we move our pen, autumn is ready to pour out onto the paper. It seems like this eternally poetic topic can be easily written. It was only when I started holding pen and paper that I realized how difficult this topic was." Why is there such a paradox in the writer's experience? Perhaps because the "eternally poetic" autumn girl always tends to "invite" her pen to follow the familiar paths of the autumn poetry tradition. But following the solid paths that have been established before leads to the death road of literature... Huu Thinh's Sang Thu appeared before it had many famous poems from East, West, and Ancient: Thu Hoi (Do Phu), A Bunch of Autumn Poems (Nguyen Khuyen), Here Comes Autumn (Xuan Dieu)... But it's still has its own beauty and uniqueness of a deep, sensitive poetic soul when autumn comes. Right from the title, the author has identified a descriptive time: the time of changing seasons. It's not true autumn, when the blue sky hovers over the upper floors, it's not late autumn, when the sun has dyed the almond leaves red, or when the cold of winter has slipped into the wind...Autumn means it's just the beginning. After all, the quarterfinals force the image system in the article to be contained within just that fragile "beginning". See more: Analysis of the poem Fishing Boats (With detailed outline) Especially from the perspective of describing creatures. There is no qualitative word to describe the autumn world. There is the scent of guava, a scent that is both characteristic of the season and of the village. But the poet does not describe how "fragrant" the guava scent is. There is wind, but the wind is cold, not cold. Se evokes a move, rather than a feeling. The mist covering the village alley is not described in degree (hazy) or color (translucent white)... The river, bird wings, or clouds do not adorn the autumn landscape with their characteristic colors. . The poetic tradition often constructs autumn houses with familiar materials such as chrysanthemums, willows, sycamores or the colors of the sky and water... Huu Thinh almost evokes the feeling of the season in the vague state of creation. The most outstanding success of the article is also in a system of descriptive verbs that are very rich in feeling: "fa", "se", "slowly", "easily", "started hastily", "half-exhausted" … “Looseness” first of all accurately describes the mists that seem to stop and gently spread across the alleys. The water flow is so clear and deep that it is difficult to see its movement clearly, so the feeling of the river flowing slowly is also very realistic. The cloud is like a young woman's veil, gracefully connecting the two seasons, a truly unique association. But above all, the entire verb system is unique in that it not only accurately describes the state of the creature but also infuses the creature with very human feelings. So delicate and lively on an early autumn morning, the dew is like a hesitant guest at the entrance of the alley, the wind is chilled by a bit of distant cold, the birds rush to find a warm place... But the beginning of autumn is not only shown in vague signs in the changing state of the landscape, but also in a bit of surprise and wistfulness in people's hearts: "Suddenly recognize the scent of guava"; "Thu seemed to have about"… Continuing to show more obvious signs of autumn, the meaning of the last stanza does not stop there: How much sunshine is still left? The rain has gradually subsided Thunder is also less surprising On older trees People feel many different manifestations of the weather when autumn comes: rain and thunder become less frequent, no longer intense. In autumn, all the signs of summer are still there but have gradually decreased in level and intensity... The rows of trees seem to be too familiar with the sun, fire, and rain, and are graphically called "elderly trees". The words "surprise" and "old age" make the meaning of the verse go beyond just being descriptive and have more depth. Sun, rain, thunder and lightning... or the noises of life? In that relationship, the row of trees symbolizes an experienced person whose many changes are no longer surprising. The scene seems more profound because of the association of reflections on the autumn of one's life. For some reason, when I read this poem, I suddenly remembered a lot of my past years. The region of childhood memories is awakened by the scent of guava, by that familiar alley. And perhaps it's also thanks to the gentle tone that easily draws readers into the author's natural flow of emotions and thoughts. The most unique feature of the article is the precise and evocative images that create a simple but vivid autumn picture. This deserves to be a good autumn poem in the world of poetry. Source Edufly See more: Thinking about school age friendship and love
Phân tích bài thơ sau của Hồ Chí Minh: Cảnh khuya “Tiếng suối trong như tiếng hát xa. Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa. Cảnh khuya như vẽ người chưa ngủ. Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà.” Gợi ý Hồ Chí Minh là một lãnh tụ cách mạng thiên tài của dân tộc nhưng đồng thời, Người cũng là một nhà thơ sánh vai cùng những thi nhân của Đông Tây kim cổ. Trong những năm tháng chiến đấu chống Pháp gian khố của dân tộc, bên cạnh những chú trương, chiến lược đánh đuổi giặc tài tinh, Người còn có những vần thơ khiến lòng người rung động. “Cảnh khuya” là một thi phẩm trong số ấy: Tiếng suối trong như tiếng hát xa Trăng lổng cổ thụ bóng lồng hoa Cảnh khuya như vẽ người chưa ngủ Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà. 1947 Bài thơ ra đời giữa lúc cuộc kháng chiến chống Pháp của dân tộc ta đang hồi gay go, quyết liệt: năm 1947. Trên chiến khu Việt Bắc, sau những giờ phút mỏi mệt, trong cảnh đêm của núi rừng, Người bồi hồi xúc động trước cảnh đêm khuya êm ái. Điều đầu tiên Bác cảm nhận được nơi thiên nhiên hoang sơ là tiếng suối róc rách tuôn theo dòng chảy: Tiếng suối trong như tiếng hát xa Lối so sánh của Bác thật kì lạ! Tiếng suối vốn được cảm nhận bằng thính giác nhưng nghe tiếng suối Người cảm nhận được độ “trong” của dòng chảy. Dòng suối ấy hẳn rất ngọt lành, trong mát, đó hẳn cũng là thứ quà riêng mà thiên nhiên núi rừng ban tặng riêng cho những người chiến sĩ trên đường hành quân xa xôi mệt mỏi. Chẳng những vậy, tiếng suối trong nhưng là “trong như tiếng hát xa”. “Tiếng hát xa”, là thứ âm thanh rất đặc biệt. Đó phải là tiếng hát rất cao để có sức lan toả mạnh mẽ, đế từ xa con người vẫn có thế cảm nhận được. Đó cũng là tiếng hát vang lên trong thời khắc yên lặng bởi nếu không, nó sẽ bị lẫn vào biết bao âm thanh phức tạp của sự sông, liệu từ xa, con người còn có thế cảm nhận được? Điều thú vị trong câu thơ của Bác Hồ là một âm thanh của tự nhiên được so sánh với tiếng hát của con người. Điều đó thể hiện cảm hứng nhân văn sâu sắc trong những vần thơ của Bác.Xem thêm: Tình huống truyện đặc sắc của truyện ngắn Vợ nhặt (Kim Lân). Cảnh đêm khuya hẳn trong trẻo, tĩnh lặng đên nhường nào Người mới có thể lắng nghe được tiếng suối long lanh ấy. Điều này không khó hiểu bởi không gian núi rừng thường được bao phủ bởi nhiều âm thanh phong phú: tiếng chim kêu, tiếng gió thổi, tiếng cây rừng xao xác tiếng muông thú gọi bầy… Trong bài thơ “Cảnh rừng Việt Bắc”, Bác đã từng viết: “Cảnh rừng Việt Bắc thật là hay Vượn hót chim kêu suốt cả ngày”. Vậy thì có lẽ, đây là chút yên ả hiếm hoi của thiên nhiên núi rừng vào thời khắc đêm khuya. Thiên nhiên yên tĩnh nhưng cũng là tâm hồn con người yên tinh, thanh thản hoà mình vào vẻ đẹp cùa tự nhiên. Thiên nhiên vào giây phút ây thật hữu tình biết mấy: Trăng lổng cố thụ bóng lồng hoa Hai từ "lồng" cùng nằm trong một câu thơ tạo những ấn tượng rất đặc biệt.:Lồng" là động từ chỉ việc các vật nằm vào trong một cách thật khớp đế tạo thành một chỉnh thể. Câu thơ hữu tình như một bức tranh duyên: ánh trăng mênh mông toả sáng bao trùm lên cây cố thụ, bóng cây cô thụ lại dịu dâng phủ mình lên những nhành hoa. Bác dùng từ "lồng" rất "đắt", nó trở thành "nhãn tự" cho câu thơ. Chi với một từ ấy, cảnh vật như đang giao hoà, nương dựa vào nhau một cách duyên dáng, đáng yêu. Đôi mắt người chiên sĩ cách mạng Hồ Chí Minh thật hữu tình, bác ái:Xem thêm: Sự biến đổi của đất trời sang thu (bài thơ Sang thu - Hữu Thỉnh) được tác giả cảm nhận bắt đầu từ đâu và gợi tả qua những hình ảnh, hiện tượng gì? Tâm trạng của nhà thơ được bộc lộ như thế nào Cánh khuya sống động, có hồn bao nhiêu càng chứng tỏ một điều: người thưởng cảnh đang xa rời giấc ngú yên bình thường nhật. Bởi vậy nên: Cảnh khuya như vẽ người chưa ngủ Cảnh khuya trong trẻo, tĩnh lặng càng làm nổi bật hình ảnh Bác Hồ thao thức không yên trong đêm vắng. Người hoà mình vào thiên nhiên đế cát tiếng thơ ngợi ca thiên nhiên núi rừng song đó chi là giây phút phiêu du vào mày gió còn tâm hồn người thực sự đang gứi gắm ớ một chán trời khác: Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà Câu thơ vang lên như một sự bừng tình cho người đọc. Ta cư ngỡ Bác đang thánh thơi thướng cảnh chơi trăng nhưng kì thực tâm lòng người vẫn đau đáu cho nỗi niềm non nước. Bác “chưa ngủ” vì một lẽ rất Hồ Chí Minh: “vì lo nỗi nước nhà”. Nói vậy bởi Bác đã có nhiều đêm không ngủ, nhiều đêm trớ trăn vì cuộc kháng chiến của dân tộc: “Một canh, hai canh, lại ba canh Tràn trọc băn khoăn giấc chẳng lành Canh bốn, canh năm vừa chợp mắt Sao vàng năm cánh mộng hồn quanh’’. Vậy là, dù cố tạm để lòng mình hướng đến cảnh vật xung quanh (một lời hỏi thăm người bạn muôn đời của thi nhân kim cổ) tâm hồn Bác vần luôn dành trọn tàm tình cho non sông, dân tộc. Và nói như nhà thơ Minh Huệ:Xem thêm: Nghị luận xã hội về tình thương“Đêm nay Bác ngồi đó Đêm nay Bác không ngủ Vỉ một lẽ thường tình Bác là Hồ Chi Minh” Bài thơ khép lại với bao dư âm mênh mang lan toả. Đã hơn một lần chúng ta xúc động trước tấm lòng cao cả, bác ái của Bác Hồ nhưng mỗi lần đọc lại “Cảnh khuya” ta lại bồi hồi với những tâm tình của một người mà cả cuộc đời chưa bao giờ nghỉ ngơi, chưa bao giờ an mình trong giấc ngù.s Vanmau.edu.vn
Analyze the following poem by Ho Chi Minh: Late night scene "The sound of a stream is as clear as singing in the distance. Moon cage, ancient tree, shadow of flower cage. The late night scene is like drawing a person who hasn't slept yet. Not sleep, worrying that country." Suggest Ho Chi Minh is a genius revolutionary leader of the nation, but at the same time, he is also a poet who stands shoulder to shoulder with poets of ancient East and West. During the years of fighting the nation against the French, in addition to his notes and strategies to expel the financial enemy, he also had poems that moved people's hearts. “Night Scene” is one of those poems: The sound of the stream is as clear as singing in the distance The ancient moonlight silhouettes the flower cage The late night scene is like drawing a person who hasn't slept yet Not sleep, worrying that country. 1947 The poem was born in the midst of our nation's fierce and fierce resistance war against the French: in 1947. In the Viet Bac war zone, after tiring hours, in the night scene of the mountains and forests, he was filled with emotion. moved by the soft late night scene. The first thing Uncle felt in pristine nature was the sound of a stream gurgling along the flow: The sound of the stream is as clear as singing in the distance Uncle Ho's comparison is so strange! The sound of a stream is inherently felt by hearing, but when listening to the sound of a stream, people can feel the "clarity" of the flow. That stream must be very sweet and cool, it must also be a special gift that the nature of the mountains and forests bestows on the tiring soldiers on long marches. Not only that, the sound of the stream is clear but "as clear as a distant song". “Distant singing” is a very special sound. It must be a very high-pitched song to have a strong spreading power, so that people can still feel it from afar. It is also a song that resonates in quiet moments because otherwise, it would be mixed in with the many complex sounds of life. Can people still feel it from afar? The interesting thing in Uncle Ho's poem is that a sound of nature is compared to human singing. That shows the profound humanistic inspiration in Uncle Ho's poems. See more: Unique story situations of the short story Picked Wife (Kim Lan). The late night scene must be so clear and quiet that people can hear the sound of that sparkling stream. This is not difficult to understand because the mountain and forest space is often covered with many rich sounds: the chirping of birds, the blowing of the wind, the rustling of forest trees, the calling of animals... In the poem "Viet Bac Forest Scene", Uncle once wrote: “The scenery of Viet Bac forest is really beautiful Gibbons sing and birds chirp all day long." So perhaps, this is a rare bit of tranquility in the nature of the mountains and forests late at night. Nature is quiet, but also the human soul is quiet and peaceful, immersing itself in the beauty of nature. How charming nature is at this moment: The long moon clings to the shadow of the flower cage The two words "cage" together in the same verse create very special impressions.: "Cage" is a verb that refers to the fact that objects fit together to form a whole. The poem is as charming as a painting. love story: the immense moonlight shines over the old tree, the shadow of the lonely tree gently covers the flower branches. Uncle used the word "cage" which is very "expensive", it becomes the "label" for the sentence With just that one word, the landscape seems to be in harmony, relying on each other in a charming and lovely way. The eyes of revolutionary soldier Ho Chi Minh are so charming and charitable: See more: Transformation of heaven and earth in autumn (poem Sang Thu - Huu Thinh) is perceived by the author from where and through what images and phenomena is the poet's mood revealed? , the more soulful it is, the more it proves one thing: people who enjoy the scenery are far from their normal, peaceful sleep. Therefore: The late night scene is like drawing a person who hasn't slept yet The clear, quiet late night scene further highlights the image of Uncle Ho restlessly awake in the deserted night. People immerse themselves in nature to sing poems praising the nature of mountains and forests, but that is just a moment of wandering into the wind, but their soul is actually immersed in another heaven: Not sleep, worrying that country The poem resonates like a burst of love for the reader. I thought Uncle Ho was enjoying the moonlight, but in reality, his heart still ached for the longing for the country. Uncle "didn't sleep" for a very Ho Chi Minh reason: "because he was worried about his country". Saying that because Uncle Ho had many sleepless nights, many troubled nights because of the nation's resistance war: “One watch, two watches, again three watches Full of anxiety and worry, bad sleep The fourth and fifth watch just took a nap The five-pointed yellow star dreams all around. So, even though he tried to temporarily focus his heart on the surrounding landscape (a greeting to the eternal friend of ancient poets), Uncle Ho's soul was always devoted to the mountains and rivers and the people. And as the poet Minh Hue said: See also: Social discussion on love "Tonight Uncle sat there Uncle won't sleep tonight It's just common sense Uncle is Ho Chi Minh" The poem ends with many pervasive echoes. More than once we have been touched by Uncle Ho's noble and charitable heart, but every time we re-read "Night Scene" we are reminded of the feelings of a person who has never rested in his whole life. never rest in peace.s Vanmau.edu.vn
Bài thơ Sóng của nhà thơ Xuân Quỳnh được viết theo thể thơ 5 chữ. Nội dung bài thơ nói về những khát vọng tình yêu của người con gái. Đó là những mong ước giản dị mà nếu như phân tích bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh chúng ta sẽ thấy rõ điều này. Để giúp các em có thể làm tốt đề văn phân tích bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh, Kho tàng văn mẫu sẽ hướng dẫn các em lập dàn ý chi tiết cũng như cung cấp bài mẫu cho các em tham khảo. I. Lập dàn ý phân tích bài thơ Sóng 1. Mở bài – Giới thiệu về nhà thơ Xuân Quỳnh và bài thơ Sóng. – Nhà thơ Xuân Quỳnh là một tác giả nữ có nhiều sáng tác hay ở nhiều thể loại khác nhau. Bà được biết đến như một nữ thi sĩ của tình yêu. – Bài thơ Sóng là một bài thơ tình nhẹ nhàng như sóng vỗ và bày tỏ được khát vọng lớn trong tình yêu. 2. Thân bài phân tích bài thơ Sóng a. Khổ thơ 1 + 2: Trạng thái tâm lí của người phụ nữ đang yêu – Sự đối lập trong con sóng với những trạng thái khác nhau: dữ dội >< dịu êm, ồn ào >< lặng lẽ. – Đó cũng là những trạng thái của một người con gái đang yêu. – Sóng mang trong mình khát vọng lớn lao, tìm ra tận bể lớn để đến với tình yêu rộng lớn hơn. – Nói đến sự bất diệt của biển là để nói đến khát vọng tình yêu bất diệt của người trẻ. b. Khổ thơ 3 + 4: Nhu cầu phân tích, lí giải tình yêu – Từ đối tượng cảm nhận, sóng chuyển thành đối tượng để suy tư. – Những câu hỏi trở thành cuộc đối thoại với vũ trụ và chủ đề không nằm ngoài tình yêu. – Nguồn gốc của tình yêu là một câu hỏi lớn không tìm ra được lời đáp. – Lời thú nhận hồn nhiên của Xuân Quỳnh bộc lộ nét nữ tính mềm mại của người phụ nữ. c. Khổ 5 + 6: Nỗi nhớ tình yêu – Yêu là nhớ. Đó không phải là nỗi nhớ bình thường mà là nhớ đến da diết, cồn cào. – Xuân Quỳnh gửi tâm hồn vào sóng, nhờ sóng nói hộ lòng mình. – Sự khác biệt trong độ dài của khổ thơ. – Sử dụng hình ảnh so sánh độc đáo. – Trong tình yêu không có giới hạn về thời gian. Dù là đêm, nỗi nhớ vẫn tồn tại. – Sự thủy chung của người con gái khi chỉ hướng về phương anh. d. Khổ thơ 7 + 8 + 9: Khát vọng tình yêu vĩnh hằng – Khát vọng sống mãnh liệt của sóng, niềm tin mạnh mẽ vào cái đích tốt đẹp của tình yêu. – Mượn quy luật của sóng biển để diễn tả quy luật của lòng người.Xem thêm: Lập danh sách nhóm bạn trong từng tổ – Sự lo âu càng làm tặng thêm niềm tin rằng tình yêu sẽ vượt qua mọi trở ngại để tới đích. – Mong ước được sống bất tử cùng với tình yêu. 3. Kết bài – Tổng quát lại nội dung bài thơ sóng và nêu cảm nhận của em về bài thơ này. Bài viết liên quan >> Phân tích bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu (Có dàn ý chi tiết) II. Bài làm phân tích bài thơ Sóng Bài thơ Sóng được nhà thơ Xuân Quỳnh viết năm 1967 và đến năm 1968 được in trong tập thơ Hoa dọc chiến hào. Nội dung của bài thơ xoay quanh vấn đề tình yêu của người con gái. Đó là khát vọng tình yêu trào dâng mãnh liệt, cuồn cuộn như sóng vỗ. Bài thơ có âm hượng nhịp nhàng như sóng đang xô bờ nhưng cũng đầy mạnh mẽ khi nói về tình yêu. Cứ như vậy, bài thơ dễ dàng đi sâu vào lòng người và in đậm trong trái tim mỗi người. Lấy nhan đề của bài thơ là Sóng, nhiều người có thể nhầm tưởng rằng đây là một bài thơ tả thiên nhiên sóng biển. Nhưng không, đọc nội dung bài thơ ta mới có thể cảm nhận được rằng Xuân Quỳnh đang mượn hình tượng sóng để nói về tâm trạng của người phụ nữ khi yêu. Những câu thơ mở đầu tưởng là mâu thuẫn nhưng nó lại nằm trong một thể thống nhất: Dữ dội và dịu êm Ồn ào và lặng lẽ Sông không hiểu nổi mình Sóng tìm ra tận bể Phân tích bài thơ Sóng Nếu ai từng đến biển sẽ thấy rõ, biển không phải lúc nào cũng lặng sóng. Khi thì những con sóng trở nên dữ dội, lúc thì con sóng lại thật dịu êm. Nó cũng giống như tâm trạng của người con gái trước tình yêu. Có khi thì họ muốn yêu một cách ồn ào, muốn cả thế giới biết đến tình yêu của mình. Nhưng cũng có khi họ chỉ muốn yêu một cách lặng lẽ, muốn giữ tình yêu cho riêng mình. Dù là khi ồn ào hay khi lặng lẽ thì người con gái vẫn luôn khát khao có được một tình yêu lớn, có được một người hiểu mình, hiểu khi nào mình muốn ồn ào, khi nào mình muốn lặng lẽ. Là khát khao được khẳng định mình trong tình yêu: Sông không hiểu nổi mình Sóng tìm ra tận bể Sóng biển là một hiện tượng tự nhiên mang tính bất diệt. Từ hàng ngàn năm về trước, sóng vẫn luôn rì rào xô bờ. Cho tới bây giờ con sóng cũng vẫn luôn như vậy. Nhà thơ Xuân Quỳnh đã mượn hình ảnh của sóng, lấy sự bất tử của sóng để khẳng định sự bất tử của con người trong tình yêu:Xem thêm: Nêu suy nghĩ của em về ý nghĩa của tình yêu thương Ôi con sóng ngày xưa Và ngày sau vẫn thế Nỗi khát vọng tình yêu Bồi hồi trong ngực trẻ Khổ thơ này đã cho người đọc thấy rõ hơn hình ảnh của người con gái trẻ tuổi mang trong lòng những nỗi niềm khát vọng tình yêu. Tiếp đó, nhân vật trữ tình được đà bộc lộ cảm xúc của mình. Đứng trước sóng biển, người con gái suy nghĩ về tình yêu, suy nghĩ về nguồn gốc của tình yêu: Trước muôn trùng sóng bể Em nghĩ về anh, em Em nghĩ về biển lớn Từ nơi nào sóng lên? Để lý giải cho nguồn gốc của sóng xem ra khá dễ dàng. Chúng ta đều biết rằng nhưng cơn gió thổi bên biển là nguyên nhân hình thành nên sóng. Nhà thơ Xuân Quỳnh cũng có câu trả lời cho mình là: Sóng bắt đầu từ gió Vậy nhưng sau câu trả lời ấy, nhà thơ vẫn chưa thấy thỏa mãn mà lại tiếp tục hỏi Gió bắt đầu từ đâu? Hai câu thơ tiếp sau là lời thú tội thật hồn nhiên, đáng yêu: Em cũng không biết nữa Khi nào ta yêu nhau Nếu để đi tìm ngọn nguồn của tự nhiên thì chắc chắn sẽ có câu trả lời thôi. Nhưng chuyện tình yêu thì khác. Con người ta yêu nhau vì một lý do nào đó không thể biết. Con người ta đến với nhau như một lẽ tự nhiên của cuộc đời và khi đã yêu rồi, không ai có thể trả lời được vì sao lại yêu đối phương đến thế và tình yêu thật sự bắt đầu từ khi nào. Như người ta nói đấy, nếu như trả lời được thì tình yêu đã không được gọi là tình yêu. Và cứ thế, người ta yêu và nhớ đến nhau. Hình ảnh sóng song hành cùng với nhân vật em. Nói về sóng cũng như nói về em. Nhà thơ Xuân Quỳnh thổi hồn vào những con sóng khiến cho sóng cũng có nỗi nhớ: Con sóng dưới lòng sâu Con sóng trên mặt nước Ôi con sóng nhớ bờ Ngày đêm không ngủ được Dù là trên mặt nước hay là ở dưới lòng sâu, con sóng vẫn vỗ rì rào, vẫn tìm đến với bờ. Bởi vì sóng nhớ bờ nên ngày đêm không ngủ được. Nhìn sóng, nhân vật trữ tình em lại liên tưởng đến bản thân mình. Em cũng có một nỗi nhớ, đó là nỗi nhớ dành cho anh. Khổ thơ kéo dài tới 6 câu càng thể hiện được sự mênh mông của nỗi nhớ: Lòng em nghĩ đến anh Cả trong mơ còn thức Có thể thấy nỗi nhớ của người con gái thật mãnh liệt. Thời gian có ngày đêm rõ ràng nhưng nỗi nhớ thì không. Hình ảnh của anh đi cả vào trong giấc mơ của em mỗi đêm. Là mơ mà cũng như là thực. Đứng giữa sự mênh mang của vũ trụ, nhân vật em bộc lộ khát khao của mình. Thế giới ngoài kia có 4 phương, 8 hướng nhưng em dẫu có xuôi ngược đến chân trời nào cũng chỉ hướng về một phương duy nhất đó là phương anh:Xem thêm: Bình luận về chất lãng mạn trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng Dẫu xuôi về phương bắc Dẫu ngược về phương nam Nơi nào em cũng nghĩ Hướng về anh một phương Trên thực tế không có phương anh nhưng nhà thơ Xuân Quỳnh dùng cách nói này để ám chỉ rằng em sẽ luôn hướng về anh. Nơi nào có anh, em sẽ dõi mắt về phía ấy, sẽ quan tâm và lo lắng cho anh. Đó là vì tình yêu. Khi tình yêu trong lòng đủ lớn, nhà thơ trào dâng một niềm tin mạnh mẽ vào kết thúc tốt đẹp của tình yêu: Ở ngoài kia đại dương Trăm ngàn con sóng đó Con nào chẳng tới bờ Dù muôn vời cách trở Phải, dù thế nào đi chăng nữa thì rồi đến một ngày con sóng cũng sẽ vỗ vào bờ. Giống như tình yêu của em và anh đến một ngày cũng sẽ đến được với nhau sau khi đã trải qua nhiều cách trở. Mặc dù có niềm tin mãnh liệt như vậy nhưng trái tim nhạy cảm của nhà thơ Xuân Quỳnh đã khiến bà nhận ra một thực tại đó là: Cuộc đời tuy dài thế Năm tháng vẫn đi qua Như biển kia dẫu rộng Mây vẫn bay về xa Chính vì ý thức được thực tại nên nhà thơ mới có một mong ước tưởng là giản đơn mà rất khó để thực hiện: Làm sao được tan ra Thành trăm con sóng nhỏ Giữa biển lớn tình yêu Để ngàn năm còn vỗ Đó là ước vọng được sống mãi trong tình yêu, muốn tình yêu trở nên bất tử. Có thể thấy, khát vọng yêu trong lòng người con gái vô cùng mạnh mẽ. Đó là khát vọng muốn được yêu hết mình, được dâng hiến cuộc đời mình cho tình yêu. Có thể thấy, tình yêu trong thơ Xuân Quỳnh không chỉ đơn giản là tình yêu mà nó còn là cái đẹp, cái cao quý. Tình yêu trở thành động lực để con người hoàn thiện mình hơn nữa. Bài thơ Sóng vì vậy đã bộc lộ được cảm xúc của nhà thơ, bộ lộ được các cung bậc cảm xúc của con người trong tình yêu. Trên đây là phần lập dàn ý chi tiết cũng như bài mẫu cho đề văn phân tích bài thơ Sóng. Qua đây, Kho tàng văn mẫu hy vọng đã cung cấp được cho các em một tài liệu tham khảo hữu ích giúp các em học tập môn Ngữ văn được tốt hơn. Thu Thủy
Bài thơ Sóng của nhà thơ Xuân Quỳnh được viết theo thể thơ 5 chữ. Nội dung bài thơ nói về những khát vọng tình yêu của người con gái. Đó là những mong ước giản dị mà nếu như phân tích bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh chúng ta sẽ thấy rõ điều này. Để giúp các em có thể làm tốt đề văn phân tích bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh, Kho tàng văn mẫu sẽ hướng dẫn các em lập dàn ý chi tiết cũng như cung cấp bài mẫu cho các em tham khảo. I. Lập dàn ý phân tích bài thơ Sóng 1. Mở bài – Giới thiệu về nhà thơ Xuân Quỳnh và bài thơ Sóng. – Nhà thơ Xuân Quỳnh là một tác giả nữ có nhiều sáng tác hay ở nhiều thể loại khác nhau. Bà được biết đến như một nữ thi sĩ của tình yêu. – Bài thơ Sóng là một bài thơ tình nhẹ nhàng như sóng vỗ và bày tỏ được khát vọng lớn trong tình yêu. 2. Thân bài phân tích bài thơ Sóng a. Khổ thơ 1 + 2: Trạng thái tâm lí của người phụ nữ đang yêu – Sự đối lập trong con sóng với những trạng thái khác nhau: dữ dội >< dịu êm, ồn ào >< lặng lẽ. – Đó cũng là những trạng thái của một người con gái đang yêu. – Sóng mang trong mình khát vọng lớn lao, tìm ra tận bể lớn để đến với tình yêu rộng lớn hơn. – Nói đến sự bất diệt của biển là để nói đến khát vọng tình yêu bất diệt của người trẻ. b. Khổ thơ 3 + 4: Nhu cầu phân tích, lí giải tình yêu – Từ đối tượng cảm nhận, sóng chuyển thành đối tượng để suy tư. – Những câu hỏi trở thành cuộc đối thoại với vũ trụ và chủ đề không nằm ngoài tình yêu. – Nguồn gốc của tình yêu là một câu hỏi lớn không tìm ra được lời đáp. – Lời thú nhận hồn nhiên của Xuân Quỳnh bộc lộ nét nữ tính mềm mại của người phụ nữ. c. Khổ 5 + 6: Nỗi nhớ tình yêu – Yêu là nhớ. Đó không phải là nỗi nhớ bình thường mà là nhớ đến da diết, cồn cào. – Xuân Quỳnh gửi tâm hồn vào sóng, nhờ sóng nói hộ lòng mình. – Sự khác biệt trong độ dài của khổ thơ. – Sử dụng hình ảnh so sánh độc đáo. – Trong tình yêu không có giới hạn về thời gian. Dù là đêm, nỗi nhớ vẫn tồn tại. – Sự thủy chung của người con gái khi chỉ hướng về phương anh. d. Khổ thơ 7 + 8 + 9: Khát vọng tình yêu vĩnh hằng – Khát vọng sống mãnh liệt của sóng, niềm tin mạnh mẽ vào cái đích tốt đẹp của tình yêu. – Mượn quy luật của sóng biển để diễn tả quy luật của lòng người.Xem thêm: Lập danh sách nhóm bạn trong từng tổ – Sự lo âu càng làm tặng thêm niềm tin rằng tình yêu sẽ vượt qua mọi trở ngại để tới đích. – Mong ước được sống bất tử cùng với tình yêu. 3. Kết bài – Tổng quát lại nội dung bài thơ sóng và nêu cảm nhận của em về bài thơ này. Bài viết liên quan >> Phân tích bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu (Có dàn ý chi tiết) II. Bài làm phân tích bài thơ Sóng Bài thơ Sóng được nhà thơ Xuân Quỳnh viết năm 1967 và đến năm 1968 được in trong tập thơ Hoa dọc chiến hào. Nội dung của bài thơ xoay quanh vấn đề tình yêu của người con gái. Đó là khát vọng tình yêu trào dâng mãnh liệt, cuồn cuộn như sóng vỗ. Bài thơ có âm hượng nhịp nhàng như sóng đang xô bờ nhưng cũng đầy mạnh mẽ khi nói về tình yêu. Cứ như vậy, bài thơ dễ dàng đi sâu vào lòng người và in đậm trong trái tim mỗi người. Lấy nhan đề của bài thơ là Sóng, nhiều người có thể nhầm tưởng rằng đây là một bài thơ tả thiên nhiên sóng biển. Nhưng không, đọc nội dung bài thơ ta mới có thể cảm nhận được rằng Xuân Quỳnh đang mượn hình tượng sóng để nói về tâm trạng của người phụ nữ khi yêu. Những câu thơ mở đầu tưởng là mâu thuẫn nhưng nó lại nằm trong một thể thống nhất: Dữ dội và dịu êm Ồn ào và lặng lẽ Sông không hiểu nổi mình Sóng tìm ra tận bể Phân tích bài thơ Sóng Nếu ai từng đến biển sẽ thấy rõ, biển không phải lúc nào cũng lặng sóng. Khi thì những con sóng trở nên dữ dội, lúc thì con sóng lại thật dịu êm. Nó cũng giống như tâm trạng của người con gái trước tình yêu. Có khi thì họ muốn yêu một cách ồn ào, muốn cả thế giới biết đến tình yêu của mình. Nhưng cũng có khi họ chỉ muốn yêu một cách lặng lẽ, muốn giữ tình yêu cho riêng mình. Dù là khi ồn ào hay khi lặng lẽ thì người con gái vẫn luôn khát khao có được một tình yêu lớn, có được một người hiểu mình, hiểu khi nào mình muốn ồn ào, khi nào mình muốn lặng lẽ. Là khát khao được khẳng định mình trong tình yêu: Sông không hiểu nổi mình Sóng tìm ra tận bể Sóng biển là một hiện tượng tự nhiên mang tính bất diệt. Từ hàng ngàn năm về trước, sóng vẫn luôn rì rào xô bờ. Cho tới bây giờ con sóng cũng vẫn luôn như vậy. Nhà thơ Xuân Quỳnh đã mượn hình ảnh của sóng, lấy sự bất tử của sóng để khẳng định sự bất tử của con người trong tình yêu:Xem thêm: Nêu suy nghĩ của em về ý nghĩa của tình yêu thương Ôi con sóng ngày xưa Và ngày sau vẫn thế Nỗi khát vọng tình yêu Bồi hồi trong ngực trẻ Khổ thơ này đã cho người đọc thấy rõ hơn hình ảnh của người con gái trẻ tuổi mang trong lòng những nỗi niềm khát vọng tình yêu. Tiếp đó, nhân vật trữ tình được đà bộc lộ cảm xúc của mình. Đứng trước sóng biển, người con gái suy nghĩ về tình yêu, suy nghĩ về nguồn gốc của tình yêu: Trước muôn trùng sóng bể Em nghĩ về anh, em Em nghĩ về biển lớn Từ nơi nào sóng lên? Để lý giải cho nguồn gốc của sóng xem ra khá dễ dàng. Chúng ta đều biết rằng nhưng cơn gió thổi bên biển là nguyên nhân hình thành nên sóng. Nhà thơ Xuân Quỳnh cũng có câu trả lời cho mình là: Sóng bắt đầu từ gió Vậy nhưng sau câu trả lời ấy, nhà thơ vẫn chưa thấy thỏa mãn mà lại tiếp tục hỏi Gió bắt đầu từ đâu? Hai câu thơ tiếp sau là lời thú tội thật hồn nhiên, đáng yêu: Em cũng không biết nữa Khi nào ta yêu nhau Nếu để đi tìm ngọn nguồn của tự nhiên thì chắc chắn sẽ có câu trả lời thôi. Nhưng chuyện tình yêu thì khác. Con người ta yêu nhau vì một lý do nào đó không thể biết. Con người ta đến với nhau như một lẽ tự nhiên của cuộc đời và khi đã yêu rồi, không ai có thể trả lời được vì sao lại yêu đối phương đến thế và tình yêu thật sự bắt đầu từ khi nào. Như người ta nói đấy, nếu như trả lời được thì tình yêu đã không được gọi là tình yêu. Và cứ thế, người ta yêu và nhớ đến nhau. Hình ảnh sóng song hành cùng với nhân vật em. Nói về sóng cũng như nói về em. Nhà thơ Xuân Quỳnh thổi hồn vào những con sóng khiến cho sóng cũng có nỗi nhớ: Con sóng dưới lòng sâu Con sóng trên mặt nước Ôi con sóng nhớ bờ Ngày đêm không ngủ được Dù là trên mặt nước hay là ở dưới lòng sâu, con sóng vẫn vỗ rì rào, vẫn tìm đến với bờ. Bởi vì sóng nhớ bờ nên ngày đêm không ngủ được. Nhìn sóng, nhân vật trữ tình em lại liên tưởng đến bản thân mình. Em cũng có một nỗi nhớ, đó là nỗi nhớ dành cho anh. Khổ thơ kéo dài tới 6 câu càng thể hiện được sự mênh mông của nỗi nhớ: Lòng em nghĩ đến anh Cả trong mơ còn thức Có thể thấy nỗi nhớ của người con gái thật mãnh liệt. Thời gian có ngày đêm rõ ràng nhưng nỗi nhớ thì không. Hình ảnh của anh đi cả vào trong giấc mơ của em mỗi đêm. Là mơ mà cũng như là thực. Đứng giữa sự mênh mang của vũ trụ, nhân vật em bộc lộ khát khao của mình. Thế giới ngoài kia có 4 phương, 8 hướng nhưng em dẫu có xuôi ngược đến chân trời nào cũng chỉ hướng về một phương duy nhất đó là phương anh:Xem thêm: Bình luận về chất lãng mạn trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng Dẫu xuôi về phương bắc Dẫu ngược về phương nam Nơi nào em cũng nghĩ Hướng về anh một phương Trên thực tế không có phương anh nhưng nhà thơ Xuân Quỳnh dùng cách nói này để ám chỉ rằng em sẽ luôn hướng về anh. Nơi nào có anh, em sẽ dõi mắt về phía ấy, sẽ quan tâm và lo lắng cho anh. Đó là vì tình yêu. Khi tình yêu trong lòng đủ lớn, nhà thơ trào dâng một niềm tin mạnh mẽ vào kết thúc tốt đẹp của tình yêu: Ở ngoài kia đại dương Trăm ngàn con sóng đó Con nào chẳng tới bờ Dù muôn vời cách trở Phải, dù thế nào đi chăng nữa thì rồi đến một ngày con sóng cũng sẽ vỗ vào bờ. Giống như tình yêu của em và anh đến một ngày cũng sẽ đến được với nhau sau khi đã trải qua nhiều cách trở. Mặc dù có niềm tin mãnh liệt như vậy nhưng trái tim nhạy cảm của nhà thơ Xuân Quỳnh đã khiến bà nhận ra một thực tại đó là: Cuộc đời tuy dài thế Năm tháng vẫn đi qua Như biển kia dẫu rộng Mây vẫn bay về xa Chính vì ý thức được thực tại nên nhà thơ mới có một mong ước tưởng là giản đơn mà rất khó để thực hiện: Làm sao được tan ra Thành trăm con sóng nhỏ Giữa biển lớn tình yêu Để ngàn năm còn vỗ Đó là ước vọng được sống mãi trong tình yêu, muốn tình yêu trở nên bất tử. Có thể thấy, khát vọng yêu trong lòng người con gái vô cùng mạnh mẽ. Đó là khát vọng muốn được yêu hết mình, được dâng hiến cuộc đời mình cho tình yêu. Có thể thấy, tình yêu trong thơ Xuân Quỳnh không chỉ đơn giản là tình yêu mà nó còn là cái đẹp, cái cao quý. Tình yêu trở thành động lực để con người hoàn thiện mình hơn nữa. Bài thơ Sóng vì vậy đã bộc lộ được cảm xúc của nhà thơ, bộ lộ được các cung bậc cảm xúc của con người trong tình yêu. Trên đây là phần lập dàn ý chi tiết cũng như bài mẫu cho đề văn phân tích bài thơ Sóng. Qua đây, Kho tàng văn mẫu hy vọng đã cung cấp được cho các em một tài liệu tham khảo hữu ích giúp các em học tập môn Ngữ văn được tốt hơn. Thu Thủy
Đề bài: Phân tích bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh Bài làm Trong những sáng tác viết về tình yêu thì bài thơ Sóng của nhà thơ Xuân Quỳnh để lại nhiều ấn tượng ngay từ khi mới xuất hiện trên văn đàn. Bài thơ như một lời bộc bạch chân thành của người con gái trong tình yêu với nhiều cung bậc cảm xúc khác nhau. Nhan đề Sóng đã cho chúng ta thấy được hình tượng trung tâm của bài thơ chính là những con sóng. Mở đầu bài thơ nhà thơ đã cho thấy trạng thái đặc biệt của những cũng bậc tình yêu qua hình tượng con sóng: “Dữ dội và dịu êm Ồn ào và lặng lẽ Sông không hiểu nổi mình Sóng tìm ra tận bể” Bài thơ năm chữ ngắn ngủi ấy vậy mà ngay trong hai câu thơ đầu nhà thơ đã sử dụng hai cặp trạng thái đối lập đó chính là “dữ dội” – “dịu êm” và “ồn ào” – “lặng lẽ”. Con sóng tự nhiên mang nhiều trạng thái khác nhau, có khi dữ dội, có lúc lại yên ả, lặng lẽ. Xuân Quỳnh đã mượn hình ảnh con sóng ấy để nói về những cung bậc cảm xúc của người con gái trong tình yêu. Khi yêu, người con gái có khi dịu dàng, có khi hờn giận vô cớ cũng có lúc lại yêu nồng nhiệt, vui vẻ. Con sóng giống như tâm hồn của người thiếu nữ yêu chân thành, đam mê và khát khao được yêu hết mình. Tuy nhiên tình yêu lại có sự ngăn cách có giới hạn đó là “sông” và “bể”. Xuân Quỳnh không giống những người con gái yếu đuối, chỉ biết mòn mỏi đợi chờ mà nhà thơ đã mạnh dạn đi tìm kiếm tình yêu đích thực của mình, mạnh dạn đi tìm câu câu trả lời cho lòng mình. Ở khổ thơ tiếp theo, tình yêu được thi sĩ bộc bạch rất chân thực và sống động: “Ôi con sóng ngày xưa Và ngày sau vẫn thế Nỗi khát vọng tình yêu Bồi hồi trong ngực trẻ” Thời gian kéo dài mãi, có quá khứ, hiện tại và tương lai nhưng dù có bao lâu chăng nữa thì tình yêu ấy vẫn luôn nguyên vẹn, không bao giờ thay đổi. Đặc biệt là những cảm xúc, những tình cảm mới mẻ lúc ban đầu đương còn tha thiết, bồi hồi. Nhắc đến tình yêu, chính là nỗi khát vọng của tuổi trẻ. Nhà thơ mượn hình ảnh con sóng để lý giải về tình yêu, nhưng càng tìm hiểu thì càng có nhiều bất ngờ và càng không thể nào lý giải nổi:Xem thêm: Nếu em là Minh Long, em viết một đoạn văn ngắn nói về mình như thế nào? Phân tích bài thơ Sóng “Trước muôn trùng sóng bể Em vẫn nghĩ về anh Em nghĩ về biển lớn Từ nơi nào sóng lên” Khi yêu thì người con gái luôn có nhu cầu tìm hiểu, lý giải về tình yêu. Nó là một diễn biến tâm lý khác thường khi muốn biết xuất phát điểm bắt đầu một tình yêu. Nhưng tình yêu vốn giống như biển, như sóng mặc dù có khi có quy luật nhưng cũng chứa vô vàn những bí ẩn mà khó có thể lý giải được. Chính điều ấy khiến cho “em” thao thức, băn khoăn: “Sóng bắt đầu từ gió Gió bắt đầu từ đâu? Em cũng không biết nữa Bao giờ ta yêu nhau” Nếu con sóng tự mình tìm ra tận bể để có thể hiểu được mình thì “em” cũng tìm đến anh, đến tình yêu để hiểu sâu hơn về con người của em về tình yêu nam nữ. Tuy nhiên, giữa đại dương mênh mông, rộng lớn ấy đâu biết được nơi nào sóng bắt đầu nổi lên. Mặc dù biết được quy luật rằng có gió thì mới có sóng nhưng bầu trời còn rộng lớn hơn cả biển thì em sao có thể biết được gió bắt đầu từ đâu. Chính vì chẳng thể hiểu nổi nên người con gái mới tìm đến tình yêu để hiểu. Khổ thơ còn thể hiện sự hồn nhiên của người con gái trong tình yêu, đó là sự phân vân, không nắm chắc “Em cũng không biết nữa”. Nhắc đến tình yêu thì không thể nào bỏ qua được nỗi nhớ. Nỗi nhớ nhung là thứ gia vị làm tăng thêm sự hấp dẫn, đáng chờ mong của tình yêu. Bên cạnh đó điều thiêng liêng nhất, tuyệt vời nhất trong tình yêu chính là sự đồng cảm, sẻ chia, sự hài hòa, thấu hiểu giữa hai người:Xem thêm: Phân tích đoạn trích Chí khí anh hùng (Trích Truyện Kiều của Nguyễn Du). “Con sóng dưới lòng sâu Con sóng trên mặt nước Ôi con sóng nhớ bờ Ngày đêm không ngủ được” Khổ thơ tiếp tục dùng hình tượng con sóng để khắc họa nỗi nhớ. Có nỗi nhớ âm thầm, lặng lẽ, được giữ ở trong lòng. Nhưng cũng có nỗi nhớ không sao có thể kìm nén được mà bộc lộ một cách dữ dội, biểu hiện ra bên ngoài. Nỗi nhớ trong tình yêu giống như con sóng, có lúc ẩn dưới mặt nước, có khi lại nổi lên trên một cách dữ dội. Không chỉ dùng hình tượng con sóng mà Xuân Quỳnh đã trực tiếp bộc bạch nỗi nhớ của mình: “Lòng em nhớ đến anh Cả trong mơ còn thức” Thông thường thứ mà nhớ tới anh là chuyện bình thường nhưng nỗi nhớ ấy lại ám ảnh, lại ảnh hưởng tới cả trong cơn mơ. Mơ là trạng thái vô thức của con người mà không sao có thể điểu khiển được, ấy vậy mà trong mơ vẫn còn thức, vẫn còn nhớ tới anh. Qua đó có thể thấy đó là một nỗi nhớ da diết, nỗi khát khao tình yêu cháy bỏng. Con sóng thì khát khao, muốn được tới bờ còn em thì muốn có anh. Đó chính là tình yêu chân thành, tha thiết của người con gái, hay của chính nhà thơ Xuân Quỳnh. Không chỉ nhớ nhung khi tạm thời cách xa nhau mà nhà thơ còn khẳng định nỗi nhớ về anh sẽ vượt qua cả khoảng cách về không gian: “Dẫu xuôi về phương bắc Dẫu ngược về phương nam Nơi nào em cũng nhớ Hướng về anh – một phương” Khoảng cách về thời gian về địa lý khiến cho nỗi nhớ được dâng trào. Nỗi nhớ không chỉ còn là nhớ ngày đêm mà còn là cả không gian khi xa cách. Thường người ta nói ngược về phương bắc, xuôi về phương nam nhưng Xuân Quỳnh lại cố ý nói ngược đi qua đó khiến ta thấy được nỗi nhớ trong tình yêu chẳng theo quy luật nào của tự nhiên, nó có thể tự bộc phát, có thể đi ngược lại với quy luật tự nhiên thông thường. Trong không gian địa lý có bốn phương tám hướng, nhưng trong tình yêu, đối với “em” thì chỉ có một hướng duy nhất đó chính là hướng vè “phương anh”. Những người đang yêu nhau thì họ luôn nhớ về nhau, hướng về nhau bởi họ phải cùng nhau vượt qua mọi thử thách của cuộc đời:Xem thêm: Nghị luận xã hội về hiện tượng nữ sinh ăn mặc sexy “Ở ngoài kia đại dương Trăm ngàn con sóng đó Con nào chẳng tới bờ Dù muôn vời cách trở” Lời thơ khẳng định sự thủy chung, son sắt một lòng của người con gái trong tình yêu. Đứng giữa trăm ngàn con sóng, giữa muôn vàn cách trở nhưng em vẫn chỉ nghĩ về anh. Khi đã yêu thương nhau thật lòng, cùng hướng về nhau và có nghị lực thì dù cho thế gian này có muôn vàn cách trở thì cả hai vẫn sẽ vượt qua được, vẫn sẽ đến được với nhau. Tất cả mọi chuyện, mọi khó khăn rồi sẽ qua đi giống như những năm tháng đang dần trôi qua. Tuy vậy, nhà thơ cũng nhạy cảm nhận thấy rằng tình yêu của con người không phải mãi mãi bởi cái hữu hạn của đời người. Chính vì thế Xuân Quỳnh luôn trăn trở: “Làm sao được tan ra Thành trăm con sóng nhỏ Giữa biển lớn tình yêu Để ngàn năm còn vỗ” Khát vọng tình yêu ngọn lửa như bùng cháy, con người trong tình yêu như muốn được “tan ra” được hòa quyện vào với đại dương mênh mông, để có thể trường tồn mãi mãi. Bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh là một bài thơ tình vừa duyên dáng lại vừa mãnh liệt, sôi nổi, vừa trong sáng lại vừa ý vị, sâu xa. Bài thơ chính là bài tiêu biểu cho phong cách thơ Xuân Quỳnh, tiêu biểu cho phong cách thơ của thế hệ những nhà thơ trưởng thành trong thời kì kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Loan Trương
Đề bài: Phân tích bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh Bài làm Trong những sáng tác viết về tình yêu thì bài thơ Sóng của nhà thơ Xuân Quỳnh để lại nhiều ấn tượng ngay từ khi mới xuất hiện trên văn đàn. Bài thơ như một lời bộc bạch chân thành của người con gái trong tình yêu với nhiều cung bậc cảm xúc khác nhau. Nhan đề Sóng đã cho chúng ta thấy được hình tượng trung tâm của bài thơ chính là những con sóng. Mở đầu bài thơ nhà thơ đã cho thấy trạng thái đặc biệt của những cũng bậc tình yêu qua hình tượng con sóng: “Dữ dội và dịu êm Ồn ào và lặng lẽ Sông không hiểu nổi mình Sóng tìm ra tận bể” Bài thơ năm chữ ngắn ngủi ấy vậy mà ngay trong hai câu thơ đầu nhà thơ đã sử dụng hai cặp trạng thái đối lập đó chính là “dữ dội” – “dịu êm” và “ồn ào” – “lặng lẽ”. Con sóng tự nhiên mang nhiều trạng thái khác nhau, có khi dữ dội, có lúc lại yên ả, lặng lẽ. Xuân Quỳnh đã mượn hình ảnh con sóng ấy để nói về những cung bậc cảm xúc của người con gái trong tình yêu. Khi yêu, người con gái có khi dịu dàng, có khi hờn giận vô cớ cũng có lúc lại yêu nồng nhiệt, vui vẻ. Con sóng giống như tâm hồn của người thiếu nữ yêu chân thành, đam mê và khát khao được yêu hết mình. Tuy nhiên tình yêu lại có sự ngăn cách có giới hạn đó là “sông” và “bể”. Xuân Quỳnh không giống những người con gái yếu đuối, chỉ biết mòn mỏi đợi chờ mà nhà thơ đã mạnh dạn đi tìm kiếm tình yêu đích thực của mình, mạnh dạn đi tìm câu câu trả lời cho lòng mình. Ở khổ thơ tiếp theo, tình yêu được thi sĩ bộc bạch rất chân thực và sống động: “Ôi con sóng ngày xưa Và ngày sau vẫn thế Nỗi khát vọng tình yêu Bồi hồi trong ngực trẻ” Thời gian kéo dài mãi, có quá khứ, hiện tại và tương lai nhưng dù có bao lâu chăng nữa thì tình yêu ấy vẫn luôn nguyên vẹn, không bao giờ thay đổi. Đặc biệt là những cảm xúc, những tình cảm mới mẻ lúc ban đầu đương còn tha thiết, bồi hồi. Nhắc đến tình yêu, chính là nỗi khát vọng của tuổi trẻ. Nhà thơ mượn hình ảnh con sóng để lý giải về tình yêu, nhưng càng tìm hiểu thì càng có nhiều bất ngờ và càng không thể nào lý giải nổi:Xem thêm: Nếu em là Minh Long, em viết một đoạn văn ngắn nói về mình như thế nào? Phân tích bài thơ Sóng “Trước muôn trùng sóng bể Em vẫn nghĩ về anh Em nghĩ về biển lớn Từ nơi nào sóng lên” Khi yêu thì người con gái luôn có nhu cầu tìm hiểu, lý giải về tình yêu. Nó là một diễn biến tâm lý khác thường khi muốn biết xuất phát điểm bắt đầu một tình yêu. Nhưng tình yêu vốn giống như biển, như sóng mặc dù có khi có quy luật nhưng cũng chứa vô vàn những bí ẩn mà khó có thể lý giải được. Chính điều ấy khiến cho “em” thao thức, băn khoăn: “Sóng bắt đầu từ gió Gió bắt đầu từ đâu? Em cũng không biết nữa Bao giờ ta yêu nhau” Nếu con sóng tự mình tìm ra tận bể để có thể hiểu được mình thì “em” cũng tìm đến anh, đến tình yêu để hiểu sâu hơn về con người của em về tình yêu nam nữ. Tuy nhiên, giữa đại dương mênh mông, rộng lớn ấy đâu biết được nơi nào sóng bắt đầu nổi lên. Mặc dù biết được quy luật rằng có gió thì mới có sóng nhưng bầu trời còn rộng lớn hơn cả biển thì em sao có thể biết được gió bắt đầu từ đâu. Chính vì chẳng thể hiểu nổi nên người con gái mới tìm đến tình yêu để hiểu. Khổ thơ còn thể hiện sự hồn nhiên của người con gái trong tình yêu, đó là sự phân vân, không nắm chắc “Em cũng không biết nữa”. Nhắc đến tình yêu thì không thể nào bỏ qua được nỗi nhớ. Nỗi nhớ nhung là thứ gia vị làm tăng thêm sự hấp dẫn, đáng chờ mong của tình yêu. Bên cạnh đó điều thiêng liêng nhất, tuyệt vời nhất trong tình yêu chính là sự đồng cảm, sẻ chia, sự hài hòa, thấu hiểu giữa hai người:Xem thêm: Phân tích đoạn trích Chí khí anh hùng (Trích Truyện Kiều của Nguyễn Du). “Con sóng dưới lòng sâu Con sóng trên mặt nước Ôi con sóng nhớ bờ Ngày đêm không ngủ được” Khổ thơ tiếp tục dùng hình tượng con sóng để khắc họa nỗi nhớ. Có nỗi nhớ âm thầm, lặng lẽ, được giữ ở trong lòng. Nhưng cũng có nỗi nhớ không sao có thể kìm nén được mà bộc lộ một cách dữ dội, biểu hiện ra bên ngoài. Nỗi nhớ trong tình yêu giống như con sóng, có lúc ẩn dưới mặt nước, có khi lại nổi lên trên một cách dữ dội. Không chỉ dùng hình tượng con sóng mà Xuân Quỳnh đã trực tiếp bộc bạch nỗi nhớ của mình: “Lòng em nhớ đến anh Cả trong mơ còn thức” Thông thường thứ mà nhớ tới anh là chuyện bình thường nhưng nỗi nhớ ấy lại ám ảnh, lại ảnh hưởng tới cả trong cơn mơ. Mơ là trạng thái vô thức của con người mà không sao có thể điểu khiển được, ấy vậy mà trong mơ vẫn còn thức, vẫn còn nhớ tới anh. Qua đó có thể thấy đó là một nỗi nhớ da diết, nỗi khát khao tình yêu cháy bỏng. Con sóng thì khát khao, muốn được tới bờ còn em thì muốn có anh. Đó chính là tình yêu chân thành, tha thiết của người con gái, hay của chính nhà thơ Xuân Quỳnh. Không chỉ nhớ nhung khi tạm thời cách xa nhau mà nhà thơ còn khẳng định nỗi nhớ về anh sẽ vượt qua cả khoảng cách về không gian: “Dẫu xuôi về phương bắc Dẫu ngược về phương nam Nơi nào em cũng nhớ Hướng về anh – một phương” Khoảng cách về thời gian về địa lý khiến cho nỗi nhớ được dâng trào. Nỗi nhớ không chỉ còn là nhớ ngày đêm mà còn là cả không gian khi xa cách. Thường người ta nói ngược về phương bắc, xuôi về phương nam nhưng Xuân Quỳnh lại cố ý nói ngược đi qua đó khiến ta thấy được nỗi nhớ trong tình yêu chẳng theo quy luật nào của tự nhiên, nó có thể tự bộc phát, có thể đi ngược lại với quy luật tự nhiên thông thường. Trong không gian địa lý có bốn phương tám hướng, nhưng trong tình yêu, đối với “em” thì chỉ có một hướng duy nhất đó chính là hướng vè “phương anh”. Những người đang yêu nhau thì họ luôn nhớ về nhau, hướng về nhau bởi họ phải cùng nhau vượt qua mọi thử thách của cuộc đời:Xem thêm: Nghị luận xã hội về hiện tượng nữ sinh ăn mặc sexy “Ở ngoài kia đại dương Trăm ngàn con sóng đó Con nào chẳng tới bờ Dù muôn vời cách trở” Lời thơ khẳng định sự thủy chung, son sắt một lòng của người con gái trong tình yêu. Đứng giữa trăm ngàn con sóng, giữa muôn vàn cách trở nhưng em vẫn chỉ nghĩ về anh. Khi đã yêu thương nhau thật lòng, cùng hướng về nhau và có nghị lực thì dù cho thế gian này có muôn vàn cách trở thì cả hai vẫn sẽ vượt qua được, vẫn sẽ đến được với nhau. Tất cả mọi chuyện, mọi khó khăn rồi sẽ qua đi giống như những năm tháng đang dần trôi qua. Tuy vậy, nhà thơ cũng nhạy cảm nhận thấy rằng tình yêu của con người không phải mãi mãi bởi cái hữu hạn của đời người. Chính vì thế Xuân Quỳnh luôn trăn trở: “Làm sao được tan ra Thành trăm con sóng nhỏ Giữa biển lớn tình yêu Để ngàn năm còn vỗ” Khát vọng tình yêu ngọn lửa như bùng cháy, con người trong tình yêu như muốn được “tan ra” được hòa quyện vào với đại dương mênh mông, để có thể trường tồn mãi mãi. Bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh là một bài thơ tình vừa duyên dáng lại vừa mãnh liệt, sôi nổi, vừa trong sáng lại vừa ý vị, sâu xa. Bài thơ chính là bài tiêu biểu cho phong cách thơ Xuân Quỳnh, tiêu biểu cho phong cách thơ của thế hệ những nhà thơ trưởng thành trong thời kì kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Loan Trương
Phân tích bài thơ số 28 của Ta – go Gợi ý Ta-go (1861 – 1941) là đại thi hào của Ấn Độ. Năm 1913, Ta-go được Giải Nô-ben về vãn chương với tập "Thơ Dâng". Ông là "nhà nhân đạo chủ nghĩa vĩ đại", một nghệ sĩ toàn tài để lại một sự nghiệp văn nghệ đồ sộ: 52 tập thơ, 42 vở kịch, 12 bộ tiểu thuyết, trên 3.000 bức họa. Sau tập "Thơ Dâng" được Giải thưởng Nô-ben, năm 1914, Ta-go xuất bản tập thơ "Người làm vườn " – tập thơ tình, gồm 85 bài thơ, chỉ đánh số, không có nhan đề. Bài thơ số “28" này rút trong tập “Người làm vườn ", được truyền tụng và ngợi ca là “một trong những bài thơ tình hay nhất thế giới ". Toàn bài thơ là lời tỏ tình của người con trai, của “anh”. Còn người con gái chỉ “lặng nghe lời nói như ru" và qua “đôi mắt qua cái nhìn “băn khoăn… buồn " – được nói đến mà thôi. 1. Sáu câu thơ đầu cho thấy một mối tình đầu rất đẹp và thơ mộng. Cô gái duyên dáng, ngỡ ngàng và “băn khoăn", vẻ đẹp dịu hiền được thể hiện qua đôi mắt và cái nhìn chan chứa yêu thương: “muốn nhìn vào tâm tưởng của anh". Rụt rè và thăm dò. Tình yêu đến, “thần ái tình đã gõ cửa trái tim" nhưng em nào đã hay, đã biết gì nhiều về anh. Em là ánh trăng, anh là mặt biển (trong xanh) – hai hình ảnh so sánh này diễn tả rất hay một tình yêu trong sáng, chân thành, dào dạt và sự khao khát yêu thương. Cô gái có đôi mắt huyền mới có cái nhìn lung linh của ánh trăng kia. Và chàng trai có tình yêu nồng nàn, chân thành, trong sáng thì ánh trăng kia mới có thể soi vào tận đáy biển cả. Hình ảnh ánh trăng và biển cả đã thể hiện tài tình men say ái tình: niềm khao khát hạnh phúc và sự hòa hợp tâm hồn lứa đôi trong “cái thuở ban đầu lưu luyến ấy". Lời tỏ tình nồng nàn và yêu thương, đàng hoàng và tin cậy. Tình yêu đâu chỉ là ‘Tìm kiếm" mà còn là “phát hiện" những vẻ đẹp tiềm ẩn trong tâm hồn, trong tính cách người tình của em. Như một lời nhắc khẽ mà rung động: … "Đôi mắt em muốn nhìn vào tâm tưởng của anhXem thêm: Truyền thống tôn sư trọng đạo của dân tộc Việt Nam (đề mở) Như trăng kia muốn vào sâu biển cả. Anh đã để cuộc đời anh trần trụi dưới mắt em, Anh không giấu em một điều gì Chính vì thế mà em không biết gì tất cả về anh ”. 2. Bảy dòng thơ tiếp theo là lời tỏ tình rất đẹp. Sử dụng hình ảnh ẩn dụ về "ngọc", về "hoa" và giả định: “nếu… anh sẽ…” để biểu lộ một tình yêu nồng cháy, mãnh liệt và dâng hiến. Có gì quý hơn ngọc, giá trị bằng ngọc? Nếu đời anh là viên ngọc thì anh sẽ đập vỡ làm trăm mảnh, xâu thành chuỗi quàng vào cổ em yêu. Có gì đẹp và thơm bằng hoa? Nếu đời anh chỉ là bông hoa nhỏ bé, tròn xinh, thơm tho, anh sẽ ngắt nó ra cài lên mái tóc em, Các động từ: "đập ra", “xâu thành", “quàng vào”, “ngắt ra”, “cài lên” – diễn tả một “tấm lòng”, một sự trân trọng và dâng hiến trong tình yêu. Ta-go viết bài thơ này cách chúng ta ngày nay ngót một thế kỉ mà hình ảnh thơ vẫn mới mẻ, thú vị vô cùng: “Nếu đời anh chỉ là viên ngọc anh sẽ đập nó ra làm trăm mảnh và xâu thành một chuỗi quàng vào cổ em. Nếu đời anh chỉ là một đóa hoa tròn trịa, dịu dàng và bé bỏng anh sẽ hái nó ra để đặt lên mái tóc em ", Lời dịch thơ khá sát và hay. Có điều trong nguyên tác chữ "cài" (cài lên mái tóc em), dịch giả đã chuyển thành "đặt lên mái tóc em", làm cho lời thơ thô, làm giảm đi phong cách tao nhã, phong tình của chàng trai 3. Đoạn thơ thứ ba, chàng trai khẳng định tình yêu của mình qua hình ảnh so sánh: “trái tim Ba tiếng “Nhưng em ơi!" vang lên tha thiết, đắm say. Lời tỏ tình được nâng lên một tầm cao mới, một chiều sâu thăm thẳm. Tình yêu ấy sâu sắc và mênh mông. Em là thần tượng, là nữ hoàng đang ngự trị vương quốc tình yêu – đời anh. Lại một lời nhắc nhớ khẽ em yêu! Nhẹ nhàng và tế nhị. Gần mà xa, xa mà gần. Phải biết trân trọng và phát hiện mọi điều cao quý tiềm ẩn trong tâm hồn người yêu. Lời tỏ tình sang trọng quá, chứng tỏ chàng trai có một trái tim rất đẹp! Cả đời anh, tâm hồn anh, tình yêu của anh đã thuộc về em:Xem thêm: Gần nhà em có một hồ nước gần đây một số người hay đổ phế thải xây dựng xuống hồ. Em hãy giúp Bác Tổ trưởng Tổ dân phố viết đơn gửi Ủy ban nhân dân Phường để ngăn chặn hành động thiếu ý thức này “Nhưng em ơi, đời anh là một trái tim Nào ai biết chiều sâu và bến bờ của nó, Em là nữ hoàng của vương quốc đó Ấy thế mà em có biết gì biên giới của nó đâu! Đầu bài thơ, thi sĩ đã dùng hình ảnh "biển cả", đến khổ thơ này, ông lại tạo ra những khái niệm bổ sung: "bến bờ", "vương quốc", "biên giới" – tạo ra một hệ thống ngôn ngữ diễn tả một không gian nghệ thuật để nói lên niềm tự hào của người con trai có một tình yêu trong sáng mênh mông. 4. Tinh yêu không thể tầm thường và đơn giản. Đâu chỉ là "một phút giây lạc thú" để làm “nở ra thành một nụ cười nhẹ nhõm", thoảng qua. Tình yêu cũng không phải là sự hèn hạ, van xin, cầu mong một sự "ban ơn", một sự yếu mềm. Giọt lệ trong, nỗi thương đau, nỗi sầu u ẩn mà người con trai mang lại trong mỗi cuộc tình chỉ là sự hèn hạ mà thôi. Mà đâu chỉ là lĩnh vực tình yêu, mọi sự quỳ lạy, van xin trong ứng xử đâu hèn hạ, đáng khinh. Đoạn thơ này mang tính chất "phản đề* nhiều người đã hiểu không đúng. Chàng trai muốn tâm tình với người yêu là trái tim anh không phải như thế này đâu: "Nếu trái tim anh chỉ là phút giây sướng vui, nó sẽ nở thành nụ cười dịu hiền và em sẽ thấu hiểu nó rất nhanh – Nếu trái tim anh chỉ là nỗi thương đau, nó sẽ tan thành lệ trong, phản ánh nỗi sầu thầm kín " (dịch nghĩa). 5. Hai đoạn thơ thứ tư và thứ năm tương phản đối lập. Từ phủ định đi đến khẳng định. Không nên như thế kia mà phải như thế này. Người con trai đã mang đến cho người con gái một tình yêu tuyệt đẹp. Anh tự hào thổ lộ: "Nhưng em ơi, trái tim anh lại là tình yêu, Nên vui sướng khổ đau của nó là vô biên. Những đòi hỏi và sự giàu sang của nó là trường cửu Trái tim anh cũng ở gần em như chính đời em vậy Nhưng chẳng bao giờ em biết trọn nó đâu! " Trong nguyên tác: "những gì tình yêu cầu mong" được người dịch thơ viết rằng: "những đòi hỏi" dễ làm nhiều độc giá hiểu không đẹp ý thơ. Chàng trai tự hào trái tim của mình "lại là tình yêu”, tình yêu đích thực, đâu phải là thứ "trái tim chỉ là một phút giây lạc thú ”. Tình yêu của em đã và đang mang đến cho anh bao cảm xúc kì diệu, lúc thì vui sướng, lúc thì khổ đau… Tình yêu đâu chỉ toàn vị ngọt? Vui sướng và khổ đau mà tình yêu mang đến là mênh mông, là vô biên. Những cầu mong và sự giàu có mà tình yêu, mà trái tim của chàng trai là bất tận, là trường cửu.Xem thêm: Phân tích Bài ca ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ Chàng trai cầu mong ở người tình một tình yêu đằm thắm, chân thành và thủy chung. Cầu mong con thuyền tình của anh sẽ cập bến bờ hạnh phúc giữa mùa trăng. Nhẹ nhàng thổ lọ và trách móc: gần đấy sao mà xa xôi. Hình như em vẫn chưa hiểu tình yêu của anh đã dành cho em. Phải biết phát hiện sự vô biên và giàu sang trong tình yêu. Năm dòng cuối là một "tuyên ngôn" đẹp về tình yêu. Thơ tình mang thêm màu sắc triết lí. Có biết chiếm lĩnh trái tim người yêu mới thật sự có và được sống trong một tình yêu đẹp, trọn vẹn. Bài thơ số 28 của Ta-go rất đẹp và giàu tính sáng tạo trong hình tượng: "đôi mắt buồn, băn khoăn " – "ánh trăng soi vào biển cả" – "viên ngọc và chuỗi ngọc", "đóa hoa thơm và vòng hoa" – trái tim yêu thương mênh mông… Ý tưởng phong phú và sâu sác: cái ngần ngại, băn khoăn của thiếu nữ trong mối tình đầu; sự chân thành, say đắm, nồng nàn, khát khao trong tình yêu của chàng trai. Như một lời nhắc khẽ: Không thể tầm thường, đơn giản trong tình yêu. Bài thơ tình còn là sự đúc kết, chiêm nghiệm: Yêu là tìm kiếm, là phát hiện và chiếm lĩnh, tình yêu là sung sướng và khổ đau, là thiếu thốn và giàu sang, gần mà xa, xa mà gần. Phải biết phát hiện và chiếm lĩnh tình yêu, có thể mới thật sự đi tới mái ấm hạnh phúc trong tình yêu đôi lứa. Cũng như "Biển" của Xuân Diệu. "Sóng" của Xuân Quỳnh, "Tôi yêu em" của Pu-skin, bài thơ này của Ta-go không thể thiếu trong hành trang – tâm hồn "tuổi áo trắng " mộng mơ. Vanmau.edu.vn
Phân tích bài thơ số 28 của Ta – go Gợi ý Ta-go (1861 – 1941) là đại thi hào của Ấn Độ. Năm 1913, Ta-go được Giải Nô-ben về vãn chương với tập "Thơ Dâng". Ông là "nhà nhân đạo chủ nghĩa vĩ đại", một nghệ sĩ toàn tài để lại một sự nghiệp văn nghệ đồ sộ: 52 tập thơ, 42 vở kịch, 12 bộ tiểu thuyết, trên 3.000 bức họa. Sau tập "Thơ Dâng" được Giải thưởng Nô-ben, năm 1914, Ta-go xuất bản tập thơ "Người làm vườn " – tập thơ tình, gồm 85 bài thơ, chỉ đánh số, không có nhan đề. Bài thơ số “28" này rút trong tập “Người làm vườn ", được truyền tụng và ngợi ca là “một trong những bài thơ tình hay nhất thế giới ". Toàn bài thơ là lời tỏ tình của người con trai, của “anh”. Còn người con gái chỉ “lặng nghe lời nói như ru" và qua “đôi mắt qua cái nhìn “băn khoăn… buồn " – được nói đến mà thôi. 1. Sáu câu thơ đầu cho thấy một mối tình đầu rất đẹp và thơ mộng. Cô gái duyên dáng, ngỡ ngàng và “băn khoăn", vẻ đẹp dịu hiền được thể hiện qua đôi mắt và cái nhìn chan chứa yêu thương: “muốn nhìn vào tâm tưởng của anh". Rụt rè và thăm dò. Tình yêu đến, “thần ái tình đã gõ cửa trái tim" nhưng em nào đã hay, đã biết gì nhiều về anh. Em là ánh trăng, anh là mặt biển (trong xanh) – hai hình ảnh so sánh này diễn tả rất hay một tình yêu trong sáng, chân thành, dào dạt và sự khao khát yêu thương. Cô gái có đôi mắt huyền mới có cái nhìn lung linh của ánh trăng kia. Và chàng trai có tình yêu nồng nàn, chân thành, trong sáng thì ánh trăng kia mới có thể soi vào tận đáy biển cả. Hình ảnh ánh trăng và biển cả đã thể hiện tài tình men say ái tình: niềm khao khát hạnh phúc và sự hòa hợp tâm hồn lứa đôi trong “cái thuở ban đầu lưu luyến ấy". Lời tỏ tình nồng nàn và yêu thương, đàng hoàng và tin cậy. Tình yêu đâu chỉ là ‘Tìm kiếm" mà còn là “phát hiện" những vẻ đẹp tiềm ẩn trong tâm hồn, trong tính cách người tình của em. Như một lời nhắc khẽ mà rung động: … "Đôi mắt em muốn nhìn vào tâm tưởng của anhXem thêm: Truyền thống tôn sư trọng đạo của dân tộc Việt Nam (đề mở) Như trăng kia muốn vào sâu biển cả. Anh đã để cuộc đời anh trần trụi dưới mắt em, Anh không giấu em một điều gì Chính vì thế mà em không biết gì tất cả về anh ”. 2. Bảy dòng thơ tiếp theo là lời tỏ tình rất đẹp. Sử dụng hình ảnh ẩn dụ về "ngọc", về "hoa" và giả định: “nếu… anh sẽ…” để biểu lộ một tình yêu nồng cháy, mãnh liệt và dâng hiến. Có gì quý hơn ngọc, giá trị bằng ngọc? Nếu đời anh là viên ngọc thì anh sẽ đập vỡ làm trăm mảnh, xâu thành chuỗi quàng vào cổ em yêu. Có gì đẹp và thơm bằng hoa? Nếu đời anh chỉ là bông hoa nhỏ bé, tròn xinh, thơm tho, anh sẽ ngắt nó ra cài lên mái tóc em, Các động từ: "đập ra", “xâu thành", “quàng vào”, “ngắt ra”, “cài lên” – diễn tả một “tấm lòng”, một sự trân trọng và dâng hiến trong tình yêu. Ta-go viết bài thơ này cách chúng ta ngày nay ngót một thế kỉ mà hình ảnh thơ vẫn mới mẻ, thú vị vô cùng: “Nếu đời anh chỉ là viên ngọc anh sẽ đập nó ra làm trăm mảnh và xâu thành một chuỗi quàng vào cổ em. Nếu đời anh chỉ là một đóa hoa tròn trịa, dịu dàng và bé bỏng anh sẽ hái nó ra để đặt lên mái tóc em ", Lời dịch thơ khá sát và hay. Có điều trong nguyên tác chữ "cài" (cài lên mái tóc em), dịch giả đã chuyển thành "đặt lên mái tóc em", làm cho lời thơ thô, làm giảm đi phong cách tao nhã, phong tình của chàng trai 3. Đoạn thơ thứ ba, chàng trai khẳng định tình yêu của mình qua hình ảnh so sánh: “trái tim Ba tiếng “Nhưng em ơi!" vang lên tha thiết, đắm say. Lời tỏ tình được nâng lên một tầm cao mới, một chiều sâu thăm thẳm. Tình yêu ấy sâu sắc và mênh mông. Em là thần tượng, là nữ hoàng đang ngự trị vương quốc tình yêu – đời anh. Lại một lời nhắc nhớ khẽ em yêu! Nhẹ nhàng và tế nhị. Gần mà xa, xa mà gần. Phải biết trân trọng và phát hiện mọi điều cao quý tiềm ẩn trong tâm hồn người yêu. Lời tỏ tình sang trọng quá, chứng tỏ chàng trai có một trái tim rất đẹp! Cả đời anh, tâm hồn anh, tình yêu của anh đã thuộc về em:Xem thêm: Gần nhà em có một hồ nước gần đây một số người hay đổ phế thải xây dựng xuống hồ. Em hãy giúp Bác Tổ trưởng Tổ dân phố viết đơn gửi Ủy ban nhân dân Phường để ngăn chặn hành động thiếu ý thức này “Nhưng em ơi, đời anh là một trái tim Nào ai biết chiều sâu và bến bờ của nó, Em là nữ hoàng của vương quốc đó Ấy thế mà em có biết gì biên giới của nó đâu! Đầu bài thơ, thi sĩ đã dùng hình ảnh "biển cả", đến khổ thơ này, ông lại tạo ra những khái niệm bổ sung: "bến bờ", "vương quốc", "biên giới" – tạo ra một hệ thống ngôn ngữ diễn tả một không gian nghệ thuật để nói lên niềm tự hào của người con trai có một tình yêu trong sáng mênh mông. 4. Tinh yêu không thể tầm thường và đơn giản. Đâu chỉ là "một phút giây lạc thú" để làm “nở ra thành một nụ cười nhẹ nhõm", thoảng qua. Tình yêu cũng không phải là sự hèn hạ, van xin, cầu mong một sự "ban ơn", một sự yếu mềm. Giọt lệ trong, nỗi thương đau, nỗi sầu u ẩn mà người con trai mang lại trong mỗi cuộc tình chỉ là sự hèn hạ mà thôi. Mà đâu chỉ là lĩnh vực tình yêu, mọi sự quỳ lạy, van xin trong ứng xử đâu hèn hạ, đáng khinh. Đoạn thơ này mang tính chất "phản đề* nhiều người đã hiểu không đúng. Chàng trai muốn tâm tình với người yêu là trái tim anh không phải như thế này đâu: "Nếu trái tim anh chỉ là phút giây sướng vui, nó sẽ nở thành nụ cười dịu hiền và em sẽ thấu hiểu nó rất nhanh – Nếu trái tim anh chỉ là nỗi thương đau, nó sẽ tan thành lệ trong, phản ánh nỗi sầu thầm kín " (dịch nghĩa). 5. Hai đoạn thơ thứ tư và thứ năm tương phản đối lập. Từ phủ định đi đến khẳng định. Không nên như thế kia mà phải như thế này. Người con trai đã mang đến cho người con gái một tình yêu tuyệt đẹp. Anh tự hào thổ lộ: "Nhưng em ơi, trái tim anh lại là tình yêu, Nên vui sướng khổ đau của nó là vô biên. Những đòi hỏi và sự giàu sang của nó là trường cửu Trái tim anh cũng ở gần em như chính đời em vậy Nhưng chẳng bao giờ em biết trọn nó đâu! " Trong nguyên tác: "những gì tình yêu cầu mong" được người dịch thơ viết rằng: "những đòi hỏi" dễ làm nhiều độc giá hiểu không đẹp ý thơ. Chàng trai tự hào trái tim của mình "lại là tình yêu”, tình yêu đích thực, đâu phải là thứ "trái tim chỉ là một phút giây lạc thú ”. Tình yêu của em đã và đang mang đến cho anh bao cảm xúc kì diệu, lúc thì vui sướng, lúc thì khổ đau… Tình yêu đâu chỉ toàn vị ngọt? Vui sướng và khổ đau mà tình yêu mang đến là mênh mông, là vô biên. Những cầu mong và sự giàu có mà tình yêu, mà trái tim của chàng trai là bất tận, là trường cửu.Xem thêm: Phân tích Bài ca ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ Chàng trai cầu mong ở người tình một tình yêu đằm thắm, chân thành và thủy chung. Cầu mong con thuyền tình của anh sẽ cập bến bờ hạnh phúc giữa mùa trăng. Nhẹ nhàng thổ lọ và trách móc: gần đấy sao mà xa xôi. Hình như em vẫn chưa hiểu tình yêu của anh đã dành cho em. Phải biết phát hiện sự vô biên và giàu sang trong tình yêu. Năm dòng cuối là một "tuyên ngôn" đẹp về tình yêu. Thơ tình mang thêm màu sắc triết lí. Có biết chiếm lĩnh trái tim người yêu mới thật sự có và được sống trong một tình yêu đẹp, trọn vẹn. Bài thơ số 28 của Ta-go rất đẹp và giàu tính sáng tạo trong hình tượng: "đôi mắt buồn, băn khoăn " – "ánh trăng soi vào biển cả" – "viên ngọc và chuỗi ngọc", "đóa hoa thơm và vòng hoa" – trái tim yêu thương mênh mông… Ý tưởng phong phú và sâu sác: cái ngần ngại, băn khoăn của thiếu nữ trong mối tình đầu; sự chân thành, say đắm, nồng nàn, khát khao trong tình yêu của chàng trai. Như một lời nhắc khẽ: Không thể tầm thường, đơn giản trong tình yêu. Bài thơ tình còn là sự đúc kết, chiêm nghiệm: Yêu là tìm kiếm, là phát hiện và chiếm lĩnh, tình yêu là sung sướng và khổ đau, là thiếu thốn và giàu sang, gần mà xa, xa mà gần. Phải biết phát hiện và chiếm lĩnh tình yêu, có thể mới thật sự đi tới mái ấm hạnh phúc trong tình yêu đôi lứa. Cũng như "Biển" của Xuân Diệu. "Sóng" của Xuân Quỳnh, "Tôi yêu em" của Pu-skin, bài thơ này của Ta-go không thể thiếu trong hành trang – tâm hồn "tuổi áo trắng " mộng mơ. Vanmau.edu.vn
Thu Điếu là một trong những bài thơ viết về mùa thu cực kì đặc sắc. Nguyễn Khuyến có tới 1 chùm thơ thu gồm 3 bài nhưng bài thơ Thu điếu vẫn được đánh giá cao hơn cả. Thậm chí, nó còn được đánh giá là bài thơ thu hay nhất trong các bài thơ thu. Nhằm giúp các em có thể phân tích bài thơ Thu điếu được hay nhất thì hôm nay Kho tàng văn mẫu sẽ hướng dẫn các em lập dàn ý phân tích bài thơ Thu điếu và gợi ý cho các em bài văn mẫu để các em tham khảo. I. Lập dàn ý phân tích bài thơ Thu điếu 1. Mở bài – Giới thiệu về nhà thơ Nguyễn Khuyến và bài thơ Thu điếu. – Nguyễn Khuyến là một thi gia nổi tiếng của văn học Việt Nam. Ông có nhiều sáng tác hay được nhiều người biết đến. – Thu điếu là một trong những tác phẩm tiêu biểu của ông. 2. Thân bài phân tích bài thơ Thu điếu a. Hai câu đầu – Hình ảnh ao thu gần gũi với cuộc sống của con người. – Không khi se lạnh của trời thu làm nước ao trong veo. – Khung cảnh làng quê, sông nước hiện lên trong một buổi trời thu. b. Hai câu thực – Mọi thứ đều trở nên nhỏ bé: sóng gợn tí, gió khẽ. – Khung cảnh mùa thu tĩnh lặng. – Tác giả thể hiện một sự cảm nhận đầy tinh tế. c. Hai câu luận – Cảnh vật êm đềm, nhẹ nhàng. – Khung cảnh vắng vẻ, buồn bã, lòng người cũng trĩu nặng. d. Hai câu kết – Một bức tranh thiên nhiên hài hòa. – Cảm xúc được nén lại, không còn vương vấn thói đời. 3. Kết luận – Khái quát lại nội dung bài thơ Thu điếu và nêu cảm nghĩ của em về bài thơ này. Bài viết liên quan: >> Phân tích bài thơ Lưu biệt khi xuất dương của Phan Bội Châu (Có dàn ý chi tiết)Xem thêm: Cảm nhận về bài thơ Đồng chí của Chính Hữu>> Phân tích bài thơ Từ ấy của Tố Hữu (Có dàn ý chi tiết) II. Bài làm phân tích bài thơ Thu điếu Trong nền văn học của Việt Nam, chúng ta may mắn có nhiều tác gia nổi tiếng. Họ đã để lại cho đời không biết bao nhiêu tác phẩm hay, độc đáo, đặc sắc. Chẳng hạn như Nguyễn Khuyến, ông được mệnh danh là nhà thơ của làng cảnh Việt Nam. Thơ của Nguyễn Khuyến có nội dung giản dị, nhiều bài thơ của ông viết về cảnh yên bình nơi thôn quê. Điển hình trong các sáng tác của Nguyễn Khuyến là chùm 3 bài thơ thu: Thu vịnh, Thu điếu, Thu ẩm. Bài nào cũng đều hay cả nhưng xuất sắc nhất có lẽ vẫn là bài thơ Thu điếu. Mặc dù cùng viết về đề tài mùa thu nhưng có thể nhận thấy một điều mùa thu trong 3 bài thơ của Nguyễn Khuyến đều được ông cảm nhận theo một cách khác nhau. Chẳng hạn như, nếu bài thơ Thu vịnh cảnh thu được đón nhận từ cao xa rồi mới đến gần thì trong bài Thu điếu, Nguyễn Khuyến đã cảm nhận mùa thu từ gần, đến cao xa rồi lại từ cao xa trở về gần. Chính cách quan sát này đã khiến cho khung cảnh trở nên sinh động hơn nhiều. Phân tích bài thơ Thu điếu Không gian của cảnh mùa thu được mở ra trước mắt người đọc với một cảm giác trong veo: Ao thu lạnh lẽo nước trong veo Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo Ao thu, thuyền câu là những hình ảnh quen thuộc của làng quê Việt Nam. Chính vì quen thuộc nên nó không tạo nên điều gì đặc biệt. Nhưng bằng cách đưa đến những hình ảnh quen thuộc ấy, nhà thơ đã mang đến cho người đọc sự dịu nhẹ, êm đềm. Chính sự nguyên sơ và trong veo ấy đã mang đến vẻ đẹp thanh khiết cho mùa thu . Mùa thu, nước trong ao, hồ, sông, suối thường chảy rất bình lặng. Chính vì tiết trời hanh khô nên nước sông cũng trở nên trong hơn. Ở đây, nhà thơ đã miêu tả trong veo cho thấy sự trong vắt của nước ao. Giữa không gian ao thu xuất hiện một chiếc thuyền câu nhưng đó là một chiếc thuyền bé tẻo teo. Nó có nghĩa là rất bé. Mặc dù như vậy nhưng nó không hề lọt thỏm trong không gian mà nó xuất hiện một cách hài hòa, cân xứng. Đó là bởi vì nó xuất hiện trong một cái ao thu chứ không phải hồ hay sông. Bằng cách gieo vần ai, nhà thơ đã nói lên được cái nhỏ nhắn, thanh thoát của khung cảnh mà không hề khiến người đọc cảm thấy tù túng.Xem thêm: Thuyết minh về con cá chépHai câu thơ tiếp theo, nhà thơ vẫn tiếp tục miêu tả bức tranh mùa thu với những hình ảnh vô cùng đẹp: Sóng biếc theo làn hơi gợn tí Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo Khung cảnh mùa thu hiện lên với những đường nét hết mức mảnh mai. Sóng thì hơi gợn tí, lá thì khẽ đưa vèo gợi cảm giác mọi thứ đều nhẹ nhàng và thanh thoát. Bằng cách miêu tả hình ảnh lá vàng rơi và sóng gợn, Nguyễn Khuyến đã dùng thủ pháp lấy động tả tĩnh nhằm làm nổi bật lên không gian tĩnh lặng của mùa thu. Nếu không phải là không gian vô cùng tĩnh lặng thì nhà thơ không thể nào cảm nhận được tiếng động khẽ khàng và êm ái của mùa thu. Màu sắc của lá trong câu thơ này giống như một nét để làm bức tranh thêm hài hòa hơn. Không dừng lại ở đó, nhà thơ tiếp tục miêu tả khung cảnh xung quanh: Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt Ngõ trúc quanh co khách vắng teo Lúc này, không gian mùa thu đã được mở rộng ra ở chiều cao. Nhà thơ đã đưa ánh mắt của mình nhìn lên bầu trời để cảm nhận được sắc trời xanh ngắt. Gần như mọi cảnh vật đều tĩnh lặng và sự chuyển động của nó êm ái tới mức rất khó để cảm nhận. Chúng không gợi lên bất cứ một âm thanh nào. Cái khung cảnh vắng teo của ngõ trúc gợi lên một cảm giác buồn bã, cô độc cho con người. Có lẽ nhà thơ đang tìm kiếm một bóng người nào đó. Hai câu thơ cuối bài, tác giả đã viết:Xem thêm: Trình bày quan điểm của anh (chị) về quan niệm chọn nghề nghiệp trong tương lai: chọn nghề phù hợp với năng lực thực tế của mình; chọn nghề đang được ưa chuộng trong đời sống hay nhất quyết theo đuổi nghề mà mình vẫn thiết tha yêu thích?Tựa gối ốm cần lâu chẳng được Cá đâu đớp động dưới chân bèo. Hình ảnh nhà thơ xuất hiện cuối bài với tư thế đang ngồi tựa gối ốm cần nhưng dường như ông không quan tâm đến chuyện câu cá. Có lẽ ông đang thu mình lại để cho bản thân không vướng vào thói đời, rời xa chốn quan trường để tìm về với chốn làng quê yên bình, thanh tịnh. Nhà thơ đã mượn chuyện câu cá mùa thu để có thể cảm nhận được hết trời thu, cảnh thu vào cõi lòng mình. Ở đây, không rõ cảnh tĩnh lặng của mùa thu khiến tác giả cảm thấy cô đơn hay tâm trạng cô đơn của nhà thơ đã lan tỏa ra cảnh vật. Nhưng dù sao thì đây cũng là một bài thơ thu tuyệt đẹp. Bài thơ Thu điếu đã thể hiện tài năng thi ca tuyệt vời của Nguyễn Khuyến với việc sử dụng từ ngữ, cách gieo vần eo. Bài thơ không chỉ cho ta thấy được một khung cảnh mùa thu tươi đẹp của làng quê Bắc Bộ mà còn thể hiện được tấm lòng yêu thiên nhiên của nhà thơ. Như vậy là chúng ta đã cùng lập dàn ý phân tích bài thơ Thu điếu của Nguyễn Khuyến, đồng thời đọc tham khảo bài viết mẫu. Bài viết này hy vọng sẽ giúp ích nhiều cho các em trong việc học. Thu Thủy
Thu Dieu is one of the extremely unique poems written about autumn. Nguyen Khuyen has a collection of 3 poems, but the poem Thu eulogy is still the most highly rated. It is even considered the best autumn poem among autumn poems. In order to help you best analyze the poem Thu eu, today the Sample Literature Treasury will guide you to create an outline to analyze the poem Thu eu and suggest sample essays for your reference. . I. Create an outline to analyze the poem Thu Quiet 1. Open the lesson – Introducing poet Nguyen Khuyen and the poem Thu eulogy. – Nguyen Khuyen is a famous poet of Vietnamese literature. He has many good compositions that are known to many people. – Thu Ci is one of his typical works. 2. Body analysis of the poem Autumn Leaves a. The first two sentences – The image of autumn ponds is close to human life. – The cool air of autumn makes the pond water clear. – The scenery of the village and river appears on an autumn day. b. Two real sentences – Everything becomes small: tiny ripples, gentle wind. – Quiet autumn scene. – The author shows a delicate perception. c. Two essays – The scenery is calm and gentle. – The scene is deserted and sad, people's hearts are also heavy. d. Two concluding sentences – A harmonious picture of nature. – Emotions are suppressed, no longer lingering on life's habits. 3. Conclusion – Summarize the content of the poem Thu Quiet and state your thoughts about this poem. Related articles: >> Analysis of the poem Farewell when leaving the world by Phan Boi Chau (With detailed outline) See more: Feelings about the poem Comrade by Chinh Huu >> Analysis of the poem Tu That by To Huu (With outline detail) II. Essay analyzing the poem Thu eu quai In Vietnamese literature, we are fortunate to have many famous authors. They have left behind countless good, unique, and remarkable works. For example, Nguyen Khuyen is known as the poet of Vietnamese landscape villages. Nguyen Khuyen's poetry has simple content, many of his poems are written about peaceful scenes in the countryside. Typical of Nguyen Khuyen's compositions are a series of three autumn poems: Thu Vinh, Thu Bai, Thu Mot. All of the songs are good, but the best is probably still the poem Autumn Leaves. Although they both write about the topic of autumn, it can be seen that autumn in Nguyen Khuyen's three poems is all perceived by him in a different way. For example, if the poem "Autumn Bay Scenes of Autumn" is received from afar and then near, in the poem "Thu eulogy", Nguyen Khuyen feels autumn from near, to far away and then from far away back to near. It is this way of observing that makes the scene much more vivid. Analysis of the poem Thu Quiet The space of the autumn scene opens before the reader's eyes with a feeling of clarity: Cold pond water is clear collected A tiny fishing boat atrophy Autumn ponds and fishing boats are familiar images of Vietnamese villages. Because it's familiar, it doesn't create anything special. But by presenting those familiar images, the poet brings gentleness and calmness to the reader. It is that pristine and clear nature that brings pure beauty to autumn. In autumn, the water in ponds, lakes, rivers, and streams often flows very calmly. Because the weather is dry, the river water also becomes clearer. Here, the poet describes the clearness of the pond water. In the middle of the pond, a fishing boat appeared, but it was a small boat. It means very small. Even so, it does not fall into space, but appears harmoniously and symmetrically. That's because it appears in a fall pond, not a lake or river. By rhyming ai, the poet conveys the smallness and elegance of the scene without making the reader feel cramped. See more: Explanation about the carp In the next two verses, the poet continues continues to describe autumn paintings with extremely beautiful images: Blue waves follow the slightly rippled waves Yellow leaves gently sway in the wind The autumn scene appears with extremely slender lines. The waves are slightly rippled, the leaves are gently swaying, giving the feeling that everything is gentle and elegant. By depicting the image of falling yellow leaves and rippling waves, Nguyen Khuyen used the technique of using motion to describe stillness to highlight the quiet space of autumn. If it weren't for the extremely quiet space, the poet would not be able to feel the soft and gentle sound of autumn. The color of the leaves in this poem is like a stroke to make the picture more harmonious. Not stopping there, the poet continued to describe the surrounding scene: Clouds hang in the blue sky The winding bamboo alley is empty of customers At this time, the autumn space has expanded in height. The poet looked up at the sky to feel the blue sky. Nearly every scene is still and its movement is so smooth that it is difficult to feel. They do not make any sound. The deserted scene of the bamboo alley evokes a feeling of sadness and loneliness for people. Perhaps the poet is looking for a certain figure. In the last two verses of the article, the author wrote: See more: Present your opinion on the concept of choosing a future career: choosing a career that suits your actual abilities; Choose a career that is popular in life or insist on pursuing a career that you still love passionately? It takes a long time to lean on a sick pillow. The fish do not bite under the duck's feet. The image of the poet appears at the end of the poem, sitting with his head resting on a pillow, but it seems he doesn't care about fishing. Perhaps he is withdrawing to keep himself from getting caught up in worldly habits, leaving the official world to find a peaceful, pure village. The poet borrowed the story of autumn fishing so that he could feel the autumn sky and autumn scenes in his heart. Here, it is unclear whether the quiet scene of autumn makes the author feel lonely or whether the poet's lonely mood spreads to the landscape. But nonetheless, this is a beautiful autumn poem. The poem "Thu eu" demonstrates Nguyen Khuyen's great poetic talent with his use of words and rhyme scheme. The poem not only shows us a beautiful autumn scene of the Northern countryside but also shows the poet's love for nature. So we have created an outline to analyze the poem Thu eu by Nguyen Khuyen, and at the same time read the sample article. This article hopes to help you a lot in your studies. Thu Thuy
Đề bài: Phân tích bài thơ Thu Điếu của Nguyễn Khuyến Mùa thu là đề tài quen thuộc của thi ca. Thơ viết về mùa thu của văn học Trung đại Việt Nam thường miêu tả cảnh đẹp vắng vẻ, úa tàn và u buồn. Cảnh thu được ghi lại một cách ước lệ tượng trưng với những nét chấm phá, chớp lấy cái hồn của tạo vật. Thu điếu của Nguyễn Khuyến cũng mang nét thi pháp ấy. Nhưng Nguyễn Khuyến được mệnh danh là nhà thơ của làng quê Việt Nam. Gần suốt đời mình, ông gắn bó với thôn quê, hòa hợp và thấu hiểu mảnh đất quê nhà. Thế nên, cảnh vật làng quê trong thơ ông hiện lên rất chân thực, giản dị, tinh tế. Đọc Thu điếu, ta bắt gặp một bức tranh thu đặc trưng của vùng chiêm trũng Bắc bộ, quê hương của nhà thơ. Đấy chính là nét mới mẻ của tác phẩm so với thi pháp truyền thống của văn học Trung đại Việt Nam. Phân tích bài thơ Thu Điếu của Nguyễn Khuyến Thu điếu viết bằng chữ Nôm, làm theo thể thất ngôn bát cú Đường luật. Cảnh thu được miêu tả trong hầu hết 8 câu thơ, hình ảnh con người chỉ xuất hiện trực tiếp ở hai câu cuối bài. Cảnh trong bài vẫn là trời nước, gió, trúc – những thi liệu quen thuộc nhưng hồn thơ thì đã vượt ra khỏi khuôn sáo thi tứ cổ điển. Hình ảnh đầu tiên được tác giả miêu tả là “ ao thu”. Từ “ lạnh lẽo” đặc tả khí lạnh của ao nước mùa thu, dường như cái lạnh ấy thấm sâu vào da thịt con người. Tính từ “trong veo” đã tuyệt đối hóa độ trong của nước, đồng thời còn gợi ra độ thanh sạch, sự bất động, tĩnh lặng của mặt ao. Hai âm “eo” được gieo trong một câu khiến cho cảm giác về cái lạnh và sự ngưng đọng của không gian càng trở nên tuyệt đối, đồng thời còn gợi ra không gian nhỏ hẹp của chiếc ao. Trên nền cảnh thu ấy xuất hiện một chiếc thuyền câu lẻ loi, đơn chiếc, bé nhỏ. Số từ chỉ số ít “một chiếc” kết hợp với từ láy “tẻo teo” khiến cho chiếc thuyền càng nhỏ bé hơn, như co lại thành một nét chấm trên nền ao cũng bé xíu và trong trong tận đáy. Hai câu đề đã vẽ nên cảnh sắc rất riêng biệt, mộc mạc, đơn sơ của mùa thu Bắc bộ với những nét đặc trưng nhất của khí thu, chất thu là cái lạnh và sự tĩnh lặng. Mùa thu tiếp tục hiện lên với hình ảnh “sóng biếc”, “lá vàng”. Cảnh vận động một cách khẽ khàng. Tác giả đã rất nhạy cảm, tinh tế khi chớp được những biến động tinh vi của tạo vật. Đó là sự chuyển động “ hơi gợn tí” của sóng, là sự đưa nhẹ, khẽ khàng của chiếc lá vàng, là sự mong manh uốn lượn của hơi nước mờ ảo trên mặt ao. Xem thêm: Suy nghĩ của anh chị về vấn đề: Việt Nam và con đường phát triển khoa học công nghệHai câu thơ đối nhau rất chỉnh, các sự vật có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, gió thổi làm sóng gợn, làm lá rơi. Các tính từ, trạng từ “biếc”, ‘tí’, “vàng”, “khẽ”,”vèo” được sử dụng một cách hợp lí, giàu chất tạo hình, vừa tạo ra bức tranh màu sắc thanh nhã, có xanh có vàng, vừa gợi được sự uyển chuyển, sinh động của tạo vật. Cảnh được miêu tả trong hai câu thực, mặc dù là động, nhưng vì động khẽ khàng quá nên thực chất là lấy động để tả cái tĩnh lặng của mùa thu trong không gian của một chiếc ao quê nhà. Không gian cảnh vật trong hai câu luận không chỉ dừng lại ở bề mặt chiếc ao mà còn mở rộng thêm chiều cao, chiều sâu. Chiều cao được cụ thể bằng sự “lơ lửng” của tầng mây và độ thăm thẳm của da trời xanh ngắt. Màu da trời mùa thu dường như có ám ảnh sâu đậm trong tâm hồn Nguyễn Khuyến nên trong các bài thơ thu, ông thường nhắc tới: “ Trời thu xanh ngắt mấy từng cao” (Thu vịnh ) hay “ Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt” ( Thu ẩm ). Bởi vậy, màu xanh ngắt của da trời không chỉ đơn giản là một sắc màu khách quan đặc trưng cảu trời thu mà có lẽ còn chính là tâm trạng nhiều ẩn ức, là chiều sâu tâm hồn đầy trăn trở của thi nhân. Chiều sâu của không gian được cụ thể bằng độ “ quanh co” uốn lượn của bờ trúc. Không gian trong hai câu luận đậm dặc một màu xanh, màu xanh bao trùm cả trên cao và chiều rộng. Cảnh vật thoáng đãng và yên tĩnh. Nguyên từ “vắng” đã nói rõ sự tĩnh lặng rồi nhưng “vắng teo” thì có nghĩa là cảnh vắng tanh vắng ngắt, không chút cử động, không chút âm thanh, không một bóng người. Bởi thế, hai câu thơ gợi ra sự trống vắng, nỗi cô đơn trong lòng người. Hình ảnh con người xuất hiện trực tiếp với tư thế ngồi bó gối, trong trạng thái trầm tư mặc tưởng. Nhà thơ ngồi câu cá mà chẳng chú tâm đến việc câu, bởi vậy mới giật mình trước tiếng cá “ đớp động dưới chân bèo”. Không gian phải yên tĩnh lắm, tâm hồn nhà thơ phải trong trẻo lắm thì mới nghe rõ âm thanh nhỏ nhẹ như vậy. Từ “cá đâu” là cách hỏi vừa tạo nên sự mơ hồ trong không gian vừa gợi ra sự ngỡ ngàng của lòng người. Nhà thơ dường như mất cảm giác về không gian thực tại mà chìm đắm trong không gian suy tưởng nên không thể xác định rõ hướng gây ra tiếng động mặc dù đang ngồi trong một chiếc ao rất nhỏ. Nhà thơ câu cá mà chẳng phải để bắt cá. Câu chỉ là cái cớ để tìm sự thư thái trong tâm hồn. Trong lúc câu, thi nhân đã thâu tóm vào lòng những vẻ đẹp tinh diệu của đường nét, màu sắc, hình khối, sự vận động tinh tế, trong sáng của cảnh vật mùa thu. Cảnh thu tuy đẹp mà buồn, buồn vì quá quạnh quẽ, vắng lặng, buồn vì người ngắm cảnh cũng đang chất chứa nỗi niềm thế sự của kẻ sĩ trước cảnh vong quốc mà thân lại nhàn nhã. Bài thơ Thu điếu không những thể hiện được cái hồn của cảnh thu mà còn đặc tả được nét đẹp mộc mạc giản dị của nông thôn đồng bằng Bắc bộ xưa. Bằng bút pháp tả cảnh ngụ tình, Nguyễn Khuyến đã khơi gợi trong lòng người đọc những xúc cảm chân thành, trong sáng, tha thiết về cảnh sắc làng quê. Qua bài thơ, ta hiểu thêm về tấm lòng nặng tình non nước và tài thơ Nôm độc đáo của thi nhân. Xem thêm: Nghị luận về chiến thắng của cái thiện đối với cái ác trong truyện cổ Tấm Cám
Topic: Analysis of the poem Thu Dieu by Nguyen Khuyen Autumn is a familiar theme of poetry. Poems written about autumn in medieval Vietnamese literature often describe beautiful, desolate, withered and sad scenes. The autumn scene is recorded in a conventional and symbolic way with touches, capturing the soul of creation. Nguyen Khuyen's funeral collection also has that poetic style. But Nguyen Khuyen is known as the poet of Vietnamese villages. For most of his life, he was attached to the countryside, harmonizing with and understanding his hometown. Therefore, the countryside scene in his poetry appears very realistic, simple, and delicate. Reading Thu eu eu, we encounter a typical autumn picture of the Northern lowland region, the poet's hometown. That is the new feature of the work compared to the traditional poetics of Vietnamese Medieval literature. Analysis of the poem Thu Dieu by Nguyen Khuyen Thu eulogy is written in Nom script, following the seven-word, eight-syllable Tang rule. The autumn scene is described in most of the eight verses, the human image only appears directly in the last two verses. The scene in the poem is still sky, water, wind, and bamboo - familiar poetic materials, but the soul of the poem has gone beyond the classical quatrain cliché. The first image described by the author is "autumn pond". The word "cold" describes the cold air of the autumn pond, as if that cold penetrates deep into human skin. The adjective "clear" absoluteizes the clarity of the water, while also suggesting the purity, immobility, and stillness of the pond's surface. The two sounds "eo" are sown in one sentence, making the feeling of coldness and condensation of space become more absolute, while also suggesting the small space of the pond. In the background of that autumn scene, a lonely, single, small fishing boat appeared. The singular number "one" combined with the word "shredded" makes the boat even smaller, as if shrinking into a dot on the pond floor, which is also tiny and clear to the bottom. The two sentences paint a very distinct, rustic, simple scene of the Northern autumn with the most characteristic features of the autumn air, the quality of autumn being cold and stillness. Autumn continues to appear with images of "blue waves" and "yellow leaves". The scene moves gently. The author was very sensitive and delicate in capturing the subtle fluctuations of creation. It is the "slightly rippled" movement of the waves, the gentle swaying of the yellow leaf, and the fragility and winding of the dim water vapor on the surface of the pond. See more: Your thoughts on the issue: Vietnam and the path of scientific and technological development. The two verses contrast very well, the things are closely related to each other, the wind blows, making waves and leaves. fall. The adjectives and adverbs "blue", "tiny", "yellow", "gentle", "veo" are used appropriately, rich in visual qualities, creating an elegant, green color picture. It has gold and evokes the flexibility and vitality of creation. The scene described in two sentences is actually dynamic, but because the movement is so soft, it is actually used to describe the stillness of autumn in the space of a hometown pond. The landscape space in the two essays does not stop at the surface of the pond but also expands in height and depth. The height is specified by the "floating" of the clouds and the depth of the blue sky. The color of the autumn sky seems to have a deep obsession in Nguyen Khuyen's soul, so in his autumn poems, he often mentions: "The autumn sky is so blue" (Autumn bay) or "Who dyed the sky blue?" cut off” (Damp collection). Therefore, the blue color of the sky is not simply a typical objective color of the autumn sky, but perhaps also a hidden mood, the depth of the poet's troubled soul. The depth of space is specified by the "winding" of the bamboo edge. The space in the two essays is densely blue, blue covering both height and width. The scenery is airy and quiet. The original word "empty" already clearly states silence, but "empty" means a deserted scene, without any movement, without any sound, without a shadow of a person. Therefore, the two verses suggest emptiness and loneliness in people's hearts. The image of a person appears directly in a sitting position with his knees tied up, in a state of contemplation. The poet sat fishing without paying attention to the fishing, so he was startled by the sound of the fish "snapping under the duck's feet". The space must be very quiet, the poet's soul must be very clear to hear such soft sounds clearly. The word "where is the fish" is a way of asking that both creates ambiguity in space and evokes surprise in people's hearts. The poet seems to have lost his sense of real space and is immersed in the space of thought, so he cannot clearly determine the direction of the noise even though he is sitting in a very small pond. The poet fishes but not to catch fish. Sentences are just an excuse to find peace of mind. During the sentence, the poet captured in his heart the exquisite beauty of lines, colors, shapes, and the delicate and pure movements of the autumn landscape. Although the autumn scene is beautiful, it is sad, sad because it is too lonely and quiet, sad because the person watching the scene is also filled with the worldly feelings of a scholar facing the loss of his country but his body is leisurely. The poem "Autumn Festival" not only expresses the soul of the autumn scene but also describes the simple, rustic beauty of the ancient Northern Delta countryside. With his pen depicting love scenes, Nguyen Khuyen evokes in the reader sincere, pure, and passionate emotions about the village scenery. Through the poem, we understand more about the poet's heavy heart and unique Nom poetic talent. See more: Essay on the victory of good over evil in the ancient story Tam Cam
Đề bài: Phân tích bài thơ Thu Điếu của nhà thơ Nguyễn Khuyến Bài làm Ngâm thơ đối ẩm hay câu cá đều là những thú vui tao nhã của những bậc ẩn sĩ, trí giả. Nhà thơ Nguyễn Khuyến được mệnh danh là Tam Nguyên Yên Đổ, từng làm quan trong triều nhưng sau này ông lui về ở ẩn tại quê nhà. Tại đây, khi hưởng thú điền viên ông đã sáng tác nên chùm thơ thu gồm ba bài, một trong số đó chính là bài thơ Thu Điếu. Thu Điếu là bài thơ được viết bằng chữ Nôm theo thể thất ngôn bát cú Đường luật. Đây chính là bài thơ tiêu biểu cho hồn thơ Nguyễn Khuyến, đồng thời cũng là bài thơ minh chứng cho việc ông được mệnh danh là “nhà thơ của làng cảnh Việt Nam”. Mở đầu bài thơ ta thấy ngay được không gian quen thuộc: “Ao thu lạnh lẽo nước trong veo Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo” Không gian được gợi mở đó chính là hai hình ảnh đối lập nhau nhưng lại mang nét hài hòa, cân đối. “Ao thu” với “thuyền câu”, một bên là không gian rộng lớn với một vật nhỏ bé “bé tẻo teo”. Vần “eo” là một vần rất khó nhưng lại được nhà thơ sử dụng hiệp vần một cách linh hoạt, tạo nên sự thú vị cho bài thơ. Cái ao thu xuất hiện khiến cho người đọc liên tưởng ngay đến một vùng nông thôn ở Bắc Bộ. Tại đây có lẽ đã vào cuối thu nên ao thu cho ta cảm giác “lạnh lẽo” như đang bắt đầu mang hơi thở của mùa đông. Cái ao thu ấy với làn nước trong veo và không gian vắng lặng này có dấu vết của con người đó chính là hình ảnh chiếc thuyền câu. Một không gian yên ắng, lạnh lẽo gợi cho ta thấy được sự cô đơn, tĩnh mịch của nhân vật trữ tình.Xem thêm: Trong bài thơ "Bài ca ngất ngưởng" của Nguyễn Công Trứ, giữa lối sống “ngất ngưởng" với tâm niệm "nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung" có gì mâu thuẫn không? Phân tích bài thơ để nêu rõ ý kiến của anh (chị) Phân tích bài thơ Thu Điếu Tiếp nối hai câu đề chính là hai câu tô đậm thêm khung cảnh của mùa thu: “Sóng biếc theo làn hơi gợn tí Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo” Hình ảnh thứ ba vẫn trong phạm vi cái ao thu. Nguyễn Khuyến đã vận dụng rất tài tình lối lấy động tả tĩnh. Mùa thu không có gió lớn mà làn sóng chỉ hơi gợn theo những cơn gió nhẹ. Nhắc đến thu thì không thể thiếu lá vàng rơi rụng. Tại đây Nguyễn Khuyến cũng không bỏ sót chi tiết đó. Những chiếc lá vàng theo đung đưa theo làn gió rồi rơi xuống ao. Trong không gian tĩnh lặng ấy khiến cho âm thanh của chiếc lá khi chạm xuống mặt nước trở nên rõ ràng. Hình ảnh này chúng ta đã từng bắt gặp trong thơ của Trần Đăng Khoa: “Ngoài thềm rơi chiếc lá đa Tiếng rơi rất mỏng như là rơi nghiêng” Qua bốn câu thơ đầu ta thấy được bức tranh mùa thu được tác giả gợi tả từ không gian nhỏ bé đó là trong phạm vi chiếc ao thu. Từng quan sát tinh tế của tác giả đã được vận dụng để phác họa nên bức tranh thu tuyệt đẹp. Trong bức tranh ấy ta không chỉ thấy cảnh vật, màu sắc mà dường như còn nghe thấy được âm thanh của sự sống. Nhưng đến hai câu thơ luận thì bức tranh thu đã được mở rộng cả về chiều cao, lẫn chiều sâu:Xem thêm: Phân tích bài thơ Từ Ấy của Tố Hữu hay nhất “Tầng mây lơ lửng, trời xanh ngắt Ngõ trúc quanh co, khách vắng teo” Không còn rơi tầm nhìn xuống ao thu nữa mà nhà thơ đã có sự di chuyển tầm mắt của mình lên cao, ra xa. Trên cao là bầu trời xanh ngắt với những đám mây lơ lửng. Bầu trời xanh chứ không xám xịt như mùa đông chính là đặc trưng của mùa thu quê hương, đồng thời cũng khiến ta cảm nhận được trạng thái mơ màng của chủ thể trữ tình. Không gian yên ắng đó khi nhà thơ nhìn vào con ngõ nhỏ phía trước thì chỉ thấy hàng trúc xanh và con ngõ quanh co, vắng lặng. Bài thơ tiêu đề là Câu Cá Mùa Thu nhưng cho tới đây ta mới chỉ thấy mùa thu chứ chưa thấy hoạt động câu cá nào cả. Cho tới tận hai câu thơ cuối thì nhà thơ mới cho chúng ta thấy bóng dáng của người câu cá: “Tựa gối buông cần lâu chẳng được Cá đâu đớp động dưới chân bèo” Nhân vật trữ tình hay chính là bóng dáng về con người đầu tiên xuất hiện trong bài thơ chính là người đi câu với tư thế “tựa gối buông cần”. Tác giả sử dụng “buông” chứ không phải là “ôm” để nổi bật lên phong thái ung dung, thong thả của một người đã về quê sống gắn bó với quê hương, rời xa thế sự. Tuy nhiên không hẳn là không qua tâm mà ông vẫn có khi suy nghĩ và để ý đến nó. Chính vì thế mà chỉ một tiếng cá đớp động rất nhẹ nhưng cũng khiến ông giật mình. Cá “đâu”, không biết rõ nó ở vị trí nào, không phải tiếng động lớn nhưng cũng khiến người câu giật mình bởi có lẽ ông đang mải suy nghĩ nhưng lại bất lực trước thời cuộc.Xem thêm: Bài văn kêu gọi ủng hộ người đồng tính Bài thơ Thu Điếu chính là một tác phẩm đặc sắc mà nhà thơ Nguyễn Khuyến dành cho người đọc. Qua bài thơ ta thấy được một tâm hồn yêu thiên nhiên tha thiết, gắn bó với thiên nhiên và tâm trạng của một vị quan vốn ở ẩn nhưng vẫn lo lắng cho vận mệnh của đất nước. Loan Trương
Topic: Analysis of the poem Thu Dieu by poet Nguyen Khuyen Assignment Reciting poetry or fishing are elegant pastimes of hermits and wise men. Poet Nguyen Khuyen, known as Tam Nguyen Yen Do, used to be a mandarin in the court, but later he retired to live in hiding in his hometown. Here, while enjoying the countryside, he composed a series of autumn poems including three poems, one of which is the poem Thu Dieu. Thu Dieu is a poem written in Nom according to the seven-word, eight-syllable Tang Luat style. This is a poem that represents the soul of Nguyen Khuyen's poetry, and is also a poem that proves that he is known as "the poet of Vietnamese landscape villages". At the beginning of the poem, we immediately see a familiar space: "Cold pond water is clear collected A tiny fishing boat atrophy" The suggested space is two opposing images but with harmony and balance. "Autumn pond" with "fishing boat", on one side is a large space with a small "tiny" object. The rhyme "eo" is a very difficult rhyme, but the poet uses it flexibly, creating an interesting rhyme for the poem. The appearance of the autumn pond makes readers immediately think of a rural area in the North. It's probably late fall here, so the autumn pond gives us a "cold" feeling like it's starting to take on the breath of winter. That autumn pond with its clear water and quiet space has human traces, which is the image of a fishing boat. A quiet, cold space reminds us of the loneliness and stillness of the lyrical character. See more: In the poem "Sweet Song" by Nguyen Cong Tru, between the "ecstatic" lifestyle and Is there any contradiction in the concept of "the king's duty and my righteousness"? Analyze the poem to clearly state your opinion. Analyze the poem Thu Dieu Following the two main sentences are two sentences that further highlight the autumn scene: “The blue waves follow the slight ripples Yellow leaves gently sway in the wind. The third image is still within the pond. Nguyen Khuyen has very skillfully used the style of using motion to describe static. In autumn there is no strong wind but the waves only ripple slightly with light winds. When talking about autumn, falling yellow leaves are indispensable. Here, Nguyen Khuyen also did not miss that detail. The yellow leaves swayed with the wind and then fell into the pond. In that quiet space, the sound of the leaf hitting the water became clear. We have seen this image in Tran Dang Khoa's poetry: “Outside the steps, a banyan leaf fell The sound of falling was very thin, like it was falling sideways." Through the first four verses, we can see the picture of autumn described by the author from the small space within the autumn pond. Each of the author's subtle observations has been applied to sketch a beautiful autumn picture. In that painting we not only see the scenery and colors but also seem to hear the sounds of life. But with the two verses of the essay, the autumn picture has expanded in both height and depth: See more: Analysis of To Huu's best poem Tu That “The clouds are floating, the sky is blue The bamboo alley is winding and there are few customers." No longer falling into the autumn pond, the poet has moved his gaze higher and farther away. Above is a blue sky with floating clouds. The blue sky, not gray like winter, is a characteristic of the homeland's autumn, and also makes us feel the dreamy state of the lyrical subject. In that quiet space, when the poet looked at the small alley in front, he only saw rows of green bamboo and a winding, quiet alley. The title poem is Autumn Fishing but up until now we have only seen autumn and not seen any fishing activities. It is not until the last two verses that the poet shows us the silhouette of the fisherman: “If you lean on the pillow and let go of the lever for a long time, it won't work The fish don't bite under the water duck's feet." The lyrical character or the first human figure appearing in the poem is the fisherman with the position of "leaning on his knees and letting go of his rod". The author uses "let go" rather than "hug" to highlight the leisurely and leisurely demeanor of a person who has returned to his hometown to live closely with his homeland, away from the world. However, it's not necessarily that he doesn't care, he still thinks about it and pays attention to it. That's why even the sound of a fish snapping was very slight but still startled him. "Where is the fish?" I don't know where it is. It's not a loud noise, but it still startles the fisherman because he's probably busy thinking but helpless in the face of the situation. See more: Essay calling for support gay people The poem Thu Dieu is a unique work that poet Nguyen Khuyen dedicates to readers. Through the poem we see a soul that loves nature passionately, is attached to nature and the mood of an official who lives in seclusion but still worries about the fate of the country. Loan Truong
Phân tích bài thơ Thu điếu và Thu vịnh của Nguyễn Khuyến Hướng dẫn Viết về mùa thu ở nông thôn nước ta, có lẽ Nguyễn Khuyến là nhà thơ có nhiều nét đặc sắc hơn cả. Chỉ qua hai bài ‘Thu điếu’ và ‘Thu vịnh’ ta cũng có thể khẳng định được điều đó. Trước hết mùa thu trong thơ Nguyễn Khuyên là một mùa thu đẹp, yên tĩnh, đầy thơ mộng. Một vòm trời cao, một màu xanh thăm thẳm đến không cùng: ‘Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao’. Một làn mây lơ lửng càng làm tăng thêm cái vẻ cao sâu của đất trời: ‘Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt’. Từ cái màu xanh ngắt của trời thu đến cái màu xanh ‘biếc’ của nước ao thu, rồi màu xanh của sóng, của bèo, của những bờ tre… tất cả đều xanh một màu xanh bát ngát. Xuân Diệu gọi đó là ‘cái điệu xanh’ của thơ thu Nguyễn Khuyến. Trong cái không gian cao rộng ấy, mọi vật trở nên nhỏ bé, mọi cử động trở nên nhẹ nhàng như để giữ cho được cái yên tĩnh của mùa thu. Ta như nghe được tiếng của những làn gió nhẹ, nhẹ đến mức chỉ đủ làm cho sóng ‘gợn’ một ‘tí’ thôi, đủ làm cho một chiếc ‘lá vàng’ rơi ‘khẽ’: ‘Sóng biếc theo làn hợi gợn tí, Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo’. Yên tĩnh đến mức một tiếng đớp mồi của chú cá nhỏ dưới chân bèo ta cũng nghe rõ. Xem thêm: Em hãy phát biểu về nhân vật Bốp và Entơni ở đoạn trích “Cứu bạn” trong tác phẩm “Hãy để ngày ấy lụi tàn” của Giêrơn Gođơn (Văn 6, Nhà xuất bản Giáo dục, 1996) Đêm thu, có thêm ánh trăng, có thêm tiếng ngỗng trời, cảnh vật yên tĩnh bỗng nhiên trở nén vắng vẻ. Mùa thu trong thơ Nguyễn Khuyến phảng phất một nỗi buồn man mác. Ta thấy mọi cảnh vật đều như ngưng đọng, đều như đơn chiếc; một chiếc thuyền câu ‘bé tẻo teo’, một chiếc lá vàng rơi, một ngõ trúc ‘vắng teo’, một cần trúc ‘lơ phơ’, một song thưa để mặc, rồi mấy chùm hoa năm ngoái, lại một tiếng ngỗng trên không… Mùa thu đượm buồn hay chính tâm tư Nguyên Khuyên đượm buồn! Điều đó càng làm cho ta thêm quý trọng Nguyễn Khuyến khi ta biết rằng: ông đã cáo quan trở về sống nơi thôn dã để giữ lấy phẩm chất thanh cao của mình, khi mà cái xã hội ‘lai Tây, lai Tàu’ đang diễn ra trước mắt ông bao điều nhục nhã. Nghệ thuật tả cảnh của ông thật điêu luyện. Vừa vẽ bằng mắt, bằng tai, vừa vẽ bằng tâm tưởng. Những màu sắc, đường nét, âm thanh đều hài hòa cân xứng và thanh nhã. Chọn lọc từ ngữ tài tình và sử dụng đúng chỗ, đến mức mà Xuân Diệu đã phải thốt lên: ‘Một nghệ sĩ cao tay’. Nguyễn Khuyến tả cảnh để ngụ tình. Một ông ngư ngồi câu cá đến mỏi gối vẫn chưa thấy cá cắn câu, một nhà thơ nhìn trăng, nhìn hoa toan cất bút thì bỗng thấy thẹn thùng… Phải chăng chính đó là nỗi buồn man mác, là tâm sự u hoài của một nhà thơ có nhân cách đáng quý./. Nguồn: thêm: Phân tích “Hai đứa trẻ” để chứng minh cho một nhận định của Thạch Lam: “Cái đẹp man mác khắp vũ trụ, len lỏi khắp hang cùng ngõ hẻm, tiềm tàng ở mọi vật tầm thường'’
Analysis of the poems Thu eulogy and Thu bay by Nguyen Khuyen Instruct Writing about autumn in our country's countryside, perhaps Nguyen Khuyen is the poet with the most unique features. Just through the two songs 'Thu eu' and 'Thu bay' we can confirm that. First of all, autumn in Nguyen Khuyen's poetry is a beautiful, quiet, poetic autumn. A high dome of sky, an endlessly deep blue: 'The autumn sky is blue several stories high'. A floating cloud further enhances the depth of heaven and earth: 'The clouds are suspended in a blue sky'. From the blue of the autumn sky to the 'blue' color of autumn pond water, then the green of the waves, the water hyacinths, and the bamboo banks... everything is an immense green. Xuan Dieu calls it the 'green melody' of Nguyen Khuyen's autumn poetry. In that high and wide space, everything becomes small, every movement becomes gentle as if to maintain the quietness of autumn. We can hear the sound of gentle breezes, so light that they are just enough to make the waves 'ripple' a 'little', enough to make a 'yellow leaf' fall 'gently': 'Blue waves follow the ripples, Yellow leaves gently sway in the wind. So quiet that even the sound of a small fish biting the bait at the duck's feet can be clearly heard. See more: Please speak about the characters Bop and Entoni in the excerpt "Save your friends" in the work "Let that day fade away" by Jeron Godan (Vol. 6, Education Publishing House, 1996) On an autumn night, with more moonlight and the sound of wild geese, the quiet scene suddenly became deserted. Autumn in Nguyen Khuyen's poetry carries a subtle sadness. We see all scenes as stagnant, as alone; a 'tiny' fishing boat, a fallen yellow leaf, a 'deserted' bamboo alley, a 'loose' bamboo pole, a thin rattan to wear, then a few bunches of last year's flowers, and a goose sound above Are not… Is autumn sad or Nguyen Khuyen's thoughts are sad? That makes us appreciate Nguyen Khuyen even more when we know that: he told the mandarin to return to live in the countryside to maintain his noble qualities, when the 'half-Western, half-Chinese' society was happening. many humiliating things appeared before his eyes. His art of depicting scenes is truly masterful. Draw with your eyes, ears, and mind. The colors, lines, and sounds are all harmonious, symmetrical, and elegant. Choosing words skillfully and using them in the right places, to the point that Xuan Dieu had to exclaim: 'A skilled artist'. Nguyen Khuyen describes the scene to imply love. A fisherman sat fishing until his knees were tired and still didn't see a fish bite. A poet looked at the moon and flowers and was about to put away his pen when he suddenly felt shy... Could that be the deep sadness, the melancholy feelings of a man? The poet has a noble personality./. Source: more: Analysis of "Two Children" to prove Thach Lam's statement: "Beauty is everywhere in the universe, creeping through every cave and alley, hidden in every ordinary thing."
Đề bài: Phân tích bài thơ Thuật hoài (tỏ lòng) của Phạm Ngũ Lão. Phạm Ngũ Lão (1255 – 1320), người làng Phù ủng, huyện Đường Hào, nay thuộc huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên, là một danh tướng đời Trần. Tuy xuất thân từ tầng lớp bình dân song chí lớn tài cao nên ông nhanh chóng trở thành tùy tướng số một bên cạnh Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn. Phạm Ngũ Lão từng tham gia hai cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên – Mông, ông cùng những tên tuổi lớn khác của triều đình đã lập nên nhiều chiến công hiển hách, góp phần quan trọng tạo nên hào khí Đông Á của thời đại đó. Phạm Ngũ Lão làm bài Thuật hoài vào cuối nằm 1284, khi cuộc kháng chiến lần thứ hai đã đến rất gần. Bài thơ này là một tác phẩm nổi tiếng, được lưu truyển rộng rãi vì nó bày tỏ khát vọng mãnh liệt của tuổi trẻ trong xã hội phong kiến đương thời: làm trai phải trả cho xong món nợ công danh, có nghĩa là phải thực hiện đến cùng lí tưởng trung quân, ái quốc. Nội dung bài thơ khắc họa nổi bật vẻ đẹp của một con người có sức mạnh, có lí tưởng, nhân cách cao cả cùng khí thế hào hùng của thời đại. Phiên âm chữ Hán: Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu, Tam quân tì hổ khí thôn ngưu. Nam nhi vị liễu công danh trải, Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu. Dịch thơ tiếng Việt: Múa giáo non sông trải mấy thu, Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu. Công danh nam tử còn vương nợ, Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ hâu. (Bùi Văn Nguyên dịch) Bài thơ được Phạm Ngũ Lão sáng tác trong bối cảnh đặc biệt có một không hai của lịch sử nước nhà. Triều đại nhà Trần (1226 – 1400) là một triều đại lẫy lừng với bao chiến công vinh quang, mấy lần quét sạch quân xâm lược Nguyên – Mông hung tàn ra khỏi bờ cõi, giữ vững sơn hà xã tắc, nêu cao truyền thống bất khuất của dân tộc Đại Việt. Phạm Ngũ Lão sinh ra và lớn lên trong thời đại ấy nên ông sớm thấm nhuần tinh thần yêu nước, tự hào, tự tôn dân tộc và nhất là lí tưởng trung quân, ái quốc của đạo Nho. ông nhận thức rất rõ ràng về trách nhiệm công dân trước vận mệnh của đất nước: Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách. Bài thơ có nhan đề chữ Hán là Thuật hoài: Thuật là kể lại, là bày tỏ; hoài là nỗi lòng. Dịch thành Tỏ lòng, nghĩa là bày tỏ khát vọng, hoài bão trong lòng. Chủ thể trữ tình ở đây là vị danh tướng trẻ tuổi đang chỉ huy quân đội làm nhiệm vụ gìn giữ non sông. Nguyên tác Thuật hoài bằng chữ Hán, theo thể thất ngôn tứ tuyệt luật Đường, niêm luật chặt chệ, ý tứ hàm súc, hình tượng kì vĩ, âm điệu hào hùng, ở hai câu thơ đầu, tác giả bày tộ niềm tự hào to lớn về quân đội của triều đình; trong đó có mình – một vị tướng. Nhà thơ đã khắc họa vẻ đẹp gân guốc, lẫm liệt, tràn đầy sức sống của những chiến binh quả cảm. Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thụ. Dịch nghĩa: Cầm ngang ngọn giáo bảo vệ giang sơn đã mấy mùa thu. Dịch thơ: Múa giáo non sông trải mấy thu. So với nguyên văn chữ Hán thì câu thơ dịch chưa lột tả được hết chất oai phong, kiêu hùng trong tư thế của người lính đang chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Hoành sóc là cầm ngang ngọn giáo. Luôn ở tư thế tấn công dũng mãnh, áp đảo quân thù. Tư thế của những con người chính nghĩa lồng lộng trong không gian rộng lớn là giang sơn đất nước suốt một thời gian dài. Có thể nói đây là hình tượng chủ đạo, tượng trưng cho dân tộc Đại Việt quật cường, không một kẻ thù nào khuất phục được. Từ hình tượng ấy, ánh hào quang của chủ nghĩa yêu nước ngời ngời tỏa sáng. Xem thêm: Phân tích hình tượng cây xà nu trong Rừng xà nu (Có dàn ý chi tiết)Câu thơ thứ hai: Tam quân tì hổ khí thôn ngưu. Dịch nghĩa: Ba quân như hổ báo, khí thế hùng dũng nuốt trôi trâu. Dịch thơ: Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu đặc tả khí thế chiến đấu và chiến thắng không gì ngăn cản nổi của quân dân ta. Hai câu tứ tuyệt chi mười bốn chữ ngắn gọn, cô đúc nhưng đã tạc vào thời gian một bức tượng đài tuyệt đẹp về người lính quả cảm với khí thế dũng mãnh, sẵn sàng xả thân giết giặc cứu nước của đạo quân Sát Thát nổi tiếng đời Trần. Là một thành viên trong đạo quân anh hùng ấy, Phạm Ngũ Lão từ một chiến binh dày dạn đã trở thành một danh tướng khi tuổi còn rất trẻ. Trong con người ông luôn sôi sục khát vọng công danh của đấng nam nhi thời loạn. Mặt tích cực của khát vọng công danh ấy chính là ý muốn được chiến đấu, cống hiến đời mình cho vua, cho nước. Như bao kẻ sĩ cùng thời, Phạm Ngũ Lão tôn thờ lí tưởng trung quân, ái quốc và quan niệm: Làm trai đứng ở trong trời đất, Phải có danh gì với núi sông (Chí làm trai – Nguyễn Công Trứ). Bởi thế cho nên khi chưa trả hết nợ công danh thì bản thân tự lấy làm hổ thẹn: Nam nhi vị liễu công danh trái, Tu thính nhân gian thuyết Vũ hẩu. (Công danh nam tử còn vương nợ, Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ hầu.) Câu thứ ba, thứ tư nói lên khát vọng của Phạm Ngũ Lão là tận tâm phụng sự triều đại nhà Trần cho đến hết đời, lập được công danh sánh ngang với Gia Cát Lượng. Gia Cát Lượng (Khổng Minh) là quân sư số một của LƯU Bị, có mưu trí tuyệt vời. Song điểm làm cho Gia Cát Lượng nổi tiếng lại là lòng tuyệt đối trung thành với chủ. Ông đã từng phát biểu quan điểm của mình là: Cúi mình tận tụy, đến chết mới thôi. Trở lại câu thơ thứ nhất, ta thấy Phạm Ngũ Lão mới phụng sự được có mấy thu (tức là mấy năm), muốn được như Gia Cát Lượng thì ông còn phải phụng sự nhiều lắm, lâu lắm! Câu thơ thứ tư: Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ hầu thực chất là một lời thề suốt đời trung thành với chủ tướng Trần Hưng Đạo của Phạm Ngũ Lão. Hai câu thơ sau âm hưởng khác hẳn hai câu thơ trước. Cảm xúc hào sảng ban đầu dần chuyển sang trữ tình, sâu lắng, như lời mình nói với mình. Như thế ta có thể hiểu vì sao mà Phạm Ngũ Lão lại dùng từ thẹn. Cũng có thể đây là cách nói thể hiện khát vọng, hoài bão của ông là muốn noi gương thần tượng của mình, muốn sánh VỚI Vũ hầu. Lấy gương sáng trong lịch sử cổ kim rồi soi mình vào đó mà so sánh, phấn đấu vươn lên cho bằng người, đó là tòng tự ái, tự trọng đáng quý cẩn phải có ở một đấng trượng phu. Là một tùy tướng thân cận của Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn, Phạm Ngụ Lão luôn sát cánh bên cạnh chủ tướng, chấp nhận xông pha nơi làn tên mũi đạn, làm gương cho ba quân tướng sĩ. Ông đã dồn hết tài năng, tâm huyết để tìm ra những cách đánh thần kì nhất nhằm quét sạch quân xâm lược ra khỏi bờ cõi. Phạm Ngũ Lão suy nghĩ rất cụ thể và thiết thực: một ngày còn bóng quân thù là nợ công danh của tuổi trẻ với giang sơn xã tắc vẫn còn vương, chưa trả hết. Mà như vậy tức là phận sự với vua, với nước chưa tròn, khát vọng công danh chưa thỏa. Cách nghĩ, cách sống của Phạm Ngũ Lão rất tích cực, tiến bộ. Ông muốn sống cho xứng đáng với thời đại anh hùng, dân tộc anh hùng. Phạm Ngũ Lão là một võ tướng tài ba nhưng lại có trái tim vô cùng nhạy cảm của một thi nhân. Thuật hoài là bài thơ trữ tình bày tỏ được hùng tâm tráng khí và hoài bão lớn lao của tuổi trẻ đương thời. Bài thơ có tác dụng giáo dục sâu sắc về nhân sinh quan và lối sống tích cực đối với thanh niên mọi thời đại. Thuật hoài đã vinh danh vị tướng trẻ văn võ song toàn Phạm Ngũ Lão đến muôn đời sau. Xem thêm: Cảm nghĩ của em khi bước vào trường trung học phổ thông
Đề bài: Phân tích bài thơ Thuật hoài (tỏ lòng) của Phạm Ngũ Lão. Phạm Ngũ Lão (1255 – 1320), người làng Phù ủng, huyện Đường Hào, nay thuộc huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên, là một danh tướng đời Trần. Tuy xuất thân từ tầng lớp bình dân song chí lớn tài cao nên ông nhanh chóng trở thành tùy tướng số một bên cạnh Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn. Phạm Ngũ Lão từng tham gia hai cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên – Mông, ông cùng những tên tuổi lớn khác của triều đình đã lập nên nhiều chiến công hiển hách, góp phần quan trọng tạo nên hào khí Đông Á của thời đại đó. Phạm Ngũ Lão làm bài Thuật hoài vào cuối nằm 1284, khi cuộc kháng chiến lần thứ hai đã đến rất gần. Bài thơ này là một tác phẩm nổi tiếng, được lưu truyển rộng rãi vì nó bày tỏ khát vọng mãnh liệt của tuổi trẻ trong xã hội phong kiến đương thời: làm trai phải trả cho xong món nợ công danh, có nghĩa là phải thực hiện đến cùng lí tưởng trung quân, ái quốc. Nội dung bài thơ khắc họa nổi bật vẻ đẹp của một con người có sức mạnh, có lí tưởng, nhân cách cao cả cùng khí thế hào hùng của thời đại. Phiên âm chữ Hán: Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu, Tam quân tì hổ khí thôn ngưu. Nam nhi vị liễu công danh trải, Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu. Dịch thơ tiếng Việt: Múa giáo non sông trải mấy thu, Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu. Công danh nam tử còn vương nợ, Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ hâu. (Bùi Văn Nguyên dịch) Bài thơ được Phạm Ngũ Lão sáng tác trong bối cảnh đặc biệt có một không hai của lịch sử nước nhà. Triều đại nhà Trần (1226 – 1400) là một triều đại lẫy lừng với bao chiến công vinh quang, mấy lần quét sạch quân xâm lược Nguyên – Mông hung tàn ra khỏi bờ cõi, giữ vững sơn hà xã tắc, nêu cao truyền thống bất khuất của dân tộc Đại Việt. Phạm Ngũ Lão sinh ra và lớn lên trong thời đại ấy nên ông sớm thấm nhuần tinh thần yêu nước, tự hào, tự tôn dân tộc và nhất là lí tưởng trung quân, ái quốc của đạo Nho. ông nhận thức rất rõ ràng về trách nhiệm công dân trước vận mệnh của đất nước: Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách. Bài thơ có nhan đề chữ Hán là Thuật hoài: Thuật là kể lại, là bày tỏ; hoài là nỗi lòng. Dịch thành Tỏ lòng, nghĩa là bày tỏ khát vọng, hoài bão trong lòng. Chủ thể trữ tình ở đây là vị danh tướng trẻ tuổi đang chỉ huy quân đội làm nhiệm vụ gìn giữ non sông. Nguyên tác Thuật hoài bằng chữ Hán, theo thể thất ngôn tứ tuyệt luật Đường, niêm luật chặt chệ, ý tứ hàm súc, hình tượng kì vĩ, âm điệu hào hùng, ở hai câu thơ đầu, tác giả bày tộ niềm tự hào to lớn về quân đội của triều đình; trong đó có mình – một vị tướng. Nhà thơ đã khắc họa vẻ đẹp gân guốc, lẫm liệt, tràn đầy sức sống của những chiến binh quả cảm. Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thụ. Dịch nghĩa: Cầm ngang ngọn giáo bảo vệ giang sơn đã mấy mùa thu. Dịch thơ: Múa giáo non sông trải mấy thu. So với nguyên văn chữ Hán thì câu thơ dịch chưa lột tả được hết chất oai phong, kiêu hùng trong tư thế của người lính đang chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Hoành sóc là cầm ngang ngọn giáo. Luôn ở tư thế tấn công dũng mãnh, áp đảo quân thù. Tư thế của những con người chính nghĩa lồng lộng trong không gian rộng lớn là giang sơn đất nước suốt một thời gian dài. Có thể nói đây là hình tượng chủ đạo, tượng trưng cho dân tộc Đại Việt quật cường, không một kẻ thù nào khuất phục được. Từ hình tượng ấy, ánh hào quang của chủ nghĩa yêu nước ngời ngời tỏa sáng. Xem thêm: Phân tích hình tượng cây xà nu trong Rừng xà nu (Có dàn ý chi tiết)Câu thơ thứ hai: Tam quân tì hổ khí thôn ngưu. Dịch nghĩa: Ba quân như hổ báo, khí thế hùng dũng nuốt trôi trâu. Dịch thơ: Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu đặc tả khí thế chiến đấu và chiến thắng không gì ngăn cản nổi của quân dân ta. Hai câu tứ tuyệt chi mười bốn chữ ngắn gọn, cô đúc nhưng đã tạc vào thời gian một bức tượng đài tuyệt đẹp về người lính quả cảm với khí thế dũng mãnh, sẵn sàng xả thân giết giặc cứu nước của đạo quân Sát Thát nổi tiếng đời Trần. Là một thành viên trong đạo quân anh hùng ấy, Phạm Ngũ Lão từ một chiến binh dày dạn đã trở thành một danh tướng khi tuổi còn rất trẻ. Trong con người ông luôn sôi sục khát vọng công danh của đấng nam nhi thời loạn. Mặt tích cực của khát vọng công danh ấy chính là ý muốn được chiến đấu, cống hiến đời mình cho vua, cho nước. Như bao kẻ sĩ cùng thời, Phạm Ngũ Lão tôn thờ lí tưởng trung quân, ái quốc và quan niệm: Làm trai đứng ở trong trời đất, Phải có danh gì với núi sông (Chí làm trai – Nguyễn Công Trứ). Bởi thế cho nên khi chưa trả hết nợ công danh thì bản thân tự lấy làm hổ thẹn: Nam nhi vị liễu công danh trái, Tu thính nhân gian thuyết Vũ hẩu. (Công danh nam tử còn vương nợ, Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ hầu.) Câu thứ ba, thứ tư nói lên khát vọng của Phạm Ngũ Lão là tận tâm phụng sự triều đại nhà Trần cho đến hết đời, lập được công danh sánh ngang với Gia Cát Lượng. Gia Cát Lượng (Khổng Minh) là quân sư số một của LƯU Bị, có mưu trí tuyệt vời. Song điểm làm cho Gia Cát Lượng nổi tiếng lại là lòng tuyệt đối trung thành với chủ. Ông đã từng phát biểu quan điểm của mình là: Cúi mình tận tụy, đến chết mới thôi. Trở lại câu thơ thứ nhất, ta thấy Phạm Ngũ Lão mới phụng sự được có mấy thu (tức là mấy năm), muốn được như Gia Cát Lượng thì ông còn phải phụng sự nhiều lắm, lâu lắm! Câu thơ thứ tư: Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ hầu thực chất là một lời thề suốt đời trung thành với chủ tướng Trần Hưng Đạo của Phạm Ngũ Lão. Hai câu thơ sau âm hưởng khác hẳn hai câu thơ trước. Cảm xúc hào sảng ban đầu dần chuyển sang trữ tình, sâu lắng, như lời mình nói với mình. Như thế ta có thể hiểu vì sao mà Phạm Ngũ Lão lại dùng từ thẹn. Cũng có thể đây là cách nói thể hiện khát vọng, hoài bão của ông là muốn noi gương thần tượng của mình, muốn sánh VỚI Vũ hầu. Lấy gương sáng trong lịch sử cổ kim rồi soi mình vào đó mà so sánh, phấn đấu vươn lên cho bằng người, đó là tòng tự ái, tự trọng đáng quý cẩn phải có ở một đấng trượng phu. Là một tùy tướng thân cận của Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn, Phạm Ngụ Lão luôn sát cánh bên cạnh chủ tướng, chấp nhận xông pha nơi làn tên mũi đạn, làm gương cho ba quân tướng sĩ. Ông đã dồn hết tài năng, tâm huyết để tìm ra những cách đánh thần kì nhất nhằm quét sạch quân xâm lược ra khỏi bờ cõi. Phạm Ngũ Lão suy nghĩ rất cụ thể và thiết thực: một ngày còn bóng quân thù là nợ công danh của tuổi trẻ với giang sơn xã tắc vẫn còn vương, chưa trả hết. Mà như vậy tức là phận sự với vua, với nước chưa tròn, khát vọng công danh chưa thỏa. Cách nghĩ, cách sống của Phạm Ngũ Lão rất tích cực, tiến bộ. Ông muốn sống cho xứng đáng với thời đại anh hùng, dân tộc anh hùng. Phạm Ngũ Lão là một võ tướng tài ba nhưng lại có trái tim vô cùng nhạy cảm của một thi nhân. Thuật hoài là bài thơ trữ tình bày tỏ được hùng tâm tráng khí và hoài bão lớn lao của tuổi trẻ đương thời. Bài thơ có tác dụng giáo dục sâu sắc về nhân sinh quan và lối sống tích cực đối với thanh niên mọi thời đại. Thuật hoài đã vinh danh vị tướng trẻ văn võ song toàn Phạm Ngũ Lão đến muôn đời sau. Xem thêm: Cảm nghĩ của em khi bước vào trường trung học phổ thông
Đề bài: Phân tích bài thơ Thương vợ của Trần Tế Xương Trần Tế Xương (bút danh là Tú Xương) là nhà thơ trào phúng nổi tiếng, có lẽ là nhà thơ trào phúng đặc sắc nhất trong nền văn học của nước nhà. Thơ trào lộng, châm biếm, đả kích của Tú Xương sở dĩ được nhiều người yêu thích vì có tính chất trữ tình (trong tiếng cười có nước mắt). Dòng trữ tình trong thơ Tú Xương đôi khi được tách ra thành những bài thơ trữ tình thuần khiết, thấm thía. Hai kiệt tác “Sông Lấp” và “Thương vợ” tiêu biểu cho dòng thơ trữ tình của Tú Xương. Bài thơ sau đây là bài “Thương vợ” của Tú Xương: “Quanh năm buôn bán ở mom sông, Nuôi đủ năm con với một chồng. Lặn lội thân cò khi quãng vẵng, Eo sèo mặt nước buổi đò đông. Một duyên hai nợ âu đành phận, Năm nắng mười mưa dám quản công. Cha mẹ thói đời ăn ở bạc, Có chồng hờ hững cũng như không!” Trần Tế Xương lận đận trong thi cử, đi thi đến lần thứ tám mới đậu được cái tú tài. Ông học giỏi nhưng phải cái ngông quá, thật ra thái độ ngông của ông là một cách ông phản kháng lại chế độ thi cử lạc lậu, quan trường “ậm ọc” lúc bấy giờ. Mà đậu được cái tú tài thì rồi cũng làm “quan tại gia” thôi. Hồi đó phải đậu cử nhân mới được bổ tri huyện. Thế là bà Tú gần như phải nuôi chồng suốt đời. Ông Tú chỉ còn biết đem tài hoa của mình mà ghi công cho bà Tú: “Quanh năm buôn bán ở mom sống, Nuôi đủ năm con với một chồng”. Từ “mom” thật là hay, vừa thấy được nỗi gian truân của bà Tú buôn bán quanh năm bên bờ sông Vị, vừa thấy được tấm lòng của nhà thơ đối với việc buôn bán khó nhọc của vợ. Từ “mom” là tổng hợp nghĩa của các từ ven, bờ, vực, thềm, thành một từ sáng tạo của nhà thơ làm giầu thêm cho tiếng Việt. Bà Tú buôn thúng bán bưng quanh năm ở “mom sông” mà nuôi chồng, nuôi con: “Nuôi đủ năm con với một chồng” Câu thơ chỉ mấy con số khô khốc thế vậy mà tế toái lắm đó! “Nuôi đủ năm con” là vì con, phải nuôi, nên đếm ra để mà nuôi. Nhưng còn chồng thì một chồng chứ mấy chồng, cớ sao lại cũng phải đếm ra “một chồng”? Là vì chồng cũng phải nuôi, mà bà Tú với cái gánh trên vai nuôi năm đứa con đã là vất vả, lại thêm một ông Tú trong nhà nữa thì gánh nặng gấp đôi. Thời đó mà nuôi một ông Tú, lại là Tú Xương nữa thì nhiêu khê lắm. Nhưng bà Tú được an ủi là vì ông Tú, cái con người tưởng như chỉ biết bông đùa, cười cợt đó lại để tâm đến từng bước chân của bà trên đường lặn lội buôn bán: “Lặn lội thân cò khi quãng vắng, Eo sèo mặt nước buổi đò đông” Có thể nói lòng thương vợ của nhà thơ dào dạt lên trong hai câu thơ này. Hình ảnh lặn lội thân cò được tác giả mô phỏng theo một biểu tượng trong thi ca dân gian để nói về người phụ nữ lao động: Xem thêm: Viết đoạn văn bàn về được và mất trong cuộc sống“Con cò lặn lội bờ sông Gánh tạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non” Nếu như từ “lặn lội” được đảo ra phía trước chủ ngữ để nhấn mạnh sự vất vả của bà Tú, thì từ “eo sèo” gợi lên âm thanh hỗn tạp (tiếng kì kèo mặc cả, tiếng cãi cọ tranh giành) của “buổi đò đông”. Hai tình huống đối lập thật hay: “vắng” và “đông”. Người phụ nữ gánh hàng lặn lội trên quãng đường vắng thật là khổ. Mà đến chỗ “đò đông” thì thật là đáng sợ! Nghĩa là nhìn từ phía nào, nhà thơ cũng thương vợ, tình thương thấm thía, cảm động. Sang hai câu luận, tác giả chuyển sang diễn tả nội tâm của bà Tú, lời thơ như lời độc thoại của người vợ: “Một duyên hai nợ âu đành phận, Năm nắng mười mưa dám quản công” Nhân dân ta thường nói “vợ chồng là duyên nợ”. Nhà thơ Tú Xương đã chỉ từ ghép “duyên nợ” thành hai từ đơn: “duyên – nợ”. “Duyên” thì thiêng liêng rồi vì đã có sự tham gia của đấng vô hình (ông Tơ bà Nguyệt), còn “nợ” thì đã thành trách nhiệm nặng nề. “Một duyên hai nợ” đã diễn tả được sự vận động trong tâm trí của bà Tú. “Một duyên hai nợ âu đành phận” là bà Tú đã thuận theo lòng trời và thuận theo lòng người (tấm lòng của chính bà!). Nói gọn lại là bà Tú đã chấp nhận! Và chấp nhận cuộc hôn nhân duyên nợ này, bà chấp nhận một ông đồ nho ngông “tám khoa chưa khỏi phạm trường quy”, bà chấp nhận vị quan “ăn lương vợ” nên bà đâu “dám quản công”: “Năm nắng mười mưa dám quản công” Thành ngữ “dầm mưa dãi nắng” được tác giả vận dụng sáng tạo thành “năm nắng mười mưa”. Phải nói những con số trong thơ Tú Xương rất có thần. Ta đã thấm thía với hai số năm – một trong câu thừa đề (Nuôi đủ năm con với một chồng). Giờ đây là sự linh diệu của những con số một – hai và năm – mười trong câu luận. “Một duyên hai nợ” đối với “Năm nắng mười mưa”, cho thấy gian khổ cứ tăng lên, bà Tú chịu đựng hết. Trước người vợ giỏi giang, tần tảo, chịu đựng mọi gian lao vất vả để “nuôi đủ năm con với một chồng” thì nhà thơ chỉ còn biết tự trách mình. “Cha mẹ thói đời ăn ở bạc, Có chồng hờ hững cũng như không!” Vì quá thương vợ mà nhà thơ tự trách mình, trách một cách nặng nề. “Cha mẹ thói đời…” thì đã thành lời xỉ vả mình. Thật ra là một cách ông Tú nhún mình để cho công trạng của bà Tú nổi lên, chứ Tú Xương đâu phải là người “ăn ở bạc”. Ăn chơi sa đà thì có, “hờ hững” nữa, thì nhà thơ đã thành thật nói rồi, chứ bạc tình, bạc nghĩa thì không. Gang thép với cường quyền mà nhũn với vợ như thế thì thật là con người đáng kính. Bằng tình cảm chân thành, bằng nghệ thuật sống động, Tú Xương đã thể hiện được hình ảnh người phụ nữ giỏi giang, lam lũ, tần tảo nuôi chồng nuôi con. Bà Tú có những phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ Việt Nam xưa. Bao nhiêu công trạng trong gia đình, ông Tú giành cho bà Tú, ông chỉ nhận về cho mình một chữ “không”. Nhưng bình tâm mà xét thì ông Tú cũng xứng với bà Tú vì trên đất nước gian lao và vất vả này có hàng triệu người như bà Tú, nhưng chỉ có một bà Tú là được vào cõi thơ, cõi bất tử! Nguồn Edufly Xem thêm: Các Mác nói: "Mọi tiết kiệm, suy cho cùng là tiết kiệm thời gian”, Hãy giải thích và làm sáng tỏ câu nói trên
Topic: Analysis of the poem Loving Wife by Tran Te Xuong Tran Te Xuong (pen name Tu Xuong) is a famous satirical poet, perhaps the most outstanding satirical poet in the country's literature. Tu Xuong's satirical, satirical, and offensive poetry is loved by many people because of its lyrical nature (within laughter there are tears). Lyrical lines in Tu Xuong's poetry are sometimes separated into pure, poignant lyric poems. The two masterpieces "Song Lap" and "Loving Wife" represent Tu Xuong's lyrical poetry. The following poem is "Love Your Wife" by Tu Xuong: “Trading all year round at Mom River, Raising five children with one husband. Swimming around with a stork's body at leisure, The tightness of the water surface during the winter ferry. One fate, two debts, Year of sunshine, ten days of rain, dare to manage the work. Parents have bad living habits, Having an indifferent husband is as good as not having one!” Tran Te Xuong failed in the exam and took the exam for the eighth time before passing the baccalaureate. He studied well but was too arrogant. In fact, his arrogant attitude was a way of protesting against the illegal examination system and "burdensome" officialdom at that time. If you pass the baccalaureate, you will eventually become a "house official". Back then, you had to pass a bachelor's degree to be appointed district governor. So Mrs. Tu had to support her husband almost all his life. Mr. Tu could only use his talent to give credit to Mrs. Tu: “All year round I do business where my mother lives. Raise five children with one husband." The word "mom" is really good, it shows both the hardships of Mrs. Tu, who sells all year round on the banks of the Vi River, and the poet's heart for his wife's hard work. The word "mom" is a combination of the meanings of the words edge, shore, abyss, shelf, into a creative word of the poet that enriches the Vietnamese language. Mrs. Tu sells baskets all year round at "river mother" to support her husband and children: “Raising five children with one husband” The poem only has a few dry numbers, but it's so delicate! "Raising five children" means that for the sake of children, we must raise them, so we should count them to raise them. But as for husbands, there are only one husband, not many husbands, so why do we have to count out "one husband"? Because her husband also has to take care of her, Mrs. Tu has a hard time raising five children on her shoulders, and adding a Mr. Tu in the house doubles the burden. At that time, raising a Mr. Tu, and also a Tu Xuong, was very difficult. But Mrs. Tu was comforted because Mr. Tu, that person who seemed to only know how to joke and laugh, paid attention to her every step on the way to do business: "Diving like a stork in the deserted space, The tightness of the water surface on a winter boat day" It can be said that the poet's love for his wife overflows in these two verses. The author's image of diving with a stork's body is modeled after a symbol in folk poetry to talk about working women: See more: Write a paragraph discussing gain and loss in life "The stork waded along the riverbank Carrying the burden of making my husband cry loudly" If the word "dive" is inverted in front of the subject to emphasize Ms. Tu's hardship, then the word "seo" evokes the mixed sounds (bargaining, arguing) of the mother. "winter ferry". Two very nice contrasting situations: "empty" and "crowded". The woman carrying goods traveling on empty roads is truly miserable. Coming to the "crowded ferry" is really scary! That means from any direction, the poet loves his wife, his love is profound and touching. In the next two sentences, the author moves on to describe Mrs. Tu's inner feelings, the poem is like a wife's monologue: “One fate, two debts, Dare to manage the work in five sunny or ten rainy years" Our people often say "husband and wife are fate". Poet Tu Xuong pointed out the compound word "debt" into two single words: "destiny - debt". "Destiny" is already sacred because of the participation of an invisible being (Mr. To and Mrs. Nguyet), and "debt" has become a heavy responsibility. “One fate, two debts” describes the movement in Ms. Tu's mind. "One fate, two fates" means that Mrs. Tu has followed the will of heaven and the heart of people (her own heart!). In short, Mrs. Tu accepted! And accepting this predestined marriage, she accepted an arrogant man who "didn't break the rules after eight classes", she accepted a mandarin who "earned his wife's salary" so she didn't "dare to manage the public": "Dare to manage the work in five sunny or ten rainy years" The idiom "during the rain and the sun" is creatively applied by the author to "a year of sunshine and ten days of rain". It must be said that the numbers in Tu Xuong's poetry are very magical. I have deeply understood the two numbers five - one in the redundancy sentence (Raising five children with one husband). Now here is the magic of the numbers one - two and five - ten in the essay. "One fate, two debts" compared to "Years of sunshine, ten rains", shows that the hardships keep increasing, Mrs. Tu endures them all. Faced with a talented, diligent wife who endures all hardships to "raise five children with one husband", the poet can only blame herself. “Parents are accustomed to living a bad life, Having an indifferent husband is as good as not having one!” Because he loved his wife so much, the poet blamed himself, severely. "Parents have worldly habits..." is already an insult to me. In fact, it was a way for Mr. Tu to humble himself so that Ms. Tu's merits would stand out, but Tu Xuong is not a "good-natured" person. Yes, there is indulgence in indulgence, "indifference" too, the poet has honestly said, but no lovelessness or ingratitude. But being so weak with steel and power towards his wife is truly an honorable person. With sincere feelings and vivid art, Tu Xuong has shown the image of a talented, hard-working woman who diligently takes care of her husband and children. Mrs. Tu has the good qualities of ancient Vietnamese women. No matter how much credit Mr. Tu gave to Mrs. Tu in the family, he only received the word "no" for himself. But if you think about it calmly, Mr. Tu is worthy of Mrs. Tu because in this hard-working and difficult country there are millions of people like Mrs. Tu, but only one Mrs. Tu can enter the realm of poetry, the realm of immortality! Source Edufly See more: Marx said: "All savings, in the end, are savings of time", Please explain and clarify the above statement
Đề bài: Phân tích bài thơ Thương Vợ của Tú Xương Bài làm Trần Tế Xương là một vị tú tài nổi tiếng ở đất thành Nam. Ông sáng tác rất nhiều bài thơ và để lại nhiều ấn tượng đối với những người yêu thơ. Bài thơ Thương Vợ là một trong những sáng tác hay nhất của ông. Bài thơ thể hiện tình cảm sâu sắc của Tú Xương dành cho người vợ của mình. Mở đầu bài thơ, nhà thơ đã khắc họa hình ảnh bà Tú vất vả nuôi con: “Quanh năm buôn bán ở mom sông Nuôi đủ năm con với một chồng” Từ “quanh năm” ở đầu câu thơ không chỉ mang ý nghĩa là thời gian kéo dài, năm này qua năm khác mà còn để gợi lên hình ảnh bà Tú đầu tắt mặt tối đi làm kiếm tiền để nuôi con. Công việc của bà chính là buôn bán, một công việc hết sức nặng nhọc và nhất là lại diễn ra quanh năm, không lúc nào được ngơi tay. Thêm vào đó, không chỉ nặng nhọc mà còn có sự nguy hiểm. Ông Tú không đùng từ “ven sông” mà lại là “mom sông”. Như ta đã biết thì “mom sông” chỉ là một khoảng đất nhỏ chìa ra lòng sông và đó là khoảng không gian chật hẹp hơn với ba bề là mặt nước. Có thể thấy đó là địa điểm chất chứa những mối nguy hiểm nhất định. Bà Tú phải đi làm quần quật quanh năm, phải chấp nhận những sóng gió, hiểm nguy chính bởi vì để có thể “Nuôi đủ năm con với một chồng”. Phân tích bài thơ Thương Vợ Ngay ở đầu bài thơ ta đã thấy được Tú Xương tự nhận mình là một kẻ ăn bám, một người đàn ông trụ cột của gia đình nhưng lại để cho người phụ nữ oằn lưng kiếm sống để nuôi con, nuôi mình. Ông không gộp năm con với mình thành sáu miệng ăn mà tách riêng còn mang theo ý nghĩa rằng một mình ông thì tiền sinh hoạt, ăn uống có khi bằng hoặc hơn cả năm đứa con mình cộng lại. Ông càng thấy vợ vất vả bao nhiêu thì càng cảm thấy mình vô tích sự bấy nhiêu, càng cảm thông cho nỗi vất vả, cực nhọc của vợ. Không chỉ thế ông còn dùng hình ảnh quen thuộc trong ca dao, dân ca để khắc họa rõ nét hơn sự cực nhọc của bà Tú:Xem thêm: Em chọn và phân tích cái hay của một tác phẩm văn học ở lớp 7 mà em thích nhất “Lặn lội thân cò khi quãng vắng Eo sèo mặt nước buổi đò đông” Thân cò ở đây tượng trưng cho bà Tú nói riêng và những người phụ nữ trong gia đình nói chung. Từ hình ảnh “Con cò lặn lội bờ ao” trở thành “lặn lội thân cò” như càng tô đậm thêm sự gian truân, ngược xuôi kiếm sống. Nhất là “thân cò” ấy vốn nhỏ bé nhưng lại kiếm sống không phải cho riêng bản thân mình mà còn cho “năm con với một chồng”. Câu thơ thứ ba nói về nơi vắng vẻ có thân cò lặn lội còn ở ngay câu dưới thì lại có sự đối lập. Từ “eo sèo” khiến cho ta liên tưởng đến trong công việc buôn bán của bà Tú có những người kỳ kèo mặc cả, cãi cọ nhau. Buổi đò đông còn Với lời thơ nhẹ nhàng nhưng lại chứa đựng tình cảm chân thành, thiết tha của nhà thơ. Ông Tú càng thêm trân trọng bà Tú và thấu hiểu nỗi vất vả của bà để thay vợ nói lên lời tâm sự: “Một duyên hai nợ âu đành phận Năm nắng mười mưa dám quản công” Nhà thơ đã sáng tạo từ “duyên nợ” thành “một duyên hai nợ” với ý nghĩa sâu sắc khi muốn nói rằng duyên số vợ chồng đến với nhau, duyên thì ít mà nợ thì nhiều. Tuy nhiên bà Tú lại không hề than thân, trách phận mà vẫn tần tảo nắng mưa. Chính sự nhẫn nhịn, chịu đựng đó khiến ông thấy được vợ của mình là một người rất nhân hậu và giàu đức hi sinh. Qua đó cũng phần nào cho thấy sự tự trách về việc không làm tròn trách nhiệm của người chồng, người cha của ông Tú. Thậm chí ở ngay hai câu thơ cuối ông đã tự dằn vặt mình, tự chửi chính bản thân mình:Xem thêm: Thuyết minh về một nhà văn đã được tìm hiểu trong chương trình Ngữ văn 8 “Cha mẹ thói đời ăn ở bạc Có chồng hờ hững cũng như không” Không chỉ chửi anh chồng vô tích sự là mình mà còn chửi luôn cả cái thói đời bạc bẽo sản sinh ra loại chồng vô tích sự, ăn hại như ông. Tú Xương càng thấy vợ khổ cực bao nhiêu thì lại càng thấy mình ăn ở “bạc” bấy nhiêu. Câu thơ nhưng lời lên tiếng chửi mát tất cả những đấng mày râu đã và đang làm khổ vợ con mình, chẳng những không giúp được gì cho vợ mà còn để vợ nuôi mình. Đó cũng là tình cảnh phổ biến trong xã hội cũ. Bài thơ Thương Vợ là tất cả tấm lòng biết ơn sâu sắc, là niềm thương cảm, thấu hiểu của Tú Xương đối với cuộc đời đầy gian truân, cực nhọc của bà Tú. Hình ảnh bà Tú hiện lên trong lời thơ của ông là biểu tượng cho những người phụ nữ Việt Nam với biết bao những phẩm chất tốt đẹp. Loan Trương
Topic: Analysis of the poem Loving Wife by Tu Xuong Assignment Tran Te Xuong is a famous baccalaureate in the Southern city. He composed many poems and left many impressions on poetry lovers. The poem Loving Wife is one of his best compositions. The poem shows Tu Xuong's deep feelings for his wife. At the beginning of the poem, the poet portrays the image of Mrs. Tu struggling to raise her children: “We do business all year round at Mom River Raising five children with one husband" The word "all year round" at the beginning of the poem not only means a long period of time, year after year, but also evokes the image of Mrs. Tu working day and night to earn money to raise her children. Her job is trading, a very hard job and especially takes place all year round, never having a break. Plus, not only is it heavy, it's also dangerous. Mr. Tu does not use the word "riverside" but "river mother". As we know, "river mom" is just a small piece of land jutting out into the river bed and it is a narrower space with water on three sides. It can be seen that it is a place containing certain dangers. Mrs. Tu had to work hard all year round and had to accept hardships and dangers precisely because she could "raise five children with one husband". Analyze the poem Loving Wife Right at the beginning of the poem, we see that Tu Xuong identifies himself as a parasite, a breadwinner of the family, but lets the woman struggle to make a living to feed her children and herself. He did not combine the five children with him into six mouths to feed, but separate them with the meaning that for him alone, the cost of living and food was sometimes equal to or more than his five children combined. The more he saw his wife struggling, the more useless he felt, and the more he sympathized with his wife's hardships. Not only that, he also used familiar images in folk songs and folk songs to more clearly portray Mrs. Tu's hardships: See more: I choose and analyze the beauty of a literary work in grade 7 that I wrote. like most “Diving around like a stork when the space is empty The tightness of the water surface on a winter boat day" The stork's body here symbolizes Mrs. Tu in particular and the women in the family in general. From the image of "Stork wading around the pond" to "diving around the body of a stork" seems to further highlight the hardships of going back and forth to make a living. Especially that "stork body" is small but makes a living not only for herself but also for "five children and one husband". The third verse talks about a deserted place with a stork's body wandering around, while in the verse below there is a contrast. The word "negotiation" makes us think of Mrs. Tu's business, where there are people haggling and arguing with each other. The ferry is still crowded With gentle lyrics but containing the poet's sincere and passionate feelings. Mr. Tu appreciates Mrs. Tu even more and understands her hardships so he can express his feelings on his wife's behalf: “One fate, two debts Dare to manage the work in five sunny or ten rainy years" The poet created the word "debt of fate" into "one fate of two debts" with a profound meaning when he wanted to say that the fate of husband and wife coming together is that the fate is little but the debt is much. However, Ms. Tu did not feel sorry for herself or blame her fate, but still worked hard in the sun and rain. It was that patience and endurance that made him see that his wife was a very kind and sacrificial person. This also partly shows Mr. Tu's self-blame for not fulfilling his responsibilities as a husband and father. Even in the last two verses, he tormented himself and cursed himself: See more: Explanation about a writer who was learned in the Literature 8 program “Parents have bad living habits Having an indifferent husband is as good as not having a husband." Not only do I curse my useless husband, but I also curse the ungrateful life habits that produce useless, harmful husbands like him. The more Tu Xuong saw his wife suffering, the more he felt like he was living "poorly". The poem's words curse all the men who have been making their wives and children suffer, not only not being able to help their wives, but also allowing them to support them. That is also a common situation in old societies. The poem Loving Wife is all about Tu Xuong's deep gratitude, sympathy and understanding for Mrs. Tu's life full of hardships and hardships. The image of Mrs. Tu appearing in his poems is a symbol of Vietnamese women with so many good qualities. Loan Truong
Phân tích bài thơ Thương vợ của Tú Xương Hướng dẫn Bài thơ Thương Vợ của Tú Xương đã tạo cho người đọc cảm nhận được sự hóm hỉnh hài hước trong thơ ông. Nhưng với ngòi bút tinh tế, sắc sảo cùng như tình cảm của tác giả với người vợ của mình lời thơ còn là cái cười chua chát về cuộc đời, về thân phận những người phụ nữ trong xã hội lúc bấy giờ. Mở đầu bài thơ, ông đã cho người đọc hình dung sự vất vả của vợ mình "Quanh năm buôn bán ở mom sông Nuôi đủ năm con với một chồng" Mom sông là nơi cheo leo, nguy hiểm khó khăn vất vả, hoàn toàn không phù hợp với những người phụ nữ chân yếu tay mền. Thế mà bà Tú vẫn mặc cảnh "mom sông", vẫn "quanh năm buôn bán", cuộc đời bà dường như gắn bó với chốn lầy lội chênh vênh này. Với cách làm ăn trên, ta dễ đoán cuộc sống gia đình bà Tú cũng rất chênh vênh. Thế mà bà vẫn "nuôi đủ năm con với một chồng" hai câu thơ sau lại đi theo một xu hướng hoàn toàn khác, đảo ngược suy nghĩ của người đọc. "Đủ" là thế nào? Có thể là cách nói của riêng ông Tú, tự ông cảm thấy vợ mình qúa đảm đang, cuộc sống gia đình mình mới được chu toàn. Như vậy là quá hạnh phúc, quá "đủ" rồi chăng? Cũng có thể hiểu "nuôi đủ" nghĩa là nuôi hết cả, không trừ ai. Cái chua chát trong cái hài hước là chỗ đó: một "ông chồng" cũng được xếp ngang hàng với những đứa con, để vợ phải "nuôi" (!) Ở đây còn có sự nhấn mạnh, đay lại, lặp lại các số từ: "năm con với một chồng". Các số từ "năm" và "một" ấy làm cho gánh nặng của bà Tú trong cuộc đời tần tảo vì chuyện sinh nhai càng trở nên nặng nề. Có vẻ trong ý thơ tác giả cũng có chút phê phán người chồng, một kẻ nam nhi nhưng vô dụng, phải sống nhờ vào sự tần tảo của vợ, đồng thời ca ngợi tấm lòng cao cả, đảm đang, giỏi giang của những người phụ nữ ấy. Bằng tình yêu gia đình, bằng sự cần cù chịu khó của mình, họ có thể cùng gia đình chéo chống vượt qua những khó khăn trong cuộc sống. Trong ca dao xưa, hình ảnh người phụ nữ tần tảo, chịu thương chịu khó thường gắn với hình ảnh con cò, ở đây tác giả cũng mượn hình ảnh con cò để nói về người vợ của mình. "Lặn lội thân cò khi quãng vắng Eo sè mặt nước buổi đò đông" Sử dụng đảo ngữ với các từ gợi cảm "lặn lội" "eo sè", nhà thơ một lần nữa muốn tô đậm cái vất vả của bà Tú. Hình ảnh con còn ẩn dụ buộc ta chạnh nhớ đến câu ca dao thân thuộc. "Con cò lặn lội bờ sông Xem thêm: Phân tích đoạn thơ sau trong bài Bên kia sông Đuống của Hoàng Cầm: Em ơi buồn làm chi... Sao xót xa như rụng bàn tay Gánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non" "Tiếng khóc nỉ non"! Câu ca dao nghe mà xôn xang cả lòng. Cũng giống như cò, bà Tú cũng gánh gạo nuôi chồng, nuôi con, một mình chống chọi với cuộc sống khắc nghiệt, chống chọi cả với những cô đơn. Nhưng con cò thì bật lên tiếng khóc còn bà Tú thì cam chịu với số phận của mình. "Một duyên hai nợ âu đành phận Năm nắng, mười mưa dám quản công" Lời than không phải lời của Bà Tú mà chính là lời của Tú Xương than thay cho vợ mình. "Một duyên, hai nợ, ba tình", cái công thức mang đậm nét Á Đông xưa kia nói lên những mối phiền muộn ở đời lại được đặt vào bài thơ này. Cái sọi dây ràng buộc vô hình không phương tháo gỡ luôn thắt chặt lấy ông Tú với bà Tú. Hóa ra, cái khổ là do duyên, là bỏi bà Tú lấy phải ông Tú làm chồng (!) Vậy, nguyên nhân của nỗi khổ mà bà Tú phải gánh chịu là do ông Tú! Nhưng bà vẫn không hề phàn nàn, vẫn nhẫn nại và cam phận: "Năm nắng, mười mưa dám quản công". Các số từ một lần nữa lại được sử dụng một cách hữu hiệu để nói cái nỗi nhọc nhằn của bà Tú. Nói cách khác, ông Tú ở đây muốn động viên bà Tú một cách xót xa. Viết Thương vợ, Trần Tế Xương thực ra còn có nỗi thương mình và xót xa thay cho thân tình thế thái. Cho nên hai câu thơ cuối không còn là tiếng cười hài hước chua chát mà là tiếng chửi, tiếng than thân trách phận mình: "Cha mẹ thói đời ăn ở bạc Có chồng hờ hững cũng như không" Chính những bất công trong cái thời đại ấy, chế độ ấy – nó đã khiến cho những kẻ tài năng như Tú Xương trở thành gánh nặng đối với gia đình. Tuy nhiên, ngay trong cái tiếng chửi vẫn còn có chất hài hước. Chửi "thói đời" nhưng mà cũng chửi mình. Chẳng có ai lại tự nêu nguyên nhân nỗi khổ của vợ lại chính là…. mình như vậy. Bằng ngời bút sắc sảo của mình, Tú Xương đã khắc họa lên hình ảnh những người phụ nữ Việt Nam cần cù chịu khó, tần tảo sớm hôm nuôi gia đình chồng con, cái phẩm chất ấy thật đáng quý, đáng tự hào. Thương Vợ của Tú Xương là lời tâm sự, là sự phê phán của tác giả và những người có cùng hoàn cảnh như ông với cái xã hội thối nát lúc bấy giờ. Xã hội ấy đã dành mất chỗ đứng của những con người tài năng như ông, khiến ông thành kẻ bất lực, ăn bám vào người vợ yếu ớt của mình. Nguồn: thêm: Cảm nghĩ về một tình huống đáng cười mà mình gặp trong cuộc sống
Analysis of the poem Loving Wife by Tu Xuong Instruct Tu Xuong's poem Loving Wife makes readers feel the humor and humor in his poetry. But with a delicate, sharp pen and the author's feelings for his wife, the poem is also a bitter laugh about life and the fate of women in society at that time. At the beginning of the poem, he lets the reader imagine his wife's hardships "Trading all year round at Mom River Raising five children with one husband" Mom River is a dangerous, difficult and strenuous place, completely unsuitable for women with weak limbs. Yet Mrs. Tu still wears the "river mother" status, still "works all year round", her life seems to be tied to this muddy and unstable place. With the above way of doing business, we can easily guess that Mrs. Tu's family life is also very unstable. Yet she still "raised five children with one husband." The following two verses follow a completely different trend, reversing the reader's thinking. What does "enough" mean? Maybe it was Mr. Tu's own way of saying it, he felt that his wife was too capable, and that his family life was complete. Is that too happy, too "enough"? It can also be understood that "raising enough" means raising everyone, without exception. The bitterness in the humor is that: a "husband" is also placed on the same level as children, for the wife to "raise" (!) Here there is also an emphasis, repetition, repetition of numbers. from: "five children and one husband". The numbers "five" and "one" make Mrs. Tu's burden in her life of working hard to make a living even heavier. It seems that in the poem's intention, the author also criticizes the husband, a manly man but is useless, having to rely on his wife's diligence, and at the same time praises the noble, responsible, and talented hearts of those who that woman. With love for family and diligence, they can work together with their families to overcome difficulties in life. In ancient folk songs, the image of a diligent, hard-working woman is often associated with the image of a stork. Here, the author also borrows the image of a stork to talk about his wife. "Diving like a stork in the deserted space Waking up on the water on a winter ferry" Using anagrams with the suggestive words "diving" "waist", the poet once again wants to highlight Mrs. Tu's hardships. The image of a child also metaphorically forces us to remember a familiar folk song. "The stork wades along the riverbank See more: Analysis of the following poem in Hoang Cam's poem "The Other Side of Duong River": My dear, why are you so sad... Why are you so sad like your hand is falling apart? Carrying rice to her husband and crying softly. "The sound of sobbing"! Listening to the folk song makes my heart flutter. Just like the stork, Mrs. Tu also carries rice to feed her husband and children, fights a harsh life alone, and even fights loneliness. But the stork burst into tears and Mrs. Tu resigned herself to her fate. "One fate, two debts Five days of sunshine, ten years of rain, dare to take charge" The lament is not Mrs. Tu's words but Tu Xuong's words on behalf of his wife. "One fate, two debts, three loves", the ancient Asian formula expressing the troubles in life is placed in this poem. The invisible and unbreakable bondage always tightens Mr. Tu and Mrs. Tu. It turned out that the suffering was due to fate, because Mrs. Tu married Mr. Tu (!) So, the cause of the suffering that Mrs. Tu had to endure was because of Mr. Tu! But she still did not complain, remained patient and resigned: "If it's sunny in ten years, if it's rainy in ten years, I dare to manage the work." Numbers are once again used effectively to express Mrs. Tu's hardships. In other words, Mr. Tu here sadly wants to encourage Ms. Tu. Writing Loving His Wife, Tran Te Xuong actually felt sorry for himself and felt sorry for his mother's situation. Therefore, the last two lines of the poem are no longer bitter, humorous laughter, but curses and self-pity: "Parents have bad living habits Having an indifferent husband is as good as not having a husband." It was the injustices in that era and that regime that made talented people like Tu Xuong become a burden to their families. However, even in the cursing there is still humor. Cursing "life habits" but also cursing yourself. No one would say that the cause of their wife's suffering is... I'm like that. With her sharp writing, Tu Xuong has portrayed the image of Vietnamese women who are diligent and hard-working, working day and night to raise their husbands and children, a quality that is truly precious and worth being proud of. Tu Xuong's Loving Wife is a confession and criticism of the author and people in the same situation as him regarding the corrupt society at that time. That society took away the place of talented people like him, making him helpless, dependent on his weak wife. Source: more: Feelings about a funny situation I encountered in life
Đề bài: Phân tích bài thơ tiến sĩ giấy của Nguyễn Khuyến. Trung thu trăng sáng như gương. Tết Trung thu là Tết của trẻ nhỏ, người lớn thường bày cỗ trông trăng và làm nhiều đổ chơi cho các em. Ngày xưa, để khuyến khích con cháu chăm lo học hành, ông bà, cha mẹ hay tặng thứ đồ chơi đặc biệt là hình nộm ông tiến sĩ, gọi là ông tiến sĩ giấy hay ông nghè tháng Tám. Chỉ cần vài que tre, dăm ba miếng giấy màu là bàn tay khéo léo của nghệ nhân đã làm ra bộ dạng ông tiến sĩ ở thời điểm vinh quang nhất: lúc vinh quy bái tổ. Bài thơ Tiến sĩ giấy nằm trong phần thơ trào phúng của Nguyễn Khuyến. Nhưng trào phúng thường phải ngụ trữ tình mới hay. Mọi người đều biết Tam Nguyên Yên Đổ cũng là một ông nghè nổi tiếng tài ba, thừa hiểu tiến sĩ giấy chỉ là thứ đồ chơi cho trẻ con, vậy mà sao còn làm thơ chế giễu? Mở đầu bài thơ, Nguyễn Khuyến viết: Cũng cờ, cúng biển, cũng cân đai, Cũng gọi ông nghè có kém ai! Tác giả đang tả thực ông tiến sĩ giấy với đủ các thứ sang trọng vua ban cho ngày vinh quy như cờ, biển, cân đai và cũng gọi là ông nghè. Tại sao chỉ trong hai câu mà nhà thơ lại dùng một loạt bốn từ cũng? Đọc lên âm điệu giống như thể hiện thái độ ngạc nhiên trước một sự lạ. Người đọc ngầm hiểu là trong đời có những ông tiến sĩ những ông nghè thật, xứng đáng với các thứ cờ, biển, cân đai đó, còn ông tiến sĩ này tuy cũng đầy đủ các thứ và cũng được người đời gọi bằng ông nghè nhưng chẳng có chút giá trị nào, vì đó chỉ là một ông nghè giả làm bằng giấy. Nghĩa đen là thế, còn nghĩa bóng là tuy cũng có đủ thứ quý giá thật đấy nhưng tài cán, đức hạnh chẳng ra gì. Ngụ ý thâm thuý của Nguyễn Khuyến là vừa tả hình dáng ông tiến sĩ giấy, vừa gợi cho người đọc liên tưởng đến những kẻ tuy mang danh tiến sĩ, áo mũ xênh xang nhưng thật sự chẳng có một chút tài đức nào. Hai câu thực tiếp tục phát triển ý nghĩa ấy: Mảnh giấy làm nên thân giáp bảng, Nét son điểm rõ mặt văn khôi. Với vài mảnh giấy xanh xanh, đỏ đỏ, người làm đồ chơi bồi bồi, dán dán thành hình một ông tiến sĩ giấy, mặt mày phết màu trắng rồi dùng màu son tô điểm cho đẹp. Phần ấy là giả. Còn thân giáp bảng (giáp bảng là bảng thứ nhất sơn vàng nên còn được gọi là bảng vàng), dùng để ghi danh những người đỗ đại khoa, từ tiến sĩ trở lên. Văn khôi nghĩa là tài giỏi về văn chương. Mặt văn khôi là cách gọi những tiến sĩ có tài xứng với học vị cao quý đó. Làm nên thân giáp bảng và điểm rõ mặt văn khôi đâu phải chĩ cần mấy mảnh giấy và vài nét son mà thành. Phải bao năm đèn sách, có khi suốt cả đời, lại phải là kẻ thông minh, tài cao, chí lớn, gặp thầy gặp bạn mới nên danh chứ đâu có dễ dàng gì. Tuy vậy, ở đời không ít những vị tiến sĩ bằng xương bằng thịt, học hàm học vị hẳn hoi nhưng cũng chẳng khác gì loại tiến sĩ giấy. Cái thân giáp bảng và mặt văn khôi chẳng qua cũng chỉ là kết quả của những mảnh giấy do chạy chọt bằng thế lực đồng tiền và những nét son vẽ vời bôi bác để che mắt thiên hạ. Dù sao, cái thật và cái giả ở đây cũng vẫn còn lẫn lộn, chưa phân biệt rạch ròi! Cái giả chưa được tác giả đem ra phê phán. Hai câu luận: Xem thêm: Phân tích - Bình giảng đoạn thơ sau trong bài "Việt Bắc" (10-1945) của Tố Hữu: "Những đường Việt Bắc của ta... Đèn pha bật sáng như ngày mai lên."Tấm thân xiêm ảo sao mà nhẹ, Cái giá khoa danh ấy mới hời. Không còn lấp lửng, bóng gió nữa, từ miêu tả bên ngoài, nhà thơ đã đi vào đánh giá bên trong, vẫn nói vể ông tiến sĩ giấy như: tấm thân nhẹ, cái giá hời bởi làm bằng giấy và bán giá rẻ mạt nhưng ý tứ đã vượt ra ngoài hình hài người giấy mà chĩa thẳng vào các vị khoác trên mình xiêm áo ông nghè nhưng tài năng, đạo đức nhẹ tênh, suốt đời không làm nổi việc gì xứng đáng với danh vị cao quý ấy. Vậy mà cũng vênh vang với Gái danh ông nghè, ông thám, thì quả là cái giá khoa danh ấy quá rẻ, quá hời, chĩ nhờ dịp may mà mua được. Ý nghĩa trào lộng, châm biếm sâu cay của đoạn thơ đến đây đã thể hiện rất rõ. Như thế là không phải chỉ đến Tết Trung thu mới xuất hiện hàng loạt rrhững ông tiến sĩ giấy, mà tiến sĩ giấy hằng ngày có mặt khắp nơi. Trong đám quan lại của triều đình nhà Nguyễn cuối thế kĩ XIX, thiếu chi thân giáp bảng, mặt văn khôi nhưng cũng chẳng hơn gì loại tiến sĩ giấy. Lớp trước sợ giặc, hèn nhát đầu hàng. Lớp sau dựa vào lí lẽ tùy thời, ra làm quan với triều đình bù nhìn, ngoan ngoãn chấp nhận kiếp làm tay sai cho thực dân Pháp. Đến đây thì xiêm áo không chỉ nhẹ, khoa danh không chỉ hời mà đã thành dơ bẩn. Cho nên tác giả mới kết thúc bài thơ bằng hai câu nhận xét thâm thuý: Ghế chéo, lọng xanh ngồi bảnh choẹ, Nghĩ rằng đồ thật hóa đồ chơi! Trở lại với tựa đề bài thơ và hai đối tượng một hiện, một ẩn là ông tiến sĩ giấy và ông tiến sĩ bằng xương bằng thịt, chúng ta thấy giá trị chẳng khác gì nhau. Có một điều lạ là giọng thơ Nguyễn Khuyến rõ ràng có ý phê phán, cười cợt nhưng không phải phê phán, cười cợt một cách thoải mái, hả hê mà phảng phất trong lời chế giễu ấy có cả sự tự chế giễu bản thân. Bởi cụ cũng là một ông nghè đích thực, hơn nữa là Tam Nguyên Yên Đổ nổi danh, nhưng trước tình cảnh tang thương của đất nước lúc bấy giờ, cũng đành thở dài ngậm ngùi, buông xuôi, bất lực. Ghế chéo, lọng xanh ngồi bảnh choẹ là lời bình phẩm theo kiểu nâng nhân vật lên cao để rồi bật ra cái cười mỉa mai chua chát, đắng cay khi phải phơi bày sự thực là tiến sĩ thật hay tiến sĩ giấy giờ đây cũng đểu là thứ đồ chơi mà thôi! Nỗi đau tuy chưa chảy thành nước mắt nhưng cứ rưng rức ở trong lòng nhà thơ. Bài thơ Tiến sĩ giấy mới đọc qua tưởng chỉ ià một bài thơ vịnh vật đơn thuần nhưng suy ngẫm kĩ, ta sẽ thấy nó hàm ẩn chất trào phúng trữ tình sâu thẳm, thật đáng trân trọng. Xem thêm: Phân tích hình ảnh người đàn bà làng chài trong “Chiếc thuyền ngoài xa”- Văn 12
Topic: Analysis of Nguyen Khuyen's doctoral poem. The mid-autumn moon is as bright as a mirror. Mid-Autumn Festival is a children's festival, adults often set up a moon feast and make many games for the children. In the past, to encourage children and grandchildren to take care of their studies, grandparents and parents often gave a special toy, an effigy of a doctor, called a paper doctor or August teacher. With just a few bamboo sticks and a few pieces of colored paper, the skillful hands of the artist created the appearance of the doctor at his most glorious moment: when he honored his ancestors. The poem Paper Doctor is included in Nguyen Khuyen's satirical poetry section. But satire often has to be lyrical to be good. Everyone knows that Tam Nguyen Yen Do is also a famous and talented young man. He understands that paper doctors are just toys for children, so why does he still write mocking poems? At the beginning of the poem, Nguyen Khuyen wrote: The same flag, the sea offering, the same belt weight, Calling him poor is no less! The author is realistically describing the paper doctor with all the luxuries bestowed by the king on the day of honor such as flags, plaques, belt scales and is also called Mr. Nghe. Why does the poet use a series of four words in just two sentences? Reading out loud sounds like expressing surprise at something strange. The reader implicitly understands that in life there are doctors, real poor men, worthy of those flags, plaques, and belts, and this doctor, although he also has all these things, is also called a poor man. but it has no value at all, because it is just a fake poor man made of paper. That's the literal meaning, but the figurative meaning is that although there are many valuable things, talent and virtue are nothing. Nguyen Khuyen's profound implication is to both describe the appearance of a paper doctor and remind readers of people who, despite having the title of doctor and fancy blue hat, actually do not have any talent or virtue. Two sentences continue to develop that meaning: The piece of paper that makes up the body of the board, Lipstick highlights the writer's face clearly. With a few pieces of green, blue, red and red paper, the toy maker glued it into the shape of a paper doctor, with his face painted white and then used lipstick to decorate it beautifully. That part is fake. The body borders the board (the board border is the first board painted gold, so it is also called the gold board), used to register those who pass the university entrance exam, from doctorates and above. Literature means talented in literature. Literary aspect is the way to call talented PhDs worthy of that noble degree. Building a strong body and clearly marking a writer's face doesn't take just a few pieces of paper and a few strokes of lipstick. It takes many years of studying, sometimes a lifetime, and one must be intelligent, talented, and ambitious, meeting teachers and friends to become famous, it's not easy. However, in life there are many flesh-and-blood doctorates who have academic degrees but are no different from paper doctorates. The armored body and literary face are just the result of pieces of paper manipulated by the power of money and smeared lipstick to hide from people's eyes. Anyway, the real and the fake here are still mixed up and not clearly distinguished! The author has not criticized the fake. Two arguments: See more: Analysis - Commentary on the following poem in the poem "Viet Bac" (October 1945) by To Huu: "Our Viet Bac roads... The headlights turn on like tomorrow." why so light, That famous price is a bargain. No longer vague or insinuating, from the external description, the poet has gone into internal evaluation, still talking about the paper doctor as: light body, bargain price because it is made of paper and sold at a cheap price. But the meaning has gone beyond the paper human form and is pointed straight at those who wear the clothes of a poor man but are talented, have weak morals, and have not been able to do anything worthy of that noble title in their entire lives. Even though she is arrogant with a girl who is famous for being a poor man or a detective, the price of that famous name is indeed too cheap, too good, only thanks to luck to buy it. The satirical and deeply satirical meaning of the poem up to this point is clearly shown. So it's not just during the Mid-Autumn Festival that a series of paper doctors appear, but paper doctors are everywhere every day. Among the mandarins of the Nguyen court at the end of the 19th century, the young man had an armored body and a handsome face but was no better than a paper doctor. The previous class was afraid of the enemy and cowardly surrendered. The next class relied on the arguments of the time, became mandarins with the puppet court, and obediently accepted their lives as lackeys for the French colonialists. At this point, clothes are not only light, reputation is not only cheap but has become dirty. That's why the author ends the poem with two profound comments: Diagonal chairs, green parasols sit elegantly, Think real things become toys! Returning to the title of the poem and the two objects, one visible and one hidden, the paper doctor and the flesh-and-blood doctor, we see that the values ​​are no different. One strange thing is that the voice of Nguyen Khuyen's poetry clearly intends to criticize, to laugh but not to criticize, to laugh freely, gloatingly but with a hint of self-mockery in that mockery. Because he was also a true poor man, moreover the famous Tam Nguyen Yen Do, but faced with the tragic situation of the country at that time, he had to sigh sadly, give up, and be helpless. The diagonal chair and green parasol sitting elegantly is a comment that lifts the character up high and then bursts out into a bitter, ironic laugh when having to expose the fact that whether a real doctorate or a paper doctorate is now a jerk. It's just a toy! Although the pain has not yet turned into tears, it still lingers in the poet's heart. When we first read the poem Doctor Paper, we thought it was just a simple poetic poem, but if we ponder carefully, we will see that it contains a deep lyrical satire, which is truly worthy of respect. See more: Analysis of the image of the fishing village woman in "The boat in the distance" - Text 12
Phân tích bài thơ Tiếng gà trưa của Xuân Quỳnh Hướng dẫn ..Bài thơ ‘Tiếng gà trưa’ được nữ sĩ viết vào những năm đầu cuộc kháng chiến chống Mĩ, in trong tập thơ ‘Hoa dọc chiến hào’ (1968). Bài thơ có 43 câu, trong đó có 39 càu thơ ngũ ngôn, bốn câu thơ có ba chữ. Câu thơ ‘Tiếng gà trưa’ được điệp lại bốn lần, cứ ngân vang mãi trong tâm hồn người lính trên đường hành quân ra trận, như tiếng gọi của quê nhà thân thương. Dòng cảm xúc từ hiện tại man mác và bâng khuâng trôi về những năm tháng tuổi thơ với bao kỉ niệm cảm động về đàn gà và ổ trứng hồng, về người bà đôn hậu, đã làm sâu nặng tình yêu đất nước quê hương. ‘Tiếng gà trưa’ là một âm thanh đồng vọng của gia đình, của xóm làng quê, trở thành hành trang của người lính trẻ. 1. Đoạn thơ đầu bảy câu nói về tâm trạng người chiến sĩ trên đường hành quân xa. Tiếng gà nhà ai nhảy ổ: ‘Cục… cục tác cục ta’ cất lên nơi xóm nhỏ. Tiếng gà nhà ai nhảy ổ là âm thanh bình dị, thân thuộc của làng quê ta đã bao đời nay. Đối với người lính trẻ lại vô cùng xúc động. Tiếng gà trưa đã làm ‘xao động’ nắng trưa và cả hồn người. Như cho người lính thêm sức mạnh mới. Như gợi nhớ tuổi thơ. Chữ ‘nghe’ được điệp lại ba lần với sự chuyển đổi cảm giác tinh tế đã làm cho giọng thơ thêm phần ngọt ngào, tha thiết, bồi hồi: ‘Cục… cục tác cục ta Nghe xao động nắng trưa Nghe bàn chân đỡ mỏi Nghe gọi về tuổi thơ’ 2. Đoạn thơ thứ hai có 26 câu thơ. Càu thơ ‘Tiếng gà trưa’ được láy đi láy lại ba lần, một âm thanh hiện hữu đồng vọng gợi nhớ bao kỉ niêm sâu sắc một thời thơ bé. Nghe tiếng gà trưa, người lính trẻ sống lại, nhớ lại màu hồng trứng gà trên ổ rơm, nhớ lại đàn gà đông đúc mà bà đã tần tảo ‘chắt chiu’. Ta như được ngắm một bức tranh gà rất sống động, rất đẹp. Không phải là bức tranh gà Đông Hồ ngày xưa: ‘Tiếng gà trưa 0 rơm hồng những trứng Này con gà mái mơ Khắp mình hoa đốm trắng Này con gà mái vàng Lông óng như màu nắng’ Nghệ thuật phối sắc của Xuân Quỳnh rất thần tình. Một gam màu sáng tươi mát dịu của bức tranh gà. Có màu hồng của trứng gà trong ổ rơm. Có sắc ‘đốm trắng’ của con gà mái mơ hoà. Có ‘lông óng như màu nắng’ của con gà mái vàng. Cấu trúc song hành đối xứng, chữ ‘này’ đẹp lại hai lần: ‘Này con gà mái mơ… Này con gà mái vàng…’. Ta cảm thấy tay bà, tay cháu đang chỉ, đang đếm những con gà mái tìm mồi trong sân nhà, vườn nhà thân thuộc… Nghe tiếng gà trưa cất lên nơi xóm nhỏ, người lính lại bồi hồi nhớ lại bao kí niệm về bà. Quên sao được ‘tiếng mắng’ của bà vì tội cháu nhìn gà đẻ. Sợ bị lang mặt: ‘Cháu về lấy gương soi – Lòng dại thơ lo lắng’. Cháu nhớ mãi hình ảnh ‘Tay bà khum soi trứng…’. Bà tần tảo ‘chắt chiu’ từng quả trứng hồng ‘cho con gà mái ấp’. Là cháu nhớ tới bao nỗi lo, bao niềm mong ước của bà với tình thương bao la: Xem thêm: Phân tích cái tôi trữ tình trong bài thơ Tràng Giang của Huy Cận ‘Khi gió mùa đông tới Bà lo đàn gà toi Mong trời đừng sương muối Để cuối năm bán gà Cháu được quần áo mới’ Cái hay của thơ Xuân Quỳnh có lúc là ở những chi tiết nghệ thuật, tuy rất bình dị mà sống động nên thơ. Đó là cái ‘ổ rơm hồng những trứng’, là hình ảnh ‘tay bà khum soi trứng’. Đó là tiếng ‘sột soạt’ của bộ quần áo mới: ‘Ôi cái quần chéo go Ồng rộng dài quết đất Cái áo cánh chúc bâu Đi qua nghe sột soạt’ Tục ngữ có câu: ‘Già được bát canh, trẻ được'manh áo mới’. Cháu có bao giờ quên được cái quần chéo go, cái áo chúc bâu ngày xưa bà mua cho sau mỗi lần bán gà. Tinh thương cháu của bà đã tạo nên hạnh phúc tuổi thơ. Trang thơ nữ sĩ đã đi vào mạch sống đời thường một cách dung dị hồn nhiên. 3. Từ liên tưởng, nữ sĩ chuyển sang suy tưởng. Lần thứ tư câu thơ ‘Tiếng gà trưa’ lại cất lên. Tiếng gà gọi về những giấc mơ tuổi thơ của người lính trẻ: ‘Tiếng gà trưa Mang bao nhiêu hạnh phúc Đêm cháu về nằm mơ Giấc ngủ hồng sắc trứng’ Tiếng gà trưa bình dị mà thiêng liêng, nó nhắc nhở, nó lay gọi bao tình cảm đẹp dâng lên trong lòng người chiến sĩ trên đường hành quân ra trận thời chống Mĩ cứu nước: ‘Cháu chiến đấu hôm nay Vì lòng yêu Tổ quốc Vì xóm làng thân thuộc Bà ơi, cũng vì bà Vì tiếng gà cục tác 0 trứng hồng tuổi thơ’ Bài thơ ‘Tiếng gà trưa’ có ba câu thơ hay nhất, đẹp nhất: ‘0 rơm hồng những trứng’, ‘Giấc ngủ hồng sắc trứng’, ‘0 trứng hồng tuổi thơ’. Tất cả đều nói về niềm vui hạnh phúc. Chữ ‘hồng’ là tính từ, làm chức năng vị ngữ, hình tượng thơ vừa đẹp, vừa biểu cảm. Hơn 60 năn về trước, trong làn nắng mới và âm thanh đồng quê ‘xao xác gà trưa gáy não nùng’, thi sĩ Lưu Trọng Lư ‘rượi buồn’ nhớ về tuổi thơ, nhớ ‘nét cười đen nhánh’, nhớ màu áo đỏ của mẹ hiền nay người đã đi xa. Bằng Việt trong những năm du học ở nước ngoài, nhìn ngọn khói con tàu quê người, lại da diết nhớ về tuổi thơ, nhớ tiếng chim tu hú, nhớ bà, nhớ bếp lửa ‘ấp iu nồng đượm’ do tay bà nhen nhóm sớm hôm. Trong bài thơ cùa Xuân Quỳnh, nghe tiếng gà trưa, người chiến sĩ lại nhớ bà, nhớ ổ trứng hồng tuổi thơ. Xuân Quỳnh đã tìm được một cách nói mới về kỉ niệm tuổi thơ, về tình bà cháu chan hòa trong tình yêu quê hương đất nước. ‘Tiếng gà trưa’là một bài thơ hay, tha thiết ngọt ngào. Tiếng gà trưa cũng là tiếng vọng của quê hương, là tình hậu phương của anh bộ đội trong khángchiến chống Mĩ. Rất thơ và rất đẹp. Nguồn: thêm: Văn mẫu cảm nghĩ về tình bạn hay nhất
Analysis of the poem Chicken Noon by Xuan Quynh Instruct ..The poem 'The sound of chickens at noon' was written by the female artist in the early years of the resistance war against America, published in the poetry collection 'Flowers along the trenches' (1968). The poem has 43 lines, including 39 five-word verses, four of which have three words. The poem 'The sound of the noon chicken' is repeated four times, echoing forever in the souls of soldiers on the march to battle, like the call of their beloved homeland. The flow of emotions from the present is vague and wistful, drifting back to my childhood years with many touching memories of chickens and pink eggs, and my kind grandmother, deepening my love for my homeland. The 'noon sound of chicken' is an echoing sound of the family and the countryside, becoming a young soldier's luggage. 1. The first seven lines of the poem talk about the soldier's mood on a long march. The sound of someone's chicken jumping into the nest: 'Cluck... cluck cluck cluck me' rang out in the small hamlet. The sound of someone's chicken jumping into the nest is a simple, familiar sound of our village for many generations. For the young soldier, it was extremely emotional. The sound of the noon cock 'disturbed' the afternoon sun and people's souls. As if giving soldiers new strength. As if reminiscent of childhood. The word 'listen' is repeated three times with a subtle change of feeling, making the poetic voice more sweet, earnest, and evocative: 'Cluck...cluck clack I hear the stirring of the noon sun Listen to my tired feet Hear the call of childhood' 2. The second stanza has 26 verses. The poem 'The Noon Chicken Sound' is repeated three times, a sound that exists in unison, recalling many profound memories of childhood. Hearing the sound of the chickens at noon, the young soldier came back to life, remembering the pink color of chicken eggs on the straw nest, recalling the crowded flock of chickens that she had diligently 'took care of'. It's like looking at a very vivid, very beautiful painting of a chicken. Not the old Dong Ho chicken painting: 'The sound of a chicken at noon, 0 pink straw and eggs, This dreaming hen With flowers and white spots all over her, This golden hen, Her feathers are as shiny as the sun' Xuan Quynh's color coordination art is very charming. A bright, fresh and gentle color scheme of a chicken painting. There is the pink color of chicken eggs in a straw nest. Has the 'white spots' color of a rooster hen. There are 'feathers as shiny as the sun' of a golden hen. The parallel structure is symmetrical, the word 'this' is beautiful twice: 'Hey dreamy hen... Hey golden hen...'. I feel my hands and your hands pointing and counting the hens looking for food in the familiar yard and garden... Hearing the sound of the noon cock ringing in the small hamlet, the soldier recalled many memories of her. How could I forget my grandmother's 'scolding' for me looking at the laying hens. Afraid of being embarrassed: 'I'll go home and get a mirror - My naive heart is worried'. I always remember the image of 'Grandma's hand cupping eggs...'. She painstakingly 'cared for' each pink egg 'for the hen to incubate'. I remember her many worries and wishes with immense love: See more: Analysis of the lyrical ego in Huy Can's poem Trang Giang 'When the winter wind comes, I take care of my chickens. I hope there will be no frost so that I can sell the chickens at the end of the year. I can have new clothes.' The beauty of Xuan Quynh's poetry sometimes lies in the artistic details, which are very simple but vivid and poetic. That is the 'pink straw nest of eggs', the image of 'a woman's hand cupping the eggs'. That's the 'rustle' sound of new clothes: 'Oh, those skinny pants. They're so wide and long that they sweep the floor. The blouse is so flattering. You can hear the rustle as you pass by.' There is a proverb that says: 'The old get a bowl of soup, the young get 'new clothes'. Have you ever forgotten the jeans and shirt my grandmother bought me after every time she sold chickens? Her love for her grandchildren created childhood happiness. The female poet's poetry has entered everyday life in a simple and innocent way. 3. From association, the female artist moved to contemplation. For the fourth time, the verse 'The sound of the noon chicken' is heard again. The sound of a rooster calls back to the young soldier's childhood dreams: 'The sound of the chicken at noon brings so much happiness. At night, I dream of rosy egg-colored sleep' The sound of the noon cock is simple yet sacred, it reminds, it calls out the many beautiful feelings rising in the hearts of soldiers on their march to battle against America to save the country: 'I fight today For the love of my country For my familiar village, Grandma, also for you, For the sound of chickens clucking, 0 pink eggs of childhood' The poem 'The Sound of Chicken at Noon' has three of the best and most beautiful lines: '0 pink straw and eggs', '0 pink eggs of sleep', '0 pink eggs of childhood'. It's all about joy and happiness. The word 'pink' is an adjective, functioning as a predicate, a poetic image that is both beautiful and expressive. More than 60 years ago, in the new sunshine and the sounds of the countryside 'chasing the carcasses of roosters crowing at noon', poet Luu Trong Lu was 'sadly' remembering his childhood, remembering his 'black smile', remembering the color of his shirt. red of my good mother who has now gone far away. During his years studying abroad, Bang Vietnamese, looking at the smoke of the ship in his hometown, fondly remembered his childhood, missed the sound of howling birds, missed his grandmother, missed the 'warm and passionate' fire kindled by her hands. early morning. In Xuan Quynh's poem, hearing the sound of the chickens at noon, the soldier remembers his grandmother and the red eggs of his childhood. Xuan Quynh has found a new way to talk about childhood memories, about the love between grandparents and grandchildren mixed with love for their homeland. 'The Noon Chicken Sound' is a beautiful, earnest and sweet poem. The sound of the noon cock is also the echo of the homeland, the love behind the soldiers in the resistance war against America. Very poetic and very beautiful. Source: more: Best sample essay about friendship
Phân tích bài thơ Tiểu Đội Xe Không Kính của nhà thơ Phạm Tiến Duật. Hướng dẫn Phạm Tiến Duật sáng tác rất nhiều thơ về người lính. Thơ anh có phong cách rất riêng: giọng kể sinh động, cảm xúc chân thực, tươi trẻ pha lẫn cái ngang tàng, bụi bặm của những người lính Trường Sơn. Bài thơ về tiểu đội xe không kính là tiêu biểu cho phong cách sáng tác ấy của anh Bài thơ Tiểu đội xe không kính ra đời năm 1969, khi cả nước đang tập trung toàn bộ sức người, sức của cho miền Nam đánh Mĩ. Con đường Trường Sơn ngày đêm đông nghịt phương tiện chuyên chở vũ khí, thuốc men, lương thực… phục vụ cho tiền tuyến lớn. Những đoàn xe vận tải vẫn rì rầm vào ra dưới mưa bom, bão đạn của quân thù để hoàn thành nhiệm vụ. Và đây, một tiểu đội xe trong biết bao tiểu đội. Những chiếc xe thật lạ kì: "Không có kính không phải vì xe không có kính Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi" Mới nghe, tưởng chừng như một lời giãi bày. Nhưng không, đọc kĩ lại thấy nó là lời giới thiệu, một lời giới thiệu tự nhiên như không. Bao hiểm nguy, chết chóc được nói đến một cách bình tĩnh đến lạ. Bom giật bom rung ghê sợ là thế, và đó cũng là nguyên nhân để những chiếc xe trở thành xe không kính. Vậy mà những âm thanh ấy vang lên trong hai câu thơ đầu thật nhịp nhàng. Có phải người lính đã không còn lạ với những đe dọa của chiến tranh, và họ lí giải mọi hiện tượng rất đơn giản. Thơ văn trong kháng chiến thường miêu tả sự vật mang tính ước lệ, riêng Phạm Tiến Duật lại dùng ngôn ngữ rất đời thường, giản dị. Dù trong chiến tranh bom đạn những những người lính vẫn lạc quan yêu đời, bom đạn của kẻ thù đã làm chiếc xe không còn bộ phận để bảo vệ người ngời bên trong, nhưng trong buồng lái, người chiến sĩ lái xe cảm nhận tất cả từ bên ngoài: "Ung dung buồng lái ta ngồi Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim Thấy sao trời và đột ngột cánh chim Như sa như ùa vào buồng lái." Trong cuộc chiến đấu tranh để bảo vệ đất nước, chúng ta đã phải hi sinh rất nhiều người, những người lính ra chiến trường dù không biết sống chết thế nào họ vẫn lạc quan yêu đời. Trong bài thơ tư thế người lái xe được miêu tả chỉ bằng hai tiếng ung dung nhưng đã đủ toát lên tất cả tâm hồn của họ. Họ bình tĩnh lái xe, bình tĩnh đón nhận mọi hiện tượng từ bên ngoài. Sự tập trung chú ý của họ được diễn tả qua câu thơ thứ hai rất sinh động: Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng. Đất trời ấy cũng là phía trước. Con đường đứng trước mặt là mục tiêu để họ lái xe đi. Không có kính, xe lao đi bất chấp hiểm nguy. Và mọi thứ từ bên ngoài ùa vào qua ô cửa sổ vỡ ấy là một thử thách. Thế nhưng người lái vẫn mở to mắt để nhìn thấy tất cả, để chọi lại với tất cả. Gió, bụi cát… làm mắt mờ đi. Nhưng điều đó có hề gì. Anh vẫn đang nhìn thấy con đường trong tốc độ xe lao nhanh. Đường phía trước là đường chạy vào trái tim, là đường đến với miền Nam ruột thịt. Biến hiện thực thành lãng mạn, biến gian nguy thành niềm vui sống đó là cảm hứng sáng tác của Phạm Tiến Duật. Hai câu cuối của khổ thơ này thể hiện rõ điều đó: mọi thử thách từ bên ngoài lui đi, chỉ còn hình ảnh đầy lãng mạn: sao trời và cánh chim ùa vào buồng lái. Ra với thiên nhiên, người trở nên phơi phới hơn. Và rõ ràng, người lái xe đang cảm nhận được tất cả, qua một loạt các từ nhìn, nhìn thấy, thấy ở các câu thơ trên.Xem thêm: Dựa vào suy ngẫm của nhà văn Nguyễn Tuân về kết thúc truyện Tắt đèn của Ngô Tất Tố, hãy tưởng tượng và viết tiếp truyện Tắt đèn Những câu thơ nhịp điệu nhanh mà vẫn nhịp nhàng đều đặn khiến người đọc liên tưởng đến nhịp bánh xe trên đường ra trận. Tất cả sự vật, hình ảnh, cảm xúc mà các chiến sĩ lái xe trực tiếp nhìn thấy, cảm nhận đã biểu hiện thái độ bình tĩnh thản nhiên trước những nguy hiểm của chiến tranh, vì có ung dung thì mới thấy đầy đủ như thế. Các anh nhìn thấy từ "gió","con đường" đến cả "sao trời", "cánh chim". Thế giới bên ngoài ùa vào buồng lái với tốc độ chóng mặt tạo những cảm giác đột ngột cho người lái. Hình ảnh "những cánh chim sa, ùa vào buồng lái" thật sinh động, gợi cảm. Hình ảnh "con đường chạy thẳng vào tim" gợi liên tưởng về con đường ra mặt trận, con đường chiến đấu, con đường cách mạng. Những khó khăn vừa nêu trên vẫn còn trừu tượng lắm, phải đến hai câu thơ sau tất cả mới được bày ra cụ thể: Không có kính, ừ thì có bụi, không có kính ừ thì ướt áo, nghe lại vẫn giọng điệu thản nhiên như ban đầu. Và thản nhiên hơn, nghe như ngang tàng hơn, đó là thái độ của người lái: "Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc. Nhìn nhau một lần cười ha ha. Mưa ngừng, gió lùa khô ngay thôi. Những chiếc xe từ trong bơm rơi" Cái giọng cười ha ha thật sảng khoái ấy đã đẩy lùi mọi vất vả về phía sau. Rõ ràng, với người lính lái xe, tất cả mọi thử thách ấy đều trở nên không còn đáng sợ.Phạm Tiến Duật từng là thành viên của đoàn 559 vận tải chiến đấu ở Trường Sơn nên chất lính, tính ngang tàng thể hiện rõ nét trong thơ. Các chiến sĩ lái xe không hề lùi bước trước gian khổ, trước kẻ thù mà trái lại "tiếng hát át tiếng bom", họ xem đây là cơ hội để thử thách sức mạnh ý chí. Yêu đời, tiếng cười sảng khoái của họ làm quên đi những nguy hiểm. Câu thơ "nhìn nhau mặt lấm cười ha ha" biểu lộ sâu sắc sự lạc quan ấy. Xe chạy, rồi xe dừng, cuộc sống người lính vẫn tiếp diễn trong cái lạc quan mà trữ tình rất riêng ấy:Xem thêm: Kể lại câu chuyện Những hạt thóc giống bằng lời của nhà vua "Những chiếc xe từ trong bơm rơi Đã về đây họp thành tiểu đội Gặp bạn bè suốt dọc đường đi tới Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi". Hình như chính ô cửa vỡ ấy khiến họ gần nhau thêm khiến cái bắt tay của họ thêm chặt hơn, và tình đồng đội lại càng thêm thắm thiết. Cái bắt tay qua ô cửa kính vỡ như sự chia sẻ, cảm thông lẫn nhau của những người lính Trường Sơn. Học cùng nghỉ ngơi, cùng ăn uống và lại vẫn chân thật thốt nên lời: "Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy" Sau tất cả, những chiếc xe, những chiếc xe lại tiếp tục hành trình: lại đi, lại đi trời xanh thêm. Mỗi lần nghỉ là một lần tiếp thêm sức mạnh để họ lên đường. Khổ thơ cuối cùng vang lên, hình ảnh những chiếc xe trụi trần đến kinh ngạc. Các từ không được lặp lại để diễn tả cái trạng thái trụi trần ấy: "Không có kính, rồi xe không có đèn, Không có mui xe, thùng xe có xước" "Trời xanh thêm" vì lòng người phơi phới say mê trước những chặng đường đã đi và đang đến. "Trời xanh thêm" vì lòng người luôn có niềm tin về một ngày mai chiến thắng. Những người lính lái xe hiên ngang, dũng cảm, lạc quan, trẻ trung sôi nổi, giàu tình đồng chí đồng đội, có lòng yêu nước sâu sắc. Lòng yêu nước là một động lực tạo cho họ ý chí quyết tâm giải phóng miền Nam, đánh bại giặc Mỹ và tay sai để thống nhất Tổ quốc. Nào đâu phải chỉ là không có kính. Bom giật, bom rung trên kia còn làm một chiếc xe bị thương nhiều hơn. Những vết xước trên thân mình nó càng khẳng định những thử thách, khó khăn mà người lái xe phải vượt qua. Hai câu cuối hạ xuống nhẹ nhàng mà trầm lắng bất ngờ:Xem thêm: Viết đoạn văn trình bày suy nghĩ của mình về vấn đề: Mọi người trong xã hội phải được đối xử bình đẳng "Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước Chỉ cần trong xe có một trái tim." Đối lập hoàn toàn với hai câu thơ đầu. Và hình ảnh trái tim là hình ảnh quán xuyến tất cả. Hình ảnh hoán dụ có giá trị gợi tả đặc biệt: trái tim ở đây là con người biết yêu thương. Biết ý thức được mục đích của việc mình làm, trái tim ở đây là người chiến sĩ. Và nhờ trái tim ấy mà người lính điều khiển được những chiếc xe không kính lao đi trong mưa bom bão đạn. Có người cho rằng: rõ ràng ở đây là trái tim cầm lái. Phải chăng, câu thơ cuối với hình ảnh này đã làm sáng lên toàn bộ bài thơ, sáng lên với chủ đề của tác phẩm và sáng lên ý thức sáng tác của nhà thơ. Hình ảnh trái tim đã trở thành mắt thần, thành điểm sáng của bài thơ là vậy. Và những chiếc xe lại lao đi. Tất cả cho tiền tuyến, mệnh lệnh của Tổ quốc và cũng là mệnh lệnh của trái tim người. Dẫu thân mình xe có xác xơ đến mấy, dẫu những ô cửa vẫn đang trống hoác thì trái tim sẽ vẫn cứ lái vững vàng. Bằng ngòi bút của Phạm Tiến Duật, bài thơ mang âm hưởng chiến trường rất rõ. Cùng với Lửa đèn cùng Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây, Nhớ, tác phẩm này đã làm nức lòng bao thế hệ thanh niên thời chống Mĩ. Và cho đến hôm nay, bài thơ vẫn có vai trò lịch sử tích cực. Nó giúp chúng ta hiểu hơn về tâm hồn, tình cảm và cuộc sống của các chiến sĩ Trường Sơn. Có lẽ chúng ta những học sinh, sẽ sống tốt hơn khi nghĩ về thế hệ cha anh đi trước. Chất giọng trẻ, chất lính của bài thơ bắt nguồn từ tâm hồn phơi phới của thế hệ chiến sĩ Việt Nam thời chống Mỹ mà chính nhà thơ đã sống, đã trải nghiệm. Từ sự giản dị của ngôn từ, sự sáng tạo của hình ảnh chi tiết, sự linh hoạt của nhạc điệu, bài thơ đã khắc hoạ, tôn vính vẻ đẹp phẩm giá con người, hoà nhập với cảm hứng lãng mạn cách mạng và âm hưởng sử thi hào hùng của văn học Việt Nam trong ba mươi năm chống xâm lược 1945 – 1975. Nguồn:
Phân tích bài thơ Tiểu Đội Xe Không Kính của nhà thơ Phạm Tiến Duật. Hướng dẫn Phạm Tiến Duật sáng tác rất nhiều thơ về người lính. Thơ anh có phong cách rất riêng: giọng kể sinh động, cảm xúc chân thực, tươi trẻ pha lẫn cái ngang tàng, bụi bặm của những người lính Trường Sơn. Bài thơ về tiểu đội xe không kính là tiêu biểu cho phong cách sáng tác ấy của anh Bài thơ Tiểu đội xe không kính ra đời năm 1969, khi cả nước đang tập trung toàn bộ sức người, sức của cho miền Nam đánh Mĩ. Con đường Trường Sơn ngày đêm đông nghịt phương tiện chuyên chở vũ khí, thuốc men, lương thực… phục vụ cho tiền tuyến lớn. Những đoàn xe vận tải vẫn rì rầm vào ra dưới mưa bom, bão đạn của quân thù để hoàn thành nhiệm vụ. Và đây, một tiểu đội xe trong biết bao tiểu đội. Những chiếc xe thật lạ kì: "Không có kính không phải vì xe không có kính Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi" Mới nghe, tưởng chừng như một lời giãi bày. Nhưng không, đọc kĩ lại thấy nó là lời giới thiệu, một lời giới thiệu tự nhiên như không. Bao hiểm nguy, chết chóc được nói đến một cách bình tĩnh đến lạ. Bom giật bom rung ghê sợ là thế, và đó cũng là nguyên nhân để những chiếc xe trở thành xe không kính. Vậy mà những âm thanh ấy vang lên trong hai câu thơ đầu thật nhịp nhàng. Có phải người lính đã không còn lạ với những đe dọa của chiến tranh, và họ lí giải mọi hiện tượng rất đơn giản. Thơ văn trong kháng chiến thường miêu tả sự vật mang tính ước lệ, riêng Phạm Tiến Duật lại dùng ngôn ngữ rất đời thường, giản dị. Dù trong chiến tranh bom đạn những những người lính vẫn lạc quan yêu đời, bom đạn của kẻ thù đã làm chiếc xe không còn bộ phận để bảo vệ người ngời bên trong, nhưng trong buồng lái, người chiến sĩ lái xe cảm nhận tất cả từ bên ngoài: "Ung dung buồng lái ta ngồi Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim Thấy sao trời và đột ngột cánh chim Như sa như ùa vào buồng lái." Trong cuộc chiến đấu tranh để bảo vệ đất nước, chúng ta đã phải hi sinh rất nhiều người, những người lính ra chiến trường dù không biết sống chết thế nào họ vẫn lạc quan yêu đời. Trong bài thơ tư thế người lái xe được miêu tả chỉ bằng hai tiếng ung dung nhưng đã đủ toát lên tất cả tâm hồn của họ. Họ bình tĩnh lái xe, bình tĩnh đón nhận mọi hiện tượng từ bên ngoài. Sự tập trung chú ý của họ được diễn tả qua câu thơ thứ hai rất sinh động: Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng. Đất trời ấy cũng là phía trước. Con đường đứng trước mặt là mục tiêu để họ lái xe đi. Không có kính, xe lao đi bất chấp hiểm nguy. Và mọi thứ từ bên ngoài ùa vào qua ô cửa sổ vỡ ấy là một thử thách. Thế nhưng người lái vẫn mở to mắt để nhìn thấy tất cả, để chọi lại với tất cả. Gió, bụi cát… làm mắt mờ đi. Nhưng điều đó có hề gì. Anh vẫn đang nhìn thấy con đường trong tốc độ xe lao nhanh. Đường phía trước là đường chạy vào trái tim, là đường đến với miền Nam ruột thịt. Biến hiện thực thành lãng mạn, biến gian nguy thành niềm vui sống đó là cảm hứng sáng tác của Phạm Tiến Duật. Hai câu cuối của khổ thơ này thể hiện rõ điều đó: mọi thử thách từ bên ngoài lui đi, chỉ còn hình ảnh đầy lãng mạn: sao trời và cánh chim ùa vào buồng lái. Ra với thiên nhiên, người trở nên phơi phới hơn. Và rõ ràng, người lái xe đang cảm nhận được tất cả, qua một loạt các từ nhìn, nhìn thấy, thấy ở các câu thơ trên.Xem thêm: Dựa vào suy ngẫm của nhà văn Nguyễn Tuân về kết thúc truyện Tắt đèn của Ngô Tất Tố, hãy tưởng tượng và viết tiếp truyện Tắt đèn Những câu thơ nhịp điệu nhanh mà vẫn nhịp nhàng đều đặn khiến người đọc liên tưởng đến nhịp bánh xe trên đường ra trận. Tất cả sự vật, hình ảnh, cảm xúc mà các chiến sĩ lái xe trực tiếp nhìn thấy, cảm nhận đã biểu hiện thái độ bình tĩnh thản nhiên trước những nguy hiểm của chiến tranh, vì có ung dung thì mới thấy đầy đủ như thế. Các anh nhìn thấy từ "gió","con đường" đến cả "sao trời", "cánh chim". Thế giới bên ngoài ùa vào buồng lái với tốc độ chóng mặt tạo những cảm giác đột ngột cho người lái. Hình ảnh "những cánh chim sa, ùa vào buồng lái" thật sinh động, gợi cảm. Hình ảnh "con đường chạy thẳng vào tim" gợi liên tưởng về con đường ra mặt trận, con đường chiến đấu, con đường cách mạng. Những khó khăn vừa nêu trên vẫn còn trừu tượng lắm, phải đến hai câu thơ sau tất cả mới được bày ra cụ thể: Không có kính, ừ thì có bụi, không có kính ừ thì ướt áo, nghe lại vẫn giọng điệu thản nhiên như ban đầu. Và thản nhiên hơn, nghe như ngang tàng hơn, đó là thái độ của người lái: "Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc. Nhìn nhau một lần cười ha ha. Mưa ngừng, gió lùa khô ngay thôi. Những chiếc xe từ trong bơm rơi" Cái giọng cười ha ha thật sảng khoái ấy đã đẩy lùi mọi vất vả về phía sau. Rõ ràng, với người lính lái xe, tất cả mọi thử thách ấy đều trở nên không còn đáng sợ.Phạm Tiến Duật từng là thành viên của đoàn 559 vận tải chiến đấu ở Trường Sơn nên chất lính, tính ngang tàng thể hiện rõ nét trong thơ. Các chiến sĩ lái xe không hề lùi bước trước gian khổ, trước kẻ thù mà trái lại "tiếng hát át tiếng bom", họ xem đây là cơ hội để thử thách sức mạnh ý chí. Yêu đời, tiếng cười sảng khoái của họ làm quên đi những nguy hiểm. Câu thơ "nhìn nhau mặt lấm cười ha ha" biểu lộ sâu sắc sự lạc quan ấy. Xe chạy, rồi xe dừng, cuộc sống người lính vẫn tiếp diễn trong cái lạc quan mà trữ tình rất riêng ấy:Xem thêm: Kể lại câu chuyện Những hạt thóc giống bằng lời của nhà vua "Những chiếc xe từ trong bơm rơi Đã về đây họp thành tiểu đội Gặp bạn bè suốt dọc đường đi tới Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi". Hình như chính ô cửa vỡ ấy khiến họ gần nhau thêm khiến cái bắt tay của họ thêm chặt hơn, và tình đồng đội lại càng thêm thắm thiết. Cái bắt tay qua ô cửa kính vỡ như sự chia sẻ, cảm thông lẫn nhau của những người lính Trường Sơn. Học cùng nghỉ ngơi, cùng ăn uống và lại vẫn chân thật thốt nên lời: "Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy" Sau tất cả, những chiếc xe, những chiếc xe lại tiếp tục hành trình: lại đi, lại đi trời xanh thêm. Mỗi lần nghỉ là một lần tiếp thêm sức mạnh để họ lên đường. Khổ thơ cuối cùng vang lên, hình ảnh những chiếc xe trụi trần đến kinh ngạc. Các từ không được lặp lại để diễn tả cái trạng thái trụi trần ấy: "Không có kính, rồi xe không có đèn, Không có mui xe, thùng xe có xước" "Trời xanh thêm" vì lòng người phơi phới say mê trước những chặng đường đã đi và đang đến. "Trời xanh thêm" vì lòng người luôn có niềm tin về một ngày mai chiến thắng. Những người lính lái xe hiên ngang, dũng cảm, lạc quan, trẻ trung sôi nổi, giàu tình đồng chí đồng đội, có lòng yêu nước sâu sắc. Lòng yêu nước là một động lực tạo cho họ ý chí quyết tâm giải phóng miền Nam, đánh bại giặc Mỹ và tay sai để thống nhất Tổ quốc. Nào đâu phải chỉ là không có kính. Bom giật, bom rung trên kia còn làm một chiếc xe bị thương nhiều hơn. Những vết xước trên thân mình nó càng khẳng định những thử thách, khó khăn mà người lái xe phải vượt qua. Hai câu cuối hạ xuống nhẹ nhàng mà trầm lắng bất ngờ:Xem thêm: Viết đoạn văn trình bày suy nghĩ của mình về vấn đề: Mọi người trong xã hội phải được đối xử bình đẳng "Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước Chỉ cần trong xe có một trái tim." Đối lập hoàn toàn với hai câu thơ đầu. Và hình ảnh trái tim là hình ảnh quán xuyến tất cả. Hình ảnh hoán dụ có giá trị gợi tả đặc biệt: trái tim ở đây là con người biết yêu thương. Biết ý thức được mục đích của việc mình làm, trái tim ở đây là người chiến sĩ. Và nhờ trái tim ấy mà người lính điều khiển được những chiếc xe không kính lao đi trong mưa bom bão đạn. Có người cho rằng: rõ ràng ở đây là trái tim cầm lái. Phải chăng, câu thơ cuối với hình ảnh này đã làm sáng lên toàn bộ bài thơ, sáng lên với chủ đề của tác phẩm và sáng lên ý thức sáng tác của nhà thơ. Hình ảnh trái tim đã trở thành mắt thần, thành điểm sáng của bài thơ là vậy. Và những chiếc xe lại lao đi. Tất cả cho tiền tuyến, mệnh lệnh của Tổ quốc và cũng là mệnh lệnh của trái tim người. Dẫu thân mình xe có xác xơ đến mấy, dẫu những ô cửa vẫn đang trống hoác thì trái tim sẽ vẫn cứ lái vững vàng. Bằng ngòi bút của Phạm Tiến Duật, bài thơ mang âm hưởng chiến trường rất rõ. Cùng với Lửa đèn cùng Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây, Nhớ, tác phẩm này đã làm nức lòng bao thế hệ thanh niên thời chống Mĩ. Và cho đến hôm nay, bài thơ vẫn có vai trò lịch sử tích cực. Nó giúp chúng ta hiểu hơn về tâm hồn, tình cảm và cuộc sống của các chiến sĩ Trường Sơn. Có lẽ chúng ta những học sinh, sẽ sống tốt hơn khi nghĩ về thế hệ cha anh đi trước. Chất giọng trẻ, chất lính của bài thơ bắt nguồn từ tâm hồn phơi phới của thế hệ chiến sĩ Việt Nam thời chống Mỹ mà chính nhà thơ đã sống, đã trải nghiệm. Từ sự giản dị của ngôn từ, sự sáng tạo của hình ảnh chi tiết, sự linh hoạt của nhạc điệu, bài thơ đã khắc hoạ, tôn vính vẻ đẹp phẩm giá con người, hoà nhập với cảm hứng lãng mạn cách mạng và âm hưởng sử thi hào hùng của văn học Việt Nam trong ba mươi năm chống xâm lược 1945 – 1975. Nguồn:
Truyện Kiều là một kiệt tác của Nguyễn Du và là kiệt tác của văn học Việt Nam. Trong Truyện Kiều, chúng ta đã được học nhiều đoạn trích, trong đó có đoạn trích Trao duyên. Đoạn trích này có nội dung nói về cuộc trao duyên giữa hai chị em Thúy Kiều và Thúy Vân. Để hiểu và có thể phân tích bài thơ Trao duyên được tốt nhất, các em cần lập dàn ý chi tiết cho bài văn cũng như đọc tham khảo nhiều bài văn mẫu. Bài viết sau đây sẽ cung cấp cho các em dàn ý và bài mẫu của đề văn phân tích bài thơ Trao duyên. I. Lập dàn ý phân tích bài thơ Trao duyên 1. Mở bài – Giới thiệu về Nguyễn Du, Truyện Kiều và đoạn trích Trao duyên – Trao duyên là đoạn trích có nội dung đặc sắc trong bài thơ Truyện Kiều. – Đoạn trích thể hiện được tình cảm mà Thúy Kiều dành cho Kim Trọng. 2. Thân bài phân tích bài thơ Trao duyên Kiều trao duyên – Kiều dùng những lời lẽ đầy kính cẩn để trao lại tình yêu của mình cho Thúy Vân. – Mối tình dù vừa chớm nở nhưng vẫn vô cùng sâu đậm. – Lời nhờ cậy khiến cho Vân không thể từ chối. – Kiều đặt trọn vẹn niềm tin vào Vân. – Từng lời của Kiều đều chặt chẽ, chính xác. – Lý do trao duyên Kiều đưa ra hết sức thuyết phục. Kiều trao kỉ vật cho Vân – Kiều trao kỉ vật hẹn ước của mình và Kim Trọng cho Vân. – Kiều coi như mình đã chết. – Nỗi đau trong lòng Kiều khi phải trai duyên cho em. 3. Kết bài – Tổng quát lại nội dung đoạn trích và nêu cảm nghĩ của em về đoạn trích này. Bài viết liên quan >> Phân tích bài thơ Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm (Có dàn ý chi tiết) II. Bài làm phân tích bài thơ Trao duyên Truyện Kiều của Nguyễn Du là một tác phẩm được xếp vào hàng kiệt tác của thi ca. Bài thơ như một câu chuyện kể về cuộc đời của nàng Kiều với 15 năm lưu lạc, trải qua nhiều biến cố trong cuộc đời. Đoạn trích Trao duyên là một đoạn trích hay. Nội dung trong đoạn trích khiến người đọc không khỏi xúc động vì tình cảm của Thúy Kiều dành cho Kim Trọng. Quả thực, không có gì đau đớn hơn việc phải trao lại mối lương duyên của mình cho người khác.Xem thêm: Phong tục lễ cưới hỏi Việt Nam Duyên số, duyên phận, duyên tình, đó đều là những thứ vô cùng tự nhiên và không thể nào gượng ép được. Hai người gặp nhau, yêu nhau đó là cái duyên của họ. Các cụ xưa thường nói, ép dầu ép mỡ ai nỡ ép duyên. Vậy mà trong đoạn trích này, Thúy Kiều đang “ép” Thúy Vân phải nhận lại mối lương duyên của mình. Thúy Kiều và Kim Trọng đã từng có với nhau lời hẹn ước, nhưng nay vì biến cố gia đình, Kiều phải bán thân mình để chuộc cha đồng nghĩa với việc Kiều phải từ bỏ mối lương duyên của mình với Kim Trọng. Nghĩ thương người yêu và không muốn phản bội lại lời hẹn ước, Kiều muốn Thúy Vân thay mình vừa gánh vác chuyện gia đình, chăm lo cho cha mẹ, vừa nhận lại mối tơ duyên của mình. Đó là lý do vì sao diễn ra cuộc trao duyên này. Phân tích bài thơ Trao duyên Biết việc này là quá khó khăn với Thúy Vân bởi có ai là không muốn tự đi tìm hạnh phúc riêng của bản thân mình. Vậy nên với vị trí là một người chị, Thúy Kiều vẫn tỏ ra lễ phép, kính cẩn thay vì ép buộc: Cậy em em có chịu lời Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa Hai câu thơ toát lên biết bao nhiêu nỗi chua xót, dằn mặt và chắc hẳn để nói ra được những lời như vậy thì Thúy Kiều đã phải tốn không ít nước mắt. Những từ ngữ như lạy, thưa thể hiện một thái độ thành kính. Thúy Kiều đã đặt Vân vào trong một tình cảnh vô cùng khó, khiến cho Vân bị động và buộc phải nghe theo những lời chị gái của mình nói. Có lẽ với hai câu mở đầu này, Thúy Vân vẫn chưa hiểu điều gì sẽ xảy đến với mình sắp tới. Không ai có thể đoán biết được Thúy Kiều sẽ trao duyên như vậy.Xem thêm: Bàn về Hai Bà Trưng Tiếp theo lời mở đầu ấy, Thúy Kiều đã giãi bày nỗi lòng của mình bằng những câu thơ nghe thôi mà như dao cứa vào tận trong tim: Giữa đường đứt gánh tương tư Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em Kể từ khi gặp chàng Kim Khi ngày quạt ước khi đêm chén thề Sự đâu sóng gió bất kì Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai Đọc đến đoạn thơ này, chúng ta có thể hiểu được cậy ở đây chính là cậy nhờ, nó mang một chút ép buộc nhưng cũng có sự cầu xin. Giữa hai bên, một bên tình, một bên hiếu, Thúy Kiều đã chọn chữ hiếu và đặt chữ hiếu lên hàng đầu. Vậy nhưng nàng không muốn phụ Kim Trọng. Nàng nói đứt gánh tương tư để ám chỉ mối duyên tình đã vỡ, đã đứt gánh giữa đường. Không muốn Kim Trọng phải đau lòng, Thúy Kiều đã nhờ vậy Thúy Vân thay mình nối tiếp mối lương duyên này. Với tính cách và tài năng của mình, Thúy Kiều đã khéo léo khi cậy duyên em gái, cậy tình máu mủ ruột già để cho Thúy Vân không nói được câu từ chối: Ngày xuân em hãy còn dài Xót tình máu mủ thay lời nước non Chị dù thịt nát xương mòn Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây Nhắc đến ngày xuân của Thúy Vân, Thúy Kiều hiểu tuổi thanh xuân của em gái mình còn rất dài. Kiều hiểu nỗi khổ của Thúy Vân bởi nếu như không có sự việc này thì Thúy Vân có thể tìm được tình yêu đích thực của riêng mình. Thế nhưng xót tình máu mủ, Thúy Kiều muốn Thúy Vân nể tình chị em máu mủ mà thay mình thay lời nước non cùng với Kim Trọng. Có như vậy thì dù có thịt nát xương mòn nơi đất khách Thúy Kiều cũng có thể mỉm cười. Những lời nói chân tình như dao cứa ấy làm sao Thúy Vân có thể chối từ.Xem thêm: Phân tích 13 câu đầu trong bài Vội vàng của Xuân Diệu Kiều nghĩ tới tương lai mù mịt của mình, nghĩ đến cái chết nhiều hơn là sự sống. Có lẽ cũng bởi với nàng giờ đây cuộc sống như là cõi chết. Tâm hồn nàng đã mất đi kể từ lúc nàng quyết định bán thân mình để chuộc cha. Cái chết càng hiện lên rõ hơn trong những lời nói tiếp theo: Mai sau dù có bao giờ Đốt lò hương ấy so tơ phím này Trông ra ngọn cỏ lá cây Thấy hiu hiu gió thì hay chị về Hồn còn mang nặng lời thề Nát thân bồ liễu đèn nghì trúc mai Dạ đài cách mặt khuất lời Rảy xin chén nước cho người thác oan Đọc những lời này, ta thấy xót thương cho số phận của nàng Kiều. Đau khổ và bế tắc, trong lòng Kiều chồng chất những nỗi đau. Với việc sử dụng từ ngữ mạnh, Nguyễn Du đã khiến cho người đọc cảm thấy xót xa hơn cho cuộc đời của nàng Kiều. Qua đoạn trích Trao duyên, chúng ta thấy được tình cảm chân thành và mãnh liệt của Thúy Kiều. Qua đây, cũng xót thương cho số phận của những người phụ nữ xưa kia. Họ không có quyền tự quyết định cuộc sống của mình. Trên đây là dàn ý chi tiết phân tích bài thơ Trao duyên cùng với bài viết mẫu cho các em tham khảo. Tài liệu này sẽ giúp ích nhiều cho các em để học tập được tốt hơn. Thu Thủy
The Tale of Kieu is a masterpiece by Nguyen Du and a masterpiece of Vietnamese literature. In The Tale of Kieu, we have learned many excerpts, including the excerpt Giving Love. This excerpt is about the exchange of love between sisters Thuy Kieu and Thuy Van. To best understand and analyze the poem Giving Love, you need to create a detailed outline for the essay as well as read many sample essays. The following article will provide you with an outline and sample essay for the analysis of the poem Giving Love. I. Create an outline to analyze the poem Giving Love 1. Open the lesson – Introduction to Nguyen Du, The Tale of Kieu and the excerpt of Giving Love – Giving love is an excerpt with unique content in the poem The Tale of Kieu. – The excerpt shows the love that Thuy Kieu has for Kim Trong. 2. Body analysis of the poem Giving Love Kieu gives fate – Kieu used respectful words to give back her love to Thuy Van. – Even though the love has just blossomed, it is still extremely deep. – The request made Van unable to refuse. – Kieu put all her trust in Van. – Every word of Kieu is tight and precise. – Kieu's reason for giving love is very convincing. Kieu gave the souvenir to Van – Kieu gave the souvenir of her and Kim Trong's promise to Van. – Kieu considered herself dead. – The pain in Kieu's heart when she had to marry her younger brother. 3. Conclusion – Summarize the content of the excerpt and state your thoughts about this excerpt. Related articles >> Analysis of the poem Nhan by Nguyen Binh Khiem (With detailed outline) II. Essay analyzing the poem Giving Love The Tale of Kieu by Nguyen Du is a work classified as a masterpiece of poetry. The poem is like a story about the life of Kieu with 15 years of wandering, experiencing many events in her life. The excerpt Giving Love is a good excerpt. The content in the excerpt makes readers touched by Thuy Kieu's feelings for Kim Trong. Indeed, there is nothing more painful than having to hand over your relationship to someone else. See more: Vietnamese wedding customs Fate, destiny, love, these are all extremely natural things and cannot be forced. Two people meet and fall in love, that's their fate. The ancients often said, if you press oil to press fat, who can force fate? Yet in this excerpt, Thuy Kieu is "forcing" Thuy Van to take back her relationship. Thuy Kieu and Kim Trong once had a promise to each other, but now because of family events, Kieu had to sell her body to ransom her father, which meant that Kieu had to give up her relationship with Kim Trong. Thinking of her lover and not wanting to betray her promise, Kieu wanted Thuy Van to take care of family matters for her, take care of her parents, and reclaim her relationship. That's why this exchange of love took place. Analysis of the poem Giving Love Knowing this is too difficult for Thuy Van because who doesn't want to find their own happiness. Therefore, as an older sister, Thuy Kieu is still polite and respectful instead of forcing: Trust me, I agree Sit up so I can bow and then speak The two verses exude so much bitterness and resentment, and surely to say such words, Thuy Kieu had to shed many tears. Words such as bowing and saying goodbye show a respectful attitude. Thuy Kieu put Van in an extremely difficult situation, making Van passive and forced to listen to what her sister said. Perhaps with these two opening sentences, Thuy Van still does not understand what will happen to her next. No one could have predicted that Thuy Kieu would give love like that. See more: Discuss Hai Ba Trung Following that opening statement, Thuy Kieu expressed her feelings in verses that just sounded like a knife cutting into the heart: In the middle of the road, the burden of love is broken Glue loan pieced together the excess thread and left me alone Since meeting Kim When day fanning and wishing, night swearing Any turbulence Filial piety is wise in both ways Reading this verse, we can understand that trust here is reliance, it carries a bit of coercion but also a request. Between the two sides, one side of love, the other side of filial piety, Thuy Kieu chose filial piety and placed filial piety first. But she did not want to disappoint Kim Trong. She said she had broken the burden of love to imply that the relationship had broken, broken down in the middle of the road. Not wanting Kim Trong to be heartbroken, Thuy Kieu asked Thuy Van to continue this relationship for her. With her personality and talent, Thuy Kieu was skillful in relying on her sister's fate and the love of blood and blood so that Thuy Van could not say no: My spring days are still long Merciful love of immature blood instead of words Even though her flesh is broken and her bones are worn out Smiling until the stream is still fragrant Referring to Thuy Van's spring days, Thuy Kieu understands that her younger sister's youth is still very long. Kieu understands Thuy Van's suffering because without this incident, Thuy Van could have found her own true love. But feeling sorry for the love between blood and blood, Thuy Kieu wants Thuy Van to respect the love of blood sisters and replace her with Kim Trong. With that, even if her flesh is broken and her bones are worn out in a foreign land, Thuy Kieu can still smile. How could Thuy Van refuse those sincere words that cut like a knife? See more: Analysis of the first 13 sentences in the article Rush by Xuan Dieu Kieu thinks about her uncertain future, thinking more about death than life. Perhaps it's because for her now life is like death. Her soul has been lost since the moment she decided to sell her body to ransom her father. Death appears even more clearly in the following words: Tomorrow, no matter when Light the incense burner and compare it to this key Looking out over the grass and leaves Seeing the cool breeze means she's coming home The soul still carries a heavy oath Broken trunk of willow and apricot bamboo lamp The stage is hidden from view Sprinkle a cup of water for the wronged person Reading these words, I feel sorry for Kieu's fate. Suffering and deadlocked, Kieu's heart was filled with pain. By using strong words, Nguyen Du made the reader feel more sorry for Kieu's life. Through the excerpt "Giving Love", we see Thuy Kieu's sincere and intense feelings. Through this, I also pity the fate of women in the past. They do not have the right to decide their own lives. Above is a detailed outline of the analysis of the poem Giving Love along with sample writing for your reference. This document will help students learn better. Thu Thuy
Phân tích bài thơ Triệu Ẩu rút trong Hồng Đức Quốc âm thi tập. Hướng dẫn Triệu Ẩu Cao một trượng, cá mười vắng Bỏ tóc ngang lưng, vú chấm sừng. Họp chúng rừng xanh oai náo nức Cỡi đầu voi trắng tiếng vang lừng. Mác dài trỏ vẫy tan dàn giặc, Ngôi cả lăm le học họ Trưng. Ví có anh hùngduyên định mấy, Thì chi Đông Hán dám hung hăng. (Trích "Hồng Đức Quốc âm thi tập") Phân tích bài thơ “Triệu Ẩu” rút trong “Hồng Đức Quốc âm thi tập”. Bài làm “Hồng Đức Quốc âm thi tập” là tác phẩm của vua Lê Thánh Tông và các thi sĩ trong “Hội Tao Đàn” vào nửa cuối thế kí XV. Tập thơ gồm có 324 bài thơ Nôm, đề tài đa dạng và phong phú. Phần lớn là thơ vịnh cảnh, có một số vịnh sử – ca ngợi những anh hùng liệt nữ. Bài thơ "Triệu Âu” là một bài thơ vịnh sử độc đáo, rút trong “Hồng Đức Quốc âm thi tập”. Bài thơ được viết theo thể thất ngôn bát cú Đường luật. Hai câu đề gợi tả ngoại hình cao to, phi phàm của Triệu Ẩu. Thân cao một trượng, to lớn "củ mười vầng”, tóc dài đến ngang lưng, “vú chấm sừng” – dài chấm ngà voi, một nét vẽ thậm xưng, gợi lên sự dũng mãnh, phi thường của Triệu Âu: “Cao một trượng, cả mười vầng, Bỏ tóc ngang lưng, vú chấm sừng’’. Hai câu thơ phần thực đối nhau nói về Bà Triệu khởi nghĩa, cưỡi voi trắng trong tư thế oai hùng ra trận. Rừng xanh được nhà thơ nhắc tới là Ngàn Nưa thuộc tỉnh Thanh Hoá: “Họp chúng rừng xanh oai náo nức, Cỡi đầu voi trắng tiếng vang lừng.” Sử sách còn ghi rõ: Triệu Thị Trinh cùng anh là Triệu Quốc Đạt phất cờ khởi nghĩa vào năm 248 tại Ngàn Nưa thuộc huyện Triệu Sơn, tỉnh Thanh Hoá. Nghĩa quân trong quận Cửu Chân kéo về tụ họp đông tới hàng vạn người. Bà đã từng nói lên chí khí của người phụ nữ nước ta quyết tâm đánh đuổi ngoại xâm để giành lại độc lập cho giang sơn Tổ quốc: Xem thêm: Phân tích giá trị thẩm mĩ của đoạn thơ sau: "Bom Mĩ giội, nhà bà tôi bay mất đền Sòng bay, bay tuốt cả chùa chiền thánh với Phật rủ nhau đi đâu hết bà tôi đi bán trứng ở ga Lèn" (“Đò Lèn" - Nguyễn Duy)“Tôi muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp luồng sóng dữ, chém cá kình ở biển khơi, đánh đuổi quân Ngô giành lại giang sơn, cởi ách nô lệ, chứ tôi không chịu khom lưng làm tì thiếp người! ” Các từ ngữ "oai náo nức” và "tiếng vang lừng” diễn tả khí thế long trời chuyển đất của nghĩa quân. Hai câu luận nói lên ý chí chiến đấu lẫm liệt của Bà Triệu và nghĩa quân: “Mác dài trỏ vẫy tan đàn giặc, Ngôi cả lăm le học họ Trưng” Không phải là gươm báu gươm thần mà chỉ là mác dài, nhưng giặc Đông Ngô đã bị đánh tan tác dưới cái “trỏ vẫy" của người nữ anh hùng. “Mác dài trỏ vẫy ” vung lên, hàng nghìn hàng vạn nghĩa quân xông tới như nước vỡ bờ. Đó là khí thế quyết chiến quyết thắng. Bà Triệu quyết noi gương Hai Bà Trưng để giành lại "ngôi cả ” – nền độc lập tự chứ cho dân tộc. Hai câu kết dí dỏm và trang nhã gợi lên cho người đọc bao cảm xúc tự hào: “Ví có anh hùng duyên định mấy, Thì chỉ Đông Hán dám hung hăng”. Nhà thơ nêu lên một giả thiết tạo nên một ý tưởng dí dỏm. Giá mà Triệu Thị Trinh sánh duyên cùng một nam anh hùng thì giặc Đông Hán (Đông Ngô) sẽ bị thảm bại, đâu còn dám hung hăng nữa. Dí dỏm ở chỗ nếu câu hỏi ngầm: bọn nam nhi sao lại vắng bóng giữa thời loạn mà chỉ thấy nữ nhi anh hùng, chí thấy Bà Trưng rồi Bà Triệu… Hai câu kết ca ngợi và biểu lộ niềm tự hào về truyền thống yêu nước và chí khí anh hùng của người phụ nữ Việt Nam. Vịnh Triệu Ẩu mà nói lên được ý tưởng cao đẹp đó là sự thành công của một bài thơ vịnh sử ra đời cách chúng ta hơn 5 thế kỉ. Đọc bài thơ “Triệu Ẩu’’ trong "Hồng Đức Quốc âm thi tập”, ta như được sống lại những năm tháng quật khởi oai hùng của dân tộc ta dưới nghìn năm Bắc thuộc. Bài thơ như một tượng đài tráng lệ về người nữ anh hùng dân tộc lẫm liệt và cao cả vô song. Bài thơ "Triệu Ẩu “ đã đồng hành với bài ca dao làm sống dậy trong lòng người hình ảnh bất diệt người nữ anh hùng Ngàn Nưa 800 năm về trước: "Ru con con ngủ cho lành, Để mẹ gánh nước rửa bành cho voi. Muốn coi lên núi mà coi, Coi Bờ Triệu Tướng cưỡi voi bành vàng”. Nguồn: thêm: Phân tích nội dung và nghệ thuật Chuyện chức phán sự đền Tản Viên của Nguyễn Dữ
Analysis of Trieu Au's poem in Hong Duc Quoc Am Thi Tap. Instruct Trieu Au One meter tall, ten fish Remove the hair from the waist, the breasts are dotted with horns. Gathering in the bustling green forest Riding a white elephant's head makes a loud noise. The long mark waved to disperse the enemy, The eldest son is from the Trung family. If there is a certain fateful hero, Then why did the Eastern Han dare to be aggressive? (Excerpt from "Hong Duc Quoc Am Thi Tap") Analysis of the poem "Trieu Au" extracted from "Hong Duc Quoc Am Thi Tap". Assignment "Hong Duc Quoc Am Thi Tap" is the work of King Le Thanh Tong and poets in the "Tao Dan Society" in the second half of the 15th century. The poetry collection includes 324 Nom poems, with diverse and rich themes. Most of them are scene poems, with some historical poems - praising heroic heroes and heroines. The poem "Trieu Au" is a unique historical poem, drawn from "Hong Duc Quoc Am Poetry Collection". The poem is written in the seven-word, eight-syllable Tang Luat style. The two sentences describe Trieu Au's tall, extraordinary appearance. The body is one truong tall, huge "ten-shaped bulb", waist-length hair, "breast with horns" - ivory-length, an impressive drawing, evoking the bravery and extraordinaryness of Trieu Au: “One meter high, all ten layers, Remove the hair from the waist, the breasts are dotted with horns''. The two verses are actually opposite each other and talk about Ba Trieu's uprising, riding a white elephant in a heroic posture into battle. The green forest mentioned by the poet is Ngan Nua in Thanh Hoa province: “The assembly of the majestic green forest is bustling, Riding on the head of a white elephant makes a loud noise." History books also clearly state: Trieu Thi Trinh and her brother Trieu Quoc Dat raised the flag of rebellion in the year 248 at Ngan Nua, Trieu Son district, Thanh Hoa province. The insurgents in Cuu Chan district gathered in numbers of tens of thousands of people. She once spoke of the spirit of our country's women, determined to expel foreign invaders and regain independence for our country: See more: Analyze the aesthetic value of the following poem: "My grandmother's house was blown away by the American bomb, the Song Bay temple was blown away, all the holy temples and Buddhist temples were blown away. My grandmother went to sell eggs at Len station." (“Do Len” - Nguyen Duy) “I want to ride the strong wind, step on the fierce waves, kill whales in the open sea, chase away the Ngo army to regain the country, take off the yoke of slavery, but I refuse to bend down and do it. concubine!” The words "majestic" and "resounding" describe the earth-shattering spirit of the insurgents. Two essays express the strong fighting will of Ba Trieu and the insurgents: “The long arrow waved to disperse the enemy, The eldest son of the fifth generation is of the Trung family." It was not a precious sword, a magic sword, but just a long spear, but the Dong Ngo enemy was defeated under the "waving point" of the heroine. "The waving long spear" was waved, thousands and thousands of insurgents rushed forward. It was like breaking water. That was the spirit of determination to win. Mrs. Trieu was determined to follow the example of the Trung Sisters to regain "the throne" - independence for the nation. Two witty and elegant concluding sentences evoke feelings of pride in the reader: “For example, if there are any predestined heroes, Only the Eastern Han dare to be aggressive." The poet raises a hypothesis that creates a witty idea. If only Trieu Thi Trinh had matched fate with a male hero, the Eastern Han enemy (Dong Ngo) would have been defeated and would not have dared to be aggressive anymore. The irony is that if the implicit question is: why are men absent in the midst of chaos but only see heroic women, only Ba Trung and then Ba Trieu... The two concluding sentences praise and express pride in the patriotic tradition and heroic spirit of Vietnamese women. Trieu Au Bay that expresses that noble idea is the success of a historic bay poem born more than 5 centuries ago. Reading the poem "Trieu Au" in "Hong Duc Quoc Am Thi Tap", we seem to relive the years of our nation's heroic rise under a thousand years of Chinese domination. The poem is like a magnificent monument to the people. A fierce and incomparably noble national heroine. The poem "Trieu Au" accompanied the folk song to revive in people's hearts the immortal image of the heroine Ngan Nua 800 years ago: "Lull your baby to sleep, Let mom carry water to wash the elephant's bowl. I want to go up the mountain and see, Look at Bo Trieu Tuong riding a golden elephant." Source: more: Analysis of content and art The story of the judge of Tan Vien temple by Nguyen Du
Đề bài: Phân tích bài thơ Tràng Giang của Huy Cận Bài làm Trong phong trào Thơ Mới 1930-1945 nhà thơ Huy Cận được nhiều người biết đến với phong cách thơ rất riêng. Thơ của ông thường mang theo nỗi ưu sầu nhân thế nhưng đồng thời cũng ca ngợi vẻ đẹp của thiên nhiên. Bài thơ Tràng Giang chính là một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất của ông trước Cách mạng tháng Tám. Tràng Giang được trích từ tập Lửa Thiêng và được sáng tác khi ông đang đứng ở bên bờ của sông Hồng. Trước cảnh mênh mông sóng nước, mây trời có lẽ khiến cho người thi sĩ càng thêm cảm nhận được kiếp người nhỏ bé, nổi trôi giữa dòng đời. Mang theo những cảm nhận đó cùng với nỗi buồn u hoài khiến cho bài thơ vừa mang nét đẹp cổ điển lại vừa có tính hiện đại. Ngay từ nhan đề của bài thơ thì thi sĩ đã gợi tới một nét đẹp cổ điển khi sử dụng từ Hán Việt. Tràng Giang có nghĩa là sông dài, đồng thời cũng nói lên hình tượng trung tâm của bài thơ. Vần “ang” kéo dài hai tiếng tiêu đề gợi cho người đọc không chỉ về dòng sông dài vô tận mà còn rộng mênh mông, bát ngát. Khác với những nhà thơ cùng thời khi thể hiện cái tôi của mình thì Huy Cận lại ẩn sau sự mênh mông của sông nước. Nhà thơ không tìm đến thiên nhiên để hòa nhập, để giao cảm với đời mà ông đến với thiên nhiên để nhờ thiên nhiên mà biểu hiện sự ưu tư, phiền muộn về kiếp người cô đơn, nhỏ bé giữa vũ trụ bao la, vô tận. Lời đề từ “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài”. Cảm xúc, tâm trạng của nhân vật trữ tình ở đây chính là “bâng khuâng”, một nỗi nhớ khó tả, một nỗi buồn, lạc lõng. Trước cảnh trời rộng, sông dài khiến cho con người càng thêm nhỏ bé, hiu quạnh. Lời đề từ như đã khái quát nên toàn bộ nội dung của bài thơ. Ngay ở những câu thơ đầu thì người đọc đã bắt gặp khung cảnh trầm buồn:Xem thêm: Phân tích tác phẩm Cảnh Khuya của Hồ Chí Minh “Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp Con thuyền xuôi mái nước song song Thuyền về nước lại sầu trăm ngả Củi một cành khô lạc mấy dòng” Ở những vần thơ trên toát lên một vẻ đẹp cổ điển tinh tế. Đó là việc tác giả sử dụng các từ láy “điệp điệp”, “song song” đầy sức gợi hình, gợi cảm khiến cho câu thơ mang nét Đường Thi. Trên con sông dài ấy thì hình ảnh đầu tiên mà nhân vật trữ tình hay chính là tác giả chú ý đến chính là những con sóng. Những con sóng như nối tiếp nhau trùng trùng, điệp điệp chạy xa tít không thấy điểm cuối. Sóng giống với con người mang tâm trạng u hoài, dường như sóng cũng có tình cảm cảm xúc đó chính là “buồn điệp điệp”. Song song với con sóng ấy chính là con thuyền xuôi mái, một con thuyền như lờ lững trôi chứ chẳng hề vội vã. Qua những hình ảnh ban đầu đó khiến chúng ta như lặng đi trước thiên nhiên quá đỗi mênh mông, hoang dại. Phân tích bài thơ Tràng Giang Dòng sông mênh mông, bát ngát mà nỗi buồn của nhân vật trữ tình cũng dâng đầy. “Thuyền” và “nước” luôn gắn liều với nhau, thế nhưng Huy Cận cảm thấy như cả hai đang tách riêng mỗi bên mỗi ngả. Cả thuyền và nước dường như đều chất chứa nỗi buồn mênh mang khi phải xa cách nhau, nỗi buồn ấy không phải hai hướng mà là “trăm ngả”, một nỗi buồn như vô hạn, không thấy hết được. Giữa cái rộng lớn, mênh mông của dòng sông, của nỗi buồn thì tâm trạng của chủ thể trữ tình đã được bộc lộ qua câu thơ” Củi một cành khô lạc mấy dòng”. Phía trước đó là “trăm ngả” đối lặp với “một cành” đã cho thấy sự nhỏ bé, cô đơn của con người, của tác giả khi đứng giữa thiên nhiên. Huy Cận rất tài tình trong việc tả cảnh ngụ tình. Chỉ với 4 câu thơ ngắn ngủi và không hề nhắc tới con người nhưng người đọc vẫn cảm nhận sâu sắc về tâm trạng, tình cảm, cảm xúc của nhân vật. Hình ảnh “củi một cành khô” như hé mở nên tâm trạng của nhân vật trữ tình và nó gợi mở nhiều hơn qua những câu thơ tiếp theo:Xem thêm: Phân tích bài Thơ Duyên của Xuân Diệu “Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều” Chỉ trong một câu thơ nhưng lại có đến hai từ láy đó là “lơ thơ” và “đìu hiu”, qua đó khắc họa nên một quang cảnh vắng vẻ, thê lương. Đối lập với “tràng giang” đó là “cồn nhỏ”, càng tô đậm cho sự nhỏ bé. Đến đây ta mới thấy trong bài thơ xuất hiện âm thanh về sự sống của con người. Nhưng âm thanh của chợ chiều ấy lại ở xa tít tắp nên nhà thơ chỉ nghe thấy thấp thoáng, không rõ ràng. Câu thơ giống như khát vọng, mong mỏi của nhân vật trữ tình về một khung cảnh có sức sống, có hoạt động của con người. Tuy nhiên mong mỏi đấy dường như lại quá xa vời trong thực tại. Bỏ lại âm thanh vang vọng phía xa, nhà thơ lại tiếp tục dõi theo cảnh vật thiên nhiên ngay trước mắt: “Nắng xuống, trời lên sâu chót vót Sông dài, trời rộng, bến cô liêu” Từ đầu bài thơ mặc dù ta bắt gặp ít âm thanh nhưng sự chuyển động của thiên nhiên là có, đó là sự chuyển động của “con thuyền xuôi mái”, của củi “lạc giữa dòng”. Đến với khổ thơ thứ hai này thì thiên nhiên giống như gợi lên sự chuyển động, mở rộng về không gian. Nắng và trời dường như chuyển động về hai hướng ngược chiều nhau khiến chúng càng trở nên xa cách. Những gì thuộc về thiên nhiên, vũ trụ thì mênh mông, to lớn đó là “sông dài, trời rộng” còn những gì thuộc về con người thì lại “cô liêu”. Hai câu thơ với những thi liệu quen thuộc trong thơ cổ đã khắc họa tài tình về cảnh vật nhưng đồng thời cũng làm nổi rõ lên sự trái ngược giữa con người và cảnh vật.Xem thêm: Văn nghị luận: Thời gian của người nghèo Từ trời mây nhà thơ như lại rơi ánh mắt về dòng sông với mong muốn kiếm tìm một thân ảnh quen thuộc nhưng càng tìm kiếm thì lại càng cảm thấy cô liêu, hiu quạnh: “Bèo dạt về đâu hàng nối hàng Mênh mông không một chuyến đò ngang Không cần gợi chút niềm thân mật Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng” Hình ảnh cánh bèo trôi giữa dòng tương đồng với cành củi khô ở khổ một. Ta đều thấy một sự bấp bênh, vô định, không biết nay đây mai đó ra sao. Nó giống như cuộc đời con người khi trải qua mỗi ngày trên nhân thế. Tiếp nối “bờ xanh tiếp bãi vàng” chính là hình ảnh cổ điển xen với nét đẹp hiện đại: “Lớp lớp mây cao đùn núi bạc Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa” Mây trời như đang có sự chuyển động “đùn”, giống như nhiều lớp mây cứ đùn ra mãi, không giới hạn. Chủ thể trữ tình đã dành thời gian cả buổi đến hoàng hôn để ngắm cảnh sông nước. Bóng chiều như đè nặng lên đôi cánh bé nhỏ khiến những chú chim như phải bay nghiêng để trở về tổ. Trong thơ cổ khi nhắc tới chiều tà vừa là khoảng thời gian kết thúc một ngày làm việc, chim mỏi cánh về chỗ ngủ đồng thời cũng là thời điểm mà con người ta dễ dàng xúc động và mang tâm trọng buồn man mác. Chính vì thế mà Huy Cận đã cho chúng ta chính thức bắt gặp tâm trạng của chính nhà thơ hay của nhân vật trữ tình trước thời cuộc: “Lòng quê dợn dợn vời con nước Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà” Bài thơ Tràng Giang là một thi phẩm vừa mang nét đẹp cổ đại lại vừa có tính hiện đại. Chính nhờ hai vẻ đẹp ấy mà độc giả càng thêm khắc sâu cảnh sắc thiên nhiên sông nước rộng lớn và tình cảnh nhỏ bé, cô liêu của con người giữa cảnh vật ấy. Loan Trương
Đề bài: Phân tích bài thơ Tràng Giang của Huy Cận Bài làm Trong phong trào Thơ Mới 1930-1945 nhà thơ Huy Cận được nhiều người biết đến với phong cách thơ rất riêng. Thơ của ông thường mang theo nỗi ưu sầu nhân thế nhưng đồng thời cũng ca ngợi vẻ đẹp của thiên nhiên. Bài thơ Tràng Giang chính là một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất của ông trước Cách mạng tháng Tám. Tràng Giang được trích từ tập Lửa Thiêng và được sáng tác khi ông đang đứng ở bên bờ của sông Hồng. Trước cảnh mênh mông sóng nước, mây trời có lẽ khiến cho người thi sĩ càng thêm cảm nhận được kiếp người nhỏ bé, nổi trôi giữa dòng đời. Mang theo những cảm nhận đó cùng với nỗi buồn u hoài khiến cho bài thơ vừa mang nét đẹp cổ điển lại vừa có tính hiện đại. Ngay từ nhan đề của bài thơ thì thi sĩ đã gợi tới một nét đẹp cổ điển khi sử dụng từ Hán Việt. Tràng Giang có nghĩa là sông dài, đồng thời cũng nói lên hình tượng trung tâm của bài thơ. Vần “ang” kéo dài hai tiếng tiêu đề gợi cho người đọc không chỉ về dòng sông dài vô tận mà còn rộng mênh mông, bát ngát. Khác với những nhà thơ cùng thời khi thể hiện cái tôi của mình thì Huy Cận lại ẩn sau sự mênh mông của sông nước. Nhà thơ không tìm đến thiên nhiên để hòa nhập, để giao cảm với đời mà ông đến với thiên nhiên để nhờ thiên nhiên mà biểu hiện sự ưu tư, phiền muộn về kiếp người cô đơn, nhỏ bé giữa vũ trụ bao la, vô tận. Lời đề từ “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài”. Cảm xúc, tâm trạng của nhân vật trữ tình ở đây chính là “bâng khuâng”, một nỗi nhớ khó tả, một nỗi buồn, lạc lõng. Trước cảnh trời rộng, sông dài khiến cho con người càng thêm nhỏ bé, hiu quạnh. Lời đề từ như đã khái quát nên toàn bộ nội dung của bài thơ. Ngay ở những câu thơ đầu thì người đọc đã bắt gặp khung cảnh trầm buồn:Xem thêm: Phân tích tác phẩm Cảnh Khuya của Hồ Chí Minh “Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp Con thuyền xuôi mái nước song song Thuyền về nước lại sầu trăm ngả Củi một cành khô lạc mấy dòng” Ở những vần thơ trên toát lên một vẻ đẹp cổ điển tinh tế. Đó là việc tác giả sử dụng các từ láy “điệp điệp”, “song song” đầy sức gợi hình, gợi cảm khiến cho câu thơ mang nét Đường Thi. Trên con sông dài ấy thì hình ảnh đầu tiên mà nhân vật trữ tình hay chính là tác giả chú ý đến chính là những con sóng. Những con sóng như nối tiếp nhau trùng trùng, điệp điệp chạy xa tít không thấy điểm cuối. Sóng giống với con người mang tâm trạng u hoài, dường như sóng cũng có tình cảm cảm xúc đó chính là “buồn điệp điệp”. Song song với con sóng ấy chính là con thuyền xuôi mái, một con thuyền như lờ lững trôi chứ chẳng hề vội vã. Qua những hình ảnh ban đầu đó khiến chúng ta như lặng đi trước thiên nhiên quá đỗi mênh mông, hoang dại. Phân tích bài thơ Tràng Giang Dòng sông mênh mông, bát ngát mà nỗi buồn của nhân vật trữ tình cũng dâng đầy. “Thuyền” và “nước” luôn gắn liều với nhau, thế nhưng Huy Cận cảm thấy như cả hai đang tách riêng mỗi bên mỗi ngả. Cả thuyền và nước dường như đều chất chứa nỗi buồn mênh mang khi phải xa cách nhau, nỗi buồn ấy không phải hai hướng mà là “trăm ngả”, một nỗi buồn như vô hạn, không thấy hết được. Giữa cái rộng lớn, mênh mông của dòng sông, của nỗi buồn thì tâm trạng của chủ thể trữ tình đã được bộc lộ qua câu thơ” Củi một cành khô lạc mấy dòng”. Phía trước đó là “trăm ngả” đối lặp với “một cành” đã cho thấy sự nhỏ bé, cô đơn của con người, của tác giả khi đứng giữa thiên nhiên. Huy Cận rất tài tình trong việc tả cảnh ngụ tình. Chỉ với 4 câu thơ ngắn ngủi và không hề nhắc tới con người nhưng người đọc vẫn cảm nhận sâu sắc về tâm trạng, tình cảm, cảm xúc của nhân vật. Hình ảnh “củi một cành khô” như hé mở nên tâm trạng của nhân vật trữ tình và nó gợi mở nhiều hơn qua những câu thơ tiếp theo:Xem thêm: Phân tích bài Thơ Duyên của Xuân Diệu “Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều” Chỉ trong một câu thơ nhưng lại có đến hai từ láy đó là “lơ thơ” và “đìu hiu”, qua đó khắc họa nên một quang cảnh vắng vẻ, thê lương. Đối lập với “tràng giang” đó là “cồn nhỏ”, càng tô đậm cho sự nhỏ bé. Đến đây ta mới thấy trong bài thơ xuất hiện âm thanh về sự sống của con người. Nhưng âm thanh của chợ chiều ấy lại ở xa tít tắp nên nhà thơ chỉ nghe thấy thấp thoáng, không rõ ràng. Câu thơ giống như khát vọng, mong mỏi của nhân vật trữ tình về một khung cảnh có sức sống, có hoạt động của con người. Tuy nhiên mong mỏi đấy dường như lại quá xa vời trong thực tại. Bỏ lại âm thanh vang vọng phía xa, nhà thơ lại tiếp tục dõi theo cảnh vật thiên nhiên ngay trước mắt: “Nắng xuống, trời lên sâu chót vót Sông dài, trời rộng, bến cô liêu” Từ đầu bài thơ mặc dù ta bắt gặp ít âm thanh nhưng sự chuyển động của thiên nhiên là có, đó là sự chuyển động của “con thuyền xuôi mái”, của củi “lạc giữa dòng”. Đến với khổ thơ thứ hai này thì thiên nhiên giống như gợi lên sự chuyển động, mở rộng về không gian. Nắng và trời dường như chuyển động về hai hướng ngược chiều nhau khiến chúng càng trở nên xa cách. Những gì thuộc về thiên nhiên, vũ trụ thì mênh mông, to lớn đó là “sông dài, trời rộng” còn những gì thuộc về con người thì lại “cô liêu”. Hai câu thơ với những thi liệu quen thuộc trong thơ cổ đã khắc họa tài tình về cảnh vật nhưng đồng thời cũng làm nổi rõ lên sự trái ngược giữa con người và cảnh vật.Xem thêm: Văn nghị luận: Thời gian của người nghèo Từ trời mây nhà thơ như lại rơi ánh mắt về dòng sông với mong muốn kiếm tìm một thân ảnh quen thuộc nhưng càng tìm kiếm thì lại càng cảm thấy cô liêu, hiu quạnh: “Bèo dạt về đâu hàng nối hàng Mênh mông không một chuyến đò ngang Không cần gợi chút niềm thân mật Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng” Hình ảnh cánh bèo trôi giữa dòng tương đồng với cành củi khô ở khổ một. Ta đều thấy một sự bấp bênh, vô định, không biết nay đây mai đó ra sao. Nó giống như cuộc đời con người khi trải qua mỗi ngày trên nhân thế. Tiếp nối “bờ xanh tiếp bãi vàng” chính là hình ảnh cổ điển xen với nét đẹp hiện đại: “Lớp lớp mây cao đùn núi bạc Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa” Mây trời như đang có sự chuyển động “đùn”, giống như nhiều lớp mây cứ đùn ra mãi, không giới hạn. Chủ thể trữ tình đã dành thời gian cả buổi đến hoàng hôn để ngắm cảnh sông nước. Bóng chiều như đè nặng lên đôi cánh bé nhỏ khiến những chú chim như phải bay nghiêng để trở về tổ. Trong thơ cổ khi nhắc tới chiều tà vừa là khoảng thời gian kết thúc một ngày làm việc, chim mỏi cánh về chỗ ngủ đồng thời cũng là thời điểm mà con người ta dễ dàng xúc động và mang tâm trọng buồn man mác. Chính vì thế mà Huy Cận đã cho chúng ta chính thức bắt gặp tâm trạng của chính nhà thơ hay của nhân vật trữ tình trước thời cuộc: “Lòng quê dợn dợn vời con nước Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà” Bài thơ Tràng Giang là một thi phẩm vừa mang nét đẹp cổ đại lại vừa có tính hiện đại. Chính nhờ hai vẻ đẹp ấy mà độc giả càng thêm khắc sâu cảnh sắc thiên nhiên sông nước rộng lớn và tình cảnh nhỏ bé, cô liêu của con người giữa cảnh vật ấy. Loan Trương
Phân tích bài thơ Tràng giang của Huy Cận. Hướng dẫn Tràng giang miêu tả phong cảnh quê hương đất nước, thể hiện tình yêu quê hương đất nước, đồng thời thể hiện nỗi cô đơn, bơ vơ của con người ngay giữa quê hương mình. Đó là tâm sự thầm kín của tác giả, thể hiện nỗi buồn thế hệ, nỗi buồn không tìm được lối ra, nên như kéo dài triền miên. Trước hết ta chú ý đầu dề bài thơ là Tràng giang chứ không phải “Trường giang”, để ta không lầm với sông Trường Giang, Trung Quốc, hay con sông dài nói chung. Trong tiếng Việt “tràng giang” thường nằm trong thành ngữ “tràng giang đại hải”, chỉ một hiện tượng mênh mông bất tận. Mở đau bài thơ đúng là một cảnh sông nước mênh mồng bất tận. Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp Con thuyền xuôi mái nước song song Thuyền về nước lại sầu trăm ngả. Củi một cành khô lạc mấy dòng. Ngay ở câu đầu của bài thơ, tác giả đã nhắc đến một nói buồn, nói về một nỗi buồn bất tận, bàng một hình ảnh ẩn dụ: Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp như nỗi buồn trùng trùng điệp điệp. Con thuyền thường là hình ảnh tượng trưng cho cuộc đời lênh đênh, cô đơn, vô định, ở đây con thuyền buông mái chèo xuôi dòng (xuôi mái) theo dòng nước nhưng thuyền và nước chỉ “song song” với nhau, chứ không gắn bó gì với nhau. Thuyền đi với dòng để rồi chia li với dòng. Câu thứ ba đã nói tới sự chia li: thuyền về, nước lại sầu trăm ngả. Nước buồn như không biết trôi về đâu. Câu cuối đoạn này càng thể hiện tập trung cho kiếp người nhỏ nhoi lạc lõng vô định. Củi một cành khô lạc mấy dòng. Tác giả lưu ý, không phải là gỗ, thân gỗ, mà chỉ là “củi một cành khô”, một mảnh rơi gẫy, khô xác của thân cây. Cảnh sông nước bao la, vô định, rời rạc, hờ hững, hiện ngang trước mắt nhà thơ. Những đường nét song song, buồn điệp điệp, sầu trăm ngả, lạc mấy dòng, không hứa hẹn gì về hội tụ, gặp gỡ mà chỉ là chia tan, xa rời. Trên con sông đó một con thuyền một nhánh củi lênh đênh càng tỏ ra nhỏ nhoi, bất lực. Ở đây không chỉ thuyền buồn, cành củi khô buồn, mà cả sóng gợn, sông nước đều buồn.Xem thêm: Phân tích Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật Khổ thứ hai tiếp tục cái mạch thơ của khổ đầu… Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu, Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiểu Nắng xuống, trời lên sâu chót vót; Sông dài, trời rộng, bến cô liêu. Một cái cồn nhỏ, lơ thơ, vắng vẻ, lại thêm ngọn gió đìu hiu, càng thêm vắng vẻ buồn bã hơn, như bị cuộc sống bỏ quên. Huy Cận nói, ông đã đọc được chữ “đìu hiu” trong câu thơ Chinh phụ ngâm: “Bến Phì gió thổi đìu hiu mấy gò” cũng nói về cảnh vắng vẻ, không người. Âm thanh của cuộc sống náo động của các phiên chợ, của làng quê nghe rất xa vắng, càng tăng thêm cảm giác bị bỏ quên ở đây. Hai dòng cuối càng tô đậm thêm cảm giác lạc lõng: nắng xuống, trời lên không chỉ gợi ra khung cảnh nắng chiều, mà bản thân hai hướng lên xuống, như không ăn nhập với nhau, và sông dài, trời rộng càng tăng thêm cái vắng vẻ của bến sông. Cô liêu và vắng vẻ. Trong hai dòng này nhà thơ đã đem đặt bên nhau những yếu tố vốn không có gì là buồn để tạo nên một cảnh buồn. Giữa các yếu tố đó đều có đặt dấu phẩy (,). Khổ thứ ba vẫn tiếp tục mạch cảm xúc về sự hờ hững, mất hết liên lạc giữa các sự vật. Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng Mênh mông không một chuyến đò ngang. Không cầu gợi chút niềm thân mật, Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng. Vẫn các sự vật đặt bên nhau: bèo hàng nối hàng, bờ xanh tiếp bãi vàng, hai bờ sông mênh mông không cầu, không đò ngang, tạo thành một thế giới không liên hệ. Từ sóng, thuyền, củi, dòng trôi đến cồn nhỏ, làng xa chợ chiều, rồi nắng xuống, trời lên sông dài, trời rộng, bến vắng, cả hai bờ cũng không có đò ngang, không cầu, bờ tiếp nối bờ lặng lẽ… Mọi vật thì vẫn có, nhưng không vật nào có ý tìm nhau, đến với nhau, cần đến nhau.Xem thêm: Nhà hoạt động chính trị Vũ Khoan nhắc nhở thế hệ trẻ: "chuẩn bị hành trang vào thế kỉ mới" (Chuẩn bị hành trang vào thế kỉ mới - Vũ Khoan, SGK Ngữ văn 9, tập 1). Hãy viết một đoạn văn trình bày suy nghĩ về việc "chuẩn bị hành trang" của em Lớp lớp mây cao đùn núi bạc, Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa. Lòng quê dợn dợn vời con nước, Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà. Lớp lớp mây cao đùn ra thành từng núi mây bạc, chữ “đùn” mượn từ thơ cổ của Đỗ Phủ, nói rằng mây trôi ra, lừng lững như núi trên trời. Cánh chim nghiêng nghiêng bay về tổ ấm được cảm nhận như chịu sức nặng của bóng chiều đè xuống. Bóng chiều mông lung bỗng trở thành có hình có khối như có thể cảm nhận được bằng đôi cánh nhỏ. Và cánh chim bay đi đâu cho thoát khỏi cái bóng chiều đang đè nặng xuống mình? Lòng quê là lòng nhớ quê hương, lấy từ hai chữ “hương tâm”, chứ không phải là tấm lòng chất phác, quê mùa. Dợn là gợn lên, như ta nói sóng dợn, chỉ một chất lỏng xao động chuyển động dâng lên, uốn xuống. Dợn dợn là dợn liên tục, nhiều lần, hô ứng với chữ “sóng gợn”, “điệp điệp” ở dòng đầu bài thơ, không phải là dờn dợn, chỉ mức độ xao động thấp. Chính vì vậy mà nhà thơ phiền lòng khi thấy người ta đọc chệch thành “dờn dợn” hay “rờn rợn”, làm mất ý nghĩa câu thơ. Cả câu này có nghĩa là lòng nhớ quê hương dâng mãi lên khi phóng tầm mắt nhìn con nước. Chữ “vời” cũng hay, ta cảm thấy như gặp ý câu Kiều: Bốn phương mây trắng một màu Trông vời cố quốc biết đâu là nhà? Lòng nhớ quê được gợi lên từ mây trắng từ cánh chim chiều, nhưng mạnh hơn là từ con nước. Và nhà thơ kết thúc bài thơ bằng câu: “Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”. Viết câu thơ này chứng tỏ Huy Cận đã biết có câu thơ Thôi Hiệu trong bài Hoàng Hạc lâu do Tản Đà dịch: Quê hương khuất bóng hoàng hôn. Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai. Nhà thơ dựa ý thơ Thôi Hiệu để nói ý mình.Xem thêm: Thuyết minh về chiếc nón lá Việt Nam Nhiều người, kể cả nhà thơ, khi đọc đến câu này đều nói rằng Huy Cận buồn hơn Thôi Hiệu. Bởi Thôi Hiệu trông khói sóng mới nhớ nhà, còn Huy Cận thì ngược lại, không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà. Thực ra ai buồn hơn ai làm sao mà xác định được. Điều quan trọng là Huy Cận có một ý thơ khác. Xưa Thôi Hiệu buồn vì cõi tiên mờ mịt, quê nhà cách xa, khói sóng trên sông gợi lên cảnh mờ mịt mà sầu. Nay Huy Cận buồn trước không gian hoang vắng, sóng gợn tràng giang khiến ông nhớ tới quê hương như một nguồn ấm áp. Xưa Thôi Hiệu tìm giấc mơ tiên chỉ thây hư vô, lòng khát khao một cõi quê hương thực tại. Nay Huy Cận một mình đối diện với khung cảnh vô tình, dợn lên nỗi khát khao quê nhà ấm áp. Một đăng ý thức về thực tại, một đằng là ý thức về tình người. Nhưng Tràng giang là một bài thơ vẽ lên một phong cảnh dẹp, giàu màu sắc (núi bạc, bờ xanh, bãi vàng), nhiều đường nét hùng vĩ, mở ra, vô tận (buồn điệp điệp, sâu chót vót, sông dài, trời rộng…), nhiều tương phận, nhiều dộng từ chỉ sức sống rộn ràng, sóng gợn, mây đùn, thuyền về, nước lại, nắng xuống, trời lên… Cái buồn của bài thơ rõ ràng không phải do cảnh vật tàn phai, không gian chật hẹp tù túng, mọi vật chết chóc ngưng đọng. Cái buồn như toát ra từ cấu tạo của thế giới, từ cái đẹp thiếu tình người, từ một sự mất liên lạc có tính phổ quát gây nên. Một cái buồn đậm màu triết lí. Nỗi buồn này cũng phản ánh sự đổi thay của đời sống xã hội; xã hội cộng đồng truyền thống vô vàn mối dây liên hệ đã đứt tung để thay vào một xã hội đô thị với vô vàn cái tôi rời rạc, bơ vơ. Cảnh vật càng rộng, càng làm cho người ta nhớ đến nỗi buồn sâu kín trong lòng. Tác giả đã dùng những vần thơ độc đáo để nói lên cái buồn ấy Nguồn:
Phân tích bài thơ Tràng giang của Huy Cận. Hướng dẫn Tràng giang miêu tả phong cảnh quê hương đất nước, thể hiện tình yêu quê hương đất nước, đồng thời thể hiện nỗi cô đơn, bơ vơ của con người ngay giữa quê hương mình. Đó là tâm sự thầm kín của tác giả, thể hiện nỗi buồn thế hệ, nỗi buồn không tìm được lối ra, nên như kéo dài triền miên. Trước hết ta chú ý đầu dề bài thơ là Tràng giang chứ không phải “Trường giang”, để ta không lầm với sông Trường Giang, Trung Quốc, hay con sông dài nói chung. Trong tiếng Việt “tràng giang” thường nằm trong thành ngữ “tràng giang đại hải”, chỉ một hiện tượng mênh mông bất tận. Mở đau bài thơ đúng là một cảnh sông nước mênh mồng bất tận. Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp Con thuyền xuôi mái nước song song Thuyền về nước lại sầu trăm ngả. Củi một cành khô lạc mấy dòng. Ngay ở câu đầu của bài thơ, tác giả đã nhắc đến một nói buồn, nói về một nỗi buồn bất tận, bàng một hình ảnh ẩn dụ: Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp như nỗi buồn trùng trùng điệp điệp. Con thuyền thường là hình ảnh tượng trưng cho cuộc đời lênh đênh, cô đơn, vô định, ở đây con thuyền buông mái chèo xuôi dòng (xuôi mái) theo dòng nước nhưng thuyền và nước chỉ “song song” với nhau, chứ không gắn bó gì với nhau. Thuyền đi với dòng để rồi chia li với dòng. Câu thứ ba đã nói tới sự chia li: thuyền về, nước lại sầu trăm ngả. Nước buồn như không biết trôi về đâu. Câu cuối đoạn này càng thể hiện tập trung cho kiếp người nhỏ nhoi lạc lõng vô định. Củi một cành khô lạc mấy dòng. Tác giả lưu ý, không phải là gỗ, thân gỗ, mà chỉ là “củi một cành khô”, một mảnh rơi gẫy, khô xác của thân cây. Cảnh sông nước bao la, vô định, rời rạc, hờ hững, hiện ngang trước mắt nhà thơ. Những đường nét song song, buồn điệp điệp, sầu trăm ngả, lạc mấy dòng, không hứa hẹn gì về hội tụ, gặp gỡ mà chỉ là chia tan, xa rời. Trên con sông đó một con thuyền một nhánh củi lênh đênh càng tỏ ra nhỏ nhoi, bất lực. Ở đây không chỉ thuyền buồn, cành củi khô buồn, mà cả sóng gợn, sông nước đều buồn.Xem thêm: Phân tích Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật Khổ thứ hai tiếp tục cái mạch thơ của khổ đầu… Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu, Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiểu Nắng xuống, trời lên sâu chót vót; Sông dài, trời rộng, bến cô liêu. Một cái cồn nhỏ, lơ thơ, vắng vẻ, lại thêm ngọn gió đìu hiu, càng thêm vắng vẻ buồn bã hơn, như bị cuộc sống bỏ quên. Huy Cận nói, ông đã đọc được chữ “đìu hiu” trong câu thơ Chinh phụ ngâm: “Bến Phì gió thổi đìu hiu mấy gò” cũng nói về cảnh vắng vẻ, không người. Âm thanh của cuộc sống náo động của các phiên chợ, của làng quê nghe rất xa vắng, càng tăng thêm cảm giác bị bỏ quên ở đây. Hai dòng cuối càng tô đậm thêm cảm giác lạc lõng: nắng xuống, trời lên không chỉ gợi ra khung cảnh nắng chiều, mà bản thân hai hướng lên xuống, như không ăn nhập với nhau, và sông dài, trời rộng càng tăng thêm cái vắng vẻ của bến sông. Cô liêu và vắng vẻ. Trong hai dòng này nhà thơ đã đem đặt bên nhau những yếu tố vốn không có gì là buồn để tạo nên một cảnh buồn. Giữa các yếu tố đó đều có đặt dấu phẩy (,). Khổ thứ ba vẫn tiếp tục mạch cảm xúc về sự hờ hững, mất hết liên lạc giữa các sự vật. Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng Mênh mông không một chuyến đò ngang. Không cầu gợi chút niềm thân mật, Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng. Vẫn các sự vật đặt bên nhau: bèo hàng nối hàng, bờ xanh tiếp bãi vàng, hai bờ sông mênh mông không cầu, không đò ngang, tạo thành một thế giới không liên hệ. Từ sóng, thuyền, củi, dòng trôi đến cồn nhỏ, làng xa chợ chiều, rồi nắng xuống, trời lên sông dài, trời rộng, bến vắng, cả hai bờ cũng không có đò ngang, không cầu, bờ tiếp nối bờ lặng lẽ… Mọi vật thì vẫn có, nhưng không vật nào có ý tìm nhau, đến với nhau, cần đến nhau.Xem thêm: Nhà hoạt động chính trị Vũ Khoan nhắc nhở thế hệ trẻ: "chuẩn bị hành trang vào thế kỉ mới" (Chuẩn bị hành trang vào thế kỉ mới - Vũ Khoan, SGK Ngữ văn 9, tập 1). Hãy viết một đoạn văn trình bày suy nghĩ về việc "chuẩn bị hành trang" của em Lớp lớp mây cao đùn núi bạc, Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa. Lòng quê dợn dợn vời con nước, Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà. Lớp lớp mây cao đùn ra thành từng núi mây bạc, chữ “đùn” mượn từ thơ cổ của Đỗ Phủ, nói rằng mây trôi ra, lừng lững như núi trên trời. Cánh chim nghiêng nghiêng bay về tổ ấm được cảm nhận như chịu sức nặng của bóng chiều đè xuống. Bóng chiều mông lung bỗng trở thành có hình có khối như có thể cảm nhận được bằng đôi cánh nhỏ. Và cánh chim bay đi đâu cho thoát khỏi cái bóng chiều đang đè nặng xuống mình? Lòng quê là lòng nhớ quê hương, lấy từ hai chữ “hương tâm”, chứ không phải là tấm lòng chất phác, quê mùa. Dợn là gợn lên, như ta nói sóng dợn, chỉ một chất lỏng xao động chuyển động dâng lên, uốn xuống. Dợn dợn là dợn liên tục, nhiều lần, hô ứng với chữ “sóng gợn”, “điệp điệp” ở dòng đầu bài thơ, không phải là dờn dợn, chỉ mức độ xao động thấp. Chính vì vậy mà nhà thơ phiền lòng khi thấy người ta đọc chệch thành “dờn dợn” hay “rờn rợn”, làm mất ý nghĩa câu thơ. Cả câu này có nghĩa là lòng nhớ quê hương dâng mãi lên khi phóng tầm mắt nhìn con nước. Chữ “vời” cũng hay, ta cảm thấy như gặp ý câu Kiều: Bốn phương mây trắng một màu Trông vời cố quốc biết đâu là nhà? Lòng nhớ quê được gợi lên từ mây trắng từ cánh chim chiều, nhưng mạnh hơn là từ con nước. Và nhà thơ kết thúc bài thơ bằng câu: “Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”. Viết câu thơ này chứng tỏ Huy Cận đã biết có câu thơ Thôi Hiệu trong bài Hoàng Hạc lâu do Tản Đà dịch: Quê hương khuất bóng hoàng hôn. Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai. Nhà thơ dựa ý thơ Thôi Hiệu để nói ý mình.Xem thêm: Thuyết minh về chiếc nón lá Việt Nam Nhiều người, kể cả nhà thơ, khi đọc đến câu này đều nói rằng Huy Cận buồn hơn Thôi Hiệu. Bởi Thôi Hiệu trông khói sóng mới nhớ nhà, còn Huy Cận thì ngược lại, không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà. Thực ra ai buồn hơn ai làm sao mà xác định được. Điều quan trọng là Huy Cận có một ý thơ khác. Xưa Thôi Hiệu buồn vì cõi tiên mờ mịt, quê nhà cách xa, khói sóng trên sông gợi lên cảnh mờ mịt mà sầu. Nay Huy Cận buồn trước không gian hoang vắng, sóng gợn tràng giang khiến ông nhớ tới quê hương như một nguồn ấm áp. Xưa Thôi Hiệu tìm giấc mơ tiên chỉ thây hư vô, lòng khát khao một cõi quê hương thực tại. Nay Huy Cận một mình đối diện với khung cảnh vô tình, dợn lên nỗi khát khao quê nhà ấm áp. Một đăng ý thức về thực tại, một đằng là ý thức về tình người. Nhưng Tràng giang là một bài thơ vẽ lên một phong cảnh dẹp, giàu màu sắc (núi bạc, bờ xanh, bãi vàng), nhiều đường nét hùng vĩ, mở ra, vô tận (buồn điệp điệp, sâu chót vót, sông dài, trời rộng…), nhiều tương phận, nhiều dộng từ chỉ sức sống rộn ràng, sóng gợn, mây đùn, thuyền về, nước lại, nắng xuống, trời lên… Cái buồn của bài thơ rõ ràng không phải do cảnh vật tàn phai, không gian chật hẹp tù túng, mọi vật chết chóc ngưng đọng. Cái buồn như toát ra từ cấu tạo của thế giới, từ cái đẹp thiếu tình người, từ một sự mất liên lạc có tính phổ quát gây nên. Một cái buồn đậm màu triết lí. Nỗi buồn này cũng phản ánh sự đổi thay của đời sống xã hội; xã hội cộng đồng truyền thống vô vàn mối dây liên hệ đã đứt tung để thay vào một xã hội đô thị với vô vàn cái tôi rời rạc, bơ vơ. Cảnh vật càng rộng, càng làm cho người ta nhớ đến nỗi buồn sâu kín trong lòng. Tác giả đã dùng những vần thơ độc đáo để nói lên cái buồn ấy Nguồn:
Phân tích bài thơ Tây Tiến (Quang Dũng) Gợi ý Đề bài: Phân tích bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng: Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi! Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi Mường Lát hoa về trong đêm hơi Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm Heo hút cồn mây, súng ngửi trời Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi Anh bạn dãi dầu không bước nữa Gục lên súng mũ bỏ quên đời! Chiều chiều oai linh thác gầm thét Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói Mai Châu mùa em thơm nếp xôi Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa Kìa em xiêm áo tự bao giờ Khèn lên man điệu nàng e ấp Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ Người đi Châu Mộc chiều sương ấy Có thấy hồn lau nẻo bến bờ Có nhớ dáng người trên độc mộc Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc Quân xanh màu lá dữ oai hùm Mắt trừng gửi mộng qua biên giới Đêm mơ Hà Nội dáng kiểu thơm Rải rác biên cương mồ viễn xứ Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh Áo bào thay chiếu anh về đất Sông Mã gầm lên khúc độc hành Tây Tiến người đi không hẹn ước Đường lên thăm thẳm một chia phôi Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi Phù Lưu Chanh – 1948 Phân tích đề – Đề yêu cầu phân tích một tác phẩm trữ tình trọn vẹn. Do đó, người viết cần nắm vững kỹ năng phân tích thơ, ở đây là thơ trữ tình, tất cả các yếu tố nghệ thuật đều nhằm phục vụ cho việc bộc lộ tâm trạng của chủ thể trữ tình. – Tây Tiến là bài thơ tiêu biểu của Quang Dũng, cũng là một những tác phẩm thành công của nền thơ kháng chiến Việt Nam. Đối tượng trữ tình là anh bộ đội ở những năm đầu của cuộc kháng chiến đó. Tuy nhiên, bản thân người lính Tây tiến và cách thể hiện của Quang Dũng cũng khác những nhà thơ cùng thời. Khi phân tích cần chú ý đến đặc trưng này để gợi sự độc đáo của tác phẩm.Xem thêm: Anh (chị) hiểu thế nào về tình yêu và khát vọng đối với tự do trong bài thơ tự do của p. Ê-luy-aGợi ý làm bài 1. Những hiểu biết chung về tác giả và tác phẩm: – Quang Dũng tên thật là Bùi Đình Diệm, sinh năm 1921, tại làng Phượng Trì, huyện Đan Phượng, tỉnh Hà Tây, một vùng quê để lại nhiều dấu ấn văn hóa cho nhà thơ. Trước năm 1945, Quang Dũng là một thanh niên trí thức lãng mạn. Nhà thơ tham gia Cách mạng ngay từ khi Cách mạng tháng Tám bùng nổ, liền sau đó đã gia nhập quân ngũ. Cuối xuân 1947, Quang Dũng tham gia đoàn quân Tây Tiến, đội quân nổi tiếng trong kháng chiến chống Pháp, từng có mặt ở hầu khắp các chiến trường Đông Dương. Sau khi rời Tây tiến, Quang Dũng hoạt động văn học – nghệ thuật cho đến khi nghỉ hưu (1978). Nhà thơ mất tại Hà Nội, ngày 13.10.1988. – Quang Dũng là người tài hoa, sáng tác văn, thơ, vẽ tranh… Tây Tiến là bài thơ nổi tiếng nhất của ông, cũng là sáng tác văn học xuất sắc về đoàn quân một thời lừng danh. Bài thơ được viết năm 1948, khi Quang Dũng đã rời đoàn quân Tây Tiến, tại thôn Phù Lưu Chanh, huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam. Do đó, Tây Tiến chính là sự hồi tưởng của Quang Dũng về đoàn quân Tây Tiến, về cảnh vật và con người Tây Bắc của một thời gian khổ, nhưng oai hùng. 2. Phân tích đoạn: Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi! … Mai Châu mùa em thơm nếp xôi Bài thơ Tây Tiến là một nỗi nhớ. Đoạn đầu là một trường đoạn của nỗi nhớ ấy. Nỗi nhớ ấy có từng cung bậc: – Từ nỗi nhớ bao la, tràn ngập (Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi), đến nỗi nhớ cụ thể với từng cảnh vật, con người Tây Bắc (Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi / Mường Lát hoa về trong đêm hơi; Anh bạn dãi dầu không bước nữa / Gục lên súng mủ bỏ quên đời!). – Nỗi nhớ không chỉ bao trùm không gian mà còn da diết với thời gian: mở đầu là một lời cảm thán (Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!), kết đoạn cũng là một lời cảm thán tha thiết (Nhớ ôi Tây Tiến com lên khói…). Bởi nỗi nhớ về Tây Tiến của Quang Dũng có nhiều cung bậc nên vô tình bài thơ tạo dựng thành những bức tranh đặc sắc về một Tây Bắc hùng vĩ, hiểm trở, nhưng không kém phần thơ mộng. Sự kết hợp giữa bút pháp hiện thực và lãng mạn khiến cho những bức tranh ấy vừa chân thực vừa có sức mê hoặc lòng người, hay nói cách khác, đó là hiện thực trong nỗi lòng của nhà thơ.Xem thêm: Viết một đoạn văn khoảng 4, 5 câu nói về hoa hồng3. Phân tích đoạn: Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa … Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa Hai khổ thơ liên tiếp thể hiện những giờ phút sum vầy, hào hứng của đoàn quân Tây Tiên trên con đường hành quân thăm thẳm, nhiều nguy nan, khắc nghiệt. – Khổ thứ nhất là cảnh liên hoan tưng bừng trong doanh trại của đoàn quân Tây Tiến. Buổi liên hoan ấy không chỉ có những người lính Tây Tiên mà còn góp mặt của những người dân Tây Bắc. Nhà thơ tập trung miêu tả giờ phút bùng nổ niềm vui của đoàn quân. Giờ phút hiếm hoi ấy khiến người ta có cảm tưởng như không hề có cuộc chiến tranh khóc liệt đang diễn ra. Từng con người được sống với niềm vui rộn ràng vòn có của tuổi trẻ. Hàng loạt hình ảnh diễn tả cảnh bừng sáng ấy: hội đuốc hoa; xiêm áo; nàng e ấp; xây hồn thơ… – Khổ thơ thứ hai mặc dù nối tiếp dòng hồi tưởng của Quang Dũng về những kỷ niệm nơi miền sơn cước. Nhưng nếu cảnh trên là sự bùng nổ của niềm vui tuổi trẻ, thì ở đây là cảnh tình tha thiết, phảng phất buồn. Nỗi buồn trải rộng khắp không gian. Nhưng không phải vì cảnh buồn mà chính là vì tâm trạng con người khi nhắc nhở về người xưa cảnh cũ. Nỗi buồn ấy càng thể hiện sự gắn bó không rời của Tây Tiến và Tây Bắc trong tâm hồn Quang Dũng.Xem thêm: Phân tích hình tượng nhân vật Tnú trong Rừng xà nu (Có dàn ý chi tiết)4. Phân tích đoạn: Tây Tiến đoàn bình không mọc tóc … Sông Mã gầm lên khúc độc hành Vẫn là nỗi nhớ về Tây Tiến, nhưng từ cái nền hùng vĩ và thơ mộng cùa Tây Bắc, Quang Dũng trực tiếp khắc họa chân dung người lính, với vẻ đẹp bi tráng: – Cái đẹp toát lên từ tư thế coi thường cái chết nơi chiến địa (Rải rác hiên cương mồ viễn xứ), sẵn sàng dâng hiến đời mình cho Tổ quốc (Chiến trường đi chẳng tiếc đài xanh). – Cái đẹp toát lên từ tâm hồn lãng mạn: Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm. – Cái đẹp toát lên khoảnh khắc người lính hy sinh: Áo bào thay chiếu anh về đất Sông Mã gầm lên khúc độc hành. Sự độc đáo và mới lạ ở Quang Dũng khi viết về người lính kháng chiến là tác giả đã không né tránh sự gian khổ, khắc nghiệt, thậm chí trực tiếp miêu tả cái chết. Chính cái bi đã càng góp phần tôn vinh chất hào hùng, cao cả ở người lính Tây Tiến. Những mỹ từ Hán – Việt và các hình ảnh giàu chất ước lệ, tượng trưng (biên cương; viễn xứ; chiến trường; độc hành; đời xanh; áo hào; về đất) không làm cho hình tượng thơ sáo mòn. Trái lại, nó đem đến vẻ đẹp của sự trang trọng, thiêng liêng. 5. Phân tích khổ thơ cuối: Tây Tiến người đi không hẹn ước … Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi Những câu kết gợi lại hình ảnh chung về “thế giới” Tây Tiến (Đường lên thăm thẳm một chia phôi) với thời gian và không gian của chính Tây Tiến. “Thế giới” ấy tuy xa trong thực tại, nhưng lại rất gần, ở ngay trong tâm hồn của người Tây Tiến. Vanmau.edu.vn
Phân tích bài thơ Tây Tiến (Quang Dũng) Gợi ý Đề bài: Phân tích bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng: Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi! Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi Mường Lát hoa về trong đêm hơi Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm Heo hút cồn mây, súng ngửi trời Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi Anh bạn dãi dầu không bước nữa Gục lên súng mũ bỏ quên đời! Chiều chiều oai linh thác gầm thét Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói Mai Châu mùa em thơm nếp xôi Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa Kìa em xiêm áo tự bao giờ Khèn lên man điệu nàng e ấp Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ Người đi Châu Mộc chiều sương ấy Có thấy hồn lau nẻo bến bờ Có nhớ dáng người trên độc mộc Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc Quân xanh màu lá dữ oai hùm Mắt trừng gửi mộng qua biên giới Đêm mơ Hà Nội dáng kiểu thơm Rải rác biên cương mồ viễn xứ Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh Áo bào thay chiếu anh về đất Sông Mã gầm lên khúc độc hành Tây Tiến người đi không hẹn ước Đường lên thăm thẳm một chia phôi Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi Phù Lưu Chanh – 1948 Phân tích đề – Đề yêu cầu phân tích một tác phẩm trữ tình trọn vẹn. Do đó, người viết cần nắm vững kỹ năng phân tích thơ, ở đây là thơ trữ tình, tất cả các yếu tố nghệ thuật đều nhằm phục vụ cho việc bộc lộ tâm trạng của chủ thể trữ tình. – Tây Tiến là bài thơ tiêu biểu của Quang Dũng, cũng là một những tác phẩm thành công của nền thơ kháng chiến Việt Nam. Đối tượng trữ tình là anh bộ đội ở những năm đầu của cuộc kháng chiến đó. Tuy nhiên, bản thân người lính Tây tiến và cách thể hiện của Quang Dũng cũng khác những nhà thơ cùng thời. Khi phân tích cần chú ý đến đặc trưng này để gợi sự độc đáo của tác phẩm.Xem thêm: Anh (chị) hiểu thế nào về tình yêu và khát vọng đối với tự do trong bài thơ tự do của p. Ê-luy-aGợi ý làm bài 1. Những hiểu biết chung về tác giả và tác phẩm: – Quang Dũng tên thật là Bùi Đình Diệm, sinh năm 1921, tại làng Phượng Trì, huyện Đan Phượng, tỉnh Hà Tây, một vùng quê để lại nhiều dấu ấn văn hóa cho nhà thơ. Trước năm 1945, Quang Dũng là một thanh niên trí thức lãng mạn. Nhà thơ tham gia Cách mạng ngay từ khi Cách mạng tháng Tám bùng nổ, liền sau đó đã gia nhập quân ngũ. Cuối xuân 1947, Quang Dũng tham gia đoàn quân Tây Tiến, đội quân nổi tiếng trong kháng chiến chống Pháp, từng có mặt ở hầu khắp các chiến trường Đông Dương. Sau khi rời Tây tiến, Quang Dũng hoạt động văn học – nghệ thuật cho đến khi nghỉ hưu (1978). Nhà thơ mất tại Hà Nội, ngày 13.10.1988. – Quang Dũng là người tài hoa, sáng tác văn, thơ, vẽ tranh… Tây Tiến là bài thơ nổi tiếng nhất của ông, cũng là sáng tác văn học xuất sắc về đoàn quân một thời lừng danh. Bài thơ được viết năm 1948, khi Quang Dũng đã rời đoàn quân Tây Tiến, tại thôn Phù Lưu Chanh, huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam. Do đó, Tây Tiến chính là sự hồi tưởng của Quang Dũng về đoàn quân Tây Tiến, về cảnh vật và con người Tây Bắc của một thời gian khổ, nhưng oai hùng. 2. Phân tích đoạn: Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi! … Mai Châu mùa em thơm nếp xôi Bài thơ Tây Tiến là một nỗi nhớ. Đoạn đầu là một trường đoạn của nỗi nhớ ấy. Nỗi nhớ ấy có từng cung bậc: – Từ nỗi nhớ bao la, tràn ngập (Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi), đến nỗi nhớ cụ thể với từng cảnh vật, con người Tây Bắc (Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi / Mường Lát hoa về trong đêm hơi; Anh bạn dãi dầu không bước nữa / Gục lên súng mủ bỏ quên đời!). – Nỗi nhớ không chỉ bao trùm không gian mà còn da diết với thời gian: mở đầu là một lời cảm thán (Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!), kết đoạn cũng là một lời cảm thán tha thiết (Nhớ ôi Tây Tiến com lên khói…). Bởi nỗi nhớ về Tây Tiến của Quang Dũng có nhiều cung bậc nên vô tình bài thơ tạo dựng thành những bức tranh đặc sắc về một Tây Bắc hùng vĩ, hiểm trở, nhưng không kém phần thơ mộng. Sự kết hợp giữa bút pháp hiện thực và lãng mạn khiến cho những bức tranh ấy vừa chân thực vừa có sức mê hoặc lòng người, hay nói cách khác, đó là hiện thực trong nỗi lòng của nhà thơ.Xem thêm: Viết một đoạn văn khoảng 4, 5 câu nói về hoa hồng3. Phân tích đoạn: Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa … Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa Hai khổ thơ liên tiếp thể hiện những giờ phút sum vầy, hào hứng của đoàn quân Tây Tiên trên con đường hành quân thăm thẳm, nhiều nguy nan, khắc nghiệt. – Khổ thứ nhất là cảnh liên hoan tưng bừng trong doanh trại của đoàn quân Tây Tiến. Buổi liên hoan ấy không chỉ có những người lính Tây Tiên mà còn góp mặt của những người dân Tây Bắc. Nhà thơ tập trung miêu tả giờ phút bùng nổ niềm vui của đoàn quân. Giờ phút hiếm hoi ấy khiến người ta có cảm tưởng như không hề có cuộc chiến tranh khóc liệt đang diễn ra. Từng con người được sống với niềm vui rộn ràng vòn có của tuổi trẻ. Hàng loạt hình ảnh diễn tả cảnh bừng sáng ấy: hội đuốc hoa; xiêm áo; nàng e ấp; xây hồn thơ… – Khổ thơ thứ hai mặc dù nối tiếp dòng hồi tưởng của Quang Dũng về những kỷ niệm nơi miền sơn cước. Nhưng nếu cảnh trên là sự bùng nổ của niềm vui tuổi trẻ, thì ở đây là cảnh tình tha thiết, phảng phất buồn. Nỗi buồn trải rộng khắp không gian. Nhưng không phải vì cảnh buồn mà chính là vì tâm trạng con người khi nhắc nhở về người xưa cảnh cũ. Nỗi buồn ấy càng thể hiện sự gắn bó không rời của Tây Tiến và Tây Bắc trong tâm hồn Quang Dũng.Xem thêm: Phân tích hình tượng nhân vật Tnú trong Rừng xà nu (Có dàn ý chi tiết)4. Phân tích đoạn: Tây Tiến đoàn bình không mọc tóc … Sông Mã gầm lên khúc độc hành Vẫn là nỗi nhớ về Tây Tiến, nhưng từ cái nền hùng vĩ và thơ mộng cùa Tây Bắc, Quang Dũng trực tiếp khắc họa chân dung người lính, với vẻ đẹp bi tráng: – Cái đẹp toát lên từ tư thế coi thường cái chết nơi chiến địa (Rải rác hiên cương mồ viễn xứ), sẵn sàng dâng hiến đời mình cho Tổ quốc (Chiến trường đi chẳng tiếc đài xanh). – Cái đẹp toát lên từ tâm hồn lãng mạn: Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm. – Cái đẹp toát lên khoảnh khắc người lính hy sinh: Áo bào thay chiếu anh về đất Sông Mã gầm lên khúc độc hành. Sự độc đáo và mới lạ ở Quang Dũng khi viết về người lính kháng chiến là tác giả đã không né tránh sự gian khổ, khắc nghiệt, thậm chí trực tiếp miêu tả cái chết. Chính cái bi đã càng góp phần tôn vinh chất hào hùng, cao cả ở người lính Tây Tiến. Những mỹ từ Hán – Việt và các hình ảnh giàu chất ước lệ, tượng trưng (biên cương; viễn xứ; chiến trường; độc hành; đời xanh; áo hào; về đất) không làm cho hình tượng thơ sáo mòn. Trái lại, nó đem đến vẻ đẹp của sự trang trọng, thiêng liêng. 5. Phân tích khổ thơ cuối: Tây Tiến người đi không hẹn ước … Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi Những câu kết gợi lại hình ảnh chung về “thế giới” Tây Tiến (Đường lên thăm thẳm một chia phôi) với thời gian và không gian của chính Tây Tiến. “Thế giới” ấy tuy xa trong thực tại, nhưng lại rất gần, ở ngay trong tâm hồn của người Tây Tiến. Vanmau.edu.vn
Đề bài: Phân tích bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng Bài làm Có những năm tháng đi vào lịch sử, trở thành kí ức không bao giờ quên của biết bao thế hệ. Đó chính là những ngày chiến đấu gian khổ trong công cuộc giành lại hòa bình cho dân tộc, đó là hai cuộc kháng chiến trường kỳ chống lại thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Để lưu giữ những khoảnh khắc đó cho không chỉ thế hệ đã qua mà còn cho cả thế hệ ngày nay, mai sau thì biết bao nhà văn, nhà thơ đã sáng tác nên những tác phẩm tái hiện lại những năm tháng ấy. Bài thơ Tây Tiến của nhà thơ Quang Dũng chính là một trong những tác phẩm đó. Nhà thơ Quang Dũng là một thanh niên trí thức Hà Nội, tài hoa và lãng mạn. Ông mang trong mình một niềm yêu nước thiết tha, mãnh liệt và hăng hái tham gia vào cuộc kháng chiến chống Pháp. Trong những năm đầu của cuộc kháng chiến (1947-1948), Quang Dũng tham gia vào đoàn quân Tây Tiến và trở thành đại đội trưởng. Tây Tiến là tên một binh đoàn có nhiệm vụ bảo vệ biên giới Việt – Lào, làm tiêu hao sinh lực địch. Tại nơi rừng thiêng, nước độc họ phải chịu biết bao gian khổ, đối mặt với biết bao hiểm nguy. Tuy nhiên những người lính với phần đông là những chàng trai Hà Thành vẫn thản nhiên đối mặt, vất vả, cực nhọc nhưng không làm mất đi chất anh hùng, hào hoa lãng mạn trong con người họ. Bài thơ trước kia đã từng mang tên Nhớ Tây Tiến để nói lên cảm hứng về Tây Tiến bắt nguồn từ nỗi nhớ, kỷ niệm về một quãng thời gian chiến đấu, về một miền đất với những người đồng đội, với những người dân bản xứ. Tên gọi ấy nhiều hơn chữ “nhớ” nhưng lại khái quát chung tâm trạng, tình cảm của tác giả khi viết lên tác phẩm này. Kỷ niệm gợi nhớ đầu tiên về Tây Tiến chính là hình ảnh: “Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi” Mặc dù nhan đề lược bỏ đi từ “nhớ” nhưng ở ngay hai câu thơ đầu tiên chúng ta đã bắt gặp từ “nhớ” đến hai lần. Một nỗi nhớ không được miêu tả cụ thể nhiều ít mà “nhớ chơi vơi”. Từ “chơi vơi” được Quang Dũng sử dụng rất hay, rất đắt bởi có thể khái quát nên một nỗi nhớ không định hình, không định lượng. Nó vừa mang đến cho chúng ta cảm giác nhẹ tênh nhưng đồng thời cũng làm cho con người ta cảm thấy nặng trĩu trong lòng, sự băn khoăn tự nhủ bởi vì không cân đo, đong đếm được. Với Quang Dũng thì đây là nỗi nhớ ám ảnh trong tâm trí khiến ông không bao giờ có thể quên được.Xem thêm: Có ý kiến cho rằng Những thói xấu ban đầu là người khách qua đường, sau trở nên người bạn thân ở chung nhà và kết cục biến thành ông chủ nhà khó tính. Suy nghĩ của anh (chị) về ý kiến trên Phân tích bài thơ Tây Tiến Nhắc đến Tây Tiến thì không thể không nhắc tới thiên nhiên, núi rừng. Hình ảnh đầu tiên mà nhà thơ nhớ tới đó chính là dòng sông Mã và ở mười bốn câu thơ đầu đã toát lên vẻ đẹp hùng vĩ và dữ dội của thiên nhiên Tây Bắc. Trước tiên thể hiện qua đoạn thứ nhất: “Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm Heo hút cồn mây súng ngửi trời Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi” Một đoạn thơ ngắn ngủi với những từ ngữ thể hiện rõ sự hiểm trở của núi rừng. Trên con đường hành quân của các chiến sĩ, họ phải chịu nhiều gian khổ bởi địa hình “khúc khuỷu” với những dốc thăm thẳm. Câu thơ “Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống” được chia làm hai nửa và như xẻ đôi địa hình khiến cho người đọc liên tưởng tới một con đường với một bên là vách núi, một bên là vực sâu thăm thẳm. Chính cắt ngắt nhịp đó càng làm toát lên nỗi vất vả của người lính Tây Tiến. Trong bốn câu thơ trên có một hình ảnh mang đậm chất thơ đó là “súng ngửi trời”. Đứng trên địa hình trên cao, nơi mây mù che phủ, người lính hành quân với súng khoác trên vai, nòng súng chĩa lên trời khiến những người phía sau như thấy được súng đang “ngửi trời”. Qua bốn câu thơ ngắn ngủi với bút pháp lãng mạn, tác giả đã thành công dựng lên cảnh thiên nhiên núi rừng Tây Bắc hiểm trở, hùng vĩ nhưng lại mang nét lãng mạn. Đối lập với cái dữ dội của dốc núi, vực thẳm là hình ảnh “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”.Xem thêm: Phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mạc Tử (Có dàn ý chi tiết) Bên cạnh sự hiểm nguy về địa hình thì những người lính còn phải đối mặt với những nguy hiểm khác: “Chiều chiều oai linh thác gầm thét Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người” Từ “chiều chiều”, “đêm đêm” gợi tới thời gian được lặp đi lặp lại liên tục chứ không phải một sớm một chiều. Hai câu văn như chìm trong tiếng kêu man rợ, sự rình rập của thú dữ và có thể đe dọa tới mạng sống bất cứ lúc nào vậy. Bút pháp lãng mạn còn được thể hiện qua việc khắc họa chân dung người lính Tây Tiến: “Anh bạn dãi dầu không bước nữa Gục lên súng mũ bỏ quên đời” Chỉ hai câu thơ ngắn ngủi đã làm toát lên sự khốc liệt của cuộc chiến. Nhà thơ Quang Dũng đã không giấu giếm sự hi sinh, mất mà mà thẳng thắn đối mặt. Trên con đường hành quân gian khổ ấy, không ít người đã hi sinh, ngã xuống. Sự hi sinh ấy được Quang Dũng khắc họa rất đặc sắc không phải mất đi mà là “không bước nữa”, “bỏ quên đời”. Nó giống như việc những người lính đã chiến đấu gian khổ, mệt mỏi và đã đến lúc “nghỉ ngơi” nhường bước cho đồng đội và những thế hệ sau họ bước tiếp. Tuy nhiên phải đến khổ thơ tiếp theo thì hình ảnh những người lính Tây Tiến mới càng trở nên rõ nét hơn. Giữa gian khổ, giữa hi sinh nhưng vẫn không làm mờ đi nét hào hoa, lãng mạn của những người lính Tây Tiến giữa thiên nhiên miền Tây: “Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa Kìa em xiêm áo tự bao giờ Khèn lên man điệu nàng e ấp Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ” Những câu thơ chan chứa những âm thanh và hình ảnh sống động. Qua những vần thơ, tác giả đã không thể nào kìm nén nỗi nhớ bâng khuâng, nhớ “chơi vơi” về một miền kí ức chất chưa đầy những kỷ niệm. Trên con đường hành quân vất vả, gian khổ, những người lính có dịp được dừng chân tại một bản làng. Nơi đó hiện lên một viễn cảnh sinh hoạt cộng đồng vui tươi, thắm thiết đó là đêm hội đuốc hoa, là tiếng khèn, là những cô gái bản làng e ấp, hay đơn giản chỉ là những nắm cơm nếp xôi mà người dân bản làng đem tặng. Tất cả đều chứa chan tình cảm quân dân thắm thiết, làm vơi đi nỗi vất cả cực nhọc.Xem thêm: Cho câu chủ đề: “Chiến tranh phi nghĩa là một tội ác”. Hãy viết một đoạn văn (khoảng 8 đến 10 câu) để triển khai ý của câu chủ đề trên theo lối tổng hợp - phân tích - tổng hợp Bên cạnh đời sống tình cảm đó thì hình ảnh những người lính Tây Tiến còn được khắc họa chân dung mang hình ảnh bi tráng giữa núi rừng: “Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc Quân xanh màu lá dữ oai hùm Mắt trừng gửi mộng qua biên giới Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm” Cách miêu tả rất hóm hỉnh, tươi vui về nỗi gian truân, vát vả mà chính bản thân Quang Dũng cùng đồng đội đã trải qua. Giữa nơi rừng thiêng nước độc, ngoài việc phải đối mặt với địa hình hiểm trở, thú dữ thì họ còn phải đối mặt với căn bệnh sốt rét rừng hiểm ác. Chính vì căn bệnh đó khiến tóc họ không thể mọc được, làn da xanh xao. Vẻ bề ngoài tưởng như tiều tụy, ốm yếu nhưng lại mang sức mạnh “dữ oai hùm” khiến kẻ thù khiếp sợ. Căn bệnh sốt rét rừng ấy cũng trở thành nguyên nhân mà nhiều người lính ngã xuống: “Rải rác biên cương mồ viễn xứ Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh Áo bào thay chiếu anh về đất Sông Mã gầm lên khúc độc hành” Những người lính Tây Tiến đều là những thanh niên tuổi đời còn trẻ nên được Quang Dũng gọi tên thành “đời xanh”. Họ rời xa quê hương với một lòng quyết tâm, chẳng ngại hi sinh, gian khó. Cách nói ước lệ “áo bào thay chiếu” như đang lãng mạn hóa sự hi sinh, các anh ngã xuống thậm chí manh chiếu để liệm cũng không có chỉ có chiếc áo đang mặc. Ấy vậy mà vẫn gợi lên cho người đọc sự hào hùng, oai phong. Thế rồi những mất mát, hi sinh ấy như được dồn nén, tích tụ và bộc phát thành tiếng gầm rung trời, chuyển đất: “Sông Mã gầm lên khúc độc hành”. Qua bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng ta phần nào cảm nhận sâu sắc được cuộc hành quân gian khổ, những hi sinh thầm lặng của những người chiến sĩ. Cũng qua đó ta thấy được nét tinh tế, lãng mạn của một nhà thơ đồng thời là người chiến sĩ trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Loan Trương
Đề bài: Phân tích bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng Bài làm Có những năm tháng đi vào lịch sử, trở thành kí ức không bao giờ quên của biết bao thế hệ. Đó chính là những ngày chiến đấu gian khổ trong công cuộc giành lại hòa bình cho dân tộc, đó là hai cuộc kháng chiến trường kỳ chống lại thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Để lưu giữ những khoảnh khắc đó cho không chỉ thế hệ đã qua mà còn cho cả thế hệ ngày nay, mai sau thì biết bao nhà văn, nhà thơ đã sáng tác nên những tác phẩm tái hiện lại những năm tháng ấy. Bài thơ Tây Tiến của nhà thơ Quang Dũng chính là một trong những tác phẩm đó. Nhà thơ Quang Dũng là một thanh niên trí thức Hà Nội, tài hoa và lãng mạn. Ông mang trong mình một niềm yêu nước thiết tha, mãnh liệt và hăng hái tham gia vào cuộc kháng chiến chống Pháp. Trong những năm đầu của cuộc kháng chiến (1947-1948), Quang Dũng tham gia vào đoàn quân Tây Tiến và trở thành đại đội trưởng. Tây Tiến là tên một binh đoàn có nhiệm vụ bảo vệ biên giới Việt – Lào, làm tiêu hao sinh lực địch. Tại nơi rừng thiêng, nước độc họ phải chịu biết bao gian khổ, đối mặt với biết bao hiểm nguy. Tuy nhiên những người lính với phần đông là những chàng trai Hà Thành vẫn thản nhiên đối mặt, vất vả, cực nhọc nhưng không làm mất đi chất anh hùng, hào hoa lãng mạn trong con người họ. Bài thơ trước kia đã từng mang tên Nhớ Tây Tiến để nói lên cảm hứng về Tây Tiến bắt nguồn từ nỗi nhớ, kỷ niệm về một quãng thời gian chiến đấu, về một miền đất với những người đồng đội, với những người dân bản xứ. Tên gọi ấy nhiều hơn chữ “nhớ” nhưng lại khái quát chung tâm trạng, tình cảm của tác giả khi viết lên tác phẩm này. Kỷ niệm gợi nhớ đầu tiên về Tây Tiến chính là hình ảnh: “Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi” Mặc dù nhan đề lược bỏ đi từ “nhớ” nhưng ở ngay hai câu thơ đầu tiên chúng ta đã bắt gặp từ “nhớ” đến hai lần. Một nỗi nhớ không được miêu tả cụ thể nhiều ít mà “nhớ chơi vơi”. Từ “chơi vơi” được Quang Dũng sử dụng rất hay, rất đắt bởi có thể khái quát nên một nỗi nhớ không định hình, không định lượng. Nó vừa mang đến cho chúng ta cảm giác nhẹ tênh nhưng đồng thời cũng làm cho con người ta cảm thấy nặng trĩu trong lòng, sự băn khoăn tự nhủ bởi vì không cân đo, đong đếm được. Với Quang Dũng thì đây là nỗi nhớ ám ảnh trong tâm trí khiến ông không bao giờ có thể quên được.Xem thêm: Có ý kiến cho rằng Những thói xấu ban đầu là người khách qua đường, sau trở nên người bạn thân ở chung nhà và kết cục biến thành ông chủ nhà khó tính. Suy nghĩ của anh (chị) về ý kiến trên Phân tích bài thơ Tây Tiến Nhắc đến Tây Tiến thì không thể không nhắc tới thiên nhiên, núi rừng. Hình ảnh đầu tiên mà nhà thơ nhớ tới đó chính là dòng sông Mã và ở mười bốn câu thơ đầu đã toát lên vẻ đẹp hùng vĩ và dữ dội của thiên nhiên Tây Bắc. Trước tiên thể hiện qua đoạn thứ nhất: “Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm Heo hút cồn mây súng ngửi trời Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi” Một đoạn thơ ngắn ngủi với những từ ngữ thể hiện rõ sự hiểm trở của núi rừng. Trên con đường hành quân của các chiến sĩ, họ phải chịu nhiều gian khổ bởi địa hình “khúc khuỷu” với những dốc thăm thẳm. Câu thơ “Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống” được chia làm hai nửa và như xẻ đôi địa hình khiến cho người đọc liên tưởng tới một con đường với một bên là vách núi, một bên là vực sâu thăm thẳm. Chính cắt ngắt nhịp đó càng làm toát lên nỗi vất vả của người lính Tây Tiến. Trong bốn câu thơ trên có một hình ảnh mang đậm chất thơ đó là “súng ngửi trời”. Đứng trên địa hình trên cao, nơi mây mù che phủ, người lính hành quân với súng khoác trên vai, nòng súng chĩa lên trời khiến những người phía sau như thấy được súng đang “ngửi trời”. Qua bốn câu thơ ngắn ngủi với bút pháp lãng mạn, tác giả đã thành công dựng lên cảnh thiên nhiên núi rừng Tây Bắc hiểm trở, hùng vĩ nhưng lại mang nét lãng mạn. Đối lập với cái dữ dội của dốc núi, vực thẳm là hình ảnh “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”.Xem thêm: Phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mạc Tử (Có dàn ý chi tiết) Bên cạnh sự hiểm nguy về địa hình thì những người lính còn phải đối mặt với những nguy hiểm khác: “Chiều chiều oai linh thác gầm thét Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người” Từ “chiều chiều”, “đêm đêm” gợi tới thời gian được lặp đi lặp lại liên tục chứ không phải một sớm một chiều. Hai câu văn như chìm trong tiếng kêu man rợ, sự rình rập của thú dữ và có thể đe dọa tới mạng sống bất cứ lúc nào vậy. Bút pháp lãng mạn còn được thể hiện qua việc khắc họa chân dung người lính Tây Tiến: “Anh bạn dãi dầu không bước nữa Gục lên súng mũ bỏ quên đời” Chỉ hai câu thơ ngắn ngủi đã làm toát lên sự khốc liệt của cuộc chiến. Nhà thơ Quang Dũng đã không giấu giếm sự hi sinh, mất mà mà thẳng thắn đối mặt. Trên con đường hành quân gian khổ ấy, không ít người đã hi sinh, ngã xuống. Sự hi sinh ấy được Quang Dũng khắc họa rất đặc sắc không phải mất đi mà là “không bước nữa”, “bỏ quên đời”. Nó giống như việc những người lính đã chiến đấu gian khổ, mệt mỏi và đã đến lúc “nghỉ ngơi” nhường bước cho đồng đội và những thế hệ sau họ bước tiếp. Tuy nhiên phải đến khổ thơ tiếp theo thì hình ảnh những người lính Tây Tiến mới càng trở nên rõ nét hơn. Giữa gian khổ, giữa hi sinh nhưng vẫn không làm mờ đi nét hào hoa, lãng mạn của những người lính Tây Tiến giữa thiên nhiên miền Tây: “Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa Kìa em xiêm áo tự bao giờ Khèn lên man điệu nàng e ấp Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ” Những câu thơ chan chứa những âm thanh và hình ảnh sống động. Qua những vần thơ, tác giả đã không thể nào kìm nén nỗi nhớ bâng khuâng, nhớ “chơi vơi” về một miền kí ức chất chưa đầy những kỷ niệm. Trên con đường hành quân vất vả, gian khổ, những người lính có dịp được dừng chân tại một bản làng. Nơi đó hiện lên một viễn cảnh sinh hoạt cộng đồng vui tươi, thắm thiết đó là đêm hội đuốc hoa, là tiếng khèn, là những cô gái bản làng e ấp, hay đơn giản chỉ là những nắm cơm nếp xôi mà người dân bản làng đem tặng. Tất cả đều chứa chan tình cảm quân dân thắm thiết, làm vơi đi nỗi vất cả cực nhọc.Xem thêm: Cho câu chủ đề: “Chiến tranh phi nghĩa là một tội ác”. Hãy viết một đoạn văn (khoảng 8 đến 10 câu) để triển khai ý của câu chủ đề trên theo lối tổng hợp - phân tích - tổng hợp Bên cạnh đời sống tình cảm đó thì hình ảnh những người lính Tây Tiến còn được khắc họa chân dung mang hình ảnh bi tráng giữa núi rừng: “Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc Quân xanh màu lá dữ oai hùm Mắt trừng gửi mộng qua biên giới Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm” Cách miêu tả rất hóm hỉnh, tươi vui về nỗi gian truân, vát vả mà chính bản thân Quang Dũng cùng đồng đội đã trải qua. Giữa nơi rừng thiêng nước độc, ngoài việc phải đối mặt với địa hình hiểm trở, thú dữ thì họ còn phải đối mặt với căn bệnh sốt rét rừng hiểm ác. Chính vì căn bệnh đó khiến tóc họ không thể mọc được, làn da xanh xao. Vẻ bề ngoài tưởng như tiều tụy, ốm yếu nhưng lại mang sức mạnh “dữ oai hùm” khiến kẻ thù khiếp sợ. Căn bệnh sốt rét rừng ấy cũng trở thành nguyên nhân mà nhiều người lính ngã xuống: “Rải rác biên cương mồ viễn xứ Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh Áo bào thay chiếu anh về đất Sông Mã gầm lên khúc độc hành” Những người lính Tây Tiến đều là những thanh niên tuổi đời còn trẻ nên được Quang Dũng gọi tên thành “đời xanh”. Họ rời xa quê hương với một lòng quyết tâm, chẳng ngại hi sinh, gian khó. Cách nói ước lệ “áo bào thay chiếu” như đang lãng mạn hóa sự hi sinh, các anh ngã xuống thậm chí manh chiếu để liệm cũng không có chỉ có chiếc áo đang mặc. Ấy vậy mà vẫn gợi lên cho người đọc sự hào hùng, oai phong. Thế rồi những mất mát, hi sinh ấy như được dồn nén, tích tụ và bộc phát thành tiếng gầm rung trời, chuyển đất: “Sông Mã gầm lên khúc độc hành”. Qua bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng ta phần nào cảm nhận sâu sắc được cuộc hành quân gian khổ, những hi sinh thầm lặng của những người chiến sĩ. Cũng qua đó ta thấy được nét tinh tế, lãng mạn của một nhà thơ đồng thời là người chiến sĩ trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Loan Trương
Đề bài: Phân tích bài thơ Tương tư của Nguyễn Bính Trong cách diễn đạt tình cảm của ca dao, dân ca, do bối cảnh giao tiếp và diễn xướng trực tiếp nên nếu các biểu hiện tâm trạng trữ tình luôn được bộc bạch một cách hết sức cụ thể, hồn nhiên thì chủ thể trữ tình và đối tượng trữ tình lại thường có tính chất phiếm chỉ, không xác định: Khăn thương nhớ ai Khăn rơi xuống đất, Khăn thương nhớ ai Khăn vắt lên vai. Đèn thương nhớ ai Mà đèn không tắt, Mắt thương nhớ ai Mà mắt ngủ không yên… Trong bài thơ của Nguyễn Bính cũng vậy, một chàng trai thôn Đoài mong nhớ một cô gái thôn Đông, nhưng vì chỉ yêu đơn phương thôi nên anh dùng lối nói ỡm ờ, vòng vo, bóng gió xa xôi của người nhà quê: "Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông – Một người chín nhớ mười mong một người…". Một cái làng có hai thôn: "Hai thôn chung lại một làng", một ở bên phía đông – thôn Đông, còn một ở phía tây – thôn Đoài. Những cách gọi tên địa danh dân dã ấy khá phổ biến ở khắp mọi vùng quê đồng bằng Bắc Bộ nên chúng vừa cụ thể lại cũng vừa không xác định. "Một người chín nhớ mười mong một người": hai chữ một người trong cùng một dòng thơ nhưng được dùng để chỉ hai đối tượng, hai nhân vật khác nhau: chàng trai thôn Đoài, và cô gái thôn Đông, điều ấy, những người trong cuộc hiểu rõ hơn ai hết nhưng khách quan thì vẫn chưa có gì là cụ thể. Vì các nhân vật trữ tình trong bài thơ vẫn giữ được cái vỏ ngoài có tính chất chung chung, không xác định như thế nên chàng trai mới có thể thoải mái bộc bạch nỗi lòng "chín nhớ mười mong" của mình: "Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng", có thể làm như hai người đã thân mật, gần gũi từ lâu để mà hờn mát, trách yêu với người con gái trong lòng: "Cớ sao bên ấy chẳng sang bên này?", "Bảo rằng cách trở đò giang – Không sang là chẳng đường sang đã đành – Nhưng đây cách một đầu đình…", mạnh dạn ngỏ ước muốn được chung tình: "Bao giờ bến mới gặp đò – Hoa khuê các, bướm giang hồ gặp nhau", thậm chí còn bóng gió xa xôi đề cập đến chuyện trầu cau, cưới hỏi: "Nhà anh có một giàn giầu – Nhà em có một hàng cau liên phòng – Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông, Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào?" v.v… Cách dùng những đại từ chỉ người đây, đấy, bên ấy, bên này thay thế cho các nhân vật giao tiếp và cách nói trống chủ ngữ của những câu thơ trên đây là một trong những đặc trưng nổi bật của lối nói vòng vo, ỡm ờ, bóng gió xa xôi trong ca dao, dân ca truyền thống đã được Nguyễn Bính vận dụng rất thành công, tạo cho bài thơ một giọng điệu, một dáng vẻ riêng khá độc đáo. Xem thêm: Hãy bàn luận ý kiến sau đây: “Học trò phải kính yêu và biết ơn thầy, cô giáo"Các biểu hiện tâm trạng tương tư trong bài thơ cũng được diễn tả một cách tinh tế. Trước hết là sự chờ mong mòn mỏi của chủ thể trữ tình: Ngày qua ngày lại qua ngày, Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng. Tâm trạng sốt ruột vì chờ mong mòn mỏi ấy không tách rời những cảm nhận tinh tế về sự thay đổi của không gian, thời gian. "Ngày qua ngày lại qua ngày" – một câu thơ với những từ ngữ bình thường và lối nói tưởng như rất giản dị nhưng lại có khả năng diễn tả khá độc đáo về cảm giác của con người mang bệnh tương tư trước sự lặp đi lặp lại từng chuỗi ngày vô vị dài lê thê, chậm chạp trong sự chờ mong khắc khoải. Một câu thơ mà chữ ngày được nhắc tới ba lần, nhấn mạnh cảm xúc về khái niệm đơn vị thời gian như thể được đếm từng ngày. Nhịp 2/2/2 của câu sáu trong thơ lục bát truyền thống đã được ngắt thành nhịp 3/3: "Ngày qua ngày/ lại qua ngày" chia ý nghĩa câu thơ thành hai vế với nội dung song trùng, ý của vế sau lặp lại vế trước và sự nhấn mạnh chữ lại gợi tả nỗi chán ngán trong lòng kẻ đa tình tương tư trước dòng thời gian vô tình, đơn điệu cứ chậm chạp trôi qua… Cảm giác về thời gian nói trên còn được diễn tả một cách hết sức sinh động thông qua những biến đổi màu sắc của những sự vật không gian trong câu tám: "Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng". Thời gian hiện lên qua sự chuyển màu của cây lá: lá màu xanh đã chuyển thành lá màu vàng. Cùng với chuỗi ngày chờ đợi dài đằng đẵng chậm chạp qua đi, nhưng người thương vẫn chưa thấy tới, cho dù chẳng có xa xôi cách trở gì. Chữ nhuộm là một động từ ngoại động, khiến cho sự chuyển màu của cây lá dường như không phải là sự vận động, phát triển nội tại của thực vật mà như thể là do sự tác động của thời gian và tâm trạng con người thấm vào sắc màu của cây lá. Và nỗi lòng tương tư héo hon, mòn mỏi của con người cũng đã nhuộm màu lá xanh thành ra màu héo úa. Vậy là thời gian, không gian và tâm trạng của con người tương tư đã có một mối quan hệ, mối tương giao thật là kì diệu. Tương tư mỏi mòn làm cho thời gian kéo dài lê thê, chậm chạp hơn ; tương tư cũng nhuộm màu cho cây lá trở nên vàng vọt, úa héo hơn… Nguồn Edufly Xem thêm: Kể câu chuyện về tinh thần đoàn kết
Topic: Analysis of the poem Tuong Tuong by Nguyen Binh In the emotional expression of folk songs and folk songs, due to the context of direct communication and performance, if the lyrical mood expressions are always expressed in a very specific and innocent way, the lyrical subject And the lyrical object is often of a frivolous, indeterminate nature: I miss someone The towel fell to the ground, I miss someone Towel draped over shoulder. The lamp misses someone But the lights don't turn off, Eyes miss someone But my eyes can't sleep peacefully... Likewise in Nguyen Binh's poem, a boy from Doai village longs for a girl from Dong village, but because his love is only one-sided, he uses the vague, roundabout, distant insinuation of a country person: " Doai village sits and misses Dong village - One person misses ten, longs for one person...". A village has two villages: "Two villages together in one village", one in the east - Dong village, and one in the west - Doai village. These rustic place names are quite common in all rural areas of the Northern Delta, so they are both specific and indeterminate. "One person remembers ten, longs for one person": two words one person in the same line of poetry but are used to refer to two different objects, two different characters: the boy of Doai village, and the girl of Dong village, that, the Insiders understand better than anyone else, but objectively, nothing is concrete. Because the lyrical characters in the poem still retain such a general, indeterminate appearance, the young man can freely express his "nine-year-old, ten-year-old" feelings: "Longing for each other" It's my illness that I love her", it is possible to act as if the two of them have been intimate and close for a long time so that they can be cold and in love with the girl in their heart: "Why doesn't that side go to this side?", "Bao That's the way to get on the river boat - If you don't get there, there's no way to get there - But this is one end of the pavilion...", boldly expressing the desire to be faithful: "When will the wharf meet the boat - Hoa Khue Cac, wanderer butterflies meet each other ", even distantly hinted at the betel and areca story, marriage: "My house has a rich trellis - My house has a row of areca nuts inter-room - Doai hamlet remembers Dong hamlet, Doai hamlet remembers the rich betel nut, doesn't it any?" etc. The use of pronouns that refer to people here, there, that side, this side to replace communication characters and the empty way of saying the subject of the above verses is one of the outstanding characteristics of circular speech. Vo, hum, and distant innuendo in traditional folk songs have been used very successfully by Nguyen Binh, giving the poem a unique tone and appearance. See more: Discuss the following opinion: "Students must love and be grateful to their teachers." The expressions of love and affection in the poem are also expressed delicately. First of all is the expectation. weariness of the lyrical subject: Day after day after day, Dyed green leaves have turned into yellow leaves. That feeling of impatience due to long wait is inseparable from the subtle feelings of change in space and time. "Day after day, day after day" - a poem with ordinary words and a seemingly simple way of speaking but capable of expressing quite uniquely the feeling of people suffering from love sickness before repetition. repeating each long series of boring, slow days in anxious anticipation. A verse in which the word day is mentioned three times, emphasizing the feeling of the concept of a unit of time as if the days were counted. The 2/2/2 rhythm of line six in the traditional six-eight poem has been broken into a 3/3 rhythm: "Day after day/day after day" divides the meaning of the verse into two halves with parallel content, the meaning of the second clause. The next sentence repeats the previous sentence and the emphasis on the word again depicts the boredom in the heart of a passionate person with the loveless, monotonous flow of time slowly passing by... The above feeling of time is also expressed very vividly through the color changes of spatial objects in verse eight: "The dyed green leaves have become yellow leaves." Time appears through the changing color of leaves: green leaves have turned into yellow leaves. Along with the long days of waiting slowly passing, but the loved one still hasn't arrived, even though there is no distance. The word dye is a transitive verb, making the color change of leaves seem not to be the internal movement and development of the plant but as if it were due to the impact of time and human mood. on the color of the leaves. And the withered, weary love of people has also dyed the green leaves into a withered color. So time, space and the mood of a loving person have a relationship, a relationship that is truly magical. Tired love makes time last longer and slower; Love also dyes leaves to become yellow and withered... Source Edufly See more: Tell the story of solidarity
Phân tích bài thơ Tỏ Lòng (Thuật hoài) – Phạm Ngũ Lão Hướng dẫn Phạm Ngũ Lão là một vị tướng có nhiều đóng góp cho công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước. Không những thế ông còn có tài sáng tác thơ văn, ông để lại nhiều tác phẩm có giá trị, trong đó phải kể đến Thuật hoài. Mở đầu bài thơ, tác giả đã miêu tả khí thế oai hùng của đoàn quân đang sẵn sàng chiến đầu để bảo vệ non sông. Múa giáo non sông trải mấy thu Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu Câu thơ mang một ý nghĩa đặc sắc, muốn nói đến việc cầm ngang ngọn giáo, gìn giữ non sông đã trải qua nhiều năm. Một hình ảnh khái quát, tĩnh như một bức tượng về người chiến sĩ bảo vệ tổ quốc. Câu thơ dịch là "Múa giáo", cụ thể, động. Có làm mất sức tạc hình, nhưng không làm mất ý nghĩa chính, tầm vóc lớn của hình ảnh. Câu thơ thứ hai là hình ảnh nền. Câu thơ này hiểu như bản dịch SGK hay như cách hiểu thứ hai (Ba quân khí thế át cả sao Ngưu) đều được, vì hoàn toàn không sai lệch nghĩa. Chỉ với hai câu thơ ngắn ngủi, người đọc đã có thể hình dung ra khí thể hào hùng của đội quân đang chiến đấu bảo vệ non sông, đồng thời thể hiện lòng yêu nước ý chí căm thù giặc của nhân dân ta, một câu dựng hình ảnh chính, một câu dựng hình ảnh nền, một câu khắc điểm, một câu vẽ diện, đêu dựng được tầm vóc, tư thế, hành động lớn lao của cá nhân người anh hùng, quân đội dũng sĩ, dân tộc hùng mạng, tự cường. Cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm của nhân dân ta đã trải qua nhiều thế kỉ, nhưng lòng yêu nước, ý chí căm thù giặc càng ngày càng dâng lên trong mỗi người dânKhi đất nước có chiến tranh thì việc bảo vệ độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh là điều ưu tiên trước nhất. Nhưng trải qua ngàn năm văn học, riêng trong thơ tạc hình người anh hùng chiến trận mà muôn đời còn nhớ, cũng chỉ có số ít thi phẩm. Tỏ lòng (Thuật hoài) của Phạm Ngũ Lão là sự mở đầu. Cuối thời nhà Trần, khi giới quý tộc tổ chức kháng chiến chống quân đô hộ Minh, cũng thấy hình ảnh này – nhưng là hình ảnh người anh hùng chiến bại trong thơ Đặng Dung (Thù nước chưa xong đầu vội bạc / Mấy độ mài gươm dưới bóng trăng). Kháng chiến chống Pháp (1946 – 1954) là hình ảnh "Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới / Đầu súng trăng treo" trong bài Đồng Chí của Chính Hữu. Chống Mĩ (1954 – 1975) có hình ảnh Dáng dứng Việt Nam trong thơ Lê Anh Xuân (Không một tấm hình, không một dòng địa chỉ / Anh chẳng để lại gì riêng cho anh trước lúc lên đường / Chỉ để lại dáng đứng Việt nam tạc vào thế kỉ / Anh là chiến sĩ giải phóng quân). Xem thêm: Vẻ đẹp của trang nam nhi thời Trần qua bài thơ Tỏ lòng Quan niệm về chí làm trai đã được nhiều nhà thơ thể hiện, mỗi nhà thơ bày tỏ một quan niệm riêng của mình. Nhưng tựu chung lại, các nhà thơ đều muốn nhắc nhở đấng nam nhi rằng đã làm trai thì phải giúp được gì cho đời, cho đất nước, nếu không làm được thì phải thấy then với lương tâm. Quan niệm đó cũng là một trong những cái ngông trong thơ ông. Công danh nam tử còn vương nợ Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu Thời xưa con người coi trọng nam nhi hơn nữ nhi, và đặt một kì vọng lớn vào nam nhi. Điều đó tạo một lễ giáo, như một quy định bất thành văn, đã là nam nhi thì phải làm được việc lớn. Đây là một quan niệm sống tích cực, ngày nay vẫn cần được phát huy nhưng đi cùng quan niệm nam nữ bình đẳng mới trọn vẹn. Chí làm trai thể hiện rõ nhất ở cái đích: đi ra bốn phương, lập nên công danh, sự nghiệp. Cùng quan niệm về chí làm trai, trong ca dao có câu: Làm trai cho đáng nên trai Phú Xuân cũng trải, Đồng Nai cũng từng Làm trai cho đáng nên trai Xuống đông, đông tĩnh, lên đoài, đoài yên Nguyễn Công Trứ cũng có một quan niệm hào hùng rằng: Đã sinh ra ở trong trời đất Phải có danh gì với núi sông. Có thể nói rằng bài thơ Tỏ lòng thể hiện khí phách tuổi trẻ lần đầu tiên được khẳng định trong văn học một cách thẳng thắng gắn chặt với sự nghiệp lớn lao – cứu nước, trong sự so sánh, trong nỗi thẹn với một tài năng xuất chúng, công danh hiểm hách, một lòng phò vua giúp nước là Gia Cát Lượng. Thì cái chí khí, tài năng, tấm lòng của con người này đã đạt tới cao độ. Mặt khác cũng cần thấy, có tài lớn, chí cao, tâm khát vọng nhưng không có hào khí thời đại anh hùng cũng không thể sản sinh ra con người anh hùng với nỗi thẹn một lòng vì nước như thế. Đọc toàn bộ bài thơ, người đọc có thể hiểu ra tâm ý của tác giả, tác giả đã dựng một tượng đài ở hai đầu câu, là một lời thúc giục thế hệ ở hai câu cuối. Bởi hai câu cuối không phải là chỉ sự tỏ lòng của một cá nhân, còn là lời khích lệ tướng sĩ, những trang nam nhi trước vận nước gian nguy. Không phải đến Phạm Ngũ Lão mới có quan niệm về chí làm trai hào hùng như vậy. Nhưng đọc Thuật hoài người đọc hình dung ra hình ảnh người anh hùng hiện lên sừng sững như một bức tượng được tạc công phu, bức tượng ấy thể hiện hết được chí khí cũng như nhân cách của người anh hùng ấy. Nguồn: thêm: Bậc thánh nhân không tích lũy, càng giúp con người giàu có, càng cho đi càng nhận lại nhiều hơn. Đạo của trời làm lợi mà không làm hại. Đức của thánh nhân chia sẻ chứ không tranh giành... hiện đại
Analysis of the poem "To Express Your Heart" - Pham Ngu Lao Instruct Pham Ngu Lao is a general who has made many contributions to the cause of building and protecting the country. Not only that, he also had the talent to compose poetry, he left behind many valuable works, including Thuat Hoi. At the beginning of the poem, the author describes the heroic spirit of the army ready to fight to protect the river. Dancing across the mountains and rivers for several autumns Three strong military weapons devoured buffaloes The poem has a unique meaning, referring to holding the spear horizontally and preserving the mountains and rivers that have passed through many years. A general, static image like a statue of a soldier defending the fatherland. The verse translates as "Dancing the spear", specific and dynamic. It does lose the power of sculpting the image, but it does not lose the main meaning or great stature of the image. The second verse is the background image. This verse can be understood as the textbook translation or as the second interpretation (The three powerful forces dominate the Taurus star), because there is absolutely no deviation in meaning. With just two short verses, the reader can imagine the heroic spirit of the army fighting to protect the mountains and rivers, while expressing the patriotism and will to hate the enemy of our people. Create a main image, a sentence to create a background image, a sentence to engrave a highlight, a sentence to draw the face, to build the stature, posture, and great actions of the individual hero, the heroic army, and the heroic nation. network, self-reliance. Our people's resistance war against foreign invaders has gone on for many centuries, but patriotism and the will to hate the enemy are increasingly rising in every citizen. When the country is at war, protecting independence and sovereignty is essential. , integrity is the first priority. But after thousands of years of literature, there are only a few poems that portray the image of a battle hero that will be remembered forever. Pham Ngu Lao's Expressing Your Heart (Thuat Hoai) is the opening. At the end of the Tran Dynasty, when the nobility organized a resistance war against the Ming invaders, they also saw this image - but it was the image of the defeated hero in Dang Dung's poem (If the enemy is not finished, his head will turn gray / A few degrees of grinding). sword under the moonlight). The resistance war against the French (1946 - 1954) is the image "Standing side by side waiting for the enemy to come / Gunheads hanging from the moon" in the article Comrades by Chinh Huu. Against America (1954 - 1975) there is an image of the Vietnamese posture in Le Anh Xuan's poem (Not a photo, not a line of address / I did not leave anything personal for myself before leaving / Only left the Vietnamese posture carved in the 19th century / He was a liberation soldier). See more: The beauty of manhood in the Tran dynasty through the poem To express one's heart The concept of being a man has been expressed by many poets, each poet expressing his own concept. But in general, the poets all want to remind men that being a man means you must be able to help life and the country. If you cannot do it, then you must consider it with conscience. That concept is also one of the absurdities in his poetry. A man's reputation is still in debt Embarrassed to listen to the story of Marquis Vu In ancient times, people valued men more than women, and placed great expectations on men. That creates a ritual, like an unwritten rule, that being a man must be able to do great things. This is a positive concept of life that still needs to be promoted today, but with the concept of equality between men and women to be complete. The will to be a man is most clearly expressed in the goal: going to all four directions, establishing a reputation and a career. Along with the concept of being a man, in folk songs there is a saying: Younger son should do for good Phu Xuan also experienced it, Dong Nai also experienced it Younger son should do for good Down to the east, quiet in the east, up to the doi, doi yen Nguyen Cong Tru also has a heroic concept that: Born in heaven and earth What must have a list with the mountains and rivers. It can be said that the poem "To express one's heart" expresses the mettle of youth for the first time in literature, which is directly affirmed in connection with a great cause - saving the country, in comparison, in shame with a talent. Outstanding, famous and famous, wholeheartedly supporting the king and helping the country is Zhuge Liang. This person's character, talent, and heart have reached their peak. On the other hand, it is also important to see that having great talent, loftiness, and aspiration but without the heroic spirit of the heroic age cannot produce heroic people with such shame and devotion to their country. Reading the entire poem, the reader can understand the author's intention. The author has built a monument at both ends of the sentence, which is an exhortation to the generation in the last two sentences. Because the last two sentences are not just an individual's expression of gratitude, but also a word of encouragement to soldiers and men in the face of a dangerous country. It was not Pham Ngu Lao who had such a concept of being a heroic man. But when reading Thuat, the reader imagines the image of the hero standing tall like an elaborately carved statue, the statue fully expressing the character and personality of that hero. Source: more: Saints do not accumulate, the more they help people become rich, the more they give, the more they receive in return. The way of heaven benefits and does no harm. The saint's virtue is sharing, not competing... modern
Phân tích bài thơ Tỏ lòng (Thuật hoài) của Phạm Ngũ Lão Gợi ý HƯỚNG DẪN VỀ NỘI DUNG 1. Vẻ đẹp của người anh hùng vệ quốc hiên ngang, lẫm liệt với lí tưởng và nhân cách lớn lao – Con người mang tầm vóc, tư thế, hành động lớn lao, kì vĩ, thể hiện trong câu thơ đầu: “Múa giáo non sông trải mấy thu”. Đó là tầm vóc vũ trụ, là tư thế hiên ngang như sánh cùng trời đất: hoành sóc giang sơn. Đó là hành động phi thường, không hề mệt mỏi: kháp kỉ thu. – Con người với lí tưởng và nhân cách lớn lao. Lí tưởng và nhân cách ấy thể hiện qua cái chí, cái tâm của người anh hùng: chí lớn lập công danh trong sự nghiệp cứu nước, cứu dân; cái tâm với nỗi “thẹn” mang giá trị nhân cách. – Chí của trang nam nhi thời Trần là chí làm trai mang tinh thần thời đại Đông A và tư tưởng tích cực của Nho giáo. Đó là “công danh” của bậc “nam tử”: lập công (để lại sự nghiệp), lập danh (để lại tiếng thơm). Quan niệm lập công danh đã trở thành quan niệm lí tưởng của trang nam nhi thời phong kiến. Đặt trong hoàn cảnh lịch sử, xã hội lúc đó, chí làm trai có nội dung tích cực và có tác dụng to lớn: cổ vũ con người từ bỏ lối sông tầm thường, ích kỉ, sẵn sàng chiến đấu, hi sinh vì sự nghiệp cứu nước, cứu dân để cùng trời đất “muôn đời bất hủ”.Xem thêm: Nghị luận xã hội - Bình luận về lòng tự trọng– Cái tâm của người anh hùng thể hiện qua nỗi “thẹn”. Phạm Ngũ Lão “thẹn” chưa có tài mưu lược lớn như Vũ hầu Gia Cát Lượng khôi phục cơ đồ nhà Hán. Nỗi thẹn của người anh hùng thời Trần là chưa lập được công danh trong sự nghiệp cứu nước, cứu dân. Đó là nỗi thẹn có giá trị nhân cách. Nỗi thẹn ấy không làm con người thấp bé đi, trái lại, đã tôn cao vẻ đẹp của con người. 2. Vẻ đẹp của thời đại qua hình tượng “ba quân” với sức mạnh và khí thê hào hùng – Thời đại Đông A mang khí thế hào hùng với tinh thần quyết chiến, quyết thắng: Trong câu thơ thứ hai, hình ảnh “ba quân” là hình ảnh nói về quân đội nhà Trần nhưng đồng thời tượng trưng cho sức mạnh dân tộc. Thủ pháp nghệ thuật so sánh vừa cụ thể hóa sức mạnh vật chất của ba quân (Tam quân tì hổ – Ba quân mạnh như hổ báo) vừa hướng tới sự khái quát hóa sức mạnh tinh thần của đội quân mang “hào khí Đông A” (khí thôn ngưu – khí thế nuốt trôi trâu). – Vẻ đẹp con người và vẻ đẹp thời đại quyện hòa vào nhau. Con người vừa là sản phẩm, vừa là sự thể hiện sức mạnh của thời đại, của dân tộc. VỀ NGHỆ THUẬT 1. Thủ pháp nghệ thuật thiên về gợi, khái quát, đạt tới độ súc tích caoXem thêm: Phân tích tư tưởng nhân nghĩa trong Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi– Đây là bài thơ thất ngôn tứ tuyệt, vẻn vẹn chỉ có 28 chữ nhưng đã nói lên được cả hào khí của thời đại Đông A, với sức mạnh của quân đội thời Trần và hùng tâm, tráng chí của danh tướng Phạm Ngũ Lão. Tác giả không tả mà gợi lên sức mạnh của thời đại qua hình ảnh so sánh “Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu”. Không cần nhiều lời, bài thơ vẫn thể hiện được cả chí và tâm, cả tài năng và nhân cách của người anh hùng. 2. Bút pháp nghệ thuật có tính sử thi với hình ảnh gợi cảm, mang vẻ đẹp hoành tráng – Từ ngữ cô đọng mà hình ảnh lại có sức gợi tả mạnh mẽ, sức truyền cảm lớn. Hai chữ: “hoành sóc” trong câu thơ nguyên tác: “Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu” dựng lên hình ảnh con người cầm ngang ngọn giáo mà đứng giữa đất trời, sông núi. Cây trường giáo ấy như phải đo bằng chiều ngang của non sông. Con người kì vĩ ấy như át cả không gian bao la. Làm nổi bật hình ảnh con người lù vĩ là một bốì cảnh không gian, thời gian kì vĩ. Không gian mở ra theo chiều rộng của núi sông. Thời gian trải dài theo năm tháng, “đã mấy thu”. – Câu thơ thứ hai với thủ pháp nghệ thuật so sánh “Tam quân tì hổ khí thôn ngưu” gây ấn tượng mạnh bởi sự kết hợp giữa hình ảnh khách quan và cảm nhận chủ quan giữa hiện thực và lãng mạn. Hiện thực khi cụ thể hóa sức mạnh vật chất của ba quân {tam quân tỉ hổ). Lãng mạn khi hướng tới sự khái quát hóa sức mạnh tinh thần của đội quan mang “hào khí Đông A” (khí thôn ngưu). Vanmau.edu.vnXem thêm: Chút hương tình đầu
Analysis of the poem To Express Your Heart (Thuat Hoi) by Pham Ngu Lao Suggest INSTRUCT ABOUT CONTENT 1. The beauty of a brave and fierce national defense hero with great ideals and personality - People have great and majestic stature, posture, and actions, shown in the first verse: "Dancing spears across the mountains and rivers for several autumns." That is the scale of the universe, the proud posture as if comparing heaven and earth: majestic and majestic. It was an extraordinary act, not tiring at all: quite a record of autumn. – People with great ideals and personality. That ideal and personality is expressed through the will and heart of the hero: great ambition to make a name for himself in the cause of saving the country and people; The mind with "shame" has personality value. – The will of men in the Tran Dynasty was the will to be a man with the spirit of the Dong A era and the positive ideology of Confucianism. That is the "merit" of a "man": making a merit (leaving a career), making a name (leaving a good reputation). The concept of making a name for yourself has become the ideal concept of feudal men. Placed in the historical and social context at that time, the will to be a man has a positive content and great effect: encouraging people to give up their mediocre, selfish lifestyle, to be ready to fight and sacrifice for the sake of humanity. The cause of saving the country and people will be "immortal forever". See also: Social commentary - Comment on self-esteem - The hero's heart is expressed through "shame". Pham Ngu Lao was "embarrassed" that he did not have great strategic talent like Marquis Wu Zhuge Liang to restore the fortunes of the Han Dynasty. The shame of the hero of the Tran Dynasty is that he has not yet established a reputation for saving the country and the people. That is a shame that has personality value. That shame does not make people shorter, on the contrary, it enhances human beauty. 2. The beauty of the era through the image of "three armies" with strength and heroic spirit – The Dong A era carried a heroic spirit with a spirit of determination to fight and victory: In the second verse, the image of "three armies" is an image of the Tran Dynasty's army but at the same time symbolizes the nation's strength. . The comparative artistic technique not only concretizes the material strength of the three armies (Three armies are like a tiger - Three armies are as strong as a tiger and leopard) and also aims to generalize the spiritual strength of the army with "Dong A pride". ” (village aura - buffalo-swallowing aura). – Human beauty and modern beauty blend together. People are both a product and an expression of the strength of the era and the nation. ABOUT ART 1. Artistic techniques tend to be evocative, general, and reach a high level of conciseness. See more: Analysis of the ideology of humanity in Binh Ngo Dai Cao by Nguyen Trai - This is a poem with only 28 stanzas. The words conveyed the spirit of the Dong A era, with the strength of the Tran dynasty's army and the heroic spirit and ambition of the famous general Pham Ngu Lao. The author does not describe but evokes the power of the era through the comparative image "Three strong military weapons can swallow buffaloes". Without needing many words, the poem still shows the hero's will and heart, talent and personality. 2. The artistic style is epic with sexy images and majestic beauty – The words are concise but the images have strong evocative and inspirational power. The two words: "Hoang Soc" in the original poem: "Hoang Soc Giang Son Khap Ky Thu" create an image of a person holding a spear horizontally and standing between heaven and earth, rivers and mountains. That long spear seemed to be measured by the width of the river. That magnificent man seemed to overwhelm the vast space. Highlighting the majestic human image is a magnificent spatial and temporal setting. The space opens up along the width of the mountains and rivers. Time stretches out over the years, "it's been a few autumns". – The second verse with the comparative artistic technique "Three armies, tigers, villages, ox" makes a strong impression because of the combination of objective images and subjective feelings between reality and romance. Reality when concretizing the physical strength of the three armies {three armies, one billion tigers). Romantic when aiming to generalize the spiritual strength of the army with "Dong A aura" (village aura). Vanmau.edu.vnSee more: The scent of first love
Phân tích bài thơ Tỏ lòng (Thuật hoài) Gợi ý HƯỚNG DẪN Tác giả Phạm Ngũ Lão (1255 – 1320) người làng Phù ủng, huyện Đường Hào (nay thuộc Ân Thi, Hưng Yên), là gia khách, sau thành con rể của Trần Hưng Đạo, người có nhiều công lớn trong cuộc kháng chiến chống Mông – Nguyên, làm đến chức Điện súy, được phong tước Quan nội hầu. Ông là võ tướng nhưng yêu thích thơ văn. Tác phẩm còn lại hai bài thơ Tỏ lòng (Thuật hoài) và Vãn Thượng tướng quốc công Hưng Đạo Vương (Viếng Thượng tướng quôc công Hưng Đạo Đại Vương). Bài thơ Tỏ lòng được sáng tác vào khoảng những ngày cuộc khởi nghĩa lần thứ hai chống Mông – Nguyên đã đến rất gần. Bài thơ làm theo thể Đường luật, nội dung khắc họa hình ảnh con người có sức mạnh, có lí tưởng, nhân cách cao cả mang khí thế hào hùng của thời đại. Câu thơ mở đầu thể hiện vẻ đẹp của người anh hùng thời đại với tầm vóc, tư thế, hành động lớn lao, kì vĩ. “Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu” (Múa giáo non sông trải mấy thu). Câu thơ nguyên tác dựng lên hình ảnh người cầm ngang ngọn giáo mà trấn giữ đất nước. Con người ấy có một tư thế hiên ngang, mang tầm vóc vũ trụ, át cả không gian bao la. Đó là con người của thời đại, mang hào khí Đông A: tự tin, dũng mãnh, kiên cường. Vượt qua thử thách của thời gian, của không gian, người tráng sĩ vẫn đường hoàng là một vị anh hùng. Lời thơ giản dị mà cảm xúc, hình ảnh chân thực mà hoành tráng, biểu hiện tư thế hiên ngang, ý chí bảo vệ Tổ quốc của nhân vật trữ tình – người trực tiếp chiến đấu.Xem thêm: Người xưa quan niệm: “Thi trung hữu họa”. Hãy làm sáng rõ điều đó qua việc phân tích bức tranh thiên nhiên trong bài thơ Cảnh ngày hè của Nguyễn Trãi 2. Từ câu thơ thứ nhất đến câu thơ thứ hai là một sự vận động không ngừng của quân đội nhà Trần thế kỉ XIII. Nếu trong câu thơ đầu người đọc cảm nhận được vẻ đẹp của người lính thì ở câu thứ hai này khí thế dũng mãnh của quân đội (ba quân) đã trở thành sức mạnh của dân tộc. Thủ pháp nghệ thuật so sánh khí thế của ba quân như hổ báo nuốt trôi trâu vừa cụ thể hóa sức mạnh vật chất, vừa khái quát sức mạnh tinh thần của đội quân mang “hào khí Đông A”. Đội quân này sẵn sàng đón đợi để đè bẹp mọi cuộc tấn công của quân địch. 3. Câu thơ thứ 3, 4: Công danh nam tử còn vương nợ Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ hầu. Quan niệm lập công danh đã trở thành lí tưởng của đấng làm trai thời phong kiến. “Vương nợ” ở đây có nghĩa là chưa trả xong nợ công danh, chưa hoàn thành nghĩa vụ với đời, với dân vổi nước. Chí làm trai trong bối cảnh lịch sử thời kì này mang tính tích cực và có tác dụng to lớn trong công cuộc bảo vệ đất nước. 4. Nỗi “thẹn” mà bài thơ nói đến ở đây là nỗi thẹn vì chưa trả xong nợ nước. “Thẹn” chưa có tài mưu lược lớn để cứu nước khi so sánh với Vũ hầu Gia Cát Lượng đời Hán. Đây là nỗi thẹn của con người có nhân cách. Nỗi thẹn này không làm thấp bé mà trái lại, nó nâng cao tầm vóc con người.Xem thêm: Kể lại một lần mắc lỗi của em 5. Bài thơ thể hiện chí làm trai của đấng nam nhi trong thời đại nhà Trần. Tác giả không chỉ nói lên hoài bão của bản thân mà còn phát ngôn cho cả một thời đại rực rỡ chiến công trong lịch sử nước ta. Vanmau.edu.vn
Analysis of the poem Expressing Your Heart (Thuat Hoai) Suggest INSTRUCT Author Pham Ngu Lao (1255 - 1320) from Phu Can village, Duong Hao district (now An Thi, Hung Yen), was a guest, later became the son-in-law of Tran Hung Dao, who had many great contributions in the resistance war. fought against the Mongols and Nguyen, worked to the position of Dien Sy, and was awarded the title of Internal Marquis. He is a martial artist but loves poetry. The remaining works are two poems: To Express My Heart (Thuat Hoai) and Van Thuong Quoc Cong Hung Dao Vuong (Visit to Thuong Thuong Quoc Cong Hung Dao Dai Vuong). The poem Expressing My Heart was composed around the days when the second uprising against the Mongols and Nguyen was very close. The poem is written in the Tang Luat style, the content portrays the image of a person with strength, ideals, and noble personality with the heroic spirit of the era. The opening verse shows the beauty of the hero of the era with his great and majestic stature, posture, and actions. “Hoang Soc Giang Son Khau Ky Thu” (Dancing on the mountains and rivers spreads through several autumns). The original poem creates an image of a person holding a spear to guard the country. That person has a proud posture, with a cosmic stature, overwhelming the vastness of space. He is a man of the era, carrying the spirit of Dong A: confident, brave, resilient. Overcoming the challenges of time and space, the brave man is still dignified as a hero. The lyrics are simple yet emotional, the images are realistic yet majestic, expressing the proud posture and will to protect the Fatherland of the lyrical character - the person who directly fights. See more: The ancients believed: " "Poetry meets disaster." Let's clarify that through analyzing the picture of nature in the poem Summer Day Scene by Nguyen Trai 2. From the first verse to the second verse is a continuous movement of the Tran Dynasty's army in the 13th century. If in the first verse the reader feels the beauty of the soldier, in the second verse the mighty spirit of the army (three armies) has become the strength of the nation. The artistic technique of comparing the morale of the three armies to that of a tiger and leopard swallowing a buffalo both concretizes the material strength and summarizes the spiritual strength of the army bearing the "Dong A pride". This army is ready and waiting to crush all enemy attacks. 3. Verses 3 and 4: A man's reputation is still in debt Embarrassed to listen to Marquis Vu's story. The concept of making a name for yourself has become the ideal of feudal men. "Debt" here means not having paid off public debt, not fulfilling obligations to life, to the people and to the country. The will to be a man in the historical context of this period is positive and has a great effect in protecting the country. 4. The "shame" that the poem talks about here is the shame of not having paid the country's debt. "Shy" did not have great strategic talent to save the country when compared to Marquis Zhuge Liang of the Han Dynasty. This is the shame of a person of character. This shame does not make one short, but on the contrary, it enhances one's stature. See more: Telling about a mistake you made 5. The poem shows the will of men in the Tran Dynasty to be boys. The author not only spoke about his own ambitions but also spoke for an entire era of brilliant victories in our country's history. Vanmau.edu.vn
Đề bài: Phân tích bài thơ Tỏ Lòng của Phạm Ngũ Lão Bài làm Phạm Ngũ Lão là một trong những danh tướng nổi tiếng nhất dưới triều đại nhà Trần. Ông không chỉ là một vị tướng giỏi binh thao, võ lược mà còn là một nhà thơ có những quan niệm về chí làm trai, về lòng yêu nước rất đặc sắc. Một trong số đó phải kể đến bài thơ Tỏ Lòng. Bài thơ được viết theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt Đường luật, ngắn gọn, súc tích. Mở đầu bài thơ chính là hình ảnh hào hùng, tráng lệ của quân đội thời Trần: “Hoành sóc giang san kháp kỷ thu Tam quân tì hổ khí thôn ngưu” (Múa giáo non sông trải mấy thu Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu) Hai câu thơ với hai hình ảnh song song với nhau đó là hình ảnh người tráng sĩ và ba quân. Ở câu thơ thứ nhất thì hình ảnh tráng sĩ hiện lên với tư thế hiên ngang, lẫm liệt giữa đất trời. Người cầm ngang ngọn giáo với mục đích cao cả đó là giữ gìn non sông, đất nước. Công cuộc ấy không chỉ trong ngày một ngày hai mà đã là “mấy thu”. Sự nghiệp bảo vệ đất nước là lâu dài và không được lơ là cảnh giác. Chính vì vậy tư thế “hoành sóc” đã cho ta thấy tâm thế sẵn sàng chiến đấu bất cứ lúc nào, sự tập trung cao độ của người cầm giáo. Ngọn giáo không chỉ là vũ khí chiến đấu của người anh hùng, mà còn là thứ để họ thể hiện tài năng, bản lĩnh của mình, thể hiện tư thế hiên ngang, bất khuất. Bên cạnh ý nghĩa thời gian dài “kháp kỷ thu” thì ý thơ còn có ý nghĩa đó là so sánh tầm vóc của ngọn giáo với chiều dài của lịch sử và chiều rộng của giang sơn, đất nước.Xem thêm: Giới thiệu về một lễ hội đặc sắc của quê hương (Hội Gióng) Phân tích bài thơ Tỏ Lòng Câu thơ thứ nhất đã lột tả được tầm vóc của vị tướng quân, của người tráng sĩ thời Trần thì đến câu thơ thứ hai tác giả đã miêu tả sức mạnh của quân đội nhà Trần: “Tam quân tì hổ khí thôn ngưu” Một đội quân mang sức mạnh cả về khí lực lẫn tinh thần. Vẻ đẹp của đội quân không chỉ ở sức mạnh mà còn ở khí chất mạnh mẽ, lấn át của sao Ngưu trên trời. Sức mạn của quân đội Sát Thát thời Trần được ví như hổ có thể nuốt trôi cả một con trâu lớn. Sức mạnh ấy đã được minh chứng trong lịch sử. Lịch sử đấu tranh chống giặc ngoại xâm của dân tộc ta luôn gặp phải kẻ thù lớn mạnh hơn ta gấp nhiều lần về số lượng, vú khí nhưng sự đoàn kết và lòng yêu nước đã khơi dậy tinh thần sắt thép, không gì ngăn nổi ta đánh đuổi lũ giặc xâm phạm, bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ. Nếu hai câu thơ đầu Phạm Ngũ Lão nói về vẻ đẹp, sức mạnh của vị tướng của quân đội nhà Trần thì hai câu thơ cuối tác giả đã thể hiện quan điểm của mình về trí làm trai thời ấy: “Nam nhi vị liễu công danh trái Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu” (Công danh nam tử còn vương nợ Luống thẹn tai nghe thuyết Vũ Hầu) Vốn là một thành viên trong đạo quân anh hùng ấy, nhà thơ từ một chiến binh trở thành một danh tướng khi tuổi đời còn rất trẻ. Đối với ông, đã làm đấng nam nhi trên đời này thì cần phải luôn sục sôi trong mình khát vọng công danh, khát vọng được bỏ công sức chiến đấu, cống hiến cho đời. Đó là quan điểm trung quân ái quốc, đặc biệt đó là trong thời chiến thì phải xông pha trận mạc, bảo vệ giang sơn. Câu thơ thứ ba đã nói lên khát vọng của nhà thơ đó là tận tâm phụng sự cho nhà Trần, là lập được công danh để sánh với non sông. Phạm Ngũ Lão muốn bàn đến chí làm trai, một vấn đề được quan tâm trong văn chương thời văn học chữ Hán. Nguyễn Công Trứ cũng từng nói:Xem thêm: Phân tích cái hay của các bài Ca dao than thân, yêu thương, tình nghĩa “Làm trai đứng ở trong trời đất Phải có danh gì với núi sông” Đối với ông nếu chưa lập nên công danh gì thì phải biết “thẹn” với lương tâm, thẹn với đời. Phạm Ngũ Lão mặc dù đã trở thành danh tướng, lập được nhiều công danh nhưng so với khát vọng của ông thì vẫn chưa đủ và ông vẫn cảm thấy mình còn mang món “nợ công danh”. Chính vì thế mà ông thấy “thẹn” khi nghe điển tích về Vũ Hầu. Qua đó ta thấy ông là một con người mang chí lớn, biết khiêm tốn và có lòng tự trọng cao. Bài thơ Tỏ Lòng đã cho người đọc thấy được tấm lòng “Trung quân ái quốc” và phẩm chất cao quý của danh tướng Phạm Ngũ Lão. Bằng ngôn từ hàm súc, cô đọng, nhà thơ đã đem đến cho chúng ta một bài học về chí làm trai về mục tiêu của cuộc sống mà không chỉ thời xưa mới cần đến. Đó là bài học về lối sống tích cực, khát vọng cống hiến cho tổ quốc đối với thanh niên của mọi thời đại. Loan Trương
Topic: Analysis of the poem To Express Your Heart by Pham Ngu Lao Assignment Pham Ngu Lao was one of the most famous generals during the Tran dynasty. He was not only a general good at military and martial arts but also a poet with very unique concepts about boyhood and patriotism. One of them is the poem Confessing Your Heart. The poem is written in the Tang Luat seven-line verse form, short and concise. The beginning of the poem is the heroic and magnificent image of the Tran dynasty's army: “Hoang Soc Giang San welcomes the autumn period Tam Quan, Pi Tiger, Village Niuu Qi" (Spear dancing on the mountains and rivers for several autumns Three strong military weapons swallow buffaloes) Two verses with two parallel images are the image of a strong man and three soldiers. In the first verse, the image of a heroic man appears with a proud, majestic posture between heaven and earth. The person holds the spear horizontally with the noble purpose of preserving the mountains and country. That work is not just a day or two but has taken "several autumns". The career of protecting the country is long-term and one must not let one's guard down. That's why the "Hung Squirrel" posture shows us the readiness to fight at any time, the high concentration of the spearman. The spear is not only a hero's fighting weapon, but also a way for them to show off their talent and bravery, showing off their brave and indomitable posture. In addition to the meaning of a long period of time, the poem also has the meaning of comparing the stature of the spear with the length of history and breadth of the country. See more: Introduction to a unique festival of the homeland (Giong Festival) Analyze the poem To Express Your Heart The first verse describes the stature of the general and the brave man of the Tran dynasty, while in the second verse the author describes the strength of the Tran army: "Three armies, tigers, village ox" An army has strength in both spirit and spirit. The beauty of the army is not only in its strength but also in the strong, overwhelming temperament of the Taurus star in the sky. The strength of the Sat That army during the Tran Dynasty was compared to a tiger that could swallow a large buffalo. That power has been proven in history. In our nation's history of fighting against foreign invaders, we have always encountered enemies many times stronger than us in terms of numbers and weapons, but solidarity and patriotism have aroused a spirit of iron and steel, nothing can stop it. We repel the invaders and protect the integrity of our territory. If the first two verses of Pham Ngu Lao talk about the beauty and strength of the general of the Tran Dynasty's army, the last two verses of the author express his views on the wisdom of being a man at that time: "A man's position will be as good as his reputation Cultivating the false listener of Vu Hau" (The man's reputation still has debts Embarrassed listening to the story of Marquis Wu) Originally a member of that heroic army, the poet became a famous general from a warrior at a very young age. For him, as a man in this world, he must always have a burning desire for fame, a desire to put effort into fighting and contribute to life. That is the patriotic view of the military, especially in wartime, we must rush into battle and protect our country. The third verse expressed the poet's desire to wholeheartedly serve the Tran Dynasty, to establish a reputation comparable to the mountains and rivers. Pham Ngu Lao wanted to discuss the will to be a man, an issue of concern in literature during the Chinese literature period. Nguyen Cong Tru also said: See more: Analyzing the beauty of folk songs about self-pity, love, and gratitude “Being a boy stands in heaven and earth What must have a list with the mountains and rivers" For him, if he has not established any reputation, he must be "shy" with his conscience and ashamed with life. Although Pham Ngu Lao became a famous general and achieved many achievements, compared to his aspirations, it was still not enough and he still felt that he still had a "debt of fame and fortune". That's why he felt "embarrassed" when he heard the story about Vu Hau. Through this we see that he is a person with great ambition, humility and high self-esteem. The poem Confession shows the reader the heart of the "patriotic loyalist" and the noble qualities of famous general Pham Ngu Lao. With concise, succinct language, the poet has brought us a lesson about the ambition of being a man and the goal of life that was not only needed in ancient times. That is a lesson about a positive lifestyle and the desire to contribute to the country for young people of all times. Loan Truong
Bài thơ Tức cảnh Pác Bó của Hồ Chí Minh là một bài thơ hay thể hiện rõ phong cách của Bác. Bên cạnh đó, bài thơ cũng thể hiện tình yêu thiên nhiên và con người của Bác. Qua đây, chúng ta hiểu thêm phần nào về cuộc sống của Bác Hồ nơi Pác Bó. Để các em có thể làm tốt đề văn phân tích bài thơ Tức cảnh Pác Bó, Kho tàng văn mẫu sẽ hướng dẫn các em lập dàn ý phân tích bài thơ Tức cảnh Pác Bó và gợi ý bài văn mẫu cho các em tham khảo. I. Lập dàn ý phân tích bài thơ Tức cảnh Pác Bó 1. Mở bài a. 3 câu đầu: cảnh sinh hoạt và làm việc của Bác ở Pác Bó – Cảnh sinh hoạt của Bác: + Thời gian diễn ra liên tục quay vòng sáng – tối. + Không gian: suối và hang. + Ăn uống đạm bạc. -> Cuộc sống giản dị, đều đặn và nền nếp. – Cảnh làm việc của Bác: + Điều kiện làm việc khó khăn b. Cảm nghĩ của Bác về cuộc sống ở Pác Bó – Cuộc sống dù nhiều khó khăn, thiếu thốn nhưng Người vẫn luôn cảm thấy vui vẻ. – Bác sống một cuộc đời giản dị, cống hiến sức mình cho dân tộc. 3. Kết luận – Khái quát nội dung bài thơ Tức cảnh Pác Bó và nêu cảm nhận của em về bài thơ này. Bài viết liên quan: >> Phân tích bài thơ Con cò của Chế Lan Viên (Có dàn ý chi tiết) >> Phân tích bài thơ về tiểu đội xe không kính (Có dàn ý chi tiết) >> Phân tích bài thơ Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận (Có dàn ý chi tiết) Xem thêm: Phân tích và nêu cảm nghĩ về trích đoạn kịch “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” của Lưu Quang Vũ II. Bài làm phân tích bài thơ Tức cảnh Pác Bó Cao Bằng vốn là vùng đất mang nhiều dấu ấn lịch sử dân tộc. Nơi đây có địa hình vô cùng hiểm trở với núi non hùng vĩ. Cao Bằng từng là căn cứ địa của cách mạng Việt Nam, nơi Bác Hồ và nhiều chiến sĩ khác đã từng sống và làm việc. Đó là những năm kháng chiến đầy gian khổ và ác liệt. Cuộc sống của Bác vô cùng khổ cực nhưng Người không bao giờ thấy phiền lòng về cuộc sống ấy. Bài thơ Tức cảnh Pác Bó đã thể hiện rõ nét cuộc sống của Bác trong những ngày ở Cao Bằng. Cũng như nhiều bài thơ khác của Bác, toàn bài thơ chỉ có 4 câu trong đó có tới 3 câu Bác dùng để miêu tả cảnh nơi Bác đang sống và phải đến câu thơ cuối bài Người mới nói về tâm trạng và cảm xúc của mình. Phân tích bài thơ Tức cảnh Pác Bó Mở đầu bài thơ Bác viết miêu tả về thời gian sáng và tối, cảm giác như cuộc sống xoay vòng đều đặn ngày này qua ngày khác cứ: Sáng ra bờ suối, tối vào hang Lối ngắt nhịp 4/3 ở trong câu thơ trên tạo nên một nhịp điệu nhịp nhàng. Nó cho người đọc thấy được sự nền nếp trong sinh hoạt của Bác. Buổi sáng, Bác ra bờ suối để làm việc, buổi tối Bác lại trở về hang với một tâm trạng đầy bình thản. Cuộc sống giữa núi rừng và giao hòa với thiên nhiên khiến cho Người giữ được tâm trạng thoải mái. Mặc dù Người không nói ra nhưng người đọc hiểu rằng cuộc sống nơi hang động tối và ẩm không dễ chịu gì. Thậm chí nếu như không có một sức khỏe tốt thì sẽ rất dễ ốm.Xem thêm: Nghị luận xã hội về Chiến thắng bản thân là chiến thắng hiển hách nhất Sang đến câu thơ tiếp theo, Người nói về bữa ăn hàng ngày của mình. Bữa ăn của một vị lãnh tụ lãnh đạo cả một đất nước nhưng lại không có chút gì gọi là cao lương mĩ vị. Thay vào đó là cháo bẹ, là rau măng. Đó là những thức ăn luôn sẵn có nơi miền núi rừng Pác Bó: Cháo bẹ rau măng đã sẵn sàng Mặc dù chẳng phải cao lương mĩ vị gì nhưng có thể nhận thấy qua câu thơ của Bác rằng chúng lúc nào cũng có để phục vụ con người. Trong hoàn cảnh cuộc sống còn khó khăn, đất nước còn nhiều gian nguy thì việc không lo đói là một điều đáng hạnh phúc. Và hẳn với Bác lúc này, Bác hài lòng với cuộc sống ấy. Chính vì thế nên Người hết mình và toàn tâm cho công việc: Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng Sự chông chênh của chiếc bàn đá là một hình ảnh ẩn dụ nói về sự chông chênh của con đường cách mạng. Mặc dù nhiều gian khổ nhưng chúng ta thấy rằng Bác vẫn đang làm việc, hết mình vì công việc. Bác đang dịch sử Đảng của Liên Xô sang tiếng Việt để cho các chiến sĩ của mình tiếp cận được với đường lối cách mạng của Liên Xô, từ đó sẽ tìm ra con đường giải phóng cho dân tộc. Khó khăn, thiếu thốn không hề khiến người chùn bước. Trong cả 3 câu thơ miêu tả cảnh sinh hoạt và làm việc của Bác, ta đều thấy thoát lên một sự đơn sơ và giản dị. Nhưng cũng chính những thứ đơn sơ ấy lại khiến cho tâm hồn của Bác trở nên thư thái. Người vốn yêu thiên nhiên và sống hòa mình với thiên nhiên, vì vậy nên Người luốn gắn bó và gần gũi với thiên nhiên. Giữa thiên nhiên, Người giữ được tâm hồn thư thái của bản thân mình. Hình ảnh Bác Hồ ngồi bên suối dịch sử Đảng cứ như vậy đi sâu vào trong tâm trí của người dân Việt Nam. Câu cuối cùng của bài thơ, Người đã đưa ra một lời khẳng định rằng:Xem thêm: Kể về một con người đáng yêu, đáng kính mà em biết Cuộc đời cách mạng thật là sang Vậy đấy, giữa hoàn cảnh thiếu thốn mọi bề, Người vẫn cho rằng cuộc sống này thật sang. Có thể thấy cái sang ở đây không phải là sang về vật chất mà là sang về tinh thần. Nó được cảm nhận bằng tâm hồn và tình yêu của Bác dành cho thiên nhiên. Bài thơ Tức cảnh Pác Bó là những hình ảnh chân thực, gần gũi và giản dị về cuộc đời cách mạng của Bác Hồ. Bài thơ đưa người đọc về những năm xa xưa của cuộc kháng chiến, để thế hệ mai sau hiểu hơn và biết cảm ơn thế hệ ông cha của mình. Nhờ có họ mà chúng ta mới có được cuộc sống ấm no như ngày hôm nay. Như vậy là chúng ta đã cùng nhau lập dàn ý phân tích bài thơ Tức cảnh Pác Bó của Hồ Chí Minh. Với bài dàn ý cùng với bài văn tham khảo trên đây, Kho tàng văn mẫu rất mong nhận được thêm ý kiến đóng góp của các bạn để những bài viết sau được sâu sắc hơn. Thu Thủy
The poem Pac Bo Scene by Ho Chi Minh is a good poem that clearly shows Uncle Ho's style. Besides, the poem also shows Uncle Ho's love for nature and people. Through this, we understand more about Uncle Ho's life in Pac Bo. In order for you to be able to do well in your essay analyzing the poem The Scene of Pac Bo, Sample Literature Treasury will guide you to create an outline for analyzing the poem The Scene of Pac Bo and suggest sample essays for you to refer to. I. Create an outline to analyze the poem Pac Bo Scene 1. Open the lesson a. First 3 sentences: scenes of Uncle Ho's living and working in Pac Bo – Uncle Ho's daily life scene: + Time continuously rotates between light and dark. + Space: stream and cave. + Eat frugally. -> Life is simple, regular and orderly. – Uncle Ho's work scene: + Difficult working conditions b. Uncle Ho's feelings about life in Pac Bo – Even though life is full of difficulties and deprivation, he still feels happy. – He lived a simple life, dedicating himself to the nation. 3. Conclusion – Overview of the content of the poem Pac Bo Instant Scene and state your feelings about this poem. Related articles: >> Analysis of the poem The Stork by Che Lan Vien (With detailed outline) >> Analysis of the poem about a squad of cars without windows (with detailed outline) >> Analysis of the poem Fishing Boats by Huy Can (With detailed outline) See more: Analyze and give your thoughts on the excerpt from the play "Truong Ba's soul, butcher's skin" by Luu Quang Vu II. Essay analyzing the poem Pac Bo Scene Cao Bang is a land with many national historical imprints. This place has extremely dangerous terrain with majestic mountains. Cao Bang used to be the base of the Vietnamese revolution, where Uncle Ho and many other soldiers lived and worked. Those were years of resistance full of hardship and fierceness. Uncle Ho's life was extremely miserable, but he never felt upset about that life. The poem Pac Bo Scene clearly shows Uncle Ho's life during his days in Cao Bang. Like many of Uncle Ho's other poems, the entire poem has only 4 lines, of which 3 are used to describe the scene where Uncle Ho lives and it is not until the last verse that he talks about his moods and feelings. . Analysis of the poem Pac Bo Scene At the beginning of the poem, Uncle Ho wrote a description of morning and night, feeling like life revolves steadily day after day: In the morning go to the stream, in the evening go to the cave The 4/3 time signature in the above verse creates a rhythmic rhythm. It shows readers the orderliness of Uncle Ho's activities. In the morning, Uncle Ho went to the stream to work, and in the evening, he returned to the cave with a calm mood. Life among the mountains and forests and in harmony with nature makes him maintain a comfortable mood. Although he does not say it, the reader understands that life in the dark and damp cave is not pleasant. Even if you don't have good health, you will easily get sick. See more: Social commentary on Self-victory is the most glorious victory Moving on to the next verse, he talks about his daily meals. The meal of a leader leading an entire country does not contain any delicacies. Instead, it's porridge and bamboo shoots. These are foods that are always available in the mountains and forests of Pac Bo: Bamboo shoot porridge is ready Although they are not a delicacy, it can be seen through Uncle Ho's verse that they are always there to serve people. In a situation where life is still difficult and the country still has many dangers, not worrying about hunger is a happy thing. And surely for Uncle at this time, he is satisfied with that life. That's why he devoted himself and wholeheartedly to his work: The unsteady stone table translates the Party's history The unsteadiness of the stone table is a metaphor for the unsteadiness of the revolutionary path. Despite many hardships, we see that Uncle Ho is still working, devoted to his work. Uncle Ho is translating the Soviet Party's history into Vietnamese so that his soldiers can access the Soviet revolutionary guidelines, thereby finding a path to liberate the nation. Difficulties and deprivation do not make people falter. In all three verses describing Uncle Ho's living and working scenes, we see a sense of simplicity and simplicity. But it was those simple things that made Uncle Ho's soul relax. He inherently loves nature and lives in harmony with nature, so he is always attached and close to nature. In the midst of nature, he can maintain his own relaxed soul. The image of Uncle Ho sitting by the stream translating the Party's history went deep into the minds of the Vietnamese people. In the last sentence of the poem, he made an assertion that: See more: Tell about a lovely, respectable person you know. Life truly is revolutionary to So, in the midst of all the deprivation, he still thinks that this life is truly luxurious. It can be seen that the luxury here is not material luxury but spiritual luxury. It is felt by Uncle Ho's soul and love for nature. The poem Pac Bo Scene is a true, close and simple image of Uncle Ho's revolutionary life. The poem takes readers back to the ancient years of the resistance war, so that future generations can better understand and thank their ancestors. Thanks to them, we can have a prosperous life today. So we have together created an outline to analyze the poem Pac Bo Scene by Ho Chi Minh. With the above outline along with the reference essay, Sample Literature Treasury looks forward to receiving your comments to make the following articles more profound. Thu Thuy
Đề bài: Phân tích bài thơ Tức Cảnh Pác Pó của Hồ Chí Minh Bài làm Sau nhiều năm bôn ba ở nước ngoài tìm đường cứu nước thì vào năm 1941 chủ tịch Hồ Chí Minh đã bí mật về hoạt động tại Pác Pó, Cao Bằng. Tại đây người đã sống và hoạt động cách mạng đồng thời đây cũng là quãng thời gian gắn bó với rừng núi nơi đây. Bài thơ Tức Cảnh Pác Pó chính được viết trong hoàn cảnh đó. Trong thời gian về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng, Bác phải sống trong điều kiện làm việc thiếu thốn, kham khổ. Qua bài thơ này giúp chúng ta hiểu thêm được phần nào về hoàn cảnh sống mà Bác Hồ từng trải qua, hiểu về con người Bác, một người tuy sống trong gian khổ nhưng vẫn luôn yêu đời, ung dung, tự tại vượt qua hoàn cảnh để vươn tới mục tiêu cao cả. Mở đầu bài thơ Người đã cho chúng ta thấy được cuộc sống giản dị thường ngày: “Sáng ra bờ suối, tối vào hang” Đối lập sáng, tối thể hiện hai thời điểm khác nhau trong ngày và tương ứng với hai thời điểm đó chính là hai không gian và hai hành động khác nhau. Trong không gian đó hiện lên bóng dáng của Người đang miệt mài với công việc, những khoảnh khắc về cuộc sống sinh hoạt đan xen. Sự sắp xếp của các tiếng khiến cho người đọc cảm nhận được sự vận động của thời gian tuần hoàn và sự chuyển động của con người trong thời gian đó. Không gian làm việc của Bác chỉ là hai nơi bờ suối và hang đá. Gợi cho ta thấy không gian gần gũi, giao hòa với thiên nhiên, một cảm giác về một người ẩn sĩ nơi sơn dã.Xem thêm: Cảm nghĩ về nhân vật anh thanh niên trong truyện ngắn Lặng lẽ Sa Pa Phân tích bài thơ Tức Cảnh Pác Pó Nơi núi rừng lạnh lẽo, hoang sơ và điều kiện thì thiếu thốn nhưng dưới cảm nhận của Bác khiến chúng ta không khỏi thấy được một cảm giác tự tại, an nhiên của Người: “Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng” Câu thơ đã tái hiện những đồ ăn thức uống hằng ngày của người chiến sĩ cách mạng. Đó không phải là những gì cao sang, cao lương mỹ vị gì mà chỉ là cơm rau đạm bạc. Đó là “cháo bẹ rau măng”, là những sản vật của rừng núi, đó là rau rừng, măng tre, măng nứa luôn sẵn sàng có trong những bữa cơm hằng ngày. Sự thiếu thốn nhưng lại được thi vị hóa, thực phẩm luôn có, luôn “sẵn sàng” phục vụ mọi người. Nhìn vào bữa cơm đạm bạc ấy ta lại nhớ tới cuộc sống của những người thi sĩ xưa khi ở ẩn: “Thu ăn măng trúc, đông ăn giá Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao” Ở câu thơ của Bác mang theo giọng điệu lạc quan, như vừa lòng, tự hào về cuộc sống mà người đang trải qua. Nếu hai câu thơ đầu là hai câu tả thực thì hai câu thơ cuối vừa mang nét tả thực lại vừa ẩn nét trữ tình sâu sắc; “Bàn đá chông chênh lịch sử Đảng Cuộc đời cách mạng thật là sang” Ta bắt gặp niềm vui sau từ “sẵn sàng” thì nay ta như thấy được sự hóm hỉnh, thâm thúy sau từ “chông chênh”. Như ta đã biết thì chông chênh có nghĩa là không bằng phẳng, chưa vững vàng. Chiếc bàn đá hay chỉ là một phiến đá ở bờ suối, ở trong hang đá là nơi làm việc của Bác. Nhưng ẩn chứa trong đó còn là nét ẩn dụ về tình thế khó khăn của cách mạng nước nhà. Cách so sánh ấy khiến ta vừa thấy nét đùa vui, hài hước nhưng lại mang ý nghĩa cách mạng lớn lao và mang ý nghĩa hiện thực sâu sắc. Đến câu thơ cuối ta như thấy được những thiếu thốn, nghèo nàn, những khó khăn trong cách mạng đã được chuyển hóa thành cái “sang” mang tính tinh thần. Sang ở đây nghĩa là đầy đủ và cao quý. Con người đạt được những niềm mong mỏi, được làm việc mình thích, được phấn đấu cho lý tưởng của mình đó chính là niềm vui, niềm hạnh phúc. Đối với chủ tịch Hồ Chí Minh, thì được làm việc mỗi ngày, mỗi ngày thưởng thức những món ăn đạm bạc như một món quà của núi rừng như vậy chính là “sang”.Xem thêm: Con người Hồ Chí Minh hiện lên qua bài thơ Tức cảnh Pác Bó Tức Cảnh Pác Pó chính là bài thơ mang theo sự hồn nhiên, giản dị và sâu sắc. Bài thơ cho ta thấy tinh thần lạc quan yêu đời, một tấm lòng vì dân vì nước của chủ tịch Hồ Chí Minh. Loan Trương
Topic: Analysis of the poem Tuc Canh Pac Po by Ho Chi Minh Assignment After many years of traveling abroad to find a way to save the country, in 1941 President Ho Chi Minh secretly operated in Pac Po, Cao Bang. Here people lived and participated in revolutionary activities, and this was also a time of attachment to the mountains and forests here. The poem Tuc Canh Pac Po was written in that situation. While returning home to directly lead the revolution, Uncle Ho had to live in poor and miserable working conditions. Through this poem, we can understand more about the living situation that Uncle Ho experienced, understand about Uncle Ho, a person who, although living in hardship, still loved life, was leisurely and free to overcome difficulties. scene to reach lofty goals. At the beginning of the poem, he shows us the simple, everyday life: “Go to the stream in the morning, go to the cave in the evening” The contrast between light and dark represents two different times of the day and corresponding to those two times are two different spaces and two different actions. In that space appears the figure of a person who is busy with work, moments of daily life interwoven. The arrangement of the sounds makes the reader feel the movement of cyclical time and the movement of people during that time. Uncle Ho's working space is just two places: a stream bank and a cave. Reminds us of a space of closeness, harmony with nature, a feeling of a hermit in the wilderness. See more: Feelings about the young man character in the short story Quiet Sa Pa Analysis of the poem Tuc Canh Pac Po The mountains and forests are cold, wild and the conditions are poor, but under Uncle Ho's feelings, we cannot help but feel his sense of freedom and peace: "Cement sheath vegetable porridge is ready" The poem recreates the daily food and drink of revolutionary soldiers. It's not something luxurious or delicious, it's just simple rice and vegetables. That is "bamboo shoot porridge", which is a product of the mountains and forests, that is, wild vegetables, bamboo shoots, and bamboo shoots that are always available in daily meals. The shortage is poeticized, food is always there, always "ready" to serve everyone. Looking at that meager meal, we remember the lives of ancient poets when they were in hiding: “In autumn we eat bamboo shoots, in winter we eat bean sprouts In the spring, bathe in the lotus pond, in the summer, bathe in the pond." Uncle Ho's verses carry an optimistic tone, as if satisfied and proud of the life he is experiencing. If the first two verses are realistic, the last two verses are both realistic and deeply lyrical; “The unsteady stone table of the Party's history Life truly is revolutionary to" We see joy after the word "ready", but now we see the humor and profoundness behind the word "unsteady". As we know, unsteady means uneven and unstable. The stone table or just a stone slab on the bank of a stream or in a cave is Uncle Ho's working place. But hidden in it is also a metaphor for the difficult situation of the country's revolution. That way of comparison makes us see the joke and humor but also has great revolutionary meaning and profound realism. By the last verse, we can see that the deprivation, poverty, and difficulties in the revolution have been transformed into spiritual "luxury". Sang here means complete and noble. People achieve their desires, do what they like, and strive for their ideals, which is joy and happiness. For President Ho Chi Minh, being able to work every day, enjoy frugal food every day as a gift from the mountains and forests is "luxury". See more: Ho Chi Minh's personality appears through Poem Pac Bo Scene Tuc Canh Pac Po is a poem that carries innocence, simplicity and profoundness. The poem shows us President Ho Chi Minh's optimistic spirit of love for life, his heart for the people and the country. Loan Truong
Bài thơ Từ ấy không chỉ là một bài thơ hay mà nó còn là cột mốc đánh dấu sự nghiệp cách mạng của nhà thơ Tố Hữu. Từ ấy chính là thời điểm nhà thơ được đứng trong hàng ngũ của Đảng, được ánh sáng của Đảng, của Bác Hồ chiếu soi. Để giúp các em hiểu hơn về bài thơ Từ ấy cũng như có thêm tài liệu tham khảo để làm bài, chúng tôi sẽ hướng dẫn các em lập dàn ý và chia sẻ bài văn mẫu phân tích bài thơ Từ ấy hay nhất. I. Lập dàn ý phân tích bài thơ Từ ấy 1. Mở bài phân tích bài thơ Từ ấy – Giới thiệu về nhà thơ Tố Hữu và tác phẩm Từ ấy. Nhà thơ Tố Hữu là một cây thơ đại thụ của nền văn học Việt Nam. Những sáng tác của ông hay nổi bật và giàu cảm xúc. Bài thơ Từ ấy đã đánh dấu tên tuổi của nhà thơ Tố Hữu. 2. Thân bài phân tích bài thơ Từ ấy Khổ 1: Niềm vui sướng, hạnh phúc của tác giả ki bắt gặp lí tưởng của Đảng. – Phân tích hai chữ từ ấy để thấy cột mốc quan trọng trong cuộc đời Tố Hữu. – Phân tính hình ảnh ẩn dụ: bừng nắng hạ và chói qua tim để thấy được ánh sáng chói chang soi rọi chân lí của tác giả. => Cảm giác của nhà thơ khi được lí tưởng của Đảng soi sáng. Khổ 2: Lời tự nguyện của tác giả khi đến với lí tưởng Đảng – Phân tích các từ buộc, trang trải,… để thấy được ý chí tự nguyện của tác giả đối với cuộc đời, con người. – Phân tích các từ lòng tôi, tình, hồn tôi để thấy được cái tình của tác giả đối với những mảnh đời còn vất vả ngoài kia. => Sự đồng cảm và gắn bó của tác giả, sự hòa nhập của cái tôi riêng vào cái ta chung, tạo nên sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân. Khổ 3: Lời khẳng định của nhà thơ – Ngôn ngữ thể hiện sự gần gũi, thân thiết, gắn bó. => Tâm trạng của tác giả có sự chuyển biến sâu sắc. Nghệ thuật: ẩn dụ, so sánh, điệp từ, bút pháp tự sự, lãng mạn, trữ tình.Xem thêm: Nghị luận xã hội về vấn đề rác thải 3. Kết luận phân tích bài thơ Từ ấy Tổng quát lại nội dung của bài thơ Từ ấy và nêu cảm nghĩ của em về bài thơ. Bài viết liên quan >> Phân tích bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu (Có dàn ý chi tiết) >> Phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mạc Tử (Có dàn ý chi tiết) II. Bài làm phân tích bài thơ Từ ấy Nhà thơ Tố Hữu được xem là ngọn cờ đầu của phong trào thơ cách mạng Việt Nam. Thơ của ông viết nhiều về đề tài cách mạng, đề tài Bác Hồ. Mặc dù viết theo lối tự sự nhưng lúc nào cũng chất chứa tình cảm. Trong số những sáng tác của Tố Hữu, bài thơ Từ ấy được đánh giá khá cao. Bài thơ được rút ra từ tập thơ cùng tên sáng tác năm 1938. Cái tên Từ ấy cũng là ám chỉ mốc thời gian mà Tố Hữu được giác ngộ lý tưởng cộng sản. Chính vì vậy mà bài thơ mang một nhịp điệu tươi vui, thể hiện được cảm xúc vui sướng và hạnh phúc trong lòng tác giả. Phân tích bài thơ Từ ấy Đối với thanh niên thế hệ Tố Hữu, được đứng trong hàng ngũ của Đảng là một niềm khát khao. Trở thành Đảng viên nghĩa là được trở thành người của muôn dân, được cống hiến bản thân mình cho Tổ quốc. Tố Hữu sau khi được đứng trong hàng ngũ của Đảng thì giống như được soi sáng tâm hồn. Nhà thơ đã cất lên những vần thơ như một tiếng reo vui, vỡ òa trong hạnh phúc: Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ Mặt trời chân lý chói qua tim Hai chữ “từ ấy” cho người đọc thấy được một sự thay đổi rõ rệt, một sự chuyển biến trong tư duy, trong nhận thức của người thanh niên trẻ tuổi. Nó sẽ là cột mốc mà suốt cuộc đời Tố Hữu không thể nào quên được. Nó không chỉ đánh dấu sự thay đổi trong nhận thức nhà thơ mà nó có thể còn làm thay đổi tư duy sáng tác của ông. Từ ấy, trong lòng nhà thơ giống như “bừng nắng hạ”. Bừng lên một thứ ánh sáng chói chang của ngày hè. Nó sáng soi tất cả, xuyên qua cả thực thể để chiếu rọi vào tim. Hai hình ảnh ẩn dụ bừng nắng hạ và chói qua tim khiến câu thơ trở nên mạnh mẽ. Nó cho người đọc thấy được sức mạnh của lí tưởng cộng sản và niềm tin của nhà thơ vào con đường cách mạng. Thế cho nên, tâm hồn nhà thơ như được tưới mát, trở nên rộn ràng và vui tươi:Xem thêm: Qua những tác phẩm đã học và đọc thêm, hãy phát biểu cảm nghĩ của em về người phụ nữ trong thơ trung đại Hồn tôi là một vườn hoa lá Rất đậm hương và rộn tiếng chim Trong khu vườn tâm hồn nhà thơ rộn rã tiếng chim và ngào ngạt hương thơm của một vườn hoa lá. Nhà thơ đã lấy một cái cụ thể đó là vườn hoa lá để làm đại diện cho một cái vô hình đó là hồn tôi. Câu thơ khiến người đọc dễ tưởng và dễ cảm. Niềm vui sướng và hạnh phúc lớn lao của nhà thơ như đang lan tỏa ra khắp những người xung quanh, khắp cảnh vật xung quanh. Những câu thơ như vẽ một bức tranh của tâm hồn nhưng không đơn điệu mà ngập tràn sắc hương. Chính từ những giác ngộ trong tâm hồn mình, nhà thơ đã hình thành trong tâm hồn một tư tưởng lớn lao. Đó là tư tưởng gắn kết bản thân mình vào với cuộc đời, vào với muôn dân: Tôi buộc lòng tôi với mọi nhà Để tình trang trải đến trăm nơi Để hồn tôi với bao hồn khổ Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời Đại từ nhân xưng tôi trong khổ thơ này cho chúng ta thấy được cái tôi cá nhân rõ nét của tác giả nhưng ý thơ lại bộc lộ được cái ta rộng lớn và bao la. Động từ buộc tạo nên một sự gắn kết giữa tác giả và mọi nhà. Thông thường, để buộc những thứ gì đó lại với nhau người ta thường dùng một sợi dây nhưng nhà thơ thì không. Ông buộc lòng mình bằng một sợi dây vô hình, đó là sợi dây của lý trí, của lý tưởng cộng sản, sợi dây của ý thức trách nhiệm khi bản thân đã đứng trong hàng ngũ của Đảng. Đó là con đường mà Tố Hữu đã chọn và chàng thanh niên trẻ tuổi khi đó sẵn sàng đương đầu với thử thách, tự nguyện hiến dâng cuộc đời mình cho Tổ quốc. Buộc lòng mình vào với muôn người là để nhà thơ thấu hiểu được tất thảy những mảnh đời ngoài kia, để người với người xích lại gần nhau hơn và tạo nên một sức mạnh đoàn kết tập thể cùng nhau chống lại giặc thù. Chắc chắn không chỉ có mình Tố Hữu mà tất cả các chiến sĩ khác cũng đều như vậy.Xem thêm: Cao Chu Thần từng có câu thơ để đời: Nhất sinh đê thủ bái mai hoa. Có người cho rằng vẻ đẹp của câu thơ cũng chính là vẻ đẹp của Huấn Cao trong truyện ngắn Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân. Ý kiến của anh (chị) như thế nào? Hãy phân tích để làm sáng tỏ Từ sự gắn kết ấy, nhà thơ tiếp tục mở rộng quan điểm của mình. Nhà thơ muốn được bao bọc, muốn được chở che cho những mảnh đời bất hạnh ở ngoài kia. Khổ thơ cuối bài chính là lời khẳng định vị thế của nhà thơ: Tôi đã là con của vạn nhà Là em của vạn kiếp phôi pha Là anh của vạn đầu em nhỏ Không áo cơm cù bất cù bơ Đọc khổ thơ lên, người đọc cảm nhận được sự ấm áp và dạt dào tình cảm. Cả Tổ quốc chỉ như một nhà, một gia đình có cha mẹ, có con cái. Tố Hữu tự nhận mình là con, là em, là anh,… như vậy ông đã coi mình là một phần của tất thảy những mảnh đời phôi pha và cù bất cù bơ ngoài kia. Đó là bởi trái tim nhà thơ đang có những niềm thương xót cho những số phận ấy. Không nói ra nhưng chúng ta cũng hiểu được rằng nhà thơ đang thể hiện một ước mong đó là làm sao cho cuộc sống của những mảnh đời kia được tốt đẹp hơn. Tiếng ca reo vui khép lại với một mong ước thật lớn lao. Tố Hữu xứng danh là nhà thơ cách mạng. Những suy nghĩ của ông sẽ là những gì mà thế hệ con cháu mai sau vẫn luôn cần phải học hỏi và noi theo. Trên đây là phần lập dàn ý cho đề phân tích bài thơ Từ ấy cũng như bài văn mẫu phân tích bài thơ Từ ấy. Dàn ý và bài mẫu chỉ mang tính chất tham khảo, các em có thể mở rộng hơn, phát triển ý và phân tích sâu hơn để có được tác phẩm hay nhất cho riêng mình. Thu Thủy
Bài thơ Từ ấy không chỉ là một bài thơ hay mà nó còn là cột mốc đánh dấu sự nghiệp cách mạng của nhà thơ Tố Hữu. Từ ấy chính là thời điểm nhà thơ được đứng trong hàng ngũ của Đảng, được ánh sáng của Đảng, của Bác Hồ chiếu soi. Để giúp các em hiểu hơn về bài thơ Từ ấy cũng như có thêm tài liệu tham khảo để làm bài, chúng tôi sẽ hướng dẫn các em lập dàn ý và chia sẻ bài văn mẫu phân tích bài thơ Từ ấy hay nhất. I. Lập dàn ý phân tích bài thơ Từ ấy 1. Mở bài phân tích bài thơ Từ ấy – Giới thiệu về nhà thơ Tố Hữu và tác phẩm Từ ấy. Nhà thơ Tố Hữu là một cây thơ đại thụ của nền văn học Việt Nam. Những sáng tác của ông hay nổi bật và giàu cảm xúc. Bài thơ Từ ấy đã đánh dấu tên tuổi của nhà thơ Tố Hữu. 2. Thân bài phân tích bài thơ Từ ấy Khổ 1: Niềm vui sướng, hạnh phúc của tác giả ki bắt gặp lí tưởng của Đảng. – Phân tích hai chữ từ ấy để thấy cột mốc quan trọng trong cuộc đời Tố Hữu. – Phân tính hình ảnh ẩn dụ: bừng nắng hạ và chói qua tim để thấy được ánh sáng chói chang soi rọi chân lí của tác giả. => Cảm giác của nhà thơ khi được lí tưởng của Đảng soi sáng. Khổ 2: Lời tự nguyện của tác giả khi đến với lí tưởng Đảng – Phân tích các từ buộc, trang trải,… để thấy được ý chí tự nguyện của tác giả đối với cuộc đời, con người. – Phân tích các từ lòng tôi, tình, hồn tôi để thấy được cái tình của tác giả đối với những mảnh đời còn vất vả ngoài kia. => Sự đồng cảm và gắn bó của tác giả, sự hòa nhập của cái tôi riêng vào cái ta chung, tạo nên sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân. Khổ 3: Lời khẳng định của nhà thơ – Ngôn ngữ thể hiện sự gần gũi, thân thiết, gắn bó. => Tâm trạng của tác giả có sự chuyển biến sâu sắc. Nghệ thuật: ẩn dụ, so sánh, điệp từ, bút pháp tự sự, lãng mạn, trữ tình.Xem thêm: Nghị luận xã hội về vấn đề rác thải 3. Kết luận phân tích bài thơ Từ ấy Tổng quát lại nội dung của bài thơ Từ ấy và nêu cảm nghĩ của em về bài thơ. Bài viết liên quan >> Phân tích bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu (Có dàn ý chi tiết) >> Phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mạc Tử (Có dàn ý chi tiết) II. Bài làm phân tích bài thơ Từ ấy Nhà thơ Tố Hữu được xem là ngọn cờ đầu của phong trào thơ cách mạng Việt Nam. Thơ của ông viết nhiều về đề tài cách mạng, đề tài Bác Hồ. Mặc dù viết theo lối tự sự nhưng lúc nào cũng chất chứa tình cảm. Trong số những sáng tác của Tố Hữu, bài thơ Từ ấy được đánh giá khá cao. Bài thơ được rút ra từ tập thơ cùng tên sáng tác năm 1938. Cái tên Từ ấy cũng là ám chỉ mốc thời gian mà Tố Hữu được giác ngộ lý tưởng cộng sản. Chính vì vậy mà bài thơ mang một nhịp điệu tươi vui, thể hiện được cảm xúc vui sướng và hạnh phúc trong lòng tác giả. Phân tích bài thơ Từ ấy Đối với thanh niên thế hệ Tố Hữu, được đứng trong hàng ngũ của Đảng là một niềm khát khao. Trở thành Đảng viên nghĩa là được trở thành người của muôn dân, được cống hiến bản thân mình cho Tổ quốc. Tố Hữu sau khi được đứng trong hàng ngũ của Đảng thì giống như được soi sáng tâm hồn. Nhà thơ đã cất lên những vần thơ như một tiếng reo vui, vỡ òa trong hạnh phúc: Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ Mặt trời chân lý chói qua tim Hai chữ “từ ấy” cho người đọc thấy được một sự thay đổi rõ rệt, một sự chuyển biến trong tư duy, trong nhận thức của người thanh niên trẻ tuổi. Nó sẽ là cột mốc mà suốt cuộc đời Tố Hữu không thể nào quên được. Nó không chỉ đánh dấu sự thay đổi trong nhận thức nhà thơ mà nó có thể còn làm thay đổi tư duy sáng tác của ông. Từ ấy, trong lòng nhà thơ giống như “bừng nắng hạ”. Bừng lên một thứ ánh sáng chói chang của ngày hè. Nó sáng soi tất cả, xuyên qua cả thực thể để chiếu rọi vào tim. Hai hình ảnh ẩn dụ bừng nắng hạ và chói qua tim khiến câu thơ trở nên mạnh mẽ. Nó cho người đọc thấy được sức mạnh của lí tưởng cộng sản và niềm tin của nhà thơ vào con đường cách mạng. Thế cho nên, tâm hồn nhà thơ như được tưới mát, trở nên rộn ràng và vui tươi:Xem thêm: Qua những tác phẩm đã học và đọc thêm, hãy phát biểu cảm nghĩ của em về người phụ nữ trong thơ trung đại Hồn tôi là một vườn hoa lá Rất đậm hương và rộn tiếng chim Trong khu vườn tâm hồn nhà thơ rộn rã tiếng chim và ngào ngạt hương thơm của một vườn hoa lá. Nhà thơ đã lấy một cái cụ thể đó là vườn hoa lá để làm đại diện cho một cái vô hình đó là hồn tôi. Câu thơ khiến người đọc dễ tưởng và dễ cảm. Niềm vui sướng và hạnh phúc lớn lao của nhà thơ như đang lan tỏa ra khắp những người xung quanh, khắp cảnh vật xung quanh. Những câu thơ như vẽ một bức tranh của tâm hồn nhưng không đơn điệu mà ngập tràn sắc hương. Chính từ những giác ngộ trong tâm hồn mình, nhà thơ đã hình thành trong tâm hồn một tư tưởng lớn lao. Đó là tư tưởng gắn kết bản thân mình vào với cuộc đời, vào với muôn dân: Tôi buộc lòng tôi với mọi nhà Để tình trang trải đến trăm nơi Để hồn tôi với bao hồn khổ Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời Đại từ nhân xưng tôi trong khổ thơ này cho chúng ta thấy được cái tôi cá nhân rõ nét của tác giả nhưng ý thơ lại bộc lộ được cái ta rộng lớn và bao la. Động từ buộc tạo nên một sự gắn kết giữa tác giả và mọi nhà. Thông thường, để buộc những thứ gì đó lại với nhau người ta thường dùng một sợi dây nhưng nhà thơ thì không. Ông buộc lòng mình bằng một sợi dây vô hình, đó là sợi dây của lý trí, của lý tưởng cộng sản, sợi dây của ý thức trách nhiệm khi bản thân đã đứng trong hàng ngũ của Đảng. Đó là con đường mà Tố Hữu đã chọn và chàng thanh niên trẻ tuổi khi đó sẵn sàng đương đầu với thử thách, tự nguyện hiến dâng cuộc đời mình cho Tổ quốc. Buộc lòng mình vào với muôn người là để nhà thơ thấu hiểu được tất thảy những mảnh đời ngoài kia, để người với người xích lại gần nhau hơn và tạo nên một sức mạnh đoàn kết tập thể cùng nhau chống lại giặc thù. Chắc chắn không chỉ có mình Tố Hữu mà tất cả các chiến sĩ khác cũng đều như vậy.Xem thêm: Cao Chu Thần từng có câu thơ để đời: Nhất sinh đê thủ bái mai hoa. Có người cho rằng vẻ đẹp của câu thơ cũng chính là vẻ đẹp của Huấn Cao trong truyện ngắn Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân. Ý kiến của anh (chị) như thế nào? Hãy phân tích để làm sáng tỏ Từ sự gắn kết ấy, nhà thơ tiếp tục mở rộng quan điểm của mình. Nhà thơ muốn được bao bọc, muốn được chở che cho những mảnh đời bất hạnh ở ngoài kia. Khổ thơ cuối bài chính là lời khẳng định vị thế của nhà thơ: Tôi đã là con của vạn nhà Là em của vạn kiếp phôi pha Là anh của vạn đầu em nhỏ Không áo cơm cù bất cù bơ Đọc khổ thơ lên, người đọc cảm nhận được sự ấm áp và dạt dào tình cảm. Cả Tổ quốc chỉ như một nhà, một gia đình có cha mẹ, có con cái. Tố Hữu tự nhận mình là con, là em, là anh,… như vậy ông đã coi mình là một phần của tất thảy những mảnh đời phôi pha và cù bất cù bơ ngoài kia. Đó là bởi trái tim nhà thơ đang có những niềm thương xót cho những số phận ấy. Không nói ra nhưng chúng ta cũng hiểu được rằng nhà thơ đang thể hiện một ước mong đó là làm sao cho cuộc sống của những mảnh đời kia được tốt đẹp hơn. Tiếng ca reo vui khép lại với một mong ước thật lớn lao. Tố Hữu xứng danh là nhà thơ cách mạng. Những suy nghĩ của ông sẽ là những gì mà thế hệ con cháu mai sau vẫn luôn cần phải học hỏi và noi theo. Trên đây là phần lập dàn ý cho đề phân tích bài thơ Từ ấy cũng như bài văn mẫu phân tích bài thơ Từ ấy. Dàn ý và bài mẫu chỉ mang tính chất tham khảo, các em có thể mở rộng hơn, phát triển ý và phân tích sâu hơn để có được tác phẩm hay nhất cho riêng mình. Thu Thủy
Đề bài: Phân tích bài thơ Từ Ấy của Tố Hữu Bài làm Tố Hữu là một trong những nhà thơ tiên phong của phong trào thơ ca cách mạng Việt Nam. Bài thơ Từ Ấy chính là dấu mốc đánh dấu sự trưởng thành của người thanh niên cách mạng, là tiếng reo vui của nhà thơ khi được đứng trong hàng ngũ của Đảng. Từ Ấy được rút ra từ tập thơ cùng tên, được Tố Hữu sáng tác năm 1938. Bài thơ đã đánh dấu sự trưởng thành của nhà thơ về tâm hồn, về lý tưởng cách mạng. Mở đầu bài thơ là lời thơ chan chứa niềm vui và sự rộn ràng trong tâm hồn người thanh niên: “Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ Mặt trời chân lý chói qua tim” Cảm xúc của tác giả lúc bấy giờ chính là sự vui mừng, không biết nói nên lời, và chỉ có thể nhấn mạnh một lần nữa rằng khoảng thời gian ấy chính là “Từ ấy”. Đó là dấu mốc, là bước ngoặt trong cuộc đời của một con người khi được giác ngộ lý tưởng lớn. Hai hình ảnh ẩn dụ “bừng nắng hạ”, “mặt trời chân lý” đã cho ta thấy được một thứ gì đó như tươi sáng, như tốt đẹp nhất đang đến với người thanh niên trẻ. Từ “bừng nắng hạ” khiến cho câu thơ trở nên sáng chói, cái nắng vàng ươm của mùa hè, cái nắng tràn ngập sức sống. Chính ánh sáng đó như dẫn đường, chỉ lối cho nhà thơ bước ra khỏi vùng tăm tối, bế tắc. Cách mạng chính là ánh sáng và chân lý, là điều mà khi giác ngộ cần trân trọng, giữ gìn.Xem thêm: Phân tích quan điểm nhân sinh mới mẻ của Xuân Diệu trong bài thơ "Vội vàng " Phân tích bài thơ Từ Ấy Từ khi được giác ngộ cách mạng thì người thanh niên ấy đã có những chuyển biến ngay trong tâm hồn: “Hồn tôi là một vườn hoa lá Rất đậm hương và rộn tiếng chim” Khi đang ở trong một “căn hầm tối”, không thấy ánh sáng và đang cảm thấy cuộc đời bế tắc thì chính ánh sáng của cách mạng đã khiến tâm hồn của người khi được giác ngộ, trở thành chiến sĩ cách mạng đã có sự thay đổi to lớn. Tâm hồn người chiến sĩ trẻ ấy như một khu vườn tràn ngập hoa lá và tiếng chim ca. Sự so sánh tài tình khiến ta có thể cảm thận được một tâm hồn chứa đựng muôn màu, muôn vẻ tươi vui của cuộc sống. Tác giả đã phơi bày cho chúng ta thấy được khi được giác ngộ lý tưởng cách mạng thì cuộc đời của nhà thơ như tràn ngập niềm vui và sự tự hào. Chính sự giác ngộ đó đã khiến cho người chiến sĩ có động lực sống và làm việc. Cũng qua đó hình thành nên tư tưởng lớn trong tâm hồn của nhà thơ: “Tôi buộc lòng tôi với mọi người Để tình trang trải với muôn nơi Để hồn tôi với bao hồn khổ Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời” Khi thấm nhuần lý tưởng cách mạng, nhà thơ nhận ra đã đến lúc mình phải thay đổi cách sống. Khi đất nước lầm than thì mình không chỉ sống cho riêng mình mà còn phải vì những người khác và hòa hợp với mọi người xung quanh. Đây là lúc ông phải “trang trải với muôn nơi” để thấu hiểu, để gần gũi nhau hơn, gắn kết với nhau thành gia đình lớn. Qua đó cũng thể hiện nguyện vọng đoàn kết, tạo dựng nên một “khối đời” vững chắc, mạnh mẽ để kết thành một làn sóng lớn đập tan quân thù. Đó chính là lý tưởng sống cao cả mà Tố Hữu theo đuổi.Xem thêm: Phân tích bài Chuyện chức phán sự ở đền Tản ViênCuối bài thơ nhà thơ đã gắn trách nhiệm của mình với trách nhiệm của cuộc đời, khẳng định vị thế của mình trong “khối đời” ấy: “Tôi đã là con của vạn nhà Là em của vạn kiếp phôi pha Là anh của vạn đầu em nhỏ Không áo cơm, cù bất cù bơ” Khổ thơ cuối tiếp tục ghi nhận những chuyển biến trong nhận thức và hành động của nhà thơ. Sự gắn kết của nhà thơ không chỉ với những người cùng thế hẹ mà là với các tầng lớp khác nhau trong quần chúng lao động. “Tình trang trải” khắp muôn nơi ấy chính là để gắn bó với “vạn nhà”, đó là một tập thể lớn lao. “Vạn kiếp phôi pha” chính là nói đến những người lao động cực nhọc, những người sống nghèo khó, cơ cực. Không chỉ có những tầng lớp đó mà Tố Hữu còn gắn bó với “vạn đầu em nhỏ”, đó là những em bé lang thang, nay đây mai đó, những đứa trẻ chịu nhiều thiệt thòi, khó khăn. Từ những cách xưng hô như: con, em, anh khiến cho ta thấy được tình hữu ái giữa các giai cấp, đó là tình cảm yêu thương ruột thịt như những người trong một gia đình. Điều này không phải trong mơ, hay tương lai hướng tới nữa mà đã được khẳng định bởi từ “đã là”, có nghĩa là đã và đang xảy ra. Nhà thơ đã nhận định mình là một thành viên trong quần chúng lao khổ này. Xem thêm: Phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân được thể hiện rõ nét qua hình tượng con sông Đà trong bài tùy bút Người lái đò sông Đà. Hãy phân tích và chứng minh.Lý tưởng cách mạng đã đã thay đổi cả một thế hệ trí thức tiểu tư sản không chỉ riêng Tố Hữu. Các văn nhân, thi sĩ đã có sự thay đổi trong phong cách sáng tác của mình. Họ không hoạt động xa rời quần chúng mà giác ngộ quan điểm: nhà thơ, nhà văn cũng là người chiến sĩ chiến đấu trên mặt trận văn hóa tư tưởng. Như Bác Hồ đã từng nói: “Nay ở trong thơ nên có thép Nhà thơ cũng phải biết xung phong” Bài thơ Từ Ấy chính là bài thơ tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật thơ Tố Hữu. Là tiếng reo vui của người chiến sĩ cách mạng khi được giác ngộ lý tưởng, là tuyên ngôn về lẽ sống của nhà thơ chiến sĩ. Loan Trương
Topic: Analysis of the poem Tu That by To Huu Assignment To Huu is one of the pioneer poets of the Vietnamese revolutionary poetry movement. The poem Tu That is a milestone marking the maturity of the revolutionary youth, the poet's cry of joy when standing in the ranks of the Party. Tu That is drawn from the poem collection of the same name, composed by To Huu in 1938. The poem marked the poet's maturity in soul and revolutionary ideals. The poem begins with lyrics filled with joy and excitement in the young man's soul: “From then on, the summer sun lit up inside me The sun of truth shines through the heart" The author's feeling at that time was joy, speechless, and can only emphasize once again that that period of time was "That word". It is a milestone, a turning point in a person's life when he or she is enlightened to a great ideal. The two metaphorical images "summer sunshine" and "sun of truth" show us that something bright and the best is coming to the young man. The word "summer sunshine" makes the poem become bright, the golden sunshine of summer, the sunshine filled with vitality. It is that light that guides and guides the poet out of the dark, deadlocked area. Revolution is light and truth, something that when enlightened needs to be respected and preserved. See more: Analysis of Xuan Dieu's new perspective on life in the poem "Rush" Analysis of the poem Tu That Since being enlightened by the revolution, that young man has had changes in his soul: “My soul is a garden of flowers and leaves Very fragrant and full of bird sounds." While in a "dark cellar", not seeing light and feeling deadlocked in life, it was the light of the revolution that made the soul of the person who became enlightened and became a revolutionary soldier have a new life. huge change. That young soldier's soul was like a garden filled with flowers and birdsong. The clever comparison allows us to feel a soul filled with all the colors and joys of life. The author has shown us that when he was enlightened to the revolutionary ideal, the poet's life seemed filled with joy and pride. It is that enlightenment that gives soldiers the motivation to live and work. Through that, a great thought was formed in the poet's soul: “I tie my heart to everyone Let love spread everywhere Leave my soul with so many suffering souls Being close to each other strengthens our lives.” When imbued with revolutionary ideals, the poet realized it was time to change his way of life. When the country is in trouble, we must not only live for ourselves but also for others and be in harmony with everyone around us. This is the time when he has to "cover with many places" to understand, to get closer to each other, to bond together into a big family. Thereby also expressing the desire to unite and create a solid and strong "block of life" to form a great wave to destroy the enemy. That is the noble ideal of life that To Huu pursues. See more: Analysis of the article The Story of the Judge at Tan Vien Temple. At the end of the poem, the poet associates his responsibilities with the responsibilities of life, affirming his position myself in that "lifetime": “I am the child of ten thousand families You are the child of countless eons He is the brother of ten thousand children No food, no clothes, no food" The final stanza continues to record changes in the poet's perception and actions. The poet's connection is not only with people of the same age but with different classes within the working masses. That "covering love" everywhere is to stick with "ten thousand families", which is a great group. “Ten thousand lifetimes in disrepair” refers to people who work hard, people who live in poverty and destitution. Not only those classes, but To Huu is also attached to "thousands of children", those are wandering children, here and there, children who suffer many disadvantages and difficulties. From the ways of addressing such as: son, sister, brother, we can see the friendship between classes, which is the love of flesh and blood like people in a family. This is not in a dream, or in the future, but has been confirmed by the word "has been", meaning has been and is happening. The poet identified himself as a member of this toiling people. See more: Nguyen Tuan's artistic style is clearly expressed through the image of the Da River in the essay Da River Boatman. Let's analyze and prove. Revolutionary ideals have changed an entire generation of petty bourgeois intellectuals, not just To Huu. Writers and poets have had changes in their writing styles. They do not operate away from the masses but have enlightened views: poets and writers are also soldiers fighting on the cultural and ideological front. As Uncle Ho once said: “Nowadays, there should be steel in poetry Poets must also know how to volunteer." The poem Tu That is a typical poem of To Huu's poetic artistic style. It is the joyful cry of a revolutionary soldier when he is enlightened to his ideals, and is a declaration of the soldier poet's reason for living. Loan Truong
Đề bài: Phân tích bài thơ Từ ấy của Tố Hữu Trong lịch sử văn học cách mạng nước nhà, thật hiếm thấy nhà thơ nào lại có những tác phẩm mang đậm dấu ấn đặc trưng của mỗi giai đoạn lịch sử và đã đi vào lòng người như thơ Tố Hữu trong thế kỷ 20. Tình yêu quê hương, đất nước thiết tha, sâu nặng đã hóa thân vào những vần thơ trữ tình chính trị đạt tới đỉnh cao về nghệ thuật thơ ca cách mạng. Đọc những vần thơ, những bài thơ của Tố Hữu, chúng ta như cảm nhận được một tâm hồn thơ dạt dào cảm xúc, một trái tim nhân hậu, một tấm lòng trung trinh với Đảng, với Tổ Quốc, với nhân dân và tình cảm gắn bó thân thiết keo sơn với đồng bào, đồng chí. “Dù ai thay ngựa giữa dòng Đời ta vẫn ngọn cờ hồng cứ đi Vẫn là ta đó những khi Đầu voi ra trận cứu nguy giống nòi" Bao trùm lên toàn bộ sáng tác thơ của Tố Hữu là vì lý tưởng cách mạng, vì cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, tự do và hạnh phúc cho nhân dân, vì lương tâm, chính nghĩa, công lý và lẽ phải trên đời.. Và một trong những giá trị tiêu biểu của thơ Tố Hữu là tính hướng thiện được biểu lộ vừa thầm kín, tinh tế, vừa sâu sắc, đậm đà qua 6 tập thơ nổi tiếng: Từ ấy, Việt Bắc, Ra trận, Gió lộng, Máu Bài thơ “Từ ấy” được Tố Hữu sáng tác vào tháng 7/1938; nhan đề bài thơ trở thành tên tập thơ đầu của ông. Có thể nói “ Từ ấy” là tiếng hát của người thanh niên yêu nước Việt Nam giác ngộ lí tưởng Mác Lê Nin trong ngày hội lớn của cách mạng: Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ Mặt trời chân lí chói qua tim Hồn tôi là một vườn hoa lá Rất đậm hương và rộn tiếng chim “Từ ấy” là một thời điểm lịch sử đã trực tiếp tác động đến cuộc đời nhà thơ khi được giác ngộ chủ nghĩa Mác – Lênin, một kỷ niệm sâu sắc của người thanh niên yêu nước bắt gặp lí tưởng Cách mạng,Trong buổi ban đầu ấy, những người thanh niên như Tố Hữu dù có nhiệt huyết nhưng vấn chưa tìm được đường đi trong kiếp sống nô lệ, họ bị ngột thở dưới ách thống trị của thực dân phong kiến “băn khoăn đi kiếm lẽ yêu đời”.Chính trong hoàn cảnh đó lí tưởng cộng sản như nắng hạ, như mặt trời xua tan đi những u ám, buồn đau, quét sạch mây mù và đen tối hướng đến cho thanh niên một lẽ sống cao đẹp vì một tương lai tươi sáng của dân tộc. Người thanh niên học sinh Tố Hữu đã đón nhận lí tưởng ấy không chỉ bằng khối óc mà bằng cả con tim, không chỉ bằng nhận thức lí trí mà xuất phát từ tình cảm. Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ Mặt trời chân lí chói qua tim Từ ấy đã làm cho tâm hồn Tố Hữu“ bừng nắng hạ” đó là một luồng ánh sáng mạnh mẽ, rực rỡ của nắng vàng chứa chan hạnh phúc ấm no.Soi tỏ vào những bài thơ sau này ta mới thấy hết được niềm vui sướng của Tố Hữu trước ánh sáng huy hoàng của chân lí. Đời đen tối ta phải tìm ánh sáng Ta đi tới chỉ một đường cách mạng Và đó mới là bản chất của lí tưởng cộng sản đã làm người thanh niên 18 tuổi ấy say mê, ngây ngất trước một điều kì diệu: Mặt trời chân lí chói qua tim Mặt trời chân lí là một hình ảnh ẩn dụ tượng trưng cho lí tưởng của Đảng,của cách mạng, mặt trời của chủ nghĩa xã hội. Tố Hữu với tấm lòng nhiệt thành của mình đã tự hào đón lấy ánh sáng của mặt trời, sẵn sàng hành động cho lí tuởng cách mạng cao đẹp.Bởi lí tưởng đã “chói” vào tim- chính là nơi kết tụ của tình cảm, là nơi kết hợp hài hòa giữa tâm lí và ý thức trí tuệ chỉ thực sự hành động đúng khi có lí tưởng cách mạng, khi có ánh sáng rực rỡ của mặt trời chân lí chiếu vào. Lý tưởng Cách mạng đã làm thay đổi hẳn một con người, một cuộc đời. So sánh để khẳng định một sự biến đổi kì diệu mà lí tưởng Cách mạng đem lại: Xem thêm: Phân tích bài thơ "Đất nước" của Nguyễn Đình Thi và nói lên cảm nghĩ của emHồn tôi là một vườn hoa lá, Rất đậm hương và rộn tiếng chim. Cái giọng điệu rất tỉnh và rất say rạo rực và ngọt lịm hồn ta chủ yếu là cái say người và lịm ngọt của lí tưởng, của niềm hạnh phúc mà lí tưởng đem lại:“hồn” người đã trở thành “vườn hoa”, một vườn xuân đẹp ngào ngạt hương sắc, rộn ràng tiếng chim hót.Ở đây hiện thưc và lãng mạn đã hòa quyện vào nhau tạo nên cái gợi cảm, cái sức sống cho câu thơ. Nếu khổ đầu là một tiếng reo vui phấn khởi thì khổ thứ hai và thứ ba là bản quyết tâm thư của người thanh niên cộng sản nguyện hòa cái tôi nhỏ bé của mình vào cái ta chung rộng lớn của quần chúng nhân dân cần lao.Người đọc thật sự cảm động bởi thái độ chân thành thiết tha đến vồ vập của một nhà thơ vốn xuất thân từ giai cấp tiểu tư sản tự giác và quyết tâm gắn bó vớI mọi người: Tôi buộc hồn tôi với mọi người Để tình trang trải với trăm nơi Để hồn tôi với bao hồn khổ Gần gũi bên nhau thêm mạnh khối đời. “Buộc” và “trang trải”là hai khái niệm hoàn toàn khác nhau nhưng nó đều nằm trong nhận thức mới về lẽ sống của Tố Hữu. “Buộc” là đoàn kết gắn bó, tự nguyện gắn bó đời mình với nhân dân cần lao, với hết thảy nhân dân lao động Việt Nam Để tình trang trải với trăm nơi Xác định vị trí của mình là đứng trong hàng ngũ nhân dân lao động chưa đủ, Tố Hữu còn biểu hiện một tinh thần đoàn kết, tình cảm nồng thắm, chan hòa với nhân dân.Tình yêu người, yêu đời trong Tố Hữu đã nâng lên thành chủ nghĩa nhân đạo cộng sản.Nhà thơ muốn được như Mác: “Vì lẽ sống, hy sinh cho cuộc sống – Đời với Mác là tình cao nghĩa rộng”., mong ước xây dựng một khối đời vững chắc làm nên sức mạnh quần chúng cách mạng.Từ đó Tố Hữu đã thể hiện niềm hãnh diện khi được là một thành viên ruột thịt trong đại gia đình những người nghèo khổ bất hạnh: Tôi đã là con của vạn nhà Là em của vạn kiếp phôi pha Là anh của vạn đầu em nhỏ Không áo cơm cù bấc cù bơ. Tố Hữu nguyện sẽ đứng vào hàng ngũ những người “than bụi, lầy bùn”là lực lượng tiếp nối của “vạn kiếp phôi pha”, là lực lượng ngày mai lớn mạnh của “vạn đầu em nhỏ”,để đấu tranh cho ngày mai tươi sáng.Điệp từ “là” được nhắc đi nhắc lại, nó vang lên một âm hưởng mạnh mẽ lắng đọng trong tâm hồn ta một niềm cảm phục, quý mến người trai trẻ yêu đời, yêu người này. Với một tình cảm cá nhân đằm thắm, trong sáng, “Từ ấy” đã nói một cách thật tự nhiên nhuần nhụy về lí tưởng, về chính trị và thật sự là tiếng hát của một thanh niên, một người cộng sản chân chính luôn tuôn trào trong mình mạch nguồn của lí tưởng cách mạng. Bài thơ “Từ ấy” của Tố Hữu là một bài thơ vừa có tính triết lý sâu sắc, vừa rất gần gũi, bình dị, thân thuộc. Sau mấy chục năm đọc lại, những vần thơ đó vẫn là một câu hỏi thấm thía mà những người cộng sản hôm nay không thể không suy ngẫm một cách nghiêm túc để tự mình tìm ra lời giải đáp thấu đáo. Giữa cái chung và cái riêng, giữa cộng đồng – tập thể và cá nhân, giữa vật chất tầm thường và tinh thần – tư tưởng của người cộng sản. Cả cuộc đời Tố Hữu đã hiến dâng cho tổ quốc, cho Đảng và nhân dân. Khi biết sắp phải đi xa, ông cũng chỉ nghĩ là về một nơi mà ta vẫn gọi là "cõi tạm". Ông mong muốn tiếp tục được hiến dâng: Tạm biệt đời ta yêu quý nhất Còn mấy vần thơ, một nắm tro. Thơ gửi bạn đường. Tro bón đất Sống là cho. Chết cũng là cho. Bởi thế, con người, cuộc đời, sự nghiệp cách mạng và thi ca của Tố Hữu luôn sống mãi trong niềm tin yêu, kính trọng của Đảng và nhân dân.. Nguồn Edufly Xem thêm: Nêu cảm nghĩ về các nhân vật: người đàn bà vùng biển, lão đàn ông độc ác, chị em thằng Phác, người nghệ sĩ nhiếp ảnh
Đề bài: Phân tích bài thơ Từ ấy của Tố Hữu Trong lịch sử văn học cách mạng nước nhà, thật hiếm thấy nhà thơ nào lại có những tác phẩm mang đậm dấu ấn đặc trưng của mỗi giai đoạn lịch sử và đã đi vào lòng người như thơ Tố Hữu trong thế kỷ 20. Tình yêu quê hương, đất nước thiết tha, sâu nặng đã hóa thân vào những vần thơ trữ tình chính trị đạt tới đỉnh cao về nghệ thuật thơ ca cách mạng. Đọc những vần thơ, những bài thơ của Tố Hữu, chúng ta như cảm nhận được một tâm hồn thơ dạt dào cảm xúc, một trái tim nhân hậu, một tấm lòng trung trinh với Đảng, với Tổ Quốc, với nhân dân và tình cảm gắn bó thân thiết keo sơn với đồng bào, đồng chí. “Dù ai thay ngựa giữa dòng Đời ta vẫn ngọn cờ hồng cứ đi Vẫn là ta đó những khi Đầu voi ra trận cứu nguy giống nòi" Bao trùm lên toàn bộ sáng tác thơ của Tố Hữu là vì lý tưởng cách mạng, vì cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, tự do và hạnh phúc cho nhân dân, vì lương tâm, chính nghĩa, công lý và lẽ phải trên đời.. Và một trong những giá trị tiêu biểu của thơ Tố Hữu là tính hướng thiện được biểu lộ vừa thầm kín, tinh tế, vừa sâu sắc, đậm đà qua 6 tập thơ nổi tiếng: Từ ấy, Việt Bắc, Ra trận, Gió lộng, Máu Bài thơ “Từ ấy” được Tố Hữu sáng tác vào tháng 7/1938; nhan đề bài thơ trở thành tên tập thơ đầu của ông. Có thể nói “ Từ ấy” là tiếng hát của người thanh niên yêu nước Việt Nam giác ngộ lí tưởng Mác Lê Nin trong ngày hội lớn của cách mạng: Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ Mặt trời chân lí chói qua tim Hồn tôi là một vườn hoa lá Rất đậm hương và rộn tiếng chim “Từ ấy” là một thời điểm lịch sử đã trực tiếp tác động đến cuộc đời nhà thơ khi được giác ngộ chủ nghĩa Mác – Lênin, một kỷ niệm sâu sắc của người thanh niên yêu nước bắt gặp lí tưởng Cách mạng,Trong buổi ban đầu ấy, những người thanh niên như Tố Hữu dù có nhiệt huyết nhưng vấn chưa tìm được đường đi trong kiếp sống nô lệ, họ bị ngột thở dưới ách thống trị của thực dân phong kiến “băn khoăn đi kiếm lẽ yêu đời”.Chính trong hoàn cảnh đó lí tưởng cộng sản như nắng hạ, như mặt trời xua tan đi những u ám, buồn đau, quét sạch mây mù và đen tối hướng đến cho thanh niên một lẽ sống cao đẹp vì một tương lai tươi sáng của dân tộc. Người thanh niên học sinh Tố Hữu đã đón nhận lí tưởng ấy không chỉ bằng khối óc mà bằng cả con tim, không chỉ bằng nhận thức lí trí mà xuất phát từ tình cảm. Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ Mặt trời chân lí chói qua tim Từ ấy đã làm cho tâm hồn Tố Hữu“ bừng nắng hạ” đó là một luồng ánh sáng mạnh mẽ, rực rỡ của nắng vàng chứa chan hạnh phúc ấm no.Soi tỏ vào những bài thơ sau này ta mới thấy hết được niềm vui sướng của Tố Hữu trước ánh sáng huy hoàng của chân lí. Đời đen tối ta phải tìm ánh sáng Ta đi tới chỉ một đường cách mạng Và đó mới là bản chất của lí tưởng cộng sản đã làm người thanh niên 18 tuổi ấy say mê, ngây ngất trước một điều kì diệu: Mặt trời chân lí chói qua tim Mặt trời chân lí là một hình ảnh ẩn dụ tượng trưng cho lí tưởng của Đảng,của cách mạng, mặt trời của chủ nghĩa xã hội. Tố Hữu với tấm lòng nhiệt thành của mình đã tự hào đón lấy ánh sáng của mặt trời, sẵn sàng hành động cho lí tuởng cách mạng cao đẹp.Bởi lí tưởng đã “chói” vào tim- chính là nơi kết tụ của tình cảm, là nơi kết hợp hài hòa giữa tâm lí và ý thức trí tuệ chỉ thực sự hành động đúng khi có lí tưởng cách mạng, khi có ánh sáng rực rỡ của mặt trời chân lí chiếu vào. Lý tưởng Cách mạng đã làm thay đổi hẳn một con người, một cuộc đời. So sánh để khẳng định một sự biến đổi kì diệu mà lí tưởng Cách mạng đem lại: Xem thêm: Phân tích bài thơ "Đất nước" của Nguyễn Đình Thi và nói lên cảm nghĩ của emHồn tôi là một vườn hoa lá, Rất đậm hương và rộn tiếng chim. Cái giọng điệu rất tỉnh và rất say rạo rực và ngọt lịm hồn ta chủ yếu là cái say người và lịm ngọt của lí tưởng, của niềm hạnh phúc mà lí tưởng đem lại:“hồn” người đã trở thành “vườn hoa”, một vườn xuân đẹp ngào ngạt hương sắc, rộn ràng tiếng chim hót.Ở đây hiện thưc và lãng mạn đã hòa quyện vào nhau tạo nên cái gợi cảm, cái sức sống cho câu thơ. Nếu khổ đầu là một tiếng reo vui phấn khởi thì khổ thứ hai và thứ ba là bản quyết tâm thư của người thanh niên cộng sản nguyện hòa cái tôi nhỏ bé của mình vào cái ta chung rộng lớn của quần chúng nhân dân cần lao.Người đọc thật sự cảm động bởi thái độ chân thành thiết tha đến vồ vập của một nhà thơ vốn xuất thân từ giai cấp tiểu tư sản tự giác và quyết tâm gắn bó vớI mọi người: Tôi buộc hồn tôi với mọi người Để tình trang trải với trăm nơi Để hồn tôi với bao hồn khổ Gần gũi bên nhau thêm mạnh khối đời. “Buộc” và “trang trải”là hai khái niệm hoàn toàn khác nhau nhưng nó đều nằm trong nhận thức mới về lẽ sống của Tố Hữu. “Buộc” là đoàn kết gắn bó, tự nguyện gắn bó đời mình với nhân dân cần lao, với hết thảy nhân dân lao động Việt Nam Để tình trang trải với trăm nơi Xác định vị trí của mình là đứng trong hàng ngũ nhân dân lao động chưa đủ, Tố Hữu còn biểu hiện một tinh thần đoàn kết, tình cảm nồng thắm, chan hòa với nhân dân.Tình yêu người, yêu đời trong Tố Hữu đã nâng lên thành chủ nghĩa nhân đạo cộng sản.Nhà thơ muốn được như Mác: “Vì lẽ sống, hy sinh cho cuộc sống – Đời với Mác là tình cao nghĩa rộng”., mong ước xây dựng một khối đời vững chắc làm nên sức mạnh quần chúng cách mạng.Từ đó Tố Hữu đã thể hiện niềm hãnh diện khi được là một thành viên ruột thịt trong đại gia đình những người nghèo khổ bất hạnh: Tôi đã là con của vạn nhà Là em của vạn kiếp phôi pha Là anh của vạn đầu em nhỏ Không áo cơm cù bấc cù bơ. Tố Hữu nguyện sẽ đứng vào hàng ngũ những người “than bụi, lầy bùn”là lực lượng tiếp nối của “vạn kiếp phôi pha”, là lực lượng ngày mai lớn mạnh của “vạn đầu em nhỏ”,để đấu tranh cho ngày mai tươi sáng.Điệp từ “là” được nhắc đi nhắc lại, nó vang lên một âm hưởng mạnh mẽ lắng đọng trong tâm hồn ta một niềm cảm phục, quý mến người trai trẻ yêu đời, yêu người này. Với một tình cảm cá nhân đằm thắm, trong sáng, “Từ ấy” đã nói một cách thật tự nhiên nhuần nhụy về lí tưởng, về chính trị và thật sự là tiếng hát của một thanh niên, một người cộng sản chân chính luôn tuôn trào trong mình mạch nguồn của lí tưởng cách mạng. Bài thơ “Từ ấy” của Tố Hữu là một bài thơ vừa có tính triết lý sâu sắc, vừa rất gần gũi, bình dị, thân thuộc. Sau mấy chục năm đọc lại, những vần thơ đó vẫn là một câu hỏi thấm thía mà những người cộng sản hôm nay không thể không suy ngẫm một cách nghiêm túc để tự mình tìm ra lời giải đáp thấu đáo. Giữa cái chung và cái riêng, giữa cộng đồng – tập thể và cá nhân, giữa vật chất tầm thường và tinh thần – tư tưởng của người cộng sản. Cả cuộc đời Tố Hữu đã hiến dâng cho tổ quốc, cho Đảng và nhân dân. Khi biết sắp phải đi xa, ông cũng chỉ nghĩ là về một nơi mà ta vẫn gọi là "cõi tạm". Ông mong muốn tiếp tục được hiến dâng: Tạm biệt đời ta yêu quý nhất Còn mấy vần thơ, một nắm tro. Thơ gửi bạn đường. Tro bón đất Sống là cho. Chết cũng là cho. Bởi thế, con người, cuộc đời, sự nghiệp cách mạng và thi ca của Tố Hữu luôn sống mãi trong niềm tin yêu, kính trọng của Đảng và nhân dân.. Nguồn Edufly Xem thêm: Nêu cảm nghĩ về các nhân vật: người đàn bà vùng biển, lão đàn ông độc ác, chị em thằng Phác, người nghệ sĩ nhiếp ảnh
Nhà thơ Tố Hữu có nhiều sáng tác rất hay. Bài thơ Từ ấy là một trong những sáng tác đặc sắc của ông. Khổ thơ đầu tiên thể hiện sự thay đổi lớn trong cuộc đời của tác. Tâm hồn của nhà thơ trở nên bừng sáng như một vườn hoa lá xanh tươi. Để các em có thể phân tích bài thơ Từ ấy khổ 1 hay nhất thì Kho tàng văn mẫu sẽ hướng dẫn các em lập dàn ý phân tích bài thơ Từ ấy khổ 1. Thêm vào đó là cung cấp cho các em 1 bài văn mẫu để tham khảo. I. Lập dàn ý phân tích bài thơ Từ ấy khổ 1 1. Mở bài – Giới thiệu về tác giả Tố Hữu và bài thơ Từ ấy. – Giới thiệu về khổ thơ 1 của bài. 2. Thân bài phân tích bài thơ Từ ấy khổ 1 a. Hai câu đầu – Cột mốc đánh dấu sự thay đổi lớn trong cuộc đời tác giả – Bừng, chói thể hiện ánh sáng rực rỡ của chân lý. b. Hai câu sau – Sự thay đổi lớn trong tâm hồn tác giả. – Tâm hồn nhà thơ như vườn hoa lá rộn ràng sắc hương. 3. Kết luận – Khái quát nội dung khổ thơ và nêu cảm nhận của em về khổ thơ này. Bài viết liên quan: >> Phân tích bài thơ Hầu trời của Tản Đà (Có dàn ý chi tiết) >> Phân tích bài thơ Vội vàng khổ 2 cuẩ Xuân Diệu (Có dàn ý chi tiết) Xem thêm: Trong Hạnh phúc của một tang gia (Số đỏ), Vũ Trọng Phụng viết: "Cái chết kia đã làm cho nhiều người sung sướng lắm”. Hãy chứng tỏ điều đó qua các nhân vật và làm sáng tỏ một thứ "thế thái nhân tình” được xây dựng trên: sự tàn nhẫn và sự dối trá >> Phân tích bài thơ Từ ấy của Tản Đà (Có dàn ý chi tiết) II. Bài làm phân tích bài thơ Từ ấy khổ 1 Nhà thơ Tố Hữu vẫn được biết đến là nhà thơ cách mạng với rất nhiều sáng tác về Đảng, về Bác Hồ và về những người mẹ Việt Nam anh hùng. Thơ của Tố Hữu sử dụng ngôn từ gần gũi lại được viết từ những cảm xúc chân thành nên được nhiều độc giả yêu mến. Bài thơ Từ ấy cũng là một bài thơ được đánh giá cao. Trong đó, khổ thơ đầu tiên nhà thơ đã thể hiện được sự thay đổi lớn trong tâm hồn mình cũng như khẳng định được tài năng sáng tác thông qua cách lựa chọn từ ngữ và lựa chọn hình ảnh so sánh. Đặt tiêu đề bài thơ là Từ ấy, người đọc cũng có thể hiệu được dụng ý của tác giả đang muốn nói đến một cột mốc thời gian nào đó. Nếu xét theo thời gian ra đời bài thơ thì có thể nhận biết rằng từ ấy chính là thời điểm nhà thơ được giác ngộ lý tưởng cộng sản, được đứng trong hàng ngũ của Đảng. Đối với thanh niên yêu nước thế hệ Tố Hữu, được đứng dưới ngọn cờ Đảng mà tuyên thệ là một niềm hạnh phúc vô cùng to lớn mà không gì có thể so sánh được. Đối với Tố Hữu, cột mốc này có ý nghĩa đặc biệt bởi nó làm thay đổi cuộc đời ông. Nhà thơ đã viết:Xem thêm: Anh (chị) hiểu như thế nào về quan niệm sau đây của Vũ Trọng Phụng: “Các... thực ở đời”. Phân tích “Hạnh phúc một tang gia’’ để chứng minh cho quan điểm đó Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ Mặt trời chân lý chói qua tim Hồn tôi là một vườn hoa lá Rất đậm hương và rộn tiếng chim Phân tích bài thơ Từ ấy khổ 1 Tầm quan trọng của cột mốc từ ấy thể hiện một cách rõ nét ngay từ câu thơ mở đầu. Hình ảnh bừng nắng hạ mang đến một sự tươi sang cho không gian. Nhưng ở đây, nhà thơ không diễn tả cảnh vật không gia hiện hữu bên ngoài mà ông đang miêu tả khung cảnh ở bên trong tâm hồn mình. Được đứng trong hàng ngũ của Đảng giống như được một ánh nắng chiếu vàng khiến cho con người trở nên bừng sáng rực rỡ. Nó khiến con người có thể nhìn thấy đường đi đúng đắn, có thể nhìn thấy chân lý của cuộc đời. Chỉ có ánh sáng của chân lý mới đủ sức chiếu sáng qua tim của con người. Nó mang đến cho con người một sức sống mới, cứ như là đang được sống một cuộc đời mới. Bừng và chói đều là hai động từ mạnh diễn tả được sự thay đổi lớn lao bên trong tác giả. Tiếp đến hai câu thơ sau, nhà thơ đã miêu tả khu vườn của tâm hồn mình. Ông đã ví tâm hồn mình giống như một vườn hoa lá đầy cỏ cây và đầy hương sắc. Tâm hồn con người vốn là thứ vô hình không có hình dạng, không thể nhìn thấy nhưng nhà thơ lại đem nó ra để so sánh với một vườn cây. Làm như vậy là để người đọc có thể hiểu và cảm nhận rõ hơn về niềm vui sướng đang trào dâng trong lòng tác giả. Ông quá hạnh phúc nên muốn đem hết tâm hồn mình ra mà phô bầy cho người khác nhìn thấy. Còn gì đẹp hơn khi ví tâm hồn như một vườn hoa lá đậm hương và rộn tiếng chim. Một khu vườn ngập tràn màu sắc và âm thanh là một khu vườn đẹp. Vậy nên có thể nói nhà thơ có một tâm hồn rất đẹp.Xem thêm: Đoạn văn nghị luận xã hội: Kỳ quan vĩ đại nhất là trái tim người mẹ Khổ thơ 1 với những nét nghệ thuật đặc sắc như sử dụng từ đắt giá, sử dụng biện pháp nghệ thuật so sánh đã góp phần tạo nên sự thành công của cả bài thơ. Chỉ với riêng khổ thơ này thôi cũng đủ để cho người đọc thấy được tài năng của Tố Hữu. Như vậy là Kho tàng văn mẫu đã hướng dẫn các em lập dàn ý phân tích bài thơ Từ ấy khổ 1 và cung cấp thêm bài văn mẫu cho các em tham khảo. Chúc các em có những giờ học Văn đầy thú vị. Thu Thủy
Poet To Huu has many very good compositions. The poem Tu That is one of his unique compositions. The first stanza represents a major change in the author's life. The poet's soul becomes bright like a garden of fresh green flowers and leaves. In order for you to be able to analyze the poem Tu That stanza 1 best, the Sample Literature Treasury will guide you in making an outline to analyze the poem From That stanza 1. In addition, we will provide you with a sample essay. for reference. I. Create an outline to analyze the poem From That, stanza 1 1. Open the lesson – Introducing author To Huu and the poem Tu. – Introduction to stanza 1 of the article. 2. Body analysis of the poem From That, stanza 1 a. The first two sentences – A milestone marking a big change in the author's life – Bright and dazzling represent the brilliant light of truth. b. Two sentences later – A big change in the author's soul. – A poet's soul is like a garden of flowers and leaves bustling with color and fragrance. 3. Conclusion – Overview of the poem's content and state your feelings about this poem. Related articles: >> Analysis of the poem Almost Heaven by Tan Da (With detailed outline) >> Analysis of the poem Hurry stanza 2 by Xuan Dieu (With detailed outline) See more: In The Happiness of a Mourning Family (Red Number), Vu Trong Phung wrote: "That death has made many people very happy." Let's demonstrate that through the characters and clarify one thing." psychopath" is built on: cruelty and lies >> Analysis of the poem Tu That by Tan Da (With detailed outline) II. Essay analyzing the poem Tu That stanza 1 Poet To Huu is still known as a revolutionary poet with many works about the Party, Uncle Ho and heroic Vietnamese mothers. To Huu's poetry uses familiar language and is written from sincere emotions, so it is loved by many readers. The poem Tu That is also a highly appreciated poem. In the first stanza, the poet shows a great change in his soul as well as affirms his creative talent through his choice of words and comparative images. By naming the poem "That word", the reader can also understand the author's intention to talk about a certain milestone in time. If we consider the time of the poem's birth, it can be seen that that was the time when the poet was enlightened to the communist ideal and stood in the ranks of the Party. For young patriots of To Huu's generation, standing under the Party flag and taking the oath is an extremely great happiness that nothing can compare to. For To Huu, this milestone has special meaning because it changed his life. The poet wrote: See more: How do you understand the following concept of Vu Trong Phung: "The... real things in life". Analyze "Happiness of a bereaved family" to prove that point of view From then on, I was filled with summer sunshine The sun of truth shines through the heart My soul is a flower garden Very fragrant and full of bird sounds Analysis of the poem Tu That stanza 1 The importance of that milestone is clearly shown right from the opening verse. The image of summer sunshine brings a freshness to the space. But here, the poet is not describing the scene that exists outside, but he is describing the scene inside his soul. Standing in the Party's ranks is like being exposed to golden sunlight, making people shine brightly. It enables people to see the right path, to see the truth of life. Only the light of truth is enough to shine through the human heart. It gives people a new vitality, as if they are living a new life. Bright and dazzling are both strong verbs that express a great change within the author. In the following two verses, the poet describes the garden of his soul. He compared his soul to a flower garden full of plants and scents. The human soul is inherently invisible, shapeless, and invisible, but the poet compares it to a garden. Doing so is so that readers can better understand and feel the joy welling up in the author's heart. He was so happy that he wanted to put all his soul out and show it off for others to see. There's nothing more beautiful than comparing the soul to a garden of flowers and leaves filled with scent and filled with bird sounds. A garden filled with color and sound is a beautiful garden. So it can be said that the poet has a very beautiful soul. See more: Social commentary paragraph: The greatest wonder is the mother's heart Stanza 1 with its unique artistic features such as the use of expensive words and the use of comparative artistic devices has contributed to the success of the entire poem. This stanza alone is enough to show readers To Huu's talent. Thus, the Treasury of Sample Literature has guided students in making an outline for analyzing the poem Tu That, stanza 1 and provided additional sample essays for their reference. Wishing you all have interesting Literature lessons. Thu Thuy
Đề bài: Phân tích bài thơ Tự Tình 2 của Hồ Xuân Hương Bài làm Hồ Xuân Hương là một nữ thi sĩ xuất sắc với những đóng góp đáng kể vào nền thơ ca dân tộc. Sự nghiệp văn chương của bà mang phong cách thơ độc đáo với chủ yếu những sáng tác tả cảnh ngụ tình. Bà còn được biết đến là một nhà thơ chuyên viết về đề tài thân phận của người phụ nữ trong xã hội cũ. Bài thơ Tự Tình II chính là một trong những sáng tác đó. Mở đầu bài thơ Tự Tình 2 chính là hình ảnh người phụ nữ trong đêm khuya: “Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn Trơ cái hồng nhan với nước non” Hồ Xuân Hương đã gợi mở cho người đọc thấy ngay được thời gian nghệ thuật đó chính là vào lúc đêm khuya. Đây là thời điểm mà con người ta nếu như không ngủ được thì trong lòng ắt hẳn mang những nỗi suy tư, đang ở trạng thái cảm xúc khó miêu tả nhất. Trong không gian đó thì “văng vẳng” đâu đây tiếng trống canh. Chính vì đêm khuya thanh vắng nên âm thanh trống canh từ xa mới vọng lại rõ ràng đến vậy. Cũng trong thời điểm ấy thì có một người phụ nữ vẫn còn thao thức. Ắt hẳn người này rất xinh đẹp bởi Hồ Xuân hương đã gọi tên bằng từ “hồng nhan”. Dù cho có nhan sắc mặn mà nhưng lại “trơ với nước non”, chẳng có ai nhìn nhận, chẳng có ai có thể thấy được vẻ đẹp ấy. Trong quãng đời rộng lớn, trong không gian vắng lặng, u tịch thì người phụ nữ ấy nhận ra được thân phận của mình, nhỏ bé giữa thiên nhiên, sự cô đơn, lẻ loi và tiếng trống gầm canh như càng thêm tô điểm cho sự cô đơn ấy, khiến người “hồng nhan” càng thêm buồn, trống vắng. Chính vì tâm trạng ấy nên người phụ nữ đó mới tìm đến rượu để mong giải nỗi sầu:Xem thêm: Bài văn lạ về vai trò của gia đình Phân tích bài thơ Tự Tình 2 “Chén rượu đưa hương say lại tỉnh Vầng trăng xế bóng khuyết chưa tròn” Những tưởng có thể mượn rượu để giải nỗi sầu, để dốc bầu tâm sự và có thể đi vào giấc ngủ quên đi những muộn phiền. Nhưng trớ trêu thay người muốn say để quên đi thì lại chẳng thể say mãi được mà lúc tỉnh thì lại càng thêm buồn tủi. Mượn rượu giải sầu nhưng chẳng có nỗi sầu nào biến mất mà chỉ thấy vầng trăng “bóng khuyết chưa tròn”. Hồ Xuân Hương đã mượn hình ảnh trăng khuyết để nói lên số phận hẩm hiu, chưa được hưởng hạnh phúc trọn vẹn trong khi tuổi xuân thì có hạn. Càng tỉnh táo thì dường như sự nhận thức về hạnh phúc của bản thân mình càng trở nên rõ ràng. Qua câu thơ cũng thể hiện khát vọng được hạnh phúc, được thoát khỏi cảnh sầu lẻ bóng. Nhìn nhận được thực tại tàn khốc ấy nhà thơ như muốn: “Xiên ngang mặt đất rêu từng đám Đâm tạc chân mây đá mấy hòn” Nhà thơ sử dụng những động từ mạnh “xiên ngang”, “đâm toạc” để bày tỏ sự bộc phát tâm trạng, sự bức bối, uất ức của người “hồng nhan”. Hình ảnh những đám rêu xanh cũng mang theo những ẩn ý riêng của tác giả. Rêu vốn là một loại cây nhỏ bé nhưng lại chứa đựng sức sống mạnh mẽ, dù cho ở điều kiện sống như thế nào chăng nữa thì nó cũng cố gắng vươn lên, sống tươi tốt. “Xiên ngang mặt đất” thể hiện sự phản kháng quyết liệt, ham muốn xuống mãnh liệt của đám rêu hay của chính nhân vật trữ tình đang khao khát một cuộc sống tốt đẹp hơn. Bên cạnh đó, đối lập với sự rộng lớn của bầu trời chính là hình ảnh những hòn đá nhỏ. Hòn đá tuy nhỏ bé nhưng muốn bứt phá, rời khỏi mặt đất để có thể đến với bầu trời cao xanh kia, để có thể làm một hành động phi thường đó là “đâm toạc chân mây”. Tuy nhiên, khát khao là vậy thì giữa thiên nhiên với con người cũng có sự đồng điệu nhất định, hòn đá dù có được ném lên cao, rời khỏi mặt đất nhưng vẫn sẽ phải trở lại nơi nó đã rời khỏi và con người cũng vậy, dù có vùng vẫy, gắng gượng nhưng cũng không thể thoát khỏi thực tại. Đặc biệt khi đặt vào hoàn cảnh kiếp làm vợ lẽ của người ta lại càng thấm thía nỗi buồn của bà:Xem thêm: Nghị luận xã hội về tiền bạc và hạnh phúc “Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại Mảnh tình san sẻ tí con con” Mùa xuân của thiên nhiên vốn tuần hoàn nhưng với con người lại hữu hạn. Đối với một người phụ nữ thì tuổi xuân chẳng hề dài mà một khi đã trôi đi thì chẳng bao giờ có thể lấy lại được. Đáng buồn hơn là có rất nhiều người phụ nữ có thân phận hẩm hiu, bất hạnh, cả tuổi xuân sống trong cảnh cô đơn, lẻ loi chẳng lúc nào có được hạnh phúc trọn vẹn. Chính vì thế thi sĩ đã sử dụng từ “ngán” để bày tỏ tâm trạng của mình lúc bấy giờ. Mảnh tình vốn đã nhỏ nhoi rồi ấy vậy mà lại phải san sẻ, chia nhỏ ra chứ không được hưởng trọn vẹn, không được đong đầy hạnh phúc. Qua đó ta thấy bài thơ Tự Tình quả thực là một bài thơ hay về đề tài thân phận của người phụ nữ trong xã hội cũ. Nhà thơ đã cất lên tiếng lòng của mình, thay những người phụ nữ nói lên nỗi niềm, khát vọng được yêu thương, được hưởng hạnh phúc trọn vẹn. Loan Trương
Topic: Analysis of the poem Tu Tinh 2 by Ho Xuan Huong Assignment Ho Xuan Huong is an excellent female poet with significant contributions to national poetry. Her literary career has a unique poetic style with mainly works depicting love scenes. She is also known as a poet who specializes in writing about the status of women in the old society. The poem Self-Love II is one of those compositions. The opening poem Tu Tinh 2 is the image of a woman in the dead of night: “Late at night, drums and drums can be heard playing Inert to the beauty of young water" Ho Xuan Huong suggested to readers that the artistic time was late at night. This is the time when people, if they cannot sleep, must have thoughts in their hearts and are in the most difficult to describe emotional state. In that space, the sound of soup drums "echoed" somewhere. It was because the night was so quiet that the sound of the drum from afar echoed so clearly. At the same time, there was a woman still awake. This person must be very beautiful because Ho Xuan Huong called her name by the word "red face". Even though she has a beautiful beauty, she is "inert with water", no one recognizes her, no one can see her beauty. In a vast life, in a quiet, desolate space, that woman realized her fate, small in nature, loneliness, isolation and the roar of drums seemed to further adorn her beauty. That loneliness makes the "red-faced" person even more sad and empty. Because of that mood, that woman turned to alcohol to relieve her sadness: See more: Strange essay about the role of family Analyze the poem Tu Tinh 2 “A cup of wine brings intoxication and wakes up The waning moon is not yet full" I thought I could borrow alcohol to relieve my sadness, to pour out my thoughts and to be able to fall asleep and forget my troubles. But the irony is that people who want to get drunk to forget cannot stay drunk forever and when they wake up they feel even more sad. Borrowing wine to relieve sadness, but no sadness disappears, only the moon "not yet full". Ho Xuan Huong borrowed the image of the crescent moon to express a sad fate, not yet enjoying complete happiness while youth is limited. The more alert I become, the clearer my awareness of my own happiness seems to become. The poem also shows the desire to be happy, to escape from sadness and loneliness. Recognizing that cruel reality, the poet seems to want: “Across the ground there are clusters of moss Stab and sculpt the rattan's feet and kick a few stones." The poet uses strong verbs "slanted" and "pierced" to express the outburst of mood, frustration, and resentment of the "red-faced" person. The image of green moss also carries the author's own hidden meanings. Moss is inherently a small plant but contains strong vitality, no matter what the living conditions are, it still tries to grow and live lushly. “Slanted across the ground” shows the fierce resistance, the strong desire to descend, of the moss or of the lyrical character who is longing for a better life. Besides, contrasting with the vastness of the sky is the image of small rocks. Although the stone is small, it wants to break through and leave the ground so that it can reach that high blue sky, so that it can do the extraordinary act of "piercing the base of the clouds". However, such is the desire, there is a certain harmony between nature and humans. Even if a stone is thrown high and leaves the ground, it will still have to return to the place where it left off, and humans will too. So, no matter how much I struggle and try, I cannot escape reality. Especially when placed in the situation of being a concubine, her sadness becomes even more poignant: See more: Social discussion about money and happiness “I'm bored of spring again and again A piece of love to share a little bit" Nature's spring is cyclical, but for humans, it is finite. For a woman, youth is not long and once gone, it can never be regained. What's even sadder is that there are many women who have sad, unhappy lives, and spend their entire youth living in loneliness and isolation, never being completely happy. That's why the poet used the word "bored" to express his mood at that time. The piece of love is inherently small, but it has to be shared and divided, but it cannot be fully enjoyed or filled with happiness. Through this we see that the poem Tu Tinh is indeed a good poem on the topic of women's fate in the old society. The poet spoke his heart out, speaking on behalf of women of their feelings and desires to be loved and enjoy complete happiness. Loan Truong
Đề bài: Phân tích bài thơ Tự tình của Hồ Xuân Hương Hồ Xuân Hương là nhà thơ lớn của dân tộc. Tuy sáng tác của bà để lại không nhiều, chủ yếu là những bài thơ Nôm truyền tụng và tập thơ chữ Hán Lưu Hương kí, song bà đã khẳng định được vị trí của mình trên thi đàn của văn học Việt Nam với một phong cách thơ vô cùng độc đáo. Chính vì vậy mà nhiều nhà nghiên cứu trong và ngoài nước đã tập trung đi sâu vào nghiên cứu về sự đóng góp của bà cho thơ ca trung đại Việt Nam. Hoàng Hữu Yên cho rằng: Thơ Hồ Xuân Hương là rực rỡ nhất; Xuân Diệu lại đánh giá Hồ Xuân Hương như là một vị chúa thơ Nôm (…) Xuân Hương dùng thể thơ Đường luật thế mà ta không chút nào nghĩ rằng đó là một điệu thơ nhập nội, thơ Xuân Hương cứ nôm na bình dân tự nhiên (…) Xuân Hương thật xứng đáng là bà chúa thơ Nôm. Trước hết ta tìm hiểu nhan đề của bài thơ Tự tình. Tự tình ở đây là tình cảm tự bộc lộ ra, đó chính là tâm trạng bộc bạch của chính người trong cuộc, đó là lời của tâm hồn, lời của con tim khao khát hạnh phúc cháy bỏng, đó là tiếng nói phẫn uất đau đớn xót xa… Đọc Xuân Hương thi tập ta thấy trong đó có một con người luôn luôn căm phẫn, luôn luôn phẫn nộ đối với chế độ phong kiến thối nát đương thời, đồng thời trong thơ của bà còn luôn luôn ca ngợi bênh vực cho người phụ nữ trong xã hội xưa. Nhưng bên cạnh đó trong thơ của nữ sĩ Hồ Xuân Hương luôn hiện lên một tâm trạng khao khát hạnh phúc, muốn bộc lộ cái tôi của mình. Cái tôi đó có lúc khao khát mãnh liệt nhưng cũng có lúc cô đơn uất hận xót xa, bế tắc bấp bênh, chới với giữa dòng đời. Như trên đã nói, Tự tình là bài thơ Nôm được làm theo lối luật Đường. Bài thơ gồm 56 chữ, 8 câu chia thành 4 phần đề, thực, luận, kết, với niêm luật chặt chẽ, hàm súc mà cô đọng, lời ít mà ý nhiều. Hai câu đề của bài thơ hằn lên một nỗi niềm vừa cô quạnh, vừa bất bình ngao ngán cho một thân phận thiệt thòi quá lớn. Tiếng gà văng vẳng gáy trên bom Oán hận trông ra khắp mọi chòm. Thông thường câu thơ đầu tiên của bài thơ thất ngôn bát cú có nhiệm vụ mở cửa thấy núi (Khai môn kiến sơn). Câu thơ mở đầu cho ta thấy phần nào chủ đề của bài thơ. Câu thơ đầu của bài thư này thoạt đầu dường như ta chưa thấy gì về sự báo hiệu cho chủ đề của nó. Nó chỉ là dấu hiệu của thời gian (tiếng gà văng vẳng gáy trên bom) mà ta thường thấy trong thơ ca xưa: Gió đưa cành trúc la đà Tiếng chuông Trấn Vũ canh gà Thọ Xương. Hay tiếng gà chuyển canh trong thơ Bác: Gà gáy một lần đêm chửa tan Chòm sao đưa nguyệt vượt lên ngàn. Nhưng đằng sau cái tiếng gà gáy sáng văng vẳng áy ẩn sau một tâm trạng xót xa, buồn bã, cô đơn. Lúc này con người đã tình giấc đối diện với chính mình. Tiếng gà như một âm thanh chát chúa dội vào tâm trạng cô đơn của nữ sĩ khiến cho bà cất lên những lời đầy oán hận: Oán hận trông ra khắp mọi chòm. Hai câu thơ trên đã cho a thấy được phần nào tâm trạng đắng cay chua xót của nhà thơ. Nỗi bất hạnh đó còn được thể hiện sâu sắc hơn ở những câu thơ sau. Hai câu thực nhà thơ đã diễn tả nỗi uất ức xót xa như chìm sâu vào trong tâm hồn nhà thơ đầy bất hạnh: Mõ thảm không khua mà cũng cốc Chuông sầu không đánh cớ sao om. Xem thêm: Phân tích những vẻ đẹp khác nhau của các thế hệ người dân Tây Nguyên thời kháng chiến chống Mĩ trong tác phẩm Rừng xà nu của Nguyễn Trung ThànhKhi phân tích hai câu thơ này có nhà nghiên cứu đã cho rằng ở đây Hồ Xuân Hương dùng biện pháp tu từ – mượn hình ảnh khách quan để vận vào mình để diễn tả nỗi giận hờn khó kìm lại được. Ở đây nhà thơ không chỉ mượn hình ảnh khách quan để vận vào mình mà chủ yếu nhằm lột tả đau đớn xót xa bế tắc của mình. Chuông sầu, mõ thảm là những thứ gợi lên cảm giác buồn đau cô đơn lạc lõng. Nhưng ở đây làm gì có khua có đánh thế mà nó vẫn vọng ra những tiếng nghe khô khốc thảm đạm làm sao. Vậy đó là những tiếng gì? Đó là tiếng của nỗi lòng, tiếng của sự bất hạnh giữa dòng đời. Cốc diễn tả âm thanh hay diễn tả nỗi lòng? Nghe nó chát chúa khô khốc ảm đạm làm sao! Tiếng chuông chùa không ngân lên vang vọng thành hơi mà vọng lại một tiếng nghe ảm đạm làm sao? Với từ om tác giả đã thể hiện rõ sự bế tắc xót xa trước cuộc đời đen bạc, bất công. Như vậy qua bốn câu thơ đầu ta đã hiểu rõ được sự phẫn uất bất hạnh xót xa bế tắc trong cuộc đời của nữ sĩ tài hoa. Sự bất hạnh đó phần nào được lí giải ở hai câu luận của bài: Trước nghe những tiếng thêm rầu rỉ Sau giận vì chuyên để mõm mòm. Hoá ra sự bất hạnh của bà chúa thơ Nôm là những tiếng nghe rầu rĩ. Đó là tiếng gì vậy? – Lời đồn đại, chuyện đơn sai chẳng? – Miệng thế gian biết đâu mà lường! Nhưng làm sao tránh khỏi? Những chuyện chẳng đâu vào đâu mà buồn phiền cứ dồn ập đến. Nói lên điều này chúng ta lại càng cảm thông hơn cho con người chịu nhiều bất hạnh thua thiệt hay xã hội xưa. Coi xã hội tàn nhẫn vô lương tâm đã vùi lấp con người. Hai tiếng thêm rầu rĩ nói lên sự chua cay chát chúa đó. Từ chuyện nhân thế chuyển về chuyển riêng tư sau giận vì cái duyên mõm mòm cũng không phải tại mình mà duyên phận cứ nổi nênh, bạc bẽo: Cảnh quá lứa lỡ thì chua chát biết bao! Qua sáu câu thơ trên phần nào ta đã thấy được sự bất hạnh trong cuộc đời, nỗi chua cay thất vọng chán thường, ta hiểu được phần nào nguyên nhân gây nên những bất hạnh xót xa đó. Tất cả những cái đó ta có cảm tưởng như Xuân Hương không đứng vững nổi trước sóng gió xô đẩy của cuộc đời. Nhưng không, Hồ Xuân Hương vẫn hiên nang thách thức với một tư thế vô cùng ngạo nghễ. Tài tử văn nhân ai đó tá Thân này đâu đã chịu già tom. Đó mới đúng là Hồ Xuân Hương, mới đúng là con người luôn luôn đấu tranh cho mọi bất công ngang trái ở đời. Trong thơ Hồ Xuân Hương ta đã từng bắt gặp cá tính đó: Khi chế giễu tên bại tướng Ví đây đổi phận làm trai được Thì sự anh hùng há bây nhiêu. Khi phủ định một luật lệ bất công Quản bao miệng thế đời chênh lệch Không có nhưng mà có mới ngoan. Có khi lại tự khẳng định một cách mạnh mẽ: Giơ tay với thử trời cao thấp Xoạc cảng đo xem đất ngắn dài. Đó là những lời trách cứ, thách thức với tư thế đối diện với mọi dư luận, mọi thế lực. Chính lòng tự tin đó đã làm nên tính cách sắc sảo độc đáo của cái tôi trong thơ Hồ Xuân Hương. Cái tôi đó dù đau đớn bất hạnh đến đâu vẫn chiến đấu thách thức đến cùng chống lại mọi dư luận bất công của xã hội. Đọc thơ Hồ Xuân Hương ta cảm nhận sự bất hạnh cay đắng cho thân phận nữ sĩ đến đâu thì ta lại càng cảm phục trân trọng sự đấu tranh cho quyền được sống hạnh phúc chính đàng của con người đến đó. Bài thơ Tự tình chính là nét tiêu biểu cho hồn thơ trữ tình của Xuân Hương. Nguồn Edufly Xem thêm: Đoạn thơ thứ hai bài thơ Tây Tiến mở ra một thế giới khác với những vẻ đẹp của con người về thiên nhiên miền Tây khác với đoạn thơ thứ nhất. Hãy phân tích.
Đề bài: Phân tích bài thơ Tự tình của Hồ Xuân Hương Hồ Xuân Hương là nhà thơ lớn của dân tộc. Tuy sáng tác của bà để lại không nhiều, chủ yếu là những bài thơ Nôm truyền tụng và tập thơ chữ Hán Lưu Hương kí, song bà đã khẳng định được vị trí của mình trên thi đàn của văn học Việt Nam với một phong cách thơ vô cùng độc đáo. Chính vì vậy mà nhiều nhà nghiên cứu trong và ngoài nước đã tập trung đi sâu vào nghiên cứu về sự đóng góp của bà cho thơ ca trung đại Việt Nam. Hoàng Hữu Yên cho rằng: Thơ Hồ Xuân Hương là rực rỡ nhất; Xuân Diệu lại đánh giá Hồ Xuân Hương như là một vị chúa thơ Nôm (…) Xuân Hương dùng thể thơ Đường luật thế mà ta không chút nào nghĩ rằng đó là một điệu thơ nhập nội, thơ Xuân Hương cứ nôm na bình dân tự nhiên (…) Xuân Hương thật xứng đáng là bà chúa thơ Nôm. Trước hết ta tìm hiểu nhan đề của bài thơ Tự tình. Tự tình ở đây là tình cảm tự bộc lộ ra, đó chính là tâm trạng bộc bạch của chính người trong cuộc, đó là lời của tâm hồn, lời của con tim khao khát hạnh phúc cháy bỏng, đó là tiếng nói phẫn uất đau đớn xót xa… Đọc Xuân Hương thi tập ta thấy trong đó có một con người luôn luôn căm phẫn, luôn luôn phẫn nộ đối với chế độ phong kiến thối nát đương thời, đồng thời trong thơ của bà còn luôn luôn ca ngợi bênh vực cho người phụ nữ trong xã hội xưa. Nhưng bên cạnh đó trong thơ của nữ sĩ Hồ Xuân Hương luôn hiện lên một tâm trạng khao khát hạnh phúc, muốn bộc lộ cái tôi của mình. Cái tôi đó có lúc khao khát mãnh liệt nhưng cũng có lúc cô đơn uất hận xót xa, bế tắc bấp bênh, chới với giữa dòng đời. Như trên đã nói, Tự tình là bài thơ Nôm được làm theo lối luật Đường. Bài thơ gồm 56 chữ, 8 câu chia thành 4 phần đề, thực, luận, kết, với niêm luật chặt chẽ, hàm súc mà cô đọng, lời ít mà ý nhiều. Hai câu đề của bài thơ hằn lên một nỗi niềm vừa cô quạnh, vừa bất bình ngao ngán cho một thân phận thiệt thòi quá lớn. Tiếng gà văng vẳng gáy trên bom Oán hận trông ra khắp mọi chòm. Thông thường câu thơ đầu tiên của bài thơ thất ngôn bát cú có nhiệm vụ mở cửa thấy núi (Khai môn kiến sơn). Câu thơ mở đầu cho ta thấy phần nào chủ đề của bài thơ. Câu thơ đầu của bài thư này thoạt đầu dường như ta chưa thấy gì về sự báo hiệu cho chủ đề của nó. Nó chỉ là dấu hiệu của thời gian (tiếng gà văng vẳng gáy trên bom) mà ta thường thấy trong thơ ca xưa: Gió đưa cành trúc la đà Tiếng chuông Trấn Vũ canh gà Thọ Xương. Hay tiếng gà chuyển canh trong thơ Bác: Gà gáy một lần đêm chửa tan Chòm sao đưa nguyệt vượt lên ngàn. Nhưng đằng sau cái tiếng gà gáy sáng văng vẳng áy ẩn sau một tâm trạng xót xa, buồn bã, cô đơn. Lúc này con người đã tình giấc đối diện với chính mình. Tiếng gà như một âm thanh chát chúa dội vào tâm trạng cô đơn của nữ sĩ khiến cho bà cất lên những lời đầy oán hận: Oán hận trông ra khắp mọi chòm. Hai câu thơ trên đã cho a thấy được phần nào tâm trạng đắng cay chua xót của nhà thơ. Nỗi bất hạnh đó còn được thể hiện sâu sắc hơn ở những câu thơ sau. Hai câu thực nhà thơ đã diễn tả nỗi uất ức xót xa như chìm sâu vào trong tâm hồn nhà thơ đầy bất hạnh: Mõ thảm không khua mà cũng cốc Chuông sầu không đánh cớ sao om. Xem thêm: Phân tích những vẻ đẹp khác nhau của các thế hệ người dân Tây Nguyên thời kháng chiến chống Mĩ trong tác phẩm Rừng xà nu của Nguyễn Trung ThànhKhi phân tích hai câu thơ này có nhà nghiên cứu đã cho rằng ở đây Hồ Xuân Hương dùng biện pháp tu từ – mượn hình ảnh khách quan để vận vào mình để diễn tả nỗi giận hờn khó kìm lại được. Ở đây nhà thơ không chỉ mượn hình ảnh khách quan để vận vào mình mà chủ yếu nhằm lột tả đau đớn xót xa bế tắc của mình. Chuông sầu, mõ thảm là những thứ gợi lên cảm giác buồn đau cô đơn lạc lõng. Nhưng ở đây làm gì có khua có đánh thế mà nó vẫn vọng ra những tiếng nghe khô khốc thảm đạm làm sao. Vậy đó là những tiếng gì? Đó là tiếng của nỗi lòng, tiếng của sự bất hạnh giữa dòng đời. Cốc diễn tả âm thanh hay diễn tả nỗi lòng? Nghe nó chát chúa khô khốc ảm đạm làm sao! Tiếng chuông chùa không ngân lên vang vọng thành hơi mà vọng lại một tiếng nghe ảm đạm làm sao? Với từ om tác giả đã thể hiện rõ sự bế tắc xót xa trước cuộc đời đen bạc, bất công. Như vậy qua bốn câu thơ đầu ta đã hiểu rõ được sự phẫn uất bất hạnh xót xa bế tắc trong cuộc đời của nữ sĩ tài hoa. Sự bất hạnh đó phần nào được lí giải ở hai câu luận của bài: Trước nghe những tiếng thêm rầu rỉ Sau giận vì chuyên để mõm mòm. Hoá ra sự bất hạnh của bà chúa thơ Nôm là những tiếng nghe rầu rĩ. Đó là tiếng gì vậy? – Lời đồn đại, chuyện đơn sai chẳng? – Miệng thế gian biết đâu mà lường! Nhưng làm sao tránh khỏi? Những chuyện chẳng đâu vào đâu mà buồn phiền cứ dồn ập đến. Nói lên điều này chúng ta lại càng cảm thông hơn cho con người chịu nhiều bất hạnh thua thiệt hay xã hội xưa. Coi xã hội tàn nhẫn vô lương tâm đã vùi lấp con người. Hai tiếng thêm rầu rĩ nói lên sự chua cay chát chúa đó. Từ chuyện nhân thế chuyển về chuyển riêng tư sau giận vì cái duyên mõm mòm cũng không phải tại mình mà duyên phận cứ nổi nênh, bạc bẽo: Cảnh quá lứa lỡ thì chua chát biết bao! Qua sáu câu thơ trên phần nào ta đã thấy được sự bất hạnh trong cuộc đời, nỗi chua cay thất vọng chán thường, ta hiểu được phần nào nguyên nhân gây nên những bất hạnh xót xa đó. Tất cả những cái đó ta có cảm tưởng như Xuân Hương không đứng vững nổi trước sóng gió xô đẩy của cuộc đời. Nhưng không, Hồ Xuân Hương vẫn hiên nang thách thức với một tư thế vô cùng ngạo nghễ. Tài tử văn nhân ai đó tá Thân này đâu đã chịu già tom. Đó mới đúng là Hồ Xuân Hương, mới đúng là con người luôn luôn đấu tranh cho mọi bất công ngang trái ở đời. Trong thơ Hồ Xuân Hương ta đã từng bắt gặp cá tính đó: Khi chế giễu tên bại tướng Ví đây đổi phận làm trai được Thì sự anh hùng há bây nhiêu. Khi phủ định một luật lệ bất công Quản bao miệng thế đời chênh lệch Không có nhưng mà có mới ngoan. Có khi lại tự khẳng định một cách mạnh mẽ: Giơ tay với thử trời cao thấp Xoạc cảng đo xem đất ngắn dài. Đó là những lời trách cứ, thách thức với tư thế đối diện với mọi dư luận, mọi thế lực. Chính lòng tự tin đó đã làm nên tính cách sắc sảo độc đáo của cái tôi trong thơ Hồ Xuân Hương. Cái tôi đó dù đau đớn bất hạnh đến đâu vẫn chiến đấu thách thức đến cùng chống lại mọi dư luận bất công của xã hội. Đọc thơ Hồ Xuân Hương ta cảm nhận sự bất hạnh cay đắng cho thân phận nữ sĩ đến đâu thì ta lại càng cảm phục trân trọng sự đấu tranh cho quyền được sống hạnh phúc chính đàng của con người đến đó. Bài thơ Tự tình chính là nét tiêu biểu cho hồn thơ trữ tình của Xuân Hương. Nguồn Edufly Xem thêm: Đoạn thơ thứ hai bài thơ Tây Tiến mở ra một thế giới khác với những vẻ đẹp của con người về thiên nhiên miền Tây khác với đoạn thơ thứ nhất. Hãy phân tích.
Phân tích bài thơ Tự Tình của Hồ Xuân Hương Hướng dẫn Hồ Xuân Hương đã để lại cho kho tàng văn học Việt Nam một khối lượng tác phẩm đồ sộ. Thơ của bà giản dị nhưng chứa đựng tình cảm sâu sắc, bà thường mượn hình ảnh để thể hiện tâm sự của mình. Bài thơ Tự tình là một trong những bài thơ như thế Bài thơ xuất hiện khi nhà thơ nghe thấy nghe tiếng trống canh văng vẳng từ môt chòi canh xa vọng đến báo hiệu đã nửa đêm. Tiếng trống u buồn ấy mỗi lúc một dồn dập hơn xa đến gần càng lúc như nhanh hơn trôi. Thời gian trôi nhanh đồng nghĩa với việc tuổi trẻ của người phụ nữ được rút ngắn lại. Trong tiếng trống đêm tĩnh lặng ấy, người phụ nữ đã chua xót cho chính thân phận lẻ loi của mình. Duyện phận của người phụ nữa ấy thật hẩm hiu, dù vậy cô vẫn chung thủy với mối tình ấy. Giống như một đấng nam nhi, người phụ nữ ấy đã mượn rượu để quên đi quá khứ, nhưng càng uống lại càng tỉnh ra, và nỗi buồn lại mênh mông hơn. Chén rượu hương đưa say lại tỉnh Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn Trong nỗi tuyệt vọng đến ê chề, người phụ nữ ấy đã tưởng rằng có thể mượn chén rượu để giải tỏa hộ nỗi lòng của mình, như tìm kiếm một người tri kỉ. Nhưng cảm giác say vừa đến thì lại tỉnh. Người phụ nữ muốn quên đi tất cả để có một cuộc sống đơn giản hạnh phúc, được sống với chính mình, nhưng thực tại thật tàn nhẫn, người phụ nữ đã không thể thay đổi được số phận bất hạnh của mình. Chắc chắn chỉ có vầng trăng là nhân chứng duy nhất, chứng kiến cuộc tình đẹp của nhà thơ, nhưng hôm nay vầng trăng cũng hờ hững, vô tình, không được tròn đầy mà khuyết hẳn đi. Nỗi buồn dâng đầy trong lòng rồi lan tỏa ra không gian khắp bốn bề, khẽ đưa mắt nhìn ra khoảng trống trứoc mặt những hình ảnh thiên nhiên đập vào mắt và như hòa vào tâm trạng nhuốm nỗi buồn phiền của tác giả: Xem thêm: Phân tích bài thơ "Lửa đèn” của Phạm Tiến Duật Xiên ngang mặt đất rêu từng đám Đâm toạc chân mây đá mấy hòn Trước nỗi buồn miên man ấy, tác giả đã tưởng tượng ra một hình ảnh mang tính mạnh mẽ, thể hiện không chấp nhận chuyên duyên tình lận đận. Thiên nhiên cũng như tâm trạng của nhà thơ thể hiện một sức sống đang bị đè nén và đang vươn lên mãnh liệt. Tâm trạng của nhà thơ buồn nên nhìn cảnh vật buồn, hay cảnh vật buồn làm liên lụy đến tâm trạng nhà thơ. Có lẽ do cả hai yếu tố và cũng là sự sáng tạo trong cách tả tảnh ngụ tình của nhà thơ. Những thứ nhỏ bé như rêu và đá nhưng chúng có một sức sống mạnh mẽ vô cùng và nhà thơ cũng vậy. Dù trong hoàn cảnh xót xa nhưng tâm hồn lúc nào cũng tràn đầy một niềm hy vọng, bi kịch dẫu đắng cay nhưng bằng cả nghị lực tác giả vẫn cố gắng gựơng mong chờ vựơt qua để đến bến bờ bình yên cho mình. Bằng hai câu thơ ngắn ngủi, nhà thơ đã dùng tiếng nói của mình để nói lên nỗi niềm của những người phụ nữ có số phận bất hạnh. Cuộc đời nhà thơ là những thắng ngày buồn tủi không chỉ một mà đến 2 lần đều là vợ lẽ. Chính vì nỗi tủi nhục đó nhà thơ đã thao thức ưu tư, suy nghĩ đến thân phận mình. Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại Mảnh tình san sẻ tí con con Tác giả đã dùng từ ngán để thay lời mình muốn nói. Xuân đi rồi xuân lại đến, tuổi trẻ người phụ nữ chỉ có một lần. Tình cảm chỉ được san sẻ một tí con con, quá ít mà còn quá vô tình, quá hờ hững. Cố đấm ăn xôi xôi lại hỏng Cầm lòng làm mứơn mứơn không công Bài thơ thể hiện tậm trạng u buồn về số phận hẩm hiu của nhà thơ và cũng là số phận chung của những người phụ nữ trong xã hội cũ. Qua mỗi lời thơ tác giả đã có một chút phê phán cái xã hội tàn độc ấy đã cướp đi những gì đáng có của con người. Nguồn: thêm: Hãy phát biểu ý kiến của em về mục đích học tập do UNESCO đề xướng: “Học để biết, học để làm, học để chung sống, học để tự khẳng định mình"
Analysis of the poem Tu Tinh by Ho Xuan Huong Instruct Ho Xuan Huong left behind a huge volume of works to Vietnam's literary treasure. Her poetry is simple but contains deep emotions. She often borrows images to express her feelings. The poem Self-love is one such poem The poem appeared when the poet heard the sound of watch drums echoing from a distant watchtower, signaling midnight. That melancholy drum sound became more and more intense each time, getting closer and closer, as if it was going faster and faster. Time passes quickly which means a woman's youth is shortened. In that quiet night of drums, the woman felt bitter about her lonely fate. That woman's fate was bleak, but she remained faithful to that love. Like a man, that woman borrowed alcohol to forget the past, but the more she drank, the more she woke up, and the sadness became even greater. A cup of fragrant wine brings drunkenness back to consciousness The waning moon is not yet full In utter despair, that woman thought she could borrow a cup of wine to relieve her feelings, like looking for a soulmate. But as soon as the feeling of intoxication comes, I wake up again. The woman wanted to forget everything to have a simple, happy life, to live with herself, but reality was cruel, the woman could not change her unfortunate fate. Surely the moon is the only witness, witnessing the poet's beautiful love story, but today the moon is also indifferent, indifferent, not full but completely waning. Sadness welled up in my heart and then spread to the space on all four sides. I gently looked out into the empty space in front of the natural images that caught my eye and seemed to blend into the author's mood tinged with sadness: See more: Analysis of the poem "Lamp Fire" by Pham Tien Duat Moss slanted across the ground in clumps Pierced the base of the rattan and kicked a few rocks Faced with that endless sadness, the author imagined a strong image, expressing his refusal to accept a difficult love relationship. Nature as well as the poet's mood express a vitality that is being suppressed and rising strongly. The poet's mood is sad, so seeing sad scenes, or sad scenes, is related to the poet's mood. Perhaps it is due to both factors and also the poet's creativity in describing love. Small things like moss and rocks but they have an extremely strong vitality and so do poets. Even though the situation is painful, the soul is always filled with hope. Even though the tragedy is bitter, with all his strength, the author still tries to look forward to overcoming it to reach a peaceful shore for himself. In two short verses, the poet used his voice to express the feelings of women with unfortunate fates. The poet's life is full of triumphs and sad days, not just once but twice, both being a concubine. Because of that humiliation, the poet lay awake worrying, thinking about his fate. Bored of spring again and again Little piece of love shared The author used the word boring to replace what he wanted to say. Spring goes and spring comes again, a woman's youth is only once. Love is only shared a little bit, too little but also too unintentionally, too indifferently. Trying to eat sticky rice but failed Reluctant to work hard for nothing The poem expresses the sadness of the poet's sad fate and also the common fate of women in the old society. Through each poem, the author has a little criticism of that cruel society that robs people of what they deserve. Source: more: Please express your opinion about the learning goals proposed by UNESCO: "Learning to know, learning to do, learning to live together, learning to assert yourself"
Bài thơ Viếng lăng Bác là một sáng tác của nhà thơ Viễn Phương. Nội dung bài thơ chan chứa cảm xúc của một người con dành cho Bác Hồ kính yêu. Có thể thấy nhà thơ đã dành rất nhiều tình cảm cho vị lãnh tụ của mình. Để giúp các em có thêm tài liệu tham khảo, Kho tàng văn mẫu hôm nay sẽ hướng dẫn các em lập dàn ý chi tiết cho đề văn phân tích bài thơ Viếng lăng Bác và cung cấp thêm một bài văn mẫu. Nội dung do Kho tàng văn mẫu biên soạn và giữ bản quyền. I. Lập dàn ý chi tiết phân tích bài thơ Viếng lăng Bác 1. Mở bài giới thiệu bài thơ Viếng lăng Bác Giới thiệu về vai trò và vị trí của Bác Hồ kính yêu trong lòng người dân Việt Nam để hiểu được lý do ra đời bài thơ Viếng lăng Bác. Nêu tóm tắt nội dung của bài thơ. Bài thơ thể hiện tình cảm của tác giả đối với Bác Hồ trong một lần từ miền Nam ra thủ đô Hà Nội để viếng thăm lăng Bác. 2. Thân bài phân tích bài thơ Viếng lăng Bác a. Khổ 1 – Sử dụng lối viết tự sự như một lời tâm tình với Bác, một lời chào đầu tiên dành cho vị lãnh tụ kính yêu. – Cách dùng đại từ nhân xưng tạo nên sự gần gũi, thân thiết. – Hình ảnh hàng tre xanh quen thuộc với người dân Việt Nam qua bao thế hệ b. Khổ 2 – Sử dụng nghệ thuật ẩn dụ một cách chân thực và độc đáo. + Ví Bác Hồ như mặt trời để nói lên sự vĩnh cửu của Bác. + Ví Bác Hồ như mặt trời để chiếu soi cho dân tộc Việt Nam. – Lòng thành kính của người dân Việt Nam đối với Bác. – Sự biết ơn của người dân Việt Nam đối với Bác. c. Khổ 3 – Không gian tĩnh lặng nơi Bác Hồ đang yên nghỉ. – Cảm xúc về sự xót thương của tác giả dành cho vị cha già kính yêu, tiếc thương cho sự ra đi của Người. – Sử dụng hình ảnh ẩn dụ trời xanh để nói lên sự trường tồn của Bác. d. Khổ 4 – Tâm trạng quyến luyến không muốn rời xa Bác của tác giả.Xem thêm: Cảm nghĩ về nhân vật anh thanh niên trong lặng lẽ Sa Pa – Những mong ước giản dị của tác giả để được ở bên Bác mãi mãi. 3. Kết bài phân tích bài thơ Viếng lăng Bác Tổng quát lại nội dung bài thơ Viếng lăng Bác và nêu cảm nghĩ của em về bài thơ này. II. Bài làm phân tích bài thơ Viếng lăng Bác Mỗi khi nghĩ về Bác Hồ, mỗi người trong chúng ta đều có cho mình những cảm xúc riêng. Sẽ có không ít người phải rơi lệ mỗi khi nghĩ về Bác. Cả cuộc đời Người đã dành trọn vẹn cho non sông, gấm vóc. Khi Người ra đi, không chỉ có nhân dân Việt Nam mà nhân dân trên thế giới cũng vô cùng tiếc thương. Nhà thơ Viễn Phương, một người con của miền Nam xa xôi trong một lần ra thủ đô Hà Nội viếng thăm lăng Bác đã không thể giấu nổi sự xúc động của mình và đã viết nên bài thơ Viếng lăng Bác. Cảm xúc chủ đạo của bài thơ Viếng lăng Bác chính là nỗi xúc động và lòng thành kính của một người con Việt Nam dành cho vị cha già dân tộc. Đây không phải cảm xúc riêng của tác giả mà tác giả đã nói chung cho cả dân tộc Việt. Lần đầu được đặt chân tới lăng Bác, nhà thơ không khỏi xúc động. Những câu thơ bật lên đầy tha thiết. Câu thơ mở đầu như một lời chào, một lời tự sự của nhà thơ đối với Bác: Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác Phân tích bài thơ Viếng lăng Bác Hãy xem cái cách mà nhà thơ xưng hô. Một tiếng con nghe mới thật thân thương và gần gũi làm sao. Nó khiến cho người đọc có cảm giác như con và Bác có mối quan hệ máu thịt. Phải, đối với mỗi người Việt Nam thì “Người là cha, là bác, là anh”. Nỗi xúc động vẫn tiếp tục dâng lên trong lòng tác giả khi nhìn thấy những hàng tre xanh rì rào trong gió. Hàng tre xanh xanh Việt Nam, hàng tre biểu tượng cho nhân dân, cho sự kiên cường của một dân tộc quật khởi đã đánh bại rất nhiều kẻ thù: Ôi hàng tre xanh xanh Việt Nam Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng Trong bão táp, trong mưa sa, hàng tre vẫn luôn đứng thẳng hàng. Tre cũng giống như người Việt Nam vậy. Bão táp, mưa sa là hình ảnh ẩn dụ cho những cuộc chiến tranh khốc liệt mà nhân dân ta đã phải trải qua. Càng trong khó khăn, con người càng hiện lên với một vẻ đẹp phi thường. Chúng ta có thể đứng thẳng và hiên ngang chống lại kẻ thù một phần cũng là nhờ có sự lãnh đạo của Bác Hồ.Xem thêm: Suy nghĩ của em về nhân vật ông Hai trong truyện ngắn Làng của Kim Lân hay nhất Vẫn tiếp tục với mạch cảm xúc kính yêu dành cho Bác, nhà thơ Viễn Phương đã liên tưởng tới hình ảnh mặt trời. Bầu trời rộng lớn ngoài kia có một mặt trời, đó là mặt trời của tự nhiên vẫn ngày ngày chiếu sáng cho trái đất. Và đây, chúng ta cũng có một mặt trời của riêng mình, đó chính là Bác: Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ Hình ảnh ẩn dụ mặt trời càng khiến cho người đọc thấy được tấm lòng của nhà thơ dành cho Bác. Ví Bác như mặt trời, ý của nhà thơ đang muốn nói đến cuộc đời Bác đã chiếu soi cho dân tộc Việt Nam và cũng như mặt trời kia Bác sẽ tồn tại vĩnh hằng, sẽ sống mãi trong lòng người Việt Nam. Đó cũng là lý do vì sao mà mỗi ngày có hàng ngàn người tới đây để viếng thăm lăng Bác. Những hàng người nối nhau, chờ đợi trong văn mình để được vào chào Bác một câu, nhìn thấy Bác một lần.: Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ Kết tràng hoa dâng bảy mươi chin mùa xuân Điệp từ ngày ngày cho chúng ta cảm nhận được sự liên tục, sự tiếp diễn và dường như không có hồi kết. Những con người tới đây, mang theo những tràng hoa để dâng lên bảy mươi chín mùa xuân. Hình ảnh ẩn dụ bảy mươi chín mùa xuân tác giả dùng để nói về Bác. Cả cuộc đời 79 tuổi xuân của mình Bác đã dành để cống hiến trọn vẹn cho đất nước. Tràng hoa ở đây không chỉ là những tràng hoa theo nghĩa đen mà nó còn là những thành quả mà người dân đã đạt được nay đem dâng lên Người, báo cáo thành tích đối với Người.Xem thêm: Ý nghĩa nhan đề các tác phẩm Văn học lớp 9 Bước từ phía ngoài vào trong lăng Bác, nhà thơ trào dâng một nỗi niềm xúc động khi nhìn thấy Bác đang nằm yên giấc ngủ: Bác nằm trong giấc ngủ bình yên Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền Vẫn biết trời xanh là mãi mãi Mà sao nghe nhói ở trong tim Nhìn Bác ngủ, cảm giác thật yên bình. Giờ đây, đất nước đã hoà bình, con người đang xây dựng Tổ quốc mình ngày một giàu mạnh hơn vậy nên Bác có thể yên nghỉ được rồi. Thế nhưng càng nghĩ lại càng buồn. Giá như Người còn sống để được chứng kiến những cảnh tượng này. Ở khổ thơ này, nhà thơ Viễn Phương đã so sánh Bác với trời xanh để nói lên sự trường tồn vĩnh hằng của Bác. Trời xanh là mãi mãi đấy những cũng khiến người ta xa xót. Đó là một cảm giác nhói đau ở trong tim. Từ nỗi đau ấy, nhà thơ không muốn xa Bác, không muốn rời chân khỏi nơi này. Vì vậy mà ở khổ thơ cuối cùng nhà thơ đã muốn hoá thân thành chim, thành hoa, thành cây tre để được ở mãi bên lăng Bác: Mai về miền Nam thương trào nước mắt Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác Muốn làm đoá hoa toả hương đâu đây Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này Tác giả không có mong ước gì vĩ đại mà chỉ ước được trở thành những điều rất bình dị. Điệp từ “muốn làm” khiến cho người đọc cảm nhận được sâu sắc mong ước của nhà thơ. Có thể thấy tình cảm của nhà thơ dành cho Bác nhiều đến nhường nào. Những tình cảm chân thành của nhà thơ đã khiến cho nội dung bài thơ chạm đến trái tim của người đọc. Bài thơ vì vậy mà có một vị trí trong nền thi ca Việt Nam. Qua bài thơ này, chúng ta cũng hiểu thêm được tình cảm của người dân Việt Nam dành cho Bác Hồ kính yêu. Trên đây, chúng ta đã cùng nhau lập dàn ý chi tiết cũng như làm bài cho đề văn phân tích bài thơ Viếng lắng Bác. Hy vọng rằng đây sẽ là tài liệu tham khảo hữu ích dành cho các em. Thu Thuỷ
Bài thơ Viếng lăng Bác là một sáng tác của nhà thơ Viễn Phương. Nội dung bài thơ chan chứa cảm xúc của một người con dành cho Bác Hồ kính yêu. Có thể thấy nhà thơ đã dành rất nhiều tình cảm cho vị lãnh tụ của mình. Để giúp các em có thêm tài liệu tham khảo, Kho tàng văn mẫu hôm nay sẽ hướng dẫn các em lập dàn ý chi tiết cho đề văn phân tích bài thơ Viếng lăng Bác và cung cấp thêm một bài văn mẫu. Nội dung do Kho tàng văn mẫu biên soạn và giữ bản quyền. I. Lập dàn ý chi tiết phân tích bài thơ Viếng lăng Bác 1. Mở bài giới thiệu bài thơ Viếng lăng Bác Giới thiệu về vai trò và vị trí của Bác Hồ kính yêu trong lòng người dân Việt Nam để hiểu được lý do ra đời bài thơ Viếng lăng Bác. Nêu tóm tắt nội dung của bài thơ. Bài thơ thể hiện tình cảm của tác giả đối với Bác Hồ trong một lần từ miền Nam ra thủ đô Hà Nội để viếng thăm lăng Bác. 2. Thân bài phân tích bài thơ Viếng lăng Bác a. Khổ 1 – Sử dụng lối viết tự sự như một lời tâm tình với Bác, một lời chào đầu tiên dành cho vị lãnh tụ kính yêu. – Cách dùng đại từ nhân xưng tạo nên sự gần gũi, thân thiết. – Hình ảnh hàng tre xanh quen thuộc với người dân Việt Nam qua bao thế hệ b. Khổ 2 – Sử dụng nghệ thuật ẩn dụ một cách chân thực và độc đáo. + Ví Bác Hồ như mặt trời để nói lên sự vĩnh cửu của Bác. + Ví Bác Hồ như mặt trời để chiếu soi cho dân tộc Việt Nam. – Lòng thành kính của người dân Việt Nam đối với Bác. – Sự biết ơn của người dân Việt Nam đối với Bác. c. Khổ 3 – Không gian tĩnh lặng nơi Bác Hồ đang yên nghỉ. – Cảm xúc về sự xót thương của tác giả dành cho vị cha già kính yêu, tiếc thương cho sự ra đi của Người. – Sử dụng hình ảnh ẩn dụ trời xanh để nói lên sự trường tồn của Bác. d. Khổ 4 – Tâm trạng quyến luyến không muốn rời xa Bác của tác giả.Xem thêm: Cảm nghĩ về nhân vật anh thanh niên trong lặng lẽ Sa Pa – Những mong ước giản dị của tác giả để được ở bên Bác mãi mãi. 3. Kết bài phân tích bài thơ Viếng lăng Bác Tổng quát lại nội dung bài thơ Viếng lăng Bác và nêu cảm nghĩ của em về bài thơ này. II. Bài làm phân tích bài thơ Viếng lăng Bác Mỗi khi nghĩ về Bác Hồ, mỗi người trong chúng ta đều có cho mình những cảm xúc riêng. Sẽ có không ít người phải rơi lệ mỗi khi nghĩ về Bác. Cả cuộc đời Người đã dành trọn vẹn cho non sông, gấm vóc. Khi Người ra đi, không chỉ có nhân dân Việt Nam mà nhân dân trên thế giới cũng vô cùng tiếc thương. Nhà thơ Viễn Phương, một người con của miền Nam xa xôi trong một lần ra thủ đô Hà Nội viếng thăm lăng Bác đã không thể giấu nổi sự xúc động của mình và đã viết nên bài thơ Viếng lăng Bác. Cảm xúc chủ đạo của bài thơ Viếng lăng Bác chính là nỗi xúc động và lòng thành kính của một người con Việt Nam dành cho vị cha già dân tộc. Đây không phải cảm xúc riêng của tác giả mà tác giả đã nói chung cho cả dân tộc Việt. Lần đầu được đặt chân tới lăng Bác, nhà thơ không khỏi xúc động. Những câu thơ bật lên đầy tha thiết. Câu thơ mở đầu như một lời chào, một lời tự sự của nhà thơ đối với Bác: Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác Phân tích bài thơ Viếng lăng Bác Hãy xem cái cách mà nhà thơ xưng hô. Một tiếng con nghe mới thật thân thương và gần gũi làm sao. Nó khiến cho người đọc có cảm giác như con và Bác có mối quan hệ máu thịt. Phải, đối với mỗi người Việt Nam thì “Người là cha, là bác, là anh”. Nỗi xúc động vẫn tiếp tục dâng lên trong lòng tác giả khi nhìn thấy những hàng tre xanh rì rào trong gió. Hàng tre xanh xanh Việt Nam, hàng tre biểu tượng cho nhân dân, cho sự kiên cường của một dân tộc quật khởi đã đánh bại rất nhiều kẻ thù: Ôi hàng tre xanh xanh Việt Nam Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng Trong bão táp, trong mưa sa, hàng tre vẫn luôn đứng thẳng hàng. Tre cũng giống như người Việt Nam vậy. Bão táp, mưa sa là hình ảnh ẩn dụ cho những cuộc chiến tranh khốc liệt mà nhân dân ta đã phải trải qua. Càng trong khó khăn, con người càng hiện lên với một vẻ đẹp phi thường. Chúng ta có thể đứng thẳng và hiên ngang chống lại kẻ thù một phần cũng là nhờ có sự lãnh đạo của Bác Hồ.Xem thêm: Suy nghĩ của em về nhân vật ông Hai trong truyện ngắn Làng của Kim Lân hay nhất Vẫn tiếp tục với mạch cảm xúc kính yêu dành cho Bác, nhà thơ Viễn Phương đã liên tưởng tới hình ảnh mặt trời. Bầu trời rộng lớn ngoài kia có một mặt trời, đó là mặt trời của tự nhiên vẫn ngày ngày chiếu sáng cho trái đất. Và đây, chúng ta cũng có một mặt trời của riêng mình, đó chính là Bác: Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ Hình ảnh ẩn dụ mặt trời càng khiến cho người đọc thấy được tấm lòng của nhà thơ dành cho Bác. Ví Bác như mặt trời, ý của nhà thơ đang muốn nói đến cuộc đời Bác đã chiếu soi cho dân tộc Việt Nam và cũng như mặt trời kia Bác sẽ tồn tại vĩnh hằng, sẽ sống mãi trong lòng người Việt Nam. Đó cũng là lý do vì sao mà mỗi ngày có hàng ngàn người tới đây để viếng thăm lăng Bác. Những hàng người nối nhau, chờ đợi trong văn mình để được vào chào Bác một câu, nhìn thấy Bác một lần.: Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ Kết tràng hoa dâng bảy mươi chin mùa xuân Điệp từ ngày ngày cho chúng ta cảm nhận được sự liên tục, sự tiếp diễn và dường như không có hồi kết. Những con người tới đây, mang theo những tràng hoa để dâng lên bảy mươi chín mùa xuân. Hình ảnh ẩn dụ bảy mươi chín mùa xuân tác giả dùng để nói về Bác. Cả cuộc đời 79 tuổi xuân của mình Bác đã dành để cống hiến trọn vẹn cho đất nước. Tràng hoa ở đây không chỉ là những tràng hoa theo nghĩa đen mà nó còn là những thành quả mà người dân đã đạt được nay đem dâng lên Người, báo cáo thành tích đối với Người.Xem thêm: Ý nghĩa nhan đề các tác phẩm Văn học lớp 9 Bước từ phía ngoài vào trong lăng Bác, nhà thơ trào dâng một nỗi niềm xúc động khi nhìn thấy Bác đang nằm yên giấc ngủ: Bác nằm trong giấc ngủ bình yên Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền Vẫn biết trời xanh là mãi mãi Mà sao nghe nhói ở trong tim Nhìn Bác ngủ, cảm giác thật yên bình. Giờ đây, đất nước đã hoà bình, con người đang xây dựng Tổ quốc mình ngày một giàu mạnh hơn vậy nên Bác có thể yên nghỉ được rồi. Thế nhưng càng nghĩ lại càng buồn. Giá như Người còn sống để được chứng kiến những cảnh tượng này. Ở khổ thơ này, nhà thơ Viễn Phương đã so sánh Bác với trời xanh để nói lên sự trường tồn vĩnh hằng của Bác. Trời xanh là mãi mãi đấy những cũng khiến người ta xa xót. Đó là một cảm giác nhói đau ở trong tim. Từ nỗi đau ấy, nhà thơ không muốn xa Bác, không muốn rời chân khỏi nơi này. Vì vậy mà ở khổ thơ cuối cùng nhà thơ đã muốn hoá thân thành chim, thành hoa, thành cây tre để được ở mãi bên lăng Bác: Mai về miền Nam thương trào nước mắt Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác Muốn làm đoá hoa toả hương đâu đây Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này Tác giả không có mong ước gì vĩ đại mà chỉ ước được trở thành những điều rất bình dị. Điệp từ “muốn làm” khiến cho người đọc cảm nhận được sâu sắc mong ước của nhà thơ. Có thể thấy tình cảm của nhà thơ dành cho Bác nhiều đến nhường nào. Những tình cảm chân thành của nhà thơ đã khiến cho nội dung bài thơ chạm đến trái tim của người đọc. Bài thơ vì vậy mà có một vị trí trong nền thi ca Việt Nam. Qua bài thơ này, chúng ta cũng hiểu thêm được tình cảm của người dân Việt Nam dành cho Bác Hồ kính yêu. Trên đây, chúng ta đã cùng nhau lập dàn ý chi tiết cũng như làm bài cho đề văn phân tích bài thơ Viếng lắng Bác. Hy vọng rằng đây sẽ là tài liệu tham khảo hữu ích dành cho các em. Thu Thuỷ
Đề bài: Phân tích bài thơ Viếng Lăng Bác của Viễn Phương Bài làm Bác Hồ là vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc. Năm 1969, Người ra đi để lại vô vàn tiếc thương, là sự mất mát to lớn của dân tộc. Năm 1976, sau giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước thì lăng chủ tịch Hồ Chí Minh cùng vừa hoàn thành. Nhân dịp ra thăm miền Bắc, Viễn Phương đã sáng tác bài thơ Viếng Lăng Bác để bày tỏ những cảm xúc dạt dào, niềm thương nhớ và kính yêu đối với Bác Hồ. Ngay ở câu thơ đầu tiên tác giả đã nêu lên hoàn cảnh và giới thiệu về mình: “Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác” Câu thơ chan chứa, dạt dào cảm xúc của nhà thơ khi lần đầu tiên được ra Hà Nội viếng lăng Bác. Viễn Phương xưng “con”giống như lời của một người con ra thăm người cha già đáng kính, chứ không phải thăm viếng một vị lãnh tụ đã ra đi. Cách xưng hô gần gũi, ấm áp trong như những người trong gia đình. Viễn Phương tự hào là “con ở miền Nam”, miền Nam gian khổ, anh hùng. Đồng thời cũng giống như đại diện cho những người con ở miền Nam ra thăm lăng Bác. Nhà thơ Tố Hữu đã từng viết: “Bác nhớ miền Nam nỗi nhớ nhà Miền Nam mong Bác nỗi mong cha” Miền Nam chiến thắng nhưng trong ngày vui ấy Bác lại không được chứng kiến. Đó là nỗi đau mất mát to lớn không gì có thể bù đắp được. Đến với lăng Bác, nhìn từ xa Viễn Phương như thấy được một khung cảnh quen thuộc của một miền quê nào đó:Xem thêm: Soạn bài Tiếng rao đêm “Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát Ôi hàng tre xanh xanh Việt Nam Bão táp mưa xa đứng thẳng hàng” Không phải đền đài nguy nga, tráng lệ mà là hình ảnh hết sức mộc mạc, gần gũi. Trong màn sương mỏng của buổi sớm ẩn hiện hình dáng của hàng tre. Càng đến gần thì hàng tre càng lộ diện rõ ràng trước mắt nhà thơ. Hình ảnh cây tre quen thuộc với dân tộc Việt Nam từ bao đời nay. Cây tre trung hiếu, nghĩa tình, cây tre biểu tượng cho người dân Việt Nam ngay thẳng, mộc mạc, mang những phẩm chất tốt đẹp. Hàng tre xanh gợi lên sức sống bất diệt của dân tộc. Phân tích bài thơ Viếng Lăng Bác Hòa mình vào với dòng người đang xếp hàng viếng lăng Bác, cũng là lúc mặt trời rọi chiếu vào lăng khiến Viễn Phương chợt có suy nghĩ: “Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ” Hình ảnh mặt trời được lặp lại hai lần trong bài thơ, là hình ảnh ẩn dụ đặc sắc. Mặt trời thứ nhất là mặt trời của thiên nhiên, của tạo hóa. Đó là mặt trời đang ngày ngày chiếu sáng, tỏa ra những tia nắng ấm áp để muôn loài, muôn vật có thể sinh sôi, nảy nở, để muôn loại cỏ cây tươi tốt. Còn mặt trời trong lăng chính là hình ảnh ẩn dụ về Bác Hồ. Viễn Phương ví Bác như mặt trời, bởi với nhà thơ nói riêng và dân tộc Việt Nam nói chung thì Bác chính là vầng thái dương chói lọi mở đường, dẫn lối, soi sáng cho con đường cách mạng gian khổ. Tuy Bác đã ra đi nhưng đối với con dân Việt Nam thì Bác là vĩnh hằng, là bất tử giống với mặt trời của tạo hóa. Tuy vậy nhưng việc Bác ra đi đã để lại muôn vàn nhớ thương khắc sâu vào tâm khảm của mỗi người:Xem thêm: Nghị luận xã hội về nghị lực sống “Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân” Không khí thương nhớ Bác bao trùm và bủa vây theo những bước chân của dòng người viếng lăng Bác. Cuộc viếng thăm giống như đang đi vào một buổi tưởng niệm để ca ngợi Bác. Những người con của mọi miền Tổ quốc đều hướng về đây, trở về đây để kính dâng lên Người những bông hoa tươi thắm. Cuộc đời của Bác mỗi phút giây, mỗi năm tháng đều rất tươi đẹp. Bảy mươi chín năm cuộc đời là bảy mươi chín mùa xuân dâng hiến cho đời thêm sắc thắm. Cả cuộc đời lúc nào cũng vì dân vì nước, nay Bác đã có thể hưởng một “giấc ngủ” bình yên: “Bác nằm trong giấc ngủ bình yên Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền Vẫn biết trời xanh là mãi mãi Mà sao nghe nhói ở trong tim” Giữa niềm xúc động nghẹn ngào ấy, Viễn Phương cũng giống như nhiều người khác cũng phải đối mặt với sự thật rằng Bác đã ra đi. Nhưng đó là sự nghỉ ngơi, là giấc ngủ bình yên có ánh trăng làm bạn bởi Người vốn rất yêu trăng. Dù xót xa, dù lưu luyến nhưng giây phút chia ly vẫn cứ tới và nhà thơ không khỏi tiếc nuối, nghẹn ngào muốn lưu giữ lại nơi đây: “Mai về miền Nam thương trào nước mắt Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này” Điệp từ “muốn làm” như nhấn mạnh ước nguyện của Viễn Phương, khát vọng chân thành muốn được canh giữ ở bên Bác, để Người có giấc ngủ bình yên. Tất cả nói lên tấm lòng kính yêu vô hạn của một người con đối với “người cha già” đáng kính của dân tộc.Xem thêm: Một lần em trót đọc nhật kí của bạn Bài thơ Viếng Lăng Bác của Viễn Phương xứng đáng trở thành một trong những bài thơ hay nhất để tưởng nhớ Bác. Qua bài thơ, tác giả muốn gửi gắm những tình cảm của không chỉ riêng nhà thơ mà còn là của nhân dân Việt Nam đối với vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc. Loan Trương
Topic: Analysis of the poem Visiting Uncle Ho's Mausoleum by Vien Phuong Assignment Uncle Ho is the great leader of the nation. In 1969, he passed away, leaving behind countless sorrows and a great loss for the nation. In 1976, after liberating the South and reunifying the country, President Ho Chi Minh's mausoleum was completed. On the occasion of his visit to the North, Vien Phuong composed the poem Visiting Uncle Ho's Mausoleum to express his overwhelming emotions, nostalgia and love for Uncle Ho. Right in the first verse, the author states his situation and introduces himself: "I'm in the South to visit Uncle Ho's mausoleum" The poem is filled with the poet's emotions when he first went to Hanoi to visit Uncle Ho's mausoleum. Vien Phuong said "son" like the words of a son visiting his respected old father, not visiting a leader who has passed away. The way of addressing is close and warm, like family members. Vien Phuong is proud to be a "child of the South", the arduous and heroic South. At the same time, it is like representing the children in the South to visit Uncle Ho's mausoleum. Poet To Huu once wrote: “I miss the South and feel homesick The South longs for Uncle Ho just as much as it longs for a father." The South won, but on that happy day, Uncle Ho could not witness it. It is a great pain and loss that nothing can compensate for. Coming to Uncle Ho's mausoleum, looking from afar, Vien Phuong seems to see a familiar scene of a certain countryside: See more: Prepare lesson The Night Call “I saw vast bamboo rows in the mist Oh, the green bamboo of Vietnam The storm and rain in the distance stand in a straight line. Not a magnificent, magnificent temple, but a very rustic and intimate image. In the thin mist of the morning, the shape of a bamboo row appears. The closer he got, the more clearly the bamboo row appeared before the poet's eyes. The image of bamboo has been familiar to the Vietnamese people for many generations. Bamboo is filial and loyal, symbolizing Vietnamese people who are upright, rustic, and possess good qualities. Green bamboo rows evoke the eternal vitality of the nation. Analysis of the poem Visiting Uncle Ho's Mausoleum Blending in with the crowd of people lining up to visit Uncle Ho's mausoleum, the sun was also shining on the mausoleum, making Vien Phuong suddenly think: “Every day the sun passes over the mausoleum Seeing a red sun in the steering so" The image of the sun is repeated twice in the poem, which is a unique metaphor. The first sun is the sun of nature and creation. It is the sun that shines day by day, radiating warm rays so that all species and things can grow and flourish, so that all kinds of plants and trees can flourish. The sun in the mausoleum is a metaphor for Uncle Ho. Vien Phuong compared Uncle Ho to the sun, because for poets in particular and the Vietnamese people in general, Uncle Ho is the shining sun that opens the way, guides, and illuminates the arduous path of revolution. Although Uncle Ho has passed away, for the Vietnamese people, he is eternal and immortal like the sun of creation. However, Uncle Ho's passing has left countless memories deeply engraved in the hearts of each person: See more: Social discussion on the will to live “Every day a stream of people walks in longing The flower garland offers seventy-nine springs. The atmosphere of remembering Uncle Ho covers and surrounds the footsteps of the stream of people visiting Uncle Ho's mausoleum. The visit was like going to a memorial service to praise Uncle Ho. The children of all regions of the country look here, return here to respectfully offer Him fresh flowers. Every moment of Uncle Ho's life, every year, is very beautiful. Seventy-nine years of life are seventy-nine springs dedicated to making life more colorful. All his life he has always worked for the people and the country, now Uncle can enjoy a peaceful "sleep": “Uncle lies in a peaceful sleep In the middle of a gentle bright moon I still know that the sky is blue forever But why listen to the throbbing in my heart" Amidst that choking emotion, Vien Phuong, like many others, also had to face the fact that Uncle Ho had passed away. But it is rest, a peaceful sleep with the moonlight as a companion because he loves the moon very much. Even though he was sad and nostalgic, the moment of separation still came and the poet couldn't help but feel regretful and choked up, wanting to keep this place: “Tomorrow when I return to the South I feel tears in my eyes I want to be a bird that sings around Uncle Ho's mausoleum I want to be a fragrant flower somewhere Want to make this place bamboo tastes" The refrain "want to do" seems to emphasize Vien Phuong's wish, her sincere desire to guard Uncle Ho's side, so that he can sleep peacefully. It all speaks of a child's infinite love for the respected "old father" of the nation. See more: One time I read your diary Vien Phuong's poem Visiting Uncle Ho's Mausoleum deserves to be one of the best poems to commemorate Uncle Ho. Through the poem, the author wants to convey the feelings of not only the poet but also the Vietnamese people towards the great leader of the nation. Loan Truong
Bài thơ Việt Bắc của nhà thơ Tố Hữu là một tác phẩm khá dài viết theo thể thơ lục bát truyền thống của dân tộc. Bài thơ thể hiện một nỗi nhớ của người chiến sĩ dành cho người dân Việt Bắc và ngược lại. Để giúp các em có thể làm tốt đề văn phân tích bài thơ Việt Bắc, hôm nay Kho tàng văn mẫu sẽ hướng dẫn các em lập dàn ý cho đề văn này cũng như cung cấp bài văn mẫu cho các em tham khảo. I. Lập dàn ý chi tiết phân tích bài thơ Việt Bắc 1. Mở bài – Giới thiệu về tác giả Tố Hữu và bài thơ Việt Bắc – Tố Hữu là nhà thơ cách mạng. Thơ của ông gần gũi và chan chứa cảm xúc. Đặc biệt, Tố Hữu lựa chọn thể thơ lục bát nên càng dễ hiểu hơn. 2. Thân bài phân tích bài thơ Việt Bắc a. Giọng thơ tâm tình ngọt ngào tha thiết của Tố Hữu trong Việt Bắc – Sử dụng lối đối đáp giao duyên giống như trong ca dao, dân ca. – Lời giãi bày tâm sự giữa người ở và người đi. – Giọng thơ tâm tình, ngọt ngào, tha thiết. b. Nghệ thuật đặc sắc giàu tính dân tộc trong Việt Bắc – Sử dụng thể thơ của dân tộc một cách nhuần nhuyễn khiến cho nội dung bài thơ càng trở nên tha thiết, sâu lắng. – Kết cấu theo lối đối đáp giao duyên của nam nữ trong ca da dân ca. – Sử dụng hình ảnh gần gũi, thân thuộc với người dân Việt Nam như núi, sông, mưa nguồn suối lũ,… Hình ảnh thể hiện được sự gần gũi, thân thuộc. – Sử dụng đại từ nhân xưng mình – ta làm xoá bỏ khoảng cách giữa người với người. 3. Kết bài Tổng kết lại nội dung bài thơ Việt Bắc và nên những cảm xúc của em về bài thơ này. II. Bài làm phân tích bài thơ Việt Bắc Những năm tháng kháng chiến chống Pháp diễn ra có thể nói là khoảng thời gian bùng nổ của Thơ mới. Thế nhưng, giữa một trời những sáng tác lãng mạn, nhà thơ Tố Hữu vẫn tìm về với thể thơ truyền thống của dân tộc và vẫn giữ tinh thần của một nhà thơ cách mạng. Bài thơ Việt Bắc ngay từ những lời thơ mở đầu đã khiến cho người đọc trào dâng trong lòng một nỗi niềm dân tộc và một cảm giác thân thuộc, nghĩa tình. Đặc biệt với những ai đã từng sống trong những năm tháng kháng chiến sẽ hiểu rõ hơn ai hết những cảm xúc mà nhà thơ đã trải qua.Xem thêm: Phân tích đoạn thơ sau trong trường ca Mặt đường khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm: Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi. Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa” mẹ thường hay kể… Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở. Làm nên Đất Nước muôn đời Bài thơ Việt Bắc có độ dài như một bản trường ca với nội dung nói về nghĩa tình của người chiến sĩ và người dân Việt Bắc. Những câu thơ mở đầu là lời nói nghĩa tình của người ở lại. Nhà thơ Tố Hữu đã rất khéo léo khi để cho người ở lại mở lời trước bởi vì theo tâm lý thường tình của người Việt Nam thì người ở lại thường hay lo lắng cho người ra đi. Những câu thơ tình nghĩa cất lên, những hình ảnh quen thuộc của núi rừng Việt Bắc cũng hiện lên vẹn nguyên trong trí nhớ của con người: Ta về mình có nhớ ta Ta về ta nhớ những hoa cùng người Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng Ngày xuân mơ nở trắng rừng Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang Ve kêu rừng phách đổ vàng Nhớ cô em gái hái măng một mình Rừng thu trăng rọi hoà bình Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung Thể thơ lục bát cùng với lối đối đáp và gặp đại từ nhân xưng mình – ta khiến cho nội dung bài thơ thật gần gũi làm sao. Trong lối đối đáp của ca dao thường sử dụng nhiều cặp đại từ nhân xưng như chàng – nàng, anh – em,… nhưng Tố Hữu lại lựa chọn cặp đại từ nhân xưng mình – ta. Đây là một lựa chọn hoàn toàn sáng suốt bởi vì mình và ta làm xoá mờ đi khoảng cách. Nói là hai người nhưng lại như là một người. Những câu thơ khi mình, khi ta khiến cho người đọc đôi khi không phân cách được đâu là người ở và đâu là người đi. Ở đây, mình cũng là ta mà ta cũng là mình. Hơn nữa, cặp đại từ nhân xưng mình ta có thể bao quát được hết các cặp đại từ nhân xưng khác.Xem thêm: Miêu tả món ăn để lại ấn tượng cho em - Cá bống kho tương Phân tích bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu (Có dàn ý chi tiết) Bằng cách sử dụng đại từ nhân xưng như vậy, tình cảm riêng – chung được nổi bật lên trong bài thơ Việt Bắc. Lời của nhà thơ cũng là lời của nhân vật trữ tình. Nhà thơ đã có 15 năm gắn bó với những người dân Việt Bắc nên khi chia xa, bao nhiêu cảm xúc trào dâng trong lòng ông. Suốt 15 năm ấy, nhà thơ và người dân đã cùng nhau trải qua biết bao nhiêu khó khăn, cùng nhau sẻ chia từng củ khoai, củ sắn, cùng nhau đắp chung một manh áo. Đói cùng đói, rét cùng rét. Họ vốn dĩ là những người xa lạ với nhau thế nhưng trong kháng chiến lại trở nên thân thiết như người trong một nhà vậy. Trong nỗi nhớ của nhà thơ, quê hương Việt Bắc hiện lên với những hình ảnh bình dị nhưng chứa đựng nhiều màu sắc đặc trưng của vùng rừng núi. Dường như, Tố Hữu đã hướng toàn bộ tâm tư và ngòi bút của mình về con người Việt Bắc. Họ là những con người có phẩm chất bình thường nhưng cũng vô cùng vĩ đại. Với bài thơ Việt Bắc, Tố Hữu đã vẽ nên một bức tranh tứ bình vô cùng tươi đẹp. Bức tranh ấy có đủ 4 mùa xuân, hạ, thu, đông. Nổi bật trên bức tranh ấy là những sắc đỏ trên nền xanh bao la như trong câu thơ “Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi”. Cùng với vẻ đẹp của cảnh vật là vẻ đẹp của con người “Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”. Nhà thơ chọn hình ảnh con dao đi rừng làm hình ảnh thay thế cho người dân Việt Bắc bởi vì đó là món đồ quen thuộc với người dân miền núi.Xem thêm: Phân tích đoạn trích Chuyện cũ trong phủ Chúa Trịnh của Phạm Đình Hổ Mùa xuân đến, cả không gian bừng sáng trong sắc hoa mơ. Trong khung cảnh ấy nổi bật lên là người đan nón. Nhà thơ miêu tả nỗi nhớ một cách vô cùng cụ thể: Ngày xuân mơ nở trắng rừng Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang Người đọc có cảm giác như mỗi một sợi giang là một sợi nhớ của tác giả khi hướng về Việt Bắc. Con người hiện lên với công việc giản dị nhưng vẫn thật đẹp đẽ. Ve kêu rừng phách đổ vàng Nhớ cô em gái hái măng một mình Hình ảnh cô em gái hái măng mang đến cho câu thơ một sự ngọt ngào và đầy thân thương. Tiếng ve kêu càng làm tăng thêm vẻ đẹp của mùa hè. Hình ảnh rừng phách đổ vàng là một hình ảnh đẹp và cách thể hiện của nhà thơ Tố Hữu quả thực quá tuyệt vời. Bức tranh bắt đầu chuyển về đêm để làm nên sự hoàn mĩ cho bức tranh: Rừng thu trăng rọi hoà bình Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung Dưới ánh trăng, vẻ đẹp của núi rừng càng trở nên huyền ảo hơn, có hồn hơn. Nỗi nhớ trở nên mênh mang như ánh trăng, không cụ thể và không có đối tượng. Bài thơ Việt Bắc là một nỗi nhớ mênh mang, thể hiện được tình người ấm áp. Bản thân em qua bài thơ này đã cảm nhận được nghĩa tình của dân tộc Việt Nam, của con người Việt Nam. Có lẽ chính từ sự tình nghĩa này mà chúng ta đã cùng nhau vượt qua được hết những khó khăn, đánh bại được mọi kẻ thù hiểm ác. Bài thơ Việt Bắc là một bài thơ hay đặc sắc và nó sẽ còn được các thế hệ mai sau biết đến. Trên đây là dàn ý chi tiết cho đề văn phân tích bài thơ Việt Bắc cũng như bài mẫu phân tích bài thơ Việt Bắc. Hy vọng rằng đây sẽ là tài liệu tham khảo hữu ích đối với các em học sinh lớp 12. Thu Thuỷ
Bài thơ Việt Bắc của nhà thơ Tố Hữu là một tác phẩm khá dài viết theo thể thơ lục bát truyền thống của dân tộc. Bài thơ thể hiện một nỗi nhớ của người chiến sĩ dành cho người dân Việt Bắc và ngược lại. Để giúp các em có thể làm tốt đề văn phân tích bài thơ Việt Bắc, hôm nay Kho tàng văn mẫu sẽ hướng dẫn các em lập dàn ý cho đề văn này cũng như cung cấp bài văn mẫu cho các em tham khảo. I. Lập dàn ý chi tiết phân tích bài thơ Việt Bắc 1. Mở bài – Giới thiệu về tác giả Tố Hữu và bài thơ Việt Bắc – Tố Hữu là nhà thơ cách mạng. Thơ của ông gần gũi và chan chứa cảm xúc. Đặc biệt, Tố Hữu lựa chọn thể thơ lục bát nên càng dễ hiểu hơn. 2. Thân bài phân tích bài thơ Việt Bắc a. Giọng thơ tâm tình ngọt ngào tha thiết của Tố Hữu trong Việt Bắc – Sử dụng lối đối đáp giao duyên giống như trong ca dao, dân ca. – Lời giãi bày tâm sự giữa người ở và người đi. – Giọng thơ tâm tình, ngọt ngào, tha thiết. b. Nghệ thuật đặc sắc giàu tính dân tộc trong Việt Bắc – Sử dụng thể thơ của dân tộc một cách nhuần nhuyễn khiến cho nội dung bài thơ càng trở nên tha thiết, sâu lắng. – Kết cấu theo lối đối đáp giao duyên của nam nữ trong ca da dân ca. – Sử dụng hình ảnh gần gũi, thân thuộc với người dân Việt Nam như núi, sông, mưa nguồn suối lũ,… Hình ảnh thể hiện được sự gần gũi, thân thuộc. – Sử dụng đại từ nhân xưng mình – ta làm xoá bỏ khoảng cách giữa người với người. 3. Kết bài Tổng kết lại nội dung bài thơ Việt Bắc và nên những cảm xúc của em về bài thơ này. II. Bài làm phân tích bài thơ Việt Bắc Những năm tháng kháng chiến chống Pháp diễn ra có thể nói là khoảng thời gian bùng nổ của Thơ mới. Thế nhưng, giữa một trời những sáng tác lãng mạn, nhà thơ Tố Hữu vẫn tìm về với thể thơ truyền thống của dân tộc và vẫn giữ tinh thần của một nhà thơ cách mạng. Bài thơ Việt Bắc ngay từ những lời thơ mở đầu đã khiến cho người đọc trào dâng trong lòng một nỗi niềm dân tộc và một cảm giác thân thuộc, nghĩa tình. Đặc biệt với những ai đã từng sống trong những năm tháng kháng chiến sẽ hiểu rõ hơn ai hết những cảm xúc mà nhà thơ đã trải qua.Xem thêm: Phân tích đoạn thơ sau trong trường ca Mặt đường khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm: Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi. Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa” mẹ thường hay kể… Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở. Làm nên Đất Nước muôn đời Bài thơ Việt Bắc có độ dài như một bản trường ca với nội dung nói về nghĩa tình của người chiến sĩ và người dân Việt Bắc. Những câu thơ mở đầu là lời nói nghĩa tình của người ở lại. Nhà thơ Tố Hữu đã rất khéo léo khi để cho người ở lại mở lời trước bởi vì theo tâm lý thường tình của người Việt Nam thì người ở lại thường hay lo lắng cho người ra đi. Những câu thơ tình nghĩa cất lên, những hình ảnh quen thuộc của núi rừng Việt Bắc cũng hiện lên vẹn nguyên trong trí nhớ của con người: Ta về mình có nhớ ta Ta về ta nhớ những hoa cùng người Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng Ngày xuân mơ nở trắng rừng Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang Ve kêu rừng phách đổ vàng Nhớ cô em gái hái măng một mình Rừng thu trăng rọi hoà bình Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung Thể thơ lục bát cùng với lối đối đáp và gặp đại từ nhân xưng mình – ta khiến cho nội dung bài thơ thật gần gũi làm sao. Trong lối đối đáp của ca dao thường sử dụng nhiều cặp đại từ nhân xưng như chàng – nàng, anh – em,… nhưng Tố Hữu lại lựa chọn cặp đại từ nhân xưng mình – ta. Đây là một lựa chọn hoàn toàn sáng suốt bởi vì mình và ta làm xoá mờ đi khoảng cách. Nói là hai người nhưng lại như là một người. Những câu thơ khi mình, khi ta khiến cho người đọc đôi khi không phân cách được đâu là người ở và đâu là người đi. Ở đây, mình cũng là ta mà ta cũng là mình. Hơn nữa, cặp đại từ nhân xưng mình ta có thể bao quát được hết các cặp đại từ nhân xưng khác.Xem thêm: Miêu tả món ăn để lại ấn tượng cho em - Cá bống kho tương Phân tích bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu (Có dàn ý chi tiết) Bằng cách sử dụng đại từ nhân xưng như vậy, tình cảm riêng – chung được nổi bật lên trong bài thơ Việt Bắc. Lời của nhà thơ cũng là lời của nhân vật trữ tình. Nhà thơ đã có 15 năm gắn bó với những người dân Việt Bắc nên khi chia xa, bao nhiêu cảm xúc trào dâng trong lòng ông. Suốt 15 năm ấy, nhà thơ và người dân đã cùng nhau trải qua biết bao nhiêu khó khăn, cùng nhau sẻ chia từng củ khoai, củ sắn, cùng nhau đắp chung một manh áo. Đói cùng đói, rét cùng rét. Họ vốn dĩ là những người xa lạ với nhau thế nhưng trong kháng chiến lại trở nên thân thiết như người trong một nhà vậy. Trong nỗi nhớ của nhà thơ, quê hương Việt Bắc hiện lên với những hình ảnh bình dị nhưng chứa đựng nhiều màu sắc đặc trưng của vùng rừng núi. Dường như, Tố Hữu đã hướng toàn bộ tâm tư và ngòi bút của mình về con người Việt Bắc. Họ là những con người có phẩm chất bình thường nhưng cũng vô cùng vĩ đại. Với bài thơ Việt Bắc, Tố Hữu đã vẽ nên một bức tranh tứ bình vô cùng tươi đẹp. Bức tranh ấy có đủ 4 mùa xuân, hạ, thu, đông. Nổi bật trên bức tranh ấy là những sắc đỏ trên nền xanh bao la như trong câu thơ “Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi”. Cùng với vẻ đẹp của cảnh vật là vẻ đẹp của con người “Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”. Nhà thơ chọn hình ảnh con dao đi rừng làm hình ảnh thay thế cho người dân Việt Bắc bởi vì đó là món đồ quen thuộc với người dân miền núi.Xem thêm: Phân tích đoạn trích Chuyện cũ trong phủ Chúa Trịnh của Phạm Đình Hổ Mùa xuân đến, cả không gian bừng sáng trong sắc hoa mơ. Trong khung cảnh ấy nổi bật lên là người đan nón. Nhà thơ miêu tả nỗi nhớ một cách vô cùng cụ thể: Ngày xuân mơ nở trắng rừng Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang Người đọc có cảm giác như mỗi một sợi giang là một sợi nhớ của tác giả khi hướng về Việt Bắc. Con người hiện lên với công việc giản dị nhưng vẫn thật đẹp đẽ. Ve kêu rừng phách đổ vàng Nhớ cô em gái hái măng một mình Hình ảnh cô em gái hái măng mang đến cho câu thơ một sự ngọt ngào và đầy thân thương. Tiếng ve kêu càng làm tăng thêm vẻ đẹp của mùa hè. Hình ảnh rừng phách đổ vàng là một hình ảnh đẹp và cách thể hiện của nhà thơ Tố Hữu quả thực quá tuyệt vời. Bức tranh bắt đầu chuyển về đêm để làm nên sự hoàn mĩ cho bức tranh: Rừng thu trăng rọi hoà bình Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung Dưới ánh trăng, vẻ đẹp của núi rừng càng trở nên huyền ảo hơn, có hồn hơn. Nỗi nhớ trở nên mênh mang như ánh trăng, không cụ thể và không có đối tượng. Bài thơ Việt Bắc là một nỗi nhớ mênh mang, thể hiện được tình người ấm áp. Bản thân em qua bài thơ này đã cảm nhận được nghĩa tình của dân tộc Việt Nam, của con người Việt Nam. Có lẽ chính từ sự tình nghĩa này mà chúng ta đã cùng nhau vượt qua được hết những khó khăn, đánh bại được mọi kẻ thù hiểm ác. Bài thơ Việt Bắc là một bài thơ hay đặc sắc và nó sẽ còn được các thế hệ mai sau biết đến. Trên đây là dàn ý chi tiết cho đề văn phân tích bài thơ Việt Bắc cũng như bài mẫu phân tích bài thơ Việt Bắc. Hy vọng rằng đây sẽ là tài liệu tham khảo hữu ích đối với các em học sinh lớp 12. Thu Thuỷ
Đề bài: Phân tích bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu Bài làm Tố Hữu tên thật là Nguyễn Kim Thành, là một trong những nhà thơ lớn của văn học Việt Nam hiện đại. Đồng thời ông còn được coi là cánh chim đầu đàn của nền thơ ca cách mạng. Từ khi được giác ngộ cách mạng thì sự nghiệp sáng tác của ông gắn liền với những giai đoạn phát triển của cách mạng, sự vận động của thời đại. Bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu sáng tác trong hoàn cảnh đất nước ta giành được chiến thắng ở Điện Biên Phủ năm 1954. Sau chiến thắng đó miền Bắc nước ta tưng bừng trong không khí chiến thắng và được giải phóng. Trong không khí ấy, chủ tịch Hồ Chí Minh, trung ương Đảng và các cán bộ, chiến sĩ rời chiến khu Việt Bắc để trở về thủ đô Hà Nội. Bài thơ Việt Bắc chính là tiếng hát nghĩa tình của “mình” với “ta” hay chính là của những người cán bộ chiến sĩ đối với đồng bào chiến khu Việt Bắc. Đoạn trích Việt Bắc đã tái hiện cho người đọc một cuộc chia ly đầy cảm xúc và xúc động. Hơn nữa nhà thơ còn lựa chọn thể thơ lục bát, một trong những thể thơ dân tộc và lối đối đáp trong ca dao, dân ca để bày tỏ tình cảm của mình. Mở đầu bài thơ chính là lời của người ở lại dành cho người ra đi: “Mình về mình có nhớ ta Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng Mình về mình có nhớ không Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn” Người ở lại trong cuộc chia ly này lưu luyến không muốn chia tay nhau. Đồng bào Việt Bắc đã rất lưu luyến, bịn rịn và trong cuộc chia ly ấy họ đã gợi nhắc những người ra đi về kỷ niệm, về quãng thời gian “mười lăm năm” gắn bó cùng sống và chiến đấu bên nhau. Đó là một khoảng thời gian dài và chan chứa biết bao kỷ niệm. Người ở lại mong muốn người ra đi có thể nhớ về những kỷ niệm ấy, có thể nhìn thấy những sự vật ở hiện tại để nhớ về quá khứ một thời bên nhau. Đồng thời cũng giống như một lời băn khoăn, trăn trở, không biết rằng khi về xuôi thì những người chiến sĩ có còn nhớ đến núi rừng, nhớ về con người nơi đây không.Xem thêm: Em hãy viết đoạn văn mở bài cho bài viết thuyết minh về cây lúa Việt Nam Phân tích bài thơ Việt Bắc Không để những người ở lại phải đợi chờ lâu, những người ra đi đã ngay lập tức đáp lại ân tình của họ: “Tiếng ai tha thiết bên cồn Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi Áo chàm đưa buổi phân ly Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay” Tiếng của người ở lại tha thiết, mặn nồng khiến cho người ra đi cảm thấy bâng khuâng, thấy bồn chồn không yên lòng. Người ra đi cũng cảm thấy lưu luyến, bịn rịn không muốn rời xa nơi đây. Nhà thơ đã sử dụng hình ảnh “áo chàm” để làm hình ảnh ẩn dụ cho những đồng bào Việt Bắc. Trong cảnh phân ly ấy, người ra đi chẳng thể nói lên lời vì nỗi niềm xúc động. Chính vì thế người ở lại tiếp tục bày tỏ tâm ý của mình: “Mình đi, có nhớ những ngày Mưa nguồn suối lũ những mây cùng mù Mình về có nhớ chiến khu Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai” Không còn nói xa, nói ẩn ý nữa mà người ở lại đã trực tiếp bày tỏ tình cảm của mình, trực tiếp hỏi người ra đi. Gợi nhớ cho người ra đi những kỷ niệm mà “mười lăm năm” gắn bó với nhau. Đó là những kỉ niệm về thiên nhiên, núi rừng Tây Bắc, là “Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa”. Những lời của người ở lại đó chính là lời tâm sự da diết, chan chứa những tình cảm dành cho những cán bộ, chiến sĩ. Đó là nỗi nhớ đồng thời cũng là lời nhắc nhở. Nhắc những người chiến sĩ khi trở về thủ đô thì cũng đừng quên những năm tháng gian khổ, những tháng ngày hoạt động cách mạng tuy còn thiếu thốn, tuy đối mặt với sự khắc nghiệt của thiên nhiên nhưng lại càng khiến cho tình cảm quân dân gắn bó.Xem thêm: Cảm nghĩ của em về tình bạn thời học sinh Lời gợi nhắc của người ở lại, người ra đi trở về nhưng mang theo biết bao nỗi nhớ. Đó là nhớ người ở lại, nhớ trăng lên đầu núi, nhớ nắng chiều, nhớ rừng nứa, bờ tre rồi nhớ từng con sông dòng suối… Nhớ đến những tháng ngày đồng cam cộng khổ: “Thương nhau chia củ sắn lùi, Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng” Bên cạnh việc nhớ tới đồng bào Việt Bắc thì Tố Hữu nói riêng và những người chiến sĩ cách mạng nói chung sẽ không thể nào quên được thiên nhiên, núi rừng nơi đây. Trong con mắt của nhà thơ thì thiên nhiên ấy rất tươi đẹp, mỗi mùa với những cảnh sắc khác nhau: “Ta về mình có nhớ ta Ta về ta nhớ những hoa cùng người Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng Ngày xuân mơ nở trắng rừng Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang Ve kêu rừng phách đổ vàng Nhớ cô em gái hái măng một mình Rừng thu trăng rọi hòa bình Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung” Đoạn thơ mang theo một nét đẹp cổ điển về thiên nhiên và con người Việt Bắc. Giữa thiên nhiên với con người có sự giao hòa, gắn bó mật thiết với nhau. Thiên nhiên bốn mùa tươi đẹp là vậy, nhưng nổi giữa nền thiên nhiên ấy chính là con người với những hoạt động lao động sản xuất, với khúc hát, lời ca trong trẻo. Có thể thấy, phải là người yêu thiên nhiên, yêu núi rừng và đồng bào nơi đây thì nhà thơ mới có thể phác họa nên một bức tranh tứ bình đẹp đến vậy, thơ mộng đến vậy. Thiên nhiên, núi rừng Việt Bắc giống như một người bạn, một người đồng chí cùng kề vai sát cánh với bộ đội cụ Hồ. Giống như một người cha che chở cho đứa con thơ khỏi những hiểm nguy: “Nhớ khi giặc đến giặc lùng Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây Núi giăng thành lũy sắt dày Rừng che bộ đội rừng vây quân thù” Bên cạnh thiên nhiên tươi đẹp thì tác giả còn nhớ đến những ngày chiến đấu gian khổ:Xem thêm: Bàn luận về câu nói của M. Go-rơ-ki: "Hãy yêu sách, nó là nguồn kiến thức, chỉ có kiến thức mới là con đường sống". “Những đường Việt Bắc của ta Đêm đêm rầm rập như là đất rung Quân đi điệp điệp trùng trùng Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan Dân công đỏ đuốc từng đoàn Bước chân nát đá muôn tàn lửa bay Nghìn đêm thăm thẳm sương dày Đèn pha bật sáng như ngày mai lên” Lời thơ mang nhịp điệu nhanh, tươi trẻ kể về những ngày chuẩn bị hành quân cho cuộc chiến chống lại chiến dịch của thực dân Pháp. Đây cũng là lúc mà tình quân dân thể hiện rõ ràng nhất. Tất cả mọi người đều đồng lòng, những đoàn quân với những ngọn đuốc trên tay như làm bừng sáng cả chiến khu Việt Bắc. Nó giống như lý tưởng quyết tâm giành lại độc lập, tự do cho dân tộc. Sự quyết tâm, đồng lòng tạo nên sức mạnh to lớn “bước chân nát đá” và kết thúc cuộc kháng chiến bằng ngày đại thắng cho dân tộc. Kết thúc cho niềm vui ấy, cùng với nỗi niềm nhớ thương không muốn rời xa thì nhà thơ đã cất lên những tiếng hát về niềm tự hào dân tộc. Đó là những giây phút nhớ về quãng thời gian hoạt động, sinh hoạt đảng, là lúc bàn việc quân trong các hang động, mái đá. Để rồi đến ngày chia tay có thể thốt lên lời bày tỏ tâm tình với người ở lại: “Mười lăm năm ấy ai quên Quê hương cách mạng dựng nên Cộng hòa Mình về mình lại nhớ ta Mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào” Bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu chính là những lời tâm tình đầy cảm xúc giữa người ở lại với người ra đi. Lời thơ thật gần gũi, giản dị nhưng lại mang theo những nét đặc sắc riêng trong nền thơ ca Cách mạng. Chính vì thế bài thơ còn đem lại tiếng vang cho một thời oanh liệt đến tận ngày nay và mai sau. Loan Trương
Đề bài: Phân tích bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu Bài làm Tố Hữu tên thật là Nguyễn Kim Thành, là một trong những nhà thơ lớn của văn học Việt Nam hiện đại. Đồng thời ông còn được coi là cánh chim đầu đàn của nền thơ ca cách mạng. Từ khi được giác ngộ cách mạng thì sự nghiệp sáng tác của ông gắn liền với những giai đoạn phát triển của cách mạng, sự vận động của thời đại. Bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu sáng tác trong hoàn cảnh đất nước ta giành được chiến thắng ở Điện Biên Phủ năm 1954. Sau chiến thắng đó miền Bắc nước ta tưng bừng trong không khí chiến thắng và được giải phóng. Trong không khí ấy, chủ tịch Hồ Chí Minh, trung ương Đảng và các cán bộ, chiến sĩ rời chiến khu Việt Bắc để trở về thủ đô Hà Nội. Bài thơ Việt Bắc chính là tiếng hát nghĩa tình của “mình” với “ta” hay chính là của những người cán bộ chiến sĩ đối với đồng bào chiến khu Việt Bắc. Đoạn trích Việt Bắc đã tái hiện cho người đọc một cuộc chia ly đầy cảm xúc và xúc động. Hơn nữa nhà thơ còn lựa chọn thể thơ lục bát, một trong những thể thơ dân tộc và lối đối đáp trong ca dao, dân ca để bày tỏ tình cảm của mình. Mở đầu bài thơ chính là lời của người ở lại dành cho người ra đi: “Mình về mình có nhớ ta Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng Mình về mình có nhớ không Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn” Người ở lại trong cuộc chia ly này lưu luyến không muốn chia tay nhau. Đồng bào Việt Bắc đã rất lưu luyến, bịn rịn và trong cuộc chia ly ấy họ đã gợi nhắc những người ra đi về kỷ niệm, về quãng thời gian “mười lăm năm” gắn bó cùng sống và chiến đấu bên nhau. Đó là một khoảng thời gian dài và chan chứa biết bao kỷ niệm. Người ở lại mong muốn người ra đi có thể nhớ về những kỷ niệm ấy, có thể nhìn thấy những sự vật ở hiện tại để nhớ về quá khứ một thời bên nhau. Đồng thời cũng giống như một lời băn khoăn, trăn trở, không biết rằng khi về xuôi thì những người chiến sĩ có còn nhớ đến núi rừng, nhớ về con người nơi đây không.Xem thêm: Em hãy viết đoạn văn mở bài cho bài viết thuyết minh về cây lúa Việt Nam Phân tích bài thơ Việt Bắc Không để những người ở lại phải đợi chờ lâu, những người ra đi đã ngay lập tức đáp lại ân tình của họ: “Tiếng ai tha thiết bên cồn Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi Áo chàm đưa buổi phân ly Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay” Tiếng của người ở lại tha thiết, mặn nồng khiến cho người ra đi cảm thấy bâng khuâng, thấy bồn chồn không yên lòng. Người ra đi cũng cảm thấy lưu luyến, bịn rịn không muốn rời xa nơi đây. Nhà thơ đã sử dụng hình ảnh “áo chàm” để làm hình ảnh ẩn dụ cho những đồng bào Việt Bắc. Trong cảnh phân ly ấy, người ra đi chẳng thể nói lên lời vì nỗi niềm xúc động. Chính vì thế người ở lại tiếp tục bày tỏ tâm ý của mình: “Mình đi, có nhớ những ngày Mưa nguồn suối lũ những mây cùng mù Mình về có nhớ chiến khu Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai” Không còn nói xa, nói ẩn ý nữa mà người ở lại đã trực tiếp bày tỏ tình cảm của mình, trực tiếp hỏi người ra đi. Gợi nhớ cho người ra đi những kỷ niệm mà “mười lăm năm” gắn bó với nhau. Đó là những kỉ niệm về thiên nhiên, núi rừng Tây Bắc, là “Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa”. Những lời của người ở lại đó chính là lời tâm sự da diết, chan chứa những tình cảm dành cho những cán bộ, chiến sĩ. Đó là nỗi nhớ đồng thời cũng là lời nhắc nhở. Nhắc những người chiến sĩ khi trở về thủ đô thì cũng đừng quên những năm tháng gian khổ, những tháng ngày hoạt động cách mạng tuy còn thiếu thốn, tuy đối mặt với sự khắc nghiệt của thiên nhiên nhưng lại càng khiến cho tình cảm quân dân gắn bó.Xem thêm: Cảm nghĩ của em về tình bạn thời học sinh Lời gợi nhắc của người ở lại, người ra đi trở về nhưng mang theo biết bao nỗi nhớ. Đó là nhớ người ở lại, nhớ trăng lên đầu núi, nhớ nắng chiều, nhớ rừng nứa, bờ tre rồi nhớ từng con sông dòng suối… Nhớ đến những tháng ngày đồng cam cộng khổ: “Thương nhau chia củ sắn lùi, Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng” Bên cạnh việc nhớ tới đồng bào Việt Bắc thì Tố Hữu nói riêng và những người chiến sĩ cách mạng nói chung sẽ không thể nào quên được thiên nhiên, núi rừng nơi đây. Trong con mắt của nhà thơ thì thiên nhiên ấy rất tươi đẹp, mỗi mùa với những cảnh sắc khác nhau: “Ta về mình có nhớ ta Ta về ta nhớ những hoa cùng người Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng Ngày xuân mơ nở trắng rừng Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang Ve kêu rừng phách đổ vàng Nhớ cô em gái hái măng một mình Rừng thu trăng rọi hòa bình Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung” Đoạn thơ mang theo một nét đẹp cổ điển về thiên nhiên và con người Việt Bắc. Giữa thiên nhiên với con người có sự giao hòa, gắn bó mật thiết với nhau. Thiên nhiên bốn mùa tươi đẹp là vậy, nhưng nổi giữa nền thiên nhiên ấy chính là con người với những hoạt động lao động sản xuất, với khúc hát, lời ca trong trẻo. Có thể thấy, phải là người yêu thiên nhiên, yêu núi rừng và đồng bào nơi đây thì nhà thơ mới có thể phác họa nên một bức tranh tứ bình đẹp đến vậy, thơ mộng đến vậy. Thiên nhiên, núi rừng Việt Bắc giống như một người bạn, một người đồng chí cùng kề vai sát cánh với bộ đội cụ Hồ. Giống như một người cha che chở cho đứa con thơ khỏi những hiểm nguy: “Nhớ khi giặc đến giặc lùng Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây Núi giăng thành lũy sắt dày Rừng che bộ đội rừng vây quân thù” Bên cạnh thiên nhiên tươi đẹp thì tác giả còn nhớ đến những ngày chiến đấu gian khổ:Xem thêm: Bàn luận về câu nói của M. Go-rơ-ki: "Hãy yêu sách, nó là nguồn kiến thức, chỉ có kiến thức mới là con đường sống". “Những đường Việt Bắc của ta Đêm đêm rầm rập như là đất rung Quân đi điệp điệp trùng trùng Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan Dân công đỏ đuốc từng đoàn Bước chân nát đá muôn tàn lửa bay Nghìn đêm thăm thẳm sương dày Đèn pha bật sáng như ngày mai lên” Lời thơ mang nhịp điệu nhanh, tươi trẻ kể về những ngày chuẩn bị hành quân cho cuộc chiến chống lại chiến dịch của thực dân Pháp. Đây cũng là lúc mà tình quân dân thể hiện rõ ràng nhất. Tất cả mọi người đều đồng lòng, những đoàn quân với những ngọn đuốc trên tay như làm bừng sáng cả chiến khu Việt Bắc. Nó giống như lý tưởng quyết tâm giành lại độc lập, tự do cho dân tộc. Sự quyết tâm, đồng lòng tạo nên sức mạnh to lớn “bước chân nát đá” và kết thúc cuộc kháng chiến bằng ngày đại thắng cho dân tộc. Kết thúc cho niềm vui ấy, cùng với nỗi niềm nhớ thương không muốn rời xa thì nhà thơ đã cất lên những tiếng hát về niềm tự hào dân tộc. Đó là những giây phút nhớ về quãng thời gian hoạt động, sinh hoạt đảng, là lúc bàn việc quân trong các hang động, mái đá. Để rồi đến ngày chia tay có thể thốt lên lời bày tỏ tâm tình với người ở lại: “Mười lăm năm ấy ai quên Quê hương cách mạng dựng nên Cộng hòa Mình về mình lại nhớ ta Mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào” Bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu chính là những lời tâm tình đầy cảm xúc giữa người ở lại với người ra đi. Lời thơ thật gần gũi, giản dị nhưng lại mang theo những nét đặc sắc riêng trong nền thơ ca Cách mạng. Chính vì thế bài thơ còn đem lại tiếng vang cho một thời oanh liệt đến tận ngày nay và mai sau. Loan Trương
Đề bài: Phân tích bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu Bài thơ Việt Bắc là đỉnh cao của thơ tố Hữu và cũng là thành tựu xuất sắc của thơ ca kháng chiến chống Pháp. Bài thơ ra đời nhân một sự kiện lịch sử: tháng 10 năm l954, những người kháng chiến rời căn cứ miền núi trở về miền xuôi. Từ điểm xuất phát ấy, bài thơ ngược về quá khứ để tưởng nhớ một thời cách mạng và kháng chiến gian khổ mà anh hùng, để nói lên nghĩa tình gắn bó thắm thiết với Việt Bắc, với Đảng và Bác Hồ, với đất nước và nhân dân – tất cả là nguồn sức mạnh tinh thần to lớn để dân tộc ta vững vàng bước tiếp trên con đường cách mạng. Nội dung ấy được thể hiện bằng hình thức đậm tính dân tộc.Bài thơ rất tiêu biểu cho phong cách thơ Tố Hữu. Hoàn cảnh sáng tác tạo nên một sắc thái tâm trạng đặc biệt, đầy xúc động bâng khuâng: Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…. Đó là cuộc chia tay của những người từng sống gắn bó suốt mười lăm năm ấy, có biết bao kỉ niệm ân tình, từng sẻ chia mọi cay đắng ngọt bùi, nay cùng nhau gợi lại những hồi ức đẹp đẽ, khẳng định nghĩa tình thuỷ chung và hướng về tương lai tươi sáng. Chuyện ân tình cách mạng đã được Tố Hữu khéo léo thể hiện như tâm trạng của tình yêu lứa đôi. Diễn biến tâm trạng như trong tình yêu lứa đôi được tổ chức theo lối đối đáp quen thuộc của ca dao, dân ca, bên hỏi, bên đáp, người bày tỏ tâm sự, người hô ứng, đồng vọng. Hỏi và đáp đều mở ra bao nhiêu kỉ niệm về một thời cách mạng và kháng chiến gian khổ mà anh hùng, mở ra bao nhiêu nỗi niềm nhớ thương. Thực ra, bên ngoài là đối đáp, còn bên trong là độc thoại, là sự biểu hiện tâm tư, tình cảm của chính nhà thơ, của những người tham gia kháng chiến. Qua hồi tưởng của chủ thể trữ tình, cảnh và người Việt Bắc hiện lên thật đẹp. Nỗi nhớ thiết tha của người cán bộ sắp về xuôi đã khắc sâu thiên nhiên núi rừng Việt Bắc vời vẻ đẹp vừa hiện thực, vừa thơ mộng, thi vi, gợi rõ những nét riêng biệt, độc đáo, khác hẳn những miền quê khác của đất nước. Chỉ những người đã từng sổng Việt Bắc, coi Việt Bắc cũng là quê hương thân thiết của mình mới có nỗi nhớ thật da diết, những cảm nhận thật sâu sắc, thấm thía về ánh nắng ban chiều, ánh trăng buổi tối, những bản làng mờ trong sương sớm, những bếp lửa hồng trong đêm khuya, những núi rừng sông suối mang những cái tên thân thuộc – tất cả là khoảng thời gian và không gian lóng lánh kỷ niệm: Nhớ gì như nhớ người yêu …………………. Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy. Nhưng có lẽ đẹp nhất trong nỗi nhớ về Việt Bắc là sự hoà quyện thắm thiết giữa cảnh với người, là ấn tượng không thể phai mờ về những người dân Việt Bắc cần cù trong lao động, thuỷ chung trong nghĩa tình: Ta về, mình có nhớ ta …………………….. Nhớ ai Tiếng hất ân tình thuỷ chung Có thể thấy thiên nhiên Việt Bắc hiện lên với bao vẻ đẹp thật đa dạng, phong phú, sinh động, thay đổi theo từng thời tiết, từng mùa. Gắn bó với từng khung cảnh ấy là hình ảnh những con người bình thường người đi làm nương rẫy, người đan nón, người hái măng,….Bằng những việc làm tưởng chừng nhỏ bé của mình, họ đã góp phần tạo nên sức mạnh vĩ đại của cuộc kháng chiến. Chính nghĩa tình của nhân dân với cán bộ, bộ đội, sự đồng cảm và san sẻ, cùng chung mọi gian khổ và niềm vui, cùng gánh vác mọi nhiệm vụ nặng nề, khó khăn,… tất cả càng làm Việt Bắc thêm ngời sáng trong tâm trí của nhà thơ. Việt Bắc – đó là hình ảnh những mái nhà “hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son”, là hình ảnh người mẹ trong cái “nắng cháy lưng- Địu con lên rẫy, bẻ từng bắp ngô”, là những tháng ngày đồng cam cộng khổ: Thương nhau, chia củ sắn lùi Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng,… Có thể nói, âm hưởng trữ tình vang vọng suốt bài thơ đã tạo nên khúc ca ngọt ngào, đằm thắm của tình đồng chí, nghĩa đồng bào, của tình yêu thiên nhiên, yêu đất nước, yêu đời. Theo dòng hồi tưởng của chủ thể trữ tình, bài thơ dẫn người đọc vào khung cảnh Việt Bắc chiến đấu với không gian núi rừng rộng lớn, những hoạt động tấp nập, những hình ảnh hào hùng, những âm thanh sôi nổi, dồn dập, náo nức. Cách mạng và kháng chiến đã xua tan vẻ âm u, hiu hắt của núi rừng, đồng thời khơi dậy sức sống mạnh mẽ của thiên nhiên và con người Việt Bắc. Bài thơ tràn đầy âm hưởng anh hùng ca, mang dáng vẻ một sử thi hiện dại, bởi vì chỉ cần phác hoạ khung cảnh hùng tráng ở Việt Bắc, Tố Hữu đã cho thấy khí thế vô cùng mạnh mẽ của cả một dân tộc đứng lên chiến đấu vì Tổ quốc độc lập, tự do: Những đường Việt Bắc của ta ……………………………. Đèn pha bật sáng như ngày mai lên. Xem thêm: Cảm nhận của em về truyện Cô bé bán diêm của An-đéc-xenDân tộc ấy đã vượt qua bao thiếu thốn, gian khổ, hi sinh để lập nên những kì tích, những chiến công gắn với những địa danh: Phủ Thông, đèo Giàng, sông Lô, phố Ràng, Hoà Bình, Tây Bắc, Điện Biên,… Nhưng Tố Hữu không chỉ miêu tả khí thế hào hùng của cuộc kháng chiến mà còn đi sâu lí giải những cội nguồn sức mạnh đã dẫn tới chiến thắng. Đó là sức mạnh của lòng căm thù: Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai, sức mạnh của tình nghĩa thuỷ chung: Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi, sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân, của sự hoà quyện gắn bó giữa con người với thiên nhiên – tất cả tạo thành hình ảnh đất nước đứng lên: Nhớ khi giặc đến giặc lùng ………………………… Đất trời ta cả chiến khu một lòng. Đặc biệt, với những lời thơ trang trọng mà thiết tha, Tố Hữu đã nhấn mạnh, khẳng định Việt Bắc là quê hương của Cách mạng, là căn cứ địa vững chắc, là đầu não của cuộc kháng chiến, nơi hội tụ bao tình cảm, suy nghĩ, niềm tin và hi vọng của mọi người Việt Nam yêu nước. Trong những năm tháng đen tối trước Cách mạng, hình ảnh Việt Bắc hiện dần từ mờ xa (mưa nguồn suốt lũ, những mây cùng mù )đến xác định như một chiến khu kiên cường, nơi nuôi dưỡng bao sức mạnh đấu tranh, nơi khai sinh những địa danh sẽ mãi mãi đi vào lịch sử dân tộc: Mình về,còn nhờ núi non ……………………… Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa. Trong những ngày kháng chiến gian lao, Việt Bắc là nơi có Cụ Hồ sáng soi, có Trung ương, Chính phủ luận bàn việc công. Để khẳng định niềm tin yêu của cả nước với Việt Bắc, Tố Hữu lại dùng những vần thơ rất mộc mạc, giản dị mà thắm thiết nghĩa tình: Ở đâu đau đớn giống nòi ………………………. Quê hương Cách mạng dựng nên Cộng hoà. Nghệ thuật biểu hiện của bài thơ đậm đà tính dân tộc. Điểm đáng chú ý trước hết là Tố Hữu đã phát huy được nhiều thế mạnh của thể lục bát truyền thống. Cấu tứ của bài thơ là cấu tứ ca dao với hai nhân vật trữ tình là ta và mình, người ra đi và người ở lại hát đối đáp với nhau. Trong cuộc hát đối đáp chia tay lịch sử này, người ở lại lên tiếng trước, nhớ về một thời xa hơn, thời đấu tranh gian khổ trước Cách mạng, sau đó người ra đi nối tiếp nhớ lại kỉ niệm thời chín năm kháng chiến. Nhà thơ rất chú ý sử dụng kiểu tiểu đối của ca dao, chẳng những có tác dụng nhấn mạnh ý mà còn tạo ra nhịp thuyên chuyển, cân xứng, hài hoà, làm cho lời thơ dễ nhớ, dễ thuộc, thấm sâu vào tâm tư: Mình về rừng núi nhớ ai Trám bùi để rụng măng mai để già; …Điều quân chiến dịch thu đông Nông thôn phát động giao thông mở đường,… Về ngôn ngữ thơ, Tố Hữu chú ý sử dụng lời ăn tiếng nói của nhân dân rất giản dị mộc mạc nhưng cũng rất sinh động để tái hiện lại một thời cách mạng và kháng chiến đầy gian khổ mà dạt dào tình nghĩa. Đó là thứ ngôn ngữ rất giàu hình ảnh cụ thể: Nghìn đêm thăm thẳm sương dày; Nắng trưa rực rỡ sao tràng;… và cũng là thứ ngôn ngữ rất giàu nhạc điệu: Chày đêm nện cối đều đều suối xa; Đêm đêm rầm rập như là đất rung;… Đặc biệt, thơ Tố Hữu sử dụng rất nhuần nhuyễn phép trùng điệp của ngôn ngữ dân gian: Mình về, mình có nhớ ta; Mình về, có nhớ chiến khu; Nhớ sao lớp học i tờ; Nhớ sao ngày tháng cơ quan,; Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều,… Tất cả tạo ra một giọng điệu trữ tình nghe thiết tha, êm ái, ngọt ngào như âm hưởng lời ru, đưa ta vào thế giới của kỉ niệm và tình nghĩa thuỷ chung. Bài thơ là khúc ca ân nghĩa, là hồi tưởng đầy xúc động và ân tình của Tố Hữu về chặng đường mười lăm năm đã qua của đất nước (từ khởi nghĩa Bắc Sơn năm 1940 đến hoà bình lập lại năm 1954), từ đó mà hướng về tương lai tươi sáng, nhắc nhớ tâm nguyện thuỷ chung. Viết về nghĩa tình dân tộc và hướng về đồng bào mình, Tố Hữu đã phát huy được hình thức nghệ thuật mang tính dân tộc, trong đó nổi bật là cách sử dụng thể thơ lục bát và ngôn ngữ thơ đậm sắc thái dân gian. Có thể coi Việt Bắc là khúc tình ca và cũng là khúc hùng ca về cách mạng, về cuộc kháng chiến và con người kháng chiến mà cội nguồn sâu xa của nó là tình yêu quê hương đất nước, là niềm tự hào về sức mạnh của nhân dân, là truyền thống ân nghĩa, đạo lí thuỷ chung của dân tộc Việt Nam. Nguồn Edufly Xem thêm: Cảm nhận về bài thơ Đây Thôn Vĩ Dạ lớp 11
Đề bài: Phân tích bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu Bài thơ Việt Bắc là đỉnh cao của thơ tố Hữu và cũng là thành tựu xuất sắc của thơ ca kháng chiến chống Pháp. Bài thơ ra đời nhân một sự kiện lịch sử: tháng 10 năm l954, những người kháng chiến rời căn cứ miền núi trở về miền xuôi. Từ điểm xuất phát ấy, bài thơ ngược về quá khứ để tưởng nhớ một thời cách mạng và kháng chiến gian khổ mà anh hùng, để nói lên nghĩa tình gắn bó thắm thiết với Việt Bắc, với Đảng và Bác Hồ, với đất nước và nhân dân – tất cả là nguồn sức mạnh tinh thần to lớn để dân tộc ta vững vàng bước tiếp trên con đường cách mạng. Nội dung ấy được thể hiện bằng hình thức đậm tính dân tộc.Bài thơ rất tiêu biểu cho phong cách thơ Tố Hữu. Hoàn cảnh sáng tác tạo nên một sắc thái tâm trạng đặc biệt, đầy xúc động bâng khuâng: Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…. Đó là cuộc chia tay của những người từng sống gắn bó suốt mười lăm năm ấy, có biết bao kỉ niệm ân tình, từng sẻ chia mọi cay đắng ngọt bùi, nay cùng nhau gợi lại những hồi ức đẹp đẽ, khẳng định nghĩa tình thuỷ chung và hướng về tương lai tươi sáng. Chuyện ân tình cách mạng đã được Tố Hữu khéo léo thể hiện như tâm trạng của tình yêu lứa đôi. Diễn biến tâm trạng như trong tình yêu lứa đôi được tổ chức theo lối đối đáp quen thuộc của ca dao, dân ca, bên hỏi, bên đáp, người bày tỏ tâm sự, người hô ứng, đồng vọng. Hỏi và đáp đều mở ra bao nhiêu kỉ niệm về một thời cách mạng và kháng chiến gian khổ mà anh hùng, mở ra bao nhiêu nỗi niềm nhớ thương. Thực ra, bên ngoài là đối đáp, còn bên trong là độc thoại, là sự biểu hiện tâm tư, tình cảm của chính nhà thơ, của những người tham gia kháng chiến. Qua hồi tưởng của chủ thể trữ tình, cảnh và người Việt Bắc hiện lên thật đẹp. Nỗi nhớ thiết tha của người cán bộ sắp về xuôi đã khắc sâu thiên nhiên núi rừng Việt Bắc vời vẻ đẹp vừa hiện thực, vừa thơ mộng, thi vi, gợi rõ những nét riêng biệt, độc đáo, khác hẳn những miền quê khác của đất nước. Chỉ những người đã từng sổng Việt Bắc, coi Việt Bắc cũng là quê hương thân thiết của mình mới có nỗi nhớ thật da diết, những cảm nhận thật sâu sắc, thấm thía về ánh nắng ban chiều, ánh trăng buổi tối, những bản làng mờ trong sương sớm, những bếp lửa hồng trong đêm khuya, những núi rừng sông suối mang những cái tên thân thuộc – tất cả là khoảng thời gian và không gian lóng lánh kỷ niệm: Nhớ gì như nhớ người yêu …………………. Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy. Nhưng có lẽ đẹp nhất trong nỗi nhớ về Việt Bắc là sự hoà quyện thắm thiết giữa cảnh với người, là ấn tượng không thể phai mờ về những người dân Việt Bắc cần cù trong lao động, thuỷ chung trong nghĩa tình: Ta về, mình có nhớ ta …………………….. Nhớ ai Tiếng hất ân tình thuỷ chung Có thể thấy thiên nhiên Việt Bắc hiện lên với bao vẻ đẹp thật đa dạng, phong phú, sinh động, thay đổi theo từng thời tiết, từng mùa. Gắn bó với từng khung cảnh ấy là hình ảnh những con người bình thường người đi làm nương rẫy, người đan nón, người hái măng,….Bằng những việc làm tưởng chừng nhỏ bé của mình, họ đã góp phần tạo nên sức mạnh vĩ đại của cuộc kháng chiến. Chính nghĩa tình của nhân dân với cán bộ, bộ đội, sự đồng cảm và san sẻ, cùng chung mọi gian khổ và niềm vui, cùng gánh vác mọi nhiệm vụ nặng nề, khó khăn,… tất cả càng làm Việt Bắc thêm ngời sáng trong tâm trí của nhà thơ. Việt Bắc – đó là hình ảnh những mái nhà “hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son”, là hình ảnh người mẹ trong cái “nắng cháy lưng- Địu con lên rẫy, bẻ từng bắp ngô”, là những tháng ngày đồng cam cộng khổ: Thương nhau, chia củ sắn lùi Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng,… Có thể nói, âm hưởng trữ tình vang vọng suốt bài thơ đã tạo nên khúc ca ngọt ngào, đằm thắm của tình đồng chí, nghĩa đồng bào, của tình yêu thiên nhiên, yêu đất nước, yêu đời. Theo dòng hồi tưởng của chủ thể trữ tình, bài thơ dẫn người đọc vào khung cảnh Việt Bắc chiến đấu với không gian núi rừng rộng lớn, những hoạt động tấp nập, những hình ảnh hào hùng, những âm thanh sôi nổi, dồn dập, náo nức. Cách mạng và kháng chiến đã xua tan vẻ âm u, hiu hắt của núi rừng, đồng thời khơi dậy sức sống mạnh mẽ của thiên nhiên và con người Việt Bắc. Bài thơ tràn đầy âm hưởng anh hùng ca, mang dáng vẻ một sử thi hiện dại, bởi vì chỉ cần phác hoạ khung cảnh hùng tráng ở Việt Bắc, Tố Hữu đã cho thấy khí thế vô cùng mạnh mẽ của cả một dân tộc đứng lên chiến đấu vì Tổ quốc độc lập, tự do: Những đường Việt Bắc của ta ……………………………. Đèn pha bật sáng như ngày mai lên. Xem thêm: Cảm nhận của em về truyện Cô bé bán diêm của An-đéc-xenDân tộc ấy đã vượt qua bao thiếu thốn, gian khổ, hi sinh để lập nên những kì tích, những chiến công gắn với những địa danh: Phủ Thông, đèo Giàng, sông Lô, phố Ràng, Hoà Bình, Tây Bắc, Điện Biên,… Nhưng Tố Hữu không chỉ miêu tả khí thế hào hùng của cuộc kháng chiến mà còn đi sâu lí giải những cội nguồn sức mạnh đã dẫn tới chiến thắng. Đó là sức mạnh của lòng căm thù: Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai, sức mạnh của tình nghĩa thuỷ chung: Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi, sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân, của sự hoà quyện gắn bó giữa con người với thiên nhiên – tất cả tạo thành hình ảnh đất nước đứng lên: Nhớ khi giặc đến giặc lùng ………………………… Đất trời ta cả chiến khu một lòng. Đặc biệt, với những lời thơ trang trọng mà thiết tha, Tố Hữu đã nhấn mạnh, khẳng định Việt Bắc là quê hương của Cách mạng, là căn cứ địa vững chắc, là đầu não của cuộc kháng chiến, nơi hội tụ bao tình cảm, suy nghĩ, niềm tin và hi vọng của mọi người Việt Nam yêu nước. Trong những năm tháng đen tối trước Cách mạng, hình ảnh Việt Bắc hiện dần từ mờ xa (mưa nguồn suốt lũ, những mây cùng mù )đến xác định như một chiến khu kiên cường, nơi nuôi dưỡng bao sức mạnh đấu tranh, nơi khai sinh những địa danh sẽ mãi mãi đi vào lịch sử dân tộc: Mình về,còn nhờ núi non ……………………… Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa. Trong những ngày kháng chiến gian lao, Việt Bắc là nơi có Cụ Hồ sáng soi, có Trung ương, Chính phủ luận bàn việc công. Để khẳng định niềm tin yêu của cả nước với Việt Bắc, Tố Hữu lại dùng những vần thơ rất mộc mạc, giản dị mà thắm thiết nghĩa tình: Ở đâu đau đớn giống nòi ………………………. Quê hương Cách mạng dựng nên Cộng hoà. Nghệ thuật biểu hiện của bài thơ đậm đà tính dân tộc. Điểm đáng chú ý trước hết là Tố Hữu đã phát huy được nhiều thế mạnh của thể lục bát truyền thống. Cấu tứ của bài thơ là cấu tứ ca dao với hai nhân vật trữ tình là ta và mình, người ra đi và người ở lại hát đối đáp với nhau. Trong cuộc hát đối đáp chia tay lịch sử này, người ở lại lên tiếng trước, nhớ về một thời xa hơn, thời đấu tranh gian khổ trước Cách mạng, sau đó người ra đi nối tiếp nhớ lại kỉ niệm thời chín năm kháng chiến. Nhà thơ rất chú ý sử dụng kiểu tiểu đối của ca dao, chẳng những có tác dụng nhấn mạnh ý mà còn tạo ra nhịp thuyên chuyển, cân xứng, hài hoà, làm cho lời thơ dễ nhớ, dễ thuộc, thấm sâu vào tâm tư: Mình về rừng núi nhớ ai Trám bùi để rụng măng mai để già; …Điều quân chiến dịch thu đông Nông thôn phát động giao thông mở đường,… Về ngôn ngữ thơ, Tố Hữu chú ý sử dụng lời ăn tiếng nói của nhân dân rất giản dị mộc mạc nhưng cũng rất sinh động để tái hiện lại một thời cách mạng và kháng chiến đầy gian khổ mà dạt dào tình nghĩa. Đó là thứ ngôn ngữ rất giàu hình ảnh cụ thể: Nghìn đêm thăm thẳm sương dày; Nắng trưa rực rỡ sao tràng;… và cũng là thứ ngôn ngữ rất giàu nhạc điệu: Chày đêm nện cối đều đều suối xa; Đêm đêm rầm rập như là đất rung;… Đặc biệt, thơ Tố Hữu sử dụng rất nhuần nhuyễn phép trùng điệp của ngôn ngữ dân gian: Mình về, mình có nhớ ta; Mình về, có nhớ chiến khu; Nhớ sao lớp học i tờ; Nhớ sao ngày tháng cơ quan,; Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều,… Tất cả tạo ra một giọng điệu trữ tình nghe thiết tha, êm ái, ngọt ngào như âm hưởng lời ru, đưa ta vào thế giới của kỉ niệm và tình nghĩa thuỷ chung. Bài thơ là khúc ca ân nghĩa, là hồi tưởng đầy xúc động và ân tình của Tố Hữu về chặng đường mười lăm năm đã qua của đất nước (từ khởi nghĩa Bắc Sơn năm 1940 đến hoà bình lập lại năm 1954), từ đó mà hướng về tương lai tươi sáng, nhắc nhớ tâm nguyện thuỷ chung. Viết về nghĩa tình dân tộc và hướng về đồng bào mình, Tố Hữu đã phát huy được hình thức nghệ thuật mang tính dân tộc, trong đó nổi bật là cách sử dụng thể thơ lục bát và ngôn ngữ thơ đậm sắc thái dân gian. Có thể coi Việt Bắc là khúc tình ca và cũng là khúc hùng ca về cách mạng, về cuộc kháng chiến và con người kháng chiến mà cội nguồn sâu xa của nó là tình yêu quê hương đất nước, là niềm tự hào về sức mạnh của nhân dân, là truyền thống ân nghĩa, đạo lí thuỷ chung của dân tộc Việt Nam. Nguồn Edufly Xem thêm: Cảm nhận về bài thơ Đây Thôn Vĩ Dạ lớp 11
Phân tích bài thơ và nói lên cảm nghĩ của em về Báo kính cảnh giới Hướng dẫn Bảo kính cảnh giới – số 43 Rồi hóng mát thuở ngày trường, Hoè lục đùn đùn tán rợp trương. Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ, Hồng liên trì đã tịn mùi hương. Lao xao chợ cá làng ngư phủ, Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương. Dễ có ngu cầm đàn một tiếng, Dân giàu đủ khắp đòi phương. ("Quốc âm thi tập") Nguyễn Trãi (1380- 1442) là đại thi hào dân tộc, người anh hùng cứu quốc thuở “bình Ngô", danh nhân văn hóa Đại Việt. Thơ chữ Hán cũng như thơ chữ Nôm của Nguyễn Trãi đẹp đẽ, sâu sắc, biểu tượng cao quý của nền văn hiến Việt Nam. “Quốc âm thi tập ” của Nguyễn Trãi hiện còn 254 bài thơ, được chia nhiều loại, nhiều thể tài khác nhau: Ngôn chí (21 bài), Thuật hứng (25 bài), Bảo kính cảnh giới (61 bài)… Phần lớn các bài thơ trong "Quốc âm thi tập ” không có nhan đề. Đây là bài thơ 43 trong “Bảo kính cảnh giới”. Các bài thơ trong "Bảo kính cảnh giới ” hàm chứa nội dung giáo huấn trực tiếp, những bài thơ này rất đậm đà chất trữ tình, cho ta nhiều thú vị. Đề tài mùa hè, cảnh hè được nói nhiều trong thơ văn cổ dân tộc. "Quốc âm thi tập”, “Hồng Đức quốc âm thi tập”, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Khuyến… đều có một số bài thơ viết về mùa hè rất hay. Bài thơ này là một thi phẩm khá tiêu biểu cho ngôn ngữ thi ca Ức Trai, đậm đà dấu ấn thời đại, thời Lê, thế ki XV nói lên cảnh sắc mùa hè làngquê và nỗi ước mong của nhà thơ. Câu 1 (lục ngôn) nói lên một cách sống của thi nhân. Câu thơ bình dị như một lời nói vui vẻ, thoải mái, hồn nhiên: "Rồi bóng mát thuở ngày trường” Đằng sau vần thơ là hình ảnh một cụ già, tay cầm quạt giấy “Hài cỏ đẹp chân đi đủngđỉnh – Áo bô đen cật vận xềnh xoàng" đang đi dạo mát. Lúc bấy giờ, ức Trai không bị ràng buộc bởi “ángmận đào ”, vòng "danh lợi ” nữa, mà đã được vui thú nơi vườn ruộng, làm bạn với cây cỏ, hoa lá nơi quê nhà. “Ngày trường" là ngày dài. "Rồi" là tiếng cổ, nghĩa là rỗi rãi, nhàn hạ, cả trong công việc lẫn tâm hồn. Câu thơ phản ánh một nếp sống sinh hoạt nhàn nhã: trong buổi ngày rỗi rãi, lấy việc hóng mát làm niềm vui di dưỡng tinh thần. Ta có thể phán đoán úc Trai viết về bài thơ này khi ông đã lui về Côn Sơn ở ẩn. Năm câu thơ tiếp theo tả cảnh làng quê Việt Nam xa xưa. Các câu 2, 3, 4 nói về cảnh sắc, hai câu 5, 6 tả âm thanh chiều hè. Cảnh sắc hè trước hết là bóng hoè, màu hoè. Lá hoè xanh thẫm, xanh lục. Cành hoè sum sê, um tùm, lá "đùn đùn " lên thành chùm, thành đám xanh tươi, tràn đầy sức sống: "Hoè lục đùn đùn tán rợp trương ” Tán hoè toả bóng mát, che rợp sân, ngõ, vườn nhà, “trương” lên như chiếc ô, chiếc lọng căng tròn. Mỗi từ ngữ là một nét vẽ màu sắc tạo hình, gợi tả sức sống của cảnh vật đồng quê trong những ngày hè: lục, đùn đùn, tán, rợp trương. Ngôn ngữ thơ bình dị, hàm súc và ấn tượng. Cây hoè vốn được trồng nhiều ở làng quê; vừa làm cảnh, vừa cho bóng mát. Hoè nở hoa vào mùa hè, màu vàng, làm dược liệu, làm chè giải nhiệt. Trong văn học, cây hoè thường gắn liền với điển tích “giấc hoè” (giấc mộng đẹp), “sân hoè” (chỉ nơi cha mẹ ở). Truyện Kiều có câu: “Sân hoè đôi chút thơ ngây – Trân cam ai kẻ đỡ thay việc mình Trong thơ Ức Trai, Lê Thánh Tông… hình ảnh cây hoè xuất hiện nhiều lần được miêu tả bằng một thứ ngôn ngữ trau chuốt, đậm đà: “Lại có hoa hoè chen bóng lục ” ("Cảnh hè" – ức Trai) “Có thuở ngày hè trương tán lục, Đùn đùn bóng rợp cửa tam công ("Hoè" – ức Trai) "Đằng đẵng ngày chầy giương rán nắng, Đùn đùn bóngrợp phủ màn hoè ” ("Vịnh cảnh mùa hè" – "Hồng Đức quốc âm thi tập"). “Rợp rợp màn hoè bóng mới xây, Choi chói hoa vàng đưa gió Đùn đùn tán lục gươngmây’’. ("Màn hoè" – Lê Thánh Tông) Câu 3 nói về khóm thạch lựu ở hiên nhà trổ hoa rực rỡ: “Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ”. “Thức” là tiếng cổ chỉ màu vẻ, dáng vẻ. Trong cành lá xanh biếc, những đoá hoa lựu như chiếc đèn lồng bé tí phóng ra, chiếu ra, "phun ” ra những tia lửa đỏ chói, đỏ rực. Chữ “phim ” được dùng rất hình tượng và thần tình. Lê Thánh Tông viết về hoa lựu: “Ngoài hiên lửa lựu luống thè be ” ("Mùa hè") Xem thêm: Anh (chị) hiểu như thế nào về hình ảnh ngọc trai – giếng nước và cách đánh giá của nhân dân đối với Trọng Thuỷ? “Truyện Kiều ” cũng có câu: “Đầu tưởng lửa lựu lập loè đơm bông” – Từ hoa lựu “phun thức đỏ”, "lửa lựu luống thè be" đến hình ảnh “đầu tườnglửa lựu lập loè đơm bông ” là cả một quá trình sáng tạo ngôn ngữ thi ca của các thế hệ thi sĩ dân tộc qua 5 thế kỉ từ "Quốc âm thi tập ” đến “Truyện Kiều vẻ đẹp ngôn ngữ thi ca được trau chuốt như ngọc quý sẽ ánh lên màu sắc huyền diệu là như thế đó!. Câu 4 nói về sen: "Hồng liên trì đã rịn mùi hương". “Tin ” là hết (tiếng cổ). Sen hồng vẫn nở thắm ao làng, nhưng hương đã nhạt, đã dần phai. Sen là biểu tượng cho cảnh sắc mùa hè làng quê ta. Khi sen trong ao làng đã “tin mùi hương” tức là đã cuối hè. Nguyễn Trãi đã chọn hoè, thạch lựu, sen hồng (hồng liên) để tả và đưa vào thơ. Cảnh sắc ấy vô cùng xinh đẹp và bình dị. Nhà thơ đã gắn tâm hồn mình với cảnh vật mùa hè bằng một tình quê đẹp. Thiên nhiên trong thơ úc Trai rất hữu tình và thân thuộc, cỏ cây gần gũi, mến yêu: “Tá lòngthanh vị núc nác, Vun đất ải lảnh mồng tơi” (Ngôn chí – số 9) “Ao cạn vớt bèo cấy muống, Đìa thanh phát cỏ ươngsen” ("Thuật hứng" – số 24) Hè rất đẹp, rộn ràng trong khúc nhạc làng quê. Ngoài tiếng cuốc, tiếng chim tu hú, tiếng sáo diều còn có tiếng ve, tiếng cười nói "lao xao " của đời thường: “Lao xao chợ cá làng ngư phù, Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương". Sau khi tả hoè màu "lục”, lựu "phun thức đỏ”, sen hồng đã “tịn mùi hương”, nhà thơ nói đến âm thanh mùa hè, khúc nhạc đồng quê. Tiếng “lao xao” từ một chợ cá làng chài xa vọng đến, đó là tín hiệu cuộc đời dân dã đầy muối mặn và mồ hôi. Nhà thơ lắng nghe nhịp sống đời thường ấy với bao niềm vui. “Lao xao” là từ láy tượng thanh gợi tả sự ồn ào, nhộn nhịp. Hoà nhịp với tiếng lao xao chợ cá là tiếng ve-vang lên rộn rã, nhịp nhàng. "Cầm ve”, hình ảnh ẩn dụ, tả âm thanh tiếng ve kêu như tiếng đàn cầm. "Dắngdỏi ” nghĩa là inh ỏi, âm sắc tiếng ve trầm bổng, ngân dài vang xa. Ngôi lầu buổi xế chiều trở nên náo động, rộn ràng. Nhà thơ lấy tiếng ve để đặc tả khung cảnh một chiều hè làng quê lúc hoàng hôn buông dần xuống mái lầu (lầu tịch dương) là một nét vẽ tinh tế đầy chất thơ làm nổi bật cái không khí êm ả một chiều hè nơi thôn dã: “Dắng dỏi cầm ve //lầu tịch dương” Và đây, là tiếng chim cuốc, tiếng ve ngày hè nơi đồng quê được nói đến trong thơ “HộiTao Đàn ” dưới triều vua Lê Thánh Tông: “Tường nọ nhặt khoan vang tiếng cuốc, Cành kia dắng dỏi gảy cầm ve (Vịnh cảnh mùa hè). Trở về “Côn Sơn quê cũ”, Ức Trai đã từng bồi hồi “trong tiếng cuốc kêu xuân đã muộn ”, giờ đây ông lại thả hồn mình trong khúc ca dân dã “cầm ve ” buổi chiều tà cuối hè. Tiếng ve lúc hoàng hôn thường gợi nhiều bâng khuâng, vì ngày tàn, màn đêm đang dần dần buông xuống. Nhưng với Ức Trai, nó đã trở thành "cầm ve” nhặt khoan trầm bổng, dắng dỏi vang xa, làm cho khung cảnh làng quê một buổi chiều tà bỗng rộn lên bao niềm vui cuộc đời. Hai câu kết diễn tả ước mong nhà thơ: "Dễ có Nạn cầm đàn một tiếng, Dân giàu đủ khắp đòi phương’’. "Dễ có ” nghĩa là hãy để (cho ta) có; học giả Đào Duy Anh ghi chú là “Lẽ có” và giải thích “Đáng lẽ có… Ngu cầm là cây đàn thần của vua Thuấn (Nghiêu Thuấn là hai ông vua thời cổ đại Trung Quốc – triều đại lí tưởng: nhân dân được sống trong hạnh phúc, thanh bình). Câu kết, cảm xúc trữ tình được diễn tả bằng một điển tích phản ánh khát vọng cao đẹp của nhà thơ. Ức Trai chân thành bày tỏ: Hãyđể cho ta cây đàn thần của vua Thuấn, ta sẽ gảy lên khúc '‘Nam phong”, cầu mong cho mọi nhà, mọi chốn, khắp các phương trời (đòi phương) được ấm no, giàu có. Hai câu kết toát lên một tình yêu lớn. Con người Ức Trai lúc nào cũng hướng về nhân dân, mong ước cho nhân dân được ấm no và nguyện hi sinh phấn đấu cho hoà bình, hạnh phúc của dân tộc. Trong thơ Ức Trai, hai câu kết luôn luôn là sự hội tụ bừng sáng của những tư tưởng tình cảm cao cả, đẹp đẽ. Vì thế mà câu kết đã để lại trong tâm hồn người đọc những ấn tượng vô cùng mạnh mẽ: "Cảnh thanh dường ấy chẳng về nghỉ, Lẩn thẩn làm chi áng mận đào " (Mạn thuật – số 13) "Bui một tấc lòngưu ái cũ, Đêm ngày cuồn cuộn nước triều đông”. ("Thuật hứng" – số 5) Bài thơ Nôm ra đời gần 600 năm về trước miêu tả cảnh tình mùa hè nơi đồng quê, đã đem đến cho chúng ta nhiều thú vị văn chương. Một giọng thơ thâm trầm, hồn hậu đáng yêu. Nhiều tiếng cổ, cấu trúc câu thơ thất ngôn xen lục ngôn. Phép đối ở phần thực và phần luận khá chặt chẽ về ngôn từ, thanh điệu, hình ảnh và ý tưởng. Cảnh sắc và âm thanh mùa hè quê ta xa xưa như sống dậy qua những vần thơ nhuần nhị đầy cá tính sáng tạo. Ức Trai đã gửi gắm một tình yêu thiên nhiên nồng hậu, một tấm lòng thiết tha với cuộc sống, một niềm ước mong tốt đẹp cho hạnh phúc của nhân dân. Vĩ đại thay Ức Trai. Bài học thương yêu nhân dân mà ông nói đến lúc nào cũng mới mẻ và đậm đà. Nguồn: Những bài văn hayXem thêm: Bài thơ “Nam quốc sơn hà” của Lí Thường Kiệt vừa là một áng thơ yêu nước vừa là một bài thơ đánh giặc. Em hãy chứng minh ý kiến đó
Phân tích bài thơ và nói lên cảm nghĩ của em về Báo kính cảnh giới Hướng dẫn Bảo kính cảnh giới – số 43 Rồi hóng mát thuở ngày trường, Hoè lục đùn đùn tán rợp trương. Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ, Hồng liên trì đã tịn mùi hương. Lao xao chợ cá làng ngư phủ, Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương. Dễ có ngu cầm đàn một tiếng, Dân giàu đủ khắp đòi phương. ("Quốc âm thi tập") Nguyễn Trãi (1380- 1442) là đại thi hào dân tộc, người anh hùng cứu quốc thuở “bình Ngô", danh nhân văn hóa Đại Việt. Thơ chữ Hán cũng như thơ chữ Nôm của Nguyễn Trãi đẹp đẽ, sâu sắc, biểu tượng cao quý của nền văn hiến Việt Nam. “Quốc âm thi tập ” của Nguyễn Trãi hiện còn 254 bài thơ, được chia nhiều loại, nhiều thể tài khác nhau: Ngôn chí (21 bài), Thuật hứng (25 bài), Bảo kính cảnh giới (61 bài)… Phần lớn các bài thơ trong "Quốc âm thi tập ” không có nhan đề. Đây là bài thơ 43 trong “Bảo kính cảnh giới”. Các bài thơ trong "Bảo kính cảnh giới ” hàm chứa nội dung giáo huấn trực tiếp, những bài thơ này rất đậm đà chất trữ tình, cho ta nhiều thú vị. Đề tài mùa hè, cảnh hè được nói nhiều trong thơ văn cổ dân tộc. "Quốc âm thi tập”, “Hồng Đức quốc âm thi tập”, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Khuyến… đều có một số bài thơ viết về mùa hè rất hay. Bài thơ này là một thi phẩm khá tiêu biểu cho ngôn ngữ thi ca Ức Trai, đậm đà dấu ấn thời đại, thời Lê, thế ki XV nói lên cảnh sắc mùa hè làngquê và nỗi ước mong của nhà thơ. Câu 1 (lục ngôn) nói lên một cách sống của thi nhân. Câu thơ bình dị như một lời nói vui vẻ, thoải mái, hồn nhiên: "Rồi bóng mát thuở ngày trường” Đằng sau vần thơ là hình ảnh một cụ già, tay cầm quạt giấy “Hài cỏ đẹp chân đi đủngđỉnh – Áo bô đen cật vận xềnh xoàng" đang đi dạo mát. Lúc bấy giờ, ức Trai không bị ràng buộc bởi “ángmận đào ”, vòng "danh lợi ” nữa, mà đã được vui thú nơi vườn ruộng, làm bạn với cây cỏ, hoa lá nơi quê nhà. “Ngày trường" là ngày dài. "Rồi" là tiếng cổ, nghĩa là rỗi rãi, nhàn hạ, cả trong công việc lẫn tâm hồn. Câu thơ phản ánh một nếp sống sinh hoạt nhàn nhã: trong buổi ngày rỗi rãi, lấy việc hóng mát làm niềm vui di dưỡng tinh thần. Ta có thể phán đoán úc Trai viết về bài thơ này khi ông đã lui về Côn Sơn ở ẩn. Năm câu thơ tiếp theo tả cảnh làng quê Việt Nam xa xưa. Các câu 2, 3, 4 nói về cảnh sắc, hai câu 5, 6 tả âm thanh chiều hè. Cảnh sắc hè trước hết là bóng hoè, màu hoè. Lá hoè xanh thẫm, xanh lục. Cành hoè sum sê, um tùm, lá "đùn đùn " lên thành chùm, thành đám xanh tươi, tràn đầy sức sống: "Hoè lục đùn đùn tán rợp trương ” Tán hoè toả bóng mát, che rợp sân, ngõ, vườn nhà, “trương” lên như chiếc ô, chiếc lọng căng tròn. Mỗi từ ngữ là một nét vẽ màu sắc tạo hình, gợi tả sức sống của cảnh vật đồng quê trong những ngày hè: lục, đùn đùn, tán, rợp trương. Ngôn ngữ thơ bình dị, hàm súc và ấn tượng. Cây hoè vốn được trồng nhiều ở làng quê; vừa làm cảnh, vừa cho bóng mát. Hoè nở hoa vào mùa hè, màu vàng, làm dược liệu, làm chè giải nhiệt. Trong văn học, cây hoè thường gắn liền với điển tích “giấc hoè” (giấc mộng đẹp), “sân hoè” (chỉ nơi cha mẹ ở). Truyện Kiều có câu: “Sân hoè đôi chút thơ ngây – Trân cam ai kẻ đỡ thay việc mình Trong thơ Ức Trai, Lê Thánh Tông… hình ảnh cây hoè xuất hiện nhiều lần được miêu tả bằng một thứ ngôn ngữ trau chuốt, đậm đà: “Lại có hoa hoè chen bóng lục ” ("Cảnh hè" – ức Trai) “Có thuở ngày hè trương tán lục, Đùn đùn bóng rợp cửa tam công ("Hoè" – ức Trai) "Đằng đẵng ngày chầy giương rán nắng, Đùn đùn bóngrợp phủ màn hoè ” ("Vịnh cảnh mùa hè" – "Hồng Đức quốc âm thi tập"). “Rợp rợp màn hoè bóng mới xây, Choi chói hoa vàng đưa gió Đùn đùn tán lục gươngmây’’. ("Màn hoè" – Lê Thánh Tông) Câu 3 nói về khóm thạch lựu ở hiên nhà trổ hoa rực rỡ: “Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ”. “Thức” là tiếng cổ chỉ màu vẻ, dáng vẻ. Trong cành lá xanh biếc, những đoá hoa lựu như chiếc đèn lồng bé tí phóng ra, chiếu ra, "phun ” ra những tia lửa đỏ chói, đỏ rực. Chữ “phim ” được dùng rất hình tượng và thần tình. Lê Thánh Tông viết về hoa lựu: “Ngoài hiên lửa lựu luống thè be ” ("Mùa hè") Xem thêm: Anh (chị) hiểu như thế nào về hình ảnh ngọc trai – giếng nước và cách đánh giá của nhân dân đối với Trọng Thuỷ? “Truyện Kiều ” cũng có câu: “Đầu tưởng lửa lựu lập loè đơm bông” – Từ hoa lựu “phun thức đỏ”, "lửa lựu luống thè be" đến hình ảnh “đầu tườnglửa lựu lập loè đơm bông ” là cả một quá trình sáng tạo ngôn ngữ thi ca của các thế hệ thi sĩ dân tộc qua 5 thế kỉ từ "Quốc âm thi tập ” đến “Truyện Kiều vẻ đẹp ngôn ngữ thi ca được trau chuốt như ngọc quý sẽ ánh lên màu sắc huyền diệu là như thế đó!. Câu 4 nói về sen: "Hồng liên trì đã rịn mùi hương". “Tin ” là hết (tiếng cổ). Sen hồng vẫn nở thắm ao làng, nhưng hương đã nhạt, đã dần phai. Sen là biểu tượng cho cảnh sắc mùa hè làng quê ta. Khi sen trong ao làng đã “tin mùi hương” tức là đã cuối hè. Nguyễn Trãi đã chọn hoè, thạch lựu, sen hồng (hồng liên) để tả và đưa vào thơ. Cảnh sắc ấy vô cùng xinh đẹp và bình dị. Nhà thơ đã gắn tâm hồn mình với cảnh vật mùa hè bằng một tình quê đẹp. Thiên nhiên trong thơ úc Trai rất hữu tình và thân thuộc, cỏ cây gần gũi, mến yêu: “Tá lòngthanh vị núc nác, Vun đất ải lảnh mồng tơi” (Ngôn chí – số 9) “Ao cạn vớt bèo cấy muống, Đìa thanh phát cỏ ươngsen” ("Thuật hứng" – số 24) Hè rất đẹp, rộn ràng trong khúc nhạc làng quê. Ngoài tiếng cuốc, tiếng chim tu hú, tiếng sáo diều còn có tiếng ve, tiếng cười nói "lao xao " của đời thường: “Lao xao chợ cá làng ngư phù, Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương". Sau khi tả hoè màu "lục”, lựu "phun thức đỏ”, sen hồng đã “tịn mùi hương”, nhà thơ nói đến âm thanh mùa hè, khúc nhạc đồng quê. Tiếng “lao xao” từ một chợ cá làng chài xa vọng đến, đó là tín hiệu cuộc đời dân dã đầy muối mặn và mồ hôi. Nhà thơ lắng nghe nhịp sống đời thường ấy với bao niềm vui. “Lao xao” là từ láy tượng thanh gợi tả sự ồn ào, nhộn nhịp. Hoà nhịp với tiếng lao xao chợ cá là tiếng ve-vang lên rộn rã, nhịp nhàng. "Cầm ve”, hình ảnh ẩn dụ, tả âm thanh tiếng ve kêu như tiếng đàn cầm. "Dắngdỏi ” nghĩa là inh ỏi, âm sắc tiếng ve trầm bổng, ngân dài vang xa. Ngôi lầu buổi xế chiều trở nên náo động, rộn ràng. Nhà thơ lấy tiếng ve để đặc tả khung cảnh một chiều hè làng quê lúc hoàng hôn buông dần xuống mái lầu (lầu tịch dương) là một nét vẽ tinh tế đầy chất thơ làm nổi bật cái không khí êm ả một chiều hè nơi thôn dã: “Dắng dỏi cầm ve //lầu tịch dương” Và đây, là tiếng chim cuốc, tiếng ve ngày hè nơi đồng quê được nói đến trong thơ “HộiTao Đàn ” dưới triều vua Lê Thánh Tông: “Tường nọ nhặt khoan vang tiếng cuốc, Cành kia dắng dỏi gảy cầm ve (Vịnh cảnh mùa hè). Trở về “Côn Sơn quê cũ”, Ức Trai đã từng bồi hồi “trong tiếng cuốc kêu xuân đã muộn ”, giờ đây ông lại thả hồn mình trong khúc ca dân dã “cầm ve ” buổi chiều tà cuối hè. Tiếng ve lúc hoàng hôn thường gợi nhiều bâng khuâng, vì ngày tàn, màn đêm đang dần dần buông xuống. Nhưng với Ức Trai, nó đã trở thành "cầm ve” nhặt khoan trầm bổng, dắng dỏi vang xa, làm cho khung cảnh làng quê một buổi chiều tà bỗng rộn lên bao niềm vui cuộc đời. Hai câu kết diễn tả ước mong nhà thơ: "Dễ có Nạn cầm đàn một tiếng, Dân giàu đủ khắp đòi phương’’. "Dễ có ” nghĩa là hãy để (cho ta) có; học giả Đào Duy Anh ghi chú là “Lẽ có” và giải thích “Đáng lẽ có… Ngu cầm là cây đàn thần của vua Thuấn (Nghiêu Thuấn là hai ông vua thời cổ đại Trung Quốc – triều đại lí tưởng: nhân dân được sống trong hạnh phúc, thanh bình). Câu kết, cảm xúc trữ tình được diễn tả bằng một điển tích phản ánh khát vọng cao đẹp của nhà thơ. Ức Trai chân thành bày tỏ: Hãyđể cho ta cây đàn thần của vua Thuấn, ta sẽ gảy lên khúc '‘Nam phong”, cầu mong cho mọi nhà, mọi chốn, khắp các phương trời (đòi phương) được ấm no, giàu có. Hai câu kết toát lên một tình yêu lớn. Con người Ức Trai lúc nào cũng hướng về nhân dân, mong ước cho nhân dân được ấm no và nguyện hi sinh phấn đấu cho hoà bình, hạnh phúc của dân tộc. Trong thơ Ức Trai, hai câu kết luôn luôn là sự hội tụ bừng sáng của những tư tưởng tình cảm cao cả, đẹp đẽ. Vì thế mà câu kết đã để lại trong tâm hồn người đọc những ấn tượng vô cùng mạnh mẽ: "Cảnh thanh dường ấy chẳng về nghỉ, Lẩn thẩn làm chi áng mận đào " (Mạn thuật – số 13) "Bui một tấc lòngưu ái cũ, Đêm ngày cuồn cuộn nước triều đông”. ("Thuật hứng" – số 5) Bài thơ Nôm ra đời gần 600 năm về trước miêu tả cảnh tình mùa hè nơi đồng quê, đã đem đến cho chúng ta nhiều thú vị văn chương. Một giọng thơ thâm trầm, hồn hậu đáng yêu. Nhiều tiếng cổ, cấu trúc câu thơ thất ngôn xen lục ngôn. Phép đối ở phần thực và phần luận khá chặt chẽ về ngôn từ, thanh điệu, hình ảnh và ý tưởng. Cảnh sắc và âm thanh mùa hè quê ta xa xưa như sống dậy qua những vần thơ nhuần nhị đầy cá tính sáng tạo. Ức Trai đã gửi gắm một tình yêu thiên nhiên nồng hậu, một tấm lòng thiết tha với cuộc sống, một niềm ước mong tốt đẹp cho hạnh phúc của nhân dân. Vĩ đại thay Ức Trai. Bài học thương yêu nhân dân mà ông nói đến lúc nào cũng mới mẻ và đậm đà. Nguồn: Những bài văn hayXem thêm: Bài thơ “Nam quốc sơn hà” của Lí Thường Kiệt vừa là một áng thơ yêu nước vừa là một bài thơ đánh giặc. Em hãy chứng minh ý kiến đó
Đề bài: Anh chị hãy viết bài văn phân tích bài thơ Vào nhà ngục Quảng Đông của Phan Bội Châu. Bài phân tích của một học sinh lớp 8 trường Chu Văn An. Đầu thế ki XX, khi các cuộc khởi nghĩa chống thực dân Pháp xâm lược ở cả ba miền lần lượt thất bại, một bầu không khí đau thương bao trùm trên đất nước ta. Trong văn chương, bên cạnh những bài ca hùng tráng đã xuất hiện những tiếng thở than bi phẫn và bất lực. Phong trào cần vương do vua Hàm Nghi khởi xướng đã bị dập tắt. Ông vua yêu nước bị chính quyền thực dân bắt đi đày trên một hòn đảo mịt mù giữa đại dương, cách biệt hẳn đất nước và dân tộc. Tuy vậy, chí báo thù phục quốc vẫn âm ỉ nung nấu trong mọi tầng lớp nhân dân. Bước sang đầu thế ki XX, luồng gió mới của tư tưởng dân chủ tư sản từ Âu châu thổi tới, từ Nhật Bản, Trung Hoa tràn sang đã thúc đẩy những người có tâm huyết với sự nghiệp cứu nước lại náo nức khởi sự một cuộc đấu tranh theo khuynh hướng mới, với mục đích vừa đánh đuổi kẻ thù xâm lược, vừa tấn công vào giai cấp phong kiến tay sai cam tâm bán nước. Chủ trương của họ là khai thông dân khí, mở mang dân trí, chấn hưng công thương nghiệp, để nước nhà phát triển toàn diện, đạt tới mức văn minh, giàu mạnh. Phương pháp thực hiện có thể khác nhau (có phái chủ trương bạo động, có phái chủ trương ôn hòa) nhưng đều nhằm mục đích cao cả là đem lại độc lập, tự do cho dân tộc. Bởi thế, các khuynh hướng không loại trừ nhau mà hợp nhất thành cao trào đấu tranh cách mạng lan rộng khắp nơi. Thực dân Pháp khủng bố dã man, phong trào tạm lắng, những người lãnh đạo phần lớn phải vào tù hoặc lưu lạc ở nước ngoài. Một số chí sĩ cách mạng nổi tiếng đầu thế ki XX như Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh… đều xuất thân là nhà Nho nhưng lại tiếp thu rất nhanh những tư tưởng tiến bộ của thời đại. Trong lao tù của bọn thực dân, họ thường làm thơ để bày tỏ chí khí. Đó là những lời gan ruột, tâm huyết của những người anh hùng cứu nước nên có sức mạnh làm rung động lòng người. Từ năm 1912, thực dân Pháp đã kết án tử hình vắng mặt nhà chí sĩ Phan Bội Châu. Khi bị bọn quân phiệt tỉnh Quảng Đông (Trung Quốc) bắt giam và biết chúng có ý định trao trả cho Pháp, cụ Phan Bội Châu đã nghĩ rằng mình khó có thể thoát chết. Bởi thế, đầu năm 1914, ngay từ những ngày đầu bị giam vào ngục, cụ đã viết Ngục trung thư; nhằm ghi lại những điều tâm huyết để lại cho đồng bào, đồng chí. Bài thơ Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác theo lời cụ là làm để tự an ủi mình. Cụ còn kể rằng sau khi làm xong, cụ đã “ngâm nga lớn tiếng rổi cả cười vang động cả bốn vách, hầu như không biết thân mình đang bị nhốt trong ngục”. Nội dung bài thơ như sau: Vẫn là hào kiệt, vẫn phong lưu, Chạy mỏi chân thì hãy ở tù. Đă khách không nhà trong bốn biển, Lại người có tội giữa năm châu. Bủa tay ôm chặt bồ kinh tế, Mở miệng cười tan cuộc oán thù. Thân ấy vẫn còn, còn sự nghiệp, Bao nhiêu nguy hiểm sợ gì đâu. Bài thơ mang đậm khẩu khí anh hùng này đã khắc hoạ rõ nét khí phách hiên ngang, bất khuất và hình ảnh tuyệt đẹp của người chiến sĩ cách mạng lúc sa cơ. Thể thơ thất ngôn bát cú gồm 4 phần: đề, thực, luận, kết, mỗi phần chỉ có hai câu ngắn gọn nhưng lại chứa đựng một nội dung cực kì hàm súc. Hai câu đề: Vẫn là hào kiệt, vẫn phong lưu, Chạy mỏi chân thì hãy ở tù. Một tù nhân mà vẫn tự khẳng định mình là bậc hào kiệt, phong lưu, điều đó thể hiện phong thái đường hoàng, tự tin, vừa ung dung, thanh thản, vừa hiên ngang bất khuất, lại vừa tài hoa tài tử. Người chiến sĩ cách mạng chẳng may rơi vào vòng tù ngục thì cứ coi như người đi đường dài chạy mỏi chân thì nghỉ một chút để lấy sức đi tiếp. Thực chất không phải như vậy. Cụ Phan kể rằng trên đường bị áp giải đến nhà lao, bọn lính đã đối xử với cụ rất tàn nhẫn: nào trói tay, nào xiềng chân. Vào ngục, cụ lại bị giam chung một chỗ với bọn tử tù. Nhất nhật tại tù, thiên thu tại ngoại. Đúng là như vậy! Bị giam cầm có nghĩa là bị tước đoạt tự do, bị đày đọa cả về thể xác lẫn tinh thần và cận kề cái chết. Ấy vậy mà người anh hùng vẫn ngẩng cao đầu và cảm thấy mình vẫn hoàn toàn tự do về mặt tinh thần. Xuất phát từ nhận thức đúng đắn ấy nên khi bàn đến sự sống chết, Phan Bội Châu vẫn nói bằng giọng cười cợt như vậy. Đây là lối thơ khẩu khí khá phổ biến trong văn chương dùng để nói lên chí lớn của người xưa. Xem thêm: Một nhà văn có nói: Sách là ngọn đèn sáng bất diệt của trí tuệ con người. Em hãy giải thích nội dung câu nói đóHai câu thực: Đã khách không nhà trong bốn biển, Lại người có tội giữa năm châu. Nhà thơ tóm lược về cuộc đời hoạt động cách mạng của mình. Mười năm lưu lạc, khi Nhật Bản, khi Trung Quốc, khi Xiêm La (Thái Lan), xa mái ấm gia đình, chịu trăm ngàn cực khổ về vật chất, cay đắng về tinh thần; thêm vào đó là sự hiểm nguy thường xuyên đe doạ vì cụ Phan là đối tượng truy nã đặc biệt của thực dân Pháp và đã bị chúng kết án tử hình vắng mặt. Phan Bội Châu nói như vậy không phải là để than thân mà chỉ nêu lên bi kịch chung của các chí sĩ yêu nước thời bấy giờ. Cuộc đời đầy sóng gió của cụ Phan gắn liền với tình cảnh nô lệ của đất nước, đồng bào. Giọng điệu trầm thống của hai câu thơ trên phần nào thể hiện được tâm trạng đau đớn, xót xa của bậc anh hùng cứu nước. Hai câu luận: Bủa tay ôm chặt bồ kinh tế, Mở miệng cười tan cuộc oán thù. Đúng là khẩu khí của một bậc đại trượng phu. Cho dù gặp hoàn cảnh bi đát đốn mức độ nào thì lí tưởng kinh bang tế thế, lo đời giúp dân của Phan Bội Châu vẫn không thay đổi. Trước sau cụ vẫn một lòng theo đuổi sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc ra khỏi ách thống trị của giặc ngoại xâm. Lí tưởng và mục đích cao cả ấy đã giúp cụ giữ vững khí tiết cương cường, tư thế hiên ngang, bất khuất trước kẻ thù. Lối nói khoa trương này thường được dùng nhiều trong thơ ca lãng mạn, nhất là trong anh hùng ca. Nó nâng cao tầm vóc và năng lực của con người lên đến mức siêu nhiên, thần thánh. Từ thuở thanh niên, Phan Văn San (tên thật của Phan Bội Châu) đã nuôi chí lớn chờ thời cơ cứu nước: Phùng xuân hội, may ra, ừ cũng dễ, Nắm địa cầu vừa một ti con con. Đạp toang hai cánh càn khôn, Đem xuân vẽ lại cho non nước nhà… (Chơi xuân) Gần như suốt cuộc đời, cụ Phan đã chấp nhận gian khổ, hi sinh để theo đuổi và thực hiện lí tưởng thiêng liệng ấy. Hai câu kết: Thân ấy vẫn còn, còn sự nghiệp, Bao nhiêu nguy hiểm sợ gì đâu. Ý chí gang thép và niềm tin to lớn của người anh hùng quả là không gì lay chuyển nổi. Con người ấy còn sống nghĩa là còn tiếp tục chiến đấu, còn tin tưởng vào sự nghiệp cách mạng, vì thế mà bất chấp mọi thử thách gian nan. Từ còn lặp lại hai lần liền nhau ở giữa câu thơ vừa có tác dụng ngắt nhịp, vừa nhấn mạnh ý thơ. Hai câu kết như một tuyên ngôn dõng dạc, dứt khoát, có sức truyền cảm mạnh mẽ, lớn lao, lay động hồn người. Phan Bội Châu được nhân dân tôn vinh là một trong những nhà chí sĩ yêu nước và cách mạng nổi tiếng đầu thế ki XX. Tên tuổi và gương sáng của cụ ảnh hưởng rộng rãi tới phong trào giải phóng dân tộc không chi trong thời kì đó mà mãi mãi về sau. Người chiến sĩ cách mạng lão thành họ Phan dù trải qua bao giông bão cuộc đời vẫn giữ vững khí tiết của một bậc chính nhân quân tử: Phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất. (Giàu sang không thể làm cho mê đắm, nghèo khó không thể làm cho thay lòng đổi dạ, uy vũ không thể làm cho khuất phục). Tuy xuất thân từ cửa Khổng sân Trình nhưng cụ đã vượt khỏi khuôn khổ cứng nhắc của giáo lí thánh hiền để tiếp cận tư tưởng dân chủ, dân quyền mới. Trước cảnh đồng bào đang chịu cảnh lầm than, nô lệ, cụ đau đớn, xót xa và nuôi khát vọng xoay chuyển càn khôn, đánh đuổi quân thù, đem xuân vẽ lại cho non nước nhà. Với lí tưởng cao đẹp đó, cụ lao vào cuộc đấu tranh, bất chấp mọi gian khổ, hi sinh, thậm chí đối diện với cái chết, cụ cũng không sờn lòng, nản chí. Bởi thế nên đối với cụ, dẫu có sa cơ, rơi vào vòng tù ngục thì chẳng qua cũng chi là dừng bước tạm nghi trên con đường đấu tranh lâu dài và gian khổ. Ở bài thơ này, các biện pháp nghệ thuật thường thấy trong thơ Đường như nghệ thuật đối: bốn biển – năm châu, bủa tay – mở miệng, bồ kinh tế – cuộc oản thù… được sử dụng hợp lí đã làm cho tầm vóc của nhân vật trữ tình trở nôn lớn lao, kì Vĩ, phù hợp với giọng điệu hào hùng. Cảm xúc chân thành của tác giả đã tạo nên sức sống bất diệt cho bài thơ. Xem thêm: Cảm nghĩ về nhân vật Lão Hạc và ông giáo trong tác phẩm Lão Hạc
Đề bài: Anh chị hãy viết bài văn phân tích bài thơ Vào nhà ngục Quảng Đông của Phan Bội Châu. Bài phân tích của một học sinh lớp 8 trường Chu Văn An. Đầu thế ki XX, khi các cuộc khởi nghĩa chống thực dân Pháp xâm lược ở cả ba miền lần lượt thất bại, một bầu không khí đau thương bao trùm trên đất nước ta. Trong văn chương, bên cạnh những bài ca hùng tráng đã xuất hiện những tiếng thở than bi phẫn và bất lực. Phong trào cần vương do vua Hàm Nghi khởi xướng đã bị dập tắt. Ông vua yêu nước bị chính quyền thực dân bắt đi đày trên một hòn đảo mịt mù giữa đại dương, cách biệt hẳn đất nước và dân tộc. Tuy vậy, chí báo thù phục quốc vẫn âm ỉ nung nấu trong mọi tầng lớp nhân dân. Bước sang đầu thế ki XX, luồng gió mới của tư tưởng dân chủ tư sản từ Âu châu thổi tới, từ Nhật Bản, Trung Hoa tràn sang đã thúc đẩy những người có tâm huyết với sự nghiệp cứu nước lại náo nức khởi sự một cuộc đấu tranh theo khuynh hướng mới, với mục đích vừa đánh đuổi kẻ thù xâm lược, vừa tấn công vào giai cấp phong kiến tay sai cam tâm bán nước. Chủ trương của họ là khai thông dân khí, mở mang dân trí, chấn hưng công thương nghiệp, để nước nhà phát triển toàn diện, đạt tới mức văn minh, giàu mạnh. Phương pháp thực hiện có thể khác nhau (có phái chủ trương bạo động, có phái chủ trương ôn hòa) nhưng đều nhằm mục đích cao cả là đem lại độc lập, tự do cho dân tộc. Bởi thế, các khuynh hướng không loại trừ nhau mà hợp nhất thành cao trào đấu tranh cách mạng lan rộng khắp nơi. Thực dân Pháp khủng bố dã man, phong trào tạm lắng, những người lãnh đạo phần lớn phải vào tù hoặc lưu lạc ở nước ngoài. Một số chí sĩ cách mạng nổi tiếng đầu thế ki XX như Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh… đều xuất thân là nhà Nho nhưng lại tiếp thu rất nhanh những tư tưởng tiến bộ của thời đại. Trong lao tù của bọn thực dân, họ thường làm thơ để bày tỏ chí khí. Đó là những lời gan ruột, tâm huyết của những người anh hùng cứu nước nên có sức mạnh làm rung động lòng người. Từ năm 1912, thực dân Pháp đã kết án tử hình vắng mặt nhà chí sĩ Phan Bội Châu. Khi bị bọn quân phiệt tỉnh Quảng Đông (Trung Quốc) bắt giam và biết chúng có ý định trao trả cho Pháp, cụ Phan Bội Châu đã nghĩ rằng mình khó có thể thoát chết. Bởi thế, đầu năm 1914, ngay từ những ngày đầu bị giam vào ngục, cụ đã viết Ngục trung thư; nhằm ghi lại những điều tâm huyết để lại cho đồng bào, đồng chí. Bài thơ Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác theo lời cụ là làm để tự an ủi mình. Cụ còn kể rằng sau khi làm xong, cụ đã “ngâm nga lớn tiếng rổi cả cười vang động cả bốn vách, hầu như không biết thân mình đang bị nhốt trong ngục”. Nội dung bài thơ như sau: Vẫn là hào kiệt, vẫn phong lưu, Chạy mỏi chân thì hãy ở tù. Đă khách không nhà trong bốn biển, Lại người có tội giữa năm châu. Bủa tay ôm chặt bồ kinh tế, Mở miệng cười tan cuộc oán thù. Thân ấy vẫn còn, còn sự nghiệp, Bao nhiêu nguy hiểm sợ gì đâu. Bài thơ mang đậm khẩu khí anh hùng này đã khắc hoạ rõ nét khí phách hiên ngang, bất khuất và hình ảnh tuyệt đẹp của người chiến sĩ cách mạng lúc sa cơ. Thể thơ thất ngôn bát cú gồm 4 phần: đề, thực, luận, kết, mỗi phần chỉ có hai câu ngắn gọn nhưng lại chứa đựng một nội dung cực kì hàm súc. Hai câu đề: Vẫn là hào kiệt, vẫn phong lưu, Chạy mỏi chân thì hãy ở tù. Một tù nhân mà vẫn tự khẳng định mình là bậc hào kiệt, phong lưu, điều đó thể hiện phong thái đường hoàng, tự tin, vừa ung dung, thanh thản, vừa hiên ngang bất khuất, lại vừa tài hoa tài tử. Người chiến sĩ cách mạng chẳng may rơi vào vòng tù ngục thì cứ coi như người đi đường dài chạy mỏi chân thì nghỉ một chút để lấy sức đi tiếp. Thực chất không phải như vậy. Cụ Phan kể rằng trên đường bị áp giải đến nhà lao, bọn lính đã đối xử với cụ rất tàn nhẫn: nào trói tay, nào xiềng chân. Vào ngục, cụ lại bị giam chung một chỗ với bọn tử tù. Nhất nhật tại tù, thiên thu tại ngoại. Đúng là như vậy! Bị giam cầm có nghĩa là bị tước đoạt tự do, bị đày đọa cả về thể xác lẫn tinh thần và cận kề cái chết. Ấy vậy mà người anh hùng vẫn ngẩng cao đầu và cảm thấy mình vẫn hoàn toàn tự do về mặt tinh thần. Xuất phát từ nhận thức đúng đắn ấy nên khi bàn đến sự sống chết, Phan Bội Châu vẫn nói bằng giọng cười cợt như vậy. Đây là lối thơ khẩu khí khá phổ biến trong văn chương dùng để nói lên chí lớn của người xưa. Xem thêm: Một nhà văn có nói: Sách là ngọn đèn sáng bất diệt của trí tuệ con người. Em hãy giải thích nội dung câu nói đóHai câu thực: Đã khách không nhà trong bốn biển, Lại người có tội giữa năm châu. Nhà thơ tóm lược về cuộc đời hoạt động cách mạng của mình. Mười năm lưu lạc, khi Nhật Bản, khi Trung Quốc, khi Xiêm La (Thái Lan), xa mái ấm gia đình, chịu trăm ngàn cực khổ về vật chất, cay đắng về tinh thần; thêm vào đó là sự hiểm nguy thường xuyên đe doạ vì cụ Phan là đối tượng truy nã đặc biệt của thực dân Pháp và đã bị chúng kết án tử hình vắng mặt. Phan Bội Châu nói như vậy không phải là để than thân mà chỉ nêu lên bi kịch chung của các chí sĩ yêu nước thời bấy giờ. Cuộc đời đầy sóng gió của cụ Phan gắn liền với tình cảnh nô lệ của đất nước, đồng bào. Giọng điệu trầm thống của hai câu thơ trên phần nào thể hiện được tâm trạng đau đớn, xót xa của bậc anh hùng cứu nước. Hai câu luận: Bủa tay ôm chặt bồ kinh tế, Mở miệng cười tan cuộc oán thù. Đúng là khẩu khí của một bậc đại trượng phu. Cho dù gặp hoàn cảnh bi đát đốn mức độ nào thì lí tưởng kinh bang tế thế, lo đời giúp dân của Phan Bội Châu vẫn không thay đổi. Trước sau cụ vẫn một lòng theo đuổi sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc ra khỏi ách thống trị của giặc ngoại xâm. Lí tưởng và mục đích cao cả ấy đã giúp cụ giữ vững khí tiết cương cường, tư thế hiên ngang, bất khuất trước kẻ thù. Lối nói khoa trương này thường được dùng nhiều trong thơ ca lãng mạn, nhất là trong anh hùng ca. Nó nâng cao tầm vóc và năng lực của con người lên đến mức siêu nhiên, thần thánh. Từ thuở thanh niên, Phan Văn San (tên thật của Phan Bội Châu) đã nuôi chí lớn chờ thời cơ cứu nước: Phùng xuân hội, may ra, ừ cũng dễ, Nắm địa cầu vừa một ti con con. Đạp toang hai cánh càn khôn, Đem xuân vẽ lại cho non nước nhà… (Chơi xuân) Gần như suốt cuộc đời, cụ Phan đã chấp nhận gian khổ, hi sinh để theo đuổi và thực hiện lí tưởng thiêng liệng ấy. Hai câu kết: Thân ấy vẫn còn, còn sự nghiệp, Bao nhiêu nguy hiểm sợ gì đâu. Ý chí gang thép và niềm tin to lớn của người anh hùng quả là không gì lay chuyển nổi. Con người ấy còn sống nghĩa là còn tiếp tục chiến đấu, còn tin tưởng vào sự nghiệp cách mạng, vì thế mà bất chấp mọi thử thách gian nan. Từ còn lặp lại hai lần liền nhau ở giữa câu thơ vừa có tác dụng ngắt nhịp, vừa nhấn mạnh ý thơ. Hai câu kết như một tuyên ngôn dõng dạc, dứt khoát, có sức truyền cảm mạnh mẽ, lớn lao, lay động hồn người. Phan Bội Châu được nhân dân tôn vinh là một trong những nhà chí sĩ yêu nước và cách mạng nổi tiếng đầu thế ki XX. Tên tuổi và gương sáng của cụ ảnh hưởng rộng rãi tới phong trào giải phóng dân tộc không chi trong thời kì đó mà mãi mãi về sau. Người chiến sĩ cách mạng lão thành họ Phan dù trải qua bao giông bão cuộc đời vẫn giữ vững khí tiết của một bậc chính nhân quân tử: Phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất. (Giàu sang không thể làm cho mê đắm, nghèo khó không thể làm cho thay lòng đổi dạ, uy vũ không thể làm cho khuất phục). Tuy xuất thân từ cửa Khổng sân Trình nhưng cụ đã vượt khỏi khuôn khổ cứng nhắc của giáo lí thánh hiền để tiếp cận tư tưởng dân chủ, dân quyền mới. Trước cảnh đồng bào đang chịu cảnh lầm than, nô lệ, cụ đau đớn, xót xa và nuôi khát vọng xoay chuyển càn khôn, đánh đuổi quân thù, đem xuân vẽ lại cho non nước nhà. Với lí tưởng cao đẹp đó, cụ lao vào cuộc đấu tranh, bất chấp mọi gian khổ, hi sinh, thậm chí đối diện với cái chết, cụ cũng không sờn lòng, nản chí. Bởi thế nên đối với cụ, dẫu có sa cơ, rơi vào vòng tù ngục thì chẳng qua cũng chi là dừng bước tạm nghi trên con đường đấu tranh lâu dài và gian khổ. Ở bài thơ này, các biện pháp nghệ thuật thường thấy trong thơ Đường như nghệ thuật đối: bốn biển – năm châu, bủa tay – mở miệng, bồ kinh tế – cuộc oản thù… được sử dụng hợp lí đã làm cho tầm vóc của nhân vật trữ tình trở nôn lớn lao, kì Vĩ, phù hợp với giọng điệu hào hùng. Cảm xúc chân thành của tác giả đã tạo nên sức sống bất diệt cho bài thơ. Xem thêm: Cảm nghĩ về nhân vật Lão Hạc và ông giáo trong tác phẩm Lão Hạc
Đề bài: Phân tích bài thơ Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác của Phan Bội Châu Bằng dòng cảm xúc mãnh liệt, bài thơ Cảm tác vào nhà ngục Quảng Đông như một khúc tráng ca vĩ đại và hào hùng, thể hiện rõ phong thái ung dung, đuờng hoàng và khí phách kiên cường, bất khuất vượt lên cảnh tù ngục khốc liệt của nhà chí sĩ yêu nước Phan Bội Châu, trong những ngày bị chính quyền quân phiệt Trung Hoa bắt giam. Nhà ngục – đó là nơi chôn vùi ý chí chiến đấu của con người, là bóng đen mờ mịt với những mưu đồ, cạm bẫy trỗi dậy, rình rập sự sống. Vậy mà đối với Phan Bội Châu, đó chỉ là nơi thử lửa, là một “nhà trọ” cho những bước chân bôn tẩu cách mạng tạm dừng. Không phải ngẫu nhiên mà đầu đề của bài thơ là Cảm tác vào nhà ngục Quảng Đông. Ra đời giữa chốn lao tù, nơi hiện hình của những bóng ma tội ác ghê tởm, con người dễ dàng bị nuốt chửng vào vòng quay của nó bởi sự bất lực và nỗi sợ hãi tầm thường. Bài thơ bằng chữ Hán vẫn không hề làm vơi đi tinh thần, khí khái làm người “xoay chuyển càn khôn”. Những câu thơ tuôn ra từ chính tấm lòng của nhà thơ, là lời khẳng định chắc nịch cho quan niệm người anh hùng: Vẫn là hào kiệt vẫn phong lưu Chạy mỏi chân thì hãy ở tù Dẫu rằng là cảnh thân tù, “nhất nhật tại tù thiên thu tại ngoại” (một ngày ở tù bằng nghìn thu ở ngoài), lời thơ của cụ Phan Bội Châu vẫn giữ được cái điềm tĩnh, thoải mái của một con người luôn tự tin, lạc quan trước mọi hoàn cảnh, đó là tinh thần của bậc đại trượng phu với ý chí “uy vũ bất năng khuất” (uy vũ không thể khuất phục). Trong tù, con người ấy đã phải chịu mọi nỗi đau thể xác lẫn tinh thần, những đòn tra tấn dã man của kẻ thù, phải hằng ngày đối diện với khổ đau, đói rét và những tiếng rền rĩ, gào thét của biết bao thân tù hãm vang dội trong bốn bức tường khắc khổ, âm u. Vậy mà, câu thơ dường như không có một phút nào nhường chỗ cho con người yếu mềm. Tất cả đều được lấp đầy bởi bức tranh con người sừng sững đứng giữa đất trời: Ta đã bôn ba giữa năm châu bốn biển, ta vì dân vì nước mà ở tù, ta lên tiếng đòi quyền tự do, quyền làm người chính đáng cho dân tộc ta, cớ sao ta lại phải chịu nhún nhường khuất phục trước bọn phản dân, hại nước kia? Cho nên cái lồng con con ấy, nào có là gì trước tư thế hiên ngang, lẫm liệt của trang “hào kiệt”, tu mi nam tử đầu đội trời chân đạp đất và bậc “phong lưu” có cái lịch lãm, hào hoa. Câu thơ là sự đối lập hoàn toàn giữa một bên là sự lớn lao, vĩ đại của một bậc anh hùng, hào kiệt và một bên là lũ ô hợp, hèn hạ, tầm thường. Đồng thời, với khẩu khí ngang tàng, cái hất hàm cười cợt, coi thường cái chết, Phan Bội Châu đã giúp ta hình dung ra tư thế của một con người luôn chủ động, luôn làm chủ hoàn cảnh, ngẩng cao đầu ngạo nghễ với lao lung. Hai câu thực là phút ngoảnh nhìn về những biến cố cuộc đời mà người cách mạng đã trải qua: Đã khách không nhà trong bốn biển Lại người có tội giữa năm châu Trong cái khoảng trời đất bao la, khôn cùng kia, người anh hùng chẳng tìm thấy được một mái ấm, một quê hương. Bởi nhà đã tan, nước đã mất! Còn nỗi đau nào hơn nỗi đau của một người con yêu nước, một nhà cách mạng chưa làm được gì cho dân tộc phải tạm dừng chân ở chốn lao tù. “Chạy mỏi chân thì hãy ở tù”, giờ đây, tạm nghỉ chốn này, tâm hồn của cụ vẫn đang hướng về mảnh đất tổ tiên đang bị giày xéo bởi kẻ thù thực dân. Ngẫm mà thấy đau cho một tấm lòng suốt đời vì sự nghiệp cứu nước lại kết thúc bước chân kiêu bạc tại chốn lao tù, cô độc, bởi phải mang tiếng là có “tội giữa năm châu”. Phép đối trong hai câu thực “Đã – Lại” càng khiến cho những gió cát cuộc đời người anh hùng như dồn dập như khắc nghiệt hơn. Nhưng nếu như nghĩ rằng câu thơ có một chút hơi hướng của sự bi lụy thì thật là sai lầm. Đặt nỗi đau khổ của nhà cách mạng vào không gian rộng lớn của bốn biển, năm châu, ta nhận ra tầm vóc lớn lao phi thường của người tù yêu nước Phan Bội Châu. Đã dấn thân vào hoạt động cách mạng, trong hoàn cảnh bị bủa vây truy đuổi bởi kẻ thù, nhưng Phan Bội Châu vẫn kiên định không sờn lòng nản chí. Xem thêm: Viết đoạn văn phân tích ý nghĩa những vật dụng mà Mã Lương (truyện Cây bút thẩn) đã vẽ cho mọi ngườiTừ giọng điệu trầm hùng mà thống thiết, mạch cảm xúc của nhà thơ được nâng lên một tầm cao hơn không chỉ là cái tráng chí được hô to gọi lớn, không phải là một sự trấn an cho tinh thần mà là một lời nói tâm huyết với biết bao hoài bão, lý tưởng tốt đẹp: Bủa tay ôm chặt bồ kinh tế Mở miệng cười tan cuộc oán thù Không phải hành động”giang tay” mà là cái “bủa tay ôm chặt” mạnh mẽ đã nói lên lý tưởng cao đẹp của một người anh hùng. Dầu đơn độc, cụ vẫn sống vẫn đợi chờ, lạc quan tin tưởng, vẫn ung dung ngạo nghễ trong cốt cách của một trang hào kiệt, một bậc phong lưu. Đó là vì lý tưởng cao đẹp,là sự nghiệp cứu nước, cứu dân mà suốt đời cụ luôn ấp ủ: Dựng gan óc lên đánh tan sắt lửa Xối máu nóng rửa vết nhơ nô lệ” (Bài ca chúc Tết thanh niên ) Giấc mộng làm trai gắn với những hoài bão tuổi trẻ của Phan Bội Châu từ lâu đã vượt ra khỏi thứ “công danh” tầm thường bó buộc của người trai thời phong kiến. Giờ đây, tư thế của người anh hùng đã vĩ đại, lớn lao, càng trở nên mạnh mẽ, phi thường hơn nữa. Hai câu luận với lối gieo từ đối nhau, từ những hình ảnh, hành động có tính cụ thể hữu hình “bủa tay – mở miệng”, cho đến những mĩ từ vô hình vô hạn “bồ kinh tế”, “cuộc oán thù” đã khái quát phương châm cách mạng hành động dứt khoát của Phan Bội Châu. Đó là cái tráng chí của con người cách mạng dù rơi vào hoàn cảnh nguy nan vẫn không quên lý tưởng kinh bang tế thế, vẫn mở miệng cười trước những ‘cuộc oán thù”, chủ động trước bất kỳ thử thách nào. Nụ cười ấy chứa đựng niềm tin vào tiền đồ tất thắng của dân tộc, là sự khinh khi những trò hèn hạ truy bức của kẻ thù. Thân ấy hãy còn, còn sự nghiệp Bao nhiêu nguy hiểm sợ gì đâu Chấn song tù giam được thể xác nhưng không giam nổi tâm hồn cụ hướng về đất nước! Bị kìm hãm, bị giam cầm nơi xứ lạ,tinh thần đấu tranh của cụ Phan Bội Châu đã truyền đạt đến cho những chí sĩ yêu nước, một niềm tin tưởng vào sự nghiệp chiến đấu vì chính nghĩa của chính mình. Dường như ở câu kết, với điệp từ “còn” dõng dạc dứt khoát trên cùng một câu thơ, người đọc đã thấy trước một tương lai tốt đẹp, một đất nuớc tự do, một cuộc sống đầy đủ an bình. Tinh thần bất khuất, không lùi bước của con người là cơ sở của niềm tin, đồng thời bao quát tư tưởng “anh hùng tạo thời thế” rất quyết liệt, không chờ “thời thế tạo anh hùng”. Dù sự nghiệp cứu nước không thành, nhưng tinh thần “sợ gì đâu” sẵn sàng thách thức với những hiểm nguy của một nhà cách mạng kiên cường, bất khuất vẫn làm ta cảm phục. Đó là lời của một con người đã đạp bằng hoàn cảnh và là sức mạnh tạo nên tư thế của bậc anh hùng “xem cái chết nhẹ tựa lông hồng”. Mãi về sau, khi trở thành “ông già bến Ngự” hoàn toàn bị kìm kẹp tù hãm, ngọn gió yêu nước từ cụ Phan vẫn còn mạnh mẽ, lay động tâm hồn biết bao thanh niên, bao con người yêu nước: Đời đã mới, người càng nên đổi mới Mở mắt thấy rõ ràng tân vận hội Xúm vai vào xốc vác cựu giang sơn. (Bài ca chúc Tết thanh niên) Bài thơ kết thúc mà lời thơ chưa kết thúc. Người đọc vẫn còn thấy đâu đây một con người uy phong đứng giữa đất trời, ung dung ngạo nghễ mà kiên định, bất khuất. Trong giây phút tuyệt vọng nhất, người anh hùng Phan Bội Châu vẫn không mất đi cái tráng chí, tinh thần thép của một nhà chí sĩ yêu nước Việt Nam, đã trở thành tấm gương sáng nghìn đời của dân tộc. Nguồn Edufly Xem thêm: Thuyết minh về con gà
Đề bài: Phân tích bài thơ Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác của Phan Bội Châu Bằng dòng cảm xúc mãnh liệt, bài thơ Cảm tác vào nhà ngục Quảng Đông như một khúc tráng ca vĩ đại và hào hùng, thể hiện rõ phong thái ung dung, đuờng hoàng và khí phách kiên cường, bất khuất vượt lên cảnh tù ngục khốc liệt của nhà chí sĩ yêu nước Phan Bội Châu, trong những ngày bị chính quyền quân phiệt Trung Hoa bắt giam. Nhà ngục – đó là nơi chôn vùi ý chí chiến đấu của con người, là bóng đen mờ mịt với những mưu đồ, cạm bẫy trỗi dậy, rình rập sự sống. Vậy mà đối với Phan Bội Châu, đó chỉ là nơi thử lửa, là một “nhà trọ” cho những bước chân bôn tẩu cách mạng tạm dừng. Không phải ngẫu nhiên mà đầu đề của bài thơ là Cảm tác vào nhà ngục Quảng Đông. Ra đời giữa chốn lao tù, nơi hiện hình của những bóng ma tội ác ghê tởm, con người dễ dàng bị nuốt chửng vào vòng quay của nó bởi sự bất lực và nỗi sợ hãi tầm thường. Bài thơ bằng chữ Hán vẫn không hề làm vơi đi tinh thần, khí khái làm người “xoay chuyển càn khôn”. Những câu thơ tuôn ra từ chính tấm lòng của nhà thơ, là lời khẳng định chắc nịch cho quan niệm người anh hùng: Vẫn là hào kiệt vẫn phong lưu Chạy mỏi chân thì hãy ở tù Dẫu rằng là cảnh thân tù, “nhất nhật tại tù thiên thu tại ngoại” (một ngày ở tù bằng nghìn thu ở ngoài), lời thơ của cụ Phan Bội Châu vẫn giữ được cái điềm tĩnh, thoải mái của một con người luôn tự tin, lạc quan trước mọi hoàn cảnh, đó là tinh thần của bậc đại trượng phu với ý chí “uy vũ bất năng khuất” (uy vũ không thể khuất phục). Trong tù, con người ấy đã phải chịu mọi nỗi đau thể xác lẫn tinh thần, những đòn tra tấn dã man của kẻ thù, phải hằng ngày đối diện với khổ đau, đói rét và những tiếng rền rĩ, gào thét của biết bao thân tù hãm vang dội trong bốn bức tường khắc khổ, âm u. Vậy mà, câu thơ dường như không có một phút nào nhường chỗ cho con người yếu mềm. Tất cả đều được lấp đầy bởi bức tranh con người sừng sững đứng giữa đất trời: Ta đã bôn ba giữa năm châu bốn biển, ta vì dân vì nước mà ở tù, ta lên tiếng đòi quyền tự do, quyền làm người chính đáng cho dân tộc ta, cớ sao ta lại phải chịu nhún nhường khuất phục trước bọn phản dân, hại nước kia? Cho nên cái lồng con con ấy, nào có là gì trước tư thế hiên ngang, lẫm liệt của trang “hào kiệt”, tu mi nam tử đầu đội trời chân đạp đất và bậc “phong lưu” có cái lịch lãm, hào hoa. Câu thơ là sự đối lập hoàn toàn giữa một bên là sự lớn lao, vĩ đại của một bậc anh hùng, hào kiệt và một bên là lũ ô hợp, hèn hạ, tầm thường. Đồng thời, với khẩu khí ngang tàng, cái hất hàm cười cợt, coi thường cái chết, Phan Bội Châu đã giúp ta hình dung ra tư thế của một con người luôn chủ động, luôn làm chủ hoàn cảnh, ngẩng cao đầu ngạo nghễ với lao lung. Hai câu thực là phút ngoảnh nhìn về những biến cố cuộc đời mà người cách mạng đã trải qua: Đã khách không nhà trong bốn biển Lại người có tội giữa năm châu Trong cái khoảng trời đất bao la, khôn cùng kia, người anh hùng chẳng tìm thấy được một mái ấm, một quê hương. Bởi nhà đã tan, nước đã mất! Còn nỗi đau nào hơn nỗi đau của một người con yêu nước, một nhà cách mạng chưa làm được gì cho dân tộc phải tạm dừng chân ở chốn lao tù. “Chạy mỏi chân thì hãy ở tù”, giờ đây, tạm nghỉ chốn này, tâm hồn của cụ vẫn đang hướng về mảnh đất tổ tiên đang bị giày xéo bởi kẻ thù thực dân. Ngẫm mà thấy đau cho một tấm lòng suốt đời vì sự nghiệp cứu nước lại kết thúc bước chân kiêu bạc tại chốn lao tù, cô độc, bởi phải mang tiếng là có “tội giữa năm châu”. Phép đối trong hai câu thực “Đã – Lại” càng khiến cho những gió cát cuộc đời người anh hùng như dồn dập như khắc nghiệt hơn. Nhưng nếu như nghĩ rằng câu thơ có một chút hơi hướng của sự bi lụy thì thật là sai lầm. Đặt nỗi đau khổ của nhà cách mạng vào không gian rộng lớn của bốn biển, năm châu, ta nhận ra tầm vóc lớn lao phi thường của người tù yêu nước Phan Bội Châu. Đã dấn thân vào hoạt động cách mạng, trong hoàn cảnh bị bủa vây truy đuổi bởi kẻ thù, nhưng Phan Bội Châu vẫn kiên định không sờn lòng nản chí. Xem thêm: Viết đoạn văn phân tích ý nghĩa những vật dụng mà Mã Lương (truyện Cây bút thẩn) đã vẽ cho mọi ngườiTừ giọng điệu trầm hùng mà thống thiết, mạch cảm xúc của nhà thơ được nâng lên một tầm cao hơn không chỉ là cái tráng chí được hô to gọi lớn, không phải là một sự trấn an cho tinh thần mà là một lời nói tâm huyết với biết bao hoài bão, lý tưởng tốt đẹp: Bủa tay ôm chặt bồ kinh tế Mở miệng cười tan cuộc oán thù Không phải hành động”giang tay” mà là cái “bủa tay ôm chặt” mạnh mẽ đã nói lên lý tưởng cao đẹp của một người anh hùng. Dầu đơn độc, cụ vẫn sống vẫn đợi chờ, lạc quan tin tưởng, vẫn ung dung ngạo nghễ trong cốt cách của một trang hào kiệt, một bậc phong lưu. Đó là vì lý tưởng cao đẹp,là sự nghiệp cứu nước, cứu dân mà suốt đời cụ luôn ấp ủ: Dựng gan óc lên đánh tan sắt lửa Xối máu nóng rửa vết nhơ nô lệ” (Bài ca chúc Tết thanh niên ) Giấc mộng làm trai gắn với những hoài bão tuổi trẻ của Phan Bội Châu từ lâu đã vượt ra khỏi thứ “công danh” tầm thường bó buộc của người trai thời phong kiến. Giờ đây, tư thế của người anh hùng đã vĩ đại, lớn lao, càng trở nên mạnh mẽ, phi thường hơn nữa. Hai câu luận với lối gieo từ đối nhau, từ những hình ảnh, hành động có tính cụ thể hữu hình “bủa tay – mở miệng”, cho đến những mĩ từ vô hình vô hạn “bồ kinh tế”, “cuộc oán thù” đã khái quát phương châm cách mạng hành động dứt khoát của Phan Bội Châu. Đó là cái tráng chí của con người cách mạng dù rơi vào hoàn cảnh nguy nan vẫn không quên lý tưởng kinh bang tế thế, vẫn mở miệng cười trước những ‘cuộc oán thù”, chủ động trước bất kỳ thử thách nào. Nụ cười ấy chứa đựng niềm tin vào tiền đồ tất thắng của dân tộc, là sự khinh khi những trò hèn hạ truy bức của kẻ thù. Thân ấy hãy còn, còn sự nghiệp Bao nhiêu nguy hiểm sợ gì đâu Chấn song tù giam được thể xác nhưng không giam nổi tâm hồn cụ hướng về đất nước! Bị kìm hãm, bị giam cầm nơi xứ lạ,tinh thần đấu tranh của cụ Phan Bội Châu đã truyền đạt đến cho những chí sĩ yêu nước, một niềm tin tưởng vào sự nghiệp chiến đấu vì chính nghĩa của chính mình. Dường như ở câu kết, với điệp từ “còn” dõng dạc dứt khoát trên cùng một câu thơ, người đọc đã thấy trước một tương lai tốt đẹp, một đất nuớc tự do, một cuộc sống đầy đủ an bình. Tinh thần bất khuất, không lùi bước của con người là cơ sở của niềm tin, đồng thời bao quát tư tưởng “anh hùng tạo thời thế” rất quyết liệt, không chờ “thời thế tạo anh hùng”. Dù sự nghiệp cứu nước không thành, nhưng tinh thần “sợ gì đâu” sẵn sàng thách thức với những hiểm nguy của một nhà cách mạng kiên cường, bất khuất vẫn làm ta cảm phục. Đó là lời của một con người đã đạp bằng hoàn cảnh và là sức mạnh tạo nên tư thế của bậc anh hùng “xem cái chết nhẹ tựa lông hồng”. Mãi về sau, khi trở thành “ông già bến Ngự” hoàn toàn bị kìm kẹp tù hãm, ngọn gió yêu nước từ cụ Phan vẫn còn mạnh mẽ, lay động tâm hồn biết bao thanh niên, bao con người yêu nước: Đời đã mới, người càng nên đổi mới Mở mắt thấy rõ ràng tân vận hội Xúm vai vào xốc vác cựu giang sơn. (Bài ca chúc Tết thanh niên) Bài thơ kết thúc mà lời thơ chưa kết thúc. Người đọc vẫn còn thấy đâu đây một con người uy phong đứng giữa đất trời, ung dung ngạo nghễ mà kiên định, bất khuất. Trong giây phút tuyệt vọng nhất, người anh hùng Phan Bội Châu vẫn không mất đi cái tráng chí, tinh thần thép của một nhà chí sĩ yêu nước Việt Nam, đã trở thành tấm gương sáng nghìn đời của dân tộc. Nguồn Edufly Xem thêm: Thuyết minh về con gà
Bài thơ về tiểu đội xe không kính của nhà thơ Phạm Tiến Duật là một bài thơ rất hay viết về những người lính lái xe trên tuyến đường Trường Sơn. Bài thơ thể hiện được những nỗi khó khăn, vất vả của người lính lái xe nhưng vẫn toát lên được tinh thần lạc quan của người lính. Để giúp các em có thể làm đề văn phân tích Bài thơ về tiểu đội xe không kính, Kho tàng văn mẫu sẽ hướng dẫn các em lập dàn ý chi tiết cho đề văn này và cung cấp thêm một bài văn mẫu cho các em tham khảo. I. Lập dàn ý phân tích Bài thơ về tiểu đội xe không kính 1. Mở bài – Giới thiệu về nhà thơ Phạm Tiến Duật và bài thơ Bài thơ về tiểu đội xe không kính. – Nhà thơ Phạm Tiến Duật là nhà thơ tiêu biểu trong thời chống Mĩ. – Bài thơ về tiểu đội xe không kính là một sáng tác rất hay của nhà thơ. 2. Thân bài phân tích Bài thơ về tiểu đội xe không kính a. Hình ảnh chiếc xe không có kính – Chiếc xe được miêu tả hình dáng một cách cụ thể. – Chiếc xe đặc biệt vì không có kính, khác hẳn với những chiếc xe bình thường khác. – Nhà thơ miêu tả rõ nguyên nhân xe không có kính là vì bom giật, bom rung. – Ngôn ngữ trong thơ dí dỏm, hóm hỉnh. Hình ảnh được liệt kê một cách chân thực, độc đáo. b. Hình ảnh những chiến sĩ lái xe – Tâm trạng thư thái, ung dung của người lính ngồi sau buồng lái. – Thái độ bất chấp khó khăn, nguy hiểm, vẫn hiên ngang lái xe về phía trước. – Tình đồng chí, đồng đội của những người lính. – Ý chí quyết tâm chống giặc, giành lại hòa bình, độc lập. 3. Kết bài – Tổng quan nội dung bài thơ về tiểu đội xe không kính và nêu cảm nghĩ của em về bài thơ này. Bài viết liên quan >> Phân tích bài thơ Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận (Có dàn ý chi tiết) >> Phân tích bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt (Có dàn ý chi tiết) >> Phân tích bài thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy (Có dàn ý chi tiết) II. Bài làm phân tích Bài thơ về tiểu đội xe không kính Chúng ta đã được nghe nói nhiều về chiến tranh, được học những bài học lịch sử và hiểu chiến tranh tàn khốc tới mức nào. Chiến tranh cướp đi của con người mạng sống, cướp đi của con người nên hòa bình,… Mỗi nhà thơ, nhà văn thường miêu tả những góc khác nhau của chiến tranh. Có những người nhìn vào chiến tranh một cách trực diện, nói tới những đau thương mất mát thì cũng có những người nhìn vào chiến tranh bằng một cặp mắt khá lạc quan. Có thể lấy ví dụ như Bài thơ về tiểu đội xe không kính của nhà thơ Phạm Tiến Duật. Mặc dù cũng nói về sự tàn khốc của chiến tranh nhưng người đọc vẫn thấy được những nét tươi vui và hóm hình của những người chiến sĩ.Xem thêm: Nghị luận xã hội về Lý tưởng sống của thanh niên ngày nay Bài thơ về tiểu đội xe không kính viết về những anh lính lái xe trên tuyến đường Trường Sơn. Chúng ta biết rằng đây là tuyến đường gian nguy nhất, hứng chịu nhiều mưa bom đạn lạc nhất. Chính vì vậy mà những người ngày ngày hành quân trên tuyến đường ấy vô cùng vất vả. Họ ngày ngày phải đối diện với hiểm nguy, thậm chí là cái chết. Sự hiểm nguy ấy thể hiện rõ nét ngay từ những câu thơ đầu tiên: Không kính không phải vì xe không có kính Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi Ung dung buồng lái ta ngồi Nhìn đất nhìn trời nhìn biển Bom giật bom rung, đó là hiện thực tàn khốc của chiến tranh. Chiến tranh đã khiến cho những chiếc xe rung lên và vỡ kính. Kính vỡ là chuyện nhỏ, người ngồi phía sau tay lái mới là chuyện lớn. Kính có thể vỡ, vậy thì con người cũng có thể hy sinh bất cứ lúc nào. Nhưng không, khi miêu tả đến người phía sau buồng lái, nhà thơ Phạm Tiến Duật lại miêu tả những con người ung dung nhìn thẳng về phía biển trời. Phân tích Bài thơ về tiểu đội xe không kính Lẽ tất nhiên, chiếc xe không có kính thì dù người lính có lạc quan tới mức nào cũng khiến người lính gặp không ít khó khăn mà khó khăn đầu tiên được nhà thơ miêu tả đó chính là gió: Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim Thấy sao trời và đột ngột cánh chim Như sa, như ùa vào buồng lái Gió thì chỉ có thể cảm nhận thấy chứ không thể nào nhìn thấy. Thế nhưng ở đây, nhà thơ lại viết nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng. Nói như vậy để người đọc thấy được sự khó nhọc của người lính khi từng cơn gió theo nhau thổi vào mắt khiến cho đôi mắt nhòe đi vì đắng. Chưa kể đến những con chim bay ngoài bầu trời kia cũng có thể ùa vào bên trong buồng lái bất cứ lúc nào. Đây chính là hiện thực và nhà thơ đã tả một cách rất chân thực. Nhưng đó mới chỉ là một phần của khó khăn thôi. Những câu thơ tiếp theo lại diễn tả thêm một sự khó khăn khác nữa:Xem thêm: Cảm nhận về niềm khát khao tổ ấm gia đình của nhân vật Tràng. Không có kính, ừ thì có bụi Bụi phun tóc trắng như người già Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha Vốn dĩ kính xe được sinh ra là để chắn bụi, mưa, gió cho người ngồi phía trong xe nhưng ở đây xe không có kính thì người lính lại chịu cảnh bụi bay vào mặt, phủ lên tóc là điều hiển nhiên. Hình ảnh nhìn nhau mặt lấm cười ha ha cho thấy không chỉ có một chiếc xe không có kính, một người lính phải chịu gió, bụi mà là rất nhiều chiếc xe và rất nhiều người lính có cùng chung cảnh ngộ như vậy. Trước khó khăn, họ vẫn cười ha ha đầy sảng khoái, điều này tiếp tục cho thấy tinh thần lạc quan của những người chiến sĩ lái xe. Một khó khăn tiếp theo nữa mà người lính lái xe phải trải qua đó là mưa. Người ta ngồi trong ô tô thì thường không cần bận tâm gì đến chuyện mưa nắng ngoài trời vậy mà những người lính của chúng ta dù ngồi trong buồng lái vẫn phải hứng trọn những cơn mưa: Không có kính, ừ thì ướt áo Mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi Như vậy là dù mưa có xối thẳng vào khiến họ ướt thế nào thì chiếc xe vẫn không dừng lại. Bởi vì lái xe là công việc của họ, đó là công việc cao cả mà dù khó khăn ra sao cũng không thể dừng bước. Mưa ướt, không thay áo. Lái thêm trăm cây số nữa thì thế nào trời cũng sẽ hết mưa. Gió lúc trước là sự khó khăn thì giờ đây lại như một người bạn giúp cho những người lính lùa khô quần áo, người ngợm và khô cả buồng lái nữa. Cứ như vậy, vượt qua bao nhiêu khó khăn và gian khổ, đoàn xe vẫn cứ bước ra từ trong bom rơi: Những chiếc xe từ trong bom rơi Đã về đây họp thành tiểu đội Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi Niềm vui của những người lính lái xe chính là được gặp gỡ những người đồng đội của mình. Họ đã tụ họp về một nơi và thành tiểu đội, tiểu đội xe không kính. Nghe cái tên thôi cũng đủ thấy thú vị rồi. Đôi khi trên dọc đường đi, những người lính gặp nhau và ô kính vỡ lại trở thành một ưu điểm khiến cho những người lính có cơ hội được “bắt tay qua cửa kính vỡ rồi”.Xem thêm: Cho đề bài "Em hãy thuật lại (kể lại) chiến công thần tốc đại phá quân Thanh của vua Quang Trung từ tối 30 Tết đến ngày mồng năm tháng Giêng". Em hãy viết đoạn văn thuật lại chiến thắng Ngọc Hồi trong bài viết trên Những lúc dừng chân nghỉ ngơi, họ cùng nhau dựng bếp, thổi cơm ăn chung đầm ấm như gia đình: Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy Võng mắc chông chênh đường xe chạy Lại đi, lại đi trời xanh thêm. Giữa chiến trường ác liệt, những người không quen, không biết lại trở nên thân thiết như anh em một nhà. Nó khiến cho trái tim những người lính trở nên ấm áp hơn, xóa mờ đi những gian khổ của chiến tranh và vơi đi phần nào nỗi nhớ nhà. Những chiếc xe cứ như vậy tiến về phía trước mặc khó khăn bởi vì ở trong xe có một trái tim, trái tim ấy luôn hướng về Tổ quốc: Không có kính, rồi xe không có đèn Không có mui xe, thùng xe có xước Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước Chỉ cần trong xe có một trái tim Khổ thơ cuối cùng tố cáo tội ác của chiến tranh. Hiện thực của chiến tranh là như vậy nhưng không ngăn nổi ý chí của những người lính. Bởi vì họ biết rằng, chỉ có tiến về phía trước thì mới có được tự do và hạnh phúc. Bài thơ về tiểu đội xe không kính quả thực là một bài thơ hay. Lẽ thường, người ta thích đưa vào trong thơ văn những cái gì đẹp đẽ nhất nhưng nhà thơ Phạm Tiến Duật lại miêu tả một chiếc xe không kính, không đèn, không mui. Nếu được lựa chọn, không ai muốn ngồi trong chiếc xe ấy. Nhưng những người lính của chúng ta lại khác. Bài thơ mang đến cho người đọc một cái nhìn mới mẻ, lạc quan và yêu đời hơn. Trên đây là phần lập dàn ý chi tiết phân tích Bài thơ về tiểu đội xe không kính. Với dàn ý và bài văn mẫu này, hy vọng các em đã có thử tự viết một bài văn phân tích của riêng mình. Thu Thủy
Bài thơ về tiểu đội xe không kính của nhà thơ Phạm Tiến Duật là một bài thơ rất hay viết về những người lính lái xe trên tuyến đường Trường Sơn. Bài thơ thể hiện được những nỗi khó khăn, vất vả của người lính lái xe nhưng vẫn toát lên được tinh thần lạc quan của người lính. Để giúp các em có thể làm đề văn phân tích Bài thơ về tiểu đội xe không kính, Kho tàng văn mẫu sẽ hướng dẫn các em lập dàn ý chi tiết cho đề văn này và cung cấp thêm một bài văn mẫu cho các em tham khảo. I. Lập dàn ý phân tích Bài thơ về tiểu đội xe không kính 1. Mở bài – Giới thiệu về nhà thơ Phạm Tiến Duật và bài thơ Bài thơ về tiểu đội xe không kính. – Nhà thơ Phạm Tiến Duật là nhà thơ tiêu biểu trong thời chống Mĩ. – Bài thơ về tiểu đội xe không kính là một sáng tác rất hay của nhà thơ. 2. Thân bài phân tích Bài thơ về tiểu đội xe không kính a. Hình ảnh chiếc xe không có kính – Chiếc xe được miêu tả hình dáng một cách cụ thể. – Chiếc xe đặc biệt vì không có kính, khác hẳn với những chiếc xe bình thường khác. – Nhà thơ miêu tả rõ nguyên nhân xe không có kính là vì bom giật, bom rung. – Ngôn ngữ trong thơ dí dỏm, hóm hỉnh. Hình ảnh được liệt kê một cách chân thực, độc đáo. b. Hình ảnh những chiến sĩ lái xe – Tâm trạng thư thái, ung dung của người lính ngồi sau buồng lái. – Thái độ bất chấp khó khăn, nguy hiểm, vẫn hiên ngang lái xe về phía trước. – Tình đồng chí, đồng đội của những người lính. – Ý chí quyết tâm chống giặc, giành lại hòa bình, độc lập. 3. Kết bài – Tổng quan nội dung bài thơ về tiểu đội xe không kính và nêu cảm nghĩ của em về bài thơ này. Bài viết liên quan >> Phân tích bài thơ Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận (Có dàn ý chi tiết) >> Phân tích bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt (Có dàn ý chi tiết) >> Phân tích bài thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy (Có dàn ý chi tiết) II. Bài làm phân tích Bài thơ về tiểu đội xe không kính Chúng ta đã được nghe nói nhiều về chiến tranh, được học những bài học lịch sử và hiểu chiến tranh tàn khốc tới mức nào. Chiến tranh cướp đi của con người mạng sống, cướp đi của con người nên hòa bình,… Mỗi nhà thơ, nhà văn thường miêu tả những góc khác nhau của chiến tranh. Có những người nhìn vào chiến tranh một cách trực diện, nói tới những đau thương mất mát thì cũng có những người nhìn vào chiến tranh bằng một cặp mắt khá lạc quan. Có thể lấy ví dụ như Bài thơ về tiểu đội xe không kính của nhà thơ Phạm Tiến Duật. Mặc dù cũng nói về sự tàn khốc của chiến tranh nhưng người đọc vẫn thấy được những nét tươi vui và hóm hình của những người chiến sĩ.Xem thêm: Nghị luận xã hội về Lý tưởng sống của thanh niên ngày nay Bài thơ về tiểu đội xe không kính viết về những anh lính lái xe trên tuyến đường Trường Sơn. Chúng ta biết rằng đây là tuyến đường gian nguy nhất, hứng chịu nhiều mưa bom đạn lạc nhất. Chính vì vậy mà những người ngày ngày hành quân trên tuyến đường ấy vô cùng vất vả. Họ ngày ngày phải đối diện với hiểm nguy, thậm chí là cái chết. Sự hiểm nguy ấy thể hiện rõ nét ngay từ những câu thơ đầu tiên: Không kính không phải vì xe không có kính Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi Ung dung buồng lái ta ngồi Nhìn đất nhìn trời nhìn biển Bom giật bom rung, đó là hiện thực tàn khốc của chiến tranh. Chiến tranh đã khiến cho những chiếc xe rung lên và vỡ kính. Kính vỡ là chuyện nhỏ, người ngồi phía sau tay lái mới là chuyện lớn. Kính có thể vỡ, vậy thì con người cũng có thể hy sinh bất cứ lúc nào. Nhưng không, khi miêu tả đến người phía sau buồng lái, nhà thơ Phạm Tiến Duật lại miêu tả những con người ung dung nhìn thẳng về phía biển trời. Phân tích Bài thơ về tiểu đội xe không kính Lẽ tất nhiên, chiếc xe không có kính thì dù người lính có lạc quan tới mức nào cũng khiến người lính gặp không ít khó khăn mà khó khăn đầu tiên được nhà thơ miêu tả đó chính là gió: Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim Thấy sao trời và đột ngột cánh chim Như sa, như ùa vào buồng lái Gió thì chỉ có thể cảm nhận thấy chứ không thể nào nhìn thấy. Thế nhưng ở đây, nhà thơ lại viết nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng. Nói như vậy để người đọc thấy được sự khó nhọc của người lính khi từng cơn gió theo nhau thổi vào mắt khiến cho đôi mắt nhòe đi vì đắng. Chưa kể đến những con chim bay ngoài bầu trời kia cũng có thể ùa vào bên trong buồng lái bất cứ lúc nào. Đây chính là hiện thực và nhà thơ đã tả một cách rất chân thực. Nhưng đó mới chỉ là một phần của khó khăn thôi. Những câu thơ tiếp theo lại diễn tả thêm một sự khó khăn khác nữa:Xem thêm: Cảm nhận về niềm khát khao tổ ấm gia đình của nhân vật Tràng. Không có kính, ừ thì có bụi Bụi phun tóc trắng như người già Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha Vốn dĩ kính xe được sinh ra là để chắn bụi, mưa, gió cho người ngồi phía trong xe nhưng ở đây xe không có kính thì người lính lại chịu cảnh bụi bay vào mặt, phủ lên tóc là điều hiển nhiên. Hình ảnh nhìn nhau mặt lấm cười ha ha cho thấy không chỉ có một chiếc xe không có kính, một người lính phải chịu gió, bụi mà là rất nhiều chiếc xe và rất nhiều người lính có cùng chung cảnh ngộ như vậy. Trước khó khăn, họ vẫn cười ha ha đầy sảng khoái, điều này tiếp tục cho thấy tinh thần lạc quan của những người chiến sĩ lái xe. Một khó khăn tiếp theo nữa mà người lính lái xe phải trải qua đó là mưa. Người ta ngồi trong ô tô thì thường không cần bận tâm gì đến chuyện mưa nắng ngoài trời vậy mà những người lính của chúng ta dù ngồi trong buồng lái vẫn phải hứng trọn những cơn mưa: Không có kính, ừ thì ướt áo Mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi Như vậy là dù mưa có xối thẳng vào khiến họ ướt thế nào thì chiếc xe vẫn không dừng lại. Bởi vì lái xe là công việc của họ, đó là công việc cao cả mà dù khó khăn ra sao cũng không thể dừng bước. Mưa ướt, không thay áo. Lái thêm trăm cây số nữa thì thế nào trời cũng sẽ hết mưa. Gió lúc trước là sự khó khăn thì giờ đây lại như một người bạn giúp cho những người lính lùa khô quần áo, người ngợm và khô cả buồng lái nữa. Cứ như vậy, vượt qua bao nhiêu khó khăn và gian khổ, đoàn xe vẫn cứ bước ra từ trong bom rơi: Những chiếc xe từ trong bom rơi Đã về đây họp thành tiểu đội Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi Niềm vui của những người lính lái xe chính là được gặp gỡ những người đồng đội của mình. Họ đã tụ họp về một nơi và thành tiểu đội, tiểu đội xe không kính. Nghe cái tên thôi cũng đủ thấy thú vị rồi. Đôi khi trên dọc đường đi, những người lính gặp nhau và ô kính vỡ lại trở thành một ưu điểm khiến cho những người lính có cơ hội được “bắt tay qua cửa kính vỡ rồi”.Xem thêm: Cho đề bài "Em hãy thuật lại (kể lại) chiến công thần tốc đại phá quân Thanh của vua Quang Trung từ tối 30 Tết đến ngày mồng năm tháng Giêng". Em hãy viết đoạn văn thuật lại chiến thắng Ngọc Hồi trong bài viết trên Những lúc dừng chân nghỉ ngơi, họ cùng nhau dựng bếp, thổi cơm ăn chung đầm ấm như gia đình: Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy Võng mắc chông chênh đường xe chạy Lại đi, lại đi trời xanh thêm. Giữa chiến trường ác liệt, những người không quen, không biết lại trở nên thân thiết như anh em một nhà. Nó khiến cho trái tim những người lính trở nên ấm áp hơn, xóa mờ đi những gian khổ của chiến tranh và vơi đi phần nào nỗi nhớ nhà. Những chiếc xe cứ như vậy tiến về phía trước mặc khó khăn bởi vì ở trong xe có một trái tim, trái tim ấy luôn hướng về Tổ quốc: Không có kính, rồi xe không có đèn Không có mui xe, thùng xe có xước Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước Chỉ cần trong xe có một trái tim Khổ thơ cuối cùng tố cáo tội ác của chiến tranh. Hiện thực của chiến tranh là như vậy nhưng không ngăn nổi ý chí của những người lính. Bởi vì họ biết rằng, chỉ có tiến về phía trước thì mới có được tự do và hạnh phúc. Bài thơ về tiểu đội xe không kính quả thực là một bài thơ hay. Lẽ thường, người ta thích đưa vào trong thơ văn những cái gì đẹp đẽ nhất nhưng nhà thơ Phạm Tiến Duật lại miêu tả một chiếc xe không kính, không đèn, không mui. Nếu được lựa chọn, không ai muốn ngồi trong chiếc xe ấy. Nhưng những người lính của chúng ta lại khác. Bài thơ mang đến cho người đọc một cái nhìn mới mẻ, lạc quan và yêu đời hơn. Trên đây là phần lập dàn ý chi tiết phân tích Bài thơ về tiểu đội xe không kính. Với dàn ý và bài văn mẫu này, hy vọng các em đã có thử tự viết một bài văn phân tích của riêng mình. Thu Thủy
Đề bài: Phân tích Bài Thơ Về Tiểu Đội Xe Không Kính của Phạm Tiến Duật Bài làm Viết về hình ảnh người lính trong cuộc kháng chiến chống Mỹ có rất nhiều bài thơ hay và đặc sắc. Một trong số đó phải kể tới Bài Thơ Về Tiểu Đội Xe Không Kính của nhà thơ Phạm Tiến Duật. Bài thơ gợi lên những hình ảnh chân thực về cuộc kháng chiến chống Mỹ của dân tộc, về những đoàn xe vận tải vận chuyển lương thực, vũ khí, thuốc men từ hậu phương miền Bắc vào tiền tuyến miền Nam. Những hình ảnh ấy được gợi lên ở ngay đầu bài thơ: “Xe không kính không phải vì xe không có kính Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi Ung dung buồng lái ta ngồi Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng” Những chiếc xe mang dáng vẻ đặc biệt đó là đều không có kính. Phạm Tiến Duật đã lý giải rất hài hước về nguyên nhân những chiếc xe đó không có kính. Nó không phải vốn có như vậy mà do sự khốc liệt của cuộc chiến, của bom đạn khiến cho những chiếc kính bị vỡ. Nhưng giữa sự khốc liệt ấy thì nhà thơ lại cho ta thấy phong thái ung dung, tự tại của những người chiến sĩ lái xe. Từ láy “ung dung” cùng với phép đảo ngữ càng làm thêm nổi bật tư thế hiên ngang của người lính. Họ nhìn thẳng trời đất, không hề e sợ. Trước mắt những người lính là trời đất bao la, rộng lớn và họ cần bước tiếp, thẳng tiến đến chiến trường miền Nam:Xem thêm: Em hãy viết một đoạn văn theo chủ đề tự chọn trong đó có sử dụng cách dẫn trực tiếp và cách dẫn gián tiếp “Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng Thấy con đường chạy thẳng vào tim Thấy sao trời và đột ngột cánh chim Như sa như ùa vào buồng lái” Bốn câu thơ có sự chuyển đối cảm giác rất nhẹ nhàng và tinh tế. Nhìn thấy những ngọn gió không bị chắn bởi cửa kính xe mà “xoa mắt đắng”. Cái nhìn không chỉ mang ý nghĩa nhìn thấy những cảnh vật bên ngoài nữa mà thấy hẳn “con đường chạy thẳng vào tim”. Trong lúc cam go, căng thẳng giữa mưa bom, bão đạn nhưng người lính vẫn không hề run sợ mà vẫn ung dung vừa lái vừa nhìn ngắm sao trời, cánh chim. Từng hình ảnh được nhà thơ lột tả mang theo sự hóm hỉnh, vui tươi của những người chiến sĩ lái xe. Phân tích Bài Thơ Về Tiểu Đội Xe Không Kính Đoạn thơ tiếp theo Phạm Tiến Duật đã diễn tả sự khốc liệt của chiến tranh: “Không có kính ừ thì có bụi Bụi phun tóc trắng như người già Chưa cần rửa phì phèo châm điếu thuốc Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha Không có kính ừ thì mưa ướt áo Mưa tuôn mưa xối như ngoài trời Chưa cần rửa lái trăm cây số nữa Mưa ngừng gió lùa khô mau thôi” Dưới ngòi bút của nhà thơ, hiện thực chiến tranh hiện lên một cách đầy hài hước, chân thực lại mang cảm giác gần gũi, dễ liên tưởng. Từ “ừ” của người lính cho ta thấy được sự thờ ơ, không vướng bận, thản nhiên chấp nhận tất cả mọi việc của họ. Tất cả những khó khăn, những khốc liệt của chiến tranh hay của thiên nhiên trên con đường họ đi thì đều không khiến họ chùn bước mà vẫn nhìn thẳng, vẫn thẳng tiến. Điệp từ “chưa cần” đã thể hiện sự hiên ngang, bất cần của họ. Trên con đường dài phía trước, mưa bom bão đạn, thiên nhiên giống như sự thử thách đối với mọi người nhưng trái lại, lại càng làm tăng thêm tình cảm đồng đội, đồng chí:Xem thêm: Phân tích tác phẩm Chử Đồng Tử “Những chiếc xe từ trong bom rơi Đã về đây họp thành tiểu đội Gặp bạn bè suốt dọc đường đi tới Bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi” Những chiếc xe không có kính, những ô kính trống không lại tiện cho những người lính vươn cánh tay ra chào những người đồng đội của mình, những cái bắt tay tuy vội vàng nhưng chứa đựng biết bao tình cảm và tăng thêm sự quyết tâm chiến đấu. Rồi khi họ dừng chân nghỉ ngơi, sinh hoạt cũng khiến cho người đọc ngày nay cảm thấy ấn tượng: “Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời Chung bát đĩa nghĩa là gia đình đấy Võng mắc chông chênh đường xe chạy Lại đi, lại đi, trời xanh thêm” Những lúc nghỉ ngơi, những người chiến sĩ lái xe đã cùng nhau nấu những bữa cơm bằng việc dựng nên chiếc bếp Hoàng Cầm, cùng quây quần bên nhau với mâm cơm dã chiến. Ngay đến cả giấc ngủ của họ cũng tạm bợ, không phải tìm kiếm mà “dựng giữa trời”, mà ngay “đường xe chạy”. Những định nghĩa của họ về gia đình không phải chỉ là những người chung huyết thống mà còn là những người cùng chung lý tưởng, cùng chung “bát đũa”, cùng nhau vượt qua những khó khăn thử thách bằng cách thản nhiên chấp nhận: “Không có kính rồi xe không có đèn Không có mui xe, thùng xe có xước Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước Chỉ cần trong xe có một trái tim” Bài Thơ Về Tiểu Đội Xe Không Kính của nhà thơ Phạm Tiến Duật giống như một bài ca vui tươi, nhộn nhịp về hình ảnh những người lính lái xe trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Qua bài thơ ta thấy được sự hiên ngang, bất khuất và sự cá tính, hóm hỉnh của những người lính, đó chính là hình ảnh đẹp, để lại nhiều ấn tượng trong lòng độc giả.Xem thêm: Nghị luận xã hội về đức tính chăm chỉ Loan Trương
Topic: Analysis of the poem about the squad of cars without glasses by Pham Tien Duat Assignment Writing about the image of soldiers in the resistance war against America, there are many good and unique poems. One of them must be the Poem About the Vehicle Squad Without Glasses by poet Pham Tien Duat. The poem evokes realistic images of the nation's resistance war against America, of convoys transporting food, weapons, and medicine from the Northern rear to the Southern front line. These images are evoked at the beginning of the poem: “The car has no glass, not because the car has no glass The shock bomb shook the glass and broke it I sit leisurely in the cockpit Looking at the ground, looking at the sky, look directly" The cars have that special look without glass. Pham Tien Duat gave a very humorous explanation about the reason those cars did not have glasses. It was not inherently like that, but due to the fierceness of the war and the bombs, the glasses were broken. But amidst that fierceness, the poet shows us the leisurely and carefree demeanor of the soldiers driving. The word "cavalier" along with anagrams further highlight the soldier's proud posture. They looked straight at heaven and earth, without fear. In front of the soldiers is a vast and vast sky and earth and they need to move on, straight to the Southern battlefield: See more: Write a paragraph on a topic of your choice, using a direct quote. and indirect method “Seeing the wind coming in rubs my eyes bitterly See the road running straight to the heart Seeing stars and suddenly bird wings Like sand rushing into the cockpit" The four verses have a very gentle and delicate transition of feeling. Seeing the wind not blocked by the car window "rubs my eyes bitterly". The look not only means seeing the external scenery but also seeing "the road running straight to the heart". During difficult and stressful times amidst the rain of bombs and storms of bullets, the soldiers still did not tremble and still leisurely drove while looking at the stars and birds. Each image portrayed by the poet carries the humor and joy of the soldiers driving. Analysis of the Poem About the Vehicle Squad Without Glass The next poem by Pham Tien Duat describes the severity of war: “If there are no glasses, there will be dust The dust sprayed my hair as white as an old person No need to wash and light a cigarette Looking at each other with smiling faces If you don't have glasses, your clothes will be wet in the rain The rain poured down like it was outside No need to wash the steering wheel for hundreds of kilometers anymore The rain stops and the wind dries quickly." Under the poet's pen, the reality of war appears in a humorous and realistic way, bringing a feeling of closeness and ease of association. The soldier's "yes" shows us their indifference, non-attachment, and calm acceptance of everything. All the difficulties, the fierceness of war or nature on their path did not make them falter but they still looked straight, still moving forward. The phrase "no need" shows their bravery and carelessness. On the long road ahead, the rain of bombs and bullets, nature is like a challenge for everyone, but on the contrary, it increases the feeling of comrades and comrades: See more: Analysis of Chu Dong Tu's work “The cars fell from the bombs Came here to form a squad Met friends along the way We shook hands through the broken glass window." Cars without windows and empty windows are convenient for soldiers to stretch out their arms to greet their comrades. Although the handshakes are hasty, they contain so much affection and increase determination. fight. Then when they stopped to rest, their activities also made today's readers feel impressed: “The Hoang Cam kitchen is set up in the sky Sharing dishes means family The hammock is stuck on the road Go again, go again, the sky is bluer" During breaks, the soldiers driving together cooked meals by setting up the Hoang Cam stove, gathering together with a field tray of rice. Even their sleep is temporary, not being searched but "set up in the sky", but right on the "road of vehicles". Their definition of family is not just people who share blood but also people who share the same ideals, share the same "bowls and chopsticks", and overcome difficulties and challenges together by calmly accepting: “There are no glasses and the car has no lights There is no hood, the trunk has scratches The car is still running because the South is ahead As long as there's a heart in the car" Poet Pham Tien Duat's poem About the Glassless Car Platoon is like a cheerful, bustling song about the image of soldiers driving in the resistance war against America to save the country. Through the poem, we see the bravery, indomitability, personality and humor of the soldiers, which is a beautiful image, leaving many impressions in the hearts of readers. See more: Social discussion on virtue diligence Loan Truong
Phân tích Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật Hướng dẫn Bài thơ Tiểu đội xe không kính là một bài thơ mang đậm chất cách tân của thi đề và hình tượng trung tâm của bài thơ đó là chiệc xe không kính. Hình ảnh đó đã nói lên được tính ác liệt của chiến tranh, của con đường ra trận. Những hiễm nguy mà con ngui phải gánh chịu và sự dũng cảm huy sinh mà các chiến sĩ phải xả thân khi diều khiển một chiếc xe không kính như vậy. với bài thơ này, đời sống của con người được khắc họa bằng những hi tiết hết sức là éo le, cực khổ mà con người phải gánh chịu. Không những vậy mà chỉ có những con người trong chiến tranh mới thấu hiểu được cái đời sống lam lũ thế nào và nhà văn cũng không ngừng có tầm quan sát về không gian cũng như thời gian của cuộc chiến tranh xẫy ra. “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” là một bài thơ đặc sắc tiêu biểu cho phong cách thơ Phạm Tiến Duật cũng như một số tác phẩm tiêu biểu của nhà thơ Lửa đèn, Trường Sơn Đông Trường Sơn Tây, Nhớ,…Chất giọng trẻ, chất lính của bài thơ bắt nguồn từ tâm hồn phơi phới của thế hệ chiến sĩ Việt Nam thời chống Mỹ mà chính nhà thơ đã sống, đã trải nghiệm. Từ sự giản dị của ngôn từ, sự sáng tạo của hình ảnh chi tiết, sự linh hoạt của nhạc điệu, bài thơ đã khắc hoạ, tôn vính vẻ đẹp phẩm giá con người, hoà nhập với cảm hứng lãng mạn cách mạng và âm hưởng sử thi hào hùng của văn học Việt Nam trong ba mươi năm chống xâm lược 1945 – 1975. “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” là một bài thơ đặc sắc tiêu biểu cho phong cách thơ Phạm Tiến Duật cũng như một số tác phẩm tiêu biểu của nhà thơ Lửa đèn, Trường Sơn Đông Trường Sơn Tây, Nhớ,… Là một trong những nhà thơ tiêu biểu của thế hệ nhà thơ trẻ những năm chống Mỹ “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước – Mà lòng phơi phới dậy tương lai”(Tố Hữu), Phạm Tiến Duật có giọng thơ mang chất lính, khoẻ, dạt dào sức sống, tinh nghịch vui tươi, giàu suy tưởng. “Bài thơ về tiểu đội không kính” (trong chùm thơ được giải nhất cuộc thi thơ báo Văn nghệ năm 1969-1970) được Phạm Tiến Duật viết năm 1969 là bài thơ tự do mang phong cách đó.Mở đầu bài thơ là hình ảnh những chiếc xe không kính chắn gió – hình ảnh có sức hấp dẫn đặc biệt vì nó chân thực, độc đáo, mới lạ. Xưa nay, hình ảnh xe cộ trong chiến tranh đi vào thơ ca thường được mỹ lệ hoá, tượng trưng ước lệ chứ không được miêu tả cụ thể, thực tế đến trần trụi như cách tả của Phạm Tiến Duật. Với bút pháp hiện thực như bút pháp miêu tả “anh bộ đội cụ Hồ thời chống Pháp” của Chính Hữu trong bài Đồng chí (1948), Phạm Tiến Duật đã ghi nhận, giải thích về “những chiếc xe không kính” thật đơn giản, tự nhiên: Không có kính không phải vì xe không có kínhXem thêm: Sức mạnh nào giúp con người bớt đi những lo âu, sợ hãi và đau khổ Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi Bom đạn ác liệt của chiến tranh đã tàn phá làm những chiếc xe ban đầu vốn tốt, mới trở thành hư hỏng: không còn kính chắn gió, không mui không đèn, thùng xe bị xước. Hìmh ảnh những chiếc xe không kính không hiếm trong chiến tranh chống Mỹ trên đường Trường Sơn lửa đạn nhưng phải là một chiến sĩ, một nghệ sĩ tâm hồn nhạy cảm, trực tiếp sẵn sàng chiến đấu cùng những người lính lái xe thì nhà thơ mới phát hiện được chất thơ của hình ảnh ấy để đưa vào thơ ca một cách sáng tạo, nghệ thuật. Không tô vẽ, không cường điệu mà tả thực, nhưng chính cái thực đã làm người suy nghĩ, hình dung mức độ ác liệt của chiến tranh, bom đạn giặc Mỹ. Mục đích miêu tả những chiếc xe không kính là nhằm ca ngợi những chiến sĩ lái xe. Đó là những con người trẻ trung, tư thế ung dung, coi thường gian khổ, hy sinh. Trong buồng lái không kính chắn gió, họ có cảm giác mạnh mẽ khi phải đối mặt trực tiếp với thiên nhiên bên ngoài. Những cảm giác ấy được nhà thơ ghi nhận tinh tế sống động qua những hình ảnh thơ nhân hoá, so sánh và điệp ngữ: Ung dung buồng lái ta ngồi Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng. Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim Thấy sao trời và đột ngột cánh chim Như sa như ùa vào buồng lái. Những câu thơ nhịp điệu nhanh mà vẫn nhịp nhàng đều đặn khiến người đọc liên tưởng đến nhịp bánh xe trên đường ra trận. Tất cả sự vật, hình ảnh, cảm xúc mà các chiến sĩ lái xe trực tiếp nhìn thấy, cảm nhận đã biểu hiện thái độ bình tĩnh thản nhiên trước những nguy hiểm của chiến tranh, vì có ung dung thì mới thấy đầy đủ như thế. Các anh nhìn thấy từ “gió”,”con đường” đến cả “sao trời”, “cánh chim”. Thế giới bên ngoài ùa vào buồng lái với tốc độ chóng mặt tạo những cảm giác đột ngột cho người lái. Hình ảnh “những cánh chim sa, ùa vào buồng lái” thật sinh động, gợi cảm. Hình ảnh “con đường chạy thẳng vào tim” gợi liên tưởng về con đường ra mặt trận, con đường chiến đấu, con đường cách mạng. Xem thêm: Cảm nhận về mùa hè cuối cùng của tà áo trắng – văn lớp 12 Hiên ngang, bất chấp gian khổ, những người lính lái xe luôn lạc quan tin tưởng chiến thắng. Những câu thơ lặp cấu trúc tự nhiên như văn xuôi, lời nói thường ngày thể hiện hình ảnh đẹp, tự tin, có tính cách ngang tàng: Không có kính, ừ thì có bụi, Bụi phun tóc trắng như người già Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha. Không có kính, ừ thì ướt áo Mưa tuôn mưa xối như ngoài trời Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa Mưa ngừng, gió lùa khô, mau thôi. Phạm Tiến Duật từng là thành viên của đoàn 559 vận tải chiến đấu ở Trường Sơn nên chất lính, tính ngang tàng thể hiện rõ nét trong thơ. Các chiến sĩ lái xe không hề lùi bước trước gian khổ, trước kẻ thù mà trái lại “tiếng hát át tiếng bom”, họ xem đây là cơ hội để thử thách sức mạnh ý chí. Yêu đời, tiếng cười sảng khoái của họ làm quên đi những nguy hiểm. Câu thơ “nhìn nhau mặt lấm cười ha ha” biểu lộ sâu sắc sự lạc quan ấy. Tình đồng chí, đồng đội keo sơn gắn bó là phẩm chất của người lính. Những khoảnh khắc của chiến tranh, giữa sống chết, những người lính trẻ từ những miền quê khác nhau nhưng cùng một nhiệm vụ, lý tưởng đã gắn bó nhau như ruột thịt, gia đình: Những chiếc xe từ trong bom rơi Đã về đây họp thành tiểu đội Gặp bạn bè suốt dọc đường đi tới Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi. Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy Võng mắc chông chênh đường xe chạy Lại đi, lại đi trời xanh thêm. “Trời xanh thêm” vì lòng người phơi phới say mê trước những chặng đường đã đi và đang đến. “Trời xanh thêm” vì lòng người luôn có niềm tin về một ngày mai chiến thắng. Những người lính lái xe hiên ngang, dũng cảm, lạc quan, trẻ trung sôi nổi, giàu tình đồng chí đồng đội, có lòng yêu nước sâu sắc. Lòng yêu nước là một động lực tạo cho họ ý chí quyết tâm giải phóng miền Nam, đánh bại giặc Mỹ và tay sai để thống nhất Tổ quốc: Không có kính rồi xe không có đèn Không có mui xe, thùng xe có xước Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước:Xem thêm: Cảm nhận của em về con người Sài Gòn qua văn bản Sài Gòn tôi yêu của tác giả Minh Hương. Chỉ cần trong xe có một trái tim. Khổ thơ cuối cùng vẫn giọng thơ mộc mạc, mà nhạc điệu hình ảnh rất đẹp, rất thơ, cảm hứng và suy tưởng vừa bay bổng vừa sâu sắc để hoàn thiện bức chân dung tuyệt vời của những chiến sĩ vận tải Trường Sơn. Bốn dòng thơ dựng hai hình ảnh đối lập đầy kịch tính, bất ngờ thú vị. Hai câu đầu dồn dập những mất mát khó khăn do quân thù gieo xuống, do đường trường gây ra: xe không kính, không đèn, không mui, thùng xe bị xước … Điệp ngữ “không có” nhắc lại ba lần như nhân lên những thử thách khốc liệt. Hai dòng thơ ngắt làm bốn khúc “không có kính/ rồi xe không có đèn / Không có mui xe / thùng xe có xước” như bốn chặng gập ghềnh, khúc khuỷu, đầy chông gai bom đạn. Hai câu cuối âm điệu đối chọi lại, trôi chảy, hình ảnh đậm nét. Đoàn xe đã chiến thắng, vượt lên bom đạn, hăm hở hướng ra tiền tuyến lớn với tình cảm thiêng liêng “vì miền Nam”, vì cuộc chiến đấu giành độc lập, thống nhất cho cả nước. Chói ngời, toả sáng khổ thơ, cả bài thơ là hình ảnh “trong xe có một trái tim”. Cội nguồn sức mạnh của cả đoàn xe, gốc rễ anh hùng của mỗi người cầm lái tích tụ, kết đọng ở “trái tim” gan góc, kiên cường, chứa chan tình yêu nước này. Ẩn sau ý nghĩa câu thơ “chỉ cần trong xe có một trái tim” là chân lý của thời đại chúng ta:sức mạnh quyết định, chiến thắng không phải là vũ khí, công cụ mà là con người giàu ý chí, anh hùng, lạc quan, quyết thắng. Có thể cả bài thơ hay nhất là câu cuối, “con mắt của thơ”, làm bật lên chủ đề, toả sáng vẻ đẹp của hình tượng nhân vật trong bài thơ. Thiếu phương tiện vật chất nhưng những chiến sĩ vận tải Đoàn 559 vẫn hoàn thành vẻ vang nhiệm vụ, nêu cao phẩm chất con người Việt Nam anh hùng như Tố Hữu đã ca ngợi: Thiếu tất cả, ta rất giàu dũng khí Sống chẳng cúi đầu, chết vẫn ung dung Giặc muốn ta nô lệ, ta lại hoá anh hùng Sức nhân nghĩa mạnh hơn cường bạo Bài thơ tái hiện hành trình gian khổ nhưng rất anh hùng của các chiến sĩ vận tải đoàn 559 trên tuyến lửa Trường Sơn những năm chống Mỹ. Kết hợp giữa hiện thực hào hùng với cảm hứng lãng mạn cách mạng, âm hưởng sử thi chặng đường 30 năm chống xâm lược của dân tộc 1945 – 1975. Nguồn:
Phân tích Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật Hướng dẫn Bài thơ Tiểu đội xe không kính là một bài thơ mang đậm chất cách tân của thi đề và hình tượng trung tâm của bài thơ đó là chiệc xe không kính. Hình ảnh đó đã nói lên được tính ác liệt của chiến tranh, của con đường ra trận. Những hiễm nguy mà con ngui phải gánh chịu và sự dũng cảm huy sinh mà các chiến sĩ phải xả thân khi diều khiển một chiếc xe không kính như vậy. với bài thơ này, đời sống của con người được khắc họa bằng những hi tiết hết sức là éo le, cực khổ mà con người phải gánh chịu. Không những vậy mà chỉ có những con người trong chiến tranh mới thấu hiểu được cái đời sống lam lũ thế nào và nhà văn cũng không ngừng có tầm quan sát về không gian cũng như thời gian của cuộc chiến tranh xẫy ra. “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” là một bài thơ đặc sắc tiêu biểu cho phong cách thơ Phạm Tiến Duật cũng như một số tác phẩm tiêu biểu của nhà thơ Lửa đèn, Trường Sơn Đông Trường Sơn Tây, Nhớ,…Chất giọng trẻ, chất lính của bài thơ bắt nguồn từ tâm hồn phơi phới của thế hệ chiến sĩ Việt Nam thời chống Mỹ mà chính nhà thơ đã sống, đã trải nghiệm. Từ sự giản dị của ngôn từ, sự sáng tạo của hình ảnh chi tiết, sự linh hoạt của nhạc điệu, bài thơ đã khắc hoạ, tôn vính vẻ đẹp phẩm giá con người, hoà nhập với cảm hứng lãng mạn cách mạng và âm hưởng sử thi hào hùng của văn học Việt Nam trong ba mươi năm chống xâm lược 1945 – 1975. “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” là một bài thơ đặc sắc tiêu biểu cho phong cách thơ Phạm Tiến Duật cũng như một số tác phẩm tiêu biểu của nhà thơ Lửa đèn, Trường Sơn Đông Trường Sơn Tây, Nhớ,… Là một trong những nhà thơ tiêu biểu của thế hệ nhà thơ trẻ những năm chống Mỹ “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước – Mà lòng phơi phới dậy tương lai”(Tố Hữu), Phạm Tiến Duật có giọng thơ mang chất lính, khoẻ, dạt dào sức sống, tinh nghịch vui tươi, giàu suy tưởng. “Bài thơ về tiểu đội không kính” (trong chùm thơ được giải nhất cuộc thi thơ báo Văn nghệ năm 1969-1970) được Phạm Tiến Duật viết năm 1969 là bài thơ tự do mang phong cách đó.Mở đầu bài thơ là hình ảnh những chiếc xe không kính chắn gió – hình ảnh có sức hấp dẫn đặc biệt vì nó chân thực, độc đáo, mới lạ. Xưa nay, hình ảnh xe cộ trong chiến tranh đi vào thơ ca thường được mỹ lệ hoá, tượng trưng ước lệ chứ không được miêu tả cụ thể, thực tế đến trần trụi như cách tả của Phạm Tiến Duật. Với bút pháp hiện thực như bút pháp miêu tả “anh bộ đội cụ Hồ thời chống Pháp” của Chính Hữu trong bài Đồng chí (1948), Phạm Tiến Duật đã ghi nhận, giải thích về “những chiếc xe không kính” thật đơn giản, tự nhiên: Không có kính không phải vì xe không có kínhXem thêm: Sức mạnh nào giúp con người bớt đi những lo âu, sợ hãi và đau khổ Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi Bom đạn ác liệt của chiến tranh đã tàn phá làm những chiếc xe ban đầu vốn tốt, mới trở thành hư hỏng: không còn kính chắn gió, không mui không đèn, thùng xe bị xước. Hìmh ảnh những chiếc xe không kính không hiếm trong chiến tranh chống Mỹ trên đường Trường Sơn lửa đạn nhưng phải là một chiến sĩ, một nghệ sĩ tâm hồn nhạy cảm, trực tiếp sẵn sàng chiến đấu cùng những người lính lái xe thì nhà thơ mới phát hiện được chất thơ của hình ảnh ấy để đưa vào thơ ca một cách sáng tạo, nghệ thuật. Không tô vẽ, không cường điệu mà tả thực, nhưng chính cái thực đã làm người suy nghĩ, hình dung mức độ ác liệt của chiến tranh, bom đạn giặc Mỹ. Mục đích miêu tả những chiếc xe không kính là nhằm ca ngợi những chiến sĩ lái xe. Đó là những con người trẻ trung, tư thế ung dung, coi thường gian khổ, hy sinh. Trong buồng lái không kính chắn gió, họ có cảm giác mạnh mẽ khi phải đối mặt trực tiếp với thiên nhiên bên ngoài. Những cảm giác ấy được nhà thơ ghi nhận tinh tế sống động qua những hình ảnh thơ nhân hoá, so sánh và điệp ngữ: Ung dung buồng lái ta ngồi Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng. Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim Thấy sao trời và đột ngột cánh chim Như sa như ùa vào buồng lái. Những câu thơ nhịp điệu nhanh mà vẫn nhịp nhàng đều đặn khiến người đọc liên tưởng đến nhịp bánh xe trên đường ra trận. Tất cả sự vật, hình ảnh, cảm xúc mà các chiến sĩ lái xe trực tiếp nhìn thấy, cảm nhận đã biểu hiện thái độ bình tĩnh thản nhiên trước những nguy hiểm của chiến tranh, vì có ung dung thì mới thấy đầy đủ như thế. Các anh nhìn thấy từ “gió”,”con đường” đến cả “sao trời”, “cánh chim”. Thế giới bên ngoài ùa vào buồng lái với tốc độ chóng mặt tạo những cảm giác đột ngột cho người lái. Hình ảnh “những cánh chim sa, ùa vào buồng lái” thật sinh động, gợi cảm. Hình ảnh “con đường chạy thẳng vào tim” gợi liên tưởng về con đường ra mặt trận, con đường chiến đấu, con đường cách mạng. Xem thêm: Cảm nhận về mùa hè cuối cùng của tà áo trắng – văn lớp 12 Hiên ngang, bất chấp gian khổ, những người lính lái xe luôn lạc quan tin tưởng chiến thắng. Những câu thơ lặp cấu trúc tự nhiên như văn xuôi, lời nói thường ngày thể hiện hình ảnh đẹp, tự tin, có tính cách ngang tàng: Không có kính, ừ thì có bụi, Bụi phun tóc trắng như người già Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha. Không có kính, ừ thì ướt áo Mưa tuôn mưa xối như ngoài trời Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa Mưa ngừng, gió lùa khô, mau thôi. Phạm Tiến Duật từng là thành viên của đoàn 559 vận tải chiến đấu ở Trường Sơn nên chất lính, tính ngang tàng thể hiện rõ nét trong thơ. Các chiến sĩ lái xe không hề lùi bước trước gian khổ, trước kẻ thù mà trái lại “tiếng hát át tiếng bom”, họ xem đây là cơ hội để thử thách sức mạnh ý chí. Yêu đời, tiếng cười sảng khoái của họ làm quên đi những nguy hiểm. Câu thơ “nhìn nhau mặt lấm cười ha ha” biểu lộ sâu sắc sự lạc quan ấy. Tình đồng chí, đồng đội keo sơn gắn bó là phẩm chất của người lính. Những khoảnh khắc của chiến tranh, giữa sống chết, những người lính trẻ từ những miền quê khác nhau nhưng cùng một nhiệm vụ, lý tưởng đã gắn bó nhau như ruột thịt, gia đình: Những chiếc xe từ trong bom rơi Đã về đây họp thành tiểu đội Gặp bạn bè suốt dọc đường đi tới Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi. Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy Võng mắc chông chênh đường xe chạy Lại đi, lại đi trời xanh thêm. “Trời xanh thêm” vì lòng người phơi phới say mê trước những chặng đường đã đi và đang đến. “Trời xanh thêm” vì lòng người luôn có niềm tin về một ngày mai chiến thắng. Những người lính lái xe hiên ngang, dũng cảm, lạc quan, trẻ trung sôi nổi, giàu tình đồng chí đồng đội, có lòng yêu nước sâu sắc. Lòng yêu nước là một động lực tạo cho họ ý chí quyết tâm giải phóng miền Nam, đánh bại giặc Mỹ và tay sai để thống nhất Tổ quốc: Không có kính rồi xe không có đèn Không có mui xe, thùng xe có xước Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước:Xem thêm: Cảm nhận của em về con người Sài Gòn qua văn bản Sài Gòn tôi yêu của tác giả Minh Hương. Chỉ cần trong xe có một trái tim. Khổ thơ cuối cùng vẫn giọng thơ mộc mạc, mà nhạc điệu hình ảnh rất đẹp, rất thơ, cảm hứng và suy tưởng vừa bay bổng vừa sâu sắc để hoàn thiện bức chân dung tuyệt vời của những chiến sĩ vận tải Trường Sơn. Bốn dòng thơ dựng hai hình ảnh đối lập đầy kịch tính, bất ngờ thú vị. Hai câu đầu dồn dập những mất mát khó khăn do quân thù gieo xuống, do đường trường gây ra: xe không kính, không đèn, không mui, thùng xe bị xước … Điệp ngữ “không có” nhắc lại ba lần như nhân lên những thử thách khốc liệt. Hai dòng thơ ngắt làm bốn khúc “không có kính/ rồi xe không có đèn / Không có mui xe / thùng xe có xước” như bốn chặng gập ghềnh, khúc khuỷu, đầy chông gai bom đạn. Hai câu cuối âm điệu đối chọi lại, trôi chảy, hình ảnh đậm nét. Đoàn xe đã chiến thắng, vượt lên bom đạn, hăm hở hướng ra tiền tuyến lớn với tình cảm thiêng liêng “vì miền Nam”, vì cuộc chiến đấu giành độc lập, thống nhất cho cả nước. Chói ngời, toả sáng khổ thơ, cả bài thơ là hình ảnh “trong xe có một trái tim”. Cội nguồn sức mạnh của cả đoàn xe, gốc rễ anh hùng của mỗi người cầm lái tích tụ, kết đọng ở “trái tim” gan góc, kiên cường, chứa chan tình yêu nước này. Ẩn sau ý nghĩa câu thơ “chỉ cần trong xe có một trái tim” là chân lý của thời đại chúng ta:sức mạnh quyết định, chiến thắng không phải là vũ khí, công cụ mà là con người giàu ý chí, anh hùng, lạc quan, quyết thắng. Có thể cả bài thơ hay nhất là câu cuối, “con mắt của thơ”, làm bật lên chủ đề, toả sáng vẻ đẹp của hình tượng nhân vật trong bài thơ. Thiếu phương tiện vật chất nhưng những chiến sĩ vận tải Đoàn 559 vẫn hoàn thành vẻ vang nhiệm vụ, nêu cao phẩm chất con người Việt Nam anh hùng như Tố Hữu đã ca ngợi: Thiếu tất cả, ta rất giàu dũng khí Sống chẳng cúi đầu, chết vẫn ung dung Giặc muốn ta nô lệ, ta lại hoá anh hùng Sức nhân nghĩa mạnh hơn cường bạo Bài thơ tái hiện hành trình gian khổ nhưng rất anh hùng của các chiến sĩ vận tải đoàn 559 trên tuyến lửa Trường Sơn những năm chống Mỹ. Kết hợp giữa hiện thực hào hùng với cảm hứng lãng mạn cách mạng, âm hưởng sử thi chặng đường 30 năm chống xâm lược của dân tộc 1945 – 1975. Nguồn:
Đề bài: Có người cho rằng bài thơ Vịnh khoa thi Hương là tiếng khóc, nhưng lại có người cho rằng đó là tiếng cười châm biếm sâu cay của Trần Tế Xương trước thời cuộc lúc bấy giờ. Ý kiến của anh (chị) như thế nào? Trần Tế Xương (1870 – 1907) thường được gọi là Tú Xương vì đi thi tới Tám khoa chưa khỏi phạm trường quy nên chi đỗ Tú tài. Tuy nhiên, tài năng thơ ca, đặc biệt là thơ trào phúng đã tôn vinh tên tuổi của ông lên vị trí hàng đầu trong giai đoạn văn học cuối thế ki XIX, đầu thế ki XX. Vịnh khoa thi Hương là bài thơ thể hiện thái độ mỉa mai căm uất của Tú Xương đối với chế độ thi cử đương thời và đối với con đường thi cử gian nan, lận đận của riêng ông. Có người cho rằng Vịnh khoa thi Hương là tiếng khóc nhưng lại có người cho đó là tiếng cười châm biếm sâu cay của Trần Tế Xương trước thời cuộc lúc bấy giờ. Tuy nhiên, cả hai nhận xét trên đều đúng. Nhà nước ba năm mở một khoa, Trường Nam thi lẫn với trường Hà. Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ, Ậm oẹ quan trường miệng thét loa. Long cắm rợp trời quan sứ đến, Váy lê quét đất mụ đầm ra. Nhân tài đất Bắc nào ai đó, Ngoảnh cổ mà trông cảnh nước nhà. Bài thơ là bức biếm họa toàn cảnh khoa thi Hương năm Đinh Dậu (1897) Vì tình hình chính trị bất ổn nên sĩ tử ở Hà Nội phải xuống thi chung với sĩ tử của trường thi Nam Định. Chính vì thế mà quang cảnh lộn xộn, trái hẳn với không khí trang nghiêm vốn có chốn cửa Khổng sân Trình. Cái lệ ba năm mở một khoa là quy định của triều đình phong kiến nhà Nguyễn đặt ra đã từ lâu. Nhưng từ Nhà nước mở đầu bài thơ lại ám chĩ chính quyền bảo hộ của thực dân Pháp lúc bấy giờ với ý châm biếm, vì triều đình nhà Nguyễn chi còn là bù nhìn mà thôi. Hai câu đề: Nhà nước ba năm mở một khoa, Trường Nam thi lẫn với trường Hà. Câu phá đề đơn thuần mang tính chất thông báo, nhưng đốn câu thừa đề thì ý châm biếm của tác giả đã bộc lộ qua từ lẫn. Mọi chuyện bát nháo, nực cười nơi trường thi cũng khởi nguồn từ sự chung đụng lẫn lộn này. Hai câu thực: Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ, Ậm oẹ quan trường miệng thét loa. Với kết cấu đảo ngược đưa tính từ lên vị trí đầu câu, Tú xương đã đặc tả cảnh tượng đáng buồn của một trường thi ở giai đoạn chữ Hán đang bị chữ quốc ngữ đẩy lùi. Xem thêm: Phong cách nhà nho chân chính trong Bài ca ngất ngưởng của Nguyễn công TrứNgày xưa, sĩ tử đi thi phải mang theo lều chõng, cơm nước, tráp để đựng bút, giấy, nghiên mực… và một ống quyển để đựng quyển thi. Lọ ở đây là lọ nước uống. Mang vác lỉnh kỉnh như thế nên trông họ lôi thôi, lại chen lấn, xô đẩy nên càng giống một đám đông hỗn loạn ngoài đường ngoài chợ chứ không phải ở chốn trường thi vốn dĩ uy nghiêm. Sĩ tử thảm hại đã đành, còn quan trường cũng chẳng hơn gì. Tiếng loa gọi thí sinh lần lượt nhập trường thi lẽ ra phải rõ ràng, dõng dạc nhưng vì quá ồn ào, lộn xộn nên quan xướng danh phải cố thét lên cho thật to, riết rồi thành ậm oẹ, chẳng ra đâu vào đâu cả nên hoá buồn cười. Hai câu luận: Long cắm rợp trời quan sứ đến, Váy lê quét đất mụ đầm ra. Bằng bút pháp trào lộng sắc sảo, Tú Xương tiếp tục tả thực cái “chợ phiên” chữ nghĩa ấy với những chi tiết vô cùng độc đáo. Biết bao là trớ trêu, ngậm ngùi ẩn chứa trong khung cảnh ấy. Để chứng tỏ sự quan tâm của “mẫu quốc”, tên toàn quyền Pôn Đu-me (Paul Doumer) cùng vợ đã đến dự khai mạc trường thi cho thêm phần long trọng. Con mắt tinh đời và tâm trạng phẫn uất của Tú Xương đã giiúp mọi người nhận ra nỗi nhục mất nước qua hai hình ảnh tương phản trong hai câu thơ đối nhau chan chát là: Cờ của triều đình phong kiến bán nước đối với Váy của vợ tên quan thực dần cướp nước. Ngậm ngùi, cay đắng biết bao nhiêu! Dâu không có giọt nước mắt nào nhưng người đọc thấy rõ là nhà thơ đang cắn răng cố nuốt tiếng khóc vào trong, ông khóc vì quốc thể bị xúc phạm, khóc vì nỗi nhục nô lệ của giới trí thức nói riêng và cả dân tộc nói chung. Nhân tài đất Bắc nào ai đó, Ngoảnh cổ mà trông cảnh nước nhà. Nỗi ngậm ngùi bị dồn nén cao độ đã bật thốt thành lời cảm thán làm rung động lí trí và tình cảm người trong cuộc cũng như người ngoài cuộc. Nhân tài đất Bắc là cách gọi mỉa mai của Tú xương đối với đám Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ đang chen chúc chốn trường thi nhốn nháo đúng theo cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Trong đám đông ấy, hỏi có ai nghĩ tới cảnh nước nhà đáng đau, đáng hận; hay chỉ chúi mũi chúi tai tranh nhau cố kiếm miếng đinh chung mà quay lưng ngoảnh mặt làm ngơ?! Nhiều người có cùng một nhận xét là trong thơ Trần Tế xương, sự kết hợp hài hoà, chặt chẽ giữa tính hiện thực và tính trữ tình được thể hiện khá rõ. Có thể coi bài Vịnh khoa thi Hương này là một ví dụ tiêu biểu. Đằng sau tiếng cười châm biếm mang ý nghĩa xã hội sâu xa là tiếng khóc ngậm ngùi, nuối tiếc cho nền Hán học suy tàn và tất cả những gì từng được coi là tinh hoa của nó đã bị đẩy lùi trước làn sóng văn hoá phương Tây đang tràn vào nước ta theo bước chân của đạo quân viễn chinh xâm lược Pháp. Xem thêm: Phân tích bi kịch tinh thần của nhân vật Hộ trong truyện ngắn Đời thừa; qua đó làm rõ tư tưởng nhân đạo độc đáo và mới mẻ của nhà văn lớn Nam Cao
Topic: Some people think that the poem Vinh Khoa Thi Huong is a cry, but some people think that it is the bitter satirical laughter of Tran Te Xuong before the times at that time. What is your opinion? Tran Te Xuong (1870 - 1907) is often called Tu Xuong because he could not pass the Baccalaureate when taking the exam to the Eighth Faculty. However, his poetic talent, especially satirical poetry, elevated his name to a leading position in the literary period of the late 19th century and early 20th century. The Huong Exam Exam is a poem expressing Tu Xuong's ironic and resentful attitude towards the contemporary exam regime and towards his own arduous and difficult exam path. Some people think that Vinh Khoa Thi Huong is a cry, but others think that it is the bitter satirical laughter of Tran Te Xuong before the times at that time. However, both of the above comments are correct. The state opens a faculty every three years, Nam school competes with Ha school. The unkempt soldier carries a bottle on his shoulder, The mandarin's mouth screamed loudly. Dragons covered the sky and envoys arrived, The mother's dress swept off the floor. Who is the Northern talent? Look back and look at the country. The poem is a caricature of the entire scene of the Huong exam in the year of the Rooster (1897). Because of the unstable political situation, students in Hanoi had to take the exam together with students from the Nam Dinh exam school. That's why the scene is chaotic, completely contrary to the solemn atmosphere inherent in Confucius' gate and Trinh yard. The rule of opening a department every three years was a regulation set by the Nguyen Dynasty's feudal court long ago. But the word State at the beginning of the poem refers to the French colonial protectorate at that time with a satirical intention, because the Nguyen court was only a puppet. Two sentences: The state opens a faculty every three years, Nam school competes with Ha school. The sentence that breaks the topic is simply informative, but when the sentence breaks the topic, the author's satirical intention is revealed through mixed words. All the chaos and ridiculousness at the exam school also originate from this confusion. Two real sentences: The unkempt soldier carries a bottle on his shoulder, The mandarin's mouth screamed loudly. With an inverted structure that puts the adjective at the beginning of the sentence, Tu Xuong describes the sad scene of an exam hall in the period when Chinese characters are being pushed back by the national language. See more: True Confucian style in the sublime song of Nguyen Cong Tru. In the past, candidates going to take the exam had to bring a tent, a mat, rice and water, a casket to hold pens, paper, inkstones... and a shin to hold books. exam. The bottle here is a drinking water bottle. Carrying such heavy loads made them look disheveled. They were jostling and pushing, making them look more like a chaotic crowd on the street in the market, not in an inherently majestic exam venue. Scholars are pathetic, but officials are no better. The sound of the loudspeaker calling candidates one by one to enter the exam hall should have been clear and loud, but because it was too noisy and chaotic, the announcer had to try to scream loudly and loudly, then it became muffled and didn't come out at all. should be funny. Two arguments: Dragons covered the sky and envoys arrived, The mother's dress swept off the floor. With sharp satirical writing, Tu Xuong continues to realistically describe that "literary market" with extremely unique details. There is so much irony and sadness hidden in that scene. To demonstrate the concern of the "mother country", Governor-General Paul Doumer (Paul Doumer) and his wife attended the opening ceremony of the exam to make it more solemn. Tu Xuong's sharp eyes and indignant mood helped people realize the humiliation of losing their country through two contrasting images in two contrasting verses: The flag of the feudal court selling the country to the dress of The mandarin's wife gradually robbed the country. How sad and bitter! There were no tears, but the reader clearly saw that the poet was gritting his teeth and trying to swallow his cries. He cried because the nation was insulted, cried because of the humiliation of slavery of the intellectuals in particular and the whole nation. Generally speaking. Who is the Northern talent? Look back and look at the country. The highly repressed sadness burst out into exclamations that shook the reason and emotions of both insiders and outsiders. Talents from the North is Tu Xuong's ironic name for the group of young scholars with jars on their shoulders who are crowding the bustling exam hall, both literally and figuratively. In that crowd, ask if anyone thinks about the painful and hateful scene of their country; Or do you just keep your nose and ears in each other trying to find a common piece of nail and turn your back and turn a blind eye?! Many people have the same opinion that in Tran Te Xuong's poetry, the harmonious and close combination of realism and lyricism is clearly shown. This Vinh Khoa Huong poem can be considered a typical example. Behind the satirical laughter with profound social meaning is a cry of sadness and regret for the decline of Sinology and all that was once considered its quintessence has been pushed back by the wave of Western culture. The West is flooding into our country following the footsteps of the expeditionary army invading France. See more: Analysis of the spiritual tragedy of the character Ho in the short story Excess Life; thereby clarifying the unique and new humanitarian ideology of great writer Nam Cao
Phân tích bài thơ Vọng Lư Sơn bộc bố của Lí Bạch Hướng dẫn I. Mở bài: – Thiên nhiên chiếm một vị trí sang trọng trong hồn thơ Lí Bạch. Với thanh kiếm hiệp sĩ và bầu rượu, túi thơ, Thi tiên đã đi tới mọi chân trời góc bể. Ở đâu có cảnh đẹp là ông tìm đến thăm thú, thưởng ngoạn và để thơ. – Núi Hương Lô, thác núi Lư ở Giang Tây, Trung Quốc là một danh lam thắng cảnh. Bài ‘Vọng Lư Sơn bộc bố’ (Xa ngắm thác núi Lư) của Lí Bạch viết bằng thể thơ thất ngôn tứ tuyệt Đường luật (luật trắc, vần bằng): – Có thể dẫn nguyên tác hoặc bài thơ dịch? – Bài thơ tả.cảnh thác núi Lư tráng lệ với cảm xúc mạnh mẽ, ấn tượng sâu sắc của Lí Bạch khi đứng từ xa say sưa ngắm nhìn. II. Thân bài: Cảnh đẹp thác núi Lư được tả bằng mắt và bằng tưởng tượng vì nhà thơ đứng ở một nơi rất xa ngắm thác. – Câu thứ nhất tả núi Hương Lô (núi tựa như là cái lò hương thiên tạo khổng lồ) được ánh mặt trời chiếu xuống, rọi vào, sinh ra muôn ngàn làn khói tía (tím đỏ) Vôcùng huyền ảo rực rỡ. Một nét vẽthơ mộng: ‘Nhật chiếu Hương Lô sinh tử yên’ (Nắng rọi Hương Lô khói tía bay) – Gâu thứ hai, tả vị trí ngắm thác, ở một nơi rất xa. Núi cao, thác cao, tưởng như thác treo trên dòng sông lơ lửng, cheo leo ở phía trước. Chữ Hán ‘quải’ nghĩa treo, một động từ tả hình dáng thác núi Lư! Bó là một thi nhãn rất hình tượng và gợi cảm: ‘Dao khan bộc bố quải tiền xuyên’ (Xa trông dòng thác trước sông này) Câu thơ dịch rơi mất chữ ‘quải’. Hai câu thơ đầu có năm chi tiết được nói đến, có núi, thác và sông, có ánh mặt trời và làn khói tía. Chữ ‘sinh’ là một vẻ động rất thần tình, gợi tả vẻ đẹp huyền diệu của núi và thác. Xem thêm: Dàn ý cảm nghĩ về cô giáo mà em yêu quý– Câu thơ thứ ba tả độ cao, chiều dài, tốc độ của dòng thác. ‘Phi lưu trực há’nghĩa là chảy như bay đổ thẳng xuống, đó là độ cao, là tốc độ mạnh ghê gớm của dòng thác. Con số ước lượng ba nghìn thước tả chiều dài: chảy bay (phi lưu), các tính từ – trạng ngữ: thẳng xuống (trực há) là những vẻ động, rất thần tình: ‘Phi lưu trực há tam thiên xích’ (Nước bay thẳng xuống ba nghìn thước) – Câu thơ thứ tư là lời thốt lên vô cùng ngạc nhiên và thú vị của Thi tiên Lí Bạch: ‘Nghi thị Ngân Hà lạc cửu thiên’ (Tưởng dài Ngân Hà tuột khỏi mây) Với trí tưởng tượng phi thường và cảm xúc lãng mạn bay bổng, Lí Bạch sử dụng thủ pháp nghệ thuật so sánh va thậm xưng để ví thác núi Lư kì vĩ, tráng lệ như dải Ngân Hà lấp lánh… triệu vì sao trên bầu trời. Dải Ngân Hà ấy đã rơi tự chín tầng mây cao xuống. Chữ ‘lạc’ nghĩa là rơi, rụng, là thi nhãn trong câu thơ tuyệt cú. III. Kết bài: – Nét đặc sắc, độc đáo của bài ‘Vọng Lư Sơn bộc bố’ là thủ pháp lấy diện để tô đậm điểm. Trên cái nền núi sông làn khói tía, Ngân Hà, chín tầng mây của bầu trời bao la, kì vĩ hiện lên thác núi Lư. Các động từ: chiếu, sinh, quải, phi lưu, lạc – là những nét vẽ đẹp rất gợi hình và gợi cảm. Hình ảnh so sánh thác núi Lư với dải Ngân Hà tuột khỏi mây là một sáng tạo kì diệu thể hiện một bút pháp nghệ thuật lãng mạn bay bổng. – ‘Vọng Lư Sơn bộc bô’thể hiện một tình yêu thiên nhiên say đắm, một sự cảm mến nồng hậu trước vẻ đẹp gấm vóc của giang sơn. Nguồn: thêm: Phân tích 8 câu thơ Tự Tình II của Hồ Xuân Hương
Analysis of the poem Vong Lu Son published by Ly Bach Instruct I. Introduction: – Nature occupies a luxurious position in Li Bach's poetic soul. With the knight's sword, wine gourd, and poetry bag, the Poet went to every corner of the world. Wherever there was beautiful scenery, he went to visit, enjoy and write poetry. – Huong Lo Mountain, Lu Mountain Waterfall in Jiangxi, China is a scenic spot. Ly Bach's song 'Vong Lu Son Bo Bo' (Distant view of Mount Lu waterfall) is written in a seven-word, quatrain Tang luat poem (meter meter, equal rhyme): – Can you cite the original work or translated poem? – The poem describes the magnificent Lu mountain waterfall with strong emotions and deep impressions of Ly Bach when standing from afar admiring it. II. Body of the article: The beautiful scenery of Mount Lu waterfall is described by eye and imagination because the poet stands in a very far place watching the waterfall. – The first sentence describes Huong Lo Mountain (the mountain is like a giant natural incense burner) as the sunlight shines down, shining in, creating thousands of purple (reddish purple) smoke, extremely magical and brilliant. A poetic drawing: 'Japanese edict of Huong Lo's life and death in peace' (The sun shines on Huong Lo, purple smoke flies) – Second woof, describes the location to view the waterfall, in a very remote place. High mountains, high waterfalls, it seems like the waterfall is hanging on the floating river, craggy in front. The Chinese character 'quai' means hanging, a verb that describes the shape of Mount Lu waterfall! Bo is a very iconic and sexy poem: 'Dao Khan Bo Bo's money pendant' (In the distance, look at the waterfall in front of this river) The translated verse loses the word 'qua'. The first two verses have five details mentioned, there are mountains, waterfalls and rivers, there is sunlight and purple smoke. The word 'birth' is a very magical movement, describing the magical beauty of mountains and waterfalls. See more: Outline of feelings about the teacher I love - The third verse describes the height, length, and speed of the waterfall. ‘Exemption directly ha' means flowing straight down, that is the height, the tremendous speed of the waterfall. The estimated number of three thousand meters describes the length: flowing (flowing), the adjectives - adverbs: straight down (truc ha) are moving, very magical looks: 'Flying straight ha three thousand chains' (The water flew straight down three thousand meters) – The fourth verse is the extremely surprising and interesting exclamation of Thien Ly White: 'Ni Thi Thi Ngan Ha Lac Nine Heavens' (Imagine the Milky Way slipping out of the clouds) With extraordinary imagination and soaring romantic emotions, Ly Bach uses the art of comparison and exaggeration to compare the majestic and magnificent Lu mountain waterfall to the sparkling Milky Way... millions of stars in the sky. . That Milky Way fell from nine clouds high. The word 'lost' means to fall, fall, and is the poetic eye in the great poem. III. End: – The special and unique feature of the song 'Vong Lu Son Boa' is the method of using face to highlight points. On the background of mountains and rivers, purple smoke, the Milky Way, nine layers of clouds in the vast and majestic sky appear Lu mountain waterfall. The verbs: mat, birth, quai, phi flowing, lac - are beautiful drawings that are very evocative and sexy. The image comparing the waterfall of Mount Lu with the Milky Way slipping out of the clouds is a magical creation that represents a soaring romantic artistic style. – ‘Vong Lu Son Bo Bo’ shows a passionate love for nature, a warm affection for the brocade beauty of the country. Source: more: Analysis of 8 verses of Tu Tinh II poem by Ho Xuan Huong
Phân tích bài thơ Vọng Lư Sơn bộc bố hay Hướng dẫn Vọng Lư Sơn bộc bố Lí Bạch (701 – 762) Nhật chiếu Hương Lô sinh tủ yên, Dao khan bộc bốquải tiền xuyên. Phỉ lưu trực há tam thiên xích, Nghi thị Ngán Hà lạc cửu thiên. Dịch nghĩa. Mặt trời chiếu núi Hương Lô, sinh làn khói tía, Xa nhìn dòng thác treo trên dòng sông phía trước. Thác chảy như say đổ thẳng xuống ba nghìn thước, Ngỡ là sông Ngân rơi tự chín tầng mây. Dịch thơ. Xa ngắm thác núi Lư Lí Bạch (701 – 762) Nắng rọi Hương Lô khói tía bay, Xa trông dòng thác trước sông này. Nước bay thẳng xuống ba nghìn thước, Tưởng dải Ngân Hà tuột khỏi mây. … đất nước, coi thường công danh, coi trọng tình bằng hữu, sống hào hiệp, nghĩa khí. Lí Bạch để lại trên một nghìn bài thơ, với phong cách lãng mạn bay bổng, tràn đầy cảm xúc và tưởng tượng, khắc họa thành công những hình tượng kì vĩ, hào hùng. Lí Bạch đi nhiều, hầu như các danh lam thắng cảnh trên đất nước Trung Hoa bao la, ông đều đặt chân tới và làm thơ. ‘Xa ngắm thác núi Lư’ là một trong những bài thơ tả cảnh tuyệt bút của ông: ‘Nắng rọi Hương Lô khói tía bay, Xa trông dòng thác trước sông này. Nước bay thẳng xuống ba nghìn thước, Tưởng dải Ngân Hà tuột khỏi mây’ Bài thơ miêu tả cảnh thác núi Lư hùng vĩ, tráng lệ, biểu lộ một tình yêu thiên nhiên, yêu núi sông Tổ quốc. Núi Hương Lô trong dãy Lư Sơn trùng điệp ở tỉnh Giang Tây, Trung Quốc. Hương Lô nghĩa đen là lò hương; dáng núi như vậy nên mới được đặt tên là Hương Lô. Núi cao có mây khói bao phủ, xa trông như chiếc lò hương thiên tạo khổng lổ. Hương Lô càng trở nên nổi tiếng nhờ có thác đẹp, nhất là những ngày rực nắng, trời xanh trong. Hai câu đầu cho thấy Lí Bạch đứng xa ngắm thác: ‘Nắng rọi Hương Lô khói tía bay, Xa trông dòng thác trước sông này’ Xem thêm: Tả cây bút máy mà em đang dùngSau gần 13 thế kỷ, không biết Lí Bạch đến thăm thác núi Lư vào buổi sáng hay buổi chiều, chỉ biết đó là một ngày rất đẹp có ‘nắng rọi’. Lưu truyền tiếng thác ‘như sấm động, như ngàn vạn con ngựa Hí vang trời’. Ớ đây, nhà thơ không tả âm thanh của tiếng thác mà chí tả bằng mắt vì đứng rất xa ngắm thác. Nắng chiếu xuống núi, chiếu xuống thác ‘khói tía bay’ mù mịt, bao phủ một vùng bao la. ‘Khói tía’ là khói màu đỏ pha tím sẫm. Thác núi Lư phản quang ánh mặt trời, du khách đứng xa tường như nhìn thấy Hương Lô có hàng ngàn vạn mảnh trầm, có muôn triệu cây hương đốt lên ‘khói tía bay’ trông rất ngoạn mục. Hình ảnh vừa thực vừa ảo làm hiện lên vẻ đẹp kỳ lạ của thác núi Lư. Câu thơ đầy màu sắc: màu trắng của thác, màu xanh của núi, màu vàng của nắng và màu tía của sương khói. Đằng sau câu thơ, người đọc cảm thấy Thi tiên đang đứng lặng trầm ngâm và say sưa ngắm thác núi Lư. Thác núi Lư trong xa như dòng sông treo trước mặt: ‘Nước bay thẳng xuống ba nghìn thước, Tường dải Ngân Hù tuột khỏi mây’ Từ núi cao, thác đổ xuống, trút xuống, ‘nước bay thẳng xuỗng’, tạo thành dòng trắng xóa ‘ba nghìn thước’. Trước cảnh tượng hùng vĩ lạ lùng ấy, Lí Bạch thốt lên ngạc nhiên… Với cảm hứng lãng mạn, nhà thơ đã sáng tạo nên một hình ảnh ẩn dụ để so sánh thác núi Lu với ‘dải Ngân Hà tuột khỏi mây’. Một nét vẽ phóng đại thần tình ca ngợi công trình tráng lệ và kỳ vĩ của tạo hóa. Nói rằng thơ Lí Bạch tràn đầy hùng tâm và tráng chí là như vậy. Với một tình yêu thiên nhiên đến say đắm, với một trí tưởng tượng đến phi thường, Thi tiên đã để lại một bức tranh hoành tráng về thác núi Lư bằng ngôn ngữ thi ca hiếm có. Hơn một thiên niên kỉ trôi qua, đã mấy ai được đến núi Lư Sơn Trung Quốc ngắm thác trong ‘nắng rọi’? Quả vậy, thác núi Lư làm cho thơ Lí Bạch trở nên vĩnh hằng, và thơ Lí Bạch cũng góp phần làm cho cảnh thác núi Lư kì vĩ in sâu vào tâm hồn nhân loại. Bài ‘Xa ngắm thác núi Lư’ được viết bằng thể thơ thất ngôn tứ tuyệt. Trí tưởng tượng hiếm có, nét vẽ thậm xưng tráng lệ, cảm hứng lãng mạn dạt dào là những yếu tô' đã làm nên cốt cách áng thơ kiệt tác này. Qua bài thơ, ta thấy rõ hồn thơ Lí Bạch: một tình yêu lớn đối với thiên nhiên và đất nước. Nhiều danh lam thắng cảnh của đất nước Trung Hoá đã soi bóng vào thơ Lí Bạch, để từ đó đi sâu vào lòng người khắp mọi nơi trên hành tinh. Bài thơ ‘Xa ngắm thác núi Lư’ đã mở rộng tầm nhìn, làm phong phú hơn tâm hồn chúng ta trong cảm nhận vẻ đẹp thiên nhiên, nàng tâm hồn chúng ta lên một tầm cao nhân văn khi tiếp cận các danh lam thắng cảnh trong và ngoài nước. Nguồn: thêm: Chứng minh câu tục ngữ "Có chí thì nên"
Analyze the well-published poem Vong Lu Son Instruct Vong Lu Son revealed Li Bai (701 – 762) The Japanese edict of Huong Lo born in peace, Dao Khan BuQua Tien Xuyen. Phi Luu Truong ha three thousand chains, Nghi Thi Ngan Ha lost nine heavens. Translate. The sun shines on Huong Lo mountain, creating purple smoke, In the distance, you can see the waterfall hanging on the river ahead. The waterfall flows drunkenly down three thousand meters, It seemed like the Ngan River fell from cloud nine. Translating poetry. Looking at the Lu mountain waterfall in the distance Li Bai (701 – 762) The sun shines on Huong Lo, purple smoke flies, In the distance, you can see the waterfall in front of this river. The water flew straight down three thousand meters, It seemed like the Milky Way slipped out of the clouds. ... country, disregarding fame, appreciating friendship, living chivalrously and virtuously. Ly Bach left behind over a thousand poems, with a soaring romantic style, full of emotions and imagination, successfully portraying majestic and heroic images. Li Bach traveled a lot, he visited almost every scenic spot in the vast country of China and wrote poetry. 'Looking at Lu mountain waterfall from afar' is one of his great landscape poems: 'The sun shines on Huong Lo's purple smoke, In the distance, you can see the waterfall in front of this river. The water flew straight down three thousand meters, I thought the Milky Way had slipped out of the clouds' The poem describes the majestic and magnificent waterfall of Mount Lu, expressing a love for nature, a love for the mountains and rivers of the Fatherland. Xianglu Mountain in the rolling Lushan range in Jiangxi province, China. Huong Lo literally means incense burner; That's why the mountain is named Huong Lo. The high mountain is covered with clouds and smoke, from afar it looks like a giant natural incense burner. Huong Lo has become more famous thanks to its beautiful waterfall, especially on sunny days with clear blue sky. The first two sentences show Ly Bach standing far away looking at the waterfall: 'The sun shines on Huong Lo's purple smoke, Far away I see the waterfall in front of this river' See more: Describe the fountain pen I'm using After nearly 13 centuries, I don't know if Ly Bach visited Lu mountain waterfall in the morning or in the afternoon, I only know that it was a very beautiful day with 'sunlight'. The sound of the waterfall is passed down 'like thunder, like thousands of horses neighing loudly in the sky'. Here, the poet does not describe the sound of the waterfall but describes it with his eyes because he stands very far away to see the waterfall. The sun shines down on the mountain, shining down on the misty 'flying purple smoke' waterfall, covering a vast area. ‘Purple smoke’ is red smoke mixed with dark purple. Lu Mountain Waterfall reflects the sunlight, visitors standing far from the wall seem to see Huong Lo with thousands of pieces of agarwood, millions of incense sticks burning 'flying purple smoke' which looks very spectacular. Both real and virtual images reveal the strange beauty of Mount Lu waterfall. The verse is full of colors: the white of the waterfall, the green of the mountains, the yellow of the sunshine and the purple of the smog. Behind the poem, the reader feels that the Poet is standing quietly in contemplation and passionately watching the Lu mountain waterfall. Lu mountain waterfall is as clear as the river hanging in front of you: ‘The water flew straight down three thousand meters, The wall of the Milky Way strip slipped out of the clouds' From the high mountains, the waterfall falls, pours down, 'water flies straight down', creating a white stream 'three thousand meters'. Faced with that strangely majestic scene, Li Bach exclaimed in surprise... With romantic inspiration, the poet created a metaphorical image to compare the waterfall of Mount Lu with 'the Milky Way slipping out of the clouds'. A magical, exaggerated drawing praising the magnificent and magnificent work of creation. It is said that Ly Bach's poetry is full of courage and ambition. With a passionate love for nature and an extraordinary imagination, the Poet left a majestic picture of Mount Lu waterfall in a rare poetic language. More than a millennium has passed, how many people have been to Lu Son Mountain in China to see the waterfall in the 'sunlight'? Indeed, the waterfall of Mount Lu makes Ly Bach's poetry become eternal, and Ly Bach's poetry also contributes to making the majestic scene of Mount Lu waterfall deeply imprinted in the human soul. The song 'Viewing Lu Mountain Waterfall from afar' is written in four-syllable verse. Rare imagination, magnificent drawings, and abundant romantic inspiration are the elements that create the essence of this masterpiece poem. Through the poem, we clearly see the soul of Ly Bach's poetry: a great love for nature and the country. Many scenic spots of the country of China have reflected in Ly Bach's poetry, thereby penetrating deeply into the hearts of people everywhere on the planet. The poem 'Looking at Lu Mountain Waterfall' has expanded our vision, enriched our souls in the perception of natural beauty, bringing our souls to a humane level when approaching scenic spots. domestically and internationally. Source: more: Proving the proverb "Where there is a will there is a way"
Phân tích bài thơ Vọng nguyệt (Ngắm trăng) của Hồ Chí Minh Gợi ý Sinh thời, Bác Hồ luôn chú tâm chăm lo cho sự nghiệp cách mạng của đất nước, Người không có ham muốn trở thành một nhà thơ nhưng như đã có lần Bác viết: “Ngâm thơ ta vốn không ham Nhưng ngồi trong ngục biết làm sao đây?” Hoàn cảnh “rỗi rãi” khiến Người đến với thơ ca như một kì duyên. Trong những năm tháng bị giam trong nhà lao Tưởng Giới Thạch, Bác đã có một bài thơ thật hay: “Vọng nguyệt”. “Ngục trung vô tửu diệc vô hoa Đối thử lương tiêu nại nhược hà? Nhân hướng song tiền khán minh nguyệt Nguyệt tòng song khích khán thi gia” Bài thơ được dịch là “Ngắm trăng”: “Trong tù không rượu cũng không hoa Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ Trăng nhòm khe cửa ngẩm nhà thơ” Thi đề của bài thơ là “Vọng nguyệt” – “Ngắm trăng”. Người xưa ngắm trăng trên những lầu vọng nguyệt, những vườn hoa với bạn hiền, túi thơ, chén rượu… Nhưng nay, Bác ngắm trăng trong hoàn cảnh thật đặc biệt: “Trong tù không rượu cũng không hoa” Câu thơ hé mở bao điều bất ngờ. Người ngắm trăng là một người tù không có tự do “trong tù”. Trong hoàn cảnh ấy, con người thường chỉ quay quắt với cái đói, cái đau và sự hận thù. Nhưng Hồ Chí Minh với tấm lòng yêu thiên nhiên tha thiết, Người lại hướng đến ánh trăng trong sáng, dịu hiền. Chẳng những vậy, chốn ngục tù tăm tối ấy “không rượu cũng không hoa”. Từ “diệc” trong nguyên văn chữ Hán (nghĩa là “cũng”) nhấn mạnh những thiếu thốn, khó khăn trong điều kiện “ngắm trăng”của Bác.Xem thêm: Viết đoạn văn nêu nhận xét về cách đặt tên chương, tên các phần trong văn bản Thuế máu (trích Bản án chế độ thực dân Pháp của Nguyễn Ái Quốc) Không tự do, không rượu, không hoa nhưng “Đối thử lương tiêu nại nhược hà?” – Đối diện với ánh trăng sáng ta biết làm sao đây? Nguyên văn chữ Hán là một câu hỏi đầy bối rối, đầy băn khoăn của tâm hồn thi nhân trước vẻ đẹp trong sáng, tròn đầy của ánh trăng. Không có những điều kiện vật chất tối thiểu, không có cả tự do nhưng ở Hồ Chí Minh đã có một cuộc “vượt ngục tinh thần” vô cùng độc đáo như Bảc đã từng tâm sự: “Thân thể ở trong lao Tinh thần ở ngoài lao” Thể xác bị giam cầm nhưng tâm hồn Bác vẫn bay bổng với thiên nhiên. Điều đó được lí giải bởi tình yêu của Bác đối với thiên nhiên và còn bởi một tinh thần “thép” không bị khuất phục bởi cái xấu, cái ác. Trăng trong sáng, lòng người cũng trong sáng nên giữa trăng và người đã có sự giao hòa tuyệt vời: “Nhân hướng song tiền khán minh nguyệt Nguyệt tòng song khích khán thi gia” Bản dịch thơ: “Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ” Trong bản nguyên tác chữ Hán, nhà thơ sử dụng phép đối giữa hai câu thơ “nhân” – “nguyệt”, “hướng” – “tòng”, “song tiền” – “song khích”, “minh nguyệt” – “thi gia”. Điều đó thể hiện sự đồng điệu, giao hòa giữa người và trăng để trăng và người giống như đôi bạn tri âm tri kỉ. “Nhân” đã chẳng quản ngại cảnh lao tù mà “hướng song tiền khán minh nguyệt”. Trong tiếng Hán, “khán” có nghĩa là xem, là thưởng thức. Đáp lại tấm lòng của người tù – thi nhân, vầng trăng cũng “tòng song khích khán thi gia”. Trong tiếng Hán, “tòng” là theo; trăng theo song cửa mà vào nhà lao “khán” thi gia. Đó là một cảm nhận vô cùng độc đáo vầng trăng là biểu tượng cho vẻ đẹp vĩnh hằng của vũ trụ, là niềm khát vọng muôn đời của các thi nhân. Vậy mà nay, trăng len mình qua song cửa hẹp, đặt chân vào chốn lao tù ẩm ướt hôi hám để chiêm ngưỡng nhà thơ hay chính là tâm hồn nhà thơ vậy. Điều đó đã khẳng định vẻ đẹp trong con người Hồ Chí Minh.Xem thêm: Thuyết minh về một căn bệnh gây nguy hại đến tính mạng con người“Vọng nguyệt” ra đời trong những năm 1942 – 1943 khi Bác Hồ bị giam trong nhà lao Tưởng Giới Thạch. Bài thơ thể hiện phong thái ung dung, coi thường hiểm nguy gian khổ của Bác. Dù trong bất kì hoàn cảnh nào, Người cũng hướng đến thiên nhiên bộc lộ tấm lòng ưu ái rộng mở với thiên nhiên. Đó là một trong những biểu hiện quan trọng của tinh thần thép Hồ Chí Minh. “Vọng nguyệt” không chỉ là một bài thơ tả cảnh đơn thuần. Thi phẩm còn là một bức tranh chân dung tinh thần tự họa của Hồ Chí Minh. Và như thế, bài thơ thực sự là một thi phẩm đáng trân trọng trong kho tàng thi ca Việt Nam. Vanmau.edu.vn
Analysis of the poem Vong Nguyet (Watching the Moon) by Ho Chi Minh Suggest During his lifetime, Uncle Ho always focused on taking care of the country's revolutionary cause. He had no desire to become a poet, but as he once wrote: “I don't like to recite poetry But what can I do if I sit in prison? The "free" situation made him come to poetry like a charm. During the years he was imprisoned in Chiang Kai-shek prison, Uncle Ho wrote a beautiful poem: "Vong Nguyet". “In prison, there are no drinks, no herons, no flowers What is the problem with salary? People look towards the two fronts to see the bright moon Nguyet always encourages the audience to listen to poets" The poem is translated as "Watching the moon": “In prison there is no alcohol or flowers The beautiful scene tonight is hard to ignore People look at the moonlight outside the window The moon peeks through the poet's closet door. The poem's theme is "Vong Nguyet" - "Watching the moon". Ancient people watched the moon on moonlight towers, flower gardens with good friends, bags of poems, cups of wine... But now, Uncle Ho watches the moon in very special circumstances: “In prison there is neither alcohol nor flowers” The poem reveals many surprises. The person looking at the moon is a prisoner without freedom "in prison". In that situation, people often only struggle with hunger, pain and hatred. But Ho Chi Minh, with his passionate love for nature, turned towards the pure, gentle moonlight. Not only that, that dark prison has "no wine or flowers". The word "heron" in the original Chinese characters (meaning "also") emphasizes the deprivations and difficulties in Uncle Ho's "moon-watching" conditions. See more: Write a paragraph commenting on the naming of chapters and titles. Parts of the Blood Tax text (excerpt from Nguyen Ai Quoc's Judgment of the French colonial regime) No freedom, no alcohol, no flowers, but "For salary, no complaints, no money?" – Faced with the bright moonlight, what should we do? The original Chinese text is a question full of confusion and anxiety of the poet's soul before the pure, full beauty of the moonlight. There was no minimum material conditions, no freedom, but in Ho Chi Minh there was an extremely unique "spiritual escape" as Bac once confided: “The body is in the prison The spirit is outside the work" His body was imprisoned but his soul still soared with nature. That is explained by Uncle Ho's love for nature and also by a "steel" spirit that is not overcome by badness and evil. The moon is pure, people's hearts are also pure, so there is a wonderful harmony between the moon and people: “The people look forward to seeing the bright moon Nguyet always encourages the audience to listen to poets" Poetry translation: “People look at the moon shining outside the window Moon peeked poet watching the door" In the original Chinese version, the poet uses the juxtaposition between the two verses "ren" - "moon", "direction" - "consent", "song tien" - "song encouragement", "minh moon" - "poem". family". That shows the harmony and harmony between humans and the moon so that the moon and humans are like good friends. "Nhan" did not mind being in prison but "looked forward to watching the bright moon". In Chinese, "audience" means to watch, to enjoy. Responding to the heart of the prisoner - the poet, the moon also "accompanied and encouraged the poet". In Chinese, "follow" means to follow; The moon followed the bars of the door into the prison to "watch" the poet. It is an extremely unique feeling. The moon is a symbol of the eternal beauty of the universe, the eternal desire of poets. Yet now, the moon sneaks through the narrow gate, stepping foot into the damp, smelly prison to admire the poet or the poet's soul. That affirmed the beauty in Ho Chi Minh. See more: Explanation of a disease that endangers human life "Vong Nguyet" was born in the years 1942 - 1943 when Uncle Ho was imprisoned in his house. Lao Chiang Kai-shek. The poem shows Uncle Ho's leisurely demeanor, disregarding dangers and hardships. Regardless of any circumstances, he always looks towards nature, revealing an open heart of love for nature. That is one of the important manifestations of Ho Chi Minh's spirit of steel. “Vong Nguyet” is not just a simple poem describing a scene. The poem is also a spiritual self-portrait of Ho Chi Minh. And so, the poem is truly a worthy work in the treasure trove of Vietnamese poetry. Vanmau.edu.vn
Đề bài: Phân tích bài thơ Vội Vàng của Xuân Diệu Bài làm Xuân Diệu được mệnh danh là ông hoàng thơ tình với nhiều bài thơ thể hiện tình cảm yêu thương mãnh liệt. Nhắc tới thơ Xuân Diệu thì không thể không nhắc tới bài thơ Vội Vàng. Bài thơ Vội Vàng với lời thơ tha thiết, mang nhịp điệu nhanh tạo nên một hình dung về sự vội vàng, gấp gáp của con người đang chìm đắm trong tình yêu. Tình cảm ấy được thể hiện ngay ở những vần thơ đầu tiên: “Tôi muốn tắt nắng đi Cho màu đừng nhạt mất Tôi muốn buộc gió lại Cho hương đừng bay đi” Lời thơ bộc lộ nên một cái “tôi”đầy mãnh liệt, đầy những khát khao cháy bỏng. Những khát khao của cái tôi ấy lại vô cùng đặc biệt và mang theo cả sự phi lý. Đó là muốn “tắt nắng”, muốn “buộc gió lại”. Như chúng ta đã biết nắng và gió là hai hiện tượng tự nhiên, ấy vậy mà tác giả lại muốn điều khiển, chế ngự nó, muốn cưỡng lại quy luật của tự nhiên. Thông qua đó ta hiểu được nhà thơ giống như một người tự do, tự tại và làm theo những gì mình muốn chứ không muốn tuân theo những vận động của tự nhiên, theo lẽ thường. Tuy nhiên cũng phải đặt ra một câu hỏi đó là tại sao tác giả lại muốn như vậy? Bởi vì thi sĩ Xuân Diệu đã có nhận thức sâu sắc về những vật tồn tại trong tự nhiên, ông hiểu được rằng màu có đẹp nhưng rồi cũng sẽ phai nhạt, hương có thơm nhưng cũng đến lúc bay hết đi. Trước cái lẽ đó nên tác giả muốn đi ngược lại với tự nhiên, muốn níu giữ lại những gì đẹp đẽ nhất. Đó chính là khát khao cháy bỏng của người thi nhân. Phân tích bài thơ Vội Vàng Từ cái khát khao ấy, mạch cảm xúc được chuyển rời sang một bức tranh tình yêu tràn đầy màu sắc và vui tươi: “Của ong bướm này đây tuần tháng mật Này đây hoa của đồng nội xanh rì Này đây lá của cành tơ phơ phất Của yến anh này đây khúc tình si Và này đây ánh sáng chớp hàng mi Mỗi buổi sớm thần vui hằng gõ cửa” Mỗi một câu chữ như được thổi hồn khiến chúng trở nên sinh động và hấp dẫn hơn bao giờ hết. Từng hình ảnh thiên nhiên tươi vui, đầy sắc màu được hiện lên kết hợp với điệp từ “này đây” như một cách liệt kê, kể lể, lại mang theo nhịp điệu nhanh, tươi vui. Qua đó bộc lộ niềm hân hoan, vui sướng của tác giả đang chìm đắm giữa khung cảnh thiên nhiên ấy. Trong khung cảnh đó có ong bướm, có hoa cỏ, rồi có những tiếng ca từ tự nhiên vang lên giống như một “khúc tình si” của người đã và đang được yêu. Không chỉ có cảnh, có âm thanh mà còn có ánh sáng, ánh sáng khi mà sớm mai thức giấc, khi ta mở mắt cũng chính là lúc ta thấy được. Đối với người đang yêu thì còn gì vui sướng hơn khi sớm mai thức giấc ánh nắng chan hòa, khi mà cảm nhận được niềm vui giống như một vị thần gõ cửa cho ta thức giấc, cho ta trải nghiệm một ngày mới.Xem thêm: Phân tích đoạn cuối bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu: "Ta muốn ôm, Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn; Ta muốn riết mây đưa và gió lượn, Ta muốn say cánh bướm với tình yêu; Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều... - Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!" Bức tranh cảnh vật đầy hứa hẹn về tương lai và hạnh phúc. Khác với những nhà thơ cùng thời khi mang “nỗi buồn thế hệ”, họ tìm những nơi tiên cảnh xa vời thực tế nhưng Xuân Diệu lại không giống vậy. Thi sĩ đã tìm được chốn thiên đường ngay tại mặt đất này. Với ông cuộc đời này đầy rẫy những điều đáng yêu, thú vị mà ta có thể kiếm tìm và tận hưởng: “Tháng giêng ngon như một cặp môi gần” Một câu thơ đầy gợi cảm. Như chúng ta đã biết mùa xuân là mùa đẹp nhất trong năm nhưng Xuân Diệu chỉ nhắc tới tháng giêng, một tháng mở đầu cho một năm, cho mùa xuân và cũng đồng thời là thời gian mà vạn vận tươi tốt, căng tràn sức sống. Cây cối đâm chồi nảy lộc, cỏ cây tươi tốt và con người giữa thiên nhiên ấy cũng mang dáng vẻ trẻ trung, yêu đời, mang theo một niềm yêu sống, thiết tha với đời. Thiên nhiên tươi đẹp ấy được ví với “cặp môi gần” mang một ý nghĩa đặc biệt. Trong thơ xưa thì thiên nhiên là chuẩn mực của cái đẹp nhưng với Xuân Diệu thì con người mới là chuẩn mực của cái đẹp. Con người đang trong độ đẹp nhất, căng đầy sức sống nhất. Câu thơ không chỉ tả cảnh mà còn tả tình, thể hiện khát vọng của tác giả, khao khao tình, yêu, khát khao hạnh phúc một cách táo bạo.Xem thêm: Từ bài thơ Lưu biệt khi xuất dương của Phan Bội Châu nghĩ về ‘chí làm trai’ của người xưa và của thanh niên trong thời đại ngày nay. Nhận thấy cái đẹp ở ngay trần thế đồng thời thi sĩ cũng cảm nhận được sâu sắc cái hữu hạn của mùa xuân: “Xuân đương tới, nghĩa là xuân đương qua Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất” Những khát khao giao cảm với đời nhưng đồng thời cũng thấy được cuộc sống này tươi đẹp nhưng cũng chứa những bi kịch mà chúng ta sẽ gặp phải. Ông chứng kiến sự thay đổi, vận động của thời gian. Thời gian trong quan niệm trước kia thì thời gian là tuần hoàn, là sự lặp đi lặp lại nhưng giờ đây thời gian được quan niệm là tuyến tính, là một đi không trở lại. Nhận thức được sự ngắn ngủi của thời gian khiến thi sĩ cảm thấy hốt hoảng và cần phải vội vã, nhanh chóng tận hưởng hết những gì tươi đẹp nhất của đời người. Chính vì thế thơ của ông lúc nào cũng giục giã, cuống quýt: “Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa” “Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm” Sang đến khổ thơ cuối thì giọng thơ càng trở nên gấp gáp, vội vàng bởi chính Xuân Diệu đang sợ rằng thời gian trôi đi quá nhanh, ông không muốn đến khi “nắng hạ mới hoài xuân” mà muốn trân trọng ngay từ những giây phút ông nhận ra sự hữu hạn của thời gian với mỗi đời người: “Ta muốn ôm! Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn Ta muốn riết mây đưa và gió lượn Ta muốn say cánh bướm với tình yêu Ta muốn thây trong một cái hôn nhiều” Chữ “ôm” được nhà thơ sử dụng như thể hiện khát khao ôm trọn cả “sự sống”, ôm đồm hết những gì xung quanh để giữ lại chúng. Cuộc sống “mơn mởn” tươi xanh, nó rất đẹp, rất tươi mới khiến cho lòng người khao khát níu giữ. Điệp từ “ta muốn ôm” đã thành công bật lên ham muốn cháy bỏng của tác giả. Đó chính là một tâm hồn thiết tha sự sống, yêu cuộc đời đến cuồng nhiệt. Và dường như thi sĩ đang hạnh phúc, đang sung sướng đến nỗi thốt lên một câu thơ đầy tính gợi cảm, biểu tượng:Xem thêm: Nghị luận xã hội về nghị lực sống của con người “Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi” Mùa xuân, mùa đẹp nhất, là thời điểm giống như một trái chín trải qua thời gian hình thành và phát triển đã đạt đến độ chín mọng. Nó giống như mời mọc, thôi thúc ta dẫn tới hành động “muốn cắn vào ngươi”. Qua bài thơ Vội Vàng, có thể thấy trí tượng tưởng rất táo bạo và mới mẻ của Xuân Diệu. Ông không chỉ sống hết mình với thiên nhiên, ca ngợi thiên nhiên mà còn thông qua nó để đưa ra lời khuyên, lời cảnh tỉnh cho thế hệ trẻ cần phải biết trân trọng tuổi trẻ, trân trọng khi mình còn được tồn tại trên mặt đất này và sống có ích cho bản thân, gia đình và xã hội, sống tận hưởng trọn vẹn những khoảnh khác tươi đẹp của cuộc sống. Bài thơ Vội Vàng của nhà thơ Xuân Diệu mang một màu sắc rất riêng với ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Đây là một tác phẩm tiêu biểu của một thi sĩ luôn khát khao giao cảm với đời, một nhà thơ “mới nhất trong các nhà thơ mới” (Hoài Thanh). Loan Trương
Đề bài: Phân tích bài thơ Vội Vàng của Xuân Diệu Bài làm Xuân Diệu được mệnh danh là ông hoàng thơ tình với nhiều bài thơ thể hiện tình cảm yêu thương mãnh liệt. Nhắc tới thơ Xuân Diệu thì không thể không nhắc tới bài thơ Vội Vàng. Bài thơ Vội Vàng với lời thơ tha thiết, mang nhịp điệu nhanh tạo nên một hình dung về sự vội vàng, gấp gáp của con người đang chìm đắm trong tình yêu. Tình cảm ấy được thể hiện ngay ở những vần thơ đầu tiên: “Tôi muốn tắt nắng đi Cho màu đừng nhạt mất Tôi muốn buộc gió lại Cho hương đừng bay đi” Lời thơ bộc lộ nên một cái “tôi”đầy mãnh liệt, đầy những khát khao cháy bỏng. Những khát khao của cái tôi ấy lại vô cùng đặc biệt và mang theo cả sự phi lý. Đó là muốn “tắt nắng”, muốn “buộc gió lại”. Như chúng ta đã biết nắng và gió là hai hiện tượng tự nhiên, ấy vậy mà tác giả lại muốn điều khiển, chế ngự nó, muốn cưỡng lại quy luật của tự nhiên. Thông qua đó ta hiểu được nhà thơ giống như một người tự do, tự tại và làm theo những gì mình muốn chứ không muốn tuân theo những vận động của tự nhiên, theo lẽ thường. Tuy nhiên cũng phải đặt ra một câu hỏi đó là tại sao tác giả lại muốn như vậy? Bởi vì thi sĩ Xuân Diệu đã có nhận thức sâu sắc về những vật tồn tại trong tự nhiên, ông hiểu được rằng màu có đẹp nhưng rồi cũng sẽ phai nhạt, hương có thơm nhưng cũng đến lúc bay hết đi. Trước cái lẽ đó nên tác giả muốn đi ngược lại với tự nhiên, muốn níu giữ lại những gì đẹp đẽ nhất. Đó chính là khát khao cháy bỏng của người thi nhân. Phân tích bài thơ Vội Vàng Từ cái khát khao ấy, mạch cảm xúc được chuyển rời sang một bức tranh tình yêu tràn đầy màu sắc và vui tươi: “Của ong bướm này đây tuần tháng mật Này đây hoa của đồng nội xanh rì Này đây lá của cành tơ phơ phất Của yến anh này đây khúc tình si Và này đây ánh sáng chớp hàng mi Mỗi buổi sớm thần vui hằng gõ cửa” Mỗi một câu chữ như được thổi hồn khiến chúng trở nên sinh động và hấp dẫn hơn bao giờ hết. Từng hình ảnh thiên nhiên tươi vui, đầy sắc màu được hiện lên kết hợp với điệp từ “này đây” như một cách liệt kê, kể lể, lại mang theo nhịp điệu nhanh, tươi vui. Qua đó bộc lộ niềm hân hoan, vui sướng của tác giả đang chìm đắm giữa khung cảnh thiên nhiên ấy. Trong khung cảnh đó có ong bướm, có hoa cỏ, rồi có những tiếng ca từ tự nhiên vang lên giống như một “khúc tình si” của người đã và đang được yêu. Không chỉ có cảnh, có âm thanh mà còn có ánh sáng, ánh sáng khi mà sớm mai thức giấc, khi ta mở mắt cũng chính là lúc ta thấy được. Đối với người đang yêu thì còn gì vui sướng hơn khi sớm mai thức giấc ánh nắng chan hòa, khi mà cảm nhận được niềm vui giống như một vị thần gõ cửa cho ta thức giấc, cho ta trải nghiệm một ngày mới.Xem thêm: Phân tích đoạn cuối bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu: "Ta muốn ôm, Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn; Ta muốn riết mây đưa và gió lượn, Ta muốn say cánh bướm với tình yêu; Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều... - Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!" Bức tranh cảnh vật đầy hứa hẹn về tương lai và hạnh phúc. Khác với những nhà thơ cùng thời khi mang “nỗi buồn thế hệ”, họ tìm những nơi tiên cảnh xa vời thực tế nhưng Xuân Diệu lại không giống vậy. Thi sĩ đã tìm được chốn thiên đường ngay tại mặt đất này. Với ông cuộc đời này đầy rẫy những điều đáng yêu, thú vị mà ta có thể kiếm tìm và tận hưởng: “Tháng giêng ngon như một cặp môi gần” Một câu thơ đầy gợi cảm. Như chúng ta đã biết mùa xuân là mùa đẹp nhất trong năm nhưng Xuân Diệu chỉ nhắc tới tháng giêng, một tháng mở đầu cho một năm, cho mùa xuân và cũng đồng thời là thời gian mà vạn vận tươi tốt, căng tràn sức sống. Cây cối đâm chồi nảy lộc, cỏ cây tươi tốt và con người giữa thiên nhiên ấy cũng mang dáng vẻ trẻ trung, yêu đời, mang theo một niềm yêu sống, thiết tha với đời. Thiên nhiên tươi đẹp ấy được ví với “cặp môi gần” mang một ý nghĩa đặc biệt. Trong thơ xưa thì thiên nhiên là chuẩn mực của cái đẹp nhưng với Xuân Diệu thì con người mới là chuẩn mực của cái đẹp. Con người đang trong độ đẹp nhất, căng đầy sức sống nhất. Câu thơ không chỉ tả cảnh mà còn tả tình, thể hiện khát vọng của tác giả, khao khao tình, yêu, khát khao hạnh phúc một cách táo bạo.Xem thêm: Từ bài thơ Lưu biệt khi xuất dương của Phan Bội Châu nghĩ về ‘chí làm trai’ của người xưa và của thanh niên trong thời đại ngày nay. Nhận thấy cái đẹp ở ngay trần thế đồng thời thi sĩ cũng cảm nhận được sâu sắc cái hữu hạn của mùa xuân: “Xuân đương tới, nghĩa là xuân đương qua Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất” Những khát khao giao cảm với đời nhưng đồng thời cũng thấy được cuộc sống này tươi đẹp nhưng cũng chứa những bi kịch mà chúng ta sẽ gặp phải. Ông chứng kiến sự thay đổi, vận động của thời gian. Thời gian trong quan niệm trước kia thì thời gian là tuần hoàn, là sự lặp đi lặp lại nhưng giờ đây thời gian được quan niệm là tuyến tính, là một đi không trở lại. Nhận thức được sự ngắn ngủi của thời gian khiến thi sĩ cảm thấy hốt hoảng và cần phải vội vã, nhanh chóng tận hưởng hết những gì tươi đẹp nhất của đời người. Chính vì thế thơ của ông lúc nào cũng giục giã, cuống quýt: “Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa” “Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm” Sang đến khổ thơ cuối thì giọng thơ càng trở nên gấp gáp, vội vàng bởi chính Xuân Diệu đang sợ rằng thời gian trôi đi quá nhanh, ông không muốn đến khi “nắng hạ mới hoài xuân” mà muốn trân trọng ngay từ những giây phút ông nhận ra sự hữu hạn của thời gian với mỗi đời người: “Ta muốn ôm! Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn Ta muốn riết mây đưa và gió lượn Ta muốn say cánh bướm với tình yêu Ta muốn thây trong một cái hôn nhiều” Chữ “ôm” được nhà thơ sử dụng như thể hiện khát khao ôm trọn cả “sự sống”, ôm đồm hết những gì xung quanh để giữ lại chúng. Cuộc sống “mơn mởn” tươi xanh, nó rất đẹp, rất tươi mới khiến cho lòng người khao khát níu giữ. Điệp từ “ta muốn ôm” đã thành công bật lên ham muốn cháy bỏng của tác giả. Đó chính là một tâm hồn thiết tha sự sống, yêu cuộc đời đến cuồng nhiệt. Và dường như thi sĩ đang hạnh phúc, đang sung sướng đến nỗi thốt lên một câu thơ đầy tính gợi cảm, biểu tượng:Xem thêm: Nghị luận xã hội về nghị lực sống của con người “Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi” Mùa xuân, mùa đẹp nhất, là thời điểm giống như một trái chín trải qua thời gian hình thành và phát triển đã đạt đến độ chín mọng. Nó giống như mời mọc, thôi thúc ta dẫn tới hành động “muốn cắn vào ngươi”. Qua bài thơ Vội Vàng, có thể thấy trí tượng tưởng rất táo bạo và mới mẻ của Xuân Diệu. Ông không chỉ sống hết mình với thiên nhiên, ca ngợi thiên nhiên mà còn thông qua nó để đưa ra lời khuyên, lời cảnh tỉnh cho thế hệ trẻ cần phải biết trân trọng tuổi trẻ, trân trọng khi mình còn được tồn tại trên mặt đất này và sống có ích cho bản thân, gia đình và xã hội, sống tận hưởng trọn vẹn những khoảnh khác tươi đẹp của cuộc sống. Bài thơ Vội Vàng của nhà thơ Xuân Diệu mang một màu sắc rất riêng với ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Đây là một tác phẩm tiêu biểu của một thi sĩ luôn khát khao giao cảm với đời, một nhà thơ “mới nhất trong các nhà thơ mới” (Hoài Thanh). Loan Trương
Phân tích bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu Bài làm “Chưa bao giờ người ta thấy xuất hiện cùng một lúc một hồn thư rộng lớn như Thế Lữ. mơ màng như Lưu Trọng Lư, hùng trúng như Huy Thông, trong sáng như Nquyền Nhược Pháp, ảo não như Huy Cận, quê mùa như Nguyễn Bính, kì dị như Chế Lan Viên…. và thiết tha, rạo rực, băn khoăn như Xuân Diệu” (Thi nhân Việt Nam). Khi đọc những câu văn này ta sẽ không hiểu tại sao Xuân Diệu lại được ưu ái như vậy. Giờ thì đã rõ! Đơn giản chỉ vì ông là nhà thơ “mới nhất trong các nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới’’. Xuân Diệu đã thể hiện đầy đủ nhất ý thức cá nhân của cái tôi mới và cũng mang đậm bản sắc riêng. Trong số những bài thơ của ông, chúng ta không thể không nhắc đến Vội Vàng. Bài thơ tiêu biểu cho sự bùng nổ mãnh liệt của cái tôi Xuân Diệu, in dấu khá đậm cho hồn thơ yêu đời, ham sống, “thiết tha, rạo rực, băn khoăn”. Và quan trọng hơn thế nữa, qua Vội vàng chúng ta nhận ra một quan niệm sống rất mới mẻ – bức thông điệp mà nhà thơ muốn gửi đến cho người đọc. Vội vàng? Cái tên đã rất Xuân Diệu! Đây là một triết lí sống và cũng là tâm thế sống của nhà thơ: sống nhanh chóng, khẩn trương, mở rộng lòng mình đế ôm ghì, thâu tóm tất cả. Đã hơn một lần ta bắt gặp Xuân Diệu hối hả, cuống quýt, giục giã: Mau với chứ, vội vàng lên chứ Em, em ơi, tình non sắp già rồi! Thời gian, mùa xuân, tình yêu tuổi trẻ luôn thường trực, trở đi trở lại trong nhiều trang thơ của Xuân Diệu. Ở Vội vàng ông đã nhận ra một thiên đường ngay trên mặt đất, nhà thơ yêu cuộc sống trần thế xung quanh và tìm thấy trong cuộc sống đó biết bao điều hấp dẫn, đáng sống và biết tận hưởng những gì mà cuộc sống ban tặng. Đây là một quan niệm sống rất người, mang ý nghĩa tích cực và có giá trị nhân văn sâu sắc. Nhà thơ muốn nhắn nhủ đến người đọc hãy sống hết mình khi đang còn trẻ tuổi, đừng để thời gian trôi đi phí hoài. Hãy sống gấp gáp để tận hưởng cuộc sống tươi đẹp. Hãy luôn giữ cho mình mùa xuân tình yêu của tuổi trẻ.Xem thêm: Nói về nơi em ở, một xóm bờ sông/ bờ kênhThà một phút huy hoàng rồi vụt tắt Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm. Bức thông điệp mà Xuân Diệu gửi đến cho người đọc được triển khai qua từng phần của bài thơ, theo mạch cảm xúc trong tâm hồn thi sĩ. Ngay từ đầu chúng ta đã bắt gặp một thái độ sống rất ngông, rất lạ: Tôi muốn tắt nắng đi Cho màu đừng nhạt mất Tôi muốn buộc gió lại Cho hương đừng bay đi. Ý tưởng tắt nắng, buộc gió quả thật táo bạo, độc đáo mà chỉ Xuân Diệu mới nghĩ ra, xuất phát từ lòng yêu cuộc sống, thèm sống. Xuân Diệu muốn tắt, buộc nắng và gió cũng là để giữ lại cái đẹp, cái tươi thắm của sự vật, của màu, của hương. Xuân Diệu muốn thời gian là tĩnh tại mặc dù ông không nhìn đời với con mắt tĩnh. Cái vô lí đó chính là sự khao khát đến vô biên và tột cùng. Nhà thơ muốn níu giữ thời gian, cuộc sống ấy cho riêng mình. Mọi chuyện đều có nguyên do của nó! Xuân Diệu thiết tha với cuộc sống như thế bởi ông đã tìm ra một thiên đường trên mặt đất. Cuộc sống đẹp nhất của cuộc sống trần thế. Với Thế Lữ thi nhân ta còn nuôi giấc mộng lên tiên, một giấc mộng rất xưa. Xuân Diệu đốt cảnh Bồng Lai và xua ai nấy về hạ giới (Thi nhân Việt Nam). Cuộc sống xung quanh ta đẹp nhất, vậy thì dại gì mà không hưởng. Nhà thơ nhìn mùa xuân với tất cả sự say mê, cuồng nhiệt vồ vập: Của ong bướm này đây tuần tháng mật Này đây hoa của đồng nội xanh rì Này đây là cửa cành tơ phơ phất Của yến anh này đây khúc tình si. Vày đây… Này đây…Này đây… Tất cả như đang phơi bày ra trước mắt nhà thơ Bức tranh thiên nhiên đang độ viên mãn, tràn đầy, chứa chan xuân tình, vừa gần gũi thân quen lại vừa mượt mà đầy sức sống. Xuân Diệu như vồ vập. Ngấu nghiến, thâu tóm tất cả. Nhà thơ như con ong hút mật lạc vào vườn hoa đầy hương sắc. Với ông cái gì cũng hấp dẫn mới lạ. Và bằng cặp mắt xanh non của cái tôi cá nhân Xuân Diệu còn phát hiện ra thế giới này đẹp nhất, mê hồn nhất vẫn là vì có con người. Con người giữa tuổi trẻ và tình yêu. Nhà thơ lấy con người làm thước đo của cái đẹp. Cuộc sống trần thế đẹp nhất vào lúc xuân. Và con người chỉ tận hưởng được lúc đang còn trẻ. Song tuổi trẻ thì tàn phai theo thời gian, vì thế mà ông phải sống vội vàng, gấp gáp.Xem thêm: Phân tích và bình luận về vẻ đẹp tâm hồn của hai nhân vật Huấn Cao và viên quản ngục trong truyện Chữ người tử tù của Nguyễn TuânTôi sung sướng nhưng vội vàng một nửa Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân. Nhà thơ tận hưởng cuộc sống một cách gấp gáp, vồ vập bởi một phút giây ra đi vĩnh viễn không trở lại. Mất mát sẽ đến nếu ta không chớp thời cơ. Có lẽ thế mà Xuân Diệu không chờ mùa hạ đến mới nhớ xuân mà ôm riết mùa xuân lúc tràn đầy, tươi non. Ham sống, khát sống, Xuân Diệu càng băn khoăn hơn trước cuộc đời, thời gian. Ông đã nhận ra quy luật tuyến tính của thời gian, chống lại quy luật tuần hoàn của các cụ ngày xưa. Mỗi phút giây qua đi sẽ không bao giờ trở lại, tuổi trẻ cũng chỉ đến một lần. Nhà thơ mở lòng ra để yêu đời, yêu cuộc sống nhưng không được đời bù đắp, vì thế mà ông băn khoăn buồn chán cho thân phận của mình. Cảnh vật thiên nhiên giờ đây cũng mang đầy tâm trạng buồn bã, băn khoăn, lo sợ.. Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn Cơn gió xinh thì thào trong lác biếc Phải chăng sợ đổ tàn phai sắp sửa? Nhận thức ra quy luật của thời gian, khát khao sống đến mãnh liệt. Xuân Diệu đã ôm ghì lấy cuộc sống, tận hưởng cuộc sống để không phí hoài đi thời gian, tuổi trẻ. Tình yêu cuộc sống lại bùng lên cuồng nhiệt hối hả. Ta muốm ôm Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn Ta muốn biết mây đưa và gió lượn Ta muốn say cánh bướm với tình yêu Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều Hỡi xuân hồngg, ta muốn cắn vào người. Lòng yêu đời tràn lên như một cao trào tình cảm. Hình ảnh thơ tươi mới, sức sống. Và có lẽ tình yêu cuộc sống của nhà thơ tăng dần theo từng từ muốn ôm đến riết là đã ghì chặt hơn. Và đã say – sự ngây ngất đến bất tỉnh vẫn chưa thỏa lòng – còn muốn thâu nghĩa là muốn thu hết tất cả để có sự hòa nhập một. Và cuối cùng là tiếng kêu của sự cuồng nhiệt chưa bao giờ có trong thơ:Xem thêm: Thuyết minh về cây bút biHỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi. Hình ảnh, ngôn từ, nhịp điệu của đoạn thơ đã bộc lộ rõ lòng yêu đời cuồng nhiệt khiến nhà thơ phải hối hả, vội vàng đến với cuộc sống. Bài thơ là một quan niệm sống mới mẻ và táo bạo mà trước đó chưa từng có . Lối sống ở đây biết hưởng thụ một cách chính đáng, biết khẩn trương sống cho ra sống. Tuy nhiên ở Vội vàng, tác giả chỉ đề cập đến lối sống thiên về hưởng thụ chạy theo thời gian. Ông kêu gọi mọi người hãy biết yêu và tận hưởng những thứ cuộc sống ban tặng, hãy tranh thủ thời gian, tuổi trẻ để sống đủ đầy nhất. Ông đã quên đi nghĩa vụ kêu mọi người phải cống hiến cho cuộc đời. Và trong cuộc đời nhà ông, ông vội vàng cống hiến chứ không phải vội vàng hưởng thụ. Đọc thơ Xuân Diệu, đặc biệt là qua bài thơ Vội vàng, ta càng thêm yêu cuộc sống hôm nay và càng góp phần làm cho cuộc sống đó thêm tươi đẹp, không chỉ vì cuộc sống hôm nay đã đổi mới, đã đẹp hơn nhiều lần so với cuộc sông ngày xưa của Xuân Diệu mà chủ yếu là không còn những bi kịch để thành những băn khoăn trước cuộc đời. Bức thông điệp nhà thơ gửi đến người đọc vẫn cònnguyên giá trị, được bồi đắp thêm qua thời gian và trường tồn vĩnh cửu. Hãy sống hết mình, cống hiến tuổi trẻ cho Tổ quốc nhân dân, đừng phí hoài thời gian, hãy mở rộng lòng mình để đón nhận tất cả những vang động của cuộc đời. Đó là những gì mà Xuân Diệu còn giữ lại, nhắn gửi đến với người đọc của mình bức thông điệp xuyên qua thời gian, không gian, ngự trị muôn đời trong tâm hồn con người Việt Nam.
Phân tích bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu Bài làm “Chưa bao giờ người ta thấy xuất hiện cùng một lúc một hồn thư rộng lớn như Thế Lữ. mơ màng như Lưu Trọng Lư, hùng trúng như Huy Thông, trong sáng như Nquyền Nhược Pháp, ảo não như Huy Cận, quê mùa như Nguyễn Bính, kì dị như Chế Lan Viên…. và thiết tha, rạo rực, băn khoăn như Xuân Diệu” (Thi nhân Việt Nam). Khi đọc những câu văn này ta sẽ không hiểu tại sao Xuân Diệu lại được ưu ái như vậy. Giờ thì đã rõ! Đơn giản chỉ vì ông là nhà thơ “mới nhất trong các nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới’’. Xuân Diệu đã thể hiện đầy đủ nhất ý thức cá nhân của cái tôi mới và cũng mang đậm bản sắc riêng. Trong số những bài thơ của ông, chúng ta không thể không nhắc đến Vội Vàng. Bài thơ tiêu biểu cho sự bùng nổ mãnh liệt của cái tôi Xuân Diệu, in dấu khá đậm cho hồn thơ yêu đời, ham sống, “thiết tha, rạo rực, băn khoăn”. Và quan trọng hơn thế nữa, qua Vội vàng chúng ta nhận ra một quan niệm sống rất mới mẻ – bức thông điệp mà nhà thơ muốn gửi đến cho người đọc. Vội vàng? Cái tên đã rất Xuân Diệu! Đây là một triết lí sống và cũng là tâm thế sống của nhà thơ: sống nhanh chóng, khẩn trương, mở rộng lòng mình đế ôm ghì, thâu tóm tất cả. Đã hơn một lần ta bắt gặp Xuân Diệu hối hả, cuống quýt, giục giã: Mau với chứ, vội vàng lên chứ Em, em ơi, tình non sắp già rồi! Thời gian, mùa xuân, tình yêu tuổi trẻ luôn thường trực, trở đi trở lại trong nhiều trang thơ của Xuân Diệu. Ở Vội vàng ông đã nhận ra một thiên đường ngay trên mặt đất, nhà thơ yêu cuộc sống trần thế xung quanh và tìm thấy trong cuộc sống đó biết bao điều hấp dẫn, đáng sống và biết tận hưởng những gì mà cuộc sống ban tặng. Đây là một quan niệm sống rất người, mang ý nghĩa tích cực và có giá trị nhân văn sâu sắc. Nhà thơ muốn nhắn nhủ đến người đọc hãy sống hết mình khi đang còn trẻ tuổi, đừng để thời gian trôi đi phí hoài. Hãy sống gấp gáp để tận hưởng cuộc sống tươi đẹp. Hãy luôn giữ cho mình mùa xuân tình yêu của tuổi trẻ.Xem thêm: Nói về nơi em ở, một xóm bờ sông/ bờ kênhThà một phút huy hoàng rồi vụt tắt Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm. Bức thông điệp mà Xuân Diệu gửi đến cho người đọc được triển khai qua từng phần của bài thơ, theo mạch cảm xúc trong tâm hồn thi sĩ. Ngay từ đầu chúng ta đã bắt gặp một thái độ sống rất ngông, rất lạ: Tôi muốn tắt nắng đi Cho màu đừng nhạt mất Tôi muốn buộc gió lại Cho hương đừng bay đi. Ý tưởng tắt nắng, buộc gió quả thật táo bạo, độc đáo mà chỉ Xuân Diệu mới nghĩ ra, xuất phát từ lòng yêu cuộc sống, thèm sống. Xuân Diệu muốn tắt, buộc nắng và gió cũng là để giữ lại cái đẹp, cái tươi thắm của sự vật, của màu, của hương. Xuân Diệu muốn thời gian là tĩnh tại mặc dù ông không nhìn đời với con mắt tĩnh. Cái vô lí đó chính là sự khao khát đến vô biên và tột cùng. Nhà thơ muốn níu giữ thời gian, cuộc sống ấy cho riêng mình. Mọi chuyện đều có nguyên do của nó! Xuân Diệu thiết tha với cuộc sống như thế bởi ông đã tìm ra một thiên đường trên mặt đất. Cuộc sống đẹp nhất của cuộc sống trần thế. Với Thế Lữ thi nhân ta còn nuôi giấc mộng lên tiên, một giấc mộng rất xưa. Xuân Diệu đốt cảnh Bồng Lai và xua ai nấy về hạ giới (Thi nhân Việt Nam). Cuộc sống xung quanh ta đẹp nhất, vậy thì dại gì mà không hưởng. Nhà thơ nhìn mùa xuân với tất cả sự say mê, cuồng nhiệt vồ vập: Của ong bướm này đây tuần tháng mật Này đây hoa của đồng nội xanh rì Này đây là cửa cành tơ phơ phất Của yến anh này đây khúc tình si. Vày đây… Này đây…Này đây… Tất cả như đang phơi bày ra trước mắt nhà thơ Bức tranh thiên nhiên đang độ viên mãn, tràn đầy, chứa chan xuân tình, vừa gần gũi thân quen lại vừa mượt mà đầy sức sống. Xuân Diệu như vồ vập. Ngấu nghiến, thâu tóm tất cả. Nhà thơ như con ong hút mật lạc vào vườn hoa đầy hương sắc. Với ông cái gì cũng hấp dẫn mới lạ. Và bằng cặp mắt xanh non của cái tôi cá nhân Xuân Diệu còn phát hiện ra thế giới này đẹp nhất, mê hồn nhất vẫn là vì có con người. Con người giữa tuổi trẻ và tình yêu. Nhà thơ lấy con người làm thước đo của cái đẹp. Cuộc sống trần thế đẹp nhất vào lúc xuân. Và con người chỉ tận hưởng được lúc đang còn trẻ. Song tuổi trẻ thì tàn phai theo thời gian, vì thế mà ông phải sống vội vàng, gấp gáp.Xem thêm: Phân tích và bình luận về vẻ đẹp tâm hồn của hai nhân vật Huấn Cao và viên quản ngục trong truyện Chữ người tử tù của Nguyễn TuânTôi sung sướng nhưng vội vàng một nửa Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân. Nhà thơ tận hưởng cuộc sống một cách gấp gáp, vồ vập bởi một phút giây ra đi vĩnh viễn không trở lại. Mất mát sẽ đến nếu ta không chớp thời cơ. Có lẽ thế mà Xuân Diệu không chờ mùa hạ đến mới nhớ xuân mà ôm riết mùa xuân lúc tràn đầy, tươi non. Ham sống, khát sống, Xuân Diệu càng băn khoăn hơn trước cuộc đời, thời gian. Ông đã nhận ra quy luật tuyến tính của thời gian, chống lại quy luật tuần hoàn của các cụ ngày xưa. Mỗi phút giây qua đi sẽ không bao giờ trở lại, tuổi trẻ cũng chỉ đến một lần. Nhà thơ mở lòng ra để yêu đời, yêu cuộc sống nhưng không được đời bù đắp, vì thế mà ông băn khoăn buồn chán cho thân phận của mình. Cảnh vật thiên nhiên giờ đây cũng mang đầy tâm trạng buồn bã, băn khoăn, lo sợ.. Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn Cơn gió xinh thì thào trong lác biếc Phải chăng sợ đổ tàn phai sắp sửa? Nhận thức ra quy luật của thời gian, khát khao sống đến mãnh liệt. Xuân Diệu đã ôm ghì lấy cuộc sống, tận hưởng cuộc sống để không phí hoài đi thời gian, tuổi trẻ. Tình yêu cuộc sống lại bùng lên cuồng nhiệt hối hả. Ta muốm ôm Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn Ta muốn biết mây đưa và gió lượn Ta muốn say cánh bướm với tình yêu Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều Hỡi xuân hồngg, ta muốn cắn vào người. Lòng yêu đời tràn lên như một cao trào tình cảm. Hình ảnh thơ tươi mới, sức sống. Và có lẽ tình yêu cuộc sống của nhà thơ tăng dần theo từng từ muốn ôm đến riết là đã ghì chặt hơn. Và đã say – sự ngây ngất đến bất tỉnh vẫn chưa thỏa lòng – còn muốn thâu nghĩa là muốn thu hết tất cả để có sự hòa nhập một. Và cuối cùng là tiếng kêu của sự cuồng nhiệt chưa bao giờ có trong thơ:Xem thêm: Thuyết minh về cây bút biHỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi. Hình ảnh, ngôn từ, nhịp điệu của đoạn thơ đã bộc lộ rõ lòng yêu đời cuồng nhiệt khiến nhà thơ phải hối hả, vội vàng đến với cuộc sống. Bài thơ là một quan niệm sống mới mẻ và táo bạo mà trước đó chưa từng có . Lối sống ở đây biết hưởng thụ một cách chính đáng, biết khẩn trương sống cho ra sống. Tuy nhiên ở Vội vàng, tác giả chỉ đề cập đến lối sống thiên về hưởng thụ chạy theo thời gian. Ông kêu gọi mọi người hãy biết yêu và tận hưởng những thứ cuộc sống ban tặng, hãy tranh thủ thời gian, tuổi trẻ để sống đủ đầy nhất. Ông đã quên đi nghĩa vụ kêu mọi người phải cống hiến cho cuộc đời. Và trong cuộc đời nhà ông, ông vội vàng cống hiến chứ không phải vội vàng hưởng thụ. Đọc thơ Xuân Diệu, đặc biệt là qua bài thơ Vội vàng, ta càng thêm yêu cuộc sống hôm nay và càng góp phần làm cho cuộc sống đó thêm tươi đẹp, không chỉ vì cuộc sống hôm nay đã đổi mới, đã đẹp hơn nhiều lần so với cuộc sông ngày xưa của Xuân Diệu mà chủ yếu là không còn những bi kịch để thành những băn khoăn trước cuộc đời. Bức thông điệp nhà thơ gửi đến người đọc vẫn cònnguyên giá trị, được bồi đắp thêm qua thời gian và trường tồn vĩnh cửu. Hãy sống hết mình, cống hiến tuổi trẻ cho Tổ quốc nhân dân, đừng phí hoài thời gian, hãy mở rộng lòng mình để đón nhận tất cả những vang động của cuộc đời. Đó là những gì mà Xuân Diệu còn giữ lại, nhắn gửi đến với người đọc của mình bức thông điệp xuyên qua thời gian, không gian, ngự trị muôn đời trong tâm hồn con người Việt Nam.
Nội dung bài thơ Vội vàng nói về quan điểm sống của Xuân Diệu. Thi sĩ đã cảm nhận được cái đẹp của mùa xuân thiên nhiên, mùa xuân tuổi trẻ vì vậy mà ông muốn vội vàng để được tận hưởng hết vẻ đẹp của cuộc đời. Để giúp các em có thể hiểu rõ hơn đoạn 2 của bài thơ Vội vàng, Kho tàng văn học sẽ hướng dẫn các em lập dàn ý phân tích bài thơ Vội vàng đoạn 2 và bài văn tham khảo. I. Lập dàn ý phân tích bài thơ Vội vàng đoạn 2 1. Mở bài – Giới thiệu tác giả Xuân Diệu và bài thơ Vội vàng. – Giới thiệu về đoạn 2 của bài thơ. 2. Thân bài phân tích bài thơ Vội vàng a. 7 câu đầu: bức tranh thiên nhiên mùa xuân – Mùa xuân hiện lên như một bức tranh tươi sáng, nhiều màu sắc, thanh âm. – Sự say mê thiên nhiên và khát khao được giao hòa với cuộc sống của tác giả. b. 2 câu sau: tâm trạng của nhà thơ – Sung sướng nhưng vội vàng, nhà thơ muốn tranh thủ thời gian tận hưởng cuộc sống. 3. Kết luận – Khái quát nội dung đoạn 2 và nên cảm nhận của em về đoạn thơ này. Bài viết liên quan: >> Phân tích bài thơ Thu điếu của Nguyễn Khuyến (Có dàn ý chi tiết) >> Phân tích bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu (Có dàn ý chi tiết) >> Phân tích bài thơ Lưu biệt khi xuất dương của Phan Bội Châu (Có dàn ý chi tiết) Xem thêm: Ý nghĩa hình ảnh chuyến tàu đêm qua truyện ngắn Hai đứa trẻ II. Bài làm phân tích bài thơ Vội vàng đoạn 2 Nhà thơ Xuân Diệu là cái tên đã quen thuộc với con người Việt Nam thông qua các bài thơ tình nổi tiếng. Ông là người có quan điểm sống khá vội vàng bởi vì ông cảm nhận được thời gian đang trôi qua rất nhanh mà thời gian của đời người lại có có nhiều. Chính vì vậy, ông khao khát được sống và tận hưởng hết những vẻ đẹp của đất trời. Bài thơ Vội vàng là tác phẩm thể hiện rõ nhất quan điểm sống của nhà thơ. Trong đó, đoạn thơ thứ hai chỉ ra cho người đọc thấy được cái đẹp của thiên nhiên và lý giải vì sao nhà thơ lại có quản điểm sống như vậy. Những ham muốn của nhà thơ ở trong đoạn thơ đầu tiên là hoàn toàn có cở sở bởi vì khung cảnh thiên nhiên thực sự rất đẹp. Nhà thơ không để cho màu nhạt mất, không nỡ để cho hương bay đi. Miêu tả khung cảnh mùa xuân, Xuân Diệu như vẽ ra một bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp với đủ các sắc màu rực rỡ nhất, tươi sáng nhất, hình ảnh vì thế trở nên sinh động, thậm chí còn có cả thanh âm của tiếng chim trong đó: Của ong bướm này đây tuần trăng mật; Này đây hoa của đồng nội xanh rì; Này đây lá của cành tơ phơ phất; Của yến anh này đây khúc tình si. Và này đây ánh sáng chớp hàng mi; Mỗi sáng sớm, thần vui hằng gõ cửa; Tháng giêng ngon như một cặp môi gần; Phân tích bài thơ Vội vàng Đó là một bức tranh thiên nhiên vào mùa xuân mà trong đó mọi thứ đều ngọt ngào và tươi đẹp. Nó hiện lên tràn đầy sức sống, ngập tràn ánh sáng niềm vui. Đây không đơn giản là một bức tranh tĩnh mà nó là một bức tranh động. Trong bức anh ấy, âm thanh của tiếng chim đã làm cho khung cảnh trở nên thật rộn ràng. Tiếng chim như mời gọi con người, nào hãy tới đây và tận hưởng vẻ đẹp của chúng tôi. Thế gian này là của bạn, mùa xuân này là của bạn, còn gì mà chần chừ? Thiên nhiên tươi đẹp quá, nó khiến cho nhà thơ cảm thấy yêu đời hơn, yêu người hơn. Vì vậy, mỗi sáng tỉnh giấc, nhà thơ cảm tưởng như có một vị thần gõ cửa và chỉ cần mở tung cánh cửa kia ra thôi là niềm vui sẽ tới ngập tràn không gian.Xem thêm: Phân tích bài thơ Tự tình của Hồ Xuân Hương Câu thơ Tháng giêng ngon như một cặp môi gần được đánh giá là câu thơ hay nhất của đoạn thơ này. Ở đây, nhà thơ đã lấy vẻ đẹp của con người làm thước đo chuẩn mực cho vẻ đẹp của thiên nhiên. Cặp môi gần gợi lên cho người đọc hình ảnh đôi lứa đang yêu nhau. Còn gì ngọt ngào hơn nụ hôn của tình yêu đôi lứa. Xuân Diệu quả không hổ danh là ông hoàng của thơ tình. Thiên nhiên và cảnh sắc qua ngòi bút của ông trở nên ngọt ngào, đằm thắm khiến ai đọc cũng dấy lên trong lòng mình nỗi niềm khao khát được hòa vào với thiên nhiên, đất trời. Sang đến hai câu thơ cuối đoạn, nhà thơ đã thể hiện tâm trạng của mình. Đó là một tâm trạng vừa sung sướng nhưng cũng đầy vội vàng: Tôi sung sướng nhưng vội vàng một nửa Tôi không chờ nắng hạ mới hồi xuân Thoạt tiên có vẻ như tâm trạng của nhà thơ hơi mâu thuẫn nhưng thực chất tâm trạng ấy lại có sự thống nhất. Nhà thơ sung sướng vì đang được sống trong khung cảnh mùa xuân thơ mộng nhưng ông hiểu rằng mùa xuân ấy sẽ nhanh chóng qua đi. Chính bởi vậy nên nhà thơ mới vội vàng tận hưởng mùa xuân ngay từ khi mùa xuân mới bắt đầu chứ không chờ đến khi mùa xuân qua rồi mới thấy tiếc nuối.Xem thêm: Bàn về sự nghiệp sáng tác của Xuân Diệu, nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Mạnh đã khẳng định: “Nhìn một... trần thế nhất". Thông qua việc phân tích một số bài thơ của Xuân Diệu viết trước cách mạng, anh (chị) hãy chứng minh nhận định trên Cả đoạn thơ được viết với một nhịp thơ rất nhanh, thể hiện lối sống vội vàng, gấp gáp của tác giả. Câu thơ kéo dài và mở rộng giúp tác giả vẽ nên một bức tranh cuộc sống đầy tươi đẹp. Trên đây chúng ta đã cùng lập dàn ý phân tích bài thơ Vội vàng đoạn 2. Kết hợp dàn ý và bài làm trên, hy vọng rằng các em đã có được thêm một kiến thức thú vị và bổ ích. Thu Thủy
The content of the poem Hurry talks about Xuan Dieu's perspective on life. The poet felt the beauty of natural spring, the spring of youth, so he wanted to hurry to enjoy all the beauty of life. To help you better understand paragraph 2 of the poem Hurry, Literary Treasures will guide you in creating an outline to analyze the poem Hurry paragraph 2 and a reference essay. I. Create an outline to analyze the poem "Hurry" paragraph 2 1. Open the lesson – Introducing author Xuan Dieu and the poem Hurry. – Introduction to paragraph 2 of the poem. 2. Body analysis of the poem Hurry a. First 7 sentences: spring nature picture – Spring appears like a bright picture, with many colors and sounds. – The author's passion for nature and desire to be in harmony with life. b. The following 2 sentences: the poet's mood – Happy but in a hurry, the poet wants to take advantage of the time to enjoy life. 3. Conclusion – Overview of the content of paragraph 2 and your feelings about this poem. Related articles: >> Analysis of the poem Autumn Leaves by Nguyen Khuyen (With detailed outline) >> Analysis of the poem Hurry by Xuan Dieu (With detailed outline) >> Analysis of the poem "Farewell when leaving the world" by Phan Boi Chau (With detailed outline) See more: The meaning of the image of last night's train in the short story Two Children II. Essay analyzing the poem Hurry part 2 Poet Xuan Dieu is a name familiar to Vietnamese people through famous love poems. He is a person with a rather hasty view of life because he feels that time is passing very quickly and there is only so much time in human life. That's why he longed to live and enjoy all the beauty of heaven and earth. The poem Hurry is the work that best expresses the poet's perspective on life. In it, the second poem shows the reader the beauty of nature and explains why the poet has such a view of life. The poet's desires in the first stanza are completely well-founded because the natural scenery is truly beautiful. The poet does not let the color fade away, nor does he let the scent fade away. Describing the spring scene, Xuan Dieu seems to paint a beautiful natural picture with all the brightest and most vibrant colors, the image thus becomes vivid, even with the sound of the voice. birds in which: This is the honeymoon of bees and butterflies; Here are the flowers of the green fields; Here and there, the leaves of silk branches flutter; This is my song of love. And here the light flashes the eyelashes; Every morning, the god of joy knocks on the door; January is as delicious as a pair of close lips; Analyze the poem Hurry It is a picture of nature in spring in which everything is sweet and beautiful. It appears full of life, filled with light and joy. This is not simply a static picture, it is a moving picture. In his picture, the sound of birds makes the scene so bustling. The sound of birds seems to invite people, come here and enjoy our beauty. This world is yours, this spring is yours, what are you waiting for? Nature is so beautiful, it makes the poet feel more in love with life and people. Therefore, every morning when he wakes up, the poet feels like there is a god knocking on the door and just opening the door will bring joy to fill the space. See more: Analysis of Ho's poem Self-Love Spring flavor The verse "January is as delicious as a pair of lips" is considered the best verse of this poem. Here, the poet took human beauty as a standard measure for the beauty of nature. The pair of close lips evokes to the reader the image of a couple in love. There's nothing sweeter than the kiss of a couple's love. Xuan Dieu is truly the king of love poetry. Nature and scenery through his pen become sweet and loving, causing everyone who reads it to awaken in their hearts the desire to mingle with nature, earth and sky. In the last two verses of the poem, the poet has expressed his mood. It was a mood that was both happy but also full of haste: I was happy but half in a hurry I don't wait for the summer sun to return to spring At first it seems that the poet's mood is a bit contradictory, but in fact the mood is unified. The poet is happy because he is living in a romantic spring scene, but he understands that spring will quickly pass. That's why the poet hastily enjoys spring right from the moment it begins and doesn't wait until spring is over before feeling regretful. See more: Discussing Xuan Dieu's creative career, researcher Nguyen Dang Manh affirmed: "Looking at the most... earthly". Through analyzing some of Xuan Dieu's poems written before the revolution, please prove the above statement. The entire poem is written with a very fast rhythm, showing the author's hasty and hasty lifestyle. The poem's length and breadth help the author paint a beautiful picture of life. Above, we have created an outline to analyze the poem Hurry, paragraph 2. Combining the outline and the above exercise, we hope that you have gained more interesting and useful knowledge. Thu Thuy
Đề bài: Phân tích bài thơ Xuất Dương lưu biệt của Phan Bội Châu Phan Bội Châu (1867 – 1940) là cái tên đẹp một thời. Chúng ta có thể nói rằng trong lịch sử giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam, trước Chủ tịch Hồ Chí Minh, Phan Bội Châu là linh hồn của các phong trào vận động giải phóng Tổ quốc khoảng 25 năm đầu thế kỷ XX. Tên tuổi ông gắn liền với các tổ chức yêu nước như Hội Duy Tân, phong trào Đông Du, Việt Nam Quang Phục hội…Tên tuổi Phan Bội Châu còn gắn liền với hàng trăm bài thơ, hàng chục cuốn sách, một số bài văn tế và vài ba vở tuồng chứa chan tinh thần yêu nước. Phan Bội Châu câu thơ dậy sóng (Tố Hữu). Năm 1900, Phan Bội Châu đậu giải nguyên khoa thi Hương Trường Nghệ. Năm 1904, ông sáng lập ra Hội Duy Tân, một tổ chức yêu nước. Năm 1905, ông dấy lên phong trào Đông Du. Trước lúc lên đường Đông Du, qua Trung Hoa, Nhật Bản để cầu ngoại viện với bao hoài bão tung hoành, ông đã để lại cho các đồng chí bài thơ Xuất dương lưu biệt. Có thể nói, bài thơ này như một mốc son chói lọi trong sự nghiệp giải phóng dân tộc và thơ văn Phan Bội Châu. Xuất dương lưu biệt được viết bằng chữ Hán, theo thể thất ngôn bát cú Đường luật, là khúc tráng ca biểu lộ tư thế, quyết tâm hăm hở, và những ý nghĩ cao cả mới mẻ của chí sĩ Phan Bội Châu trong buổi đầu xuất dương cứu nước. Hai câu đề tuyên ngôn về chí hướng, về lẽ sống cao cả: Sinh nam tử yếu hi kì, Khẳng hứa càn khôn tự chuyển đi. Tự hào mình là đấng nam nhi thì phải sống cho ra sống, mong muốn làm nên điều lạ (tử yếu hi kì). Suy rộng ra, là không thể sống tầm thường, không thể sống một cách thụ động để cho trời đất (càn khôn) tự chuyển dời một cách vô vị, nhạt nhẽo. Câu thơ thể hiện một tư thế, một tâm thế rất đẹp về chí nam nhi, tự tin ở đức độ, tài năng của mình, muốn làm nên sự nghiệp to lớn, xoay chuyển đất trời, như ông đã nói trong một bài thơ khác: Dang tay ôm chặt bồ kinh tế, Mở miệng cười tan cuộc oán thù. Gắn câu thơ với sự nghiệp cách mạng vô cùng sôi nổi của Phan Bội Châu ta mới cảm nhận được cái khẩu khí anh hùng của nhà chí sĩ vĩ đại. Đấng nam nhi muồn làm nên điều lạ ở trên đời, từng nung nấu và tâm niệm như trong một vần thơ cổ: Mỗi phạn bất vong duy trúc bạch, Lập thân tối hạ thị văn chương. (Tùy biên thi thoại – Viên Mai) (Bữa bữa những mong ghi sử sách, Lập thân xoáng nhất ấy văn chương) Đấng nam nhi muốn làm nên điều lạ ở trên đời ấy có một bầu máu nóng sôi sục: Tôi được trời phú cho bầu máu nóng cũng không đến nỗi ít, lúc còn bé đọc sách của cha tôi, mỗi khi đến những chỗ nói người xưa chịu chết để thành đạo nhân, nước mắt dầm đìa rỏ xuống ướt đẫm cả giấy…(Ngục trung thư) Phần thực ý thơ được mở rộng, tác giả tự khẳng định vai trò của mình trong xã hội và trong lịch sử: Ư bách niên trung tu hữu ngã, Khởi thiên tải hậu cánh vô thùy. Ngã là ta; tu hữu ngã nghĩa là phải có ta trong cuộc đời một trăm năm (bách niên trung). Câu thơ khẳng định biểu lộ niềm tự hào lớn lao của kẻ sĩ yêu nước trong cảnh nước mất nhà tan. Thiên tải hậu là nghìn năm sau, là lịch sử của đất nước và dân tộc há lại không có ai (để lại tên tuổi) ư? Hai câu 3, 4 đối nhau, lấy cái phủ định để làm nổi bật điều khẳng định. Đó là ý thơ sâu sắc thể hiện vai trò cá nhân trong lịch sử: sẵn sàng gánh vác mọi trách nhiệm mà lịch sử giao phó. Ý tưởng đẹp này là sự kế thừa những tư tưởng vĩ đại của các vĩ nhân trong lịch sử: Xem thêm: Thời trang nói gì? (đề mở)-…Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội có, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng cam lòng (Trần Quốc Tuấn). – Nhân sinh tự cổ thùy vô tử, Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh (Văn Thiên Tường) Lấy cái hữu hạn bách niên của một đời người đối với cái vô hạn thiên tải của lịch sử dân tộc, Phan Bội Châu đã tạo nên một giọng thơ đĩnh đạc, hào hùng biểu lộ quyết tâm và khát vọng trong buổi lên đường. Vì thế, trên bước đường cách mạng giải phóng dân tộc, trải qua muôn vàn thử thách và nguy hiểm, ông vẫn bất khuất, lạc quan: Thân ấy hãy còn, còn sự nghiệp, Bao nhiêu nguy hiểm sợ gì đâu! (Cảm tác trong nhà ngục Quảng Đông) Phần luận, tác giả nói về sự sống và cái chết, nói về đường công danh. Đây là một ý tưởng rất mới khi ta soi vào lịch sử dân tộc những năm dài đen tối dưới ách thống trị của thực dân Pháp. Khi non sông đã chết, đã bị ngoại bang xâm chiếm, giày xéo thì thân phận dân ta chỉ là kiếp trâu ngựa, có sống cũng nhơ nhuốc nhục nhã. Trong hoàn cảnh ấy có nấu sử sôi kinh, có chúi đầu vào còn đường kinh sử cũng vô nghĩa. Sách vở của Thánh hiền liệu có ích gì trong sự nghiệp cứu nước cứu nhà: Non sông đã chết sống thêm nhục, Thánh hiền còn đâu học cũng hoài Phan Bội Châu đã đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên trên hết. Ông nói bằng tất cả nhiệt huyết và chân thành. Ông nhắc nhở mọi người phải đoạn tuyệt với lối học cử tử, không thể đắm chìm trong vòng hư danh, mà phải hăm hở đi tìm lí tưởng cao cả. Trong Bài ca chúc tết thanh niên viết vào dịp Tết năm 1927, cụ thiết tha kêu gọi thanh niên: Ai hữu chí từ nay xin gắng gỏi Xếp bút nghiên mà tu dưỡng lấy tinh thần Đừng ham chơi, đừng ham mặc, đừng ham ăn Dụng gan óc lên đánh tan sắt lửa Xối máu nóng rửa vết nhơ nô lệ… Sống như thế nào là sống đẹp. Sống như thế mới mong làm nên điều lạ ở trên đời, mới tự khẳng định được: Trong khoảng trăm năm cần có tớ. Phần kết là sự kết tinh của một hồn thơ bay bổng đượm sắc màu lãng mạn: Nguyên trục trường phong Đông hải khứ, Thiên trùng bạch lãng nhất tề phi Thơ văn Phan Bội Châu là thơ văn tuyên truyền, cổ vũ lòng yêu nước, kêu gọi lòng căm thù giặc. Thơ văn Phan Bội Châu sở dĩ trở thành những bài ca ái quốc vì thấm đượm cảm xúc, sục sôi nhiệt huyết, có nhiều hình tượng đẹp nói về cảm hứng yêu nước và lí tưởng anh hùng. Hai câu kết này là một ví dụ: Trường phong – ngọn gió dài, Thiêu trùng bạch lãng – ngàn lớp sóng bạc, là hai hình tượng kì vĩ. Chí khí của người chiến sỹ cách mạng được diễn tả qua các vị ngữ: Nguyện trục (mong theo đuổi) và nhất tề phi (cùng bay lên). Cái không gian mênh mông mà nhà chí sĩ mong vượt qua là Đông hải. Nếu hai thanh trắc cuối câu 7 (Đông Hải khứ) làm cho âm điệu thắt lại, nén lại thì hai thanh bằng cuối câu 8 (nhất tề phi) lại làm cho âm điệu cất lên, bay lên. Âm hưởng trầm bổng ấy cũng góp phần thể hiện quyết tâm mạnh mẽ lên đường cứu nước cùa Phan Bội Châu. Ở đây nội lực, bản lĩnh chiến đấu và khẩu khí cùa người chiến sĩ có sự hòa hợp, gắn bó và thống nhất. Sự nghiệp cách mạng của Phan Bội Châu đã cho hậu thế biết rõ và cảm phục điều tiên sinh đã nói ở hai câu kết. Xuất dương lưu biệt là bai thơ tuyệt tác đầy tâm huyết. Bài thơ là tiếng nói tự hào của nhà chí sĩ giàu lòng yêu nước thương dân, dám xả thân vì sự nghiệp giải phóng dân tộc. Một giọng thơ đĩnh đạc hào hùng, tráng lệ nhất là ở hai câu kết. Bài thơ thể hiện một cách sâu sắc nhất cảm hứng yêu nước và lí tưởng anh hùng của nhà chí sĩ vĩ đại Phan Bội Châu. Nguồn Edufly Xem thêm: Phát biểu cảm nghĩ của em về tình yêu quê hương đất nước qua hai tác phẩm "Sài Gòn tôi yêu" (Minh Hương) và "Mùa xuân của tôi" (Vũ Bằng)
Đề bài: Phân tích bài thơ Xuất Dương lưu biệt của Phan Bội Châu Phan Bội Châu (1867 – 1940) là cái tên đẹp một thời. Chúng ta có thể nói rằng trong lịch sử giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam, trước Chủ tịch Hồ Chí Minh, Phan Bội Châu là linh hồn của các phong trào vận động giải phóng Tổ quốc khoảng 25 năm đầu thế kỷ XX. Tên tuổi ông gắn liền với các tổ chức yêu nước như Hội Duy Tân, phong trào Đông Du, Việt Nam Quang Phục hội…Tên tuổi Phan Bội Châu còn gắn liền với hàng trăm bài thơ, hàng chục cuốn sách, một số bài văn tế và vài ba vở tuồng chứa chan tinh thần yêu nước. Phan Bội Châu câu thơ dậy sóng (Tố Hữu). Năm 1900, Phan Bội Châu đậu giải nguyên khoa thi Hương Trường Nghệ. Năm 1904, ông sáng lập ra Hội Duy Tân, một tổ chức yêu nước. Năm 1905, ông dấy lên phong trào Đông Du. Trước lúc lên đường Đông Du, qua Trung Hoa, Nhật Bản để cầu ngoại viện với bao hoài bão tung hoành, ông đã để lại cho các đồng chí bài thơ Xuất dương lưu biệt. Có thể nói, bài thơ này như một mốc son chói lọi trong sự nghiệp giải phóng dân tộc và thơ văn Phan Bội Châu. Xuất dương lưu biệt được viết bằng chữ Hán, theo thể thất ngôn bát cú Đường luật, là khúc tráng ca biểu lộ tư thế, quyết tâm hăm hở, và những ý nghĩ cao cả mới mẻ của chí sĩ Phan Bội Châu trong buổi đầu xuất dương cứu nước. Hai câu đề tuyên ngôn về chí hướng, về lẽ sống cao cả: Sinh nam tử yếu hi kì, Khẳng hứa càn khôn tự chuyển đi. Tự hào mình là đấng nam nhi thì phải sống cho ra sống, mong muốn làm nên điều lạ (tử yếu hi kì). Suy rộng ra, là không thể sống tầm thường, không thể sống một cách thụ động để cho trời đất (càn khôn) tự chuyển dời một cách vô vị, nhạt nhẽo. Câu thơ thể hiện một tư thế, một tâm thế rất đẹp về chí nam nhi, tự tin ở đức độ, tài năng của mình, muốn làm nên sự nghiệp to lớn, xoay chuyển đất trời, như ông đã nói trong một bài thơ khác: Dang tay ôm chặt bồ kinh tế, Mở miệng cười tan cuộc oán thù. Gắn câu thơ với sự nghiệp cách mạng vô cùng sôi nổi của Phan Bội Châu ta mới cảm nhận được cái khẩu khí anh hùng của nhà chí sĩ vĩ đại. Đấng nam nhi muồn làm nên điều lạ ở trên đời, từng nung nấu và tâm niệm như trong một vần thơ cổ: Mỗi phạn bất vong duy trúc bạch, Lập thân tối hạ thị văn chương. (Tùy biên thi thoại – Viên Mai) (Bữa bữa những mong ghi sử sách, Lập thân xoáng nhất ấy văn chương) Đấng nam nhi muốn làm nên điều lạ ở trên đời ấy có một bầu máu nóng sôi sục: Tôi được trời phú cho bầu máu nóng cũng không đến nỗi ít, lúc còn bé đọc sách của cha tôi, mỗi khi đến những chỗ nói người xưa chịu chết để thành đạo nhân, nước mắt dầm đìa rỏ xuống ướt đẫm cả giấy…(Ngục trung thư) Phần thực ý thơ được mở rộng, tác giả tự khẳng định vai trò của mình trong xã hội và trong lịch sử: Ư bách niên trung tu hữu ngã, Khởi thiên tải hậu cánh vô thùy. Ngã là ta; tu hữu ngã nghĩa là phải có ta trong cuộc đời một trăm năm (bách niên trung). Câu thơ khẳng định biểu lộ niềm tự hào lớn lao của kẻ sĩ yêu nước trong cảnh nước mất nhà tan. Thiên tải hậu là nghìn năm sau, là lịch sử của đất nước và dân tộc há lại không có ai (để lại tên tuổi) ư? Hai câu 3, 4 đối nhau, lấy cái phủ định để làm nổi bật điều khẳng định. Đó là ý thơ sâu sắc thể hiện vai trò cá nhân trong lịch sử: sẵn sàng gánh vác mọi trách nhiệm mà lịch sử giao phó. Ý tưởng đẹp này là sự kế thừa những tư tưởng vĩ đại của các vĩ nhân trong lịch sử: Xem thêm: Thời trang nói gì? (đề mở)-…Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội có, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng cam lòng (Trần Quốc Tuấn). – Nhân sinh tự cổ thùy vô tử, Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh (Văn Thiên Tường) Lấy cái hữu hạn bách niên của một đời người đối với cái vô hạn thiên tải của lịch sử dân tộc, Phan Bội Châu đã tạo nên một giọng thơ đĩnh đạc, hào hùng biểu lộ quyết tâm và khát vọng trong buổi lên đường. Vì thế, trên bước đường cách mạng giải phóng dân tộc, trải qua muôn vàn thử thách và nguy hiểm, ông vẫn bất khuất, lạc quan: Thân ấy hãy còn, còn sự nghiệp, Bao nhiêu nguy hiểm sợ gì đâu! (Cảm tác trong nhà ngục Quảng Đông) Phần luận, tác giả nói về sự sống và cái chết, nói về đường công danh. Đây là một ý tưởng rất mới khi ta soi vào lịch sử dân tộc những năm dài đen tối dưới ách thống trị của thực dân Pháp. Khi non sông đã chết, đã bị ngoại bang xâm chiếm, giày xéo thì thân phận dân ta chỉ là kiếp trâu ngựa, có sống cũng nhơ nhuốc nhục nhã. Trong hoàn cảnh ấy có nấu sử sôi kinh, có chúi đầu vào còn đường kinh sử cũng vô nghĩa. Sách vở của Thánh hiền liệu có ích gì trong sự nghiệp cứu nước cứu nhà: Non sông đã chết sống thêm nhục, Thánh hiền còn đâu học cũng hoài Phan Bội Châu đã đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên trên hết. Ông nói bằng tất cả nhiệt huyết và chân thành. Ông nhắc nhở mọi người phải đoạn tuyệt với lối học cử tử, không thể đắm chìm trong vòng hư danh, mà phải hăm hở đi tìm lí tưởng cao cả. Trong Bài ca chúc tết thanh niên viết vào dịp Tết năm 1927, cụ thiết tha kêu gọi thanh niên: Ai hữu chí từ nay xin gắng gỏi Xếp bút nghiên mà tu dưỡng lấy tinh thần Đừng ham chơi, đừng ham mặc, đừng ham ăn Dụng gan óc lên đánh tan sắt lửa Xối máu nóng rửa vết nhơ nô lệ… Sống như thế nào là sống đẹp. Sống như thế mới mong làm nên điều lạ ở trên đời, mới tự khẳng định được: Trong khoảng trăm năm cần có tớ. Phần kết là sự kết tinh của một hồn thơ bay bổng đượm sắc màu lãng mạn: Nguyên trục trường phong Đông hải khứ, Thiên trùng bạch lãng nhất tề phi Thơ văn Phan Bội Châu là thơ văn tuyên truyền, cổ vũ lòng yêu nước, kêu gọi lòng căm thù giặc. Thơ văn Phan Bội Châu sở dĩ trở thành những bài ca ái quốc vì thấm đượm cảm xúc, sục sôi nhiệt huyết, có nhiều hình tượng đẹp nói về cảm hứng yêu nước và lí tưởng anh hùng. Hai câu kết này là một ví dụ: Trường phong – ngọn gió dài, Thiêu trùng bạch lãng – ngàn lớp sóng bạc, là hai hình tượng kì vĩ. Chí khí của người chiến sỹ cách mạng được diễn tả qua các vị ngữ: Nguyện trục (mong theo đuổi) và nhất tề phi (cùng bay lên). Cái không gian mênh mông mà nhà chí sĩ mong vượt qua là Đông hải. Nếu hai thanh trắc cuối câu 7 (Đông Hải khứ) làm cho âm điệu thắt lại, nén lại thì hai thanh bằng cuối câu 8 (nhất tề phi) lại làm cho âm điệu cất lên, bay lên. Âm hưởng trầm bổng ấy cũng góp phần thể hiện quyết tâm mạnh mẽ lên đường cứu nước cùa Phan Bội Châu. Ở đây nội lực, bản lĩnh chiến đấu và khẩu khí cùa người chiến sĩ có sự hòa hợp, gắn bó và thống nhất. Sự nghiệp cách mạng của Phan Bội Châu đã cho hậu thế biết rõ và cảm phục điều tiên sinh đã nói ở hai câu kết. Xuất dương lưu biệt là bai thơ tuyệt tác đầy tâm huyết. Bài thơ là tiếng nói tự hào của nhà chí sĩ giàu lòng yêu nước thương dân, dám xả thân vì sự nghiệp giải phóng dân tộc. Một giọng thơ đĩnh đạc hào hùng, tráng lệ nhất là ở hai câu kết. Bài thơ thể hiện một cách sâu sắc nhất cảm hứng yêu nước và lí tưởng anh hùng của nhà chí sĩ vĩ đại Phan Bội Châu. Nguồn Edufly Xem thêm: Phát biểu cảm nghĩ của em về tình yêu quê hương đất nước qua hai tác phẩm "Sài Gòn tôi yêu" (Minh Hương) và "Mùa xuân của tôi" (Vũ Bằng)
Phân tích bài thơ Xúc cảnh (Ngóng gió đông) của Nguyễn Đình Chiểu: “Hoa cỏ ngùi ngùi ngóng gió đông… Một trận mưa nhuần rửa núi sông” Gợi ý Ngay từ khi có "tiếng súng Tây" trên đất nước ta, Nguyễn Đình Chiểu đã giương cao lá cờ yêu nước chống Pháp bằng những tác phẩm thơ ca của mình. Nam Bộ dần dần nằm trong tay giặc bởi triều đình nhà Nguyễn hèn nhát. Sống trong vòng kìm kẹp của chế độ thực dân, tấm lòng nhà thơ khác khoải đau buồn nhưng vẵn ngóng trống và hy vọng vào ngày mai, vào một vận hội mới làm thay đổi sơn hà. Bài thơ Xúc cảnh là tiếng vọng cùa tấm lòng nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu đối với đất nước: Hoa cỏ ngùi ngùi ngóng gió đông Chúa xuân đâu hỡi có hay không? Mây giăng ải Bắc trông tin nhạn Ngày xế non Nam bặt tiếng hồng. Bờ cõi nay đà chia đất khác Nắng mưa nay hả đội trời chung. Chừng nào thảnh đế ân soi thấu Một trận mưa nhuần rửa núi sông. Bài thơ làm theo thể thất ngôn bát cú, một thể thơ Đường luật quen thuộc. Đề tài là Ngóng gió đông, trông ngóng gió của mùa xuân mát lành, nhưng thực ra là kí thác tâm trạng và nỗi khát vọng của nhà thơ đối với vận hội đất nước. Sáu câu đầu (đề, thực, luận) miêu tả cảnh ngóng đợi gió đông của đất trời, cây cỏ mà thực ra là để nói lên tâm trạng khắc khoải, bộc lộ một nỗi buồn da diết về cành nước mất, nhà tan:Xem thêm: Bình giảng đoạn thơ sau trong bài Việt Bắc của Tố Hữu: “Ta về mình có nhớ ta...Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”"Hoa cỏ ngùi ngùi ngóng gió đông Chúa xuân đâu hỡi có hay không?" Hai chữ "ngùi ngùi" thế hiện rõ tâm trạng buồn bã của hoa cỏ đang ngóng đợi gió xuân. Tiếp theo sau là một câu hỏi, như một tiêng kêu đau đớn, xót xa, làm tăng thêm, tô đậm thêm tâm trạng buồn bã, ngóng đợi ở trên. Hai câu đề viết theo kiểu ẩn dụ. Nói "hoa cỏ" nhưng là để nói quê hương, đất nước, sông núi, cũng là để nói nhân dân, đất nước. Còn "chúa xuân" thì hàm nghĩa triều đình, nhà vua, cũng có thể là những trang anh hùng cứu nước. "Chúa xuân" ở đâu, có nghe không tiếng gọi của non sông, cây cỏ đang "ngùi ngùi" ngóng đợi cơn gió mùa xuân mát lành? Có một cái gì vừa thiết tha, vừa buốn bã, đớn đau "Mây giăng ài Bắc trông tin nhạn Ngày xế non Nam bặt tiếng hồng" Vẫn theo cách nói ẩn dụ, những hỉnh ảnh "mây giăng ải Bắc", "Ngày xế non Nam" là để chỉ tình cảnh đất nước tiêu điều, mù mịt vì sự ngóng trông vô vọng tin tức của chúa xuân, của gió đông. Người xưa dùng chim nhạn và chim hồng để đưa tin. "Trông tin nhạn" mà chẳng thấy và "bặt tiếng hồng" cũng có nghĩa là bặt vô âm tín. Hai câu thơ (thực) thể hiện sự chán ngán, trách móc thái độ hờ hừng, vô trách nhiệm của chúa xuân:Xem thêm: Tả cảnh buổi lễ chào cờ"Bờ cõi xưa đà chia đất khác Nắng sương nay há đội trời chung" Hai câu luận đưa ta trở về với hiện thực đau đớn của đẩt nước hồi đó. Lời thơ có giọng oán trách và căm giận. "Bờ cõi xưa" vốn là giang sơn đất nước trọn vẹn của ta, sao giờ chia cho kẻ khác, chẳng lẽ có thể sống chung với quân giặc sao? "Há đội trời chung" thể hiện giọng điệu bất bình, thái độ dứt khoát, quyết liệt với kẻ thù. Hai câu kết: "Chừng nào thánh đế ăn soi thấu Một trận mưa nhuần rửa núi sông". Nếu mở đầu bài thơ tác già dùng ngôn ngữ ẩn dụ: ”chúa xuân" "gió đông" thì đến đây ông thấy cần trực tiếp gọi tên đổi tượng: đó là "Thảnh đế". Bao giờ mới xuất hiện vị vua sáng suốt, vị hoàng đế anh minh hiểu thấu dân tình, ra tay cứu dân, cứu nước, rửa nhục cho non sông này. Lời ước vọng cũng là lời kêu gọi tha thiết xuất phát từ lòng thương dân sâu sắc của Nguyễn Đình Chiểu – hãy "soi thấu” tình cảnh của dân, hãy hiểu thấu lòng dân khát khao mong đợi. Bài thơ kết thúc bằng một viễn cảnh thật hả lòng hả dạ. Người xưa thường nói: "ơn vua như mưa móc", ở đây tác già khao khát một trận mưa lớn tốt lành dể có thể cuốn phăng đi tất cả bọn cướp nước và mọi rác rưởi đang làm nhơ bẩn nước non này.Xem thêm: Đoạn mở đầu bản Tuyên ngôn Độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh được viết rất cao tay: vừa khéo léo, vừa kiên quyết, lại hàm chứa nhiều ý nghĩa sâu sắc. Hãy phân tích để làm sáng tỏ điều đó Bài thơ có hai lớp nghĩa đan xen nhau, rõ ràng mà sâu kín. Bề nổi dễ thấy của bài thơ là cảnh một con người đang buồn bã, ngóng đợi "gió đông", ao ước một "trộn mưa nhuần"… Nhưng ai đọc cũng thấy, cái bề nồi ấy cứ chìm đi, để cho phần chìm lại hiện lên ngày một rõ. Đó là sự khao khát, mong đợi một ngày mai tổt lành sẽ tới. Càng nghĩ càng thấy trân trọng biết bao tấm lòng của nhà thơ mù yêu nước Nguyễn Đình Chiểu. Vanmau.edu.vn
Analysis of the poem Xuc Canh (Longing for the East Wind) by Nguyen Dinh Chieu: "Flowers and grass sadly wait for the east wind... A torrential rain washes the mountains and rivers" Suggest Ever since the "Western guns" appeared in our country, Nguyen Dinh Chieu has raised the patriotic flag against the French with his poetic works. The South gradually fell into the hands of the enemy because of the cowardly Nguyen court. Living in the grip of the colonial regime, the hearts of other poets are filled with grief but still longing for emptiness and hope for tomorrow, for a new opportunity to change the mountains and rivers. The poem Touching Scene is an echo of poet Nguyen Dinh Chieu's heart for the country: Flowers and grass sadly wait for the winter wind Where is the Lord of Spring? Yes or no? The clouds spread across the North, looking for news of swallows The late afternoon of the South is silent. This land is divided into another land The sun and rain today are the same. As long as the grace of the Emperor shines through A torrential rain washes the mountains and rivers. The poem is made in the form of seven words and eight sentences, a familiar Tang luat poetry form. The theme is Longing for the Winter Wind, looking forward to the cool breeze of spring, but in fact it captures the poet's mood and desire for the country's fortunes. The first six sentences (theme, reality, essay) describe the scene of waiting for the winter wind of earth, sky, and trees, but are actually meant to express a restless mood, revealing a deep sadness about the loss of water and the destruction of the house: See more: Commentary on the following poem in the poem Viet Bac by To Huu: "When I return, do you miss me... Remember someone's singing of faithful love" "Flowers and grass sadly wait for the winter wind Where is the Lord of Spring? Yes or no? The two words "sadness" clearly express the sad mood of flowers and grass waiting for the spring breeze. Next was a question, like a cry of pain and sorrow, increasing and deepening the above mood of sadness and waiting. The two sentences are written in a metaphorical style. Saying "flowers and grass" is to say homeland, country, rivers and mountains, but also to say people and country. As for "spring lord", it means the court, the king, and can also be heroes who save the country. Where is the "Lord of Spring", can you hear the call of the rivers and trees "sadly" waiting for the cool spring breeze? There is something both passionate, sad, and painful "Clouds spread across the North, looking for news of swallows The sunset in the South is silent." Still metaphorically speaking, the images of "clouds spreading across the North" and "sunset days in the South" refer to the desolate and foggy situation of the country due to the hopeless wait for news of the lord of spring and the east wind. . Ancient people used swallows and robins to deliver news. "Looking for news" but not seeing it and "no sound" also means no news. Two (real) verses express boredom and reproaches for the indifferent and irresponsible attitude of the Spring Lord: See more: Description of the flag-raising ceremony "Ancient borders are divided into different lands." How can this dew and sunshine be the end of the world? These two essays bring us back to the painful reality of the country at that time. The poem has a tone of resentment and anger. The "old land" was originally our entire land and country, why is it now divided to others? Can we live together with the enemy? "Hate the heavens" shows a tone of discontent, a decisive and fierce attitude towards the enemy. Two concluding sentences: "As long as the Holy Emperor eats insight A torrential rain washes the mountains and rivers. If at the beginning of the poem the author uses metaphorical language: "spring lord" "winter wind", then here he feels the need to directly name and change the statue: that is "Thanh De". When will a wise king appear? , the wise emperor who understood the people's feelings, took action to save the people, save the country, and wash away the humiliation of this country. The wish is also a passionate call stemming from Nguyen Dinh Chieu's deep compassion for the people - let's "See clearly" the people's situation, understand the people's yearnings and expectations. The poem ends with a truly satisfying vision. The ancients often said: "The king's grace is like rain", here the author longs for a good big rain to be able to wash away all the country robbers and all the trash that is polluting this young country. See more : The opening paragraph of President Ho Chi Minh's Declaration of Independence was written very skillfully: both skillful and resolute, and containing many profound meanings. Let's analyze to clarify that. The poem has two layers of meaning intertwined, clear yet profound. The visible surface of the poem is the scene of a sad person, waiting for the "winter wind", wishing for a "mixed rain"... But anyone who reads it can see that the surface just sinks, leaving the rest to sink. appears more and more clearly. It is the desire, the expectation that a good tomorrow will come. The more I think about it, the more I appreciate the heart of blind patriotic poet Nguyen Dinh Chieu. Vanmau.edu.vn
Bài thơ Ánh trăng của nhà thơ Nguyễn Duy có nội dung khá giản dị. Nó khiến cho người đọc phải suy ngẫm về nguồn cội. Liệu rằng chúng ta có lãng quên một điều gì đó trong cuộc sống của mình như nhà thơ Nguyễn Duy đã lãng quên ánh trăng sáng năm nào? Bài viết này sẽ hướng dẫn các em lập dàn ý chi tiết phân tích bài thơ Ánh trăng, đồng thời cung cấp bài văn mẫu cho các em có thêm một tài liệu tham khảo bổ ích. I. Lập dàn ý phân tích bài thơ Ánh trăng 1. Mở bài – Giới thiệu về tác giả Nguyễn Duy và bài thơ Ánh trăng. – Nguyễn Duy là nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Mĩ. Bài thơ Ánh trắng có nội dung gần gũi, giản dị nhưng chứa đựng nhiều giá trị nhân văn. 2. Thân bài phân tích bài thơ Ánh trăng Vầng trăng trong quá khứ – Kỉ niệm của nhà thơ với ánh trăng khi còn nhỏ – Kỉ niệm về trăng hồi còn chiến tranh. – Trăng như người bạn, người tri kỉ của tác giả. Vầng trăng của hiện tại – Như một người xa lạ, một người dưng qua đường. – Không quen biết, chưa gặp. – Con người đã lãng quên đi vầng trăng tình nghĩa năm nào. Cảm xúc của tác giả về trăng với con người – Thể hiện tâm trạng buồn tủi – Nỗi nhớ về ánh trăng xưa – Tình cảm thay đổi theo hoàn cảnh sống. – Những cảm nhận về một quá khứ đẹp, một kỉ niệm đẹp với ánh trăng. 3. Kết luận Nêu tổng quan lại nội dung bài thơ và nêu cảm nhận của em về bài thơ Ánh trăng. Bài viết liên quan >> Phân tích bài thơ Đồng chí của Chính Hữu (Có dàn ý chi tiết) Xem thêm: Giới thiệu sơ lược về Lỗ Tấn và truyện ngắn Thuốc >> Phân tích bài thơ Nói với con của Y Phương (Có dàn ý chi tiết) >> Phân tích bài thơ Mùa xuân nho nhỏ của Thanh Hải (Có dàn ý chi tiết) II. Bài văn phân tích bài thơ Ánh trăng Là một trong những nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Nguyễn Duy được biết đến với nhiều bài thơ hay, nhẹ nhàng, giàu cảm xúc chẳng hạn như Hơi ấm ổ rơm, Tre Việt Nam,… Một trong những bài thờ được nhiều người chú ý đó chính là bài thơ Ánh trăng. Bài thơ đã thể hiện được sự tài hoa của ông và thể hiện rõ chất suy tư trong thơ của Nguyễn Duy. Bài thơ Ánh trăng được nhà thơ Nguyễn Duy viết năm 1978. Một lý do khiến bài thơ này được yêu thích là bởi nội dung bài thơ chứa đựng những tình cảm chân thành, mới lạ nhưng vô cùng sâu sắc. Ở hai khổ thơ đầu tiên, nhà thơ đã nhắc đến những kỉ niệm đẹp của tuổi thơ nơi quê nhà: Hồi nhỏ sống với đồng Với sông rồi với bể Hồi chiến tranh ở rừng Vầng trăng thành tri kỉ Phân tích bài thơ Ánh trăng Từ những ngày còn ấu thơ, vầng trăng đã gắn bó với tác giả. Nói đến trăng là nói đến dòng sông, đồng ruộng, biển cả. Vậy cho nên dù có đi đến nơi đâu thì vầng trăng vẫn cứ gắn bó với con người. Con người đi một bước, vầng trăng cũng đi theo một bước. Vốn dĩ ban đầu trăng là bạn, tới khi nhà thơ đi lính, tham gia vào chiến trường gian khổ và ác liệt, vầng trăng mới trở thành tri kỉ đối với nhà thơ. Lúc này đối với nhà thơ, trăng trở thành người bạn không thể thiếu. Trăng cùng với nhà thơ chia sẻ những ngọt bùi, cùng nhà thơ vượt qua những khó khăn trong cuộc đời người lính. Cũng chính vì thế mà nhà thơ hiểu vầng trăng hơn. Nhà thơ miêu tả về vẻ đẹp của ánh trăng với một cảm xúc trẻ trung, tươi mới:Xem thêm: Thay mặt tập thể lớp viết thư (điện) gửi tới bạn cũ nhân dịp bạn đoạt Huy chương Vàng môn Nhảy cao trong Hội khoẻ Phù Đổng Trần trụi với thiên nhiên Hồn nhiên như cây cỏ Ngỡ không bao giờ quên Cái vầng trăng tình nghĩa Vẻ đẹp của trăng là một vẻ đẹp bình dị, chẳng cần khoác lên mình bất cứ thứ gì, trăng vẫn đẹp một cách vô tư và hồn nhiên. Cũng chính vì tượng trưng cho vẻ đẹp hồn nhiên nên trăng hòa mình vào thiên nhiên cỏ cây. Trăng đẹp như vậy, gần gũi như vậy trăng lại còn từng đồng cam cộng khổ với mình nên nhà thơ ngỡ rằng sẽ chẳng bao giờ có thể quên được vầng trăng tình nghĩa ấy. Nhưng đó là nhà thơ nghĩ vậy còn thực tế cho thấy nhà thơ đã có lúc lãng quên vầng trăng: Từ hồi về thành phố Quen ánh điện cửa gương Vầng trăng đi qua ngõ Như người dưng qua đường Nếu như ở tuổi thơ của mình tác giả sống gần gũi với thiên nhiên, với sông, với bể, với rừng thì giờ đây môi trường sống của nhà thơ đã thay đổi rồi. Ông sống ở thành phố, nơi có những ánh đèn chiếu sáng được mọi ngõ ngách, mọi không gian. Chính vì ánh sáng của đèn điện, của cửa gương mà người ta không còn nhớ đến ánh sáng của vầng trăng nữa. Dần dần, vầng trăng tình nghĩa ngày nào bị đẩy lùi vào quên lãng. Vầng trăng tượng trưng cho kỉ niệm, cho kí ức về những năm tháng đấu tranh gian khổ, cho những người bạn của tuổi thơ, cho những người đồng đội đã từng cùng nhau vào sinh ra tử. Vậy mà giờ đây, trăng trở thành người dưng qua đường. Khi cuộc sống thay đổi, nó kéo theo sự thay đổi trong suy nghĩ của con người. Vầng trăng có lẽ sẽ cứ trôi vào trong dĩ vãng như vậy nếu như không có chuyện thành phố bị mất điện:Xem thêm: Phân tích bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu (Có dàn ý chi tiết) Phòng buyn đinh tối om Vội bật tung cửa sổ Đột ngột vầng trăng tròn Trong khoảnh khắc đèn điện vụt tắt ấy, ánh sáng của vầng trăng hiện lên thật bất ngờ. Dường như cùng với ánh trăng, mọi kí ức năm xưa ùa về trong lòng tác giả. Đó là sông, là bể, là rừng, là những năm tháng nghèo đói, thiếu thốn nhưng vẫn luôn đong đầy hạnh phúc. Chính vì lẽ đó đã khiến cho nhà thơ trở nên rưng rưng: Ngửa mặt lên nhìn mặt Có cái gì rưng rưng Ánh trăng im phăng phắc Đủ cho ta giật mình Trăng vẫn như vậy, tròn trịa và vẹn nguyên. Thứ duy nhất thay đổi đó chính là lòng người. Chính vì đối diện với vầng trăng mà vầng trăng không nói gì khiến cho nhà thơ cảm thấy hổ thẹn với chính bản thân mình. Đúng là vầng trăng tình nghĩa đã quá bao dung và độ lượng. Với lối diễn đạt bình dị, bài thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy đã gây được nhiều xúc động đối với độc giả. Giọng thơ sâu lắng với thể thơ 5 chữ cô đọng khiến cho bài thơ chan chứa cảm xúc. Qua bài thơ này, chúng ta cũng nên nhìn lại cách sống của bản thân để sống tốt đẹp hơn. Qua bài lập dàn ý và bài văn mẫu phân tích bài thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy trên đây, hy vọng các em đã có thêm được một tài liệu bổ ích giúp cho việc học của các em được tốt hơn. Thu Thủy
The poem Moonlight by poet Nguyen Duy has quite simple content. It makes readers ponder about their origins. Have we forgotten something in our lives like poet Nguyen Duy forgot the bright moonlight last year? This article will guide you to create a detailed outline for analyzing the poem Moonlight, and also provide a sample essay for you to have an additional useful reference. I. Create an outline to analyze the poem Moonlight 1. Open the lesson – Introduction to author Nguyen Duy and the poem Moonlight. – Nguyen Duy is a poet who grew up during the resistance war against America. The poem White Light has a familiar and simple content but contains many human values. 2. Body analysis of the poem Moonlight Moon in the past – The poet's memories of moonlight as a child – Memories of the moon during the war. – The moon is like the author's friend and confidant. The moon of the present – Like a stranger, a random passerby. – Don't know each other, haven't met yet. – People have forgotten the moon of gratitude. The author's feelings about the moon and humans – Shows a sad mood – Nostalgia for the old moonlight – Emotions change according to life circumstances. – Feelings about a beautiful past, a beautiful memory with the moonlight. 3. Conclusion Give an overview of the poem's content and express your feelings about the poem Moonlight. Related articles >> Analysis of the poem Comrade by Chinh Huu (With detailed outline) See more: Brief introduction to Lu Xun and the short story Medicine >> Analysis of the poem Talking to Children by Y Phuong (With detailed outline) >> Analysis of the poem Little Spring by Thanh Hai (With detailed outline) II. Essay analyzing the poem Moonlight As one of the poets who grew up during the resistance war against the Americans to save the country, Nguyen Duy is known for many beautiful, gentle, emotional poems such as Warmth of a Straw Nest, Vietnamese Bamboo,... One of the poems The worship that many people pay attention to is the poem Moonlight. The poem demonstrated his talent and clearly demonstrated the thoughtful nature of Nguyen Duy's poetry. The poem Moonlight was written by poet Nguyen Duy in 1978. One reason why this poem is so popular is because the poem's content contains sincere, new but extremely profound emotions. In the first two stanzas, the poet mentions beautiful memories of his childhood in his hometown: When I was young, I lived with the fields With the river and then with the tank During the war in the forest The moon becomes a soulmate Analysis of the poem Moonlight Since his childhood days, the moon has been attached to the author. Talking about the moon means talking about rivers, fields, and seas. So no matter where you go, the moon is still attached to people. When a person takes a step, the moon also takes a step. Originally, the moon was a friend, but when the poet joined the army and participated in arduous and fierce battlefields, the moon became his soulmate. At this time, for the poet, the moon became an indispensable friend. The moon and the poet share the sweetness and overcome the difficulties in a soldier's life. That's why the poet understands the moon better. The poet describes the beauty of moonlight with a youthful, fresh feeling: See more: On behalf of the class, write a letter (email) to an old friend on the occasion of your winning the Gold Medal in High Jump in the Sports Association. Phu Dong Naked with nature Innocent like plants Never forget The moon of love The beauty of the moon is a simple beauty, without needing to wear anything, the moon is still carefree and innocent. Because it symbolizes innocent beauty, the moon blends into the nature of trees and plants. The moon is so beautiful, so close, and has shared many hardships with him, so the poet thought he would never be able to forget that moon of gratitude. But that's what the poet thought, but reality shows that the poet sometimes forgot the moon: Since returning to the city Get used to the electric light of mirror doors The moon passes through the alley Like a stranger passing by If in his childhood the author lived close to nature, with rivers, lakes, and forests, now the poet's living environment has changed. He lives in the city, where lights illuminate every corner and every space. Because of the light of electric lights and mirrored windows, people no longer remember the light of the moon. Gradually, the moon of gratitude was pushed back into oblivion. The moon symbolizes memories, memories of years of arduous struggle, childhood friends, and comrades who have lived together in life and death. But now, the moon has become a random passerby. When life changes, it entails a change in people's thinking. The moon would probably just drift into the past like that if it weren't for the city's power outage: See more: Analysis of the poem Viet Bac by To Huu (With detailed outline) The dining room is dark Quickly opened the window Suddenly the moon is full In that moment when the electric light went out, the light of the moon suddenly appeared. It seems that along with the moonlight, all old memories rush back to the author's heart. These are rivers, lakes, forests, years of poverty and deprivation but always full of happiness. That's why the poet became tearful: Turn your face up and look at your face Something is tearing up The moonlight was silent Enough to startle me The moon is still the same, round and intact. The only thing that changes is people's hearts. Because facing the moon, the moon said nothing, making the poet feel ashamed of himself. It is true that the moon of love is too tolerant and generous. With a simple expression, Nguyen Duy's poem Moonlight has caused many emotions to readers. The poetic voice is deep and the condensed 5-word poetic form makes the poem full of emotion. Through this poem, we should also look back at our own way of life to live better. Through the outline and sample essay analyzing the poem Moonlight by Nguyen Duy above, we hope you have gained a useful document to help your learning better. Thu Thuy
Đề bài: Phân tích bài thơ Ánh Trăng của Nguyễn Duy Bài làm Trăng – là nguồn cảm hứng vô tận trong thi ca từ xưa đến nay. Ta từng bắt gặp ánh trăng trong Tĩnh Dạ tứ của Lý Bạch, trong Vọng Nguyệt của Hồ Chí Minh… Mỗi bài thơ đều đem đến những vẻ đẹp khác nhau của ánh trăng và gợi lên những tâm hồn chứa đựng những nỗi niềm khác nhau về nỗi nhớ quê hương, về phong thái ung dung yêu thiên nhiên tha thiết. Nhưng đến với bài thơ Ánh Trăng của Nguyễn Duy thì ta bắt gặp hình ảnh vầng trăng mang ý nghĩa triết lý sâu sắc và đem đến cho chúng ta một bài học đó chính là đạo lý “uống nước nhớ nguồn”. Nguyễn Duy từng tham gia kháng chiến, từng cầm súng để đấu tranh vì hòa bình của dân tộc. Chính vì thế nhà thơ đã có khoảng thời gian gắn bó với cuộc chiến tranh, có những kỷ niệm về quãng thời gian chiến đấu gian khổ nhưng hào hùng ấy. Sau ngày đại thắng, thống nhất đất nước, nhà thơ trở lại sống ở một môi trường mới và vô tình bị cuốn theo nhịp sống tại đó mà quên lãng đi những kỷ niệm trước kia. Khi bất chợt nhận ra được nhà thơ không khỏi bàng hoàng, day dứt và ông đã viết nên bài thơ Ánh Trăng. Trong nỗi nhớ ấy nhà thơ ngược lại dòng ký ức khi còn nhỏ với biết bao kỷ niệm:Xem thêm: Nghị luận xã hội về sống có ích “Hồi nhỏ sống với đồng Với sông rồi với biển Hồi chiến tranh ở rừng Vầng trăng thành tri kỷ” Phân tích bài thơ Ánh Trăng Cuộc sống khi còn thơ bé của nhà thơ rất gần gũi, chan hòa với thiên nhiên. Ngay cả khi trở thành người lính sống trong bom đạn thì với nhà thơ thì thiên nhiên vẫn giống như người bạn mà đặc biệt đó chính là ánh trăng. Trong hoàn cảnh chiến đấu thiếu thốn, khắc nghiệt ấy thì vầng trăng giống như trở thành người tri kỷ để họ có thể giãi bày tâm sự, để chia sẻ những buồn vui. Đến với những dòng thơ tiếp theo, nhà thơ tiếp tục thể hiện sự khăng khít, gắn bó của mình với thiên nhiên: “Trần trụi với thiên nhiên Hồn nhiên như cây cỏ Ngỡ không bao giờ quên Cái vầng trăng tình nghĩa” Có thể nói, thời gian nhà thơ tham gia cách mạng là lúc mà ông gắn bó nhất với thiên nhiên. Sự gần gũi ấy được tả giả miêu tả rất chân thật “trần trụi”, một cám giác về sự tiếp xúc thân mật, sự đồng cảm, giao hòa với thiên nhiên. Những kỷ niệm với thiên nhiên mà đặc biệt là vầng trăng những tưởng đã thấm vào da thịt, không thể nào quên được nhưng không phải vậy. Khi nhà thơ chuyển về thành phố, khi sống một cuộc sống mới thì sự tin tưởng về ký ức vẹn nguyên ấy không còn như xưa:Xem thêm: Giới thiệu về thể loại thơ đường “Từ ngày về thành phố Quen ánh điện cửa gương Vầng trăng đi qua ngõ Ngỡ người dưng qua đường” Thời gian giống như một cơn lốc vô tình cuốn bay đi rất nhiều thứ. Thành phố với đèn điện, cửa gương với những xa hoa, phù phiếm khiến con người ta như bị cuốn theo. Trong không gian sống mới ấy, nhà thơ đã vô tình lãng quên đi người bạn tri kỷ năm xưa. Thậm chí người bạn ấy vẫn hằng ngày hiện hữu, dõi theo nhưng lại như không quen biết. Nguyễn Duy đã sử dụng lối nói ví von rất ấn tượng khi nói về sự lãng quên của mình. Người bạn tri âm tri kỷ nay đã bị những phù phiếm, những ánh đèn chói lóa, những ồn ã của phố phường và nỗi lo lắng mưu sinh khiến con người ta lãng quên đi. Đó phải chăng là quy luật tất yếu của cuộc đời khi con người ta được sống đầy đủ về vật chất thì khiến họ quên đi những giá trị tinh thần từng gắn bó trải qua gian khổ, quên đi cái gọi là tình cảm của con người. Giữa thực tại đó thì nhà thơ đã để cho nhân vật trữ tình bất ngờ đối mặt với người bạn cũ: “Thình lình đèn điện tắt Phòng buyn-đinh tối om Vội bật tung cửa sổ Đột ngột vầng trăng tròn” Đèn điện tắt, cái xa hoa, lộng lẫy như biến mất trong chốc lát đưa con người ta trở về với cái thực tại tối tăm. Cũng lúc đó giữa cái “thình lình”, “đột ngột” đó thì người chiến sĩ năm xưa đã nhận ra người bạn tri âm, tri kỷ ngày nào. Hóa ra bấy lâu nay mình đã quên đi người bạn ấy, nhưng vầng trăng ấy vẫn mang dáng vẻ khi xưa, vẫn âm thầm chờ đợi ta và sẵn sàng đón nhận mình khi mình biết lỗi. Và người lính trong bài thơ cũng đã cảm nhận sâu sắc được điều ấy:Xem thêm: Nghị luận xã hội câu tục ngữ “Ở hiền gặp lành” “Ngửa mặt lên nhìn mặt Có cái gì dưng dưng Như là đồng là bể Như là sông là rừng” Nỗi niềm xúc động khi nhận ra người bạn tri kỷ, rồi những kỷ niệm ngày xưa ấy như lũ lượt ùa về trong tâm trí. Khiến cho người lính ấy như được trở về tuổi thơ, trở về những ngày tháng gian khổ. Chính khổ thơ cuối đã chứng minh sự thức tỉnh của nhà thơ khi đối diện với thực tại: “Trăng cứ tròn vành vạnh Kể chi người vô tình Ánh trăng im phăng phắc Đủ cho ta giật mình” Bài thơ Ánh Trăng đã khiến cho người đọc dâng trào biết bao nhiêu nỗi niềm xúc động, bồi hồi. Đồng thời cũng là lời nhắc nhở đối với chúng ta đó là cần phải biết sống tình nghĩa, biết trân trọng và giữ gìn những ký ức, những giá trị tinh thần quý giá từng gắn bó với ta. Loan Trương
Topic: Analysis of the poem Moonlight by Nguyen Duy Assignment The moon is an endless source of inspiration in poetry from ancient times to present. We have encountered moonlight in Ly Bach's Tinh Da Tu, in Ho Chi Minh's Vong Nguyet... Each poem brings different beauties of moonlight and evokes souls containing different feelings about the moon. nostalgia for the homeland, for the leisurely style of loving nature passionately. But coming to Nguyen Duy's poem Moonlight, we encounter the image of the moon which has a deep philosophical meaning and brings us a lesson that is the moral "when drinking water, remember the source". Nguyen Duy once participated in the resistance war and used to hold a gun to fight for the peace of the nation. That's why the poet had a period of attachment to the war, and had memories of that time of arduous but heroic fighting. After the great victory and unification of the country, the poet returned to live in a new environment and accidentally got caught up in the rhythm of life there and forgot his previous memories. When he suddenly realized it, the poet couldn't help but be shocked and tormented and he wrote the poem Moonlight. In that nostalgia, the poet goes back to his memories of when he was a child with so many memories: See more: Social commentary on living a useful life “When I was a child, I lived with the fields With the river and then with the sea During the war in the forest The moon becomes a soulmate" Analysis of the poem Moonlight The poet's childhood life was very close and in harmony with nature. Even when he becomes a soldier living under bombs and bullets, to the poet, nature is still like a friend, especially the moonlight. In that difficult and needy fighting situation, the moon seemed to become a confidant so they could confide in each other and share their joys and sorrows. Coming to the next lines of poetry, the poet continues to express his closeness and attachment to nature: “Naked with nature Innocent like plants Never forget The moon of love" It can be said that the time the poet participated in the revolution was the time when he was most attached to nature. That closeness is described by the author very honestly, "naked", a feeling of intimate contact, sympathy, and harmony with nature. Memories with nature, especially the moon, seem to have penetrated into the skin and cannot be forgotten, but that is not the case. When the poet moved back to the city, when he lived a new life, his confidence in that intact memory was no longer the same: See more: Introduction to the genre of street poetry “Since returning to the city Get used to the electric light of mirror doors The moon passes through the alley I thought someone was passing by on the street" Time is like a whirlwind that accidentally blows away many things. The city with its electric lights, mirrored windows, and its luxuries and frivolities makes people feel swept away. In that new living space, the poet accidentally forgot his old soulmate. Even that friend still exists every day, watching but as if he didn't know him. Nguyen Duy used a very impressive simile when talking about his forgetfulness. This friend and soulmate has now been forgotten by the frivolities, the bright lights, the noise of the streets and the worries of making a living. Is it an inevitable rule of life that when people live fully materially, it makes them forget the spiritual values ​​they have been attached to through hardships, forget the so-called human emotions? . In the midst of that reality, the poet let the lyrical character suddenly face an old friend: “Suddenly the electric light went off Buyn-ding's room was dark Quickly opened the window Suddenly the full moon The lights turned off, the luxury and splendor seemed to disappear for a moment, bringing people back to the dark reality. At the same time, in the midst of that "sudden" and "sudden" situation, the old soldier recognized his old friend and confidant. It turns out that I had forgotten that friend for a long time, but that moon still had its old appearance, still silently waiting for me and ready to receive me when I realized my mistake. And the soldier in the poem also deeply felt that: See more: Social commentary on the proverb "Good people find good people" “Turn your face up and look at the face There is something indifferent Like copper and water Like a river and a forest" The emotional feeling when recognizing your soulmate, then those old memories seem to flood back into your mind. It made that soldier feel like he was returning to his childhood, returning to the difficult days. It is the last stanza that proves the poet's awakening when facing reality: “The moon is always round Not to mention unintentional people The moonlight was silent Enough to startle me.” The poem Moonlight has made readers feel so much emotion and excitement. At the same time, it is also a reminder to us that we need to know how to live with gratitude, appreciate and preserve the memories and precious spiritual values ​​that have been attached to us. Loan Truong
Đề bài: Phân tích bài thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy Nguyễn Duy thuộc thế hệ nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Nguyễn Duy nổi tiếng với các bài thơ như: “Tre Việt Nam”, “Hơi ấm ổ rơm”,… Hiện nay, Nguyễn Duy vẫn tiếp tục sáng tác, ông viết đều những bài thơ tài hoa, đậm chất suy tư. “Ánh trăng” (1978) là một trong những bài thơ của Nguyễn Duy được nhiều người ưa thích bởi tình cảm chân thành, sâu sắc, tứ thơ bất ngờ, mới lạ: Hai khổ thơ đầu, tác giả nhắc đến những kỉ niệm đẹp: “Hồi nhỏ sống với đồng. Với sông rồi với bể Hồi chiến tranh ở rừng Vầng trăng thành tri kỉ”. Trăng gắn bó với tác giả ngay từ thời thơ ấu. Trăng gắn với đồng ruộng, dòng sông, biển cả. Dù ở đâu, đi đâu trăng cũng gắn bó với người. Nhưng phải đến khi ở rừng nghĩa là lúc tác giả sống trên tuyến đường Trường Sơn xa gia đình, quê hương vầng trăng mới trở thành “tri kỉ”. Trăng với tác giả là đôi bạn không thể thiếu nhau. Trăng chia ngọt, sẻ bùi, trăng đồng cam cộng khổ. Tác giả khái quát vẻ đẹp của trăng, khẳng định tình yêu thương quí trọng của mình với trăng: “Trần trụi với thiên nhiên Hồn nhiên như cây cỏ Ngỡ không bao giờ quên Cái vầng trăng tình nghĩa”. Trăng có vẻ đẹp vô cùng bình dị, một vẻ đẹp không cần trang sức, đẹp một cách vô tư, hồn nhiên. Trăng tượng trưng cho vẻ đẹp hồn nhiên nên trăng hoà vào thiên nhiên, hoà vào cây cỏ. “Vầng trăng tình nghĩa”, bởi trăng từng chia ngọt, sẻ bùi, đồng cam cộng khổ, bởi trăng là người bạn, tri âm, tri kỉ. Ấy mà có những lúc tác giả tự thú nhận là mình đã lãng quên cái “vầng trăng tình nghĩa” ấy: “Từ hồi về thành phố Quen ánh điện, cửa gương Vầng trăng đi qua ngõ Xem thêm: Nghị luận xã hội về phương pháp tự họcNhư người dưng qua đường”. Trước đây, tác giả sống với sông, với bể, với rừng bây giờ môi trường đã thay đổi. Từ hồi về thành phố đời sống cũng thay đổi theo:“quen ánh điện, cửa gương”. “Ánh điện”, “cửa gương” tượng trưng cho cuộc sống sung túc, đầy đủ sang trọng… dần dần “cái vầng trăng tình nghĩa” ngày nào bị lãng quên. “Vầng trăng” ở đây tượng trưng cho những tháng năm gian khổ, đó là tình bạn, tình đồng chí được hình thành từ những tháng năm ấy. Trăng bây giờ thành “người dưng”… Con người ta thường hay đổi thay như vậy. Bởi thế đời vẫn thường nhắc nhau: “ngọt bùi nhớ lúc đắng cay”. Ở thành phố vì quen với “ánh điện, cửa gương” quen với cuộc sống đầy đủ tiện nghi nên người đã không thèm để ý đến “Vầng trăng” – con người, mảnh đất từng là tri kỉ một thời. Phải đến lúc toàn thành phố mất điện: “Phòng buyn đinh tối om Vội bật tung cửa sổ Đột ngột vầng trăng tròn” “Vầng trăng” xuất hiện thật bất ngờ, khoảnh khắc ấy, phút giây ấy… người lính năm xưa mới bàng hoàng trước vẻ đẹp kì diệu của vầng trăng. Bao nhiêu kỉ niệm xưa bỗng ùa về làm "Con người này" cứ “rưng rưng” nước mắt. “Ngửa mặt lên nhìn mặt Có cái gì rưng rưng…" "… Ánh trăng im phăng phắc Đủ cho ta giật mình…”. Trăng vẫn thủy chung mặc cho ai thay đổi, vô tình với trăng. Trăng bao dung và độ lượng biết bao! Tấm lòng bao dung độ lượng ấy “đủ cho ta giật mình” mặc dù trăng không một lời trách cứ. Trăng tượng trưng cho vẻ đẹp bền vững, phẩm chất cao quí của nhân dân, trăng tượng trưng cho vẻ đẹp bền vững của tình bạn, tình đồng đội trong những tháng năm “không thể nào quên”. Tượng trưng cho "mảnh đất nuôi ta thành dũng sĩ. “Ánh trăng” của Nguyễn Duy đã gây được nhiều xúc động đối với độc giả bởi cách diễn đạt bình dị như lời tâm sự, lời tự thú, lời tự nhắc chân thành. Giọng thơ trầm tĩnh sâu lắng. Tứ thơ bất ngờ mới lạ,“Ánh trăng” còn mang ý nghĩa triết lí về sự thuỷ chung khiến cho người đọc phải “giật mình” suy nghĩ, nhìn lại chính mình để sống đẹp hơn, nghĩa tình hơn. Nguồn Edufly Xem thêm: Nghị luận về sành điệu của giới trẻ hiện nay- Văn 12
Topic: Analysis of the poem Moonlight by Nguyen Duy Nguyen Duy belongs to the generation of poets who grew up during the resistance war against America to save the country. Nguyen Duy is famous for poems such as: "Vietnamese Bamboo", "Warmth of a Straw Nest",... Currently, Nguyen Duy continues to compose, writing talented, thoughtful poems. "Moonlight" (1978) is one of Nguyen Duy's poems that is loved by many people because of its sincere, profound feelings, unexpected and new verses: In the first two stanzas, the author mentions beautiful memories: “When I was a child, I lived with the fields. With the river and then with the tank During the war in the forest The moon becomes a soulmate." The moon has been attached to the author since childhood. The moon is associated with fields, rivers, and seas. Wherever you are, wherever you go, the moon is always attached to you. But it was not until he was in the forest, meaning when the author lived on the Truong Son route far from his family and homeland, that the moon became his "soulmate". The moon and the author are indispensable friends. The moon shares sweetness, shares the sweetness, the moon shares orangeness and suffering. The author summarizes the beauty of the moon, affirming his precious love for the moon: “Naked with nature Innocent like plants Never forget The moon of gratitude." The moon has an extremely simple beauty, a beauty that does not need jewelry, carefree and innocent. The moon symbolizes innocent beauty, so the moon blends into nature and into the trees. "The moon of gratitude", because the moon used to share sweetness, share joy, share joy and suffering, because the moon is a friend, confidant, confidant. Yet there are times when the author admits that he has forgotten that "moon of gratitude": “Since returning to the city Get used to electric light and mirrored doors The moon passes through the alley See more: Social commentary on self-study methods Like a stranger passing by". Previously, the author lived with rivers, tanks, and forests, but now the environment has changed. Since returning to the city, life has also changed: "getting used to electric lights and mirrored doors". "Electric light", "mirror door" symbolize a prosperous life, full of luxury... gradually the "moon of gratitude" is forgotten. The "moon" here symbolizes the years of hardship, the friendship and comradeship formed from those years. The moon is now a "stranger"... People often change like that. That's why life often reminds each other: "remember when it's sweet and bitter when it's bitter". In the city, because people are used to "electric lights, mirrored doors" and a life full of amenities, they don't pay attention to "The Moon" - the people and land that were once soulmates. There must come a time when the entire city loses power: “The dining room is dark Quickly opened the window Suddenly the full moon The "moon" appeared suddenly, at that moment, at that moment... the old soldiers were shocked by the magical beauty of the moon. Many old memories suddenly rushed back, causing "This person" to "shed" tears. “Turn your face up and look at the face There's something teary..." "… The moonlight was silent Enough to startle me..." The moon remains faithful no matter who changes, indifferent to the moon. How tolerant and forgiving is the moon! That tolerant and generous heart is "enough to surprise me" even though the moon doesn't say a single word of blame. The moon symbolizes the lasting beauty and noble qualities of the people. The moon symbolizes the lasting beauty of friendship and camaraderie during the "unforgettable" years. Symbolizes "the land that raises us to be brave men. "Moonlight" by Nguyen Duy has touched many readers with its simple expression such as confessions, confessions, and sincere reminders. The poetic voice is quiet and profound. Four unexpected and new poems, "Moonlight" also carries a philosophical meaning of fidelity that makes the reader "startled" to think and look back at themselves to live a more beautiful and meaningful life. Source Edufly See more: Essay on the trendy of today's youth - Essay 12
Phân tích bài thơ Ông nghè tháng tám của Tam Nguyên Yên Đỗ Hướng dẫn Thơ Nguyễn Khuyến thường gợi cho người đọc thấy được sự vui tươi qua những nghệ thuật trào phúng trong từng câu chữ của ông. Bài thơ Ông nghè tháng Tám thể hiện ngòi bút tinh tế của tác giả đồng thời chất chứa tâm trạng của nhà thơ. Xưa kia mỗi khi đến dịp Tết trung thu, người ta thường làm những ông tiến sĩ bằng giấy để bán cho các ông bố bà mẹ muốn nhờ vào thứ đồ chơi ấy để dạy dỗ, vun đắp cho con cái họ ước mơ một ngày vinh quy, võng lọng về làng. Tập tục ấy đã ít nhiều gây sự chú ý tới Nguyễn Khuyến. Ngồi ngắm ông tiến sĩ giấy, Nguyễn Khuyến đã thốt lên rằng: "Cũng cờ, cũng biển, cùng cân đai". Ông buông lời nhận xét, vì chỉ: "Cũng gọi ông nghè có kém ai". Có thể lúc này Nguyễn Khuyến đang nhếch mép cười với ông tiến sĩ giấy đang nhếch mép cười, ông tiến sĩ mà con người tự tạo ra bằng giấy. Và quan trọng hơn nữa, người ta cũng gọi thứ đồ chơi ấy là "ông nghè", chỉ cần cờ, biển, cân đai là dễ dàng được gọi bằng "ông nghè". Việc ông muốn nói đến không phải là miêu tả lại thứ đồ chơi. Vấn đề ông nêu ra đã mang tính xã hội, một xã hội thối nát hiện thực lúc bấy giờ. Thì đó, thời buổi ấy có thiếu gì những chàng tiến sĩ "vinh quang bái tổ về làng", cũng cờ, biển, võng lọng, cần đai, cũng đón rước linh đình và được xưng tụng "ông nghè"!.Xem thêm: Tả lại một cảnh đẹp núi rừng quê em Nhưng gượng đã, xem nào: "Mảnh giấy làm nên thân giáp bảng Nét son điểm rõ mắt văn khôi". Ông tiến sĩ giấy hiện lên cũng có cờ, biển, cân đai, những thứ làm nên "thân giáp bảng" chỉ là "mảnh giấy" tầm thường thôi. Có chăng chỉ được thêm phẩm màu lòe loẹt vào cho lộng lẫy và được "điểm" vào "mặt văn khôi" một "nét son". Ta thấy cả hai câu "thực" đều mất cân xứng. Một vế toàn thứ tầm thường đối với một vế toàn những khái niệm cao quý. Nào là "giáp bảng", nào là "văn khôi". Đến đây thì ta có thế thấy thấp thoáng ý tứ của thơ rồi. Đồ chơi đã thế thì những chàng tiến sĩ thật ra sao? Phải chăng các ông ấy cũng nhờ vào một vài mảnh giấy làm bài, vịnh thơ, làm phú mà được nên "thân giáp bảng" và chính nét son phê của các giảm khảo trường thi đã chỉ ra rõ "mặt văn khôi". Hai câu thơ tả thực. Thực ở ý đen và nghĩa bóng nữa. Nhưng than ôi! Người ra vẫn bị khiến hiểu theo một nghĩa khác – nghĩa đánh đồng giấy bìa thường với bài thi nét son của các ngài giám khảo với thứ phẩm màu rẻ tiền tô điểm thêm cho hình giấy và nhất là những ông tiến sĩ sang trọng kia với một hình nhân bằng giấy tầm thường: "Tấm thân xiêm áo sao mà nhẹ? Cái giá khoa danh thế mới hời!" Nguyễn Khuyến đã dùng những ngôn từ mỉa mai, châm biếm khi ông đưa ra lời nhận xét về ông tiến sĩ giấy, ông tiến sĩ vừa nhỏ bé vừa mòng manh. Các ông bố bà mẹ thật là hời, mua cả một lí tưởng cho con trẻ mà chỉ tốn ít tiền thôi. Giá ấy thật hời!Xem thêm: Qua đoạn trích từ Tam quốc diễn nghĩa, nêu nhận xét về lối kể chuyện và khắc họa tính cách nhân vật của tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc Từ nhẹ trong câu mang tâm ý của nhà thơ, đối với ông, ông xem nhẹ "tấm thân xiêm áo" ấy đấy. Và ở đây, tứ thơ của tác giả đã bật ram thoát khỏi hình ảnh ẩn dụ từ đầu bài. Ông biết rõ rằng tấm bằng tiến sĩ mà các ông nghè đương thời có được chẳng phải dựa vào đôi vần thơ hay hay bài phú xuất thần (các thứ sức ấy chỉ tương đương với mảnh bìa vứt đi mà thôi) mà hoàn toàn dựa trên sức mạnh của đồng tiền. Người ta mua một "cái ghế" trên cao, mua chức phận địa vị, mua "tiếng thơm", sự trọng vọng bằng bạc nén và những "nét son" đỏ chói cho "mảnh giấy" thôi mà, quá hời còn gì! "Ghế tréo, lọng xanh ngồi bản chọc. Nghĩ rằng đồ thật hóa đồ chơi!" Tác giả đã mượn hình ảnh ông tiến sĩ giấy để nói về thực trạng những ông tiến sĩ thật trong xã hội lúc bấy giờ. Vịnh quy về làng, các ông nghề ngất ngưỡng trên ngựa, tiền hô hậu ủng, dân chúng để ra đón mừng. Ta bật cười khỉ tưởng tượng ra, Nguyễn Khuyến xuất hiện bên những người dân, rỉ tai họ nhắc: đừng lầm nhé, không phải "đồ thật" đâu, "đồ chơi" đấy, cười đấy rồi thấm thía đấy. Vì sao một cuộc chơi như thế, nạn nhân chính là nhân dân, là đất nước đang thời rối ren, loạn li, đồng tiền lên ngôi tha hồ thao túng. Cái thời mà:Xem thêm: Phân tích văn bản “Côn Sơn ca” (Nguyễn Trãi) "Lọng cắm rợp trời quan sứ đến Váy lê quét đất mụ đầm ra". (Vịnh khoa thi Hương – Tú Xương) Những vần thơ của Nguyễn Khuyến rất nhẹ nhàng, nhưng thâm thúy và sâu sắc. Đọc thơ Tú Xương ta hả hê, bọn người ấy thì bẽ mặt, còn đọc thơ Nguyễn Khuyến ngẫm nghĩ ra đồng cảm với nỗi xót xa, ngậm ngùi của ông trước xã hội, mà bản thân ông cũng từng là một ông nghè, một anh tài thực sự, muốn đem tài năng góp mặt cho đời, xây dựng đất nước. Ông cũng là người nhìn thấy cảnh nhố nhăng, lập lờ trong chốn quan trường nỗi đau đớn tăng lên gấp bội. Thơ trào phúng của ông không gây cười, mà khiến người ta phải nghĩ, phải thấm thía cái nhục của một người mất nước, cái đau vì bản thân mình bất lực không làm gì được ông. Trước thực trạng của xã hội lúc bấy giờ, một nhân tài như Nguyễn Khuyến đã thấy chán chường thất vọng, ông đã mượn những ông nghè giả để nói về ông nghè thật lúc bấy giờ. Những con người có tài năng thật sự thì không được coi trọng, chỉ có bọn quant ham, giả tạo là giữ vị trí trong chốn quan trường. Bài thơ đã thể hiện nỗi lòng sâu kín của tác giả, đồng thời cũng thể hiện lòng yêu nước, yêu dân tộc của nhà thơ. Nguồn:
Analysis of the poem Ong Nghe in August by Tam Nguyen Yen Do Instruct Nguyen Khuyen's poetry often reminds readers of joy through the satirical art in each of his words. The poem The August Weeping Man demonstrates the author's delicate pen and at the same time contains the poet's mood. In the past, when the Mid-Autumn Festival came, people often made paper doctors to sell to parents who wanted to rely on that toy to teach and nurture their children's dream of a glorious day. turtles, hammocks and parasols back to the village. That custom more or less attracted Nguyen Khuyen's attention. Sitting and looking at the paper doctor, Nguyen Khuyen exclaimed: "Same flag, same sea, same belt". He let out a comment because he just said: "Calling him poor is no less than anyone else." Maybe right now Nguyen Khuyen is smirking at the smirking paper doctor, the doctor that humans created themselves out of paper. And more importantly, people also call that toy "the poor man", just flags, signs, and belt scales can easily be called "the poor man". What he wanted to talk about was not a description of the toy. The problem he raised was social, a corrupt society realistic at that time. Well, at that time, there was no shortage of doctors "gloriously returning to the village to pay homage to their ancestors", with flags, signs, hammocks, and cane belts, also receiving a lavish procession and being called "Mr. Nghe"!.See more : Describe a beautiful scene of the mountains and forests of your hometown But wait, let's see: "The piece of paper makes up the body of the armor The lipstick marks clearly highlight the writer's eyes." The paper doctor who appeared also had flags, signs, belt scales, the things that made up the "body armor" were just ordinary "pieces of paper". Maybe just add flashy food coloring to make it gorgeous and add a "lipstick" to the "literary face". We see that both "real" sentences are imbalanced. A side full of trivial things versus a side full of noble concepts. Which is "borderline" and which is "literary". At this point, we can see a glimpse of the poem's meaning. If toys are like that, what are real doctors like? Could it be that they also relied on a few pieces of paper to write exams, write poems, and become rich so that they could become "close to the top" and it was the beauty of the exam examiners that clearly showed their "literary side". Two realistic verses. True in the literal and figurative sense. But alas! People are still led to understand it in a different sense - the sense of equating plain cardboard with the examiners' lipstick tests with cheap dyes that embellish the paper, and especially those luxurious PhDs with an ordinary paper doll: "Why is the body so light? The price of fame and fortune is a bargain!" Nguyen Khuyen used ironic and satirical words when he made comments about the paper doctor, who was both small and fragile. Parents really have a bargain, buying an ideal for their children with only a small amount of money. That price is really good! See more: Through an excerpt from Romance of the Three Kingdoms, comment on the storytelling and character depiction of classic Chinese novels The word light in the sentence carries the poet's intention. For him, he takes that "sadly dressed body" lightly. And here, the author's four poems have escaped the metaphorical image from the beginning of the poem. He knew clearly that the doctorate degrees that contemporary young men earned were not based on a pair of good poems or ecstatic essays (those powers were only equivalent to a piece of discarded cardboard) but entirely on the power of money. People buy a high "chair", buy a position, buy a "good reputation", respect with silver and bright red "lipstick" for a "piece of paper", what a bargain! "Crossed chairs, green parasols, and slouchy seats. Think real things become toys! The author borrowed the image of a paper doctor to talk about the reality of real doctors in society at that time. The bay returned to the village, the craftsmen were ecstatic on their horses, the front and back cheered, and the people came out to welcome him. I burst out laughing, imagining that Nguyen Khuyen appeared next to the people, whispering in their ears: Don't be mistaken, it's not a "real thing", it's a "toy". Why is it that in such a game, the victims are the people, the country is in turmoil and chaos, and money is at the forefront of manipulation. The time when: See more: Analysis of the text "Con Son ca" (Nguyen Trai) "The envoy's parasol has arrived The pearl skirt swept off the ground." (Huong - Tu Xuong exam) Nguyen Khuyen's poems are very gentle, but profound and profound. Reading Tu Xuong's poetry makes me gloat, those people are humiliated, while reading Nguyen Khuyen's poetry, I think and sympathize with his sadness and pity towards society, and he himself was once a poor man, a poor man. He is truly talented and wants to contribute his talent to life and build the country. He was also the one who saw the ridiculous and ambiguous scenes in officialdom, causing his pain to multiply. His satirical poetry does not make people laugh, but makes people think and feel the humiliation of a dehydrated person, the pain of being unable to do anything to him. Faced with the current state of society at that time, a talented person like Nguyen Khuyen felt frustrated and disappointed, he borrowed fake poor men to talk about real poor men at that time. People with real talent are not respected, only greedy and fake quants hold positions in officialdom. The poem expressed the author's deep feelings, and also expressed the poet's patriotism and love for the nation. Source:
Đề bài: Phân tích bài thơ Ông Đồ của nhà thơ Vũ Đình Liên Bài làm Mỗi khi mùa xuân tới, khi tiết trời se se lạnh và những buổi trời mưa lâm thâm khiến cho mọi người tự giục giã mình nhanh chóng hoàn thành công việc cuối năm. Một năm mới sắp đến với những ngày chuẩn bị cho dịp Tết Nguyên đán, cho những ngày tất niên sum họp. Người ta nhớ đến bánh chưng xanh, nhớ về câu đối đỏ và đồng thời bồi hồi nhớ lại cảnh trên phố đông người có rất nhiều người xếp hàng chờ và xem ông đồ viết chữ. Bài thơ Ông Đồ của nhà thơ Vũ Đình Liên đã cho chúng ta nhớ về một truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Hình ảnh ông đồ đã xuất hiện ở ngay trong khổ thơ đầu của bài thơ: “Mỗi năm hoa đào nở Lại thấy ông đồ già Bày mực tàu giấy đỏ Bên phố đông người qua” Việc sử dụng cấu trúc “mỗi…. lại” cho ta thấy một vòng tuần hoàn, lặp đi lặp lại, thường xuyên xảy ra. Đó là hằng năm khi Tết đến xuân về thì gắn với hình ảnh quen thuộc đó là hoa đào nở thì đó chính là hình ảnh ông đồ cặm cụi viết chữ. Ông đồ già trở thành một phần không thể thiếu trong mỗi mùa xuân, từ già ở đây chính thể hiện tuổi tác cũng như tay nghề viết chữ của ông. Hình ảnh ông đồ nhỏ nhoi ở phố đông người như hòa mình vào không khí nhộn nhịp ấy:Xem thêm: Hưởng ứng đợt thi đua Xây dựng môi trường xanh, sạch, đẹp do Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh phát dộng, chi đoàn lớp 10A tổ chức hội thảo với chủ đề: Hãy vì một môi trường xanh, sạch, đẹp. Anh (chị) hãy viết bài nghị luận tham gia hội thảo đó “Bao nhiêu người thuê viết Tấm tắc ngợi khen tài Hoa tay thảo những nét Như phượng múa rồng bay” Những người trên phố đông chứng kiến và trầm trồ khen ngợi tài năng của ông. Sự có mặt của ông đồ trên phố đông gây sự chú ý của mọi người và giống như một dấu hiệu của mùa xuân, của ngày tết. Công việc của ông bận rộn với nhiều người thuê viết và nhà thơ Vũ Đình Liên đã gợi tả tài năng của ông đồ, về nét chữ của ông. Cách miêu tả “Như phượng múa rồng bay” cho thấy tài năng được mọi người “trầm trồ”, khen ngợi. Phân tích bài thơ Ông Đồ Đến khổ thơ thứ ba, vẫn hình ảnh về ông đồ già nhưng không còn được tung hô, được tấm tắc khen ngợi tài như trước nữa mà gợi cho người đọc một cảm giác thê lương: “Nhưng mỗi năm mỗi vắng Người thuê viết nay đâu? Giấy đỏ buồn không thắm Mực đọng trong nghiên sầu” Thời gian vẫn cứ tuần hoàn, xuân đến rồi xuân lại đi nhưng con người trên phố đông năm xưa nay đã đổi thay. Đó là “mỗi năm mỗi vắng”, không còn nhiều người thuê viết như xưa nữa. Có lẽ do cuộc sống mưu sinh vất vả khiến người ta trở nên vội vã, không còn chú ý đến tài nghệ của ông đồ già, không còn nhớ đến việc xin chữ nữa. Nhà thơ Vũ Đình Liên như thổi hồn vào từng trang giấy khiến cho những vật vô tri, vô giác cũng có tình cảm, cảm xúc riêng. Giấy đỏ là thứ giấy chuyên dùng đề viết thư phát và ông đồ dùng để viết chữ lên đó, vốn dĩ nó có màu đỏ nhưng trong cảnh thê lương ấy nhà thơ như cảm nhận được nét u buồn, phôi pha, úa tàn theo năm tháng. Nghiên mực là cái để mài mực tàu vốn trước kia lúc nào cũng đong đầy mực và mực được mài liên tục nay thì đọng im lìm trong nghiên, đợi ông đồ trổ tài nhưng mãi không thấy. Cảnh vật gợi cho ta cảm giác man mác buồn, thê lương ấy vậy còn con người thì sao:Xem thêm: Hãy bàn luận về câu nói: Học như bơi thuyền ngược nước. Không tiến sẽ phải lùi (Ngạn ngữ Trung Quốc) “Ông đồ vẫn ngồi đó Qua đường không ai hay Lá vàng rơi trên giấy Ngoài trời mưa bụi bay” Người đọc chắc hẳn sẽ băn khoăn khi mà đang trong mùa xuân mà tác giải lại nhắc đến lá vàng rơi. Có phải chăng tác giả muốn gợi nhắc đến sự tàn lụi của một thời kỳ, của một nét đẹp văn hóa của dân tộc. Hình ảnh câu đối đỏ nay đã không còn được mọi người trân trọng như trước nữa. Đến khổ thơ cuối giống như một hình ảnh kết thúc cho một thời huy hoàng đã xa: “Năm nay đào lại nở Không thấy ông đồ xưa Những người muôn năm cũ Hồn ở đâu bây giờ” Cảnh còn nhưng người xưa đâu chính là những gì mà nhà thơ Vũ Đình Liên cô đọng lại trong lòng người đọc. Tác giả đã làm sống dậy một thời xa vắng, một niềm thương, luyến tiếc không nguôi. Loan Trương
Topic: Analysis of the poem Ong Do by poet Vu Dinh Lien Assignment Every time spring comes, when the weather is cold and the days are rainy, people urge themselves to quickly complete their year-end work. A new year is coming with days of preparation for the Lunar New Year, for year-end reunions. People remember the green banh chung, remember the red couplet and at the same time recall the scene on a crowded street with many people waiting in line to watch the teacher write. The poem Ong Do by poet Vu Dinh Lien reminds us of a fine tradition of the nation. The image of the grandfather appears in the first stanza of the poem: "Each year the flowers peach blossom That his old toys Paper presented red ink Inside a crowded street over" The use of the structure “each…. again" shows us a cycle that repeats and happens frequently. That is, every year when Tet comes, spring is associated with the familiar image of peach blossoms, which is the image of a man diligently writing words. The old man becomes an indispensable part of every spring, the word old here represents his age as well as his writing skills. The image of a small man on a crowded street seems to be immersed in that bustling atmosphere: See more: Responding to the emulation to build a green, clean and beautiful environment launched and spent by the Ho Chi Minh Communist Youth Union The class 10A group organized a workshop with the theme: Be for a green, clean, and beautiful environment. Please write an essay to participate in that conference "How many tenants wrote User praise switch plates Hand flowers with strokes As phoenix dragon dance" People on the street witnessed and admired his talent. The presence of the monk on the crowded street attracted everyone's attention and was like a sign of spring and Tet. His work was busy with many writers and poet Vu Dinh Lien described his talent and his handwriting. The description "Like a phoenix dancing a dragon" shows that his talent is "admired" and praised by everyone. Analyze the poem Ong Do In the third stanza, the image of the old man is still there, but he is no longer praised or praised for his talent like before, but evokes a sad feeling in the reader: “But every year it's absent Where the tenant write this? Red paper petal sad Research toner left in grief" Time continues to cycle, spring comes and spring goes, but the people on the street have changed. That is, "every year is absent", there are not many people hiring writers like before. Perhaps it's because of the hardship of making a living that makes people become hurried, no longer pay attention to the old man's talents, and no longer remember to ask for letters. Poet Vu Dinh Lien breathes life into each page, making even inanimate objects have their own feelings and emotions. Red paper is a type of paper used specifically for writing letters and handouts, and the man used to write words on it. It was originally red in color, but in that dreary scene, the poet felt the sadness, fading, and withering away over the years. month. The inkstone is a tool used to grind Chinese ink, which used to be always full of ink and the ink that was constantly ground, now stagnates silently in the stone, waiting for the master to show his talent, but he never sees it. The landscape reminds us of that sad, desolate feeling, but what about the people: See more: Let's discuss the saying: Learning is like rowing a boat against the water. If you don't advance, you will have to retreat (Chinese proverb) “The old man is still sitting there Passers nobody or Leaves fall on the paper Outside, it's raining and dusty" Readers will surely wonder when the author mentions falling yellow leaves in the spring. Perhaps the author wanted to remind of the demise of a period, of a cultural beauty of the nation. The image of red parallel sentences is no longer appreciated by everyone like before. The last stanza is like an ending image for a glorious time long gone: "Peach bloom again this year Not seeing his old toys People who live forever Where soul now" The scenery still exists but the ancient people are not exactly what poet Vu Dinh Lien condenses in the readers' hearts. The author has brought to life a distant time, an unrelenting love and nostalgia. Loan Truong
Phân tích bài thơ Ông đồ của Vũ Đình Liên Gợi ý Trong những ngày Tết đến xuân về náo nức trên mọi nẻo đường, người yêu thơ lại khẽ lắng mình trong một nhịp thơ giản dị đầy nhân văn của nhà thơ Vũ Đình Liên: bài thơ "Ông đồ". Bài thơ ra đời khi ông đồ đã trở thành cái di tích của một thời tàn. Nho học đã bị thất sủng, người ta đua nhau chạy theo thời đại với chữ Pháp chữ Tây. Hai đoạn đầu bài thơ, tác giả giới thiệu những ngày huy hoàng của ông đồ: Bao nhiều người thuê viết Tấm tắc ngợi khen tài Hoa tay thảo những nét Như phượng múa rồng bay. Những lời khen thật hào phóng, nhưng nghĩ kĩ đó chỉ là lời khen của những người ngoài giới bút nghiên. Đi viết câu đối thuê, bản thân việc ấy đã là nỗi lận đận, là bước thất thế của người theo nghiệp khoa bảng. Đỗ cao thành quan nghè, quan thám, đỗ thấp thì cũng ông cử, ông tú, chứ ông đồ là chưa đỗ đạt gì, công chưa thành, danh chưa toại, đành về quê dạy học, bốc thuốc, hay xem lí số ở nơi đô hội như có lần Tản Đà đã làm. Ngày tết, mài mực bán chữ ngoài vỉa hè chắc cũng là việc bất đắc dĩ của nho gia. Chữ thì cho chứ ai lại bán. Bán chữ là cái cực của kẻ sĩ ở mọi thời. Bà con yêu quý và cũng thán phục cái thứ chữ mà bà con không biết, hay chỉ võ vẽ, nên mới khen lao đến vậy. Lời khen này không mang lại vinh quang cho ông đồ, có thể ông còn tủi nữa, nhưng nó an ủi ông nhiều, nó là cái tình của người đời vào hồi vận mạt của ông. Tác giả giới thiệu: cùng với hoa đào, mỗi năm mới có một lần chứ nhiều nhặn gì đâu, giấy đỏ mực tàu, chữ nghĩa thánh hiền bày trên hè phố. Đừng nghĩ đến chuyện khoa bảng, hãy nghĩ trên cương vị người bán, thì đây là hai đoạn thơ vui vì nó nói được sự đắt hàng, ông đồ còn sống được, có thể tồn tại trong cái xã hội đang biến động này. Nhưng cuộc đời đã không như thế mãi, cái ý thích của người ta cũng thay đổi theo thời cuộc. Lớp người mới lớn không có liên hệ gì để mà quyến luyến cái thứ chữ tượng hình kia. Cái tài viết chân, thảo, triện, lệ của ông đồ chữ tốt kia, họ không cần biết đến:Xem thêm: Giới thiệu tác gia Nguyễn TrãiNhưng mỗi năm mỗi vắng Người thuê viết nay đâu? Giấy đỏ buồn không thắm Mực đọng trong nghiên sầu… Ông đồ vẫn ngồi đấy Qua đường không ai hay Lá vàng rơi trên giấy Ngoài giời mưa bụi bay Ông đồ rơi vào tình cảnh một nghệ sĩ hết công chúng, một cô gái hết nhan sắc. Còn duyên kẻ đón người đưa, Hết duyên đi sớm về trưa một mình. Ông đồ vẫn ngồi đấy mà không ai hay. Cái hiện thực ngoài đời là thế và chỉ có thế, nó là sự ế hàng. Nhưng ở thơ, cùng với cái hiện thực ấy còn là nỗi lòng tác giả nên giấy đỏ như nhạt đi và nghiên mực hóa sầu tủi. Hay nhất là cộng hưởng vào nỗi sầu thảm này là cảnh mưa phùn gió bấc. Hiên thực trong thơ là hiện thực của nỗi lòng, nỗi lòng đang vui như những năm ông đồ "đắt khách" nào có thấy gió mưa. Gió thổi lá bay, lá vàng cuối mùa rơi trên mặt giấy, nó rơi và nằm tại đấy vì mặt giấy chưa được dùng đến, chẳng có nhu cầu gì phải nhặt cái lá ấy đi. Cái lá bất động trên cái chỗ không phải của nó cho thấy cả một dáng bó gối bất động của ông đồ ngồi nhìn mưa bụi bay. Văn tả thật ít lời mà cảnh hiện ra như vẽ, không chỉ bóng dáng ông đồ mà cả cái tiêu điều của xã hội qua mắt của ông đồ. Tác giả đã có những chi tiết thật đắt: nơi ông đồ là bút mực, nơi trời đất là gió mưa, nơi xã hội là sự thờ ơ không ai hay. Thể thơ năm chữ vốn có sức biểu hiện những chuyện dâu bể, hoài niệm, đã tỏ ra rất đắc địa, nhịp điệu, khơi gợi một nỗi buồn nhẹ mà thấm. Màn mưa bụi khép lại đoạn thơ thật ảm đạm, lạnh, buồn, vắng. Như vậy cũng chỉ với tám câu, bốn mươi chữ, đủ nói hết những bước chót của một thời tàn. Sự đối chiếu chi tiết ở đoạn này với đoạn trên: mực với mực, giấy với giấy, người với người, càng cho ta cái ấn tượng thảng thốt, xót xa của sự biến thiên.Xem thêm: Giới thiệu về một dòng sông Việt Nam Có một khoảng thời gian trôi qua, khoảng trống của đoạn thơ trước khi vào bốn câu kết: Năm nay đào lại nở Không thấy ông đồ xưa Những người muôn năm cũ Hồn ở đâu bây giờ? Hãy trở lại câu thơ đầu bài Mỗi năm hoa đào nở để thấy quy luật cũ không còn đúng nữa. Ông đồ đã kiên nhẫn vẫn ngồi đấy, nhưng năm nay ông không còn kiên nhẫn được nữa: Không thấy ông đồ xưa. Ông đã cố bám lấy xã hội hiện đại, lũ người hiện đại chúng ta đã nhìn thấy sự cố sức của ông, đã thấy ông chới với, nhưng chúng ta đã không làm gì, để đến bây giờ quay nhìn lại, mới biết ông đã bị buông rơi tự bao giờ. Bóng dáng ông đâu phải bóng dáng của một người, của một nghề, mà là dáng của cả một thời đại, bóng dáng kí ức của chính tâm hồn chúng ta. Đến bây giờ chúng ta mới thấy luyến tiếc, nhưng quá muộn rồi. Chúng ta hỏi nhau hay tự hỏi mình? Hỏi hay khấn khứa tưởng niệm, hay ân hận sám hối. Hai câu thơ hàm súc nhất của bài, chúng ta đọc ở đấy số phận của ông đồ và nhất là đọc được thái độ, tình cảm của cả một lớp người đối với những gì thuộc về dân tộc. Về ngữ pháp câu thơ này rất lạ, nhưng không ai thấy cộm: Những người muôn năm cũ. Muôn năm, thật ra chỉ là vài ba năm, nhưng nói muôn năm mới đúng, thời ông đồ đã xa lắc rồi, đã lẫn vào với những bút, những nghiên rất xa trong lịch sử. Chữ muôn năm cũ của câu trên dội xuống chữ bây giờ của câu dưới càng gợi bâng khuâng luyến nhớ. Câu thơ không phải là nỗi đau nức nở, nó chỉ như một tiếng thở dài cảm thương, nuối tiếc khôn nguôi.Xem thêm: Giới thiệu về nhà văn Nguyên Hồng và văn bản Trong lòng mẹVanmau.edu.vn
Analysis of the poem Ong Tu by Vu Dinh Lien Suggest During the exciting days of Tet and spring on every street, poetry lovers calm down in a simple, humane poem by poet Vu Dinh Lien: the poem "Mr. Tu". The poem was born when the grandfather had become a relic of a bygone era. Confucianism has fallen out of favor, people are racing to follow the times with French and Western letters. In the first two paragraphs of the poem, the author introduces the glorious days of his grandfather: How many people hire writers? User praise switch plates Hand flowers with strokes As phoenix dragon dance. The compliments are generous, but if you think carefully, they are only compliments from people outside the writing world. Writing couplets for hire, that in itself is a hardship, a losing step for someone pursuing an academic career. If you pass high and become an official or a detective, if you pass low, you will still be a teacher or a tu, but a disciple has not yet achieved anything, his merit has not been achieved, his reputation has not yet been achieved, so he has to return to his hometown to teach, make medicine, or read numbers at home. in the capital as Tan Da once did. During Tet, grinding ink and selling letters on the sidewalk is probably a reluctant task for Confucian scholars. The words are given, but no one will sell them. Selling letters is the ultimate goal of scholars at all times. People love and also admire the writing that they don't know, or just martial arts, that's why they praise Lao so much. This compliment did not bring him glory, he may still feel sad, but it comforted him a lot, it was the love of people at the time of his bad luck. The author introduces: along with peach blossoms, which come only once a year, there are not many of them, red paper and Chinese ink, and sacred words displayed on the sidewalks. Don't think about academics, think about it as a seller, these are two fun poems because they talk about selling well, being able to survive, being able to exist in this changing society. But life is not like that forever, people's preferences also change with the times. The new age group has nothing to do with being attached to that hieroglyphic writing. They don't need to know about that good calligrapher's talent for writing feet, sketches, seals, and rules: See more: Introducing author Nguyen TraiBut every year he's absent Where the tenant write this? Red paper petal sad Research toner left in grief… He sat there map Passers nobody or Leaves fall on the paper In addition to rain giời dust The man fell into the situation of an artist without publicity, a girl without beauty. There is still the fate of those who pick up and send people, No fate of going early and returning at noon alone. The old man was still sitting there without anyone noticing. The reality in real life is like that and that's it, it is stagnation. But in poetry, along with that reality is also the author's feelings, so the red paper seems to fade and the ink turns into sadness. The best thing that resonates with this sadness is the scene of drizzle and wind. The reality in the poem is the reality of the heart, the heart is as happy as the years when the "hot seller" did not see wind or rain. The wind blows the leaves, the yellow leaves at the end of the season fall on the paper, they fall and lie there because the paper has not been used, there is no need to pick that leaf up. The motionless leaf on a place that does not belong to it shows the motionless kneeling figure of a man sitting and watching the rain and dust fly. The description is so short that the scene appears like a painting, not only the figure of the master but also the desolation of society through the eyes of the master. The author has very valuable details: where the grandfather is the pen and ink, where heaven and earth are the wind and rain, where society is the indifference that no one knows. The five-word poetic form, which has the power to express broken stories and nostalgia, has proven to be very favorable and rhythmic, evoking a light yet penetrating sadness. The curtain of rain and dust that closes the poem is gloomy, cold, sad, and empty. Thus, with only eight sentences and forty words, it is enough to express the final steps of a dying era. The detailed comparison in this paragraph with the paragraph above: ink with ink, paper with paper, person with person, gives us even more of a startling, painful impression of change. See more: Introduction to a Vietnamese river Nam There is a period of time passing, a gap in the poem before entering the final four lines: Peach bloom again this year Not seeing his old toys People who live forever Where soul now? Let's go back to the first verse of the article Every year peach blossoms bloom to see that the old rule is no longer true. The patient old man still sat there, but this year he was no longer patient: The old man was nowhere to be seen. He tried to cling to modern society, we modern people saw his efforts, saw him flounder, but we did nothing, only to look back now and know him. been abandoned forever. His shadow is not the shadow of a person or a profession, but the shadow of an entire era, the shadow of the memories of our own souls. Only now do we feel nostalgic, but it's too late. Do we ask each other or ourselves? Ask or pray for remembrance, or regret and repent. In the two most concise verses of the poem, we read the fate of our grandfather and especially the attitudes and feelings of an entire class of people towards what belongs to the nation. Grammatically, this verse is very strange, but no one finds it offensive: People who live forever. A thousand years, actually it is only a few years, but it is correct to say a thousand years, the time of our ancestors is long gone, mixed with the writings and researches far away in history. The long-ago words of the above sentence echoing down to the present words of the lower sentence evoke even more wistful nostalgia. The poem is not a sobbing pain, it is just like a sigh of compassion and inconsolable regret. See more: Introduction to writer Nguyen Hong and the text In the Mother's HeartVanmau.edu.vn
Đề bài: Phân tích bài thơ Ông đồ Trước kia trên bàn thờ tổ tiên, bên cạnh cặp bánh chưng, mâm ngũ quả là đôi câu đối tết. Chính vì vậy mà những ông đồ già trên vỉa hè phố xá rất đông khách thuê viết chữ và hình ảnh ông đồ đội khăn xếp mặc áo the đã khắc ghi sâu vào tâm trí của hàng triệu người dân Việt Nam trong đó có nhà thơ Vũ Đình Liên. Để rồi tác giả viết lên bài thơ 'ông đồ' với 1 niềm thương cảm sâu sắc cho thân phận ông đồ, cho 1 lớp người tàn tạ và sự nuối tiếc 1 truyền thống đẹp đẽ của dân tộc. Phân tích bài thơ Ông đồ Mở đầu bài thơ hình ảnh ông đồ già đã xuất hiện trong dòng suy tưởng, hoài niệm của tác giả: Mỗi năm hoa đào nở Lại thấy ông đồ già Bày mực tàu giấy đỏ Bên phố đông người qua Cấu trúc mỗi.. lại cho ta thấy ông đồ chính là 1 hình ảnh vô cùng quen thuộc với người dân Việt Nam vào mỗi dịp tết đến xuân về. Cùng với màu thắm của hoa đào, màu đỏ của giấy, màu đen nhánh của mực tàu và sự đông vui, náo nhiệt của ngày tết thì hình ảnh ông đồ đã trở nên không thể thiếu được trong bức tranh mùa xuân. Lời thơ từ tốn mà chứa bao yêu thương. Dẫu chỉ chiếm 1 góc nhỏ trên lề phố nhưng trong bức tranh thơ thì ông đồ lại chính là trung tâm, ông đã hòa hết mình vào cái không khí nhộn nhịp của ngày tết với những tài năng mình có: Bao nhiêu người thuê viết Tấm tắc ngợi khen tài Hoa tay thảo những nét Như phượng múa rồng bay Từ bao nhiêu cho người đọc thấy được ông đồ được mọi người rất yêu mến. Sự có mặt của ông đã thu hút sự chú ý của mọi người, ông chính là trung tâm của sự kính nể và ngưỡng mộ. Hạnh phúc đối với ông không chỉ là có nhiều người thuê viết mà còn được tấm tắc ngợi khen tài – Bởi ông có tài viết chữ rất đẹp. Ba phụ âm 't' cùng xuất hiện trong 1 câu như 1 tràng pháo tay giòn giã để ca ngợi cái tài năng của ông. Giữa vòng người đón đợi ấy ông hiện lên như 1 người nghệ sĩ đang say mê, sáng tạo, trổ hết tài năng tâm huyết của mình để rồi ông được người đời rất ngưỡng mộ.Với sự ngưỡng mộ đó thì Vũ Đình Liên còn thể hiện 1 lòng tự hào về truyền thống tốt đẹp của dân tộc là chơi câu đối chữ. Nhưng liệu có bao nhiêu người thuê viết hiểu được ý nghĩ sâu xa của từng câu, từng chữ để mà chia sẻ cái niềm vui, niềm hạnh phúc với người viết ra những câu chữ ấy?. Ở khổ thơ thứ 3 vẫn nổi bật hình ảnh ông đồ với mực tàu giấy đỏ, nhưng mọi thứ đã khác xưa. Không còn đâu bao nhiêu người thuê viết- Tấm tắc ngợi khen tài mà thay vào đó là cảnh tượng vắng vẻ đến thê lương. Với cảm xúc buồn thương thấp thoáng ở 2 câu thơ trên, giờ đây cái cảm xúc đó được thể hiện trong câu hỏi đầy băn khoăn day dứt: Nhưng mỗi năm mỗi vắng Người thuê viết nay đâu? Cũng là mỗi năm nhưng lại đứng sau từ nhưng- con chữ thường làm đảo lộn trật tự quen thuộc. Số người còn chút mến yêu và kính trọng chữ nho giờ cũng mỗi năm mỗi vắng, khách quen cũng tan tác mỗi người một ngả. Để rồi 1 chút hy vọng nhỏ nhoi của ông đồ là góp chút vui cùng mọi người vào mỗi dịp tết đến xuân về cũng dần tan biến và cuộc sống mưu sinh của ông đồ già cũng ngày càng khó khăn. Bằng câu hỏi tu từ hết sức độc đáo, Vũ Đình Liên đã thể hiện 1 nỗi nuối tiếc của 1 thời kì vàng son để rồi đọng lại thành nỗi sầu, nỗi tủi thấm sang cả những vật vô tri vô giác: Giấy đỏ buồn không thắm Mực đọng trong nghiên sầu Giấy đỏ là thứ giấy dùng để ông đồ viết chữ lên, đó là 1 thứ giấy rất mỏng manh chỉ cần 1 chút ẩm ướt cũng có thể phai màu. Vậy mà' GIấy đỏ buồn không thắm'- không thắm bởi lâu nay không được dùng đến nên phôi pha úa tàn theo năm tháng. Mực cũng vậy- đó là thứ mực đen thẫm để ông đồ viết chữ, trước khi dùng thì ta phải mài mực rồi dùng bút lông họa lên những nét chữ. Nhưng nay' Mực đọng trong nghiên sầu' nghĩa là mực đã được mãi từ lâu, đã sẵn sàng cho bàn tay tài hoa của ông đồ để trổ tài nhưng đnahf đợi chờ trong vô vọng. Các từ buồn, sầu như thổi hồn vào sự vật cùng với phép nhân hóa đã khiến cho giấy đỏ, mực tàu vốn vo tri bỗng trở nên có hồn có suy nghĩ như con người. Nỗi buồn đó của ông đồ không chỉ thấm vào những đồ dùng mưu sinh hằng ngày mà cảm xúc đó của ông còn lan ra khung cảnh thiên nhiên, cảnh vật khiến không gian trở nên thật đìu hiu, xót xa: Xem thêm: Em có nhận xét gì về câu nói của Hoài Thanh khi đọc bài Nhớ rừng: Thế Lữ như một vị tướng điều khiển đội quân Việt ngữ với một mệnh lệnh không thể cưỡng lại đượcÔng đồ vẫn ngồi đó Qua đường không ai hay Lá vàng rơi trên giấy Ngoài giời mưa bụi bay Tuy ông đồ già không được người đời yêu mến và kính trọng nữa nhưng ông đã kiên trì, cố gắng ngồi bên lề đường chờ mong sự cưu mang giúp đỡ của người đời. Nhưng đâu có 1 ánh mắt nào để ý đến ông bên lề phố, không một trái tim nào đồng cảm và chia sẻ với ông. Bằng biện pháp tả cảnh ngụ tình nhà thơ Vũ Đình Liên đã cho ta thấy 1 khung cảnh thiên nhiên thật xót xa, đìu hiu trước tâm trạng của ông đồ: Lá vàng rơi trên giấy Ngoài giời mưa bụi bay Nhưng thật băn khoăn tại sao giờ đang là mùa xuân lại có lá vàng rơi? Phải chăng hình ảnh lá vàng rơi gợi đến sự tàn phai, tàn lụi về 1 thời kỳ, 1 lớp người trong xã hội và 1 phong tục tập quán đẹp đẽ của dân tộc Việt Nam là chơi câu đối dỏ ngày tết giờ cũng trở thành quá khứ. Hình ảnh ông đồ cũng giống như hình ảnh lá vàng rơi, ông đã gắng níu kéo cuộc đời thầm lặng của mình nhưng so với thời đại mới thì ong chỉ còn là chiếc lá úa tàn đang rơi rụng. Nỗi buồn ấy âm thầm, tê tái nó đã khiến cơn mưa xuân vốn sức sống bền bỉ cũng trở nên đìu hiu xót xa Ngoài giời mưa bụi bay 'Giời' chứ không phải là 'trời'- đó phải chăng là cách nói dân gian của những người muôn năm cũ trong đó có ông đồ. Câu thơ gợi ra tâm trạng buồn thảm của ông đồ trước cơn mưa bụi nhạt nhòa. Dẫu chỉ là mưa bay, mưa bụi nhưng nó cũng đủ sức xóa sạch đi dấu vết của 1 lớp người. Tuy ông đồ đã không còn được người đời yêu mến, trong vọng nữa nhưng đối với nhà thơ thì hình ảnh ông đồ vẫn luôn khắc sâu trong trái tim: Năm nay đào lại nở Không thấy ông đồ xưa Mở đầu bài thơ là hình ảnh rất nhẹ và kết thúc bài thơ cũng với hình ảnh rất khẽ khàng. Năm xưa khi đào nở ta thấy ông đồ ngồi bên lề đường và hòa mình vào sự đông vui náo nhiệt của phố phường. Nhưng nay cùng thời điểm đó thì ông đã không còn nữa, hình ảnh ồng đồ cũng dần tan biến vào dòng thời gian. Tết đến xuân về, hoa đào lại nở, người người thì háo hức đi chợ sắm tết để chờ mong 1 năm đầy niềm vui và hy vọng. Tất cả đều rạo rực, tưng bừng. Cảnh còn đó nhưng người thì đâu? Giờ đây hình ảnh ông đồ chỉ còn là cái di tích tiều tụy đáng thương của 1 thời tàn, ông đã bị người đời quên lãng, bỏ rơi ngoài 1 thi sĩ Vũ Đình Liên. Dòng đời cứ trôi dần và trôi đi cả cuộc sống thanh bình đẹp đẽ, giờ chỉ còn là 1 nỗi trống trải, bâng khuâng để rồi nhà thơ cũng phải bật thành câu hỏi đầy cảm xúc: Những người muôn năm cũ Hồn ở đâu bây giờ? Hai câu thơ cuối tác giả đã trực tiếp bộc lộ cảm xúc dâng trào, kết đọng mang chiều sâu khái quát. Từ hình ảnh ông đồ nhà thơ liên tưởng đến hình ảnh những người muôn năm cũ và thi sĩ hỏi, hỏi 1 cách xót xa: hỏi trời, hỏi mây, hỏi cuộc sống, hỏi 1 thời đại, hỏi mà để cảm thông cho thân phận của ông đồ, của những người muôn năm cũ đã bị thời thế khước từ. Câu hỏi tu từ đặt ra như 1 lờ tự vấn, tiềm ẩn sự ngậm ngùi, xót thương. Và tất cả những gì của 1 thời hoàng kim giờ cũng chỉ còn 1 màu sắc nhạt phai, tê tái. Với cách sử dụng thành công biện pháp tu từ, nhà thơ Vũ Đình Liên đã tái hiện lên hình ảnh ông đồ với cái di tích tiều tụy đáng thương của 1 thời tàn khiến chúng ta lại càng cảm thương, xót xa cho số phận của ông. Chỉ với bài thơ ngũ ngôn ngắn gọn, tác giả đã làm sống dậy trong lòng người 1 niềm thương của sự luyến tiếc không nguôi. Đọc bài thơ ông đồ ta cảm nhận được ở Vũ Đình Liên- một con người có lòng thương người, lòng nhân ái, sự cảm thông sâu sắc và luôn ân nghĩa thủy chung. Nguồn Edufly Xem thêm: Cảm nghĩ về nhân vật Lão Hạc và ông giáo trong tác phẩm Lão Hạc
Đề bài: Phân tích bài thơ Ông đồ Trước kia trên bàn thờ tổ tiên, bên cạnh cặp bánh chưng, mâm ngũ quả là đôi câu đối tết. Chính vì vậy mà những ông đồ già trên vỉa hè phố xá rất đông khách thuê viết chữ và hình ảnh ông đồ đội khăn xếp mặc áo the đã khắc ghi sâu vào tâm trí của hàng triệu người dân Việt Nam trong đó có nhà thơ Vũ Đình Liên. Để rồi tác giả viết lên bài thơ 'ông đồ' với 1 niềm thương cảm sâu sắc cho thân phận ông đồ, cho 1 lớp người tàn tạ và sự nuối tiếc 1 truyền thống đẹp đẽ của dân tộc. Phân tích bài thơ Ông đồ Mở đầu bài thơ hình ảnh ông đồ già đã xuất hiện trong dòng suy tưởng, hoài niệm của tác giả: Mỗi năm hoa đào nở Lại thấy ông đồ già Bày mực tàu giấy đỏ Bên phố đông người qua Cấu trúc mỗi.. lại cho ta thấy ông đồ chính là 1 hình ảnh vô cùng quen thuộc với người dân Việt Nam vào mỗi dịp tết đến xuân về. Cùng với màu thắm của hoa đào, màu đỏ của giấy, màu đen nhánh của mực tàu và sự đông vui, náo nhiệt của ngày tết thì hình ảnh ông đồ đã trở nên không thể thiếu được trong bức tranh mùa xuân. Lời thơ từ tốn mà chứa bao yêu thương. Dẫu chỉ chiếm 1 góc nhỏ trên lề phố nhưng trong bức tranh thơ thì ông đồ lại chính là trung tâm, ông đã hòa hết mình vào cái không khí nhộn nhịp của ngày tết với những tài năng mình có: Bao nhiêu người thuê viết Tấm tắc ngợi khen tài Hoa tay thảo những nét Như phượng múa rồng bay Từ bao nhiêu cho người đọc thấy được ông đồ được mọi người rất yêu mến. Sự có mặt của ông đã thu hút sự chú ý của mọi người, ông chính là trung tâm của sự kính nể và ngưỡng mộ. Hạnh phúc đối với ông không chỉ là có nhiều người thuê viết mà còn được tấm tắc ngợi khen tài – Bởi ông có tài viết chữ rất đẹp. Ba phụ âm 't' cùng xuất hiện trong 1 câu như 1 tràng pháo tay giòn giã để ca ngợi cái tài năng của ông. Giữa vòng người đón đợi ấy ông hiện lên như 1 người nghệ sĩ đang say mê, sáng tạo, trổ hết tài năng tâm huyết của mình để rồi ông được người đời rất ngưỡng mộ.Với sự ngưỡng mộ đó thì Vũ Đình Liên còn thể hiện 1 lòng tự hào về truyền thống tốt đẹp của dân tộc là chơi câu đối chữ. Nhưng liệu có bao nhiêu người thuê viết hiểu được ý nghĩ sâu xa của từng câu, từng chữ để mà chia sẻ cái niềm vui, niềm hạnh phúc với người viết ra những câu chữ ấy?. Ở khổ thơ thứ 3 vẫn nổi bật hình ảnh ông đồ với mực tàu giấy đỏ, nhưng mọi thứ đã khác xưa. Không còn đâu bao nhiêu người thuê viết- Tấm tắc ngợi khen tài mà thay vào đó là cảnh tượng vắng vẻ đến thê lương. Với cảm xúc buồn thương thấp thoáng ở 2 câu thơ trên, giờ đây cái cảm xúc đó được thể hiện trong câu hỏi đầy băn khoăn day dứt: Nhưng mỗi năm mỗi vắng Người thuê viết nay đâu? Cũng là mỗi năm nhưng lại đứng sau từ nhưng- con chữ thường làm đảo lộn trật tự quen thuộc. Số người còn chút mến yêu và kính trọng chữ nho giờ cũng mỗi năm mỗi vắng, khách quen cũng tan tác mỗi người một ngả. Để rồi 1 chút hy vọng nhỏ nhoi của ông đồ là góp chút vui cùng mọi người vào mỗi dịp tết đến xuân về cũng dần tan biến và cuộc sống mưu sinh của ông đồ già cũng ngày càng khó khăn. Bằng câu hỏi tu từ hết sức độc đáo, Vũ Đình Liên đã thể hiện 1 nỗi nuối tiếc của 1 thời kì vàng son để rồi đọng lại thành nỗi sầu, nỗi tủi thấm sang cả những vật vô tri vô giác: Giấy đỏ buồn không thắm Mực đọng trong nghiên sầu Giấy đỏ là thứ giấy dùng để ông đồ viết chữ lên, đó là 1 thứ giấy rất mỏng manh chỉ cần 1 chút ẩm ướt cũng có thể phai màu. Vậy mà' GIấy đỏ buồn không thắm'- không thắm bởi lâu nay không được dùng đến nên phôi pha úa tàn theo năm tháng. Mực cũng vậy- đó là thứ mực đen thẫm để ông đồ viết chữ, trước khi dùng thì ta phải mài mực rồi dùng bút lông họa lên những nét chữ. Nhưng nay' Mực đọng trong nghiên sầu' nghĩa là mực đã được mãi từ lâu, đã sẵn sàng cho bàn tay tài hoa của ông đồ để trổ tài nhưng đnahf đợi chờ trong vô vọng. Các từ buồn, sầu như thổi hồn vào sự vật cùng với phép nhân hóa đã khiến cho giấy đỏ, mực tàu vốn vo tri bỗng trở nên có hồn có suy nghĩ như con người. Nỗi buồn đó của ông đồ không chỉ thấm vào những đồ dùng mưu sinh hằng ngày mà cảm xúc đó của ông còn lan ra khung cảnh thiên nhiên, cảnh vật khiến không gian trở nên thật đìu hiu, xót xa: Xem thêm: Em có nhận xét gì về câu nói của Hoài Thanh khi đọc bài Nhớ rừng: Thế Lữ như một vị tướng điều khiển đội quân Việt ngữ với một mệnh lệnh không thể cưỡng lại đượcÔng đồ vẫn ngồi đó Qua đường không ai hay Lá vàng rơi trên giấy Ngoài giời mưa bụi bay Tuy ông đồ già không được người đời yêu mến và kính trọng nữa nhưng ông đã kiên trì, cố gắng ngồi bên lề đường chờ mong sự cưu mang giúp đỡ của người đời. Nhưng đâu có 1 ánh mắt nào để ý đến ông bên lề phố, không một trái tim nào đồng cảm và chia sẻ với ông. Bằng biện pháp tả cảnh ngụ tình nhà thơ Vũ Đình Liên đã cho ta thấy 1 khung cảnh thiên nhiên thật xót xa, đìu hiu trước tâm trạng của ông đồ: Lá vàng rơi trên giấy Ngoài giời mưa bụi bay Nhưng thật băn khoăn tại sao giờ đang là mùa xuân lại có lá vàng rơi? Phải chăng hình ảnh lá vàng rơi gợi đến sự tàn phai, tàn lụi về 1 thời kỳ, 1 lớp người trong xã hội và 1 phong tục tập quán đẹp đẽ của dân tộc Việt Nam là chơi câu đối dỏ ngày tết giờ cũng trở thành quá khứ. Hình ảnh ông đồ cũng giống như hình ảnh lá vàng rơi, ông đã gắng níu kéo cuộc đời thầm lặng của mình nhưng so với thời đại mới thì ong chỉ còn là chiếc lá úa tàn đang rơi rụng. Nỗi buồn ấy âm thầm, tê tái nó đã khiến cơn mưa xuân vốn sức sống bền bỉ cũng trở nên đìu hiu xót xa Ngoài giời mưa bụi bay 'Giời' chứ không phải là 'trời'- đó phải chăng là cách nói dân gian của những người muôn năm cũ trong đó có ông đồ. Câu thơ gợi ra tâm trạng buồn thảm của ông đồ trước cơn mưa bụi nhạt nhòa. Dẫu chỉ là mưa bay, mưa bụi nhưng nó cũng đủ sức xóa sạch đi dấu vết của 1 lớp người. Tuy ông đồ đã không còn được người đời yêu mến, trong vọng nữa nhưng đối với nhà thơ thì hình ảnh ông đồ vẫn luôn khắc sâu trong trái tim: Năm nay đào lại nở Không thấy ông đồ xưa Mở đầu bài thơ là hình ảnh rất nhẹ và kết thúc bài thơ cũng với hình ảnh rất khẽ khàng. Năm xưa khi đào nở ta thấy ông đồ ngồi bên lề đường và hòa mình vào sự đông vui náo nhiệt của phố phường. Nhưng nay cùng thời điểm đó thì ông đã không còn nữa, hình ảnh ồng đồ cũng dần tan biến vào dòng thời gian. Tết đến xuân về, hoa đào lại nở, người người thì háo hức đi chợ sắm tết để chờ mong 1 năm đầy niềm vui và hy vọng. Tất cả đều rạo rực, tưng bừng. Cảnh còn đó nhưng người thì đâu? Giờ đây hình ảnh ông đồ chỉ còn là cái di tích tiều tụy đáng thương của 1 thời tàn, ông đã bị người đời quên lãng, bỏ rơi ngoài 1 thi sĩ Vũ Đình Liên. Dòng đời cứ trôi dần và trôi đi cả cuộc sống thanh bình đẹp đẽ, giờ chỉ còn là 1 nỗi trống trải, bâng khuâng để rồi nhà thơ cũng phải bật thành câu hỏi đầy cảm xúc: Những người muôn năm cũ Hồn ở đâu bây giờ? Hai câu thơ cuối tác giả đã trực tiếp bộc lộ cảm xúc dâng trào, kết đọng mang chiều sâu khái quát. Từ hình ảnh ông đồ nhà thơ liên tưởng đến hình ảnh những người muôn năm cũ và thi sĩ hỏi, hỏi 1 cách xót xa: hỏi trời, hỏi mây, hỏi cuộc sống, hỏi 1 thời đại, hỏi mà để cảm thông cho thân phận của ông đồ, của những người muôn năm cũ đã bị thời thế khước từ. Câu hỏi tu từ đặt ra như 1 lờ tự vấn, tiềm ẩn sự ngậm ngùi, xót thương. Và tất cả những gì của 1 thời hoàng kim giờ cũng chỉ còn 1 màu sắc nhạt phai, tê tái. Với cách sử dụng thành công biện pháp tu từ, nhà thơ Vũ Đình Liên đã tái hiện lên hình ảnh ông đồ với cái di tích tiều tụy đáng thương của 1 thời tàn khiến chúng ta lại càng cảm thương, xót xa cho số phận của ông. Chỉ với bài thơ ngũ ngôn ngắn gọn, tác giả đã làm sống dậy trong lòng người 1 niềm thương của sự luyến tiếc không nguôi. Đọc bài thơ ông đồ ta cảm nhận được ở Vũ Đình Liên- một con người có lòng thương người, lòng nhân ái, sự cảm thông sâu sắc và luôn ân nghĩa thủy chung. Nguồn Edufly Xem thêm: Cảm nghĩ về nhân vật Lão Hạc và ông giáo trong tác phẩm Lão Hạc
Phân tích bài thơ Đi Đường (tẩu lộ) của Hồ Chí Minh Hướng dẫn I. “Bác Hồ đó chiếc áo nâu giản dị Màu quê hương bền bỉ đậm đà Ta bên Người, Người tỏa sáng trong ta…"(Tô'Hữu) Biết mỗi hành động, đọc mỗi bài thơ của Bác, chúng ta như được thêm vốn sống, tăng thêm nghị lực, lòng kiên nhẫn để vượt qua mọi thử thách gian lao và tin tưởng vững chắc vào kết quả công việc của mình. Vào mùa thu 1942, từ Pác Bó, Bác Hồ qua Trung Quốc để tìm viện trợ quốc tế cho cách mạng Việt Nam, và bị chính quyền tỉnh Quảng Tây bấy giờ bắt giam. Suốt một năm sông trong ngục tù, Bác đã viết Nhật kí trong tù, 133 bài thơ được Bác viết bằng Hán văn về nhiều đề tài khác nhau với mục đích là để tự động viên mình, trong đó có bài Đi đường (Tẩu lộ). II. Bài thơ được viết bằng thể thất ngôn tứ tuyệt, nhà thơ Nam Trân dịch ra Việt ngữ bằng thể thơ lục bát. Cũng cần biết thêm là Bác thường mượn những hình ảnh dễ thấy trong cuộc sống làm đề tài để biểu đạt tư tưởng và tình cảm của mình. Ngay ở tựa bài Đi đường cũng đã chứng minh cho nhận xét ấy. Từ hình ảnh cụ thể và khái quát ấy, nhà thơ Hồ Chí Minh đã viết thành câu khai: Tẩu lộ tài tri tẩu lộ nan, Bản dịch của Nam Trân viết: Đi đường mới biết gian lao, Câu thơ nguyên tác có điệp ngữ “tẩu lộ” (đi đường) để nhấn mạnh, còn câu thơ tiếng Việt thì không. Thế nhưng từ “nan" (khó) trong nguyên tác được dịch bằng từ “gian lao" thì khá tuyệt bởi nó diễn đạt nỗi khó khăn, gian khổ đậm nét hơn. Từ hình ảnh cụ thể ây, người đọc hiểu rộng ra: mọi công việc, khi bắt tay vào hành động mới thấy những khó khăn đang chờ đợi. Những khó khăn ở câu khai được nhà thơ diễn đạt rõ hơn ở câu thừa. Nguyên tác viết: Trùng san chi ngoại hựu trùng san; Bản dịch viết: Núi cao rồi lại núi cao trập trùng; Nguyên tác sử dụng điệp ngữ “trùng san – nhiều lớp núi chồng lên nhau” nhấn mạnh về núi non để làm rõ nghĩa cho “tẩu lộ nan – đi đường khó” ở câu khai. Bản dịch tiếng Việt cũng sử dụng điệp ngữ “núi cao”, quan hệ từ “rồi lại”, và cả tính từ láy âm “trập trùng” để cụ thể hóa “gian lao” ở câu khai. Như thế thì câu thơ dịch khá hoàn chỉnh, kể cả chất thơ. Từ sự việc có thật là lúc ở tù nhà thơ bị giải đi từ nhà lao này sang nhà lao khác ở tỉnh Quảng Tây, một tỉnh có địa hình nhiều rừng núi nhà thơ muốn nhấn mạnh đến những khó khăn không bao giờ dứt trong đời sống của mỗi người. Đường đời bình thường đi đã mệt, đường giành lại độc lập tự do đã bị thực dân tước mất thì khó khăn và nguy hiểm khôn lường. Lịch sử Việt Nam trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, giữ vững độc lập – tự do cho dân tộc từ thời dựng nước cho tới lúc nhà thơ bị bắt và làm bài thơ này đã chứng minh cụ thể cho sự khó khăn khôn lường ấy. Xem thêm: Với nhan đề “Hoa hậu nhặt rác và dòng nước thải từ Vê-đan” báo Tuổi trẻ Online (Thứ hai, ngày 15 tháng 9 năm 2008) có đoạn: “Ngẫu... trên biển cần Giờ”. Dòng tin trên gợi cho anh (chị) suy nghĩ gìBiết như thế để tự động viên mình trên đường đi. Lúc nào cũng lạc quan, lúc nào cũng cố gắng tiến bước để đạt được mục tiêu cuối cùng như hình ảnh trong hai câu chuyển và hợp trong nguyên tác: Trùng san đăng đáo cao phong hậu, Vạn lí dư đồ cô'miện gian. Và bản dịch: Núi cao lên đến tận cùng, Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non. Cả nguyên tác lẫn bản dịch đều dùng phép đảo ngữ để nhấn mạnh “trùng san – núi cao". Khó khăn nào cũng cố gắng vượt qua, núi cao nào cũng leo tới đỉnh rồi lại tiếp bước. Càng vượt được nhiều núi cao, trong thực tế, càng tích lũy được nhiều kinh nghiệm trèo đèo, lội suối, vượt qua những vực sâu… nguy hiểm. Hiểu rộng ra trong mọi lĩnh vực của cuộc sống, kể cả việc học hành, càng vượt qua nhiều khó khăn càng tích lũy được nhiều kinh nghiệm trong giải quyết công việc. Lúc ấy ta sẽ vững tin khi đối diện với một khó khăn mới khác trên bước đường đời. Trong cuộc đời hoạt động, Bác đã đến nhiều nơi, gặp gỡ nhiều người. Mỗi nơi, mỗi người đều giúp Bác thêm kiến thức, kinh nghiệm. Khi đã vượt qua tất cả những ngọn núi thấp để đến đỉnh ngọn cao nhất: vượt qua khó khăn lớn lao nhất thì… đạt đến thành công. Hình ảnh kỳ vĩ: con người với thân hình nhỏ bé đứng trên đỉnh cao của ngọn núi vĩ đại: một bức tranh thật hào hùng; thành công ấy thật vinh quang. Vượt qua khó khăn lớn nhất sẽ thấy rõ đường đời cái gì là trắc trở, cái gì là hạnh phúc, bình yên. Muốn thế, cần phải có tâm và trí… Ngày trước, Nguyễn Bá Học cũng đã từng mượn hình ảnh đi đường để nhân mạnh vai trò nghị lực của con người rằng: “Đường đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi, mà khó vì lòng người ngại núi e sông…”. Rồi cụ Phan Bội Châu cũng đã từng nhắc nhở: Ví phỏng đường đời bằng phẳng cả, Anh hùng hào kiệt có hơn ai. Thi nay lại có thêm Hồ Chí Minh. III. Mang nội dung giáo dục tư tưởng chính trị nhưng không khô khan bởi biết mượn hình ảnh sự việc để bộc lộ tâm tư của mình. Đúng là thơ của một danh nhân văn hóa của cả thế giới. Thế hệ của Bác, đàn em của Bấc đã học tập tinh thần ấy trong hai cuộc chiến chông thực dân và đế quốc. Còn các thế hệ sau thì nhờ học bài thơ mà họ thấy đường đời khó để bình tĩnh chuẩn bị hành trang mà vượt quạ: tri thức là phương tiện để "lên đến tận cùng”, vượt nỗi nhục nghèo nàn, lạc hậu… Nguồn: thêm: Thế nào là tiết kiệm? Tiết kiệm có ý nghĩa gì?
Analysis of Ho Chi Minh's poem "Going on the Road". Instruct I. “Uncle Ho is wearing a simple brown shirt The color of the homeland is persistent and rich We are with Him, He shines in us..."(To' Huu) Knowing every action, reading every poem of Uncle Ho, we gain more life capital, more energy and patience to overcome all hardships and firmly believe in the results of our work. In the fall of 1942, from Pac Bo, Uncle Ho went to China to seek international aid for the Vietnamese revolution, and was arrested by the Guangxi provincial government at that time. During a year in prison, Uncle Ho wrote a Prison Diary, 133 poems written by Uncle Ho in Chinese on many different topics with the purpose of motivating himself, including the poem "Going on the Road". ). II. The poem is written in seven-syllable verse, poet Nam Tran translated it into Vietnamese in six-eight verse. It is also important to know that Uncle Ho often borrowed visible images from life as topics to express his thoughts and feelings. Even the title of the article "On the Road" proves that comment. From that specific and general image, poet Ho Chi Minh wrote a statement: The secret of wealth and knowledge, the secret of trouble, Nam Tran's translation reads: Only when we travel on the road do we know the hardships, The original verse has the alliteration "tac tro" (on the road) for emphasis, but the Vietnamese verse does not. However, the word "nan" (difficult) in the original work is translated by the word "hardship", which is quite wonderful because it expresses the difficulty and hardship more clearly. From this specific image, the reader can understand more broadly: in every job, when taking action, you will see the difficulties that await. The difficulties in the opening sentence are expressed more clearly by the poet in the redundant sentence. Original writing: The outer branches of the same tree will coincide with the same; The translation reads: High mountains and then rolling high mountains; The original work uses the alliteration "coincidental san - many layers of mountains overlapping each other" to emphasize the mountains to clarify the meaning of "difficult path - difficult road" in the opening sentence. The Vietnamese translation also uses the alliteration "high mountain", the word relationship "then again", and the alliteration adjective "thap" to concretize "hard work" in the statement. Thus, the translated verse is quite complete, including the poetic quality. From the true incident that while in prison the poet was taken from one prison to another in Guangxi province, a province with many mountainous terrain, the poet wanted to emphasize the never-ending difficulties in life. each person's life. The normal path of life is tiring, the path to regaining the independence and freedom that was taken away by the colonialists is difficult and incredibly dangerous. Vietnam's history in the cause of protecting the Fatherland and maintaining independence and freedom for the nation from the time of founding the country until the time the poet was arrested and wrote this poem has specifically demonstrated that unpredictable difficulty. . See more: With the title "Miss picking up trash and waste water from Vedan", Tuoi Tre Online newspaper (Monday, September 15, 2008) has the paragraph: "Accidental... on Can Gio beach". What does the above message remind you of? Know this to encourage yourself along the way. Always optimistic, always trying to move forward to achieve the final goal as pictured in the two sentences in the original work: The highest and most beautiful places, Thousands of residual things she's in trouble. And translation: The mountains rise to the very end, Collect countless mountains and rivers as far as you can see. Both the original and the translation use anagrams to emphasize "high mountains". Every difficulty we try to overcome, every high mountain we climb to the top and then move on. The more high mountains we overcome, In reality, the more experience you accumulate in climbing passes, wading streams, crossing dangerous depths, etc. Broadly understanding all areas of life, including studying, the more difficulties you will overcome Having accumulated a lot of experience in solving tasks, we will then be confident when facing another new difficulty on our life's path. During his active life, Uncle Ho went to many places and met many people. Every place and every person helps Uncle Ho gain more knowledge and experience. When you have overcome all the low mountains to reach the top of the highest mountain: overcoming the greatest difficulties... achieving success. Magnificent image: a human with a small body standing on the peak of a great mountain: a truly heroic picture; That success was glorious. Overcoming the biggest difficulties will clearly see what is difficult in life, what is happiness and peace. To do that, you need to have heart and mind... In the past, Nguyen Ba Hoc also borrowed the image of traveling on the road to emphasize the role of human willpower: "The road is difficult, not because it separates the river from the mountain, but because people are afraid of the mountain and afraid of the river..." . Then Mr. Phan Boi Chau also reminded: If life's road is all flat, A heroic hero is better than anyone. Now there is Ho Chi Minh. III. It carries political ideological educational content but is not dry because it knows how to borrow images of events to express one's thoughts. Truly the poetry of a world-famous cultural figure. Uncle Ho's generation, Buck's juniors, learned that spirit in the two wars against colonialism and imperialism. As for the next generations, thanks to studying the poem, they see that life's path is difficult so they can calmly prepare their luggage to overcome the crows: knowledge is the means to "get to the bottom", overcome the humiliation of poverty and backwardness... Source: more: What is savings? What does saving mean?
Bài thơ Đoàn thuyền đánh cá là một bài thơ hay của Huy Cận, thể hiện được quan điểm sáng tác mới mẻ của nhà thơ. Nội dung bài thơ có hình ảnh lao động tươi vui của con người và đồng thời ngợi ca được vẻ đẹp của thiên nhiên Việt Nam. Nhằm giúp các em có thể viết bài văn phân tích bài thơ Đoàn thuyền đánh cá được tốt nhất, hôm nay Kho tàng văn mẫu sẽ hướng dẫn các em lập dàn ý cho đề văn này cũng như cung cấp thêm 1 bài văn mẫu cho các em tham khảo. I. Lập dàn ý phân tích bài thơ Đoàn thuyền đánh cá 1. Mở bài – Giới thiệu về nhà thơ Huy Cận và bài thơ Đoàn thuyền đánh cá. – Đoàn thuyền đánh cá được nhà thơ Huy Cận viết vào năm 1958 tại Quảng Ninh. 2. Thân bài phân tích bài thơ Đoàn thuyền đánh cá a. Cảnh đoàn thuyền ra khơi và tâm trạng của người đi biển – Thời gian đoàn thuyền ra khơi là vào ban đêm. – Hình ảnh đoàn thuyền ra khơi gần gũi và thân thương. Mặc dù ra khơi trong đêm tối nhưng không khí vui tươi, không chút mệt mỏi. – Tinh thần lạc quan, sự háo hức và niềm hi vọng vào một ngày mai với những mẻ cá đầy. b. Cảnh đoàn thuyền đánh cá trên biển – Không gian biển cả mênh mông, hình ảnh đoàn thuyền cũng trở nên hùng vĩ. – Bước ra biển khơi đánh cá như bước vào một cuộc chiến oanh liệt. – Sự oai hùng của đoàn thuyền đánh cá giữa biển khơi. – Sự mê hay, hăng hái của ngư dân trong công việc. c. Cảnh đoàn thuyền đánh cá quay trở về – Tiếng hát tiếp tục được cất lên xóa tan đi mệt nhọc của một đêm vát vả. – Con người trở nên oai hùng trước thiên nhiên hùng vĩ. 3. Kết bài – Tổng kết lại nội dung bài thơ Đoàn thuyền đánh cá và nêu quan điểm của em về bài thơ này. Bài viết liên quan >> Phân tích bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt (Có dàn ý chi tiết) >> Phân tích bài thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy (Có dàn ý chi tiết) >> Phân tích bài thơ Đồng chí của Chính Hữu (Có dàn ý chi tiết) II. Bài làm phân tích bài thơ Đoàn thuyền đánh cá Có thể nói phong trào Thơ mới đã sản sinh ra một thế hệ vàng của thi ca Việt Nam. Ở đây hội tụ rất nhiều nhà thơ lớn có tên tuổi như Xuân Diệu, Thế Lữ, Huy Cận, Tản Đà,… Trong số các nhà Thơ mới thì Huy Cận là một trong những nhà thơ tiêu biểu được nhiều người yêu thích. Thơ của ông có sự thay đổi theo sự vận động của thời cuộc. Sau cách mạng Tháng 8, thơ của Huy Cận chủ yếu lấy cảm hứng từ thiên nhiên đất nước và con người trong thời đại mới. Bài thơ Đoàn thuyền đánh cá chính là minh chứng cho giọng thơ này.Xem thêm: Viết đoạn văn tả trái dâu tây Chọn đề tài con người lao động, Huy Cận đã mang tới một cái nhìn đầy tươi vui, rạng rỡ. Không chỉ vậy, Huy Cận đã chứng minh tài năng nghệ thuật của mình bằng những hình ảnh thơ vô cùng đẹp và giàu sức gợi. Đọc bài thơ Đoàn thuyền đánh cá, người đọc cảm tưởng như trước mắt mình đang là một vùng biển rộng lớn, những người lao động vùng biển đang bắt đầu đưa thuyền ra ngoài khơi xa với một tâm thế vui sướng, ung dung: Mặt trời xuống biển như hòn lửa Sóng đã cài then đêm sập cửa Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi Câu hát căng buồm cùng giới khơi Mở đầu bài thơ tác giả miêu tả cảnh mặt trời lặn ở trên biển. Ai từng ngắm cảnh hoàng hôn trên biển chắc chắn không thể quên hình ảnh mặt trời đỏ rực đang dần dần khuất dưới lòng biển sâu. Lúc này mặt trời trở nên to hơn và đỏ rực hơn như một hòn lửa. Cách so sánh của nhà thơ Huy Cận thật đẹp và thật tinh tế. Ông đã biến vũ trụ bao la trở thành một ngôi nhà của con người. Vũ trụ là nhà, sóng là then cửa còn màn đêm là cánh cửa. Cánh cửa đã đóng lại, sóng cũng bớt ồn ào hơn vì đã cài then. Đêm tối bao chùm lên cảnh vật vậy mà có những con người họ không hề được nghỉ ngơi khi đêm xuống. Ngược lại, đây lại là lúc mà họ bắt đầu công việc ra khơi của mình. Như mọi ngày, đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi. Động từ lại cho thấy sự lặp đi lặp lại và giúp người đọc hiểu rằng đây là công việc quen thuộc của các ngư dân. Công việc ấy mang đến cho họ niềm vui, giúp cuộc sống của họ được tốt hơn. Chính vì vậy mới có câu thơ Câu hát căng buồm cùng gió khơi. Phân tích bài thơ Đoàn thuyền đánh cá Câu hát thể hiện được niềm vui trong lao động của những người ngư dân. Rõ ràng là làm việc vào lúc đáng lẽ cần phải được nghỉ ngơi thường khiến cho người ta cảm thấy mệt mỏi. Nhưng vì công việc này đối với họ đã quá quen thuộc và vì nó mang lại cho người dân một nguồn lợi lớn nên những câu hát vẫn tiếp tục ngân vang:Xem thêm: Phân tích vẻ đẹp ngôn ngữ của đoạn thơ sau: "Tôi đâu biết bà tôi cơ cực thế bà mò cua xúc tép ở đồng Quan bà đi gánh chè xanh Ba Trại Quán Cháo, Đồng Giao thập thững những đêm hàn" ("Đò Lèn” - Nguyễn Duy) Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng Cá thu biển Đông như đoàn thoi Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi. Cá bạc, cá thu hiện lên trong câu hát của người ngư dân nghe thật đẹp. Nhà thơ khéo sử dụng biện pháp so sánh cá thu như đoàn thoi khiến cho câu thơ trở nên sinh động hơn. Điều này cũng cho thấy sự giàu có của tài nguyên thiên nhiên của vùng biển Quảng Ninh nước ta. Ngắm nhìn đoàn cá thu bơi dưới nước, trí tưởng tượng cùng với ngòi bút lãng mạn của nhà thơ đã vẽ nên hình ảnh đoàn thoi đưa, dệt nên những tấm vải lấp lánh sắc màu. Trong câu hát có lời mời gọi những đàn cá hãy đến dệt lưới để cho người ngư dân có được một mẻ cá đầy. Tiếp tục với sự tài hoa trong ngòi bút của mình, nhà thơ đã mang tới cho người đọc những hình ảnh vô cùng lung linh của đoàn thuyền: Thuyền ta lái gió với buồm trăng Lướt giữa mây cao với biển bằng Ra đậu dặm xa dò bụng biển Dàn đan thế trận lưới vây giăng Sự ví von của Huy Cận khiến người đọc cảm tưởng như đang được bước chân vào một thế giới thần tiên nào đó. Ở đây, gió chính là bánh lái, vầng trăng trở thành cánh buồm. Nhờ gió và trăng, còn thuyền có thể tiến ra ngoài khơi xa một cách nhẹ nhàng như mây bay. Nó cho người đọc thấy được rằng con người của thời đại mới đã biết làm chủ thiên nhiên, làm chủ biển khơi. Họ đi bắt cá nhưng cũng phải dò bụng biển, phải dàn đan thế trận giống như chuẩn bị bước vào một cuộc chiến thực thụ. Qua đây, hình ảnh của con người được nâng tầm khiến cho họ sánh ngang với vũ trụ bao la. Từ bao đời nay, người ngư dân đã gắn bó với biển cả. Biển đối với họ như một người thân thiết lâu ngày. Họ hiểu rõ về biển như hiểu rõ về người thân của mình vậy. Những con cá sống trong lòng đại dương cũng được họ điểm mặt, chỉ tên, nhớ đến từng chi tiết nhỏ: Cá nhụ cá chim cùng cá đé Cá song lấp lánh đuốc đen hồng Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long Hình ảnh ánh trăng chiếu vào vây cá khiến những con cá trở nên lấp lánh như những ngọn đuốc dưới mặt biển khiến câu thơ trở nên đẹp hơn. Có ai nghĩ rằng trong đêm tối mịt mờ lại có thể nhìn thấy những cảnh tượng đẹp đẽ đến như vậy. Ở những câu thơ này, câu hát gọi cá vẫn tiếp tục được ngân lên. Nước vỗ vào mạn thuyền như đang hòa nhịp cùng bài hát.Xem thêm: Viết đoạn văn từ 4 đến 6 câu sử dụng phép tu từ nhân hóa Khi bóng đêm đang dần tan đi, nhịp độ công việc càng trở nên hối hả và gấp gáp hơn để làm sao cho kịp trời sáng: Sao mờ kéo lưới kịp trời sáng Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng Vảy bạc đuôi vàng lóe rạng đông Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng Đây chính là phần thưởng cho những người ngư dân vì họ đã có 1 đêm đầy nỗ lực trên biển. Dáng người ngư dân nghiêng mình dồn cả sức mạnh vào đôi tay để kéo mẻ cá không khiến cho người ta cảm thấy mệt mỏi mà chỉ thấy niềm vui. Đến khổ thơ cuối cùng, nhịp điệu trở nên chậm rãi hơn, mang đến cho người đọc cảm giác vui tươi. Nó phản ánh đúng tâm trạng thoải mái, phấn khởi của người ngư dân vì đã đạt được kết quả tốt đẹp. Chính vì vậy mà khi đoàn thuyền trở về, họ lại tiếp tục hát vang: Câu hát căng buồm với gió khơi Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời Mặt trời đội biển nhô màu mới Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi Hình ảnh đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời thể hiện rất rõ tính chất công việc của những người ngư dân. Bao giờ cũng vậy, họ đưa thuyền về bờ trước khi trời kịp sáng để người dân có được những mẻ cá tươi ngon nhất. Hình ảnh mặt trời lên cũng huy hoàng chẳng kém gì lúc mặt trời lặn. Nó báo hiệu một ngày mới đến và cũng dự báo cho những buổi đánh cá tốt đẹp tiếp sau. Bài thơ Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận đã thể hiện được tinh thần lao động của con người cũng như cảnh đẹp của quê hương, đất nước. Đất nước chúng ta thật tươi đẹp, con người trong lao động cũng thật đẹp và thật đáng để tự hào. Trên đây là phần hướng dẫn lập dàn ý phân tích bài thơ Đoàn thuyền đánh cá và bài văn mẫu để các em tiện tham khảo. Hy vọng rằng đây sẽ là tài liệu bổ ích giúp các em học tập môn Văn được tốt hơn. Thu Thủy
Bài thơ Đoàn thuyền đánh cá là một bài thơ hay của Huy Cận, thể hiện được quan điểm sáng tác mới mẻ của nhà thơ. Nội dung bài thơ có hình ảnh lao động tươi vui của con người và đồng thời ngợi ca được vẻ đẹp của thiên nhiên Việt Nam. Nhằm giúp các em có thể viết bài văn phân tích bài thơ Đoàn thuyền đánh cá được tốt nhất, hôm nay Kho tàng văn mẫu sẽ hướng dẫn các em lập dàn ý cho đề văn này cũng như cung cấp thêm 1 bài văn mẫu cho các em tham khảo. I. Lập dàn ý phân tích bài thơ Đoàn thuyền đánh cá 1. Mở bài – Giới thiệu về nhà thơ Huy Cận và bài thơ Đoàn thuyền đánh cá. – Đoàn thuyền đánh cá được nhà thơ Huy Cận viết vào năm 1958 tại Quảng Ninh. 2. Thân bài phân tích bài thơ Đoàn thuyền đánh cá a. Cảnh đoàn thuyền ra khơi và tâm trạng của người đi biển – Thời gian đoàn thuyền ra khơi là vào ban đêm. – Hình ảnh đoàn thuyền ra khơi gần gũi và thân thương. Mặc dù ra khơi trong đêm tối nhưng không khí vui tươi, không chút mệt mỏi. – Tinh thần lạc quan, sự háo hức và niềm hi vọng vào một ngày mai với những mẻ cá đầy. b. Cảnh đoàn thuyền đánh cá trên biển – Không gian biển cả mênh mông, hình ảnh đoàn thuyền cũng trở nên hùng vĩ. – Bước ra biển khơi đánh cá như bước vào một cuộc chiến oanh liệt. – Sự oai hùng của đoàn thuyền đánh cá giữa biển khơi. – Sự mê hay, hăng hái của ngư dân trong công việc. c. Cảnh đoàn thuyền đánh cá quay trở về – Tiếng hát tiếp tục được cất lên xóa tan đi mệt nhọc của một đêm vát vả. – Con người trở nên oai hùng trước thiên nhiên hùng vĩ. 3. Kết bài – Tổng kết lại nội dung bài thơ Đoàn thuyền đánh cá và nêu quan điểm của em về bài thơ này. Bài viết liên quan >> Phân tích bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt (Có dàn ý chi tiết) >> Phân tích bài thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy (Có dàn ý chi tiết) >> Phân tích bài thơ Đồng chí của Chính Hữu (Có dàn ý chi tiết) II. Bài làm phân tích bài thơ Đoàn thuyền đánh cá Có thể nói phong trào Thơ mới đã sản sinh ra một thế hệ vàng của thi ca Việt Nam. Ở đây hội tụ rất nhiều nhà thơ lớn có tên tuổi như Xuân Diệu, Thế Lữ, Huy Cận, Tản Đà,… Trong số các nhà Thơ mới thì Huy Cận là một trong những nhà thơ tiêu biểu được nhiều người yêu thích. Thơ của ông có sự thay đổi theo sự vận động của thời cuộc. Sau cách mạng Tháng 8, thơ của Huy Cận chủ yếu lấy cảm hứng từ thiên nhiên đất nước và con người trong thời đại mới. Bài thơ Đoàn thuyền đánh cá chính là minh chứng cho giọng thơ này.Xem thêm: Viết đoạn văn tả trái dâu tây Chọn đề tài con người lao động, Huy Cận đã mang tới một cái nhìn đầy tươi vui, rạng rỡ. Không chỉ vậy, Huy Cận đã chứng minh tài năng nghệ thuật của mình bằng những hình ảnh thơ vô cùng đẹp và giàu sức gợi. Đọc bài thơ Đoàn thuyền đánh cá, người đọc cảm tưởng như trước mắt mình đang là một vùng biển rộng lớn, những người lao động vùng biển đang bắt đầu đưa thuyền ra ngoài khơi xa với một tâm thế vui sướng, ung dung: Mặt trời xuống biển như hòn lửa Sóng đã cài then đêm sập cửa Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi Câu hát căng buồm cùng giới khơi Mở đầu bài thơ tác giả miêu tả cảnh mặt trời lặn ở trên biển. Ai từng ngắm cảnh hoàng hôn trên biển chắc chắn không thể quên hình ảnh mặt trời đỏ rực đang dần dần khuất dưới lòng biển sâu. Lúc này mặt trời trở nên to hơn và đỏ rực hơn như một hòn lửa. Cách so sánh của nhà thơ Huy Cận thật đẹp và thật tinh tế. Ông đã biến vũ trụ bao la trở thành một ngôi nhà của con người. Vũ trụ là nhà, sóng là then cửa còn màn đêm là cánh cửa. Cánh cửa đã đóng lại, sóng cũng bớt ồn ào hơn vì đã cài then. Đêm tối bao chùm lên cảnh vật vậy mà có những con người họ không hề được nghỉ ngơi khi đêm xuống. Ngược lại, đây lại là lúc mà họ bắt đầu công việc ra khơi của mình. Như mọi ngày, đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi. Động từ lại cho thấy sự lặp đi lặp lại và giúp người đọc hiểu rằng đây là công việc quen thuộc của các ngư dân. Công việc ấy mang đến cho họ niềm vui, giúp cuộc sống của họ được tốt hơn. Chính vì vậy mới có câu thơ Câu hát căng buồm cùng gió khơi. Phân tích bài thơ Đoàn thuyền đánh cá Câu hát thể hiện được niềm vui trong lao động của những người ngư dân. Rõ ràng là làm việc vào lúc đáng lẽ cần phải được nghỉ ngơi thường khiến cho người ta cảm thấy mệt mỏi. Nhưng vì công việc này đối với họ đã quá quen thuộc và vì nó mang lại cho người dân một nguồn lợi lớn nên những câu hát vẫn tiếp tục ngân vang:Xem thêm: Phân tích vẻ đẹp ngôn ngữ của đoạn thơ sau: "Tôi đâu biết bà tôi cơ cực thế bà mò cua xúc tép ở đồng Quan bà đi gánh chè xanh Ba Trại Quán Cháo, Đồng Giao thập thững những đêm hàn" ("Đò Lèn” - Nguyễn Duy) Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng Cá thu biển Đông như đoàn thoi Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi. Cá bạc, cá thu hiện lên trong câu hát của người ngư dân nghe thật đẹp. Nhà thơ khéo sử dụng biện pháp so sánh cá thu như đoàn thoi khiến cho câu thơ trở nên sinh động hơn. Điều này cũng cho thấy sự giàu có của tài nguyên thiên nhiên của vùng biển Quảng Ninh nước ta. Ngắm nhìn đoàn cá thu bơi dưới nước, trí tưởng tượng cùng với ngòi bút lãng mạn của nhà thơ đã vẽ nên hình ảnh đoàn thoi đưa, dệt nên những tấm vải lấp lánh sắc màu. Trong câu hát có lời mời gọi những đàn cá hãy đến dệt lưới để cho người ngư dân có được một mẻ cá đầy. Tiếp tục với sự tài hoa trong ngòi bút của mình, nhà thơ đã mang tới cho người đọc những hình ảnh vô cùng lung linh của đoàn thuyền: Thuyền ta lái gió với buồm trăng Lướt giữa mây cao với biển bằng Ra đậu dặm xa dò bụng biển Dàn đan thế trận lưới vây giăng Sự ví von của Huy Cận khiến người đọc cảm tưởng như đang được bước chân vào một thế giới thần tiên nào đó. Ở đây, gió chính là bánh lái, vầng trăng trở thành cánh buồm. Nhờ gió và trăng, còn thuyền có thể tiến ra ngoài khơi xa một cách nhẹ nhàng như mây bay. Nó cho người đọc thấy được rằng con người của thời đại mới đã biết làm chủ thiên nhiên, làm chủ biển khơi. Họ đi bắt cá nhưng cũng phải dò bụng biển, phải dàn đan thế trận giống như chuẩn bị bước vào một cuộc chiến thực thụ. Qua đây, hình ảnh của con người được nâng tầm khiến cho họ sánh ngang với vũ trụ bao la. Từ bao đời nay, người ngư dân đã gắn bó với biển cả. Biển đối với họ như một người thân thiết lâu ngày. Họ hiểu rõ về biển như hiểu rõ về người thân của mình vậy. Những con cá sống trong lòng đại dương cũng được họ điểm mặt, chỉ tên, nhớ đến từng chi tiết nhỏ: Cá nhụ cá chim cùng cá đé Cá song lấp lánh đuốc đen hồng Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long Hình ảnh ánh trăng chiếu vào vây cá khiến những con cá trở nên lấp lánh như những ngọn đuốc dưới mặt biển khiến câu thơ trở nên đẹp hơn. Có ai nghĩ rằng trong đêm tối mịt mờ lại có thể nhìn thấy những cảnh tượng đẹp đẽ đến như vậy. Ở những câu thơ này, câu hát gọi cá vẫn tiếp tục được ngân lên. Nước vỗ vào mạn thuyền như đang hòa nhịp cùng bài hát.Xem thêm: Viết đoạn văn từ 4 đến 6 câu sử dụng phép tu từ nhân hóa Khi bóng đêm đang dần tan đi, nhịp độ công việc càng trở nên hối hả và gấp gáp hơn để làm sao cho kịp trời sáng: Sao mờ kéo lưới kịp trời sáng Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng Vảy bạc đuôi vàng lóe rạng đông Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng Đây chính là phần thưởng cho những người ngư dân vì họ đã có 1 đêm đầy nỗ lực trên biển. Dáng người ngư dân nghiêng mình dồn cả sức mạnh vào đôi tay để kéo mẻ cá không khiến cho người ta cảm thấy mệt mỏi mà chỉ thấy niềm vui. Đến khổ thơ cuối cùng, nhịp điệu trở nên chậm rãi hơn, mang đến cho người đọc cảm giác vui tươi. Nó phản ánh đúng tâm trạng thoải mái, phấn khởi của người ngư dân vì đã đạt được kết quả tốt đẹp. Chính vì vậy mà khi đoàn thuyền trở về, họ lại tiếp tục hát vang: Câu hát căng buồm với gió khơi Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời Mặt trời đội biển nhô màu mới Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi Hình ảnh đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời thể hiện rất rõ tính chất công việc của những người ngư dân. Bao giờ cũng vậy, họ đưa thuyền về bờ trước khi trời kịp sáng để người dân có được những mẻ cá tươi ngon nhất. Hình ảnh mặt trời lên cũng huy hoàng chẳng kém gì lúc mặt trời lặn. Nó báo hiệu một ngày mới đến và cũng dự báo cho những buổi đánh cá tốt đẹp tiếp sau. Bài thơ Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận đã thể hiện được tinh thần lao động của con người cũng như cảnh đẹp của quê hương, đất nước. Đất nước chúng ta thật tươi đẹp, con người trong lao động cũng thật đẹp và thật đáng để tự hào. Trên đây là phần hướng dẫn lập dàn ý phân tích bài thơ Đoàn thuyền đánh cá và bài văn mẫu để các em tiện tham khảo. Hy vọng rằng đây sẽ là tài liệu bổ ích giúp các em học tập môn Văn được tốt hơn. Thu Thủy
Phân tích bài thơ Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận Hướng dẫn Bài thơ gồm bảy khổ miêu tả nhiều cảnh của một chuyến ra khơi đánh cá của một đoàn thuyền từ lúc “mặt trời xuống biển” chiều hôm trước, đến tận lúc “mặt trời đội biển nhô màu mới” trở về. Trong đó bốn khổ thơ miêu tả cảnh đánh cá trên biển của đoàn thuyền là hay và đặc sắc hơn cả. Mở đầu đoạn thơ, ta thấy hình ảnh một đoàn thuyền đánh cá bề thế, hùng dũng đang băng băng lướt sóng: Thuyền ta lái giỏ với buồm trăng Lướt giữa mây cao với biển bằng Đoàn thuyền ấy có gió làm lái, có trăng làm buồn. Dường như thiên nhiên cũng hoà vào không khí lao động khẩn trương của đoàn thuyền. Đoàn thuyền ấy “lướt” mây cao với “biển bằng”, lướt một không gian bao la khoáng đạt. Thiên nhiên như mở ra, bát ngát, mênh mông, trên là trơi cao có trăng sáng tỏ, dưới là biển rộng bao la và ở giữa là đoàn thuyền đang lướt nhanh giữa khoảng không cao rộng ấy. Con thuyền như hoà nhập vào thiên nhiên, như không mất hút trong thiên nhiên. Giữa thiên nhiên bao la, con thuyền không hề bị lấn át, không hề trở nên nhỏ bé, trái lại trở thành một hình ảnh trung tâm vừa đẹp vừa khoẻ khoắn, vừa thơ. Đoàn thuyền càng đẹp, càng thơ khi gió biển thổi làm lái dẫn thuyền và trăng đậu trên cánh buồm khiến tác giả tưởng nhưtrăng làm buồm đựng gió kéo thuyền lướt sóng. Con thuyền không phải chỉ của “ta”, của con ngươi, thay thế con người chỉ huy điều khiển con thuyền. Nếu như ở đoạn đầu, thiên nhiên đã chìm vào trạng thái nghỉ ngơi “mặt trơi xuống biển”, “sóng đã cài then, đêm sập cửa”, thì ở đây con người đã đánh thức thiên nhiên, làm sống động vũ trụ, để thiên nhiên, vũ trụ cùng lao động với con người. Lòng tin yêu con người, trí tưởng tượng bay bổng đã giúp nhà thơ xây dựng được một hình ảnh thơ đẹp và nhiều ý nghĩa. Hai câu thơ tiếp đã miêu tả cụ thể những công việc của đoàn thuyền đánh cá: Ra đậu dặm xa dò bụng biển Dàn đan thế trận lưới vây giăng Cồng việc đầu tiên của những người đánh cá là đi tìm luồng cá trong lòng biển. Và giữa biển khơi mênh mông, khi đã tìm được luồng cá, những chiếc thuyền tỏa ra, thả lưới bủa vây. Đó là những công việc, những hoạt động bình thường của người dân chài. Nhưng qua cách miêu tả của tác giả, ta thấy những hoạt động đó giông như những hoạt động chuẩn bị cho một trận đánh. Người dân chài bước vào lao động bình thường như bước vào một trận chiến đấu với vũ khí là những tấm lưới, với sức khoẻ của cơ bắp, với trí thông minh và với tâm thế của người đã nắm chắc phần thắng. Lưới đã thả và đàn cá hiện ra. Những con cá được nhà thơ miêu tả thật đẹp: “Cá nhụ, cá chim cùng cá đé”. Cá có rất nhiều loại và ta có thể nhận thấy, đó là những loại cá rất quý. Trong tầm nhìn, từng đàn cá chen nhau đông đúc. Dưới ánh trăng, thân hình cá lấp lánh lung linh, và giữa các đàn cá đó, nổi bật lên hình ảnh: Cá song lấp lánh đuốc đen hồng Cúi đuôi em quẫy trăng vàng choé Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long Huy Cận đã từng viết: “Cá song đuốc dẫn thơ vào”, và bây giờ ông lại viết: “Cá song lấp lánh đuốc đen hồng”. Câu thơ đã cho ta thấy đầy đủ sắc màu rực rỡ của cá song. Đặc biệt hình ảnh đuôi cá được miêu tả thật độc đáo: Xem thêm: Viết đoạn văn bàn luận vấn đề: Ai cũng có cuộc sống, nhưng chỉ có một số người mới có một cuộc sống đích thực Cúi đuôi em quẫy trăng vàng choé Giữa muôn ngàn cá, con nào cũng đẹp, nhưng cá song nổi bật lên không chỉ ở màu sắc rực rỡ như ngọn đuốc lung linh mà còn ở cử động mềm mại, uyển chuyển như múa. Cử động của cá làm cho trăng đẹp hơn, sáng hơn. Chính cử động ấy đã tạo nên nét thơ mộng làm tâm hồn nhà thơ rung động và bật lên tiếng “em” trìu mến. Trăng đã lên cao, cá đang vào lưới. Người đánh cá cất cao tiếng hát để gọi cá: Ta hát bài ca gọi cá vào Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao Cùng với tiếng hát, ánh trăng cũng “gõ” vào mạn thuyền làm nhịp cho lời hát. Trăng trên cao rất sáng in hình xuống nước. Nước biển đẫm ánh trăng vỗ sóng như gõ nhịp vào mạn thuyền xua cá. Hình ảnh vừa thực vừa hư ảo do trí tưởng tượng phong phú của nhà thơ sáng tạo nên làm cho cảnh lao động vừa đẹp, vừa nên thơ, vừa vui và mang nhiều ý nghĩa. Đắm mình trong cảnh lao động thơ mộng đó, nhà thơ nhận thây “biển như lòng mẹ”. Mẹ là người sinh ra, nuôi nâng, dạy bảo ta. Biển cũng vậy, biển cho ta cá như nguồn sữa mẹ nuôi lớn đời ta: Biển cho ta cá như lòng mẹ Nuôi lớn đời ta tự thuở nào Biển được so sánh như lòng mẹ, biển luôn luôn trư đãi con người. Ta thấy ở đây toát lên lòng yêu mến, biết ơn biển cả của những người đánh cá và của cả nhà thơ. Cá đã vào lưới, trời đã chuyển dần về sáng. Mọi hoạt động càng trở nên khẩn trương gấp rút hơn: Sao mờ, kéo lưới kịp trời sáng Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng Vảy bạc đuôi vàng loé rụng đông Lưới xếp, buồm lên đán nắng hồng… Sao mờ đi, trời sắp sáng. Mẻ lưới cuối cùng được kéo lên. Công việc không nhẹ nhàng chút nào. Người dân chài phải “xoăn tay” kéo lưới vì mẻ lưới đầy cá. Hình ảnh đàn cá trong lưới rực rỡ sắc màu tươi rói lấp lánh bình minh vừa thể hiện sự giàu đẹp của biển quê hương, vừa thể hiện hiệu quả cao của buổi lao động. Và giờ đây công việc đã kết thúc, lưới xếp vào khoang thuyền, buồm lại căng lên rực rỡ đón ánh nắng mặt trời. Thực ra bài thơ có thể kết thúc ở đây vì hình tượng thơ đã được phát triển, nâng cao trọn vẹn. Cả đoạn thơ là bức tranh sơn mài rực rỡ sắc màu, màu của trăng sao, sóng nước, màu của những con cá vảy bạc đuôi vàng, màu của những con người lao động xoăn tay kéo lưới… Đoạn thơ với bút pháp vừa tả thực vừa lãng mạn đã phối hợp hài hoà giữa cảnh thực với sức tưởng tượng bay bổng, giữa chất hiện thực và chất trữ tình, tạo nên những hình ảnh thơ lung linh kì vĩ vừa nhiều tầng bậc ý nghĩa, vừa thấm đậm tình người. Qua đó hình ảnh những người dân chài được nâng lên ngang tầm vũ trụ và công việc đánh cá trở thành công việc nên thơ. Trước Cách mạng thơ Huy Cận thường mang một nỗi buồn u uất. Nhưng từ khi trở thành nhà thơ Cách mạng, Huy Cận say sưa ca ngợi con người mới, cuộc sống mới nên thơ ông trở nên ấm áp, đằm thắm và dào dạt niềm vui. Bài thơ Đoàn thuyền đánh cá ra đời trong mạch cảm xúc ấy nên có thể xem đó là một “món quà đặc biệt của vùng mỏ Hồng Gai – cẩm Phả cho vào túi thơ Huy Cận” (Xuân Diệu). Nguồn: thêm: Văn biểu cảm về sự vật, con người - Tháng ba, rét nàng Bân
Analysis of the poem Fishing Boats by Huy Can Instruct The poem consists of seven stanzas describing many scenes of a fishing trip of a group of boats from the time the "sun set into the sea" the previous afternoon, until the time "the sun brought back a new color to the sea". In which, the four stanzas describing the fishing scene at sea by the fleet of boats are the best and most unique. At the beginning of the poem, we see the image of a majestic and mighty fleet of fishing boats surfing the waves: Our boat sails with moon sails, gliding between high clouds and flat seas That fleet of boats had the wind as their driver and the moon as their sadness. It seems that nature also blends into the urgent working atmosphere of the boat crew. That group of boats "surfed" high clouds with "flat seas", surfing a vast and open space. Nature seems to open up, vast and immense, above is the high sky with a bright moon, below is the vast ocean and in the middle is a group of boats gliding quickly in that high and wide space. The boat seems to blend into nature, as if it is not lost in nature. In the midst of vast nature, the boat is never overwhelmed, never becomes small, but instead becomes a central image that is both beautiful, strong, and poetic. The fleet of boats is even more beautiful and poetic when the sea wind blows to guide the boat and the moon sits on the sail, making the author think that the moon is a sail carrying the wind to pull the boat through the waves. The boat is not just mine, it belongs to the eye, instead of the person who is the commander and controls the boat. If in the first part, nature has sunk into a state of rest "the sun falls into the sea", "the waves have set the bar, the night has closed", then here humans have awakened nature, enlivening the universe. Let nature and the universe work together with humans. Faith and love for people and soaring imagination helped the poet build a beautiful and meaningful poetic image. The next two verses specifically describe the work of the fishing boats: Going out to perch miles away to explore the ocean's belly, forming a seine net The first task of fishermen is to find fish channels in the sea. And in the vast ocean, when they found a fishing channel, the boats spread out and dropped their nets to surround them. Those are the normal jobs and activities of fishermen. But through the author's description, we see that those activities are like preparations for a battle. Fishermen enter normal labor like entering a battle with the weapons of nets, with the strength of their muscles, with intelligence and with the mindset of someone who is sure of victory. The net was cast and the fish appeared. The fish described by the poet are beautiful: "Stupid fish, pomfret fish and small fish". There are many types of fish and we can see that they are very precious fish. As far as I could see, schools of fish crowded together. Under the moonlight, the fish's body sparkles, and among the schools of fish, the image stands out: The grouper fish sparkles with black and pink torches. Bend your tail and wave the golden moon. The night breathes: the stars drive the water of Ha Long Huy Can once wrote: "The torched grouper brings in poetry", and now he writes: "The sparkling grouper fish sparkles with black and pink torches". The poem fully shows us the brilliant colors of grouper fish. In particular, the image of the fish tail is described very uniquely: See more: Write a paragraph discussing the issue: Everyone has a life, but only some people have a true life I bow my tail and wave the golden moon Among thousands of fish, all are beautiful, but the grouper stands out not only in its brilliant colors like a shimmering torch but also in its soft, graceful movements like dancing. The fish's movements make the moon more beautiful and brighter. It is that movement that creates a poetic feature that makes the poet's soul vibrate and make the affectionate "you" sound. The moon has risen, the fish are entering the net. The fisherman raised his voice to call the fish: I sing a song to call the fish in. Knocking on the boat already has the rhythm of the high moon Along with the singing, the moonlight also "taps" on the side of the boat to create a rhythm for the lyrics. The moon high above is very bright, casting its image into the water. The sea water soaked in moonlight waves as if tapping the side of the boat to chase away fish. The image is both real and imaginary created by the poet's rich imagination, making the labor scene both beautiful, poetic, fun and meaningful. Immersed in that poetic scene of labor, the poet realized that "the sea is like a mother's womb". Mother is the one who gives birth, raises, and teaches us. The sea is the same, the sea gives us fish like a source of mother's milk that nourishes our lives: The sea gives us fish like a mother's womb, nourishing our lives since childhood The sea is compared to a mother's womb, the sea always treats people. We see here the love and gratitude for the sea of ​​the fishermen and the poet. The fish have entered the net, the sky has gradually turned to morning. All activities become more and more urgent: The stars are dim, pull the net in time for the morning sun. I curl my hands around the heavy bunch of fish. The silver scales and yellow tails flash in winter. The net is folded and the sail goes up into the pink sunlight... The stars are dim, the sky is about to brighten. The last batch of nets is pulled up. The work is not easy at all. The fishermen had to "twist their hands" to pull the net because the net was full of fish. The image of a school of fish in a brightly colored net sparkling at dawn not only shows the richness and beauty of the homeland's sea, but also shows the high efficiency of the labor session. And now the work is finished, the net is folded into the boat's cabin, the sail is again stretched brightly to welcome the sunlight. In fact, the poem can end here because the poetic image has been fully developed and enhanced. The entire poem is a colorful lacquer painting, the color of the moon and stars, the water waves, the color of silver-scaled fish with yellow tails, the color of workers pulling nets... The poem has the style just described. Realism and romance harmoniously combine real scenes with soaring imagination, between realism and lyricism, creating magnificent, shimmering poetic images that have many layers of meaning and are imbued with human love. . Thereby, the image of fishermen is raised to the level of the universe and fishing becomes a poetic job. Before the Revolution, Huy Can's poetry often carried a melancholic sadness. But since becoming a Revolutionary poet, Huy Can passionately praised the new person and new life, so his poetry became warm, loving and full of joy. The poem The Fishing Boat was born in that emotional vein, so it can be considered a "special gift from the Hong Gai - Cam Pha mining area to put in Huy Can's poetry bag" (Xuan Dieu). Source: more: Expressive writing about things and people - March, cold Ms. Ban
Đề bài: Phân tích bài thơ Đoàn Thuyền Đánh Cá của Huy Cận Bài làm Nhắc đến phong trào Thơ Mới thì không thể không nhắc tới nhà thơ Huy Cận. Từng bài thơ của ông mang những nét đặc sắc riêng biệt và đặc biệt ấm áp hương vị của cuộc sống. Bài thơ Đoàn Thuyền Đánh Cá chính là một trong những sáng tác tiêu biểu của ông. Bài thơ Đoàn Thuyền Đánh Cá được sáng tác vào năm 1958 khi ông đang có một chuyến đi thực tế dài ngày tại Hòn Gai. Tại đây khi được chứng kiến cuộc sống nhộn nhịp của những người dân lao động trong thời kỳ mới đã khiến ông có nguồn cảm hứng để viết nên bài thơ này. Mở đầu bài thơ, với sự quan sát tinh tế của mình, nhà thơ đã vẽ lên trước mắt người đọc khung cảnh một buổi hồng hôn trên biển tuyệt đẹp: “Mặt trời xuống biển như hòn lửa Sóng đã cài then đêm sập cửa Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi Câu hát căng buồm cùng gió khơi” Cảnh hoàn hôn trên biển được tác giả ví von giống với hình ảnh hòn lửa đỏ rực đang lặn dần xuống mặt nước. Kết thúc một ngày, nhà thơ còn ví biển giống như một căn phòng rộng lớn và khi màn đêm buông xuống nghĩa là “Sóng đã cài then đêm sập cửa”. Thông thường đây là khoảng thời gian kết thúc mộc ngày làm việc và mọi người trở về sum họp với nha đình, cùng nhau quây quần bên mâm cơm tối. Nhưng trái lại, đối với người ngư dân thì đây mới là lúc họ bắt tay vào công việc quen thuộc của mình đó chính là ra khơi đánh cá. Những người ngư dân trong khi ra khơi thì cất cao tiếng hát, tiếng hò vang vọng cả vùng biển. Đó là tiếng hát thể hiện niềm vui mừng, hân hoan cho công việc, của người lao động khi được tự do làm công việc của mình. Tiếng hát hòa cùng với gió biển để người ngư dân căng buồm ra khơi:Xem thêm: Nghị luận Tình thương là hạnh phúc của con người Phân tích bài thơ Đoàn Thuyền Đánh Cá “Hát rằng cá bạc biển đông lặng Cá thu biển đông như đoàn thoi Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng Đến dệt lưới ta đoàn cá ơi!” Sự náo nức, say mê đã khiến những cực nhọc, vất vả trong công việc của họ được giảm bớt và đem lại niềm vui cho mọi người. Tiếng hát ngân vang về những loài cá của biển khơi đồng thời thể hiện khát vọng, ước nguyện cuộc đánh cá thu hoạch được nhiều. Huy Cận giống như hòa mình với những người ngư dân, nhập thân vào thiên nhiên để cảm nhận: “Thuyền ta lái gió với buồm trăng Lướt giữa mây cao với biển bằng Ra đậu dặm xa dò bụng biển Dàn đan thế trận lưới vây giăng” Con thuyền vốn nhỏ bé so với đại dương mênh mông. Nhưng trong con mắt của nhà thơ thì con thuyền chở những người ngư dân ấy trở nên kì vĩ, lớn lao. Nó sánh ngang với tầm của thiên nhiên, của vũ trụ. Chính vì thế nhà thơ mới sử dụng những hình ảnh “lái gió”, “buồm trăng”, “biển bằng” để miêu tả về con thuyền giống như đang bay trong không gian chứ không phải đang lướt trên mặt biển. Qua đó ta có thể tưởng tượng thấy cảnh đoàn thuyền đánh cá hào hùng, nhộn nhịp. Biết bao đời nay những người ngư dân đã rất quen thuộc với biển khơi, với cách thức giăng bẫy, đánh bắt cá cũng như những loài cá trên biển:Xem thêm: Giới thiệu về Lăng Lê Thái Tổ (Vĩnh Lăng) “Cá nhụ, cá chim cùng cá đé Cá song lấp lánh đuốc đen hồng Cái đuôi em quẫy trăng vàng choé Đêm thở sao lùa nước Hạ Long” Hai câu thơ ngắn ngủi nhưng tác giả đã gợi mở và giới thiệu được bốn loài cá khác nhau. Giữa không gian rộng lớn của biển khơi và trong màn đêm đen thì những chiếc vảy của cá song lấp lánh, đuôi cá quẫy mặt biển khiến cho ánh trăng tương phản xuống mặt biển trở nên sinh động hơn. Trong khung cảnh ấy màn đêm, những ngôi sao giống như con người, giống như đang thở, những vì sao giống như đang lùa trên mặt biển chứ không phải đang nằm trên bầu trời. Khi sao dần mờ đi nghĩa là trời sắp sáng, bóng đêm cũng dần tàn và khi đó nhịp điệu công việc cũng trở nên khẩn trương hơn: “Sao mờ kéo lưới kịp trời sáng Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng Vẩy bạc đuôi vàng lóe rạng đông Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng” Khi trời gần sáng thì những người ngư dân bắt đầu khẩn trương thu lưới đã giăng. Quá trình lao động miệt mài, hăng say đã được đáp trả bằng thành quả đó chính là “chùm cá nặng”. Dáng vóc của những người ngư dân hiện lên khi kéo lưới thật khỏe khoắn. Một khung cảnh có sự hài hòa giữa con người, thiên nhiên cùng với vẩy cá bạc khiến cho cảnh rạng đông thêm lấp lánh, rực rỡ. Cho đến khổ thơ cuối, Huy Cận đã miêu tả cảnh trở về của đoàn thuyền đánh cá:Xem thêm: Suy nghĩ gì về quan niệm “Mọi phẩm chất của đức hạnh là ở trong hành động” “Câu hát căng buồm cùng gió khơi Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời Mặt trời đội biển nhô màu mới Mắt cá huy hoàng muôn dặm khơi” Vẫn câu hát tươi vui, khỏe khoắn của những người ngư dân. Khi ra khơi họ cất tiếng hát, khi trở về tiếng ca cũng vang lên đầy hứng khởi vì thành quả lao động. Hình ảnh “Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời”. Liên tiếp xuất hiện những hình ảnh mang màu sác tươi sáng, khỏe khoắn, sống động được tác giả nhắc tới đem lại một cảnh tượng huy hoàng, đầy màu sắc. Bài thơ Đoàn Thuyền Đánh Cá chính là một bài ca về cuộc sống lao động trong thế kỉ mới đầy hào hùng, tươi vui. Qua đó ta như thấy được tâm trạng vui vẻ, hứng khởi của tác giả khi được chứng kiến quá trình lao động và cảnh tượng thiên nhiên tươi đẹp trên biển. Loan Trương
Topic: Analysis of the poem Fishing Boats by Huy Can Assignment When talking about the New Poetry movement, it is impossible not to mention poet Huy Can. Each of his poems has its own unique characteristics and is especially warm with the flavor of life. The poem Fishing Boats is one of his typical works. The poem Fishing Boats was composed in 1958 while he was on a long field trip to Hon Gai. Here, when he witnessed the bustling life of working people in the new era, he was inspired to write this poem. At the beginning of the poem, with his subtle observation, the poet paints before the reader the scene of a beautiful pink kiss on the sea: “The sun falls into the sea like a ball of fire Waves were installed then, night slammed the door The fishing boats went out to sea again Wind singing sails along the coast" The author compares the sunset scene at sea to the image of a bright red fireball slowly sinking into the water. At the end of the day, the poet also compared the sea to a large room and when night falls it means "The waves have closed the door at night". Usually this is the time when the working day ends and everyone returns to reunite with their families, gathering around the dinner table. But on the contrary, for fishermen, this is the time they embark on their familiar work, which is going out to sea to fish. While going out to sea, the fishermen sang loudly and their cheers echoed throughout the sea. It is a song that shows joy and joy for work and of workers when they are free to do their work. Singing mixed with the sea breeze for the fishermen to sail out to sea: See more: Essay Love is human happiness Analysis of the poem Fishing Boats “Sing that the silver fish in the winter sea are calm The sea mackerel is crowded like a shuttle Day and night, the sea weaves thousands of rays of light Come and weave your net, my group of fish!” The excitement and passion have reduced the hardships of their work and brought joy to everyone. The singing sings about the fishes of the sea and at the same time expresses the desire and wish for a large harvest of fishing. Huy Can is like mingling with the fishermen, immersing himself in nature to feel: “Our ship sails with the wind with moon sails Surfing between high clouds and flat sea Go out and park miles away to explore the ocean's belly Arrange a siege net" The boat is small compared to the vast ocean. But in the poet's eyes, the boat carrying the fishermen became magnificent and grand. It is on par with nature and the universe. That's why the poet uses the images "driving the wind", "moon sail", "flat sea" to describe the boat as if it were flying in space rather than gliding on the sea surface. Through it we can imagine the heroic and bustling scene of the fishing boats. For generations, fishermen have been very familiar with the sea, with how to set traps, catch fish as well as fish species at sea: See more: Introduction to the Tomb of Le Thai To (Vinh Lang) “Stupid fish, plaice and small fish Grouper fish sparkles with black and pink torches Your tail wags brightly yellow At night, the stars breathe through the water of Ha Long" The two verses are short but the author evokes and introduces four different species of fish. In the vast space of the sea and in the dark night, the grouper's scales sparkle and the fish's tail shakes the sea surface, making the contrast of the moonlight on the sea surface more vivid. In that night scene, the stars look like people, like they are breathing, the stars look like they are moving on the sea surface, not lying in the sky. When the stars gradually dim, it means the sky is about to brighten, the darkness gradually fades and then the rhythm of work also becomes more urgent: “The dim star pulled the net in time for dawn I curled my hand around the heavy bunch of fish Silver scales and golden tail flash at dawn The net to fold the sail up to catch the pink sun" When it was nearly dawn, the fishermen began to quickly collect their nets. The process of hard work and enthusiasm has been rewarded with the result that is "a bunch of heavy fish". The physiques of the fishermen appear when pulling their nets very strongly. A scene of harmony between humans and nature along with silver fish scales makes the dawn scene more sparkling and brilliant. Until the last stanza, Huy Can describes the return of the fishing boat: See more: What do you think about the concept "All virtues are in action" "Wind singing sails along the coast The fleet of boats raced against the sun The sun rises above the sea in a new color "The fish's eyes are glorious across miles of sea" Still the cheerful, healthy song of the fishermen. When they go out to sea, they sing, and when they return, their singing also resounds with excitement because of the fruits of their labor. Image "The fleet of boats racing against the sun". Continuously appearing images with bright, healthy and lively colors mentioned by the author bring a glorious and colorful scene. The poem Fishing Boat Group is a song about working life in the new century full of heroism and joy. Through this, we can see the author's happy and excited mood when witnessing the labor process and the beautiful natural scenery on the sea. Loan Truong
Đề bài: Phân tích bài thơ Đoàn thuyền đánh cá Huy Cận là một trong những nhà thơ tiêu biểu của phong trào Thơ Mới.Sau cách mạng ông nhanh chóng hoà nhập vào công cuộc kháng chiến vĩ đại và trường kì của dân tộc.Hoà bình lập lại,từng trang thơ Huy Cận ấm áp hơi thở của cuộc sống đang lên. Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá”được sáng tác ở Hòn Gai năm 1958 nhân một chuyến đi thực tế dài ngày. Bài thơ thực sư là một bài ca ca ngợi cuộc sống của những con người lao động mới. Với đôi mắt quan sát sắc sảo,trí tưởng tượng phong phú,trái tim nhạy cảm và tài năng nghệ thuật điêu luyện,nhà thơ đã vẽ lên trước mắt chúng ta khung cảnh lao động hăng say trên biển.Cả bài thơ như một bức tranh sơn mài lộng lẫy những sắc màu huyền ảo,cuốn hút vô cùng: Mặt trời xuống biển như hòn lửa Sóng đã cài then đêm sập cửa Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi Câu hát căng buồm với gió khơi. Đoàn thyền đánh cá rời bến vào lúc hoàng hôn,mặt trời như hòn lửa đỏ rực đang lặn dần vào lòng đại dương mênh mông, màn đêm buông xuống,kết thúc một ngày.Biển kín đáo như một gian phòng lớn của thiên nhiên bởi cách nói thật riêng biệt “sóng đã cài then đêm sập cửa”.Chính vào thời điểm ấy, ngư dân bắt tay vào công việc quen thuộc của mình: Ra khơi đánh cá!Mặt biển đêm không lạnh lẽo mà ấm áp hẳn lên bởi tiếng hát âm vang, náo nức, thể hiện niềm vui to lớn của người lao động được giải phóng, tiếng hát hoà cùng gió, thổi căng buồm đưa đoàn thuyền ra khơi.Lời hát ca ngợi sự giàu có và hào phóng của biển cả cùng vẻ đẹp lung linh, diệu kì của nó trong đêm: Hát rằng cá bạc biển đông lặng Cá thu biển đông như đoàn thoi Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng Đến dệt lưới ta đoàn cá ơi! Sự say mê vẻ đẹp của biển đã làm giảm bớt bao nỗi nhọc nhằn vất vả trong việc đánh cá,đem lại niềm vui và sức mạnh cho ngư dân. Cảnh đánh cá trong đêm được nhà thơ miêu tả bằng cảm hứng trữ tình mãnh liệt. Tác giả như nhập thân vào thiên nhiên, công việc,và con người: Thuyền ta lái gió với buồm trăng Lướt giữa mây cao với biển bằng Ra đậu dặm xa dò bụng biển Dàn đan thế trận lưới vây giăng. Con thuyền đánh cá vốn nhỏ bé trước biển cả bao la đã trở thành con thuyền kì vĩ, khổng lồ hoà nhập với kích thước rộng lớn của thiên nhiên, vũ trụ. Con thuyền đó đang bay giữa không gian trong một đêm thuỷ tinh tuyệt đẹp.Những hình ảnh “lái gió”, “buồm trăng”, “ mây cao”, “ biển bằng ”phảng phất phong vị thơ cổ điển nhưng vẫn đậm chất hiện thực.Chuyến ra khơi đánh cá cũng giống như một trận đánh thật sự hào hùng.Cũng thăm dò,cũng dàn đan thế trận và bủa vây bằng…lưới! Đã bao đời nay,ngư dân có quan hệ chặt chẽ với biển cả.Họ thuộc biển như lòng bàn tay, bao loài cá họ thuộc tên,thuộc dáng và thuộc cả thói quen của chúng: Xem thêm: Sách Bồi dưỡng Ngữ văn 9 có viết: "Bài thơ Mùa xuân nho nhỏ... cuộc đời."Hãy phân tích bài thơ Mùa xuân nho nhỏ của nhà thơ Thanh Hải (Ngữ văn 9, tập hai - Nhà xuất bản Giáo dục, 2008) để làm sáng tỏ nhận xét trênCá nhụ cá chim cùng cá đé Cá song lấp lánh đuốc đen hồng Cái đuôi em quẫy trăng vàng choé Đêm thở sao lùa nước Hạ Long. Trên mặt biển đêm,ánh trăng lung linh dát bạc,cá quẫy đuôi sóng sánh trăng vàng,tiếng “em” bật lên tự nhiên, trìu mến.Bài ca gọi cá vẫn tiếp tục ngân vang: lúc náo nức,lúc lại thật tha thiết.Trăng thức cùng ngư dân,trăng cùng sóng dập dờn bên mạn thuyền như gõ nhịp phụ hoạ cho tiếng hát,trăng chiếu sáng cho ngư dân kéo được những mẻ cá đầy …Với ngư dân, biển cả bao la “như lòng mẹ”,bởi vậy thiên nhiên và con người thật hoà hợp,nhịp nhàng.Nhịp điệu công việc càng khẩn trương,sôi nổi khi bóng đêm dần tàn,ngày đang đến: Sao mờ kéo lưới kịp trời sáng Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng Vẩy bạc đuôi vàng loé rạng đông Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng. Bao công lao vất vả đã được đền bù,dáng người ngư dân đang choãi chân, nghiêng người dồn tất cả sức mạnh vào đôi tay cuồn cuộn để kéo lên những mẻ lưới nặng trĩu mới đẹp làm sao!Màu sắc phong phú,lấp lánh vẩy bạc, đuôi vàng của bao loài cá càng khiến cho cảnh rạng đông thêm rực rỡ.Nhịp điệu câu thơ “lưới xếp buồm lên đón nắng hồng ”chậm rãi, gợi cảm giác thanh thản, vui tươi, phán ánh tâm trạng hài lòng của ngư dân trước những kết quả tốt đẹp của chuyến ra khơi. Khổ thơ cuối cùng miêu tả cảnh trở về của đoàn thuyền đánh cá: Câu hát căng buồm với gió khơi Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời Mặt trời đội biển nhô màu mới Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi. Vẫn là tiếng hát khoẻ khoắn của ngư dân dạn dày sông nước đang vươn lên làm chủ cuộc đời.Tiếng hát hoà trong gió,thổi căng buồm đưa đoàn người ra khơi đêm trước nay lại cùng đoàn thuyền đầy ắp cá hân hoan về bến. Hình ảnh “đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời” rất thực mà cũng rất hào hùng.Nó phản ánh một thói quen lâu đời của ngư dân là đưa cá về bến trước khi trời sáng đồng thời cũng hàm ý nói lên khí thế đi lên mạnh mẽ của họ trong công cuộc xây dựng đất nước. Hoà cùng niềm vui to lớn của mọi người,nhà thơ chắp cánh cho trí tưởng tượng của mình bay bổng.Đoàn thuyền đi trên biển,giữa màu hồng rạng rỡ tinh khôi và ánh mặt trời phản chiếu trong muôn ngàn mắt cá khiến nhà thơ liên tưởng đến hàng ngàn những mặt trời nhỏ xíu đang toả rạng nềm vui.Đến đây bức tranh biển cả ngập tràn màu sắc tươi sáng và ăm ắp chất sống trong từng dáng hình,từng đường nét của cảnh, của người. “Đoàn thuyền đánh cá” là một bài ca lao động hứng khởi, hào hùng.Bài ca ấy dành cho biển hào phóng,cho những con người cần cù, gan góc đang làm giàu cho đất nước.Cảm hứng trữ tình và nghệ thuật điêu luyện được tác giả sử dụng trong bài thơ đã cuốn hút người đọc thật sự.Chúng ta cùng chia sẻ niềm vui to lớn với nhà thơ,với tất cả những người lao động mới đang kiêu hãnh ngẩng cao đầu trên con đường đi tới tương lai tươi sáng. Nguồn Edufly Xem thêm: Một hiện tượng phổ biến trong xã hội hiện nay đó là việc xả rác bừa bãi. Em có suy nghĩ gì trước hiện tượng này
Topic: Analysis of the poem The Fishing Boat Huy Can is one of the typical poets of the New Poetry movement. After the revolution, he quickly integrated into the nation's great and long resistance war. Peace was restored, and each page of Huy Can's poetry was warm. The breath of life is rising. The poem "Fishing Boat" was composed in Hon Gai in 1958 during a long field trip. The poem is actually a song praising the lives of new working people. With sharp observation eyes, rich imagination, sensitive heart and skillful artistic talent, the poet has painted before our eyes the scene of enthusiastic labor at sea. The whole poem is like a painting. Splendid lacquer paintings with magical, extremely attractive colors: The sun falls into the sea like a ball of fire Waves were installed then, night slammed the door The fishing boats went out to sea again The song sails with the sea breeze. The fishing boat left the dock at sunset, the sun was like a bright red fire slowly sinking into the vast ocean, night fell, ending the day. The sea was discreet like a large room of nature because a very special way of saying "the waves have closed the door at night". It is at that time that the fishermen embark on their familiar work: Going out to sea to fish! The sea surface at night is not cold but warm because The singing is resounding and exciting, expressing the great joy of the liberated workers. The singing harmonizes with the wind, blowing the sails to take the boats out to sea. The lyrics praise the wealth and generosity of the sea. with its shimmering, magical beauty at night: Sing that the silver fish in the winter sea are calm The sea mackerel is crowded like a shuttle Day and night, the sea weaves thousands of rays of light Come and weave your nets, my group of fish! The passion for the beauty of the sea has reduced the hardships of fishing, bringing joy and strength to fishermen. The night fishing scene is described by the poet with intense lyrical inspiration. The author seems to incarnate into nature, work, and people: Our boat rides the wind with moon sails Surfing between high clouds and flat sea Go out and park miles away to explore the ocean's belly Arrange a siege net. The fishing boat, which was originally small in front of the vast ocean, has become a majestic, giant boat that blends with the vast size of nature and the universe. That boat is flying through space in a beautiful glass night. The images of "driving the wind", "sailing the moon", "high clouds", "flat sea" have a subtle taste of classical poetry but still have a modern quality. Truly, a trip out to sea to fish is like a truly heroic battle. Also exploring, also forming a battle position and besieging with... nets! For many generations, fishermen have had a close relationship with the sea. They know the sea like the back of their hand, they know the names, shapes and habits of many fish species: See more: Literature Training Book 9 writes: "The poem Little Spring... life." Let's analyze the poem Little Spring by poet Thanh Hai (Literature 9, volume two - Publisher Education Edition, 2008) to clarify the above comment: Pomfret fish and flathead fish. Grouper fish sparkles with black and pink torches Your tail wags brightly yellow At night, the stars breathe through the water of Ha Long. On the surface of the sea at night, the moonlight shimmers in silver, the fish shakes its tail in the golden moon waves, the word "you" appears naturally and affectionately. The song calling the fish continues to resonate: sometimes excitedly, sometimes truly forgiving. The moon wakes up with the fishermen, the moon and the waves flutter on the side of the boat as if tapping a rhythm to accompany the singing, the moon shines for the fishermen to pull in a full catch of fish... To the fishermen, the ocean is as vast as a mother's womb. ", so nature and humans are in harmony and rhythm. The rhythm of work becomes more urgent and exciting as the night gradually fades and day comes: The dim star pulled the net in time for dawn I curled my hand around the heavy bunch of fish Silver scales and golden tail flash at dawn The net to fold the sail up to catch the pink sunlight. All the hard work has been rewarded, the figure of the fisherman is spreading his legs and leaning over, putting all his strength into his strong arms to pull up the heavy nets, how beautiful! The colors are rich and sparkling. The silver scales and yellow tails of many species of fish make the dawn scene even more brilliant. The rhythm of the verse "the net is folded up to catch the pink sun" is slow, evoking a feeling of serenity and joy, reflecting a satisfied mood. of fishermen in anticipation of the good results of their trip to sea. The last stanza describes the return of the fishing boat: The song sails with the sea breeze The fleet of boats raced against the sun The sun rises above the sea in a new color The fish's eyes are full of breath. It is still the strong singing voice of seasoned river fishermen who are rising to take control of their lives. The singing is mixed in the wind, blowing the sails that brought the group of people out to sea that night and now happily returning to the harbor with the boat full of fish. The image of "a fleet of boats racing with the sun" is very real but also very heroic. It reflects a long-standing habit of fishermen of bringing fish to the dock before dawn and also implies an upward spirit. their strength in the work of building the country. Joining the great joy of everyone, the poet let his imagination fly. The fleet of boats sailing on the sea, amidst the pure radiant pink color and the sunlight reflected in thousands of fish eyes, made the poet Think of thousands of tiny suns shining happily. Here, the picture of the sea is filled with bright colors and full of life in every shape, every line of the scene, of the people. "The Fishing Boat" is an exciting and heroic labor song. That song is for the generous sea, for the hardworking and courageous people who are enriching the country. Lyrical and artistic inspiration The skillful skill used by the author in the poem has truly captivated the reader. We share great joy with the poet, with all the new workers who are proudly holding their heads high on the road to success. bright future. Source Edufly See more: A common phenomenon in today's society is littering. What do you think about this phenomenon?
Phân tích bài thơ Đây mùa thu tới của Xuân Diệu Hướng dẫn Xuân Diệu được coi là nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới. Đề tài mà Xuân Diệu hướng đến không có gì là xa lạ mới mẻ, ông cảm nhận thiên nhiên trước một nỗi niềm xôn xao bắt nguồn từ cái buồn cô đơn, từ sự khát khao giao cảm với đời chỉ thực sự xuất hiện trong ý thức cá nhân sâu sắc của các nhà thơ mới. Tác phẩm Đây mùa thu tới là một tác phẩm như vậy. Tác giả đã vẻ lên hình tượng mùa thu với dáng vẻ của một thục nữ mỹ miều tha thướt và u buồn, đẹp một vẻ dẹp lãng mạn, cao sang. Nàng thu của Xuân Diệu đang nhón gót trên đường biên của phút giao mùa, từ hạ sang thu. Tác giả đã cảm nhận không khí của mùa thu qua dáng vẻ của rặng liễu bên hồ: Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng Liễu đã xuất hiện nhiều trong thơ ca với những hình ảnh đẹp, thướt tha, trong Truyện Kiều: “Dưới cầu nước chảy trong veo – Bên cầu tơ liễu bóng chiều thướt tha”. Liễu của Xuân Diệu gay gắt hơn: “chịu tang” – một cảm nhận bất ngờ, đẫm màu tang tóc. Song bất ngờ mà vẫn đúng. Lá liễu được so sánh thật tầng lớp, biến hóa: vừa đổ xuống song song như sóng tóc giai nhân, vừa tuôn chảy như dòng lệ ướt. Để nhấn mạnh nỗi tang tóc, Xuân Diệu còn đưa ra một loạt từ láy ầm: “đìu hiu”, “buồn buông”, khiến câu thơ càng bị ru thêm vào một âm điệu thê lương, chua xót. Một lần nữa, tác giả đã khẳng định, rặng liễu đã báo hiệu mùa thu tới Đây mùa thu tới, mùa thu tới Với áo mơ phai dệt lá vàng. Câu thơ vừa như một tiếng reo vui mừng, vừa như một tiếng thở dài, trong tiếng thở dài có tiếng reo thầm, vì mùa thu đâu chỉ mang tới cái buồn lạnh, mà còn chứa đựng cả cái xôn xao của sự sống. Đến câu cuối, mùa thu hiện hình cụ thể hơn “Với áo mơ phai dệt lá vàng”. Hình ảnh thật diễm ảo: mùa thu nhuộm vàng cả đất trời, hay đất trời dệt áo vàng khoác lên nàng thu? Nàng thu bỗng trở nên đẹp lộng lẫy, sang trọng, nhưng nếu tinh ý, ta sẽ nhận ra đó là vẻ đẹp sắp tàn, khiến tiếng reo trong câu thơ ngầm chứa sự thảng thốt lo âu. Cái đẹp xao xác buồn này sẽ định hướng cảm xúc toàn bài, cũng là một khuynh hướng thẩm mĩ quen thuộc của Thơ mới. (Lưu Trọng Lư từng viết: “Em không nghe mùa thu – Lá thu kêu xào xạc – Con nai vàng ngơ ngác – Đạp trên lá vàng khô”. Đẹp quá, mà sao câu thơ như muốn khóc).Xem thêm: Em có suy nghĩ gì về vẻ đẹp tâm hồn của một con người Tác giả đã bắt đầu chú ý hơn đến những gì gần gũi xung quanh mình, và điểm bắt đầu là vườn thu. Hơn một loài hoa đã rụng cành Trong vườn sắc đỏ rủa màu xanh Những luồng run rẩy rung rinh lá Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh. Mùa thu xuất hiện trọn vẹn trong khu vườn mà tác giả đang là trung tâm. Tác giả đã nhận ra một mùa thu buốt lạnh đang bòn rút sự sống của cỏ cây hoa lá, tức là của tạo hóa. Ở câu 2 có một từ đắt: “rủa”, đồng nghĩa với “lấn” (Lá đỏ lấn lá xanh), nhưng, đổi sang “lấn” thì hiệu quả khác hẳn. “Lấn” gợi một hiện tượng thiên nhiên, thiên về miêu tả thực tế. “Rủa” thiên về biểu hiện nội tâm, nên mạnh hơn, nhói buốt hơn, tạo một cảm nhận bỏng rát, đau đớn trước sự tàn phá nghiệt ngã của thiên nhiên. Nguyễn Gia Thiều cũng tùng có một câu thơ dữ dội như thế: “Sương như búa bổ mòn gốc liễu” (Cung oán ngâm khúc). Trong sự trầm tư suy nghĩa về mùa thu, nhà thơ nhận thấy gió cũng như là vật hữu hình. Ngọn gió thổi ra từ cổ thi từng rất buồn: “Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu” (Thu vịnh – Nguyễn Khuyến), nhưng là cái buồn trong tiếng thở dài yếu ớt. Gió Xuân Diệu run lên bần bật bởi 4 phụ âm “r” (run rẩy, rung rinh) làm câu thơ buốt đến tái tê. Vũ Quần Phương quả là tinh tế khi cho răng hiệu quả câu thơ không chỉ tả gió mà còn gọi rét. Hình ảnh cành cây trong ca dao cũng rất đắm say: “Gió đưa cành trúc la đà”. Nguyễn Khuyến đã ghê, gọt nhỏ cái “cành” trong ca dao thành cái “cần” trong Thu vịnh (Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu). Xuân Diệu lại đẩy tiếp “cần” của Nguyễn Khuyến thành “nhánh” và “xương” đầy chất tạo hình, gây ấn tượng thị giác rất mạnh: chạm khắc vào trời thu hình ảnh cây cối quắt queo như dẻ xương gầy. Mùa thu héo quắt thêm trong hồn thơ Xuân Diệu.Xem thêm: Người ta thấy ở văn xuôi Nguyễn Ái Quốc "một nghệ thuật trần thuật linh hoạt độc đáo và một ngòi bút châm biếm vừa sâu sắc đầy tính chiến đấu, vừa tươi tắn, hóm hỉnh”. Hãy chứng tỏ điều đó qua truyện ngắn Vi hành Càng ngắm khung cảnh trời thu, tác giả lại càng có trạng thái u uất hơn, trùm lên cả đất trời rộng lớn. Điều độc đáo là Xuân Diệu xen kề đất và trời thành những cặp đôi song song đi suốt hai khổ thơ cuối. Bầu trời hiện lên trước mắt nhà thơ thật đẹp có trăng, mây và chấp chới cánh chim. Câu thơ tả trăng có một âm điệu rất hay: “Thỉnh thoảng nàng trăng tự ngẩn ngơ”. Câu chữ và hình ảnh ngồ ngộ, ngơ ngác thế nào. Sao lại “thỉnh thoảng”? Sao lại “tự ngẩn ngơ”? Hoài Thanh bắt rất tinh đặc điểm này của Xuân Diệu: “Ngay lời văn của Xuân Diệu cũng có vẻ chơi vơi. Xuân Diệu viết văn tựa như trẻ con học nói hay người ngoại quốc mới võ vẽ tiếng Nam. Câu văn tuồng bỡ ngỡ. Nhưng cái dáng bỡ ngỡ ấy chính là chỗ Xuân Diệu hơn người”. Đúng thế. Đọc kĩ, mới thấy câu thơ Xuân Diệu rất tinh và rất nghịch, vì nó đột ngột “bắt quả tang” một trạng thái mơ màng, ngơ ngẩn của nàng trăng. Có điều, Xuân Diệu bắt quả tang thiên nhiên hay chính cõi lòng mình? Từ cánh chim trốn rét, Xuân Diệu chợt hốt hoảng khi nhận ra điều đáng sợ đang xảy ra giữa đất trời: “Khí trời u uất hận chia li”. Nỗi đau li tán dằn xuống trong thanh trắc của chữ “hận” như tiếng nấc trước một vũ trụ dường như trống rỗng. Khung cảnh mùa thu đã làm cho con người và vạn vật đều buồn, bầu trời và mặt đất đều có chung tâm trạng buồn: Đã nghe rét mướt luồn trong gió Tác giả đã dùng từ “luồn” thật tinh diệu, gợi cho người đọc có cảm giác nhìn thấy được cái rét mướt đang hiện hữu hình. Đúng là cái rét đang tàng hình trong tiết chớm thu, mà chỉ người nghệ sĩ – vốn là nhà bác học của các giác quan mới phát hiện được. Nhưng hình ảnh con người đột ngột xuất hiện trong hai câu kết mới là cái nấc cao nhất của cảm giác thu Xuân Diệu:Xem thêm: Miêu tả một cảnh đẹp gần gũi, giản dị em đã thường được ngắm nhìn (góc phố nơi em ở, con đường em đi học, cánh đồng quê em, ...) Ít nhiều thiếu nữ buồn không nói Tựa cửa nhìn xa nghĩ ngợi gì? Nàng thu hiện lên trong bóng dáng của một nàng thiếu nữ đẹp. Tất cả cảm giác thu quy tụ vào đây. Thơ Xuân Diệu dẫu có nói trời mây non nước gì cuối cùng cũng kết lại nơi con người, nơi tuổi trẻ, nơi những thiếu nữ vừa chạm bước vào ngưỡng cửa cuộc đời, vừa ngơ ngác vừa khao khát – khao khát yêu đương, khao khát giao cảm với cuộc đời rộng lớn. Hai câu thơ man mác trong trạng thái mơ hồ không xác định, rất hợp với tâm hồn bâng khuâng của lứa tuổi này; con số không xác định (ít nhiều), nỗi buồn thầm lặng không duyên cớ (buồn không nói). Bức tranh thu của Xuân Diệu là sự thám hiểm phút chuyển mình cũ mà mới mẻ của thời gian từ hè sang thu, từ nóng sang lạnh bằng những giác quan tinh tế (thị giác, xúc giác), tạo những rung động thâm mĩ. Đó là một cống hiến quý báu của thi sĩ trong việc khám phá thiên nhiên bằng nghệ thuật thơ ca. Linh hồn bức tranh là một tình thu buồn vắng cô đơn. Thứ nhất, do trạng thái riêng của mùa thu. Thu không ồn ào như hạ, tê tái như đông, tươi tắn như xuân mà êm lắng u sầu một cách mơ màng, dễ gợi hồn thơ hướng nội. Thứ hai, nỗi buồn thu gặp nỗi sầu tuổi trẻ của thời vong quốc, ngơ ngác trước ngưỡng cửa vào đời, càng khao khát nhập vào đời càng bị đẩy vào cô đơn. Cái lạnh thu là cái lạnh của linh hồn cô đơn đang “thả ra những tiếng thở dài để gọi nhau” (Xuân Diệu). Giá trị nhân bản của bài thơ là ở nỗi buồn trong sáng ấy. Đây mùa thu tới gợi cho người đọc cảm nhận được mùa thu đẹp mà buồn. Bài thơ thể hiện sự mới mẻ cả nghệ thuật và nội dung, thể hiện sự cô đơn, niềm khát khao giao cảm với đời của nhà thơ. Nguồn:
Phân tích bài thơ Đây mùa thu tới của Xuân Diệu Hướng dẫn Xuân Diệu được coi là nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới. Đề tài mà Xuân Diệu hướng đến không có gì là xa lạ mới mẻ, ông cảm nhận thiên nhiên trước một nỗi niềm xôn xao bắt nguồn từ cái buồn cô đơn, từ sự khát khao giao cảm với đời chỉ thực sự xuất hiện trong ý thức cá nhân sâu sắc của các nhà thơ mới. Tác phẩm Đây mùa thu tới là một tác phẩm như vậy. Tác giả đã vẻ lên hình tượng mùa thu với dáng vẻ của một thục nữ mỹ miều tha thướt và u buồn, đẹp một vẻ dẹp lãng mạn, cao sang. Nàng thu của Xuân Diệu đang nhón gót trên đường biên của phút giao mùa, từ hạ sang thu. Tác giả đã cảm nhận không khí của mùa thu qua dáng vẻ của rặng liễu bên hồ: Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng Liễu đã xuất hiện nhiều trong thơ ca với những hình ảnh đẹp, thướt tha, trong Truyện Kiều: “Dưới cầu nước chảy trong veo – Bên cầu tơ liễu bóng chiều thướt tha”. Liễu của Xuân Diệu gay gắt hơn: “chịu tang” – một cảm nhận bất ngờ, đẫm màu tang tóc. Song bất ngờ mà vẫn đúng. Lá liễu được so sánh thật tầng lớp, biến hóa: vừa đổ xuống song song như sóng tóc giai nhân, vừa tuôn chảy như dòng lệ ướt. Để nhấn mạnh nỗi tang tóc, Xuân Diệu còn đưa ra một loạt từ láy ầm: “đìu hiu”, “buồn buông”, khiến câu thơ càng bị ru thêm vào một âm điệu thê lương, chua xót. Một lần nữa, tác giả đã khẳng định, rặng liễu đã báo hiệu mùa thu tới Đây mùa thu tới, mùa thu tới Với áo mơ phai dệt lá vàng. Câu thơ vừa như một tiếng reo vui mừng, vừa như một tiếng thở dài, trong tiếng thở dài có tiếng reo thầm, vì mùa thu đâu chỉ mang tới cái buồn lạnh, mà còn chứa đựng cả cái xôn xao của sự sống. Đến câu cuối, mùa thu hiện hình cụ thể hơn “Với áo mơ phai dệt lá vàng”. Hình ảnh thật diễm ảo: mùa thu nhuộm vàng cả đất trời, hay đất trời dệt áo vàng khoác lên nàng thu? Nàng thu bỗng trở nên đẹp lộng lẫy, sang trọng, nhưng nếu tinh ý, ta sẽ nhận ra đó là vẻ đẹp sắp tàn, khiến tiếng reo trong câu thơ ngầm chứa sự thảng thốt lo âu. Cái đẹp xao xác buồn này sẽ định hướng cảm xúc toàn bài, cũng là một khuynh hướng thẩm mĩ quen thuộc của Thơ mới. (Lưu Trọng Lư từng viết: “Em không nghe mùa thu – Lá thu kêu xào xạc – Con nai vàng ngơ ngác – Đạp trên lá vàng khô”. Đẹp quá, mà sao câu thơ như muốn khóc).Xem thêm: Em có suy nghĩ gì về vẻ đẹp tâm hồn của một con người Tác giả đã bắt đầu chú ý hơn đến những gì gần gũi xung quanh mình, và điểm bắt đầu là vườn thu. Hơn một loài hoa đã rụng cành Trong vườn sắc đỏ rủa màu xanh Những luồng run rẩy rung rinh lá Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh. Mùa thu xuất hiện trọn vẹn trong khu vườn mà tác giả đang là trung tâm. Tác giả đã nhận ra một mùa thu buốt lạnh đang bòn rút sự sống của cỏ cây hoa lá, tức là của tạo hóa. Ở câu 2 có một từ đắt: “rủa”, đồng nghĩa với “lấn” (Lá đỏ lấn lá xanh), nhưng, đổi sang “lấn” thì hiệu quả khác hẳn. “Lấn” gợi một hiện tượng thiên nhiên, thiên về miêu tả thực tế. “Rủa” thiên về biểu hiện nội tâm, nên mạnh hơn, nhói buốt hơn, tạo một cảm nhận bỏng rát, đau đớn trước sự tàn phá nghiệt ngã của thiên nhiên. Nguyễn Gia Thiều cũng tùng có một câu thơ dữ dội như thế: “Sương như búa bổ mòn gốc liễu” (Cung oán ngâm khúc). Trong sự trầm tư suy nghĩa về mùa thu, nhà thơ nhận thấy gió cũng như là vật hữu hình. Ngọn gió thổi ra từ cổ thi từng rất buồn: “Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu” (Thu vịnh – Nguyễn Khuyến), nhưng là cái buồn trong tiếng thở dài yếu ớt. Gió Xuân Diệu run lên bần bật bởi 4 phụ âm “r” (run rẩy, rung rinh) làm câu thơ buốt đến tái tê. Vũ Quần Phương quả là tinh tế khi cho răng hiệu quả câu thơ không chỉ tả gió mà còn gọi rét. Hình ảnh cành cây trong ca dao cũng rất đắm say: “Gió đưa cành trúc la đà”. Nguyễn Khuyến đã ghê, gọt nhỏ cái “cành” trong ca dao thành cái “cần” trong Thu vịnh (Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu). Xuân Diệu lại đẩy tiếp “cần” của Nguyễn Khuyến thành “nhánh” và “xương” đầy chất tạo hình, gây ấn tượng thị giác rất mạnh: chạm khắc vào trời thu hình ảnh cây cối quắt queo như dẻ xương gầy. Mùa thu héo quắt thêm trong hồn thơ Xuân Diệu.Xem thêm: Người ta thấy ở văn xuôi Nguyễn Ái Quốc "một nghệ thuật trần thuật linh hoạt độc đáo và một ngòi bút châm biếm vừa sâu sắc đầy tính chiến đấu, vừa tươi tắn, hóm hỉnh”. Hãy chứng tỏ điều đó qua truyện ngắn Vi hành Càng ngắm khung cảnh trời thu, tác giả lại càng có trạng thái u uất hơn, trùm lên cả đất trời rộng lớn. Điều độc đáo là Xuân Diệu xen kề đất và trời thành những cặp đôi song song đi suốt hai khổ thơ cuối. Bầu trời hiện lên trước mắt nhà thơ thật đẹp có trăng, mây và chấp chới cánh chim. Câu thơ tả trăng có một âm điệu rất hay: “Thỉnh thoảng nàng trăng tự ngẩn ngơ”. Câu chữ và hình ảnh ngồ ngộ, ngơ ngác thế nào. Sao lại “thỉnh thoảng”? Sao lại “tự ngẩn ngơ”? Hoài Thanh bắt rất tinh đặc điểm này của Xuân Diệu: “Ngay lời văn của Xuân Diệu cũng có vẻ chơi vơi. Xuân Diệu viết văn tựa như trẻ con học nói hay người ngoại quốc mới võ vẽ tiếng Nam. Câu văn tuồng bỡ ngỡ. Nhưng cái dáng bỡ ngỡ ấy chính là chỗ Xuân Diệu hơn người”. Đúng thế. Đọc kĩ, mới thấy câu thơ Xuân Diệu rất tinh và rất nghịch, vì nó đột ngột “bắt quả tang” một trạng thái mơ màng, ngơ ngẩn của nàng trăng. Có điều, Xuân Diệu bắt quả tang thiên nhiên hay chính cõi lòng mình? Từ cánh chim trốn rét, Xuân Diệu chợt hốt hoảng khi nhận ra điều đáng sợ đang xảy ra giữa đất trời: “Khí trời u uất hận chia li”. Nỗi đau li tán dằn xuống trong thanh trắc của chữ “hận” như tiếng nấc trước một vũ trụ dường như trống rỗng. Khung cảnh mùa thu đã làm cho con người và vạn vật đều buồn, bầu trời và mặt đất đều có chung tâm trạng buồn: Đã nghe rét mướt luồn trong gió Tác giả đã dùng từ “luồn” thật tinh diệu, gợi cho người đọc có cảm giác nhìn thấy được cái rét mướt đang hiện hữu hình. Đúng là cái rét đang tàng hình trong tiết chớm thu, mà chỉ người nghệ sĩ – vốn là nhà bác học của các giác quan mới phát hiện được. Nhưng hình ảnh con người đột ngột xuất hiện trong hai câu kết mới là cái nấc cao nhất của cảm giác thu Xuân Diệu:Xem thêm: Miêu tả một cảnh đẹp gần gũi, giản dị em đã thường được ngắm nhìn (góc phố nơi em ở, con đường em đi học, cánh đồng quê em, ...) Ít nhiều thiếu nữ buồn không nói Tựa cửa nhìn xa nghĩ ngợi gì? Nàng thu hiện lên trong bóng dáng của một nàng thiếu nữ đẹp. Tất cả cảm giác thu quy tụ vào đây. Thơ Xuân Diệu dẫu có nói trời mây non nước gì cuối cùng cũng kết lại nơi con người, nơi tuổi trẻ, nơi những thiếu nữ vừa chạm bước vào ngưỡng cửa cuộc đời, vừa ngơ ngác vừa khao khát – khao khát yêu đương, khao khát giao cảm với cuộc đời rộng lớn. Hai câu thơ man mác trong trạng thái mơ hồ không xác định, rất hợp với tâm hồn bâng khuâng của lứa tuổi này; con số không xác định (ít nhiều), nỗi buồn thầm lặng không duyên cớ (buồn không nói). Bức tranh thu của Xuân Diệu là sự thám hiểm phút chuyển mình cũ mà mới mẻ của thời gian từ hè sang thu, từ nóng sang lạnh bằng những giác quan tinh tế (thị giác, xúc giác), tạo những rung động thâm mĩ. Đó là một cống hiến quý báu của thi sĩ trong việc khám phá thiên nhiên bằng nghệ thuật thơ ca. Linh hồn bức tranh là một tình thu buồn vắng cô đơn. Thứ nhất, do trạng thái riêng của mùa thu. Thu không ồn ào như hạ, tê tái như đông, tươi tắn như xuân mà êm lắng u sầu một cách mơ màng, dễ gợi hồn thơ hướng nội. Thứ hai, nỗi buồn thu gặp nỗi sầu tuổi trẻ của thời vong quốc, ngơ ngác trước ngưỡng cửa vào đời, càng khao khát nhập vào đời càng bị đẩy vào cô đơn. Cái lạnh thu là cái lạnh của linh hồn cô đơn đang “thả ra những tiếng thở dài để gọi nhau” (Xuân Diệu). Giá trị nhân bản của bài thơ là ở nỗi buồn trong sáng ấy. Đây mùa thu tới gợi cho người đọc cảm nhận được mùa thu đẹp mà buồn. Bài thơ thể hiện sự mới mẻ cả nghệ thuật và nội dung, thể hiện sự cô đơn, niềm khát khao giao cảm với đời của nhà thơ. Nguồn:
Bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ là một sáng tác của nhà thơ Hàn Mạc Tử. Bài thơ như một bức tranh vừa tả cảnh, vừa tả tình vô cùng độc đáo. Tình cảm trong bài thơ chan chứa nhưng được bộc lộ khá kín đáo và nhẹ nhàng. Trong bài viết này, chúng ta sẽ cùng nhau lập dàn ý và phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ để có thể cảm nhận được rõ nét nhất vẻ đẹp của tác phẩm cũng như tài năng sáng tác của Hàn Mạc Tử. I. Lập dàn ý phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ 1. Mở bài – Giới thiệu về tác phẩm Đây thôn Vĩ Dạ và tác giả Hàn Mạc Tử. Bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ là một bức tranh về cảnh vật ở Huế vô cùng tươi đẹp. Trong đó có hình ảnh con người xuất hiện với một tình yêu chưa được trọn vẹn. 2. Thân bài – Những cảm xúc sâu sắc trong bài thơ hòa nhập với bức tranh thiên nhiên tươi đẹp nơi thôn Vĩ. + Bức tranh thiên nhiên rộng lớn, có sự xuất hiện của con người. + Những hình ảnh tươi đẹp, nhẹ nhàng: hàng cau, vườn cúc. Không gian thiên nhiên, cảnh vật, con người hòa vào với nhau tạo nên một bức tranh nhẹ nhàng. + Nỗi buồn và cô đơn của nhà thơ khi phải rời xa những cảnh đẹp này. + Cảm xúc của nhà thơ khi trở về xứ Huế, tâm trạng nhuồm màu lên cảnh vật khiến cho cảnh vật cũng mang một nét buồn thương. + Những cảm xúc của nhà thơ khi nhớ về khung cảnh cũ của thiên nhiên. + Đứng trước không gian, mọi thứ trở nên mơ ảo. + Đứng trước sự mơ ảo của không gian và thời gian, tình cảm của con người cũng trở nên mơ ảo. + Những xúc cảm đặc biệt của con người trước không gian thiên nhiên. + Những cảm xúc chân thành của tác giả. 3. Kết luận Tổng quát lại những nội dung đã phân tích, nêu bật lên nội dung trọng tâm mà bài thơ mang đến cho người đọc: không gian thiên nhiên rộng lớn, tình cảm, cảm xúc của con người. Bài viết liên quan: >> Phân tích bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu (có dàn ý chi tiết) Xem thêm: Bình giảng bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu II. Bài làm phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ Hàn Mạc Tử từ lâu đã là cái tên quen thuộc của thi ca Việt Nam. Hàn Mạc Tử làm thơ khá nhiều và mặc dù những vần thơ của ông đượm buồn nhưng nó vẫn là những bài thơ hay và mang đến cho người đọc nhiều cảm xúc. Bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ chính là một trong những sáng tác độc đáo của ông. Bài thơ nhẹ nhàng, tinh tế nhưng cũng có những nét khiến cho người đọc phải tò mò. Thậm chí cho tới bây giờ vẫn có rất nhiều tranh cãi về nội dung của bài thơ này. Đây thôn Vĩ Dạ được Hàn Mạc Tử sáng tác khi ông đang bệnh nặng. Cảm giác về cuộc đời ngắn ngủi, nuối tiếc vì một tình yêu không trọn vẹn, lời bài thơ như một bức thư để nhà thơ nhắn gửi tâm tình vào đó. Thế cho nên, những câu thơ mở đầu mới như một lời trách móc. Nhưng trong sự giận hờn và trách móc ấy, chúng ta thấy được một tình yêu thầm lặng: Sao anh không về chơi thôn Vĩ? Phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ Con gái đang yêu thường đỏng đảnh, thường hay giận hờn. Và câu trách móc này hẳn là của một cô gái đang yêu. Vì sao thôn Vĩ đẹp như vậy mà anh lại không về chơi? Hẳn là giữa hai người đã có những lời ước hẹn nào đó. Vậy nên người con gái mới chờ đợi tới ngày chàng trai quay trở về. Hoặc nếu không thì với những cảnh đẹp nơi thôn Vĩ như vậy, ít ra chàng trai cũng sẽ vì cảnh mà quay lại: Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên Vườn ai mướt quá xanh như ngọc Lá trúc che ngang mặt chữ điền. Ba câu thơ miêu tả thật xuất sắc cảnh đẹp của buổi sáng sớm nôn thôn Vĩ. Thôn quê chẳng có gì ngoài vườn cây và những hàng cao tít lên tận mây xanh. Nhưng dưới cái nắng sớm mai, chúng hiện lên long lanh như một viên ngọc quý. Nắng hàng cau, nắng mới chỉ chạm tới ngọn cau thôi, ánh sáng của nó vẫn còn khá là dịu nhẹ. Có lẽ đó là thời điểm nắng đẹp nhất trong ngày nơi thôn Vĩ. Nắng nhè nhẹ nhưng đủ để làm cho khu vườn trở nên long lanh và xanh mướt. Những giọt sương ban mai còn đọng lại trên những chiếc lá, gặp nắng sớm chúng trở nên long lanh như ngọc. Phải yêu thôn Vĩ và có cái nhìn tinh tế lắm thì Hàn Mạc Tử mới có thể viết nên được những vần thơ như vậy. Nhưng thôn Vĩ đẹp đâu chỉ bởi cảnh vật, thôn Vĩ đẹp còn bởi con người ở trong đó. Con người ở đây có khuôn mặt chữ điền. Không được miêu tả rõ nét từng chi tiết nhưng qua câu thơ Lá trúc che ngang mặt chữ điền, chúng ta cũng cảm nhận được rằng đây là khuôn mặt đẹp. Lông mày hình lá liễu, khuôn mặt vuông chữ điền, đó là chuẩn mực của cái đẹp khi xưa.Xem thêm: Bình giảng bài thơ “Chạy giặc" của Nguyễn Đình Chiểu. Những câu thơ đang tràn đầy sức sống và sự tươi mới thì bỗng dưng chùng hẳn xuống, lạc đi và mang một nét buồn: Gió theo lối gió mây đường mây Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay Thuyền ai đậu bến sông trăng đó Có chở trăng về kịp tối nay Chúng ta vẫn biết gió thổi thì mây bay có nghĩa là gió và mây luôn quấn quýt bên nhau, chung lối với nhau. Thế nhưng trong thơ của Hàn Mạc Tự, mây và gió đang tách ra đi theo những hướng khác nhau. Gió đi lối của gió, mây đi lối của mây. Đó là một sự chia li bất thường và nó khiến cho người ta thật đau lòng. Cả khổ thơ chỉ có 4 câu, mỗi câu chỉ có 7 chữ mà câu thơ nào cũng chất chứa nỗi buồn. Câu thơ Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay khiến cho người đọc cảm nhận một cái gì đó như đang vỡ tan ra. Sự vụn vỡ của thiên nhiên, sự chia cách của thiên nhiên sao mà đau lòng đến vậy. Nhưng đau lòng hơn cả là sự chia cắt của con người. Một nỗi hoài nghi được nhà thơ đưa ra, liệu rằng thuyền ai có kịp chở trăng về nơi này hay không? Câu thơ mang hình ảnh kì ảo và có chút mơ hồ. Mặc dù thuyền và trăng là hai hình ảnh vốn quen thuộc trong thơ Hàn Mạc Tử thế nhưng ở đây con thuyền không phải thuyền bình thường nữa mà nó đã là con thuyền trăng. Và vì vậy, dòng sông cũng đã trở thành dòng sông trăng. Có về kịp hay không mà về kịp để làm gì? Có lẽ chỉ có tác giả mới có thể trả lời được. Hoặc giả, nhà thơ cũng không biết, không rõ, một sự mơ hồ, một cái gì đó chất chứa trong lòng mà không thể nào diễn tả ra được.Xem thêm: Tả khu vui chơi giải trí mà em thích Sự kì ảo vẫn tiếp tục bao trùm lên khổ thơ cuối cùng: Mơ khách đường xa khách đường xa Áo em trắng quá nhìn không ra Ở đây sương khói mờ nhân ảnh Ai biết tình ai có đậm đà. Người ta thường mơ thấy những điều khiến họ đã suy nghĩ quá nhiều. Phải chăng ở đây, nhà thơ đã nghĩ quá nhiều đến khách đường xa nên mới mơ tới hình ảnh khách đường xa? Ảo ảnh mộng mị, người em trong màu áo trắng vừa rõ nét, vừa mờ ảo khiến cho nhà thơ không thể nào nhìn rõ. Lại thêm sự kết hợp của sương khói lại càng khiến cho mọi thứ nhòe đi. Cảnh mờ, liệu tình người có đậm đà? Một câu hỏi tu từ vẫn còn đang bỏ ngỏ. Có lẽ, chính nhà thơ cũng đang đi tìm câu trả lời. Bài thơ miêu tả cảnh đẹp của xứ Huế nhưng lại mang đến cho người đọc cảm giác mơ hồ về sự chia ly. Nhà thơ như đang ngờ vực vào tình cảm của người con gái Huế. Bài thơ cho ta cảm nhận sâu sắc về tình cảm của nhà thơ và thương cho những đắng cay mà ông đã phải trải qua. Nét đặc sắc của bài thơ này chính là ở những câu hỏi tu từ và những hình ảnh miêu tả đặc sắc. Trên đây, chúng ta đã cùng nhau tìm hiểu dàn ý cũng như bài văn mẫu phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của nhà thơ Hàn Mạc Tử. Hy vọng rằng bài văn mẫu này sẽ giúp các em có thêm những gợi ý để áp dụng cho bài làm của mình. Thu Thủy
Bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ là một sáng tác của nhà thơ Hàn Mạc Tử. Bài thơ như một bức tranh vừa tả cảnh, vừa tả tình vô cùng độc đáo. Tình cảm trong bài thơ chan chứa nhưng được bộc lộ khá kín đáo và nhẹ nhàng. Trong bài viết này, chúng ta sẽ cùng nhau lập dàn ý và phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ để có thể cảm nhận được rõ nét nhất vẻ đẹp của tác phẩm cũng như tài năng sáng tác của Hàn Mạc Tử. I. Lập dàn ý phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ 1. Mở bài – Giới thiệu về tác phẩm Đây thôn Vĩ Dạ và tác giả Hàn Mạc Tử. Bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ là một bức tranh về cảnh vật ở Huế vô cùng tươi đẹp. Trong đó có hình ảnh con người xuất hiện với một tình yêu chưa được trọn vẹn. 2. Thân bài – Những cảm xúc sâu sắc trong bài thơ hòa nhập với bức tranh thiên nhiên tươi đẹp nơi thôn Vĩ. + Bức tranh thiên nhiên rộng lớn, có sự xuất hiện của con người. + Những hình ảnh tươi đẹp, nhẹ nhàng: hàng cau, vườn cúc. Không gian thiên nhiên, cảnh vật, con người hòa vào với nhau tạo nên một bức tranh nhẹ nhàng. + Nỗi buồn và cô đơn của nhà thơ khi phải rời xa những cảnh đẹp này. + Cảm xúc của nhà thơ khi trở về xứ Huế, tâm trạng nhuồm màu lên cảnh vật khiến cho cảnh vật cũng mang một nét buồn thương. + Những cảm xúc của nhà thơ khi nhớ về khung cảnh cũ của thiên nhiên. + Đứng trước không gian, mọi thứ trở nên mơ ảo. + Đứng trước sự mơ ảo của không gian và thời gian, tình cảm của con người cũng trở nên mơ ảo. + Những xúc cảm đặc biệt của con người trước không gian thiên nhiên. + Những cảm xúc chân thành của tác giả. 3. Kết luận Tổng quát lại những nội dung đã phân tích, nêu bật lên nội dung trọng tâm mà bài thơ mang đến cho người đọc: không gian thiên nhiên rộng lớn, tình cảm, cảm xúc của con người. Bài viết liên quan: >> Phân tích bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu (có dàn ý chi tiết) Xem thêm: Bình giảng bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu II. Bài làm phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ Hàn Mạc Tử từ lâu đã là cái tên quen thuộc của thi ca Việt Nam. Hàn Mạc Tử làm thơ khá nhiều và mặc dù những vần thơ của ông đượm buồn nhưng nó vẫn là những bài thơ hay và mang đến cho người đọc nhiều cảm xúc. Bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ chính là một trong những sáng tác độc đáo của ông. Bài thơ nhẹ nhàng, tinh tế nhưng cũng có những nét khiến cho người đọc phải tò mò. Thậm chí cho tới bây giờ vẫn có rất nhiều tranh cãi về nội dung của bài thơ này. Đây thôn Vĩ Dạ được Hàn Mạc Tử sáng tác khi ông đang bệnh nặng. Cảm giác về cuộc đời ngắn ngủi, nuối tiếc vì một tình yêu không trọn vẹn, lời bài thơ như một bức thư để nhà thơ nhắn gửi tâm tình vào đó. Thế cho nên, những câu thơ mở đầu mới như một lời trách móc. Nhưng trong sự giận hờn và trách móc ấy, chúng ta thấy được một tình yêu thầm lặng: Sao anh không về chơi thôn Vĩ? Phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ Con gái đang yêu thường đỏng đảnh, thường hay giận hờn. Và câu trách móc này hẳn là của một cô gái đang yêu. Vì sao thôn Vĩ đẹp như vậy mà anh lại không về chơi? Hẳn là giữa hai người đã có những lời ước hẹn nào đó. Vậy nên người con gái mới chờ đợi tới ngày chàng trai quay trở về. Hoặc nếu không thì với những cảnh đẹp nơi thôn Vĩ như vậy, ít ra chàng trai cũng sẽ vì cảnh mà quay lại: Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên Vườn ai mướt quá xanh như ngọc Lá trúc che ngang mặt chữ điền. Ba câu thơ miêu tả thật xuất sắc cảnh đẹp của buổi sáng sớm nôn thôn Vĩ. Thôn quê chẳng có gì ngoài vườn cây và những hàng cao tít lên tận mây xanh. Nhưng dưới cái nắng sớm mai, chúng hiện lên long lanh như một viên ngọc quý. Nắng hàng cau, nắng mới chỉ chạm tới ngọn cau thôi, ánh sáng của nó vẫn còn khá là dịu nhẹ. Có lẽ đó là thời điểm nắng đẹp nhất trong ngày nơi thôn Vĩ. Nắng nhè nhẹ nhưng đủ để làm cho khu vườn trở nên long lanh và xanh mướt. Những giọt sương ban mai còn đọng lại trên những chiếc lá, gặp nắng sớm chúng trở nên long lanh như ngọc. Phải yêu thôn Vĩ và có cái nhìn tinh tế lắm thì Hàn Mạc Tử mới có thể viết nên được những vần thơ như vậy. Nhưng thôn Vĩ đẹp đâu chỉ bởi cảnh vật, thôn Vĩ đẹp còn bởi con người ở trong đó. Con người ở đây có khuôn mặt chữ điền. Không được miêu tả rõ nét từng chi tiết nhưng qua câu thơ Lá trúc che ngang mặt chữ điền, chúng ta cũng cảm nhận được rằng đây là khuôn mặt đẹp. Lông mày hình lá liễu, khuôn mặt vuông chữ điền, đó là chuẩn mực của cái đẹp khi xưa.Xem thêm: Bình giảng bài thơ “Chạy giặc" của Nguyễn Đình Chiểu. Những câu thơ đang tràn đầy sức sống và sự tươi mới thì bỗng dưng chùng hẳn xuống, lạc đi và mang một nét buồn: Gió theo lối gió mây đường mây Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay Thuyền ai đậu bến sông trăng đó Có chở trăng về kịp tối nay Chúng ta vẫn biết gió thổi thì mây bay có nghĩa là gió và mây luôn quấn quýt bên nhau, chung lối với nhau. Thế nhưng trong thơ của Hàn Mạc Tự, mây và gió đang tách ra đi theo những hướng khác nhau. Gió đi lối của gió, mây đi lối của mây. Đó là một sự chia li bất thường và nó khiến cho người ta thật đau lòng. Cả khổ thơ chỉ có 4 câu, mỗi câu chỉ có 7 chữ mà câu thơ nào cũng chất chứa nỗi buồn. Câu thơ Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay khiến cho người đọc cảm nhận một cái gì đó như đang vỡ tan ra. Sự vụn vỡ của thiên nhiên, sự chia cách của thiên nhiên sao mà đau lòng đến vậy. Nhưng đau lòng hơn cả là sự chia cắt của con người. Một nỗi hoài nghi được nhà thơ đưa ra, liệu rằng thuyền ai có kịp chở trăng về nơi này hay không? Câu thơ mang hình ảnh kì ảo và có chút mơ hồ. Mặc dù thuyền và trăng là hai hình ảnh vốn quen thuộc trong thơ Hàn Mạc Tử thế nhưng ở đây con thuyền không phải thuyền bình thường nữa mà nó đã là con thuyền trăng. Và vì vậy, dòng sông cũng đã trở thành dòng sông trăng. Có về kịp hay không mà về kịp để làm gì? Có lẽ chỉ có tác giả mới có thể trả lời được. Hoặc giả, nhà thơ cũng không biết, không rõ, một sự mơ hồ, một cái gì đó chất chứa trong lòng mà không thể nào diễn tả ra được.Xem thêm: Tả khu vui chơi giải trí mà em thích Sự kì ảo vẫn tiếp tục bao trùm lên khổ thơ cuối cùng: Mơ khách đường xa khách đường xa Áo em trắng quá nhìn không ra Ở đây sương khói mờ nhân ảnh Ai biết tình ai có đậm đà. Người ta thường mơ thấy những điều khiến họ đã suy nghĩ quá nhiều. Phải chăng ở đây, nhà thơ đã nghĩ quá nhiều đến khách đường xa nên mới mơ tới hình ảnh khách đường xa? Ảo ảnh mộng mị, người em trong màu áo trắng vừa rõ nét, vừa mờ ảo khiến cho nhà thơ không thể nào nhìn rõ. Lại thêm sự kết hợp của sương khói lại càng khiến cho mọi thứ nhòe đi. Cảnh mờ, liệu tình người có đậm đà? Một câu hỏi tu từ vẫn còn đang bỏ ngỏ. Có lẽ, chính nhà thơ cũng đang đi tìm câu trả lời. Bài thơ miêu tả cảnh đẹp của xứ Huế nhưng lại mang đến cho người đọc cảm giác mơ hồ về sự chia ly. Nhà thơ như đang ngờ vực vào tình cảm của người con gái Huế. Bài thơ cho ta cảm nhận sâu sắc về tình cảm của nhà thơ và thương cho những đắng cay mà ông đã phải trải qua. Nét đặc sắc của bài thơ này chính là ở những câu hỏi tu từ và những hình ảnh miêu tả đặc sắc. Trên đây, chúng ta đã cùng nhau tìm hiểu dàn ý cũng như bài văn mẫu phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của nhà thơ Hàn Mạc Tử. Hy vọng rằng bài văn mẫu này sẽ giúp các em có thêm những gợi ý để áp dụng cho bài làm của mình. Thu Thủy
Đề bài: Phân tích bài thơ Đây Thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử Bài làm Nhắc đến phong trào Thơ mới thì không thể không nhắc tới nhà thơ Hàn Mặc Tử. Ông là một trong những ngôi sao sáng nhất với những bài thơ thể hiện một tâm hồn lãng mạn, dạt dào yêu thương. Bài thơ Đây Thôn Vĩ Dạ chính là một trong những bài thơ hay nhất của ông viết về đề tài tình yêu. Đây Thôn Vĩ Dạ được sáng tác khi Hàn Mặc Tử đang bệnh nặng. Chính vì thế mà qua bài thơ ta thấy được vẻ đượm buồn, man mác giữa khung cảnh thiên nhiên thôn Vĩ Dạ. Mở đầu bài thơ là một câu hỏi đồng thời cũng là một lời trách móc nhẹ nhàng của nhân vật trữ tình: “Sao anh không về chơi thôn Vĩ” Như chúng ta đã biết thì thôn Vĩ Dạ nằm ở bên bờ sông Hương. Đây chính là một địa danh quen thuộc, trở thành nguồn cảm hứng và được nhắc đến ở nhiều bài thơ ca. Khi đọc lên câu thơ đầu cho chúng ta cảm nhận thấy đây như một câu hỏi, một lời trách nhẹ nhàng nhưng cũng giống như một lời mời gọi, mời người thi sĩ trở về thăm Vĩ Dạ để thưởng thức những cảnh đẹp nơi đây. Có lẽ càng chắc chắn hơn khi mà ngay những câu tiếp theo thì nhân vật trữ tình đã giới thiệu về cảnh vật nơi đây: “Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên Vườn ai mướt quá xanh như ngọc Lá trúc che ngang mặt chữ điền” Nét đặc sắc đầu tiên mà nhân vật trữ tình hay người con gái xứ Huế gợi mở đó chính là hình ảnh hàng cau. Vốn dĩ hình ảnh hàng cau là hình ảnh rất đỗi quen thuộc đối với người Việt Nam ta. Cây cau gắn với những quả cau xanh, với lá trầu trong tục cưới hỏi, trong lễ tiết tiếp đón khách của mọi người bởi “Miếng trầu là đầu câu chuyện”. Đến với Vĩ Dạ thì còn là hình ảnh nắng sớm bao trùm lên hàng cau như đang nhuộm màu lên cảnh vật. Trước mắt người đọc như hiện lên một hình ảnh thân thuộc về làng quê. Trong ánh nắng ban mai ấy, rời khỏi tầm nhìn trên cao với những cây cau mọc cao vút lên thì bên dưới chính là những khu vườn xanh mướt. Từ cách miêu tả của nhân vật trữ tình khi sử dụng các từ “mướt”, “như ngọc” khiến cho ta cảm nhận được một khu vườn mỡ màng, đương ở độ tươi tốt, mơn mởn. Những tán lá như được màn sương đêm gột rửa rồi được ánh nắng của sớm mai hong khô khiến nó trở nên bóng mượt tựa ngọc. Một khu vườn tràn ngập sức sống. Có thể nói chỉ với hai câu thơ tả cảnh ngắn ngủi nhưng ta đã có thể cảm nhận được sự quan sát tinh tế của Hàn Mặc Tử. Phải yêu, phải hiểu và có một tâm hồn tinh tế, trong trẻo thì thi sĩ mới có thể nhận thấy vẻ đẹp của thôn Vĩ và tái hiện lại một cách sống động, nên thơ đến vậy.Xem thêm: Bình giảng bài thơ Thương vợ của Trấn Tế Xương Phân tích bài thơ Đây Thôn Vĩ Dạ Giữa cảnh vật tươi đẹp như vậy nhưng càng khiến vẻ đẹp ấy trở nên tươi đẹp hơn, sống động hơn khi có con người: “Lá trúc che ngang mặt chữ điền”. Trúc vừa là hình ảnh thanh mảnh nhưng lại cứng cáp biểu trưng cho người quân tử. Khuôn “mặt chữ điền” lại là khuôn mặt thể hiện sự phúc hậu của người con gái xứ Huế. Hai hình ảnh như hòa quyện vào nhau tạo nên sự hài hòa cho ý thơ, làm cho khung cảnh trở nên thi vị. Nối tiếp là khung cảnh dường như được mở rộng ra: “Gió theo lối gió mây đường mây Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay” Hai câu thơ mang theo nỗi buồn man mác của người thi sĩ. Khung cảnh có mây, có gió nhưng mây gió lại không chung đường mà chia đôi ngả khác nhau. Trong cái “lối gió, đường mây” đó thì “hoa bắp” có sự lay động nhẹ nhàng, “dòng nước buồn thiu”. Cảnh vật như dược nhuốm màu tâm trạng của nhân vật trữ tình, một tâm trạng buồn sầu, man mác cũng là nét đặc trưng của dòng sông Hương êm đềm mà lặng lẽ. Như chúng ta đã biết Hàn Mặc Tử là một người thi sĩ rất yêu trăng, ánh trăng xuất hiện rất nhiều lần trong thơ của ông, là người bạn, người tri kỷ của thi sĩ. Trong bài thơ Đây Thôn Vĩ Dạ cũng xuất hiện cảnh tượng một đêm trăng thơ mộng với hai hình ảnh quen thuộc đó chính là “thuyền trăng”, “sông trăng”. Dòng sông trong đêm trăng như được đong đầy ánh sáng và trở thành dòng sông ánh sáng, sông trăng:Xem thêm: Giới thiệu về tổ em, tổ 2 “Thuyền ai đậu bến sông trăng đó Có chở trăng về kịp tối nay” “Sông trăng” với ánh trăng là biểu tượng cho cái đẹp, cho sự thanh bình và hạnh phúc mà cả dòng sông đầy ắp ánh trang có con thuyền như đang đong đầy, đang chở theo hạnh phúc ấy. Thế nhưng, ở câu thơ tiếp theo lại giống như đang day dứt, đang phấp phỏng, lo âu rằng không biết có “kịp” về không. Gắn với cuộc đời của nhà thơ khi ông viết bài thơ này thì nhà thơ đang bệnh nặng và ông không biết rằng mình còn có thể sống được bao lâu nữa, có thể nắm được hạnh phúc ấy hay không. Thi sĩ sợ rằng mình sẽ bỏ lỡ, sẽ dang dở và không thể chờ được con thuyền hạnh phúc ấy cập bến bờ: “Mơ khách đường xa khách đường xa Áo em trắng qua nhìn không ra Ở đây sương khói mờ nhân ảnh Ai biết tình ai có đậm đà” Sau khi mơ đến viễn cảnh tươi đẹp thì nhà thơ như trở lại cái thực tại phũ phàng. Ông không mơ được trở về Thôn Vĩ nữa mà mơ rằng sẽ có người nhớ đến ông và thăm ông. Điệp từ “khách đường xa” như nhấn mạnh sự xa cách vô cùng, nhấn mạnh khoảng cách mà nhà thơ không sao có thể với tới được. Vậy thì vị “khách đường xa” ấy là ai? Có thể đó chính là nhà thơ, một người đang mong muốn, khao khát được trở về thôn Vĩ. Nhưng cũng có thể là người quen của ông nơi phương xa và ông khao khát họ sẽ đến thăm ông vào lúc ốm đau, bệnh tật này. Giấc mơ ban đầu như nhòa đi trong màu áo trắng của “em”, nó là hình ảnh gần gũi nhưng lại quá xa xôi đối với Hàn Mặc Tử vào lúc này. “Áo em trắng” giống như gợi về hình ảnh của những cô thiếu nữ xứ Huế với chiếc áo dài trắng tinh, với chiếc nón lá. Nhưng hình ảnh đẹp đẽ đó lại bị nhòa đi vì “sương khói” khiến cho người đọc liên tưởng đến mộng ảo. Có lẽ đó chỉ là cảnh vật mà nhà thơ tưởng tượng lên đưa chúng ta tới một cõi xa xôi nào đó. Cũng bởi vì “sương khói” khiến cho người ta có cảm giác không chân thực và phải tìm kiếm thân ảnh giữa làn sương khói ấy. Dường như niềm nhớ thương, sự vô vọng ấy khiến cho tác giả phải thốt lên rằng: “Ai biết tình ai có đậm đà”. Đại từ phiếm chỉ ai ta đã gặp nhiều lần trong bài thơ đó là “vườn ai”, “thuyền ai” nó giống như sự tự hỏi lòng mình và đang kiếm tìm câu trả lời cho những câu hỏi đó.Xem thêm: Bức tranh thiên nhiên trong hai bài thơ: “Giải đi sớm” và “Chiều tối” của Hồ Chi Minh Bài thơ Đây Thôn Vĩ Dạ như một khúc ca đậm đà chất Huế. Nó là tiếng lòng của người thi sĩ thiết tha, yêu đời khi nhớ về thiên nhiên, cảnh vật và con người xứ Huế mộng mơ. Tác giả gửi gắm nỗi lòng và tình yêu sâu sắc thông qua ngòi bút tinh tế, gợi tả. Khi gấp lại trang thơ, những hình ảnh về miền quê tươi đẹp, về con người nơi xứ Huế vẫn như khắc sâu vào tâm trí độc giả, khiến cho ta ao ước được một lần đặt chân đến mảnh đất này. Loan Trương
Đề bài: Phân tích bài thơ Đây Thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử Bài làm Nhắc đến phong trào Thơ mới thì không thể không nhắc tới nhà thơ Hàn Mặc Tử. Ông là một trong những ngôi sao sáng nhất với những bài thơ thể hiện một tâm hồn lãng mạn, dạt dào yêu thương. Bài thơ Đây Thôn Vĩ Dạ chính là một trong những bài thơ hay nhất của ông viết về đề tài tình yêu. Đây Thôn Vĩ Dạ được sáng tác khi Hàn Mặc Tử đang bệnh nặng. Chính vì thế mà qua bài thơ ta thấy được vẻ đượm buồn, man mác giữa khung cảnh thiên nhiên thôn Vĩ Dạ. Mở đầu bài thơ là một câu hỏi đồng thời cũng là một lời trách móc nhẹ nhàng của nhân vật trữ tình: “Sao anh không về chơi thôn Vĩ” Như chúng ta đã biết thì thôn Vĩ Dạ nằm ở bên bờ sông Hương. Đây chính là một địa danh quen thuộc, trở thành nguồn cảm hứng và được nhắc đến ở nhiều bài thơ ca. Khi đọc lên câu thơ đầu cho chúng ta cảm nhận thấy đây như một câu hỏi, một lời trách nhẹ nhàng nhưng cũng giống như một lời mời gọi, mời người thi sĩ trở về thăm Vĩ Dạ để thưởng thức những cảnh đẹp nơi đây. Có lẽ càng chắc chắn hơn khi mà ngay những câu tiếp theo thì nhân vật trữ tình đã giới thiệu về cảnh vật nơi đây: “Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên Vườn ai mướt quá xanh như ngọc Lá trúc che ngang mặt chữ điền” Nét đặc sắc đầu tiên mà nhân vật trữ tình hay người con gái xứ Huế gợi mở đó chính là hình ảnh hàng cau. Vốn dĩ hình ảnh hàng cau là hình ảnh rất đỗi quen thuộc đối với người Việt Nam ta. Cây cau gắn với những quả cau xanh, với lá trầu trong tục cưới hỏi, trong lễ tiết tiếp đón khách của mọi người bởi “Miếng trầu là đầu câu chuyện”. Đến với Vĩ Dạ thì còn là hình ảnh nắng sớm bao trùm lên hàng cau như đang nhuộm màu lên cảnh vật. Trước mắt người đọc như hiện lên một hình ảnh thân thuộc về làng quê. Trong ánh nắng ban mai ấy, rời khỏi tầm nhìn trên cao với những cây cau mọc cao vút lên thì bên dưới chính là những khu vườn xanh mướt. Từ cách miêu tả của nhân vật trữ tình khi sử dụng các từ “mướt”, “như ngọc” khiến cho ta cảm nhận được một khu vườn mỡ màng, đương ở độ tươi tốt, mơn mởn. Những tán lá như được màn sương đêm gột rửa rồi được ánh nắng của sớm mai hong khô khiến nó trở nên bóng mượt tựa ngọc. Một khu vườn tràn ngập sức sống. Có thể nói chỉ với hai câu thơ tả cảnh ngắn ngủi nhưng ta đã có thể cảm nhận được sự quan sát tinh tế của Hàn Mặc Tử. Phải yêu, phải hiểu và có một tâm hồn tinh tế, trong trẻo thì thi sĩ mới có thể nhận thấy vẻ đẹp của thôn Vĩ và tái hiện lại một cách sống động, nên thơ đến vậy.Xem thêm: Bình giảng bài thơ Thương vợ của Trấn Tế Xương Phân tích bài thơ Đây Thôn Vĩ Dạ Giữa cảnh vật tươi đẹp như vậy nhưng càng khiến vẻ đẹp ấy trở nên tươi đẹp hơn, sống động hơn khi có con người: “Lá trúc che ngang mặt chữ điền”. Trúc vừa là hình ảnh thanh mảnh nhưng lại cứng cáp biểu trưng cho người quân tử. Khuôn “mặt chữ điền” lại là khuôn mặt thể hiện sự phúc hậu của người con gái xứ Huế. Hai hình ảnh như hòa quyện vào nhau tạo nên sự hài hòa cho ý thơ, làm cho khung cảnh trở nên thi vị. Nối tiếp là khung cảnh dường như được mở rộng ra: “Gió theo lối gió mây đường mây Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay” Hai câu thơ mang theo nỗi buồn man mác của người thi sĩ. Khung cảnh có mây, có gió nhưng mây gió lại không chung đường mà chia đôi ngả khác nhau. Trong cái “lối gió, đường mây” đó thì “hoa bắp” có sự lay động nhẹ nhàng, “dòng nước buồn thiu”. Cảnh vật như dược nhuốm màu tâm trạng của nhân vật trữ tình, một tâm trạng buồn sầu, man mác cũng là nét đặc trưng của dòng sông Hương êm đềm mà lặng lẽ. Như chúng ta đã biết Hàn Mặc Tử là một người thi sĩ rất yêu trăng, ánh trăng xuất hiện rất nhiều lần trong thơ của ông, là người bạn, người tri kỷ của thi sĩ. Trong bài thơ Đây Thôn Vĩ Dạ cũng xuất hiện cảnh tượng một đêm trăng thơ mộng với hai hình ảnh quen thuộc đó chính là “thuyền trăng”, “sông trăng”. Dòng sông trong đêm trăng như được đong đầy ánh sáng và trở thành dòng sông ánh sáng, sông trăng:Xem thêm: Giới thiệu về tổ em, tổ 2 “Thuyền ai đậu bến sông trăng đó Có chở trăng về kịp tối nay” “Sông trăng” với ánh trăng là biểu tượng cho cái đẹp, cho sự thanh bình và hạnh phúc mà cả dòng sông đầy ắp ánh trang có con thuyền như đang đong đầy, đang chở theo hạnh phúc ấy. Thế nhưng, ở câu thơ tiếp theo lại giống như đang day dứt, đang phấp phỏng, lo âu rằng không biết có “kịp” về không. Gắn với cuộc đời của nhà thơ khi ông viết bài thơ này thì nhà thơ đang bệnh nặng và ông không biết rằng mình còn có thể sống được bao lâu nữa, có thể nắm được hạnh phúc ấy hay không. Thi sĩ sợ rằng mình sẽ bỏ lỡ, sẽ dang dở và không thể chờ được con thuyền hạnh phúc ấy cập bến bờ: “Mơ khách đường xa khách đường xa Áo em trắng qua nhìn không ra Ở đây sương khói mờ nhân ảnh Ai biết tình ai có đậm đà” Sau khi mơ đến viễn cảnh tươi đẹp thì nhà thơ như trở lại cái thực tại phũ phàng. Ông không mơ được trở về Thôn Vĩ nữa mà mơ rằng sẽ có người nhớ đến ông và thăm ông. Điệp từ “khách đường xa” như nhấn mạnh sự xa cách vô cùng, nhấn mạnh khoảng cách mà nhà thơ không sao có thể với tới được. Vậy thì vị “khách đường xa” ấy là ai? Có thể đó chính là nhà thơ, một người đang mong muốn, khao khát được trở về thôn Vĩ. Nhưng cũng có thể là người quen của ông nơi phương xa và ông khao khát họ sẽ đến thăm ông vào lúc ốm đau, bệnh tật này. Giấc mơ ban đầu như nhòa đi trong màu áo trắng của “em”, nó là hình ảnh gần gũi nhưng lại quá xa xôi đối với Hàn Mặc Tử vào lúc này. “Áo em trắng” giống như gợi về hình ảnh của những cô thiếu nữ xứ Huế với chiếc áo dài trắng tinh, với chiếc nón lá. Nhưng hình ảnh đẹp đẽ đó lại bị nhòa đi vì “sương khói” khiến cho người đọc liên tưởng đến mộng ảo. Có lẽ đó chỉ là cảnh vật mà nhà thơ tưởng tượng lên đưa chúng ta tới một cõi xa xôi nào đó. Cũng bởi vì “sương khói” khiến cho người ta có cảm giác không chân thực và phải tìm kiếm thân ảnh giữa làn sương khói ấy. Dường như niềm nhớ thương, sự vô vọng ấy khiến cho tác giả phải thốt lên rằng: “Ai biết tình ai có đậm đà”. Đại từ phiếm chỉ ai ta đã gặp nhiều lần trong bài thơ đó là “vườn ai”, “thuyền ai” nó giống như sự tự hỏi lòng mình và đang kiếm tìm câu trả lời cho những câu hỏi đó.Xem thêm: Bức tranh thiên nhiên trong hai bài thơ: “Giải đi sớm” và “Chiều tối” của Hồ Chi Minh Bài thơ Đây Thôn Vĩ Dạ như một khúc ca đậm đà chất Huế. Nó là tiếng lòng của người thi sĩ thiết tha, yêu đời khi nhớ về thiên nhiên, cảnh vật và con người xứ Huế mộng mơ. Tác giả gửi gắm nỗi lòng và tình yêu sâu sắc thông qua ngòi bút tinh tế, gợi tả. Khi gấp lại trang thơ, những hình ảnh về miền quê tươi đẹp, về con người nơi xứ Huế vẫn như khắc sâu vào tâm trí độc giả, khiến cho ta ao ước được một lần đặt chân đến mảnh đất này. Loan Trương
Đề bài: Phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử Bài thơ về xứ Huế mộng mơ Đây thôn Vĩ Dạ đã để lại cho ta biết bao hoài niệm đẹp về phong cảnh hữu tình xứ Huế, con người Huế và đặc biệt hơn là sự lãng mạn của một đời thơ, một đời người – Hàn Mặc Tử. "Mở cửa nhìn trăng, trăng tái mặt, Khép phòng đốt nến, nến rơi châu…" Mấy ai đã từng say trăng như Hàn Mặc Tử? "Trăng nằm sóng soãi trên cành liễu – Đợi gió đông về để lả lơi…" ("Bẽn lẽn") – Thi sĩ còn nói đến thuyền trăng, sông trăng, bến trăng… Cả một trời trăng ảo mộng, huyền diệu. Thơ Hàn Mặc Tử rợn ngợp ánh trăng, thể hiện tâm hồn "say trăng" với tình yêu tha thiết cuộc đời, vừa thực vừa mơ. Ông là một trong những nhà thơ lỗi lạc nhất của phong trào Thơ mới (1932 – 1941). Với 28 tuổi đời (1922 – 1940), ông để lại cho nền thơ ca dân tộc hàng trăm bài thơ và một số kịch thơ. Thơ của ông như trào ra từ máu và nước mắt, có không ít hình tượng kinh dị. Cũng chưa ai viết thơ hay về mùa xuân và thiếu nữ ("Mùa xuân chín"), về Huế đẹp và thơ ("Đây thôn Vĩ Dạ") như Hàn Mặc Tử. "Đây thôn Vĩ Dạ" rút trong tập "Thơ điên" xuất bản năm 1940, sau khi nhà thơ qua đời. Bài thơ nói rất hay về Huế, về cảnh sắc thiên nhiên hữu tình, về con người xứ Huế, nhất là các cô gái duyên dáng, đa tình, đáng yêu – tình yêu thơ mộng đắm say, lung linh trong ánh sáng huyền ảo. Bài thơ giãi bày một nỗi niềm bâng khuâng, một khao khát về hạnh phúc của thi sĩ đa tình, có nhiều duyên nợ với cảnh và con người Vĩ Dạ. Câu đầu "dịu ngọt" như một lời chào mời, vừa mừng vui hội ngộ, vừa nhẹ nhàng trách móc người thương biết bao thương nhớ đợi chờ. Giọng thơ êm dịu, đằm thắm và tình tứ: "Sao anh không về chơi thôn Vĩ?". Có mấy xa xôi. Cảnh cũ người xưa thấp thoáng trong vần thơ đẹp mang hoài niệm. Bao kỉ niệm sống dậy trong một hồn thơ. Nó gắn liền với cảnh sắc vườn tược và con người xứ Huế mộng mơ: "Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên Vườn ai mướt quá, xanh như ngọc Lá trúc che ngang mặt chữ điền?" Cảnh được nói đến là một sáng bình minh đẹp. Nhìn từ xa, say mê ngắm nhìn những ngọn cau, tàu cau ngời lên dưới màu nắng mới, "nắng mới lên" rực rỡ. Hàng cau như đón chào người thân thương sau bao ngày xa cách. Hàng cau cao vút là hình ảnh thân thuộc thôn Vĩ Dạ từ bao đời nay. Quên sao được màu xanh cây lá nơi đây. Nhà thơ trầm trồ thốt lên khi đứng trước một màu xanh vườn tược thôn Vĩ Dạ: "Vườn ai mướt quá, xanh như ngọc". Sương đêm ướt đẫm cây cỏ hoa lá. Màu xanh mỡ màng, non tơ ngời lên, bóng lên dưới ánh mai hồng, trông "mướt quá" một màu xanh như ngọc bích. Đất đai màu mỡ, khí hậu ôn hòa, con người cần cù chăm bón mới có "màu xanh ngọc" ấy. Thiên nhiên rạo rực, trẻ trung và đầy sức sống. Cũng nói về mùa xanh ngọc bích, trước đó (1938) Xuân Diệu đã từng viết: "Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá…" ("Thơ duyên"). Hai chữ "vườn ai" đã gợi ra nhiều ngạc nhiên và man mác. Câu thứ tư tả thiếu nữ với vườn xuân: "Lá trúc che ngang mặt chữ điền". Mặt trái xoan, mặt hoa da phấn mới đẹp. Mặt chữ điền, gương mặt đầy đặn, phúc hậu. "Lá trúc che ngang" là một nét vẽ thần tình đã tô đậm nét đẹp của cô gái Huế duyên dáng, dịu dàng, kín đáo, tình tứ đáng yêu. Hàn Mặc Tử hơn một lần nói về trúc và thiếu nữ. Khóm trúc như tỏa bóng xanh mát che chở cho mối tình đẹp đang nảy nở: "Thầm thĩ với ai ngồi dưới trúc Nghe ra ý nhị và thơ ngây". (Mùa xuân chín) Câu 3, 4 trong khổ thơ đầu tả cau, tả nắng mới, tả vườn xuân, tả trúc và thiếu nữ với một gam màu nhẹ thoáng, ẩn hiện, mơ hồ. Đặc sắc nhất là hai hình ảnh so sánh và ẩn dụ. (xanh như ngọc… mặt chữ điền). Cảnh và người nơi thôn Vĩ Dạ thật hồn hậu, thân thuộc đáng yêu. Xem thêm: Nghị luận xã hội về tình thươngVĩ Dạ – một làng quê nằm bên bờ sông Hương Giang, thuộc ngoại ô cố đô Huế. Vĩ Dạ đẹp với những con đò thơ mộng, những mảnh vườn xanh tươi bốn mùa, sum sê hoa trái. Những ngôi nhà xinh xắn thấp thoáng ẩn hiện sau hàng cau, khóm trúc, mà ở đấy thường dìu dặt câu Nam ai, Nam bình qua tiếng đàn tranh, đàn tam thập lục huyền diệu, réo rắt. Thôn Vĩ Dạ đẹp nên thơ. Hàn Mặc Tử đã dành cho Vĩ Dạ vần thơ đẹp nhất với tất cả tấm lòng tha thiết mến thương. Khổ thơ thứ hai nói về cảnh trời mây, sông nước. Một không gian nghệ thuật thoáng đãng, mơ hồ, xa xăm. Hai câu 5, 6 là bức tranh tả gió, mây, dòng sông và hoa (hoa bắp). Giọng thơ nhẹ nhàng, hài hòa và sống động. Gió mây đôi ngả như mối tình nhà thơ, tưởng gần đấy mà xa vời, cách trở. Dòng Hương Giang êm trôi lờ lững, trong tâm tưởng thi nhân trở nên "buồn thiu", nhiều bâng khuâng man mác. "Hoa bắp lay" nhè nhẹ đung đưa trong gió thoảng. Nhịp điệu khoan thai, thơ mộng của miền sông Hương, núi Ngự được diễn tả rất tinh tế. Các điệp ngữ luyến láy gợi nên nhiều vương vấn mộng mơ: "Gió theo lối gió, mây đường mây Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay". Hai câu tiếp theo nhà thơ hỏi "ai" hay hỏi mình khi nhìn thấy hay nhớ tới con đò mộng nằm trên bến sông trăng. Sông Hương quê em trở thành sông trăng. Hàn Mặc Tử với tình yêu Vĩ Dạ mà sáng tạo nên vần thơ đẹp nói về dòng sông Hương với những con đò dưới vầng trăng. Nguyễn Công Trứ đã từng viết: "Gió trăng chứa một thuyền đầy". Hàn Mặc Tử cũng góp cho nền thơ Việt Nam hiện đại một vần thơ trăng độc đáo: "Thuyền ai đậu bến sông trăng đó Có chở trăng về kịp tối nay?" Tâm hồn nhà thơ xao xuyến khi nhìn sông trăng và con thuyền. Thuyền em hay "thuyền ai" vừa thân quen, vừa xa lạ. Chất thơ mộng ảo "Đây thôn Vĩ Dạ" là những thi liệu ấy. Câu thơ gợi tả một hồn thơ làm ta rung động trước vẻ đẹp hữu tình của xứ Huế miền Trung, nói lên một tình yêu kín đáo, dịu dàng, thơ mộng và thoáng buồn. Khổ thơ thứ ba nói về cô gái Huế và tâm tình thi nhân. Đương thời nhà thơ Nguyễn Bính đã viết về thiếu nữ sông Hương: "Những nàng thiếu nữ sông Hương – Da thơm là phấn, má hường là son"… Vĩ Dạ mưa nhiều, những buổi sớm mai và chiều tà phủ mờ sương khói. "Sương khói" trong Đường thi thường gắn liền với tình cố hương. Ở đây sương khói làm nhòa đi, mờ đi áo trắng em, nên anh nhìn mãi không ra hình dáng em (nhân ảnh). Người thiếu nữ Huế thoáng hiện, trắng trong, kín đáo và duyên dáng. Gần mà xa, thực mà mơ. Câu thơ chập chờn, bâng khuâng. Ta đã biết Hàn Mặc Tử từng ôm ấp mối tình với một thiếu nữ Huế mang tên một loài hoa đẹp. Phải chăng nhà thơ muốn nói về mối tình này? "Mơ khách đường xa, khách đường xa Áo em trắng quá nhìn không ra Ở đây sương khói mờ nhân ảnh Ai biết tình ai có đậm đà?" "Mơ khách đường xa, khách đường xa… ai biết… ai có", các điệp ngữ luyến láy ấy tạo nên nhạc điệu sâu lắng, dịu buồn, mênh mang. Người đọc thêm cảm thương cho nhà thơ tài hoa, đa tình mà bạc mệnh, từng say đắm với bao mối tình tình nhưng suốt đời phải sống trong cô đơn bệnh tật. Cũng cần nói đôi lời về chữ "ai" trong bài thơ này. Cả 4 lần chữ "ai" xuất hiện đều mơ hồ ám ảnh: "Vườn ai mướt quá xanh như ngọc?" – "Thuyền ai đậu bến sông trăng đó?" – "Ai biết tình ai có đậm đà?". Con người mà nhà thơ nói đến là con người xa vắng, trong hoài niệm bâng khuâng. Nhà thơ luôn cảm thấy mình hụt hẫng, chơi vơi trước một mối tình đơn phương mộng ảo. Một chút hi vọng mong manh mà tha thiết như đang nhạt nhòa và mờ đi cùng sương khói? Hàn Mặc Tử đã để lại cho ta một bài thơ tình thật hay. Cảnh và người, mộng và thực, say đắm và bâng khuâng, ngạc nhiên và thẫn thờ… bao hình ảnh và cảm xúc đẹp hội tụ trong ba khổ thơ thất ngôn, câu chữ toàn bích. "Đây thôn Vĩ Dạ" là một bài thơ tình tuyệt tác. Cái màu xanh như ngọc của vườn ai, con thuyền ai trên sông trăng, và màu trắng của áo em như đang dẫn hồn ta đi về miền sương khói của Vĩ Dạ thôn một thời xa vắng: "Ở đây sương khói mờ nhân ảnh Ai biết tình ai có đậm đà?". Nguồn Edufly Xem thêm: Tả cây bàng
Đề bài: Phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử Bài thơ về xứ Huế mộng mơ Đây thôn Vĩ Dạ đã để lại cho ta biết bao hoài niệm đẹp về phong cảnh hữu tình xứ Huế, con người Huế và đặc biệt hơn là sự lãng mạn của một đời thơ, một đời người – Hàn Mặc Tử. "Mở cửa nhìn trăng, trăng tái mặt, Khép phòng đốt nến, nến rơi châu…" Mấy ai đã từng say trăng như Hàn Mặc Tử? "Trăng nằm sóng soãi trên cành liễu – Đợi gió đông về để lả lơi…" ("Bẽn lẽn") – Thi sĩ còn nói đến thuyền trăng, sông trăng, bến trăng… Cả một trời trăng ảo mộng, huyền diệu. Thơ Hàn Mặc Tử rợn ngợp ánh trăng, thể hiện tâm hồn "say trăng" với tình yêu tha thiết cuộc đời, vừa thực vừa mơ. Ông là một trong những nhà thơ lỗi lạc nhất của phong trào Thơ mới (1932 – 1941). Với 28 tuổi đời (1922 – 1940), ông để lại cho nền thơ ca dân tộc hàng trăm bài thơ và một số kịch thơ. Thơ của ông như trào ra từ máu và nước mắt, có không ít hình tượng kinh dị. Cũng chưa ai viết thơ hay về mùa xuân và thiếu nữ ("Mùa xuân chín"), về Huế đẹp và thơ ("Đây thôn Vĩ Dạ") như Hàn Mặc Tử. "Đây thôn Vĩ Dạ" rút trong tập "Thơ điên" xuất bản năm 1940, sau khi nhà thơ qua đời. Bài thơ nói rất hay về Huế, về cảnh sắc thiên nhiên hữu tình, về con người xứ Huế, nhất là các cô gái duyên dáng, đa tình, đáng yêu – tình yêu thơ mộng đắm say, lung linh trong ánh sáng huyền ảo. Bài thơ giãi bày một nỗi niềm bâng khuâng, một khao khát về hạnh phúc của thi sĩ đa tình, có nhiều duyên nợ với cảnh và con người Vĩ Dạ. Câu đầu "dịu ngọt" như một lời chào mời, vừa mừng vui hội ngộ, vừa nhẹ nhàng trách móc người thương biết bao thương nhớ đợi chờ. Giọng thơ êm dịu, đằm thắm và tình tứ: "Sao anh không về chơi thôn Vĩ?". Có mấy xa xôi. Cảnh cũ người xưa thấp thoáng trong vần thơ đẹp mang hoài niệm. Bao kỉ niệm sống dậy trong một hồn thơ. Nó gắn liền với cảnh sắc vườn tược và con người xứ Huế mộng mơ: "Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên Vườn ai mướt quá, xanh như ngọc Lá trúc che ngang mặt chữ điền?" Cảnh được nói đến là một sáng bình minh đẹp. Nhìn từ xa, say mê ngắm nhìn những ngọn cau, tàu cau ngời lên dưới màu nắng mới, "nắng mới lên" rực rỡ. Hàng cau như đón chào người thân thương sau bao ngày xa cách. Hàng cau cao vút là hình ảnh thân thuộc thôn Vĩ Dạ từ bao đời nay. Quên sao được màu xanh cây lá nơi đây. Nhà thơ trầm trồ thốt lên khi đứng trước một màu xanh vườn tược thôn Vĩ Dạ: "Vườn ai mướt quá, xanh như ngọc". Sương đêm ướt đẫm cây cỏ hoa lá. Màu xanh mỡ màng, non tơ ngời lên, bóng lên dưới ánh mai hồng, trông "mướt quá" một màu xanh như ngọc bích. Đất đai màu mỡ, khí hậu ôn hòa, con người cần cù chăm bón mới có "màu xanh ngọc" ấy. Thiên nhiên rạo rực, trẻ trung và đầy sức sống. Cũng nói về mùa xanh ngọc bích, trước đó (1938) Xuân Diệu đã từng viết: "Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá…" ("Thơ duyên"). Hai chữ "vườn ai" đã gợi ra nhiều ngạc nhiên và man mác. Câu thứ tư tả thiếu nữ với vườn xuân: "Lá trúc che ngang mặt chữ điền". Mặt trái xoan, mặt hoa da phấn mới đẹp. Mặt chữ điền, gương mặt đầy đặn, phúc hậu. "Lá trúc che ngang" là một nét vẽ thần tình đã tô đậm nét đẹp của cô gái Huế duyên dáng, dịu dàng, kín đáo, tình tứ đáng yêu. Hàn Mặc Tử hơn một lần nói về trúc và thiếu nữ. Khóm trúc như tỏa bóng xanh mát che chở cho mối tình đẹp đang nảy nở: "Thầm thĩ với ai ngồi dưới trúc Nghe ra ý nhị và thơ ngây". (Mùa xuân chín) Câu 3, 4 trong khổ thơ đầu tả cau, tả nắng mới, tả vườn xuân, tả trúc và thiếu nữ với một gam màu nhẹ thoáng, ẩn hiện, mơ hồ. Đặc sắc nhất là hai hình ảnh so sánh và ẩn dụ. (xanh như ngọc… mặt chữ điền). Cảnh và người nơi thôn Vĩ Dạ thật hồn hậu, thân thuộc đáng yêu. Xem thêm: Nghị luận xã hội về tình thươngVĩ Dạ – một làng quê nằm bên bờ sông Hương Giang, thuộc ngoại ô cố đô Huế. Vĩ Dạ đẹp với những con đò thơ mộng, những mảnh vườn xanh tươi bốn mùa, sum sê hoa trái. Những ngôi nhà xinh xắn thấp thoáng ẩn hiện sau hàng cau, khóm trúc, mà ở đấy thường dìu dặt câu Nam ai, Nam bình qua tiếng đàn tranh, đàn tam thập lục huyền diệu, réo rắt. Thôn Vĩ Dạ đẹp nên thơ. Hàn Mặc Tử đã dành cho Vĩ Dạ vần thơ đẹp nhất với tất cả tấm lòng tha thiết mến thương. Khổ thơ thứ hai nói về cảnh trời mây, sông nước. Một không gian nghệ thuật thoáng đãng, mơ hồ, xa xăm. Hai câu 5, 6 là bức tranh tả gió, mây, dòng sông và hoa (hoa bắp). Giọng thơ nhẹ nhàng, hài hòa và sống động. Gió mây đôi ngả như mối tình nhà thơ, tưởng gần đấy mà xa vời, cách trở. Dòng Hương Giang êm trôi lờ lững, trong tâm tưởng thi nhân trở nên "buồn thiu", nhiều bâng khuâng man mác. "Hoa bắp lay" nhè nhẹ đung đưa trong gió thoảng. Nhịp điệu khoan thai, thơ mộng của miền sông Hương, núi Ngự được diễn tả rất tinh tế. Các điệp ngữ luyến láy gợi nên nhiều vương vấn mộng mơ: "Gió theo lối gió, mây đường mây Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay". Hai câu tiếp theo nhà thơ hỏi "ai" hay hỏi mình khi nhìn thấy hay nhớ tới con đò mộng nằm trên bến sông trăng. Sông Hương quê em trở thành sông trăng. Hàn Mặc Tử với tình yêu Vĩ Dạ mà sáng tạo nên vần thơ đẹp nói về dòng sông Hương với những con đò dưới vầng trăng. Nguyễn Công Trứ đã từng viết: "Gió trăng chứa một thuyền đầy". Hàn Mặc Tử cũng góp cho nền thơ Việt Nam hiện đại một vần thơ trăng độc đáo: "Thuyền ai đậu bến sông trăng đó Có chở trăng về kịp tối nay?" Tâm hồn nhà thơ xao xuyến khi nhìn sông trăng và con thuyền. Thuyền em hay "thuyền ai" vừa thân quen, vừa xa lạ. Chất thơ mộng ảo "Đây thôn Vĩ Dạ" là những thi liệu ấy. Câu thơ gợi tả một hồn thơ làm ta rung động trước vẻ đẹp hữu tình của xứ Huế miền Trung, nói lên một tình yêu kín đáo, dịu dàng, thơ mộng và thoáng buồn. Khổ thơ thứ ba nói về cô gái Huế và tâm tình thi nhân. Đương thời nhà thơ Nguyễn Bính đã viết về thiếu nữ sông Hương: "Những nàng thiếu nữ sông Hương – Da thơm là phấn, má hường là son"… Vĩ Dạ mưa nhiều, những buổi sớm mai và chiều tà phủ mờ sương khói. "Sương khói" trong Đường thi thường gắn liền với tình cố hương. Ở đây sương khói làm nhòa đi, mờ đi áo trắng em, nên anh nhìn mãi không ra hình dáng em (nhân ảnh). Người thiếu nữ Huế thoáng hiện, trắng trong, kín đáo và duyên dáng. Gần mà xa, thực mà mơ. Câu thơ chập chờn, bâng khuâng. Ta đã biết Hàn Mặc Tử từng ôm ấp mối tình với một thiếu nữ Huế mang tên một loài hoa đẹp. Phải chăng nhà thơ muốn nói về mối tình này? "Mơ khách đường xa, khách đường xa Áo em trắng quá nhìn không ra Ở đây sương khói mờ nhân ảnh Ai biết tình ai có đậm đà?" "Mơ khách đường xa, khách đường xa… ai biết… ai có", các điệp ngữ luyến láy ấy tạo nên nhạc điệu sâu lắng, dịu buồn, mênh mang. Người đọc thêm cảm thương cho nhà thơ tài hoa, đa tình mà bạc mệnh, từng say đắm với bao mối tình tình nhưng suốt đời phải sống trong cô đơn bệnh tật. Cũng cần nói đôi lời về chữ "ai" trong bài thơ này. Cả 4 lần chữ "ai" xuất hiện đều mơ hồ ám ảnh: "Vườn ai mướt quá xanh như ngọc?" – "Thuyền ai đậu bến sông trăng đó?" – "Ai biết tình ai có đậm đà?". Con người mà nhà thơ nói đến là con người xa vắng, trong hoài niệm bâng khuâng. Nhà thơ luôn cảm thấy mình hụt hẫng, chơi vơi trước một mối tình đơn phương mộng ảo. Một chút hi vọng mong manh mà tha thiết như đang nhạt nhòa và mờ đi cùng sương khói? Hàn Mặc Tử đã để lại cho ta một bài thơ tình thật hay. Cảnh và người, mộng và thực, say đắm và bâng khuâng, ngạc nhiên và thẫn thờ… bao hình ảnh và cảm xúc đẹp hội tụ trong ba khổ thơ thất ngôn, câu chữ toàn bích. "Đây thôn Vĩ Dạ" là một bài thơ tình tuyệt tác. Cái màu xanh như ngọc của vườn ai, con thuyền ai trên sông trăng, và màu trắng của áo em như đang dẫn hồn ta đi về miền sương khói của Vĩ Dạ thôn một thời xa vắng: "Ở đây sương khói mờ nhân ảnh Ai biết tình ai có đậm đà?". Nguồn Edufly Xem thêm: Tả cây bàng
Phân tích bài thơ Đường đi khó của Lý Bạch. Hướng dẫn Lý Bạch (701 – 762) Cốc vàng, rượu trong, vạn một đấu, Mâm ngọc, nhắm quý, giá mười ngàn. Dừng chén, ném đũa, nuốt không được. Rút kiếm, nhìn quanh, lòng mênh mang! Muốn vượt Hoàng Hà, sông băngđóng! Toan lên Thái Hàng, núi tuyết phơi! Lúc rỗi buôngcâu hờ khe biếc Bỗngmơ thuyền lướt cạnh mặt trời! Đường đi khó!Đườngđi khó! Nay ở đâu? Đườngbao ngả! Cưỡigióphá sónghẳn có ngày, Treo thẳng buồm mây vượt biển cả! Lý Bạch (701 – 762) là một trong những nhà thơ lớn nhất đời Đường. Năm 25 tuổi, mang thanh kiếm và khí phách hiệp sĩ, ông đi chu du khắp mọi chân trời; nơi nào có thắng cảnh là ông tìm đến. Năm 742 ông mới được tiến cử vào Trường An. Vua Đường Minh Hoàng đãi ông như một vị “thanh khách ” để tô điểm cuộc sống xa hoa hưởng lạc của mình. Ba năm sau, Lý Bạch chủ động xin rời khỏi kinh đô, tiếp tục ngao du sơn thủy. Lý Bạch làm bài thơ “Đườngđi khó” (Hành lộ nan) vào năm 744 ngay sau lúc rời khỏi cung đình và trước lúc giã biệt Trường An. Chùm thơ "Hành lộ nan ” gồm có 3 bài, đây là bài thơ thứ nhất, bài có giá trị tư tưởng lành mạnh nhất, tích cực nhất. "Hành lộ nan ” vốn là tên một ca khúc xưa, thường dùng để viết về những sự trắc trở hoặc nỗi khổ li biệt trong cuộc đời. Bài thơ của Lý Bạch được viết bằng bút pháp lãng mạn, thể hiện cái hùng tâm và tráng chí của một thi nhân kiếm khách. Bài thơ viết theo thể “hành”, gồm có 12 câu, được chia làm 3 phần, mỗi phần nói lên một thứ khó khăn trên đường đời. Mỗi phần có 4 câu, cấu trúc giống nhau: 2 câu trên nói về khó khăn trắc trở trên đường đòi, hai câu dưới nói về thái độ ứng xử của kẻ sĩ. Khổ thơ đầu nói lên một cái “khó”, một thứ “khó” trên đường đời, đã mấy ai dễ vượt qua? Cảm hứng thơ khơi nguồn từ một thi liệu cổ: “Nhìn cơm không nuốt được – Rút gươmchém cột dài ngậm ngùi”. Lý Bạch đã tạo nên một vần thơ với 4 hình ảnh tượng trưng đầy ý nghĩa: "Cốc vàng, rượutrong, vạn một đấu Mâm ngọc, nhắm quý, giámười ngàn" “Cốc vàng, rượu trong, mâm mọc, nhấm quý” là những thức ăn ngon, những vật dụng quý hiếm, đắt tiền, sang trọng. Ngày xưa chí có các bậc vua chúa mới có, các đại gia mới được hướng. Trong bài thơ này, nó tượng trưng cho bả vinh hoa phú quý, cái danh lợi vật chất ở đời. Hai câu thơ song hành, thủ pháp thậm xưng cực tả cái cao sang: rượu ngon một đấu giá hàng vạn, nhắm quý giá mười ngàn. Tương phản với cái cao sang ấy là một thái độ phú định quyết liệt: “Dừngchén, ném dũa, nuốt khôngđược, Rút kiếm, nhìn quanh, lòngmênh mang" "Nuốtkhông được " biểu hiện một nỗi niềm u uất pha nhiều chua chát, cay đắng. Cái cử chỉ: “dừng chén, ném đũa", cái hành động "rút kiếm nhìn quanh…”, là thái độ phủ định quyết liệt của kẻ sĩ chân chính: “phú quýbất năngdâm”.Câu thơ cho thấy một nhân cách cao đẹp: coi thường danh lợi, xa lánh bọn quyền quý giàu sang. Không chỉ là “Lưng khôn uốn, lộc nên từ” mà còn là một tâm thế: thích sống cuộc đời tự do, phóng khoáng, với lưỡi gươm hiệp sĩ vung lên muốn đi đến mọi chân trời xa rộng. “Lòngmênh mang” của kẻ sĩ là một tâm hồn bay bổng mang chí khí hải hồ, phi thường. Năm 744, Lý Bạch từ giã lầu son gác tía, nơi cung đình mang thanh kiếm hiệp khách lên đường cho thỏa chí 4 phương nói lên nhân cách cao đẹp của ông. Sự cám dỗ vật chất, của "rượu trong, nhắm quý"… đâu phải ai cũng vượt qua được? Các động từ trong hai câu thơ thứ 3, 4 này nói lên nhân cách và sức mạnh tinh thần của Lý Bạch để vượt qua một thứ “khó”, một mê lực đường đời: “dừng chén, ném đũa, nuốt không được – Rút kiếm, nhìn quanh, lòng mênh mang”. Trong một bài thơ khác, ông cũng nói lên cái “chí" của mình, cách ứng xử của mình trước mọi cám dỗ vật chất: “Dễđâu cúi đầugãy lưng phụngquyền quý Xem thêm: Phân tích tâm trạng cô đơn và nỗi đau khổ của chinh phụ trong đoạn Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ (Trích Chinh phụ ngâm) Khiến ta chẳng được mặt mày tươi ” (Câu thơ dịch nghĩa) Bốn câu thơ tiếp theo nói lên một cái “khó" thứ hai của đường đi, đường đời. Đó là những khó khăn khách quan, những gian khổ, chồng chất to lớn: "Muốn vượt HoàngHà, sông băng đóng! Toan lên Thái Hàng, núi tuyết phơi! ” Hoàng Hà, Thái Hàng là sông rộng núi cao, những trởlực, những khó khăn đâu dễ vượt qua. Khó khăn càng nhân lên nhiều lần đáng sợ, để thử thách chí khí con người: sôngđã đóng băng, núi đã phơi đầy tuyết. "Muốn vượt”, muốn "toan lên ”, muốn băng qua đâu dễ, phải có nghị lực, có quyết tâm, có bản lĩnh phi thường. Cấu trúc 2 câu thơ song hành, hình tượng kì vĩ mang tính chất tượng trưng đặc sắc. Trước cái "khó ” này, Lý Bạch đã có một cách ứng xử tích cực: "Lúc rỗi buông câu bờ suối biếc, Bỗng mơ thuyền lướt cạnh mặt trời ” Đây là hai câu thơ đẹp và hay. Câu 7 mang màu sắc lãng mạn mà giàu chất trí tuệ, nêu lên một cách ứng xử thông minh. Có khó khăn quá lớn, trước mắt chưa khắc phục được, chưa vượt qua được thì phải kiên nhẫn, chờ thời cơ. Ý thơ mở ra một trường liên tưởng về điển tích lịch sử: những Lã Vọng, Y Doãn… xa xưa. Người thì đã 80 tuổi còn ngồi câu bên bờ sông Vị, gần 10 năm trời mới gặp được Văn Vương để đem tài năng lỗi lạc ra phò đời cứu nguy, an dân, hưng quốc, kẻ thì đợi vua Thang, đã bao đêm nằm mơ thấy mình "cưỡi thuyền đến bên thái dương”. Biết kiên nhẫn chờ thời cơ, nhưng chí không nan, ước mơ, chí hướng vẫn bền: "Bỗng mơ thuyền lướt cạnh mật trời”. Hình tượng thơ tráng lệ nói lên tâm hồn lãng mạn và khí phách hào hùng của Thi tiên Lý Bạch. Tóm lại, bốn câu thơ trong phần 2, Lý Bạch chí rõ phải sáng suốt và kiên nhẫn đón chờ thời cơ, phải giữ vững mục tiêu đi tới trên đường đời, đó là hướng “mật trời ” ở phía trước! Bốn câu thơ cuối, giọng thơ vang lên dồn dập, mạnh mẽ. Cấu trúc câu thơ biến hóa: có điệp cú, điệp khúc, có câu cảm thán, câu hỏi tu từ. Cách ngắt nhịp 3/3 trong câu thơ chữ Hán cũng như trong câu thơ dịch có tác dụng gợi tả những chặng đường khó khăn trùng điệp nối tiếp hiện ra và thể hiện quyết tâm của người đi đường đầy hùng tâm, tráng chí: "Hành lộ nan! Hành lộ nan! Đa kì lộ, kim an tại? ” Nhiều ngả đường ngược xuôi, bao ngả đường quanh co trắc trở? Dễ mất phương hướng! Dễ lạc lối! Có thể rơi vào cạm bẫy "Ma đưa lối, quỷ đưa dường”. Cái khó khăn này thật ghê gớm! Và chí có thể: "Cưỡi gió phá sónghẳn có ngày, Treo thẳng buồm mây vượt biển cả! ” Thơ giàu hình tượng. Lộ trình xa lắc, mênh mông: vượt biển cả, vượt trùng dương. Phải có sức mạnh và chí lớn phi thường: "Cưỡi gió, phá sóng”, phải có “cánh buồm mây ” mang tầm vóc vũ trụ. Có thế mới đi tới, mới bay tới mọi chân trời, mới thực hiện được lí tướng, ước mơ của mình. Ý thơ hào hùng, toát lên sức mạnh và niềm tin ngời sáng! Tóm lại, bài thơ ‘Đườngđi khổ ” của Lý Bạch có giá trị tư tưởng và nghệ thuật đặc sắc, độc đáo. Cảm hứng lãng mạn dào dạt. Tứ thơ đa dạng, phong phú, tầng tầng lớp lớp. Đường đời vừa dằng dặc vừa đẩy thử thách, cạm bẫy. Có khó khăn xã hội làm cho con người bị biến chất, thoái hóa. Có khó khăn thiên nhiên dễ làm cho ta nản chí, an phận thủ thường. Hình ảnh một con người giàu nhân cách, vô cùng sáng suốt, có bản lĩnh và niềm tin mãnh liệt dám đương đầu với mọi thử thách, dũng mãnh vượt qua mọi khó khăn trên đường đời để thực hiện ước mơ, lí tưởng cao đẹp của mình – là một hình ảnh tuyệt đẹp. Lý Bạch đã lựa chọn một hệ thống hình tượng kì vĩ, mang ý nghĩa tượng trưng và giọng thơ hùng mạnh để làm nổi bật chủ đề “đườngđi khó ” và nêu lên cách vượt khó. Tư tưởng bài thơ sâu sắc, tích cực. Lý Bạch đã nêu lên cho mọi người một bài học mà lúc nào ta cũng cảm thấy mới mẻ. Lộ trình của chúng ta đi tới thế kỉXXI đâu chỉ toàn hoa thơm trái ngọt mà có nhiều "băng đóng, tuyết phơi”. Vì thế, tuổi trẻ phải có sức mạnh đểvượt qua: sức mạnh của chí khí, sức mạnh của trí tuệ, sức mạnh của niềm tin giành thắng lợi! Nguồn: thêm: Suy nghĩ về hai chữ “nhẫn nhịn”, “nhẫn nhục”
Phân tích bài thơ Đường đi khó của Lý Bạch. Hướng dẫn Lý Bạch (701 – 762) Cốc vàng, rượu trong, vạn một đấu, Mâm ngọc, nhắm quý, giá mười ngàn. Dừng chén, ném đũa, nuốt không được. Rút kiếm, nhìn quanh, lòng mênh mang! Muốn vượt Hoàng Hà, sông băngđóng! Toan lên Thái Hàng, núi tuyết phơi! Lúc rỗi buôngcâu hờ khe biếc Bỗngmơ thuyền lướt cạnh mặt trời! Đường đi khó!Đườngđi khó! Nay ở đâu? Đườngbao ngả! Cưỡigióphá sónghẳn có ngày, Treo thẳng buồm mây vượt biển cả! Lý Bạch (701 – 762) là một trong những nhà thơ lớn nhất đời Đường. Năm 25 tuổi, mang thanh kiếm và khí phách hiệp sĩ, ông đi chu du khắp mọi chân trời; nơi nào có thắng cảnh là ông tìm đến. Năm 742 ông mới được tiến cử vào Trường An. Vua Đường Minh Hoàng đãi ông như một vị “thanh khách ” để tô điểm cuộc sống xa hoa hưởng lạc của mình. Ba năm sau, Lý Bạch chủ động xin rời khỏi kinh đô, tiếp tục ngao du sơn thủy. Lý Bạch làm bài thơ “Đườngđi khó” (Hành lộ nan) vào năm 744 ngay sau lúc rời khỏi cung đình và trước lúc giã biệt Trường An. Chùm thơ "Hành lộ nan ” gồm có 3 bài, đây là bài thơ thứ nhất, bài có giá trị tư tưởng lành mạnh nhất, tích cực nhất. "Hành lộ nan ” vốn là tên một ca khúc xưa, thường dùng để viết về những sự trắc trở hoặc nỗi khổ li biệt trong cuộc đời. Bài thơ của Lý Bạch được viết bằng bút pháp lãng mạn, thể hiện cái hùng tâm và tráng chí của một thi nhân kiếm khách. Bài thơ viết theo thể “hành”, gồm có 12 câu, được chia làm 3 phần, mỗi phần nói lên một thứ khó khăn trên đường đời. Mỗi phần có 4 câu, cấu trúc giống nhau: 2 câu trên nói về khó khăn trắc trở trên đường đòi, hai câu dưới nói về thái độ ứng xử của kẻ sĩ. Khổ thơ đầu nói lên một cái “khó”, một thứ “khó” trên đường đời, đã mấy ai dễ vượt qua? Cảm hứng thơ khơi nguồn từ một thi liệu cổ: “Nhìn cơm không nuốt được – Rút gươmchém cột dài ngậm ngùi”. Lý Bạch đã tạo nên một vần thơ với 4 hình ảnh tượng trưng đầy ý nghĩa: "Cốc vàng, rượutrong, vạn một đấu Mâm ngọc, nhắm quý, giámười ngàn" “Cốc vàng, rượu trong, mâm mọc, nhấm quý” là những thức ăn ngon, những vật dụng quý hiếm, đắt tiền, sang trọng. Ngày xưa chí có các bậc vua chúa mới có, các đại gia mới được hướng. Trong bài thơ này, nó tượng trưng cho bả vinh hoa phú quý, cái danh lợi vật chất ở đời. Hai câu thơ song hành, thủ pháp thậm xưng cực tả cái cao sang: rượu ngon một đấu giá hàng vạn, nhắm quý giá mười ngàn. Tương phản với cái cao sang ấy là một thái độ phú định quyết liệt: “Dừngchén, ném dũa, nuốt khôngđược, Rút kiếm, nhìn quanh, lòngmênh mang" "Nuốtkhông được " biểu hiện một nỗi niềm u uất pha nhiều chua chát, cay đắng. Cái cử chỉ: “dừng chén, ném đũa", cái hành động "rút kiếm nhìn quanh…”, là thái độ phủ định quyết liệt của kẻ sĩ chân chính: “phú quýbất năngdâm”.Câu thơ cho thấy một nhân cách cao đẹp: coi thường danh lợi, xa lánh bọn quyền quý giàu sang. Không chỉ là “Lưng khôn uốn, lộc nên từ” mà còn là một tâm thế: thích sống cuộc đời tự do, phóng khoáng, với lưỡi gươm hiệp sĩ vung lên muốn đi đến mọi chân trời xa rộng. “Lòngmênh mang” của kẻ sĩ là một tâm hồn bay bổng mang chí khí hải hồ, phi thường. Năm 744, Lý Bạch từ giã lầu son gác tía, nơi cung đình mang thanh kiếm hiệp khách lên đường cho thỏa chí 4 phương nói lên nhân cách cao đẹp của ông. Sự cám dỗ vật chất, của "rượu trong, nhắm quý"… đâu phải ai cũng vượt qua được? Các động từ trong hai câu thơ thứ 3, 4 này nói lên nhân cách và sức mạnh tinh thần của Lý Bạch để vượt qua một thứ “khó”, một mê lực đường đời: “dừng chén, ném đũa, nuốt không được – Rút kiếm, nhìn quanh, lòng mênh mang”. Trong một bài thơ khác, ông cũng nói lên cái “chí" của mình, cách ứng xử của mình trước mọi cám dỗ vật chất: “Dễđâu cúi đầugãy lưng phụngquyền quý Xem thêm: Phân tích tâm trạng cô đơn và nỗi đau khổ của chinh phụ trong đoạn Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ (Trích Chinh phụ ngâm) Khiến ta chẳng được mặt mày tươi ” (Câu thơ dịch nghĩa) Bốn câu thơ tiếp theo nói lên một cái “khó" thứ hai của đường đi, đường đời. Đó là những khó khăn khách quan, những gian khổ, chồng chất to lớn: "Muốn vượt HoàngHà, sông băng đóng! Toan lên Thái Hàng, núi tuyết phơi! ” Hoàng Hà, Thái Hàng là sông rộng núi cao, những trởlực, những khó khăn đâu dễ vượt qua. Khó khăn càng nhân lên nhiều lần đáng sợ, để thử thách chí khí con người: sôngđã đóng băng, núi đã phơi đầy tuyết. "Muốn vượt”, muốn "toan lên ”, muốn băng qua đâu dễ, phải có nghị lực, có quyết tâm, có bản lĩnh phi thường. Cấu trúc 2 câu thơ song hành, hình tượng kì vĩ mang tính chất tượng trưng đặc sắc. Trước cái "khó ” này, Lý Bạch đã có một cách ứng xử tích cực: "Lúc rỗi buông câu bờ suối biếc, Bỗng mơ thuyền lướt cạnh mặt trời ” Đây là hai câu thơ đẹp và hay. Câu 7 mang màu sắc lãng mạn mà giàu chất trí tuệ, nêu lên một cách ứng xử thông minh. Có khó khăn quá lớn, trước mắt chưa khắc phục được, chưa vượt qua được thì phải kiên nhẫn, chờ thời cơ. Ý thơ mở ra một trường liên tưởng về điển tích lịch sử: những Lã Vọng, Y Doãn… xa xưa. Người thì đã 80 tuổi còn ngồi câu bên bờ sông Vị, gần 10 năm trời mới gặp được Văn Vương để đem tài năng lỗi lạc ra phò đời cứu nguy, an dân, hưng quốc, kẻ thì đợi vua Thang, đã bao đêm nằm mơ thấy mình "cưỡi thuyền đến bên thái dương”. Biết kiên nhẫn chờ thời cơ, nhưng chí không nan, ước mơ, chí hướng vẫn bền: "Bỗng mơ thuyền lướt cạnh mật trời”. Hình tượng thơ tráng lệ nói lên tâm hồn lãng mạn và khí phách hào hùng của Thi tiên Lý Bạch. Tóm lại, bốn câu thơ trong phần 2, Lý Bạch chí rõ phải sáng suốt và kiên nhẫn đón chờ thời cơ, phải giữ vững mục tiêu đi tới trên đường đời, đó là hướng “mật trời ” ở phía trước! Bốn câu thơ cuối, giọng thơ vang lên dồn dập, mạnh mẽ. Cấu trúc câu thơ biến hóa: có điệp cú, điệp khúc, có câu cảm thán, câu hỏi tu từ. Cách ngắt nhịp 3/3 trong câu thơ chữ Hán cũng như trong câu thơ dịch có tác dụng gợi tả những chặng đường khó khăn trùng điệp nối tiếp hiện ra và thể hiện quyết tâm của người đi đường đầy hùng tâm, tráng chí: "Hành lộ nan! Hành lộ nan! Đa kì lộ, kim an tại? ” Nhiều ngả đường ngược xuôi, bao ngả đường quanh co trắc trở? Dễ mất phương hướng! Dễ lạc lối! Có thể rơi vào cạm bẫy "Ma đưa lối, quỷ đưa dường”. Cái khó khăn này thật ghê gớm! Và chí có thể: "Cưỡi gió phá sónghẳn có ngày, Treo thẳng buồm mây vượt biển cả! ” Thơ giàu hình tượng. Lộ trình xa lắc, mênh mông: vượt biển cả, vượt trùng dương. Phải có sức mạnh và chí lớn phi thường: "Cưỡi gió, phá sóng”, phải có “cánh buồm mây ” mang tầm vóc vũ trụ. Có thế mới đi tới, mới bay tới mọi chân trời, mới thực hiện được lí tướng, ước mơ của mình. Ý thơ hào hùng, toát lên sức mạnh và niềm tin ngời sáng! Tóm lại, bài thơ ‘Đườngđi khổ ” của Lý Bạch có giá trị tư tưởng và nghệ thuật đặc sắc, độc đáo. Cảm hứng lãng mạn dào dạt. Tứ thơ đa dạng, phong phú, tầng tầng lớp lớp. Đường đời vừa dằng dặc vừa đẩy thử thách, cạm bẫy. Có khó khăn xã hội làm cho con người bị biến chất, thoái hóa. Có khó khăn thiên nhiên dễ làm cho ta nản chí, an phận thủ thường. Hình ảnh một con người giàu nhân cách, vô cùng sáng suốt, có bản lĩnh và niềm tin mãnh liệt dám đương đầu với mọi thử thách, dũng mãnh vượt qua mọi khó khăn trên đường đời để thực hiện ước mơ, lí tưởng cao đẹp của mình – là một hình ảnh tuyệt đẹp. Lý Bạch đã lựa chọn một hệ thống hình tượng kì vĩ, mang ý nghĩa tượng trưng và giọng thơ hùng mạnh để làm nổi bật chủ đề “đườngđi khó ” và nêu lên cách vượt khó. Tư tưởng bài thơ sâu sắc, tích cực. Lý Bạch đã nêu lên cho mọi người một bài học mà lúc nào ta cũng cảm thấy mới mẻ. Lộ trình của chúng ta đi tới thế kỉXXI đâu chỉ toàn hoa thơm trái ngọt mà có nhiều "băng đóng, tuyết phơi”. Vì thế, tuổi trẻ phải có sức mạnh đểvượt qua: sức mạnh của chí khí, sức mạnh của trí tuệ, sức mạnh của niềm tin giành thắng lợi! Nguồn: thêm: Suy nghĩ về hai chữ “nhẫn nhịn”, “nhẫn nhục”
Phân tích bài thơ Đất nước cùa Nguyễn Đình Thi để làm nổi rõ cảm hứng riêng về đất nước của nhà thơ Gợi ý Đất nước là nguồn càm hứng của hàng loạt bài thơ đặc sắc sau Cách mạng tháng Tám: Cảnh rừng Việt Bắc, Cảnh khuya của Hồ Chí Minh. Ta đi tới. Việt Bắc của Tố Hữu. Tình sông núi của Trần Mai Ninh. Bên kia sông Đuống của Hoàng Cầm. Mặt đường khát vọng của Nguvễn Khoa Điềm. Cửu Long Giang ta cũ! cùa Nguyên Hồng. Nhớ con sông quê hương của Tế Hanh, Chim lượn trăm vòng của Chế Lan Viên, Nhớ mưa quê hương của Ca Lê Hiến. Quê hương của Giang Nam… Riêng ở Nguyễn Đình Thi, cảm hứng về đất nước đã chi phối hầu như tất cả nhưng bài thơ, những đoạn văn sâu sắc nhất của ông… Cảm hứng này thế hiện tập trung nhất ờ bài thơ Đất nước Dất nước là chung của mọi người, nhưng đất nước trong mỗi bài thơ, bên cạnh những nét chung vẫn có những màu sắc riêng, tạo nên bởi cái tạng của mỗi cây bút và những mối quan hệ riêng của mỗi hổn thơ đối với đất nước. Phân tích bài thơ Đất nước của Nguyễn Đình Thi nên lưu ý đến điều đó Đất nước và niềm vui của người làm chủ. Bài thơ có thể chia làm hai phần: phần thứ nhất có tiền thân là bài thơ sáng tác từ những năm đầu sau Cách mạng Tháng Tám: Sáng mát trong như sáng năm xưa (1948) và Đêm mít tinh (1949). ở thời điểm này, hai bài thơ thể hiện rõ tư thế và niềm vui của con người vừa giành được quyền làm chù đất nước mình. Nguyễn Đình Thi là một. thanh niên sống và hoạt động ở Hà Nội. Đất nước đối với anh, trước hết là Hà Nội. Không phải ngẫu nhiên mà nói đến đất nước, đến Hà Nội, nhà thơ lại nói đến mùa thu "Gió thổi mùa thu hương cốm mới. Tôi nhớ những ngày thu đã xa". Vì cảnh Hà Nội đẹp nhất vào mùa thu. Và mùa thu là cái mốc lịch sử thiêng liêng, đánh dấu cuộc đời của dân tộc này, của đất nước này… Tác già so sánh hai mùa thu của ngày xưa và của hôm nay để cảm thấy hết nỗi vui sướng và niềm tự hào được làm chù đất nước mình. Hà Nội trước ngày giải phóng vẫn đẹp và thơ mộng khi mùa thu tới. Nhưng là cái đẹp buồn: những phố xá vắng vẻ, xao xác tiếng lá khô chạy trên đường theo gió heo may. Lá vàng rụng đầy thềm nắng, gợi nên bao nỗi trống vắng, ngẩn ngơ cho cảnh vật và lòng người… Nhưng "mùa thu nay khác rồi". Không phải phố phường Hà Nội khác với cảnh vật nơi chiến khu. Cũng không phải núi rừng Việt Bắc có gì đổi mới. Rừng tre nọ, núi đồi kia, nghìn năm vẫn thế. Nhưng lòng người đã đổi nên cảnh vật bỗng khác xưa:Xem thêm: Phân tích bài thơ Đoàn thuyền đánh cá"Gió thổi rừng tre phấp phới Trời thu thay áo mới Trong biếc nói cười thiết tha…" Từ cái "Tôi" với cảnh, với người, mạch thơ chuyến đột ngột sang niềm tự hào của "chúng ta" về quyền làm chủ đất nước: "Trời xanh đây là của chúng ta Núi rừng đây là của chúng ta" Với niềm tự hào, nhà thơ say sưa nhìn ngắm, chiêm ngưỡng đất nước mình và bỗng cảm thấy "nưởc chúng ta" thật giàu đẹp, thật rộng dãi, bát ngát: "Những cánh đồng thơm mát Những ngả dường bát ngát Những dòng sông đỏ nặng phù sa" Và chứa đựng trong lòng nó biết bao xương máu của tổ tiên đã đổ xuống để xây dựng và bảo vệ từng tấc đất qua hàng nghìn năm lịch sử: "Nước những người chưa bao giờ khuất Đêm đêm rì rầm trong tiếng đẩt Những buổi ngày xưa vọng nói về" Đất nước chiến đấu và chiến thắng. Đây là phần hai của bài thơ. Tác phẩm hoàn thành nãm 1955, có nghĩa là phần hai của bài thơ này phải làm trong sáu bảy năm trời (1949 – 1955). Ở phần thứ hai này, tác giả thiên về xây dựng những hình ành có tính chất biểu tượng khái quát. Tác giả muốn qua bảy khổ thơ, tóm lược cả quá trình của cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện phát triển tới thắng lợi. Biểu tượng về phát động quần chúng cải cách ruộng đất:Xem thêm: Suy nghĩ về tình mẫu tử hay nhất "Từ gốc lúa bờ tre hồn hậu Đã bật lên những tiếng căm hờn" Biểu tượng về công nông, chủ lực quân của kháng chiến: "Khói nhà máy cuộn trong sương sớm Kèn gọi quân văng vẳng cánh đồng Ôm đất nước những người áo vải Đã đứng lên thành những anh hùng" Thành công nhất là những biểu tượng xuất phát từ những kỷ niệm riêng của nhà thơ trong thực tế kháng chiến: "Ôi những cảnh đồng quê chảy máu Dây thép gai đâm nát trời chiều Những đêm dài hành quân nung nấu Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu" Ấy là nhưng kỷ niệm một buổi chiều hành quân ở Bắc Giang nhìn lên đồi cao, dây thép gai đồn giặc in hình lên bầu trời Và ráng chiều bâm đỏ chiếu xuống những rãnh cây, tưởng như Tổ quốc bị cào xé, máu chảy trên những cánh đồng Nhưng vượt lên mọi đau thương, niềm tin không bao giờ tắt trong tâm hồn của người chiến sĩ, bỗng hiện lên trong những đêm dài hành quân như ánh mắt của người yêu toả sáng từ những ngôi sao lấp lánh trên bầu trời – đây chắc hẳn cũng là một kỷ niệm thân thiết của tác giả nên thường trở đi trở lại trong thơ ông: "… Chúng ta như hai ngôi sao Hai bầu trời lấp lánh… Nhớ em Đôi mắt hay cười” (Bài thơ viết cảnh đồn Tây) "Ngôi sao nhớ ai mà sao lấp lánhXem thêm: Bài mẫu tham khảo cuộc thi viết thư UPU 2017 Soi sáng đường chiến sĩ giữa đèo mây" (Nhớ) "Tia lửa nơi ta bay lên cao Trong mắt người yêu thành trời sao" (Em bảo anh) Một kỷ niệm khắc, ấy là cảnh quân ta chiến thắng lớn ở Điện Biên Phủ. Có cảnh tượng vĩ đại ấy mới có được biểu tượng rất đẹp bừng sáng trong đoạn thơ của Nguyễn Đình Thi: "Súng nổ rung trời giận dữ Người lên như nước vỡ bờ Nước Việt Nam từ máu lửa Rũ bùm đứng dậy sáng loa" Đất nước của Nguyễn Đinh Thi – đất nước đẹp trong đau thương, gian khổ Nếu đất nước của mỗi nhà thơ có màu sắc riêng, thì màu sắc của đất nước trong thơ Nguyễn Đình Thi là thế: "Anh yêu em như yêu đất nước Vất vả đau thương, tươi thắm vô ngần" (Nhớ) Ta hiểu vì sao những hình ảnh đẹp nhất, cảm động nhất trong bài thơ Đất nước lại là những hình ảnh heo hút, hoang vắng của Hà Nội còn trong tay giặc: "Sáng sớm lạnh trong lòng Hà Nội Những phố dài xao xác hơi may Người ra đi đầu không ngoảnh lại Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy’ Hoặc hình ảnh bầu trời Tổ quốc bị cào xé, đâm nát bởi những dây thép gai bao quanh đồn giặc: "Dây thép gai đâm nát trời chiều…". Đấy cũng là những đoạn thơ mà ta lắng nghe, thấy có một giọng ngậm ngùi riêng rất Nguyễn Đình Thi. Đất nước là một trong những bài thơ hay nhất của Nguyễn Đình Thi. Bài thơ là cả một quá trình sáng tác hầu như kéo suốt chiều dài của cuộc kháng chiến chống Pháp. Bài thơ hết sức tiêu biểu cho Nguyễn Đình Thi – nhà thơ của cảm hứng về một đất nước hùng tráng trong khổ đau, thắm tươi trong gian nan, vất vả. Vanmau.edu.vn
Analyzing the poem Country by Nguyen Dinh Thi to highlight the poet's own inspiration for his country Suggest The country is the source of inspiration for a series of unique poems after the August Revolution: Viet Bac Forest Scene, Ho Chi Minh's Late Night Scene. I'm coming. Viet Bac by To Huu. Love of rivers and mountains by Tran Mai Ninh. Across Duong River from Hoang Cam. The road of desire of Nguv Khoa Diem. Our old Kowloon River! by Nguyen Hong. Remember Te Hanh's hometown river, Che Lan Vien's birds circling hundreds of times, Remember Ca Le Hien's hometown rain. Giang Nam's homeland... Particularly in Nguyen Dinh Thi, the inspiration for the country has dominated almost all of his poems, his most profound passages... This inspiration is most concentrated in the poem "Country". The country is common to everyone, but the country in each poem, besides the common features, still has its own colors, created by the temperament of each pen and the unique relationships of each poem with the land. water. Analyzing the poem Country by Nguyen Dinh Thi should pay attention to that Country and the joy of being the owner. The poem can be divided into two parts: the first part is preceded by a poem composed in the early years after the August Revolution: The morning is cool and clear like the morning of the past (1948) and The night of the rally (1949). At this time, the two poems clearly show the posture and joy of the people who have just won the right to be the king of their country. Nguyen Dinh Thi is one. Young people living and working in Hanoi. For him, the country is first and foremost Hanoi. It is no coincidence that when talking about the country, when coming to Hanoi, the poet talks about autumn: "The wind blows in the autumn with the scent of new green rice. I remember the distant autumn days". Because Hanoi's scenery is most beautiful in the fall. And autumn is a sacred historical milestone, marking the life of this people, this country... The author compares the two autumns of the past and today to feel all the joy and pride. be the master of your country. Hanoi before liberation is still beautiful and poetic when autumn comes. But it's a sad beauty: the streets are deserted, the sound of dry leaves running on the road is carried by the wind. Fallen yellow leaves fill the sunny terrace, evoking so much emptiness and bewilderment in the landscape and people's hearts... But "this autumn is different". The streets of Hanoi are not different from the scenery in war zones. Nor are there any innovations in the mountains and forests of Viet Bac. This bamboo forest, that mountain and that hill, have been the same for thousands of years. But people's hearts have changed, so the scenery is suddenly different from before: See more: Analysis of the poem "Fishing Boats" The wind blows the fluttering bamboo forest Autumn weather brings new clothes While talking and laughing passionately..." From "I" to the scene, to the people, the poem's flow suddenly shifts to "our" pride in the right to own the country: "This blue sky is ours These mountains and forests are ours." With pride, the poet passionately looked at and admired his country and suddenly felt that "our country" is so rich and beautiful, so generous and immense: "The fields are fragrant The roads seem vast Red rivers heavy with silt" And it contains in its heart so much blood and bones of ancestors who have poured down to build and protect every inch of land over thousands of years of history: "The country of those who have never died The night is filled with murmuring sounds The expectations about the old days" The country fought and won. This is part two of the poem. The work was completed in 1955, meaning that the second part of this poem had to be worked on for six or seven years (1949 - 1955). In this second part, the author tends to build images with general symbolic nature. The author wants, through seven stanzas, to summarize the process of the all-people resistance war developing to victory. Symbol of mass mobilization for land reform: See more: The best thoughts on motherhood "From rice roots and gentle bamboo banks There were sounds of hatred" Symbol of workers and peasants, the main force of the resistance: "Factory smoke curls in the morning mist Trumpets calling the troops echoed across the fields Embrace the country of cloth-clad people Stand up as heroes" The most successful are the symbols that come from the poet's own memories of the actual resistance war: "Oh the bleeding country scenes Barbed wire punctured the afternoon sky Long nights of marching and burning "Suddenly restless, I miss my lover's eyes" Those are the memories of an afternoon march in Bac Giang, looking up at the high hills, the barbed wire of the enemy station imprinted on the sky, and the red afternoon sunlight shining down on the tree grooves, as if the Fatherland had been torn apart, blood flowing on it. But beyond all the pain, faith never fades in the soldier's soul, suddenly appearing in the long nights of marching like the eyes of a lover shining from the sparkling stars in the sky. – This must also be a close memory of the author, so it often comes back in his poems: "… We are like two stars Two sparkling skies… Miss you with smiling eyes" (Poem written about the scene of the Western station) "The star misses someone but the star twinkles See more: Sample essay for UPU 2017 letter writing contest Illuminating the path of soldiers in the midst of cloudy passes" (Miss) "Our sparks fly high In the eyes of a lover you become a starry sky" (I told you) An unforgettable memory is the scene of our army's great victory at Dien Bien Phu. Only with that great scene can there be a beautiful symbol that shines in Nguyen Dinh Thi's poem: "The gun shot shook the sky in anger People rise up like water bursting its banks Vietnam from blood and fire Stand up and speak brightly" Nguyen Dinh Thi's country - a beautiful country in pain and hardship If each poet's country has its own color, then the color of the country in Nguyen Dinh Thi's poetry is like that: "I love you like I love my country Hard work and pain, endlessly bright" (Miss) We understand why the most beautiful and touching images in the poem Country are the desolate and deserted images of Hanoi still in the hands of the enemy: "Cold early morning in the heart of Hanoi The long streets are a bit shaky The first person to leave does not look back Falling leaves behind shelves full of sunshine' Or the image of the Fatherland's sky being torn and punctured by barbed wire surrounding the enemy post: "Barbed wire punctured the afternoon sky...". These are also the poems that we listen to and see that they have a unique sad voice that is very Nguyen Dinh Thi. Country is one of Nguyen Dinh Thi's best poems. The poem is a creative process that lasted almost the entire length of the resistance war against the French. The poem is extremely representative of Nguyen Dinh Thi - the poet of inspiration about a country that is majestic in suffering, bright in hardship and hardship. Vanmau.edu.vn
Bài thơ Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm là một bài thơ hay lấy cảm hứng từ đề tài đất nước. Mặc dù đề tài này không có gì mới vẻ và cũng đã có nhiều nhà thơ viết về đất nước chẳng hạn như bài Đất nước của Nguyễn Đình Thi tuy nhiên bài thơ Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm vẫn mang một nét riêng. Để giúp các em phân tích bài thơ Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm được tốt nhất, Khoa tàng văn mẫu sẽ hướng dẫn các em lập dàn ý và cung cấp bài văn mẫu cho các em tiện tham khảo. I. Lập dàn ý phân tích bài thơ Đất nước 1. Mở bài – Giới thiệu về tác giả Nguyễn Khoa Điềm và bài thơ Đất nước. – Nguyễn Khoa Điềm thuộc các nhà thơ thế hệ chống Mỹ. – Bài thơ Đất nước trích trong trường ca Mặt đường khát vọng. 2. Thân bài phân tích bài thơ Đất nước a. Cảm nhận về đất nước – Ngôn ngữ và hình ảnh thơ bình dị, tạo sự gần gũi đối với người đọc. + Đất nước không điều gì xa lạ mà đất nước nằm ngay trong cuộc sống của chúng ta. – Đất nước được miêu tả từ các phương diện địa lý, lịch sử + Sử dụng lối viết chiết tự để khai thác sâu được khái niệm đất nước. + Sử dụng sáng tạo các yếu tố của ca dao và truyền thuyết dân gian. + Đất nước được miêu tả trải suốt chiều dài lịch sử. Đất nước được tạo nên từ sự tất cả các phương diện khác nhau của đời sống như văn hóa, truyền thống, phong tục. – Suy nghĩ, cảm xúc về đất nước: + Đất nước kết tinh và hóa thân trong cuộc sống của mỗi con người. + Lời nhắn nhủ đối với thế hệ trẻ về trách nhiệm của đất nước. b. Tư tưởng đất nước của nhân dân – Cách nhìn của tác giả về những thắng cảnh rất có chiều sâu. – Viết về lịch sử đất nước, tác giả chỉ nhắc tới những gì bình dị nhất.Xem thêm: Anh (chị) hãy tự đặt mình vào vị trí của người đưa tiễn nhìn theo cánh buồm dần xa và dòng sông chảy vào cõi trời để cảm nhận tâm tình của thi nhân trong Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng – Chính những con người bình dị ấy đã là người làm nên đất nước. – Tư tưởng đất nước của nhân dân. 3. Kết bài – Tổng quát lại nội dung bài thơ và nêu cảm nghĩ của em về bài thơ này. Bài viết liên quan: >> Phân tích bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh (Có dàn ý chi tiết) >> Phân tích bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu (Có dàn ý chi tiết) II. Bài làm phân tích bài thơ Đất nước Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm là một trong những nhà thơ thuốc thế hệ chống Mỹ. Thơ của ông giàu chất trữ tình chính luận. Trong số các sáng tác của Nguyễn Khoa Điềm, Mặt đường khát vọng là trường ca được nhiều người đánh giá cao. Trong đó, đoạn trích Đất nước đã nêu bật lên được hình ảnh của đất nước, giúp người đọc hình dung ra được đất nước là như thế nào. Những câu thơ mở đầu, đất nước được cảm nhận bằng những hình ảnh vô cùng gần gũi và giản dị: Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi Đất Nước có trong những cái ngày xửa ngày xưa mẹ thường hay kể Đất Nước bắt đầu từ miếng trầu bây giờ bà ăn Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giắc Đất nước vốn là đề tài vô cùng quen thuộc trong văn học Việt Nam. Không lạ khi trong hoàn cảnh đất nước có chiến tranh, các nhà thơ, nhà văn lại chọn đất nước làm đề tài cho sáng tác của mình. Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm mặc dù chọn một đề tài cũ nhưng cách thể hiện của ông lại rất mới. Đất nước trong thơ Nguyễn Khoa Điềm không phải cái gì quá lớn lao mà đó là những điều bình dị nhất chẳng hạn như lời mẹ thường hay kể, như miếng trầu bà vẫn thường ăn. Cứ như vậy, đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre đánh giặc. Hình ảnh đất nước trồng tre đánh giặc thể hiện con người đứng lên đấu tranh bảo vệ đất nước.Xem thêm: Cảm nhận của anh (chị) về hình ảnh tiếng đàn trong đoạn trích Đàn ghi ta của Lor-ca của Thanh Thảo Phân tích bài thơ Đất nước Để lý giải cho câu hỏi về khái niệm của đất nước, nhà thơ đã lội ngược dòng về tuổi thơ. Chính vì vậy mà nhà thơ đã đưa vào trong tác phẩm của mình những hình ảnh vô cùng gần gũi và quen thuộc với con người: Tóc mẹ thì búi sau đầu Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn Cái kèo cái cột thành tên Hạt gạo phải một nắng hai sương xay giã dần sàng Đất Nước có từ ngày đó Những hình ảnh thân quen ấy đã gợi lên cho người đọc thấy được cả một không gian về truyền thống văn hóa. Trong đó còn có cả hơi thở của ca dao. Hình ảnh gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau thể hiện nghĩa tình thủy chung của con người Việt Nam. Con người vẫn cứ tiếp tục lớn lên và trưởng thành trong hoàn cảnh như vậy. Đất nước đã tồn tại từ cái lúc con người cắp sách tới trường cho tới khi trưởng thành và có những rung động đầu đời. Tất cả những điều ấy đến một cách tự nhiên: Đất là nơi anh đến trường Nước là nơi em tắm Đất Nước là nơi ta hò hẹn Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã khéo léo dùng lối chiết tự để lý giải khái niệm của đất nước một cách cụ thể hơn. Từ những cái riêng, đất nước hòa lại làm một để tạo nên cái chung. Đó chính là sự thức tỉnh của ký ức cộng đồng. Đất nước lại hiện lên với vẻ đẹp ngọt ngào như lời ca dao, thể hiện rõ nét được lòng tự hào dân tộc. Đoạn thơ tiếp theo, nhà thơ nhắc đến hình ảnh của non sông gấm vóc, về truyền thống cha Rồng mẹ Tiên, thể hiện sự biết ơn sâu sắc đối với tổ tiên mình: Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc” Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi” Thời gian đằng đẵng Không gian mênh mông Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ Đất là nơi Chim về Nước là nơi Rồng ở Lạc Long Quân và Âu Cơ Đẻ ra đồng bào mình trong bọc trứng… Nhà thơ đã sử dụng những hình tượng thơ giàu tính thẩm mĩ để lý giải mối quan hệ giữa đất nước và nhân dân. Mối quan hệ ấy là không thể tách rời. Hòa trong mạch thơ đầy ân tình ấy, hình ảnh tượng đài đất nước hiện lên trong cả thời gian lịch sử và không gian văn hóa. Không chỉ đưa độc giả về với lịch sử mà còn dẫn độc giả tới hiện thực của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Những vần thơ giống như lời nói thể hiện trách nhiệm của bản thân trước vận mệnh của đất nước:Xem thêm: Hình ảnh con sông Đà qua sự cảm nhận của Nguyễn Tuân trong đoạn trích tác phẩm Người lái đò Sông Đà. Trong anh và em hôm nay Đều có một phần Đất Nước Trong mỗi con người đều có một phần của đất nước. Đó chính là sự thể hiện tinh thần trách nhiệm của thế hệ trẻ đối với đất nước. Tiếp nối ý thơ này, tác giả đã đi sâu vào mối quan hệ giữa đất nước và tâm hồn con người: Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình Phải biết gắn bó và san sẻ Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở Làm nên Đất Nước muôn đời. Nhà thơ đã truyền tinh thần của mình sang cho thế hệ thanh niên thời bấy giờ. Đó là một lý tưởng cao đẹp. Chính sự sẵn sàng hiến dâng và hy sinh thân mình cho đất nước như vậy nên đất nước mới tồn tại muôn đời. Bài thơ Đất nước đã cho người đọc thấy được vẻ đẹp của đất nước từ những điều bình dị, giản đơn như hơi thở. Đó là lý do vì sao bài thơ này sống mãi với thời gian. Trên đây, chúng ta đã cùng nhau lập dàn ý phân tích bài thơ Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm và tham khảo bài văn mẫu. Chúc các em học tốt với tài liệu này. Thu Thủy
Bài thơ Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm là một bài thơ hay lấy cảm hứng từ đề tài đất nước. Mặc dù đề tài này không có gì mới vẻ và cũng đã có nhiều nhà thơ viết về đất nước chẳng hạn như bài Đất nước của Nguyễn Đình Thi tuy nhiên bài thơ Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm vẫn mang một nét riêng. Để giúp các em phân tích bài thơ Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm được tốt nhất, Khoa tàng văn mẫu sẽ hướng dẫn các em lập dàn ý và cung cấp bài văn mẫu cho các em tiện tham khảo. I. Lập dàn ý phân tích bài thơ Đất nước 1. Mở bài – Giới thiệu về tác giả Nguyễn Khoa Điềm và bài thơ Đất nước. – Nguyễn Khoa Điềm thuộc các nhà thơ thế hệ chống Mỹ. – Bài thơ Đất nước trích trong trường ca Mặt đường khát vọng. 2. Thân bài phân tích bài thơ Đất nước a. Cảm nhận về đất nước – Ngôn ngữ và hình ảnh thơ bình dị, tạo sự gần gũi đối với người đọc. + Đất nước không điều gì xa lạ mà đất nước nằm ngay trong cuộc sống của chúng ta. – Đất nước được miêu tả từ các phương diện địa lý, lịch sử + Sử dụng lối viết chiết tự để khai thác sâu được khái niệm đất nước. + Sử dụng sáng tạo các yếu tố của ca dao và truyền thuyết dân gian. + Đất nước được miêu tả trải suốt chiều dài lịch sử. Đất nước được tạo nên từ sự tất cả các phương diện khác nhau của đời sống như văn hóa, truyền thống, phong tục. – Suy nghĩ, cảm xúc về đất nước: + Đất nước kết tinh và hóa thân trong cuộc sống của mỗi con người. + Lời nhắn nhủ đối với thế hệ trẻ về trách nhiệm của đất nước. b. Tư tưởng đất nước của nhân dân – Cách nhìn của tác giả về những thắng cảnh rất có chiều sâu. – Viết về lịch sử đất nước, tác giả chỉ nhắc tới những gì bình dị nhất.Xem thêm: Anh (chị) hãy tự đặt mình vào vị trí của người đưa tiễn nhìn theo cánh buồm dần xa và dòng sông chảy vào cõi trời để cảm nhận tâm tình của thi nhân trong Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng – Chính những con người bình dị ấy đã là người làm nên đất nước. – Tư tưởng đất nước của nhân dân. 3. Kết bài – Tổng quát lại nội dung bài thơ và nêu cảm nghĩ của em về bài thơ này. Bài viết liên quan: >> Phân tích bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh (Có dàn ý chi tiết) >> Phân tích bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu (Có dàn ý chi tiết) II. Bài làm phân tích bài thơ Đất nước Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm là một trong những nhà thơ thuốc thế hệ chống Mỹ. Thơ của ông giàu chất trữ tình chính luận. Trong số các sáng tác của Nguyễn Khoa Điềm, Mặt đường khát vọng là trường ca được nhiều người đánh giá cao. Trong đó, đoạn trích Đất nước đã nêu bật lên được hình ảnh của đất nước, giúp người đọc hình dung ra được đất nước là như thế nào. Những câu thơ mở đầu, đất nước được cảm nhận bằng những hình ảnh vô cùng gần gũi và giản dị: Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi Đất Nước có trong những cái ngày xửa ngày xưa mẹ thường hay kể Đất Nước bắt đầu từ miếng trầu bây giờ bà ăn Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giắc Đất nước vốn là đề tài vô cùng quen thuộc trong văn học Việt Nam. Không lạ khi trong hoàn cảnh đất nước có chiến tranh, các nhà thơ, nhà văn lại chọn đất nước làm đề tài cho sáng tác của mình. Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm mặc dù chọn một đề tài cũ nhưng cách thể hiện của ông lại rất mới. Đất nước trong thơ Nguyễn Khoa Điềm không phải cái gì quá lớn lao mà đó là những điều bình dị nhất chẳng hạn như lời mẹ thường hay kể, như miếng trầu bà vẫn thường ăn. Cứ như vậy, đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre đánh giặc. Hình ảnh đất nước trồng tre đánh giặc thể hiện con người đứng lên đấu tranh bảo vệ đất nước.Xem thêm: Cảm nhận của anh (chị) về hình ảnh tiếng đàn trong đoạn trích Đàn ghi ta của Lor-ca của Thanh Thảo Phân tích bài thơ Đất nước Để lý giải cho câu hỏi về khái niệm của đất nước, nhà thơ đã lội ngược dòng về tuổi thơ. Chính vì vậy mà nhà thơ đã đưa vào trong tác phẩm của mình những hình ảnh vô cùng gần gũi và quen thuộc với con người: Tóc mẹ thì búi sau đầu Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn Cái kèo cái cột thành tên Hạt gạo phải một nắng hai sương xay giã dần sàng Đất Nước có từ ngày đó Những hình ảnh thân quen ấy đã gợi lên cho người đọc thấy được cả một không gian về truyền thống văn hóa. Trong đó còn có cả hơi thở của ca dao. Hình ảnh gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau thể hiện nghĩa tình thủy chung của con người Việt Nam. Con người vẫn cứ tiếp tục lớn lên và trưởng thành trong hoàn cảnh như vậy. Đất nước đã tồn tại từ cái lúc con người cắp sách tới trường cho tới khi trưởng thành và có những rung động đầu đời. Tất cả những điều ấy đến một cách tự nhiên: Đất là nơi anh đến trường Nước là nơi em tắm Đất Nước là nơi ta hò hẹn Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã khéo léo dùng lối chiết tự để lý giải khái niệm của đất nước một cách cụ thể hơn. Từ những cái riêng, đất nước hòa lại làm một để tạo nên cái chung. Đó chính là sự thức tỉnh của ký ức cộng đồng. Đất nước lại hiện lên với vẻ đẹp ngọt ngào như lời ca dao, thể hiện rõ nét được lòng tự hào dân tộc. Đoạn thơ tiếp theo, nhà thơ nhắc đến hình ảnh của non sông gấm vóc, về truyền thống cha Rồng mẹ Tiên, thể hiện sự biết ơn sâu sắc đối với tổ tiên mình: Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc” Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi” Thời gian đằng đẵng Không gian mênh mông Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ Đất là nơi Chim về Nước là nơi Rồng ở Lạc Long Quân và Âu Cơ Đẻ ra đồng bào mình trong bọc trứng… Nhà thơ đã sử dụng những hình tượng thơ giàu tính thẩm mĩ để lý giải mối quan hệ giữa đất nước và nhân dân. Mối quan hệ ấy là không thể tách rời. Hòa trong mạch thơ đầy ân tình ấy, hình ảnh tượng đài đất nước hiện lên trong cả thời gian lịch sử và không gian văn hóa. Không chỉ đưa độc giả về với lịch sử mà còn dẫn độc giả tới hiện thực của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Những vần thơ giống như lời nói thể hiện trách nhiệm của bản thân trước vận mệnh của đất nước:Xem thêm: Hình ảnh con sông Đà qua sự cảm nhận của Nguyễn Tuân trong đoạn trích tác phẩm Người lái đò Sông Đà. Trong anh và em hôm nay Đều có một phần Đất Nước Trong mỗi con người đều có một phần của đất nước. Đó chính là sự thể hiện tinh thần trách nhiệm của thế hệ trẻ đối với đất nước. Tiếp nối ý thơ này, tác giả đã đi sâu vào mối quan hệ giữa đất nước và tâm hồn con người: Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình Phải biết gắn bó và san sẻ Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở Làm nên Đất Nước muôn đời. Nhà thơ đã truyền tinh thần của mình sang cho thế hệ thanh niên thời bấy giờ. Đó là một lý tưởng cao đẹp. Chính sự sẵn sàng hiến dâng và hy sinh thân mình cho đất nước như vậy nên đất nước mới tồn tại muôn đời. Bài thơ Đất nước đã cho người đọc thấy được vẻ đẹp của đất nước từ những điều bình dị, giản đơn như hơi thở. Đó là lý do vì sao bài thơ này sống mãi với thời gian. Trên đây, chúng ta đã cùng nhau lập dàn ý phân tích bài thơ Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm và tham khảo bài văn mẫu. Chúc các em học tốt với tài liệu này. Thu Thủy
Đề bài: Phân tích bài thơ Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm Bài làm Nguyễn Khoa Điềm là một nhà thơ có nhiều đóng góp cho nền thơ ca của dân tộc. Thơ của ông thường có sự gắn kết giữa yếu tố chính luận và trữ tình. Những sáng tác của ông thể hiện khát vọng chiến đấu và thể hiện niềm tin vào một ngày mai chiến thắng. Đoạn trích Đất Nước chính là một trong những bài thơ tiêu biểu trong sự nghiệp văn thơ của ông. Bài thơ Đất Nước được trích trong trường ca Mặt đường khát vọng. Bài thơ thể hiện quan điểm của Nguyễn Khoa Điềm về đất nước, cảm nhận về đất nước qua cái nhìn trọn vẹn của nhà thơ. Trước tiên ông có cảm nhận đầu tiên về đất nước chính là qua cái nhìn theo chiều dài của lịch sử, đó là lịch sử từ quá khứ đến hiện tại mà còn hướng cả về tương lai: “Khi ta lớn lên đất nước đã có rồi Đất nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa” – mẹ thường hay kể Đất nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc” Có thể tác giả không biết được thời điểm chính xác đất nước được hình thành từ bao giờ nhưng ông biết nó tồn tại ở đâu. Đó là ở trong những lời kể của mẹ, trong miếng trầu của bà. Tất cả đều là những hình ảnh về cuộc sống sinh hoạt hết sức gần gũi và bình dị của nhân dân chứ không của riêng gì bà và mẹ của tác giả. Bởi đó là các bà, các mẹ chung của dân tộc mình. Như chúng ta đã biết miếng trầu, hay tục ăn trầu là một nét đẹp văn hoa của dân tộc và có mặt từ rất lâu đời. Dân gian ta quan niệm “Miếng trầu là đầu câu chuyện”, hay miếng trầu trong tục cưới xin…Nên ta có thể thấy được sự đúng đắn của nhà thơ khi nói rằng đất nước có trong miếng trầu của bà. Đất nước cũng giống với con người, không chỉ mãi giậm chân tại chỗ được mà cũng sẽ có sự hình thành và phát triển. Ở đây đất nước ngày càng lớn mạnh chính là nhờ công cuộc đấu tranh của dân tộc. Không chỉ vậy đất nước còn tồn tại trong nhiều hình ảnh sinh hoạt, lao động, trong những vật dụng thường ngày của nhân dân:Xem thêm: Hình ảnh nhân dân trong kỉ niệm của nhà thơ được thể hiện qua những con người cụ thể nào? Phân tích bài thơ Đất Nước “Tóc mẹ thì bới sau đầu Cha mẹ thương nhau gừng cay muối mặn Cái kèo, cái cột thành tên Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng Đất nước có từ ngày đó” Mỗi người đều có những quan niệm riêng, những định nghĩa riêng về đất nước. Đối với Nguyễn Khoa Điềm thì quan điểm về đất nước có sự thống nhất giữa thời gian lịch sử với địa lý, giữa không gian với thời gian. Thêm vào đó đất nước còn được nhìn nhận dưới góc nhìn của tuổi trẻ đó là: “Đất là nơi danh đến trường Nước là nơi em tắm Đất nước là nơi ta hò hẹn” Hình ảnh con đường đến trường của những cô cậu học trò, rồi khi lớn hơn, đất nước chính là nơi họ hò hẹn. Tất cả gợi ra một không gian quen thuộc nhưng cũng đầy thơ mộng. Đất nước còn là không gian mênh mông của núi sông, hay của thiên nhiên nói chung. Nét đặc sắc của Nguyễn Khoa Điềm chính là đã khẳng định được nhân dân chính là người làm ra đất nước, họ không chỉ chiến đấu giữ nước mà còn sáng tạo nên những giá trị vật chất và tinh thần. Không dừng lại ở đó, nhà thơ còn khẳng định đất nước là một khoảng không gian cụ thể, là nơi con người có thể sinh tồn. Đất nước được tạo nên từ thời xa xưa và còn được nhìn nhận thông qua những truyền thuyết về nguồn gốc tổ tiên: “Thời gian đằng đẵng Không gian mênh mông Đất nước là nơi dân mình đoàn tụ Đất là nơi Chim về Nước là nơi Rồng ở Lạc Long Quân và Âu Cơ Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng” Những truyền thuyết về Âu Cơ, Lạc Long Quân về thời đại vua Hùng, về ngày giỗ tổ đã nói lên được chiều sâu và bề dày của lịch sử dân tộc. Đất nước được cảm nhận trong sự thống nhất của những truyền thống văn hóa trong một không gian văn hóa cụ thể. Qua những phân tích trên ta có thể được với cái nhìn của Nguyễn Khoa Điềm thì đất nước không phải cái gì quá trừu tượng, cũng không phải là cái mà ta không nắm bắt, nhìn thấy được. Đất nước hiện diện ngay trong chính cuộc sống sinh hoạt và lao động của mỗi người. Mỗi chúng ta là một phần của đất nước, chính vì thế cần phải có trách nhiệm giữ gìn, phát triển đất nước:Xem thêm: Phân tích khổ thơ thứ 6 trong bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu – văn 12 “Em ơi em đất nước là máu xương của mình Phải biết gắn bó và san sẻ Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở Làm nên đất nước muôn đời” Sang đến phần thứ hai của đoạn trích, suy nghĩ của hà thơ đã vươn tới một tư tưởng lớn đó chính là đất nước của nhân dân, chính nhân dân là người làm nên đất nước. Đây cũng chính là tư tưởng góp phần hoàn thiện hơn những quan niệm trong thơ ca hiện đại khi nói về đất nước. Phần này nhà thơ đã thể hiện sự hiểu biết của mình đối với những cảnh sắc thiên nhiên của đất nước, những sự tích được truyền tai nhau từ đời này qua đời khác: “Những người vợ nhớ trồng còn góp cho đất nước Những hòn núi Vọng Phu, cặp vợi chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất tổ Hùng Vương Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm Người học trò nghèo góp cho đất nước mình núi Bút, non Nghiên [….]” Những danh lam thắng cảnh ở khắp mọi nơi trên mọi miền Tổ quốc. Chính nhân dân đã sáng tạo ra những sự tích để đặt tên cho những ngọn núi, dòng sông. Trải qua bốn nghìn lăm lịch sử, trải qua những gì mà nhà thơ đã nhìn nhận thì tác giả đúc kết lại thành “Những cuộc đời đã hóa núi sông ta”. Tư tưởng “Đất nước của nhân dân” đã chi phối cách nhìn của nhà thơ. Tác giả không ca ngợi những triều đại, những vị anh hùng mà sử sách lưu danh mà chỉ nói về những con người bình thường, bình dị:Xem thêm: Bàn về truyện ngắn có ý kiến cho rằng: “Qua một nỗi lòng, một cảnh ngộ, một sự việc của nhân vật, nhà văn muốn đối thoại với bạn đọc một vấn đề nhân sinh”. Hãy từ một truyện ngắn mà anh (chị) thích, bày tỏ quan niệm của mình về ý kiến trên “Họ đã sống và chết Giản dị và bình tâm Không ai nhớ mặt đặt tên Nhưng họ đã làm ra Đất Nước” Những người bình dị họ sống và lao động xây dựng quê hương, đất nước. Trong cuộc chiến đấu chống giặc ngoại xâm của dân tộc có rất nhiều chiến sĩ đã ngã xuống, có những người được lưu danh, được mọi người biết đến nhưng cũng có rất nhiều sự hi sinh thầm lặng. Mạch cảm xúc dường như lắng đọng lại và được hội tụ ở hai câu thơ: “Đất nước này là đất nước nhân dân Đất nước của nhân dân, đất nước của ca dao, thần thoại” Không cầu kỳ, hoa mỹ, cũng chẳng dài dòng mà lại rất đản dị, bất ngờ về định nghĩa của nhà thơ về Đất nước. Hai câu thơ dường như song song với nhau để định nghĩa về đất nước. Đất nước do nhân dân sáng tạo nên. Trong kho tàng ca dao, thần loại bao hàm cả lịch sử, cả truyền thống văn hóa của dân tộc và đặc biết đó chính là đời sống tinh thần của nhân dân. Đoạn trích Đất Nước đã khiến cho chúng ta có cái nhìn mới mẻ và sâu sắc về đất nước. Qua đó càng làm khơi dậy trong chúng ta lòng yêu nước, niềm tự hào dân tộc và ý thức trách nhiệm của chúng ta trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Loan Trương
Đề bài: Phân tích bài thơ Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm Bài làm Nguyễn Khoa Điềm là một nhà thơ có nhiều đóng góp cho nền thơ ca của dân tộc. Thơ của ông thường có sự gắn kết giữa yếu tố chính luận và trữ tình. Những sáng tác của ông thể hiện khát vọng chiến đấu và thể hiện niềm tin vào một ngày mai chiến thắng. Đoạn trích Đất Nước chính là một trong những bài thơ tiêu biểu trong sự nghiệp văn thơ của ông. Bài thơ Đất Nước được trích trong trường ca Mặt đường khát vọng. Bài thơ thể hiện quan điểm của Nguyễn Khoa Điềm về đất nước, cảm nhận về đất nước qua cái nhìn trọn vẹn của nhà thơ. Trước tiên ông có cảm nhận đầu tiên về đất nước chính là qua cái nhìn theo chiều dài của lịch sử, đó là lịch sử từ quá khứ đến hiện tại mà còn hướng cả về tương lai: “Khi ta lớn lên đất nước đã có rồi Đất nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa” – mẹ thường hay kể Đất nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc” Có thể tác giả không biết được thời điểm chính xác đất nước được hình thành từ bao giờ nhưng ông biết nó tồn tại ở đâu. Đó là ở trong những lời kể của mẹ, trong miếng trầu của bà. Tất cả đều là những hình ảnh về cuộc sống sinh hoạt hết sức gần gũi và bình dị của nhân dân chứ không của riêng gì bà và mẹ của tác giả. Bởi đó là các bà, các mẹ chung của dân tộc mình. Như chúng ta đã biết miếng trầu, hay tục ăn trầu là một nét đẹp văn hoa của dân tộc và có mặt từ rất lâu đời. Dân gian ta quan niệm “Miếng trầu là đầu câu chuyện”, hay miếng trầu trong tục cưới xin…Nên ta có thể thấy được sự đúng đắn của nhà thơ khi nói rằng đất nước có trong miếng trầu của bà. Đất nước cũng giống với con người, không chỉ mãi giậm chân tại chỗ được mà cũng sẽ có sự hình thành và phát triển. Ở đây đất nước ngày càng lớn mạnh chính là nhờ công cuộc đấu tranh của dân tộc. Không chỉ vậy đất nước còn tồn tại trong nhiều hình ảnh sinh hoạt, lao động, trong những vật dụng thường ngày của nhân dân:Xem thêm: Hình ảnh nhân dân trong kỉ niệm của nhà thơ được thể hiện qua những con người cụ thể nào? Phân tích bài thơ Đất Nước “Tóc mẹ thì bới sau đầu Cha mẹ thương nhau gừng cay muối mặn Cái kèo, cái cột thành tên Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng Đất nước có từ ngày đó” Mỗi người đều có những quan niệm riêng, những định nghĩa riêng về đất nước. Đối với Nguyễn Khoa Điềm thì quan điểm về đất nước có sự thống nhất giữa thời gian lịch sử với địa lý, giữa không gian với thời gian. Thêm vào đó đất nước còn được nhìn nhận dưới góc nhìn của tuổi trẻ đó là: “Đất là nơi danh đến trường Nước là nơi em tắm Đất nước là nơi ta hò hẹn” Hình ảnh con đường đến trường của những cô cậu học trò, rồi khi lớn hơn, đất nước chính là nơi họ hò hẹn. Tất cả gợi ra một không gian quen thuộc nhưng cũng đầy thơ mộng. Đất nước còn là không gian mênh mông của núi sông, hay của thiên nhiên nói chung. Nét đặc sắc của Nguyễn Khoa Điềm chính là đã khẳng định được nhân dân chính là người làm ra đất nước, họ không chỉ chiến đấu giữ nước mà còn sáng tạo nên những giá trị vật chất và tinh thần. Không dừng lại ở đó, nhà thơ còn khẳng định đất nước là một khoảng không gian cụ thể, là nơi con người có thể sinh tồn. Đất nước được tạo nên từ thời xa xưa và còn được nhìn nhận thông qua những truyền thuyết về nguồn gốc tổ tiên: “Thời gian đằng đẵng Không gian mênh mông Đất nước là nơi dân mình đoàn tụ Đất là nơi Chim về Nước là nơi Rồng ở Lạc Long Quân và Âu Cơ Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng” Những truyền thuyết về Âu Cơ, Lạc Long Quân về thời đại vua Hùng, về ngày giỗ tổ đã nói lên được chiều sâu và bề dày của lịch sử dân tộc. Đất nước được cảm nhận trong sự thống nhất của những truyền thống văn hóa trong một không gian văn hóa cụ thể. Qua những phân tích trên ta có thể được với cái nhìn của Nguyễn Khoa Điềm thì đất nước không phải cái gì quá trừu tượng, cũng không phải là cái mà ta không nắm bắt, nhìn thấy được. Đất nước hiện diện ngay trong chính cuộc sống sinh hoạt và lao động của mỗi người. Mỗi chúng ta là một phần của đất nước, chính vì thế cần phải có trách nhiệm giữ gìn, phát triển đất nước:Xem thêm: Phân tích khổ thơ thứ 6 trong bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu – văn 12 “Em ơi em đất nước là máu xương của mình Phải biết gắn bó và san sẻ Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở Làm nên đất nước muôn đời” Sang đến phần thứ hai của đoạn trích, suy nghĩ của hà thơ đã vươn tới một tư tưởng lớn đó chính là đất nước của nhân dân, chính nhân dân là người làm nên đất nước. Đây cũng chính là tư tưởng góp phần hoàn thiện hơn những quan niệm trong thơ ca hiện đại khi nói về đất nước. Phần này nhà thơ đã thể hiện sự hiểu biết của mình đối với những cảnh sắc thiên nhiên của đất nước, những sự tích được truyền tai nhau từ đời này qua đời khác: “Những người vợ nhớ trồng còn góp cho đất nước Những hòn núi Vọng Phu, cặp vợi chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất tổ Hùng Vương Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm Người học trò nghèo góp cho đất nước mình núi Bút, non Nghiên [….]” Những danh lam thắng cảnh ở khắp mọi nơi trên mọi miền Tổ quốc. Chính nhân dân đã sáng tạo ra những sự tích để đặt tên cho những ngọn núi, dòng sông. Trải qua bốn nghìn lăm lịch sử, trải qua những gì mà nhà thơ đã nhìn nhận thì tác giả đúc kết lại thành “Những cuộc đời đã hóa núi sông ta”. Tư tưởng “Đất nước của nhân dân” đã chi phối cách nhìn của nhà thơ. Tác giả không ca ngợi những triều đại, những vị anh hùng mà sử sách lưu danh mà chỉ nói về những con người bình thường, bình dị:Xem thêm: Bàn về truyện ngắn có ý kiến cho rằng: “Qua một nỗi lòng, một cảnh ngộ, một sự việc của nhân vật, nhà văn muốn đối thoại với bạn đọc một vấn đề nhân sinh”. Hãy từ một truyện ngắn mà anh (chị) thích, bày tỏ quan niệm của mình về ý kiến trên “Họ đã sống và chết Giản dị và bình tâm Không ai nhớ mặt đặt tên Nhưng họ đã làm ra Đất Nước” Những người bình dị họ sống và lao động xây dựng quê hương, đất nước. Trong cuộc chiến đấu chống giặc ngoại xâm của dân tộc có rất nhiều chiến sĩ đã ngã xuống, có những người được lưu danh, được mọi người biết đến nhưng cũng có rất nhiều sự hi sinh thầm lặng. Mạch cảm xúc dường như lắng đọng lại và được hội tụ ở hai câu thơ: “Đất nước này là đất nước nhân dân Đất nước của nhân dân, đất nước của ca dao, thần thoại” Không cầu kỳ, hoa mỹ, cũng chẳng dài dòng mà lại rất đản dị, bất ngờ về định nghĩa của nhà thơ về Đất nước. Hai câu thơ dường như song song với nhau để định nghĩa về đất nước. Đất nước do nhân dân sáng tạo nên. Trong kho tàng ca dao, thần loại bao hàm cả lịch sử, cả truyền thống văn hóa của dân tộc và đặc biết đó chính là đời sống tinh thần của nhân dân. Đoạn trích Đất Nước đã khiến cho chúng ta có cái nhìn mới mẻ và sâu sắc về đất nước. Qua đó càng làm khơi dậy trong chúng ta lòng yêu nước, niềm tự hào dân tộc và ý thức trách nhiệm của chúng ta trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Loan Trương
Đề bài: Phân tích bài thơ Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm Đất Nước là nguồn cảm hứng bất tận của thơ ca và nghệ thuật. Mỗi nhà thơ đều có những cảm nhận rất riêng về Đất Nước, bởi thế Đất Nước, Tổ quốc hiện lên muôn màu muôn vẻ. Nếu như các nhà thơ cùng thời thường chọn điểm nhìn về Đất Nước bằng những hình ảnh kỳ vĩ, mỹ lệ hay cảm hững về lịch sử qua các triều đại thì Nguyễn Khoa Điềm lại chọn điểm nhìn gần gũi, quen thuộc bình dị để miêu tả về Đất Nước. Đến với bài thơ Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm ta như đứng trước muôn màu văn hóa, truyền thống, phong tục tươi đẹp vô ngần. Vẻ đẹp ấy được hiện lên sâu sắc nhất qua chín câu thơ đầu. Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa” mẹ thường hay kể. Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc Tóc mẹ thì bới sau đầu Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn Cái kèo, cái cột thành tên Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng Đất Nước có từ ngày đó… Đất nước là nguồn cảm hứng bất tận của thơ ca. Ở bài thơ này, Nguyễn Khoa Điềm đã chọn điểm nhìn gần gũi để miêu tả một đất nước tự nhiên, bình dị mà không kém phần thiêng liêng, tươi đẹp. Hình ảnh đất nước trong đoạn thơ đầu hiện lên muôn màu muôn vẻ, sinh động lạ thường, lắng đọng trong tâm tưởng ta qua những nét đẹp về phong tục, tập quán, văn hóa, truyền thống mang đậm dấu ấn con người Việt. Phân tích bài thơ Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm Câu thơ mở đầu được viết theo thể câu khẳng định “Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi”. Với cách vào đầu rất tự nhiên ấy, nhà thơ khẳng định: Đất Nước đã có từ rất lâu, có trước khi ta sinh ra vì thế khi ta lớn lên thì ta đã thấy Đất Nước. Bốn chữ cuối của câu thơ vang lên đầy tự hào “Đất Nước đã có rồi”. Đó là lời khẳng định chắc nịch về sự trường tồn của đất nước qua mấy ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ nước. Hai câu thơ tiếp theo nhà thơ diễn tả cụ thể về sự ra đời của đất nước. Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa” mẹ thường hay kể. Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn Câu thơ thứ nhất, tác giả cho rằng Đất Nước có trong cái “ngày xửa ngày xưa”. Nghĩa là Đất Nước có từ rất lâu đời, có tự ngày xưa. Đất Nước có từ trước khi những câu truyện cổ ra đời rồi khi những câu truyện cổ có mặt trong đời sống tinh thần của ta, ta lại thấy Đất Nước hiện diện trong truyện cổ. Đó là Đất Nước của một nền văn học dân gian đặc sắc với những câu chuyện cổ tích, thần thoại, truyền thuyết. Chính những câu chuyện cổ và những bài hát ru thuở ta còn nằm nôi là nguồn sữa ngọt lành chăm bẵm cho ta cái chân thiện mĩ và lớn lên ta biết yêu đất nước con người. Về ý nghĩa của truyện cổ với đời sống tinh thần con người, nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ đã xúc động mà viết nên: Tôi yêu truyện cổ nước tôi Vừa nhân hậu lại tuyệt vời sâu xa Thương người rồi mới thương ta Yêu nhau dù mấy cách xa cũng gần (Truyện cổ nước mình) Câu thơ thứ hai, nhà thơ diễn tả Đất Nước có trong “miếng trầu bây giờ bà ăn”. Gợi nhắc phong tục ăn trầu của người Việt. Câu thơ gợi nhớ về câu truyện cổ tích “Sự tích trầu cau” được xem là xưa nhất trong những câu truyện cổ. Tục ăn trầu cũng từ câu truyện này mà nên. Như vậy là thẩm thấu vào trong miếng trầu dung dị ấy là 4000 năm phong tục, 4000 năm dân ta gìn giữ phong tục ăn trầu. Miếng trầu là biểu tượng của tình yêu, vật chứng cho lứa đôi cũng là biểu tượng tâm linh của người Việt. Từ phong tục ăn trầu, tục nhuộm răng đen cũng ra đời: Những cô hàng xén răng đen Cười như mùa thu tỏa nắng (Hoàng Cầm) Câu thơ thứ tư, nhà thơ diễn tả sự trưởng thành của Đất Nước. Đó là sự trưởng thành từ truyền thống đánh giặc giữ nước qua hình tượng Thánh Gióng và cây tre: “Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc” Câu thơ gợi nhắc cho ta nhớ đến truyền thuyết Thánh Gióng, chàng trai Phù Đổng Thiên Vương nhổ tre làng Ngà đánh giặc, gợi lên vẻ đẹp khỏe khoắn của tuổi trẻ Việt Nam kiên cường, bất khuất: Ta như thuở xưa thần Phù Đổng Vụt lớn lên đánh đuổi giặc Ân Sức nhân dân khoẻ như ngựa sắt Chí căm thù ta rèn thép thành roi Lửa chiến đấu ta phun vào mặt Lũ sát nhân cướp nước hại nòi Xem thêm: Cảm nhận của em về khổ thơ sau trong bài thơ Mùa xuân nho nhỏ của Thanh Hải: "Ta làm con chim hót. Ta làm một nhành hoa. Ta nhập vào hoà ca. Một nốt trầm xao xuyến." (Tố Hữu) Truyền thống vẻ vang ấy đã theo suốt chặng đường dài của lịch sử dân tộc mãi đến hôm nay trong thời đại chống Mỹ bao tấm gương tuổi trẻ đã anh dũng chiến đấu bảo vệ giống nòi. Phải chăng, đó chính là vẻ đẹp của các chị, các anh đã tạc vào lịch sử Việt Nam dáng đứng kiêu hùng bất khuất: Võ Thị Sáu, Trần Văn Ơn, Nguyễn Văn Trỗi… Vẻ đẹp ấy song hành với hình ảnh cây tre Việt Nam. Cây tre hiền hậu trên mỗi làng quê. Nó như là sự đồng hiện những phẩm chất trong cốt cách con người Việt Nam: thật thà chất phác, đôn hậu thuỷ chung, yêu chuộng hoà bình nhưng cũng kiên cường bất khuất trong tranh đấu. Tre đứng thẳng hiên ngang bất khuất cùng chia lửa với dân tộc "Một cây chông cũng tiến công giặc Mỹ ", bởi: "Nòi tre đâu chịu mọc cong Chưa lên đã nhọn như chông lạ thường". Bốn câu thơ tiếp theo nhà thơ mang đến cho người đọc vẻ đẹp thuần phong mỹ tục của con người Việt: Tóc mẹ thì bới sau đầu Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn Cái kèo, cái cột thành tên Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng Đó là vẻ đẹp giản dị của người phụ nữ Việt Nam. Không ai khác là những người mẹ với phong tục “búi tóc sau đầu” (tóc cuộn thành búi sau gáy tạo cho người phụ nữ một vẻ đẹp nữ tính, thuần hậu rất riêng). Nét đẹp ấy gơi nhớ ca dao: Tóc ngang lưng vừa chừng em bới Để chi dài cho rối lòng anh Nguyễn Khoa Điềm tiếp tục gắn dòng suy tưởng đến con người ngàn đời cư trú, lao động, chiến đấu trên mảnh đất Việt để giữ gìn tôn tạo mảnh đất thân yêu. Ở đó đạo lí ân nghĩa thủy chung đã trở thành truyền thống ngàn đời của dân tộc: "Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn". Ý thơ được toát lên từ những câu ca dao đẹp: “Tay bưng đĩa muối chén gừng Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau” Thành ngữ “gừng cay muối mặn” được vận dụng một cách đặc sắc trong câu thơ nhẹ nhàng mà thấm đượm biết bao ân tình. Nó gợi lên được ân nghĩa thủy chung ở đời: gừng càng già càng cay, muối càng lâu năm càng mặn, con người sống với nhau lâu năm thì tình nghĩa càng đong đầy. Có lẽ chính vì vậy mà Đất Nước còn ghi dấu ấn của cha của mẹ bằng Hòn trống mái, núi Vọng Phu, Hòn Trống Mái… đi vào năm tháng. Câu thơ "Cái kèo cái cột thành tên", gợi nhắc cho người đọc nhớ đến tục làm nhà cổ của người Việt. Đó là tục làm nhà sử dụng kèo cột giằng giữ vào nhau làm cho nhà vững chãi, bền chặt tránh được mưa gió, thú dữ. Đó cũng là ngôi nhà tổ ấm cho mọi gia đình đoàn tụ bên nhau; siêng năng tích góp mỡ màu dồn thành sự sống. Từ đó, tục đặt tên con “cái Kèo, cái Cột” cũng ra đời. Đâu chỉ có những vẻ đẹp trên, dân tộc ta còn có truyền thống lao động cần cù, chịu thương chịu khó “Hạt gạo phải một nắng hai sương xay giã dần sàng”. Thành ngữ “Một nắng hai sương” gợi nên sự cần cù chăm chỉ của cha ông ta những ngày long đong, lận đận trong đời sống nông nghiệp lạc hậu. Đó là truyền thống lao động cần cù, chịu thương chịu khó. Các động từ “Xay – giã – dần – sang” là quy trình sản xuất ra hạt gạo. Để làm ra hạt gạo ta ăn hằng ngày, người nông dân phải trải qua bao nắng sương vất vả gieo cấy, xay giã, giần sàng. Thấm vào trong hạt gạo bé nhỏ ấy là mồ hôi vị mặn nhọc nhằn của giai cấp nông dân. Bởi vậy, ăn hạt gạo dẻo thơm ta phải nhớ công ơn người đã làm ra nó: Ai ơi bưng bát cơm đầy Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần. Câu thơ cuối cùng khép lại một câu khẳng định với niềm tự hào: “Đất Nước có từ ngày đó”. “Ngày đó” là ngày nào ta không rõ nhưng chắc chắn “ngày đó” là ngày ta có truyền thống, có phong tục tập quán, có văn hóa mà có văn hóa nghĩa là có đất nước. Đúng như lời Bác dặn trước lúc đi xa “Rằng muốn yêu tổ quốc mình, phải yêu những câu hát dân ca”. Dân ca, ca dao là đặc trưng văn hóa của Việt Nam, muốn yêu Đất Nước trước hết phải yêu và quý trọng văn hóa nước nhà. Bởi văn hóa chính là Đất Nước. Thật đáng yêu đáng quý, đáng tự hào biết bao lời thơ dung dị, ngọt ngào của Nguyễn Khoa Điềm. Thành công của đoạn thơ trên là nhờ vào việc vận dụng khéo léo chất liệu văn hóa dân gian như phong tục ăn trầu, tục búi tóc, truyền thống đánh giặc, truyền thống nông nghiệp. Nhà thơ sáng tạo thành ngữ dân gian, ca dao tục ngữ, thành ngữ…Điệp ngữ Đất Nước được nhắc lại nhiều lần. Nhà thơ luôn viết hoa hai từ Đất Nước tạo nên sự thànhi ính, thiêng liêng… Tất cả làm nên một đoạn thơ đậm đà không gian văn hóa người Việt. Ngôn ngữ mộc mạc, giản dị, lời thơ nhẹ nhàng đúng giọng thủ thỉ tâm tình nhưng vẫn mang đậm hồn thơ triết lí. Đoạn thơ ta vừa phân tích ở trên là đoạn thơ hay nhất trong bài thơ Đất Nước. Qua đoạn thơ, nhà thơ đã mang đến cho người đọc vẻ đẹp của một Đất Nước giàu văn hóa cổ truyền. Đất Nước của truyền thống, phong tục tươi đẹp mang đậm dấu ấn của tư tưởng Đất Nước của nhân dân. Nguồn Vanmau Xem thêm: Từ xưa đến nay, cha ông ta luôn coi văn học là một thứ vũ khí chiến đấu mạnh mẽ và sắc bén. Em hãy làm sáng tỏ quan niệm đó
Đề bài: Phân tích bài thơ Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm Đất Nước là nguồn cảm hứng bất tận của thơ ca và nghệ thuật. Mỗi nhà thơ đều có những cảm nhận rất riêng về Đất Nước, bởi thế Đất Nước, Tổ quốc hiện lên muôn màu muôn vẻ. Nếu như các nhà thơ cùng thời thường chọn điểm nhìn về Đất Nước bằng những hình ảnh kỳ vĩ, mỹ lệ hay cảm hững về lịch sử qua các triều đại thì Nguyễn Khoa Điềm lại chọn điểm nhìn gần gũi, quen thuộc bình dị để miêu tả về Đất Nước. Đến với bài thơ Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm ta như đứng trước muôn màu văn hóa, truyền thống, phong tục tươi đẹp vô ngần. Vẻ đẹp ấy được hiện lên sâu sắc nhất qua chín câu thơ đầu. Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa” mẹ thường hay kể. Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc Tóc mẹ thì bới sau đầu Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn Cái kèo, cái cột thành tên Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng Đất Nước có từ ngày đó… Đất nước là nguồn cảm hứng bất tận của thơ ca. Ở bài thơ này, Nguyễn Khoa Điềm đã chọn điểm nhìn gần gũi để miêu tả một đất nước tự nhiên, bình dị mà không kém phần thiêng liêng, tươi đẹp. Hình ảnh đất nước trong đoạn thơ đầu hiện lên muôn màu muôn vẻ, sinh động lạ thường, lắng đọng trong tâm tưởng ta qua những nét đẹp về phong tục, tập quán, văn hóa, truyền thống mang đậm dấu ấn con người Việt. Phân tích bài thơ Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm Câu thơ mở đầu được viết theo thể câu khẳng định “Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi”. Với cách vào đầu rất tự nhiên ấy, nhà thơ khẳng định: Đất Nước đã có từ rất lâu, có trước khi ta sinh ra vì thế khi ta lớn lên thì ta đã thấy Đất Nước. Bốn chữ cuối của câu thơ vang lên đầy tự hào “Đất Nước đã có rồi”. Đó là lời khẳng định chắc nịch về sự trường tồn của đất nước qua mấy ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ nước. Hai câu thơ tiếp theo nhà thơ diễn tả cụ thể về sự ra đời của đất nước. Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa” mẹ thường hay kể. Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn Câu thơ thứ nhất, tác giả cho rằng Đất Nước có trong cái “ngày xửa ngày xưa”. Nghĩa là Đất Nước có từ rất lâu đời, có tự ngày xưa. Đất Nước có từ trước khi những câu truyện cổ ra đời rồi khi những câu truyện cổ có mặt trong đời sống tinh thần của ta, ta lại thấy Đất Nước hiện diện trong truyện cổ. Đó là Đất Nước của một nền văn học dân gian đặc sắc với những câu chuyện cổ tích, thần thoại, truyền thuyết. Chính những câu chuyện cổ và những bài hát ru thuở ta còn nằm nôi là nguồn sữa ngọt lành chăm bẵm cho ta cái chân thiện mĩ và lớn lên ta biết yêu đất nước con người. Về ý nghĩa của truyện cổ với đời sống tinh thần con người, nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ đã xúc động mà viết nên: Tôi yêu truyện cổ nước tôi Vừa nhân hậu lại tuyệt vời sâu xa Thương người rồi mới thương ta Yêu nhau dù mấy cách xa cũng gần (Truyện cổ nước mình) Câu thơ thứ hai, nhà thơ diễn tả Đất Nước có trong “miếng trầu bây giờ bà ăn”. Gợi nhắc phong tục ăn trầu của người Việt. Câu thơ gợi nhớ về câu truyện cổ tích “Sự tích trầu cau” được xem là xưa nhất trong những câu truyện cổ. Tục ăn trầu cũng từ câu truyện này mà nên. Như vậy là thẩm thấu vào trong miếng trầu dung dị ấy là 4000 năm phong tục, 4000 năm dân ta gìn giữ phong tục ăn trầu. Miếng trầu là biểu tượng của tình yêu, vật chứng cho lứa đôi cũng là biểu tượng tâm linh của người Việt. Từ phong tục ăn trầu, tục nhuộm răng đen cũng ra đời: Những cô hàng xén răng đen Cười như mùa thu tỏa nắng (Hoàng Cầm) Câu thơ thứ tư, nhà thơ diễn tả sự trưởng thành của Đất Nước. Đó là sự trưởng thành từ truyền thống đánh giặc giữ nước qua hình tượng Thánh Gióng và cây tre: “Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc” Câu thơ gợi nhắc cho ta nhớ đến truyền thuyết Thánh Gióng, chàng trai Phù Đổng Thiên Vương nhổ tre làng Ngà đánh giặc, gợi lên vẻ đẹp khỏe khoắn của tuổi trẻ Việt Nam kiên cường, bất khuất: Ta như thuở xưa thần Phù Đổng Vụt lớn lên đánh đuổi giặc Ân Sức nhân dân khoẻ như ngựa sắt Chí căm thù ta rèn thép thành roi Lửa chiến đấu ta phun vào mặt Lũ sát nhân cướp nước hại nòi Xem thêm: Cảm nhận của em về khổ thơ sau trong bài thơ Mùa xuân nho nhỏ của Thanh Hải: "Ta làm con chim hót. Ta làm một nhành hoa. Ta nhập vào hoà ca. Một nốt trầm xao xuyến." (Tố Hữu) Truyền thống vẻ vang ấy đã theo suốt chặng đường dài của lịch sử dân tộc mãi đến hôm nay trong thời đại chống Mỹ bao tấm gương tuổi trẻ đã anh dũng chiến đấu bảo vệ giống nòi. Phải chăng, đó chính là vẻ đẹp của các chị, các anh đã tạc vào lịch sử Việt Nam dáng đứng kiêu hùng bất khuất: Võ Thị Sáu, Trần Văn Ơn, Nguyễn Văn Trỗi… Vẻ đẹp ấy song hành với hình ảnh cây tre Việt Nam. Cây tre hiền hậu trên mỗi làng quê. Nó như là sự đồng hiện những phẩm chất trong cốt cách con người Việt Nam: thật thà chất phác, đôn hậu thuỷ chung, yêu chuộng hoà bình nhưng cũng kiên cường bất khuất trong tranh đấu. Tre đứng thẳng hiên ngang bất khuất cùng chia lửa với dân tộc "Một cây chông cũng tiến công giặc Mỹ ", bởi: "Nòi tre đâu chịu mọc cong Chưa lên đã nhọn như chông lạ thường". Bốn câu thơ tiếp theo nhà thơ mang đến cho người đọc vẻ đẹp thuần phong mỹ tục của con người Việt: Tóc mẹ thì bới sau đầu Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn Cái kèo, cái cột thành tên Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng Đó là vẻ đẹp giản dị của người phụ nữ Việt Nam. Không ai khác là những người mẹ với phong tục “búi tóc sau đầu” (tóc cuộn thành búi sau gáy tạo cho người phụ nữ một vẻ đẹp nữ tính, thuần hậu rất riêng). Nét đẹp ấy gơi nhớ ca dao: Tóc ngang lưng vừa chừng em bới Để chi dài cho rối lòng anh Nguyễn Khoa Điềm tiếp tục gắn dòng suy tưởng đến con người ngàn đời cư trú, lao động, chiến đấu trên mảnh đất Việt để giữ gìn tôn tạo mảnh đất thân yêu. Ở đó đạo lí ân nghĩa thủy chung đã trở thành truyền thống ngàn đời của dân tộc: "Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn". Ý thơ được toát lên từ những câu ca dao đẹp: “Tay bưng đĩa muối chén gừng Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau” Thành ngữ “gừng cay muối mặn” được vận dụng một cách đặc sắc trong câu thơ nhẹ nhàng mà thấm đượm biết bao ân tình. Nó gợi lên được ân nghĩa thủy chung ở đời: gừng càng già càng cay, muối càng lâu năm càng mặn, con người sống với nhau lâu năm thì tình nghĩa càng đong đầy. Có lẽ chính vì vậy mà Đất Nước còn ghi dấu ấn của cha của mẹ bằng Hòn trống mái, núi Vọng Phu, Hòn Trống Mái… đi vào năm tháng. Câu thơ "Cái kèo cái cột thành tên", gợi nhắc cho người đọc nhớ đến tục làm nhà cổ của người Việt. Đó là tục làm nhà sử dụng kèo cột giằng giữ vào nhau làm cho nhà vững chãi, bền chặt tránh được mưa gió, thú dữ. Đó cũng là ngôi nhà tổ ấm cho mọi gia đình đoàn tụ bên nhau; siêng năng tích góp mỡ màu dồn thành sự sống. Từ đó, tục đặt tên con “cái Kèo, cái Cột” cũng ra đời. Đâu chỉ có những vẻ đẹp trên, dân tộc ta còn có truyền thống lao động cần cù, chịu thương chịu khó “Hạt gạo phải một nắng hai sương xay giã dần sàng”. Thành ngữ “Một nắng hai sương” gợi nên sự cần cù chăm chỉ của cha ông ta những ngày long đong, lận đận trong đời sống nông nghiệp lạc hậu. Đó là truyền thống lao động cần cù, chịu thương chịu khó. Các động từ “Xay – giã – dần – sang” là quy trình sản xuất ra hạt gạo. Để làm ra hạt gạo ta ăn hằng ngày, người nông dân phải trải qua bao nắng sương vất vả gieo cấy, xay giã, giần sàng. Thấm vào trong hạt gạo bé nhỏ ấy là mồ hôi vị mặn nhọc nhằn của giai cấp nông dân. Bởi vậy, ăn hạt gạo dẻo thơm ta phải nhớ công ơn người đã làm ra nó: Ai ơi bưng bát cơm đầy Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần. Câu thơ cuối cùng khép lại một câu khẳng định với niềm tự hào: “Đất Nước có từ ngày đó”. “Ngày đó” là ngày nào ta không rõ nhưng chắc chắn “ngày đó” là ngày ta có truyền thống, có phong tục tập quán, có văn hóa mà có văn hóa nghĩa là có đất nước. Đúng như lời Bác dặn trước lúc đi xa “Rằng muốn yêu tổ quốc mình, phải yêu những câu hát dân ca”. Dân ca, ca dao là đặc trưng văn hóa của Việt Nam, muốn yêu Đất Nước trước hết phải yêu và quý trọng văn hóa nước nhà. Bởi văn hóa chính là Đất Nước. Thật đáng yêu đáng quý, đáng tự hào biết bao lời thơ dung dị, ngọt ngào của Nguyễn Khoa Điềm. Thành công của đoạn thơ trên là nhờ vào việc vận dụng khéo léo chất liệu văn hóa dân gian như phong tục ăn trầu, tục búi tóc, truyền thống đánh giặc, truyền thống nông nghiệp. Nhà thơ sáng tạo thành ngữ dân gian, ca dao tục ngữ, thành ngữ…Điệp ngữ Đất Nước được nhắc lại nhiều lần. Nhà thơ luôn viết hoa hai từ Đất Nước tạo nên sự thànhi ính, thiêng liêng… Tất cả làm nên một đoạn thơ đậm đà không gian văn hóa người Việt. Ngôn ngữ mộc mạc, giản dị, lời thơ nhẹ nhàng đúng giọng thủ thỉ tâm tình nhưng vẫn mang đậm hồn thơ triết lí. Đoạn thơ ta vừa phân tích ở trên là đoạn thơ hay nhất trong bài thơ Đất Nước. Qua đoạn thơ, nhà thơ đã mang đến cho người đọc vẻ đẹp của một Đất Nước giàu văn hóa cổ truyền. Đất Nước của truyền thống, phong tục tươi đẹp mang đậm dấu ấn của tư tưởng Đất Nước của nhân dân. Nguồn Vanmau Xem thêm: Từ xưa đến nay, cha ông ta luôn coi văn học là một thứ vũ khí chiến đấu mạnh mẽ và sắc bén. Em hãy làm sáng tỏ quan niệm đó
Phân tích bài thơ Đập Đá Ở Côn Lôn của Phan Chu Trinh Hướng dẫn I. PHAN CHẦU TRINHtự là Tử Can, hiệu là Tây Hồ, biệt hiệu là Hy Mã, người làng Tây Lộc, huyện Tuyên Phước, tỉnh Quảng Nam, sinh vào tháng tám năm Nhâm Tuất (1872). Thân phụ ông là Phan Văn Bình theo nghề võ và đã chiến đấu tích cực trong hàng ngũ cần Vương, thân mẫu là Lê Thị Chung, một người đàn bà đảm đang và có nhiều đức' hạnh. Năm 1900, ông thi đậu cử nhân, năm 1901 ông thi đậu luôn Phó bảng và năm 1902 ông được nhậm chức Thừa biện Bộ Lễ tại triều đình Huế. Năm 1905, ông làm giấy từ quan rồi bắt đầu hoạt động chính trị cùng với các Ông Phan Bội Châu, Huỳnh Thúc Kháng, Lương Văn Can v.v… Ong bí mật sang Trung Hoa để nghiên cứu về quốc kế dân sinh và đã gặp Phan Bội Châu tại đây. Sau đó hai ông lại cùng sang Nhật. Ở đó chừng 10 tháng, Phan Châu Trinh trở về nước. Năm 1908, nhân có nhiều cuộc biểu tình chống thuế tại Trung Kì, thực dân Pháp liền buộc ông đã nhúng tay vào việc đó, bắt giam ông.cùng với Trần Quý Cáp. Sau đó chúng đày ông ra đảo Côn LÔ11. Bài thơ Đập đá ở Côn Lổnra đời trong hoàn cảnh ấy. II. Trước Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh, đá số các văn gia thi sĩ, mỗi khi gặp những cảnh sa cơ, lỡ vận thường có ba thái độ: Hoặc là tin vào sự biến dịch: “bĩ cực thái lai” rồi ngồi yên thúc thủ chờ thời: Hẳn bền lòng chớ chút oan vưu Thời chí hỷ ngư long biến hóa. Thôi đã biết cùng thông là mệnh cả, Cũng đừng đem hình dịch lại cầu chỉ, Hơn nhau cũng một chữ “Thì ”! (Cuộc phong trần,Cao Bá Quát) Để rồi cuối cùng cố quên nỗi khổ não chứa chất trong tâm hồn bằng cách “uống rượu tiêu sầu”, hoặc nữa là lẩn tránh không dám nhìn vào thực tại và cuối cùng đắm mình trong thiên nhiên hoặc trong thế giới tưởng tượng để tìm lấy ởđó một nguồn an ủi bất tận như trường hợp của Nguyễn Khuyến, Chu Mạnh Trinh v. v… Hoặc là giãi bày những lời thở than oán trách, châm biếm “thiên hạ tự”để cho vơi đi một chút u uất, và cuối cùng là tư tưởng nhớ nhung hoài cổ như trường hợp Trần Tế Xương, Bà Huyện Thanh Quan v. v… Đêm đêm tiếng ếch bên tai Giật mình còn tưởng tiếng ai gọi đò. (T. T. Xương) Phan Châu Trinh thì khác hẳn. Là một nhà cách mạng lấy việc giải phóng dân tộc làm lẽ sống, nên trước những nỗi gian nan đau khổ, giữa cuộc đời tù đày cơ cực, ngày ngày phải xách búa đi đập đá – xa quê hương, xa đồng chí không một lời an ủi dịu hiền – mà ông vẫn khẳng khái, coi đó chỉ là một sự thử thách ý chí mình. Ông diễn tả lòng cương quyết phá núi: Xách búa đánh tan năm bảy đống Ra tay đập bể mấy trăm hòn… Nhưng thực ra công việc đập đá ở đây chỉ có một giá trị tượng trưng – nó tượng trưng cho những trở ngại ghê gớm trên bước đường lập chí của ông đó thôi. Bởi vậy, ông cương quyết phá núi thế nào thì đồng thời ông cũng cương quyết phá tan mọi trở ngại san bằng những chông gai cũng như thế. Ý chí quyết chiến và quyết thắng của ông đã làm cho ta chợt nhớ tới ý chí quyết chiến và quyết thắng của Nguyễn Công Trứqua những câu: Cũng có lúc mưa dồn, sóng vỗ Quyết ra tay buồm lái với cuồng phong. Chí những toan xẻ núi, lấp sông, Làm nên đấng anh hùng đâu đấy tỏ. Do đó, ta có thể nói được rằng: đôi với ông, những sự đau khổ thất bại không phải là một động lực làm cùn nhụt ý chí chiến đấu, mà là hun đúc cho tinh thần chiến đấu thêm già dặn, đanh thép để thẳng tiến tới mục đích. Thực đúng với câu nói của một nhà cách mạng châu Âu trước kia: “Cái bước lùi của những chiến sĩ không phải là bước lùi đế thúc thủ mà là sửa soạn để nhảy được xa hơn”. Vì thế, ta không ngạc nhiên khi đọc hai câu kết luận của ông: “Những kẻ vá trời khi lỡ bước Gian nan nào sá sự con con”. Xem như vậy thì ta không khỏi thây: nội dung bài thơ “đập đá”trên đây đã trưng lên giá trị lành mạnh và một hướng “đi lên” rõ rệt. Nó xứng đáng là một bài thơ cách mạng của một con người cách mạng. Bài thơ trên đây không chỉ có giá trị tiêu biểu trong phạm vi nội dung, mà còn có giá trị tiêu biểu trong phạm vi hình thức nữa. Mà thực vậy, nội dung của nó mạnh mẽ bao nhiêu thì lời văn của nó lại cũng rắn rỏi, quyết liệt bấy nhiêu. Xem thêm: Phân tích bài ca dao Trâu ơi ta bảo trâu nàyNgay trong câu phá đề và thừa đề, lối dùng chữ của tác giả đã đủ trác tuyệt rồi: “Làm trai đứng giữa đất Cồn Lôn Lừng lẫy làm cho lở núi non Mỗi chữ đặt vào đây đều bao hàm một hình ảnh sinh động và một sức sông sôi nổi. Ví dụ như tiếng “đứng”, tiếng 'Hừng lẫy” đủ gợi cho ta trông thấy hình ảnh một trang nam nhi, đầu đội trời, chân đạp đất, đứng hiên ngang trước cảnh núi non biển rộng, coi thường sóng gào, gió thét quanh mình, nhất quyết lấp sông, phá núi để đạt tới cho bằng được mục đích cao cả của mình. Tiếng “đứng” ởđây có một giá trị gợi cảm đặc biệt, đặc biệt không kém gì tiếng “đứng”của Nguyễn Công Trứ trong câu: “Làm trai đứng ở trong trời đất Phải có danh gì với núi sông”. – Nghệ thuật dùng chữ của tác giả không những chỉ có giá trị gợi hình và gợi cảm như vừa nói trên mà còn nằm ở trong cách dùng chữ đối chọi đến “nảy lửa” trong hai câu thực và hai câu luận nữa. Mà thực thế, còn có những tiếng nào đối chát với nhau bằng những tiếng. Xách búa đối với ra tay Đánh tan đối với đập bể Năm bảy đống đối với mấy trăm tròn đôi với mưa nắng đối với chi sởn đôi với dạ sắt son III. Bài thơ ghi dấu một chặng đường hoạt động chứ chưa khép lại đường đời của con người đầy khí phách hiên ngang. Sau hai năm bị đày, Phan Chu Trinh được “ân xá Vì nhận thấy tranh đâu tại nước sẽ có rất ít kết quả, nên năm 1911, ông đã theo toàn quyền Klobukowsky sang Pháp. Đi theo ông, có người con trai duy nhất là Phan Chu Dật. Năm 1925, ông trở vế Nam Kì vào khoảng tháng 6 và có tổ chức mấy cuộc diễn thuyết quan trọng nói về Quân trị Chủ nghĩa và Dân trị Chủ Nghĩa, Đạo đức và luân lý Đông, Tây. Trong thời gian này, tuy bị đau, nhưng ông vẫn tích cực vận động và ký tên vào bản xin ân xá cho ông Phan Bội Châu. Ngày 24-12-1925, khi khi được tin ông Phan Bội Châu đã được toàn quyền Va-ren-ne ký giấy ân xá, ông định ra Huế gặp người bạn già để hàn huyên, tâm sự thì bị đau và mất ngày 24-3-1926. Toàn quốc thụ tang ông. Theo hướng dẫn đọc bài Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác. Với những bài thơ Đường luật học sinh có thề kẻ theo khung hình dưới để tìm hiểu nghệ thuật và nội dung trước khi phân tích. HP A Tên gọi Thơ Nghĩa thực Nghĩa suy diễn Nghệ thuật Đề Làm trai đứng giữa đất Côn Lôn. Lừng lẫy làm cho lở núi non. – Chàng trai đứng giữa núi đầy đá. – Chàng trai ngạo nghễ, lẫm liệt đứng giữa bao cam go, thử thách. – Ngoa dụ được dùng ở câu 2. Thực Xách búa đánh tan năm bảy đông. Ra tay đập bể mấy trăm hòn. – Tư thế và kết quả của việc đập đá – Đã vượt qua bao nhiêu khổ cực, gian lao nhờ vào nghị lực – Phép đối và ngoa dụ Luận Tháng ngày bao quản thân sành sỏi. Mưa nắng càng bền dạ sắt son. Khổ cực không thể làm mềm lòng người có kinh nghiệm sống. Người dạn dày sương gió Với lòng trung kiên thì càng khó khăn càng vững chí. – Phép đối và từ tượng trứng, biểu hiện. Kết Những kẻ vá trời khi lỡ bước Gian nan chi kể việc con con. – Chuyện khổ cực chỉ là chuyện nhỏ đôi với người có chí lớn. – Người mu’ll cầu việc lớn thì ở tù chỉ là chuyện nhỏ. – Dùng điển tích bà Nữ Oa đội đá vá trời. dap da o con lon, soan bai dap da o con lon, phan tich bai tho dap da o con lon, cam nghi ve bai tho dap da o con lonXem thêm: Cảm nhận về kè phản bội nhục nhã Va-ren trong truyện ngắn Những trò lố hayVa-ren và Phan Bội Châu của Nguyễn Ái QuốcNguồn:
Phân tích bài thơ Đập Đá Ở Côn Lôn của Phan Chu Trinh Hướng dẫn I. PHAN CHẦU TRINHtự là Tử Can, hiệu là Tây Hồ, biệt hiệu là Hy Mã, người làng Tây Lộc, huyện Tuyên Phước, tỉnh Quảng Nam, sinh vào tháng tám năm Nhâm Tuất (1872). Thân phụ ông là Phan Văn Bình theo nghề võ và đã chiến đấu tích cực trong hàng ngũ cần Vương, thân mẫu là Lê Thị Chung, một người đàn bà đảm đang và có nhiều đức' hạnh. Năm 1900, ông thi đậu cử nhân, năm 1901 ông thi đậu luôn Phó bảng và năm 1902 ông được nhậm chức Thừa biện Bộ Lễ tại triều đình Huế. Năm 1905, ông làm giấy từ quan rồi bắt đầu hoạt động chính trị cùng với các Ông Phan Bội Châu, Huỳnh Thúc Kháng, Lương Văn Can v.v… Ong bí mật sang Trung Hoa để nghiên cứu về quốc kế dân sinh và đã gặp Phan Bội Châu tại đây. Sau đó hai ông lại cùng sang Nhật. Ở đó chừng 10 tháng, Phan Châu Trinh trở về nước. Năm 1908, nhân có nhiều cuộc biểu tình chống thuế tại Trung Kì, thực dân Pháp liền buộc ông đã nhúng tay vào việc đó, bắt giam ông.cùng với Trần Quý Cáp. Sau đó chúng đày ông ra đảo Côn LÔ11. Bài thơ Đập đá ở Côn Lổnra đời trong hoàn cảnh ấy. II. Trước Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh, đá số các văn gia thi sĩ, mỗi khi gặp những cảnh sa cơ, lỡ vận thường có ba thái độ: Hoặc là tin vào sự biến dịch: “bĩ cực thái lai” rồi ngồi yên thúc thủ chờ thời: Hẳn bền lòng chớ chút oan vưu Thời chí hỷ ngư long biến hóa. Thôi đã biết cùng thông là mệnh cả, Cũng đừng đem hình dịch lại cầu chỉ, Hơn nhau cũng một chữ “Thì ”! (Cuộc phong trần,Cao Bá Quát) Để rồi cuối cùng cố quên nỗi khổ não chứa chất trong tâm hồn bằng cách “uống rượu tiêu sầu”, hoặc nữa là lẩn tránh không dám nhìn vào thực tại và cuối cùng đắm mình trong thiên nhiên hoặc trong thế giới tưởng tượng để tìm lấy ởđó một nguồn an ủi bất tận như trường hợp của Nguyễn Khuyến, Chu Mạnh Trinh v. v… Hoặc là giãi bày những lời thở than oán trách, châm biếm “thiên hạ tự”để cho vơi đi một chút u uất, và cuối cùng là tư tưởng nhớ nhung hoài cổ như trường hợp Trần Tế Xương, Bà Huyện Thanh Quan v. v… Đêm đêm tiếng ếch bên tai Giật mình còn tưởng tiếng ai gọi đò. (T. T. Xương) Phan Châu Trinh thì khác hẳn. Là một nhà cách mạng lấy việc giải phóng dân tộc làm lẽ sống, nên trước những nỗi gian nan đau khổ, giữa cuộc đời tù đày cơ cực, ngày ngày phải xách búa đi đập đá – xa quê hương, xa đồng chí không một lời an ủi dịu hiền – mà ông vẫn khẳng khái, coi đó chỉ là một sự thử thách ý chí mình. Ông diễn tả lòng cương quyết phá núi: Xách búa đánh tan năm bảy đống Ra tay đập bể mấy trăm hòn… Nhưng thực ra công việc đập đá ở đây chỉ có một giá trị tượng trưng – nó tượng trưng cho những trở ngại ghê gớm trên bước đường lập chí của ông đó thôi. Bởi vậy, ông cương quyết phá núi thế nào thì đồng thời ông cũng cương quyết phá tan mọi trở ngại san bằng những chông gai cũng như thế. Ý chí quyết chiến và quyết thắng của ông đã làm cho ta chợt nhớ tới ý chí quyết chiến và quyết thắng của Nguyễn Công Trứqua những câu: Cũng có lúc mưa dồn, sóng vỗ Quyết ra tay buồm lái với cuồng phong. Chí những toan xẻ núi, lấp sông, Làm nên đấng anh hùng đâu đấy tỏ. Do đó, ta có thể nói được rằng: đôi với ông, những sự đau khổ thất bại không phải là một động lực làm cùn nhụt ý chí chiến đấu, mà là hun đúc cho tinh thần chiến đấu thêm già dặn, đanh thép để thẳng tiến tới mục đích. Thực đúng với câu nói của một nhà cách mạng châu Âu trước kia: “Cái bước lùi của những chiến sĩ không phải là bước lùi đế thúc thủ mà là sửa soạn để nhảy được xa hơn”. Vì thế, ta không ngạc nhiên khi đọc hai câu kết luận của ông: “Những kẻ vá trời khi lỡ bước Gian nan nào sá sự con con”. Xem như vậy thì ta không khỏi thây: nội dung bài thơ “đập đá”trên đây đã trưng lên giá trị lành mạnh và một hướng “đi lên” rõ rệt. Nó xứng đáng là một bài thơ cách mạng của một con người cách mạng. Bài thơ trên đây không chỉ có giá trị tiêu biểu trong phạm vi nội dung, mà còn có giá trị tiêu biểu trong phạm vi hình thức nữa. Mà thực vậy, nội dung của nó mạnh mẽ bao nhiêu thì lời văn của nó lại cũng rắn rỏi, quyết liệt bấy nhiêu. Xem thêm: Phân tích bài ca dao Trâu ơi ta bảo trâu nàyNgay trong câu phá đề và thừa đề, lối dùng chữ của tác giả đã đủ trác tuyệt rồi: “Làm trai đứng giữa đất Cồn Lôn Lừng lẫy làm cho lở núi non Mỗi chữ đặt vào đây đều bao hàm một hình ảnh sinh động và một sức sông sôi nổi. Ví dụ như tiếng “đứng”, tiếng 'Hừng lẫy” đủ gợi cho ta trông thấy hình ảnh một trang nam nhi, đầu đội trời, chân đạp đất, đứng hiên ngang trước cảnh núi non biển rộng, coi thường sóng gào, gió thét quanh mình, nhất quyết lấp sông, phá núi để đạt tới cho bằng được mục đích cao cả của mình. Tiếng “đứng” ởđây có một giá trị gợi cảm đặc biệt, đặc biệt không kém gì tiếng “đứng”của Nguyễn Công Trứ trong câu: “Làm trai đứng ở trong trời đất Phải có danh gì với núi sông”. – Nghệ thuật dùng chữ của tác giả không những chỉ có giá trị gợi hình và gợi cảm như vừa nói trên mà còn nằm ở trong cách dùng chữ đối chọi đến “nảy lửa” trong hai câu thực và hai câu luận nữa. Mà thực thế, còn có những tiếng nào đối chát với nhau bằng những tiếng. Xách búa đối với ra tay Đánh tan đối với đập bể Năm bảy đống đối với mấy trăm tròn đôi với mưa nắng đối với chi sởn đôi với dạ sắt son III. Bài thơ ghi dấu một chặng đường hoạt động chứ chưa khép lại đường đời của con người đầy khí phách hiên ngang. Sau hai năm bị đày, Phan Chu Trinh được “ân xá Vì nhận thấy tranh đâu tại nước sẽ có rất ít kết quả, nên năm 1911, ông đã theo toàn quyền Klobukowsky sang Pháp. Đi theo ông, có người con trai duy nhất là Phan Chu Dật. Năm 1925, ông trở vế Nam Kì vào khoảng tháng 6 và có tổ chức mấy cuộc diễn thuyết quan trọng nói về Quân trị Chủ nghĩa và Dân trị Chủ Nghĩa, Đạo đức và luân lý Đông, Tây. Trong thời gian này, tuy bị đau, nhưng ông vẫn tích cực vận động và ký tên vào bản xin ân xá cho ông Phan Bội Châu. Ngày 24-12-1925, khi khi được tin ông Phan Bội Châu đã được toàn quyền Va-ren-ne ký giấy ân xá, ông định ra Huế gặp người bạn già để hàn huyên, tâm sự thì bị đau và mất ngày 24-3-1926. Toàn quốc thụ tang ông. Theo hướng dẫn đọc bài Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác. Với những bài thơ Đường luật học sinh có thề kẻ theo khung hình dưới để tìm hiểu nghệ thuật và nội dung trước khi phân tích. HP A Tên gọi Thơ Nghĩa thực Nghĩa suy diễn Nghệ thuật Đề Làm trai đứng giữa đất Côn Lôn. Lừng lẫy làm cho lở núi non. – Chàng trai đứng giữa núi đầy đá. – Chàng trai ngạo nghễ, lẫm liệt đứng giữa bao cam go, thử thách. – Ngoa dụ được dùng ở câu 2. Thực Xách búa đánh tan năm bảy đông. Ra tay đập bể mấy trăm hòn. – Tư thế và kết quả của việc đập đá – Đã vượt qua bao nhiêu khổ cực, gian lao nhờ vào nghị lực – Phép đối và ngoa dụ Luận Tháng ngày bao quản thân sành sỏi. Mưa nắng càng bền dạ sắt son. Khổ cực không thể làm mềm lòng người có kinh nghiệm sống. Người dạn dày sương gió Với lòng trung kiên thì càng khó khăn càng vững chí. – Phép đối và từ tượng trứng, biểu hiện. Kết Những kẻ vá trời khi lỡ bước Gian nan chi kể việc con con. – Chuyện khổ cực chỉ là chuyện nhỏ đôi với người có chí lớn. – Người mu’ll cầu việc lớn thì ở tù chỉ là chuyện nhỏ. – Dùng điển tích bà Nữ Oa đội đá vá trời. dap da o con lon, soan bai dap da o con lon, phan tich bai tho dap da o con lon, cam nghi ve bai tho dap da o con lonXem thêm: Cảm nhận về kè phản bội nhục nhã Va-ren trong truyện ngắn Những trò lố hayVa-ren và Phan Bội Châu của Nguyễn Ái QuốcNguồn:
Phân tích bài thơ Đập đá ở Côn Lôn của Phan Châu Trinh Gợi ý Phan Châu Trinh là một trong những chí sĩ cách mạng nổi tiếng đầu thế kỷ XX. Bài thơ Đập đá ở Côn Lôn làm trong thời gian ông bị đày ở đảo Côn Lôn thể hiện khí phách quật cường, một bản lĩnh ngang tầm với dũng sĩ thần thoại. Nhà tù thực dân Côn Đảo là một địa ngục trần gian. Bọn thực dân dùng nơi này để đày đọa những con người yêu nước ưu tú hòng làm nhụt chí khí đấu tranh của họ. Trong đó, đập đá là một trong những công việc cực nhọc mà người đi đày phải làm. Phan Chu Trinh cũng ở trong số tù khổ sai ấy. Nhưng giữa nắng gió biển khơi khắc nghiệt, người tù Phan Chu Trinh đã dựng lên cả một tượng đài bằng thơ thể hiện một vẻ đẹp lẫm liệt, phong thái cứng cỏi ngang tàng của người anh hùng cứu nước. Bốn câu thơ đầu tác giả miêu tả cảnh tượng đập đá của người tù và cũng bằng những hình ảnh ấy mà khắc họa dáng vóc phi thường của người anh hùng đấng nam nhi: Làm trai đứng giữa đất Côn Lôn Câu mở đầu, tác giả phác ra bối cảnh không gian, gợi mở âm hưởng hùng tráng bằng tư thế hiên ngang, sừng sững của phận "làm trai" đầu đội trời, chân đạp đất kiêu hùng. Dân gian từng có câu: "Làm trai cho đáng nên trai". Nguyễn Công Trứ thì viết: "Chí làm trai Nam, Bắc, Tây, Đông; Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn bể". Phan Bội Châu cũng đề cao chí hướng làm trai: "Đã sinh làm trai thì cũng phải khác đời"… Điều đó cho thấy quan niệm về chí trai, làm trai có mạch nguồn trong quan niệm nhân sinh truyền thống. Trong câu thơ của Phan Chu Trinh quan niệm ấy được khẳng định trong một bối cảnh cụ thể: "… đứng giữa đất Côn Lôn" là "đứng giữa" biển – trời – đất, thật kiêu hãnh, đường hoàng, đúng là tư thế của người làm chủ giang sơn. Ba câu thơ tiếp theo, qua những hình ảnh chân thực diễn tả công việc nặng nhọc (khai thác đá) tác giả đã khắc họa thành những hình ảnh biểu trưng cho tầm vóc sức mạnh dời non lấp bể, kinh thiên động địa của nhân vật trữ tình. Những hành động mạnh mẽ cho phép ta hình dung ra hình ảnh người dũng sĩ với sức vóc thần kỳ đang xung trận: "xách búa", "ra tay" và "lừng lẫy" những chiến công "lở núi non", "đánh tan năm bảy đống", "đập bể mấy trăm hòn". Những từ ngữ cực tả sức mạnh dũng mãnh đã làm nổi bật hình tượng con người trong tư thế ngạo nghễ, lớn ngang tầm vũ trụ. Giữa không gian biển trời bao la sừng sững một tượng đài kết bằng những hình khối phi thường.Xem thêm: Kể về nông thôn Bốn câu cuối bộc lộ trực tiếp cảm xúc và suy nghĩ của người anh hùng: Tháng ngày bao quản thông sành sỏi, Mưa nắng càng bền dạ sắt son. Những kẻ vá trời khi lỡ bước, Gian nan chỉ kể việc con con! "Thân sành sỏi", "dạ sắt son" sẽ bền bỉ trụ lại được cùng "tháng ngày", "mưa nắng". Thế đối lập ở câu 5-6 thể hiện sự kiện tâm, vững trí của nhà cách mạng dù trong bất kỳ hoàn cảnh khắc nghiệt nào. Tấm lòng thủy chung, son sắt "mài chăng khuyết, nhuộm chăng đen" (Nguyễn Trãi) kia cũng là sự kế thừa truyền thống anh hùng bất khuất đã được khẳng định trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam. Vững vàng đến "trơ gan cùng tuế nguyệt", đến ngạo nghễ đã là đạo sống, phẩm cách của người chiến sĩ chẳng tiếc thân mình cho sự nghiệp chung. Phan Chu Trinh xuất thân nho học, ở những vần thơ này ta thấy bản lĩnh của nhà nho đã hòa thấm thuần thục với tinh thần yêu nước, ý chí cách mạng. Trong bối cảnh đầy những gian nan, thử thách hồi đầu thế kỷ XX người chiến sĩ dám dấn thân vì giang sơn xã tắc cũng phải là những con người bất chấp hy sinh, nguy khó, biết quên thân mình. Có khi còn phải biết gồng mình lên, chiến thắng hoàn cảnh bằng ý chí. Cảm hứng lãng mạn hào hùng tiếp tục được đẩy lên đỉnh điểm ở hai câu thơ kết với hình ảnh thơ mang đậm chất sử thi. Hai chữ "vá trời" lấy từ tích Nữ Oa vá trời. Tầm vóc, sức mạnh ở đây đã được thi vị hóa đến mức thần kỳ, giống như bà Nữ Oa trong truyền thuyết đội đá vá trời. Hình ảnh "những kẻ vá trời" vừa thực vừa bay bổng, khoa trương. Thực ở mức liên hệ với hình ảnh những người tù lao động khổ sai đập đá, làm lở núi non đã được miêu tả ở 4 câu thơ đầu. Bay bổng, khoa trương ở lối ví với nhân vật trong thần tích. Hai câu thơ cuối này gợi tả sự đối lập giữa cái lớn lao, kỳ vĩ (vá trời) với thực tế gian nan chỉ là "việc con con". Sự đối lập ấy là kết quả của một ý chí sắt đá, niềm tin lớn vào sự nghiệp chính nghĩa, kẻ vá trời bằng sức mạnh đội đá vá trời có thể đè bẹp mọi trở ngại gian nan. Thực tế thì những khó khăn tác giả đang phải đương đầu không "con con" chút nào nhưng chỉ có bằng cách ấy, bằng ý chí quật cường tích tụ từ nguồn mạch dân tộc người chiến sĩ mới có thể tiếp tục được con đường dằng dặc chông gai trước mắt. Đó cũng là một cuộc chiến thắng chính minh.Xem thêm: Nghị luận xã hội về đức tính chăm chỉĐập đá ở Côn Lôn và Cảm tác vào nhà ngục Quảng Đông là hai bài thơ của hai nhà nho yêu nước tiêu biểu trong phong trào cách mạng những năm đầu thế kỷ XX. Qua đó chúng ta nhận ra cái mạch chảy dào dạt của chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa anh hùng trong truyền thống dân tộc Việt Nam. Rồi đây cái mạch nguồn ấy lại bừng lên thành những đợt sóng mãnh liệt và thể hiện trong văn học kháng chiến chống Mỹ, chống Pháp. Vanmau.edu.vn
Analysis of the poem Breaking Stones in Kunlun by Phan Chau Trinh Suggest Phan Chau Trinh was one of the famous revolutionary scholars of the early twentieth century. The poem Breaking Rocks in Kunlun, written during his exile on Kunlun Island, shows his tenacious spirit, a bravery on par with a mythical hero. Con Dao colonial prison is a hell on earth. The colonialists used this place to exile elite patriots in order to dampen their fighting spirit. Among them, stone crushing is one of the arduous jobs that exiles have to do. Phan Chu Trinh was also among those hard labor prisoners. But amid the harsh sun and wind at sea, prisoner Phan Chu Trinh built a monument in poetry showing the fierce beauty and stubborn demeanor of the hero who saved the country. In the first four verses, the author describes the scene of the prisoner breaking rocks and also uses those images to portray the extraordinary physique of the male hero: Being a boy standing in the middle of Kunlun land In the opening sentence, the author outlines the spatial context, evoking a majestic sound with the proud, majestic posture of "being a man" with his head held in the sky and his feet on the ground. There is a folk saying: "Be a boy worthy of being a man". Nguyen Cong Tru wrote: "Let me be a man of the South, North, West, and East; Let me have the strength to struggle in the four seas." Phan Boi Chau also emphasized the ambition to be a man: "If you are born as a man, you must be different from the rest of the world"... This shows that the concept of being a man and being a man has its roots in the traditional concept of human life. In Phan Chu Trinh's poem, that concept is affirmed in a specific context: "... standing in the middle of Con Lon land" means "standing in the middle" of the sea - sky - earth, so proud, dignified, exactly the right posture. of the master of the country. In the next three verses, through realistic images depicting hard work (stone mining), the author has portrayed images that symbolize the scale of humanity's power to move mountains and fill oceans. lyrical object. Strong actions allow us to imagine the image of a brave warrior with miraculous strength going into battle: "carrying a hammer", "taking action" and "brilliant" feats of "mountain collapsing", "fighting". "smashed five or seven piles", "smashed several hundred stones". Extremely left-wing words of mighty strength highlight the image of man in an arrogant posture, as big as the universe. In the midst of the vast sky and sea, a monument made of extraordinary shapes stands out. See more: Talking about the countryside The last four sentences directly reveal the hero's feelings and thoughts: Day by day, many knowledgeable managers, Rain and shine make us more resilient. Those who patch up the sky when they miss a step, Difficulties are just a matter of children! "A sophisticated body" and "a strong heart" will endure and withstand the "months and days" and "sunshine and rain". The contrast in verses 5-6 shows the fact that the revolutionary's mind and spirit are steadfast despite any harsh circumstances. The faithful heart, "sharpening even the weak, dyeing the black" (Nguyen Trai) is also the inheritance of the indomitable heroic tradition that has been affirmed in the history of building and defending the country of the Vietnamese people. Being steadfast to the point of being "brave with age" and being arrogant is the way of life and the dignity of a soldier who does not spare himself for the common cause. Phan Chu Trinh came from a Confucian background. In these poems, we see that the Confucian's bravery was masterfully mixed with the spirit of patriotism and revolutionary will. In the context of hardships and challenges in the early twentieth century, soldiers who dared to commit themselves for the country and society must also be people who disregarded sacrifices, dangers, and knew how to forget themselves. Sometimes you still have to know how to brace yourself and overcome situations with will. The heroic romantic inspiration continues to be pushed to its peak in the two concluding verses with epic poetic images. The two words "mending the sky" are taken from the story Nu Wa mends the sky. The stature and strength here have been poeticized to the point of magic, like Nu Wa in the legend wearing a stone and patching the sky. The image of "those who patch the sky" is both real and uplifting and melodramatic. It is true at the level related to the image of prisoners doing hard labor breaking rocks and causing landslides in mountains described in the first 4 verses. High-minded and flamboyant in a way that compares to a character in a fairy tale. These last two verses describe the contrast between the great and majestic (patching the sky) and the arduous reality of just "child work". That opposition is the result of an iron will, a great belief in the cause of justice, the one who patches the sky with the strength of wearing a rock to patch the sky can crush all difficult obstacles. In reality, the difficulties the author is facing are not "childish" at all, but only in that way, with the stubborn will accumulated from the nation's source, can the soldier continue on the long path. Many thorns lie ahead. It was also a righteous victory. See more: Social commentary on the virtue of hard work. Stone crushing in Kunlun and Feelings in prison in Guangdong are two poems by two typical patriotic Confucian scholars in the revolutionary movement. network in the early years of the twentieth century. Through this we recognize the abundant flow of patriotism and heroism in the Vietnamese national tradition. Then, that source flared up again in intense waves and was expressed in the literature of the resistance war against the Americans and the French. Vanmau.edu.vn
Phân tích bài thơ Đọc Tiểu Thanh kí (Độc Tiểu Thanh kí) Gợi ý HƯỚNG DẪN VỀ NỘI DUNG 1. Sự đồng cảm của Nguyễn Du trước bi kịch của Tiểu Thanh: tài sắc mà bạc mệnh. Đây là bài thơ viết về một tài nữ của Trung Hoa và bài thơ cũng nằm trong mạch cảm hứng chung của Nguyễn Du về những phụ nữ tài sắc mà bạc mệnh. Thực ra vấn đề “hồng nhan bạc mệnh” không phải là vấn đề mới mẻ mà đã được nói đến từ trước (bất hạnh của người cung nữ cũng là bất hạnh của người tài sắc và Cung oán ngâm khúc đã có câu: “Oan chi những khách tiêu phòng – Mà xui phận bạc nằm trong má đào”). Nhưng dẫu sao người cung nữ cũng không phải là trường hợp phổ biến cho số phận tài sắc. Chỉ đến Nguyễn Du, văn học trung đại Việt Nam mới thực sự chú ý đến một lớp người có thân phận thấp bé trong xã hội như nàng Tiểu Thanh, Kiều, Đạm Tiên. Họ đều có tài năng và sắc đẹp, nhất là tài năng nghệ thuật, nhưng cuộc đời đều bất hạnh. 2. Chủ nghĩa nhân đạo của Nguyễn Du qua bài thơ: thương người và tự thương; đặt vấn đề quyền sống của những người có tài năng. – Với Đọc Tiểu Thanh kí, Nguyễn Du vừa khóc người vừa khóc mình. Bao đời nay, lòng thương người vẫn là một biểu hiện của tấm lòng nhân đạo mênh mông, cao cả. Còn biết tự thương mình là một nét mới mang tinh thần nhân bản của thời đại cuối thế kỉ XVIII – đầu thế kỉ XIX, thời đại con người không chỉ ý thức về nhân phẩm, về tài năng cá nhân mà còn thức tỉnh nỗi đau của chính mình. Tự thương cũng là một nét mói trong tinh thần nhân bản của Nguyễn Du vì đó chính là sự tự ý thức, là bằng nước mắt mà thâm in bản ngã của mình để chông lại sự chi phôi của quan niệm phi ngã, vô ngã.Xem thêm: Hãy bình luận lời dạy sau đây của Bác Hồ: “Điều gì phải thì cố làm cho kì được, dù là việc khó. Điều gì trái thì hết sức tránh, dù là điều trái nhỏ” – Giá trị nhân bản đặc sắc của bài thơ là ở chỗ Nguyễn Du đã đặt vấn đề về quyền sống của những người nghệ sĩ. Ông đã thấy ý nghĩa xã hội của người nghệ sĩ, người công hiến cho cuộc đời những giá trị tinh thần tốt đẹp. Nhà ván nhà thơ không chỉ cần quan tâm, đồng cảm với ‘những nạn nhân của xã hội phong kiến theo nghĩa những người đói cơm rách áo, cần được chăm lo bảo vệ, mà còn phải biết thương yêu, trân trọng những chủ nhân của các giá trị văn hóa tinh thần. Khi những chủ nhân này là người phụ nữ thì sự đồng cảm của nhà thơ lại có ý nghĩa sâu sắc sơn. VỀ NGHỆ THUẬT Tác dụng của kết cấu thơ Đường luật trong việc thể hiện tư tưởng chủ đề bài thơ: mỗi phần của bài thơ vừa có vị trí riêng vừa liên kết chặt chẽ với nhau trong việc thể hiện tư tưởng chủ đề chung của toàn bài. – Hai câu đề bắt đầu bằng một sự kiện cụ thể: tác giả hình dung quang cảnh hoang phế ở Tây Hồ, nơi đã diễn ra cuộc đời đầy buồn tủi của nàng Tiểu Thanh, hình dung những mảnh giấy còn sót lại của thơ Tiểu Thanh, từ đó mà xúc cảm trỗi dậy. Đây là bài thơ được viết theo nguyên lí vật cảm thuyết của thi pháp trung đại (tình do vật, tức là ngoại cảnh khơi gợi, tình được cảnh kích phát, gợi hứng).Xem thêm: Cảm nghĩ về bài thơ Tỏ lòng của Phạm Ngũ Lão – Hai câu thích thực nêu những suy nghĩ, liên tưởng được khơi gợi từ cảnh và vật. Hai câu này mới chủ yếu giới hạn trong phạm vi suy nghĩ về số phận bất hạnh của nàng Tiểu Thanh – một người đẹp (son phấn) và có tài văn chương. – Hai câu luận bắt đầu khái quát, nâng vấn đề, liên hệ đến sự tương đồng giữa thân phận của bản thân tác giả với thân phận của nàng Tiểu Thanh và bình luận đây là chuyện đáng hận. – Tiếng khóc ở hai câu kết cuối bài có ý nghĩa khái quát, như lời bình của Tiên Phong Mộng Liên Đường chủ nhân: “…người đời sau thương người đời nay, người đời nay thương người đời xưa, hai chữ tài tình thật là một cái thông lụy của bọn tài tử khắp trong gầm trời và suốt cả xưa nay vậy”. Bài thơ đi từ trường hợp cụ thể đến tư tưởng khái quát về thân phận chung của người tài sắc. Vanmau.edu.vn
Analysis of the poem Reading Tieu Thanh Ky (Doc Tieu Thanh Ky) Suggest INSTRUCT ABOUT CONTENT 1. Nguyen Du's sympathy for Tieu Thanh's tragedy: talented but unfortunate. This is a poem about a talented Chinese woman and the poem is also in the vein of Nguyen Du's general inspiration about talented but unfortunate women. In fact, the issue of "beautiful people with bad fate" is not a new problem but has been mentioned before (the misfortunes of palace maids are also the misfortunes of talented and beautiful people and Cung grudges Ngoc Khuc has the saying: "Oan only guests who spend too much money - But bad luck lies in peach cheeks"). But anyway, the palace maid is not a common case of talented fate. Only until Nguyen Du did Vietnamese medieval literature really pay attention to a class of people with low status in society such as Tieu Thanh, Kieu, and Dam Tien. They all have talent and beauty, especially artistic talent, but their lives are unhappy. 2. Nguyen Du's humanitarianism through the poem: compassion for others and self-pity; raises the issue of the right to life of talented people. – With Read Tieu Thanh ky, Nguyen Du both cried for others and cried for himself. For generations, compassion for others is still an expression of immense and noble humanity. Knowing that self-pity is a new feature of the humanistic spirit of the late 18th - early 19th century, an era when people were not only aware of their dignity and personal talents but also awakened to pain. mine. Self-pity is also a new feature in Nguyen Du's humanistic spirit because it is self-awareness, it is to instill one's ego with tears to fight against the influence of the concept of non-self and non-self. See more: Please comment on the following teachings of Uncle Ho: "What is right, try to do it, even if it is difficult. Avoid anything that is wrong, even if it is a small thing." – The unique human value of the poem is that Nguyen Du raised the issue of the right to life of artists. He saw the social significance of an artist, a person who contributes to life with good spiritual values. The poet not only needs to care for and sympathize with the victims of feudal society in the sense of those who are hungry and need to be cared for and protected, but must also know how to love and respect their owners. of spiritual and cultural values. When these owners are women, the poet's sympathy has profound meaning. ABOUT ART The effect of the structure of Tang Luat poetry in expressing the poem's thematic ideology: each part of the poem both has its own position and is closely linked to each other in expressing the general thematic ideology of the entire poem. – The two sentences begin with a specific event: the author imagines the desolate scene in Tay Ho, where Tieu Thanh's sad life took place, and imagines the remaining pieces of paper from Tieu Thanh's poetry. Thanh, from there, emotions arose. This is a poem written according to the object-emotional principle of medieval poetics (love is evoked by objects, that is, the external environment, love is stimulated and inspired by the scene). See more: Thoughts on the poem Expressing one's heart Pham Ngu Lao – Two sentences like the truth state thoughts and associations evoked from scenes and objects. These two sentences are mainly limited to thinking about the unfortunate fate of Tieu Thanh - a beautiful woman with literary talent. – The two essays begin to generalize, raise the issue, relate to the similarity between the author's own status and Tieu Thanh's status and comment that this is a hateful thing. – The crying in the last two sentences of the song has a general meaning, as commented by Tien Phong Mong Lien Duong owner: "... people from later generations love people from today, people from today love people from ancient times, these two words are truly ingenious. It's a common practice of amateurs all over the world and throughout the ages." The poem goes from specific cases to general ideas about the common fate of talented people. Vanmau.edu.vn
Bài thơ Đồng chí của nhà thơ Chính Hữu là một trong những bài thơ đặc sắc viết về tình cảm của những người lính. Họ vốn là những con người xa lạ nhưng yêu mến và gắn bó với nhau với một tình nghĩa keo sơn. Họ gọi nhau một tiếng gọi thân thương: Đồng chí. Để phân tích bài thơ Đồng chí được hay nhất các em cần lập dàn ý chi tiết cho đề văn này. Có như vậy thì trong quá trình làm bài sẽ không sợ bị thiếu ý, sót ý. Dưới đây là những hướng dẫn cho các em tham khảo. I. Lập dàn ý phân tích bài thơ Đồng chí 1. Mở bài – Giới thiệu về nhà thơ Chính Hữu và bài thơ Đồng chí. – Nội dung bài thơ viết về tình cảm của người lính dành cho nhau, qua đây chúng ta cũng thấy được những khó khăn mà người chiến sĩ đã phải trải qua. 2. Thân bài phân tích bài thơ Đồng chí Đoạn 1: Cơ sở hình thành tình đồng chí – Sự tương đồng trong hoàn cảnh xuất thân của những người lính – Những người lính cùng chung nhiệm vụ, cùng chung lý tưởng, cùng sát cánh bên nhau trong tranh đấu. – Cùng nhau chia sẻ khó khăn trong cuộc sống. Đoạn 2: Những biểu hiện cảm động của tình đồng chí – Sự cảm thông sâu sắc nỗi niềm của nhau. – Cùng nhau chia sẻ những gian lao và thiếu thốn. Đoạn kết: Bức tranh về tình đồng chí – Hình ảnh thơ đầu súng trăng treo lãng mạn nhưng cũng là thực tế. – Người lính, người đồng chí luôn kề vai sát cánh bên nhau làm nhiệm vụ. 3. Kết luận – Tóm tắt lại nội dung của bài và nêu cảm nghĩ của em về bài thơ này. Bài viết liên quan >> Phân tích bài thơ Nói với con của Y Phương (Có dàn ý chi tiết) >> Phân tích bài thơ Mùa xuân nho nhỏ của Thanh Hải (Có dàn ý chi tiết) >> Phân tích bài thơ Sang thu của Hữu Thỉnh (Có dàn ý chi tiết) II. Bài làm phân tích bài thơ Đồng Chí Nhà thơ Chính Hữu vốn xuất thân là một người lính. Ông tham gia vào cuộc kháng chiến chống Pháp của dân tộc. Năm 1948, nhà thơ sáng tác bài thơ Đồng chí khi đang cùng với đồng đội của mình tham gia chiến dịch Việt Bắc. Bài thơ đã nói lên được tình nghĩa của những người chiến sĩ. Họ là những con người đã cùng nhau vào sinh ra tử, chia sẻ với nhau những khó khăn, thiếu thốn trong cuộc sống và họ gọi nhau bằng một tiếng thân thương đồng chí.Xem thêm: Nghị luận xã hội về lòng khiêm tốn Những câu thơ mở đầu đã cho chúng ta thấy được xuất thân của những người lính. Họ tuy có hoàn cảnh xuất thân không giống nhau nhưng lại tương đồng với nhau: Quê hương anh nước mặn đồng chua Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá Phân tích bài thơ Đồng chí Nước mặn đồng chua và đất cày lên sỏi đá đều là những vùng đất không thuận lợi cho việc sản xuất. Điều đó cho thấy, cả tôi và anh đều đến từ những vùng quê nghèo khó của đất nước. Phải chăng chỉ ra hoàn cảnh xuất thân nghèo khó là để cho người đọc hiểu được lý do vì sao mà những người lính dễ dàng yêu mến nhau? Thường con người ta thương nhau nhiều hơn, đồng cảm với nhau nhiều hơn trong nghèo khó. Từ xuất thân tương đồng như vậy, tình cảm của người lính càng thêm bền chặt khi họ có cùng chung một lý tưởng, cùng chung một nhiệm vụ. Đó là nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Từ những con người xa lạ, nay không hẹn mà gặp rồi lại trở nên thân thiết: Anh với tôi đôi người xa lạ Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau Rõ ràng là không quen nhau mà lại cứ ngỡ như là đã thân nhau từ trước. Để rồi: Súng bên súng đầu sát bên đầu Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ Đồng chí. Súng chính là hình tượng trưng cho sự chiến đấu của những người lính, là vật dụng quen thuộc không thể thiếu của người lính. Câu thơ tái hiện lại hình ảnh những người lính đang cầm súng kề vai, sát cánh bên nhau trong chiến đấu. Những đêm mưa rừng, gió rét, họ cũng chung nhau đắp một tấm chăn, sưởi ấm nhau bằng hơi ấm của cơ thể, hơi ấm của tình người. Và cứ thế họ trở thành tri kỉ của nhau. Câu thơ cuối cùng của đoạn thơ, cảm xúc của tác giả dồn nén lại và rồi bật lên thành một tiếng gọi đồng chí. Một tiếng gọi thôi mà gợi lên biết bao nhiêu tình nghĩ. ÔI những người cùng chung chí hướng, mối nhân duyên đặc biệt đã gắn kết họ lại để cho ta có được hòa bình như hôm nay. Tiếng thơ như là cách để nhà thơ khép lại ý của đoạn thơ thứ nhất và mở ra ý của đoạn thơ thứ hai.Xem thêm: Thuyết minh về Bến Nhà Rồng. Từ cơ sở hình thành tình đồng chí, nhà thơ Chính Hữu bắt đầu đi sâu hơn vào trong việc miêu tả biểu hiện cảm động của tình đồng chí để cho người đọc hiểu rõ hơn về thứ tình cảm này. Biểu hiện của tình đồng chí trước hết là ở sự cảm thông sâu sắc những tâm tư, nỗi niềm của nhau. Ở với nhau lâu ngày, sẻ chia với nhau nhiều điều nên những người lính hiểu nhau như hiểu chính bản thân mình vậy: Ruộng nương anh gửi bạn thân cày, Gian nhà không, mặc kệ gió lung lay Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính. Bước ra nơi chiến trường gian khổ, người lính đã phải bỏ lại sau lưng mình là quê hương, là người thân. Họ đã tạm gác lại những công việc riêng để phục vụ cho công việc chung của cả dân tộc. Đó chính là lý tưởng cao đẹp của người lính. Hơn ai hết họ hiểu được rằng nếu việc chung của dân tộc mà không thành thì họ cũng chẳng thể nào sống được để mà làm việc riêng của mình. Để được tiếp tục trở thành anh nông dân với ruộng nương, họ phải làm tốt nhiệm vụ của người lính. Họ bỏ lại gian nhà không cho gió. Họ ra đi, mang theo nỗi nhớ hình bóng quê hương ở trong tim. Và ở nơi xứ xa, những con người, cảnh vật quê hương cũng nhớ họ đến cô cùng. Không chỉ vậy, tình đồng chí còn là cùng nhau chia sẻ những sự thiếu thốn và gian lao giữa chiến trường khốc liệt: Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh Rét run người vừng trán ướt mồ hôi. Áo anh rách vai Quần tôi có vài mảnh vá Miệng cười buốt giá Chân không giày Thương nhau tay nắm lấy bàn tay. Cơn ớn lạnh, rét run, vừng trán ướt mồ hôi là những từ ngữ chỉ cơn sốt rét rừng. Có ai trải qua rồi mới hiểu nó khủng khiếp đến nhường nào. Nó làm cho con người ta rét run mà vẫn vã mồ hôi. Ở trong hoàn cảnh thiếu thốn của chiến trường, thuốc men không có, không ít người lính đã phải ra đi vì căn bệnh sốt rét chứ không phải vì đạn của kẻ thù. Người đọc chỉ nghe kể còn thấy thương, huống gì những người lính ngày ngày chứng kiến đồng đội mình chịu những cơn sốt rét. Tình thương của những người lính còn thể hiện rõ trong hình ảnh áo anh rách vai còn quần tôi thì có vài mảnh vá. Mặc dù ai cũng đều thiếu thốn nhưng họ sẵn sàng chia sẻ cho nhau từng tấm áo, manh quần, sẵn sàng cắt áo của mình ra để vá lành quần cho bạn. Họ thương nhau, bàn tay nắm lấy bàn tay.Xem thêm: “Hiền... thấp” (Thân Nhân Trung). Từ ý kiến trên, hãy trình bày ý kiến của anh (chị) về việc rèn luyện tài đức và trách nhiệm với quốc gia của mỗi con người. (Yêu cầu viết một bài văn) Đoạn cuối của bài thơ, nhà thơ Chính Hữu mang đến một hình ảnh thật đẹp: Đêm nay rừng hoang sương muối Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới Đầu súng trăng treo. Rừng hoang sương muối, đó cũng là hoàn cảnh trong chiến trường mà những người lính phải trải qua. Đêm đêm, họ phải cùng nhau canh gác, cùng nhau chịu cái lạnh buốt ở nơi rừng hoang sương muối. Nhưng khó khăn ấy chẳng là gì. Họ vẫn luôn đứng cạnh bên nhau để chờ giặc đới. Động từ chờ cho thấy một thái độ đầy bình thản của những người lính. Họ không lo sợ, bởi vì họ luôn có nhau. Câu thơ cuối cùng mang đến một hình ảnh thơ rất đẹp: Đầu súng trăng treo. Đó là hình ảnh người lính đang đứng gác, súng đặt bên hông và chĩa mũi súng thẳng lên bầu trời. Trăng treo trên đầu súng, trăng soi sáng cho người lính có thể chia thẳng mũi súng vào quân thù. Qua bài thơ Đồng chí, chúng ta thấy được tình cảm gắn kết của những người lính với nhau, hiểu thêm về những khó khăn, thiếu thốn của họ cả trong cuộc sống lẫn trong tranh đấu. Những kỉ niệm trong bài thơ là những kỉ niệm êm đẹp mà gần gũi. Câu thơ đọc dễ gần, dễ hiểu nên cảm xúc của tác giả gửi gắm trong bài cũng dễ dàng chạm đến lòng độc giả. Tình cảm đồng chí chắc chắn rằng sẽ còn cháy mãi. Thu Thủy
Bài thơ Đồng chí của nhà thơ Chính Hữu là một trong những bài thơ đặc sắc viết về tình cảm của những người lính. Họ vốn là những con người xa lạ nhưng yêu mến và gắn bó với nhau với một tình nghĩa keo sơn. Họ gọi nhau một tiếng gọi thân thương: Đồng chí. Để phân tích bài thơ Đồng chí được hay nhất các em cần lập dàn ý chi tiết cho đề văn này. Có như vậy thì trong quá trình làm bài sẽ không sợ bị thiếu ý, sót ý. Dưới đây là những hướng dẫn cho các em tham khảo. I. Lập dàn ý phân tích bài thơ Đồng chí 1. Mở bài – Giới thiệu về nhà thơ Chính Hữu và bài thơ Đồng chí. – Nội dung bài thơ viết về tình cảm của người lính dành cho nhau, qua đây chúng ta cũng thấy được những khó khăn mà người chiến sĩ đã phải trải qua. 2. Thân bài phân tích bài thơ Đồng chí Đoạn 1: Cơ sở hình thành tình đồng chí – Sự tương đồng trong hoàn cảnh xuất thân của những người lính – Những người lính cùng chung nhiệm vụ, cùng chung lý tưởng, cùng sát cánh bên nhau trong tranh đấu. – Cùng nhau chia sẻ khó khăn trong cuộc sống. Đoạn 2: Những biểu hiện cảm động của tình đồng chí – Sự cảm thông sâu sắc nỗi niềm của nhau. – Cùng nhau chia sẻ những gian lao và thiếu thốn. Đoạn kết: Bức tranh về tình đồng chí – Hình ảnh thơ đầu súng trăng treo lãng mạn nhưng cũng là thực tế. – Người lính, người đồng chí luôn kề vai sát cánh bên nhau làm nhiệm vụ. 3. Kết luận – Tóm tắt lại nội dung của bài và nêu cảm nghĩ của em về bài thơ này. Bài viết liên quan >> Phân tích bài thơ Nói với con của Y Phương (Có dàn ý chi tiết) >> Phân tích bài thơ Mùa xuân nho nhỏ của Thanh Hải (Có dàn ý chi tiết) >> Phân tích bài thơ Sang thu của Hữu Thỉnh (Có dàn ý chi tiết) II. Bài làm phân tích bài thơ Đồng Chí Nhà thơ Chính Hữu vốn xuất thân là một người lính. Ông tham gia vào cuộc kháng chiến chống Pháp của dân tộc. Năm 1948, nhà thơ sáng tác bài thơ Đồng chí khi đang cùng với đồng đội của mình tham gia chiến dịch Việt Bắc. Bài thơ đã nói lên được tình nghĩa của những người chiến sĩ. Họ là những con người đã cùng nhau vào sinh ra tử, chia sẻ với nhau những khó khăn, thiếu thốn trong cuộc sống và họ gọi nhau bằng một tiếng thân thương đồng chí.Xem thêm: Nghị luận xã hội về lòng khiêm tốn Những câu thơ mở đầu đã cho chúng ta thấy được xuất thân của những người lính. Họ tuy có hoàn cảnh xuất thân không giống nhau nhưng lại tương đồng với nhau: Quê hương anh nước mặn đồng chua Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá Phân tích bài thơ Đồng chí Nước mặn đồng chua và đất cày lên sỏi đá đều là những vùng đất không thuận lợi cho việc sản xuất. Điều đó cho thấy, cả tôi và anh đều đến từ những vùng quê nghèo khó của đất nước. Phải chăng chỉ ra hoàn cảnh xuất thân nghèo khó là để cho người đọc hiểu được lý do vì sao mà những người lính dễ dàng yêu mến nhau? Thường con người ta thương nhau nhiều hơn, đồng cảm với nhau nhiều hơn trong nghèo khó. Từ xuất thân tương đồng như vậy, tình cảm của người lính càng thêm bền chặt khi họ có cùng chung một lý tưởng, cùng chung một nhiệm vụ. Đó là nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Từ những con người xa lạ, nay không hẹn mà gặp rồi lại trở nên thân thiết: Anh với tôi đôi người xa lạ Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau Rõ ràng là không quen nhau mà lại cứ ngỡ như là đã thân nhau từ trước. Để rồi: Súng bên súng đầu sát bên đầu Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ Đồng chí. Súng chính là hình tượng trưng cho sự chiến đấu của những người lính, là vật dụng quen thuộc không thể thiếu của người lính. Câu thơ tái hiện lại hình ảnh những người lính đang cầm súng kề vai, sát cánh bên nhau trong chiến đấu. Những đêm mưa rừng, gió rét, họ cũng chung nhau đắp một tấm chăn, sưởi ấm nhau bằng hơi ấm của cơ thể, hơi ấm của tình người. Và cứ thế họ trở thành tri kỉ của nhau. Câu thơ cuối cùng của đoạn thơ, cảm xúc của tác giả dồn nén lại và rồi bật lên thành một tiếng gọi đồng chí. Một tiếng gọi thôi mà gợi lên biết bao nhiêu tình nghĩ. ÔI những người cùng chung chí hướng, mối nhân duyên đặc biệt đã gắn kết họ lại để cho ta có được hòa bình như hôm nay. Tiếng thơ như là cách để nhà thơ khép lại ý của đoạn thơ thứ nhất và mở ra ý của đoạn thơ thứ hai.Xem thêm: Thuyết minh về Bến Nhà Rồng. Từ cơ sở hình thành tình đồng chí, nhà thơ Chính Hữu bắt đầu đi sâu hơn vào trong việc miêu tả biểu hiện cảm động của tình đồng chí để cho người đọc hiểu rõ hơn về thứ tình cảm này. Biểu hiện của tình đồng chí trước hết là ở sự cảm thông sâu sắc những tâm tư, nỗi niềm của nhau. Ở với nhau lâu ngày, sẻ chia với nhau nhiều điều nên những người lính hiểu nhau như hiểu chính bản thân mình vậy: Ruộng nương anh gửi bạn thân cày, Gian nhà không, mặc kệ gió lung lay Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính. Bước ra nơi chiến trường gian khổ, người lính đã phải bỏ lại sau lưng mình là quê hương, là người thân. Họ đã tạm gác lại những công việc riêng để phục vụ cho công việc chung của cả dân tộc. Đó chính là lý tưởng cao đẹp của người lính. Hơn ai hết họ hiểu được rằng nếu việc chung của dân tộc mà không thành thì họ cũng chẳng thể nào sống được để mà làm việc riêng của mình. Để được tiếp tục trở thành anh nông dân với ruộng nương, họ phải làm tốt nhiệm vụ của người lính. Họ bỏ lại gian nhà không cho gió. Họ ra đi, mang theo nỗi nhớ hình bóng quê hương ở trong tim. Và ở nơi xứ xa, những con người, cảnh vật quê hương cũng nhớ họ đến cô cùng. Không chỉ vậy, tình đồng chí còn là cùng nhau chia sẻ những sự thiếu thốn và gian lao giữa chiến trường khốc liệt: Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh Rét run người vừng trán ướt mồ hôi. Áo anh rách vai Quần tôi có vài mảnh vá Miệng cười buốt giá Chân không giày Thương nhau tay nắm lấy bàn tay. Cơn ớn lạnh, rét run, vừng trán ướt mồ hôi là những từ ngữ chỉ cơn sốt rét rừng. Có ai trải qua rồi mới hiểu nó khủng khiếp đến nhường nào. Nó làm cho con người ta rét run mà vẫn vã mồ hôi. Ở trong hoàn cảnh thiếu thốn của chiến trường, thuốc men không có, không ít người lính đã phải ra đi vì căn bệnh sốt rét chứ không phải vì đạn của kẻ thù. Người đọc chỉ nghe kể còn thấy thương, huống gì những người lính ngày ngày chứng kiến đồng đội mình chịu những cơn sốt rét. Tình thương của những người lính còn thể hiện rõ trong hình ảnh áo anh rách vai còn quần tôi thì có vài mảnh vá. Mặc dù ai cũng đều thiếu thốn nhưng họ sẵn sàng chia sẻ cho nhau từng tấm áo, manh quần, sẵn sàng cắt áo của mình ra để vá lành quần cho bạn. Họ thương nhau, bàn tay nắm lấy bàn tay.Xem thêm: “Hiền... thấp” (Thân Nhân Trung). Từ ý kiến trên, hãy trình bày ý kiến của anh (chị) về việc rèn luyện tài đức và trách nhiệm với quốc gia của mỗi con người. (Yêu cầu viết một bài văn) Đoạn cuối của bài thơ, nhà thơ Chính Hữu mang đến một hình ảnh thật đẹp: Đêm nay rừng hoang sương muối Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới Đầu súng trăng treo. Rừng hoang sương muối, đó cũng là hoàn cảnh trong chiến trường mà những người lính phải trải qua. Đêm đêm, họ phải cùng nhau canh gác, cùng nhau chịu cái lạnh buốt ở nơi rừng hoang sương muối. Nhưng khó khăn ấy chẳng là gì. Họ vẫn luôn đứng cạnh bên nhau để chờ giặc đới. Động từ chờ cho thấy một thái độ đầy bình thản của những người lính. Họ không lo sợ, bởi vì họ luôn có nhau. Câu thơ cuối cùng mang đến một hình ảnh thơ rất đẹp: Đầu súng trăng treo. Đó là hình ảnh người lính đang đứng gác, súng đặt bên hông và chĩa mũi súng thẳng lên bầu trời. Trăng treo trên đầu súng, trăng soi sáng cho người lính có thể chia thẳng mũi súng vào quân thù. Qua bài thơ Đồng chí, chúng ta thấy được tình cảm gắn kết của những người lính với nhau, hiểu thêm về những khó khăn, thiếu thốn của họ cả trong cuộc sống lẫn trong tranh đấu. Những kỉ niệm trong bài thơ là những kỉ niệm êm đẹp mà gần gũi. Câu thơ đọc dễ gần, dễ hiểu nên cảm xúc của tác giả gửi gắm trong bài cũng dễ dàng chạm đến lòng độc giả. Tình cảm đồng chí chắc chắn rằng sẽ còn cháy mãi. Thu Thủy
Đề bài: Phân tích bài thơ Đồng Chí của Chính Hữu Bài làm Thơ ca về cuộc chiến đấu gian khổ của dân tộc ta luôn đứng một vị trí quan trọng trong nền văn học nước nhà. Đó cũng là chủ đề dành được nhiều sự quan tâm và hình ảnh anh vệ quốc quân, tình đồng đội, đồng chí cũng trở thành nguồn cảm hứng lớn cho các nhà thơ, nhà văn. Bài thơ Đồng Chí của Chính Hữu chính là một trong những sáng tác hay nhất về tình đồng chí. Mở đầu bài thơ chính là lời giới thiệu về xuất thân, hoàn cảnh về tình cảm đồng đội, đồng chí: “Quê hương anh nước mặn đồng chua Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá Anh với tôi đôi người xa lạ Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau” Những người chiến sĩ đến từ mọi miền trên Tổ quốc, từ miền núi đến đồng bằng, hay tới tận những vùng ven biển. Quê hương của họ còn nghèo khó bởi “nước mặn đồng chua”, bởi “đất cày lên sỏi đá”, cho thấy sự khắc nghiệt, khó khăn về điều kiện sống, điều kiện sản xuất. Tuy nghèo đói nhưng đứng trước vận mệnh đất nước lâm nguy, trước cảnh lầm than của nhân dân thì họ đều có chung quyết tâm rời xa quê hương để chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Qua đó ta có thể thấy được những người chiến sĩ tuy xuất thân từ những vùng miền khác nhau nhưng đều cùng chung lý tưởng và thế rồi “chẳng hẹn quen nhau”. Họ không quen nhau thông thường mà đó là cùng nhau kề vai sát cánh từ chiến trường đến những lúc nghỉ ngơi:Xem thêm: Phát biểu cảm nhận của em về hiệu quả nhạc tính trong những câu thơ sau: “Khách xa gặp lúc mùa xuân chín Lòng trí bâng khuâng sực nhớ làng: - Chị ấy năm nay còn gánh thóc Dọc bờ sông trắng nắng chang chang?” (Mùa xuân chín - Hàn Mặc Tử) Phân tích bài thơ Đồng Chí “Súng bên súng đầu sát bên đầu Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỷ” Tất cả những tinh cảm đó được nhà thơ Chính Hữu đúc kết lại thành hai từ “Đồng Chí!”. Câu thơ ngắn gọn nhất nhưng lại mang nhiều cảm xúc, sự suy nghĩ cho người đọc. Tác giả như khẳng định thứ tình cảm thiêng liêng, cao quý của những con người từ “lạ” cho đến quen nhau ấy. Không chỉ dừng lại ở đó mà Chính Hữu còn tiếp tục khẳng định tình đồng đội, đồng chí gắn bó qua những câu thơ tiếp theo: “Ruộng nương anh gửi bạn thân cày Gian nhà không mặc kệ gió lung lay Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính” Để đến được chiến trường thì những người lính đã phải rời xa nơi họ sinh ra và lớn lên, họ phải bỏ lại những tháng ngày lao động, sinh hoạt đời thường. Ruộng nương thì gửi bạn, căn nhà đơn sơ không có ai sửa sang nay vẫn đứng im lìm nơi đó “mặc kệ gió lung lay”. Thế rồi khi ra đi họ nhớ về quê hương nhưng đồng thời quê hương cũng nhớ về những người con của họ từ làng ra đi vì nghĩa lớn. Giếng nước, gốc đa là những hình ảnh quen thuộc của làng quê nay được nhà thơ sử dụng phép nhân hóa khiến chúng giống như đang mang nặng nỗi nhớ thương đến những người con của quê hương nay ra đi để trở thành chiến sĩ. Nhà thơ nhắc đến những hình ảnh quen thuộc ấy còn mang ý nghĩa về động lực của người chiến sĩ để họ có thể chắc tay súng, bảo vệ xóm làng, quê hương.Xem thêm: Phân tích tác phẩm Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân (Có dàn ý chi tiết) Trong những ngày đầu kháng chiến với biết bao khó khăn gian khổ, nhưng những người chiến sĩ không hề nản bước mà mạnh mẽ đối mặt, vượt qua những gian nan ấy: “Áo anh rách vai Quần anh có vài mảnh vá Miệng cười buốt giá Chân không giày” Những thiếu thốn về vật chất, đến manh áo cũng không còn nguyên vẹn, đôi chân hằng ngày hành quân biết bao nhiêu gian khổ nhưng họ vẫn có thể mỉm cười đối mặt. Không chỉ thiếu thốn về vật chất mà họ còn phải đối mặt với thời tiết khắc nghiệt, với địa hình hiểm trở nhưng dừng như tất cả chỉ làm cho tình đồng chí trở nên thắm thiết, gắn bó hơn: “Thương nhau tay nắm lấy bàn tay Đêm nay rừng hoang sương muối Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới Đầu súng trăng treo” Những người lính đã động viên, đã chia sẻ với nhau, sưởi ấm cho nhau bằng hơi ấm của tình người, của tình đồng đội. Chính điều đó giúp họ cảm thấy những thiếu thốn về vật chất chẳng đáng kể, vượt qua những cơn sốt rét rừng hoành hành, vượt qua sự khắc nghiệt của thời tiết. Giữa cảnh “rừng hoang sương muối” ấy, những người lính vẫn đang vững tay súng để phục kích, để sẵn sàng đối mặt với quân thù bất cứ lúc nào. Hình ảnh “Đầu súng trăng treo” khép lại bài thơ đồng thời cũng là hình ảnh vừa chân thực lại vừa lãng mạn. Giữa đêm khuya nơi cánh rừng hoang, trên bầu trời có vầng trăng tỏa sáng, ánh sáng dịu nhẹ phủ lên hình ảnh tươi đẹp dưới mặt đất đó là hình ảnh những người chiến sĩ đứng phục kích chờ giặc tới. Nhìn từ xa vầng trăng giống như đang được treo lơ lửng trên đầu ngọn súng. Ánh trăng chính là biểu tượng của hòa bình qua đó thể hiện khát vọng của nhà thơ cho đất nước sớm được hưởng thái bình, nhân dân ấm no, hạnh phúc.Xem thêm: Phân tích bài thơ Đoàn Thuyền Đánh Cá của tác giả Huy Cận Bài thơ Đồng Chí của Chính Hữu chính là một bức tranh sống động về tình đồng chí của những anh bộ đội cụ Hồ trong những buổi đầu kháng chiến. Bài thơ đã thể hiện vẻ đẹp về tinh thần, về lý tưởng chiến đấu vì hòa bình của dân tộc của những người chiến sĩ cách mạng. Đây chính là bài thơ viết về tình đồng chí hay nhất, để lại nhiều cảm xúc trong lòng độc giả. Loan Trương
Topic: Analysis of Chinh Huu's poem Dong Comrade Assignment Poetry about our nation's arduous struggle always holds an important position in our country's literature. That is also a topic that has received a lot of attention and the image of the national guard, the love of teammates and comrades has also become a great source of inspiration for poets and writers. Chinh Huu's poem Comrades is one of the best compositions about comradeship. The beginning of the poem is an introduction about the background, circumstances and feelings of comrades and comrades: “Your hometown is salty and sour My village is poor rocky soil plowed up He sometimes strangers to me From heaven and earth, we did not meet each other" The soldiers come from all parts of the country, from the mountains to the plains, or even to the coastal areas. Their homeland is still poor because of "salty water and sour fields", because of "soil plowed into gravel", showing the harshness and difficulty of living conditions and production conditions. Although poor, facing the fate of the country in danger, facing the plight of the people, they all had the same determination to leave their homeland to fight to protect the Fatherland. Through this we can see that although the soldiers came from different regions, they all shared the same ideals and then "did not meet each other". They don't know each other normally, but stand side by side from the battlefield to times of rest: See more: Express your feelings about the musical effect in the following verses: "Distant guests meet in the summer." Spring is ripe, my mind is wistful and I suddenly miss the village: - This year she still carries rice along the sunny white riverbank? (Spring is ripe - Han Mac Tu) Analysis of the poem Dong Chi “The gun is next to the head and the gun is next to the head On a cold night, we share a blanket and become soulmates." All those sentiments were summarized by poet Chinh Huu into two words "Comrade!". The poem is the shortest but brings a lot of emotions and thoughts to the reader. The author seems to affirm the sacred and noble feelings of these people from "strangers" to acquaintances. Chinh Huu not only stopped there, but also continued to affirm the bond of comradeship and camaraderie through the following verses: “I sent my best friend to plow the fields The house does not let the wind shake Most original water well miss out soldiers" To reach the battlefield, soldiers had to leave the place where they were born and raised, they had to leave behind their days of labor and daily life. The fields were sent to friends, the simple house that no one repaired now still stands there silently "letting the wind shake it". Then when they leave, they remember their homeland, but at the same time, their homeland also remembers their children who left the village for a great cause. The well and the banyan tree are familiar images of the village, but the poet now uses personification to make them seem like they carry heavy nostalgia for the children of the homeland who have now left to become soldiers. The poet's mention of those familiar images also carries the meaning of the soldiers' motivation so that they can be sure of their guns and protect their villages and homeland. See more: Analysis of Nguyen's work Letters from death row prisoners Compliance (With detailed outline) In the early days of the resistance, there were many difficulties and hardships, but the soldiers were not discouraged but strongly faced and overcame those hardships: “Your shirt is torn at the shoulder His pants have a few patches Cold smile on mouth Shoeless" Despite the lack of material resources, even the clothes were no longer intact, their feet marched through many hardships every day, but they could still face them with a smile. Not only do they lack material resources, but they also have to face harsh weather and dangerous terrain, but all of this only makes the camaraderie become more intimate and closer: "Several injured hand grip Tonight the wild forest is foggy Standing side by side waiting for the enemy to come Hanging moon gun head" The soldiers encouraged, shared with each other, and warmed each other with the warmth of human love and camaraderie. That helps them feel insignificant material deprivation, overcome the raging bouts of forest malaria, and overcome the harshness of the weather. In the midst of that "frosty wild forest", the soldiers were still holding their guns firmly in ambush, ready to face the enemy at any time. The image "Hanging moon gunhead" closes the poem and is both realistic and romantic. In the middle of the night in the wild forest, there was a shining moon in the sky, a soft light covering the beautiful image on the ground, which was the image of soldiers standing in ambush waiting for the enemy to come. Looking from a distance, the moon looks like it is hanging above the tip of the gun. Moonlight is a symbol of peace, thereby expressing the poet's desire for the country to soon enjoy peace and for its people to be prosperous and happy. See more: Analysis of the poem Fishing Boat Group by author Huy Near Chinh Huu's poem Comrades is a vivid picture of the comradeship of Uncle Ho's soldiers in the early days of the resistance. The poem shows the spiritual beauty and ideals of revolutionary soldiers fighting for the peace of the nation. This is the best poem about comradeship, leaving many emotions in the hearts of readers. Loan Truong
Đề bài: Phân tích bài thơ Độc Tiểu Thanh Ký của Nguyễn Du Bài làm Nguyễn Du là một Đại thi hào của dân tộc. Ông không chỉ được biết đến với tác phẩm nổi tiếng là Truyện Kiều mà còn nhiều bài thơ khác. Một trong số đó phải kể đến bài thơ Độc Tiểu Thanh Ký. Bài thơ giống như một câu chuyện đời được kể bằng thơ rất cô đọng, hàm súc. Bài thơ Độc Tiểu Thanh Ký được lấy cảm hứng từ câu chuyện của một cô gái sống ở thời nhà Minh. Vì hoàn cảnh nghèo khó mà nàng tiểu Thanh gả vào gia đình giàu có làm vợ lẽ. Chính bởi kiếp vợ lẽ và bị vợ cả ghen tuông nên nàng phải ở một mình, tách biệt. Trong những tháng ngày chịu đựng sự cô đơn, hiu quạnh đó thì bà đã viết rất nhiều bài thơ để bày tỏ nỗi niềm của mình. Tuy nhiên vốn xưa này “Hồng nhan thì bạc mệnh” và khi bà mất đi thì những sáng tác của bà bị vợ cả đem đi đốt và may mắn còn sót lại một phần được người xưa đặt tên là “phần dư”. Khi Nguyễn Du bắt gặp được những bài thơ ấy đã nảy sinh sự xót thương, thương cảm cho tài hoa bạc mệnh ấy và viết nên bài thơ này: "Tây Hồ cảnh đẹp hóa gò hoang Thổn thức bên song mảnh giấy tàn” Hai câu thơ đầu gợi lên địa điểm, không gian nàng Tiểu Thanh đã từng sống. Đó là nơi Tây Hồ, từng là một nơi có cảnh đẹp non nước hữu tình nhưng nay lại hoang vắng, heo hút. Có lẽ trong con mắt của người con gái bị chôn vùi tuổi thanh xuân nơi đây, sống trong thời gian dài giữa sự cô đơn, trống vắng nên chẳng còn thấy cảnh đẹp này đẹp đẽ nữa mà lại hóa gò hoang. Nguyễn Dũ là một người có tài tả cảnh ngụ tình đặc sắc, tiểu biểu là trong tuyệt tác Truyện Kiều của ông. Tại đây, có lẽ thấu hiểu được tâm trạng của nàng Tiểu Thanh nên ông đã có sự nhìn nhận thấu đảo để qua việc tả khung cảnh mà nói lên tâm trạng của nang. Bởi lẽ xưa nay người buồn cảnh có vui đâu bao giờ. Trong khung cảnh ấy nhân vật trữ tình nổi lên từ hành động “thổn thức” ở bên song cửa, với những mảnh giấy tàn viết nên tâm trạng của chính mình. Trước nỗi sầu của bản thân mình, người con gái đó không biết giãi bày cùng ai và cũng chẳng có ai ở bên, có ai thấu hiểu được nên nàng đành gửi gắm bằng những dòng chữ viết vào những mảnh giấy tàn, chỉ biết một mình thổn thức. Từng nghe câu “Có chồng hờ hững cũng như không” của Trần Tế Xương nhưng giờ ta mới càng thêm thấm thía hình ảnh người con gái có chồng nhưng vẫn một mình lẻ loi.Xem thêm: Phân tích bài ca dao “Bao giờ cho đến tháng ba, ếch cắn cố rắn tha ra ngoài đồng…” Phân tích bài thơ Độc Tiểu Thanh Ký Nhà thơ Nguyễn Du có cảm giác rằng mảnh giấy tàn dường như vẫn còn cảm thấy phảng phất đâu đây những dư âm về cảm xúc của người đã viết ra nó, dường như linh hồn của nàng: “Son phấn có hồn chôn vẫn hận Văn chương không mệnh đốt còn vương” Dù là phấn son hay văn chương thì đều là những vật vô chi vô giác. Ấy nhưng dưới con mắt của nhà thơ thì nó giống như có “hồn”, có “mệnh”. Mệnh của văn chương dường như được đặt trong mối mối tương quan với người nghệ sĩ, nó mang linh hồn của người nghệ sĩ. Có thể người sáng tạo ra nó đã mất đi nhưng phần hồn thì vẫn còn vương vấn nơi đây, chưa thể giải thoát. Nó giống như phản ánh một cuộc đời đầy oan khuất và bị vùi dập. Hai câu thơ đã thể hiện nỗi đồng cảm sâu sắc và sự thương xót của nhà thơ Nguyễn Du. Từ nỗi niềm thương xót ấy, ông đã thốt lên câu hỏi luôn khắc khoải: “Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi Cái án phong lưu khách tự mang” Một câu hỏi nhưng chưa thể tìm được câu trả lời. Ông tự cảm thấy cuộc đời của mình với nàng Tiểu Thanh mang nhiều nét tương đồng đó là chịu nhiều nỗi bất công. Trong Truyện Kiều ông cũng đã từng bày tỏ tư tưởng thương xót đối với thân phận những người phụ nữ trong xã hội cũ:Xem thêm: Bình giảng bài ca dao sau: Trèo lên cây bưởi hái hoa Bước xuống vườn cà hái nụ tầm xuân. “Đau đớn thay phận đàn bà Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung” Đến hai câu thơ kết, nhà thơ từ nỗi thương người nay hướng về mình cảm than: “Chẳng biết ba trăm năm lẽ nữa Người đời ai khóc Tố Như chăng” Nguyễn Du đã đồng cảm, xót thương cho thân phận nàng Tiểu Thanh dù cho nàng đã sống cách đây ba trăm năm. Cũng mang cuộc đời nghệ sĩ, không biết rằng bản thân mình khi đó có còn ai nhớ tới, ai đồng cảm, xót thương cho số phận của mình không? Lời bộc bạch chân thành khiến cho người đọc không khỏi cảm thấy xót xa, thương cảm. Bài thơ Độc Tiểu Thanh Ký của Nguyễn Du là mọt bài thơ hay để lại nhiều suy nghĩ trong lòng người đọc. Tác giả đã gợi nhớ về cuộc đời bất hạnh, cô đơn của người phụ nữ trong xã hội cũ và những chiêm nghiệm sâu sắc về cuộc đời những người nghệ sĩ. Loan Trương
Topic: Analysis of the poem Doc Tieu Thanh Ky by Nguyen Du Assignment Nguyen Du is a great poet of the nation. He is not only known for his famous work The Tale of Kieu but also many other poems. One of them is the poem Doc Tieu Thanh Ky. The poem is like a life story told in very concise, concise verse. The poem Doc Tieu Thanh Ky was inspired by the story of a girl living in the Ming Dynasty. Because of her poor circumstances, Tieu Thanh married into a rich family as a concubine. Because of her life as a concubine and being jealous of her first wife, she had to live alone and separate. During those days of suffering loneliness and loneliness, she wrote many poems to express her feelings. However, in the past, "Good looks lead to bad fate" and when she passed away, her first wife's compositions were burned and the lucky part that remained was named "residual" by the ancients. When Nguyen Du encountered those poems, he felt pity and sympathy for that ill-fated talent and wrote this poem: "West Lake's beautiful scenery has turned into a wild mound Sobbing next to the broken piece of paper" The first two lines of the poem evoke the place and space where Tieu Thanh once lived. That is Tay Ho, once a place with beautiful and charming landscapes, but now it is desolate and desolate. Perhaps in the eyes of the girl whose youth was buried here, living for a long time amidst loneliness and emptiness, she no longer saw this beautiful scene and instead turned into a deserted mound. Nguyen Du is a person with a talent for depicting unique love scenes, typically in his masterpiece The Tale of Kieu. Here, perhaps understanding Tieu Thanh's mood, he had the insight to describe Nang's mood through describing the scene. Because in the past, sad people were never happy. In that scene, the lyrical character emerges from the act of "sobbing" on the side of the door, with pieces of paper writing down his own mood. Faced with her own sadness, that girl did not know how to confide in anyone and had no one by her side, no one who understood, so she had to confide in words written on pieces of paper, only knowing one thing. I sobbed. We have heard the saying "Having a husband who is indifferent is the same as not having a husband" by Tran Te Xuong, but now we understand more and more the image of a girl who has a husband but is still alone. See more: Analysis of the folk song "When will you let me go?" In March, frogs bite and snakes are released into the fields..." Analysis of the poem Doc Tieu Thanh Ky Poet Nguyen Du has the feeling that the ruined piece of paper still seems to have echoes of the emotions of the person who wrote it, as if her soul: “Powder has a soul buried in hatred Literature that is not destined to be burned still lingers" Whether it's lipstick or literature, they are all inanimate objects. But in the eyes of the poet, it is like having a "soul" and a "destiny". The destiny of literature seems to be placed in relation to the artist, it carries the soul of the artist. Maybe its creator has passed away, but the soul still lingers here, unable to be liberated. It seems to reflect a life full of injustice and being crushed. These two verses express the deep sympathy and pity of poet Nguyen Du. From that feeling of compassion, he asked the always anxious question: “Ancient and ancient anger is wise to ask The sentence of exile is brought on by guests." A question but no answer yet. He felt that his life with Tieu Thanh had many similarities, including suffering many injustices. In The Tale of Kieu, he also expressed his compassion for the plight of women in the old society: See more: Commentary on the following folk song: Climb the grapefruit tree to pick flowers Step down to the eggplant garden to pick rose hips . "Woman pain rather division Word that silver is also a common destiny" In the last two lines of the poem, the poet, from his compassion for others, now turns to himself and laments: “I don't know in three hundred years Who in this world will cry for To Nhu? Nguyen Du sympathized and pitied Tieu Thanh's fate even though she lived three hundred years ago. Also living the life of an artist, I don't know if I was there at that time, would anyone still remember, sympathize, and pity my fate? The sincere confession makes the reader feel sad and sympathetic. The poem Doc Tieu Thanh Ky by Nguyen Du is a good poem that leaves many thoughts in the reader's heart. The author recalls the unhappy, lonely life of women in the old society and profound contemplations about the lives of artists. Loan Truong
Đề bài: Phân tích bài thơ Độc Tiểu Thanh ký của Nguyễn Du Trong gia tài thi ca phong phú của đại thi hào dân tộc Nguyễn Du, bộ phận thơ chữ Hán có vai trò khá đặc biệt. Đó là những bài mà Nguyễn Du có thể trực tiếp bộc lộ những tâm tư, tình cảm; bày tỏ những day dứt trăn trở của mình. Trong bài thơ "Độc Tiểu Thanh ký" những tâm sự ấy của Nguyễn Du lại có được sự tương đồng, gần gũi với cuộc đời, số phận tài sắc mà bất hạnh của Tiểu Thanh. Bởi vậy bài thơ là sự kết hợp hài hoà giữa nỗi thương người và sự thương mình, giữa sự xót thương cho kiếp người mệnh bạc và lòng trân trọng ngợi ca những phẩm chất cao đẹp của con người. Đó cũng là một phương diện quan trọng, sâu sắc trong chủ nghĩa nhân đạo của Nguyễn Du. Trong thơ văn trung đại, không phải ít hình ảnh những người phụ nữ "tài hoa bạc mệnh", là nạn nhân của cái quy luật "hồng nhan đa truân". Người cung nữ của Nguyễn Gia Thiều đa tài là thế: Câu cẩm tú đàn anh họ Lý Nét đan thanh bậc chị chàng Vương" và: "Cờ tiên, rượu thánh ai đang Lưu Linh, Đế Thích là làng tri âm nhưng rồi rốt cuộc cũng chỉ bị nhốt nơi cung cấm mà nuối tiếc quá khứ, chán nản hiện tại và lo sợ cho tương lai. Tuy nhiên, phải nói rằng chỉ đến Nguyễn Du mới xuất hiện cả một lớp người mang trọn cái số kiếp bạc mệnh ấy: Kiều, Đạm Tiên, người ca nữ đất Long Thành…. Số phận của họ nằm trong mạch cảm hứng chung của Nguyễn Du và thể hiện tấm lòng nhân đạo bao la ở ông. Bởi thế dễ hiểu vì sao cuộc đời Tiểu Thanh – một người con gái xa về thời gian, cách về không gian lại nhận được sự cảm thông sâu sắc như thế từ nhà thơ. Tiểu Thanh cũng đầy đủ tài hoa, nhan sắc, nhất là tài hoa văn chương, thơ phú. Cuộc đời cuối cùng cũng vùi chôn trong nấm mồ khi đang độ xuân xanh tuổi trẻ. Phần tinh hoa để lại cho đời cũng tiêu tan chỉ vì cái lòng ghen tuông ích kỷ, tàn ác của người vợ cả. Sự biến đổi đau thương ấy của cuộc đời nàng như được hiện hữu trong cảnh vật: Hồ Tây cảnh đẹp hoá gò hoang Thổn thức bên song mảnh giấy tàn Trong nguyên văn, Nguyễn Du dùng chữ "tận" như muốn xoá sạch mọi dấu vết của cảnh đẹp Tây Hồ, tô đậm thêm ấn tượng hoang vắng, tàn tạ của gò hoang. Sự biến đổi tang thương của cảnh gợi mối thương tâm đến người. Cảnh đẹp Tây Hồ giờ chỉ còn gò hoang cũng như tất cả những gì còn lại của Tiểu Thanh tài sắc chỉ là một mảnh giấy tàn, là phần dư cảo. Nhưng chỉ từng ấy thôi cũng đủ để nhà thơ một mình thương cảm, xót xa mà khóc cho đời hồng nhan. Tiểu Thanh trong đời thực 300 năm trước cũng như nàng Kiều, người ca nữ đất Long Thành đều phải hứng chịu: Xem thêm: Thanh niên và vấn đề lựa chọn nghề nghiệp hiện nay.Rằng: Hồng nhan tự thuở xưa Cái điều bạc mệnh có chừa ai đâu (Truyện Kiều) Tài sắc của những con người ấy thì được ngợi ca là những giá trị tinh thần cao đẹp nhưng bản thân họ thì lại bị đày đoạ, chà đạp. Nguyễn Du với tấm lòng nhân đạo bao la sâu sắc của mình đã thể hiện một sự đồng cảm, xót thương hết sức chân thành với số phận Tiểu Thanh. Đây là một nét mới mẻ trong Chủ nghĩa nhân đạo Nguyễn Du. Đối tượng mà Nguyễn Du thương cảm, quan tâm không chỉ là "thập loại chúng sinh" đói nghèo đau khổ. Rất nhiều tình cảm của ông hướng về những kẻ tài hoa. Chính số kiếp của Tiểu Thanh tạo nên cái mối hận ngàn năm để Nguyễn Du nhắc đến trong hai câu luận: Mối hờn kim cổ trời khôn hỏi Cái án phong lưu khách tự mang Mối hận ấy hỏi trời không thấu, hỏi đất không hay, chỉ có những kẻ cùng hội cùng thuyền là có thể cùng nhau than thở. Nguyễn Du tự nhận mình cũng mắc cái nỗi oan kỳ lạ vì nết phong nhã tài hoa. Nói cách khác sự đồng cảm lớn lao của Nguyễn Du dành cho Tiểu Thanh có được bởi Nguyễn Du là người đồng cảnh. Lòng thương người khởi phát từ sự thương mình nên càng chân thực và sâu sắc. Đúng như Mộng Liên Đường chủ nhân Nguyễn Đăng Tuyến từng nhận xét rằng: "Thúy Kiều khóc Đạm Tiên, Tố Như tử làm truyện Thúy Kiều, việc tuy khác nhau mà lòng thì là một, người đời sau thương người đời nay, người đời nay thương người đời xưa, hai chữ tài tình thật là cái mối thông luỵ của bọn tài tử khắp trong gầm trời và suốt cả xưa nay vậy". Quả thực cái sự vô tình, trớ trêu của tạo hoá với những kẻ tài năng đã trở thành mối hận của muôn đời và khắp chốn. Như vậy, tình thương của Nguyễn Du đối với Tiêủ Thanh là tình cảm của những người tuy xa cách về hoàn cảnh nhưng lại tương đồng trong cảnh ngộ. Từ nỗi thương mình mà xót xa cho người. Và từ sự thương cảm cho người lại tiếp tục gợi lên bao băn khoăn, day dứt cho kiếp mình. Bởi một lẽ, Tiểu Thanh rốt cuộc còn có được một Nguyễn Du tri âm tri kỷ rỏ lệ xót xa. ít hay nhiều linh hồn văn chương, nhan sắc, tài hoa "hữu thần" ấy còn có được sự an ủi. Nhưng còn Nguyễn Du, cũng là kẻ "tài tử đa cùng" lắm sự lận đận gian nan thì 300 năm sau biết còn ai trong thiên hạ tưởng nhớ, tiếc thương. Đó là cái tâm sự băn khoăn không thể có lời giải đáp mà chỉ nhờ qua trường hợp Tiểu Thanh, Nguyễn Du mới có cơ hội suy ngẫm và gửi gắm. Bài thơ có kết cấu đặc biệt: hai câu đầu là cảnh vật, sự kiện, còn 6 câu sau nặng một khối tình. Khối tình ấy xét riêng ra thì là sự xót xa cho số kiếp Tiểu Thanh và những băn khoăn về cuộc đời chính tác giả. Nhưng ở tầng sâu khái quát nó là nỗi niềm của cả một lớp kẻ sĩ tài hoa, tài tử mà nhân ái bao la. Nguồn Edufly Xem thêm: Phân tích bài thơ Hữu Cảm của Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Topic: Analysis of the poem Doc Tieu Thanh Ky by Nguyen Du In the rich poetic legacy of the great national poet Nguyen Du, Chinese poetry has a quite special role. Those are the songs in which Nguyen Du can directly express his thoughts and feelings; express his torments and concerns. In the poem "Doc Tieu Thanh Ky", Nguyen Du's confidences are similar and close to Tieu Thanh's life, talented and unfortunate fate. Therefore, the poem is a harmonious combination between compassion for others and compassion for oneself, between pity for people's fate and appreciation for the noble qualities of people. That is also an important and profound aspect of Nguyen Du's humanitarianism. In medieval poetry, there are many images of "talented and ill-fated" women, victims of the rule of "beautiful and troubled". Nguyen Gia Thieu's lady-in-waiting was so multi-talented: Gou hyu is a senior of the Ly family Vuong's elegant features" and: "Who is the fairy flag, the holy wine?" Luu Linh and De Thich are friends of the village But in the end, he was only locked up in a forbidden palace, regretting the past, depressed about the present, and afraid for the future. However, it must be said that it was only when Nguyen Du appeared that a whole class of people had that unfortunate fate: Kieu, Dam Tien, the female singer of Long Thanh... Their fate lies in Nguyen Du's common inspiration and shows his immense humanity. Therefore, it is easy to understand why the life of Tieu Thanh - a girl far away in time and space - received such deep sympathy from the poet. Tieu Thanh is also full of talent, beauty, especially literary and poetic talent. Life is finally buried in the grave while still in the prime of youth. The essence left for life was also destroyed because of the first wife's selfish and cruel jealousy. That painful change in her life seems to exist in the landscape: West Lake's beautiful scenery turns into a wild mound Sobbing next to the broken piece of paper In the original text, Nguyen Du used the word "end" as if to erase all traces of the beautiful scenery of Tay Ho, highlighting the desolate and desolate impression of the abandoned mound. The tragic change of the scene evokes pity in people. The beautiful landscape of Tay Ho is now only a deserted mound and all that is left of Tieu Thanh's talent and beauty is just a piece of paper, a leftover. But that alone is enough for the poet to sympathize, mourn, and cry for the beauty of life. Tieu Thanh in real life 300 years ago as well as Kieu, a singer from Long Thanh, all suffered: See more: Young people and the problem of choosing a career today. That: Red beauty from the past The bad luck doesn't spare anyone (Kieu story) The talent and beauty of those people are praised as noble spiritual values, but they themselves are tormented and trampled. Nguyen Du, with his immense and profound humanitarian heart, showed a very sincere sympathy and compassion for Tieu Thanh's fate. This is a new feature in Nguyen Du's Humanism. The object of Nguyen Du's sympathy and concern is not only the "ten types of sentient beings" who are poor and suffering. A lot of his feelings were directed towards talented people. It was Tieu Thanh's fate that created the thousand-year hatred that Nguyen Du mentioned in two essays: Ancient and ancient grudges are wise to ask The sentence of exile is self-carrying That hatred cannot be understood by heaven, it cannot be understood by earth, only those who are in the same boat can lament together. Nguyen Du admitted that he also suffered from a strange injustice because of his elegant and talented ways. In other words, Nguyen Du's great sympathy for Tieu Thanh comes from Nguyen Du being in the same situation. Compassion for others starts from compassion for oneself, so it is more real and profound. Just like Mong Lien Duong owner Nguyen Dang Tuyen once commented: "Thuy Kieu cried Dam Tien, To Nhu Tu wrote the story Thuy Kieu, although the things are different, the heart is the same, people in the future love people in this life, people in the future. Now I love people from ancient times, the two words "talent" are really the common thread of amateurs all over the world and throughout the past." Indeed, the indifference and irony of creation towards talented people has become the hatred of all generations and everywhere. Thus, Nguyen Du's love for Tieu Thanh is the love of people who are distant in circumstances but similar in situation. From my own pity, I feel sorry for others. And from the sympathy for others, it continues to evoke many worries and torments for our lives. For one reason, Tieu Thanh finally has a tearful confidant named Nguyen Du. To a greater or lesser extent, that "theistic" literary soul, beauty, and talent still has comfort. But as for Nguyen Du, also a "distressed actor" with many hardships, 300 years later, who knows who in the world will remember and mourn. That is a feeling of concern that cannot be answered, but only thanks to Tieu Thanh's case, Nguyen Du has the opportunity to reflect and convey. The poem has a special structure: the first two lines are scenes and events, while the following 6 lines are filled with love. That love, considered separately, is sadness for Tieu Thanh's fate and concerns about the author's own life. But at a deep level, it is the sentiment of an entire class of talented scholars, amateurs, and immense compassion. Source Edufly See more: Analysis of the poem Huu Cam by Nguyen Binh Khiem.
Phân tích bài thơ ‘Chiều hôm nhớ nhà’ của Bà Huyện Thanh Quan Hướng dẫn Ai đã từng đọc ‘Truyện Kiều’ chắc không thể nào quên được câu thơ của Nguyễn Du nói về hoàng hôn: ‘Song sa vò võ phương trời, Nay hoàng hôn đã lại mai hôn hoàng’. Cũng nói về hoàng hôn và nỗi buồn của kẻ tha hương, bài thơ ‘Chiều hôm nhớ nhà’ của Bà Huyện Thanh Quan là một kiệt tác của nền thơ Nôm Việt Nam trong thế kỉ thứ mười chín: Chiều trời bảng lảng bóng hoàng hôn, Tiếng ốc xa đưa vẳng trống đồn. Gác mái ngư ông về viễn phô', Gõ sừng mục tử lại cô thôn. Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi, Dặm liễu sương sa khách bước dồn. Kẻ chôn Chương Đài, người lữ thứ, Lấy ai mà kể nổi hàn ôn? Câu thơ đầu tả ánh hoàng hôn một buổi chiều viễn xứ. Hai chữ ‘bảng lảng’ có giá trị tạo hình đặc sắc: ánh sáng lờ mờ lúc sắp tối, mơ hồ gần xa, tạo cho bức tranh một buổi chiều thấm buồn: ‘Chiều trời bảng lảng bóng hoàng hôn’ Hai chữ ‘bảng lảng’ là nhãn tự – như con mắt của câu thơ. Nguyễn Du cũng có lần viết: ‘Trời tây bảng lảng bóng vàng’(Truyện Kiều) Chỉ qua một vần thơ, một câu thơ, một chữ thôi, người đọc cũng cảm nhận được ngòi bút thơ vô cùng điêu luyện của Bà Huyện Thanh Quan. Đối với người đi xa, khoảnh khắc hoàng hôn, buồn sao nói hết được? Nỗi buồn ấy lại được nhân lên khi tiếng ốc (tù và) cùng tiếng trống đồn ‘xa đưa vẳng’ lại. Chiều dài (tiếng ốc), chiều cao (tiếng trống đồn trên chòi cao) của không gian được diễn tả qua các hợp âm ấy, đã gieo vào lòng người lữ khách một nỗi buồn lê thê, một niềm sầu thương tế tái. Câu thơ vừa có ánh sáng (bảng lảng) vừa có âm thanh (tiếng ốc, trống đồn) tạo cho cảnh hoàng hôn miền đất lạ mang màu sắc dân dã: ‘Chiều trời bảng lảng bóng hoàng hôn, Tiếng ốc xa đưa vẳng trống đồn’ Phần thực và luận, các thi liệu làm nên cốt cách bài thơ được lựa chọn tinh tế, biểu đạt một hồn thơ giàu cảm xúc. Ngư ông, mục tử, khách… thế giới con người được nói đến. Cảnh vật thì có ngàn mai, có gió và sương, có ‘chim bay mỏi’… Những thi liệu ấy mang tính chất ước lệ của thi pháp cổ (người thì có: ngư ông, mục tử; cảnh vật, cây cỏ, hoa lá thì có: phong sương, mai liễu, cánh chim chiều…) nhưng với tài sáng tạo vô song: chọn từ, tạo hình ảnh, đối câu, đối từ, đối thanh, ở phương diện nào, nữ sĩ cũng tỏ rõ một hồn thơ tài hoà, một ngòi bút trang nhã. Vì thế cảnh vật trở nên gần gũi, thân thuộc với mọi con người Việt Nam. Cảnh vật mang hồn người đậm đà bản sắc dân tộc. Chiều tà, ngư ông cùng con thuyền nhẹ trôi theo dòng sông về viễn phố với tâm trạng của một ‘ngư ông’ – ông chài nhàn hạ, thoải mái. Động từ ‘gác mái’ biểu đạt một tâm thế nhàn của ngư ông đang sống ở miền quê, đã thoát vòng danh lợi: Xem thêm: Phát biểu cảm nghĩ về truyện ngắn “Cuộc chia tay của những con búp bê” của Khánh Hoài- văn lớp 7‘Gác mái, ngư ông về viễn phố’ Cùng lúc đó, lũ trẻ đưa trâu về chuồng, trở lại ‘cô thôn’. Cử chỉ ‘gõ sừng’ của mục đồng thật hồn nhiên, vô tư, yêu đời: ‘Gõ sừng mục tử lại cô thôn’ Đó là hai nét vẽ về con người, hai bức tranh tuyệt đẹp nơi thôn dã đáng yêu. Hai câu luận tiếp theo mượn cảnh để tả cái lạnh lẽo, cô liêu, bơ. vơ của người lữ khách trên nẻo đường tha hương nghìn dặm. Trời sắp tối. Ngàn mai xào xạc trong ‘gió cuốn’-, gió mỗi lúc một mạnh. Cánh chim mỏi bay gấp về rừng tìm tổ. Sương sa mù mịt dặm liễu. Và trên con đường sương gió ấy, lạnh lẽo ấy chỉ có một người lữ khách, một mình một bóng đang ‘bước dồn’ tìm nơi nghỉ trọ. Hai hình ảnh ‘chim bay mỏ.i’ và ‘khách bước dồn’ là hai nét vẽ đăng đối, đặc tả sự mỏi mệt, cô đơn. Con người như bơ vơ, lạc lõng giữa ‘gió cuốn’ và ‘sương sa’, đang sống trong khoảnh khắc sáu cảm, buồn thương ghê gớm. Câu thơ để lại nhiều ám ảnh trong lòng người đọc. Đảo ngữ làm nổi bật cái bao la của nẻo đường xa miền đất lạ: ‘Ngàn mai, gió cuốn chim bay mỏi, Dặm liễu, sương sa khách bước dồn’ Bằng sự trải nghiệm của cuộc đời, đã sống những khoảnh khắc hoàng hôn ở nơi đất khách quê người, nữ sĩ mới viết được những câu thơ rất thực miêu tả cảnh ngộ lẻ loi của kẻ tha hương hay đến thế! Hai câu kết hội tụ, dồn nén lại tình thương nhớ. Nữ sĩ cảm thấy cô đơn hơn bao giờ hết. Câu bảy gồm hai vế tiểu đối, lời thơ cân xứng đẹp: ‘Kẻ chốn Chương Đài II người lữ thứ’. Chương Đài là điển tích nói về chuyện li biệt, nhớ thương, tan hợp của lứa đôi Hàn Hoành và Liễu thị đời Hán xa xưa. Bà Huyện Thanh Quan đã vận dụng điển tích ấy một cách sáng tạo. ‘Chương Đài’ và ‘lữ thứ’ trong văn cảnh gợi ra một trường liên tưởng về nỗi buồn li biệt của khách đi xa nhớ nhà, nhớ què hương da diết. Khép lại bài thơ là một tiếng than giãi bày một niềm tâm sự được diễn tả dưới hình thức câu hỏi tu từ. ‘Ai’ là đại từ phiếm chỉ, nhưng ta có thể biết đó là chồng, con, những người thân thương của nữ sĩ. ‘Hàn ôn’ là nóng lạnh; ‘nỗi hàn ôn’ là nỗi niềm tâm sự. Người lữ thứ trong chiều tha hương thấy mình bơ vơ nơi xa xôi, nỗi buồn thương không sao kể xiết: ‘Kẻ chốn Chương Đài, người lữ thứ, Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn?’ ‘Chiều hôm nhớ nhà’và ‘Qua Đèo Ngang’ hai kiệt tác thơ thất ngôn bát cú Đường luật. Đó là chùm thơ của Bà Huyện Thanh Quan sáng tác trong những tháng ngày nữ sĩ trên đường thiên lí vào kinh nhận chức nữ quan trong triều Nguyễn. Có thể coi đó là những bút kí – thơ vô cùng độc đáo. Thơ của Bà Huyện Thanh Quan thấm một nỗi buồn li biệt hoặc hoài cổ, hay nói đến hoàng hôn, lời thơ trang nhã, sử dụng nhiều từ Hán Việt (bảng lảng, hoàng hôn, ngư ông, viễn phố…) tạo nên phong cách trang trọng, cổ kính, nhạc điệu trầm bổng hấp dẫn. ‘Chiều hôm nhớ nhà’ là một bông hoa nghệ thuật chứa chan tình thương nhớ, bâng khuâng… Nguồn: thêm: "Đời sống... ngày nay" (“Đức tính giản dị của Bác Hồ” - Phạm Văn Đồng). Em hãy viết đoạn văn ngắn để giải thích tại sao lối sống giản dị là lối sống văn minh đáng ca ngợi
Analysis of the poem 'Homesick in the afternoon' by Ba Huyen Thanh Quan Instruct Anyone who has read 'The Tale of Kieu' will never forget Nguyen Du's verse about sunset: 'Double sand and martial arts in the sky, Now it's sunset and tomorrow it's sunset'. Also talking about the sunset and the sadness of the exile, the poem 'Homesick in the Afternoon' by Ba Huyen Thanh Quan is a masterpiece of Vietnamese Nom poetry in the nineteenth century: The afternoon sky is filled with sunset shadows, The sound of snails in the distance echoes the drums. The fisherman's attic returns to the remote area', Knock the shepherd's horn back to the village. Thousands of winds blow tired birds away, Miles of misty willows are packed together. The one who buried Chuong Dai, the traveler, Who can tell the story of coldness? The first verse describes the sunset on an afternoon far away from home. The two words 'diffuse' have unique visual value: the light is dim at the end of darkness, vague near and far, giving the painting a sad afternoon: 'In the afternoon, the sunset's shadow' The two words 'table' are labels - like the eyes of the poem. Nguyen Du also once wrote: 'The western sky is filled with golden shadows' (The Tale of Kieu) Through just one poem, one verse, one word, the reader can feel the extremely skillful poetic writing of Ba Huyen Thanh Quan. For those who go far away, how sad can one describe the moment of sunset? That sadness was multiplied when the sounds of conchs and drums echoed 'distantly'. The length (the sound of the snail) and the height (the sound of the drum on the high hut) of the space expressed through those chords, instilled in the traveler a lingering sadness, a deep sadness. The poem has both light (panel) and sound (sound of snails, drums) giving the sunset scene in a strange land a rustic color: 'In the afternoon, the sunset is absent, The sound of distant snails echoing on drums In the factual and essay parts, the poetic materials that make up the poem's essence are carefully selected, expressing a poetic soul rich in emotion. Fishermen, shepherds, guests... the human world is talked about. The landscape has thousands of plums, wind and dew, 'tired flying birds'... These poetic materials have the conventional nature of ancient poetics (there are people: fishermen, shepherds; landscapes, plants, flowers There are leaves: frosty weather, willow apricot trees, afternoon bird wings...) but with unparalleled creative talent: choosing words, creating images, parallel sentences, parallel words, parallel sounds, in every aspect, the female artist clearly shows a A talented poetic soul, an elegant pen. Therefore, the landscape becomes close and familiar to all Vietnamese people. The landscape carries the soul of people imbued with national identity. In the late afternoon, the fisherman and his light boat floated down the river towards the far town with the mood of a 'fisherman' - a leisurely and comfortable fisherman. The verb 'attic' expresses the leisurely state of mind of a fisherman living in the countryside, having escaped the cycle of fame and fortune: See more: Expressing thoughts about the short story "The Dolls' Farewell" by Khanh Hoai - grade 7 literature 'Attic, fisherman returning to the far city' At the same time, the children took the buffalo back to the barn and returned to the 'village'. The shepherd's 'horn-knocking' gesture is so innocent, carefree, and loves life: 'Knock on the shepherd's horn and return to the lonely village' Those are two drawings of people, two beautiful pictures of a lovely countryside. The next two essays borrow the scene to describe the coldness, loneliness, and helplessness. The loneliness of a traveler on a thousand-mile journey of exile. It's about dark. Thousands of apricot trees rustle in the 'wind' - the wind becomes stronger and stronger. The tired bird flew quickly back to the forest to find its nest. Fog obscures miles of willows. And on that foggy, cold road, there was only one traveler, a lone figure walking around looking for a place to stay. The two images 'birds flying away' and 'guests walking together' are two contrasting drawings, depicting fatigue and loneliness. People seem helpless, lost between the 'swept wind' and the 'falling mist', living in a moment of six feelings, terribly sad. The poem leaves many hauntings in the reader's heart. Anagrams highlight the immensity of the long journey to a strange land: 'For thousands of days, the wind blows tired birds away, Miles of willows, dew, and thousands of passengers' steps Through life's experience, having lived sunset moments in a foreign land, the female artist was able to write very realistic verses that described the lonely plight of exiles so well! The two ending sentences converge, repressing love and remembrance. The female artist feels more lonely than ever. Verse seven includes two small parallel clauses, the poem is beautifully symmetrical: 'Someone in Chuong Dai II is a second traveler'. Chuong Dai is a classic story about the separation, longing, and separation of the couple Han Hoanh and Lieu Thi in the ancient Han Dynasty. Ms. Huyen Thanh Quan has used that classic in a creative way. 'Changtai' and 'lüu thu' in the context evoke a field of associations about the sadness of separation of a traveler who is homesick and misses their homeland. The poem ends with a lament expressing a feeling expressed in the form of a rhetorical question. 'Who' is a casual pronoun, but we can know that it is the woman's husband, children, and loved ones. 'Cold temper' means hot and cold; 'sadness' is a feeling of confidence. The traveler in the afternoon of exile finds himself alone in a far away place, his sadness is unspeakable: 'Someone in Chuong Dai, a traveler, Who can tell about the sadness?' 'Homesick in the Afternoon' and 'Va Deo Ngang' are two masterpieces of seven-word, eight-syllable Tang Luat poetry. That is a series of poems composed by Ba Huyen Thanh Quan during the days when the female scholar entered the capital to accept the position of female mandarin in the Nguyen Dynasty. They can be considered extremely unique memoirs and poems. Ba Huyen Thanh Quan's poetry is imbued with a sadness of separation or nostalgia, often talking about sunsets, elegant lyrics, and using many Sino-Vietnamese words (table, sunset, fisherman, far city...) creating a style. solemn, ancient style, attractive melodious music. 'Homesick This Afternoon' is an artistic flower filled with love, nostalgia, and wistfulness... Source: added: "Life... today" ("Uncle Ho's virtue of simplicity" - Pham Van Dong). Write a short paragraph to explain why a simple lifestyle is a civilized lifestyle worthy of praise
Phân tích bài thơ ‘Cảnh khuya’ của Bác Hồ Hướng dẫn I. Mở bài: Cảnh khuya ‘Tiếng suối trong như tiếng hát xa, Trăng lồng cổ thụ, bóng lồng hoà. Cảnh khuya như vẽ người chưa ngủ, Chưa ngủ vì lo nổi nước nhà’ Bài thơ miêu tả cảnh khuya núi rừng một đêm trăng, nói lên những suy tư lo lắng của Bác Hồ đối với vận mệnh của dân tộc. II. Thân bài: 1.Hai câu đầu làm hiện lên trước mắt người đọc một bức tranh sơn thủy về cảnh suối rừng, trăng ngàn Việt Bắc. Nhà thơ thao thức lắng nghe tiếng suối chảy rì rầm, êm nhẹ và trong trẻo từ rừng sâu vong đến: ‘Tiếng suối trong như tiếng hát xa’ Suối là vẻ đẹp chốn lâm tuyền, vẻ đẹp rừng già Việt Bắc. Bác lấy tiếng suối so sánh với tiếng hát, là khúc nhạc rừng ví với tiếng hát xa, êm ái ngọt ngào của con người, làm cho cảnh khuya chiến khu trở nên gần gũi, mang hơi ấm cuộc đời. Câu thơ làm ta liên tưởng đến tiếng suối trong bài ‘Côn Sơn ca* của ức Trai hơn 600 năm về trước: ‘Côn Sơn suôi chảy rì rầm, Ta nghe như tiếng đàn cầm bên tai…’ Hai hồn thơ trở nên gần gũi, thân thiết. Nguyễn Trãi đã về Côn Sơn ‘quê cũ’ để xa lánh bụi trần, danh lợi, lấy suối, đá, thông, trúc làm bầu bạn. Bác Hồ cũng đến chốn lâm tuyền Việt Bắc, xây dựng chiến khu đánh Pháp. Suối trở thành bài ca câu hát nâng*đỡ tâm hồn Bác trong những năm dài kháng chiến gian khổ. Tạ suối, ngòi bút nghệ thuật của Bác Hồ rất điêu luyện: lấy cái động (tiếng suối chảy) để miêu tả cái tĩnh (cảnh khuya) làm nổi bật sự thanh vắng, tĩnh lặng của chiến khu một đêm trăng. Càng về khuya, núi rừng như chìm trong vắng lặng mênh mông. Bác ‘chưa ngủ’ nên mới nghe rõ âm thanh rì rầm suối chảy. Câu thứ hai tả trăng ngàn: ‘Trăng lồng cổ thụ, bóng lồng hoa’ Hai vế tiểu đối gợi lên vẻ đẹp hài hòa của cảnh vật thiên nhiên. Trăng được nhân hóa, rất thơ mộng ‘lồng’ vào cổ thụ, bóng cổ thụ lại ‘lồng’ vào hoa. Cảnh thiên nhiên trở nên hữu tình, huyền ảo. Chữ ‘lồng’ được láy lại hai lần, chất thơ trữ tình mang hồn người, quyến rũ. Ánh trăng tãi khắp núi rừng, dát vàng xuống rừng cây, ‘lồng’ và trùm lên cổ thụ. Cảnh rừng có tầng cao, tầng thấp, có mảnh sáng mảnh mờ. Nét vẽ tinh tế, gam màu nhẹ và tươi mát, sự phối sắc tài tình, mĩ cảm, hấp dẫn. Câu thơ của Bác là sự kế thừa sáng tạo vần thơ cổ, ngòi bút của Bác Hồ rất sành điệu, cổ kính: ‘… Hoa giãi nguyệt, nguyệt in một tấm, Xem thêm: Văn biểu cảm về sự vật, con người - Câu chuyện về tình yêu thươngNguyệt lồng hoa, hoa thắm từng bông. Nguyệt hoa hoa nguyệt trùng trùng…’ (Chinh phụ ngâm) Hai câu thơ Bác đầy âm thanh nhạc điệu, trong thơ vừa có nhạc vừa có họa, rất thi vị, gợi cảm. Bác đã dành cho thiên nhiên, cây rừng, trăng ngàn những tình cảm thiết tha, nồng hậu. 2. Hai câu thơ 3, 4 trong bài thơ tứ tuyệt được thi pháp cổ gọi là hai câu ‘chuyển’ và câu ‘hợp’. Cấu trúc bài thơ rất đặc biệt. Hai chữ ‘chưa ngủ’ nằm cuối câu ‘chuyển’ được đưa lên vị trí đầu câu ‘hợp’, cảnh được ‘khép’ lại, tình được ‘mở’ ra. Nghệ thuật liên hoàn hay gọi là ‘ô thước kiều’ (quạ bắc cầu) làm cho thơ liền mạch, ý thơ phát triển mở rộng: ‘Cảnh khuya như vẽ người chưa ngủ, Chưa ngủ vì lo nổi nước nhà’ Chưa ngủ vì thi nhân xúc động trước cảnh khuya ‘như vẽ’. Chưa ngủ thao thức, bổi hồi vì ‘lo nổi nước nhà’. Nước nhà đang bị giặc Pháp xâm lăng, con thuyền kháng chiến đang băng qua ghềnh thác thì vị ‘thuyền trưởng’ chưa thể ngủ ngon giấc được! Nguyên Trãi đã từng thao thức vì đại nghĩa: ‘Còn một tấc lòng âu việc nước, Đêm đêm thức nhẵn nẻo sơ chung’ (Quốc âm thi tập) Bác Hồ cũng thao thức ‘chưa ngủ vì lo nổi nước nhà’ Cùng mang trong tâm hồn một tình yêu lớn đối với đất nước và nhân dân, thơ của Bác chứa chan tình yêu nước ‘ôm cả non sông, mọi kiếp người’ (Tố Hữu). Trong bài ‘Đi thuyền trên sông Đáy’, Bác cũng viết: ‘Lòng riêng riêng những bàn hoàn, Lo sao khôi phục giang san Tiên Rồng’ Tinh cảm đẹp đẽ ấy là điểu tâm niệm thường trực của Bác: ‘Một ngày mà Tổ quốc chưa được thống nhất, đồng bào còn chịu khổ là một ngày tôi ăn không ngon, ngủ không yên’.Có thể nói, câu thơ ‘Chưa ngủ vì lo nổi nước nhà’bình dị, sáng tỏ như một chân lí, để lại ấn tượng sâu sắc vì nó ‘mênh mông bát ngát tình’. III. Kết luận: ‘Cảnh khuya’ -bài thơ tứ tuyệt tựa như một đóa hoa đậm đà hương sắc đã góp phần làm đẹp nền thơ ca kháng chiến. Câu thơ giàu hình tượng và truyền cảm. Cảnh và tình hòa hợp. Vừa cổ kính, vừa hiên đại. Tình yêu nước thiết tha, tình yêu thiên nhiên nồng hậu, lời thơ mĩ lệ, trong sáng là cốt cách, vẻ đẹp của bài thơ. Bác là nhà thơ lớn của dân tộc. Đọc thơ Bác, tình yêu của chúng ta đối với Bác gắn liền với tình yêu Tổ quốc. Nguồn: thêm: Thuyết minh về tác hại của thuốc lá
Analysis of the poem 'Night Scene' by Uncle Ho Instruct I. Introduction: Late night scene 'The sound of the stream is as clear as a distant song, The moon cages ancient trees, the shadows of cages are harmonious. The late night scene is like drawing a person who hasn't slept yet. Haven't slept because I'm worried about my country' The poem describes a scene of late mountains and forests on a moonlit night, expressing Uncle Ho's worried thoughts about the fate of the nation. II. Body of the article: 1.The first two sentences present before the reader's eyes a landscape of streams, forests, and thousands of moons in Viet Bac. The poet lay awake listening to the murmuring sound of the stream flowing softly and clearly from the deep forest: 'The sound of the stream is as clear as singing in the distance' The stream is the beauty of the forest, the beauty of the Viet Bac jungle. He compared the sound of a stream to the sound of singing, a piece of forest music compared to the distant, soft and sweet singing of people, making the late night scene of the war zone become close, bringing the warmth of life. The poem reminds us of the sound of a stream in the song 'Con Son ca* by Duc Trai more than 600 years ago: 'Con Son stream flows murmuringly, I hear the sound of a harp in my ears...' The two poetic souls became close and intimate. Nguyen Trai returned to his 'old hometown' Con Son to stay away from worldly dust, fame and fortune, using streams, rocks, pine trees, and bamboo as friends. Uncle Ho also went to Viet Bac forest to build a war zone to fight the French. The stream became a song that lifted up Uncle Ho's soul during the long years of arduous resistance. Ta Suoi, Uncle Ho's artistic pen is very skillful: using the dynamic (the sound of a flowing stream) to describe the stillness (the late night scene), highlighting the serenity and stillness of a war zone on a moonlit night. As it gets late, the mountains and forests seem to be immersed in immense silence. Uncle 'hadn't slept' yet so he could clearly hear the murmuring sound of the flowing stream. The second sentence describes the thousand moon: 'Moon of ancient tree cage, shadow of flower cage' The two parallel clauses evoke the harmonious beauty of the natural landscape. The moon is personified, very poetically 'caged' into the ancient tree, the shadow of the ancient tree 'caged' into the flower. The natural scene becomes charming and magical. The word 'cage' is repeated twice, the lyrical poetry is soulful and captivating. Moonlight spread across the mountains and forests, gilding the trees, 'cages' and covering the ancient trees. The forest scene has high and low levels, with bright and dim pieces. Exquisite drawings, light and fresh color scheme, skillful color combination, beautiful and attractive. Uncle Ho's verse is a creative inheritance of ancient poetry, Uncle Ho's pen is very stylish and ancient: ‘… Flowers and moons, moons printed on one sheet, See more: Expressive writing about things and people - A story about love. The moon cages flowers, each flower is fragrant. Moon flowers, moon flowers, moon flowers...' (Conqueror soaking) The two verses of Uncle Ho's poems are full of musical sounds, there is both music and painting in the poems, very poetic and sensual. Uncle Ho had passionate and warm feelings for nature, the trees, the forest, and the moon. 2. The two verses 3 and 4 in the quatrain are called in ancient poetics the two verses 'move' and the verse 'match'. The structure of the poem is very special. The two words 'not sleeping' at the end of the sentence 'move' are brought to the beginning of the sentence 'match', the scene is 'closed', the love is 'opened'. The art of continuity or called 'o thuoc kieu' (bridging crow) makes poetry seamless and the poetic ideas develop and expand: 'The late night scene is like drawing a person who hasn't slept yet, Haven't slept because I'm worried about my country' Haven't slept yet because the poet was moved by the 'picture-like' late night scene. Haven't slept yet, restless because 'I can't worry about my country'. The country is being invaded by the French enemy, the resistance boat is passing through the rapids and the 'captain' cannot sleep well! Nguyen Trai used to stay awake for a great cause: 'There's still an inch of concern for state affairs, Every night, I stay awake until the end of the road' (National audio test episode) Uncle Ho also stayed awake 'not sleeping because he was worried about his country'. Carrying in his soul a great love for the country and its people, Uncle Ho's poems were filled with patriotism 'embracing both mountains and rivers, all human lives' ( To Huu). In the article 'Sailing on the Day River', Uncle Ho also wrote: 'My heart is separate from all my thoughts, Wondering how to restore Tien Rong river? That beautiful sentiment is Uncle Ho's constant thought: 'A day when the Fatherland has not been unified and my people still suffer is a day when I cannot eat well or sleep well'. It can be said that the poem ' Haven't slept because I'm worried about my country's simplicity, clear as a truth, leaving a deep impression because it's 'immense and endless with love'. III. Conclude: 'Night Scene' - a quatrain poem like a flower rich in fragrance and color, has contributed to beautifying resistance poetry. The poem is rich in imagery and inspiration. Landscape and love are in harmony. Both ancient and modern. Passionate love for country, warm love for nature, beautiful and pure lyrics are the essence and beauty of the poem. Uncle is a great poet of the nation. Reading Uncle Ho's poetry, our love for Uncle Ho is closely linked to our love for the Fatherland. Source: more: Explanation about the harmful effects of tobacco
Phân tích bài thơ ‘Qua Đèo Ngang’của Bà Huyện Thanh Quan Hướng dẫn …Bà được vua Minh Mệnh với vào Kinh đô Phú Xuân làm nữ quan ‘Cung trung giáo tập’. Chồng là Lưu Nghi làm tri huyện Thanh Quan, tỉnh Thái Bình, nên người đời trân trọng gọi nữ sĩ là Bà Huyện Thanh Quan. Bà chỉ còn để lại sáu bài thơ Nôm thất ngôn bát cú Đường luật: ‘Qua Đèo Ngang’, ‘Chiều hôm nhớ nhà’, ‘Thăng Long thành hoài cổ’, ‘Chùa Trấn Bắc’, ‘Chơi Đài Khán Xuân Trấn Võ’, ‘Tức cảnh chiều thu’… Thơ của bà hay nói đến hoàng hôn, man mác buồn, giọng điệu du dương, ngôn ngữ trang nhã, hồn thơ đẹp, điêu luyện. Trên đường vào Phú Xuân… bước tới Đèo Ngang lúc chiều tà, cảm xúc dâng trào lòng người. Bà Huyện Thanh Quan sáng tác bài ‘Qua Đèo Ngang’. Bài thơ tả cảnh Đèo Ngang lúc xế tà và nói lên nổi buồn cô đơn, nỗi nhớ nhàcủa người lữ khách – nữ sĩ. Lần đầu nữ sĩ ‘bước tới Đèo Ngang’, đứng dưới chân con deo ‘đệ nhất hùng quan’ này, địa giới tự nhiên giữa hai tỉnh Hà Tĩnh – Quảng Bình, vào thời điểm ‘bóng xế tà’, lúc mặt trời đã nằm ngang sườn núi, ánh mặt trời đã ‘tà’, đã nghiêng, đã chênh chênh. Trời sắp tối. Âm ‘tà’ cũng gợi buồn thấm thía. Câu 2, tả cảnh sắc: cỏ cây, lá, hoà… đá. Hai vế tiểu đối, điệp ngữ ‘chen’, vần lưng: ‘đá’ – ‘lá’, vần chân: ‘tà’ – ‘hoà’, thơ giàu âm điệu, réo rắt như một tiếng lòng, biểu lộ sự ngạc nhiên và xúc động về cảnh sắc hoang vắng nơi Đèo Ngang 200 năm về trước: ‘Cỏ cây chen đá, lá chen hoà’ Chỉ có hoa rừng, hoa dại, hoa sim, hoa mua. cỏ cây, hoa lá phải ‘chen’ với đá mới tồn tại được. Cảnh vật hoang sơ, hoang dại đến nao lòng. Nữ sĩ sử dụng phép đối và đảo ngữ trong miêu tả đầy ấn tượng. Âm điệu thơ trầm bổng du dương, đọc lên nghe rất thú vị: ‘Lom khom dưới núi tiều vài chú, Lác đác bên sông chợ mấy nhà’ Điểm nhìn đã thay đổi: đứng cao nhìn xuống dưới và nhìn xa. Thế giới con người là tiều phu, nhưng chỉ có ‘tiều vài chú’. Hoạt động ‘lom khom’ vất vả đang gánh củi xuống núi. Một nét vẽ ước lệ trong thơ cổ (ngư, tiều, canh, mục) nhưng rất thần tình, tinh tế trong cảm nhận. Mấy nhà chợ bên sông thưa thớt, lác đác. Chỉ mấy cái lều chợ miền núi, sở dĩ nữ sĩ gọi ‘chợ mấy nhà’ để gieo vần mà thôi: ‘tà’ – ‘hoà’ – ‘nhà’. Cũng là cảnh hoang vắng, heo hút, buồn hoang sơ nơi con đèo xa xôi lúc bóng xế tà. Tiếp theo nữ sĩ tả âm thanh tiếng chim: chim gia gia, chim cuốc gọi bầy lúc hoàng hôn. Điệp âm ‘con cuốc cuốc’ và ‘cái gia gia’tạo nên âm hưởng du dương của khúc nhạc rừng, của khúc nhạc lòng người lữ khách. Lấy cái động (tiếng chim rừng) để làm nổi bật cái tĩnh, cái vắng lặng im lìm trên đỉnh Đèo Ngang trong khoảnh khắc hoàng hôn, đó là nghệ thuật lấy động tả tĩnhtrong thi pháp cổ. Phép đối và đảo ngữ được vận dụng rất tài tình: ‘Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc, Thương nhà mỏi miệng cái gia gia’ Nghe tiếng chim rừng mà ‘nhớ nước đau lòng’, mà ‘thương nhà mỏi miệng’nỗi buồn thấm thía vào chín tầng sâu cõi lòng, tỏa rộng trong không gian từ con đèo tới miền quê thân thương, sắc điệu trữ tình dào dạt, thiết tha, trầm lắng. Lữ khách là một phụ nữ nên nỗi ‘nhớ nước’, nhớ Kinh- kỳ Thăng Long, nhớ nhà, nhớ chồng con, nhớ làng Nghi Tàm thân thuộc không thể nào kể xiết! Bốn chữ ‘dừng chân đứng lại’ thể hiện một nỗi niềm xúc đọng đến bồn chồn. Một cái nhìn mênh mang: ‘Trời non nước’-, nhìn xa, nhìn gần, nhìn sâu, nhìn 4 phía… rồi nữ sĩ thấy vô cùng buồn đau, như tan nát cả tâm hồn, chỉ còn lại 97 ‘một mảnh tình riêng’.Lấy cái bao la, mênh mông, vô hạn của vũ trụ, của ‘trời non nước’ tương phản với cái nhỏ bé của ‘mảnh tình riêng’ của ‘ta với ta’ đã cực tả nỗi buồn cô đơn xa vắng của người lữ khách khi đứng trên đỉnh Đèo Ngang lúc ngày tàn. Đó là tâm trạng nhớ quê, nhớ nhà, buồn mà đẹp: ‘Dừng chân đứng lại trời non nước, Một mảnh tình riêng ta với ta’ Xem thêm: Bình giảng đoạn thơ sau trong ‘Chinh phụ ngâm khúc’‘Qua Đèo Ngang’là bài thơ thất ngôn bát cú Đường luật tuyệt bút. Thế giới thiên nhiên kì thú của Đèo Ngang như hiển hiện qua dòng thơ. Cảnh sắc hữu tình thấm một nỗi buồn man mác. Giọng thơ du dương, réo rắt. Phép đối và đảo ngữ có giá trị thẩm mĩ trong nét vẽ tạo hình đầy khám phá. Cảm hứng thiên nhiên trữ tình chan hòa với tình yêu quê hương đất nước đậm đà qua một hồn thơ trang nhã. Bài thơ ‘Qua Đèo Ngang’ là tiếng nói của một người mà trở thành khúc tâm tình của muôn triệu người, nó là bài thơ một thời mà mãi mãi, bài thơ Non Nước. BÀI SỐ 68 Phân tích bài thơ: ‘Qua Đèo Ngang’của Bà Huyện Thanh Quan (bài 2). Bài thơ tả cảnh buổi chiều trên Đèo Ngang. Đèo Ngang trước con mắt lữ khách khi vừa đặt chân tới: ‘Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà’ Thiên nhiên như ùa đến trong tầm mắt tác giả. Cảnh tươi tắn, ưa nhìn, những sinh vật và đất đá nương tựa, xen lẫn nhau cũng có vẻ đông đúc: ‘Cỏ cây chen đá, lá chen hoà’ Nhưng sau sự cảm nhận đầu tiên ấy, tác giả đã có thì giờ buông tầm mắt ra xa, tìm đến thế giới con người. Lẽ ra thiên nhiên có thêm con người phải sinh động, đẹp đẽ hơn nhưng ở đây sự điểm xuyết của mắt nhìn là người hái củi thưa thớt, mấy quán chợ lơ thơ chỉ khiến cho cảnh vật thêm hiu hắt: ‘Lom khom dưới núi, tiêu vài chú, Lác đác bên sông, chợ mấy nhà’ Bà Thanh Quan đã nhìn bao quát toàn cảnh, bà còn cảm nhận về Đèo Ngang qua thính giác: tiếng chim cuốc, tiếng chim đa đa vọng đến, rơi vào vắng vẻ, tĩnh mịch của buổi chiều trên Đèo. Khung cảnh thiên nhiên ấy, hoàn cảnh lữ thứ ấy khiến cho tiếng chim gợi liên tưởng đến những từ đồng âm biểu hiện những ý nghĩa, những vần để hết sức sâu sắc và lớn lao: ‘nhớ nước’ và ‘thương nhà’. ‘Thương nhà’thì đã rõ. Bà Huyện Thanh Quan có một thời được triệu vào Huế làm chức Cung trung giáo tập. Bà vốn người Nghi Tàm, Hà Nội (Bài thơ này có thể làm trong dịp vào cung đó). Một người phụ nữ phải rời nhà đi xa như thế, dù là đi làm quan, cũng ngổn ngang biết bao nỗi niềm. Cái tiếng chim đa đa tha thiết khêu gợi biết bao. Nhưng còn cái tiếng khắc khoải của những con chim cuốc? Nhiều người cho rằng đó là tâm sự ‘hoài Lê’ của tác giả. Điều đó không lấy gì làm chắc, bởi lẽ thời bà sống và làm quan, đất nước đã chuyển sang nhà Nguyễn đến thập kỉ thứ ba thứ tư rồi. Có điều, như các triều đại phong kiến khác, nhà Nguyễn bấy giờ đã bộc lộ những mặt tiêu cực, những chỗ yếu kém và cả những tội ác, là một nhà thơ nhạy cảm, Bà Huyện Thanh Quan hẳn có nhiều điều buồn phiền, bất như ý về hiện thực xã hội. Cái nỗi ‘đau lòng’ khi ‘nhớ nước’ có lẽ chính là như thế, chính là sự nghĩ về hiện tình đất nước đương thời. Và khi thiên nhiên đã đánh thức dậy trong lòng tác giả những mối suy tư lớn lao thì thiên nhiên bỗng như lùi xa, trả tác giả trở lại với chính tâm tư mình và chỉ có một mình: ‘Dừng chân đứng lại: trời, non, nước Một mảnh tình riêng, ta với ta’ ‘Qua Đèo Ngang’trước tiên là bài thơ tả cảnh. Cảnh vật hiện ra phong phú dần theo bước chân người đi. Có cảnh sắc: cỏ cây, hoà, lá, đá, tiều phu bên sườn núi, chợ bên sông, nhà; có âm thanh: tiếng cuốc cuốc, gia gia khắc khoải, dồn dập. Và khi lên đến đỉnh Đèo thì nhà thơ đã nhìn được một cách tổng quát, toàn thể: ‘trời, non, nước’. Cái mênh mông vô cùng và hùng vĩ ấy của thiên nhiên đã làm nhà thơ sững lại: ‘dừng chân đứng lại’. Nhưng tả cảnh chỉ là một phần nhỏ ý nghĩa của bài thơ. Chính là bài thơ đã miêu tả rất rõ diễn biến tình cảm của tác giả khi qua con Đèo Ngang này. Từ cảm nhận ban đầu, tình cảm của tác giả sâu lắng dần; qua sự tiếp nhận của mắt, của tai, những nỗi niềm tâm sự mỗi lúc một dồn nén để rồi nó chất chứa, đọng thành một nỗi buồn, nỗi cô đơn không thể cùng ai chia sẻ. Hình ảnh một con người, lại là một người đàn bà, đứng sững giữa cảnh trời, nước, non cao, trong ánh chiều tà đơn độc biết bao! Ở đây cósự tương phản giữa không gian mênh mông hùng vĩ và con người lẻ loi đơn độc. Sự tương phản ấy đã tạc vào cái vô cùng vô tận của không gian và thời gian tâm trạng cô đơn, nỗi buồn vô hạn và cả bóng hình nữ sĩ. ‘Qua Đèo Ngang’là một bài thơ hay và sẽ bất tử với thời gian. Có lẽ đến khi nào con đường Bắc Nam còn qua Đèo Ngang thì những người qua đây nhiều người còn nhớ đến nữ sĩ và như còn mường tượng ra bức tượng bà đứng cao trội lên trong bóng chiều trên đỉnh Đèo. Nguồn: thêm: Hãy trình bày những cảm nhận của mình về đất nước của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm trong chương “Đất nước” (trích trường ca "Mặt đường khát vọng")
Phân tích bài thơ ‘Qua Đèo Ngang’của Bà Huyện Thanh Quan Hướng dẫn …Bà được vua Minh Mệnh với vào Kinh đô Phú Xuân làm nữ quan ‘Cung trung giáo tập’. Chồng là Lưu Nghi làm tri huyện Thanh Quan, tỉnh Thái Bình, nên người đời trân trọng gọi nữ sĩ là Bà Huyện Thanh Quan. Bà chỉ còn để lại sáu bài thơ Nôm thất ngôn bát cú Đường luật: ‘Qua Đèo Ngang’, ‘Chiều hôm nhớ nhà’, ‘Thăng Long thành hoài cổ’, ‘Chùa Trấn Bắc’, ‘Chơi Đài Khán Xuân Trấn Võ’, ‘Tức cảnh chiều thu’… Thơ của bà hay nói đến hoàng hôn, man mác buồn, giọng điệu du dương, ngôn ngữ trang nhã, hồn thơ đẹp, điêu luyện. Trên đường vào Phú Xuân… bước tới Đèo Ngang lúc chiều tà, cảm xúc dâng trào lòng người. Bà Huyện Thanh Quan sáng tác bài ‘Qua Đèo Ngang’. Bài thơ tả cảnh Đèo Ngang lúc xế tà và nói lên nổi buồn cô đơn, nỗi nhớ nhàcủa người lữ khách – nữ sĩ. Lần đầu nữ sĩ ‘bước tới Đèo Ngang’, đứng dưới chân con deo ‘đệ nhất hùng quan’ này, địa giới tự nhiên giữa hai tỉnh Hà Tĩnh – Quảng Bình, vào thời điểm ‘bóng xế tà’, lúc mặt trời đã nằm ngang sườn núi, ánh mặt trời đã ‘tà’, đã nghiêng, đã chênh chênh. Trời sắp tối. Âm ‘tà’ cũng gợi buồn thấm thía. Câu 2, tả cảnh sắc: cỏ cây, lá, hoà… đá. Hai vế tiểu đối, điệp ngữ ‘chen’, vần lưng: ‘đá’ – ‘lá’, vần chân: ‘tà’ – ‘hoà’, thơ giàu âm điệu, réo rắt như một tiếng lòng, biểu lộ sự ngạc nhiên và xúc động về cảnh sắc hoang vắng nơi Đèo Ngang 200 năm về trước: ‘Cỏ cây chen đá, lá chen hoà’ Chỉ có hoa rừng, hoa dại, hoa sim, hoa mua. cỏ cây, hoa lá phải ‘chen’ với đá mới tồn tại được. Cảnh vật hoang sơ, hoang dại đến nao lòng. Nữ sĩ sử dụng phép đối và đảo ngữ trong miêu tả đầy ấn tượng. Âm điệu thơ trầm bổng du dương, đọc lên nghe rất thú vị: ‘Lom khom dưới núi tiều vài chú, Lác đác bên sông chợ mấy nhà’ Điểm nhìn đã thay đổi: đứng cao nhìn xuống dưới và nhìn xa. Thế giới con người là tiều phu, nhưng chỉ có ‘tiều vài chú’. Hoạt động ‘lom khom’ vất vả đang gánh củi xuống núi. Một nét vẽ ước lệ trong thơ cổ (ngư, tiều, canh, mục) nhưng rất thần tình, tinh tế trong cảm nhận. Mấy nhà chợ bên sông thưa thớt, lác đác. Chỉ mấy cái lều chợ miền núi, sở dĩ nữ sĩ gọi ‘chợ mấy nhà’ để gieo vần mà thôi: ‘tà’ – ‘hoà’ – ‘nhà’. Cũng là cảnh hoang vắng, heo hút, buồn hoang sơ nơi con đèo xa xôi lúc bóng xế tà. Tiếp theo nữ sĩ tả âm thanh tiếng chim: chim gia gia, chim cuốc gọi bầy lúc hoàng hôn. Điệp âm ‘con cuốc cuốc’ và ‘cái gia gia’tạo nên âm hưởng du dương của khúc nhạc rừng, của khúc nhạc lòng người lữ khách. Lấy cái động (tiếng chim rừng) để làm nổi bật cái tĩnh, cái vắng lặng im lìm trên đỉnh Đèo Ngang trong khoảnh khắc hoàng hôn, đó là nghệ thuật lấy động tả tĩnhtrong thi pháp cổ. Phép đối và đảo ngữ được vận dụng rất tài tình: ‘Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc, Thương nhà mỏi miệng cái gia gia’ Nghe tiếng chim rừng mà ‘nhớ nước đau lòng’, mà ‘thương nhà mỏi miệng’nỗi buồn thấm thía vào chín tầng sâu cõi lòng, tỏa rộng trong không gian từ con đèo tới miền quê thân thương, sắc điệu trữ tình dào dạt, thiết tha, trầm lắng. Lữ khách là một phụ nữ nên nỗi ‘nhớ nước’, nhớ Kinh- kỳ Thăng Long, nhớ nhà, nhớ chồng con, nhớ làng Nghi Tàm thân thuộc không thể nào kể xiết! Bốn chữ ‘dừng chân đứng lại’ thể hiện một nỗi niềm xúc đọng đến bồn chồn. Một cái nhìn mênh mang: ‘Trời non nước’-, nhìn xa, nhìn gần, nhìn sâu, nhìn 4 phía… rồi nữ sĩ thấy vô cùng buồn đau, như tan nát cả tâm hồn, chỉ còn lại 97 ‘một mảnh tình riêng’.Lấy cái bao la, mênh mông, vô hạn của vũ trụ, của ‘trời non nước’ tương phản với cái nhỏ bé của ‘mảnh tình riêng’ của ‘ta với ta’ đã cực tả nỗi buồn cô đơn xa vắng của người lữ khách khi đứng trên đỉnh Đèo Ngang lúc ngày tàn. Đó là tâm trạng nhớ quê, nhớ nhà, buồn mà đẹp: ‘Dừng chân đứng lại trời non nước, Một mảnh tình riêng ta với ta’ Xem thêm: Bình giảng đoạn thơ sau trong ‘Chinh phụ ngâm khúc’‘Qua Đèo Ngang’là bài thơ thất ngôn bát cú Đường luật tuyệt bút. Thế giới thiên nhiên kì thú của Đèo Ngang như hiển hiện qua dòng thơ. Cảnh sắc hữu tình thấm một nỗi buồn man mác. Giọng thơ du dương, réo rắt. Phép đối và đảo ngữ có giá trị thẩm mĩ trong nét vẽ tạo hình đầy khám phá. Cảm hứng thiên nhiên trữ tình chan hòa với tình yêu quê hương đất nước đậm đà qua một hồn thơ trang nhã. Bài thơ ‘Qua Đèo Ngang’ là tiếng nói của một người mà trở thành khúc tâm tình của muôn triệu người, nó là bài thơ một thời mà mãi mãi, bài thơ Non Nước. BÀI SỐ 68 Phân tích bài thơ: ‘Qua Đèo Ngang’của Bà Huyện Thanh Quan (bài 2). Bài thơ tả cảnh buổi chiều trên Đèo Ngang. Đèo Ngang trước con mắt lữ khách khi vừa đặt chân tới: ‘Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà’ Thiên nhiên như ùa đến trong tầm mắt tác giả. Cảnh tươi tắn, ưa nhìn, những sinh vật và đất đá nương tựa, xen lẫn nhau cũng có vẻ đông đúc: ‘Cỏ cây chen đá, lá chen hoà’ Nhưng sau sự cảm nhận đầu tiên ấy, tác giả đã có thì giờ buông tầm mắt ra xa, tìm đến thế giới con người. Lẽ ra thiên nhiên có thêm con người phải sinh động, đẹp đẽ hơn nhưng ở đây sự điểm xuyết của mắt nhìn là người hái củi thưa thớt, mấy quán chợ lơ thơ chỉ khiến cho cảnh vật thêm hiu hắt: ‘Lom khom dưới núi, tiêu vài chú, Lác đác bên sông, chợ mấy nhà’ Bà Thanh Quan đã nhìn bao quát toàn cảnh, bà còn cảm nhận về Đèo Ngang qua thính giác: tiếng chim cuốc, tiếng chim đa đa vọng đến, rơi vào vắng vẻ, tĩnh mịch của buổi chiều trên Đèo. Khung cảnh thiên nhiên ấy, hoàn cảnh lữ thứ ấy khiến cho tiếng chim gợi liên tưởng đến những từ đồng âm biểu hiện những ý nghĩa, những vần để hết sức sâu sắc và lớn lao: ‘nhớ nước’ và ‘thương nhà’. ‘Thương nhà’thì đã rõ. Bà Huyện Thanh Quan có một thời được triệu vào Huế làm chức Cung trung giáo tập. Bà vốn người Nghi Tàm, Hà Nội (Bài thơ này có thể làm trong dịp vào cung đó). Một người phụ nữ phải rời nhà đi xa như thế, dù là đi làm quan, cũng ngổn ngang biết bao nỗi niềm. Cái tiếng chim đa đa tha thiết khêu gợi biết bao. Nhưng còn cái tiếng khắc khoải của những con chim cuốc? Nhiều người cho rằng đó là tâm sự ‘hoài Lê’ của tác giả. Điều đó không lấy gì làm chắc, bởi lẽ thời bà sống và làm quan, đất nước đã chuyển sang nhà Nguyễn đến thập kỉ thứ ba thứ tư rồi. Có điều, như các triều đại phong kiến khác, nhà Nguyễn bấy giờ đã bộc lộ những mặt tiêu cực, những chỗ yếu kém và cả những tội ác, là một nhà thơ nhạy cảm, Bà Huyện Thanh Quan hẳn có nhiều điều buồn phiền, bất như ý về hiện thực xã hội. Cái nỗi ‘đau lòng’ khi ‘nhớ nước’ có lẽ chính là như thế, chính là sự nghĩ về hiện tình đất nước đương thời. Và khi thiên nhiên đã đánh thức dậy trong lòng tác giả những mối suy tư lớn lao thì thiên nhiên bỗng như lùi xa, trả tác giả trở lại với chính tâm tư mình và chỉ có một mình: ‘Dừng chân đứng lại: trời, non, nước Một mảnh tình riêng, ta với ta’ ‘Qua Đèo Ngang’trước tiên là bài thơ tả cảnh. Cảnh vật hiện ra phong phú dần theo bước chân người đi. Có cảnh sắc: cỏ cây, hoà, lá, đá, tiều phu bên sườn núi, chợ bên sông, nhà; có âm thanh: tiếng cuốc cuốc, gia gia khắc khoải, dồn dập. Và khi lên đến đỉnh Đèo thì nhà thơ đã nhìn được một cách tổng quát, toàn thể: ‘trời, non, nước’. Cái mênh mông vô cùng và hùng vĩ ấy của thiên nhiên đã làm nhà thơ sững lại: ‘dừng chân đứng lại’. Nhưng tả cảnh chỉ là một phần nhỏ ý nghĩa của bài thơ. Chính là bài thơ đã miêu tả rất rõ diễn biến tình cảm của tác giả khi qua con Đèo Ngang này. Từ cảm nhận ban đầu, tình cảm của tác giả sâu lắng dần; qua sự tiếp nhận của mắt, của tai, những nỗi niềm tâm sự mỗi lúc một dồn nén để rồi nó chất chứa, đọng thành một nỗi buồn, nỗi cô đơn không thể cùng ai chia sẻ. Hình ảnh một con người, lại là một người đàn bà, đứng sững giữa cảnh trời, nước, non cao, trong ánh chiều tà đơn độc biết bao! Ở đây cósự tương phản giữa không gian mênh mông hùng vĩ và con người lẻ loi đơn độc. Sự tương phản ấy đã tạc vào cái vô cùng vô tận của không gian và thời gian tâm trạng cô đơn, nỗi buồn vô hạn và cả bóng hình nữ sĩ. ‘Qua Đèo Ngang’là một bài thơ hay và sẽ bất tử với thời gian. Có lẽ đến khi nào con đường Bắc Nam còn qua Đèo Ngang thì những người qua đây nhiều người còn nhớ đến nữ sĩ và như còn mường tượng ra bức tượng bà đứng cao trội lên trong bóng chiều trên đỉnh Đèo. Nguồn: thêm: Hãy trình bày những cảm nhận của mình về đất nước của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm trong chương “Đất nước” (trích trường ca "Mặt đường khát vọng")
Phân tích bài thơ ‘Thiên Trường văn vọng” của Trần Nhân Tông. Hướng dẫn Trong một số bài thơ chữ Hán của Trần Nhân Tông để lại có hai bài viết về Thiên Trường, mảnh đất ‘phát nghiệp đế vương’ của nhà Trần: ‘Hạnh Thiên Trường hành cung’ và ‘Thiên Trường văn vọng’. Thiên Trường là một trong 12 lộ thời Trần, thuộc Sơn Nam; nay thuộc ngoại thành Nam Định. Thiên Trường vốn là Thái ấp của vua chúa nhà Trần, ở đây xưa kia có nhiều cung điện nguy nga tráng lệ. ‘Thiên Trường văn vọng’được viết theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt Đường luật (luật trắc, vần bằng). Bài thơ gợi tả cảnh xóm thôn, đồng quê vùng Thiên Trường qua cái nhìn và cảm xúc của Trần Nhân Tông. Cảm xúc lắng đọng, cái nhìn man mác bâng khuâng ôm trùm cảnh vật: ‘Thôn hậu, thôn tiền, đạm tư yên, Bán vô, bán hữu, tịch dương biên. Mục đồng địch lí ngưu quy tận, Bạch lộ song song phi hạ điền’ Hơn 60 năm về trước, cụ Ngô Tất Tố đã dịch rất hay bài thơ này. 1. Hai câu thơ đầu gợi tả cảnh làng quê vùng Thiên Trường trong ánh chiều tàn. Bốn chữ ‘thôn hậu thôn tiền’ và ‘bán vô bán hữu’ liên kết đôi, tạo nên sự cân xứng hài hòa về ngôn ngữ đã gợi lên cảnh xóm thôn nối tiếp gần xa, đông đúc, trù phú. Trong bóng chiều nhạt nhòa^xóm thôn ‘trước xóm sau thôn’ phủ mờ khói nhạt, càng trở nên mơ màng, mênh mang. Khói của sương chiểu. Khói lam chiều vấn vương, nhẹ bay trên những mái nhà gianh sau lũy tre làng. Chỉ bằng ba nét vẽ rất chọn lọc, lối tả ít mà gợi nhiều của thi pháp cổ, thi sĩ đã làm hiện lên một không gian nghệ thuật về cảnh sắc làng quê một buổi chiều tàn phủ mờ sương khói và ánh tà dương rất yên bình, êm đềm, nên thơ. Nét vẽ thanh nhẹ. Cảnh vật bao la, tĩnh lặng. Ngoại cảnh và tâm cảnh đồng hiện. Tưởng như thi sĩ đang thả hồn mình vào cảnh vật, lặng ngắm thôn xóm quê hương gần xa không chán. So sánh ‘đạm tự yên’ (mờ nhạt như khói) là một hình tượng đầy thi vị. Cả một hồn quê man mác gợi cảm: ‘Thôn hậu thôn tiền đạm tư yên, Bánvớ, bán hữu tịch dương biên’ (Trước xóm sau thôn tựa khói lồng, Bóng chiều man mác có dường không) 2. Hai câu cuối là cảnh sắc đồng quê rất dân dã, bình dị, thân thuộc mà đáng yêu. Trên những nẻo đường quê, đàn trâu nối đuôi nhau về thôn. Có âm thanh tiếng sáo mục đồng cất lên, âm thanh réo rắt, hồn nhiên, thanh bình của làng quê ta xưa nay. Có từng đôi, từng đôi cò trắng bay liệng, nối tiếp nhau hạ xuống đồng. Nhà thơ không nói đến màu xanh và hương lúa mà người đọc vẫn cảm nhận được. Ngôn ngữ thơ, hình tượng thơ đầy âm thanh và màu sắc, thanh tao và dào dạt sức Xem thêm: Tả cảnh đêm trăng mà em cho là thú vị nhấtsống. Bút pháp điểm nhãn,lấy động để tả tĩnh của tác giả được thể hiện một cách nhiều ấn tượng về bức tranh đồng quê này: ‘Mục đồng địch lí ngưu quy tận, Bạch lộ song song phi hạ điền’ (Mục đồng sáo vẳng trâu về hết Cò trắng từng đôi liệng xuống đồng) Tinh quê và hồn quê chan hòa, dào dạt. Thiên Trường thuở ấy, đường sá rầm rập ngựa xe, có biết bao cung điện của vua chúa, tôn thất nhà Trần, nhưng Trần Nhân Tông không nói đến lầu son gác tía, bệ ngọc ngai vàng tráng lệ nguy nga, mà chỉ nói đến cảnh sắc thiên nhiên, cảnh vật đồng quê. Điểu đó cho thấy tâm hồn thi sĩ giàu tình yêu thiên nhiên, yêu quê hương đất nước. Tính bình dị, dán dã, hồn nhiên là cốt cách, là hồn thơ của ông vua anh hùng – thi sĩ này. Cảm nhận ấy càng rõ khi ta đọc bài thơ ‘Hạnh Thiên Trường hành cung’ (Ngự chơi hành cung Thiên Trường): ‘Cảnh thanh u, vật cũng thanh u, Mười mấy châu tiên ấy một châu. Trăm tiếng đàn chim, đàn nhạc hát, Nghìn hàng đám quýt, đám quân hầu. Trăng vô sự chiếu người vô sự, Nước có thu lồng trời có thu. Vừa bốn bể trong, vừa bụi lặng, Độ xưa so với độ này thua’ (Bản dịch của ‘Hoàng Việt thi tuyển’) Cảnh buổi chiều được nói đến trong bài ‘Hạnh Thiên Trường hành cung’ là cảnh chiều thu, đó là điều ai cũng rõ. Trong bài ‘Thiên Trường văn vọng’ là cảnh chiều xuân hay chiều thu? Rất khó xác định. Ta chỉ cảm nhận được đó là một buổi chiều êm đềm,'xóm thôn phủ mờ sương khói tà dương. Không gian nghệ thuật và tâm trạng nghệ thuật đồng hiện cho ta khẳng định: Trần Nhân Tông viết ‘Thiên Trường văn vọng’ sau năm 1288, khi giặc Nguyên – Mông đã bị nhân dân ta đánh bại, nước Đại Việt thanh bình, yên vui. Bài tứ tuyệt ‘Thiên Trường văn vọng’ là một bức tranh quê đậm nhạt, mờ sáng, rất đẹp và tràn đầy sức sống. Một bút pháp nghệ thuật cổ điển tài hoa. Một tâm hồn thanh cao, yêu đời. Tình yêu thiên nhiên, yêu đồng quê xứ sở đã được thể hiện bằng một số hình tượng đậm đà, ấm áp qua những nét vẽ tinh tế, gợi hình, gợi cảm, giàu liên tưởng. Kì diệu thay, bài thơ đã vượt qua một hành trình trên bảy trăm năm, đọc lên, nó vẫn cho ta nhiều thú vị. Ta vẫn cảm thấy cánh cò trắng được nói đến trong bài thơ vẫn còn bay trong ráng chiều đồng quê, và còn chấp chới trong hồn ta. Thơ đích thực là thế! Nguồn: thêm: Cảm nhận của em về hai câu thơ Tức cảnh của vua Trần Nhân Tông
Analysis of the poem "Thien Truong Van Vong" by Tran Nhan Tong. Instruct In some of the Chinese poems left behind by Tran Nhan Tong, there are two articles about Thien Truong, the land of the Tran Dynasty's 'imperial career': 'Hanh Thien Truong Hanh Cung' and 'Thien Truong Van Vong'. Thien Truong is one of the 12 routes of the Tran Dynasty, in Son Nam; Now belongs to the suburbs of Nam Dinh. Thien Truong was originally the manor of the Tran Dynasty kings. In the past, there were many magnificent palaces here. ‘Thien Truong Van Vong’ is written in the seven-word, four-literate Tang luat poetic form (meter meter, flat rhyme). The poem describes the countryside and countryside of Thien Truong through the eyes and feelings of Tran Nhan Tong. Emotions settle, a wistful look embraces the scene: 'The back village, the front village, the tranquility, Selling non-existence, selling existence, passing away. Enemies of shepherds retreat to the oxen, White road parallels Phi Ha Dien' More than 60 years ago, Mr. Ngo Tat To translated this poem very well. 1. The first two lines of the poem describe the village scene in the Thien Truong region in the fading afternoon light. The four words 'back village, front village' and 'semi-nothing, semi-existent' are linked in pairs, creating a harmonious symmetry in language, evoking the scene of a series of villages near and far, crowded and prosperous. In the pale twilight^ the village 'before the village after the village' is covered with pale smoke, becoming even more dreamy and vast. Smoke of the evening dew. The blue smoke of the afternoon lingers, flying lightly over the roofs of the houses behind the village's bamboo poles. With just three very selected strokes, the less descriptive but more evocative style of ancient poetics, the poet has created an artistic space of the countryside scene on a fading afternoon covered with smoke and a very peaceful sunset. peaceful, peaceful, poetic. Light drawing. The landscape is vast and quiet. The external environment and the mental situation are present at the same time. It seems like the poet is immersing himself in the scenery, silently admiring his hometown near and far without getting bored. The comparison of 'silent protein' (faint like smoke) is a poetic image. A charming, rustic soul: 'The back village of the front village is calm and quiet, Sell ​​your socks, sell your property and stay in the ocean' (In front of village after village is like smoke from a cage, Does the afternoon shadow seem so long? 2. The last two sentences are about the countryside scenery, which is very rustic, simple, familiar and lovely. On the country roads, herds of buffaloes follow one another to the village. There is the sound of a shepherd's flute playing, the melodious, innocent, peaceful sound of our ancient village. There were pairs and pairs of white storks flying and landing one after another in the fields. The poet does not mention the green color and scent of rice, but the reader can still feel it. Poetic language and poetic images are full of sounds and colors, elegant and energetic See more: Describe the moonlit night scene that you think is the most interesting in life. The author's style of marking and using movement to describe stillness is impressive in this countryside painting: 'The enemy of the shepherd and the ox retreat to the end, White road parallels Phi Ha Dien' (The shepherds' flutes and buffaloes have all returned. The white storks, in pairs, are thrown into the field.) The spirit of the countryside and the soul of the countryside are harmonious and abundant. Thien Truong at that time, the roads were crowded with horses and carriages, there were many palaces of kings and royal families of the Tran Dynasty, but Tran Nhan Tong did not talk about the purple towers, the magnificent jade thrones, but only talked about to natural scenery and countryside scenery. This shows that the poet's soul is rich in love for nature and love for his homeland. Simplicity, simplicity, and innocence are the essence and poetic soul of this heroic king - poet. That feeling becomes even clearer when we read the poem 'Hanh Thien Truong Hanh Cung' (Nguyen plays in Thien Truong palace): ‘The scene is quiet, things are also quiet, Those dozen fairy continents are one continent. Hundreds of sounds of birds, music and songs, Thousands of tangerines and soldiers. The unharmed moon shines on the unharmed people, Water has autumn, sky has autumn. Both the four clear pools and the silent dust, The past is inferior to this one' (Translation of ‘Hoang Viet exam competition’) The afternoon scene mentioned in the article 'Hanh Thien Truong Hanh Cung' is an autumn afternoon scene, that is clear to everyone. In the song 'Thien Truong Van Vong', is it a spring afternoon or an autumn afternoon? Very difficult to determine. I only felt that it was a peaceful afternoon, the village was covered with mist and smoke from the setting sun. Artistic space and artistic mood co-occur, allowing us to affirm: Tran Nhan Tong wrote 'Thien Truong Van Vong' after 1288, when the Yuan - Mongol invaders were defeated by our people, Dai Viet was peaceful and peaceful. fun. The quatrain 'Thien Truong Van Vong' is a dark, dim, and bright countryside painting, very beautiful and full of life. A talented classical artistic style. A noble soul, loving life. Love of nature and love of the countryside have been expressed in a number of bold, warm images through delicate, evocative, sensual, and evocative drawings. Miraculously, the poem has gone through a journey of over seven hundred years, and when read, it still gives us a lot of fun. We still feel the white stork mentioned in the poem still flying in the countryside afternoon, and still fluttering in our souls. That's true poetry! Source: more: My feelings about two verses of the poem "The Scene" by King Tran Nhan Tong
Phân tích bài thơ ‘Tĩnh dạ tứ’ của Lí Bạch Hướng dẫn . Tĩnh dạ tứ Lí Bạch (701 – 762) Sàng tiền minh nguyệt quang, Nghi thị địa thượng sương. Cử đầu vọng minh nguyệt, Đê đầu tư cố hương. Dịch nghĩa. Anh trăng sáng đầu giường, Ngỡ là sương mặt đất Ngẩng đầu ngắm trăng sáng, Cúi đầu nhớ quê hương. Dịch thơ. Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh . Lí Bạch (701 – 762) Đẩu giường ánh trăng rọi, Ngỡ mặt đất phủ sương. Ngẩng đầu nhìn trăng sáng, Cúi đầu nhớ cố hương. … ‘Xa ngắm thác núi Lư’, ‘Đường đi khó’, ‘cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh’là những bài thơ tuyệt tác của Lí Bạch cho thấy một hồn thơ tuyệt đẹp. Cảm hứng chủ đạo của bài thơ ‘Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh’ là nỗi buồn nhớ cố hương sâu lắng của Lí Bạch. Đây là bản dịch thơ: ‘Đầu giường ánh trăng rọi, Ngỡ mặt đất phủ sương. Ngẩng đầu nhìn trăng sáng, Cúi đầu nhớ Cố hương’ Bài thơ được viết theo thể ngũ ngôn tứ tuyệt, vẻn vẹn có 20 chữ nhưng đã tạo nên một bức tranh thủy mặc về cảnh mộng đêm trăng gợi lên vẻ đẹp tâm hồn của thi nhân với bút pháp lãng mạn thần tình. Đêm về khuya càng trở nên thanh tĩnh. Không gian bốn bệ vắng lặng. Không một tiếng gió thổi, một tiếng côn trùng kêu. Cũng chẳng có một tiếng chuông chùa ngân buông. Nhà thơ chợt tỉnh giấc thấy mình nằm dưới trăng: ‘Đầu giường ánh trăng rọi’ Cả một không gian ngập tràn ánh trăng. Ánh sáng rọi vào đầu giường. Hình như trâng đã đánh thức thi nhân dậy. Thật cảm động, trăng đến khơi gợi một nguồn thơ và trăng là chất liệu tạo nên vần thơ dào dạt. Ánh trăng sáng quá, tải khắp không gian, bao phủ khắp mặt đất. Câu thơ thứ hai biểu hiện một trạng thái ngỡ ngàng của thi nhân vừa tỉnh giấc vừa nhìn trăng. Tràng đẹp và thơ mộng. Đêm đã sang canh, êm đềm thanh tĩnh. Chỉ có trăng và 128 nhà thơ. Thế rồi, Thi tiên Lí Bạch ‘ngẩng đầu’ ngắm trăng. Trăng với thi nhân như đôi bạn tri âm gặp nhau, nhìn nhau cảm động không nói lên lời. Cả ba câu thơ đầu đều tả ánh trăng trong đêm thanh tĩnh với tâm trạng ngỡ ngàng và bồi hồi của thi nhân. Câu 1 và 3 tả trăng bằng trực giác, câu 2 tả trâng bằng cảm giác. Một không gian nghệ thuật vừa thực vừa mộng, huyền ảo lung linh: Xem thêm: Phân tích bài thơ Quy hứng của Nguyễn Trung Ngạn.‘Đầu giường ánh trăng rọi, Ngỡ mặt đất phủ sương. Ngẩng đầu nhìn trăng sáng’ Lúc bấy giờ, Lí Bạch đang sống nơi đất khách quê người. Giữa đêm khuya thanh tĩnh chỉ có trăng và thi nhân. Ba câu thơ đầu gợi tả một tâm trạng: nỗi buồn cô đơn của khách li hương. Hai câu thơ 3 và 4 được cấu trúc theo phép đối: ‘Ngẩng đầu nhìn trăng sáng, Cúi đầu nhớ cố hương’ Hai tư thế: ‘ngẩng đầu’ và ‘cúi đầu’-, hai tâm trạng: ‘nhìn’ và ‘nhớ’-, hai đối tượng làm xúc động và trĩu lòng kẻ xa quê: ‘trăng sáng’ và ‘cố hương’. Hai hình ảnh ‘trăng sáng’ và ‘cố hương’ đi sóng nhau biểu hiện một tâm hồn giàu tình yêu thiên nhiên, một tấm lòng yêu quê hương thiết tha sâu nặng. ‘Cốhương’ là quê cũ thân yêu; ‘nhớ cố hương’ là nhớ tới gia đình, nhớ tới người thân thương ruột thịt, nhớ tới thời thơ ấu với bao mộng tưởng và kỉ niệm đẹp, nhớ lại những thăng trầm một đời người… Ta từng biết, Lí Bạch quê ở Ba Thục, thuở nho thường leo len núi Nga – Mi để ngắm trăng và múa kiếm. Lớn lên, ông mang theo bầu rượu, túi thơ và thanh kiếm hiệp khách đi chu du mọi phía chân trời góc bể, chan hòa với gió trăng và tình bằng hữu… Vì thế, ánh trăng ‘đêm nay’ là ánh trăng gợi nhớ, gợi sầu, vấn vương một hoài niệm, làm sống dậy bao bâng khuâng của một hồn thơ và một tình quê man mác. ‘Ánh trăng’và ‘cố hương’ gắn bó với nhau trong mạch cảm hứng trữ tình, hòa quyện thành một liên tưởng thấm thía, cảm động, nâng cánh cho hồn thơ bay lên. Trăng lênh láng tràn ngập. Cảm xúc thơ dâng lên dào dạt. Có thể nói ‘Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh’ là một bài thơ trâng tuyệt bút. Lí Bạch rất tinh tế đã lấy ngoại cảnh ‘ánh trăng’ miền đất lạ để biểu hiện tâm tình: nổi buồn nhớ cố hương. Ngôn ngữ thơ hàm súc, hình tượng hoa lệ, cảm xúc mênh mang, gợi lên bao nỗi buồn đẹp – tất cả góp phần tạo nên vẻ đẹp văn chương của bài thơ trăng này. Lí Bạch đã để lại hàng trăm bài thơ trăng. Ai đã từng trải qua nhiều năm tháng li hương, ai đã từng mang một tâm hồn yêu trăng, chắc sẽ bồi hồi xúc động khi đọc bài thơ này của Thi tiên Lí Bạch. Nguồn: thêm: Phân tích bài "Từ ấy" của nhà thơ Tố Hữu: "Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ, Mặt trời chân lý chói qua tim, Hồn tôi là một vườn hoa lá, Rất đậm hương và rộn tiếng chim..."
Analysis of the poem 'Tinh Da Tu' by Ly Bach Instruct . Quiet night Li Bai (701 – 762) Sieve the bright moonlight, Nghi Thi Thi upper land dew. Nodding to hope for the bright moon, To invest in the homeland. Translate. The moonlight shines at the head of the bed, Thinking it was dew on the ground, raising my head to look at the bright moon, Bow your head and remember your homeland. Translating poetry. Thoughts in the quiet night . Li Bai (701 – 762) The moonlit bedside, I thought the ground was covered in frost. Raise your head and look at the bright moon, Bow your head and remember your hometown. ... 'Viewing Lu mountain waterfall from afar', 'The road is difficult', 'feelings in the quiet night' are Li Bach's masterpiece poems that show a beautiful poetic soul. The main inspiration of the poem 'Thoughts in a quiet night' is Li Bach's deep sadness of missing his hometown. Here is the translation of the poem: 'The moonlight shines at the head of the bed, I thought the ground was covered in frost. Raise your head to look at the bright moon, lower your head to remember your hometown' The poem is written in pentagram, with only 20 words, but creates a watercolor painting of a moonlit night dream, evoking the beauty of the poet's soul with a romantic and romantic style. Late at night it becomes even quieter. The four-pedestal space is quiet. Not a sound of wind blowing, not a sound of insects chirping. There was also not a single sound of the temple bell ringing. The poet suddenly woke up and found himself lying under the moon: 'Moonlight shines at the head of the bed' The whole space was filled with moonlight. The light shines on the head of the bed. It seemed like he had woken up the poet. How touching, the moon comes to evoke a source of poetry and the moon is the material that creates abundant poetry. The moonlight is so bright, it fills the entire space, covering the entire ground. The second verse expresses a state of surprise in the poet who just woke up and looked at the moon. The site is beautiful and poetic. The night has come, calm and quiet. Only the moon and 128 poet. Then, Poet Fairy Ly Bach 'raised his head' to look at the moon. The moon and the poet are like two best friends meeting each other, looking at each other and feeling speechless. All three first verses describe the moonlight on a quiet night with the poet's surprised and restless mood. Sentences 1 and 3 describe the moon by intuition, sentence 2 describes the moon by feeling. An artistic space that is both real and dreamy, shimmering and magical: See more: Analysis of the poem Inspiration by Nguyen Trung Ngan. ‘The moonlight shines at the head of the bed, I thought the ground was covered in frost. Raise your head and look at the bright moon' At that time, Ly Bach was living in a foreign land. In the middle of a quiet night, there are only the moon and poets. The first three lines of the poem describe a mood: the lonely sadness of a traveler. The two verses 3 and 4 are structured according to parallelism: 'Raise your head and look at the bright moon, Bow your head and remember your homeland' Two postures: 'head up' and 'bow down'-, two moods: 'looking' and 'remembering'-, two objects that touch and weigh down the hearts of those far from home: 'bright moon' and 'old country' . The two images of 'bright moon' and 'old country' traveling side by side represent a soul rich in love for nature, a heart that loves the homeland passionately and deeply. 'Co Huong' is the beloved old hometown; 'Missing the homeland' means remembering family, remembering loved ones, remembering childhood with many dreams and beautiful memories, remembering the ups and downs of a person's life... I once knew that Ly Bach was from Ba Thuc, in his childhood, often climbed Nga - Mi mountain to watch the moon and dance with swords. When he grew up, he carried a jug of wine, a bag of poems and a knight's sword to travel all over the horizon, mingling with the moon wind and friendship... Therefore, the moonlight 'tonight' is the moonlight that reminds , evokes sadness, lingers a nostalgia, revives the wistfulness of a poetic soul and a wild love for the countryside. 'Moonlight' and 'old country' are intertwined in the vein of lyrical inspiration, blending into a poignant and touching association, lifting the poetic soul to fly. The moon shines brightly. Poetic emotions rise abundantly. It can be said that 'Thoughts in a quiet night' is a wonderful poem. Ly Bach very subtly used the 'moonlight' of a strange land to express his feelings: sadness and longing for his homeland. Concise poetic language, magnificent images, immense emotions, evoking beautiful sadness - all contribute to the literary beauty of this moon poem. Li Bach left behind hundreds of poems. Anyone who has spent many years away from home, anyone who has ever had a soul that loves the moon, will surely be moved when reading this poem by Poet Ly Bach. Source: more: Analysis of the poem "From That" by poet To Huu: "From that word inside me the summer sun shines, The sun of truth shines through my heart, My soul is a garden of flowers and leaves, Very rich in fragrance and full of bird sounds. .."
Phân tích bài thơ ‘Đi thuyền trên sông Đáy” của Hồ Chí Minh Hướng dẫn Đi thuyền trên sông Đáy Hổ Chí Minh Dòng sông lặng ngắt như tờ, Sao đưa thuyền chạy thuyền chờ trăng theo. Bôn bề phong cảnh vắng teo, Chỉ nghe cót két tiếng chèo thuyền nan. Lòng riêng riêng những bàn hoàn, Lo sao khôi phục giang san Tiên Rồng. Thuyền về, trời dã rạng đông, Bao la nhuốm một màu hồng đẹp tươi. Mùa thu năm 1949 Thế là cuộc kháng chiến chống Pháp đã được bốn năm. Mùa thu năm 1949, Bác Hồ lại làm thơ ghi lại một chuyến công tác đáng nhớ. Nhan đề bài thơ đã nói rõ: ‘Đi thuyền trên sông Đáy’. Nhìn lên bản đồ Tổ quốc, ta thấy có tên hai con sông Đáy: sông Đáy ở Hà Tây và sông Đáy ở Tuyên Quang. Sông Đáy trong bài thơ có lẽ là sông Đáy ở Tuyên Quang trên chiến khu Việt Bắc. Bài thơ gồm có tám câu thơ lục bát, vừa tả cảnh con thuyền chạy giữa một vùng sông nước trăng sao, vừa nói lên suy nghĩ khôi phục đất nước và niềm tin tưởng đẹp tươi của Bác vào một ngày mai thắng trận. Bốn câu thơ đầu tả cảnh đẹp của dòng sông Đáy, dòng sông chiến khu. Sông ‘lặng ngắt như tờ’, phong cảnh về khuya thêm ‘vắng teo’. Chỉ nghe tiếng ‘cót két’, tiếng chèo thuyền. Bút pháp nghệ thuật lấy động để tả tĩnh rất đặc sắc. Hình ảnh con thuyền, vầng trăng và ngàn sao hiện lên rất đẹp, một vẻ đẹp hữu tình thơ mộng. Con thuyền và trăng sao được nhân hóa có tâm hồn, có chuyển động. Trăng sao vằng vặc sáng. Dòng sông xanh phẳng lặng. Trăng sao chiếu xuống in bóng trên lòng sông. Phía trước, phía sau, xung quanh con thuyền đều có trăng sao. Có lúc tưởng như ‘sao đưa thuyền chạy’, có lúc lại cảm thấy ‘thuyền chờ trăng theo’. Vừa thực vừa mộng ảo. Phải có tình yêu thiên nhiên, phải có tâm hồn thi sĩ mới viết được những vần thơ đẹp như vậy: Xem thêm: Thiên nhiên là người bạn tốt của con người, hãy yêu mến và bảo vệ thiên nhiên. Em hãy chứng minh ý kiến trên‘Dòng sông lặng ngắt như tờ, Sao đưa thuyền chạy thuyền chờ trăng theo. Bốn bề phong cảnh vắng teo, Chỉ nghe cốt két tiếng chèo thuyền nan’ Đoạn thơ gợi lên không khí tĩnh mịch huyền ảo như dẫn hồn ta trôi vào thế giới cổ tích. Nhà thơ ngồi trong con thuyền lặng ngắm cảnh sông nước trăng sao mà bàn hoàn, mà xao động, mà vương vấn cả tâm hồn. Nhiệm vụ phục quốc là sự lo lắng, là nỗi bàn hoàn khôn nguôi: ‘Lòng riêng riêng những bàn hoàn, Lo sao khôi phục giang san Tiên Rồng’ Bác đã vận dụng hình thức tập Kiều để diễn tả một tình cảm đẹp: lo lắng đánh giặc để cứu dân. Hai câu kết nói về cảnh rạng đông trên chiến khu: ‘Thuyền về, trời đã rạng đông, Bao la nhuốm một màu hồng đẹp tươi’ Con thuyền và cảnh rạng đông mang ý nghĩa tượng trưng sâu sắc. Con thuyền kháng chiến vượt phong ba bão táp trở về bến trong rạng đông tráng lệ. Cảnh màu hồng đẹp tươi bao la đất trời tượng trưng cho ngày chiến thắng, đất nước bước vào một kỉ nguyên mới: độc lập, hòa bình. Hai câu kết có hình tượng đẹp, thể hiện tinh thần lạc quan của nhà thơ về một ngày mai thắng trận. Thơ là tâm hồn, tiếng lòng của thi sĩ. Bài thơ ‘Đi thuyền trên sông Đáy’ là tâm hồn, tiếng lòng của nhà thơ Hồ Chí Minh: rất lạc quan yêu đời, tin tưởng, chan hòa với thiên nhiên, nặng lòng vì Tổ quốc. Con thuyền, dòng sông và rạng đông là ba biểu tượng rất đẹp trong bài thơ của Bác. Nguồn: thêm: Hãy viết một bức thư hoặc một bài văn nghị luận kêu gọi các quốc gia có vũ khí hạt nhân cam kết không chạy đua vũ trang...
Analysis of the poem "Sail on the Day River" by Ho Chi Minh Instruct Take a boat trip on the Day River Ho Chi Minh The river is as quiet as paper, Why take the boat and sail, waiting for the moon to follow. Surrounded by deserted landscapes, Only the creaking sound of rowing a bamboo boat can be heard. The heart is separate from the complete tables, Worried about how to restore Tien Rong province. The boat returned, it was dawn, Immensely tinged with a beautiful, fresh pink color. Autumn 1949 So the resistance war against the French has been going on for four years. In the fall of 1949, Uncle Ho wrote a poem to record a memorable business trip. The title of the poem says clear: 'Sail on the Day River'. Looking at the map of the Fatherland, we see the names of two Day rivers: Day River in Ha Tay and Day River in Tuyen Quang. The Day River in the poem is probably the Day River in Tuyen Quang in the Viet Bac war zone. The poem consists of eight six-eight verses, both describing the scene of a boat running in the middle of a moonlit river, and expressing Uncle Ho's thoughts of restoring the country and his beautiful belief in a victorious tomorrow. The first four verses describe the beautiful scenery of the Day River, a war zone river. The river is 'silent as a sheet', the landscape at night becomes 'deserted'. Only heard the 'creaking' sound, the sound of rowing the boat. The artistic style of using movement to describe static is very unique. The image of the boat, the moon and thousands of stars appears very beautifully, a charming and poetic beauty. The anthropomorphic boat and moon and stars have soul and movement. The moon and stars are shining brightly. Calm blue river. The moon and stars shine down, casting shadows on the riverbed. There are moon and stars in front, behind, and around the boat. Sometimes it feels like 'the stars are moving the boat', other times it feels like 'the boat is waiting for the moon to follow'. Both real and imaginary. You must have a love for nature and a poet's soul to write such beautiful poems: See more: Nature is a good friend of humans, please love and protect nature. Let me prove the above opinion: 'The river is as quiet as a sheet of paper. Why take the boat and sail, waiting for the moon to follow. All around the landscape is deserted, Only hear the sound of rowing a bamboo boat The poem evokes a quiet and magical atmosphere that seems to lead our souls into a fairy tale world. The poet sat in the boat silently contemplating the river, moon and stars, discussing, stirring, and lingering on his soul. The task of restoring the nation is a concern and an inconsolable discussion: 'My heart is separate from all my thoughts, Wondering how to restore Tien Rong river? Uncle Ho used the form of practice Kieu to express a beautiful sentiment: worrying about fighting the enemy to save the people. Two concluding sentences talk about the dawn scene on the war zone: 'The boat returned, it was dawn, Immensely tinged with a beautiful, bright pink color' The boat and the dawn have profound symbolic meaning. The resistance boat overcame three storms and returned to the harbor in a magnificent dawn. The beautiful, bright pink landscape of heaven and earth symbolizes the day of victory, the country entering a new era: independence and peace. The two concluding sentences have beautiful images, expressing the poet's optimism about a victorious tomorrow. Poetry is the soul, the voice of the poet. The poem 'Sailing on the Day River' is the soul and heart of poet Ho Chi Minh: very optimistic, loving life, confident, in harmony with nature, and heavy-hearted for the Fatherland. The boat, the river and the dawn are three very beautiful symbols in Uncle Ho's poem. Source: more: Write a letter or an essay calling on countries with nuclear weapons to commit not to engage in arms racing...
Phân tích bài thơ “Bác ơi” của Tố Hữu và nói lên cảm nghĩ của em Gợi ý “Bác ơi!” được Tố Hữu viết vào ngày 6-9-1969, bốn ngày sau khi vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc qua đời. “Bác ơi!” được viết theo thể thơ thất ngôn trường thiên, gồm 13 khổ thơ, mỗi khổ thơ có 4 câu thơ. Bài “Bác ơi!” là tiếng khóc tiễn biệt, mang ý nghĩa như một bài điếu văn rất cảm động, vừa ca ngợi lòng yêu nước thương dân bao la của Bác Hồ, vừa biểu lộ lòng tiếc thương, ghi nhớ công ơn to lớn của lãnh tụ. 1. Mở đầu bài thơ là tiếng khóc. Bác Hồ qua đời để lại nỗi đau thương trong lòng hàng triệu đồng bào ta và bạn bè gần xa. Nỗi đau thương trùm cả cõi đời và cả vũ trụ bao la, mênh mông: Suốt mấy hôm rày đau tiễn đưa Đời tuôn nước mắt, trời tuôn mưa… Câu thơ thứ hai, chữ “tuôn” được điệp lại hai lần đã cực tả nỗi mất mát, đau thương của dân tộc thật vô hạn. Đọc hồi kí của Tố Hữu, ta biết lúc Bác Hồ mất, nhà thơ còn đi công tác xa. Nghe tin Bác mất, tác giả vội “chạy về”. Đó là một buổi chiều đau đớn, bàng hoàng. Hai chữ “ướt lạnh” diễn tả nỗi đau đớn tái tê ấy: Chiều nay con chạy về thăm Bác Ướt lạnh vườn rau, mấy gốc dừa! Bác ra đi, ngôi nhà sàn của Bác trở nên vắng lặng, hiu hắt buồn. Chuông chẳng còn reo nữa. Ánh đèn “tắt”,“rèm buông”, phòng của Bác ở và làm việc thì đã “lặng”. Sự sống như ngừng lại trong đau thương: Chuông ôi chuông nhỏ còn reo nữa Phòng lặng, rèm buông, tắt ánh đèn! Bác ra đi quá bất ngờ, đột ngột. Cả miền Nam, cả tiền tuyến lớn anh hùng đang trên đà chiến thắng. “Rước Bác vào thăm”… là ước mơ đẹp của đồng bào, chiến sĩ. Nhưng giờ đây còn đâu nữa khi Bác đã đi xa:Xem thêm: Anh (chị) nghĩ gì về câu ngạn ngữ của châu Phi: ‘Hãy hướng về phía mặt trời, bóng tối sẽ ngả về phía sau bạn”? Miền Nam đang thắng, mơ ngày hội Rước Bác vào thăm, thấy Bác cười! Ngày hội chiến thắng, ngày hội thống nhất non sông… thế là vắng bóng Bác. Bác ra đi, cỏ cây hoa lá, thiên nhiên tạo vật đều đau đớn tiếc thương. Vườn rau, gốc dừa, trái bưởi, hoa nhài, ao cá… những vật thân quen ấy của Bác được nhân hoá gợi ra bao đau đớn, cô đơn, buồn tủi, ngậm ngùi. Lấy ai để san sẻ nỗi đau buồn thương tiếc? Tố Hữu có một lối nói biểu cảm rất sâu sắc. Ông đứng lặng, tự hỏi lòng mình rồi hỏi cỏ cây hoa lá: Trái bưởi kia vàng ngọt với ai Thơm cho ai nữa, hỡi hoa nhài Còn đâu bóng Bác đì hôm sớm Quanh mặt hồ in mây trắng bay… Bốn khổ thơ đầu, Tố Hữu đã mở ra một không gian nghệ thuật từ đất trời, cõi đời, niềm Nam,… đến vườn rau, ao cá, gốc dừa, ngôi nhà sàn,… đồng hiện một tâm trạng nghệ thuật, đó là nỗi đau đớn, tiếc thương đã và đang thấm sâu vào lòng người, lọng dân tộc. Đó là ngày Bác đi xa, ngày 2 tháng 9 năm 1969, ngày Quốc tang. Sự kết hợp các câu cảm thán, câu hỏi tu từ làm cho giọng thơ như tiếng nấc cất lên, nghẹn ngào, biểu cảm: Bác đã đi rồi sao, Bác ơi! .. Trái bưởi kia vàng ngọt với ai Thơm cho ai nữa, hỡi hoa nhài Còn đâu bóng Bác đi hôm sớm… 2. Sáu khổ thơ tiếp theo trong phần hai bài thơ nói lên tình thương bao la và phẩm chất cao đẹp của Bác. Cách cấu trúc bài thơ giống như bài văn tế khi nhắc tới công đức của con người vừa qua đời. Bằng hình ảnh hoán dụ, Tố Hữu ca ngợi lòng yêu nước thương dân, tình nhân ái bao la của Hồ Chí Minh. Đây là hai câu thơ trong bốn câu thơ hay nhất trong bài thơ "Bác ơi!”:Xem thêm: Soạn bài Tình người với đất Bác ơi, tim Bác mênh mông thế Ôm cả non sông, mọi kiếp người. Bằng nghệ thuật liệt kê, tác giả nhắc lại tấm lòng nhân ái bao la, mênh mông, của Bác. Đó là nỗi đau và nỗi lo của Bác. Lòng Bác sâu nặng như lòng mẹ: “Chỉ lo muôn mối như lòng mẹ – Cho hôm nay và cho mai sau”. Đó là lòng Bác; Bác sống, Bác yêu, Bác cho, Bác để, Bác tặng: Bác sống như trời đất của ta Yêu từng ngọn lúa, mỗi cành hoa Tự do cho mỗi đời nô lệ Sữa để em thơ, lụa tặng già. Đó là Bác nhớ, Bác nghe, Bác lắng… Đó là tình cảm của lãnh tụ dành cho chiến sĩ và đồng bào nơi Thành đồng Tổ quốc: Bác nhớ miền Nam, nỗi nhớ nhà Miền Nam mong Bác, nỗi mong Bác Bác nghe từng bước trên tiền tuyến Lắng mỗi tin mừng, tiếng sung xa. Bác đã tùng nói: "Miền Nam luôn trong tim tôi”, Thơ chúc Tết năm 1969, Bác đã viết: "Năm qua thắng lợi vẻ vang – Năm nay tiền tuyến chắc thắng to… ”, Bác là niềm vui thắng trận. Bác là chỗ dựa tinh thần để tiền tuyến xốc tới "Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào!", Tố Hữu vừa khóc thương Bác, vừa làm sống lại tâm hồn Bác. Điệp ngữ "vui" và các động từ: "nâng niu, quên” đã nói lên một cách sâu sắc tâm hồn Hồ Chí Minh: lạc quan yêu đời, giàu đức hi sinh. Hình ảnh so sánh đầy chất thơ: Bác vui như ánh buổi bình minh Vui mỗi mầm non, trái chín cành Vui tiếng ca chung hòa bốn biển Nâng niu tất cả, chỉ quên mình. Bác sống giản dị, thanh bạch. Chiếc va li nhỏ, vài ba bộ quần áo đơn sơ, đôi dép cao su…, "chẳng vàng son ". Nhiểu người thường nhắc đến hai câu thơ tuyệt bút sau đây để ca ngợi đức tính giản dị của Bác Hổ:Xem thêm: Vai trò của nhân vật vợ Tràng trong truyện “Vợ nhặt" của Kim Lân Mong manh áo vải, hồn muôn trượng Hơn tượng đồng phơi những lối mòn. Tư tưởng lớn, ý thơ đẹp và hay, nghệ thuật tưởng phản tài ba, Tố Hữu đã để lại câu thơ trong trí nhớ nhiều người. Có thể nói, đoạn thơ đã thể hiện sâu sắc cảm động tâm hồn, phong cách, đạo đức và lối sống Hồ Chí Minh. 3. Ba khố thơ trong phần cuối là tiếng khóc, là sự ghi nhớ, là lòng biết ơn, là lời ước nguyện. Thương Bác, nhớ Bác càng thấy lòng mình bơ vơ, đau đớn: "Ôi Bác ơi, những xế chiều – Nghìn thu nhớ Bác biết bao nhiêu! Bác đã đi xa, bước vào "thế giới Người Hiền”. Sự nghiệp cách mạng, đạo đức cách mạng của Bác mãi mãi là "Ánh hào quang đỏ thêm sông núi”, là tài sản tinh thần vô giá có tác dụng động viên, cổ vũ đồng bào, chiến sĩ "cùng nhau tiến lên” với niềm tin sắt đá: “Còn non, còn nước, còn người, Thắng giặc Mỹ, ta sẽ xây dựng hơn mười ngày nay” (Di chúc) Nhớ mãi công ơn của Bác, nhân dân ta nguyện ghi sâu trong lòng lời Bác dặn, quyết tâm vươn lên hoàn thành sự nghiệp cách mạng của Bác để lại. Bài thơ khép lại bằng một hình so sánh mang hình tượng sông núi kì vĩ. Tố Hữu khóc Bác bằng một lời thề chiến đấu: Xin nguyện cùng Người vươn tới mãi Vững như muôn ngọn dải Trường Sơn. Tố Hữu là nhà thơ viết vế Bác Hồ nhiều nhất, sâu sắc nhất, hay nhất. Hình ảnh Bác Hồ: “Người là Cha, là Bác, là Anh – Quả tim lớn lọc trong dòng máu nhỏ” đã in đậm trong nhiều trang thơ của Tố Hữu. “ Bác ơi!” là một trong những bài thơ hay nhất viết về Hồ Chí Minh – vị lãnh tụ vĩ đại kính yêu của dân tộc. Vanmau.edu.vn
Analyze the poem "Uncle" by To Huu and express your feelings Suggest “Uncle!” was written by To Huu on September 6, 1969, four days after the nation's beloved leader passed away. “Uncle!” written in a seven-word long poem form, consisting of 13 stanzas, each stanza has 4 lines. The song "Uncle!" is a farewell cry, meaning a very touching eulogy, both praising Uncle Ho's immense patriotism and love for the people, while also expressing his condolences and remembering the leader's great gratitude. 1. The poem begins with crying. Uncle Ho's death left pain in the hearts of millions of our compatriots and friends near and far. The pain covers the whole world and the vast universe: For the past few days, I have felt the pain of saying goodbye Life sheds tears, heaven pours rain... In the second verse, the word "flush" repeated twice describes the infinite loss and pain of the nation. Reading To Huu's memoir, we know that when Uncle Ho passed away, the poet was still away on business. Hearing the news of Uncle Ho's death, the author quickly "ran home". It was a painful, shocking afternoon. The two words "wet and cold" describe that numbing pain: This afternoon I ran back to visit Uncle Wet and cold vegetable garden and coconut trees! When Uncle left, his stilt house became quiet, sad and lonely. The bell no longer rings. The lights are "off", the curtains are down, the room where Uncle Ho lives and works is "silent". Life seems to stop in pain: Oh, the little bell still rings Quiet room, the curtain falls, the lights off! Uncle passed away so unexpectedly and suddenly. The entire South, the entire heroic front line, is on the verge of victory. “Welcoming Uncle Ho to visit”… is a beautiful dream of compatriots and soldiers. But where is he now that Uncle Ho is gone? The South is winning, dreaming of a festival Welcome Uncle Ho to visit, see him smile! Victory festival, unification festival... so Uncle Ho was absent. When he left, the trees, flowers, and nature were all in pain and mourning. Vegetable gardens, coconut trees, grapefruits, jasmine flowers, fish ponds... those familiar objects of Uncle Ho's are personified, evoking so much pain, loneliness, sadness, and pity. Who will you marry to share your grief and sorrow? To Huu has a very deeply expressive way of speaking. He stood still, asked himself, then asked the trees and flowers: That yellow grapefruit is sweet to anyone For whom else is it fragrant, O jasmine? Where is the shadow of Uncle Ho that early morning? White clouds are printed around the lake surface... In the first four stanzas, To Huu opened an artistic space from heaven and earth, the world, the South,... to the vegetable garden, fish pond, coconut tree, stilt house,... all expressing an artistic mood, that is the pain and grief that has penetrated deeply into the hearts of people and the nation. That was the day Uncle Ho went away, September 2, 1969, the day of National Mourning. The combination of exclamations and rhetorical questions makes the poetic voice sound like a sob, choked up, expressive: Are you gone already, Uncle! .. That yellow grapefruit is sweet to anyone For whom else is it fragrant, O jasmine? Where is the shadow of Uncle Ho who left early in the morning... 2. The next six stanzas in the second part of the poem speak of Uncle Ho's immense love and noble qualities. The structure of the poem is similar to an oration when mentioning the merits of the person who has just passed away. Using metonymic images, To Huu praises Ho Chi Minh's patriotism and love for his people. These are two of the four best verses in the poem "Uncle!": See more: Prepare the poem Love between people and land Uncle, your heart is so vast Embracing the whole mountain and river, all human lives. Using the art of listing, the author recalls Uncle Ho's immense compassion. That was Uncle Ho's pain and worry. Uncle Ho's heart is as deep as a mother's heart: "Just worry about all things like a mother's heart - For today and for tomorrow." That is Uncle Ho's heart; You live, you love, you give, you let, you give: Uncle lives like our heaven and earth Love every rice plant, every flower branch Freedom for every slave Milk for children, silk for the elderly. That's Uncle remembers, Uncle listens, Uncle listens... That's the leader's feelings for soldiers and compatriots in the Fatherland: I miss the South, I miss home The South longs for Uncle Ho, longing for Uncle Ho He listened to every step on the front line Listen to every good news, the distant sound of singing. Uncle Ho often said: "The South is always in my heart." In the 1969 New Year greeting poem, Uncle Ho wrote: "Last year was a glorious victory - This year the front line will surely win big...", Uncle Ho is the joy of victory. He was the spiritual support for the front line to rush forward, "Fight the Americans, fight the puppets!", To Huu both cried for Uncle and revived Uncle's soul. The alliteration "happy" and the verbs: "cherish, forget" deeply express Ho Chi Minh's soul: optimistic, loving life, rich in sacrifice. Poetic comparison image: Uncle was as happy as the morning light Happy every sprout, ripe fruit Enjoy the sound of singing in harmony with the four seas Cherish everything, forget only yourself. Uncle lived a simple and pure life. A small suitcase, a few simple clothes, a pair of rubber sandals..., "not golden". Many people often mention the following two great poems to praise Uncle Ho's simple virtues: See more: The role of Trang's wife in the story "Picked Wife" by Kim Lan Fragile clothes, long-lasting soul More than bronze statues drying out the paths. With great ideas, beautiful and good poetic ideas, and seemingly talented art, To Huu has left his poems in the memory of many people. It can be said that the poem deeply and touchingly expressed Ho Chi Minh's soul, style, ethics and lifestyle. 3. The three poems in the last part are crying, remembering, gratitude, and wishes. Loving Uncle, missing him makes me feel even more helpless and painful: "Oh Uncle, how much I miss you in the afternoons and autumns! Uncle Ho has gone far, entering the "world of wise people". His revolutionary career and revolutionary ethics will forever be "a red halo that brightens the mountains and rivers", and is an invaluable spiritual asset that has an encouraging effect. , encouraging compatriots and soldiers to "move forward together" with firm belief: “There's still water, there's still people, After defeating the American enemy, we will build in more than ten days." (Testament) Forever remembering Uncle Ho's gratitude, our people vow to keep Uncle Ho's words deep in their hearts, determined to rise up and complete the revolutionary cause that Uncle Ho left behind. The poem closes with a comparison image of majestic rivers and mountains. To Huu cried to Uncle Ho with an oath to fight: May we reach out with Him forever Firm as all the peaks of the Truong Son range. To Huu is the poet who wrote the most, the most profound, and the best stories about Uncle Ho. The image of Uncle Ho: "He is Father, Uncle, Brother - Big heart filtered in small blood" is bold in many pages of To Huu's poetry. “Uncle!” is one of the best poems written about Ho Chi Minh - the beloved great leader of the nation. Vanmau.edu.vn
Đề bài: Phân tích bài thơ “Bên kia sông Đuống” của Hoàng Cầm Thật vật! Trong cuộc đời của mỗi một con người ai cũng có một quê hương. Và đối với nhà thơ Hoàng Cầm cũng vậy, mảnh đất ăn sâu vào máu thịt ông và cũng là miền đất Kinh Bắc bên kia sông Đuống. Khi Hoàng Cầm nhớ về quê hương là nhớ về những gì sâu nặng nhất, là đẹp đẽ nhất trong tâm hồn và trong đáy sâu của cảm xúc đó nhà thơ cho ra đời “Bên kia sông Đuống”. Bài thơ “Bên kia sông Đuống” ra đời khi quê hương yêu thương Kinh Bắc của ông đã bị rơi vào tay giặc Pháp. Và đó chính là những nỗi đau xót khi nghe tin quê hương ngập chìm khói lửa chiến tranh nó cú như cắt cứ cứ như trĩu nặng tâm hồn ông. Và khi đứng bên này Sông Đuống đó chính là một mảnh đất tự do, hướng về quê hương bên kia Sông Đuống đó chính là một mảnh đất bị giặc chiếm đóng với bao nỗi niềm và xót xa trong tâm trạng của tác giả. Và đó cũng chính là một dòng sông mà giờ đây đôi bờ cách biệt. Ta như thấy được dòng thơ đầu tiên mở ra tác phẩm như gợi ra đó chính là một tiếng gọi cất lên từ sâu thẳm trái tim đau đớn của nhà thơ. Hơn nữa nó cũng đồng thời cũng là một lời an ủi: Em ơi buồn làm chi Anh đưa em về sông Đuống Ngày xưa cát trắng phẳng lì Nhân vật “Em” ở đây là một nhân vật phiếm chỉ được sử dụng đặc sắc. Tuy nhiên, ta cũng đã có phần chắc chắn đó là một cô gái cùng quê bên kia sông Đuống với nhà thơ. Ta cũng thật dễ bắt gặp trong thơ Hoàng Cầm ta thường gặp một nhân vật em như vậy, và đó cũng chỉ bởi đó là cái cớ để nhà thơ bộc lộ xúc cảm của mình một cách chân thành nhất. Và đó như là lời an ủi đưa em về sông Đuống nhưng nó lại thực chất chỉ diến ra trong hoài niệm của nhà thơ. Ta cũng như đã thấy được chính trong niềm hoài niệm đó, hình ảnh trung tâm là con sông quê hương trong mát kia cùng với bờ cát trắng phẳng lì cứ như là chảy từ quá khứ xa xôi về hiện tại, hiện lên trong tâm trí nhà thơ mãi không nguôi và còn đó chính là trù phú hai bên bờ những màu xanh bạt ngàn như bất tận của những bãi mía, nương dâu: Sông Đuống trôi đi Một dòng lấp lánh Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kì Ta không thể nào không ấn tượng với cái dáng nằm nghiêng nghiêng của dòng sông Đuống, đây cũng được xem là một phát hiện, một sáng tạo độc đáo của Hoàng Cầm. Và dường như chính cái cảm xúc mãnh liệt cùng trí tưởng tượng phong phú như đã cũng giúp cho nhà thơ sáng tạo ra một hình ảnh thơ độc đáo đầy ấn tượng và nó cũng như đã làm xáo trộn cả không gian và thời gian, ám ảnh hoài tâm trí người đọc.Xem thêm: Phân tích đoạn trích trong tác phẩm “Số phận con người” của A. Sô-lô-khốp- Văn 12 Khi mà đứng từ bên này, nhà thơ lại cũng như thật đau đáu hướng cặp mắt về bên kia sông Đuống. Và có lẽ đoạn thơ như đã khéo léo kết thúc bằng một hình ảnh diến tả nỗi đau “Sao xót xa như rụng bàn tay”.Tác giả Hoàng Cầm dường như cũng đã mượn nỗi đau của thể xác để diến tả, nó như là để thể hiện một cách một cách cụ thể nỗi đau về tinh thần. Và có lẽ rằng phải là người coi quê hương là máu thịt của mình thì tác giả mới có tình cảm mãnh liệt đến như vậy. Và tâm trạng của nhân vật trữ tình hay tác giả đã đạt được đến mức độ điển hình. Có lẽ rằng chính cái cảm hứng chủ đạo trong đoạn thứ nhất là nỗi đau, đó như lại còn cả sự nuối tiếc, xót xa, như lai thêm lòng căm giận trước cảnh tượng quê hương thanh bình và người dân thuận hòa vui tươi, tươi đẹp bị giặc chiếm đóng. Chính từ những cảm xúc về nỗi đau đó, ta như có thể thấy được cảnh quê hương Kinh Bắc dần dần hiện lên trong kí ức nhà thơ. Và có lẽ rằng chính vùng quê Kinh Bắc nó như cũng đã có trong hoài niệm, được gợi lên bằng chính hương lúa nếp thơm nồng, hương lúa nếp như cũng là biểu tượng của cuộc sống ấm no, và cả những bức tranh Đông Hồ nó như là biểu tượng của đời sống tinh thần lành mạnh. Bên kia sông Đuống Quê hương ta lúa nếp thơm nồng Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp Ta dường như cũng đã thấy được chính những vẻ đẹp quê hương bừng sáng lên rồi bị ngập chìm trong khói lửa chiến tranh. Nhà thơ Hoàng Cầm như thật tinh tế khi ông đã miêu tả thật xúc động những cảnh tan tác như cả chia lìa của quê hương khi quân giặc tới qua các từ như “ngùn ngụt lửa hung tàn”, “ruộng khô”, “nhà cháy”, con người chia li”,…Và còn cả những loài vật cũng bị chia ly trong hoàn cảnh đó. Mẹ con đàn lợn âm dương Chia lìa đôi ngả Đám cưới chuột đang tưng bừng rộn rã Bây giờ tan tác về đâu Ở đây, dường như là chính những cái ảo đã hòa nhập cùng cái thực. Tác giả thật tài tình khi đã mượn hình ảnh trong tranh để diễn tả cảnh tượng thật ngoài đời vậy. Và đây dường như nhà thơ đã lay động sâu xa tình cảm sâu sắc, gắn bó của những con người vốn gắn bó máu thịt với truyền thống văn hóa đẹp đẽ đã có tự hàng ngàn đời của quê hương Kinh Bắc.Xem thêm: Màu sắc Nam Bộ trong truyện ngắn Những đứa con trong gia đình (Nguyễn Thi). Không chỉ có vậy thôi đâu mà dường như chính những hình ảnh quê hương Kinh Bắc còn được gợi lên với những đền chùa cổ kính, vẫn còn đó những nét sinh hoạt xa xưa của cha ông đó là những hội hè đình đám thể hiện khát vọng một cuộc sống hạnh phúc, bình yên của nhân dân. Vậy mà chính giấc mộng bình yên như đã được diễn ra mấy trăm năm ấy giờ đây tan vỡ. Những nàng môi cắn chỉ quết trầu Những cụ già phơ phơ tóc trắng Những em sột soạt quần nâu Bây giờ đi đâu về đâu Và ta như nhận thấy được những con người mang một phần linh hồn của quê hương xứ sở ấy ngay giờ đây cũng như đã trở nên bơ vơ, tan tác. Có thể nói cũng không còn nữa những hội hè đông vui, hay cả nhộn nhịp nữa. Xóa nhòa cái cảnh nhộn nhịp vui tươi đó mà thay vào đó chỉ còn tiếng chuông chùa văng vẳng từ thuở bình yên xa xưa vọng về dường như đã càng làm tăng thêm sự hoang vắng của quê hương như tiếng thở than nuối tiếc một thời yên ấm. Và cái vùng quê yên bình vùng quê Kinh Bắc nó như đã còn được gợi lên bằng cảnh lao động nhộn nhịp đó chính là nơi được biết đến để buôn bán đông vui, sầm uất. Người đọc như có thể thấy được trong tâm trí nhà thơ, hình ảnh những cô gái Kinh Bắc dăng tơ dệt lụa, và cả buôn bán tảo tần hiện lên với những nét xinh tươi, dịu dàng, duyên dáng và biết bao tình tứ. Ai về bên kia sông Đuống Có nhớ từng khuôn mặt búp sen Những cô hàng xén răng đen Cười như mùa thu tỏa nắng Nhưng giờ đây cảnh êm ấm thế mà dường như cũng tan tác chia lìa, không biết đi đâu, về đâu. Và có thể nói trong niềm tiếc thương không nguôi những người, và cả những cảnh vật của quê hương, tác giả Hoàng Cầm đã dành tình cảm thật sâu sắc, sâu nặng nhất cho người mẹ già và em nhỏ. Người mẹ già nua, còm cõi vốn đã vất vả trong thời bình lại càng khốn khổ hơn khi quân giặc tới. Và cả vùng Kinh Bắc vốn là đất lành giờ đây bỗng hóa thành đất dữ. Chẳng như những con người không sống được yên ổn mà dường như tất cả những cánh cò cũng táo tác, như thật hốt hoảng không chốn nương thân.Xem thêm: Khái vọng vĩnh cửu hóa tình yêu được thể hiện như thế nào trong bài thơ “Sóng”? Anh (chị) hãy phân tích cảm nghĩ của Xuân Quỳnh về tình yêu trước thời gian Có con cò trắng bay vùn vụt Lướt ngang dòng sông Đuống về đâu Mẹ ta lòng đói dạ sầu Đường trơn mưa lạnh mái đầu bạc phơ Ta như thấy được chính những hình ảnh cánh cò lồng vào hình ảnh người mẹ, nhưng không phải là cánh cò trong những câu ca dao là cánh cò bay lả bay la của thời bình nữa mà thay vào đó chính là cánh cò hốt hoảng chạy trốn đạn bom, soi bóng trên lưng người mẹ run rẩy, như đã bước thấp bước cao trên đường trơn mưa lạnh. Ta như có thể thấy chính những số phận tội nghiệp của những đứa trẻ trong chiến tranh được Hoàng Cầm dường như cũng đã gợi lên trong cảnh đói khát cùng với sự đe dọa của đạn bom. Có lẽ là cả ban ngày lẫn ban đêm, và dường như là cả khi thức lẫn khi ngủ, cái chết luôn rình rập, và luôn luôn đe dọa chúng. Và cũng chính vì lòng uất hận, căm thù của nhà thơ bùng lên dữ dội. Câu thơ của tác giả Hoàng Cầm đến đây thét lên phẫn nộ: Đã có đất này chép tội Chúng ta không biết ngươi hờn Có thể thấy được phần còn lại của bài thơ “Bên kia sông Đuống” dường như cũng đã diễn tả cảnh bộ đội trở về và nhân dân vùng lên như là để đấu tranh tấn công một cách chủ động vào kẻ thù. Ta như thấy được cả giọng thơ chuyển từ nhớ tiếc, xót thương sang uất hận, căm thù. Lời cảm thán, nó như chính là những niềm hoài niệm ở đầu bài thơ đã trở thành lời hứa hẹn, niềm hi vọng ở đoạn kết. Ta như thấy được đó chính là một khung cảnh mùa xuân tràn trề niềm vui và ánh sáng tươi mới như đã lại trở về với vùng quê Kinh Bắc. Và đó chính là cô gái Kinh Bắc, cô đã hiện ra với nụ cười tươi tắn giữa không khí tưng bừng của ngày hội vậy. Em đi trẩy hội non sông Cười mê ánh sáng muôn lòng xuân xanh Thi phẩm đặc sắc “Bên kia sông Đuống’ chính là những dòng tình cảm mãnh liệt nhất, và đó cũng chính là sự chân thành và trong sáng nhất mà Hoàng Cầm đã dành cho quê hương yêu dấu của mình. Đồng thời cũng đã thông qua đó đánh thức trong mỗi chúng ta tình yêu quê hương đất nước. Đó dường như cũng chính là thứ tình cảm thiêng liêng cao cả và nó cũng như đã gắn bó như chính lời bài hát của nhạc sĩ Giáp Văn Thạch. Nguồn: Văn mẫu hay
Đề bài: Phân tích bài thơ “Bên kia sông Đuống” của Hoàng Cầm Thật vật! Trong cuộc đời của mỗi một con người ai cũng có một quê hương. Và đối với nhà thơ Hoàng Cầm cũng vậy, mảnh đất ăn sâu vào máu thịt ông và cũng là miền đất Kinh Bắc bên kia sông Đuống. Khi Hoàng Cầm nhớ về quê hương là nhớ về những gì sâu nặng nhất, là đẹp đẽ nhất trong tâm hồn và trong đáy sâu của cảm xúc đó nhà thơ cho ra đời “Bên kia sông Đuống”. Bài thơ “Bên kia sông Đuống” ra đời khi quê hương yêu thương Kinh Bắc của ông đã bị rơi vào tay giặc Pháp. Và đó chính là những nỗi đau xót khi nghe tin quê hương ngập chìm khói lửa chiến tranh nó cú như cắt cứ cứ như trĩu nặng tâm hồn ông. Và khi đứng bên này Sông Đuống đó chính là một mảnh đất tự do, hướng về quê hương bên kia Sông Đuống đó chính là một mảnh đất bị giặc chiếm đóng với bao nỗi niềm và xót xa trong tâm trạng của tác giả. Và đó cũng chính là một dòng sông mà giờ đây đôi bờ cách biệt. Ta như thấy được dòng thơ đầu tiên mở ra tác phẩm như gợi ra đó chính là một tiếng gọi cất lên từ sâu thẳm trái tim đau đớn của nhà thơ. Hơn nữa nó cũng đồng thời cũng là một lời an ủi: Em ơi buồn làm chi Anh đưa em về sông Đuống Ngày xưa cát trắng phẳng lì Nhân vật “Em” ở đây là một nhân vật phiếm chỉ được sử dụng đặc sắc. Tuy nhiên, ta cũng đã có phần chắc chắn đó là một cô gái cùng quê bên kia sông Đuống với nhà thơ. Ta cũng thật dễ bắt gặp trong thơ Hoàng Cầm ta thường gặp một nhân vật em như vậy, và đó cũng chỉ bởi đó là cái cớ để nhà thơ bộc lộ xúc cảm của mình một cách chân thành nhất. Và đó như là lời an ủi đưa em về sông Đuống nhưng nó lại thực chất chỉ diến ra trong hoài niệm của nhà thơ. Ta cũng như đã thấy được chính trong niềm hoài niệm đó, hình ảnh trung tâm là con sông quê hương trong mát kia cùng với bờ cát trắng phẳng lì cứ như là chảy từ quá khứ xa xôi về hiện tại, hiện lên trong tâm trí nhà thơ mãi không nguôi và còn đó chính là trù phú hai bên bờ những màu xanh bạt ngàn như bất tận của những bãi mía, nương dâu: Sông Đuống trôi đi Một dòng lấp lánh Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kì Ta không thể nào không ấn tượng với cái dáng nằm nghiêng nghiêng của dòng sông Đuống, đây cũng được xem là một phát hiện, một sáng tạo độc đáo của Hoàng Cầm. Và dường như chính cái cảm xúc mãnh liệt cùng trí tưởng tượng phong phú như đã cũng giúp cho nhà thơ sáng tạo ra một hình ảnh thơ độc đáo đầy ấn tượng và nó cũng như đã làm xáo trộn cả không gian và thời gian, ám ảnh hoài tâm trí người đọc.Xem thêm: Phân tích đoạn trích trong tác phẩm “Số phận con người” của A. Sô-lô-khốp- Văn 12 Khi mà đứng từ bên này, nhà thơ lại cũng như thật đau đáu hướng cặp mắt về bên kia sông Đuống. Và có lẽ đoạn thơ như đã khéo léo kết thúc bằng một hình ảnh diến tả nỗi đau “Sao xót xa như rụng bàn tay”.Tác giả Hoàng Cầm dường như cũng đã mượn nỗi đau của thể xác để diến tả, nó như là để thể hiện một cách một cách cụ thể nỗi đau về tinh thần. Và có lẽ rằng phải là người coi quê hương là máu thịt của mình thì tác giả mới có tình cảm mãnh liệt đến như vậy. Và tâm trạng của nhân vật trữ tình hay tác giả đã đạt được đến mức độ điển hình. Có lẽ rằng chính cái cảm hứng chủ đạo trong đoạn thứ nhất là nỗi đau, đó như lại còn cả sự nuối tiếc, xót xa, như lai thêm lòng căm giận trước cảnh tượng quê hương thanh bình và người dân thuận hòa vui tươi, tươi đẹp bị giặc chiếm đóng. Chính từ những cảm xúc về nỗi đau đó, ta như có thể thấy được cảnh quê hương Kinh Bắc dần dần hiện lên trong kí ức nhà thơ. Và có lẽ rằng chính vùng quê Kinh Bắc nó như cũng đã có trong hoài niệm, được gợi lên bằng chính hương lúa nếp thơm nồng, hương lúa nếp như cũng là biểu tượng của cuộc sống ấm no, và cả những bức tranh Đông Hồ nó như là biểu tượng của đời sống tinh thần lành mạnh. Bên kia sông Đuống Quê hương ta lúa nếp thơm nồng Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp Ta dường như cũng đã thấy được chính những vẻ đẹp quê hương bừng sáng lên rồi bị ngập chìm trong khói lửa chiến tranh. Nhà thơ Hoàng Cầm như thật tinh tế khi ông đã miêu tả thật xúc động những cảnh tan tác như cả chia lìa của quê hương khi quân giặc tới qua các từ như “ngùn ngụt lửa hung tàn”, “ruộng khô”, “nhà cháy”, con người chia li”,…Và còn cả những loài vật cũng bị chia ly trong hoàn cảnh đó. Mẹ con đàn lợn âm dương Chia lìa đôi ngả Đám cưới chuột đang tưng bừng rộn rã Bây giờ tan tác về đâu Ở đây, dường như là chính những cái ảo đã hòa nhập cùng cái thực. Tác giả thật tài tình khi đã mượn hình ảnh trong tranh để diễn tả cảnh tượng thật ngoài đời vậy. Và đây dường như nhà thơ đã lay động sâu xa tình cảm sâu sắc, gắn bó của những con người vốn gắn bó máu thịt với truyền thống văn hóa đẹp đẽ đã có tự hàng ngàn đời của quê hương Kinh Bắc.Xem thêm: Màu sắc Nam Bộ trong truyện ngắn Những đứa con trong gia đình (Nguyễn Thi). Không chỉ có vậy thôi đâu mà dường như chính những hình ảnh quê hương Kinh Bắc còn được gợi lên với những đền chùa cổ kính, vẫn còn đó những nét sinh hoạt xa xưa của cha ông đó là những hội hè đình đám thể hiện khát vọng một cuộc sống hạnh phúc, bình yên của nhân dân. Vậy mà chính giấc mộng bình yên như đã được diễn ra mấy trăm năm ấy giờ đây tan vỡ. Những nàng môi cắn chỉ quết trầu Những cụ già phơ phơ tóc trắng Những em sột soạt quần nâu Bây giờ đi đâu về đâu Và ta như nhận thấy được những con người mang một phần linh hồn của quê hương xứ sở ấy ngay giờ đây cũng như đã trở nên bơ vơ, tan tác. Có thể nói cũng không còn nữa những hội hè đông vui, hay cả nhộn nhịp nữa. Xóa nhòa cái cảnh nhộn nhịp vui tươi đó mà thay vào đó chỉ còn tiếng chuông chùa văng vẳng từ thuở bình yên xa xưa vọng về dường như đã càng làm tăng thêm sự hoang vắng của quê hương như tiếng thở than nuối tiếc một thời yên ấm. Và cái vùng quê yên bình vùng quê Kinh Bắc nó như đã còn được gợi lên bằng cảnh lao động nhộn nhịp đó chính là nơi được biết đến để buôn bán đông vui, sầm uất. Người đọc như có thể thấy được trong tâm trí nhà thơ, hình ảnh những cô gái Kinh Bắc dăng tơ dệt lụa, và cả buôn bán tảo tần hiện lên với những nét xinh tươi, dịu dàng, duyên dáng và biết bao tình tứ. Ai về bên kia sông Đuống Có nhớ từng khuôn mặt búp sen Những cô hàng xén răng đen Cười như mùa thu tỏa nắng Nhưng giờ đây cảnh êm ấm thế mà dường như cũng tan tác chia lìa, không biết đi đâu, về đâu. Và có thể nói trong niềm tiếc thương không nguôi những người, và cả những cảnh vật của quê hương, tác giả Hoàng Cầm đã dành tình cảm thật sâu sắc, sâu nặng nhất cho người mẹ già và em nhỏ. Người mẹ già nua, còm cõi vốn đã vất vả trong thời bình lại càng khốn khổ hơn khi quân giặc tới. Và cả vùng Kinh Bắc vốn là đất lành giờ đây bỗng hóa thành đất dữ. Chẳng như những con người không sống được yên ổn mà dường như tất cả những cánh cò cũng táo tác, như thật hốt hoảng không chốn nương thân.Xem thêm: Khái vọng vĩnh cửu hóa tình yêu được thể hiện như thế nào trong bài thơ “Sóng”? Anh (chị) hãy phân tích cảm nghĩ của Xuân Quỳnh về tình yêu trước thời gian Có con cò trắng bay vùn vụt Lướt ngang dòng sông Đuống về đâu Mẹ ta lòng đói dạ sầu Đường trơn mưa lạnh mái đầu bạc phơ Ta như thấy được chính những hình ảnh cánh cò lồng vào hình ảnh người mẹ, nhưng không phải là cánh cò trong những câu ca dao là cánh cò bay lả bay la của thời bình nữa mà thay vào đó chính là cánh cò hốt hoảng chạy trốn đạn bom, soi bóng trên lưng người mẹ run rẩy, như đã bước thấp bước cao trên đường trơn mưa lạnh. Ta như có thể thấy chính những số phận tội nghiệp của những đứa trẻ trong chiến tranh được Hoàng Cầm dường như cũng đã gợi lên trong cảnh đói khát cùng với sự đe dọa của đạn bom. Có lẽ là cả ban ngày lẫn ban đêm, và dường như là cả khi thức lẫn khi ngủ, cái chết luôn rình rập, và luôn luôn đe dọa chúng. Và cũng chính vì lòng uất hận, căm thù của nhà thơ bùng lên dữ dội. Câu thơ của tác giả Hoàng Cầm đến đây thét lên phẫn nộ: Đã có đất này chép tội Chúng ta không biết ngươi hờn Có thể thấy được phần còn lại của bài thơ “Bên kia sông Đuống” dường như cũng đã diễn tả cảnh bộ đội trở về và nhân dân vùng lên như là để đấu tranh tấn công một cách chủ động vào kẻ thù. Ta như thấy được cả giọng thơ chuyển từ nhớ tiếc, xót thương sang uất hận, căm thù. Lời cảm thán, nó như chính là những niềm hoài niệm ở đầu bài thơ đã trở thành lời hứa hẹn, niềm hi vọng ở đoạn kết. Ta như thấy được đó chính là một khung cảnh mùa xuân tràn trề niềm vui và ánh sáng tươi mới như đã lại trở về với vùng quê Kinh Bắc. Và đó chính là cô gái Kinh Bắc, cô đã hiện ra với nụ cười tươi tắn giữa không khí tưng bừng của ngày hội vậy. Em đi trẩy hội non sông Cười mê ánh sáng muôn lòng xuân xanh Thi phẩm đặc sắc “Bên kia sông Đuống’ chính là những dòng tình cảm mãnh liệt nhất, và đó cũng chính là sự chân thành và trong sáng nhất mà Hoàng Cầm đã dành cho quê hương yêu dấu của mình. Đồng thời cũng đã thông qua đó đánh thức trong mỗi chúng ta tình yêu quê hương đất nước. Đó dường như cũng chính là thứ tình cảm thiêng liêng cao cả và nó cũng như đã gắn bó như chính lời bài hát của nhạc sĩ Giáp Văn Thạch. Nguồn: Văn mẫu hay
Phân tích bài thơ “Bạn đến chơi nhà” của Nguyễn Khuyến Gợi ý Trong kho tàng Văn học Việt Nam, có rất nhiều tác phẩm viết về đề tài tình bạn làm xúc động lòng người. Bài thơ “Bạn đến chơi nhà” của Nguyễn Khuyến là một trong số những tác phẩm như vậy. Đọc bài thơ, ta không chỉ cảm nhận được một tình bạn chân thành, sâu sắc mà còn thấy hiện lên một Nguyễn Khuyến hóm hỉnh, lạc quan. “Đã bấy lâu nay, bác tới nhà Trẻ thời đi vắng, chợ thời xa Ao sâu nước cả khôn chài cá Vườn rộng rào thưa khó đuổi gà Cải chửa ra cây cà mới nụ Bầu vừa rụng rốn mướp đương hoa Đầu trò tiếp khách, trầu không có Bác đến chơi đây ta với ta”. Bài thơ lập ý bằng cách dựng lên tình huống không có gì để tiếp bạn, nhưng vẫn thể hiện được tình bạn đậm đà thắm thiết. Câu thơ đầu tiên gợi ra một hoàn cảnh rất đáng vui mừng: Đã bấy lâu nay, bác tới nhà. Nguyễn Khuyến đã lui về quy ẩn, trong cái thời đại nhiễu nhương “Còn tiền còn bạc còn đệ tử / Hết cơm hết rượu hết ông tôi” thì việc có một người bạn quý đã lâu ngày “đã bấy lâu nay” đến nhà chơi thì thật đáng quý xiết bao. Và trong hoàn cảnh ấy, đáng ra, Nguyễn Khuyến phải tiếp đãi bạn thật chu đáo và thịnh soạn.Xem thêm: Văn biểu cảm - Cảm nghĩ về mái trường thân yêu Nhưng oái oăm thay, trong sáu câu kế tiếp, nhà thơ lại vẽ ra một hoàn cảnh rất đặc biệt để tạo ra sự đùa vui: Có sẵn mọi thứ nhưng hoá ra lại không có thứ gì. Vật chất đều đầy đủ cả nhưng lại cứ giảm đi, đến chỗ không còn một chút gì hết: chợ thì có đấy nhưng người sai vặt thì không có, gà vịt cũng nhiều nhưng hiềm nỗi vườn rộng rào thưa không bắt được, rau dưa đủ quả nhưng tiếc nỗi chưa đến mùa!… “Trẻ thời đi vắng, chợ thời xa Ao sâu nước cả khôn chài cá Vườn rộng rào thưa khó đuổi gà Cải chửa ra cây cà mái nụ Bầu vừa rụng rốn mướp đương hoa”. Nguyễn Khuyến đã viết về gia cảnh khó khăn của mình với một giọng thơ đùa vui, hóm hỉnh. Người đọc vừa mỉm cười lại vừa băn khoăn, thương cảm: Khi lui về quy ẩn, Tam Nguyên Yên Đổ thực sống kham khổ như vậy sao? Và cái “bí” của nhà chủ lên đến đỉnh điểm khi “miếng trầu là đầu câu chuyện” lúc tiếp khách cũng không có nốt: “Đầu trò tiếp khách trầu không có”. Không, như vậy thì sự thực nhà thơ sống trong những năm tháng quy ẩn không đến độ khó khăn, bức bách như thế. Có lẽ đây chỉ là những cái đùa vui, cái cớ để nói đến một điều gì bất ngờ khác. Bao nhiêu vật chất không có, ngay cả đến vật chất tối thiểu cũng không vì vậy tiếp bạn chỉ còn có mỗi cái tình. Tạo ra tình huống như vậy, vừa đùa vui, vừa nói lên sự mong ước tiếp đãi chu đáo cả vật chất lẫn tinh thần, lại vừa nhấn mạnh được cái tình. Chỉ một sự chân tình có thể đủ bù đắp những thiếu hụt vật chất:Xem thêm: Vẻ đẹp của thác núi Lư qua con mắt của thi tiên Lý Bạch“Bác đến chơi đây ta với ta” Câu thứ cuối cùng và cụm từ “ta với ta” nhấn mạnh tình cảm tri âm không cần phải vật chất đầy đủ mà chỉ cần cái tình chân thực thôi. Những người tri âm, tri kỉ có khi chỉ cần gặp nhau ngâm mấy câu thơ, đàn vài bản nhạc là đã đủ vui rồi. Tình cảm không cứ nhất thiết phải có đầy đủ vật chất mới vui là như vậy. Trong bài thơ “Qua Đèo Ngang”, bà Huyện Thanh Quan cũng nhắc đến một cụm từ “ta với ta” nhưng “ta với ta” của bà là chỉ một mình tác giả với mảnh tình riêng đầy cô đơn, trống vắng. Trong bài thơ của Nguyễn Khuyến thì ngược lại, thi nhân dùng cụm từ này để chỉ bản thân và người bạn tri âm, tri kỉ. Cái “ta với ta” của Nguyễn Khuyến ấm áp và vui vầy biết bao. Qua cách ứng xử của nhà thơ, có thể nhận thấy, với bạn, Nguyễn Khuyến rất quan tâm đến bạn, muốn tiếp bạn thật là chu đáo. Đồng thời, chúng ta cũng thấy, trong tình bạn, Nguyễn Khuyến rất coi trọng cái tình, coi trọng sự cung kính trong tình bạn. Ngôn ngữ được sử dụng trong bài thơ Bạn đến chơi nhà mang tính chất dân dã đời thường, với hầu hết là các từ thuần Việt. Cái độc đáo nhất của bài thơ là tạo nên nghịch cảnh có rất nhiều mà lại chẳng có gì nhưng thực ra là có tất cả!Xem thêm: Nêu quan điểm của em về vấn đề: tự lực cánh sinh, cần cù lao động Bài thơ “Bạn đến chơi nhà”, của Nguyễn Khuyến gieo vào lòng người đọc một thoáng mỉm cười trước sự đùa vui hóm hỉnh của thi nhân. Nhưng lắng đọng lại sau cùng là niềm xúc động vô bờ về một tình bạn chân thành, sâu sắc vượt lên cả những vật chất và những cung cách ứng xử thông thường.. Vanmau.edu.vn
Analysis of the poem "You come to visit" by Nguyen Khuyen Suggest In the treasury of Vietnamese Literature, there are many works written on the topic of friendship that touch people's hearts. The poem "You come to visit" by Nguyen Khuyen is one such work. Reading the poem, we not only feel a sincere and deep friendship but also see a witty and optimistic Nguyen Khuyen. “It's been a long time since you came to my house When children are away, the market is far away The pond is deep and the water is great for fishing Large garden fence sparse, hard chase chickens Cabbage gives birth to new eggplant buds Newly elected cord, melon or flowers At the beginning of the reception, there was no betel Come here to play with me." The poem sets up an idea by setting up a situation where there is nothing to welcome you, but still shows a deep and passionate friendship. The first verse suggests a very happy situation: After a long time, you came to my house. Nguyen Khuyen has retreated into seclusion, in the turbulent era of "There's still money, there's money, there's disciples / There's no food, there's no wine, my grandfather" it's nice to have a long-time precious friend come to your house to play. how precious it is. And in that situation, Nguyen Khuyen should have entertained his friend thoughtfully and sumptuously. See more: Expressive writing - Feelings about his beloved school But ironically, in the next six sentences, the poet Draw a very special situation to create a joke: Everything is available but it turns out there is nothing. All material things are enough but they keep decreasing, to the point where there is nothing left: the market is there but there are no errand workers, there are many chickens and ducks but unfortunately the garden is so spacious and sparse that we cannot catch vegetables and pickles. enough fruit but unfortunately it's not yet in season!… “When the children are away, the market is far away The pond is deep and the water is great for fishing Large garden fence sparse, hard chase chickens Cabbage produces eggplant buds Newly elected cord, melon or flowers". Nguyen Khuyen wrote about his difficult family situation with a humorous, humorous poetic voice. The reader both smiles and wonders and sympathizes: When he retired, did Tam Nguyen Yen Do really live such a miserable life? And the owner's "mystery" reaches its peak when "the betel is the beginning of the story" when receiving guests and is absent: "The betel is not there at the beginning of the game of receiving guests." No, then the truth is that the poet's years of seclusion were not so difficult and pressing. Perhaps these are just jokes, an excuse to talk about something else unexpected. There are no material things, not even the bare minimum, so all that's left for you is love. Creating such a situation is both humorous and fun, expressing the desire for thoughtful hospitality both materially and spiritually, and emphasizing love. Only one sincerity can be enough to make up for material shortcomings: See more: The beauty of Mount Lu waterfall through the eyes of poet Ly Bach "Uncle, come here to play with me and me" The last sentence and the phrase "me and me" emphasize that the love of friendship does not need to be materialistic, it only needs true love. Friends and confidants sometimes just need to meet each other to recite a few verses and play a few songs and it's enough to be happy. Love does not necessarily need to be full of material things to be happy. In the poem "Va Deo Ngang", Ms. Huyen Thanh Quan also mentioned the phrase "me and me" but her "me and me" refers to the author alone with his own lonely, empty love. In Nguyen Khuyen's poem, on the contrary, the poet uses this phrase to refer to himself and his confidant and confidant. Nguyen Khuyen's "me and me" is so warm and joyful. Through the poet's behavior, we can see that with you, Nguyen Khuyen is very interested in you and wants to receive you very thoughtfully. At the same time, we also see that in friendship, Nguyen Khuyen attaches great importance to love and respect in friendship. The language used in the poem You come to visit is of a rustic, everyday nature, with mostly pure Vietnamese words. The most unique thing about the poem is that it creates a lot of adversity and has nothing, but in fact it has everything! See more: State your opinion on the issue: self-reliance, hard work Poem Nguyen Khuyen's poem "Friends Come to Play" puts a smile in the reader's heart at the poet's witty banter. But what remains in the end is the boundless emotion of a sincere, deep friendship that transcends material things and common ways of behaving. Vanmau.edu.vn
Phân tích bài thơ “Câu cá mùa thu” để chứng minh cho một nhận định của Xuân Diệu: Nguyễn Khuyến là “nhà thơ của làng cảnh Việt Nam” Gợi ý Nhắc đến những bài thơ viết về mùa thu Việt Nam, người ta không thể không nhắc đến chùm ba thơ thu của nhà thơ “Tam nguyên Yên Đổ” Nguyễn Khuyến mà “Thu điếu” là bài thơ tiêu biểu nhất. Bài thơ không chỉ khắc họa bức tranh thiên nhiên, làng cảnh Bắc bộ và tâm sự sâu sắc của nhân vật trữ tình mà còn để lại ấn tượng cho người đọc nhiều thế hệ bởi sự vận dụng sáng tạo, thành công hình ảnh, ngôn ngữ văn học dân tộc. Ông xứng đáng được coi là “nhà thơ của làng cảnh Việt Nam” (Xuân Diệu). “Ao thu lạnh lẽo nước trong veo Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo Sóng biếc theo làn hơi gợn tí Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt Ngõ trúc quanh co khách vắng teo Tựa gối ôm cần lâu chẳng được Cá đâu đớp động dưới chân bèo”. “Thu điếu” là bài thơ Nguyễn Khuyến sáng tác khi đã từ quan về ở ẩn. Đọc bài thơ ta bắt gặp những hình ảnh thân thuộc vẫn thường gặp ở những vùng chiêm trũng đồng bằng Bắc bộ: Một chiếc ao thu nhỏ bé, chiếc thuyền câu cũng nhỏ, những ngõ trúc quanh co… Tình yêu thiên nhiên đất nước, tình cảm gắn bó dành cho quê hương vốn đã tiếm ẩn trong tâm hồn Nguyễn Khuyến nay được dịp “bùng nổ” mãnh liệt. Văn thơ Nguyễn Khuyên là sự kết hợp một cách nhuần nhuyễn giữa những cái tinh hoa của văn học bác học với vản học dân gian được chắt lọc từ ngàn đời của dân tộc. Văn học dân gian chính là cội nguồn nuôi dưỡng văn học dân tộc nhưng cũng chính văn học bác học với những tri thức thông minh, bác cổ đã góp phần vô cùng quan trọng giữ gìn, phát huy sáng tạo văn học, giúp cho văn học dân gian phát triển. Sự trở về Yên Đổ là một bước ngoặt quan trọng quyết định trong sự nghiệp vãn học của ông. Đó chính là sự trở về với cuộc sống của nhân dân, hoà mình vào môi trường sống, môi trường văn học vốn gần gũi với ông từ thuở lọt lòng. Nguyễn Khuyến là một trong số những nhà thơ nổi tiếng viết về nông thôn của văn học dân tộc, một nông thôn Việt Nam với đầy đủ những âm thanh và màu sắc đặc trưng từ ngàn đời, độc đáo mà gần gũi, thân quen mà đẹp đẽ đến diệu kỳ. Trong “Thu điếu”, người ta bắt gặp một chủ đề quen thuộc vẫn thường gặp trong dân gian, trong cuộc sống bình dị của người lao động: hình ảnh ngư ông, thuyền câu, ao nước. Đó cũng là những hình ảnh rất đặc trưng của quê hương ông, vùng đồng bằng chiêm trũng Hà Nam, đặc trưng của vùng đồng bằng chiêm trũng Bắc Bộ. Trong một không gian nhỏ nhắn, bình lặng, bài thơ không gợi nhưng cũng làm hiện lên hình ảnh nhà thơ trong dáng hình của một ngư ông – một người nông dân thực thụ. Con người và thiên nhiên hài hoà trong bức tranh thu tĩnh lặng. Khí thu buồn, ấy là chất thu đặc trưng tự ngàn đời và đến nay, nó lại tiếp tục xuất hiện trong bài thơ thu của Nguyễn Khuyến nhưng để rồi buồn theo điệu buồn của riêng nó, điệu buồn của cảnh và của người ngoạn cảnh. Những âm thanh và hình ảnh vốn quen thuộc của mùa thu lại tiếp tục được miêu tả trong sự chuyển động của làn nước và đặc biệt là chiếc lá thu:Xem thêm: Bài văn tả cây bàng trường em“Sóng biếc theo làn hơi gợn tí Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt Ngõ trúc quanh co khách vắng teo’’ Sóng cũng chỉ “Theo làn hơi gợn tí” bởi có lẽ vì gió rất nhẹ. Gió nhẹ hợp với khí thu và cũng bởi cho khỏi phá tan đi cái bầu không khí tĩnh lặng vốn đang có từ ngàn đời kia. Và trong khung cảnh dường như tĩnh đến tuyệt đối ấy xuất hiện một hình ảnh rất động, dù chỉ là thoáng diễn ra rất nhanh: “Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo”. Thi sĩ Xuân Diệu đã từng viết: “Cái thú vị của bài Thu điếu ở các điệu xanh, xanh ao, xanh bờ, xanh sóng, xanh tre, xanh trời, xanh bèo, có một màu xanh vàng đâm ngang của chiếc lá thu rơi…”. “Diệp lạc tri thu”. Xưa nay, nhìn chiếc lá vàng rơi người ta biết mùa thu đang về. Mùa thu của Nguyễn Khuyến cũng vậy. Ông cảm nhận mùa thu qua cái lạnh và tĩnh của làn nước mùa thu, của làn gió thu se lạnh và ông cũng không quên đưa vào đó một chiếc lá thu “khẽ đưa vèo”. Đó là một khoảnh khắc diễn ra rất nhanh mà dường như người ta không chỉ nhìn thấy bằng mắt thường mà còn phải bằng một tâm hồn nhạy cảm nắm bắt lấy cái hồn của tạo vật. Bầu trời mùa thu cũng là hình ảnh rất hay được đưa vào trong thơ Nguyễn Khuyến. Ta đã bắt gặp hình ảnh “Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao” trong “Thu vịnh”, và “Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt” trong cặp mắt của nhân vật trữ tình trong “Thu ẩm” và ở đây là “Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt”. Cũng giống như chiếc lá vàng, bầu trời thu cũng trở thành một nét đặc trưng cho mùa thu Việt Nam xứ Bắc. Bầu trời mùa thu dường như được đẩy lên, cao hơn, trong hơn nhưng cũng vì thế mà sáng và nhẹ nhàng hơn. Khí thu lạnh, bầu trời thu buồn không làm mất đi vẻ đẹp của cảnh vật cũng như không làm mất đi vẻ đẹp của bầu trời mùa thu. Nó không gay gắt như mùa hè, không u ám như mùa đông, mà với những áng mây trôi lơ lửng dường như bầu không khí mùa thu còn khiến bầu trời trở nên cao hơn, trong hơn và xanh hơn nữa. Đặt trong khung cảnh như vậy, con đường làng vốn đã vắng vẻ nay lại càng trở nên vắng vẻ, quạnh quẽ hơn. Không có chút bóng dáng của con người. Chỉ có hình ảnh ngư ông được hiện lên từ trong câu chữ khiến cho “Thu điếu” gần như trở thành một bài thơ dành trọn vẹn cho bức tranh mùa thu. Nhà thơ vào vai một ngư ông nhưng rồi một cách không cố ý lại biến mình thành người ngoạn cảnh, để rồi, thu vào tầm mắt tất cả hồn cốt của mùa thu Bắc Bộ. Người say sưa ngoạn cảnh bởi có tình yêu đối với thiên nhiên, đất nước sâu sắc, bởi mùa thu xứ Bắc đẹp, thanh bình và thu hút lòng người và cũng bởi người ngoạn cảnh trong lòng đang có nhiều tâm trạng, hoà mình với thiên nhiên, đó cũng là bởi, người đi câu cá nhưng lại là “đi câu” sự thanh thản trong tâm hồn. Bài thơ mang tựa đề “Thu điếu” (Câu cá mùa thu) nhưng mãi đến cuối bài thơ mới xuât hiện người đi câu:Xem thêm: Bình giảng bài thơ “Thương vợ" của Tú Xương“Tựa gối buông cần lâu chẳng được Cá dâu đớp động dưới chân bèo” Hình ảnh con người ở trong tư thế bất động, như chạm khắc vào thiên nhiên, hài hoà với thiên nhiên thành một khối thống nhất, tĩnh lặng. Người đi câu chăm chú với suy tư của mình đến mức dường như quên mất rằng mình đang đi câu. Chỉ đến khi tiếng “cá đâu đớp động dưới chân bèo” mới khiến cho ngư ông chợt tỉnh, kéo ông trở về với hiện thực. Chỉ là một tiếng cá đớp động dưới chân bèo nhưng lại đủ sức kéo con người trở lại với hiện thực chứng tỏ bức tranh thu đó phải tĩnh lặng lắm và con người lòng cũng đang rất nhiều tâm sự. Đó là tâm sự thầm kín của một người luôn nặng trĩu suy tư về quê hương, đất nước, về trách nhiệm của bản thân đối với quê hương đất nước mình. Người đã nén cả một nhân cách lớn, một hồn thơ lớn một nỗi đau lớn vào tiếng cuốc nhớ nước thảm thiết làm chảy máu cả tâm can người đọc hôm nay. “Có phải tiếc xuân mà đứng gọi Hay là nhớ nước vẫn nằm mơ”. “Câu cá mùa thu” là một bài thơ tả cảnh ngụ tình đặc sắc của Nguyễn Khuyến. Cảnh sắc mùa thu quê hương được miêu tả bằng những gam màu đậm nhạt, những nét vẽ xa gần, tinh tế gợi cảm. Bài thơ dựng lên bức tranh thiên nhiên đặc trưng của vùng đồng bằng Bắc bộ với rất nhiều nét thanh bình, những ấn tượng về một mùa thu đẹp và buồn. Nguyễn Khuyến đã rất tài tình trong việc vận dụng từ ngữ “lạnh, lẽo, trong veo, bé tẻo teo” gợi tả đường nét, dáng hình, màu sắc của cảnh vật, sắc nước mùa thu; âm vang lời thơ như tiếng thu, hồn thu vọng về. Âm thanh của tiếng lá rơi đưa “vèo” trong làn gió thu, tiếng cá “đớp động” chân bèo – đó là tiếng thu dân dã quen thuộc của đồng quê đã khơi gợi trong lòng chúng ta bao hoài niệm đẹp về quê hương đất nước. Những hình ngôn từ đầy sức gợi đó không chỉ chứng minh cho tài năng nghệ thuật của Nguyễn Khuyến mà còn góp phần làm nên một bức tranh mùa thu viết về làng cảnh Việt Nam rất riêng, thật buồn và cũng thật đẹp.Xem thêm: Tả cảnh biển lúc hoàng hôn Nguyễn Khuyến yêu thiên nhiên mùa thu, yêu cảnh sắc đồng quê với tất cả tình quê nồng hậu. ông là nhà thơ của làng cảnh Việt Nam. Đọc “Thu điếu”, “Thu ẩm”, “Thu vịnh”, chúng ta yêu thêm mùa thu quê hương, yêu thêm xóm thôn đồng nội, đát nước. Với Nguyễn Khuyến, tả mùa thu, yêu mùa thu đẹp cũng là yêu quê hương đất nước. Nguyễn Khuyến là nhà thơ kiệt xuất đã chiếm một địa vị vẻ vang trong nền thơ ca cổ điển Việt Nam. Vanmau.edu.vn
Phân tích bài thơ “Câu cá mùa thu” để chứng minh cho một nhận định của Xuân Diệu: Nguyễn Khuyến là “nhà thơ của làng cảnh Việt Nam” Gợi ý Nhắc đến những bài thơ viết về mùa thu Việt Nam, người ta không thể không nhắc đến chùm ba thơ thu của nhà thơ “Tam nguyên Yên Đổ” Nguyễn Khuyến mà “Thu điếu” là bài thơ tiêu biểu nhất. Bài thơ không chỉ khắc họa bức tranh thiên nhiên, làng cảnh Bắc bộ và tâm sự sâu sắc của nhân vật trữ tình mà còn để lại ấn tượng cho người đọc nhiều thế hệ bởi sự vận dụng sáng tạo, thành công hình ảnh, ngôn ngữ văn học dân tộc. Ông xứng đáng được coi là “nhà thơ của làng cảnh Việt Nam” (Xuân Diệu). “Ao thu lạnh lẽo nước trong veo Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo Sóng biếc theo làn hơi gợn tí Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt Ngõ trúc quanh co khách vắng teo Tựa gối ôm cần lâu chẳng được Cá đâu đớp động dưới chân bèo”. “Thu điếu” là bài thơ Nguyễn Khuyến sáng tác khi đã từ quan về ở ẩn. Đọc bài thơ ta bắt gặp những hình ảnh thân thuộc vẫn thường gặp ở những vùng chiêm trũng đồng bằng Bắc bộ: Một chiếc ao thu nhỏ bé, chiếc thuyền câu cũng nhỏ, những ngõ trúc quanh co… Tình yêu thiên nhiên đất nước, tình cảm gắn bó dành cho quê hương vốn đã tiếm ẩn trong tâm hồn Nguyễn Khuyến nay được dịp “bùng nổ” mãnh liệt. Văn thơ Nguyễn Khuyên là sự kết hợp một cách nhuần nhuyễn giữa những cái tinh hoa của văn học bác học với vản học dân gian được chắt lọc từ ngàn đời của dân tộc. Văn học dân gian chính là cội nguồn nuôi dưỡng văn học dân tộc nhưng cũng chính văn học bác học với những tri thức thông minh, bác cổ đã góp phần vô cùng quan trọng giữ gìn, phát huy sáng tạo văn học, giúp cho văn học dân gian phát triển. Sự trở về Yên Đổ là một bước ngoặt quan trọng quyết định trong sự nghiệp vãn học của ông. Đó chính là sự trở về với cuộc sống của nhân dân, hoà mình vào môi trường sống, môi trường văn học vốn gần gũi với ông từ thuở lọt lòng. Nguyễn Khuyến là một trong số những nhà thơ nổi tiếng viết về nông thôn của văn học dân tộc, một nông thôn Việt Nam với đầy đủ những âm thanh và màu sắc đặc trưng từ ngàn đời, độc đáo mà gần gũi, thân quen mà đẹp đẽ đến diệu kỳ. Trong “Thu điếu”, người ta bắt gặp một chủ đề quen thuộc vẫn thường gặp trong dân gian, trong cuộc sống bình dị của người lao động: hình ảnh ngư ông, thuyền câu, ao nước. Đó cũng là những hình ảnh rất đặc trưng của quê hương ông, vùng đồng bằng chiêm trũng Hà Nam, đặc trưng của vùng đồng bằng chiêm trũng Bắc Bộ. Trong một không gian nhỏ nhắn, bình lặng, bài thơ không gợi nhưng cũng làm hiện lên hình ảnh nhà thơ trong dáng hình của một ngư ông – một người nông dân thực thụ. Con người và thiên nhiên hài hoà trong bức tranh thu tĩnh lặng. Khí thu buồn, ấy là chất thu đặc trưng tự ngàn đời và đến nay, nó lại tiếp tục xuất hiện trong bài thơ thu của Nguyễn Khuyến nhưng để rồi buồn theo điệu buồn của riêng nó, điệu buồn của cảnh và của người ngoạn cảnh. Những âm thanh và hình ảnh vốn quen thuộc của mùa thu lại tiếp tục được miêu tả trong sự chuyển động của làn nước và đặc biệt là chiếc lá thu:Xem thêm: Bài văn tả cây bàng trường em“Sóng biếc theo làn hơi gợn tí Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt Ngõ trúc quanh co khách vắng teo’’ Sóng cũng chỉ “Theo làn hơi gợn tí” bởi có lẽ vì gió rất nhẹ. Gió nhẹ hợp với khí thu và cũng bởi cho khỏi phá tan đi cái bầu không khí tĩnh lặng vốn đang có từ ngàn đời kia. Và trong khung cảnh dường như tĩnh đến tuyệt đối ấy xuất hiện một hình ảnh rất động, dù chỉ là thoáng diễn ra rất nhanh: “Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo”. Thi sĩ Xuân Diệu đã từng viết: “Cái thú vị của bài Thu điếu ở các điệu xanh, xanh ao, xanh bờ, xanh sóng, xanh tre, xanh trời, xanh bèo, có một màu xanh vàng đâm ngang của chiếc lá thu rơi…”. “Diệp lạc tri thu”. Xưa nay, nhìn chiếc lá vàng rơi người ta biết mùa thu đang về. Mùa thu của Nguyễn Khuyến cũng vậy. Ông cảm nhận mùa thu qua cái lạnh và tĩnh của làn nước mùa thu, của làn gió thu se lạnh và ông cũng không quên đưa vào đó một chiếc lá thu “khẽ đưa vèo”. Đó là một khoảnh khắc diễn ra rất nhanh mà dường như người ta không chỉ nhìn thấy bằng mắt thường mà còn phải bằng một tâm hồn nhạy cảm nắm bắt lấy cái hồn của tạo vật. Bầu trời mùa thu cũng là hình ảnh rất hay được đưa vào trong thơ Nguyễn Khuyến. Ta đã bắt gặp hình ảnh “Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao” trong “Thu vịnh”, và “Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt” trong cặp mắt của nhân vật trữ tình trong “Thu ẩm” và ở đây là “Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt”. Cũng giống như chiếc lá vàng, bầu trời thu cũng trở thành một nét đặc trưng cho mùa thu Việt Nam xứ Bắc. Bầu trời mùa thu dường như được đẩy lên, cao hơn, trong hơn nhưng cũng vì thế mà sáng và nhẹ nhàng hơn. Khí thu lạnh, bầu trời thu buồn không làm mất đi vẻ đẹp của cảnh vật cũng như không làm mất đi vẻ đẹp của bầu trời mùa thu. Nó không gay gắt như mùa hè, không u ám như mùa đông, mà với những áng mây trôi lơ lửng dường như bầu không khí mùa thu còn khiến bầu trời trở nên cao hơn, trong hơn và xanh hơn nữa. Đặt trong khung cảnh như vậy, con đường làng vốn đã vắng vẻ nay lại càng trở nên vắng vẻ, quạnh quẽ hơn. Không có chút bóng dáng của con người. Chỉ có hình ảnh ngư ông được hiện lên từ trong câu chữ khiến cho “Thu điếu” gần như trở thành một bài thơ dành trọn vẹn cho bức tranh mùa thu. Nhà thơ vào vai một ngư ông nhưng rồi một cách không cố ý lại biến mình thành người ngoạn cảnh, để rồi, thu vào tầm mắt tất cả hồn cốt của mùa thu Bắc Bộ. Người say sưa ngoạn cảnh bởi có tình yêu đối với thiên nhiên, đất nước sâu sắc, bởi mùa thu xứ Bắc đẹp, thanh bình và thu hút lòng người và cũng bởi người ngoạn cảnh trong lòng đang có nhiều tâm trạng, hoà mình với thiên nhiên, đó cũng là bởi, người đi câu cá nhưng lại là “đi câu” sự thanh thản trong tâm hồn. Bài thơ mang tựa đề “Thu điếu” (Câu cá mùa thu) nhưng mãi đến cuối bài thơ mới xuât hiện người đi câu:Xem thêm: Bình giảng bài thơ “Thương vợ" của Tú Xương“Tựa gối buông cần lâu chẳng được Cá dâu đớp động dưới chân bèo” Hình ảnh con người ở trong tư thế bất động, như chạm khắc vào thiên nhiên, hài hoà với thiên nhiên thành một khối thống nhất, tĩnh lặng. Người đi câu chăm chú với suy tư của mình đến mức dường như quên mất rằng mình đang đi câu. Chỉ đến khi tiếng “cá đâu đớp động dưới chân bèo” mới khiến cho ngư ông chợt tỉnh, kéo ông trở về với hiện thực. Chỉ là một tiếng cá đớp động dưới chân bèo nhưng lại đủ sức kéo con người trở lại với hiện thực chứng tỏ bức tranh thu đó phải tĩnh lặng lắm và con người lòng cũng đang rất nhiều tâm sự. Đó là tâm sự thầm kín của một người luôn nặng trĩu suy tư về quê hương, đất nước, về trách nhiệm của bản thân đối với quê hương đất nước mình. Người đã nén cả một nhân cách lớn, một hồn thơ lớn một nỗi đau lớn vào tiếng cuốc nhớ nước thảm thiết làm chảy máu cả tâm can người đọc hôm nay. “Có phải tiếc xuân mà đứng gọi Hay là nhớ nước vẫn nằm mơ”. “Câu cá mùa thu” là một bài thơ tả cảnh ngụ tình đặc sắc của Nguyễn Khuyến. Cảnh sắc mùa thu quê hương được miêu tả bằng những gam màu đậm nhạt, những nét vẽ xa gần, tinh tế gợi cảm. Bài thơ dựng lên bức tranh thiên nhiên đặc trưng của vùng đồng bằng Bắc bộ với rất nhiều nét thanh bình, những ấn tượng về một mùa thu đẹp và buồn. Nguyễn Khuyến đã rất tài tình trong việc vận dụng từ ngữ “lạnh, lẽo, trong veo, bé tẻo teo” gợi tả đường nét, dáng hình, màu sắc của cảnh vật, sắc nước mùa thu; âm vang lời thơ như tiếng thu, hồn thu vọng về. Âm thanh của tiếng lá rơi đưa “vèo” trong làn gió thu, tiếng cá “đớp động” chân bèo – đó là tiếng thu dân dã quen thuộc của đồng quê đã khơi gợi trong lòng chúng ta bao hoài niệm đẹp về quê hương đất nước. Những hình ngôn từ đầy sức gợi đó không chỉ chứng minh cho tài năng nghệ thuật của Nguyễn Khuyến mà còn góp phần làm nên một bức tranh mùa thu viết về làng cảnh Việt Nam rất riêng, thật buồn và cũng thật đẹp.Xem thêm: Tả cảnh biển lúc hoàng hôn Nguyễn Khuyến yêu thiên nhiên mùa thu, yêu cảnh sắc đồng quê với tất cả tình quê nồng hậu. ông là nhà thơ của làng cảnh Việt Nam. Đọc “Thu điếu”, “Thu ẩm”, “Thu vịnh”, chúng ta yêu thêm mùa thu quê hương, yêu thêm xóm thôn đồng nội, đát nước. Với Nguyễn Khuyến, tả mùa thu, yêu mùa thu đẹp cũng là yêu quê hương đất nước. Nguyễn Khuyến là nhà thơ kiệt xuất đã chiếm một địa vị vẻ vang trong nền thơ ca cổ điển Việt Nam. Vanmau.edu.vn
Phân tích bài thơ “Dọn về làng” của Nông Quốc Chấn Gợi ý Nông Quốc Chấn là nhà thơ, nhà hoạt động văn hóa, người dân tộc Tày ở Bắc Cạn. Từ một ông giáo hiền lành, sớm được giác ngộ cách mạng, được rèn luyện trong khói lửa chiến tranh, ông trở thành một cán bộ trung kiên, một nhà hoạt động văn hóa, một nhà thơ xuất sắc của Đảng và dân tộc. Bài thơ "Dọn về làng ”được sáng tác trong chiến dịch Biên giới thu – đông 1950, là tác phẩm tiêu biểu nhất của Nỏng Quốc Chấn. Nguyên tác bằng tiếng Tày, sau đó được tác giả dịch ra tiếng phổ thông theo thể thơ tự do. Nàm 1951, tại Đại hôi liên hoan học sinh sinh viên thế giới tại Béc-lin, bài thơ đã được tặng giải Nhì, đã được dịch sang tiếng Pháp, giới thiệu trên Tạp chí Châu Âu. Nhà thơ đã sử dụng biện pháp tương phản giữa quá khứ đau thương với niềm vui chiến thắng và giải phóng để ca ngợi sự hồi sinh, sự vươn dậy của quê hương và của đồng bào các dân tộc Cao-Bắc-Lạng. Mở đầu bài thơ "Dọn về làng” là tiếng gọi mẹ cất lên; gọi mẹ để báo tin vui, tin mừng chiến thắng: “Mẹ! Cao – Lạng hoàn toàn giải phóng Tây bị chết bị bắt sống hàng đàn Vệ quốc quân chiếm lại các đồn Người đông như kiến, súng đầy như củi” Đoạn thơ làm sống lại cảnh tượng chiến trường Biên giới năm 1950. Gọng kìm đường số Bốn của giặc bị chặt đứt, bị phá tung. Quân ta đánh chiếm đồn Đông Khê, tiêu diệt hai binh đoàn Sác-tông và Lơ-pa, hàng ngàn giặc Tây “bị chết bị bắt sống”. Hai so sánh “Người đông như kiến, súng đầy như củi” đã nói lên thật hay sức mạnh và khí thế chiến đấu, chiến thắng của quân và dân ta thuở ấy. Từ niềm vui chiến thắng, đứa con đau đớn nhớ lại những năm dài gian khổ, đau thương dưới ách kìm kẹp, chiếm đóng của lũ giặc Pháp hung tàn.Xem thêm: Kể về dì của em và nghề nghiệp của dì Trên bước đường trở về làng cũ để “sửa nhà phát cỏ”, để “Cày ruộng vườn trồng lúa ngô khoai”, đứa con bồi hồi nhớ lại: “Mấy tháng năm qua quên tết tháng giêng, quên rằm tháng bảy Chạy hết núi khe. Cay đắng đủ mùi”. Những lễ tết lâu đời phải “quên” đi! Những phong tục tập quán tốt đẹp của dân tộc phải “quên” đi. Bàn thờ tổ tiên nguội lạnh hương khói. Trải bao cay đắng vì phải chạy giặc triền miên: “Chạy hết núi lại khe,cay đắng đủ mùi” Quên sao được những kỉ niệm thương đau một thời gian khổ với bao thiên tai, địch noạ. Mưa rừng mù mịt, gió bão, sấm sét, lán sụp, cửa nát, vắt bám đầy chân. Giặc lùng sục, đốt lán, cướp bóc, gây ra bao thảm cảnh: “Súng nổ kia! Giặc Tây lại đến lùng Từng cái lán nó đốt đi trơ trụi Nó vơ hết áo quần trong túi…” Đoạn thơ như một đoạn phim ghi lại cảnh chạy loạn giữa rừng sâu của đồng bào các dân tộc vùng biên giới phía Bắc đất nước ta trong những năm đầu kháng chiến chống Pháp. Biện pháp liệt kê và tự sự mở ra một không gian nghệ thuật với bao chi tiết hiện thực rất sống và cảm động. Cảnh người mẹ chạy giặc, vừa địu con, vẫy em, vừa “Tay dắt bà, vai đeo đầy tay nải – Bà lòa mắt không biết lối bước đi”. Cảnh người cha bị giặc bắt, “Cha chửi Việt gian, cha đánh lại Tây” rồi bị giặc giết một cách dã man: “Súng nổ ngay đì dùng một loạt, Cha ngã xuống nằm lăn trên mặt đất” Cảnh chôn cất người chồng, người cha thân yêu đầy nước mắt: “Lán anh em rải rác không biết nơi tìm Không ván, không người đưa cha đi chôn cất Mẹ tháo khăn phủ mặt cho chồng, Xem thêm: Kể lại những kỉ niệm ngày đầu tiên đi học Con cởi áo liệm thân cho bố, Mẹ con ẵm cha đi nằm chân rừng Máu đầy tay, nước tràn đầy mặt…” Tất cả những cảnh đau đớn và thương tâm ấy được nhà thơ tái hiện lại một cách chân thực với nhiều máu và nước mắt. Sau tiếng khóc nghẹn ngào là tiếng thét căm thù uất hận vang lên: “Mày sẽ chết! Thằng giặc Pháp hung tàn Băm xương thịt mày, tao mới hả” Qua đó, ta càng thấy rõ: máu không thể nào dìm được chân lí; súng đạn của quân giặc cướp nước không thể nào khuất phục được nhân dân ta. Phần thứ hai của bài thơ nói lên niềm vui giải phóng, quê hương được hổi sinh, sức sống của dân tộc trỗi dậy vô cùng mạnh mẽ. Có bao âm thanh giữa không gian rộng lớn Cao – Bắc – Lạng. Có tiếng “cười vang”,tiếng “người nói”, tiếng cười con trẻ “ríu rít” cắp sách đến trường. Có tiếng ô tô “kêu vang”; có tiếng gà gáy, tiếng chó sủa. Có bao hình ảnh náo nức đáng yêu: “Hôm nay, Cao-Bắc-Lạng cười vang, Dọn lán, rời rừng, người xuống làng. Người nói cỏ lay trong ruộng rậm Cuốc đất dọn cỏ mẹ khuyên con” Cuộc sống hồi sinh, cuộc sống bình yên đã trở lại với bà con làng bản: “Mờ mờ khói bếp bay trên mái nhà lá". Phải nhiều máu đổ xương tan mới có ngọn khói lam chiều đáng yêu ấy. Nếu ở phần đầu bài thơ, tác giả nhắc lai sáu lẩn chữ “không" (không biết lối bước đi, cha không biết nói rối, không ai chống gậy khi bà cụ qua đời, không biết nơi tìm, không ván không người đưa cha đi chôn cất) để phản ánh bao nỗi đau đè nặng lòng người, thì ở đoạn hai, điệp ngữ “không” bốn lần xuất hiện để làm nổi bật một hiện thực kháng chiến, đó là sự hồi sinh và sự vươn mình đứng thẳng dậy của dân tộc ta, của đồng bào các dân tộc Cao – Bắc – LạngXem thêm: Khổ cuối trong bài thơ Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận đã kết lại bài thơ bằng những hình ảnh huy hoàng, mạnh mẽ thể hiện sức mạnh và vẻ đẹp của con người. Em hãy viết đoạn văn phân tích khổ thơ này để làm rõ nhận định đó– Từ nay không ngập cỏ lối đi. – Hổ không dám đẻ con trong vườn chuối. – Quả trong vườn không lo tự chin, tự rụng. – Ruộng sẽ không thành nơi máu chảy thành vũng. Một lần nữa, Nông Quốc Chấn đã thành công ở phép liệt kê, nêu lên hàng loạt chi tiết rất thực, rất sống để thể hiện niềm vui chiến thắng và sự hồi sinh của quê hương sau ngày được giải phóng. Bốn câu thơ cuối bài là lời từ biệt mẹ già của đứa con lên đường đi chiến đấu. Mẹ ở lại hậu phương, con ra tiền tuyến với quyết tâm “đuổi hết” giặc Pháp, giặc Mỹ. Hình ảnh “Mặt trời lên sáng rõ” mang hàm nghĩa nói vể sự thắng lợi của kháng chiến, của cách mạng, sự đổi thay to lớn và niềm vui dâng lên trong lòng người. Lời mẹ dặn biết bao yêu thương thiết tha, đằm thắm. Cuộc lên đường đầy khí thế và dào dạt niềm tin: “Mặt trời lên sáng rõ rồi mẹ ạ! Con đi bộ đội, mẹ ở lại nhà Giặc Pháp, Mỹ còn giết người, cướp của trên đất ta Đuổi hết nó di, con sẽ về trông mẹ” Cái hay của “Dọn về làng ”là ở giọng thơ mộc mạc bình dị với bao chi tiết chọn lọc cảm động. Nỗi đau thương thời giặc giã, hình ảnh người bà, người cha, người mẹ trong khói lửa đau thương, niềm vui giải phóng và hình ảnh quê hương hồi sinh được nói lên một cách thật giản dị, cảm động đáng yêu. “Dọn về làng” là một trong những thành tựu đáng tự hào của thơ ca kháng chiến thời chống Pháp. Tự hào hơn nữa vì đó là lời ca, bông hoa rừng đẹp và thơm của đứa con thân yêu người dân tộc Tày. Hơn nửa thế kỉ sau, bài thơ vẫn để lại cho chúng ta nhiều xúc động. Vanmau.edu.vn
Phân tích bài thơ “Dọn về làng” của Nông Quốc Chấn Gợi ý Nông Quốc Chấn là nhà thơ, nhà hoạt động văn hóa, người dân tộc Tày ở Bắc Cạn. Từ một ông giáo hiền lành, sớm được giác ngộ cách mạng, được rèn luyện trong khói lửa chiến tranh, ông trở thành một cán bộ trung kiên, một nhà hoạt động văn hóa, một nhà thơ xuất sắc của Đảng và dân tộc. Bài thơ "Dọn về làng ”được sáng tác trong chiến dịch Biên giới thu – đông 1950, là tác phẩm tiêu biểu nhất của Nỏng Quốc Chấn. Nguyên tác bằng tiếng Tày, sau đó được tác giả dịch ra tiếng phổ thông theo thể thơ tự do. Nàm 1951, tại Đại hôi liên hoan học sinh sinh viên thế giới tại Béc-lin, bài thơ đã được tặng giải Nhì, đã được dịch sang tiếng Pháp, giới thiệu trên Tạp chí Châu Âu. Nhà thơ đã sử dụng biện pháp tương phản giữa quá khứ đau thương với niềm vui chiến thắng và giải phóng để ca ngợi sự hồi sinh, sự vươn dậy của quê hương và của đồng bào các dân tộc Cao-Bắc-Lạng. Mở đầu bài thơ "Dọn về làng” là tiếng gọi mẹ cất lên; gọi mẹ để báo tin vui, tin mừng chiến thắng: “Mẹ! Cao – Lạng hoàn toàn giải phóng Tây bị chết bị bắt sống hàng đàn Vệ quốc quân chiếm lại các đồn Người đông như kiến, súng đầy như củi” Đoạn thơ làm sống lại cảnh tượng chiến trường Biên giới năm 1950. Gọng kìm đường số Bốn của giặc bị chặt đứt, bị phá tung. Quân ta đánh chiếm đồn Đông Khê, tiêu diệt hai binh đoàn Sác-tông và Lơ-pa, hàng ngàn giặc Tây “bị chết bị bắt sống”. Hai so sánh “Người đông như kiến, súng đầy như củi” đã nói lên thật hay sức mạnh và khí thế chiến đấu, chiến thắng của quân và dân ta thuở ấy. Từ niềm vui chiến thắng, đứa con đau đớn nhớ lại những năm dài gian khổ, đau thương dưới ách kìm kẹp, chiếm đóng của lũ giặc Pháp hung tàn.Xem thêm: Kể về dì của em và nghề nghiệp của dì Trên bước đường trở về làng cũ để “sửa nhà phát cỏ”, để “Cày ruộng vườn trồng lúa ngô khoai”, đứa con bồi hồi nhớ lại: “Mấy tháng năm qua quên tết tháng giêng, quên rằm tháng bảy Chạy hết núi khe. Cay đắng đủ mùi”. Những lễ tết lâu đời phải “quên” đi! Những phong tục tập quán tốt đẹp của dân tộc phải “quên” đi. Bàn thờ tổ tiên nguội lạnh hương khói. Trải bao cay đắng vì phải chạy giặc triền miên: “Chạy hết núi lại khe,cay đắng đủ mùi” Quên sao được những kỉ niệm thương đau một thời gian khổ với bao thiên tai, địch noạ. Mưa rừng mù mịt, gió bão, sấm sét, lán sụp, cửa nát, vắt bám đầy chân. Giặc lùng sục, đốt lán, cướp bóc, gây ra bao thảm cảnh: “Súng nổ kia! Giặc Tây lại đến lùng Từng cái lán nó đốt đi trơ trụi Nó vơ hết áo quần trong túi…” Đoạn thơ như một đoạn phim ghi lại cảnh chạy loạn giữa rừng sâu của đồng bào các dân tộc vùng biên giới phía Bắc đất nước ta trong những năm đầu kháng chiến chống Pháp. Biện pháp liệt kê và tự sự mở ra một không gian nghệ thuật với bao chi tiết hiện thực rất sống và cảm động. Cảnh người mẹ chạy giặc, vừa địu con, vẫy em, vừa “Tay dắt bà, vai đeo đầy tay nải – Bà lòa mắt không biết lối bước đi”. Cảnh người cha bị giặc bắt, “Cha chửi Việt gian, cha đánh lại Tây” rồi bị giặc giết một cách dã man: “Súng nổ ngay đì dùng một loạt, Cha ngã xuống nằm lăn trên mặt đất” Cảnh chôn cất người chồng, người cha thân yêu đầy nước mắt: “Lán anh em rải rác không biết nơi tìm Không ván, không người đưa cha đi chôn cất Mẹ tháo khăn phủ mặt cho chồng, Xem thêm: Kể lại những kỉ niệm ngày đầu tiên đi học Con cởi áo liệm thân cho bố, Mẹ con ẵm cha đi nằm chân rừng Máu đầy tay, nước tràn đầy mặt…” Tất cả những cảnh đau đớn và thương tâm ấy được nhà thơ tái hiện lại một cách chân thực với nhiều máu và nước mắt. Sau tiếng khóc nghẹn ngào là tiếng thét căm thù uất hận vang lên: “Mày sẽ chết! Thằng giặc Pháp hung tàn Băm xương thịt mày, tao mới hả” Qua đó, ta càng thấy rõ: máu không thể nào dìm được chân lí; súng đạn của quân giặc cướp nước không thể nào khuất phục được nhân dân ta. Phần thứ hai của bài thơ nói lên niềm vui giải phóng, quê hương được hổi sinh, sức sống của dân tộc trỗi dậy vô cùng mạnh mẽ. Có bao âm thanh giữa không gian rộng lớn Cao – Bắc – Lạng. Có tiếng “cười vang”,tiếng “người nói”, tiếng cười con trẻ “ríu rít” cắp sách đến trường. Có tiếng ô tô “kêu vang”; có tiếng gà gáy, tiếng chó sủa. Có bao hình ảnh náo nức đáng yêu: “Hôm nay, Cao-Bắc-Lạng cười vang, Dọn lán, rời rừng, người xuống làng. Người nói cỏ lay trong ruộng rậm Cuốc đất dọn cỏ mẹ khuyên con” Cuộc sống hồi sinh, cuộc sống bình yên đã trở lại với bà con làng bản: “Mờ mờ khói bếp bay trên mái nhà lá". Phải nhiều máu đổ xương tan mới có ngọn khói lam chiều đáng yêu ấy. Nếu ở phần đầu bài thơ, tác giả nhắc lai sáu lẩn chữ “không" (không biết lối bước đi, cha không biết nói rối, không ai chống gậy khi bà cụ qua đời, không biết nơi tìm, không ván không người đưa cha đi chôn cất) để phản ánh bao nỗi đau đè nặng lòng người, thì ở đoạn hai, điệp ngữ “không” bốn lần xuất hiện để làm nổi bật một hiện thực kháng chiến, đó là sự hồi sinh và sự vươn mình đứng thẳng dậy của dân tộc ta, của đồng bào các dân tộc Cao – Bắc – LạngXem thêm: Khổ cuối trong bài thơ Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận đã kết lại bài thơ bằng những hình ảnh huy hoàng, mạnh mẽ thể hiện sức mạnh và vẻ đẹp của con người. Em hãy viết đoạn văn phân tích khổ thơ này để làm rõ nhận định đó– Từ nay không ngập cỏ lối đi. – Hổ không dám đẻ con trong vườn chuối. – Quả trong vườn không lo tự chin, tự rụng. – Ruộng sẽ không thành nơi máu chảy thành vũng. Một lần nữa, Nông Quốc Chấn đã thành công ở phép liệt kê, nêu lên hàng loạt chi tiết rất thực, rất sống để thể hiện niềm vui chiến thắng và sự hồi sinh của quê hương sau ngày được giải phóng. Bốn câu thơ cuối bài là lời từ biệt mẹ già của đứa con lên đường đi chiến đấu. Mẹ ở lại hậu phương, con ra tiền tuyến với quyết tâm “đuổi hết” giặc Pháp, giặc Mỹ. Hình ảnh “Mặt trời lên sáng rõ” mang hàm nghĩa nói vể sự thắng lợi của kháng chiến, của cách mạng, sự đổi thay to lớn và niềm vui dâng lên trong lòng người. Lời mẹ dặn biết bao yêu thương thiết tha, đằm thắm. Cuộc lên đường đầy khí thế và dào dạt niềm tin: “Mặt trời lên sáng rõ rồi mẹ ạ! Con đi bộ đội, mẹ ở lại nhà Giặc Pháp, Mỹ còn giết người, cướp của trên đất ta Đuổi hết nó di, con sẽ về trông mẹ” Cái hay của “Dọn về làng ”là ở giọng thơ mộc mạc bình dị với bao chi tiết chọn lọc cảm động. Nỗi đau thương thời giặc giã, hình ảnh người bà, người cha, người mẹ trong khói lửa đau thương, niềm vui giải phóng và hình ảnh quê hương hồi sinh được nói lên một cách thật giản dị, cảm động đáng yêu. “Dọn về làng” là một trong những thành tựu đáng tự hào của thơ ca kháng chiến thời chống Pháp. Tự hào hơn nữa vì đó là lời ca, bông hoa rừng đẹp và thơm của đứa con thân yêu người dân tộc Tày. Hơn nửa thế kỉ sau, bài thơ vẫn để lại cho chúng ta nhiều xúc động. Vanmau.edu.vn
Phân tích bài thơ “Hầu Trời” của Tản Đà thi sĩ Gợi ý Bài thơ "Hầu Trời" của Tản Đà có sự khác biệt về số câu ở hai văn bản. Bản do Nguyễn Nghiệp sưu tầm, tuyển chọn – Nhà xuất bản Văn học, 1982 có 120 câu. Bản do Nguyễn Khắc Xương sưu tập, chú thích – Nhà xuất bản Văn học, 1986 chỉ có 114 câu. Chúng tôi theo bản thứ nhất. "Hầu Trời" là một bài thơ rất đặc sắc và độc đáo; độc đáo ở thi đề, độc đáo ở cảm hứng, độc đáo ở nội dung bài thơ. "Hầu Trời" được viết theo thể thơ thất ngôn trường thiên, bên cạnh những khổ thơ bốn câu, tác giả đan xen vào những đoạn thơ sáu câu, mười câu, mười hai câu… mang dáng dấp những bài hành nhỏ. Cấu trúc đa dạng ấy đã mở ra một không gian nghệ thuật để Tản Đà bộc lộ cái ngông của mình, và cho nó "tung hoành" nơi Thiên môn đế khuyết. 1. Phần đầu bài thơ kể chuyện lúc canh ba, thi sĩ ngâm thơ nơi hạ giới, "tiếng ngâm vang cả sông Ngân Hà", đã "làm Trời mất ngủ…". Trời bực mình bèn sai hai cô tiên bay xuống triệu chàng thi sĩ lên Thiên môn. Bốn câu thơ mở đầu, Tản Đà dùng bốn chữ "thật" để khẳng định đó là một chuyện thật đã xảy ra "sướng lạ lùng". Trong bài "Tìm hiểu Tản Đà", thi sĩ Xuân Diệu viết: Bài "Hầu Trời", tôi phục nhất đoạn mở: "Đêm qua chẳng biết có hay không Chẳng phải hoảng hốt không mơ mộng! Thật hồn! Thật phách! Thật thân thể! Thật được lên tiên – sướng lạ lùng!” Vào đột ngột câu đầu cũng ra vẻ đặt vấn đề cho nó khách quan, nghi ngờ theo khoa học, để ba câu sau toàn là khẳng định, ăn hiếp người ta". Phái viên của Trời là hai nàng tiên "miệng cười mủm mỉm",… Thi sĩ như được chắp cánh cùng bay lên Trời: "Theo hai cô tiên lên đường mây – Vù vù không cánh mà như bay". Nhìn thấy Thiên môn tráng lệ, chàng thi sĩ vô cùng ngạc nhiên tự hỏi: “Cửa son đỏ chói oai rực rỡ! Thiên môn đế khuyết như là đây?" 2. Vị khách làm thơ nơi hạ giới được Trời và chư tiên trọng thị. Sau khi thi lễ "sụp xuống lạy", Trời ân cần sai tiên nữ "dắt lôi dậy", rồi mời thi sĩ "ngồi chơi" trên "Ghế bành như tuyết, vân như mây". Tiên đồng pha nước uống. Chư tiên kéo đến mỗi lúc một thêm đông. Đến để xem mặt người trần? Đến để đón tiếp với lòng hiếu khách? Hay đến để dự cuộc bình thơ, bình văn?Xem thêm: Phân tích vẻ đẹp của hai câu thơ sau: "Muốn vượt bể Đông theo cánh gió/ Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi”. (“Lưu biệt khi xuất dương” - Phan Bội Châu) “Tiên đồng pha nước uống vừa xong, Bỗng thấy chư tiên đến thật đông, Chung quanh bày ghế ngồi la liệt, Tiên bà, tiên cô, cùng tiên ông." 3. Cuộc đọc văn và bình văn nơi Thiên môn đế khuyết được Tản Đà kể lại thật sinh động và hấp dẫn. Thính giả gồm có Trời và đông đảo chư tiên. Sau khi nghe lời truyền bảo của Trời, văn sĩ cung kính thưa: "Dạ, bẩm lạy Trời, con xin đọc", thì cuộc đọc văn, bình văn bắt đầu. Văn sĩ "Đọc hết văn vần sang vân xuôi – Hết văn thuyết lí lại văn chơi", càng đọc càng "đắc ý", càng "tốt hơi", nhất là khi được nhấp giọng bằng "chè Trời". Thính giả và văn sĩ trở thành bạn tri âm trong cuộc đọc văn, bình văn. Trời và chư tiên đều say mê thưởng thức nghệ thuật. Văn sĩ cao hứng đọc "ran cung mây". Chẳng có rượu và hoa… nhưng biết bao thú vị. Trời nghe văn nghe thơ "cũng lấy làm hay". Chư tiên mỗi người có một cách biểu cảm riêng. Có nàng tiên thì "nở dạ" hoặc "lè lưỡi". Có người đẹp nơi Thiên môn thì xúc động quá mà "chau đôi mày". Có nhiều nàng tiên bị thơ văn lôi cuốn "lắng tai đứng". Ai cũng nhiệt thành "cùng vỗ tay" tán thưởng. Hỏi đã có văn sĩ nào xưa nay được hưởng hạnh phúc, được đọc văn, đọc thơ trước một thính giả nơi Thiên môn đế khuyết như vậy? Văn sĩ tự hào "báo cáo" với Trời về những tác phẩm của mình đã được in: …Hai quyển Khối tình văn thuyết lí Hai Khối tỉnh con là văn chơi Thần tiềny Giấc mộng văn tiểu thuyết Đài gương, Lên sáu văn vị đời Quyển Đàn bà Tàu lối văn dich Đến quyển Lên tám nay là mười… Trời "bật buồn cười" khen ngợi: "Văn đã giàu thay lại lắm lối" vì phong phú về thể cách, đa dạng về thể loại. Hạnh phúc biết bao khi văn sĩ được các tiên nữ gọi bằng "anh": l Chư tiên ao ước tranh nhau dặn: – "Anh gánh lên đây bún chợ Trời!". Cách kể chuyện mộc mạc tự nhiên, cách sử dụng ngồn từ, giọng diệu hóm hỉnh, tác giả đã làm nổi bật phong cách "bình dân" của ông Trời và các chư tiên, cùng với cái điệu bộ khúm núm và "thật thà" của văn sĩ. Qua cảnh đọc văn hầu Trời, Tản Đà đã phản ánh thực trạng xã hội lúc bấy giờ thật đáng buồn, nhất là tầng lớp văn sĩ như ông:Xem thêm: Bình giảng khố cuối bài thơ Tràng Giang của Huy Cận: “Lớp lớp mây cao đùn núi bạc, Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa, Lòng quê dợn dợn vời con nước, Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà” Bán văn buôn chữ kiếm tiền tiêu. Quanh năm luống những lo văn ế, Thân thể xem thua chú hát chèo! (Lo văn ế) Đồng thời ông chỉ rõ, trong xã hội thực dân nửa phong kiến ấy đã có mấy tri âm hiểu và biết trân trọng những tác phẩm văn chương của ông, vì thế ông phải lên hầu Trời, đọc văn cho Trời và chư tiên thưởng thức. Nguyễn Khắc Hiếu đã tự hào bộc lộ cái bản ngã, cái tài năng đích thực của mình trước con mắt đồng loại! Trời với con mắt xanh, với sự thẩm văn tinh tế đã dành cho văn sĩ lần đầu mới gặp những lời ngợi khen vô giá: Trời lại phê cho: ‘Văn thật tuyệt! Văn trần được thế chắc có ít! Nhời văn chuốt đẹp như sao băng! Khí văn hùng mạnh như mây chuyển Êm như gió thoảng, tinh như sương! Đầm như mưa sa, lạnh như tuyết!…" Sao băng, mây, gió, sương, mưa, tuyết… được Trời đem ra so sánh để ngợi ca nhời văn, khí văn của chàng văn sĩ. Cách kể, cách tả của tác giả thật tài hoa và có duyên. Cái "tôi" bản ngã được khẳng định. 4. Sau cuộc đọc văn, bình văn là cuộc hầu chuyện với Trời của văn sĩ: Dạ, bẩm lạy Trời con xin thưa Con tên Khắc Hiếu, họ là Nguyễn… Trời "ngợ", rồi sai Thiên Tào lấy sổ xét: "Bẩm quả có tên Nguyễn Khắc Hiếu – Đày xuống hạ giới vì tội ngông". Nhưng rồi Trời bao dung và ân cần an ủi, khích lệ. Trời không "đày" mà giao phó cho văn sĩ một trọng trách là đem việc "thiên lương" thuật lại cho "đời hay", cho mọi người cùng biết. Văn sĩ phải gánh trọng trách đem "thiên lương" giáo hoá người đời, để trần gian tươi đẹp hơn, yên vui hơn. Bài thơ "Hầu Trời" không chỉ mang cảm hứng lãng mạn, mà còn hàm chứa yếu tố hiện thực, đó là đoạn thơ 16 câu văn sĩ thưa với Trời về thân phận mình bấy lâu nay nơi hạ giới: rất nghèo khó, không có một thước đất cắm dùi, vốn liếng chỉ "còn một bụng văn"; kế sinh nhai ngày một thêm chật vật:Xem thêm: Phân tích để làm nổi bật cảm hứng lãng mạn trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng “…Giấy người, mực người, thuê người in Mướn cửa hàng người bán phường phố Văn chương hạ giới rẻ như bèo Kiếm được đồng lãi thực là khó Kiếm được thời ít, tiêu thời nhiều Làm mãi quanh năm chẳng đủ tiêu… “ Khi nghe văn sĩ lo lắng thưa: Trời lại sai con việc nặng quá – Biết có làm nổi mà dám theo?", thì Trời đã động viên và hứa: “Rằng: "Con không nói, Trời đã biết, Trời dẫu ngồi cao, Trời thấu hết. Cho con cứ về mà làm ăn, Lòng thông chớ ngại chi sương tuyết, Cố xong công việc của Trời sai, T’rời sẽ cho con về đế khuyết…". 5. Đoạn cuối bài thơ kể chuyện Trời sai Khiên Ngưu đóng xe đưa Trích tiên trở lại trần gian. Cuộc tiễn đưa của chư tiên vừa lưu luyến, vừa trang trọng: "Hai hàng lụy biệt giọt sương rơi". Khi trăng tà non Đoài, tiếng gà gáy xao xác, nhà thơ đã về tới sân nhà. cảm thấy cô đơn và ngậm ngùi. Vừa tiếc rẻ, vừa mong ước: “Giữa sân con đứng riêng ngậm ngùi. Một năm ba trăm sáu mươi đêm, Sao được đêm đêm lân hầu Trời!" Bài "Hầu Trời" như một truyện cổ tích được viết bằng thơ. Nhân vật Trời và các chư tiên rất giản dị, bình dân, thân mật và dễ mến. Bài thơ cho ta thấy Tản Đà có một trí tưởng tượng phong phú, một vốn từ ngữ giàu có, nhất là khi ông nói về Trời, về các chư tiên và cách sống của họ. Đoạn thơ nói về cuộc đọc văn và bình văn, về ngôn ngữ đối thoại giữa văn sĩ với Trời và các chư tiên được kể lại rất sinh động và lí thú. Có lúc chúng ta cảm thấy cuộc bình văn hình như đang diễn ra giữa thanh thiên bạch nhật nơi cõi đời mà mình từng được tham dự. "Hầu Trời" là một bài thơ độc đáo và đặc sắc, tuy khá dài nhưng bố cục chặt chẽ, giọng thơ liền mạch, nhất khí, cảnh và tình rất tự nhiên, diễn biến theo câu chuyện, lôi cuốn người đọc từ đầu đến cuối. Bài thơ trường thiên "Hầu Trời" giúp ta cảm nhận thêm chất tài tử, tài hoa và cái ngông của Tản Đà thi sĩ. Vanmau.edu.vn
Phân tích bài thơ “Hầu Trời” của Tản Đà thi sĩ Gợi ý Bài thơ "Hầu Trời" của Tản Đà có sự khác biệt về số câu ở hai văn bản. Bản do Nguyễn Nghiệp sưu tầm, tuyển chọn – Nhà xuất bản Văn học, 1982 có 120 câu. Bản do Nguyễn Khắc Xương sưu tập, chú thích – Nhà xuất bản Văn học, 1986 chỉ có 114 câu. Chúng tôi theo bản thứ nhất. "Hầu Trời" là một bài thơ rất đặc sắc và độc đáo; độc đáo ở thi đề, độc đáo ở cảm hứng, độc đáo ở nội dung bài thơ. "Hầu Trời" được viết theo thể thơ thất ngôn trường thiên, bên cạnh những khổ thơ bốn câu, tác giả đan xen vào những đoạn thơ sáu câu, mười câu, mười hai câu… mang dáng dấp những bài hành nhỏ. Cấu trúc đa dạng ấy đã mở ra một không gian nghệ thuật để Tản Đà bộc lộ cái ngông của mình, và cho nó "tung hoành" nơi Thiên môn đế khuyết. 1. Phần đầu bài thơ kể chuyện lúc canh ba, thi sĩ ngâm thơ nơi hạ giới, "tiếng ngâm vang cả sông Ngân Hà", đã "làm Trời mất ngủ…". Trời bực mình bèn sai hai cô tiên bay xuống triệu chàng thi sĩ lên Thiên môn. Bốn câu thơ mở đầu, Tản Đà dùng bốn chữ "thật" để khẳng định đó là một chuyện thật đã xảy ra "sướng lạ lùng". Trong bài "Tìm hiểu Tản Đà", thi sĩ Xuân Diệu viết: Bài "Hầu Trời", tôi phục nhất đoạn mở: "Đêm qua chẳng biết có hay không Chẳng phải hoảng hốt không mơ mộng! Thật hồn! Thật phách! Thật thân thể! Thật được lên tiên – sướng lạ lùng!” Vào đột ngột câu đầu cũng ra vẻ đặt vấn đề cho nó khách quan, nghi ngờ theo khoa học, để ba câu sau toàn là khẳng định, ăn hiếp người ta". Phái viên của Trời là hai nàng tiên "miệng cười mủm mỉm",… Thi sĩ như được chắp cánh cùng bay lên Trời: "Theo hai cô tiên lên đường mây – Vù vù không cánh mà như bay". Nhìn thấy Thiên môn tráng lệ, chàng thi sĩ vô cùng ngạc nhiên tự hỏi: “Cửa son đỏ chói oai rực rỡ! Thiên môn đế khuyết như là đây?" 2. Vị khách làm thơ nơi hạ giới được Trời và chư tiên trọng thị. Sau khi thi lễ "sụp xuống lạy", Trời ân cần sai tiên nữ "dắt lôi dậy", rồi mời thi sĩ "ngồi chơi" trên "Ghế bành như tuyết, vân như mây". Tiên đồng pha nước uống. Chư tiên kéo đến mỗi lúc một thêm đông. Đến để xem mặt người trần? Đến để đón tiếp với lòng hiếu khách? Hay đến để dự cuộc bình thơ, bình văn?Xem thêm: Phân tích vẻ đẹp của hai câu thơ sau: "Muốn vượt bể Đông theo cánh gió/ Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi”. (“Lưu biệt khi xuất dương” - Phan Bội Châu) “Tiên đồng pha nước uống vừa xong, Bỗng thấy chư tiên đến thật đông, Chung quanh bày ghế ngồi la liệt, Tiên bà, tiên cô, cùng tiên ông." 3. Cuộc đọc văn và bình văn nơi Thiên môn đế khuyết được Tản Đà kể lại thật sinh động và hấp dẫn. Thính giả gồm có Trời và đông đảo chư tiên. Sau khi nghe lời truyền bảo của Trời, văn sĩ cung kính thưa: "Dạ, bẩm lạy Trời, con xin đọc", thì cuộc đọc văn, bình văn bắt đầu. Văn sĩ "Đọc hết văn vần sang vân xuôi – Hết văn thuyết lí lại văn chơi", càng đọc càng "đắc ý", càng "tốt hơi", nhất là khi được nhấp giọng bằng "chè Trời". Thính giả và văn sĩ trở thành bạn tri âm trong cuộc đọc văn, bình văn. Trời và chư tiên đều say mê thưởng thức nghệ thuật. Văn sĩ cao hứng đọc "ran cung mây". Chẳng có rượu và hoa… nhưng biết bao thú vị. Trời nghe văn nghe thơ "cũng lấy làm hay". Chư tiên mỗi người có một cách biểu cảm riêng. Có nàng tiên thì "nở dạ" hoặc "lè lưỡi". Có người đẹp nơi Thiên môn thì xúc động quá mà "chau đôi mày". Có nhiều nàng tiên bị thơ văn lôi cuốn "lắng tai đứng". Ai cũng nhiệt thành "cùng vỗ tay" tán thưởng. Hỏi đã có văn sĩ nào xưa nay được hưởng hạnh phúc, được đọc văn, đọc thơ trước một thính giả nơi Thiên môn đế khuyết như vậy? Văn sĩ tự hào "báo cáo" với Trời về những tác phẩm của mình đã được in: …Hai quyển Khối tình văn thuyết lí Hai Khối tỉnh con là văn chơi Thần tiềny Giấc mộng văn tiểu thuyết Đài gương, Lên sáu văn vị đời Quyển Đàn bà Tàu lối văn dich Đến quyển Lên tám nay là mười… Trời "bật buồn cười" khen ngợi: "Văn đã giàu thay lại lắm lối" vì phong phú về thể cách, đa dạng về thể loại. Hạnh phúc biết bao khi văn sĩ được các tiên nữ gọi bằng "anh": l Chư tiên ao ước tranh nhau dặn: – "Anh gánh lên đây bún chợ Trời!". Cách kể chuyện mộc mạc tự nhiên, cách sử dụng ngồn từ, giọng diệu hóm hỉnh, tác giả đã làm nổi bật phong cách "bình dân" của ông Trời và các chư tiên, cùng với cái điệu bộ khúm núm và "thật thà" của văn sĩ. Qua cảnh đọc văn hầu Trời, Tản Đà đã phản ánh thực trạng xã hội lúc bấy giờ thật đáng buồn, nhất là tầng lớp văn sĩ như ông:Xem thêm: Bình giảng khố cuối bài thơ Tràng Giang của Huy Cận: “Lớp lớp mây cao đùn núi bạc, Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa, Lòng quê dợn dợn vời con nước, Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà” Bán văn buôn chữ kiếm tiền tiêu. Quanh năm luống những lo văn ế, Thân thể xem thua chú hát chèo! (Lo văn ế) Đồng thời ông chỉ rõ, trong xã hội thực dân nửa phong kiến ấy đã có mấy tri âm hiểu và biết trân trọng những tác phẩm văn chương của ông, vì thế ông phải lên hầu Trời, đọc văn cho Trời và chư tiên thưởng thức. Nguyễn Khắc Hiếu đã tự hào bộc lộ cái bản ngã, cái tài năng đích thực của mình trước con mắt đồng loại! Trời với con mắt xanh, với sự thẩm văn tinh tế đã dành cho văn sĩ lần đầu mới gặp những lời ngợi khen vô giá: Trời lại phê cho: ‘Văn thật tuyệt! Văn trần được thế chắc có ít! Nhời văn chuốt đẹp như sao băng! Khí văn hùng mạnh như mây chuyển Êm như gió thoảng, tinh như sương! Đầm như mưa sa, lạnh như tuyết!…" Sao băng, mây, gió, sương, mưa, tuyết… được Trời đem ra so sánh để ngợi ca nhời văn, khí văn của chàng văn sĩ. Cách kể, cách tả của tác giả thật tài hoa và có duyên. Cái "tôi" bản ngã được khẳng định. 4. Sau cuộc đọc văn, bình văn là cuộc hầu chuyện với Trời của văn sĩ: Dạ, bẩm lạy Trời con xin thưa Con tên Khắc Hiếu, họ là Nguyễn… Trời "ngợ", rồi sai Thiên Tào lấy sổ xét: "Bẩm quả có tên Nguyễn Khắc Hiếu – Đày xuống hạ giới vì tội ngông". Nhưng rồi Trời bao dung và ân cần an ủi, khích lệ. Trời không "đày" mà giao phó cho văn sĩ một trọng trách là đem việc "thiên lương" thuật lại cho "đời hay", cho mọi người cùng biết. Văn sĩ phải gánh trọng trách đem "thiên lương" giáo hoá người đời, để trần gian tươi đẹp hơn, yên vui hơn. Bài thơ "Hầu Trời" không chỉ mang cảm hứng lãng mạn, mà còn hàm chứa yếu tố hiện thực, đó là đoạn thơ 16 câu văn sĩ thưa với Trời về thân phận mình bấy lâu nay nơi hạ giới: rất nghèo khó, không có một thước đất cắm dùi, vốn liếng chỉ "còn một bụng văn"; kế sinh nhai ngày một thêm chật vật:Xem thêm: Phân tích để làm nổi bật cảm hứng lãng mạn trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng “…Giấy người, mực người, thuê người in Mướn cửa hàng người bán phường phố Văn chương hạ giới rẻ như bèo Kiếm được đồng lãi thực là khó Kiếm được thời ít, tiêu thời nhiều Làm mãi quanh năm chẳng đủ tiêu… “ Khi nghe văn sĩ lo lắng thưa: Trời lại sai con việc nặng quá – Biết có làm nổi mà dám theo?", thì Trời đã động viên và hứa: “Rằng: "Con không nói, Trời đã biết, Trời dẫu ngồi cao, Trời thấu hết. Cho con cứ về mà làm ăn, Lòng thông chớ ngại chi sương tuyết, Cố xong công việc của Trời sai, T’rời sẽ cho con về đế khuyết…". 5. Đoạn cuối bài thơ kể chuyện Trời sai Khiên Ngưu đóng xe đưa Trích tiên trở lại trần gian. Cuộc tiễn đưa của chư tiên vừa lưu luyến, vừa trang trọng: "Hai hàng lụy biệt giọt sương rơi". Khi trăng tà non Đoài, tiếng gà gáy xao xác, nhà thơ đã về tới sân nhà. cảm thấy cô đơn và ngậm ngùi. Vừa tiếc rẻ, vừa mong ước: “Giữa sân con đứng riêng ngậm ngùi. Một năm ba trăm sáu mươi đêm, Sao được đêm đêm lân hầu Trời!" Bài "Hầu Trời" như một truyện cổ tích được viết bằng thơ. Nhân vật Trời và các chư tiên rất giản dị, bình dân, thân mật và dễ mến. Bài thơ cho ta thấy Tản Đà có một trí tưởng tượng phong phú, một vốn từ ngữ giàu có, nhất là khi ông nói về Trời, về các chư tiên và cách sống của họ. Đoạn thơ nói về cuộc đọc văn và bình văn, về ngôn ngữ đối thoại giữa văn sĩ với Trời và các chư tiên được kể lại rất sinh động và lí thú. Có lúc chúng ta cảm thấy cuộc bình văn hình như đang diễn ra giữa thanh thiên bạch nhật nơi cõi đời mà mình từng được tham dự. "Hầu Trời" là một bài thơ độc đáo và đặc sắc, tuy khá dài nhưng bố cục chặt chẽ, giọng thơ liền mạch, nhất khí, cảnh và tình rất tự nhiên, diễn biến theo câu chuyện, lôi cuốn người đọc từ đầu đến cuối. Bài thơ trường thiên "Hầu Trời" giúp ta cảm nhận thêm chất tài tử, tài hoa và cái ngông của Tản Đà thi sĩ. Vanmau.edu.vn
Phân tích bài thơ “Lửa đèn” của Phạm Tiến Duật Gợi ý Phạm Tiến Duật xuất hiện trên thi đàn Việt Nam thời chống Mỹ, được bạn đọc đón chào hết sức nồng nhiệt. Những bài thơ của anh như: Bài thơ về tiểu đội xe không kính, Lửa đèn, Trường Sơn Đông Trường Sơn Tây, Gửi em cô thanh niên xung phong… in đậm chất văn xuôi, rất hào hùng, trẻ trung, đáng yêu và đáng nhớ. “Lửa đèn” được anh viết vào năm 1967, in trong tập thơ “Vầng trăng quầng lửa” (1970). “Lửa đèn” là ẩn dụ, biểu tượng nói lên sức sống mãnh liệt, tinh thần chiến đấu dũng cảm, kiên cường của quân và dân ta trong bom đạn dữ dội, ác liêt của giặc Mỹ xâm lược. Bài thơ có ba phần, mỗi phần là một ẩn dụ, mang nhiều ý nghĩa của bài ca sự sống, bài ca chiến đấu và bài ca hi vọng: Đèn – Tắt lửa – Thắp lên. 1. Đèn Mở đầu mỗi bài ca là điệp khúc cất lên ngọt ngào như tiếng hát giao duyên của lứa đôi trong mùa lễ hội: "Anh cùng em sang bên kia cầu Nơi có những miền quê yên ả”. “Những miền quê yên ả” ấy là quê hương đất nước ta, nơi có những vườn cây sum sê hoa trái. Nơi có nhiều quả chín “đỏ hoe” như “những ngọn đèn thắp trong kẽ lá”. Là trái nhót, là quả cà chua, là quả ớt… Nhà thơ đã vận dụng lối ví von so sánh dân gian để viết nên những vần thơ “ngon lành” về hoa trái trong vườn quê: “Trái nhót như ngọn đèn tín hiệu Trỏ lối sang mùa hè, Quả cà chua như cái đèn lồng nhỏ xíu Thắp mùa đông ấm những đêm thâu, Quả ớt như ngọn lửa đèn dầu Chạm đầu lưỡi chạm vào sức nóng…” Chỉ có bờ xôi ruộng mật mới cho ta những hoa trái – ngọn đèn, ngọn lửa – ấy. Những “ngọn đèn, ngọn lửa” hoa trái ấy cho thấy sức sống dồi dào, mãnh liệt của quê hương đất nước ta: “Mảnh đất ta dồi dào sức sống Nên nhành cây cũng thắp sáng quê hương Một ý tưởng rất đẹp được biểu hiện bằng một hình ảnh rất đẹp. Chữ “thắp sáng” dùng rất sáng tạo thể hiện sâu sắc lòng yêu nước tự hào.Xem thêm: Trẻ em lang thang cơ nhỡ với cộng đồng xã hội. (Yêu cầu viết bài văn) Lũ xâm lược đã tràn tới đất nước ta. Chúng như “lũ ma trơi” bay trên trời cao, gieo chết chóc: “Gió thổi tắt đèn, bom rơi máu ứa”. Phạm Tiến Duật đã gợi lại những tháng ngày dữ dội và khốc liệt khi giặc Mỹ đưa hàng trăm hàng ngàn Thần Sấm, B.52, Con Ma… đánh phá điên cuồng, dội hàng vạn tấn bom lên miền Bắc nước ta. Cầu cống, đường sá bị tàn phá nặng nề. Nhiều nhà máy, xóm làng, thành phố ngập trong máu lửa. Nhưng“Không có gì quý hơn độc lập tự do”, cả dân tộc ta nhất tề đứng dậy. Hàng triệu trai tráng đã lên đường ra trận. Hậu phương lớn ra sức chi viện cho tiền tuyến lớn, quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược với sức mạnh truyền thống yêu nước bốn nghìn năm: “Trên đất nước đêm đêm Sáng những ngọn đèn Mang lửa tự nghìn năm về trước”. Giặc ác độc và tham tàn, muốn đưa đất nước ta, dân tộc ta trở lại thời kì đồ đá, phải quỵ gối sống nhục nhã trong đêm trường nô lệ. Nhưng trên nước ta đêm đêm vẫn “sáng những ngọn đèn” – ngọn đèn với ánh lửa bất diệt của tinh thần bất khuất, của truyền thống yêu nước chống xâm lăng. Ánh lửa của những ngọn đèn đó đã soi sáng dáng đứng Việt Nam: “Chúng muốn đốt ta thành tro bụi Ta hóa vàng nhân phẩm, lương tâm Chúng muốn ta bán mình ô nhục Ta làm sen thơm ngát giữa đầm". “Việt Nam máu và hoa"- Tố Hữu Phạm Tiến Duật đã xúc động nói về những “ngọn lửa " của quê hương đất nước ta. Hình ảnh ẩn dụ – hoán dụ “lửa tim” đã the hiện thật sâu sắc sức mạnh nhân nghĩa Việt Nam, được hun đúc bằng lửa và máu của bốn nghìn lớp người: “Ôi ngọn lửa đèn Có nửa cuộc đời ta trong ấy! Giặc muốn cướp đi Giặc muốn cướp lửa tim ta đấy“. Có thể nói, hình tượng “những ngọn đèn trong thắp trong kẽ lá ", những ngọn đèn “mang lửa tự nghìn năm về trước ", và “lửa tim" là những sáng tạo nghệ thuật đặc sắc của nhà thơ – chiến sĩ Phạm Tiến Duật.Xem thêm: Kể lại kỷ niệm quê hương và nêu cảm nghĩ của em2. Tắt lửa “Anh cùng em sang bên kia cầu – Nơi có những miền quê yên ả” để đến những “nơi tắt lửa…”. Không phải “lũ ma trơi" và bom từ trường, bom tọa độ của giặc Mỹ đã gây ra cảnh tắt lửa, tối đèn. Ta phải lấy đêm làm ngày, ta chủ động tắt lửa để đánh địch, để “Bóng tối phủ dày – Che mắt địch”. Chàng lính trẻ hào hoa phong tình nói về chuyện “làm duyên ” của trúc, của cô gái, của bông hoa trong bóng tối màn đêm. Tác giả đã vận dụng nghê thuật dân gian trong biện pháp nhân hóa và điệp ngữ khá hay và hóm hỉnh: “Không nhìn thấy gì đâu Bóng tối che rồi Cây trúc làm duyên phải nhờ gió thổi Cô gái làm duyên phải dùng giọng nói Bông hoa duyên phải lụy hương bay…” Thời chống Mỹ, quân và dân ta chủ động “tắt lửa” để đánh giặc, để “che mắt địch", để kéo pháo lên trận địa dội bão lửa xuống đầu quân xâm lược: “Nơi tắt lửa là nơi vang rền xe xích Kéo pháo lên trận địa đồng cao ”. “Tắt lửa" để hành quân ra tiền tuyến: "Nơi tắt lửa là nơi in vết bánh ô tô Những đoàn xe xích đi như không bao giờ hết Chiếc sau nối chiếc trước ì ầm” “Tắt lửa” để đoàn thanh niên xung phong ngân dài “tiếng hát” để "phá đá sửa đường”, để “những đoàn quân xung kích đi qua”, ào ào ra trận. Theo ý chúng tôi, hình ảnh hoán dụ "bào thai” trong câu thơ "Bóng tối dâng đầy tỏa ngợp bao la – Thành những màn đen che bào thai chiến dịch” chưa hợp lí. Những so sánh: "Chiếc sau nối chiếc trước ì ầm – Như đàn con trẻ chơi u chơi âm”, "Nơi tắt lửa là nơi dài tiếng hát ”, đặc biệt hoán dụ “Tóc lá sả đâu đó vẫn bay hương” bên những hố bom đầy mùi khét là những hình ảnh, những câu thơ tuyệt đẹp thể hiện tâm hồn và cốt cách Việt Nam: lạc quan và yêu đời. 3. Thắp đèn Trong chiến đấu, có lúc có nơi, ta "tắt lửa" nhưng cũng có khi ta "thắp đèn”. Dù "giặc điên cuồng bắn phá” suốt đêm ngày, trẻ em vẫn thắp đèn đi học, để “xưởng máy thay cavời vợi”, để các trai làng "đọc những lá thư thăm”. Điệp ngữ “chui vào” thật hóm hỉnh khi nhân hóa chiếc đèn:Xem thêm: Đọc sách là một công việc cần thiết, mang lại nhiều ích lợi. Em hãy viết đoạn văn phân tích cách đọc sách đúng đắn, hiệu quả-Chiếc đèn chui vào ống nước – Chiếc đèn chui vào lòng trái núi – Chiếc đèn chui vào chiếu vào chăn Có lúc, ta mưu trí "thắp đèn” để đánh lừa giặc: "Ta thắp đèn lên trên đỉnh núi Gọi quân thù đem bom đến dội Cho đá lở đá lăn Lấy đá kê cầu, lấy đá sửa đường tàu” Có lúc, ta mưu trí "bật đèn”rồi "tắt đèn” quay xe để “đánh lạc hướng giặc!”. Đúng là kì mưu, là thiên biến vạn hóa. Là người lính đã chiến đấu trên con đường chiến lược Trường Sơn thời đánh Mỹ, nên Phạm Tiến Duật mới có thể nói thật hay, thật sâu sắc mọi chuyện "tắt đèn ”và "thắp đèn” giữa thời máu lửa của quân và dân ta như thế. Mười câu trong đoạn cuối bài thơ, tác giả nói về “ngày mai”, một tương lai “hoàn toàn chiến thắng”. Cả đất nước và dân tộc sẽ được sống yên vui trong hòa bình, ta sẽ xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn. Ta sẽ được sống trong niềm vui hạnh phúc: "Anh dắt tay em, trời chi chít sao giăng Thắp đèn ta sẽ chơi trăng ngoài thềm Ta thắp đèn lồng, thắp cả đèn sao năm cánh Ta dẫn nhau đến ngôi nhà đèn hoa lấp lánh Nơi ấy là phòng cưới chúng mình Ta sẽ làm cây đèn kéo quân thật đẹp”… Các điệp ngữ: “ngày mai ”, “ta thắp đèn lồng”, “ta dẫn nhau… ” rộn ràng vang lên, nhịp thơ, giọng thơ trở nên ấm áp, vui tươi, ngọt ngào. “Thắp đèn”là khúc tráng ca rất lạc quan, yêu đời. “Lửa đèn” là một bài thơ hay. Cảm hứng anh hùng và cảm hứng trữ tình lãng mạn được kết hợp một cách hài hòa, đầy chất thơ. Tác giả đã vận dụng nghệ thuật dân gian rất sáng tạo thể hiện một bút pháp tài hoa. “Lửa đèn ” bài thơ sáng ngời trí tuệ, nhân nghĩa Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh. Vanmau.edu.vn
Phân tích bài thơ “Lửa đèn” của Phạm Tiến Duật Gợi ý Phạm Tiến Duật xuất hiện trên thi đàn Việt Nam thời chống Mỹ, được bạn đọc đón chào hết sức nồng nhiệt. Những bài thơ của anh như: Bài thơ về tiểu đội xe không kính, Lửa đèn, Trường Sơn Đông Trường Sơn Tây, Gửi em cô thanh niên xung phong… in đậm chất văn xuôi, rất hào hùng, trẻ trung, đáng yêu và đáng nhớ. “Lửa đèn” được anh viết vào năm 1967, in trong tập thơ “Vầng trăng quầng lửa” (1970). “Lửa đèn” là ẩn dụ, biểu tượng nói lên sức sống mãnh liệt, tinh thần chiến đấu dũng cảm, kiên cường của quân và dân ta trong bom đạn dữ dội, ác liêt của giặc Mỹ xâm lược. Bài thơ có ba phần, mỗi phần là một ẩn dụ, mang nhiều ý nghĩa của bài ca sự sống, bài ca chiến đấu và bài ca hi vọng: Đèn – Tắt lửa – Thắp lên. 1. Đèn Mở đầu mỗi bài ca là điệp khúc cất lên ngọt ngào như tiếng hát giao duyên của lứa đôi trong mùa lễ hội: "Anh cùng em sang bên kia cầu Nơi có những miền quê yên ả”. “Những miền quê yên ả” ấy là quê hương đất nước ta, nơi có những vườn cây sum sê hoa trái. Nơi có nhiều quả chín “đỏ hoe” như “những ngọn đèn thắp trong kẽ lá”. Là trái nhót, là quả cà chua, là quả ớt… Nhà thơ đã vận dụng lối ví von so sánh dân gian để viết nên những vần thơ “ngon lành” về hoa trái trong vườn quê: “Trái nhót như ngọn đèn tín hiệu Trỏ lối sang mùa hè, Quả cà chua như cái đèn lồng nhỏ xíu Thắp mùa đông ấm những đêm thâu, Quả ớt như ngọn lửa đèn dầu Chạm đầu lưỡi chạm vào sức nóng…” Chỉ có bờ xôi ruộng mật mới cho ta những hoa trái – ngọn đèn, ngọn lửa – ấy. Những “ngọn đèn, ngọn lửa” hoa trái ấy cho thấy sức sống dồi dào, mãnh liệt của quê hương đất nước ta: “Mảnh đất ta dồi dào sức sống Nên nhành cây cũng thắp sáng quê hương Một ý tưởng rất đẹp được biểu hiện bằng một hình ảnh rất đẹp. Chữ “thắp sáng” dùng rất sáng tạo thể hiện sâu sắc lòng yêu nước tự hào.Xem thêm: Trẻ em lang thang cơ nhỡ với cộng đồng xã hội. (Yêu cầu viết bài văn) Lũ xâm lược đã tràn tới đất nước ta. Chúng như “lũ ma trơi” bay trên trời cao, gieo chết chóc: “Gió thổi tắt đèn, bom rơi máu ứa”. Phạm Tiến Duật đã gợi lại những tháng ngày dữ dội và khốc liệt khi giặc Mỹ đưa hàng trăm hàng ngàn Thần Sấm, B.52, Con Ma… đánh phá điên cuồng, dội hàng vạn tấn bom lên miền Bắc nước ta. Cầu cống, đường sá bị tàn phá nặng nề. Nhiều nhà máy, xóm làng, thành phố ngập trong máu lửa. Nhưng“Không có gì quý hơn độc lập tự do”, cả dân tộc ta nhất tề đứng dậy. Hàng triệu trai tráng đã lên đường ra trận. Hậu phương lớn ra sức chi viện cho tiền tuyến lớn, quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược với sức mạnh truyền thống yêu nước bốn nghìn năm: “Trên đất nước đêm đêm Sáng những ngọn đèn Mang lửa tự nghìn năm về trước”. Giặc ác độc và tham tàn, muốn đưa đất nước ta, dân tộc ta trở lại thời kì đồ đá, phải quỵ gối sống nhục nhã trong đêm trường nô lệ. Nhưng trên nước ta đêm đêm vẫn “sáng những ngọn đèn” – ngọn đèn với ánh lửa bất diệt của tinh thần bất khuất, của truyền thống yêu nước chống xâm lăng. Ánh lửa của những ngọn đèn đó đã soi sáng dáng đứng Việt Nam: “Chúng muốn đốt ta thành tro bụi Ta hóa vàng nhân phẩm, lương tâm Chúng muốn ta bán mình ô nhục Ta làm sen thơm ngát giữa đầm". “Việt Nam máu và hoa"- Tố Hữu Phạm Tiến Duật đã xúc động nói về những “ngọn lửa " của quê hương đất nước ta. Hình ảnh ẩn dụ – hoán dụ “lửa tim” đã the hiện thật sâu sắc sức mạnh nhân nghĩa Việt Nam, được hun đúc bằng lửa và máu của bốn nghìn lớp người: “Ôi ngọn lửa đèn Có nửa cuộc đời ta trong ấy! Giặc muốn cướp đi Giặc muốn cướp lửa tim ta đấy“. Có thể nói, hình tượng “những ngọn đèn trong thắp trong kẽ lá ", những ngọn đèn “mang lửa tự nghìn năm về trước ", và “lửa tim" là những sáng tạo nghệ thuật đặc sắc của nhà thơ – chiến sĩ Phạm Tiến Duật.Xem thêm: Kể lại kỷ niệm quê hương và nêu cảm nghĩ của em2. Tắt lửa “Anh cùng em sang bên kia cầu – Nơi có những miền quê yên ả” để đến những “nơi tắt lửa…”. Không phải “lũ ma trơi" và bom từ trường, bom tọa độ của giặc Mỹ đã gây ra cảnh tắt lửa, tối đèn. Ta phải lấy đêm làm ngày, ta chủ động tắt lửa để đánh địch, để “Bóng tối phủ dày – Che mắt địch”. Chàng lính trẻ hào hoa phong tình nói về chuyện “làm duyên ” của trúc, của cô gái, của bông hoa trong bóng tối màn đêm. Tác giả đã vận dụng nghê thuật dân gian trong biện pháp nhân hóa và điệp ngữ khá hay và hóm hỉnh: “Không nhìn thấy gì đâu Bóng tối che rồi Cây trúc làm duyên phải nhờ gió thổi Cô gái làm duyên phải dùng giọng nói Bông hoa duyên phải lụy hương bay…” Thời chống Mỹ, quân và dân ta chủ động “tắt lửa” để đánh giặc, để “che mắt địch", để kéo pháo lên trận địa dội bão lửa xuống đầu quân xâm lược: “Nơi tắt lửa là nơi vang rền xe xích Kéo pháo lên trận địa đồng cao ”. “Tắt lửa" để hành quân ra tiền tuyến: "Nơi tắt lửa là nơi in vết bánh ô tô Những đoàn xe xích đi như không bao giờ hết Chiếc sau nối chiếc trước ì ầm” “Tắt lửa” để đoàn thanh niên xung phong ngân dài “tiếng hát” để "phá đá sửa đường”, để “những đoàn quân xung kích đi qua”, ào ào ra trận. Theo ý chúng tôi, hình ảnh hoán dụ "bào thai” trong câu thơ "Bóng tối dâng đầy tỏa ngợp bao la – Thành những màn đen che bào thai chiến dịch” chưa hợp lí. Những so sánh: "Chiếc sau nối chiếc trước ì ầm – Như đàn con trẻ chơi u chơi âm”, "Nơi tắt lửa là nơi dài tiếng hát ”, đặc biệt hoán dụ “Tóc lá sả đâu đó vẫn bay hương” bên những hố bom đầy mùi khét là những hình ảnh, những câu thơ tuyệt đẹp thể hiện tâm hồn và cốt cách Việt Nam: lạc quan và yêu đời. 3. Thắp đèn Trong chiến đấu, có lúc có nơi, ta "tắt lửa" nhưng cũng có khi ta "thắp đèn”. Dù "giặc điên cuồng bắn phá” suốt đêm ngày, trẻ em vẫn thắp đèn đi học, để “xưởng máy thay cavời vợi”, để các trai làng "đọc những lá thư thăm”. Điệp ngữ “chui vào” thật hóm hỉnh khi nhân hóa chiếc đèn:Xem thêm: Đọc sách là một công việc cần thiết, mang lại nhiều ích lợi. Em hãy viết đoạn văn phân tích cách đọc sách đúng đắn, hiệu quả-Chiếc đèn chui vào ống nước – Chiếc đèn chui vào lòng trái núi – Chiếc đèn chui vào chiếu vào chăn Có lúc, ta mưu trí "thắp đèn” để đánh lừa giặc: "Ta thắp đèn lên trên đỉnh núi Gọi quân thù đem bom đến dội Cho đá lở đá lăn Lấy đá kê cầu, lấy đá sửa đường tàu” Có lúc, ta mưu trí "bật đèn”rồi "tắt đèn” quay xe để “đánh lạc hướng giặc!”. Đúng là kì mưu, là thiên biến vạn hóa. Là người lính đã chiến đấu trên con đường chiến lược Trường Sơn thời đánh Mỹ, nên Phạm Tiến Duật mới có thể nói thật hay, thật sâu sắc mọi chuyện "tắt đèn ”và "thắp đèn” giữa thời máu lửa của quân và dân ta như thế. Mười câu trong đoạn cuối bài thơ, tác giả nói về “ngày mai”, một tương lai “hoàn toàn chiến thắng”. Cả đất nước và dân tộc sẽ được sống yên vui trong hòa bình, ta sẽ xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn. Ta sẽ được sống trong niềm vui hạnh phúc: "Anh dắt tay em, trời chi chít sao giăng Thắp đèn ta sẽ chơi trăng ngoài thềm Ta thắp đèn lồng, thắp cả đèn sao năm cánh Ta dẫn nhau đến ngôi nhà đèn hoa lấp lánh Nơi ấy là phòng cưới chúng mình Ta sẽ làm cây đèn kéo quân thật đẹp”… Các điệp ngữ: “ngày mai ”, “ta thắp đèn lồng”, “ta dẫn nhau… ” rộn ràng vang lên, nhịp thơ, giọng thơ trở nên ấm áp, vui tươi, ngọt ngào. “Thắp đèn”là khúc tráng ca rất lạc quan, yêu đời. “Lửa đèn” là một bài thơ hay. Cảm hứng anh hùng và cảm hứng trữ tình lãng mạn được kết hợp một cách hài hòa, đầy chất thơ. Tác giả đã vận dụng nghệ thuật dân gian rất sáng tạo thể hiện một bút pháp tài hoa. “Lửa đèn ” bài thơ sáng ngời trí tuệ, nhân nghĩa Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh. Vanmau.edu.vn
Phân tích bài thơ “Mình về mình có nhớ ta…. nói… Hướng dẫn “Mình về mình có nhớ ta Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng Mình về mình có nhớ không Nhìn cây nhớ núi nhìn sông nhớ nguồn? Tiếng ai tha thiết bên cồn Bâng khuâng trong dạ bồn chồn bước đi Áo chàm đưa buổi phân li Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay. DÀN Ý Mở bài: Sau chiến thắng Điện biên phủ tháng 10 -1954, các cơ quan trung ương của Đảng và Chính phủ rời chiến khu VB về Hà Nội, Tố Hữu sáng tác bài thơ Việt Bắc trong hoàn cảnh ấy bằng nỗi niềm lưu luyến nhớ thương. Đoạn thơ này nằm trong đầu bài thơ như một tiếng hát ân tình son sắt xuyên suốt cả bài thơ. Thân bài: Tâm trạng lưu luyến, bịn rịn của người miền ngược, kẻ miền xuôi, người đi, kẻ ở + Trong đoạn thơ 8 dòng đã xuất hiện 4 từ nhớ, dường như nỗi nhớ đã bao trùm toàn bộ đoạn thơ và cả bài thơ. Nỗi nhớ chi phối tâm trạng, cảm xúc của tác giả và tạo nguồn cảm hứng để hình ảnh VB cùng những kỉ niệm hiện dần lên. + Tố Hữu thật khéo léo khi vận dụng thể thơ lục bát uyển chuyển để diễn đạt nỗi nhớ thương. Thể lục bát rất thích hợp để tâm tình, để bày tỏ, với lối gieo vần linh hoạt, ngắt nhịp đều đặn, câu thơ mềm mại lúc khoan lúc nhặt như nỗi tỉ tê của những người mang tâm sự trước lúc chia ly.Xem thêm: Hãy kể lại một kỉ niệm ngày xuân mà em nhớ mãi + Tác giả sử dụng nhiều từ láy diễn tả tâm trạng như “tha thiết, bâng khuâng, bồn chồn, da diết” để nói lên chiều sâu tình cảm của quân và dân. + Đoạn thơ là lời đối đáp của hai nhân vật trữ tình “mình”, “ta” nhưng thật sự là tác giả phân thân để tường tận tấm lòng, nỗi lưu luyến và ân tình sâu nặng đối với người Việt Bắc. Cách xưng hô mình ta cũng lấy từ ca dao nhưng lại chuyển tải tâm hồn nội dung của thời đại. Tình cảm son sắt, thủy chung của nhà thơ với VB + Thời gian gắn bó của tác giả và Việt Bắc đủ lâu để nuôi dưỡng mối tình quân dân đậm sâu. Việt Bắc đối với TH không chỉ là nơi gắn bó một khoảng thời gian mà giống như nguồn cội, vì thế nhà thơ viết “nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn”. + Với tác giả những gì thuộc về VB cũng đáng để khắc ghi, từ chiếc áo chàm lam lũ đến tiếng hát tha thiết du dương. Từ rừng cây đến núi đá đâu đâu cũng chất chứa những kỉ niệm. + Chất giọng ân tình xuyên suốt bài thơ tạo nên giọng điệu đặc sắc của thơ TH, cho thấy tình cảm gắn bó của tác giả đối với cách mạng, nhân dân. Kết bài: Đoạn thơ là tình cảm gắn bó, thủy chung của nhà thơ đối với cảnh và người VB, cũng là mối quan hệ cá nước của nhân dân và cách mạng. Đoạn thơ tiêu biểu cho phong cách thơ đậm chất văn học truyền thống mang tâm hồn hiện đại. Xem thêm: Văn biểu cảm - Cảm nghĩ về một cuộc chia tay
Analyze the poem "When I return, I miss you... speak… Instruct “When I come back, I miss you Those fifteen years were passionate and passionate Do you remember when I come back? Looking at trees, remembering mountains, looking at rivers, remembering their source? The sound of someone earnestly beside the alcohol Feeling restless in my stomach, I walked away Indigo shirt brings separation We held each other's hand, did not know what to say. OUTLINE Opening: After the Dien Bien Phu victory in October 1954, the central agencies of the Party and Government left the VB war zone to Hanoi. To Huu composed the poem Viet Bac in that situation with nostalgia. This verse is located in the beginning of the poem like a song of love throughout the entire poem. Body of the article: The lingering and hesitant mood of people from the uplands, people from the lowlands, people traveling, people staying + In the 8-line poem, 4 words of memory appear. It seems that nostalgia covers the entire poem and poem. Nostalgia governs the author's mood and emotions and creates inspiration for VB's images and memories to gradually appear. + To Huu is very skillful in using the flexible six-eight poetic form to express his longing. The six-eight form is very suitable for confiding and expressing, with a flexible rhyming style, regular pauses, and soft verses that are sometimes drilled and picked up like the numbness of those who confide in each other before parting.See more: Tell us about a spring day memory that you will always remember + The author uses many words to describe moods such as "earnest, wistful, restless, and sorrowful" to express the depth of feelings of the army and people. + The poem is the response of two lyrical characters "I" and "I" but actually the author splits to fully understand the heart, attachment and deep love for the Viet Bac people. The way we address ourselves is also taken from folk songs but conveys the soul and content of the times. The poet's steadfast and faithful relationship with VB + The time of attachment between the author and Viet Bac was long enough to nurture a deep military-civilian relationship. Viet Bac for TH is not just a place to stick together for a period of time but like a source of origin, so the poet wrote "looking at the trees remembers the mountains, looking at the rivers remembers the source". + For the author, everything that belongs to VB is worth remembering, from the blue indigo shirt to the melodious singing. From forests to rocky mountains, everywhere is filled with memories. + The affectionate voice throughout the poem creates the unique tone of TH poetry, showing the author's emotional attachment to the revolution and the people. End: The poem is the poet's emotional attachment and loyalty to the landscape and people of VB, as well as the relationship between the people and the revolution. The poem represents a poetic style rich in traditional literature with a modern soul. See more: Expressive writing - Feelings about a breakup